🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Chiến Không Kết Thúc
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Tác giả: Anton La Guardia Nhà xuất bản: Văn Hóa Thông Tin Nhà phát hành: Văn Lang Trọng lượng: 225 gr
Số trang: 516
Nguồn ebook: http://tve-4u.org/ Scan sách: banycol
Soát lỗi: tran ngoc anh, Bọ Cạp Làm ebook: Bọ Cạp
https://thuviensach.vn
Mục lục:
1.Một tiểu quốc có trang sử liệt oanh
2 Một Chúa, nhiều Tôn giáo
https://thuviensach.vn
3.Mọi người dưới bóng cây nho của ông ta
4. Cuộc chiến Trăm Năm
5.Nạn nhân của nhau
6. Các bộ tộc Israel
7. Nỗi đau của hòa bình
8.Giữa các dân tộc
Lời nói đầu
Vùng Đất Hứa (Palestine-lsrael) của ba tôn giáo lớn trên thế giới:
Kito giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo, hàng ngàn năm nay chưa bao giờ im tiếng súng. Đó cũng là nguyên do mà người Do Thái, một trong những dân tộc bản địa tan tác và lang thang khắp thế giới cũng từ hàng ngàn năm nay.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, quốc gia Israel ra đời chấm dứt thời hạn ủy trị của Anh, cũng là lúc người Palestine rời bỏ nhà cửa đất đai ra đi. Tiếng súng ở Vùng Đất Hứa vang lên dữ dội hơn nhưng mang một sắc thái khác, không phải chỉ là sự tranh chấp cương thổ giữa Israel và Palestine mà
còn là sự xác quyết tôn giáo cả ngàn năm về mảnh đất thiêng này.
CUỘC CHIẾN KHÔNG KẾT THÚC, một thiên phóng sự sinh động của nhà báo Anton La Guardia nhằm giới thiệu toàn bộ lịch sử và những biến động liên miên của Vùng Đất Hứa từ hàng ngàn năm trước Công nguyên cho tới ngày nay, với hy vọng giải đáp những câu hỏi như: Tại sao gọi là Vùng Đất Hứa? Tại sao lại chiến tranh và chiến tranh giữa ai với ai? Ở đó có gì mà chiến tranh không bao giờ ngừng? Tại sao dân Do Thái phải vong quốc? Tại sao Israel ra đời thì người Palestine lại phải ra đi? Vân vân và vân vân... Cuối cùng đến nay, tại sao người Palestine đã có một tổng
https://thuviensach.vn
thống mà người Palestine vẫn đánh bom cảm tử và người Israel vẫn phóng rocket vào nhau? Cho tới bao giờ...?
Giới thiệu cuốn sách cuộc CHIẾN KHÔNG KẾT THÚC, chúng tôi mong muốn bạn đọc hiểu biết thêm một diễn biến đầy máu và nước mắt trong Mái Nhà Chung của nhân loại, và qua đây cũng muốn nói lên một ý nguyện tốt đẹp của dân tộc ta: Cầu chúc hòa bình và bình đẳng cho toàn nhân loại.
Nhà Xuất bản văn hóa Thông Tin
Dẫn nhập
Nhịp độ của các biến cố ở Trung Đông là dịp may của phóng viên nước ngoài, nhưng là lời nguyền rủa của tác giả quyển sách này. Tôi đã trải nghiệm cả hai cảm giác ấy trong thập niên qua.
Những bùng phát bạo động, những đột phá bất ngờ ở những cuộc đàm phán hòa bình và tính bất thường hay thay đổi của nền chính trị Israel khiến dòng chảy cứ mãi là những câu chuyện với tin tức đầy kịch tính. Chính tính chất của những sự kiện đó cũng tạo ra sự khó khăn để viết thành sách.
Năm 1990, lần đầu tiên tôi đến Jerusalem với vai trò của "người chữa cháy" để theo dõi cuộc Chiến vùng Vịnh cho tờ The Daily Telegraph. Nhiệm vụ tạm thời của tôi kéo dài bảy năm thật hồ hởi sau nhiều lần được gửi tới đây để lấy tin về các biến cố quan trọng-hội nghị hòa bình Madrid năm 1991, cuộc bầu cử năm 1992 đã đưa Yitzhak Rabin lên nắm quyền, những hồ sơ Oslo năm 1993 và khởi đầu khu tự trị của người Palestine, chiến dịch đánh bom tự sát của những chiến binh Hồi giáo, hậu quả của vụ ám sát Rabin năm 1995 và vân vân.
https://thuviensach.vn
Lúc rời Jerusalem, tôi nghĩ mình đã có được tầm nhìn rộng hơn. Nhưng bằng giọng thương cảm, các đồng nghiệp của tôi đã hỏi: "Tính viết cuốn sách về Trung Đông hẳn? Làm sao anh có thể viết thành sách khi câu chuyện cứ thay đổi xoành xoạch?"
Như họ tiên đoán, tôi thấy mình thường phải khơi lại những chuyện đã qua để nói đến những diễn biến quan trọng-cuộc bầu cử của Ehud Barak, việc rút quân của Israel khỏi nam Lebanon và sự vội vã tìm một thỏa thuận hòa bình lâu dài. Vừa khi tôi nghĩ mình đã tóm lược đâu vào đấy tình hình thì vụ Al- Aqsa Intifada nổ ra.
Khi tôi bắt tay viết lại, tài liệu vứt bỏ mà lúc đó coi là không còn giá trị, tôi lại nhận ra rằng Intifada là sự kiện quan trọng-nơi mà từ đó được coi là con đường dữ dội dẫn tới cương vị nhà nước Palestine, cuộc thử nghiệm về sự tự trị của Palestine và những lực lượng đã phá hủy nỗ lực này tại "bàn hòa giải."
Tôi đã cố gắng vẽ nên hình ảnh văn hóa của người Israel và Palestine, tìm cách diễn giải các yếu tố lịch sử, tôn giáo và văn hóa-những biểu tượng của bản sắc-tạo nên hai dân tộc này. Nó không phải biên niên sử chính trị về những khúc quanh trong "tiến trình hòa bình." Tuy thế, thật là nản để cố gắng tô vẽ một chủ đề cử động luôn, cứ hoài thay đổi, khó chịu nhưng chấp nhận những trang phục mới. Như bất kỳ hình ảnh nào, nhưng phần mà tôi làm nổi bật tường tận và những phần mà tôi lướt đi bằng nhưng nhát nhanh đều mang tính chọn lọc có chủ tâm, nhưng tôi hy vọng rằng bức tranh sơn dầu nắm bắt được điều gì đó là tính chất cốt yếu của hai dân tộc này, nhưng con người như nhau theo nhiều cách, thế mà lại quá khác biệt không thể dung hòa.
Tôi đã lập luận rằng phản ứng của các du khách đối với Israel và Palestine trong thế kỷ qua đã nói lên là, có bao nhiêu người quan sát thì có
https://thuviensach.vn
bấy nhiêu quốc gia. Như thế tôi có thể tuyên tín rằng: Tôi đã sinh ra ở Roma, vậy hẳn tôi phải là người Công giáo Roma.
Cuốn sách này đã chẳng thể được viết ra nếu không có sự giúp đỡ, sự nhiệt tình và tài năng của nhiều người. Họ là nhưng nhà nghiên cứu, thông dịch viên, phóng viên, cùng nhưng tài liệu viết hoặc trao đổi qua lại trong nhiều năm.
Tác giả
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
1.Một tiểu quốc có trang sử liệt oanh
Lúc đăng ký chuyến bay ở phi trường Ben-Gurion, một phụ nữ trẻ dẫn các hành khách vào những hàng cách nhau để khám xét về an ninh. Những người Do Thái đứng ở một hàng còn những người không phải Do Thái
https://thuviensach.vn
đứng ở hàng khác. Những người nói tiếng Hebrew (tiếng Do Thái cổ) đọc lướt bảng câu hỏi. Những người còn lại thường đợi ở hàng để hướng về dãy câu thẩm vấn, từ thông thường đến gay gắt. Ông (bà) có mang đồ hộ ai không? Ông (bà) có quen ai ở Israel không? Tên của họ là gì? Ông (bà) có đi tới Bờ Tây không? Ông (bà) có người bạn Ả Rập nào không? Tên họ là gì? Và vân vân.
Mặc dù có vẻ qua loa nhưng phải nói là "tôi cảm thấy khó chịu" cái kiểu hạch hỏi khó ưa ấy. Nó có nghĩa là điều tra nhân dạng của khách hàng, đâm chọc vào chuyện của du khách. "Còn ông là nhà báo à? Có gì chứng minh không? Vui lòng mở máy tính của ông và chỉ cho tôi những gì ông đã viết." Có khi người thẩm vấn bỏ đi, nhưng một người khác đến và bắt đầu hỏi lại. Tôi lại bị hỏi, hết sức nghiêm túc: "Ông không phải người Do Thái, vậy tại sao ông tới Israel?" Ở đây chẳng làm gì phải lo ngại về chuyện "ghi hình", hỏi về sắc tộc hay điều gì khác. Những phụ nữ nước ngoài tự đi còn bị xăm xoi rất kỹ, kể từ khi Nizar Hindawi, một người Jordan làm việc cho cơ quan tình báo Syria, đã gửi cô bạn gái có thai người Ireland trên chuyến bay E1 Al mà không nói cho chị ta biết là anh ta đã giấu quả bom Semtex ở đáy giả cái túi của chị ta. Một lính gác của El Al tinh ý đã phát hiện thiết bị này, cứu được mạng của 375 người vào bữa đó, hồi tháng Tư 1986.
Cả khi ở nước ngoài, lúc bạn bước lại gần quầy, bạn đã đi vào sự kiểm soát của Israel, lúc nào cũng nghĩ có mối đe dọa khủng bố và chiến tranh. Ở một số nước châu Âu, một nhân viên an ninh ngồi cạnh tài xế xe bus đưa khách từ nhà khách tới máy bay. Những nhân viên mật vụ khác rải khắp nơi, bảo vệ cầu thang lên xuống hoặc dắt con chó đánh hơi trên hành lý. Đôi khi một xe bọc sắt theo dõi chiếc máy bay hạ cánh đang chạy trên đường băng. Mỗi chuyến bay E1 Al đều có lính gác vũ trang và các buồng lái ngăn được đạn.
https://thuviensach.vn
Trước ngày 11 tháng Chín 2001, loại an ninh độc đoán này là một sự quấy rầy mà du khách đã phải chấp nhận khi đi du lịch Israel, giống như chuyện những nữ quân nhân đeo súng canh chừng trên các đường phố Jerusalem hoặc nghe tiếng rú và tiếng lách chách của những chiến đấu cơ phản lực trên bầu trời Cổ thành Jerusalem.
Khi thế giới chứng kiến, cách những đội cảm tử Hồi giáo chỉ vũ trang bằng dao đã cưỡng đoạt bốn máy bay chờ khách loại lớn và biến chúng thành những quả bom bay vào các thành phố của Mỹ, thì cảm giác bị sốc ở Israel được pha trộn với cảm nhận về sự vững dạ là "nó chẳng bao giờ được phép xảy ra ở đây". Những gì mà đã có lúc người Israel trông mong sự chuẩn tắc của cuộc sống ở Mỹ biến thành sự hoài nghi về thái độ lỏng lẻo của Mỹ đối với sự an toàn hàng không. Đoàn chuyên gia an ninh của Israel đội quân chìm và các nhân viên mật vụ-đã phân tích các biến cố: giả như những kẻ cướp máy bay cố gắng tấn công một máy bay Israel, có lẽ họ cũng chẳng thể đến gần quầy đăng ký được. Nếu họ đã tính toán để lên máy bay, chắc chắn họ sẽ bị các lính gác có vũ trang ách lại và nếu có một phép lạ nào để họ tìm cách cướp buồng lái, họ sẽ bị không quân bắn gục trước khi họ có thể bay đi bất kỳ đâu gần một thành phố lớn. Vì đã có lúc El Al quảng cáo rằng không công ty hàng không nào vượt trội để có thể bảo đảm an toàn cho bạn như hãng không quốc gia của bạn, và El Al bay trên những đường bay an toàn qua các quốc gia thân thiện.
Ấn tượng ban đầu về Israel không chỉ ở những người được dàn ra khắp nơi, chuyên tâm vào sự an ninh, mà là những con người trẻ trung phục vụ trên các chuyến bay.
Ở sân bay Ben-Gurion du khách thoáng thấy những sự ngược đời của Israel-một nước dân chủ đã ở trong tình trạng thù nghịch hơn nửa thế kỷ, một nhà nước Do Thái từng công bố trao quyền bình đẳng cho thiểu số người Ả Rập, một nơi trú ẩn cho người Do Thái mà sự lập quốc của họ đã
https://thuviensach.vn
để mặc hàng triệu người Palestine sống tha hương. Có thể du khách phương Tây cảm thấy phiền phức và bực mình khi du lịch Israel, nó là nỗi nhục cho người Palestine khi tới và rời sân bay Ben-Gurion đều bị dẫn tới phòng riêng để kiểm soát. Một người Mỹ hay người có hộ chiếu nước ngoài khác chưa hẳn bảo đảm. Các biên giới quốc tế, các địa điểm kiểm soát, các phi trường, các bến cảng-dù ở Israel, ở phần còn lại của thế giới hay ngay cả ở những quốc gia A Rập "anh em" - lúc nào cũng là những nơi đáng sợ cho người Palestine. Tình trạng không quê hương của họ là lý do bị nghi ngờ ngay. Nếu họ từng cố gắng quên rằng họ là người Palestine, họ được nhắc nhở về điều đó ở các biên giới.
Những người ngoại quốc đi bất cứ đâu, họ là chủ đề cho những lời bàn tán và định kiến của các chủ nhà hay những người chiếm cứ. Sau cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991, người Palestine nhất tề bị trục xuất khỏi Kuwait sau khi lãnh tụ người Palestine tuyên bố ủng hộ Tổng thống Saddam Hussein của Iraq. Vào năm 1993 và 1994, hàng trăm ngươi Palestine bị trục xuất khỏi Libya và bị bỏ mặc bơ vơ ở biên giới Ai Cập, nơi đã từ chối nhận họ.
Sự lập quốc Israel làm ngưng lại hình ảnh về người Do Thái lang thang. Giờ nó là người Palestine không ngừng lang thang trên thế giới. Trải nghiệm cứ mãi được mô tả trong văn chương Palestine. Thi sĩ Mahmoud Darwish đã viết: "Chúng tôi đi như những người khác, nhưng chúng tôi không có chốn trở về". Trong một bài thơ khác, Nhật ký về vết thương của người Palestine, thi sĩ đã quyết đoán rằng: "Đất nước của tôi không là cái vali"
Nếu cái vali gói gọn sự tước đoạt đối với người Palestine, nó là biểu tượng của sự thành toàn và sự phục hồi đối với người Do Thái, những người đã thực hiện đường lối của họ suốt nửa thế kỷ qua. Nó biểu trưng sự độc lập, thoát khỏi sự ngược đãi và mở thời kỳ mới. Những bức tranh đen
https://thuviensach.vn
trắng về người Do Thái gốc Ma Rốc tới những tỉnh thành mới với những cái vali vuông lớn trên vai là hình ảnh của thời liệt oanh. Những hình chụp của người Do Thái gốc Ethiopia tới Israel cầm những cái bọc trắng nhỏ nói về quốc gia như một nơi trú ẩn cho ngươi Do Thái từ những góc thế giới xa xôi nhất.
Phi trường Ben-Gurion là nơi hàng trăm ngàn người nhập cư Do Thái tràn trề hy vọng lần đầu tiên tiếp xúc với Israel. Qua nơi này người già và người trẻ, người trần tục và người có tín ngưỡng đã tới-mỗi người xác quyết lời hứa về mảnh đất Zion. Theo Luật Hồi hương của Israel, bất kỳ ai có ông bà tổ tiên là Do Thái đều có quyền định cư ở Israel và được coi là công dân. Nhưng "Quyền Hồi hương" kiên quyết khước từ một người Ả Rập mà sau hàng thập niên bị đuổi khỏi Palestine, dù còn giữ chìa khóa nhà hay các văn tự đất đai ở bất cứ ngôi làng nào trong hàng trăm làng mạc Ả Rập đã bị phá hủy vào lúc thành lập quốc gia Israel.
Phi trường Ben-Gurion hẳn là điểm dừng chân giữa châu Âu và vùng Viễn Đông, một trung tâm điều phối toàn cầu lớn, một Singapore của Cận Đông. Thay vì thế nó là ngõ cụt, bị bức tường thù địch vững chắc của Ả Rập ngăn chặn. Cho tới khi có hòa ước với Jordan năm 1994, không hãng hàng không nào của Israel bay về hướng đông. Ngay cả hiện nay, để đi xa hơn Amman, bạn phải đi vòng, hoặc là xuôi về phía nam qua Yemen, hoặc là ngược lên phía bắc ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ. Hầu hết các nước láng giềng trực tiếp của Israel dường như là cư dân của một hành tinh khác. Từ phi trường Ben-Gurion người ta có thể đến Nepal dễ hơn đến Syria, và vượt khoảng 5700 dặm tới New York nhanh hơn bay tới Beirut cách đó có 130 dặm. Người Israel muốn đến Lebanon chỉ còn cách đi nhờ trong buồng lái của chiếc F-16 hay trực thăng tác chiến Cobra.
Nhà hành lý của phi trường Ben-Gurion được trang hoàng bằng những quảng cáo sáng trưng ánh đèn neon rực rỡ như khoe khoang những tiện ích
https://thuviensach.vn
của một khách sạn nào đó hoặc thẻ tín dụng. Còn nữa, Israel không thể cưỡng lại việc gửi đi thông điệp của chủ nghĩa dân tộc sáo rỗng. Một tấm biển lớn mô tả những hàng người chảy về thành phố có công sự bao bọc trên ngọn đồi-một Jerusalem được lý tưởng hóa-với câu trích dẫn bằng tiếng Hebrew lời của tiên tri Jeremiah: "Con cái ngươi sẽ trở về bờ cõi của mình" (Jer. 31:17).
Bức tường lớn nhất là những hình ảnh trình bày rõ những thành tựu của chủ nghĩa phục quốc Do Thái: những tranh ảnh về những chiếc máy kéo, máy móc công nghiệp, binh lính, những người nhập cư Do Thái đến miền Đất Hứa và chân dung của David Ben-Gurion, thủ tướng đầu tiên của Israel. Hình Theodor Herzl, người cha của chủ nghĩa phục quốc hiện đại, được viền bằng ánh sáng neon, hào quang của đấng thánh.
Con đường từ phi trường dẫn tới phía tây vào Tel Aviv, thủ đô hiện đại, là một xa lộ sáu lằn đường và về phía đông tới Jerusalem, thủ phủ lịch sử. Dọc theo con đường huyết mạch này là những biểu tượng về những thay đổi mà chủ nghĩa Phục quốc đã đem lại cho mảnh đất này; những đài kỷ niệm những trận chiến giành con đường tới Jerusalem năm 1948 và những dấu hiệu về Lod và Ramla (thủ phủ trước đây của Ả Rập thuộc Palestine hồi thế kỷ thứ VIII) mà các cư dân của nó hoặc đã bỏ trốn hoặc bị lực lượng Do Thái đuổi đi.
Những khu vườn cam sạch gọn được bảo vệ tránh gió nhờ hàng cây bách đẹp mắt. Phần lớn những khu vườn này một thời được người Ả Rập chăm bón nhưng nay chúng thuộc về người Do Thái. Cam Jaffa,loại cam nổi tiếng hồi cuối thế kỷ XIX, đã trở thành biểu tượng của một Israel mới.
Một người Do Thái khi đi thăm những nơi này hẳn sẽ trào dâng niềm kiêu hãnh. Ông ta thấy rằng vùng đất "ốm o" như có lần Herzl mô tả Palestine, giờ được phong phú nhờ sự cần cù của người Do Thái. Mảnh đất của sữa và mật ong được phục hồi. Đối với một người Palestine khi đi
https://thuviensach.vn
ngang qua lại thấy rằng thành quả lao động của cha ông anh ta đã bị chiếm đoạt và là bằng chứng về sự xóa sổ hoàn toàn một dân tộc, ấy là, như lời của một tác giả Palestine, Chassan Kanafani "vùng đất của những trái cam đáng buồn".
★
Việc tạo lập Israel, thì dù hiểu theo minh định nào, đó là một biến cố khác thường. Không chỉ chuyện người Do Thái sống sót qua hàng thế kỷ trong điều kiện dị thường của lịch sử, mà họ còn tập trung được sức mạnh để thâm nhập vùng đất đã có một nền văn minh khác ổn định nhưng đã chinh phục được nó.
Chẳng có gì là bình thường về chuyện xuất hiện của Israel. Nó được sinh ra vào lúc thoáng qua của lịch sử khi mà các vì sao đã được sắp thẳng hàng một cách thuận lợi. Palestine được tạo nên từ cái xác của đế chế Ottoman trước khi chủ nghĩa dân tộc Ả Rập có thể tập hợp toàn lực của nó. Nó được gây dựng bởi hành động của chủ nghĩa thực dân Anh vào lúc mà việc kiến lập đế chế đã lỗi thời. Việc ổn định vấn đề bắc Mỹ và nam Phi của người châu Âu kéo lùi lại thế kỷ XVII, thế mà việc tiếp quản Palestine của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái chỉ mất vài thập niên để hoàn thành. Nhà nước Do Thái lúc còn trong trứng nước lại được quân đội của đế quốc Anh che chở, đàn áp những cuộc nổi dậy liên tiếp của Ả Rập và quay lại chủ nghĩa Quốc xã ở El-Alamein. Điều này cho phép người Do Thái phát triển các thể chế của họ tới mức đủ mạnh để buộc những người Anh từng che chở họ trước đây phải bỏ cuộc ngay sau khi kết thúc Thế chiến II. Vì Liên Hiệp quốc biểu quyết thành lập nhà nước Do Thái (và nhà nước Ả Rập) trong trường hợp hiếm có với sự thỏa thuận của Mỹ và liên bang Xô Viết năm 1947, vài triệu người Do Thái đã quyết chống lại nhiều triệu người Ả Rập.
https://thuviensach.vn
Câu nói đùa phố biến của người Israel hỏi: "Vì sao Moses đã lang thang trong sa mạc bốn mươi năm trời?" Câu trả lời là: "Vì ông chỉ đi tìm một chốn ở Trung Đông nơi không có dầu hỏa". Thế nhưng đất nước bán khô cằn này với nguồn tài nguyên thiên nhiên không đáng kể lại đã phát triển hơn cả những vùng đất giàu có nhất của các lãnh tụ Hồi giáo và có mức sống sánh với nhiều quốc gia châu Âu.
Thế nên chốn xa xôi hẻo lánh là khái niệm của nhà nước Do Thái khi Theodor Herzl đưa nó ra trong cuốn sách mỏng đầy ảnh hưởng của ông năm 1896, Nhà nước Do Thái (Der Judenstaat), là ông bị những người cùng thời chế nhạo là kẻ điên, một đấng Cứu thế giả, như một trong các đồng sự của ông ở một tờ báo đã viết "một jules Verne của Do Thái". Sau khi nghe được tiếng la hét của đám đông người Pháp đòi tiêu diệt người Do Thái, ông thấy rằng chủ nghĩa bài-Semite là một sự ác nan giải tiếp theo ở bất cứ nơi đâu người Do Thái tìm chỗ trú ngụ, ngăn ngừa mọi nỗ lực đồng hóa vào những xã hội chủ nhà. Giải pháp duy nhất cho sự áp bức người Do Thái ở châu Âu là chủ quyền của người Do Thái.
Chúng ta là một dân tộc-các kẻ thù của chúng ta biến chúng ta thành một dân tộc ngoài ý muốn của chúng ta, chuyện đã từng xảy ra trong lịch sử. Nỗi đau buồn này liên kết chúng ta lại, và, khi đoàn kết, bỗng khám phá ra sức mạnh của chúng ta. Đúng thế, chúng ta mạnh đủ để tạo lập một Quốc gia, mà thực tế, là một quốc gia kiểu mẫu.
Đó chẳng phải một ý tưởng mới. Từ lâu, sự khẩn thiết phục hồi của người Do Thái về miền Đất Hứa đã tạo thành lời cầu nguyện hàng ngày của họ. Cái mới nằm ở phương cách để giành được cương vị quốc gia, bằng việc thương lượng với các thế lực lớn và vận động vốn của người Do Thái. Thêm nữa, người đề xuất không là người có tầm nhìn tôn giáo mà là một người Do Thái được đồng hóa thấu đáo.
Herzl nghĩ rằng sự độc lập của Do Thái sẽ được trui rèn bằng việc lao vào công nghệ mới của lực hơi nước và điện cung cấp phương tiện cho
https://thuviensach.vn
cuộc sống di trú hàng loạt có tổ chức. Herzl đã nói, cương vị quốc gia Do Thái sẽ tăng tiến sự khang an của thế giới.
Đối với Herzl, việc quốc gia nằm ở đâu không thành vấn đề lắm. Ông viết, "Hãy để chủ quyền thuận cho chúng ta một phần chia nào đó, trái đất này đủ rộng để thỏa mãn các yêu cầu hợp pháp của một quốc gia; cái còn lại chúng ta sẽ tự xoay xở". Ông đề ra hai khả năng: Palestine, "quê hương lịch sử không thể quên được của chúng ta" hay Argentina "một trong những đất nước phì nhiêu nhất của thế giới." Nhưng rồi sau này ông còn xem xét cả Cyprus, Sinai và có khi là châu Phi nữa-bất kỳ đâu cho chúng ta, những người Do Thái bị ngược đãi, một nơi trú ngụ.
Thế nhưng ý tưởng về cương vị quốc gia dưới sự mường tượng của người Do Thái phải là ở Palestine, dù đã có lúc chính quyền Anh đề xuất với Herzl ở Uganda. Chỉ Palestine là nơi được Chúa "hứa".
Đại hội Phục quốc Do Thái lần thứ nhất ở Basle năm 1897 là một mảng của kịch bản chính trị. Các thành viên đến dự đều mặc trang phục đen và đội mũ chỏm. Hội nghị đã thông qua tuyên bố mang máng về ''Mục tiêu của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái là tạo cho dân Do Thái một vùng đất ở Palestine được công pháp bảo đảm". Herzl được tung hô như một vị vua. Một vài ngày sau, ông ta viết trong nhật ký một dự đoán chắc nịch đến ngỡ ngàng nhưng là một sự đoán rất xác đáng:
Nếu tôi phải tổnq kết đại hội bằng một lời-lời mà tôi sẽ không cần công bố-ấy là: Ở Basle tôi đã kiến lập Nhà nước Do Thái. Nếu bữa nay tôi tuyên bố điều này, tôi sẽ được đáp lại bằng tiếng cười.Có lẽ trong năm năm, nhưng chắc chắn trong năm mươi năm nữa, mọi người sẽ nhận ra điều này.
Tuyên ngôn Balfour, lời hứa của Anh thiết lập quốc gia Do Thái ở Palestine, được đưa ra 20 năm sau. Nhà nước Israel ra đời trong lò lửa của cuộc chiến ngày 14 tháng Năm 1948, năm mươi mốt năm sau đại hội Basic, với tuyên ngôn được David Ben-Gurion đọc lên.
https://thuviensach.vn
Đích thân Herzl đã viếng thăm Palesline duy nhất một lần. Một năm sau đại hội Basic, ông đã dong thuyền tới Constantinople để yết kiến Vua Đức, Wilhelm II, người đang đi công cán nhằm giành ảnh hưởng ở đế chế Ottoman. Sau buổi gặp gỡ ban đầu đầy khích lệ, Herzl thẳng đường tới dự bữa tiệc hoàng gia ở Jaffa và chuẩn bị gửi đại diện của phong trào Phục quốc tới Vua Đức ở Jerusalem. Wilhelm II khá thích ý tưởng về chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, như cách ảnh hưởng của Đức ở Cận Đông nhằm gây bất lợi cho Anh. Nhưng vào lúc ông tiếp đón đoàn đại biểu của Herzl ở Jerusalem, ông đã bỏ qua ý tưởng bảo hộ của Đức ở Palesline, nhất là vì nó bị nước đồng minh Thổ Nhĩ Kỳ, vua Abdel-Hamid II, kiên quyết chống lại. Herzl lưu lại Palestine mươi ngày rồi vội vã lên tàu rời đi vì sợ chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ có thể bắt hoặc có khi còn thủ tiêu ông.
Năm 1902, Herzl cho xuất bản cuốn tiểu thuyết có tên là Vùng đất Tân Cựu (Altneuland), tuy cách hành văn khô khan nhưng hiện nay hấp dẫn người đọc. Nó kể về một người Do Thái gốc Vienne thất tình trốn tới một hoang đảo suốt hai mươi năm và khi trở về đầy ngỡ ngàng vì thấy Palestine thịnh vượng dưới sự định cư của người Do Thái, một "Xã hội mới'' không tưởng. Cuốn sách có câu phương châm bất tử: "Nếu bạn muốn, điều bạn muốn chẳng phải là hoang đường". Đây là kỹ xảo được sử dụng khéo léo trong kịch trường của Israel để tưởng tượng những gì Herzl đã nghĩ là ông ta trở về và chứng kiến một nước Israel hiện đại. Liệu ông ta hãnh tiến, đau buồn hay lúng túng? Herzl đã đặt ra tiêu chuẩn cao nhà nước Do Thái của ông không chỉ là nơi trú ngụ cho người Do Thái, nhưng còn là mô hình cho toàn nhân loại về cách kiến tạo một xã hội khoan hòa và không thành kiến. Israel sẽ là, theo lời của tiên tri Isaiah, "ánh sáng chiếu trên muôn dân nước".
Những người theo ông, Herzl, với bộ râu đen nhánh và điệu bộ kiêu hãnh, là một vị tiên tri của thời hiện đại, một Moses mới một lần nữa dẫn
https://thuviensach.vn
dắt dân Do Thái vào miền Đất Hứa. Cũng như Moses, Herzl đã qua đời trước khi người Do Thái chiếm được Palestine. Ông qua đời năm 1904 ở tuổi 44, do bệnh tim kéo dài. Theo mong muốn của Herzl lúc sắp qua đời là được người Do Thái chôn cất ở Palestine. Thi hài của ông được khai quật vào năm sau đó và chôn lại ở đỉnh ngọn đồi mang tên ông ở Jerusalem, Đồi Herzl.
Theo một nghĩa nào đó, Herzl có khả năng tiên tri tiêu biểu. Ông tin rằng chủ nghĩa bài-Semite ở châu Âu chỉ làm tồi tệ thêm, cả khi ông không đoán ra được nước Đức đáng yêu lại khai thác sức mạnh của sự công nghiệp hóa để tiến hành việc diệt chủng người Do Thái, Ở sườn đồi Herzl, Israel đã dựng đài tưởng niệm sáu triệu nạn nhân Do Thái thời Đức Quốc Xã.
Điều Herzl đã không thấy trước, hoặc từ chối xem xét, là cái giá kinh hoàng mà người Palestine phải trả cho giải pháp vấn đề Do Thái của châu Âu trên phần đất của Ả Rập. Herzl nghĩ rằng người Ả Rập sẽ háo hức đón chào sự thịnh vượng mà những người mới tới định cư sẽ mang lại. Thay vì thế, nhà nước Israel được trui rèn trong lò lửa chiến tranh, cuộc chiến đã
xua đuổi bốn phần năm dân Ả Rập khỏi những vùng đất bị Do Thái chiếm đóng.
Cạnh ngôi mộ của Herzl là nghĩa trang quân đội, nơi có những ngôi mộ mới chôn của những người thương vong trong cuộc chiến xung đột không dứt Ả Rập- Israel. Gần đồi Herzl là tàn tích của ngôi làng Deir Yassin, nơi quân đội Do Thái đã tàn sát người Ả Rập hồi hương năm 1948, đẩy nhanh cuộc di cư của người Palestine.
Lại nữa, Herzl không chỉ là nhà tiên tri của chủ nghĩa phục quốc Do Thái mà còn là tổ tiên ngẫu nhiên của phong trào quốc gia Palestine.
https://thuviensach.vn
Israel đã sống bằng gươm giáo từ ngày lập quốc. Nó tự hào là đất nước của các chiến binh. Sự xung đột còn sản sinh ra các biểu tượng của du kích quân Palestine và trẻ ném đá Palestine. Cửa hàng bán đồ lưu niệm ở phi trường Ben- Gurion bán những băng hình về những chiến thắng của quân đội Do Thái. Khăn trùm đầu sọc vuông của nông dân Palestine truyền thống (Keffiyeh) đã biến thành khoản thời trang cách mạng của người theo chủ nghĩa Mác, được sinh viên cánh tả mang ở các khu trường sở châu Âu. Các khu chợ Hồi giáo ở Jerusalem bán cơ man những chiến khăn này để du khách mua làm kỷ vật.
Qua hàng thập niên xung đột, người Palestine đã chiến đấu, dấy loạn, cưỡng đoạt máy bay, và đánh bom để chống trả lại ý thức phương Tây, ý thức đã đày ải họ hàng bao thập niên. Hồi ức về cuộc tàn sát người Do Thái đã rõ nét ở châu Âu và Mỹ, nhưng cũng nên biết rằng người Palestine cần một quốc gia riêng của họ. Quốc gia đó không phải Lebanon hay Jordan nhưng là mảnh đất Palestine lịch sử.
Nhiều người Israel do mệt mỏi vì chiến tranh và xung đột, đã đi đến kết luận ấy. Trong tiến trình mà cách nhà khoa học chính trị gọi là “hậu phục quốc”. Trong đó, chủ nghĩa yêu nước Israel ít mù quáng hơn- những người Israel đã xem xét lại dần dần nhưng lấy làm đau lòng trước các huyền thoại dân tộc của họ, lịch sử tuyển chọn họ và cả tác động của cuộc tàn sát. Không còn những người Israel lập luận rằng không có điều như thế nơi người Palestine. Hòa ước Oslo đã ký ở Washington tháng Chín năm 1993 là một nỗ lực để một lần nữa phân chia dần thành nhà nước Ả Rập và Do Thái. Việc nổ ra sự kiện Al-Aqsa Intifada, được hiểu tựa như “Cuộc nổi dậy Hồi giáo Al-Aqsa” hồi tháng Mười năm 2000, một phần là nổi loạn nhưng một phần là chiến tranh, là nhắc nhở rằng cuộc xung đột Ả Rập- Israel, hơn một thế kỷ còn lâu mới giải quyết được. Người Palestine thì không có quốc
https://thuviensach.vn
gia, còn người Israel thì không có hòa bình. Vấn đề Do Thái đã được giải quyết bởi sự lập quốc, vấn đề của Palestine còn là nỗi đau bỏ ngỏ.
★
Một số người dửng dưng với chuyện Tổ quốc giữa Địa trung hải và sông Jordan, Israel...Palestine....Đất Thánh...Đất Hứa...Đất của Sữa và Mật ong. Bất kỳ gọi gì, nó liền gợi lên những hình ảnh, những hồi ức, những câu ngắn của các tiêu đề báo, một đoạn Kinh Thánh, một câu Coran, một bài thơ, một bài hát, hay một bài thánh ca.
Nơi có thể khiến tâm hồn bạn cộng hưởng, với năng lực tinh thần của nó, hay có thể làm cho ý thức của bạn lên tiếng. Bạn có thể bị quyễn rũ bởi con người, hay càng ghê tởm họ. Du khách có thể lao vào cuộc hành trình khám phá thần học và khảo cổ học, hoặc nhạo báng chính trị và sự mê tín của đạo giáo. Sinh viên sính thời sự có thể muốn gặp người tiên phong của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái hoặc muốn chứng kiến nỗi thống khổ và cuộc đấu tranh của những nhà cách mạng Palestine. Quá nhiều điều đã xảy ra ở đây để bất kỳ ai cũng không thể dửng dưng được.
Trong cuộc hành trình tới Israel vài năm trước, khi máy bay của tôi bay qua bờ biển trên thành phố Tel Aviv và những lò sưởi bằng năng lượng mặt trời trên mái của các tòa nhà phản chiếu mặt trời qua tấm thảm của những tấm gương vỡ, các hành khách Israel đua nhau vỗ tay và hô vang Heveinu Shalom Aleichem (chúng tôi đã mang lại hòa bình cho các bạn). Lúc đáp máy bay xuống phi trường Ben- Gurion, những khách hành hương Kito giáo hát vang bài thánh ca cảm động ca tụng vùng đất cổ xưa như thể toát ra lực huyền bí của nó.
Một lần kia ngồi cạnh linh mục Công giáo người Ý, ông ta chẳng màng đến ý kiến của tôi mà cứ thế trình bày quan điểm của ông về Israel. Ông
https://thuviensach.vn
phô trương thứ tiếng Hebrew sơ đẳng của mình rồi dẫn giả rằng “Hebrew là ngôn ngữ của Chúa dùng để nói. Nó giống như khi gặp một phụ nữ đẹp mà bạn nói thứ ngôn ngữ của chị ta hẳn sẽ thú vị hơn”. Trong khi thừa nhận một Thiên Chúa nói tiếng Hebrew, ông lại chẳng nghi ngờ gì khi cho rằng Kito giáo xuất phát từ lời dạy của Jesus- không phải xuất phát từ Do Thái giáo, là một sự mạc khải thật của thần thánh.
Bằng giọng tôn kính, ông nói tiếp “Israel là một quốc gia rất trật tự. Cứ tưởng tượng xem, người Do Thái kiên trì chống lại cả hàng triệu người Ả Rập và phần lớn lại của thế giới Hồi giáo” và ông gục gặc đầu “Nhưng người Do Thái quá kiêu ngạo. Tất cả những điều khủng khiếp mà người Đức đã làm cho họ, họ đang làm như thế với người Ả Rập”. Người Do Thái là siêu anh hùng nhưng cũng cực kỳ xấu xa, là dân được chọn nhưng cũng là tội đồ muôn thuở.
Mọi thứ ở Israel và Palestine thì huếch hoác. Đấy là một dải đất làm nên một quốc gia, ngang không quá 75 dặm và dài chưa tới 260 dặm. Với dân số 5 triệu người Do Thái và khoảng 4 triệu người Palestine ở cả Israel và những vùng đất bị chiếm đóng, nhưng nó chỉ đạo lòng thành của 1 tỷ người Hồi giáo, 1,7 tỷ người Kito giáo và khoảng 13 triệu người Do Thái khắp thế giới.
"Từ Palestine luôn đem lại cho tôi ý nghĩ là quốc gia này lớn bằng nước Mỹ. Tôi không hiểu tại sao, nhưng đúng là như thế," Mark Twain đã viết trong Iinnocents Abroad: "Tôi cho rằng nó như thế vì tôi không thể hình dung một tiểu quốc lại có trang sử liệt oanh như vậy."
Năm 1867 Mark Twain đã đến Palestine lần đầu tiên trong một chuyến du hành thú vị, tiền thân của những tuyến xe buýt đi thăm các vùng đất thánh. Ông ta đã băng qua Đại Tây dương trên con tàu guồng chạy bằng hơi nước, the Quaker City, với một nhóm khoảng 150 người Mỹ. Chuyến du lịch ấy bao gồm các thành phố chính của châu Âu, Đất Thánh và Ai Cập.
https://thuviensach.vn
Trình thuật của ông ta về chuyến đi hết sức phổ biến vì giọng điệu bất kính của nó. Ông viết: "Quang cảnh phương Đông trông đẹp nhất trong những bản khắc bằng thép. Tôi không thế bị bức tranh về Nữ hoàng Sheba thăm Solomon đó áp đặt thêm nữa. Tôi sẽ tự nhủ “Trông bà thật đẹp, thưa bà, nhưng bàn chân của bà không sạch và người bà tỏa ra mùi như con lạc đà”.
Mark Twain nghĩ, phần lớn sách thời ấy nói về Đất Thánh phản ánh tín ngưỡng của tác giả, những người đi để tìm “người Palestine theo tin Lành” hay “người Palestine theo phái Baptist”.
Chân thành như các ý định của những người này, họ đầy thiên kiến và định kiến, họ vào đất nước này với những nhận định đã được chuẩn bị, và họ không thể viết một cách thản nhiên và vô tư về nó hơn khi họ viết về chính họ và con của họ.
Cuộc thăm viếng của Mark Twain là một phần của nỗi ám ảnh phương Tây mới về Palestine. Vào thế kỷ XIX, hàng ngàn du khách đã đến Palestine, bị cuốn hút bởi bầu khí chính trị tự do hơn của đế chế Ottoman. Bị lôi kéo bởi tinh thần thẩm tra đang tăng và được chuyên chở bằng lực của những con tàu chạy bằng hơi nuớc. Đến Palestine thì thường là qua cảng Jaffa của Ả Rập.
Nhìn xuống cảng nhỏ bé này hôm nay thật khó tưởng tượng thiên nhiên đã phú cho một trong những bốn cảng đáng kính nhất của lịch sử lại ít ỏi như vậy. Bờ biển của Palestine chủ yếu bao gồm những dặm cồn cát do cát từ sông Nile tạo nên. Nó mất đi những vịnh nhỏ hay những chỗ đậu tàu an toàn, chỗ nhô ra toàn đá của Jaffa với chuỗi đá ngầm tạo ra con đê chắn sóng tự nhiên hiếm có nhưng không hoàn chỉnh để chống lại bão tố. Lúc thời tiết xấu, những con tàu thường thấy là không thể xuống hàng hằng tuần liên tiếp.
https://thuviensach.vn
Những con tàu chạy bằng hơi nước phải neo cách bờ nửa dặm hay hơn. Việc bốc và dỡ hàng là một việc liều lĩnh đầy gian khổ được các công nhân bốc xếp bến cảng người Ả Rập thực hiện bằng những con thuyền chèo tay chòng chành. Vượt được lối đi hẹp qua đá lúc sóng nhồi quả là trải nghiệm lạnh người. Một du khách người Anh, Sir Prederick Treves đã nhận định, “Jaffa nổi tiếng ít nhất ở hai điều: cam tuyệt vời và việc cặp bến đáng sợ”.
Theo một số tài liệu cổ, Jaffa được thành lập trước cả nạn Hồng thủy. Những người Hy Lạp tin rằng những tảng đá nguy hiểm của nó là chỗ Andromeda xinh đẹp bị xiềng như một hiến vật cho thủy quái nhưng được Perseus, người đã nhuộm tím nước biển bằng máu của con thú, cứu thoát. Nguồn gốc của cái tên có thể là yafa, tiếng Hebrew cổ nghĩa là đẹp. Cả người Ả Rập cũng có ấn tượng về vẻ đẹp của Jaffa họ gọi nó là “Nàng dâu của Biển cả”.
Jaffa là điểm dừng chân trên vùng đồng bằng duyên hải của Palestine, vùng đất lịch sử phía bắc giữa châu Phi và châu Á. Tuyến đường có tên là Horus Road là do người Ai Cập và tuyến đường có tên là Via Maris là do người Roma nối hai nền văn minh Ai Cập và vùng Lưỡng Hà. Không dễ có cái thay thế, đồng bằng được kẹp giữa biển và dãy núi hình thành vùng đất trung tâm trong thánh kinh được gọi là Judea và Samaria. Xa hơn trong đất liền là vực sâu và khô cằn thuộc Thung lũng Jordan và đến vòng cung sa mạc trải từ Sinai đến Ả Rập, Iraq và Syria.
Sự chật hẹp của tuyến đường duyên hải đã quyết định nhiều về lịch sử đầy sóng gió của Palestine. Quân đội đã mở chiến dịch dọc theo cuốc lộ từ thời các Pharaoh tới thời Richard Dũng Mãnh, Napoleon và Allenby. Tên của Jaffa xuất hiện lần đầu trong danh sách của các thành phố của người Canaan bị Thutmose III, người được cho là Pharaoh vĩ đại nhất của Ai Cập, chiếm vào năm 1468 trước Công nguyên. Vào những thế kỷ sau thời cai trị của người Ai Cập là tới người Philistine, người Assyria, người Babylon,
https://thuviensach.vn
người Ba Tư, người Hy Lạp, người Do Thái,người Roma, người Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kỳ, người Pháp, người Anh.
Ở đây, Kinh thánh nói với chúng ta, Vua Solomon đã đưa những cây tuyết tùng từ Lebanon rồi lại được mang lên tới Jerusalern để xây ngôi đền cố định cho Thiên Chúa của dân Israel. Theo Tân ước, chính tại Jaffa, Peter đã khiến Tabitha sống lại. Và cũng chính lại Jaffa những người định cư của phong trào Phục quốc lần đầu đặt chân đến và bắt đầu xây dựng thủ đô-Tel Aviv, “thành phố đầu tiên của người Do Thái” thời hiện đại -đã nuốt chửng cảng nguyên thủy.
Lúc bắt đầu thế kỷ XX, Jaffa là thành phố lớn nhất của Ả Rập ở Palestine, bến cảng tồi tàn của nó tấp nập đứng hàng thứ ba ở Địa Trung Hải thuộc phía đông rồi mới tới Alexandria và Beirut. Thập niên 1870, cam Jaffa được đưa ồ ạt xuống tàu chở tới Anh, át hẳn những mặt hàng xuất khẩu như lúa mì, dầu ôliu và xà bông. Khoảng đầu thế kỷ XX, chừng 5000 du khách và khoảng 15.000 khách hành hương đi qua Jaffa mỗi năm. Dù được tiếp đón, nhưng người phương tây này vẫn được gọi là Franj, danh xưng của Ả Rập cổ để chỉ quân thập tự chinh.
Các du khách đã bỏ lại một thư viện ngày càng phình ra gồm những chuyện kể của khách lữ hành. Khoảng 2.000 tác phẩm, một số chúng bao gồm vài tập, được viết vào đúng tám thập niên giữa 1800 và 1878. Ngược lại, khoảng 1.500 bản thảo còn lại từ toàn bộ tác phẩm của mười lăm thế kỷ trước. Sự tuôn trào tài liệu này tập trung vào lịch sử kinh thánh nhưng không đề cập nhiều về Palestine đương thời.
Đất nước ấy được nhìn qua lăng kính nhuốm màu của quá vãng. Hiện tại, theo định nghĩa, là quốc gia bất hạnh và cùng cực, bằng chứng về sự nguyền rủa của Chúa.
https://thuviensach.vn
Một số hình ảnh đáng mến nhất về Palestine là những thạch bản ngoại lai do họa sĩ Scotland, David Roberts, vẽ năm 1839. Nữ hoàng Victoria và các tổng giám mục của York và Canterbury là trong số những người đầu tiên mua tranh của ông. Ngay cả ngày nay, những phong cảnh về thánh kinh và khảo cổ là món quà mong ước cho bất kỳ ai đã từng lưu lại ở vùng đất này. Những hình ảnh này quá thân quen đến nỗi phải mất một thoáng để nhận ra những nét vặn vẹo và phóng túng nghệ thuật; dãy núi sừng sững và các vách đá thật ấn tượng. Tác phẩm mỹ thuật xưa quả là hùng vĩ, những con ngươi Ả Rập quá ấn tượng và tín đồ quá thành kính như thật. Tranh về Jaffa của ông được nhìn từ bãi biển đã mô tả đồi núi ấn lượng hơn thật nhiều.
Thuật nhiếp ảnh tới vùng Đất Thánh cùng thời với Roberts và sớm trở thành công nghệ phát đạt tạo ra số lớn hình ảnh về các đề tài kinh thánh.
Các ảnh tượng tôn giáo của Palestine luôn được chắt lọc bởi trí tưởng tượng, lòng thành kính bị lấn lướt bằng việc giẫm lên vùng đất mà đã có thời Abraham, Vua David, và Jesus từng đặt chân lên, người duy lý cảm thấy buồn cười trước những mê tín lờ mơ ấy, trong khi giới nhà binh có thể mất hút khi hồi tưởng những cuộc vây hãm và những chiến dịch quân sự.
Đối với người Do Thái, việc đến Jaffa là nhắc nhở đau lòng nhất về sự đánh mất Eretz Israel, Đất của Isarel, và là tâm trạng đáng thương vì cảnh tha hương của ngươi Do Thái. Các giáo sĩ nói, người Do Thái phải xé áo ba lần ở Palestine-lúc nhìn các thanh phố của Judah, lần nữa khi tới Jerusalem, và lần thứ ba khi họ tới trước khi thành thánh bị tàn phá. Đối với Herzl, là việc đến bờ Jaffa, nơi bao gồm “sự nghèo khổ, cùng cực và sự nóng bức toàn những màu xám xịt”.
Phần lớn du khách Kito giáo đi loanh quanh ẩn chứa tầm nhìn hão huyền về quá vãng, mục đồng với khăn trùm đầu đã khơi dậy ký ức về sự ra đời của Jesus trong khi cảnh biển Galilee có thể nhắc nhớ những lời của bài
https://thuviensach.vn
giảng trên Núi. Thomas Cook đã lợi dụng niềm vui thích mới ở Cận Đông để tổ chức “các chuyến du lịch phía Đông” năm 1869.
Những sách hướng dẫn là những sản phẩm của một thời, thời thống trị của châu Âu khi những người phương Tây tin vào sự ưu việt của họ. Những cuốn sách và những tuyến du lịch Palestine làm cho cảnh quan của vùng Đất Thánh thân thuộc hơn đối với người châu Âu và những giấc mơ được nhen nhóm lại về những cuộc Thánh chiến hào hùng. Mỗi khủng hoảng chính trị ở phương Đông khơi gợi một cơ hội mới ở châu Âu là Palestine bị tái chinh phục cho thế giới Kitô giáo, hay chí ít thì cũng bị hấp thu về mặt văn hóa dưới “cuộc Thánh chiến thái bình”. Nước Anh Tin hành bị cuốn vào tầm nhìn về ngày tận thế sắp xảy ra, điềm báo chính về chuyện trở về vùng Đất Thánh của người Do Thái và cuộc trao đổi với Kito giáo. Những cường quốc cạnh tranh ảnh hưởng bằng cách xây những học viện tôn giáo và giáo dục, bành trướng sự bảo trợ lãnh sự các thành phần thiểu số, như các giáo phái Kito giáo, Do Thái, và Druze.
Từ thập niên 1860, những lời kêu gọi thực dân hóa Palestine ngày càng ầm ĩ hơn. Những người biện hộ về sự ổn định của châu Âu lập luận rằng các cư dân Ả Rập hoặc bị lực lượng quân đội khuất phục, tập trung họ vào những khu riêng hoặc bị biến thành tầng lớp nô lệ.
Jaffa trở thành lực hút của những người nhìn xa trông rộng, những tay có suy nghĩ kỳ quặc, và những người từ tâm, những kẻ bắt đầu mua hết đất trang trại ở vùng đồng bằng xung quanh. Nước dồi dào, đất màu mỡ, giao thông thuận lợi, các lãnh sự nước ngoài sẵn sàng bảo vệ họ. Một nhóm 43 gia đình người Mỹ thuộc giáo hội Messiah, nhánh của Mormons, đến Palestine năm 1866 để thành lập vùng đất cho lần đến thứ hai của Chúa Cứu thế. Họ mang theo khung nhà làm sẵn và lần đầu tiên cơ cấu nông trại hiện đại ở Palestine. Dự án kéo dài khoảng một năm trước khi sụp đổ vì sự thử thách gay go, các chướng ngại của tệ quan liêu, và sự tố cáo lẫn nhau.
https://thuviensach.vn
Năm 1868, phong trào đầu tiên của những người theo phái Luther trước đây tự xưng là Hội Đền thờ, tin rằng người Đức là "dân của Chúa" có quyền bất khả xâm phạm để sở hữu vùng Đất Thánh, đã định cư ở Haifa. Họ sớm lan rộng tới vùng Jaffa nơi họ đã chiếm giữ, trong số những tài sản khác, đất đai và nhà cửa của những người khai hoang Mỹ bỏ lại. Lúc cao điểm có khoảng 1.200 thành viên hội Đền thờ sống rải rác ở các cộng đồng khác nhau và phong trào này phát triển mạnh cho tới khi nổ ra Thế chiến II, khi các thành viên của nó bị người Anh bắt giam. Vùng lân cận Jerusalem do các thành viên hội Đền thờ xây dựng thường còn được gọi là "khu Kiều dân Đức."
Dòng người Do Thái vẫn tiếp tục đổ vào Palestine để sống một cuộc sống mộ đạo nơi những thành phố thánh ở Jerusalem, Hebron và Tiberias. Khi những người định cư thuộc dòng dõi Do Thái thế tục mới đầu tiên từ tây Âu đổ vào hồi năm 1882 sau cuộc tàn sát người Do Thái ở nam Nga, phần lớn người Ả Rập đã nhìn họ hơi khác với những nhóm người nước ngoài kỳ dị khác ẩn chứa những tầm nhìn không tưởng xa lạ. Nhưng những người định cư này, được nung nấu bởi ý tưởng luẩn quẩn quanh việc tái thiết cộng đồng Do Thái, đã không rời đi. Họ đã chinh phục vùng đất này.
2 Một Chúa, nhiều Tôn giáo Tiếng Hebrew để chỉ việc đến Jeresalem và vùng Đất Hứa là alyah -“sự đi lên”. Con đường đến Jerusalem đúng là sự đi lên vật chất, và đó là một chỗ dốc. Người Israel cũng dùng alyah theo nghĩa là nâng tâm hồn lên. Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái duy trì nghĩa đó để chỉ người Do Thái dời đến Israel là hình thức cao nhất của sự tự biểu hiện, và người rời bỏ Israel hẳn đang phạm tội yeridah (đi xuống dốc).
Tôi luôn cảm thấy chút hưng phấn khi lái xe lên Jerusalem, cả vào những ngày gấp gáp hoặc mệt nhọc nhất. Nhưng ngọn núi của Judea vươn
https://thuviensach.vn
vút lên từ đồng bằng duyên hải. Nhưng thửa ruộng đã được cày bỗng nhường chỗ cho nhưng dốc đá mọc đầy cây rừng gồm bách và thông.
Cổng vào Jerusalem được củng cố tự nhiên gọi là sha'ar ha-Gai nhưng nhiều người gọi bằng cái tên Ả Rập trước đây là Bab al-Wad. Các khối gỉ sét của nhưng chiếc xe bọc sắt bị phá hủy nằm rải rác cạnh đường như vật kỷ niệm cuộc đấu tranh của nước Do Thái lúc mới lập quốc để bức phá sự vây hãm Jerusalem của quân Ả Rập. Nhưng biểu tượng đầu tiên về Thành Thánh là những hình ảnh chẳng có vẻ gì là tôn giáo xa xưa mà mang tính chất của cuộc chiến tranh hiện đại.
Những du khách xưa kia trên đường tới Jerusalem đã nhớ tới cuộc đấu giữa David và Goliath mà Kinh thánh lấy bối cảnh là những ngọn đồi thấp kế đây. Ở Bab al-Wad, du khách thời nay được hỏi là thấy sự xung đột của Israel với người Ả Rập có giống cuộc đấu chống lại Goliath Ả Rập.
Nhịp mạch của bạn như nhanh hơn khi bò lên từng ngọn đồi, và hạ thấp mỗi khi lao xuống thung lủng. Mỗi đỉnh đồi giống như bậc thang của một cái thang thật khác leo lên Jerusalem. Không khí trở nên mỏng hơn, mát hơn.
Nó nhắc nhớ các từ “Jerusalem của Chúa” giai điệu dân gian trầm buồn được sáng tác ngay những tuần trước cuộc Chiến Sáu Ngày năm 1967 chẳng khác nào một trong những bài hát được ưa thích nhất ở Israel. Nó nói
về thành phố trơ trọi, với một bức tường ở giữa, một thành phố bằng vàng, đồng và ánh sáng, gợi lên sự trở về Jerusalem của dân Do Thái. Cho tới lúc ấy con đường từ Tel Aviv tới ngõ cụt: bức tường phòng ngừa kẻ bắn tỉa dọc theo đường ranh ngưng bắn giữa lực lượng Israel và Jordania. Chiến tranh "đã hợp nhất" hai nửa của thành phố dưới sự thống trị của người Israel. Zion đáng yêu trong những lời kinh hàng ngày của người Do Thái và quốc ca Israel đã nằm lòng nơi người Do Thái.
https://thuviensach.vn
Đối với người Palestine, thất bại năm 1967 làm tồi tệ thêm "thảm họa" lập quốc của Israel năm 1948. Toàn bộ phần đất Palestine đặt dưới sự ủy trị của Anh đã rơi vào tay người Israel; hầu như người Ả Rập chẳng còn tấc đất nào, huống chi người Palestine. Đến lượt người Palestine khóc thương Jerusalem. Bài ca ai oán Zahrat al-Madayin do Fairuz cất lên gây xúc động cho người Palestine. Những nét lướt của nó chuyển từ ai oán đến giận dữ, và đến niềm hy vọng là người Ả Rập tái chinh phục Jerusalem, và cuối cùng là tiếng kèn trumpet khải hoàn mở ra viễn cảnh an bình được lập lại cho thành phố khốn khổ này.
Công lý sụp đổ ở các cửa ngõ
Khi Jerusalem thất thủ, tình yêu lủi bước và chiến tranh chiếm lĩnh nơi trái tim của thế giới [. . .]
Nước nguồn sông Jordan hãy rửa mặt ta bằng nguồn nước thiêng của mi Và mi, Hỡi nước nguồn sông Jordan, hãy cuốn sạch dấu chân của các rợ quân. Cơn giận dữ lan rộng
Đang dâng lên
Bao khiếp sợ
Đang ùa tới. . . Ngôi nhà là của chúng ta
Jerusalem là của chúng ta.
Những từ giản dị, "Jerusalem là của chúng ta" chắt lấy tinh chất của thế kỷ xung đột giữa người Ả Rập và người Do Thái.
Jerusalem lặng lẽ rón rén vào bạn. Chẳng viễn cảnh nào uy hùng hơn. Thoáng nhìn thành Thánh khác nào tấm áo hữu hình buông xuống từ chỏm những ngọn đồi bên trên con đường, nuốt chửng các con dốc phủ cây rừng. Jerusalem là khu đất rộng lớn. Bộ mặt Jerusalem liên tục được tu sửa, bỏ lại những sườn đồi bị cắt như những vết sẹo.
https://thuviensach.vn
Cổ thành nép mình e lệ sau cảnh quan của thành phố hiện đại. Các du khách phải len lỏi qua khu vực buôn bán nhếch nhác, qua phòng hội, các khách sạn, trạm xe buýt, các tòa nhà văn phòng-cho tới khi họ bỗng đụng phải những bức tường do Suleiman Vĩ đại xây cất. Bạn chỉ có thể vừa nhận ra những công trình kỷ niệm đằng sau bức tường đá; giống như những hình ảnh của các phụ nữ phương Đông của Roberts, chỉ có lời gợi ý khêu gợi của những khoái cảm khuất lấp khi thoáng nhìn mái Vòm Đá mạ vàng và cái vòm xám than của ngôi Mộ Thánh. Khi bạn thấy được cảnh thông thoáng của cổ thành lúc đứng trên bậc cao của Núi Olives hay Talpiot, bạn cảm thấy giống như David há hốc miệng nhìn nàng Bathsheba trần truồng.
Những trình thuật của các du khách nước ngoài tới Jerusalem chứa đựng bao ấn tượng đến giật mình. Theodor Herzl lần đầu tiên thoáng thấy Zion trong các lời kinh của Do Thái qua cảnh tượng lờ mờ của cơn sốt rét hồi năm 1898: "Dù mệt lử, Jerusalem với những đường viền ngập ánh trăng gây nơi tôi một ấn tượng sấu sắc. Hình bóng của pháo đài Zion, thành trì của David-quả là hùng vĩ!"
Thế nhưng, lúc ban ngày ban mặt, Herzl khó chịu vì cảnh nhếch nhác, về bức Tường phía Tây, ông đã viết: "Thật sự chẳng muốn tới gần vì ở đây đám cái bang gớm guốc, khốn khổ, tham lam đã chiếm chỗ". Cả khi ông tính thuyết phục Vua Đức tẩy chay Palestine khỏi đế chế Ottoman và giao nó cho người Do Thái, Herzl bận tâm lên kế hoạch là làm cách nào có thể tái thiết thành phố. Ồng đã viết trong nhật ký:
Khi ta tưởng nhớ đến mi, Hỡi Jerusalem, thật chẳng hài lòng chút nào. Những tồn đọng mốc meo của hai ngàn năm vô nhân đạo, thiếu khoan dung, dơ bẩn nằm ở ngõ hẻm bốc mùi hôi thối. . . Nếu chúng ta từng đến Jerusalem và nếu tôi còn có thể làm được bất cứ điều gì tích cực vào lúc đó, tôi sẽ khởi bằng việc dọn dẹp sạch sẽ nó. Tôi sẽ dẹp bỏ những thứ gì không có vẻ thánh thiêng, xây dựng nhà công nhân bèn ngoài thành phố, quét sạch các ổ đồi trụy, đốt hết những tàn tích thế tục và chuyển chợ búa đi chỗ khác.
https://thuviensach.vn
Vào những ngày Herzl tự cho mình có quyền mường tượng việc xây dựng. Ông muốn biến Jerusalem thành một trong những thành phố đẹp nhất thế giới, chỉ để lại khu vực tôn giáo bên trong cổ Thành và thành phố hiện đại, xanh tươi trải qua những ngọn đồi kế bên. Nhìn xuống từ Núi Olives, ông được truyền cảm hứng không phải bởi những truyền thuyết về David và Solomon, nhưng bởi vẻ hùng vĩ của Rome, thủ đô của đế chế đã phá hủy đền thánh của Do Thái. Trong nhật ký ông đã viết, "Quả là những giây phút tuyệt vời. Sao lại không thực hiện được! Một thành phố như Rome, và Núi Olives sẽ cung cấp bức tranh toàn cảnh như Janiculum".
Herman Melville, khi đi thăm Palestine hồi năm 1857, đã rầu rĩ viết trong nhật ký: "Judea là một đống đá-Những ngọn núi đá và những đồng bằng đầy đá; những dòng nước lổn ngổn đá và những con đường lổn nhổn đá; những bức tường đá và những thửa ruộng đầy đá; những căn nhà làm bằng đá và những ngôi mộ xây bằng đá; những con mắt vô hồn như đá và những con tim chai cứng như đá". Ông nghĩ những người Do Thái trong cổ Thành sống "như những con ruồi trong cái sọ rỗng"
Những nhà tâm thần hiện đại đã chẩn đoán một căn bệnh tâm thần được gọi là "Hội chứng Jerusalem". Họ diễn giải những du khách bình thường khác làm sao, bị mất phương hướng bởi sự không hòa hợp giữa Jerusalem và tâm trí của họ và thành phố thật trên mặt đất, là nạn nhân của
những ảo tưởng, nghe những âm giọng, tự mường tượng là những nhân vật của thánh kinh.
Khi lần đầu tiên tôi tới đó với tư cách là phóng viên vào năm 1991, lúc bắt đầu cuộc khủng hoảng về việc Iraq xâm lược Kuwait. Tôi cảm thấy thoái chí bởi gánh nặng lịch sử của Jerusalem mà tôi chỉ học sơ hồi còn nhỏ nhưng nay bị đánh quỵ với tất cả sức mạnh của những sự kiện mà tôi được gửi tới để tường thuật. Như một đứa trẻ bị kéo tới nhà thờ, tôi đã mường tượng Jerusalem là một chốn siêu trần, thần thoại, một loại Atlantis hay
https://thuviensach.vn
Shangri-La. Niềm tin vào Jerusalem dường như là vấn đề của đức tin, như niềm tin vào sự Phục sinh. Nhưng vào lúc tinh mơ, khi taxi của tôi chạy dọc theo con đường Jaffa hoang vắng, tôi bị đứng trước một thành phố cụ thể, đúng thực với những cửa hiệu, những dấu hiệu bằng tiếng Hebrew, và rác rưởi. Cả đèn giao thông cũng có vẻ kỳ lạ ở thành phố của Chúa. Chính vẻ thường tình lại gây ra chưng hửng. Ở khu chợ Mahane Ychuda, các tòa nhà san sát nhau trên đường giao thông chính của thành phố. Tôi nhìn ngắm những ngôi nhà bằng đá với mái ngói đỏ. Hình thù trông quen thuộc nhưng có vẻ nặng nề hơn những tòa nhà ở châu Âu, và cửa sổ theo kiến trúc phương Đông, nhưng rõ ràng là thành phố phương Tây. Tôi còn tới những chỗ còn lạ và kỳ cục hơn, nhưng vào lúc trời mờ sáng, không đâu có vẻ huyền bí hơn Jerusalem.
★
Các nhà hiền triết Do Thái đã nói rằng: thiên hạ có mười phần đẹp thì Jerusalem vinh dự có được chín. Mười phần khổ đau, Jerusalem chịu chín. Mười phần thông thái, Jerusalem giành lấy chín. Mười phần ác độc thì Jerusalem vô phúc có đến chín.
Vào thời giáo sĩ ban đầu, khi câu cách ngôn này được đặt ra, đã có sự cảm nhận yêu và ghét, sự lưỡng phân giữa Jerusalem trên trời và Jerusalem dưới đất, giữa lòng sùng kính cao cả mà thành phố truyền cảm hứng, và lòng ghen tị mà lòng tin khơi gợi giữa những con người bất toàn.
Đối với các tiên tri của Kinh thánh Do Thái, tính trọng đại của sự linh thánh của Jerusalem xem chừng cũng ngang bằng muôn vàn tội lỗi của nó. Jerusalem có cả tính cách thần bí kỳ quặc, cao cả và xấu xa. Isaiah, Jeremiah, và những tiên tri khác đã mô tả thành phố là nàng dâu và con đĩ, là người mẹ và là bà góa, thủy chung nhưng cũng sát chồng. Họ tiên đoán Thiên Chúa sẽ gửi xuống sự hủy diệt đại hồng thủy, nhưng sẽ phục hồi
https://thuviensach.vn
Jerusalem thuần khiết và chính trực như xưa, và các cư dân của nó sẽ mãi tôn trọng giao ước mới với Thiên Chúa.
Với thời gian, nhất là trong giai đoạn nhiễu nhương dẫn tới việc người Roma tàn phá đền thờ và sau này, những khái niệm của sách khải huyền phân định rõ tầm nhìn về hai Jerusalem riêng biệt: một Jerusalem trần tục và một thành phố trên trời chờ hạ cố xuống trái đất theo lệnh của Chúa. Sự phục hồi một Jerusalem mới có liên quan mật thiết với ý tưởng của Đấng Cứu thế, vị vua công chính thuộc dòng dõi David sẽ giải thoát người Do Thái khỏi ách nô lệ. Sau này điều ấy được trau chuốt thành những biến thể theo chủ đề của hữu thể bán thần linh sẽ khôi phục Israel, tập hợp những kẻ tha hương và trị vì một thời đại hòa bình viên mãn. Toàn bộ điều này đến sau giai đoạn chiến tranh, dịch bệnh, hủy diệt, và xáo trộn khắp nơi.
Những nhà biên niên sử Ả Rập thời Trung cổ nhận ra tính đồng nhất hỗn hợp đồng dạng này. Al-Muqaddasi, nguyên quán là người của thành phố, đã mô tả Jerusalem là "cái bát vàng đựng đầy bọ cạp". Ông trở nên say mê sự hào phóng của vùng đất không cần tưới tiêu và lòng mộ đạo của dân thành Jerusalem. Nhưng Al-Muqaddasi cũng phàn nàn rằng nhà tắm của Jerusalem thì dơ dáy nhất, sưu cao thuế nặng, và thành phố không có học giả. Ông làu bàu, "Khắp nơi người Kitô giáo và người Do Thái chiếm ưu thế."
Tính cách phân hóa này xem chừng được tiền định bởi địa lý. Jerusalem đứng trên đường phân nước của những Ngọn Đồi Judea, đường phân chia giữa sa mạc ở phía đông và vùng rừng sum suê ở phía tây, biển bao la ở một bên, còn bên kia là sự khô cằn liên tu bất tận. Cổ Thành được bọc bởi ba mặt là những ngọn đồi cao hơn: Núi Olives với các nhà thờ Kito giáo và các nhà thờ Hồi giáo, Núi Scopus với kiến trúc lập thể trường Đại học Hebrew và dãy phố mới có khách sạn Vua David cao hơn hẳn. Từ ngọn
https://thuviensach.vn
đồi Abu Tor ở phía nam, thành phố gần như ở trên không, nép mình trong cái bát lớn treo giữa trời.
Cổ Thành hiện lên trên chóp giữa hai khe núi. Truyền thống Do Thái cho rằng thung lũng đầu là thung lũng Jehoshaphat, nơi ngày Phán xét sẽ diễn ra và người thiện sẽ vào Vườn Eden. Các con dốc của nó được phủ bằng những nghĩa địa của Hồi giáo, Kito giáo, và Do Thái, những người muốn ở hàng đầu. Thung lũng kia là Gehenna, đồng nghĩa với Hỏa ngục và sự khốn khổ đời đời vì những tế vật trẻ em khủng khiếp cho Moloch mà Jeremiah đã nói là được thực hiện ở đây. Jerusalem không phải là hai thành phố mà đúng hơn là một, treo giữa trời và đất, giữa thiên đàng và hỏa ngục.
Chút ít đã đổi thay. Jerusalem rõ ràng là đẹp, nhưng là thành phố không hoàn mỹ lắm. Từ bao lơn của căn nhà của tôi ở Abu Tor, tôi đã ngắm nhìn ánh hồng của đá vôi trắng của thành phố qua vùng có bóng râm, tùy theo trạng thái của bầu trời. Dải rộng của đá xem ra có thể phô bày nhiều xúc cảm như biển cả. Jerusalem tỏa ra màu trắng chói lòa vào giữa trưa hè, thấm đẫm màu vàng, màu hoàng thể, và màu hồng lúc hoàng hôn, và trở nên vàng mờ mờ khi gió sa mạc mù mịt thổi từ phía đông. Vào mùa đông, những cụm mây bão từ biển cuộn trên đỉnh Jerusalem, tạo thành vòm màu lam xám trên đỉnh đầu.
Quả cầu mạ vàng của Vòm Đá lấp lánh ở đáy những phiến đá ceramic màu ngọc lam xuất hiện bên trên những khối đá và những mái vòm rải rác của cổ Thành. Đó là viên đá quý được phô trương đính vào ngón tay bằng đá của Jerusalem.
Nhưng khi nhìn xuống dưới cổ Thành, bên ngoài các bức tường, và vùng đất khô ráp với những xóm giềng Ả Rập nghèo nàn và nhếch nhác ở Silwan, Al-Tur, và Ras al-Amud. Phân nửa Ả Rập và Do Thái của thành phố, được tái hợp nhất vào năm 1967, giờ ở trong hàng ngũ quân đội Israel. Thủ đô muôn thuở của Israel trở thành đèn soi khắp thế giới, những người
https://thuviensach.vn
được mời để tạo nó thành nhà của họ, trong khi cư dân Ả Rập của Jerusalem bị đối xử như những dân ngoại trên chính thành phố của họ.
Đường phân chia cũ giữa đông Jerusalem thuộc Ả Rập và tây Jerusalem thuộc Do Thái chạy xuống con đường nơi tôi đã sống bảy năm. Những hàng rào kẽm gai và những bãi mìn đã không còn nữa, kể cả khi một số ngôi nhà còn mang những vết tích của đạn bắn tỉa ngang qua ranh ngưng chiến. Hơn một phần tư thế kỷ sau khi biên giới được xóa bỏ, nó vẫn khắc sâu trong tâm trí các cư dân của thành phố. Người Palestine sống ở một bên con đường, còn người Israel sống ở bên kia. Những người láng giềng bất đắc dĩ này chỉ chào nhau qua loa khi họ chạm mặt nhau. Hiếm khi thấy trẻ Do Thái và Palestine chơi với nhau.
Từ cửa sổ ngôi nhà, tôi dễ dàng thấy biên giới cũ ở xa xa. Các láng giềng Do Thái sống trong những tòa nhà khoáng đạt và thanh lịch hơn, đường xá được thắp sáng và những khu vườn được tưới tắm thỏa thuê. Các khu của người Ả Rập thì tồi tàn, bụi bặm, và tối tăm.
Cứ đúng định kỳ, các toán lính và những nhóm thiếu niên Israel mang súng tuần tra các khu di tích của cha ông họ. Bọn trẻ Ả Rập chạy trốn cho đến khi họ đã đi qua. Ở cái thành phố được gọi là hòa bình này vẫn có những hoạt động quân sự diễn ra ở Đông Jerusalem của Israel và ở tỉnh Beit Jala bên kia Bờ Tây thuộc Palestine.
Trong 3.000 năm sau giữa câu chuyện giành được Jerusalem của Vua David và sự thể người Israel thâu tóm thành phố, Jerusalem đã phải chịu ít nhất 50 cuộc vây hãm, chiếm đóng, và thay thầy đổi chủ. Thành phố bị bao quanh bằng những chốt kiểm soát quân sự, những nơi tụ họp chính thường bị kiểm soát, có khi lính còn đóng chốt ở các trạm xe buýt.
Jerusalem là thành phố của các vụ nổ. Những tiếng báo động rú lên khi có tiếng gầm của máy bay quân sự trên đầu. Tiếng nổ âm thầm hơn nhưng
https://thuviensach.vn
tiếng vang kéo dài hơn là có vụ đánh bom tàn sát của người Palestine. Cứ vài tuần, bầu trời đêm dội lại ánh sáng và tiếng ầm vang của pháo bông của lễ hội. Giữa đêm khuya thanh vắng, mặt đất ùng ục với những tiếng đạn pháo nã vào từ xa.
Những âm thanh khác giạt qua cửa sổ căn nhà tôi ở vào cuối tuần. Vào lúc chạng vạng tối ngày thứ sáu, tiếng còi tầm vang rền khắp thành phố báo hiệu khởi đầu ngày Sabbath, rồi sự im lặng lại trùm khắp phía Tây Jerusalem. Lời mời gọi cầu nguyện của một trăm nhà thờ Hồi giáo trỗi lên năm phút một ngày từ thung lũng phía đông bỗng vang lớn, hàng trăm giọng rên rỉ tạo thành âm thanh rộn ràng, như những tiếng ve sầu. Chùm chuông từ các nhà thờ trên Núi Zion vang xa vào ngày Sabbath. Cuối ngày Sabbath vào đêm thứ bảy, nhà hôn lễ của người Do Thái cũng rộn vang tiếng nhạc đối lại nhịp điệu khuyếch đại của ban nhạc Ả Rập công bố hôn lễ của một cặp trai gái Palestine.
Khách hành hương tới Jerusalem để tìm sự hiệp thông với Chúa nhưng bị những người bán rong hàng kỷ niệm tấn công. Những thương buôn Ả Rập sống trong khu chợ Hồi giáo ở cổ Thành bán những mặt hàng như những cây đàn cổ cho người Do Thái, thánh giá và tràng hạt bằng gỗ ôliu cho các Kito hữu, còn đối với khách hành hương quan tâm đến chính trị có thể mua những chiếc áo sơ mi rùng rợn có hình cây súng máy và hàng chữ "Uzi sử dụng loại này"
Cổ Thành của Jerusalem yết thị những tờ cổ vũ tình huynh đệ. Các lối đi của nó tập trung hoạt động chính trị của các nhóm sắc tộc và tôn giáo. Các khu được phân chia bằng đường ranh của mỗi giáo phái-Do Thái, Hồi giáo, Kito giáo, và Armenia-với vô số giáo phái phụ cạnh tranh nhau, tất cả đều cầu nguyện cùng Một Chúa.
Mỗi giáo phái có trang phục riêng. Ở Jerusalem, tôn giáo đã tạo nên một thành phố-mũ, ai đội kiểu mũ nào thì thuộc về giáo phái nào chứ chưa
https://thuviensach.vn
hẳn thuộc về Thiên Chúa. Chẳng hạn những người Do Thái theo Chính Thống cực đoan đội những chiếc mũ màu đen làm bằng nỉ hay lông thú sang trọng. Những người Do Thái tụ tập ở Tường phía Tây mang những khăn choàng dùng khi cầu nguyện (tallit) giống như một giáo đoàn khác trên thế giới.
Những người Palestine, nhất là những người đàn ông lớn tuổi, thích đội khăn chùm đầu sọc vuông đỏ hay đen. Các phụ nữ Ả Rập đội khăn màu trắng. Khăn chùm đầu còn được dùng vào nhiều mục đích, như che nắng, giữ ấm. Những người trẻ Palestine đội khăn để tránh bị nhận diện trong những cuộc nổi loạn hoặc tránh hơi cay. Ở cổng Damacus, trung tâm của đời sống người Palestine, những chiếc mũ nồi của cảnh sát biên giới Israel lẫn trong dòng người Ả Rập trùm khăn.
Toàn bộ tạo nên một cảnh trí lạ, ấn tượng nếu mỗi tín ngưỡng đừng bảo mình là Chân lý tuyệt đối. Ở đây Chúa không là Một, cũng chẳng là Ba nhưng là đa. Jerusalem là tháp Babel của các đức tin. Lăng kính của tâm trí con người khúc xạ ánh sáng của Chúa duy nhất thành những màu lòe loẹt rối rắm.
★
Trên hết, Jerusalem là thành phố của hoài niệm, hay đúng hơn là ký ức có tuyển chọn. Nó tồn tại trong quá khứ cũng dài bằng trong hiện tại.
Cuộc tranh cãi giữa người Israel và người Palestine về đất đai và cương vị một nước, quả lắm xung khắc suốt dòng lịch sử. Những người Ả Rập, những người Do Thái, và những người Kito giáo thống trị Jerusalem ở một khu riêng, và mỗi phía tìm kiếm để nêu bật thời đại vinh quang của nó trong khi lơ đi những xác quyết của những phía khác. Từ cùng tấm thảm lịch sử chung, người Israel trích ra màu xanh và trắng để tạo lá cờ Israel, trong khi người Palestine sử dụng các màu Ả Rập gồm đen, đỏ, xanh, và
https://thuviensach.vn
trắng. Nó rút lại một phần để đi đến câu hỏi trần trụi là: "Ai là người đầu tiên ở đây?"
Người Do Thái yêu sách đường ranh liên tục cho những người Do Thái cổ xưa. Những người Palestine đi bước thành công hơn bằng cách duy trì nguồn gốc cuối cùng từ các cha ông Semite của người Israel, dân Canaan, và các kẻ thù của người Israel ở đồng bằng duyên hải, dân Philistine, những người đã cho họ cái tên là "Palestine". Hơn nữa, người Palestine đã sống trong thế kỷ cách đấy hơn 1.300 năm.
Những tên gọi Jerusalem-tiếng Hebrew gọi là Yerushalayim còn tiếng Ả Rập gọi là Al-Quds-là do vấn đề chính trị. Trước hết Jerusalem đi vào lịch sử thành văn là một sự nguyền rủa. Nó được đề cập là "Rushalimum" trong những bản văn cay cú, đồ gốm thế kỷ XIX trước Công nguyên mang những cái tên là các thành phố của người Canaan và những nhà cai trị thấy rằng có mối thù với Ai Cập. Những thứ này được lưu hành để mê hoặc các kẻ thù. Nó được đề cập là "Salem" từ đầu trong Kinh thánh như nơi mà ở đó Abraham nhận sự chúc phúc của Melchizedek.
Nguồn gốc của Jerusalem là thành phố thánh trước hết là phiến đá phơi ra trước gió sàng lọc. Theo Kinh thánh, đây là cái sân đập lúa của Araunah người Jebusite, có lẽ là nhà cai trị cuối cùng của Jerusalem trước khi bị David xâm chiếm ngay sau khi ông lên ngôi vua của vương quốc Israel thống nhất. Kinh thánh thuật lại rằng Thiên Chúa đã đẩy dịch bệnh từ bờ biển để trừng phạt David vì việc điều tra dân số. Sự chết chóc chỉ chấm dứt khi một thiên thần xuất hiện ở sân đập lúa của Araunah, David đã xây một bàn thờ ở điểm đó. Ông đã mua nó từ Araunah với giá 50 shekel bạc (theo tường thuật của bản Kinh thánh khác là 600 shekel vàng), và hất đổ đồ cúng của người Jebusite và thay bằng bò và lúa mì làm hiến lễ. Kinh thánh quả quyết là tay của David đã vấy máu vì đánh nhau, Chúa trao cho con của David là Salomon xây đền thờ vĩnh viễn để chứa Hòm Bia Giao Ước.
https://thuviensach.vn
Các nhà khảo cổ cho rằng triều đại hoàng kim của David là khoảng năm 1000 trước Công nguyên, nhưng thiếu bằng chứng xác thực, một số chuyên gia bắt đầu nghi vấn là không biết David và Salomon có thật không. Đúng hay không, câu chuyện đã chiếm vị trí trung tâm trong suy nghĩ của dân Do Thái. Vì thế điều quan trọng là sân đập lúa ấy được các nhà hiền triết thuộc giới giáo sĩ Do Thái gọi là "Đá Móng". Ở đây Hòm Bia yên vị trong nơi Cực Thánh, gian chính diện bên trong đền thờ mà chỉ Thầy cả Thượng phẩm mới có thể vào một năm một lần, dịp lễ Sám hối (Yom Kippur) của người Do Thái. Người Do Thái và người Kito giáo tin đấy là nơi Abraham trói con trai mình là Isaac làm hiến lễ.
Vào thời các tiên tri, Jerusalem và Con cái Israel đã trở nên đồng nghĩa. Các nỗi thống khổ của dân Israel là những giọt lệ cửa "các con gái Zion". Sự thờ phượng của dân Israel được quy định là ở đền thờ ở Jerusalem. Họ giết các con thú và dâng lên làm của lễ hiến tế cho Chúa và ba lần một năm người Do Thái trẩy tới đền thờ để hành hương, đền thờ đã được Herod tái thiết và mở rộng. Lời thuyết giáo của ông, bao gồm cả việc đuổi những kẻ buôn bán và tiên tri là đền thờ sẽ bị phá hủy, chịu cơn thịnh nộ của các thầy cả và sau đó là sự tàn phá của người Roma.
Hai cuộc tàn phá đền thờ, lần đầu là do người Babylon năm 587-586 trước Công nguyên, rồi do người Roma năm 70 Công nguyên, là những giai đoạn được xác định trong sử sách của Do Thái. Theo truyền thông Do Thái, cả hai thảm kịch đã xảy ra ở Tisha B'Av, ngày thứ chín của tháng Av theo lịch Do Thái, ngày được tuân thủ là ngày ăn chay và than khóc. Vô số thảm kịch khác được quy cho cái ngày bị nguyền rủa một cách huyền nhiệm này, như sự trục xuất người Do Thái khỏi Tây Ban Nha năm 1942.
Kỷ nguyên của lịch sử Do Thái được đánh dấu bằng sự phá hủy các đền thờ. Giai đoạn Đền thờ đầu chấm dứt với sự trục xuất một phần dân chúng từ vương quốc Judah tới Babylon. Sau khi Babylon bị người Ba Tư
https://thuviensach.vn
đánh đổ, Cyrus Đại đế cho phép người Do Thái "còn sống sót" trở về, những người, dưới sự lãnh đạo của Nehemiah và Ezra, đã tái thiết đền thờ. Trong kỷ nguyên Đền thờ thứ hai, một hình thức đạo Do Thái mới xuất hiện từ nửa thế kỷ lưu đầy. Tôn giáo này bắt đầu chuyển trạng thái từ việc thờ phượng ở đền thờ thành tôn giáo tâm linh hơn, theo lương tâm.
Bị mất đền thờ và quốc gia, những kẻ tha hương ở Babylon quay về những bản văn của họ. Các ký lục chứ không phải các thày cả đền thờ, trở thành sinh lực cố kết. Rất có thể, những kẻ tha hương đã thiết lập các hội đường làm nơi thờ phượng chung và là nơi đọc Kinh thánh. Trách nhiệm trung thành với Chúa chuyển từ những nhà cai trị cho cá nhân. Nếu Chúa không còn hài lòng với Israel, các giới răn của Người phải được tuân thủ kỹ hơn. Cụ thể, việc tuân thủ ngày Sabbath trở thành bổn phận tối thượng và việc kết hôn với dân ngoại bị câm.
Những kẻ tha hương củng cố các khái niệm thần học như sự đấu tranh vũ trụ giữa tốt và xấu, ý tưởng về sự phán xét sau khi chết và sự trông chờ dâng cứu thế được xức dầu thánh thiêng sẽ tới vào giờ sau hết. Thuyết độc thần bộ tộc của Israel mang tính phổ biến hơn, cả khi Israel vẫn là dân được chọn. Thiên Chúa không chỉ vĩ đại hơn các thần khác mà còn là Thiên Chúa duy nhất tuyệt đối, và các biến cố ở trần gian là một phần của chương trình tổng thể của Người. Các tiên tri phán, cuối cùng thì thông điệp của Israel sẽ lan tới thế giới không phải Do Thái, và thế giới trở nên "ánh sáng tới các dân nước"
Việc Alexander Đại đế đưa quân vào hồi năm 332 trước Công nguyên đã khởi đầu cuộc va chạm mạnh giữa đạo Do Thái và văn hóa Hy Lạp kéo dài nhiều thế kỷ suốt thời gian cai trị của những người kế vị Alexander, người Roma và người Byzantine, cho tới khi người Ả Rập nắm quyền.
Anh em nhà Maccabee lãnh đạo dân Do Thái trong cuộc dấy loạn thành công chống lại những lãnh chúa Hy Lạp bị suy yếu, những kẻ đã báng
https://thuviensach.vn
bổ đền thờ. Thế nhưng, cuộc nổi loạn chống lại sức mạnh của Roma đã kết thúc trong thất bại ê chề năm 70 Công nguyên. Josephus Flavius, sử gia người Roma gốc Do Thái, đã thuật lại những giờ phút cuối cùng của Nhà Chúa:
Trong lúc đền thánh đang cháy, mọi thứ trong tầm tay đều bị cướp đoạt, và mười ngàn người bất kể tuổi tác bị bắt và đã bị giết chết không thương xót hoặc kiêng nể, dù đó là trẻ em, người già, người thế tục hay thày cả, đều bị giết cùng một cách. [. . .] Ngọn lửa lan xa, vang vọng tiếng rên rỉ của những người bị giết và vì ngọn đồi thì cao, các công việc ở đền thờ thì rất bề bộn, người ta có thể nghĩ là toàn thành phố chìm trong lửa. Chẳng ai có thể mường tượng có sự cố nào lớn hơn hoặc kinh khủng hơn.
Cuộc nổi loạn bị dập tắt năm 73 Công nguyên khi quân Roma chiếm pháo đài cuối cùng của Do Thái ở Masada, trên bờ Tử hải. Theo trình thuật nổi tiếng của Josephus, những người bảo vệ quyết tự tử hơn là chịu người Roma nô dịch. Đó là hành động cuối cùng của sự thách thức và cuồng tín, "tấm gương sẽ gây ngay thành nỗi sững sờ cho họ trước cái chết của chúng ta và sự kính nể trước sự dũng cảm của chúng ta". Sau này câu chuyện Masada trở thành yếu tố chính để tạo huyền thoại của người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái, với những binh sĩ Israel biến pháo đài thành lời cam kết bảo vệ nhà nước Do Thái phục hồi.
Đền thờ chẳng bao giờ được tái thiết. Trên khung vòm của Titus ở Rorne, hình nổi bằng cẩm thạch khắc những người lính lê dương chở cây đàn nhiều nhánh đi. Thuế đền thờ, thuế đánh trên từng người Do Thái trong đế chế từ nay được đóng vào kho bạc của Roma. Những đám tro tàn của cuộc nổi dậy cứ định kỳ vẫn lóe lên. Một loạt cuộc khởi nghĩa của người Do Thái nổ ra khắp đế chế khi Trajan tự phụ tìm cách chinh phục vùng Lưỡng Hà và mở rộng đế chế của ông ta tới Vịnh Ba Tư. Người kế vị ông ta, Hadrian, hòa hoãn với người Parthia, nhưng phải đối mặt với cuộc chiến thứ hai ở Judea hồi năm 132-135 Công nguyên do Simeon Bar-Kochba lãnh đạo; sau rồi cũng bị đàn áp. Hadrian cấm người Do Thái bén mảng đến
https://thuviensach.vn
Jerusalem và bao vây các khu vực, bãi bỏ tục cắt bì (cắt bao quy đầu) và cấm giảng dạy công khai kinh Torah. Vùng này được đổi tên là Syria Palestina và thúc bách tái thiết Jerusalem là khu kiều dân Roma có tên là Aelia Capitolina.
Sự xung khắc dữ dội này với Roma đánh dấu bước rẽ giữa người Do Thái kháng chiến và các Kito hữu không phải Do Thái. Người Do Thái, những người chiếm 10 phần trăm dân số của đế chế, bị ngược đãi. Cuối cùng những người Kito giáo đã chinh phục Hoàng đế Constantine và Kito giáo trở thành tôn giáo của đế chế. Do Thái giáo, bị tan tác vì mất sự lãnh đạo tôn giáo và chính trị, trở thành tôn giáo thuộc cộng đồng Do Thái ở vùng đất riêng của họ. Tổn thương của tình trạng hủy diệt và lưu đầy đã tạo ra cơ sở cho một tôn giáo không có đền thờ. Giờ, sau khi bị tống khứ khỏi Jerusalem, Do Thái giáo tự dốc tâm vào cầu nguyện, việc bác ái, nghiên cứu, và tuân thủ nghiêm nhặt các lễ nghi Do Thái dưới sự lãnh đạo của các giáo sĩ là những người diễn giải luật tôn giáo.
Các hiền triết đã hoàn tất bản văn Kinh thánh và hệ thống hóa các thế kỷ luật truyền khẩu thành Mishnah (phần đầu của bộ luật và truyền thông Do Thái) vào đầu thế kỷ thứ III. Hai sưu tập riêng về những chú giải Mishnah, được gọi là Bộ Luật (Talmud), được hoàn thành ở Palestine và Babylon khoảng năm 500 Công nguyên. Nhiều tầng chú giải, diễn giải và những quy định mới thêm vào để tạo thành khung bộ luật được gọi là halacha. Điều này giúp bảo tồn bản sắc Do Thái qua những thế kỷ tiếp theo bằng cách tạo ra bức tường phép tắc để bảo vệ người Do Thái khỏi bị những người không phải Do Thái đồng hóa. Nó cũng sẽ tạo ra một tập thể Do Thái có thể được chọn là "những người xa lạ" và những anh chàng giơ đầu chịu báng.
Ký ức về đền thờ bị phá hủy gắn kết người Do Thái lại với nhau suốt những thế kỷ tha hương. Lời kêu gọi tái thiết đền thờ trở thành và mãi là
https://thuviensach.vn
một phần của lời cầu nguyện hàng ngày. Nhiều lễ nghi của đền thờ được chuyển vào các hội đường, những hội đường được xây quay về địa điểm của đền thờ và được truyền cảm hứng bởi kế hoạch ngầm của nó. Đền thờ trở thành biểu tượng của sự cứu độ cho dân Do Thái, và là trụ cột để bảo tồn sự đồng nhất tập thể. Lời than khóc của những kẻ tha hương ở Babylon giờ đây thích đáng hơn bao giờ hết, và vẫn là trong số những diễn cảm lâu dài nỗi nhớ Jerusalem:
Bên những dòng sông của Babylon, chúng ta ngồi, chúng ta khóc, khi chúng ta nhớ Zion.
Chúng ta treo những cây đàn hạc lên những cây liễu.
Vì ở đây chúng ta bị giam cầm, được yêu cầu hát lên bài ca: và họ bỏ mặc chúng ta, chúng ta được bảo là hãy vui lên, hãy hát lên một trong những bài ca của Zion.
Làm sao chúng ta có thể hát được bài ca của Chúa nơi đất khách? Nếu ta quên mi, Hỡi Jerusalem, hãy để bàn tay phải của ta không còn khéo tay.
Nếu ta không nhớ mi, hãy để lưỡi của ta tách khỏi vòm miệng; nếu ta không coi Jerusalem hơn niềm vui chính của ta.
Lạy Chúa, hãy nhớ con cái của Edom trong ngày của Jerusalem. Ai đã bảo, hãy san bằng nó, san bằng cho tới móng của nó.
Ơ con gái Babylon, ai sẽ bị phá hủy; phúc thay người xử với mi như mi đã xử với chúng ta.
Phúc thay người đã bắt và đã ném các con thơ của mi vào đá. (Thánh vịnh 137)
Những câu thơ đầu của thánh vịnh này được trích dẫn phổ biến ở Israel như những diễn cảm về tình yêu và vẻ đẹp, trong khi đoạn thơ khát máu bị khéo bỏ rơi như thứ không thích hợp trong thời hiện đại.
Khi những người Do Thái giạt về Jerusalem, họ sùng kính tàn tích còn lại của đền thờ. Vào thời Ottoman, bức tường còn lại ở phía tây được những du khách phương Tây coi là "Nơi Than khóc" và sau đó được gọi là "Bức
https://thuviensach.vn
tường Than khóc." Các sách hướng dẫn của thế kỷ XIX mô tả cảnh người Do Thái khóc trước công trình bằng đá đồ sộ:
Lạy Chúa, dân ngoại xâm lấn di sản của Người; chúng đã làm nhơ bẩn đền thánh của Người; chúng đã phá Jerusalem thành các đống vụn [. . .] Chúng tôi bị láng giềng thóa mạ, khinh miệt, nhạo cười. Bao lâu nữa, Chúa ơi? Liệu Người giận dữ mãi sao? Chẳng lẽ lòng đố kỵ của Người cháy như lửa? (Thánh vịnh 79: 1,4-5).
Việc biến Palestine thành vùng đất thánh của người Kitô giáo khởi cùng sự trở lại dạo của Hoàng đế Constantine. Sau Công đồng Nicea năm 325, Constantine lao vào chương trình xây thánh đường quy mô lớn ở Palestine. Ông lệnh cho các nhân sĩ của Jerusalem dựng thánh đường trên khu Jesus chịu chết: "với chi phí dồi dào và thoải mái, họ yên tâm hoàn tất công trình vào hạng nguy nga".
Eusebius thuật lại trong cuốn Thân thế của Constantine, nơi Jesus chịu đóng đinh và mai táng, Giám mục thành Caesarea thuộc thế kỷ thứ IV và là người chép biên niên sử của Giáo hội thuở đầu, lúc đầu là đống rác, sau là đền thờ của dân ngoại: "điện thờ tối tăm của những tượng thần vô hồn tới vị thần ô uế mà họ gọi là thần Vệ nữ". Đá và gỗ của ngôi đền ngoại giáo bị phân tán ở những khu xa, như mặt đất đã phủ hang mộ. Khi các công nhân đào xuống, "bên dưới lớp phủ của đất, đã xuất hiện ngay, và ngoài mong đợi, công trình kỷ niệm đáng kính và thiêng liêng về sự phục sinh của Chúa Cứu thế"
Eusebius không ủng hộ truyền thuyết cho rằng Mộ Thánh do mẹ của Constantine là Helena tìm ra. Chuyện kể rằng Helena bỏ đói một giáo sĩ cho tới khi ông ta tìm ra chỗ bí mật của Mộ Thánh. Ba cây thập giá được tìm thấy và, theo các truyền thống khác, cây Thập giá Thật được nhận ra bằng cách dùng nó để dựng đứng một người đã chết hoặc chữa khỏi bệnh một phụ nữ đau bệnh. Người ta còn tin rằng Helena đã xây dựng những thánh đường ở nơi Chúa sinh ra tại Bethlehem và ở chỗ Chúa lên trời trên Núi Olives.
https://thuviensach.vn
Người Do Thái lại bị cấm bén mảng tới thành phố, nhưng Hoàng đế Julian ngoại giáo lên ngôi đã tạm hoãn lại. Việc tái thiết đền thờ Do Thái đã bắt đầu năm 363, nhưng các trình thuật của Kitô giáo viết là nó bị cản trở bởi vụ động đất kỳ lạ làm cháy rụi tòa nhà. Cái chết của Julian đã chấm dứt dự án. Những cuộc hành hương của Kito giáo tới những nơi thánh tăng lên.
Những cuộc chiến giữa Byzantium và Ba Tư đã để quân Ba Tư chiếm Jerusalem năm 614 với sự giúp đỡ của các đồng minh Do Thái. Quân Ba Tư đã phá hủy phần lớn nhà thờ và trong một thời gian ngắn giao thành phố cho người Do Thái, nhưng sau đó trả lại cho người Kito giáo và để cho các nhà thờ được tái thiết. Hoàng đế Byzantium là Heraclius tái chiếm Jerusalem năm 629.
Những cuộc chiến đã làm tiêu hao cả hai đế chế, và trong vòng vài năm cả hai đã rơi vào tay các lực lượng Hồi giáo bùng phát ở Ả Rập. Đối với Hồi giáo, Jerusalem là hướng cầu nguyện (qibla), trước khi các tín đồ Hồi giáo quay về Mecca. Người Hồi giáo chiếm Jerusalem năm 638 một cách bình lặng và kính cẩn, một việc hiếm thấy ở Thành Thánh.
Vua Hồi thứ hai, Omar Ibn al-Khattab, là vị vua ngoan đạo, đã bảo đảm sự tự do tôn giáo và tôn trọng các vùng đất thánh, cho phép 200 gia đình Do Thái định cư ở Jerusalem sau khi họ bị người Byzantine tống khứ. Theo một trình thuật của Ả Rập, Omar được Giáo trưởng Sophronius chào đón và dẫn đi xem các vùng đất thánh. Omar đã từ chối lời mời để cầu nguyện ở Mộ Thánh, "Nếu tôi cầu nguyện ở nhà thờ, tôi sẽ không còn ngai nữa, vì các Tín đồ sẽ nắm ngay việc này và bảo: Omar đã cầu nguyện ở đó"
Sau đó ông được dẫn đi xem Temple Mount, "thánh đường Hồi giáo của David" như ông đã gọi nó, nhưng ông bị choáng khi thấy nó đã bị người Kitô giáo biến thành đống phân. Rác chất đống giữa đường cho tới cửa, buộc ông phải lê bước để tới nền đền thờ. Omar làm gương bằng cách phủi rác dính vào áo lông lạc đà của ông. Theo một nhà biên niên sử, ông đã chủ
https://thuviensach.vn
tâm lệnh để xây nhà thờ Hồi giáo al-Aqsa đầu tiên ở cuối nền phía nam để các tín đồ Hồi giáo chỉ quay mặt về Mecca hơn là quay mặt cả về Mecca và tảng đá nhô ra từ gần giữa nền. Al- Shakhra, hay "Tảng đá" được coi là điểm xuất phát cho chuyến Dạ Du của Tiên tri Muhammad, trong khi đối với nhiều người Do Thái và Kito giáo nó hầu như là khu dâng lễ hy tế của Abraham và là khu Thánh điện của đền thờ Do Thái. Khu liên hợp của các nhà thờ và điện thờ Hồi giáo trên nền cũ của đền thờ được gọi là Haram al Sharif, nơi Tôn nghiêm Đáng kính.
Vòm Đá, kiệt tác kiến trúc của Hồi giáo, được dựng lện để cất giữ tảng đá năm 691. Nó vẫn là đài kỷ niệm đặc trưng và đẹp ở Jerusalem, dù xem chừng chỉ là công trình phụ của nhà thờ Al-Aqsa. Cấu trúc hình học của vòm chịu trên cái trống bát giác nhằm biểu tượng cho sự chuyển tiếp từ đất tới trời, gợi ý xa là chính cõi thiên đàng. Tòa nhà còn là biểu tượng của Hồi giáo là tôn giáo thay thế các tôn giáo trước, phù hợp với sự khép lại của Do Thái và khiển trách những sai lầm về giáo điều của Kitô giáo trong các câu của kinh Coran trang trí điện thờ.
Dân của Sách, đừng vượt quá giới hạn của tôn giáo của bạn. Chớ nói gì ngoài sự thật về Allah. Đấng Cứu thế, Jesus, con của Maria, chẳng khác nào tông đồ của Allah và Lời của Ngài cùng các tông đồ của Ngài và đừng bảo: “Ba” Đừng đề cập, và nó sẽ tốt hơn cho bạn. Allah chỉ là Chúa duy nhất. Allah ngăn cấm chuyện Người nên có một người con! (4: 171)
Fatimid Caliph Al-Hakim thất thường, dù được sinh ra bởi người mẹ là Kito giáo, đã cắt đứt quan hệ với truyền thống khoan hòa của Hồi giáo đối với "Dân của Sách" như các tín đồ Hồi giáo gọi những người Do Thái và Kito giáo, bằng cách ra lệnh phá hủy Mộ Thánh năm 1009. Những kẻ tàn phá đã tấn công mộ đá đáng kính của Đức Kito cho tới khi sự đổ nát phủ kín tàn tích xoàng xĩnh. Al-Hakim cố ép người Do Thái và Kito giáo cải đạo theo Hồi giáo. Ông đã sớm đóng các nhánh sông kể cả với các tín đồ Hồi giáo, bằng việc xác quyết là hiện thân thần thánh và tên của ông thay
https://thuviensach.vn
thế tên của Chúa trong những lời kinh ngày thứ Sáu. Giữa những cuộc dấy loạn của Hồi giáo, các chỉ dụ chống Do Thái và Kito hữu được giơ lên ngay lúc họ bị bắt. Các tín đồ Hồi giáo bị cấm ăn chay vào tháng Chay hoặc hành hương tới Mecca. Al-Hakim chìm vào cơn điên loạn, và một tối kia năm 1021 đã một mình ra khỏi Cairo và chẳng bao giờ thấy lại nữa. Họ tin rằng nhà vua không chết nhưng được cất lên Thiên đàng. Mộ Thánh được phục chế bằng ngân sách của hoàng đế Byzantium nhưng có kích thước nhỏ hơn nhiều. Hoàng cung và cửa nẻo chính của Constantine bị bỏ phế.
Với lời hô hào của "Ý Chúa" các Kitô hữu tập hợp lại theo lời kêu gọi của Giáo hoàng Urban II năm 1095 tiến hành cuộc thập tự chinh để giải phóng Đất Thánh khỏi tay quân Hồi giáo "vô đạo". Đạo quân lữ hành và hiệp sĩ đã tới, chống lại tất cả những gì là kỳ quặc, các cổng thành Jerusalem năm 1099 và đã chiếm thành phố cùng với việc thảm sát các cư dân Hồi giáo và Do Thái. Nhà biên niên sử đương thời Fulcher of Chartres đã mô tả cuộc tàn sát:
Trên đỉnh Đền thờ của Solomon, họ đã trèo lên để trốn thoát, nhiều người bị bắn bằng tên cho tới chết, nằm sõng soài đầu chúc xuống. Trong ngôi đền này có đến mười ngàn người bị chặt đầu. Nếu bạn có mặt ở đó, bàn chân của bạn sẽ ngập máu tới mắt cá chân. Tôi phải nói gì thêm nhỉ? Không kẻ nào được sống sót. Họ giết bất kể đấy là phụ nữ hay trẻ em.
Sự tàn sát của những cuộc thập tự chinh mãi mãi gây ra căm thù giữa Hồi giáo và Kito giáo. Sự cuồng tín đã nhen lại ý tưởng thánh chiến(jihad) nơi các tín đồ Hồi giáo. Quân thập tự chinh biến vòm đá thành nhà thờ, trong khi thánh đường Al-Aqsa lớn hơn gần đó biến thành dinh thự của chúa tể quân Thập tự chinh của Jerusalem, rồi trở thành bộ chỉ huy, được gọi là Templars.
Salah al-Din, ở phương Tây quen gọi là Saladin, kẻ thù của Kichard Dũng cảm, đã làm kiệt quệ quân Thập tự chinh trong trận Hattin năm 1187 và chiếm lại Jerusalem. Không như quân Thập tự chinh, quân Hồi giáo
https://thuviensach.vn
không hề giết chóc hay cướp bóc. Phần lớn Kito hữu được trả tự do hoặc được chuộc lại. Những kẻ không được chuộc lại sẽ bị bán làm nô lệ. Saldin tái cung hiến Vòm Đá và thánh đường Al-Aqsa, và Mộ Thánh đuợc mở ra cho các khách hành hương.
Đến hơn tám thế kỷ, mặc cho nhiều xáo trộn, Jerusalem vẫn nằm dưới sự thống trị của Hồi giáo. Rồi, vào cuối năm 1917, quân Thổ Nhĩ Kỳ đã rút khi chạm mặt với quân Anh tiến lên từ Ai Cập. Ngày 9 tháng Chín, thị trưởng cao niên của Jerusalem, Hussein Bey al-Husseni, bỏ bệnh viện và tiến hành giao nộp thành phố. Ông đã thấy hai người lính hoảng hốt đang lục lọi hàng tiếp tế. Họ cảnh báo hai sĩ quan cảnh sát, những sĩ quan này lại đi tìm ông ta. Cuộc tìm kiếm mất khá lâu, và như người ta nói, vị thị trưởng này bị cơn cảm lạnh và chết vì viêm phổi sau đó ba tuần.
★
Địa hình thánh thiêng của Jerusalem hầu như không đổi từ thời Saladin. Hồi giáo ở Haram al-Sharif, Do Thái ở bên ngoài bức tường còn lại, còn Kito giáo ở khu Mộ Thánh. Nhưng bên trong các ranh giới này có nhiều cơ hội để xung đột nhau.
Mối thù kinh niên giữa những giáo phái Kito giáo ở Mộ Thánh bảo đảm là các chìa khóa vào nhà thờ cho đến nay vẫn nằm trong tay các lính gác Hồi giáo, được cắt đặt ít nhất từ thời của Saladin. Người ta thường thấy Wajeed Nusseibeh ngồi trên chiếc ghế dài bằng gỗ, trông thoáng buồn, ở lối vào nhà thờ. Ông ta chờ được người ta hỏi để được hướng dẫn đi tham quan. Mỗi tối vào lúc tám giờ, ông ta hay một trong những đại diện của ông ta kéo những tấm đôi bằng gỗ nặng nề, leo lên cái thang để buộc chặt những cái xích sắt nặng qua cửa rồi đưa cái thang qua cái cửa sổ nhỏ cho các tu sĩ bên trong đó. Họ bị nhốt cho tới khi nó được mở lại vào sáng hôm sau. Đó là một vai trò lỗi thời hơn tám thập niên sau khi chấm dứt sự thống trị của Hồi giáo ở Palestine. "Nếu người Hy Lạp hay người La Tinh có chìa khóa
https://thuviensach.vn
hẳn đã có vấn đề. Nó có nghĩa là nhà thờ được một hay giáo phái khác sở hữu. Đơn giản hơn là giao nó cho một tín đồ Hồi giáo trung lập", Nusseibeh đã phân trần thế".Các tín đồ Hồi giáo chấp nhận Jesus là tiên tri và tôn trọng Kitô giáo. Tiên tri Muhammad của chúng ta có khi còn cưới một phụ nữ Kitô giáo".
Nusseibeh nói, trách nhiệm bảo vệ được giao cho các tổ tiên của ông ta, những người đã hộ tống Vua Omar tới Jerusalem. Thế nhưng, sau này công việc được chia giữa nhà Nusseibeh và một gia đình Hồi giáo khác, nhà Judeh, có lẽ sau khi Saladin tái chiếm thành phố. Giờ thì nhà Judeh giữ các chìa khóa cổng vào và hàng ngày giao chúng cho nhà Nusseibeh, những người giữ nhiệm vụ mở và đóng cửa. Abdel-Kader Judeh, người được cho là con cháu trực hệ của chính Tiên tri Muhammad, tự hào nói, "'Tôi giữ chìa khóa nhân danh vua Hồi."
Các giáo hội nói rằng họ cho phép các lính canh duy trì như thế như một chút gì là phong tục tập quán. Nhưng họ biết rằng bất kỳ nỗ lực nào để giành lại chìa khóa có thể làm xói mòn cơ cấu tinh tế của hiện trạng, bộ luật không làm đóng băng sự cân bằng quyền lực trong phạm vi khu vực đáng kính trong hoàn cảnh của năm 1757. Bộ luật phức tạp và không đúng đến vô lý của Ottoman có ý dành quyền và sự ưu tiên của mỗi cộng đồng và quyền sở hữu của một thành phần của nhà thờ, cho tới cái chân đèn cuối cùng, và cái đinh sét gỉ. Thế nhưng không nhà cai trị nào sau này-Anh, Jordan, hay Israel-dám can thiệp vào hiện trạng vì sợ gây ra sự xáo trộn tôn giáo.
Năm 1929, giới chức cai quản Anh đã buồn bã mô tả "tinh thần bất tín và ngờ vực cùng thái độ cố chấp trong mọi vấn đề". Ông đã phân trần: "quyền sửa chữa mái hay nền ngầm ý là quyền dành cho những người sở hữu những phần ấy. Còn quyền treo và thay đèn hoặc hình ảnh dành riêng
https://thuviensach.vn
cho những người sở hữu cột và tường. Quyền của những cộng đồng khác là dâng hương gian thờ thì không thuộc quyền sở hữu tuyệt đối.
Theo chính tính chất của nó, hiện trạng đòi phải luôn tái khẳng định quyền của mỗi cộng đồng, và mãi phải canh chừng sự vi phạm của cộng đồng khác. Sự ưu tiên, một khi bị mất đi, có thể chẳng bao giờ phục hồi.
Những tranh luận này đã có thời là chuyện tầm xằng của ngành ngoại giao quốc tế. Việc tranh giành quyền hành giữa Pháp và Nga để chiếm ưu thế nhà thờ và các vùng đất thánh khác đã là nhân tố làm bùng phát cuộc Chiến Crimean năm 1853. Những căng thẳng hiện nay được kiểm soát tốt hơn, nhưng đấy có thể chỉ là bề mặt. Những bài thánh ca tiếng La Tinh nghe chói tai, những bài kinh bằng tiếng Copt xa xưa, những lời cầu huyền bí bằng tiếng Ả Rập và chùm chuông Hy Lạp còn ngân vang như những dấu hiệu chiến tranh bộ tộc. Đầu thập niên 1990, các tu sĩ Hy Lạp và Armenia đã bất chợt đến Nhà thờ nơi Chúa sinh ra ở Bethlehem vì tranh cãi xem ai phải lau chùi rầm đỡ.
Sự thù địch còn có nghĩa là sự phục hồi Mộ Thánh, bị tổn hại bởi cháy năm 1808 và động đất năm 1972, đã bị gây chậm trễ. Vòm trên mộ, được thiết kế để nhận tia sáng trong lành từ trung tâm của nó như ở đền Bách thần Roma, bị hỏng bởi giàn giáo cả trên hai thập niên cho đến khi các bên đồng ý cách phải trang trí thế nào. Các hình tượng, các tiểu thiên sứ, và các thể khảm bị bên này hay bên kia loại bỏ, và cuối cùng các bên đã ổn định để các tia vàng trung tính. Những rầm nhà gắn với nhau quanh mồ, được gọi là Edicule, vẫn ở đúng chỗ từ những ngày người Anh còn cai trị vì những bất đồng về cách phục hồi nó.
Hai lính gác Hồi giáo vẫn khéo léo nín thinh trước những tranh cãi của các Kito hữu, nhưng không yên lặng trước điều mà họa sĩ thời Victoria, Edward Lear, gọi đấy là "chất độc của những kẻ hay tranh cãi về Jerusalem".Abdel-Kader Judeh tin tước hiệu mà ông ta mang là vinh dự to
https://thuviensach.vn
lớn hơn".Ông cho thấy, "Gia đình tôi có chìa khóa nhân danh vua Hồi. Nhưng nhà Nusseibeh bắt bẻ lại là, "Không có chúng tôi thì không ai có thể vào nhà thờ".
Sự can thiệp của người châu Âu vào nhà thờ về đủ thứ nhưng rồi biến mất. Thay vào đó, kế hoạch của quốc tế đã kéo người Ả Rập vào những cuộc đấu tranh quyền lực để tạo ảnh hưởng ở Haram al-Sharif. Sự thù nghịch chính là giữa lãnh tụ Palestine Yasser Arafat và Vua Hussein đã quá cố của Jordan. Cả những người khác cũng đóng vai trò quan trọng đối với điện thờ, như vị vua quá cố Hassan của Maroc, từ lâu đã đứng đầu Hội đồng Jerusalem của Liên minh Ả Rập, và Vua Fahd của Ả Rập Saudi, đã là người trông coi Hai Nơi Thánh, Mecca và Medina.
Những đố kỵ này trở nên rõ ràng vào năm 1991 về vấn đề cần sửa gấp Vòm Đá, sau đợt phục chế vụng về năm 1964. Vòm, được làm bằng những lá vàng với nhôm được anode hóa, bị rỉ ngay từ lúc đầu, gây nguy hiểm cấu trúc và thể khảm bên dưới. Cuối cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1991, Saudi Arabia chịu chi trả việc phục chế, thúc giục Vua Hussein, người bảo vệ tự bổ nhiệm của các điện thờ Hồi giáo ở Jerusalem, để bán một biệt thự ở Anh gây quỹ hầu Jordan bảo đảm có được vinh dự này. Một mái vòm mới lộng lẫy đã được khánh thành năm 1994, làm bằng những tấm đồng mạ vàng 24 carat. Những người phục chế thừa nhận rằng cho tới thập niên 1960 vòm đã được làm bằng chì mờ đục. Nhưng lúc ấy vàng đã trở thành màu được chính thức hóa, biểu tượng sáng ngời chỉ sự hiện diện của Hồi giáo. Cả người Irael cũng đã liên tưởng Vòm Đá với vàng qua bài ca "Jerusalem bằng Vàng."
Cùng với trách nhiệm bảo vệ điện thờ, Vua Hussein đã hướng sự oán giận của những người theo chủ nghĩa dân tộc Palestine, hiếm khi thông cảm với thế đứng ôn hòa của triều đại Hashemite trong cuộc xung đột Ả Rập Israel. Hai câu khắc trên cẩm thạch tán dương công trình phục chế của Vua
https://thuviensach.vn
Hussein bị dập phá, trong khi lãnh tụ Palestine Yasser Arafat đã áp đặt thành công việc chọn lựa giáo sĩ Hồi giáo của riêng ông, uy quyền tôn giáo tối cao của Hồi giáo, trên cả người được bổ nhiệm của Jordan. Khi còn là cậu bé năm 1951, Vua Hussein đã chứng kiến cảnh giết chết ông nội của ông, Vua Abdallah, bởi tay súng đơn thân độc mã ở lối vào nhà thờ Al Aqsa, nơi người ta còn thấy lỗ đạn trên một trong những cây cột cẩm thạch trắng bóng.
Về phần của nó, Bức tường Than khóc không thoát khỏi sự tranh cãi ngay cả dưới sự cai trị của Israel. Nguồn xung đột liên tục giữa tín đồ Hồi giáo và Do Thái lúc còn nằm dưới quyền ủy thác của Anh, giờ là chủ đề trang giành quyền lực giữa các giáo sĩ Chính thống, những người trông coi việc thờ phượng ở bờ tường, và những nguồn tự do hơn cố cắt ra một nơi riêng làm điện thờ thánh thiêng nhất của Do Thái giáo. Những cuộc giao tranh nổ ra đều đều giữa những người chính thống cực đoan đầy phẫn nộ với các kẻ thù của họ, từ những phụ nữ đòi quyền cầu nguyện ngang hàng tới những người Do Thái Cải cách và Bảo thủ đòi quyền phượng tự ở bờ tường.
Khu phụ nữ bị phân cách bởi tấm màn khỏi khu đàn ông. Nhưng theo luật tôn giáo, phụ nữ phải che kín cánh tay và cẳng chân, không được đọc các cuộn sách Torah, và không được cất lời cầu nguyện vì, theo truyền thông Do Thái, "giọng của phụ nữ thì khiếm nhã". Nhiều cuộc xô xát đã diễn ra ở đây giữa các phụ nữ đòi quyền bình đẳng, những người Do Thái Bảo thủ với nhóm chính thống.
★
Sức mạnh thánh xuất phát từ Jerusalem làm oằn vũ trụ theo những cách lạ thường còn hơn lỗ đen.
https://thuviensach.vn
Một số nhà hiền triết Do Thái nói Tảng Đá Móng (Even Shetiyah) là nền của thế giới, cột trụ của vũ trụ. Theo truyền thống Do Thái thì đấy là trung tâm Thế giới. (Các Kito hữu đặt điểm trung tâm ở giữa Đền thờ thuộc khu Mộ Thánh). Các nhà hiền triết bảo rằng Tảng Đá Móng được Chúa ném vào các vùng nước nguyên sinh và thế giới phát sinh từ đó. Đối với những người khác, tảng đá là "cái rốn" từ đó thế giới lớn lên như cái phôi. Một truyền thông Do Thái cho rằng thế giới tựa trên con cá voi có tảng đá ở giữa lưng của nó. Một trình thuật Hồi giáo xác quyết rằng mọi "con sông và mây trời, hơi nước và gió phát xuất từ dưới Tảng Đá Thánh ở Jerusalem".
Các tín đồ Hồi giáo bảo rằng tảng đá được lấy từ Vườn Eden và theo một tường thuật, Ka'bah thánh ở Mecca sẽ được nối với nó vào ngày Sống lại. Ngày nay, du khách được chỉ cho thấy vết lõm là dấu chân của Muhammad để lại, những đường xoi rạch trên tảng đá là của thiên thần Gabriel tạo nên để nó ngừng vươn lên tới Thiên đàng với Đấng Tiên tri, và hòm đựng thánh tích chứa những sợi râu của Muhammad. Những người hành hương Kitô giáo trong các cuộc Thập tự chinh cũng thuật lại điều tương tự là thấy dấu chân của Jesus. Một truyền thống khác cho rằng lỗ ở cái hang bên dưới Al-Sakhra trong Vòm Đá dẫn tới "cái Giếng của các Linh hồn", chính là Địa ngục.
Ở Mộ Thánh, ô cửa kính cho thấy đá của Golgotha tung tóe cách xa nhau bởi cơn địa chấn lúc Jesus chịu đóng đinh. Một số truyền thuyết kể rằng sọ của Adam bị chôn vùi với nó, ngõ hầu máu cứu chuộc của Jesus thấm qua nó và đem Adam lại với sự sống. Một du khách hồi thế kỷ thứ VI
kể lại rằng khi Thập giá Thật được đưa vào thờ trong đền thờ, "một ngôi sao xuất hiện trên bầu trời, và băng qua chỗ họ đặt cây thập giá". Những bình dầu nhỏ được đem tới làm phép, và khi chúng đụng tới gỗ, "dầu liền sủi bọt mà nếu không đóng vội vào thì nó sẽ trào ra hết".
https://thuviensach.vn
Bức Tường phía Tây, Ha-Kotel ha-Ma'aravi hay gọi đơn giản là Kotel, được cho là nhà vĩnh cửu của Shekhinah, hiện thân như phụ nữ về sự hiện diện của thần thánh. Vào ngày thứ Chín của tháng Av, người ta bảo rằng một con câu trắng đậu trên bức tường và khóc vì sự tàn phá đền thờ. Gần đây vào năm 1940, khi Đức Quốc xã đang giết hại người Do Thái ở châu Âu, người ta kể rằng những giọt lệ đã rỉ ra từ Kotel.
Những nơi tôn kính không tôn trọng các quy luật tự nhiên. Điện thờ thánh thiêng nhất ở đạo Do Thái bắt đầu sự sống là bức tường phía đông, rồi chuyển qua bức tường phía nam và cuối cùng tới trụ ở Bức Tường phía Tây ngày nay, Al-Buraq, chiến mã của Tiên tri Muhammad đã đưa ông tới Jerusalem trong cuộc Dạ Du, hình như là con thú hiếu động. Một nghiên cứu của Irael xác nhận rằng bức tường nơi ông bước xuống cũng đã quay vòng. Giờ nó được quy định ở Bức Tường phía Tây để phủ nhận chuyện người Do Thái xác quyết đây là khu vực dành riêng.
Đối với các Kitô hữu, bàn thờ dâng hy lễ của Abraham có lúc được đổi chỗ tới Mộ Thánh, chỉ quay lại Vòm Đá sau này. Qua các thế kỷ, Đàng Thánh giá đã dùng nhiều ngả đường băng qua thành phố. Via Dolorosa hiện nay được những người hành hương bước trên đó ít có liên quan với những bước chân sau cùng của Jesus trước khi chịu đóng đinh. Các nhà khảo cổ tin rằng Đức Kitô không đến từ phía đông tới Calvary, như Via Doloroasa hiện nay thừa nhận, nhưng có lẽ từ phía tây.
Vị giáo sĩ thần bí thế kỷ thứ VII Abraham Azulai quả quyết rằng một loại lỗ không khí trong lành linh thiêng đã mở vào các khu Thiên đàng bên trên Jerusalem và Palestine để lực thần thánh của Chúa đi qua. Kết quả là, Jerusalem rất phù hợp cho việc tiên tri. Thành phố có một đường dây nóng tới Thiên đàng. Các nhà hiền triết Do Thái đã ví nó như lời nguyện trực tiếp trước ngai Chúa. Đối với các tín đồ Hồi giáo, lời nguyện ở Jerusalem có giá trị bằng 500 lần nơi khác. Những khách hành hương Kitô giáo thời Trung
https://thuviensach.vn
cổ tin rằng việc cầu nguyện ở các đền thánh tại Jerusalem giành cho tội đồ sự ân xá kéo dài suốt đời.
Ngày nay người Do Thái ít tới cầu kinh ở Bức Tường phía Tây. Có khi bạn có thể đánh fax hay gửi e-mail lời cầu nguyện tới Kotel từ hải ngoại, và các giáo sĩ hứa sẽ thật cẩn trọng đặt các thông điệp giữa các tảng đá lớn của Herod.
Thời gian làm nên những điều lạ thường ở Jerusalem. Ngày ăn chay của Hồi giáo trong tháng Ramadan, theo truyền thống được đặt theo thời biểu của người Jordan, giờ tùy thuộc vào những thất thường của các tương quan nước ngoài của người Palestine, đôi khi cần lễ hội được sắp xếp với dịp trăng mới của Saudi Arabia
Khi Israel thay đổi giờ giấc tới lui vào mùa hè, người Palestine vặn đồng hồ theo ngày khác nhau để tỏ ra sự độc lập. Ngày nghỉ lễ cũng thế, giữa hai dân tộc cũng khác nhau. Khách hành hương phải chỉnh giờ giấc tùy theo mình đang ở khu vực nào.
Chẳng lạ gì khi mà Jerusalem được phú cho rất nhiều nơi cầu nguyện. Một bá tước thấy rằng năm 1994 có 1.072 hội đường Do Thái, 59 nhà thờ Hồi giáo, 65 thánh đường và 72 tu viện. Vào bất kỳ lúc nào, một số phần đất của Jerusalem diễn ra nào là đang làm việc, nghỉ ngơi, xung đột hoặc đang cầu nguyện. Thi sĩ quá cố Israel là Yehuda Amichai đã viết, "Bầu khí khắp Jerusalem được bão hòa với những lời kinh và giấc mơ. Giống như bầu khí ở các thành phố công nghiệp thật ngột ngạt".
Trong mọi lời kinh của Do Thái, Hồi giáo, và Kito giáo đều thỉnh cầu sự hòa bình và châm dứt bằng từ "Amen" nghĩa là "Chờ gì được như vậy."
★
https://thuviensach.vn
Mùa xuân là thời gian thật rộn ràng khi niềm say mê tôn giáo được đánh thức theo tự nhiên. Vào mùa này tai của Chúa chắc phải chịu căng thẳng vì những lời cầu xin với biết bao lễ hội pha tạp: Lễ Vượt qua, lễ Phục sinh, và lễ hội hành hương của tín đồ Hồi giáo rơi vào các tuần, thường là các ngày, của nhau. Ngay cả cộng đồng nhỏ xíu Samarita cũng túa ra mừng hy lễ Vượt qua về đêm trên đỉnh núi Gerizim lộng gió.
Những hoạt động kỷ niệm này được kết nối rất mật thiết, nhưng thường chủ tâm đối lập nhau. Lễ Phục sinh mở ra từ lễ Vượt qua với thông diệp mà lời giảng dạy và cái chết của Jesus thay thế tôn giáo của Cựu ước. Cuộc hành hương Nebi Musa của Hồi giáo từ Jerusalem tới khu mộ nổi tiếng của Moses trong sa mạc được lập ra để đem lại cho tín đồ Hồi giáo sự đối trọng với các Kito hữu đang đầy ắp Jerusalem vào lễ Vượt qua, rõ ràng thách thức niềm tin Do thái mà các hy lễ có thể diễn ra chỉ khi nào đền thờ được xây lại. Các tín đồ Hồi giáo cũng tế lễ các con vật. Id al-Adha tưởng niệm sự sẵn sàng của Abraham để hiến tế con trai của mình, không phải Isaac như Do Thái xác nhận mà là Ishmael, và không phải ở Jerusalem mà ở Mecca. Mỗi tôn giáo là một phản ảnh lệch lạc của các tôn giáo khác, như thể người ta thấy được bãi họp chợ phiên trong các tấm gương. Ở một số nơi người ta có thể nhận ra các nét đặc trưng, những nơi khác chúng bị lạm dụng một cách lố bịch trong khi những phần khác lại thu lại cho tới khi chúng hầu như biến mất.
Ngài Ronald Storrs, thủ hiến quân sự đầu tiên của Anh ở Jerusalem, đã mô tả nỗi khiếp sợ của những nhà cai trị mới khi chờ đợi lễ Phục sinh đầu năm 1918:
Tuần lễ phục sinh, đỉnh cao của năm Kito giáo, hầu như là mùa khắp thế giới khi, nếu chỉ kéo dài ba ngày, cái chết của sự xung đột trở thành thắng lợi của hòa bình. Lễ Phục sinh ở Đất Thánh, và hầu như ở khắp Thành Thánh, đã có nghĩa là để các thế hệ mài sắc những con dao găm và tăng gấp ba quân số [. . .] Ba sự kiện nổi trội này [Lễ Vượt qua, Phục sinh, và Nebi Musa] của ba tôn giáo, tụ hội ở Jerusalem,
https://thuviensach.vn
cùng với những người thật sự ngoan đạo, những đoàn lũ chính trị và tội phạm hỗn loạn, trong chính cơn khủng hoảng của mùa Xuân Phục sinh.
Mùa lễ hội tôn giáo vẫn còn, dưới sự cai trị của Israel, thời cảnh giác cao. Hàng cảnh sát trật tự chia Jerusalem từ Bờ Tây được tăng cường. Các cư dân của Bờ Tây thường được giữ ở bên ngoài Jerusalem hết lễ Vượt qua. Trong cuốn Nhà nước Do Thái, Herlz đã hình dung nước Do Thái bố trí lính gác vào dịp lễ quanh các vùng đất thánh của Kito giáo. “Đội lính gác danh dự này là biểu tượng đặc biệt của giải pháp cho vấn đề Do Thái sau mười tám thế kỷ sự chịu đựng của Do Thái”. Ông không đề cập tới những khu Hồi giáo. Trong nước Do Thái hiện đại, lực lượng an ninh làm nhiệm vụ canh phòng hơn là danh dự ở những nơi tôn nghiêm thánh thiêng. Họ không mặc quân phục nhưng mặc áo chống đạn; binh lính không giương cao các tiêu chuẩn nghi thức nhưng lăm lăm cây dùi cui, súng phòng hơi cay, và súng trường.
Jerusalem được ních đầy đủ tộc người. Từ bốn phương trời các Kito hữu lũ lượt kéo về: Người Nga, người Cypriot, người Indonesia, người Mỹ, và nhiều nữa. Lễ Vượt qua là mùa hành hương chính của người Do Thái, họ để vào thành phố từ khắp Israel và Diaspora. Các tín đồ Hồi giáo xem chừng có ý nghĩ đúng: họ đi ra khỏi thành phố- đến chỗ thoáng mát của những ngọn đồi của Nebi Musa.
Mỗi nhóm chỉ thấy Jerusalem là của riêng. Người Do Thái hát vang trên đường tới Bức Tường phía Tây lòng dạt dào niềm kiêu hãnh khi thấy các màu sắc Israel tung bay từ các tòa nhà. Các Kito hữu lê bước lên Via Dolorosa, hát những bài thánh ca qua khu chợ của Hồi giáo và sấp mình ở Calvary lòng đầy những mường tượng về Jesus. Một số người diễn lại cảnh Thương khó ăn mặc như binh lính Roma đeo những thanh gươm bằng nhựa dẻo, và trố mắt nhìn Jesus vác thập giá với dòng phẩm đỏ từ mạo gai của Ngài. Một phụ nữ hét to vào những chủ cửa hiệu người Ả Rập đang bối rối: "Hãy xem điều các người làm cho ngài. Tại sao các người làm điều đó?"
https://thuviensach.vn
Suốt các lễ hội mùa xuân ở Jerusalem, người ta thấy cách đạo Do Thái, Kito giáo, và Hồi giáo, tất các các tôn giáo độc thần quan niệm Thiên Chúa là hữu thể tinh thần tối cao đã duy trì sự gắn bó thực hoặc tượng trưng với hình thức thờ phượng thuở ban đầu: dâng của lễ là thú vật. Biểu tượng con chiên vượt qua ở bàn ăn lễ Vượt qua, khái niệm về chính Jesus là hy lễ cao trọng nhất cho Thiên Chúa, việc người Samarita cắt cổ con vật trên Núi Gerizim và tại nhà của các tín đồ Hồi giáo ở Id al- Adha -tất cả những điều này nhắc nhớ khái niệm xa xưa là ân huệ của Chúa về sự sống phải được trả bằng giá máu.
Vào những ngày này, hàng mười ngàn con vật bị giết. Một trình thuật của người Roma được trích bởi nhà văn Do Thái thế kỷ XV, Solomon ibn Verga, thuật lại là quá nhiều thú vật được đưa vào Jerusalem đến nỗi "cỏ không dài kịp và mọi thứ biến thành trắng vì màu trắng của lông cừu".
Sự hành hung theo lễ nghi này thì khó hòa hợp với khái niệm đơn giản về Chúa duy nhất: Chúa là một, nhưng con người sáng chế ra nhiều tôn giáo.
★
Lễ Vượt qua ở Jerusalem là thời gian gây hoang mang cho những người nước ngoài không quen. Lễ hội kéo dài cả tuần ăn Bánh Không Men để tưởng niệm cuộc xuất hành của Con cái Israel khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập
và lập nên nhà Israel là một dân tộc riêng. Nó cũng là lễ theo luật ăn chay khó hiểu của Do Thái.
Israel sống theo nhịp sống riêng của lịch Do Thái. Lễ Giáng sinh không có, ngày Đầu Năm của phương Tây là ngày bình thường không tiệc tùng say sưa. Các ngày lễ của họ liên tiếp nhau không ngớt vào mùa thu.
Lễ Vượt qua là biến cố của quốc gia, bao hàm tất cả. Các kệ của siêu thị bỗng nhiên được bao trong những miếng giấy lớn để che hết các sản
https://thuviensach.vn
phẩm bị nghi là chứa men (hametz). Nghĩa là hầu như mọi thứ: không có mì, bánh quy, bánh bao, bột mì, các loại ngũ cốc ăn điểm tâm, bánh quy giòn, bánh sừng bò. Trong các gia đình có đạo, ngay cả gia súc cũng ăn những thứ không men. Mọi sản phẩm được dán tem có hàng chữ "đồ ăn dùng cho lễ Vượt qua" (kasher le-pessach). Người nước ngoài muốn mua chỉ có nước lén xé góc tờ giấy báo bên ngoài lấy hàng rồi ra quầy thanh toán.
Hàng ngàn người tới Sinai, nơi Moses và dân Israel lang thang trong hoang mạc bốn mươi năm trước khi đến vùng Đất Hứa.
Sau một ngày ních đầy bánh không men, tôi quay lại khách sạn năm sao Vua David để gọi rượu gin và nước khoáng pha hương vị quinin, nhưng người hầu bàn nói, "Xin lỗi, thưa ông. Đang lễ Vượt qua".
Lệnh ăn bánh không men được ghi trong Sách Xuất hành: “Các ngươi phải ăn bánh không men bảy ngày; ngay ngày đầu các ngươi phải loại bỏ men khỏi nhà của các ngươi; vì ai ăn bánh có men từ ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy sẽ bị loại ra khỏi Israel”. (Exod. 12:15). Đơn giản là: không có bánh có men trong một tuần.
Bột nhào có men được xác định là bột của năm loại ngũ cốc: lúa mì, lúa mạch, lúa mì spenta, lúa mạch đen, và yến mạch-được hòa với nước lâu, quãng 18 phút. Nhưng vì nguy cơ có thể một người Do Thái phạm tội do tình cờ, các giáo sĩ đã tạo ra khoản gần gũi nhất trong luật Do Thái làm pháo đài vững chắc. Trước hết, các giáo sĩ khai triển định nghĩa về men bao gồm cả gạo, kê, các loại đậu, đậu lăng, ngô, và lạc, mà nếu có giọt nước nhỏ vào túi bột của những thứ ấy thì không hẳn là bị nhiễm men rồi. Rồi, bất kỳ sản phẩm ngũ cốc nào không được giám sát kỹ và bảo đảm là bánh không men đều bị cấm. Trong các văn bản của giáo sĩ, men trở thành ẩn dụ của sự hư nát và ô uế, khái niệm được các soạn giả Tân ước diễn giải "men của ác tâm và đồi bại".
https://thuviensach.vn
Loại trói buộc nhiều tầng luật này là mối dây quan trọng của rào chắn tôn giáo mà các giáo sĩ thấy rằng phải dựng lên để giữ cho "Israel tách khỏi dân ngoại". Thế nhưng, nỗ lực bảo toàn luật và bản sắc Do Thái lại tạo ra một số vấn đề. Chẳng hạn, một năm giáo sĩ được kêu gọi thành tâm không uống nước máy vào dịp lễ Vượt qua vì người Ả Rập thả bánh sandwich xuống Biển Galilee, hồ nước của Israel hẳn là nhiễm thứ men ấy.
Các nhà sản xuất cho thấy tài làm ra đủ thứ sản phẩm là "đồ ăn dùng cho lễ Vượt qua" nhưng trông chẳng khác những sản phẩm có men; và đó cũng là phương sách để những người không phải Do Thái mua bán mà không thắc mắc gì.
★
Bữa ăn lễ Vượt qua là dịp hội họp gia đình quan trọng nhất theo lịch Do Thái. Đó là thời gian người Do Thái cùng nhau tái xác định bản sắc của họ. Nghi thức của bữa ăn, từ mỗi miếng thực phẩm, mỗi bài ca và tụng ca, là hành động biểu tượng, cột trụ trong dinh thự ký ức được thể chế hóa đã bảo tồn người Do Thái qua các thế kỷ. Nuôi dưỡng ký ức về quá vãng là công việc hàng ngày của người Do Thái.
Vượt qua được giả định là kỷ niệm của sự tự do, nhưng hay hơn là nó được coi là kỷ niệm của sự tồn tại. Sách Haggadah-trình thuật câu chuyện Xuất hành, lời hứa của Chúa về Đất Canaan, phúc lành của Người và tai họa mà Người giáng lên Pharaoh, việc ngâm vịnh các thánh thi và hát các bài ca tạ ơn-qua nhiều thế kỷ vẫn không thay đổi. Nó không chỉ là giáo lý mà còn là lịch sử của tổ tiên; người Do Thái cảm thấy họ là huyết thống trực tiếp của bộ tộc thuộc Israel, những người trốn khỏi Ai Cập, và thuộc về Abraham, Isaac, và Jacob. Haggadah viết: "Mỗi thế hệ, bổn phận của con người là nghĩ mình là một trong những người đã thoát khỏi Ai Cập".
https://thuviensach.vn
Việc mừng lễ Vượt qua ở Jerusalem có một tiếng vang khác thường. Bao thế kỷ, trong các cộng đồng rải rác từ Nam Mỹ tới Trung Hoa, người Do Thái chỉ mừng sự cứu thoát của quá khứ nhưng cũng cầu xin cho người Do Thái sớm phục hồi ở Đất Hứa, bằng những lời của sách Haggadah:
Lạy Đấng Duy nhất ngự trên Trời, xin nuôi nấng đoàn dân đông đảo của Người! Xin sớm dẫn đưa họ-được triệu tập dưới cây nho của Người-hân hoan tiến vào Zion. Chớ gì năm tới Jerusalem được tái thiết!
Đối với người Do Thái, việc ngâm nga những lời này một cách tự do ở Jerusalem là sự đáp ứng khát vọng ngàn năm. Đối với người Do Thái, việc lập quốc là một phép lạ của thời đại, sự hoàn tất lời hứa của Chúa, chậm tới, nhưng cuối cùng sẽ tới. Giao ước với Abraham mãi còn giá trị.
Lễ Vượt qua được gắn bó phức tạp với ý tưởng về vùng Đất Hứa; nó đánh dấu cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập và lần đầu được Joshua và dân Israel kỷ niệm sau khi vượt qua Sông Jordan. Tự bản năng, người Do Thái đã là người theo chủ nghĩa phục quốc trước khi Herzl biến ý tưởng ấy thành phong trào chính trị hiện đại. Trong cuốn Vùng Đất Tân Cựu, những anh hùng của Herzl mừng lễ Vượt qua trên bờ biển của Biển Galilee và tìm cách tạo lập một "Xã hội Mới" ở Palestine. Ông trình bày một Haggadah hiện đại thay cho một Exodus hiện đại, không phải sự vội vã trốn khỏi Pharaoh và một loạt dịch bệnh, mà là sự tiến vào có trật tự sự đồng thuận tự nguyện của người Turk, những người được may mắn vì được những người Do Thái có lòng biết ơn và giàu có kính trọng.
Ở bất cứ bàn ăn mừng lễ Vượt qua nào ở Israel bạn cũng thấy rất nhiều thứ do họ sản xuất ra đều được họ đưa về. Một năm nọ tôi mừng lễ tại nhà Dennis Diamond ở Jerusalem. Ông là nhà trang trí nội thất và là nhà văn, ông được sinh ra ở Nam Phi trước khi di cư tới Israel hồi thập niên 1970. Con gái ông ta đưa người bạn trai sinh ở Nga về. Những vị khách khác là vợ chồng Rabbi David Rosen, được sinh ra ở Anh, và ba cô con gái. Vợ tôi
https://thuviensach.vn
và tôi là hai người không phải Do Thái, mà vào thời trước thì chúng tôi, những người nước ngoài, đâu được ngồi cùng bàn để ăn thịt cừu trong lễ vượt qua như vậy, theo đúng huấn thị trong sách Xuất hành (12:43): "Đây là quy định về thịt cừu lễ Vượt qua: không người dân ngoại nào được cùng ngồi ăn".
Rabbi Rosen cầm đĩa thức ăn theo nghi lễ lên, trong đó có quả trứng, tiêu biểu của lễ ở đền thờ; cây cải ngựa, được dùng như loại rau đắng mà người Do Thái thích ăn như để nhắc nhớ tình cảnh nô lệ của họ; một nhánh ngò tây được nhúng trong nước muối nhắc nhở những giọt nước mắt của dân Israel; một cái bánh ngọt nhân quả hạnh, trái cây, và rượu nhắc nhớ vôi vữa mà các nô lệ Israel đã làm.
Quá nhiều thảm kịch đã đổ trên đầu dân Do Thái khiến ngay cả lễ hội vui vẻ như lễ Vượt qua cũng đượm vẻ sầu muộn. Cầm ba miếng bánh không men lên, Rosen đọc những lời mở đầu của sách Haggadah bằng tiếng Syria:
“Đây là bánh ưu phiền mà cha ông chúng ta đã ăn ở Ai Cập. Hãy để những ai đói tới để ăn. Hãy để những ai thiếu thốn tới dự tiệc chiên vượt qua! Năm nay chúng ta ở đây; năm tới-ở Đất của Israel! Lúc này chúng ta là những nô lệ; năm tới-là những người tự do!”
Chúng tôi uống bốn tách rượu truyền thống và ăn bánh không men, đọc lời chúc tụng: “Chúc tụng Người, Chúa là Chúa của chúng con, Vua của Vũ trụ, Người đã sinh ra bánh từ đất..”. Rượu, bánh, và ân phúc. Những ký ức về biết bao nâng đỡ của nhà thờ hồi còn trẻ trở lại với tôi... hãy cầm lấy Bánh và khi đọc lời chúc tụng, Ngài đã bẻ bánh và đưa cho các môn đệ của Ngài và bảo: “Hãy cầm lấy, hãy ăn, đây là Mình của tôi ban cho anh em: Hãy làm việc này để nhớ tôi... đây là Máu Tân ước của tôi, máu đổ ra vì anh em..”. Tôi chẳng bao giờ hiểu được lễ Thánh thể của người Do Thái cho đến khi tôi tới Israel. Đối với tôi, những lời thân quen của Jesus là một loại lời từ biệt, một nghi lễ mà Ngài đã ứng biến khi gặp tình cảnh khó khăn.
https://thuviensach.vn
Đối với tôi, chất Do Thái của Jesus không khác nào văn hóa dân gian. Cuộc Khổ nạn đã có thể xảy ra ở bất kỳ đâu trong thế giới Roma. Do ngẫu nhiên, nó đã xảy ra ở Palestine. Giờ, được thấy trong bối cảnh Do Thái của nó, cảnh một linh mục Công giáo Roma đứng ở bàn thờ mặc áo lễ, giơ lên tấm bánh tròn nhỏ và nhúng nó vào rượu xem chừng như trò nhái lại, một trò khôi hài của tín đồ sùng đạo. Tôi đoán chắc rằng chẳng ai trong các bà con của tôi, những người đã đưa tôi tới nhà thờ lúc tôi còn nhỏ, có được bất kỳ khái niệm nào về lễ Vượt qua cửa người Do Thái mà Jesus kỷ niệm cùng mười hai môn đệ của Ngài-mười hai, không phải mười một, vì mười hai biểu thị mười hai bộ tộc Israel.
Các Kito hữu ban đầu mừng lễ Phục sinh như bữa tiệc Vượt qua của Do Thái. Họ tuân thủ ngày Sabbath và thờ phượng ở đền thờ. Nhưng như các dân không phải Do Thái bước vào nhà thờ dưới sự ảnh hưởng của thánh Phaolô, Kito giáo bắt đầu tách khỏi đạo Do Thái và sớm trở thành một tôn giáo không phải Do Thái tinh ròng sau khi đền thờ bị phá hủy. Lễ Phục sinh được sắp xếp vào ngày Chủ nhật cho khác với lễ Vượt qua.
Khi Kito giáo hấp thu triết học Hy Lạp, nó cũng thấm đượm nét bài Semite của Hy Lạp. Một trong những bài công kích chống Do Thái tiếng tăm đầu tiên được Manetho, sử gia Ai Cập gốc Hy Lạp thế kỷ thứ III, tung ra. Ông khẳng định rằng người Do Thái là con cái của nhóm 80.000 "người phong hủi và ô uế" đã từng nổi lên chống lại Ai Cập.
Theo nhà tu từ học thế kỷ thứ I là Apion, được Josephus, sử gia viết về vụ nổi dậy của Do Thái chống lại Roma, trích dẫn, thì người Do Thái hàng năm bắt cóc một người Hy Lạp, nuôi anh ta béo lên trong đền thờ bất khả xâm phạm, rồi "dẫn anh ta vào một cánh rừng nào đó, giết anh ta, và cúng tế theo những nghi thức trang trọng quen thuộc của họ, ăn bộ lòng của anh ta, rồi thề trên tế vật ấy là họ sẽ mãi thù địch với người Hy Lạp"
https://thuviensach.vn
Phần cốt lõi của sự tố cáo này hòa vào các thế kỷ sau đó với hình ảnh máu của Jesus và khái niệm về tội giết Chúa của người Do Thái trong lễ Vượt qua để bày ra chuyện được gọi là sự bôi nhọ máu-tin rằng người Do Thái cúng tế một người Kitô giáo, thường là trẻ con, để trộn máu với bánh Vượt qua. Sự tố cáo ban đầu như thể diễn ra ở Norwich năm 1144 khi một cậu bé tên là William bị coi là đã biến mất. Sự bôi nhọ này lan tới Pháp, Tây Ban Nha, Đức, và viễn đông, thường nổi lên vào thời gian của lễ Phục sinh và lễ Vượt qua. Nó khích động những cuộc tàn sát và trục xuất người Do Thái mặc cho một số giáo hoàng và vua chúa cố chấm dứt trò tố cáo độc địa ấy. Được các nhà truyền giáo mang theo, nó nổi lên ở Damacus năm 1840. Đức Quốc xã tận dụng sự bôi nhọ này trong chiến dịch tuyên truyền bài-Semite.
Qua nhiều thế kỷ, Lễ Vượt qua của sự tự do biến thành lễ của khiếp sợ. Nhưng Haggadah bảo: "Không phải chỉ một kẻ khủng bố nổi lên hủy diệt chúng ta mà mỗi thế hệ nổi lên tiêu diệt chúng ta. Nhưng Chúa luôn cứu chúng ta khỏi bàn tay của họ".
Khi vào tiệc, Rosen mặc chiếc áo choàng trắng được gọi là kittel nó được coi là áo lễ hội, nhưng Rosen còn thêm vào ý nghĩa ảm đạm: "Áo được mặc vào giống như vải liệm tang lễ. Lễ Vượt qua cũng là thời gian hiểm nghèo như thế để người Do Thái chuẩn bị đi vào cõi chết"
Vào cuối bữa ăn, chén rượu thứ năm được rót ra dành cho tiên tri Elijah, người báo trước về Đấng Cứu thế và là người bảo vệ người Do Thái. Cửa được mở ra để đón Elijah, một truyền thống mà theo giải thích của Rosen là tìm kiếm để cho những người không phải Do Thái biết rằng người Do Thái "chẳng có gì mà phải giấu mặt". Một minh họa ở bàn là nắm tay của Elijah đang nghiền nát Đức Quốc xã. Chúng ta đọc những lời báo thù:
“Hãy trút cơn thịnh nộ của Người trên những dân không nhận biết Người và trên các vương quốc không kêu cầu danh Người. Vì chúng đã giày vò Jacob và tàn
https://thuviensach.vn
phá chỗ ở của ngài. Hãy trút sự căm phẫn của Người trên chúng, và hãy để cơn giận dữ dội của Người ập xuống chúng. Hãy đeo đuổi chúng bằng sự thịnh nộ và hãy tiêu diệt chúng, từ dưới gầm trời của Chúa.”
Nhưng rồi Rosen lại hào phóng đọc: "Hãy rủ lòng thương xót của Người trên những dân không nhận biết Người..."
Hình ảnh chính trong cuộc đối thoại liên tôn với các Ki tô hữu được Rosen lập luận là mức độ bài-dân ngoại nơi người Do Thái tùy thuộc vào mức độ áp bức của dân ngoại. Nhưng hơn nửa thế kỷ sau khi lập nhà nước Israel, nó trở nên khó chấp nhận như một lời giải thích đủ để tạo thành vết sẹo không khoan dung trong truyền thông Do Thái. Sự diễn giải Thiên Chúa là vị thần bè phái của nó, thế giới quan của nó phân cách Do Thái với dân ngoại, mô tả dân ngoại là kẻ thù và là những kẻ áp bức, những diễn cảm báo thù như "Hãy trút cơn thịnh nộ của Người" và những lời nguyện hàng ngày chống lại các dị giáo bằng đoạn văn:
"Chúc tụng Người, Lạy Chúa, Chúa của chúng tôi, Vua của Vũ trụ, Đấng đã không biến tôi là dân ngoại (goy)... không biến tôi thành nô lệ... không biến tôi thành phụ nữ". Các giáo sĩ cố giải thích sao cho thân thiện đoạn văn này, nhưng bị gọi là dân ngoại quả là sự xúc phạm. Các giáo sĩ có thế lực trong Israel còn tranh luận những vấn đề như những hoàn cảnh mà ở đó một người Do Thái có thể vi phạm ngày Sabbath để cứu đời sống của một dân ngoại. Phần lớn người Do Thái ở Israel không cưới dân ngoại, mà nếu họ có cố cưới thì cũng bị các giáo sĩ ngăn cấm. Nếu hai người khác tôn giáo lấy nhau, hoặc một người phải cải đạo hoặc phải cưới nhau ở nước ngoài.
Từ khi chấm dứt Thế chiến II, các giáo hội phương Tây đã tiến xa trong việc tìm sự hòa giải với người Do Thái. Giáo hội Công giáo Roma đã bỏ thuật ngữ: "Quân Do Thái bất trung" khỏi phụng vụ Phục sinh, tính chất Do Thái của Jesus đã được thừa nhận, chủ nghĩa bài-Semite đã bị lên án
https://thuviensach.vn
như một tội chống lại việc tạo dựng con người theo hình ảnh của Người và Vatican đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Israel cho dù có sự phản kháng của người Ả Rập Palestine. Đứng ở thế thượng đẳng, Kitô hữu đúng là càng phải xem xét lại niềm tin của mình, nhất là sau nạn thảm sát người Do Thái. Tuy nhiên, ở Israel ngày nay, người ta cố tìm những giáo sĩ Chính thống để tạo sự đánh giá lại tương đương các quan niệm của họ về dân ngoại. Các phong trào Cải cách và Bảo thủ đã cố gắng giải trình bộ niềm tin Do Thái hiện đại, nhưng họ bị loại trừ khỏi đời sống công cộng ở Israel, nơi tổ chức Chính thống coi họ chỉ khá hơn dân ngoại một chút.
Trong những năm tôi ở Israel thỉnh thoảng tôi có dịp đụng độ sự phân biệt chủng tộc nhắm thẳng vào tôi, mặc dầu tôi chứng kiến tình trạng này nhắm vào những người khác, nhất là người Ả Rập. Ngược lại, tôi đã nhận được sự ấm áp thật nhiều, như từ chủ nhà mời tôi dự tiệc Vượt qua, "Người khách ăn mừng lễ với anh có thể may ra là một trong những Thiên thần ăn mừng lễ với Abraham."
★
Lửa Thánh là một trong những nghi thức cổ xưa nhất thế nhưng phần lớn dân ngoại đã cử hành nghi lễ này. Nó là cao điểm trong năm đối với các giáo hội phương Đông, còn quan trọng hơn lễ Giáng sinh. Nó là phép mầu hàng năm cho phép cộng đồng đang suy yếu của người Ả Rập Kitô giáo ở Palestine cảm thấy họ còn đứng cao hơn các giáo hội phương Tây giàu có hơn.
Lòng thành của các giáo hội phương Đông là thứ làm cho Mộ Thánh sinh động. Sự nối kết lòng nhiệt thành tôn giáo và hiểm nguy thể lý hằng hiện diện của những thứ như sự tiêu diệt, dấy loạn hay hỏa hoạn đã tạo ra sự náo động đe dọa mỗi khi tôi tham dự lễ kỷ niệm.
https://thuviensach.vn
Vào ngày thứ Bảy trước Chủ nhật Phục sinh, theo lịch phương Đông, Lửa Thánh được cho là xuống từ trời tới mồ của Chúa Kito, nơi Thượng phụ Hy Lạp đợi để nhận nó và chuyển nó tới các tín hữu.
Các đám đông Kito giáo người Palestine, được bổ sung bằng các khách hành hương từ Hy Lạp, Cyprus, Ai Cập, và Nga, bắt đầu tụ tập từ sáng sớm, đôi khi ở lại qua đêm vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Những cụ bà mặc đồ đen đổ nước hay dầu thơm trên phiến màu hồng ở lối vào nơi được tin là thân thể của Jesus được xức dầu trước khi chôn. Chất lỏng, được thấm đượm sự linh thánh, được người ta lấy bọt biển hay khăn tay nhúng vào và giữ trong chai để vẩy ở nhà, hoặc uống như một phương thuốc. Một số phụ nữ còn chùi áo lót mới lên tảng đá, để dành mặc vào ngày chôn cất họ. (Các du khách thuộc thế kỷ XIX than rằng các khách hành hương có thể biến nhà thờ thành nhà thổ vì họ tin rằng đứa trẻ được sinh ra khu vực này sẽ được chúc phúc).
Vào cuối buổi sáng, đám đông lộn xộn được nhét vào từng chỗ nứt nẻ của nhà thờ. Giàn giáo được dùng để sửa chữa liên tục oằn xuống đáng sợ dưới sức nặng của các chàng trai leo lên để trông rõ hơn. Đám đông được phân chia cẩn thận: Người Hy Lạp ở bên phải, người Armenia, Copt, và những nhóm nhỏ hơn khác được dồn về bên trái. Những người trong ban tổ chức cố mở lối từ cổng vào tới phiến ngọc đỏ dùng để đóng mộ.
Điện thờ thiêng nhất trong giới Kito giáo nằm xa khỏi cảnh hùng vĩ. Nó tối đen, chật hẹp, giống cái động của tu sĩ hơn là các thánh đường sừng sững của châu Âu. Nó nằm khuất trong khu chợ Hồi giáo, lối vào chính của nó giống như lối thoát hiểm của rạp chiếu bóng tồi tàn. Bên trong nhà thờ ngổn ngang các đồ thảm, đèn, hình tượng, và các bức tranh thánh của các giáo phái đua nhau dàn ra để chiếm chỗ. Những ghi chép của Herman Melville đã có lý khi nói: "Mộ Thánh (không người Do Thái nào được phép ở trong nhà thờ của Mộ Thánh)-cái vòm để nát-cây cột gần hư... các bậc
https://thuviensach.vn
thang của những hang động, mồ mả và điện thờ mốc meo. Mùi bốc lên như nhà mồ". Jerome Murphy O'Connor, tác giả cuốn Vùng Đất Thánh, không hơn cuốn sách hướng dẫn khảo cổ, viết: “Tính bạc nhược của con người thì không đâu rõ ràng hơn ở đây; nó là hình ảnh thu nhỏ của phận người. Người ta đến để được đong đầy nhưng sẽ thất vọng [....]”
Nhưng tôi không thể nói khác đi. Công trình kiến trúc thích hợp khung cảnh của nó, tạo ra bầu khí tối tăm, ủ ê hợp với tình trạng suy sụp của Kito giáo ở vùng Đất Thánh. Sự lộn xộn của nó giống như ngôi nhà mốc của người hưởng trợ cấp mất trí khư khư giữ di vật hào nhoáng nhưng vô giá trị của cuộc sống trước kia cả khi các bức tường đang rệu rạo. Có tàn tích của thời đã mất: những cây thập giá nhỏ được các khách hành hương xưa kia khắc vào tường, nhưng cái cột bị lạng mỏng và sử dụng lại của nhà thờ Constantine và thanh gươm của Godfrey de Bouillon, ông vua của thời Thánh chiến đầu tiên. Chính vẻ xấu xí của nhà thờ có sức lôi cuốn của lối kiến trúc gothic thời trung cổ, và cảm nhận huyền bí ban sơ đầy khiếp sợ.
Trong khi bồn chồn chờ đợi, các khách hành hương giơ lên bó nến 33 cây, biểu tượng những năm của cuộc sống của Jesus. Những chàng trai nhảy múa trên vai các bạn bè và lắc trống theo nhịp Ả Rập rối mù, hát vang câu "Đây là mồ của Chúa chúng ta!" (Hada qaber saidna!). Nó có cùng nhịp điệu dữ dội và điệu của những bài hát của cuộc nổi dậy của người Palestine, còn những viên sĩ quan cảnh sát Israel có nhiệm vụ giữ trật tự hầm hầm nét mặt trước đám đông thù địch. Trở lại thế kỷ trước, những bài thánh ca được ưa chuộng còn có những ca từ như "Hỡi người Do Thái, Hỡi người Do Thái, Chúng ta là máu của Đức Kito, còn các ngươi là máu của loài khỉ" hay "Hỡi người Do Thái, Hỡi người Do Thái! Lễ hội của các người là lễ hội của lũ dã nhân". Thỉnh thoảng xảy ra những cuộc ẩu đả với cảnh sát Israel, hoặc những cuộc xô xát giữa các Kito hữu Hy Lạp và Armenia.
https://thuviensach.vn
Chút gì là dữ dội và lộn xộn là một phần vui thú của nghi lễ Lửa Thánh. Đó là nạn càn quấy bóng đá khoác lốt nhiệt tình tôn giáo, và qua nhiều thế kỷ các biến cố đã từng kéo dài mà không kiểm soát nổi. Lính Thổ Nhĩ Kỳ thường phải khám xét các khách hành hương xem họ có giấu dao hay dùi cui. Có lẽ sự cố đẫm máu nhất đã xảy ra hồi năm 1834 được du khách người Anh, Robert Curzon, mô tả:
Binh lính trang bị lưỡi lê đã giết nhiều kẻ khốn khổ ngất choáng và các bức tường vấy máu và óc của những người bị giết chết bằng súng như những con bò. Mọi người cố vùng vẫy để tự bảo vệ [và] trong cuộc hỗn chiến, những ai ngã xuống liền bị đạp cho chết [...].Tôi thấy đến bốn trăm cả kẻ chết lẫn người còn sống bị chất đống lộn xộn với nhau, có khi cao tới mét rưỡi.
Đỉnh cao của lễ hội được báo hiệu là Thượng phụ Chính thống Hy Lạp sắp tới. Đám đông vây quanh ông ta. Cuối cùng ông ngừng trước lối vào mộ đã được bít kín bằng đống sáp và được các tăng lữ Hy Lạp và Armenia canh giữ. Vị Thượng phụ cùng giám mục Armenia bước vào. Sau sự tạm lắng đầy kịch tính để đám đông rơi vào thinh lặng như mong đợi, ô cửa sổ ở bên mộ rực ánh vàng. Tiếng gầm như sâm vang lên trong vòm, và hàng trăm bàn tay háo hức đưa về phía ánh hồng xuất hiện từ ngôi mộ. Lửa chuyển từ ngọn nến này tới ngọn nến khác, lan qua đám đông như vết dầu loang bao quanh mộ, tràn qua các lối đi hẹp và đổ qua lối vào. Một đám mây khói lơ lửng bên trên che mờ biển ánh sáng. Những người trẻ nắm tay nhau tạo thành các lối cho những người chạy đưa vội lửa tới những nhà nguyện khác. Thời trước đây còn có con tàu đậu chờ ở Haifa để nhận lửa chuyển tới Nga.
Người ta không biết rõ nguồn gốc của nghi lễ Lửa Thánh. Một số người cho rằng đó là ảnh hưởng của nghi thức lửa của Bái Hỏa giáo, những người khác lại cho rằng đó là âm vang của các nghi lễ mùa xuân điên cuồng của Dionysus. Một trong những trình thuật sớm nhất về nghi lễ Lửa Thánh là của Bernard the Monk, một khách hành hương thế kỷ thứ X, viết là, "một
https://thuviensach.vn
thiên thần tới thắp sáng những cây đèn treo bên trên mộ". Tu viện trưởng thế kỷ XII, Daniel, viết: "Ánh sáng Thánh không như lửa trần gian vì nó chiếu sáng thật khác và thật diệu kỳ. Lửa của nó đỏ giống như son và nó chiếu tỏa rất mơ hồ."
Nghi lễ Lửa Thánh được coi là sự nhắc nhớ sự lạ về sự phục sinh của Đức Kito. Jesus ở đây là một Kito hữu phương Đông;
Ngài thực hiện các phép lạ vào thời của giáo hội Chính thống. Những người tham gia cuộc Thập tự chinh kỷ niệm nghi lễ Lửa Thánh, nhưng theo Daniel, chỉ những ngọn đèn của các giáo hội phương Đông được nhóm lên. Còn những ngọn đèn do Công giáo Roma "Frankish" bị Chúa khinh miệt.
Đã có thời Giáo hội Công giáo Roma tán thành nghi lễ Lửa Thánh nhưng sau này loại bỏ tính xác thực của nó, cho đó là sự hiềm khích giữa các giám mục Hy Lạp và Armenia.
★
Vòm Đá rực lên một cách ấm áp với những tia bình minh đầu lấp lánh khắp Mount of Olives. Ở quảng trường lớn Haram al- Sharif các tín đồ vội vã giành chỗ khi có tiếng chuông báo giờ cầu nguyện. Cả những con chim hót cũng nhập vào lời mời gọi khi chúng bay lượn giữa những cây bách.
Thánh ca vang lên từ cộng đoàn. Nó bao gồm một phần của Shehadah, sự tuyên tín trầm trầm, rên rỉ của các tín đồ Hồi giáo: "Chúa thật Cao cả. Chúa thật Cao cả. Không có Chúa nào ngoài Chúa " (Allahu Akbar, Allahu Akba. La Ilaha illa-llah...). Giọng hát của đám đông thấm vào các ngõ ngách của cổ Thành.
Nhà thuyết pháp nhắc các tín đồ Hồi giáo dâng hy lễ theo lệnh của Chúa giống như niềm tin của Abraham đã cứu sống Ishmael. Họ phải độ lượng với người nghèo, người tật nguyền, trẻ mồ côi, và phụ nữ. Đấy quả là
https://thuviensach.vn
bài thuyết giáo lạ tai đối với những người không phải tín đồ Hồi giáo, vì người Do Thái và người Kitô giáo xác định chính xác chỗ Abraham dâng hy lễ là dưới Vòm Đá, nhưng các tín đồ Hồi giáo tin rằng nó diễn ra ở xa, ở Mecca. Hồi giáo, tự cho nó là mạc khải sau cùng, đã bồi đắp lại truyền thông của Do Thái và Kito giáo, kết tội những người đi theo họ làm sai lệch thông điệp của Chúa.
Một số Dân của Sách muốn làm bạn lầm đường lạc lối; nhưng họ chẳng khiến ai lầm đường ngoài chính họ, dù họ không nhận ra điều ấy. Hỡi Dân của Sách! Sao các người chối bỏ những mạc khải của Chúa khi các ngươi biết đó là thật? Hỡi Dân của Sách! Sao các ngươi lẫn lộn thật và giả, và cố tình che giấu sự thật? (Coran 3: 65-71)
Hồi giáo tin đó là đức tin tinh tuyền của Abraham. Solomon, Moses, và Jesus là những tiên tri, nhưng người Do Thái và Kito giáo không tuân theo lời dạy của họ. Các học thuyết của Kito giáo về thần tính của Jesus và Chúa Ba Ngôi là cố ý xuyên tạc, như câu chuyện về Jesus chịu chết trên thập giá. Theo truyền thống Hồi giáo sự đóng đinh trên thập giá hoặc là ảo tưởng, hoặc Chúa đã thay Jesus bằng một người khác trên thập giá.
Vào thời của Muhammad, cũng như ngày nay, những kẻ không tin luôn có mưu đồ chống lại Hồi giáo. Vào thời lịch sử cuộc đấu tranh chống lại các Kito hữu, quân Thập tự chinh và sau này là chống lại chủ nghĩa đế quốc phương tây. Giờ là chống lại người Do Thái.
Khái niệm về siêu nhiên, đấng cứu thế như Messiah không quan trọng đối với Hồi giáo. Người Ả Rập, nhất là người Palestine, khao khát đấng cứu chuộc trần gian sẽ khôi phục sự thống nhất của Hồi giáo và trục xuất các dân ngoại: một Saladin mới đánh bại quân Thập tự chinh (Do Thái) mới. Vị lãnh tụ Hồi giáo nói trong bài thuyết giảng ở lễ hội Id al-Adha: "Hãy trung thành với đức tin, và Allah sẽ công nhận ngươi là đại lãnh tụ, người sẽ khôi phục chân giá trị của các tín đồ Hồi giáo".
https://thuviensach.vn
Haram al-Sharif, nơi mà cho tới sự giải phóng của Ottoman hồi thế kỷ XIX bị những người không phải Hồi giáo bỏ quên, vẫn nằm ngoài phạm vi của các ngày thứ Sáu. Nhiều năm rồi, biết bao lần tôi đã bò trên các mái nhà của cổ Thành, trốn tránh cảnh sát Israel và xin tha cho các gia đình, tìm chỗ cao trên bức tường để nhìn các tín đồ. Cuộc hành trình của tôi thường là nỗ lực phí phạm theo nghĩa của một phóng viên-những bùng phát bạo động ở Jerusalem hiếm khi có thể đoán trước-nhưng tôi chẳng bao giờ ân hận những giờ phút trôi qua để nhìn người mộ đạo bên dưới. Quyền năng thu gom vào những lời cầu nguyện của tín đồ Hồi giáo là một cảnh uy nghi.
Haram al-Sharif vẫn thanh bình cả khi thành phố bị nêm chặt với hàng mươi ngàn người sùng bái. Quảng trường mở của nó làm cho những nẻo đường của cổ Thành bít kín, quanh co bớt căng. Những đài kỷ niệm của nó nổi bật lên, không bị chắn bởi những tòa nhà khác. Cảnh đặc khít của những hàng người cúi rạp trên đất như một khối duy nhất thật ngớ ngẩn nhưng là sự tuyền tín mạnh mẽ nói lên sự đồng nhất của Hồi giáo trước Thiên Chúa.
Vào cuối giờ cầu kinh, tín đồ Hồi giáo nhanh chóng tản đi, hòa vào nhóm các nữ tu Ý mang máy ảnh và quyển kinh thánh ở Via Dolorosa. Theo truyền thống cầu nguyện kính cẩn trước thi hài của Chúa vào những ngày lễ lớn, đám đông tiến tới nghĩa trang nằm trước cổng được đóng hai lần thật lạ kỳ dẫn vào Haram al-Sharif. Đây là chủ đề của những truyền thuyết xung đột, bao gồm những xác quyết cho rằng hoặc Elijah hoặc Jesus sẽ vào thành phố qua chỗ này vào ngày Tận thế. Các tín đồ Hồi giáo bị cáo buộc (bởi các Kito hữu và Do Thái) là đã đào nghĩa trang tại chốn này để ngăn không cho Đấng Cứu thế trở lại vì khi tiếp xúc với nghĩa trang sẽ làm Ngài mất tính chất thiêng liêng. Tuy nhiên, việc định vị của nó có nhiều điều hơn nữa có liên quan với sự thể là các tín đồ Hồi giáo, giống như người Do Thái và Kito giáo, đặt chỗ của Ngày Phán xét ở hẻm bên dưới, Thung lũng Kidron. Truyền thống Hồi giáo bảo rằng một thanh gươm, một
https://thuviensach.vn
cây cầu hẹp, hay một lối đi sẽ xuất hiện giữa Hararn al-Sharif và Núi Olives. Những người tin sẽ đi qua bình yên, trong khi những kẻ tội lỗi sẽ rơi xuống lửa Địa ngục.
Bà con của người phụ nữ mới qua đời dâng tặng cà phê và đường cho các khách qua đường. Tang lễ nơi người Palestine là một việc có liên quan với mọi người; truyền thống bảo rằng khi người Hồi giáo thấy đám tang đi qua, họ sẽ gia nhập vào đám người đưa đám, cùng hát Al-Fatiha, câu xướng
mở đầu của kinh Coran, hoặc tra tay vào khiêng quan tài một đoạn.
Các tín đồ Hồi giáo bày ra những ngày lễ hội như Id al- Adha là phương cách tái phân phối của cải. Việc phân phát của bố thí là giáo lý chính của Hồi giáo và các giáo đường trở thành nơi thu gom của bố thí để phân phát cho những gia đình nghèo túng. Giống như lễ Vượt qua, lễ Id al Adha là lễ của gia đình, hay đúng hơn là gia tộc. Họ bỏ ra tới ba ngày để đi thăm bà con, đem tiền và quà tới các gia đình.
Đối với người Palestine, mỗi ngày lễ nghỉ là một nhắc nhớ rằng họ còn nằm dưới sự chiếm đóng, chưa có quê hương; như người Do Thái đã gặp, họ vẫn còn là nô lệ của Pharaoh. Trong những hoàn cảnh này, tôn giáo trở thành phương tiện phản kháng.
★
Trong thời còn bị người Thổ Nhĩ Kỳ cai trị, khi không có những ranh giới nội địa ở Levant, đoàn người hành hương đông đảo trở về từ Haj thường đi vòng qua Jerusalem. Đây là "cuộc đi viếng" và trên đường đi lên từ Thung lũng Jordan, khách hành hương sẽ dừng lại ở khu liên hợp hình vòm trong sa mạc được gọi là Nebi Musa, nơi người Hồi giáo tin là nơi chôn cất Moses. Nó là khu dành cho khách hành hương.
Ở đây, sau khi Hồi giáo tái chiếm Jerusalem khỏi tay quân Thập tự chinh, Saladin xây ngôi đền Hồi giáo mới làm đối trọng với các du khách
https://thuviensach.vn
Kito giáo tới Jesusalem. (Một số trình thuật cho rằng đấy là Vua Hồi Baybars khoảng một thế kỷ sau). Không như các lễ hội Hồi giáo khác rải qua các mùa, Nebi Musa kéo dài cả tuần phù hợp với thời gian Tuần Thánh của Chính Thông giáo, nhằm giữ khối Hồi giáo trung kiên sẵn sàng đánh bật bất kỳ sự phá hoại nào của các Kitô hữu. Vì thế một khối Palestine được phát sinh như một thách thức chính trị đối với người nước ngoài. Claude Regnier Conder, một sĩ quan quân đội Anh, thuật lại cảnh đe dọa năm 1875:
Các phe Hổi giáo cuồng tín diễu hành trên các đường phố Jerusalem, mang cờ xanh có hình lưỡi liềm và hàng chữ Ả Rập. Một đội vệ sĩ mang rìu chiến, giáo và súng dài hộ tống, đi sau là cặp trống lớn với những cái chũm chọe.
Hai năm sau khi Anh chiếm Jerusalem, Nebi Musa trở thành điểm nóng của cuộc nổi dậy lớn đầu tiên của người Palestine chống lại sự bảo trợ phong trào phục quốc Do Thái của Anh. Quân Anh phải mất ba ngày để dẹp tan cuộc bạo loạn hồi tháng Tư 1920 ấy, bỏ lại vài thi thể Do Thái và Ả Rập cùng hàng trăm người bị thương ở Jerusalem.
Chẳng phải sự trùng hợp ngẫu nhiên mà trong bầu khí sục sôi của cuộc đấu tranh chính trị sau này ở Jerusalem, gần đây người Palestine làm sống lại lễ hội Nebi Musa.
Năm 1998, những ông đồng bà cốt (Hồi giáo) đứng thành vòng tròn, nhảy múa cùng những tiếng chũm chọe và trống phách chói tai dưới rừng cờ viết lên những câu kinh Coran. Các quầy hàng bán thực phẩm, nước, trứng màu, đồ chơi trẻ con rẻ tiền (nhất là súng ống). Các nhóm gia đình rải khắp các bụi cây, che nắng bằng những tấm bạt cùng tiếng xèo xèo của thịt và khoai rán. Lễ hội dân gian chấm dứt ở đây. Cái còn lại là hoạt động chính trị.
Bên trong công thự hình vòm màu trắng, chính quyền. Palestine tổ chức mít tinh hát ca tụng chủ tịch Yasser Arafat. Abu Ammar được tôn lên làm Saladin mới; ở Tikrit, sinh quán của Tổng thống Saddam Hussein ở
https://thuviensach.vn
Iraq, các viên chức tung ra cuốn sách mỏng mô tả Saddam được Saladin xức dầu. Trong khi đó, người Syria đã chiếm hữu nơi chôn cất Saladin ở Damacus và gần đây phục chế ngôi mộ gần giáo đường Omayyad. Sự khiêm nhu huyền thoại của Saladin từ lâu đã bị các vua chúa và các vị đứng đầu nhà nước của thế giới Ả Rập quên khuấy. Chiến binh cao nhã đã được thay thế bằng những kẻ đàn áp đi những chiếc xe Mercedes đen bóng.
Giáo sĩ Hồi giáo của Jerusalem, Ekrima al-Sabri ngồi gần mặt tiền giải thích, "Điện thờ không nhất thiết là phần mộ thật, nhưng là biểu tựơng. Theo trình thuật lịch sử của chúng ta, Moses đã không vào Palestine". Khu vực truyền thống Mount Nebo, nơi Moses nhìn về vùng Đất Hứa trước khi qua đời, nằm ở rìa khu đối diện của Thung lũng Jordan, nhưng theo sách Đệ nhị luật, "không có người nào có mộ chôn ở đây vào ngày ấy".
Vị giáo sĩ nói: "Trong Hồi giáo không có sự phân cách tôn giáo và chính trị. Nebi Musa biểu tượng sự giải phóng Jerusalem khỏi sự chiếm đóng của quân Thập tự chinh (franj). Nó vào cùng lúc mừng lễ Phục sinh để quân Thập tự chinh không thể lợi dụng lễ mà tấn công vùng Đất Thánh". Nhưng tôi hỏi, tại sao người Hồi giáo giữ vững truyền thống khi mà quân Thập tự chinh đã tàn tạ từ lâu? "Không còn quân Thập tự chinh, nhưng vẫn còn phương Tây. Phương Tây đã thế chân quân Thập tự chinh và phương Tây ủng hộ Israel chiếm đóng đất nước chúng tôi. Chúng tôi coi đây là một hình thức Thập tự chinh khác".
Đối với người Hồi giáo, Palestine là quà tặng của Hồi giáo (waqf), tài sản thánh được trao ban vĩnh viễn. Không thể nào có một chủ quyền khác, và người Hồi giáo buộc lòng phải đánh Israel. "Người Do Thái có thể sinh sống ở đây như những công dân chứ không phải là những nhà cai trị" Al
Sabri nói.
Hồi giáo coi Moses là tiên tri ưu việt. Đâu là bằng chứng bảo rằng Chúa ban vùng Đất Hứa cho người Do Thái? Al-Sabri bảo, người Do Thái
https://thuviensach.vn
không còn quyền do bác bỏ lệnh đầu tiên của Chúa để vào vùng Đất Hứa. Theo sách Dân số, những tay do thám được gửi tới để trinh sát vùng đất báo cáo rằng "đó là vùng đất bị các cư dân ở đó chiếm sạch; và tất cả dân mà chúng tôi thấy ở đó là những người có vóc dáng to lớn. Chúng tôi thấy những tên khổng lồ..." (Num. 13: 32-3).
Kinh thánh và Kinh Coran viết rằng, vì sự hoài nghi của chúng, dân Israel bị buộc phải lang thang bốn mươi năm trong hoang mạc. Moses không được vào vùng Đất Hứa, và đã chết ngay ngưỡng của nó. Theo quan điểm Hồi giáo qua diễn giải của Al-Sabri: "Lời hứa của Chúa bị hủy bỏ. Điều chúng ta có hiện nay là kết quả của Tuyên bố Balfour, không phải lời hứa của Chúa. Anh đã cắm Israel ở đây và Mỹ đã giúp Israel".
Kinh Coran lên án cả Do Thái và Kito hữu không biết lắng nghe lời Chúa, coi thường Tiên tri Muhammad, khước từ chấp nhận đức tin mới-cũ của Hồi giáo và biến nó thành "lời chế nhạo trò giải trí". Người Do Thái đáng bị nguyền rủa:
Các ngươi phải biết rằng những kẻ cứng lòng nhất trong đám thù địch là người Do Thái và dân ngoại, và ảnh hưởng gần nhất với họ là những người bảo rằng: “Chúng tôi là Kito hữu”. Ấy là vì có các linh mục và các tu sĩ ở giữa họ, và vì họ không có lòng tự trọng. (5: 82)
Còn nữa, phần lớn các thế kỷ bách hại trong thế giới Kito giáo, đất của Hồi giáo không để cho người Do Thái làm nơi trú ẩn cho tới những năm đầu của phong trào Phục quốc, khi những người trốn tránh những cuộc thảm sát ở Nga chạy vào phần đất Palestine do người Thổ Nhĩ Kỳ cai trị. Như các Kito hữu, người Do Thái là "Dân của Sách" được đối xử như công dân hạng hai (dhimmi) và phải đóng thuế thân. Tấm thẻ màu vàng phát xuất ở Baghdah thời trung cổ. Người Do Thái bị phân biệt đối xử, nhưng hiếm khi bị hành hạ.
https://thuviensach.vn
Do Thái giáo và Hồi giáo có nhiều điểm chung. Cả hai đều là tôn giáo chỉnh đốn các mặt của cuộc sống, hơn là chỉ vấn nạn về niềm tin cá nhân. Họ thường được cho là theo thuyết độc thần nghiêm ngặt hơn Kito giáo, chối bỏ học thuyết về Chúa Ba Ngôi, và áp đặt các luật ăn chay. Họ đặt ra các hệ thống luật tôn giáo tương tự và phải phụ tùy vào giáo sĩ (Do Thái) cũng như lãnh tụ (Hồi giáo). Ở Byzantine và thời Thập tự chinh, người Do Thái thường đứng về phía người Hồi giáo.
Sự xuất hiện chủ nghĩa Phục quốc Do Thái đánh đổ sự khoan nhượng nhau, và người Palestine đương đầu với thanh gươm ý thức hệ hai lưỡi, lý tưởng hóa giai đoạn cộng sinh của Hồi giáo với Do Thái tìm lại những bài luận chiến cũ chống lại Do Thái giáo.
Mặc dầu các sử gia Do Thái phân trần việc Omar Ibn al- Khattab nhận ra là ông đã xây nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa đầu tiên trên phần nền nơi đã có đền thờ Do Thái, các nhà lãnh đạo Hồi giáo đương thời quyết liệt phủ nhận là đã có bất kỳ đền thờ nào bên dưới Al-Aqsa hay Vòm Đá. Giáo sĩ Hồi
giáo khẳng định: "Không có sự liên quan giữa Al-Aqsa và đền thờ. Đó là ảo tưởng".
Al-Sabri thừa nhận có đền thờ Do Thái ở Jerusalem, nhưng xác quyết là không ai biết nó ở đâu. Tại sao không ở Haram al- Sharif, như người Do Thái và các nhà khảo cổ xác nhận? Al- Sabri đưa ra lập luận xác đáng: "Thiên Chúa lệnh xây nhà thờ Hồi giáo. Chúa thì công minh; Người sẽ không bảo xây để gây thiệt hại cho một tôn giáo khác".
★
Trên đỉnh Núi Gerizim, người Samaria bị lãng quên quanh vùng lõm hẹp, thuật lại những câu thơ thánh của họ viết theo thứ ngôn ngữ đã mai một:“Trăng tròn rực sáng ở phía đông khắp Jordan. Bồn chồn với sự đề
https://thuviensach.vn
phòng, trẻ con giữ chặt con cừu, mỗi nhà một con. Chúng mặc áo choàng trắng và đội mũ đuôi seo đỏ, và được đi giày không thích hợp.”
Khi cất cao bài thánh ca của tổ tiên, những con cừu bị lật bật ngửa ra và lưỡi dao sát tế lướt qua họng của chúng. Những con vật đá lung tung một cách yếu đuối vài phút cho đến khi hết hơi rồi chết. Những người đàn ông giương đôi mắt đờ đẫn, bôi máu lên trán những người thân đứng gần đó và reo hò vang lên. Thi thể những con vật được lột da và rửa sạch, được xiên vào những cọc gỗ và đưa vào bếp được đào dưới đất.
Lễ kỷ niệm là một trong vài dịp để cả người Do Thái và Palestine đứng gần thân ái với nhau, cả vào lúc căng thẳng.
Trình thuật truyền thống cho rằng người Samaria là tàn dư của mười "bộ tộc đã mai một" của vương quốc Israel ở phía bắc đã bị hủy diệt; đối với người Palestine họ là "những người Do Thái Palestine" vô hại, ý nói là người Palestine không bài-Semite, chỉ chống lại chủ nghĩa Phục quốc Do Thái. Người Samaria được hưởng quyền trở thành công dân Israel và có đại biểu trong hội đồng lập pháp Palestine. Đó là vị thế ưu tiên đặc biệt đối với một cộng đồng nhỏ xíu mà có thời suýt bị diệt vong.
Người Samaria, được nổi tiếng nhờ dụ ngôn của Jesus về người Samaria Tốt lành, bị người Do Thái, người Kito giáo, và người Hồi giáo đàn áp vào những lúc khác nhau. Lúc bắt đầu sự cai trị của người Anh ở
Palestine, họ chỉ còn 146 người bám quanh Núi Gerizim thánh. Năm 1998 họ tăng lên được 604 người.
Vào lúc lập nước Israel, người Samaria bị phân làm đôi. Một phần định cư ở nước Do Thái mới, trong khi phần còn lại ở lại Nablus, ở chân Núi Gerizim, dưới sự thống trị của người Jordan. Việc đánh chiềm Bờ Tây của Israel năm 1967, một tai họa cho người Ả Rập, lại là điều may đối với người Samaria vì họ có thể tái thiết lập quan hệ với nhau. Nhưng hòa ước
https://thuviensach.vn