🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Chiến Disney
Ebooks
Nhóm Zalo
MỞ ĐẦU
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Roy E. Disney lái chiếc Ferrari đỏ đời 1999 vào bãi đỗ xe của quán rượu Bodega ở Pasadena. Đó là buổi chiều muộn ngày thứ Năm, 20 tháng Mười một năm 2003, một tuần trước lễ Tạ ơn. Roy thích chiếc Ferrari này. Nó là một trong số bằng chứng ít ỏi cho thấy cháu của Walt Disney huyền thoại, người đàn ông 73 tuổi giản dị và khiêm tốn này là một trong những người giàu có nhất nước Mỹ. Nó luôn là chiếc xe nổi bật nhất trên bãi đỗ của Disney, nơi Roy được dành riêng một chỗ cạnh Michael Eisner, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của công ty. Chính nhờ nó mà mọi người luôn biết khi nào Roy đang có mặt ở trụ sở.
Roy căm ghét tòa nhà “Team Disney.” Nó được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi danh Michael Graves theo chỉ thị của Eisner để làm trụ sở của công ty Walt Disney. Dù mặt trước đồ sộ đã được làm nhẹ bớt bằng các bức phù điêu đắp nổi hình bảy chú lùn, nhưng đối với Roy, nó vẫn đại diện cho tất cả sự phô trương và kệch cỡm mà Eisner đã tạo ra ở đây. Cũng như với rất nhiều thứ khác, Roy luôn băn khoăn không biết liệu chú Walt của mình sẽ nghĩ sao. Văn phòng của Walt vẫn ở đó, trong tòa nhà cũ, giản dị của xưởng phim hoạt hình. Eisner cũng từng dùng nó làm văn phòng của ông ta trước khi chuyển tới trụ sở mới này. Giờ đây Roy lại chuyển về đó. Nó khiến ông cảm thấy thoải mái hơn tòa nhà đồ sộ và khô khan mà ông vẫn đùa là mỗi khi bước vào ông phải rải vụn bánh mì làm dấu đường thì mới tìm được lối ra.
Vài tháng gần đây, Roy đã thực sự tách mình ra khỏi Eisner và các lãnh đạo cấp cao khác của công ty. Mặc dù gần 20 năm trước, chính ông là người đã đưa Eisner tới Disney, nhưng giờ đây ông cảm thấy mình đang bị người đàn ông này lừa dối và phản bội. Eisner đến với Disney sau thành công chói lọi trong ngành sản xuất chương trình truyền hình ở kênh truyền hình ABC và sau đó là sản xuất phim tại hãng phim Paramount Pictures. Nhưng giờ thì Roy cho rằng những thành công rực rỡ mà Eisner có được trước đó chẳng qua là nhờ may mắn gặp được những đối tác ăn ý: Barry Diller ở ABC và Paramount;
sau đó là Frank Wells và Jeffrey Katzenberg trong những năm đầu thành công đáng kinh ngạc ở Disney. Kể từ khi Wells qua đời trong một tai nạn máy bay thương tâm vào năm 1994, còn Katzenberg phải ra đi trong cay đắng liền sau đó, trách nhiệm đối với Disney đổ dồn lên một mình Eisner. Theo cách nhìn nhận của Roy thì tình cảnh đó đã dẫn đến những hậu quả vô cùng tồi tệ. Khi cả sức mạnh tài chính lẫn năng lực sáng tạo của công ty đều đi xuống, Eisner lại khư khư giữ lấy quyền lực như một kẻ quẫn trí, cho rằng ông ta và chỉ mình ông ta là sở hữu khả năng sáng tạo thiên bẩm cùng những kỹ năng quản lý cần thiết để dẫn dắt Disney trở thành tập đoàn giải trí và truyền thông của thế kỷ XXI. Eisner còn tự cho mình là người thừa kế ngôi vị của Walt, xuất hiện hàng tuần trên màn hình ti vi trong phòng khách của các gia đình Mỹ với tư cách người dẫn chương trình “The Wonderful World of Disney” (Thế giới kỳ diệu của Disney), hệt như những gì Walt đã từng làm.
Về phương diện này, Roy cảm thấy Eisner chỉ là mắt xích tiếp theo trong chuỗi dài những kẻ dám tự vỗ ngực cho rằng mình có thể ngồi vào ngôi vị của Walt. Đôi khi ông băn khoăn tự hỏi, tại sao lại có quá nhiều người muốn là hiện thân của Walt đến vậy? Chẳng ai lượn quanh Hollywood để rao giảng rằng mình là Louis B. Mayer(1) hay Cecil B. DeMille(2)cả. Điều gì khiến bọn họ ảo tưởng rằng mình là người phù hợp để thay thế Walt? Đầu tiên là E. Cardon Walker, rồi đến con rể của Walt, Ron Miller – chủ tịch và giám đốc điều hành của Disney, những kẻ lúc nào cũng lôi những kỷ niệm về Walt ra để làm bệ phóng. Sau đó lại đến Jeffry Katzenberg, kẻ tự cho mình là người thừa kế của Walt trong vai trò người đứng đầu xưởng phim Disney. Tất cả bọn họ đều đã đi quá giới hạn; mỗi lần như vậy Roy lại buộc phải ra tay can thiệp, và họ đã bị thay thế. Giờ thì tới lượt Eisner, ông ta lại đang lần lượt bỏ qua tất cả các giới hạn.
Roy không tự cho mình là Walt, nhưng nếu có ai đó được quyền thừa kế di sản mà Walt để lại thì người đó phải là ông. Trước toàn thế giới ông vẫn là hiện thân của công ty Disney và những gì mà nó đại diện, là người lãnh đạo cuối cùng của công ty còn mang họ Disney. Chỉ một tháng trước đây, trong lễ khai trương trò chơi mới tại Walt Disney World mang tên “Misson: SPACE,” Eisner còn công khai thay mặt công ty ca ngợi những đóng góp của Roy và được tán thưởng bằng những tràng pháo tay vang rền. Dường như đám đông luôn hưởng ứng Roy, có lẽ là bởi, ở tuổi 73, ông có vẻ bề ngoài rất giống
Walt. Thế nhưng ẩn sau những lời ca tụng công khai của Eisner lại là sự thù nghịch cá nhân ngày một dâng cao. Khi Jane, vợ của Eisner đi ngang qua Roy và vợ ông, Patty, ngay trước khi bài phát biểu của Eisner bắt đầu, họ đã cố tình lờ nhau đi.
Từ lâu Roy đã thôi không tham dự các buổi họp giao ban hàng tuần của Eisner với các lãnh đạo cao cấp khác của Disney, hay những bữa trưa mà Eisner dành để thông báo với Roy về các kế hoạch và chiến lược của công ty nữa. Roy đã không còn tin tưởng Eisner sau khi biết rằng ông ta đã cài cắm một gián điệp để theo dõi mọi lời nói và hành động của ông ở xưởng phim hoạt hình. Gần đây họ còn tránh không nói chuyện với nhau tại buổi công chiếu bộ phim Brother Bear (Anh em nhà Gấu) – tác phẩm hoạt hình mới nhất của Disney, mà theo Roy là rất tầm thường. Tệ hơn cả, năm đó Eisner đã không xuất hiện trong buổi lễ trao giải Disney Legends mà Edna, mẹ của Roy, cùng Lillian, góa phụ của Walt được trao giải còn Roy là người thay mặt gia đình lên nhận giải. Đó là lần đầu tiên Eisner không tham dự sự kiện thường niên này. Liền sau đó, những lời đồn thổi lan đi khắp công ty rằng chủ tịch và phó chủ tịch của Disney đã không còn nói chuyện với nhau nữa.
Roy chẳng hề trông đợi cuộc gặp gỡ sắp diễn ra tại quán rượu với John Bryson, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của Edison International, công ty mẹ của Southern California Edison. Bryson tham gia hội đồng quản trị của Disney vào năm 2000 và sau đó trở thành chủ tịch ủy ban đề cử và kiểm soát đầy quyền lực của công ty. Tại các cuộc họp của hội đồng quản trị, Roy hiếm khi lên tiếng. Nhưng đồng minh, đối tác, luật sư của Roy, đồng thời cũng là thành viên của hội đồng quản trị, Stanley Gold, đã bù đắp lại sự kiệm lời đó của ông. Suốt nhiều năm, Gold luôn kịch liệt phê phán phong cách điều hành cùng kết quả tài chính của công ty. Nhưng những lời chỉ trích của ông tại hội đồng giống như nước đổ lá khoai. Các thành viên hội đồng dường như luôn mù quáng ủng hộ Eisner. Những người không ủng hộ ông ta, như Andrea Van de Kamp và Reveta Bowers, đều đã bị thanh lọc. Những gì đã xảy ra với họ cũng là sự cảnh báo cho những người còn ở lại về những điều có thể xảy ra với những kẻ bất phục tùng. Roy đặc biệt nghi ngờ Bryson, bề tôi trung thành của Eisner, kẻ đã thay thế Gold làm chủ tịch ủy ban kiểm soát và sau đó đẩy ông ra khỏi ủy ban luôn.
Bắt đầu từ tháng Chín năm ngoái, Gold đã gửi hàng loạt thư chỉ
trích kết quả làm việc và chế độ lương thưởng của Eisner tới các thành viên hội đồng. Ông và Roy cho rằng những chỉ trích bằng văn bản sẽ khó mà bị tảng lờ, đồng thời cũng muốn làm rõ quan điểm của mình. Gần đây nhất, Gold và Roy đã phản đối khoản tiền thưởng 5 triệu đô la dành cho Eisner trong một năm mà thu nhập từ hoạt động kinh doanh của công ty giảm tới 25% còn giá cổ phiếu thì chạm mức đáy trong vòng 52 tuần.
Vài ngày trước đó Bryson đã gọi cho Roy. “Tôi cần nói chuyện riêng với ông,” Bryson nói và khăng khăng đòi hẹn gặp tại một địa điểm kín đáo để không bị ai nhìn thấy. Roy đã đồng ý, dù cho rằng trong giọng nói của Bryson có âm vực của sự “chết chóc.” Ông lo sợ
rằng những kẻ trung thành với Eisner đang cố loại trừ Gold. Không khí của các cuộc họp hội đồng gần đây đã trở nên ngày một căng thẳng.
“Mình phải làm sao để bảo vệ ông ấy đây?” Roy băn khoăn về Gold khi bước vào quán rượu. Ông không thể hiểu nổi tại sao hội đồng lại muốn loại bỏ tiếng nói đối lập cuối cùng còn sót lại.
Vừa gọi đồ uống xong, Bryson mở đầu ngắn gọn rồi đi thẳng vào vấn đề.
“Ông biết đấy, Roy, ông đã quá tuổi nghỉ hưu rồi đó,” Bryson nói.
Roy sửng sốt trước sự thẳng thắn của Bryson, ông lẩm bẩm điều gì đó không rõ nghĩa. Phải, về mặt nguyên tắc là như vậy, bởi tuổi về hưu quy định là 72, mà Roy thì đã 73. Nhưng nó không áp dụng với các thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm các chức vụ điều hành trong công ty, mà ông lại là trưởng bộ phận phim hoạt hình. Disney nổi tiếng một phần cũng vì rất nhiều nhân viên có tuổi đời cao.
“Ủy ban đã họp,” Bryson tiếp lời, “Tom Murphy và Ray Watson sẽ rút lui.” Murphy, cựu chủ tịch Capital Cities/ABC, đã tham gia hội đồng quản trị sau khi Disney mua lại ABC vào năm 1995; còn Watson, chủ tịch của Disney trước khi Eisner nhận chức vào năm 1984, là thành viên thâm niên nhất tại hội đồng, chỉ sau Roy. Cả hai đều đã quá tuổi 72. Roy không ngạc nhiên về chuyện đó bởi họ đều đã cho ông biết trước kế hoạch nghỉ hưu của mình.
“Chúng tôi đã cùng kết luận là ông không nên tái tranh cử nữa,”
Bryson nói.
Roy nhìn ông ta mà không tin nổi vào mắt mình. Ông không nói nên lời. Ông cảm thấy như có một mũi dao đang đâm thẳng vào tim. Chưa một giây phút nào ông thoáng có ý nghĩ rằng hội đồng sẽ đi xa tới mức này. Không chỉ bởi ông vẫn là một trong những cổ đông lớn nhất của công ty, mà còn bởi ông đã cống hiến 50 năm cuộc đời mình
cho Disney. Ông là mối dây liên hệ trực tiếp duy nhất với Walt trong hội đồng. Chú Walt từng kể truyện cổ tích và đọc “Pinocchio” cho ông nghe khi ông còn nhỏ. Chính cha ông và Walt đã cùng nhau gây dựng Disney.
Có một sự im lặng ngượng ngùng. Cuối cùng Bryson nói, “Tôi từng phải nói điều tương tự với Warren Christopher,” ý nói tới cựu ngoại trưởng của tổng thống Bill Clinton khi ông này đến tuổi về hưu trong khi đang là thành viên hội đồng quản trị của Edison.
“Anh tốt thật nhỉ?” Roy nói.
“Đương nhiên, ông có thể là thành viên danh dự suốt đời,” Bryson nói. “Chúng tôi vẫn muốn ông xuất hiện tại các công viên hay các sự kiện đặc biệt…”
Roy cắt lời Bryson bằng tiếng cười lớn. Nghĩa là họ vẫn muốn phô trương ông giống như một nhân vật hoạt hình của Disney. Thật là một sự sỉ nhục!
Lại một hồi im lặng kéo dài. Chẳng nghi ngờ gì là họ cho rằng ông sẽ ra đi lặng lẽ, ẩn giật tại lâu đài của mình ở Ai Len hay trên chiếc du thuyền cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng bất chấp tuổi tác, Roy vẫn thấy mình tràn đầy năng lượng cùng lòng quyết tâm. Suốt cuộc đời ông đã luôn bị đánh giá thấp. Chuyện này đã từng xảy ra rồi. Nhưng nó sẽ không thể lặp lại nữa. Ông chỉ còn một điều duy nhất để nói:
“Anh đang mắc một sai lầm nghiêm trọng đấy,” ông nói khi nhìn thẳng vào Bryson. “Và anh sẽ phải hối hận vì đã làm thế.”
Rồi ông đứng dậy và bước thẳng ra ngoài.
Đó là một ngày cuối tháng Năm, trời rất trong xanh, ở trung tâm Florida. Mới 10 giờ sáng mà nhiệt kế đã chỉ đến 32 độ còn độ ẩm thì
cũng ở mức tương tự. Chẳng cần vận dụng nhiều trí tưởng tượng thì cũng có thể tin rằng Disney’s Animal Kingdom, một trong bốn công viên giải trí theo chủ đề của Walt Disney World, thực ra đang nằm ở vùng châu Phi nhiệt đới.
Goofy đang đứng ngay bên ngoài hàng rào, sẵn sàng tiến vào trong công viên. Giống như du khách tại các khu bảo tồn động vật hoang dã ở châu Phi mong mỏi được nhìn thấy một trong “Bộ Năm(3)” loài động vật nổi tiếng nhất nơi đây, khách tham quan Animal Kingdom cũng mong mỏi được trông thấy “Bộ Năm” ngôi sao của Disney – Mickey, Minnie, Donald, Pluto, và Goofy, các nhân vật hoạt hình nổi tiếng nhất và được xin chữ ký nhiều nhất. Goofy là một chú chó, đương nhiên, chú có lông, cái mõm dài, hai tai mềm mượt, bụng hơi phệ cùng đôi bàn chân lớn. Chú cũng là nhân vật cao lớn nhất trong Bộ Năm, những trên một mét tám. Hôm nay chú được hóa trang để trình diễn tại Animal Kingdom. Chú đội một chiếc mũ mềm vành rộng, giày đi bộ và tất, quần soóc màu vàng chanh in hình khủng long, áo sơ mi kẻ ca rô đỏ, dây đeo quần và khăn quàng cổ bằng vải ka ki.
Điều mà nhiều người không nhận ra là tầm nhìn của Goofy rất hạn chế. Đôi tai dài khiến chú khó mà nhìn được sang hai bên, cái mũi quá khổ lại cản trở tầm nhìn phía trước. Thứ chú nhìn thấy nhiều nhất có lẽ là mặt đất ở quanh chân mình. May mắn thay, Goofy có hai người dẫn đường giúp chú bước vào trong công viên. Họ mở cửa và nhẹ nhàng đẩy chú về phía trước. Chú phải cúi thấp người mới bước lọt qua. Goofy không biết chắc mình đang ở đâu, nhưng chú nghe thấy những giọng nói vọng lại từ xa. Chú thấy hồi hộp. Chú có thể cảm thấy tim mình đang đập thình thịch. Chỉ vài giây sau, chú bắt đầu nghe thấy những tiếng reo hò: “Goofy kìa!”
Chú nghe thấy nhiều giọng trẻ con hơn và còn thấy một vài đứa đang chạy lại phía mình. Chú vẫy vẫy tay và biểu diễn màn “đi bộ kiểu Goofy,”điệu bộ ngớ ngẩn vừa đi vừa nhảy cẫng lên đó là một trong những đặc điểm nổi bật nhất của chú. Lũ trẻ lập tức bị mê hoặc! Chúng chạy tới đông hơn, các ông bố bà mẹ từ từ bắt kịp chúng ở đằng sau. Đột nhiên Goofy nhìn thấy một cô bé đang tiến dần về phía mình. Trông cô bé chỉ khoảng 5 hay 6 tuổi và có vẻ hơi sợ sệt. Khi tới nơi cô bé ngượng ngùng đưa ra cuốn sổ xin chữ ký và một cái bút. Goofy vụng về quặp lấy bút và ký vào một trang còn trống, cẩn thận kéo dài đuôi chữ f để nó luôn là nét nổi bật nhất làm nên chữ ký của
Goofy. Thật là nhẹ nhõm khi chó không thể nói chuyện được.
“Ôm Goofy đi con!” Một giọng người lớn cất lên. Cô gái nhỏ trông có vẻ hơi lo lắng, nhưng Goofy mở rộng cánh tay, và cô bé tiến đến sát gần chú. Chú trao cho cô bé một cái ôm dịu dàng. Thế rồi, trong một khoảnh khắc, Goofy nhìn thấy rõ gương mặt cô bé. Sự thẹn thùng tan biến, đôi mắt ánh lên niềm vui sướng và cả gương mặt như bừng sáng. Cô bé tựa vào lòng chú và đặt một nụ hôn lên cái mũi dài của chú.
Ánh đèn dần tắt. Goofy ước mình có thể cởi bỏ đôi găng tay để gạt dòng nước mắt vừa chợt trào ra. Hay có lẽ đó chỉ là những giọt mồ hôi.
Trong chốc lát, sự thẹn thùng của một đứa trẻ biến mất, thay vào đó là sự ngưỡng mộ và niềm vui sướng. Đó chính là thứ mà hầu hết các nhân viên của Disney đang nói đến khi họ dùng từ phép màu để mô tả công việc của mình. Đó cũng là lý do tại sao rất nhiều người đến đây làm việc từ khi còn là học sinh trung học hay sinh viên đại học, và rồi 20 năm sau vẫn còn ở lại. Đương nhiên, Goofy có thật. Đối với cô bé đó chú có thật, và đối với tôi thì giây phút ấy Goofy có thật. Tôi không còn là nhà văn hay nhà báo trong lớp hóa trang bằng đệm lót và bộ lông giả nữa. Tôi là Goofy.
Mặc dù xuất hiện tại công viên giải trí trong vai trò một nhân vật hoạt hình là một phần của lớp học định hướng dành cho các nhà lãnh đạo cao cấp của Disney, nhưng chỉ sau khi chấp nhận vào vai Goofy tôi mới được biết rằng mình sẽ không được viết gì về chuyện đó, ít nhất không được tuyên bố hay ám chỉ rằng Goofy chỉ là một diễn viên được mặc bộ đồ hóa trang. Những người phụ trách các công viên giải trí đã áp đặt điều kiện này với tôi dựa trên nguyên tắc là ảo tưởng về sự tồn tại thực sự của các nhân vật hoạt hình của Disney không bao giờ được phép tiết lộ với bất kỳ ai. Lúc đầu tôi cho rằng chuyện này thật ngớ ngẩn. Bởi nó hiển nhiên như chuyện Ông già Noel không có thật và chắc chắn là tất cả mọi đứa trẻ khi lên 8 hoặc cùng lắm là 10 đều sẽ hiểu rằng bên trong những bộ đồ hóa trang đó là người thật. Nhưng những người làm việc trong các công viên giải trí vẫn cương quyết duy trì quy định đó, và đến khi gặp họ tôi mới hiểu tại sao. Gần như mọi thứ bên trong Disney World đều là ảo tưởng: xinh xắn hơn, sạch sẽ hơn, an toàn hơn, tốt đẹp hơn và vui vẻ hơn thế giới thực. Walt quả là thiên tài khi nhận ra rằng không chỉ có trẻ con mới muốn
chạy trốn khỏi thực tại. Cũng giống như bất kỳ ảo thuật gia tài giỏi nào khác, bạn phải tin vào ảo tưởng, nếu không thì nó sẽ tan biến. Đó là niềm tin phổ biến mà rất nhiều người Mỹ vẫn say sưa ôm ấp, cho nên cái tên Disney mới có thể trở thành biểu tượng của văn hóa Mỹ được lý tưởng hóa trong đó những giấc mơ luôn trở thành sự thực.
Nhưng cũng giống như rất nhiều thứ khác ở Disney, nguyên tắc này đã thay đổi trong vòng một năm rưỡi huyên náo sau buổi trình diễn đầu tiên của tôi tại Animal Kingdom. Sau khi Comcast Cooperation, một công ty truyền hình cáp khổng lồ có trụ sở ở Philadelphia tiến hành chiến dịch thù nghịch nhằm thâu tóm Disney vào tháng Hai năm 2004, Disney đã phải chịu đựng nhiều đòn tấn công ác ý của giới truyền thông. Một bài báo trên Wall Street Journal đã tiết lộ rằng tất cả các nhà lãnh đạo cấp cao của Disney đều đã xuất hiện tại các công viên giải trí trong trang phục của các nhân vật hoạt hình. Sau khi thông tin đó xuất hiện trên tờ tạp chí được phát hành rộng rãi trên toàn nước Mỹ, Eisner đã đồng ý là việc tôi giả vờ Goofy là có thật chẳng còn chút ý nghĩa nào nữa, và ông đã cho phép tôi mô tả trải nghiệm vào vai nhân vật hoạt hình này của mình.
Tôi gặp Michael Eisner lần đầu tiên từ cách đây nhiều năm, trước khi tôi trở thành nhà báo. Năm 1978, tôi là một luật sư trẻ tại hãng luật lớn Cravath, Swaine & Moore có trụ sở ở New York, còn Eisner là chủ tịch hãng phim Paramount Pictures. Công ty của tôi đang đại diện cho kênh truyền hình CBS trong một vụ kiện chống độc quyền do Bộ Tư pháp khởi xướng, trong khi bên bị đơn là các kênh truyền hình cứ khăng khăng cho rằng họ chỉ phối hợp với nhau để giảm chi phí phải trả cho các chương trình mà các hãng phim Hollywood sản xuất. Các hãng phim Hollywood cũng chính là bên đã thúc đẩy vụ kiện và sẽ được hưởng lợi từ bất cứ thỏa thuận dàn xếp nào. Tôi được phân công phụ trách Paramount và giúp lấy lời khai của Eisner.
Tôi vẫn nhớ hôm đến gặp ông tại xưởng phim Paramount ở Hollywood. Ông sở hữu một văn phòng rộng rãi trên tầng hai, có ban công phủ bóng mát của giàn dây leo. Dù bị một đám luật sư bao vây vặn hỏi, Eisner lại có vẻ tự tin và hài hước lạ thường, ông còn pha trò bằng những câu chuyện về mối quan hệ đôi khi căng thẳng của mình với chủ tịch của Paramount, Barry Diller. Ông tháo bỏ giày và ngồi thoải mái với đôi chân chỉ mang tất – cảnh tượng tôi chưa bao giờ thấy trong bất kỳ công ty luật nào ở New York. Mặc dù ở hai phía đối lập, Eisner vẫn tặng tôi vé tham dự buổi ghi hình chương trình “Mork
& Mindy” tối hôm đó. Đây là một chương trình truyền hình đình đám của Paramount vào thời đó. Lần đầu tiên tôi được xem trực tiếp một buổi ghi hình của ngôi sao hài kịch Robin Williams. Trong thời gian giải lao khi các máy quay tạm nghỉ, Williams vẫn tiếp tục những đoạn độc thoại hài hước khiến khán giả trong trường quay cười ngất cho tới tận tờ mờ sáng.
Tất cả những thứ đó hẳn đã gây ấn tượng lên tôi mạnh hơn nhiều so với lên Eisner. Cuối cùng chính phủ đã từ bỏ vụ kiện. Khi tôi hỏi Eisner ông có còn nhớ tôi cũng như buổi lấy lời khai đó hay không, ông đã không thể nhớ nổi chi tiết nào. Nhiều năm đã trôi qua, từ một nhà điều hành trẻ tuổi ở Paramount, ông đã trở thành vị chủ tịch đánh kính, thành công và giàu có của Disney. Khi ông gia nhập Disney vào năm 1984, cả công ty đang rệu rã, xưởng phim hoạt hình huyền thoại gần như hấp hối, còn tài sản của nó đang bị những kẻ thâu tóm dòm ngó hòng xé nhỏ để bán đi. Eisner không chỉ cứu vãn Disney, ông còn biến nó thành công ty giải trí hàng đầu thế giới và bảo vệ thương hiệu được công chúng vô cùng yêu mến.
Tôi tiếp cận Eisner để đề nghị viết một cuốn sách về công ty vào năm 2001. Kể từ khi tham gia vào vụ kiện chống độc quyền chống lại các kênh truyền hình, ngành kinh doanh giải trí và Hollywood đã hấp dẫn tôi. Từng viết nhiều cuốn sách về thế giới tài chính phố Wall hay thế giới chính trị Washington, Hollywood dường như là trung tâm quyền lực và ảnh hưởng tiếp theo xứng đáng để tôi khai thác. Và với hình ảnh luôn được ngợi ca, những thành công nghệ thuật, chưa kể đến khá nhiều diễn biến kịch tính trong hoạt động kinh doanh thì dường như Disney là lựa chọn rõ ràng đối với tôi. Có thể đoán ngay là Eisner không hề hào hứng với ý tưởng đó. John Dreyer, khi đó là giám đốc quan hệ công chúng của Disney, thì lịch sự tiếp đón tôi nhưng không hề khuyến khích ý tưởng có một cuốn sách về Disney. Mặc dù vậy, khi tôi tiếp tục thu thập thông tin, Dreyer đã mời tôi tới gặp ông tại trụ sở của Disney ở Burbank.
Tôi đã không kỳ vọng sẽ được gặp chính Eisner, nhưng khi Dreyer và tôi đang dùng bữa tại phòng ăn lớn của công ty thì ông bất ngờ xuất hiện và tới ngồi cùng bàn với chúng tôi. Ông đặt vài câu hỏi về cuốn sách mà tôi định viết, nhưng sau đó lại chuyển sang một bài báo gần đây của tôi trên tờ New Yorker có tên “Matchmaker”” (Bà mai), viết về Erica Feidner, một người phụ nữ với khả năng kỳ diệu trong việc tìm ra những chiếc đàn piano hoàn hảo cho khách hàng của hãng
sản xuất nhạc cụ Steinway lừng danh. Eisner rất thích nó. Tôi đã vô cùng vui sướng, nhưng Dreyer thì có vẻ không hài lòng. “Michael,” ông nói, “Tôi không chắc là chúng ta có thể bàn bạc chuyện đó ngay
lúc này đâu,” nhưng Eisner vẫn khăng khăng. “Tôi thấy cốt truyện đó sẽ làm nên một bộ phim thành công giống như Mr. Holland’s Opus (Tác phẩm của Thầy Holland) đấy,” ông tiếp tục khi gợi nhớ tới bộ phim do diễn viên Richard Dreyfuss vào vai một thầy giáo dạy nhạc được yêu mến ở trường trung học. “Tôi đã bảo Nina [Jacobson, chủ tịch xưởng phim Disney] phát triển cái này rồi.”
Đó là diễn biến nằm ngoài mọi mong đợi của tôi. Tôi cảm ơn Eisner đã để mắt tới bài báo của mình, nhưng cũng nói rõ rằng tôi sẽ không thể tham gia sâu vào một dự án phim của Disney trong khi đang viết một cuốn sách về nó. Lúc ấy tôi đã không nhận ra rằng có thể đó chính là dụng ý của Eisner, mua bản quyền tác phẩm của tôi để làm phim để khiến tôi từ bỏ ý tưởng viết sách. Hoặc có thể là cả hai, bởi sau này Jacobson có nói với tôi rằng bà thực sự nghĩ từ câu chuyện của tôi Disney sẽ có một bộ phim hay. Cho dù sự thực có là thế nào thì cả hai khả năng đó cũng không trở thành sự thực. Chỉ vài tuần sau, khủng bố tấn công tòa tháp đôi Trung tâm Thương mại. Hoạt động kinh doanh tại các công viên giải trí của Disney lao dốc không phanh khi ngành du lịch nói chung phải chịu đựng những thiệt hại nặng nề, còn các công viên Disney thì dường như là những mục tiêu có khả năng bị tấn công khủng bố ở mức cao. Dreyer gọi cho tôi để nói rằng Disney sẽ không thể xem xét việc hợp tác để xuất bản bất cứ cuốn sách nào vào thời điểm này, còn tôi cũng xếp nó sang một bên để viết về những sự kiện xung quanh ngày 11 tháng Chín mà kết quả là cuốn sách gần đây nhất của tôi, Heart of a Soldier (Trái tim người lính) .
Khi tôi liên hệ lại với Disney về dự án viết sách vào đầu năm 2003 thì Zenia Mucha đã thay thế Dreyer trong vai trò trưởng bộ phận quan hệ công chúng của công ty, đồng thời cũng thổi vào đó một luồng gió mới, tích cực và mạnh mẽ hơn. Là cựu cố vấn chính sách cao cấp cho thị trưởng New York George Pataki, Mucha được đưa vào vị trí này sau khi thể hiện xuất sắc khả năng của mình trong vai trò trưởng bộ phận quan hệ công chúng của kênh truyền hình ABC. Mặc dù chẳng mấy vui mừng về viễn cảnh sẽ có một cuốn sách viết về Disney, nhưng có vẻ như Mucha vẫn thể hiện ít nhất là một chút hợp tác. Eisner sẽ tới New York vào tháng Ba, và bà đã sắp xếp để ba người chúng tôi có thể ăn tối cùng nhau.
Eisner là người chọn địa điểm, nhà hàng Nobu ở khu Tribeca thuộc Manhattan, địa điểm ưa thích của các nhân vật nổi tiếng Hollywood mỗi khi có mặt ở New York. Khi Eisner đến nơi, có rất nhiều người trong nhà hàng nhận ra ông, một số còn chặn ông lại để chào hỏi và bắt tay giữa lúc ông đang đi về bàn. Ông vẫn thoải mái và hài hước y như những gì mà tôi nhớ được ở buổi lấy lời khai trước kia. Dường như ông sẵn sàng thảo luận bất cứ chủ đề nào mà tôi đưa ra, dù đó là thất bại trong việc mời David Letterman hợp tác làm chương trình của đài ABC gần đây, hay các cuộc đàm phán với chính phủ Trung Quốc để mở thêm một công viên giải trí nữa, hay cuộc chiến tranh mờ mịt ở Iraq (“Hẳn là Bush sẽ không làm điều gì quá ngu ngốc đâu,” ông nói với tôi). Sau khi đề cập đến cơn đau tim đã suýt đánh gục ông vào năm 1994, Eisner lướt qua thực đơn để tìm kiếm các món ăn ít chất béo, rồi còn hối tôi dùng Lipitor, một loại thuốc giúp giảm cholesterol mà ông cho là đã giúp ông sống tới ngày hôm nay. Eisner là một nhà kể chuyện đại tài, và rõ ràng đây là kỹ năng đã dẫn dắt ông trong việc lựa chọn vô số các kịch bản đã làm nên các bộ phim đình đám trong nhiều năm qua.
Trong suốt bữa tối đầu tiên đó, tôi đã nói với Eisner về kế hoạch của mình cho cuốn sách: một cái nhìn từ bên trong vào hoạt động kinh doanh của công ty giải trí và truyền thông có tiếng nhất nước Mỹ trong lúc nó đối mặt với những thách thức về cả công nghệ lẫn nội dung sáng tạo. Tôi muốn chứng kiến tận mắt tiến trình sáng tạo của nó, để cho độc giả thấy Disney đã tạo ra văn hóa như thế nào và ngược lại, văn hóa đã nhào nặn Disney ra sao, làm thế nào các nhà lãnh đạo Disney đương đầu với động cơ lợi nhuận trong khi duy trì và thúc đẩy cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Nhờ có Eisner, Disney đã thoát khỏi nguy cơ bị thâu tóm bởi những con cá mập hung hăng như America Online và Time Warner, nhưng nó vẫn là một công ty chủ yếu sản xuất “nội dung” và vẫn phải đối mặt với những gã khổng lồ truyền thông khác như Viacom, News Corp., và Time Warner, những tổ chức sở hữu cả các hệ thống phân phối rộng lớn như truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh. Tôi cho rằng Disney đang trải qua một thời kỳ bước ngoặt khác trong lịch sử của mình, và tôi đề nghị được theo dõi nó trong vòng ít nhất là một năm tiếp theo. Cuốn sách sẽ ra sao, liệu nó sẽ có nội dung “tích cực” hay “tiêu cực” theo quan điểm của Eisner, kết quả đó phụ thuộc phần lớn vào những gì sẽ diễn ra trong thời gian tới. Tôi thừa nhận rằng hợp tác với mình sẽ giống như chơi trò cá cược, bởi chẳng có cách nào biết được câu chuyện mà tôi kể sẽ làm lộ ra những gì. Tôi không hứa hẹn gì cả; sẽ không có bất
kỳ sự ưu tiên nào trong mối quan hệ hợp tác này.
Eisner có vẻ tò mò. Ông nói rằng hoạt động kinh doanh của Disney đang khởi sắc, và dù có thế nào thì bản thân ông cũng là một người lạc quan. Ông từng viết cuốn tự truyện của mình, được xuất bản vào năm 1998 mang tên Work in progress (Việc còn dang dở) nhưng ông khá thất vọng về phản ứng của giới phê bình khi họ cho rằng ông đã che đậy những sự kiện đáng nói tới nhất trong sự nghiệp của mình, đặc biệt là sự ra đi của Jeffrey Katzenberg vào năm 1994 và Michael Ovitz một vài năm sau đó. (Sau này Eisner thừa nhận rằng cuốn sách đã bị các luật sư và lãnh đạo của Disney sửa đổi rất nhiều, họ đã buộc ông cắt bỏ tất cả những tình tiết có thể gây tranh cãi.)
Eisner nói ông hoan nghênh sự xem xét cẩn trọng từ nhiều góc độ. “Tôi thực sự không thấy phiền gì khi anh tìm hiểu về công ty,” ông nói, “bởi tôi chẳng có gì phải giấu giếm. Có thể anh sẽ thấy chúng tôi đã mắc một vài sai lầm, nhưng không phải bởi chúng tôi không nỗ lực làm điều đúng đắn.” Đến khi bữa tối kết thúc, Eisner có vẻ đã thích thú trước viễn cảnh sẽ có một cuốn sách viết về Disney. Chúng tôi cùng lên chiếc SUV màu đen có lái xe riêng của ông, và tôi được đưa về tới tận nhà. Ngay trước khi tôi rời khỏi xe, ông đã nói rằng ông yêu công việc của mình. “Làm việc gì đó mà không thấy vui vẻ thì thật chẳng ích gì,” ông nói. “Vậy hãy cùng vui vẻ với cuốn sách này nào.”
Đương nhiên chẳng ai có thể dự báo trước những sự kiện kịch tính sắp sửa diễn ra, làm đảo lộn toàn bộ hoạt động của công ty và khiến cho Disney trở thành cái tên xuất hiện thường xuyên trên các mặt báo: cuộc đảo chính tại hội đồng quản trị do Roy Disney và đồng minh Stanley Gold đứng đầu; rồi sau đó cả Roy và Gold cùng bất ngờ rời khỏi hội đồng; những cuộc đàm phán không thành với hãng phim Pixar Animation Studios; sự đảo lộn trong hàng ngũ lãnh đạo ở ABC; chiến dịch thâu tóm đầy thù nghịch của Comcast; và cuộc đảo chính của các cổ đông khiến Eisner phải bẽ bàng trước công luận đồng thời từ bỏ ngôi vị chủ tịch, nếu không nói là cả quyền điều hành các hoạt động thường xuyên của công ty. Ngay giữa những sóng gió đó, tôi đã có một cuộc gặp gỡ với Eisner, chỉ một ngày sau khi giám đốc điều hành của Pixar và Apple Computer, Steve Jobs, bất ngờ chấm dứt việc đàm phán để kéo dài mối quan hệ hợp tác đang sinh lời cho Disney và đã góp phần đưa hai tuyệt tác Toy Story (Câu chuyện đồ chơi) và Finding Nemo (Truy tìm Nemo) vào thư viện Disney.
“Tôi có thể thấy là cuốn sách của anh đang biến thành một cuốn Barbarians at the Gate (Kẻ thù trước cửa)(4) nữa rồi phải không?” Eisner gượng nói.
Hai tháng sau bữa tối đầu tiên với Eisner, vào ngày thứ Năm, 21 tháng Năm, một chiếc xe tới đón tôi vào lúc 6 rưỡi sáng ở Nhà nghỉ chân của Animal Kingdom tại Walt Disney World. Lúc ấy tôi đang lưu lại tại Nhà nghỉ chân, một biến thể tuyệt vời của những ngôi nhà lợp mái lá dùng làm nơi nghỉ chân giữa hoang mạc ở miền Đông Phi. Tôi đã ở lại vài ngày để có thể hòa mình vào công viên giải trí, chơi lại những trò chơi như Space Mountain hay The Twilight Zone Tower of Terror, dạo qua khu vực “hậu trường” dành riêng cho “các thành viên diễn đoàn,” và quan sát công việc chuẩn bị cho những buổi biểu diễn như bắn pháo hoa hàng đêm. Tôi đã dạo bộ quanh công viên cùng chủ tịch Al Weiss của Walt Disney World. Ông vẫn duy trì truyền thống mà Walt để lại, nhặt tất cả những mẩu rác mà ông bắt gặp trên đường đi và bỏ chúng vào thùng. Đó là một thói quen rất dễ lây lan; chẳng bao lâu sau tôi thấy chính mình cũng vô thức nhặt nhạnh tất cả những mẩu rác mà tôi bắt gặp trên đường.
Khi còn nhỏ, tôi đã được tới Disneyland hai lần cùng với gia đình, và tôi luôn nhớ tới chúng như những kỳ nghỉ tuyệt vời nhất mà chúng tôi từng có. Cha tôi làm việc cho một đài truyền hình nhỏ ở Trung Tây có phát sóng chương trình “The Mickey Mouse Club” (Câu lạc bộ
Chuột Mickey), vậy nên chúng tôi đã được chào đón trên thảm đỏ như khách VIP (dù vẫn phải xếp hàng chờ đợi). Tôi có thể chơi thoải mái những trò phổ biến nhất tại công viên, như những trò ưa thích nhất của tôi là Fantasyland’s Matterhorn Bobsleds và The Tomorrowland Indy Speedway. The Monsanto House of the Future để lại ấn tượng rất đặc biệt trong tâm trí tôi, cũng như ngôi nhà trên cây của Swiss Family Robinson hay quang cảnh London từ trên cao khi chơi trò bay lượn cùng Peter Pan. Trong chuyến thăm quan thứ hai của mình, chúng tôi đã ghé vào xưởng phim Disney và ăn trưa tại nhà ăn tập thể cùng với những đứa trẻ sẽ xuất hiện trong bộ phim Mary Poppins, thời điểm đó nó đang được quay ngay tại đây. Tôi vẫn nhớ cái đêm cuối cùng của kỳ nghỉ đó, khi chúng tôi ngồi bên ngoài khách sạn Disneyland đợi taxi để ra sân bay. Cô em gái 7 tuổi của tôi bắt đầu dấm dứt khóc vì chúng tôi phải ra về. Con bé quá rối trí nên đã đánh rơi chiếc chăn lông cừu mà nó luôn cắp theo người và chẳng bao giờ còn nhắc tới nó nữa. Không hiểu sao tôi biết rằng chúng tôi sẽ không bao giờ trở lại. Đó là mùa hè năm 1963, chỉ vài tháng trước khi
Kennedy bị ám sát. Ở tuổi mười một, tôi đã có thể cảm nhận được nỗi nhớ nhung hoài niệm cái thời thơ ấu mà tôi biết là sắp ra đi mãi mãi.
Giờ đây, 40 năm sau đó, tôi tới văn phòng của Walt Disney World vào đúng 7 giờ sáng để bắt đầu buổi đào tạo trước khi xuất hiện trong vai trò một nhân vật hoạt hình của Disney. Tammy Gutierrez, một người phụ nữ nhỏ nhắn với nước da ngăm đen, chào đón tôi và giải thích rằng một khóa học định hướng kéo dài 5 ngày đang được dồn lại thành vài giờ để phục vụ mục đích của tôi. Ban đầu được thuê để đóng vai Dopey nhưng Gutierrez đã dành 14 năm cho một vai diễn có yêu cầu cao hơn hẳn là Nàng Bạch Tuyết, một trong những nhân vật “biết nói” của công viên giải trí (Bất kỳ nhân vật nào có gương mặt con người – Cô bé Lọ Lem, Nàng Bạch Tuyết, Mary Poppins, Hoàng Tử – đều phải nói chuyện với khách thăm quan) Gutierrez thực sự rất giống với Nàng Bạch Tuyết trong trí nhớ của tôi. Giờ thì cô kiêm nhiệm cả công việc thử giọng và đào tạo các diễn viên mới.
Tôi đã cho rằng mình sẽ chỉ đơn giản là khoác một bộ trang phục lên và đi lại xung quanh công viên, nhưng Gutierrez nhanh chóng khiến tôi gạt bỏ ý tưởng đó khỏi đầu. “Chúng ta cần sự sinh động,” cô nói với tôi. “Anh phải truyền được năng lượng và tinh thần của mình vào vai diễn – hãy làm giống như thật. Chúng ta không phải những con người ẩn mình sau những bộ trang phục,” bà nhấn mạnh. “Chuyện đó thì bất cứ ai cũng có thể làm được.”
Cô cho tôi xem một đoạn băng ghi lại những lời nói của chính Walt về những gì ông hình dung ra ở Disneyland, một thế giới nơi mà người lớn có thể vui vẻ cùng với con cái họ.
“Chụp hình và ký tặng là công việc chính của anh,” Gutierrez tiếp tục khi đoạn băng kết thúc. “Hãy nhớ, mọi người đã chờ đợi cả cuộc đời để có được giây phút gặp gỡ anh. Anh có thể ở trong một bộ đồ hóa trang, nhưng các bức ảnh trông phải như thật. Anh không nói, mà anh giao tiếp. Anh phải rất sinh động. Có rất nhiều thứ anh có thể làm.”
Tôi phải đi lại giống Goofy, lắc lư đầu mình giống như Goofy, làm những cử chỉ của Goofy, tất cả những gì tiêu biểu nhất làm nên Goofy. Gutierrez đưa cho tôi một tờ giấy ghi lại những đặc điểm tính cách nổi bật nhất của Goofy:
Đặc điểm tính cách: Thường hay bừa bộn, hay đánh rơi đồ, luôn vui vẻ, lạc quan, tốt bụng, xinh đẹp, yêu mến hầu như tất cả mọi người, vụng về, thi thoảng có gây rắc rối, tận tụy, chân thành, trung thực, một kẻ mơ mộng.
Tóm tắt: Mặc dù trên thực tế Goofy là một chú chó mặc quần áo của người nhưng chú có tính cách khá giống như con người. Chú có thể tấn công người qua đường giống như một kẻ táo tợn nơi thôn dã, nhưng sự thực chú có một tâm hồn đôn hậu và nồng ấm, hơi ngốc nghếch một chút, nhưng hoàn toàn vô hại.
Goofy luôn cố gắng để trở thành một người đàn ông lịch thiệp, nhưng khi xấu hổ, chú thường giấu gương mặt hồn nhiên có hàm răng vẩu của mình đi và thốt lên âm thanh ưa thích, “Garsh.” Bề ngoài của Goofy chẳng có chút gì tương đồng với một “ngôi sao.” Lưng chú hơi gù còn vai thì hẹp, xuôi tuột xuống hai cánh tay nặng nề còn cái bụng thì phưỡn ra. Khi chú đi lại, đầu, bụng và đầu gối của chú dường như luôn ở phía trước dẫn đường. Tuy nhiên, điều đó chẳng ngăn cản chú trở thành chuyên gia hàng đầu trong bất cứ môn thể thao hay công việc nào mà bạn có thể kể tên – mỗi thành công đều được gặt hái theo cách rất “goofy.”
Thông qua những lần thử nghiệm rồi mắc sai lầm ngớ ngẩn, chú thường làm sai mọi việc hoặc làm theo cách hoàn toàn ngược đời. Là người luôn luôn lạc quan, chú cười vào những sai lầm của mình và tận dụng chúng hết cỡ. Sức hấp dẫn từ sự vụng về, thô kệch của Goofy quả là không thể cưỡng lại nổi. Trong suốt sự nghiệp, chú luôn sống đúng với tên gọi của mình. Chú đơn giản là chính mình – Goofy!
Sau khi đọc hết chừng ấy thông tin, tôi nhìn Gutierrez vẻ thất vọng. Chuyện này thật vượt quá những gì tôi đòi hỏi.
Gutierrez đưa tôi tới phòng thử vai, trông nó giống như một sàn nhảy lớn. Cả một bức tường lớn được phủ gương. Cô đưa cho tôi một đôi quần soóc đen và một chiếc áo phông màu xám rồi bảo tôi thay đồ. Những thứ đó giúp tôi xóa bớt bộ dạng gắn liền với kiểu quần áo đường phố mà tôi đang vận và bắt đầu trở thành Goofy. Khi tôi trở lại, Gutierrez giúp tôi khoác lên người những phụ kiện trang phục của Goofy mà cần chỉnh sửa nhiều nhất: bộ áo liền quần độn bông có lớp lông giả ở bên ngoài khiến tôi có cái bụng phệ và cái mông đầy đặn hơn ở đằng sau cùng một đôi giày dài lượt thượt một cách khôi hài.
Gutierrez biểu diễn các chuyển động chân và tay của Goofy khi đi bộ rồi bảo tôi bắt chước và tự sửa động tác của mình qua gương. Trông vậy mà chẳng dễ chút nào. Goofy cử động chậm rãi nhưng lại vừa đi vừa hơi nhảy cẫng lên, khuỵu đầu gối xuống, cong gập cánh tay ở
phần khuỷu và vung lên một cách hơi cường điệu. Tôi nghĩ mình đã làm được, nhưng Gutierrez cứ bắt tôi phải làm đi làm lại mãi. Hồi lâu sau cô mới chụp cái đầu Goofy lên người tôi, nó khiến tôi hơi choáng ngợp. Cái đầu rất nặng, và với cái mõm dài ngoằng, nó không cân đối một chút nào, lúc nào cũng như sắp đổ sập xuống mặt tôi. Tệ hơn nữa, nó được thiết kế để tôi nhìn ra ngoài qua cái miệng đang mở của Goofy. Gutierrez dẫn tôi tới trước gương. “Anh nhìn thấy gì?” Cô hỏi. Tôi không chắc mình nên nói gì. “Anh đang nhìn thẳng lên trời,” cô cho tôi biết câu trả lời. “Goofy không phải là một nhân vật dễ vào vai, chính bởi vì hướng nhìn của người diễn viên,” cô giải thích. “Nếu anh đang nhìn thẳng qua miệng của chú ta thì có nghĩa là Goofy đang ngửa mặt lên trời. Để làm cho Goofy nhìn thẳng về phía trước thì gần như là anh phải nhìn thẳng xuống chân mình.”
Tôi lướt nhìn lại tờ hướng dẫn.
Vai diễn của bạn: Là Goofy, hãy cúi đầu xuống để mọi người nhìn thấy mắt của bạn. Khi bước đi, hãy chậm rãi, đẩy đầu gối và bụng về phía trước. Hãy thử làm gì đó – bất cứ thứ gì – và khi làm hỏng bét hãy tự cười mình rồi chuyển sang làm việc khác. Hãy tự chơi đùa một mình hay với một người bạn tưởng tượng nào đó. Hãy chơi bóng chày với Donald hay đuổi bắt Pluto. Hãy chọn một bé gái và cho cô bé thấy bạn thẹn thùng như thế nào. Hãy lịch sự trên mức cần thiết, phủi bụi trên ghế cho các quý cô, cúi chào họ rồi cười khúc khích. Hãy tỏ ra ngốc nghếch, vụng về và đáng yêu.
Nói thì dễ hơn làm. Dù là một nhân vật không biết nói, nhưng chắc chắn là Goofy có thể tạo ra rất nhiều âm thanh. Sau một vài lần tập thử, Gutierrez đành phải chấp nhận rằng tiếng “Garsh!” thực thụ của Goofy có lẽ nằm ngoài khả năng diễn xuất của tôi. Tôi cố đi lại trong phòng, tự ngắm mình trong gương. “Đẩy bụng ra phía trước,” Gutierrez nhắc. “Cúi đầu xuống. Mở rộng chân ra, đặt gót chân xuống trước sau đó quay vòng. Tiếp tục bước đi. Gật đầu, quay sang bên kia, giờ thì vẫy tay chào đi.” Trong khi ấy tôi vẫn chỉ nhìn chằm chằm xuống chân mình. Tôi không thể tin nổi là các nhân vật hoạt hình trên phim lại trông tự nhiên đến vậy; cần phải phối hợp các động tác rất ăn ý mới có thể làm được như thế. Goofy còn có cả một kho cử chỉ
điệu bộ mà tôi phải luyện tập. Do cao lớn nên Goofy thường phải tạo dáng khi chụp hình với lũ trẻ. Chú thường quỳ trên đầu gối, tay dang rộng hoặc làm điệu bộ mà Gutierrez gọi là “Ta da!”: mở rộng một cánh tay trong khi tay kia đặt lên đầu gối. Goofy còn hôn gió và tạo ra âm thanh của một nụ hôn nữa. Chú cười bằng cách đưa tay lên miệng, nhưng khi tôi thử làm điệu bộ đó, Gutierrez nói trông cứ như thể là tôi đang hắt xì hơi vậy.
Đến lúc chuyển sang phần chữ ký. Rất nhiều trẻ nhỏ và cả người lớn muốn xin chữ ký của Goofy. Walt đã quy định rằng chữ ký của từng nhân vật hoạt hình phải giống hệt nhau ở mọi lúc mọi nơi để đảm bảo nhân vật đó chỉ là duy nhất. Ý niệm rằng tất cả các chữ ký phải giống nhau dường như đã trở thành một nỗi ám ảnh, nên Gutierrez cứ bắt tôi phải luyện đi luyện lại chữ ký đặc biệt của Goofy cho đến khi tôi ký đúng thì thôi. Thật không dễ chút nào, nhất là khi bàn tay của Goofy chỉ có mỗi bốn ngón.
Đã 10 giờ sáng, đến lúc tới Animal Kingdom, dù chắc chắn là tôi vẫn cần luyện tập thêm chút đỉnh. Có quá nhiều thứ cần tiếp thu chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ. Tôi được đưa tới tòa nhà lớn, nơi tập trung của các diễn viên ở ngay phía ngoài hàng rào công viên. Ở bên trong, các diễn viên khác đang tập bài khởi động và giãn cơ. Trông ai cũng sung sức, mềm dẻo như những vũ công chuyên nghiệp. Phòng chứa trang phục rộng mênh mông với những giá để quần áo kéo dài tít tắp. Tôi đã bắt đầu thấy nóng dù chưa mặc lớp áo độn bông và bộ quần áo đi phượt sặc sỡ. Mang theo cái đầu của Goofy, Gutierrez dẫn tôi tới một chiếc xe tải cỡ nhỏ, không quên động viên tôi trong lúc chúng tôi được chở đi một quãng ngắn tới một toa xe moóc có gắn điều hòa mát mẻ ngay bên ngoài cửa vào công viên. Tôi có cảm giác mình giống như một phi hành gia đang được đưa tới tàu vũ trụ để chuẩn bị bay vào không gian. “Hãy nhớ,” Gutierrez dặn dò tôi, “đối với những đứa trẻ mà anh sắp gặp, anh là ngôi sao danh giá hơn bất kỳ ai khác mà anh biết ở thế giới người lớn.” Bên trong toa xe moóc, tôi được đưa cho một cái mũ vải để làm xẹp hết tóc xuống, rồi cái đầu nặng trịch được đặt lên vai tôi và cố định luôn vào cái mũ. Trong toa xe còn có một Goofy khác đang nghỉ ngơi giữa các ca làm việc kéo dài nửa giờ. Anh ta lấy làm thích thú khi nhìn tôi đánh vật với cái đầu.
Vài phút sau tôi đã ở trong công viên. Gutierrez vẫn loanh quanh gần đó đề phòng sự cố xảy ra. Sau phút giao lưu thành công với bé gái nọ, tôi thấy phấn chấn hẳn lên. Mức độ adrenaline(5)trong máu tăng
cao. Mọi người vây quanh tôi. Trẻ con xếp hàng để xin chữ ký; những gương mặt thẹn thùng, rồi bừng sáng trong niềm vui sướng. Tôi cố nhớ lại tất cả những gì Gutierrez đã dạy mình: gật đầu, cười, vẫy tay, hôn gió, làm điệu bộ, quỳ một gối xuống. Làm mấy trò “ngốc nghếch.”
Với tầm nhìn bị hạn chế, tôi không nhận ra một cậu bé đã tiến đến ngay bên cạnh, và khi tôi quay đầu, cái mũi dài của tôi đập vào cậu. Vài giây sau, tôi nghe một giọng lanh lảnh cất lên: “Mẹ ơi, mẹ ơi, Goofy va vào đầu con.” Ôi trời đất, một vụ kiện tụng lớn đây, tôi thầm nghĩ. Nhưng Gutierrez không có vẻ gì là sắp phản ứng lại tình huống đó, và dù thế nào thì cũng có quá nhiều kẻ săn tìm chữ ký và muốn được chụp hình với Goofy đang vây quanh tôi. Rất nhiều người lớn cũng muốn chụp ảnh khiến tôi có cơ hội tốt để đứng dậy. “Trong đó chắc là nóng lắm phải không,” một người đàn ông thì thầm bên cạnh tôi khi ánh đèn máy ảnh lóe sáng.
“Tốt hơn là anh nên tin như thế đi,” tôi nghĩ thầm, dù vẫn tuyệt đối giữ im lặng. Trong niềm hân hoan phấn khích hầu như tôi đã không để ý đến cái nóng, nhưng giờ thì người tôi đã ướt sũng mồ hôi, đến nỗi cái mũ vải mà đầu Goofy đang neo vào bắt đầu trôi tuột xuống trán. Chẳng bao lâu sau nó sụp hẳn xuống lông mày, và tầm nhìn vốn đã rất hạn chế của tôi lại có thêm một vật cản nữa. Bị khóa chặt trong bộ trang phục, tôi chẳng thể làm gì để cải thiện tình hình. Cứ thế này thì chỉ trong vòng vài phút nữa thôi, Goofy sẽ chẳng còn nhìn thấy gì nữa.
Qua khe hở mỗi lúc một hẹp dần, tôi nhìn thấy một cậu bé đang tiến lại. Cậu có mái tóc vàng và khoảng chừng ba tuổi. “Ôm Goofy đi con,” ai đó nói. Cậu bé đứng bất động tại chỗ, và trông có vẻ như sắp khóc òa lên. Gutierrez đã cảnh báo tôi rằng các nhân vật hoạt hình sẽ làm vài đứa trẻ sợ hãi, và khi chuyện đó xảy ra, đừng làm gì đột ngột. Giờ thì tôi nghe thấy giọng Gutierrez: “Đập tay với Goofy nào.” Tôi từ từ đưa bàn tay to lớn của Goofy lên, cậu bé chìa tay ra và chạm vào nó, sau đó vội vàng rụt lại. Cậu bé đi vòng quanh tôi đầy lo lắng, rồi tiến sát gần hơn và đưa bàn tay lên. Tôi đập tay với cậu bé. Gương mặt cậu sáng bừng lên nhờ nụ cười rạng rỡ trên môi, và mọi người xung quanh chúng tôi bắt đầu vỗ tay tán thưởng.
Vừa lúc chẳng còn nhìn thấy gì nữa thì tôi nghe thấy tiếng Gutierrez, “Goofy sắp phải đi rồi. Chào tạm biệt Goofy đi nào.” Tôi vẫn còn nghe vẳng lại nhiều giọng trẻ con gọi khi được Gutierrez dẫn
ra cổng, may mà nó chỉ ở ngay gần đó. Tôi cảm thấy như mình chỉ vừa mới ở “trên sân khấu” được vài phút, nhưng thực ra tôi đã hoàn thành một ca làm việc tiêu chuẩn dài nửa giờ. Thật nhẹ người khi bỏ được cái đầu nặng trịch ra và nhìn rõ mọi thứ trở lại. Nhưng giờ thì tôi đã hiểu được tại sao những người như Tammy Gutierrez lại có thể gắn bó với công việc này trong suốt 14 năm. Một khi đã được ngắm nhìn những gương mặt trẻ thơ đó, chẳng còn gì trên đời này có thể giống như thế được nữa.
PHẦN 1
THẾ GIỚI KỲ DIỆU CỦA DISNEY 1
Buổi sáng ngày thứ Hai, 24 tháng Chín năm 1984, Michael Eisner thức dậy trong tâm trạng hơi bồn chồn. Đó là ngày làm việc đầu tiên của ông với tư cách chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của công ty Walt Disney. Với dáng người cao cùng mái tóc xoăn xám màu, ở Eisner vẫn có chút bóng dáng của cậu thiếu niên trường dự bị năm nào dù ông đã bước sang tuổi 42. Hồi hộp chuẩn bị để tạo ấn tượng tốt trong lần ra mắt đầu tiên, ông sửa soạn áo vest và cà vạt chỉnh tề rồi lên đường tới Disney bằng xe riêng. Ông định sẽ lái xe từ nhà ở Bel Air tới Cao tốc liên tiểu bang 405 Bắc, sau đó tới Xa lộ Ventura. Xưởng phim Disney nằm quá xa trung tâm Hollywood nên Eisner chỉ có thể lờ mờ hình dung vị trí của nó mà thôi – nó nằm đâu đó ở Burbank. Nhưng rồi ông sớm nhận ra mình đã lạc quá sâu vào San Fernando Valley. Ông đành gọi cho luật sư riêng, Irwin Russell, để được chỉ đường.
Khi lái xe vào trong khuôn viên Disney, Eisner thấy một loạt những tòa nhà thấp tầng khiêm tốn, được bao bọc bởi những bờ rào và bãi cỏ được cắt tỉa cẩn thận trong một diện tích khiêm nhường 1,6 ha, khác hẳn lối vào ấn tượng của Paramount nơi Eisner đã nắm giữ
vai trò tổng giám đốc trong suốt 7 năm qua. Một vài bụi cây ở đây còn được cắt tỉa thành hình các nhân vật hoạt hình của Disney. Xưởng phim hoạt hình nơi có phòng làm việc của Walt Disney nằm ở chỗ giao giữa hai đường giao thông nội bộ mang tên đại lộ Mickey và Dopey Drive. Ở góc đường là khối tượng theo phong cách miền Tây hoang dã đã ngả màu của các nhân vật trong “Zorro,” một bộ phim truyền hình nhiều tập do Disney sản xuất đã ngừng phát sóng từ 23 năm trước. Nhìn bãi đỗ xe gần như trống hoác, Eisner có thể đoán ra mình là một trong những người đến sớm nhất.
Bước vào trong, Eisner mới nhận ra mình không biết phải đi đâu. Mọi thứ diễn ra quá bất ngờ. Mới thứ Bảy trước, hội đồng quản trị đã bỏ phiếu bổ nhiệm ông vào vị trí chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám đốc điều hành, cùng với Frank Wells, một luật sư đồng thời là cựu
giám đốc của hãng phim Warner Bros., làm tổng giám đốc kiêm giám đốc tác nghiệp của Disney.
Một cuộc đảo chính do Roy Disney cầm đầu đã lật đổ Ron Miller, con rể của Walt. Kỳ nghỉ cuối tuần đó kín đặc các cuộc họp với các ngân hàng đầu tư và các luật sư mà chủ đề chính là về nguy cơ Disney bị thâu tóm cũng như những vấn đề tài chính khá xa lạ với Eisner, như “giá trị sổ sách” hay “lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu.”
Eisner tự giới thiệu mình với một nhân viên bảo vệ và được anh ta đưa tới gặp giám đốc quan hệ công chúng của Disney, Erwin Okun. Okun dẫn ông tới văn phòng cũ của Walt nằm trên tầng ba của xưởng phim hoạt hình. Dọc hành lang là các tấm “cel” nguyên bản được vẽ bằng tay và đóng khung nhiều màu các nhân vật hoạt hình tiêu biểu của Disney: Nàng Bạch Tuyết, Pinocchio, Công chúa ngủ trong rừng, Fantasia. Viên thư ký của Walt trước kia, Lucille Martin, vẫn ngồi ngay bên ngoài. Thoáng một chút lưỡng lự, Eisner ngồi xuống ghế của Walt ở sau bàn làm việc.
Một lát sau, Frank Wells bước vào và ngồi xuống đối diện Eisner. Ở tuổi 52, Wells có vẻ ngoài hoàn hảo của một giám đốc điều hành: cao ráo, điển trai kiểu phong trần, đeo kính, tóc ngả bạc hai bên thái dương. Mối quan hệ đối tác mới mẻ này có gì đó giống như một cuộc hôn nhân vội vàng. Nó mới chỉ hình thành chóng vánh từ vài tháng nay mà kết quả chính là cuộc bỏ phiếu của hội đồng quản trị. Eisner không biết gì nhiều về Wells, nhưng việc Wells sẵn sàng nhận vị trí số 2 và nhường ngôi vị tối cao cho ông đã gây được ấn tượng sâu sắc. Họ trao đổi ngắn gọn trong khi Wells đưa mắt quan sát xung quanh. Nhưng mãi mà Wells vẫn chẳng có vẻ gì là sẽ đứng dậy. Cuối cùng, Eisner đành hỏi: “Chúng ta sẽ ngồi cùng nhau ở đây ư?”
Wells nhún vai. “Tôi nghĩ thế.”
“Nhưng thế này thì tôi khó mà làm việc được,” Eisner phân trần. Vậy là Wells chuyển sang phòng hội thảo kế bên.
Cũng giống như rất nhiều thứ khác ở Disney, văn phòng nơi
Eisner đang ngồi chẳng thay đổi mấy kể từ khi Walt qua đời vào năm 1966. Nhịp điệu làm việc ở đây thong dong đến nỗi ngày làm việc đã gần như kết thúc vào bữa ăn trưa, ít nhất là với các nhà quản lý và giám đốc sản xuất cấp cao. Họ chơi bài mỗi ngày, sau bữa trưa trong một căn phòng nhỏ kế bên phòng ăn dành cho ban lãnh đạo công ty. Thi thoảng họ còn tận hưởng dịch vụ mát xa từ chuyên gia Bob Hope, anh này đã được giữ luôn lại làm nhân viên trong công ty. Sau mát xa sẽ là xông hơi và tắm tráng trong phòng tắm 30 vòi phun được thiết kế riêng theo yêu cầu của Walt. Tối thứ Ba hàng tuần, nhân viên trong công ty sẽ nghỉ làm sớm để chơi môn bóng mềm. Khi một người quản lý cao cấp mới được tuyển dụng cương quyết làm việc vào buổi tối và cuối tuần, hành động đó đã được coi là quá kỳ lạ nên bộ phận an ninh đã tiến hành một cuộc điều tra nội bộ.
Hầu như chưa có ai từng bị sa thải khỏi Disney. Ở hầu hết các hãng phim khác, rất nhiều nhân viên chỉ được tuyển mộ để chạy một chương trình sản xuất rồi ra đi sau khi đóng máy. Ở Disney, họ ở lại vô thời hạn, chờ đợi các dự án mới. Thay vì sử dụng các nhà sản xuất thuê ở bên ngoài, Disney biến tất cả họ thành người của mình. Cứ 4 năm Disney lại cho ra đời một bộ phim hoạt hình mới, trong khi mới chỉ hoàn thành ba bộ phim chuyển thể vào năm trước khi Eisner gia nhập công ty. Chi phí gián tiếp của một bộ phim do Disney sản xuất cao gấp hai lần so với các hãng phim đối thủ.
Eisner và Wells đã quyết định rằng tình cảnh này sẽ phải thay đổi, nhưng vào buổi chiều của ngày làm việc đầu tiên, họ vẫn cố gắng trấn an những nhân viên cấp dưới đang hoang mang bằng bài phát biểu từ chiếc bục mà trước đó được dựng lên cho bộ phim kinh dị siêu tưởng Something Wicked This Way Come (Hội chợ kinh hoàng). Thật tốt là Roy cũng có mặt cùng với họ. Sau đó cả ba đi hết một lượt để gặp gỡ và bắt tay tất cả những người có mặt. Eisner hỏi một người phụ nữ trẻ làm việc ở bộ phận nào. “BVI,” cô đáp.
“Tôi không biết là Disney còn sở hữu cả một công ty đồ lót đấy.” Eisner nói.
“Ấy không,” cô nhân viên cười lớn. “BVI có nghĩa là Buena Vista International,” bộ phận phân phối phim của Disney.
Eisner cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm, bởi trong nhiều lần phỏng vấn trước cuộc bỏ phiếu của hội đồng quản trị, không ai hỏi ông
nhiều về Disney, cả về công ty lẫn những gì mà nó sản xuất ra. Như sau này ông viết trong bản thảo cuốn tự truyện của mình, “Thành thật mà nói, tôi biết rất ít về Disney, văn hóa hay đến cả các bộ phim mà nó sản xuất ra cũng vậy. Nếu Disney không rơi vào tình cảnh khó khăn và thực sự có nguy cơ bị thâu tóm rồi rao bán từng phần nhỏ thì tôi đã không thể vượt qua các cuộc phỏng vấn. Nếu xưởng phim Disney không trở nên rệu rã đến vậy, tôi cũng sẽ chẳng bao giờ vượt qua các cuộc phỏng vấn. Nếu không có được niềm tin tuyệt đối của Roy Disney, vì những lý do mà tôi sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi, tôi cũng sẽ không vượt qua nổi các cuộc phỏng vấn. Và nếu Sid Bass không ủng hộ niềm tin tuyệt đối đó thì tôi sẽ chẳng bao giờ thành công.
Sự thực là tôi biết quá ít về Walt Disney.
Thế nên nếu người phỏng vấn có hỏi, ‘Vậy ông Eisner, ông nghĩ sao về Snow White (Nàng Bạch Tuyết) ?’
Thì câu trả lời của tôi sẽ là, ‘Tôi chưa bao giờ xem bộ phim đó,’
‘Ồ, thật vậy sao? Vậy thì hãy nói cho tôi nghe, ông thấy Sleeping Beauty (Công chúa ngủ trong rừng) thế nào?’
‘Tôi cũng chưa bao giờ xem bộ phim đó,’ tôi sẽ ngượng nghịu trả lời.
Các câu hỏi sẽ tiếp tục, nhưng cuối cùng chúng sẽ chỉ cho thấy một điều duy nhất là từ bé đến lớn tôi chưa từng xem một bộ phim nào của Disney… Và tôi cũng sẽ phải thừa nhận rằng mình chưa từng xem một tập nào trong chương trình dài kỳ ‘The Wonderful World of Disney’ vào các buổi tối Chủ nhật… Tôi có thể kể về các buổi nhạc kịch ở sân khấu Broadway mà mình từng tới xem khi còn nhỏ, như South Pacific (Nam Thái Bình Dương), hay Carousel, hay Oklahoma!, hay Kiss Me Kate (Kate, hãy hôn anh), hay Where’’s Charley? (Charley đâu rồi?), hay The King and I (Đức Vua và Tôi), hay những chương trình truyền hình tôi từng xem thời thơ ấu như ‘Hopalong Cassidy’ hay ‘The Milton Berle Show’ (Chương trình của Milton Berle) hay ‘Howdy Doody,’ nhưng tuyệt không phải là các chương trình của Disney.
Và tôi cũng từng không thực sự thích Walt cho lắm. Điều đó có thể chẳng có lợi cho tôi chút nào [trong các cuộc phỏng vấn]. Nhưng
nguyên do không phải bởi tôi tới từ Paramount hay ABC, hay Hollywood mà bởi tôi đến từ một thế giới hoàn toàn khác Walt. Walt đến từ vùng đồng bằng trung tâm. Chicago và Kansas. Còn tôi sinh ra ở New York. Walt thuộc về số đông, một người Thiên Chúa giáo chính thống; còn tôi chỉ là thiểu số, một người Do Thái. Walt sống trong những ngôi nhà lớn, trong nông trại, giữa cộng đồng người Mỹ thực thụ. Còn tôi lớn lên trong một căn hộ của một tòa nhà cao tầng. Tuổi thơ của Walt là những tháng ngày đi bộ tới trường trên những con đường bụi bặm, vượt qua những đồng cỏ, cố làm sao tránh được lũ chó dữ và bò cho đến những đứa trẻ hay bắt nạt. Tôi đi bộ dọc đại lộ Công viên tới phố 78, qua đèn đỏ và những cửa hàng bánh kẹo lộng lẫy sắc màu, tránh những đứa hay bắt nạt để đến Allen-Stevenson, một trường tư chỉ dành cho nam sinh. Tôi phải đeo cà vạt khi tới lớp. Tôi ăn tối hàng ngày với đông đủ các thành viên trong gia đình, dưới ánh nến, trong trang phục chỉnh tề, cổ vẫn đeo cà vạt. Tôi ngờ là Walt không như thế.”
Nhưng một khi đã gia nhập Disney, Eisner buộc phải hấp thụ nhanh chóng những tình tiết cốt lõi nhất về câu chuyện cuộc đời Walt. Walt Disney luôn tự tách mình khỏi Hollywood – cả vẻ ngoài hào nhoáng, tư tưởng hưởng thụ vật chất lẫn công nghệ lăng xê cùng sự cạnh tranh khốc liệt ở đó. Những người nhập cư đến từ Đông Âu và New York phồn hoa đã tạo ra Paramount cùng các hãng phim lớn khác của Hollywood; Walt và Roy, anh trai đồng thời là đối tác kinh doanh của ông lại lớn lên ở một nông trại vùng Missouri, nơi chẳng có điện cũng chẳng có hệ thống nước ở trong nhà. Cái nhìn hoàn hảo về cuộc sống nông thôn vùng Trung Mỹ trước ngưỡng cửa chuyển giao giữa hai thế kỷ luôn thấm đẫm trí tưởng tượng của Walt – những chiếc xe trượt dùng ngựa kéo, những buổi đi lễ nhà thờ, các loài gia súc cùng những chuyến đi thú vị tới cửa hiệu bách hóa – tất cả đều được tái hiện nhiều lần trong các bộ phim của Disney và đặc biệt là tại công viên giải trí Disneyland, đại lộ chính của nó chính là hình ảnh mô phỏng trung tâm thành phố Marceline, bang Missouri, quê hương của Walt.
Sau khi nông trại của gia đình phá sản, cha của Walt chuyển cả nhà tới thành phố Kansas và sau đó là Chicago, nơi Walt say sưa miệt mài với những bài học tại Bảo tàng Nghệ thuật Thành phố. Vào năm 1919, Walt đã làm cho người cha có đầu óc thực dụng của mình kinh ngạc khi thẳng thừng tuyên bố rằng, kiếm sống bằng nghề họa sĩ còn dễ chịu hơn làm nghề diễn viên, dù đó cũng là một hoài bão khác của
ông. Ông trở lại thành phố Kansas, bị từ chối vào làm họa sĩ vẽ tranh hoạt hình cho tờ Kansas City Star, nhưng sau đó lại tìm được một bến đỗ khác ở công ty Kansas City Slide với công việc vẽ các quảng cáo được chèn vào trước khi chiếu phim. Walt đã cùng Ub Iwerks, một người bạn họa sĩ và cũng là đồng nghiệp của ông, làm ra những bộ phim hoạt hình sơ khai chỉ dài độ một phút. Được khích lệ bởi lời hứa của một nhà phân phối phim ở New York, họ đã tự thành lập công ty riêng, lấy tên là hãng phim Laugh-O-Gram. Nhưng nó đã phá sản vì họ chẳng bao giờ nhận được số tiền được hứa hẹn.
Walt chuyển tới Los Angeles vào mùa hè năm 1923, sau đó ông ngỏ ý với anh trai và Iwerks hợp tác trong lĩnh vực sản xuất phim hoạt hình lúc mới đang trong thời kỳ trứng nước. Roy dốc gần hết tiền của ông vào đó và đứng ra điều hành việc kinh doanh. Năm 1925, bạn gái của Roy, Edna, chuyển từ Kansas tới L.A để cùng Roy tổ chức hôn lễ. Lillian Bounds gia nhập công ty, đầu tiên với tư cách họa sĩ vẽ các nhân vật hoạt hình trên các tấm cel, và sau đó là thư ký riêng của Walt. Roy cưới Edna vào ngày 11 tháng Tư năm 1925; Lillian là phù dâu chính. Ba tháng sau đó Walt cũng cưới Lillian.
Công việc kinh doanh cực kỳ khó khăn. Họ tồn tại được chủ yếu nhờ bán các bộ phim hoạt hình xoay quanh một nhân vật do Iwerks tạo ra mang tên Oswald the Lucky Rabbit (Chú thỏ may mắn Oswald). Nhưng phần vì những tiêu chuẩn ngặt nghèo của Walt trong quá trình sản xuất mà chi phí để tạo ra Oswald đã bị đội lên rất nhiều so với những gì họ được Universal, đơn vị phân phối bộ phim, chi trả. Roy gửi Walt, cùng với Lillian, tới New York để yêu cầu một mức thù lao hợp lý hơn. Trong khi họ đi vắng, giám đốc sản xuất của Oswald, người nắm bản quyền sở hữu nhân vật, đã thuê lại toàn bộ nhóm họa sĩ hoạt hình của Disney để tự mình sản xuất các bộ phim, chỉ để chừa lại anh em nhà Disney và Iwerks. Lúc trở về, họ thấy Roy đang phấp phỏng chờ đợi trên sân ga. Ông hỏi: “Thế nào, em đã có kế hoạch gì trong đầu chưa?”
“Chưa, nhưng em có một ý tưởng tuyệt vời,” Walt đáp lời.
“Những chú chuột luôn khiến tôi say mê,” sau này Walt giải thích. “Khi còn làm việc ở Kansas, tôi từng bắt vài chú chuột từ các thùng rác quanh xưởng phim. Tôi để chúng vào một cái lồng, đặt trên bàn và thích thú quan sát những chuyển động thú vị của chúng. Một trong số mấy chú chuột mà tôi bắt về còn tỏ ra khá thuần, chú thường bò
khắp bàn trong khi tôi làm việc.”
Walt bắt đầu phác thảo các chú chuột hoạt hình trên chuyến tàu trở về từ New York và cho Lillian xem. “Thật là những sinh vật nhỏ bé đáng yêu,” sau này bà nhớ lại. Bà đã hỏi xem Walt định đặt tên nhân vật chính là gì. “Chuột Mortimer,” Walt đáp.
“Cái tên đó nghe có vẻ không được hay lắm,” bà nói. Suy nghĩ hồi lâu, bà tiếp lời: “Thế gọi là chuột Mickey thì sao nhỉ?” Walt và Roy không bao giờ để bất kỳ ai khác nắm quyền sở hữu các nhân vật hoạt hình của mình nữa.
Steamboat Willie (Con tàu Willie), bộ phim hoạt hình có lời thoại đầu tiên đã gây được tiếng vang lớn ngay từ lần chiếu rạp đầu tiên tại New York vào năm 1928. Chú chuột Mickey trở thành nhân vật ngôi sao và xưởng phim Disney cũng ra đời từ đó. Nhưng một phần bởi trí tưởng tượng không ngơi nghỉ của Walt, nỗi ám ảnh phải trau truốt tất cảcác nhân vật hoạt hình đến mức hoàn hảo, cộng thêm sự thờ ơ trước các báo cáo kết quả kinh doanh mà Disney chẳng bao giờ có được sự ổn định về tài chính cho tới khi bộ phim Snow White and the Seven Dwarfs (Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn) được công chiếu vào năm 1937. Nó đã làm tiêu tốn một khoản tiền khổng lồ mà thời điểm đó chắc chưa ai từng nghĩ tới, 1,5 triệu đô la, lấy từ nguồn tiền riêng của anh em nhà Disney và một khoản vay từ ngân hàng Bank of America.
Walt để mắt tới từng chi tiết của bộ phim, thậm chí khi nó đã hoàn thành, ông vẫn còn chưa hài lòng và muốn làm lại một số cảnh với chi phí tăng thêm khoảng 300 ngàn đô la nữa. Roy đã ngăn cản được em trai. Công cuộc làm phim đã khơi dậy toàn bộ phẩm chất của một ông bầu cũng như người diễn viên luôn cầu toàn trong con người Walt. Buổi công chiếu đầu tiên của bộ phim vào ngày 21 tháng Mười hai năm 1937 tại rạp Carthay Circle, Hollywood, thu hút hơn 4 ngàn khách mời tới dự. Các nhân vật 7 chú lùn được hóa trang hoàn hảo, tay cầm cuốc chim, xuất hiện trong một mô hình mỏ kim cương được dựng đúng kích thước thực tế. Đó cũng là lần đầu tiên các nhân vật hoạt hình sống động ra mắt công chúng, các diễn viên hóa trang thành Mickey, Minnie, Donald, Goofy và Pluto cùng nhau ra chào khán giả. Một dàn nhạc giao hưởng, một dàn hợp xướng và nhiều người độc tấu cùng làm nền nhạc cho bộ phim trong khi nó được trình chiếu. Tờ Motion Picture Herald đã gọi nó là “buổi ra mắt ấn
tượng nhất trong lịch sử điện ảnh.”
Snow White được đề cử một giải Oscar cho phần nhạc và bài hát hay nhất vào năm 1938, và được trao giải Oscar danh giá vào năm 1939. Nó còn mang lại hàng triệu đô la lợi nhuận cho Công ty Disney đồng thời mở ra một thời kỳ hoàng kim của các bộ phim hoạt hình Disney. Trong vòng 5 năm sau đó, lần lượt các bộ phim lừng danh khác đã ra đời: Bambi, Pinocchio, Dumbo, cùng bộ phim mà chính Walt cũng thừa nhận là kiệt tác của ông, Fantasia. Những năm 1950 và 1960 là các bộ phim Cinderella (Cô bé Lọ Lem), Sleeping Beauty, 101 Dalmatians (101 Dalmatians), Jungle Book (Cuốn sách rừng xanh), và Mary Poppins. Nhưng rồi, từ sau khi Walt qua đời vào năm 1966, ánh hào quang của hoạt hình Disney cứ thế phai nhạt dần.
Dù không có nhiều điểm tương đồng với Walt, Eisner vẫn tìm thấy rất nhiều chi tiết trong câu chuyện cuộc đời Walt đặc biệt hấp dẫn ông. Như sau này ông viết, “Trên phương diện cá nhân, tôi vô cùng ngưỡng mộ tinh thần vượt khó, sự lạc quan không hề nao núng của Walt khi phải đối mặt với muôn vàn khó khăn từ khi còn bé cho đến tận lúc qua đời. Trên phương diện công việc, tôi vô cùng khâm phục sức sáng tạo dồi dào cùng những ý tưởng độc đáo xuyên suốt cả sự nghiệp kéo dài trên 40 năm của Walt, cả với tư cách là một nghệ sĩ lẫn một doanh nhân.”
Giống như Walt, Eisner cũng tự cho mình là một người sáng tạo, một nghệ sĩ kể chuyện đại tài. Học chuyên ngành văn học ở trường đại học, ông từng say sưa viết kịch và luôn tự hào về khả năng đánh giá kịch bản của bản thân. Walt giao phó cho Roy xử lý các công việc thường nhật liên quan tới tài chính và quản trị; riêng Eisner đã có Frank Wells.
Nhưng Eisner cũng nhận thức rất rõ ràng rằng tuổi thơ sung túc nơi đại lộ Công viên của ông khác xa so với tuổi thơ của Walt. Ông ngoại của Eisner, Milton Dammann, là một triệu phú tự thân lập nghiệp. Ông đã tích lũy được khối tài sản nhiều triệu đô la, từng là Chủ tịch công ty Dao cạo an toàn Mỹ trước khi bán nó cho Philip Morris. (Có một thời gian, ông ngoại của Eisner còn là cổ đông cá nhân lớn thứ hai của Philip Morris). Gia đình bên nội của Eisner cũng rất giàu có. Cụ của ông đã làm nên cơ nghiệp nhờ sản xuất quân phục cho quân đội và Hội Nam hướng đạo Mỹ. Cha ông từng học tại Princeton và trường luật Havard còn mẹ xuất thân trong một gia đình
giàu có ở Bedford Hills, New York. Nhà bà lúc nào cũng có khoảng 15 người làm công và phục vụ.
Dù sở hữu khối tài sản khổng lồ nhưng ông bà của Eisner vẫn rất cần kiệm, một phẩm chất gắn liền với nếp sống của các gia đình giàu có truyền thống xưa. Một lần, chàng trai trẻ Eisner đang đi trên taxi trong trời bão tuyết thì bắt gặp bà của mình, khi ấy đã ở tuổi 80, đang đứng chờ xe buýt bên ngoài trung tâm thương mại Bloomingdale’s. Anh bảo taxi dừng lại, chạy ra đón bà và cương quyết mời bà lên xe cùng mình. Vậy mà bà đã cật vấn đứa cháu trai: “Sao cháu lại phí tiền đi taxi thế?” Còn ông của Eisner thì cương quyết lái xe vào Manhattan qua cầu Willis Avenue chứ không qua cầu Triborough để có thể tiết kiệm 25 cent phí cầu đường.
Michael, chị Margot cùng cha mẹ vẫn thường xuyên đi về giữa căn hộ trên đại lộ Công viên, ngôi nhà lớn ở Bedford và một nông trại ở Vermont. Từ khi còn bé Michael Eisner đã biết rằng gia đình mình rất giàu, đặc biệt là ông bà. Nhưng nói chuyện tiền bạc là điều cấm kỵ, giống như chuyện tình dục vậy. Gia đình họ luôn ác cảm với những kẻ khoe khoang tiền của hay thích thu hút sự chú ý của mọi người tới những món tiền quyên góp từ thiện của mình – một thái độ khá phổ biến ở các gia đình có nền tảng trí thức và giàu có, nhưng không phải ở Hollywood hay Beverly Hills.
Trên rất nhiều phương diện, Eisner luôn thần tượng cha mình, Lester, một người đàn ông điển trai có dáng vẻ cường tráng của một vận động viên, lôi cuốn và luôn tràn đầy sinh lực, cho dù ông khá xa cách với con trai. Mùa hè năm 1949, khi cậu bé Michael tròn 7 tuổi, cha cậu dùng chiếc Buick của gia đình để chở cậu tới trại Keewaydin, gần Middlebury, Vermont. Đó cũng là lần đầu tiên chỉ có hai bố con với nhau mà Eisner có thể nhớ được. Cả cha, ông và các chú của Michael đều từng tham dự trại hè Keewaydin. Nó được thành lập vào năm 1910 và là một trong những trại hè hoang dã đầu tiên dành cho các bé trai ở Mỹ. Khu đốt lửa trại được ông của Michael tài trợ xây dựng, trong khuôn viên còn gắn một tấm bia tưởng niệm chú Jaques của Michael, một cựu thành viên của Keewaydin đã hy sinh trong Trận Guadalcanal. Những tấm biển và vật kỷ niệm khác ghi lại thành tích của rất nhiều thành viên nhà Eisner trong các môn bơi lội, chèo thuyền với tư cách là “vận động viên xuất sắc nhất.”
Khi họ đến nơi thì trời đã tối, cậu bé Michael vẫn còn chưa hết
hồi hộp lo sợ thì đã bị bỏ lại một mình qua đêm trong lều với các cậu trai khác. Sau một ngày tham quan quanh trại và tham gia các hoạt động với các trại viên khác, người hướng dẫn hội ý với cha của Michael và sau đó ướm hỏi Michael có muốn tham gia đấm bốc với một cậu trai khác trong buổi thi đấu vào tối thứ Bảy hay không. “Chắc chắn rồi ạ,” Michael trả lời, mơ hồ rằng mình sẽ chẳng còn lựa chọn nào khác. Cậu bé chưa từng đấm bốc bao giờ. Hôm đó cậu bước vào vòng đấu và đối mặt với đối thủ hơn mình 2 tuổi và to lớn gấp 2 lần. Chỉ trong chưa đầy 2 phút Eisner đã bị đánh bại. Nhưng cậu bé không hề khóc một tiếng.
Eisner đã trải qua rất nhiều mùa hè ở Keewaydin, ban đầu với tư cách trại viên và sau đó là cố vấn. Về sau ông gọi đó là “trải nghiệm quan trọng nhất trong cuộc đời tôi.” Như ông từng viết trong một bản thảo của cuốn sách mang tên Camp (Trại hè) , “ Tinh thần đồng đội là yếu tố quan trọng nhất đối với thành công của chúng ta (không phải ngẫu nhiên mà nơi tôi làm việc lại được gọi là tòa nhà Team Disney), chính tại Keewaydin tôi đã hiểu ra rằng thành công sẽ đến khi tất cả cùng nỗ lực hướng về một phía.”
Một điều kỳ lạ là Eisner không bao giờ được phép gọi cha mình một cách thân mật là “Bố” hay “Cha,” mà được yêu cầu phải gọi ông bằng tên Lester. Nó khiến Michael cảm thấy rất xấu hổ mỗi khi những đứa trẻ khác đặt câu hỏi liệu Lester có phải là cha đẻ của cậu hay không. Khi Michael hỏi mẹ tại sao cậu phải gọi cha là Lester, bà đã giải thích rằng chị của cậu khi ở tuổi chập chững đã gặp rất nhiều khó khăn với việc phát âm từ “Cha”, nên họ đã khuyến khích cô bé gọi cha bằng tên Lester. Lời giải thích ấy, ngay cả với cậu bé Michael non nớt, cũng có vẻ không được thuyết phục cho lắm.
Dù được đào tạo ở Princeton và trường luật Harvard nhưng Lester vẫn thay đổi hết công việc này đến công việc khác mà không có được thành công hay đóng góp đáng kể nào. Công việc kinh doanh đồng phục của gia đình Eisner do anh trai của Lester điều hành cũng thua lỗ, dù nó chẳng làm suy suyển mảy may khối tài sản khổng lồ của gia đình. Cuối cùng Lester nhận một công việc hành chính trong chính phủ, trưởng bộ phận nhà ở công cộng dưới quyền của thị trưởng New York Nelson Rockefeller, nhưng sau đó ông đã từ chức để không phải tuân thủ yêu cầu tiết lộ các khoản đầu tư tài chính cá nhân vì cho đó là một sự xâm phạm quyền riêng tư. Lester áp đặt kỷ luật làm việc vô cùng nghiêm ngặt lên các con của mình, đánh thức lũ trẻ
vào sáng sớm cuối tuần để làm việc nhà và cương quyết bắt chúng làm thêm vào mỗi mùa hè. Mặc dù Michael và chị gái thường xuyên được đi nghe các buổi biểu diễn ca nhạc ở sân khấu Broadway, họ hiếm khi được tham dự các hoạt động mang tính văn hóa đại chúng. Michael hẳn phải là một trong số rất ít những đứa trẻ cùng thế hệ chưa từng được đưa đi xem bất cứ một bộ phim hoạt hình nào của Disney; sau này ông giải thích rằng mẹ ông không hứng thú với chúng lắm. Lester bị ám ảnh với các cuộc thi đấu thể thao. Ông thường đánh thức con gái vào lúc 5 giờ sáng để luyện tập môn trượt băng, và cô bé đã nhận áp lực từ tinh thần thi đấu của Lester khi cô tham gia thi đấu nhưng chỉ suýt đủ điều kiện trở thành thành viên của đội tuyển trượt băng Mỹ tham dự Thế vận hội 1960. Ông ít chú ý tới Michael hơn, dù cậu cũng là một vận động viên bẩm sinh và một đội trưởng tiềm năng, ít nhất là cho đến khi vào học trường dự bị.
Bạn thân nhất của Michael là một cậu bé có tên John Angelo, có cha đã hy sinh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Mẹ của Angelo và mẹ của Michael là bạn thân nhất của nhau, còn Lester thì giống như cha đỡ đầu của John. Một dịp nọ, Angelo đến nhà chơi và ngủ lại nhà
cùng Michael, các cậu bé được đưa vào giường lúc 9 giờ tối. Michael khoe với bạn là mình thường được thức khuya hơn thế này nhiều nhưng Angelo thì không tin là thế. Khi mẹ cậu bước vào phòng để kiểm tra các cậu bé, Michael đã yêu cầu bà chứng thực lời nói của mình. Nhưng trái với mong đợi của cậu, bà đã đứng về phía Angelo.“Michael, con biết là con luôn phải vào giường muộn nhất là chín giờ mà,” bà đáp lời. Cảm thấy bị phản bội, Michael đã nổi cơn tam bành. Nhiều năm sau Michael vẫn đòi mẹ nhớ lại câu chuyện và bắt bà lấy lại công bằng cho mình bằng cách thừa nhận là bà đã không nói thực. Đến lúc đó thì bà đã không thể nhớ nổi con trai mình đang nói về chuyện gì. Nhưng Michael thì chẳng bao giờ quên chuyện đó.
Lên lớp 9, Michael được gửi tới học viện Lawrenceville ở Lawrenceville, New Jersey, một trường dự bị danh tiếng, nơi đã chắp cánh cho rất nhiều học viên tới ngưỡng cửa của trường đại học Princeton, trường cũ của Lester. Sau quãng thời gian khá dễ dàng tại Allen-Stevenson ở Manhattan, Michael thấy việc chuyển tới Lawrenceville quả là khó khăn. Cậu phải xa nhà trong những quãng thời gian dài. Chiều cao đột biến 1m9 khiến phá hoại khả năng phối hợp của một vận động viên ở trong cậu (cậu không được vào cả đội truyển bóng bầu dục lẫn đội tuyển bóng rổ). Cậu cũng khá thờ ơ với việc học. Sự thông minh và nhanh trí bẩm sinh từng bù đắp cho
nhược điểm kém tập trung của Michael không còn phát huy tác dụng nữa khi cậu bước vào Lawrenceville, nơi luôn đánh giá cao những nỗ lực học tập bền bỉ.
Cũng chính tại Lawrenceville, lần đầu tiên Michael cảm thấy không mấy dễ chịu khi là một người Do Thái. Cậu lớn lên trong một gia đình hoàn toàn thế tục, cha cậuvẫn luôn công khai thừa nhận sự
vô thần của mình. Cậu bé Eisner đã chẳng hề có chút ấn tượng nào khi gia đình của một người bạn học ở Allen-Stevenson phải đổi tên Do Thái Lipski của họ thành Lipsey. Gia đình cậu luôn nhấn mạnh
rằng nhà Eisner có nguồn gốc Đức; cậu cũng chẳng cảm thấy có chút mỉa mai nào khi gia đình mình thuê một người Đức làm quản gia trong suốt thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai. Người đó còn trở thành mẹ đỡ đầu của cậu và chị gái. Nhưng ở Lawrenceville, Michael đã phải cảm nhận sự chua chát của định kiến. Cậu đã đánh nhau với một cậu trai khác sau khi bị gọi là “tên Do Thái ngu xuẩn.” Và còn rất nhiều lời bình phẩm và trêu trọc của những kẻ bài Do Thái không buồn giấu diếm khác. Cậu ghét cái cảm giác mình là một đứa cá biệt, không chỉ bởi cậu là người Do Thái mà còn bởi cậu có một gia đình giàu có và quyền thế. Cậu vẫn hằng mơ tưởng về một cuộc sống “bình thường,” giống như những gì cậu vẫn thấy trên ti vi – một người cha và người mẹ bình thường, một ngôi nhà giản dị có sân sau, bao quanh bởi hàng rào gỗ màu trắng, cùng một ngôi trường công lập bình thường có cả các bạn trai và các bạn gái – đúng như cuộc sống được khắc họa trong bộ phim hài nhiều tập về bà nội trợ Donna Reed hay trong các bộ phim của Doris Day mà cậu yêu thích.
Nó cũng chính là hình ảnh cuộc sống điền viên, thơ mộng đậm chất Mỹ mà Eisner đã thoáng thấy trên trang bìa của một cuốn sách giới thiệu về đại học Denison ở Granville, Ohio. Đó là một trường đại học có tiếng về nghệ thuật tự do, có cả nam lẫn nữ, nơi các công trình kiến trúc của thế kỷ XIX hòa mình trong khuôn viên rợp bóng cây khiến nó mang dáng vẻ hoàn hảo của một cái nôi giáo dục đại học chuẩn mực. Dù vậy Denison khó mà sánh được với Priceton, nơi cha mẹ của Michael hy vọng cậu con trai của mình sẽ nhập học. Cậu không hề kể với họ về chuyện nộp hồ sơ cho đến khi được nhận vào Denison. Cậu nhập học vào mùa thu năm 1960.
Tới Denison, Eisner bỏ lại đằng sau những bất ổn ở Lawrenceville và tìm lại được sự lạc quan, tự tin, khiếu hài hước cùng khả năng lãnh đạo xuất chúng của mình. Eisner là một trong số rất ít sinh viên Do
Thái, nhưng cậu dễ dàng hòa nhập với hơn một ngàn sáu trăm sinh viên, hầu hết đều da trắng và là con nhà khá giả tại đây. Cậu tham gia tích cực vào hội sinh viên Delta Upsilon, được bầu làm chủ tịch hội (một số hội khác như Sigma Chi có những lúc cũng cấm người Do Thái, nhưng ở đây không hề có tư tưởng bài Do Thái cực đoan giống như ở Lawrenceville). Quan trọng hơn, cậu đã từ bỏ dự định trở thành bác sĩ để theo học ngành văn học và biên kịch, nhờ cảm hứng từ vị giáo sư văn học giai đoạn thế kỷ XIX Dominick Consolo. Eisner là một người sáng tạo nhưng không theo kiểu học thuật: cậu đã viết một bài luận về nhiệm kỳ tổng thống của Woodrow Wilson, dưới dạng vở kịch một cảnh. Trong các giờ văn học và biên kịch, cậu thấy mình xử lý khâu dựng cảnh và lời thoại khá dễ dàng.
Jonathan Reynolds, một nhà biên kịch và cây viết về ẩm thực của tờ New York Times, là bạn và bạn học của Eisner ở cả ba trường mà Eisner từng học. Reynolds cũng lớn lên ở đại lộ 5 và từng chơi đùa với Eisner khi còn nhỏ. Đối với ông, Eisner là một vận động viên, một nhà lãnh đạo bẩm sinh và một sinh viên loại trung bình. Khi nhìn thấy Eisner ở Denison, ông đã cho rằng cậu ta không đủ điểm để vào học tại một trường danh tiếng thuộc hàng Ivy League. Nhưng Eisner đã gây ấn tượng với ông ở Denison, cả với tư cách là chủ tịch hội sinh viên lẫn một cây viết tài năng. Eisner đã dựng cả một vở kịch khi còn học trong trường với chủ đề gây nhiều tranh cãi. “Nó viết về một cô gái Ai Len bị đuổi học vì đã viết một bài văn về Walt Whitman, cho rằng ông là một nhà cách mạng đồng thời là một người đồng tính,” Reynolds nhớ lại. “Nhân vật chính phải trở lại làm việc trong quán rượu kiểu Ai Len của cha. Trong cảnh thứ hai còn cả cái chết, đám ma và Eisner đã cương quyết đòi đặt một chiếc quan tài kích thước thật lên quầy rượu.“ Vở kịch của Eisner thu hút được lượng lớn khán giả địa phương, và Reynolds nói rằng trong khi ngồi xem ông đã nghĩ, “Ồ, gã này còn viết được cả kịch kia đấy.”(6)
Sau nhiều năm học ở những ngôi trường chỉ dành cho nam sinh, nhiều cô gái trẻ trung hấp dẫn bắt đầu vây quanh Eisner ở Denison. Anh đã trao vai diễn chính trong vở kịch Walt Whitman của mình cho Barbara Eberhardt, một diễn viên trẻ triển vọng mà anh hy vọng sẽ tán tỉnh được. Kế hoạch không thành công, nhưng ngay sau đó anh đã gặp người bạn gái thực sự đầu tiên của mình, Judy Amstrong, đến từ Hamilton, Ohio. Đó là cô gái mang trong mình những tính cách rất Mỹ, cũng chính là những điều đã kéo Eisner tới Denison. Đến khi tốt nghiệp vào năm 1964, anh và Amstrong đã trở nên rất gắn bó, như
thể họ đã đính hôn vậy.
Eisner chuyển tới Paris để khám phá cuộc sống đầy đam mê của một nhà viết kịch trẻ xa nhà, nhưng chỉ một thời gian ngắn, anh trở về đại lộ Công viên sống cùng cha mẹ trước khi chuyển tới căn hộ riêng của mình trên phố 64. Amstrong vẫn ở lại Ohio. Món quà Giáng sinh Michael tặng cô trong năm đầu tiên sau khi cả hai tốt nghiệp đã bị trả lại trong tình trạng vẫn chưa được mở ra. Khi anh gọi điện tìm hiểu lý do, mẹ cô là người nhấc máy. Bà nói: “Ta nghĩ là ta nên nói cho cháu biết, ngày hôm qua Judy đã làm đám cưới rồi.”
Eisner hoàn toàn choáng váng. Bữa tối hôm đó anh chẳng thể đút nổi miếng nào vào miệng nhưng anh vẫn tới dự bữa tiệc của một người bạn. Anh cố biến nỗi đau thành một câu chuyện hài hước, mua vui cho khách khứa bằng màn kịch sinh động về tình cảnh bị bỏ rơi của mình. Một trong số các vị khách, một cô gái có mái tóc đỏ rực rỡ, vẻ ngoài hấp dẫn cùng đầu óc rất thực tế đến từ thị trấn nhỏ Jamestown, New York, có tên Jane Breckenridge, đã lịch sự lắng nghe, nhưng thâm tâm thì cho rằng anh thật quê mùa và thích tự cho mình là trung tâm. Khi Eisner gọi điện để mời cô đi chơi một tuần sau đó, cô đã từ chối. Eisner kiên nhẫn theo đuổi. Sau nhiều lần phớt lờ, cuối cùng cô đã mủi lòng và đồng ý đi xem kịch cùng anh. Họ kết hôn vào năm 1967.
Paramount từng sản xuất những bộ phim huyền thoại, mang về doanh thu phòng vé khổng lồ như Godfather (Bố già), Chinatown (Phố Tàu), hay Nashville, thế nhưng nó lại đang rơi vào tình cảnh thua lỗ và mất phương hướng khi chủ tịch Charles Bluhdorn của Gulf+Western, tập đoàn sở hữu Paramount bổ nhiệm Barry Diller làm người đứng đầu hãng phim này vào năm 1974. Diller và Eisner từng làm việc cùng nhau ở ABC, và Diller đã thuê Eisner làm tổng giám đốc Paramount hai năm sau đó. “Tôi nghe nói dạo này anh ra dáng sếp lắm rồi,” Diller nói giọng châm chọc. “Còn biết gọi lại cơ đấy.”
Dù bằng tuổi nhau nhưng ở ABC, Diller có vị trí cao hơn Eisner. Mối quan hệ của họ ngay từ đầu đã là tổng hòa của lòng ngưỡng mộ cùng một chút cạnh tranh và dè chừng lẫn nhau, được nuôi dưỡng trong suốt thời kỳ Diller sản xuất phim cho chương trình “Movie of the Week” (Phim đặc biệt hàng tuần) của ABC còn Eisner làm việc dưới quyền Diller với tư cách giám đốc sản xuất phim và phụ trách
phát triển. Rất nhiều bộ phim của ABC đã trở thành những thành công nổi bật dưới thời Diller, giúp Eisner trở thành trưởng bộ phận sản xuất chương trình giờ vàng, phụ trách những chương trình đình đám như “Welcome Back, Kotter” (Kotter, chào mừng quay trở lại), “Happy Days” (Những ngày vui vẻ), hay “Laverne & Shirley.”
Dường như Eisner sở hữu giác quan thứ sáu đối với khẩu vị bình dân của công chúng Mỹ. Mặc dù ông thường hay trích dẫn Willa Cather và Shakespeare, hay đề cập đến chuyện ông từng học chuyên ngành văn học ở trường đại học, nhưng chính Diller (chưa từng tốt nghiệp trường đại học nào và bắt đầu sự nghiệp tại bộ phận thư tín của công ty quản lý tài năng William Morris) mới là người luôn tha thiết với văn hóa quý tộc. Khi Eisner và Diller còn là những trợ lý trẻ ở ABC, Eisner từng nói rằng Ethan Frome là một trong những cuốn sách mà ông yêu thích nhất. Diller đáp lại bằng câu gì đó không rõ nghĩa. Thế nhưng sau đó Eisner đã bắt gặp đồng nghiệp trong thang máy, tay cầm vài cuốn tiểu thuyết của chính Edith Wharton cùng một cuốn tiểu sử của nhà văn này.
Đến từ ngành truyền hình, cả Eisner và Diller trước khi đến với Paramount đều khá xa lại với thế giới của các bộ phim điện ảnh chiếu rạp. Nhưng sự phối hợp ăn ý của họ đã làm nên một chuỗi các bộ phim thương mại đình đám mà giờ đây đã trở thành huyền thoại như: Saturday Night Fever (Cơn sốt đêm Thứ Bảy), Grease, Flashdance (Vũ điệu tình yêu), Footloose (Bước nhảy vui nhộn), 48 Hrs (48 Giờ). Eisner thường kể lại tình huống đã đưa ông đến với ý tưởng của bộ phim Beverly Hills Cop (Cảnh sát Beverly Hills), một bộ phim nổi tiếng khác do Eddie Murphy thủ vai chính. Ngày đầu tiên lái chiếc Mercedes mui trần mới của mình qua Beverly Hills, ông đã bị chặn lại vì lái xe quá tốc độ, và khi viên cảnh sát viết phiếu phạt, Eisner đã băn khoăn tự hỏi không biết làm cảnh sát ở nơi phồn hoa này sẽ ra sao.
Ít lâu sau khi tới Paramount, Eisner gặp Jeffrey Katzenberg, trước đây từng là trợ lý của Diller và đã nhanh chóng nổi danh nhờ lòng nhiệt tình và sự tận tụy với công việc. Khi gặp Diller và ông bầu ngành thu âm David Geffen ở sân bay, Katzenberg đã giúp họ đi qua bộ phận hải quan và hành lý nhanh chóng tới mức Geffen phải quay sang Diller hỏi, “Chúa ơi, đó là gã quái nào vậy?” Geffen bị ấn tượng
mạnh đến nỗi muốn thuê luôn Katzenberg về làm việc cho mình, nhưng cuối cùng, thay vì làm ông chủ, ông đã trở thành người bạn
thân thiết nhất của Katzenberg.
Diller đã cảnh báo trước cho Eisner rằng, trong vai trò trợ lý, Katzenberg đã tỏ ra quá hung hăng, cứng nhắc và cay nghiệt nên ông đành phải chuyển anh ta tới bộ phận tiếp thị để anh ta có thể học cách cư xử đúng mực hơn. Với dáng người thấp, mảnh mai, cặp kính cận cùng hàm răng hơi hô, ở Katzenberg toát ra nguồn năng lượng cùng tham vọng vô biên mà Eisner rất vui lòng được khai thác. Giống như Eisner, Katzenberg cũng lớn lên trong một căn hộ xa hoa trên đại lộ Công viên, mặc dù gia đình anh không giàu có hay thuộc tầng lớp trên như gia đình Eisner. Cha anh là một nhà môi giới chứng khoán độc lập. Nhưng trong khi Eisner tôn thờ những trải nghiệm của mình ở trại hè Keewaydin thì Katzenberg lại từng bị đuổi khỏi một trại hè nằm đâu đó dọc sông Kennebec ở Maine vì tội chơi bài. Anh có học đại học một năm, ở đại học New York, trước khi tham gia chiến dịch tranh cử chức thị trưởng New York của John Lindsay. Anh thăng tiến nhanh chóng qua nhiều vị trí công việc khác nhau và sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ nào. Cuối cùng anh trở thành thủ quỹ cho chiến dịch tranh cử tổng thống bất thành của Lindsay vào năm 1972. Sau khi phiêu lưu ở một sòng bạc, một công ty quản lý tài năng và một nhà sản xuất phim, Katzenberg được thuê làm trợ lý cho Diller vào năm 1975.
Katzenberg rất thông minh, sôi nổi, và trong mắt Eisner thì còn có phần hơi thô thiển nữa. Khi Eisner đề cập đến chuyện ông muốn dựng lại cuốn tiểu thuyết kinh điển The Scarlet Letter (Chữ A màu đỏ) của Hawthorne , Katzenberg đã hỏi lại xem đó là cái gì khiến Eisner hoàn toàn chưng hửng. Thế nhưng, Katzenberg lại là người rất được việc. Eisner chẳng phải nhắc lại điều gì đến hai lần. Katzenberg dường như có giác quan thứ sáu với những gì Eisner muốn và thậm chí còn có thể đoán trước được chúng. Katzenberg có thể hoàn thành nốt câu nói của Eisner khi ông mới chỉ thốt ra vài từ. Nhưng như thế không có nghĩa là lúc nào Katzenberg cũng đồng tình với Eisner; ông có thể chỉ trích rất gay gắt, và hai người bọn họ thường xuyên tranh luận với nhau. Đổi lại, Katzenberg rất trung thành. Eisner có cảnh báo Katzenberg một lần vì tội chê bai ông với người ngoài. Ông chẳng bao giờ phải lặp lại điều đó thêm một lần nữa. Cuối cùng Eisner đề bạt Katzenberg vào vị trí giám đốc sản xuất của Paramount. Katzenberg xem Eisner như một người thầy, một người bạn tin cậy, dù ở mức độ cá nhân, hai người họ hầu như chưa bao giờ thân mật với nhau.
Ở Paramount, Eisner còn với tay sang cả hoạt động sản xuất chương trình truyền hình. Giống như hầu hết các xưởng phim đình đám khác, Paramount cũng có một bộ phận sản xuất chương trình truyền hình của riêng mình. Quy định của Ủy ban Truyền thông Liên bang FCC cấm các kênh truyền hình sản xuất các chương trình của riêng mình, bởi vậy họ phải mua chương trình từ các xưởng phim trong lần phát sóng đầu tiên, nhưng sau đó bản quyền phát sóng vẫn thuộc về các xưởng phim. Đây chính là một “con gà đẻ trứng vàng” của Hollywood, và cũng là điều mà toàn bộ ngành công nghiệp giải trí này vẫn điên cuồng vận động hành lang ở Washington để có được. Dưới sự lãnh đạo của Diller và Eisner, Paramount Television đã sản xuất ra 5 trong số 10 chương trình ăn khách nhất trên các kênh truyền hình: “Taxi,” “Happy Days,” “Laverne & Shirley,” “Angie,” và “Mork & Mindy.”
Eisner luôn tự hào về khả năng duy trì chi phí sản xuất ở mức khiêm tốn của mình; một vài người còn cho rằng chuyện đó gần như luôn khiến ông bị ám ảnh. Ông thích phát triển những ý tưởng nảy nở từ chính Paramount hơn là từ những công ty môi giới cao giá hay “nhà sản xuất trọn gói,” một chiến lược mà Eisner ví von với môn bóng chày là sẽ chỉ tập trung giành điểm ở “chốt một và chốt hai” chứ không phải trọn vòng sân. Đối với Eisner, chất lượng của kịch bản là điều quan trọng nhất chứ không phải các nhà sản xuất và diễn viên cao giá. Ông luôn tìm kiếm tuýp kịch bản với các nhân vật hấp dẫn, có xung đột và cách giải quyết rõ ràng, ba “phân cảnh” có thể dễ dàng xác định, cùng những thông điệp xuyên suốt có thể tóm gọn – và quảng bá ra thị trường – trong phạm vi một hoặc hai câu. Cách làm còn được gọi là “high concept” theo ngôn ngữ phổ thông của Hollywood này được khá nhiều người theo đuổi, nhưng chẳng mấy ai thành công được như Eisner và Diller.
Đằng sau toàn bộ thành công của Paramount, không phải lúc nào Eisner cũng quyết định đúng; ông đã từ chối kịch bản mà sau này trở thành Private Benjamin (Binh nhì Benjamin), một bộ phim đình đám của nữ diễn viên Goldie Hawn. Nhưng những nhầm lẫn như thế rất hiếm hoi. Và dù thế nào đi nữa thì Paramount cũng đã có quá nhiều thành công nên Eisner cũng chẳng cần phải phí thời gian tiếc nuối một vài kịch bản mà ông đã từ chối làm gì. “Thứ tạo ra sự khác biệt không phải là những bộ phim anh bỏ qua mà là những bộ phim anh làm được,” đó là câu nói được ông lặp lại quá thường xuyên đến nỗi đã trở thành điệp khúc.
Dù rất tiết kiệm, nhưng đôi khi Eisner vẫn sẵn sàng chấp nhận rủi ro tài chính. Sau khi hai hãng phim khác đã bỏ qua vì chi phí quá cao, thậm chí cả Diller cũng phản đối vì lý do tương tự, Eisner vẫn ký thỏa thuận với George Lucas, tác giả kịch bản Star Wars (Chiến tranh giữa các vì sao), đạo diễn Steven Spielberg, và diễn viên Harrison Ford để
sản xuất bộ phim Indiana Jones and the Raiders of the Lost Ark (Indiana Jones và chiếc rương thánh tích). Với 240 triệu đô la doanh thu phòng vé, bộ phim đã trở thành một “thương hiệu nhượng quyền,” một tác phẩm đình đám được tiếp nối bởi nhiều phần tiếp theo cũng mang lại lợi nhuận cao không kém.
Tuy nhiên, Eisner là người luôn luôn điên cuồng kìm hãm chi phí để tìm kiếm lợi nhuận, một quan điểm xa lạ đến khó hiểu ở Hollywood, nơi truyền thống phổ biến và lâu đời là tưởng thưởng các tài năng, những người đại diện, nhà quản lý và điều hành trước chứ ít ai để mắt nhiều tới các cổ đông. Sau thành công vang dội của Indiana Jones, Eisner đã ghi lại triết lý kinh doanh của mình trong một bản tuyên ngôn dài 21 trang gửi tới các nhà điều hành của Paramount. Trong đó, ông lưu ý họ rằng gần như toàn bộ lợi nhuận của hãng từ năm 1981 đều có được nhờ Indiana Jones, một bộ phim đắt đỏ bất thường theo tiêu chuẩn của Eisner, và ông không muốn bất kỳ ai ở Paramount có ý nghĩ rằng ông đang đi chệch khỏi chiến lược đã được thử thách qua thời gian là kết hợp giữa ý tưởng “cao” (high concept) và ngân sách thấp. “Thường thì thành công lớn bao giờ cũng đến cùng một tác phẩm xuất sắc nào đó,” ông viết. “Say sưa với một bộ phim bom tấn có thể dẫn tới lòng tin dễ dãi rằng may mắn sẽ tiếp tục mỉm cười. Trong vòng 5 năm qua, Paramount đã luôn là cái tên số một hay số hai trong ngành sản xuất phim. Thành công dường như đang khiến các bạn quên đi chính điều đã giúp chúng ta có được nó, và ngay khi các bạn ít nghi ngờ nhất thì sai lầm lớn đó sẽ làm thay đổi cuộc chơi. Liệu thành công có ru ngủ chúng ta vào cái chết định mệnh đó?”
Eisner tiếp tục làm rõ các ưu tiên của mình. “Chúng ta không có nghĩa vụ phải làm nghệ thuật. Chúng ta không có nghĩa vụ phải làm nên lịch sử. Chúng ta không có nghĩa vụ phải nói lên một tuyên ngôn. Nhưng để kiếm tiền thì làm nên lịch sử hay nghệ thuật hay một tuyên ngôn ý nghĩa lại thường là điều vô cùng quan trọng… Để kiếm tiền, chúng ta luôn phải làm ra những bộ phim giải trí, và nếu chúng ta làm phim giải trí thì chắc chắn là đôi khi chúng ta sẽ làm nên lịch sử, nghệ thuật, truyền tải một tuyên ngôn, hoặc có khi là cả ba. Chúng ta thậm
chí còn có thể nhận các giải thưởng… Chúng ta không thể kỳ vọng sẽ có được thành công liên tục, nhưng nếu mỗi bộ phim đều xuất phát từ một ý tưởng độc đáo và giàu tính tưởng tưởng, thì chúng ta có thể tự tin rằng một bộ phim nào đó rồi sẽ tạo nên đột phá.”
Nhưng ngân sách thấp không bao giờ là mục tiêu. “Có được một thỏa thuận hoàn toàn không rủi ro không bao giờ là lý do hợp lý để chúng ta làm ra một bộ phim xoàng xĩnh,” ông tiếp tục. “Ngân sách thấp không thể là cái cớ để biện minh cho những yếu kém của kịch bản. Kể cả những nhà biên kịch, diễn viên hay đạo diễn vĩ đại nhất cũng không thể cứu vãn một bộ phim không có lấy một ý tưởng cốt lõi nào. Và nhìn chung chúng ta nên từ chối những thỏa thuận đắt đỏ với các diễn viên ngôi sao hay đạo diễn đình đám, bởi với chất liệu tốt chúng ta có thể thu hút họ sau.”
Bản ghi nhớ của Eisner đã trở thành kinh thánh ở Paramount. Nó còn được lan truyền rộng rãi khắp Hollywood. Nó khiến ông trở thành một thiên tài phân tích của ngành kinh doanh điện ảnh, nơi rất ít ông bầu vĩ đại của quá khứ từng có khả năng định ra bất kỳ một dạng công thức thành công nào xét trên cả khía cạnh nghệ thuật lẫn thương mại. Và ông còn chứng tỏ triết lý của mình bằng thành quả thực tế. Không lâu sau tuyên ngôn của mình, ông đã ký thỏa thuận sản xuất bộ phim Terms of Endearment (Điều khoản yêu thương) với điều kiện đạo diễn James L. Brooks phải xoay sở được trong giới hạn ngân sách ít ỏi 7 triệu đô la. Đến khi chi phí thực tế tăng lên 8 triệu đô la, Brooks đã phải tìm kiếm tài trợ cho khoản chi trội 1 triệu đô la từ một nguồn khác. Thái độ không khoan nhượng của Eisner đã gây ra những trận khẩu chiến huyền thoại giữa hai nhân vật này. Bởi xét cho cùng thì Eisner có đầy đủ điều kiện để tỏ ra rộng rãi hơn. Cuối cùng bộ phim đã thành công rực rỡ, mang về doanh thu phòng vé 100 triệu đô la, cùng giải Oscar năm 1983 cho Phim hay nhất. Còn Eisner thì để lại ấn tượng dài lâu trong lòng thế giới Hollywood khi Brooks cuối cùng đã công khai thừa nhận rằng thực ra bộ phim có chất lượng tốt hơn nhờ được sản xuất với ngân sách chặt chẽ.
Nếu một bộ phim nào đó thành công, hoặc có vẻ như sẽ gặt hái thành công, những người khác ở Hollywood – như Diller chẳng hạn – sẽ chẳng tiếc lời khen ngợi, nới lỏng mọi quy tắc và ra sức vuốt ve chiều chuộng các nhà sản xuất và diễn viên tài năng để khiến họ hài lòng. Với Eisner thì chẳng có gì dễ dàng. Ông đặc biệt bủn xỉn với những lời khen ngợi. Khi Diller đề nghị thưởng cho Robert Redford
750 ngàn đô la cho thành công của bộ phim Ordinary People (Những người bình thường), sản phẩm đầu tay của Redford trên cương vị đạo diễn, Eisner đã kịch liệt phản đối. Ông thấy mình hoàn toàn có lý khi Redford sau đó đã quay lưng lại với Paramount và hợp tác với một hãng phim khác trong bộ phim tiếp theo của ông ta.
Khi đến Paramount với rất ít hiểu biết về ngành kinh doanh điện ảnh, Eisner đã nhận được sự giúp đỡ và chỉ dẫn tận tình từ nhà sản xuất Larry Gordon. Ở Gordon có sự hòa trộn giữa sự nồng ấm rất miền Nam cùng sự nhạy cảm sắc bén với văn hóa đại chúng; hai người dần trở thành những người bạn thân thiết nhất của nhau. Các con trai của họ học cùng trường, và chúng cũng trở thành bạn thân. Theo gợi ý của Eisner, Gordon cũng gửi các con trai tới Keewaydin, họ đi thăm chúng cùng với nhau. Hai người vợ cũng trở thành những người bạn thân và gia đình họ sống gần nhau ở Bevery Hills.
Eisner và Gordon cũng có một mối quan hệ hợp tác chặt chẽ và thành công trong kinh doanh: Gordon có một thỏa thuận sản xuất phim liên tục tại Paramount, văn phòng của ông là một trong những vị trí đáng mơ ước nhất trong khuôn viên của hãng phim này. Mối quan hệ hợp tác giữa họ cũng mang lại lợi nhuận khổng lồ cho Paramount với bộ phim đình đám 48 Hrs, do diễn viên trẻ Eddie Murphy thủ vai chính, Walter Hill làm đạo diễn và Gordon là nhà sản xuất. Nhưng những rắc rối với 48 Hrs, cũng như những khó khăn với bộ phim The Warriors (Chiến binh), chính là tín hiệu báo trước những mâu thuẫn trong tương lai. Hai tuần sau khi mở máy, khi Eisner và Jeffrey Katzenberg xem qua những cảnh quay đầu tiên, họ đã trao đổi với Gordon và Hill.
Cả Eisner và Katzenberg cùng khăng khăng cho rằng “Eddie Murphy không đủ hài hước và chúng ta phải thay thế anh ta thôi.”
“Thế các anh cho là còn có gã quái nào hài hước hơn được nữa chứ?” Gordon vặn lại.
Cả nhà sản xuất và đạo diễn đều kiên quyết giữ nguyên quan điểm, Eisner đành để việc sản xuất tiếp tục. Nhưng ngay cả khi 48 Hrs mang lại 76 triệu đô la doanh thu phòng vé, đồng thời khiến Murphy bỗng chốc trở thành một ngôi sao điện ảnh, Hill và Eisner vẫn không thực sự thoải mái với nhau. Việc Eisner và Katzenberg trao cho Murphy một thỏa thuận hợp tác toàn diện với Paramount trong
đó không bao gồm Gordon và Hill cũng không làm tình hình được cải thiện. Khi Hill đề xuất dự án phim tiếp theo với Gordon – một kịch bản do ông tự dựng mang tên Streets of Fire (Chảo lửa) – Hill vẫn vô cùng bực bội vì sự cố xảy ra với Murphy nên ông đã từ chối để Gordon đưa nó cho Paramount. “Việc này sẽ khiến tôi gặp rắc rối lớn ở Paramount đấy, đặc biệt là với Michael,” ông nói với Hill. Nhưng nhà đạo diễn vẫn không lay chuyển.
Nhận thấy tốt hơn là nên tự mình tiết lộ thông tin, Gordon gọi cho Eisner. “Nghe này, tôi biết anh đã nghe chuyện này, mà nếu không thì rồi thế nào anh cũng sẽ biết,” ông nói về Streets of Fire. “Tôi chỉ muốn anh biết là nó sẽ thuộc về Universal và tôi chẳng thể làm gì được.”
Eisner giữ giọng lạnh lùng.“Nếu thực sự muốn thì anh cứ làm,” ông đáp lời. “Anh chỉ làm thế vì tiền mà thôi.” Gordon cố thuyết phục Eisner rằng ông không có lựa chọn nào khác vì Hill nắm bản quyền đối với tác phẩm của chính ông ta, nhưng Eisner không mảy may xuy chuyển. Gordon phát cáu và từ chối không đưa kịch bản cho Eisner xem.
Eisner cho người tìm kiếm một bản sao. Nó kể về một nghệ sĩ nhạc rock bị bắt cóc bởi một băng đảng đua xe máy trái phép. Eisner đọc qua và cho rằng nó rất tệ. Ông càng vui sướng hơn sau khi xem đoạn duyệt trước và tuyên bố thẳng thừng rằng bộ phim đó là một mớ hỗn độn. Streets of Fire thất bại nặng nề về doanh thu phòng vé cũng như chất lượng nghệ thuật. Gordon vẫn tiếp tục làm việc ở Paramount, ông không hề cảm thấy chút khó chịu nào từ phía Eisner.
Gordon đề xuất dự án tiếp theo của mình cho Eisner, bộ phim có tên Brewster’s Millions (Của cải nhà Brewster). Eisner đồng ý để Gordon làm đạo diễn, nhưng với điều kiện là ông phải chấp nhận một ngân sách hạn hẹp. Các luật sư bắt đầu đàm phán nội dung thỏa thuận, nhưng gặp phải vô vàn trở ngại. Paramount khăng khăng với các điều khoản chặt chẽ trong chi tiêu cùng quyền được thay thế Gordon nếu ông không đáp ứng được hàng loạt những điều kiện mà ông cho là nhỏ nhặt. Trong khi Eisner khăng khăng rằng chúng là những biện pháp phù hợp để bảo vệ khoản đầu tư của hãng phim vào một đạo diễn chưa có tiếng tăm, Gordon lại một lần nữa cảm thấy bị xúc phạm, bởi sau thời gian dài gắn bó và mang về nhiều thành công trong vai trò nhà sản xuất, ông vẫn có thể bị đuổi khỏi dự án mới của
mình chỉ vì những vấn đề nặng tính kỹ thuật. Streets of Fire khi đó đang được sản xuất tại Universal, và các nhà điều hành hãng phim này lại thúc giục Gordon thực hiện dự án Brewster’s Millions cùng họ. Nhưng Gordon từ chối, ông vẫn còn đang đàm phán với
Paramount.
Thời gian trôi qua mà thỏa thuận vẫn không được dàn xếp, Katzenberg gọi cho Gordon. Đó là một buổi chiều thứ Sáu, mà Eisner thì đang đi vắng. “Chuyện gì xảy ra với Brewster’s Millions vậy?” Katzenberg hỏi. “Chúng ta cần kết thúc nó thôi. Đã quá lâu rồi. Giờ hãy nói rõ xem, anh có làm hay không? Dù thế nào thì cũng không ai oán thán gì đâu.”
Gordon suy nghĩ hồi lâu. “Jeffrey, có phải anh đang nói với tôi rằng dù tôi trả lời có hay không thì cũng không ai cảm thấy phiền muộn gì?”
“Hoàn toàn không,” Katzenberg đáp.“Anh hãy quyết định luôn đi.”
“Được rồi. Vậy thì câu trả lời là không. Tôi sẽ đàm phán với một hãng phim khác.”
“Tốt thôi,” Katzenberg nói. “Chúc may mắn.”
Eisner trở về ngay đêm hôm đó, và đến cuối tuần, vào buổi chiều Chủ nhật, Eisner, Jane, vợ ông và cha ông, Lester cùng đi bộ qua hai tòa nhà để tới gặp Gordon tại nhà riêng. Lester Eisner đang hồi phục sau một ca phẫu thuật mở tim, ông muốn cảm ơn Gordon vì đã giới
thiệu cho ông một chuyên gia phẫu thuật ở bệnh viện Cedars Sinai. Sau cùng, Gordon tiễn họ cả đoạn đường về. Khi họ đã ở nhà Eisner, điện thoại reo và Eisner nhấc máy. Gordon thoáng nghe thấy đoạn cuối của cuộc hội thoại:
“Cái gì? Thật vậy sao? Ông ta làm gì kia?” Một thoáng yên lặng bao trùm, rồi Eisner ngắt máy. Ông nhìn chằm chằm vào Gordon.
“Có lẽ tôi nên về thôi,” Gordon nói.
“Để tôi chở anh về,” Eisner nói. Trời đã bắt đầu mưa.
“Đừng bận tâm, tôi đi bộ được mà,” Gordon nói, nhưng Eisner vẫn cương quyết. Họ lái xe một quãng ngắn tới nhà Gordon, và khi Gordon mở cửa xe, Eisner nói, “Tôi muốn anh biết rằng đây là lần cuối cùng chúng ta nói chuyện với nhau. Jeffrey vừa cho tôi biết việc anh đã làm.”
Gordon choáng váng. “Jeffrey đã nói gì vậy?”
“Tôi biết chuyện gì đã xảy ra và ta sẽ không nói về nó nữa.” “Để tôi cho anh biết chuyện gì đã xảy ra.”
“Tôi sẽ không bao giờ nói chuyện với anh nữa.” Eisner nói.
Gordon ra khỏi xe, đóng sầm cửa, còn Eisner cũng lạnh lùng phóng xe đi.
Sáng sớm hôm sau, Gordon nhận được một cuộc điện thoại từ văn phòng Paramount. “Đội vận chuyển đã có mặt để chuyển đồ của ngài,” một viên trợ lý lên tiếng. “Ngài muốn chúng tôi chuyển chúng tới địa chỉ nào ạ?”
“Anh mất trí rồi sao?” Gordon gào lên. “Đừng có động vào bất cứ thứ gì cho đến khi tôi tới đó.”
Khi đến nơi, Gordon đã thấy đồ đạc của mình được đóng gói, xếp ngổn ngang ngoài cửa văn phòng. Ông gọi cho luật sư của Paramount để nói rằng hợp đồng của họ với ông quy định rằng ông sẽ chỉ rời khỏi nơi này với điều kiện được thông báo trước 90 ngày. Viên luật sư cho Gordon biết Paramount không quan tâm hợp đồng của ông quy định những gì. Mặc dù nhà sản xuất kiện hãng phim là chuyện khá ngược đời ở Hollywood nhưng Gordon vẫn quyết định gọi cho luật sư của mình, mang Paramount ra trước tòa và cuối cùng có được lệnh của tòa án ngăn không để mình bị chối bỏ trước thời hạn.
Eisner lại ra lệnh cấm Gordon không được tới khu vực nhà ăn của Paramount. Ông lại kiện ra tòa lần nữa để lật lại lệnh cấm đó. Hợp đồng của Gordon đảm bảo ông sẽ luôn có một văn phòng làm việc tại Paramount, nhưng lại không quy định vị trí cụ thể. Vậy là ông phải chuyển từ văn phòng sang trọng trước đây tới một nơi tối tăm chật hẹp. Nhưng trong suốt thời gian 90 ngày đó ông vẫn tiếp tục tới làm
việc và ăn trưa tại nhà ăn mỗi ngày, tất cả chỉ để khẳng định rằng mình chẳng làm điều gì sai trái.
Eisner kiên quyết giữ im lặng. Khi hai người đàn ông đến thăm các con họ tại Keewaydin vào mùa hè năm sau, Eisner đang đứng ở bến thuyền thì nhận ra Gordon đang đi tới. Ông đã lao người xuống nước trong khi chân vẫn đi nguyên giày chứ nhất định không chịu giáp mặt người bạn cũ.
Eisner tuyệt đối tránh mặt Gordon trong vòng 2 năm, thậm chí sẵn sàng rời khỏi nhà hàng mình đang dùng bữa nếu cần thiết, từ chối ra khỏi nhà khi Gordon lái xe đến đón lũ trẻ. Tuy nhiên, mùa hè năm tiếp theo, hai người lại đến thăm con tại Keewaydin vào cùng một thời điểm, cố tránh mặt nhau một cách đầy lúng túng cho đến khi một trận mưa dông đã buộc hai gia đình đang đi dã ngoại phải cùng trú tạm trong một cabin nhỏ. Phải đứng sát gần nhau trong khoảng không gian nhỏ hẹp, Gordon đã mở lời, “Eisner, chúng ta nên nói chuyện với nhau hoặc là đi ra ngoài, vào rừng và giải quyết chuyện này một lần cho xong.” Eisner nhìn chằm chằm vào Gordon rồi nói, “Được, khi nào về tới L.A., chúng ta sẽ ngồi lại với nhau để nói chuyện.”
Eisner đến nhà Gordon. Mới nói chuyện được vài phút, họ đã không giữ được bình tĩnh. “Anh sỉ nhục tôi trong vụ Streets of Fire ,” Eisner hét lên.
“Anh không bao giờ chịu thừa nhận là mình đã sai cả,” Gordon đốp lại.
Sau hàng giờ tranh luận căng thẳng, họ đã có vẻ hạ nhiệt. Chẳng có gì được dàn xếp. Nhưng ít nhất họ đã bắt đầu nói chuyện về con cái, rồi sự nghiệp. Họ bắt đầu trao đổi qua điện thoại với nhau, mặc dù mối quan hệ giữa họ không bao giờ còn được như trước kia nữa.
Rất nhiều người từng phàn nàn về chuyện làm việc với Eisner khó khăn như thế nào, nhưng chẳng ai thắc mắc gì về thành công của ông cả. Những thành tích ấn tượng liên tiếp của Paramount đã thu hút sự chú ý ngày càng mạnh mẽ của giới truyền thông. Sau khi bộ phim Terms of Endearment giành 5 giải thưởng Viện Hàn lâm, Eisner và Diller trở thành những nhân vật đáng ngưỡng mộ được giới thiệu trên các tờ Newsweek, Wall Street Journal và Business Week. Tạp chí
New York đưa hình ảnh Eisner và Diller lên trang bìa với dòng tiêu đề “Hollywood’s Hottest Stars” (Những ngôi sao sáng nhất của Hollywood), của tác giả Tony Schwartz. Dù bài báo không tiếc lời mô tả về sự khắc nghiệt của Eisner và Diller trong công việc (“Paramount là xưởng phim sẽ bật đèn xanh cho bộ phim của bạn rồi sau đó thách bạn dám thực hiện nó”), nhưng nó cũng ca ngợi đó là “xưởng phim hàng đầu tại Hollywood… nói một cách đơn giản là vượt lên tất cả các xưởng phim khác, Paramount đã tìm ra cách làm nên những bộ phim thành công.” Đó cũng là một trong những bài báo đầu tiên đưa những người điều hành của các xưởng phim lên vị trí ngôi sao, nơi trước đó chỉ được dành riêng cho các diễn viên và đạo diễn.
“Khi ở trong ngành này, chắc chắn anh sẽ phải làm tốt một điều là lựa chọn nguyên liệu đầu vào,” Eisner nói với Schwartz. “Đúng là như thế, nó sẽ giúp anh cắt giảm chi phí, tránh xa khỏi các khuôn mẫu, không vồ vập vào các ngôi sao và không phải trả những cái giá phi lý. Nhưng anh biết gì không? Nếu anh chọn đúng các yếu tố đầu vào, tất cả những thứ khác sẽ lu mờ hết… Quảng cáo tốt thì cũng tuyệt đấy, và tôi cho là về khoản đó thì chúng tôi cũng đã nhất rồi, nhưng nó sẽ chẳng có tác dụng gì với E.T hay The Pirate Movie (Chuyện về những tên cướp biển) [một trong những thất bại hiếm hoi của Paramount cả về doanh thu lẫn nghệ thuật]. Đây là ngành kinh doanh mà thành bại chỉ phụ thuộc vào 10 đến 12 quyết định mỗi năm. Chúng có vai trò cực kỳ quan trọng. Không gì có thể bù đắp được.” Nói cách khác, thứ thực sự quan trọng ở đây là những quyết định sáng tạo mà người đứng đầu một xưởng phim phải đưa ra, chứ không phải những quyết định tài chính hay kinh doanh mà bất cứ ai có tấm bằng MBA cũng có thể đưa ra.
Câu chuyện của Don Simpson, lúc ấy là một trong những nhà sản xuất thành công nhất của Paramount, chịu trách nhiệm sản xuất những bộ phim ăn khách như Flashdance, chính là một ví dụ sinh động cho thấy tinh thần sáng tạo trong công việc của Eisner: “Chúng tôi bước vào phòng họp lúc 9 giờ sáng. Có khoảng 11 người tham dự. Lúc đó chúng tôi hoàn toàn chẳng có gì hay ho để triển khai, mà đây lại là thứ sống còn đối với ngành kinh doanh này. Eisner nói, ‘Ngày hôm nay chúng ta sẽ cho ra 20 dự án mới kể cả nếu có phải ở lại đến nửa đêm. Các anh có thể ra khỏi phòng họp nếu muốn, nhưng sau đó thì đừng bao giờ nghĩ đến chuyện quay trở lại.’ Vài người nhìn ông ấy như thể một gã mất trí. Thế nhưng đến 5 giờ 30, chúng tôi đã có trong tay 15 dự án.”
Trong một giai thoại khác, Schwartz có nhắc đến chuyện đang ăn tối cùng Barry Diller thì Diller “tình cờ” tiết lộ rằng ông định sẽ tới một rạp phim vào lúc nửa đêm để xem khán giả phản ứng ra sao với Indiana Jones. Schwartz đi theo, và khi họ đến nơi thì thấy Eisner và vợ đã có mặt ở đó. Ngày hôm sau, khi ở trong khách sạn Schwartz nhận được một cuộc điện thoại từ một “người giấu tên”:
“’Tôi biết tối qua cậu đã đến Westwood cùng Diller,’ người giấu tên nói với tôi. ‘Cậu có nhận thấy là Diller làm thế chỉ để gây ấn tượng với cậu thôi không? Ông ta không bao giờ kiểm tra phản ứng của khán giả cả. Nhưng ngược lại, Eisner lại là người bị ám ảnh về chuyện này. Ông ta còn đi tới hai rạp chiếu phim khác sau khi rời khỏi đó. Cậu đang bỏ lỡ câu chuyện thực sự rồi.’”
“Người giấu tên” đó chính là Michael Ovitz, nhà sáng lập Creative Artists Agency, một công ty môi giới lúc ấy đã có ảnh hưởng rất lớn và không lâu sau lại còn trở thành công ty môi giới có quyền lực nhất tại Hollywood. Sau khi mối quan hệ với Gordon đổ vỡ, Ovitz đã trở thành bạn thân nhất của Eisner ở Hollywood. Eisner đã yêu cầu Ovitz gọi điện cho Schwartz và mớm cho anh ta ý nghĩ rằng phía sau những thành công của Paramount, Eisner đóng vai trò quan trọng hơn nhiều so với Diller.
Ovitz và Eisner từng gặp nhau trước đó khi Eisner còn là trưởng bộ phận làm chương trình tại ABC. Khi đó Ovitz cố gắng quảng cáo một chương trình trò chơi truyền hình cho Eisner nhưng không thành. Ovitz còn khiến Eisner khó chịu khi gửi cho vợ ông một lẵng hoa rất cầu kỳ tốn kém, hành động mà Eisner cho là một nỗ lực quá đà hòng tác động tới quyết định của ông. Tuy nhiên, ông vẫn phải miễn cưỡng khâm phục sự bền bỉ của Ovitz còn Jane thì đương nhiên là chẳng thấy phiền lòng với lẵng hoa chút nào. Sau khi nhà Eisner chuyển đến Hollywood, hai gia đình đã trở nên thân thiết, họ thường xuyên ăn tối cùng nhau tại Palm và các nhà hàng khác mà giới thượng lưu Hollywood vẫn ưa chuộng. Eisner thường đi thẳng từ văn phòng tại Paramount đến chỗ hẹn ăn tối, hăm hở phàn nàn về Barry Diller: Diller là một “người kinh khủng,” ông ta thật “vô đạo đức,” và tệ nhất là, “11 giờ sáng ông ta mới thèm tới văn phòng.”
Cùng với bài báo về Eisner và Diller, tờ New York cũng dành một cột ở bên lề để nói về Jeffrey Katzenberg, trong đó mô tả ông như “con chó săn quý giá” của Diller và Eisner, một biệt hiệu chẳng dễ
chịu chút nào. Nhưng không có bất cứ lời nào nhắc đến Martin Davis, chủ tịch hội đồng quản trị của Gulf+Western, công ty mẹ của Paramount. Điều mà Eisner chưa thực sự hiểu được là ở Hollywood, có những thời điểm, điều duy nhất tệ hơn so với việc không nổi tiếng chính là nổi tiếng quá mức, đặc biệt là khi nó làm lu mờ sếp của bạn. Bài báo đã khiến Davis nổi cơn lôi đình.
Eisner không biết gì nhiều về Davis, nhưng ông ta là kiểu lãnh đạo mà trước đây Eisner chưa từng làm việc dưới quyền. David luôn để mắt tới bất cứ ai dưới quyền mình mà thành công của người đó có thể đe dọa đến chiếc ghế của ông ta. Ông ta đã phải làm việc vất vả trong một thời gian dài dưới cái bóng của Charles Bluhdorn, người đã xây dựng Gulf+Western từ một công ty sản xuất đường chẳng ai biết đến trở thành một thế lực trong ngành khai mỏ, xuất bản (Simon & Schuster) và giải trí. Davis là người sống sượng, thiếu tinh tế và thường khá thô tục. Ông ta là dân tài chính và không có nhiều hiểu biết cũng như sự tôn trọng đối với hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Sau khi Bluhdorn đột tử vì một cơn đau tim tại nhà riêng ở Cộng hòa Dominica năm 1983, Davis đã kế vị ông. Từ văn phòng của ông ta trên đỉnh tòa nhà Gulf+Western ở New York, Davis đã yêu cầu Diller loại bỏ Eisner.
Davis cũng lấy làm khó chịu vì sự chú ý dành cho Katzenberg sau bài báo. Trong một chuyến thăm New York, Katzenberg ghé thăm trụ sở công ty mẹ để gặp Davis lần đầu tiên kể từ khi ông ta trở thành chủ tịch hội đồng quản trị của Gulf+Western. Thay vì những lời tán dương mà Katzenberg cho rằng mình sẽ được nghe, Davis đã không ngần ngại thể hiện ra mặt thái độ khó chịu với những nhà quản lý cấp cao đến từ Hollywood của mình. “Tất cả các anh đều được trả công quá cao và nuông chiều quá mức,” ông ta nói. Ông ta còn nói thẳng với Katzenberg rằng mình “có xu hướng hơi giống với Sammy Glick(7).” Sau khi Katzenberg tường thuật lại cuộc gặp gỡ kỳ quặc đó cho Eisner, Eisner đã tìm đến Diller và yêu cầu được biết chuyện gì đang diễn ra. Quá mệt mỏi vì đã phải lẩn tránh quá lâu, Diller đành nói cho Eisner biết là Davis muốn mình sa thải Eisner. Đó thật sự là chuyện khó tin, nhất là với những thành công mà Paramount đã có được. “Marty mất trí rồi, nhưng đó là sự thực đấy,” Diller nói.
Eisner đã bàn bạc với Katzenberg về việc thành lập một công ty liên danh để sản xuất phim và các chương trình truyền hình, và hai người thậm chí còn xây dựng một bản kế hoạch kinh doanh. Sau
nhiều năm làm việc dưới quyền Eisner, Katzenberg thực sự cảm động khi thấy người thầy của mình đánh giá mình cao đến vậy. “Đừng lo,” Eisner nói với ông. “Dù chuyện gì xảy ra đi nữa, chúng ta vẫn mãi mãi là đối tác mà.”
Còn có một vài phương án khác mà Eisner có thể cân nhắc lựa chọn – ví dụ như chuyển đến CBS, hay Captital Cities/ABC – nhưng viễn cảnh quay trở lại với các chương trình truyền hình không khiến ông hứng thú. Ông và Ovitz cũng cùng nhau lập kế hoạch mua lại xưởng phim American International Pictures mà ông định sau này sẽ đổi tên thành Hollywood Pictures. Nhưng sau đó, khi đến thăm các con tại trại Keewaydin vào tháng Tám năm 1984, Eisner được tin Roy Disney đã từ chức khỏi hội đồng quản trị của Disney nên đã gọi điện để hỏi thăm. “Anh vẫn muốn tới làm ở Disney chứ?” Roy hỏi khi gọi lại cho Eisner.
Trong những năm 1980, kỷ nguyên của những con cá mập đầy tham vọng và hung hãn chuyên thôn tính các công ty, Roy E. Disney dường như sẽ là người cuối cùng chịu đứng ra cầm đầu một cuộc đảo chính ngay trong phòng họp của hội đồng quản trị hay một cuộc thâu tóm đầy thù nghịch. Với bản tính trầm lặng và hay e thẹn cùng khiếu hài hước gượng gạo, Roy hiếm khi phát biểu trong các cuộc họp hội đồng của Disney. Ông và Eisner cùng là thành viên hội đồng quản trị học viện nghệ thuật California(8), một ngôi trường do Walt và Roy O. (anh trai của Walt và là bố của Roy E.) sáng lập và tài trợ. Trong các buổi họp hội đồng, Eisner chưa lần nào nghe Roy phát biểu một lời. Dù có rất nhiều đặc điểm giống với chú Walt đồng thời cũng là người thừa kế nam duy nhất của gia đình Disney, lâu nay Roy vẫn bị gạt sang một bên để nhường chỗ cho Ron Miller, cựu ngôi sao bóng bầu dục đẹp trai và là chồng của Diane – con gái Walt. Thế nhưng ẩn sau sự mềm mỏng e dè của Roy lại là những phẩm chất khác mà ông thừa hưởng từ tổ tiên dòng họ Disney: quyết tâm, kiên định, và một ý chí mãnh liệt không gì lay chuyển nổi.
Sau khi kết hôn, cả Walt và anh trai mình, Roy, đều muộn đường con cái. Chính vì thế mà cả hai gia đình đều vui mừng khi Roy và Edna sinh được Roy Edward vào năm 1930. (Có một truyền thống rất dễ gây nhầm lẫn trong gia đình Disney là đặt tên con trai giống với tên bố, còn tên đệm sẽ có chữ cái đầu giống với chữ cái đầu trong tên của mẹ, trong trường hợp này là chữ “E”).
Roy là con một, tính tình khá kín đáo và thích đọc sách. Walt thường đọc to các câu chuyện cho Roy nghe và còn diễn tả chúng bằng hành động cho cậu bé xem. Sau này Roy từng phát biểu rằng bộ phim hoạt hình Pinocchio khiến ông cảm thấy khá thất vọng vì câu chuyện mà Walt kể cho ông nghe trước kia hấp dẫn và kịch tính hơn nhiều. “Về Roy Edward,” bố Roy viết thư cho ông bà của con trai, “con không nghĩ có thứ gì khiến thằng bé yêu thích hơn là những cuốn sách kể chuyện hấp dẫn. Thằng bé rất thích cuốn sách nhỏ về Ấn Độ mà bố mẹ đã tặng nó khi tới thăm. Giờ con đang đọc cho thằng bé nghe mỗi tối một đoạn trong cuốn The Swiss Family Robinson (Lớn lên trên đảo vắng)… Thằng bé cứ ngồi quanh khắp xó, đọc sách. Một đứa trẻ ngoan ngoãn và đáng yêu. Có lần thằng bé còn nói với con rằng nó nghĩ Giáng sinh là ‘một ý tưởng hay.’”
Con gái của Walt và Lillian, Diane Marie, sinh năm 1933. Hai vợ chồng nhận một người con gái nuôi, Sharon Mae, vào năm 1936. Walt rất yêu quý hai cô con gái của mình, cũng giống như ông chú Roy. Trong một bức thư gửi cho cha mẹ năm 1938, Roy O. viết, “Thật kỳ lạ, điều đó làm con cảm thấy ghen tị. Con ước gì chúng con cũng có một cô con gái nhỏ, nhưng lúc này con chưa thể nói với Edna về chuyện đó được. Con nghĩ chúng con có thể sẽ bàn bạc để nhận nuôi một bé gái, nếu chúng con có thể tìm thấy một cô bé mà cả hai cùng yêu mến. Nhưng con nghĩ vợ con hiện đang cảm thấy rất thoải mái và không muốn nhận thêm trách nhiệm nữa.”
Những đoạn phim gia đình được lưu giữ lại cho thấy một cậu bé Roy E. nô đùa trong bể bơi ở sân sau nhà với hai chị họ Sharon và Diane, trong khi cha mẹ họ đứng quanh ngắm nhìn một cách vui vẻ. Roy dạy Diane cách lặn khi cô bé lên mười tuổi. Cậu và các chị họ được thoải mái dạo quanh xưởng phim Disney, đạp xe qua rất nhiều thiết kế bối cảnh cho các bộ phim hoạt hình. Roy thích ngắm nhìn các họa sĩ hoạt hình làm việc trong các khoang cá nhân của họ tại xưởng phim hoạt hình. Sau này cậu và các bạn còn được chạy thử các mẫu xe đua thu nhỏ chuẩn bị được đưa vào hoạt động tại công viên giải trí Disneyland.
Khi Roy lên mười tuổi, cậu được tặng một món quà là một mô hình đường sắt tỷ lệ HO(9) mà cậu luôn cẩn thận cất trong kho chứa dụng cụ sau nhà. Khi chú Walt đến chơi, Roy háo hức muốn chỉ cho chú xem bộ đồ chơi quý giá của mình, và hai chú cháu đã biến mất trong kho đồ chơi hàng tiếng đồng hồ. Khoảng một tháng sau, Walt
mời Roy đến chơi nhà. “Nào, đến đây và xem này, cậu bé,” ông nói với cậu cháu mình, và đưa cậu đến một ngôi nhà đồ chơi mà Diane và Sharon không còn chơi nữa vì đã lớn. Trong đó là một dãy dài các mô hình tàu hỏa tỷ lệ HO, với tất cả phụ kiện đi kèm mà Roy vẫn hằng mơ ước.
Dù tình cảm gắn bó giữa hai gia đình Walt và Roy đã vượt qua mọi thử thách của những ngày tháng khó khăn, có lúc còn gần như phá sản thuở ban đầu, nó lại bị tổn thương dưới áp lực của sự giàu có, danh tiếng và thành công. Từ ngôi nhà thấp tầng kiểu Hollywood khiêm tốn nằm cạnh nhà của Roy và Edna, đầu tiên, Walt và Lillian chuyển tới một ngôi nhà lớn hơn ở Los Feliz Hills và sau đó là một ngôi nhà còn lớn hơn nữa mà họ xây dựng tại Carolwood Drive thuộc Holmby Hills, một khu vực riêng biệt nằm giữa Bel Air và Beverly Hills. Roy và Edna cũng chuyển đến San Fernando Valley, tới một ngôi nhà rộng rãi cạnh hồ Toluca. Sinh ra tại Kansas, Edna vẫn nổi tiếng là một người phụ nữ rất tiết kiệm và thực tế, cô vẫn tự mình đi mua sắm thực phẩm và chỉ thuê một cặp vợ chồng làm người gác cổng và chăm sóc sân vườn. Walt và Lillian thì thuê một người giúp việc trong nhà.
Dù vậy, Roy E. và cha mẹ vẫn thường xuyên đến chơi nhà chú ở Holmby Hills. Vẫn say mê các mô hình tàu hỏa nhưng không chỉ hài lòng với những bản sao tỷ lệ HO, Walt đã cho xây dựng một hệ thống đường sắt tàu hỏa chạy bằng động cơ hơi nước chạy vòng quanh khu đất rộng năm mẫu và băng qua một khe núi nhỏ. Walt vẫn luôn yêu thích tuyến đường sắt Central Pacific, nên ông sử dụng logo CP và gọi tuyến đường sắt của mình là “Carolwood Pacific.” Tuyến đường sắt dài gần 800 mét và còn có một đoạn chạy qua đường hầm bằng bê tông cốt thép dài 30 mét mà hàng xóm của ông vẫn gọi là hầm tránh bom dài nhất Los Angeles. Các toa xe và động cơ được dựng theo tỷ lệ 1/8, ngoài ra Walt còn dựng mô hình khu mỏ than ở Scranton, Pennsylvania, cũng với tỷ lệ 1/8. Cứ khi nào Roy đến chơi, Walt cũng nhờ cậu lau chùi và đánh bóng các toa xe và tiếp nước cho động cơ. Những đứa trẻ hàng xóm – trong đó có Candice Bergen và Nancy Sinatra – cũng tham gia làm hành khách trên các chuyến tàu, Walt thì điều chỉnh động cơ trong khi đội một chiếc mũ kỹ sư.
Một buổi chiều nọ, khi Roy đã 18 tuổi, trong lúc đang chơi thì các toa xe lửa bị trật khỏi đường ray. Roy, gầy và cao lêu nghêu, đã thả chân xuống đất khiến bụi và sỏi bị hất tung lên, một số đã vướng vào
đường ray. Động cơ đứt rời khỏi các toa hành khách. Walt nhảy xuống và hầm hầm tiến về phía lũ trẻ. Qua vẻ mặt cau có và hai lông mày dựng ngược, Roy có thể thấy chú mình đang nổi giận. Lúc đó đôi chân gây họa của Roy vẫn còn đang ở trên nền đất. “Cháu không cố ý, Chú Walt,” Roy phân bua.
Roy bị phạt nhốt vào kho suốt buổi chiều hôm đó.
Mô hình đường sắt ở khoảng sân sau nhà chính là nguồn cảm hứng cho tuyến đường sắt chạy bằng hơi nước được xây dựng tại trung tâm của Disneyland – công viên giải trí theo chủ đề mới, nhưng nó cũng chính là nguyên nhân gây ra những rạn nứt nghiêm trọng đầu tiên giữa hai anh em Walt và Roy O. Walt muốn giữ lại quyền sở hữu cá nhân đối với tuyến đường sắt này, cũng như tuyến đường sắt một ray sắp được xây dựng, thông qua một công ty mới có tên gọi WED, những chữ cái đầu trong tên đầy đủ của ông. WED cũng sẽ nắm giữ mọi quyền lợi liên quan đến cái tên Walt Disney, một nguồn lợi ích độc quyền mà sẽ chỉ có cá nhân Walt được hưởng. Công ty đại chúng Walt Disney Productions mà Walt và Lillian nắm gần một phần ba cổ phần, còn Roy và Edna nắm một phần năm, sẽ chi trả tiền bản quyền cho WED và trả khoản lương 153.000 đô la một năm cho Walt thông qua một công ty con chuyên cung cấp các dịch vụ cá nhân tên là Retlaw (đánh vần ngược lại của từ “Walter”). Roy chưa bao giờ thấy phiền lòng khi không phải là tâm điểm của mọi sự chú ý, nhưng ông nghi ngờ tương lai của cuộc phiêu lưu mang tên Disneyland đồng thời kịch liệt phản đối những mâu thuẫn lợi ích tiềm tàng từ những thỏa thuận này. Ông cảm thấy giận dữ khi suýt chút nữa Walt còn thuê một người đại diện để bảo vệ quyết liệt các lợi ích cá nhân của mình. Ông cũng ngạc nhiên bởi trước đó chưa bao giờ thấy em trai tỏ ra quan tâm đến sự giàu có của bản thân mình đến vậy. Và đáng thất vọng nhất đối với ông là giờ đây Walt còn đòi hỏi quyền sở hữu đối với cái tên Disney. Việc Walt kiên quyết đòi đổi tên công ty từ Disney Brothers Productions thành Walt Disney Productions để nhấn mạnh vai trò sáng tạo của mình đã đủ tệ hại lắm rồi. Nhưng ngay cả đòi hỏi đó Roy cũng đã miễn cưỡng đồng ý với Walt thay vì làm cho ra lẽ mọi chuyện.
Sự thiếu tin tưởng chưa từng có trước đây bỗng xuất hiện giữa hai anh em. Ngay cả khi Walt từ chối tham gia hội đồng quản trị với lý do điều đó có thể làm ông sao nhãng “công việc thực sự” của công ty thì hai anh em họ vẫn ngấm ngầm ganh đua để tạo ảnh hưởng.
Walt cài vào công ty hai đồng minh – E. Cardon Walker, phụ trách quảng cáo và quan hệ công chúng, và nhà sản xuất Bill Anderson – để họ thực hiện các mệnh lệnh của mình. Nhân viên tại Disney thì nhanh chóng bị chia thành hai phe “người của Walt” và “người của Roy.”
10 năm sau, cùng với sự gia tăng chóng mặt số tiền mà Disney phải trả cho hai công ty WED và Retlaw của Walt, và với việc các cổ đông đe dọa sẽ kiện ra tòa (hội đồng quản trị chưa bao giờ phê duyệt những thỏa thuận phục vụ quyền lợi cá nhân đó của Walt), Roy đã đối đầu trực diện với Walt trong kỳ nghỉ cuối tuần của hai gia đình tại khu nghỉ dưỡng Smoke Tree Ranch của Walt ở Palm Springs. Ngay khi chủ đề về WED được đề cập tới, hai anh em đã lập tức sôi máu. Họ to tiếng với nhau suốt mấy ngày cuối tuần đó. “Khỉ thật, em chỉ muốn được đối xử giống như những gì mà người khác vẫn đòi hỏi trong ngành công nghiệp này thôi, Roy,” có lúc Walt hét lên. “Nếu anh không làm thế thì em sẽ ra đi.”
6 tháng liền sau đó, Walt và Roy không nói chuyện với nhau. Cuối cùng, sau những cuộc đàm phán nảy lửa, Walt Disney Productions đã mua lại WED từ Walt, bao gồm cả các quyền sử dụng các nhãn hiệu Disney với giá 60 triệu đô la. Walt tặng Roy một chiếc tẩu bằng gỗ để làm hòa, và Roy đã treo chiếc tẩu lên tường trong văn phòng mình. “Thật dễ chịu khi lại được hút thuốc với anh trong hòa bình,” Walt viết thư cho anh trai. “Nhìn đám khói thuốc bốc lên trông rất tuyệt.” Sau này Roy E. được thừa hưởng chiếc tẩu đó từ cha mình và cũng giữ nó trong văn phòng làm việc.
Nhưng sự gắn bó giữa hai gia đình đã không bao giờ trở lại vẹn nguyên như cũ được nữa. Số tiền khổng lồ mà Walt Disney Productions trả cho Walt, thứ giúp cho gia đình Walt trở nên cực kỳ giàu có, vẫn luôn hằn sâu trong tâm trí nhà Roy. Khi Roy E. vào làm việc cho công ty sau khi tốt nghiệp đại học Pomona ở gần đó, bố ông thậm chí còn lo ngại rằng Walt sẽ không đối xử tốt với con mình như với các nhân viên khác.
Roy làm việc tại phòng biên tập và tham gia vào một trong những bộ phim tài liệu về thế giới hoang dã đầu tiên của Walt, The Vanishing Prairie (Thảo nguyên xa khuất). Khi họ đang xem lại cảnh phim những đàn vịt trời và ngỗng quay trở về vào mùa xuân thì Walt chỉ vào một cảnh trong đó một con vịt trời vô tình đáp xuống một mặt ao vẫn còn phủ băng và trượt chân lộn nhào. “Phần còn lại của cảnh
này đâu, cảnh chú vịt này nhập đàn với những chú vịt khác ấy?” Walt hỏi. Không ai lên tiếng trả lời. “Tôi biết nó chỉ ở đâu đó thôi,” Walt nói. “Roy, cháu hãy đi tìm cho ra nhé.”
Roy lục lại hàng trăm thước phim âm bản mà vẫn không thể tìm thấy cảnh phim đó. “Cảnh phim đó đâu rồi?” Walt hỏi lại lần nữa trong buổi duyệt phim tiếp theo. Roy ngoan ngoãn trả lời rằng chưa hề có cảnh quay đó. Cuối cùng, đạo diễn đã gửi một đoàn làm phim đến Minnesota để quay cảnh một chú vịt trời đang đáp xuống nhập đàn với một nhóm vịt trời khác trên một mặt hồ còn đóng băng, sau đó đưa những cảnh đó vào trong phim, lồng với âm thanh một trái bóng bowling đang va vào các chai ky. Walt vô cùng thích thú với cảnh phim đó. “Thấy chưa, chú đã nói là cháu có đoạn phim đó mà,” Walt nói. Roy nghi ngờ rằng Walt đã biết từ trước là đoạn phim đó không hề tồn tại. “Cháu hãy đi tìm cho ra nhé” chẳng qua chỉ là cách của Walt khi ông muốn nói “Hãy đi quay đoạn phim đó đi. Hoàn thành nốt việc này đi.”
Với Roy, sự thiếu kiên nhẫn cùng những chỉ trích liên tục của chú Walt với cậu chỉ đơn giản phản ánh sự hà tiện lời khen cùng những đòi hỏi rất cao trong công việc của Walt đối với tất cả nhân viên của ông. Khi Roy cuối cùng cũng đủ tự tin để đề nghị được phép thực hiện bộ phim tài liệu về thế giới hoang dã đầu tiên của mình, Walt đã đồng ý và Roy bắt tay vào sản xuất bộ phim An Otter in the Family (Chú rái cá của gia đình tôi). Trong một buổi duyệt phim, Walt đã bật cười rất lớn trong một phân cảnh, điều mà Roy biết là một sự tán dương nồng nhiệt – nhưng đó là tất cả những gì cậu nhận được.
Khi Roy kết hôn với cô bạn hàng xóm thủa thiếu thời Patty Dailey vào năm 1955, Walt đã đến dự đám cưới. “Thật tuyệt vời! Cháu tôi kết hôn với một cô gái rất bản lĩnh!” Ông nói. Bề ngoài là vậy nhưng Walt vẫn kín đáo phàn nàn rằng Roy là người thiếu động lực và ít tham
vọng. Sau khi nghe Walt phàn nàn rằng “Roy sẽ chẳng bao giờ làm nên trò trống gì đâu,” Card Walker đã gán cho cậu biệt danh “ông cháu trai đần độn.”
Trong khi Roy còn đang mải mê với những bộ phim về đề tài thiên nhiên hoang dã thì Walt đã chuyển hướng kế hoạch chuyển giao cho thế hệ tiếp theo của mình sang người con rể Ron Miller. Ngay sau khi Miller kết hôn với Diane vào năm 1954, Walt đã thuyết phục được Miller tham gia vào hoạt động điều hành công ty. Khi Miller bị gãy
mũi và xương sườn khi chơi bóng cho đội Los Angeles Rams thì Walt đã đến nói chuyện với anh. “Ron, nếu tiếp tục chơi bóng đá thêm một năm nữa, có thể con sẽ chết trên sân và bố sẽ phải nuôi nấng lũ trẻ kia. Vậy thì sao con không đến làm việc ở chỗ bố đi?”
Ban đầu Miller chỉ đóng vai trò một người đưa tin, chuyển các bản thiết kế kiến trúc của Disneyland từ Burbank đến Anaheim. Sau đó Walt đưa Miller vào Hiệp hội Đạo diễn, và với vai trò trợ lý đạo diễn, Miller nhào nặn các thông tin đầu vào mà Walt đưa cho để thành các chương trình truyền hình hàng tuần của Disney, một công việc khiến Miller luôn căng thẳng bất an. Walt là người nghiện thuốc lá nặng, bất cứ khi nào giọng ông bắt đầu trở nên khàn đục là Miller lại lập tức xuất hiện với một cốc nước trên tay.
Diane nhớ lại rằng cha mẹ mình đã ngay lập tức có cảm tình với Miller. “Ron hay xấu hổ. Anh ấy không giỏi khoản ăn nói cho lắm. Anh ấy cũng không thực sự thành công với sự nghiệp học hành,” bà nhớ lại. Nhưng “Tôi nghĩ bố tôi vui mừng với cách mà Ron tới và tham gia” vào công việc. “Và thực tế là, Ron không hề được đào tạo để làm bất cứ thứ gì khác. Anh ấy giống như một cuốn vở trắng. Bố tôi có thể kèm cặp và nhào nặn anh ấy theo khuôn mẫu của mình. Tôi nghĩ điều tốt đẹp nhất mà tôi từng làm cho bố mình chính là, nhờ sự run rủi của số phận, tôi đã cưới một người đàn ông đúng như ông hằng ao ước.”
Miller có vẻ ngoài hoàn hảo cho vị trí mà mình được trao gửi: tràn trề sinh lực với chiều cao trên mét chín, tóc sẫm màu, bờ vai rộng, đôi mắt xanh và làn da rám nắng nhờ thường xuyên đi đánh golf. Miller và Diane sở hữu vườn nho Silverado tại Napa Valley, một ngôi nhà trượt tuyết ở Aspen, và hai vợ chồng cùng 7 người con sống trong ngôi nhà trước đây từng thuộc về John Wayne ở Encino. Miller lái một chiếc Rolls-Royce và chiếc Mercedes cổ màu trắng xám mà trước đây Walt từng yêu thích.
Mặc dù Roy là cổ đông cá nhân lớn nhất của Disney với khoảng 3% cổ phần của công ty nhưng cả gia đình Walt, đồng minh của Miller, lại kiểm soát tới 11% cổ phần, chia đều cho góa phụ của Walt, Lillian, Diane và Sharon nắm giữ cùng hàng loạt hợp đồng ủy thác khác cho phép họ kiểm soát công ty một cách hiệu quả. Hiện tại Walker đang là chủ tịch hội đồng quản trị, và điều đó chẳng hề giúp ích gì cho Roy khi mà trước đó, cha ông từng cố gắng tìm cách sa thải
Walker. Walker và Miller thậm chí còn chẳng thèm giấu giếm sự coi thường đối với Roy, họ bỏ ngoài tai mọi ý kiến của ông về các bộ phim và loại bỏ vai trò của ông trong bất cứ quyết định nào đưa ra.
Đối với Roy, bước ngoặt lớn diễn ra vào năm 1977, một năm sau khi Miller được đề bạt làm người đứng đầu xưởng phim. Luật sư và đối tác kinh doanh của Roy, Stanley Gold, khuyên ông nên rời khỏi công ty, nhưng vẫn tiếp tục đóng vai trò một nhà sản xuất độc lập cho Disney. Trái ngược với sự mềm mỏng của Roy, Gold thấp người, đậm dáng, năng động, luôn tràn đầy năng lượng cùng bản tính tháo vát xông xáo. Cân nặng của ông thường xuyên lên xuống cùng những lần ăn kiêng. Xen giữa bài phát biểu của ông thường là những câu nói báng bổ. Ông lớn lên trong một gia đình bình thường ở khu nam trung tâm Los Angeles, học ở một trường công, Berkeley và UCLA, rồi sau đó học trường luật tại Oxford và đại học Southern California. Khi tới làm việc cho công ty luật Gang, Tyre & Brown với vai trò trợ lý, ông được cử làm việc cùng với Frank Wells, một trong số khách hàng của Wells là Roy Disney, bạn học cùng lớp với Wells ở đại học Pomona.
Sau khi Wells rời khỏi công ty luật để giúp điều hành Warner Bros., trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của Roy được chuyển sang Gold. Mặc dù Gold có rất ít điểm chung với Wells lịch thiệp và nhã nhặn trước kia, nhưng Roy đã nhận ra ở ông những phẩm chất mà bản thân mình không có.
Thương vụ đầu tiên mà Gold thực hiện cho Roy là mua lại một nông trại ở Oregon cùng với người anh vợ Peter Dailey và các con của họ. Dần dần, Gold mở rộng các công việc thực hiện cho Roy và cuối cùng là thành lập công ty Shamrock Holdings để quản lý tài sản của Roy. Gold nhanh chóng trở thành chỗ dựa tin cậy của Roy, không chỉ trong các vấn đề tài chính như sự sụt giảm giá cổ phiếu của Disney, mà cả những mối quan ngại của ông về Miller và xưởng phim.
Roy và Gold cùng tới gặp Walker để bàn chuyện Roy sẽ ra đi đồng thời thuyết phục để Walker vẫn dành cho Roy một hợp đồng sản xuất phim khiêm tốn. “Cậu muốn làm gì, Roy?” Walker hỏi, giọng chế nhạo. “Một Deep Throat (Lên đỉnh)(10) nữa chăng?”
Roy lặng người vì choáng váng khi nghe Walker nhắc đến chủ đề phim khiêu dâm. Nhưng Gold lập tức nhập cuộc. “Chúng tôi chỉ đang
cố để không phải sản xuất The Love Bug (Chú bọ đáng yêu) đến lần thứ 15 thôi,” ý nói đến bộ phim năm 1968 của Disney về một chiếc xe Beetle của Volkswagen với tên gọi Herbie – cũng là lần cuối cùng Disney có được một bộ phim bom tấn.
Roy vẫn luôn biết rằng Walker không cảm tình mà cũng chẳng quý trọng gì ông; ông biết chính Walker là người đã gán cho ông biệt danh “ông cháu trai đần độn.” Nhưng ông thực sự không hiểu tại sao Walker lại phải xúc phạm mình như thế.
Ngày 4 tháng Ba năm 1977, Roy, lúc ấy 47 tuổi, rút khỏi công ty mang tên họ của mình, để lại một lá thư thể hiện nỗi thất vọng tột cùng. “Bầu không khí sáng tạo mà bấy lâu nay đã làm nên danh tiếng của chúng ta cũng như khiến chúng ta tự hào, theo quan điểm của tôi, đã hoàn toàn mờ nhạt,” ông viết trong thư. “Tôi không tin rằng đây là nơi để tôi, và có thể cả những người khác nữa, có thể thể hiện năng lực sáng tạo của mình. Những bộ phim cùng nguồn ý tưởng mới mà chúng kích hoạt nên từng là con suối nguồn dẫn dắt chúng ta; nhưng ban giám đốc hiện nay lại chỉ lặp đi lặp lại cùng một dạng thức phim truyện, với ngày càng ít thành công cả về mặt doanh thu lẫn nghệ thuật…. Công ty đã không còn đủ nhạy bén trước truyền thống sáng tạo của chính mình nữa. Thay vào đó, nó đang chú tâm đến lợi ích ngắn hạn… nhiều hơn là những kế hoạch sáng tạo trong dài hạn.”
Khi tin tức về việc Roy rút khỏi công ty lan ra, Roy nhận được hàng trăm cuộc gọi từ những người tò mò muốn biết về kế hoạch của ông, trong đó có cả cuộc gọi từ Michael Eisner. Cũng có biết đôi chút về Eisner từ những cuộc họp hội đồng quản trị của CalArts, Roy đã gọi lại số điện thoại tại Middlebury Inn mà Eisner đã để lại.
Đến năm 1984, tình trạng của Disney đã trở nên chín muồi cho một cuộc tấn công thâu tóm. Cổ phiếu của Disney, sau khi đạt mức đỉnh 123 đô la vào năm 1973, một năm sau khi công viên giải trí Disney World khai trương ở Florida, đã lao dốc không phanh do lệnh cấm vận dầu lửa của các quốc gia Ả rập và đến năm 1984 thì chỉ còn ở quanh mức 50 đô la. Mặc dù trên danh nghĩa Walker đã nghỉ hưu vào năm 1982, trao lại vị trí tổng giám đốc cho Miller, nhưng ông ta vẫn giữ lại văn phòng của mình, vẫn tại vị ở vị trí chủ tịch hội đồng quản trị và ngăn cản gần như tất cả những ý tưởng đổi mới mà Miller và các lãnh đạo cao cấp khác đề xuất. Khi họ đề xuất tăng giá dịch vụ gửi xe ở Disneyland từ mức thấp đến khôi hài là 1 đô la mỗi xe, Walker đã
phủ quyết đề xuất đó. “Bãi đỗ xe là điều đầu tiên mà khách thăm quan có thể cảm nhận ở Disney,” Walker lí luận. “Walt muốn họ nghĩ rằng đây là nơi tuyệt vời nhất trên trái đất này.” Tương tự như thế, giá vé vào cổng cũng không được phép thay đổi. “Chúng ta phải giữ giá vé ở mức thấp, có như vậy thì khách thăm quan mới cảm thấy họ đã có được một món hời.”
Trong khi đó, chi phí đổ vào các công viên giải trí lại tăng vòn vọt. Một trong số những công trình cuối cùng của Walt – công viên theo chủ đề Epcot tại Disney World ở Florida – đã làm tiêu tốn tới 1,2 tỷ đô la, gấp 3 lần so với dự toán, dù ý tưởng ban đầu của Walt về một thành phố với toàn mái vòm giống như một “bản thiết kế sống động về tương lai” đã được cắt gọt lại thành một khu hội chợ quốc tế thường niên, một sản phẩm ra đời vào đúng thời điểm mà công chúng, với thẩm mỹ ngày càng tinh tế hơn, đã chán ngán với các hội chợ quốc tế nhan nhản khắp nơi. Hội chợ uốc tế năm 1981 tại Knoxville, Tennessee lại thất bại nặng nề khiến cho ý tưởng đó gần như đã chết yểu ngay từ đầu. Roy từ chối tham dự buổi lễ khai trương Epcot vào tháng Mười năm 1982.
Một lý do khiến cho xưởng phim chuyển thể(11)của Disney không sản xuất được thêm một bộ phim đình đám nào kể từ sau The Love Bug là do Walker không tin vào các hoạt động tiếp thị và quảng cáo. Tron, một bộ phim khoa học viễn tưởng đắt đỏ, sử dụng công nghệ vi tính, được công chiếu chỉ vài tuần sau hai bộ phim E.T: the Extraterrestrial (E.T: Người ngoài hành tinh) và Annie. Nhưng trong khi hai xưởng phim đối thủ đều dành một số tiền khổng lồ lên tới 10 triệu đô la cho các chiến dịch tiếp thị và quảng cáo thì Walker lại từ chối tăng khoản ngân sách quảng cáo vốn đã rất ít ỏi của Disney, giữ đúng phương châm mà Walker vẫn theo đuổi, thứ danh tiếng đáng tiền nhất là thứ có được mà không cần phải mất tiền. Ngay cả khi Tron kết thúc tuần chiếu ra mắt đầu tiên với vị trí thứ sáu thảm hại, Walker vẫn từ chối chi thêm tiền, khăng khăng cho rằng sức mạnh của quảng cáo kiểu truyền miệng sẽ là cứu cánh cho bộ phim. Cuối cùng, Disney đã phải xóa sổ phần lớn khoản chi phí 17 triệu đô la dùng để sản xuất bộ phim.
Disney cũng gặp rắc rối lớn với khái niệm đang ngày càng trở nên lỗi thời của mình về mức giá ưu đãi dành cho “gia đình,” hồ như nó chẳng đạt được chút tiến bộ nào khi phải đối mặt với các phong trào
Dân quyền(12), đấu tranh đòi bình đẳng cho phụ nữ cũng như xu hướng suy giảm rõ rệt vai trò của gia đình hạt nhân(13)và sự gia tăng chóng mặt của tỷ lệ ly hôn. Disney không sản xuất phim loại R(14). Phát hành cùng năm với Tron, bộ phim Porky’s (Quán Porky) với những cảnh quay lộ liễu đến thô tục lại thu về tới 70 triệu đô la từ các phòng vé. Walker đã thề rằng nếu khán giả không muốn xem phim gia đình lành mạnh mang thương hiệu Disney thì đơn giản là Disney sẽ không làm phim truyện nữa. Năm 1983 nó chỉ cho ra đời vẻn vẹn 3 bộ phim.
Trong vai trò người phán quyết cuối cùng về chuyện “nếu Walt còn sống thì ông ấy sẽ làm gì”, ảnh hưởng của Walker lan tỏa tới mọi ngóc ngách trong công ty. Nhưng Miller cũng nỗ lực vùng vẫy hòng thoát khỏi khuôn khổ tù túng của sự sáng tạo đó bằng cách cho ra một thương hiệu mới, xưởng phim Touchstone Pictures, hướng tới các bộ phim chỉ dành cho khán giả người lớn và cũng có mức độ rủi ro cao hơn. Năm 1962, Miller và Diane từng cùng với Walt và Lilliant xem bộ phim To Kill a Mockingbird (Giết con chim nhại) tại phòng chiếu phim của gia đình. Khi bộ phim hết thúc, ai cũng xúc động và Walt đã nói, “Uớc gì ta có thể làm ra những bộ phim như thế.” Ngay cả Walt cũng cảm thấy mình bị trói chân bởi thương hiệu Disney. Như chính ông đã thốt ra trong một cơn giận dữ bùng phát, “Tôi đã lao động cả đời để định hình ‘Walt Disney’. Nhưng nó lại không phải là tôi. Tôi hút thuốc, uống rượu, và cũng làm tất cả những điều mà chúng ta không muốn công chúng nghĩ tới.” Miller đã thề rằng một ngày nào đó ông sẽ sản xuất những bộ phim dành cho người lớn tại Disney.
Trong nhiều năm ròng Walker luôn chống lại mong muốn đó. “Chúng ta có hình ảnh riêng của mình,” ông ta kiên quyết. Nhưng khi Miller đã trở thành tổng giám đốc, Walker buộc phải nhượng bộ. Miller thành lập Touchstone, và cố gắng đưa những nhân tố mới mẻ vào để điều hành thương hiệu này. Lựa chọn đầu tiên của ông chính là Michael Eisner.
Với những thành công rực rỡ tại Paramount cùng danh tiếng sẵn có, Eisner hiển nhiên là ứng viên sáng giá cho bất cứ xưởng phim nào, ngoại trừ Disney, nơi có truyền thống không thuê người mới từ bên ngoài. Nhưng lúc đó Eisner cũng đang thực hiện hai dự án tại Paramount mà ông đã thuyết phục được Disney cùng tài trợ: một phiên bản phim ca nhạc của bộ phim hoạt hình Popeye do Robert
Altman đạo diễn và Robin Williams thủ vai chính, và một bộ phim sử thi có bối cảnh thời Trung cổ, Dragonslayer (Chiến binh săn rồng). Cả hai đều gặp nhiều trục trặc và cuối cùng kết thúc trong thua lỗ. Nhưng Miller vẫn có cảm tình với Eisner, cho ông là người có khiếu hài hước tuyệt vời và năng lực sáng tạo bẩm sinh, và đã mời ông và Jane ăn tối với mình và Diane tại Ma Maison, nhà hàng của đầu bếp nổi tiếng Wolfgang Puck. Diane đánh giá Eisner là một người có sức hấp dẫn, có chút nhiệt tình thái quá, giống như một chú cún con. Sau khi kết thúc bữa tối họ đứng cạnh nhau ở bên ngoài để chờ xe. Eisner nở một nụ cười và nghiêng mình về phía Diane. “Có điều này tôi vẫn muốn hỏi cô từ lâu,” Eisner nói. “Có phải cha cô…”
Diane lập tức cắt lời người hỏi. “Tôi biết anh muốn biết điều gì rồi, và câu trả lời là không. Di hài của cha tôi không bị ướp lạnh.” Bà không thể tin được Eisner lại hỏi mình về tin đồn rằng thi hài cha bà đã được sử dụng cho một thí nghiệm về kỹ thuật làm lạnh sâu, một câu chuyện mà theo bà là hoang đường chẳng khác gì tin đồn Elvis (Presley) vẫn còn sống. Sự thực là, bà nói với Eisner, thi hài của Walt đã được hỏa thiêu sau khi ông mất vì ung thư phổi năm 1966.
Dẫu có gợn chút trái tai, đó vẫn là một buổi tối dễ chịu. Miller cũng thích Eisner. Họ gặp nhau một vài lần nữa rồi Miller đề nghị Eisner về Disney để điều hành bộ phận sản xuất phim và chương trình truyền hình. “Ron,” Eisner đáp lời, “Vị trí của tôi ở Paramount hiện giờ cao hơn so với anh. Tôi đã sản xuất phim nhiều gấp ba lần anh và còn làm rất tốt nữa. Nên nếu về đây, tôi muốn là tổng giám đốc kiêm giám đốc tác nghiệp. Anh sẽ là chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám đốc điều hành. Tôi sẽ trực tiếp dưới quyền anh.”
Miller có vẻ thích ý tưởng đó; Walker đang lên kế hoạch rút khỏi ghế chủ tịch hội đồng quản trị vào năm tới. Nhưng rồi ông nhận ra sẽ khó mà thuyết phục được Card Walker chấp thuận ý tưởng rằng một người ngoài sẽ là giám đốc tác nghiệp của Disney. Vài ngày sau ông gọi cho Eisner để báo rằng Walker đã từ chối. “Anh không hiểu về các công viên giải trí.”
“Anh có thể phụ trách các công viên,” Eisner đề nghị. Miller gợi ý có lẽ họ nên gặp trực tiếp Walker.
Khi Eisner tới nơi, Miller và Walker vẫn đang tranh luận về Splash, bộ phim chuyển thể đầu tiên của Touchstone. Trong khi
Splash vẫn khó có thể sánh được với To Kill a Mockingbird, Miller còn có kế hoạch sản xuất một số phim khác hướng đến đối tượng người lớn, như Country (Đồng quê), với nữ diễn viên chính Jessica Lange, và The Journey of Natty Gann (Chuyến đi của Natty Gann) với nam diễn viên chính John Cusack.
Thế nhưng Splash, dưới bàn tay của nhà sản xuất trẻ tuổi Brian Grazer và đạo diễn Ron Howard, hẳn nhiên vẫn là một điều gì đó hết sức mới mẻ đối với Disney. Nữ diễn viên Daryl Hannah thủ vai một nàng tiên cá đầy khêu gợi. Mặc dù khuôn ngực trần của Hannah đã được che đi một cách đầy nghệ thuật bằng mái tóc vàng mượt mà, những đồn đoán xoay quanh bộ phim và nội dung chính của nó vẫn khiến các thành viên hội đồng quản trị lo ngại. Cuối cùng Walker phải gọi điện cho Miller. “Tôi nghe thấy rất nhiều điều tiếng về Splash đấy. Tôi có thể xem qua nó không?”
“Chắc chắn rồi,” Miller đáp. Sau khi xem xong, Walker gọi Miller vào văn phòng.
“Phim được đấy,” Walker nói. “Chúng ta chỉ cần cắt đi sáu hoặc bảy cảnh thì…”
Miller lập tức phản pháo. “Card, ông không hiểu vấn đề rồi.”
Miller kể lại nỗi thất vọng của mình cho Eisner, lắc đầu ngán ngẩm vì những phản ứng của Walker. Khi Walker tới chỗ họ, không khí vẫn còn có vẻ căng thẳng. Walker chấp thuận ý tưởng để Eisner làm tổng giám đốc, tuy vẫn giữ thái độ khá lãnh đạm. Sau khi họ thống nhất xong các điều khoản về vị trí của Eisner trong tương lai, Walker nói, giọng pha chút khinh miệt, “Tôi nghĩ kiểu người như anh hẳn sẽ cần một thông cáo báo chí.” Eisner nhìn chằm chằm vào Walker. Liệu câu nói “kiểu người như anh” có ám chỉ việc Eisner là người Do Thái? Disney từ lâu đã được đồn thổi là nơi tập hợp những người có tư tưởng bài Do Thái. Nhưng Eisner không nghĩ thế. Ông chỉ cảm thấy, đối với Walker, mình đại diện cho “Hollywood,” loại văn hóa xưởng phim mà Disney luôn tìm cách tránh xa. Đối với Walker, Hollywood nhan nhản những kẻ thô tục, háo danh, và ưa chưng diện, bất kể họ thuộc tôn giáo nào hay đang thiếu thốn thứ gì.
“Disney là công ty niêm yết,” Eisner đáp, “nên đúng là vậy, các anh sẽ cần phải ra một thông cáo báo chí đấy.”
Sau khi rời khỏi cuộc họp, Eisner nói với vợ, “Anh không nghĩ họ sẵn sàng tiếp nhận anh đâu.”
Chí ít thì đây cũng là những sự kiện đã diễn ra dưới góc nhìn của Eisner mà sau này ông có thuật lại trong cuốn tự truyện của mình (và còn nhắc lại trong những lần phỏng vấn với tôi). Tuy nhiên, Ron Miller thì vẫn bảo lưu quan điểm cho rằng đó chỉ là “chuyện hoang đường,” và rằng Eisner chưa bao giờ tới gặp Walker, Walker cũng chưa bao giờ nói gì về một thông cáo báo chí hay ám chỉ về “kiểu người như anh.” Phần còn lại của câu chuyện, theo Miller, khá tương ứng với những sự kiện mà ông đã mô tả cho Eisner qua điện thoại.
Cho dù cuộc gặp gỡ mà Eisner mô tả có thực sự diễn ra hay không thì Walker cuối cùng cũng nhượng bộ những lí lẽ mà Miller đưa ra để bảo vệ Eisner. Họ triệu tập một cuộc họp với các lãnh đạo cấp cao để giải quyết những vấn đề chi tiết. “Chúng ta sẽ gọi cho Eisner ngay bây giờ và chúng ta sẽ đề nghị ông ấy làm tổng giám đốc kiêm giám đốc tác nghiệp,” Miller tuyên bố.
Cả hội đồng choáng váng. “Anh không thể làm như thế được. Cậu phải dành vị trí này cho ai đó trong nội bộ công ty.”
Walker đấm tay xuống mặt bàn. “Vậy nhé,” ông nói. “Chúng ta sẽ không làm thế.”
Sau khi Eisner và Jane về đến nhà, chuông điện thoại reo vang. “Không ăn thua rồi,” Miller thất vọng nói. “Card nói,’Chúng ta không thể làm vậy được.’”
Miller rất vui mừng khi Splash khởi chiếu tháng Ba năm 1984 và gặt hái thành công lớn, thu về tổng cộng hơn 69 triệu đô la, một kỷ lục mới của Disney cho thể loại phim chuyển thể. Nhưng đã quá muộn để có thể thay đổi quan niệm rằng Disney chỉ là cái vỏ bề ngoài không mấy giá trị và được điều hành một cách kém cỏi. Cùng ngày Splash khởi chiếu tại các rạp, Roy Disney thảo một bức thư ngắn gửi đến công ty có đóng dấu riêng tư và tuyệt mật: “Bằng thư này tôi từ chức thành viên hội đồng quản trị của Walt Disney Productions.” Trước đó ông và Stanley Gold đã quyết định phát động một chiến dịch nhằm kiểm soát Disney từ bên ngoài phòng họp của hội đồng quản trị.
Chưa đầy ba tuần sau đó, ông trùm thôn tính Saul Steinberg tiết lộ rằng mình đang sở hữu hơn 6% cổ phiếu của Disney và đang lên kế hoạch mua thêm để có được 25%, chính thức đưa Disney “vào tầm ngắm”, và ở trong tình trạng dễ bị thôn tính. Sau khi hội đồng quản trị mua lại số cổ phần của Steinberg ở mức giá chống thâu tóm(15) khiến giá cổ phiếu của Disney giảm sâu, Roy đã tăng phần sở hữu của mình lên hơn 5%. Khi tin đồn lan ra khắp nơi về việc Roy sẽ tự mình thực hiện vụ mua lại hoặc tạo ra một cuộc chiến ủy nhiệm để hất cẳng các thành viên ban giám đốc và hội đồng quản trị, Walker, Miller và Ray Watson (một thành viên hội đồng quản trị khác) cuối cùng đã đi đến kết luận là họ cần phải làm lành với ông cháu trai “đần độn” phiền toái mà từ lâu họ đã coi là vô dụng này. Họ đồng ý để Roy quay trở lại hội đồng quản trị với tư cách thành viên, mang theo hai người của mình là Gold và ông anh vợ Peter Dailey. Roy cũng sẽ có chức danh là phó chủ tịch hội đồng quản trị. Giờ thì Roy và các đồng minh đã có ba ghế trong tổng số mười một ghế trong hội đồng – chưa phải đa số, tất nhiên, nhưng họ nghĩ chừng đó là đủ để tạo nên sự khác biệt.
Sau đó Gold đến gặp Miller để thảo luận việc tìm kiếm một vị trí cho Roy ở xưởng phim cũng như một vị trí cao cấp cho Frank Wells. “Ron, anh cần được giúp đỡ,” Gold nói.
“Tôi cũng đang cố tìm ra ai đó đây,” Miller nói. Ông đã gọi lại cho Eisner và nói đang cố gắng cứu vãn thỏa thuận để Eisner về làm giám đốc tác nghiệp của Disney. Lần này thì Eisner hứa sẽ kéo cả Katzenberg về Disney cùng mình. “Tôi đã trao đổi kỹ với Michael Eisner và chúng tôi sắp đạt được thỏa thuận rồi.”
“Tiến hành đi nhé,” Gold nói.
Nhưng ngày hôm sau, Gold gọi lại cho Miller. “Ron, đừng ký hợp đồng với Michael lúc này. Cứ dừng ở đó đã nhé.”
Miller cho rằng Gold đang cố gắng trì hoãn để có thể thay mặt Wells nắm quyền điểu khiển. Cùng ngày hôm đó Miller gọi cho Eisner. “Họ đang cố gắng buộc tôi chấp nhận Frank,” Miller nói với Eisner.
“Ai cần một Frank Wells làm gì cơ chứ?” Eisner đáp.
Nhưng quỹ thời gian của Miller đã cạn. Trước thực tế là rất nhiều chuyên gia thôn tính khác vẫn đang tiếp tục thu mua cổ phiếu của Disney khiến mối đe dọa bị thâu tóm luôn lẩn khuất, Gold lên tiếng một cách mạnh mẽ rằng phương thức phòng thủ tốt nhất để tránh không bị thôn tính lúc này là một ban giám đốc mới. Miller chẳng giúp được gì nhiều trong khi lại vướng vào chuyến phiêu lưu tình ái với một người phụ nữ khác và li thân với Diane. Sự việc tai tiếng đó khó mà hòa hợp được với những giá trị gia đình vốn vẫn thường xuyên được ca tụng của nhà Disney, và mặc dù sau đó Miller và Diane đã tái hợp, nó đã khiến Miller mất đi sự ủng hộ của Lillian, mẹ vợ ông và cả gia đình Walt, đúng vào một thời điểm bước ngoặt. Khi Walker cuối cùng cũng chịu rút khỏi ghế chủ tịch hội đồng quản trị, nhưng người thay thế không phải Miller mà là Ray Watson, một nhà phát triển bất động sản. Watson chính là người đã đề xuất ý tưởng về Disney World với Walt song lại chỉ có đôi chút kinh nghiệm trong ngành điện ảnh. Ngày 17 tháng Tám, hội đồng quản trị thành lập một ủy ban bao gồm các ủy viên hội đồng quản trị độc lập để đánh giá ban giám đốc hiện tại. Dường như quên mất rằng mình chính là đối tượng sẽ bị săm soi, Miller tán thành ý kiến này.
Sau khi cuộc họp hội đồng khép lại, ủy viên độc lập Philip Hawley, chủ tịch hội đồng quản trị của chuỗi trung tâm thương mại Carter Hawley Hale ở Los Angeles đồng thời là một người bạn của cả Ron và Diane là người được giao phó trách nhiệm báo cho Miller biết rằng ủy ban sẽ yêu cầu ông từ chức. Miller chết lặng. Ông rời khỏi phòng họp, rồi sau đó trở lại và quay sang Ray Watson, người mà ông vẫn coi là đồng minh. Miller hỏi liệu những gì Hawley nói có phải là sự thật hay không. Cả Watson và Hawley đều im lặng. Đến lúc ấy, Miller ngã quỵ rồi bật khóc.
“Tôi nên làm gì đây?” ông hỏi, sau khi đã bình tâm trở lại.
“Tôi nghĩ anh nên tìm một luật sư để bảo vệ các quyền lợi của mình”, Watson nói, “bởi vì anh quá tốt, Ron ạ.”
Sau khi trở về từ Vermont và nói chuyện điện thoại với Roy Disney, Eisner đến gặp Stanley Gold và Frank Wells ở nhà của Gold tại Beverly Hills vào một buổi tối Chủ nhật. Wells chính là người đã
đề xuất việc họ nên tìm cách lôi kéo Eisner về Disney. “Các anh làm gì cũng được, nhưng hãy kéo Michael Eisner về,” Wells nói với Gold. “Chắc chắn ông ta phải trở thành người điều hành công ty. Công ty
nào cũng muốn kéo ông ta về. Ông ta có thành tích đáng nể. Hãy làm bất cứ điều gì để kéo ông ta về đây, tôi sẽ giúp.”
Theo Gold thì điều ông vẫn đinh ninh trong đầu là trong trường hợp cả Wells và Eisner cùng về Disney thì Wells sẽ là tổng giám đốc điều hành còn Eisner sẽ là giám đốc sáng tạo. Có điều sự sắp đặt đó mang lại hiệu quả thế nào thì ông vẫn chưa thực sự chắc chắn. Nhưng
sau kinh nghiệm làm việc dưới quyền Diller ở Paramount, Eisner đã không còn muốn bất kỳ một vị trí số hai nào nữa. Còn Wells cũng tỏ rõ rằng mình sẽ không hề phật ý nếu phải làm việc dưới quyền Eisner. Về phần Eisner, trong khi thể hiện sự hào hứng trước đề nghị về Disney trong vai trò giám đốc điều hành, ông cũng đồng thời bóng gió đề cập tới những bài báo gần đây trên tờ Los Angeles Times mà nội dung cho thấy người phóng viên của tờ này, Kathryn Harris, chắc chắn phải có nguồn tin từ bên trong hội đồng quản trị. Eisner rất nghi ngờ rằng Gold đã tiết lộ thông tin cho báo chí. Ông cảnh báo rằng dù trở thành người đứng đầu ở bất cứ công ty nào thì ông cũng sẽ không nương tay với chuyện rò rỉ thông tin từ nội bộ hội đồng quản trị. “Tôi muốn anh hứa với tôi, Stanley, rằng anh sẽ không bao giờ tiết lộ thông tin liên quan đến các cuộc thảo luận trong nội bộ hội đồng quản trị.” Gold nói rằng ông không có vấn đề gì với chuyện đó, và vẫn luôn một mực phủ nhận mối nghi ngờ rằng bản thân chính là nguồn tin của Harris.
Ban đầu Ray Watson cũng chẳng mặn mà gì lắm với ý tưởng kéo Eisner về, nhưng Gold đã rất nỗ lực thuyết phục ông ta về hiệu quả của phương án kết hợp Eisner và Wells. Ngoài ra vẫn còn một vài thành viên hội đồng quản trị phản đối ý tưởng này vì muốn một ứng viên dày dạn kinh nghiệm trong ngành điện ảnh hơn như Dennis Stanfill, cựu giám đốc hãng phim Twentieth Century Fox. Hai tuần sau đó, Eisner đến gặp Watson để tìm kiếm sự ủng hộ của ông. Eisner cảm thấy rất dễ chịu khi tiếp xúc với một Watson khiêm tốn, điềm đạm và tôn trọng sự đồng thuận. Hai người chia sẻ với nhau niềm đam mê chung với kiến trúc, rồi Eisner còn kể lại những ấn tượng mà bộ phim Pinocchio để lại cho mình khi ông lái xe đưa vợ và cậu con trai Breck đi xem tại một bãi chiếu phim dành cho người đi ô tô ở Bronx, New York. “Công ty đã bước vào giai đoạn chín muồi để mở rộng sang cả phim truyện và chương trình truyền hình nữa,” Eisner nói với Watson. “Các anh đang ở vị thế giống hệt như Paramount khi tôi về đó, và cả ABC trước đó nữa. Có rất nhiều cơ hội để tăng cường sản xuất. Thương hiệu Disney vẫn còn là một khối tài sản độc đáo và
quý giá mà hầu như chưa được khai thác gì nhiều.”
Ngày hôm sau, Wells gọi Eisner để tường thuật lại cuộc gặp của chính mình với Watson. Trước đây Watson đã không mặn mà với ý tưởng để cả hai cùng là đồng giám đốc điều hành, vậy nên Wells đã đứng sang một bên để nhường chỗ cho Eisner. “Các anh cần sự sáng
tạo hơn bất cứ thứ gì khác,” Wells nói với Watson. Với Eisner, ông nói, “Tôi nghĩ anh đã có được vị trí đó rồi.” Trong cái thế giới cạnh tranh khốc liệt của Hollywood, Wells đã để lại cho Eisner ấn tượng mạnh mẽ khi chủ động hy sinh vị trí cao nhất để nhường lại cho
Eisner.
Watson viết cho các thành viên trong hội đồng quản trị rằng, thuê một người có danh tiếng và bảng thành tích ấn tượng như Eisner “sẽ ngay lập tức tiếp cho chúng ta sinh lực đồng thời tạo hình ảnh để thế giới thấy rằng chúng ta đang nghiêm túc về việc sẽ xoay chuyển tình thế,” và bằng cách đó, chúng ta sẽ tránh được nguy cơ phải đối mặt với những cuộc tấn công thâu tóm khác. Vài ngày sau, Watson gọi điện cho Eisner để thông báo rằng hội đồng quản trị sẽ họp vào ngày hôm sau để bãi nhiệm Miller, và ông sẽ đề cử Eisner thay thế vị trí đó. Tạm thời Watson vẫn sẽ tiếp tục ở lại với vai trò chủ tịch hội đồng quản trị, nhưng với Eisner điều này không có vấn đề gì chừng nào vị trí của ông vẫn còn là giám đốc điều hành duy nhất của công ty.
Cùng tuần đó, Marty Davis, sếp của Eisner ở Gulf+Western, tới Los Angeles và ngay ngày hôm sau đã gọi Eisner đến để thảo luận về hợp đồng của ông với Paramount. Trước khi Davis kịp bắt đầu, Eisner đã nói, “Tôi nghĩ tôi sắp được mời về làm giám đốc điều hành kiêm tổng giám đốc của Disney.” Ông cảm thấy thật thoải mái khi có thể lật ngược tình thế với Davis, sau tất cả những thứ tệ hại mà ông nghe được từ Diller. Davis tất nhiên cảm thấy bất ngờ. Ông ta chỉ có thể nói được một câu “Tôi sẽ không ngáng đường anh”.
Cùng lúc Eisner đang gặp gỡ Davis thì Miller cũng đang đứng trước Roy, Gold và các thành viên khác trong hội đồng quản trị của Disney, biết rằng mình sắp chính thức bị gạt ra khỏi vị trí hiện tại. “Các anh không có gì để nói với tôi nữa sao?” Miller nói. “Các anh có phải con người không thế?”
Đáp lại chỉ là sự im lặng.
“Tôi rất thất vọng về chuyện này,” Miller tiếp tục. “Tôi đã cống hiến cả cuộc đời mình cho công ty này. Tôi chưa bao giờ làm việc ở bất kỳ công ty nào khác. Tôi đã giúp Disney đạt được nhiều thành tựu. Tôi nghĩ mình đã tiến những bước dài khi dẫn dắt công ty cho đến thời điểm này. Tôi cảm thấy như mình đang bị phản bội.” Miller hướng cái nhìn đầy giận dữ về phía Roy, ông vẫn giữ im lặng như thường lệ. Sau đó ông quay sang Gold. “Anh không có gì để nói sao, Stanley? Bình thường anh luôn nói rất nhiều cơ mà. Thực ra chính anh là người cầm đầu vụ này phải không.” Gold cũng chỉ lặng thinh. Sau đó Miller rời phòng họp, và hội đồng quản trị biểu quyết nhất trí với việc yêu cầu ông từ chức.
Với đề xuất tiến cử Eisner của Watson trước mặt, các ủy viên hội đồng quản trị chuyển sang xem xét vấn đề người sẽ thay thế Miller. Gold hy vọng Watson nhanh chóng đề cử Eisner và để cho hội đồng biểu quyết chấp thuận. Nhưng thay vào đó, ủy viên Phil Hawley lại đề xuất thành lập một ủy ban đánh giá để xem xét các ứng viên tiềm năng trên diện rộng, bổ sung thêm rằng người thay thế cho Miller cần phải có “kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp,” một sự nhắc nhở rõ ràng rằng Eisner chưa bao giờ tự mình điều hành bất kỳ một công việc kinh doanh nào. “Được,” Watson nói. “Tốt thôi”. Gold thì chết lặng. Tình thế lại một lần nữa bị xoay chuyển.
Ở Paramount, Eisner nóng ruột chờ đợi điện thoại của Watson. Nhưng cứ mỗi giờ trôi qua, sự tự tin của ông lại dần xẹp xuống. Cuối cùng, vào lúc chiều muộn, Wells gọi tới. “Anh thấy thế nào?”
“Tôi nên thấy thế nào bây giờ?”
“Chưa có ai gọi cho anh sao?” Wells tiết lộ thông tin là Miller đã bị sa thải, nhưng hiện chưa có ứng viên thay thế nào được đề cử. Eisner cảm thấy chới với. Ông hối tiếc vì đã nói chuyện này ra với Davis. Ông gác máy, rời xưởng phim và lái xe đến gặp Gold ở văn phòng tại Shamrock. “Ông ta không đủ dũng khí để gọi cho anh,” Gold nói, tả lại việc Watson đã dễ dàng chấp nhận đề xuất của Hawley. “Chưa có bất cứ quyết định nào về anh đâu.”
“Anh nói thế là sao?” Eisner hỏi, giọng hoài nghi. “Tối qua Ray nói với tôi là tôi sẽ được đề cử mà.”
“Tôi không biết Ray đã nói gì với anh, nhưng mọi chuyện chưa
xong được đâu. Vẫn chưa đến lúc hạ màn đâu.”
Tối hôm đó, Eisner đến dự bữa ăn tối chào mừng Davis được tổ chức tại nhà Diller. Thật cay đắng khi phải bày tỏ sự tôn trọng đối với người đàn ông mà ông nghĩ mình đã hạ gục được ngay trong buổi sáng ngày hôm đó. Mọi chuyện thậm chí còn trở nên khó lường hơn khi Diller đến bên cạnh Eisner để tâm sự rằng ông sẽ rời khỏi Paramount đển chuyển sang vị trí tương ứng tại Fox. Một tuần sau đó, khi tin tức về Diller lan ra, Davis triệu tập cả Eisner và Katzenberg đến New York.
Đã chót tiết lộ với Davis về đề nghị của Disney, Eisner khó có thể trông đợi sẽ được mời thay thế Diller. Nhưng cuộc gọi vào lúc 2 giờ sáng của Katzenberg sau khi họ tới New York vẫn là một cú sốc đối với ông. Tờ Wall Street Journal số ngày hôm sau vừa được giao đến khách sạn của Katzenberg, trong đó là bài báo nói rằng Frank Mancuso, trưởng bộ phận quảng cáo và tiếp thị của Paramount sẽ trở thành chủ tịch thay Diller. Bài báo trích dẫn một đoạn khá dài lời của Davis nói về sự không hài lòng của ông ta trước “thị phần” của Paramount cũng như sự thất bại của hãng phim khi không đưa thêm được nhiều chương trình truyền hình lên lịch phát sóng. Eisner nhận ra rằng mình sắp bị sa thải.
Khi Eisner đến gặp Davis vào chiều ngày hôm sau, một thông cáo báo chí về việc ông “từ chức” đã được chuẩn bị sẵn. Eisner mang theo một bản sao hợp đồng của mình với điều khoản đền bù và miễn trừ nghĩa vụ trả khoản nợ mua nhà trong trường hợp ông không được đề cử thay thế Diller khi ông ta ra đi, tổng trị giá khoảng 1,55 triệu đô la. Nóng lòng muốn rũ bỏ Eisner, Davis sẵn sàng đồng ý, chỉ cần Eisner ký vào bản thông cáo báo chí. Nhưng Eisner từ chối. “Tôi muốn nhận được tờ séc của mình trước đã,” Eisner nói.
“Gấp như vậy thì tôi không thể kí séc được,” Davis khăng khăng đáp.
“Thật là ngớ ngẩn,” Eisner nói. “Một giờ nữa tôi sẽ trở lại.” Ông nói rồi bước ra khỏi phòng.
20 phút sau, Eisner đã có tấm séc của mình trong tay và kí vào bản thông cáo báo chí. Ông rời khỏi tòa nhà và đi bộ tới trụ sở chính của ngân hàng Chemical Bank nằm trên đại lộ Công viên, nơi từ lâu
ông và cả gia đình đã chọn để thực hiện các giao dịch tài chính. Ông nộp tấm séc và yêu cầu được ghi có ngay lập tức vào tài khoản của mình, thay vì chờ cho đến thời hạn hiệu lực. Ông sợ rằng Davis có thể sẽ cố hủy bỏ tấm séc trước khi nó được thanh toán.
Ngày hôm sau, Eisner và Jane quay trở về Los Angeles trên chuyến bay của hãng hàng không sang trọng Regent Air chuyên phục vụ các chặng bay ngắn. Phóng viên Tony Schwartz của tờ tạp chí New York trước đó đã được mách nhỏ là Eisner và vợ đang chuẩn bị trở về Los Angeles nên đã quyết định đặt một chỗ đối diện với chỗ của Eisner qua lối đi giữa máy bay. Eisner thích các bài báo trước đây của Schwartz, nên chỉ sau một chút bối rối, ông đã quyết định dốc bầu tâm sự. Kết quả là một bài báo với tên gọi “Đứa con của những ngôi sao sáng giá nhất Hollywood: Đằng sau cơn địa chấn đang làm rung chuyển cả ngành công nghiệp điện ảnh tại Paramount.”
Eisner nhanh chóng được trải nghiệm trực tiếp số phận của các giám đốc xưởng phim bị hạ bệ. Michael Ovitz đến chơi nhà Eisner một buổi tối nọ trong khi ông đang gọi đến nhà hàng Morton để đặt bàn, nhưng nhận được thông báo là không còn bàn nào trống. “Để tôi gọi cho,” Ovitz nói, và nhanh chóng kiếm được một bàn cho Eisner.
“Ở Hollywood, người ta chỉ quan tâm đến mỗi cái ghế của anh mà thôi,” Eisner bình luận, giọng chán chường.
Nhưng Eisner không định ngồi chơi xơi nước lâu, ông lập tức cùng Stanley Gold lên kế hoạch nhằm cứu vãn khả năng trở thành người đứng đầu Disney. Giải pháp của Gold cho vấn đề hội đồng quản trị của Disney chưa tin tưởng vào sự nhạy bén trong kinh doanh của Eisner là đề cử Wells, một luật sư dạn dày kinh nghiệm thương trường. Eisner vẫn dứt khoát từ chối ý tưởng chia sẻ quyền lực và chỉ là đồng giám đốc điều hành, nhưng ông có thể chấp nhận được một thỏa thuận theo đó ông sẽ là chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám đốc điều hành, còn Wells sẽ là tổng giám đốc kiêm giám đốc tác nghiệp, và cả hai sẽ cùng báo cáo trực tiếp lên hội đồng quản trị. Gold gọi cho Sid Bass, bật loa ngoài để Eisner trình bày lý lẽ của mình.
“Những công ty như Disney thường được thành lập bởi những doanh nhân sáng tạo,” Eisner bắt đầu, “nhưng cuối cùng nhà sáng lập cũng qua đời, hoặc bị đẩy ra ngoài, hoặc chủ động chuyển sang làm cái gì khác. Lẽ đương nhiên, các nhà kinh doanh – các nhà quản lý –
sẽ tiếp quản nó, đây là chuyện không thể tránh khỏi và họ sẽ tập trung vào việc duy trì tầm nhìn đã tạo dựng nên vị thế của công ty từ lúc bắt đầu. Bản thân họ không có bất cứ ý tưởng sáng tạo nào mà thay vào đó, họ sẽ tập hợp xung quanh mình các nhà phân tích và kế toán viên hòng tìm cách kiểm soát đội ngũ hoạt động sáng tạo và cắt giảm chi phí. Trong lúc đó họ cũng đồng thời vùi dập mọi thay đổi, mọi sáng kiến mới và mọi sự tái tạo còn công ty mà họ dẫn dắt thì cứ dần già cỗi, héo mòn rồi chết hẳn. Tất nhiên, luôn cần có các công cụ tài chính và không bao giờ nên đặt cược liều lĩnh, đó là cách chúng tôi bảo vệ Paramount. Nhưng trong một ngành công nghiệp có tính sáng tạo cao, các anh phải luôn sẵn sàng đón nhận cơ hội và đôi khi sẵn sàng chấp nhận thất bại nữa, bởi vì nếu không thì những sáng kiến mới sẽ chẳng có đất mà dung thân. Nếu các anh cảm thấy thoải mái khi điều hành một công ty thông qua những con số, tôi hoàn toàn có thể hiểu được điều đó. Nhưng nếu đã vậy thì các anh không nên tham gia vào một công ty mà động lực phát triển chính là sự sáng tạo như Disney.”
Có một quãng lặng ngắn sau khi Einser dừng lời, sau đó Bass lên tiếng. “Anh nói đúng. Chúng tôi đồng ý với anh.”
Sự ủng hộ của cổ đông lớn nhất công ty khó mà có tác dụng quyết định đối với lựa chọn của hội đồng quản trị, nhưng chắc chắn là rất có ích; giờ thì Gold và Roy có thể đe dọa sẽ phát động một cuộc chiến ủy nhiệm để thay thế các thành viên trong hội đồng quản trị. Để nhấn mạnh thêm, gia đình Bass đã thu mua toàn bộ lượng cổ phiếu của Disney đang trôi nổi trên thị trường, tăng tỷ lệ nắm giữ từ 5,5 lên 8,6% chỉ trong vòng có một tuần.
Eisner cũng tìm kiếm sự ủng hộ từ phía gia đình Walt, đặc biệt là từ Miller, người mà ông cảm thấy vẫn có mối quan hệ tốt xuất phát từ chính những nỗ lực của Miller khi cố gắng để kéo ông về. Sau khi giành được sự ủng hộ từ nhà Bass, Eisner ghé qua nhà Miller ở Encino. Miller đang ngồi ở sân sau, trong tình trạng đột nhiên thất nghiệp, chẳng có gì để làm và chẳng có nơi nào để đi. Miller chào đón Eisner và được vị khách cho biết đang hy vọng có được sự ủng hộ từ gia đình Disney.
“Họ chào mời anh thế nào?” Miller hỏi.
“Lương của tôi bằng lương của anh,” Eisner đáp (500.000 đô la một năm).
“Cổ phiếu thì sao?”
“500.000 cổ phiếu.”
Miller chết lặng. Trong suốt thời gian làm việc tại Disney, Miller chỉ được thưởng tổng cộng 25.000 cổ phiếu. “Michael, họ sẽ không bao giờ thưởng cho anh chừng đó đâu,” ông ta nói – 500.000 cổ phiếu là con số quá lớn.
“Ừ thì cũng phải làm gì đó chứ.” Miller ngạc nhiên trước sự táo bạo của Eisner.
“Vậy tôi có sự ủng hộ của anh đấy chứ?” Eisner hỏi.
“Anh biết gì không, Michael?” Miller nói. “Anh chẳng cần đến nó đâu.”
Nhân tố chính ở đây là cựu giám đốc điều hành Card Walker, lúc ấy đang đi câu cá ở Arizona. Walker vẫn cảm thấy thù địch với Roy và đồng minh là Gold, vậy nên Wells đã đích thân bay đến đó để gặp mặt ông. Wells chứng tỏ mình là người đưa tin hoàn hảo đối với một người bảo thủ như Walker. Walker không còn hứng thú với Eisner như trước đây nữa, nhưng ông có thể thấy trước chuyện gì sắp xảy ra. “Tôi đoán là chúng ta đã đặt cược vào nhầm ngựa rồi,” vợ ông còn nói với Patty Disney, ám chỉ việc Walker trước đây từng ủng hộ Miller. Giờ thì Wells nói rằng nếu mình và Eisner nắm quyền điều hành, và nếu Walker ủng hộ họ, Walker có thể giữ được ghế ủy viên hội đồng quản trị cùng những bổng lộc đi kèm – những chuyến công cán bằng máy bay của công ty, những sự kiện lớn ở các công viên giải trí, những buổi khai trương, trình chiếu phim, và tất nhiên, thù lao cho vị trí ủy viên hội đồng quản trị nữa. Cuối cùng, không chỉ đồng ý ủng hộ Wells và Eisner, Walker còn tình nguyện đọc bài diễn văn tiến cử hai người trước hội đồng quản trị.
Wells gọi điện cho Roy từ máy bay trên đường về nhà. “Bingo!” ông nói.
Hội đồng quản trị tiến hành họp vào ngày 22 tháng Chín năm 1984. Eisner mời các bạn mình là Larry Gordon và Michael Ovitz đến nhà để chờ đợi quyết định cuối cùng với mình và Jane. Họ chỉ nói chuyện đôi chút trong không khí hồi hộp căng thẳng. Cuối cùng, điện
thoại cũng reo vang vào giữa trưa. “Chúc mừng anh,” Gold nói. “Anh thành công rồi.”
“Chúng ta có nên mở một chai để ăn mừng không nhỉ?” Ovitz nói. “Nhà anh có sâm-panh đấy chứ?”
Eisner quay sang vợ. “Chai rượu chúng ta chuẩn bị cho Giáng sinh đâu rồi nhỉ?” Ông rời khỏi phòng và trở lại với một chai vang đỏ. Khi Eisner bắt đầu mở chai rượu, Ovitz ngăn ông lại, “Gượm đã! Để tôi xem nào.” Đó là một chai Château Pétrus 1982. “Anh không thể chỉ đơn giản mở nó ra và uống được,” ông nói. “Anh phải để nó thở đã chứ.”(16)
Eisner thoáng nhíu mày rồi giật tung nút bần.
Ngay khi Gordon và Ovitz vẫn còn ở trong phòng, Eisner gọi cho luật sư của mình, Irwin Russell để soạn thảo hợp đồng với Disney. “Tôi không quan tâm đến lương,” Eisner nói với Russell. “Hãy gắng đàm phán cho tôi số lượng cổ phiếu và quyền mua cao nhất có thể.”
Russell và Disney đạt được một gói lương thưởng thậm chí còn hời hơn cả những gì mà Eisner từng nói với Miller: lương cơ bản 750.000 đô la cùng khoản tiền thưởng ký hợp đồng với giá trị tương đương; tiền thưởng hàng năm tương đương 2% bất cứ khoản lợi nhuận nào trên mức 100 triệu đô la mà Disney có được (mức lợi nhuận lớn nhất mà Disney từng có được trong một năm); cùng quyền mua 510.000 cổ phiếu của Disney với mức giá 57 đô la, ngang bằng với mức giá hiện tại. Đúng như những gì Eisner mong đợi, chính quyền chọn mua cổ phiếu này mới là yếu tố khiến cho hợp đồng của ông có thể trở nên cực kỳ hấp dẫn.
Chiều hôm đó, Eisner và Wells tham gia một bữa ăn trưa với hội đồng quản trị của Disney do Roy tổ chức tại câu lạc bộ Golf Lakeside. Đến gần cuối bữa, Eisner quay sang nói chuyện với Roy. “Bây giờ, khi mọi sóng gió đã qua, ông dự định sẽ làm gì?” Roy chưa từng nghĩ nhiều về vai trò sắp tới của mình tại Disney, nhưng trong cơn bốc đồng, ông nói, “Tại sao lại không để tôi phụ trách mảng phim hoạt hình nhỉ? Đó là thứ kì cục khó hiểu với các anh nhưng tôi thì biết cách làm và biết những người làm việc đó.”
“Tuyệt lắm,” Eisner đáp. Ông và Wells đang bàn đến chuyện đóng
cửa bộ phận làm hoạt hình, nhưng nếu Roy muốn gánh lấy nó thì cũng được thôi.
Tối hôm đó, Gold và vợ tổ chức một tiệc ăn mừng nhỏ ở nhà mình tại Alpine Drive trong khu Beverly Hills. Nhà Eisner và nhà Wells đều đến dự, cùng với Roy, Patty và một chuyên viên ngân hàng đầu tư cố vấn cho Shamrock. Tất cả đều vui vẻ, mặc dù không phải ai cũng thích món rượu khai vị của Ý mà Gold yêu thích. Trước đó, Eisner chưa bao giờ gặp vợ của Roy, và trái ngược với Roy nhẹ nhàng kín đáo, ông thấy bà là người sắc sảo, thẳng thắn và sôi nổi. Patty cho mọi người thấy rằng quyết định của bà cũng có tác động không kém gì của Roy trong việc thay thế ban giám đốc tại Disney. Eisner ghi lại trong tâm trí rằng không nên đánh giá thấp Patty hay Roy trong chuyện này.
Khi bữa tối kết thúc, Gold nâng cốc chúc mừng ban giám đốc mới. Wells chìa ra một chiếc đồng hồ Chuột Mickey tinh xảo được chạm ngày 22 tháng Chín năm 1984, thời điểm diễn ra cuộc họp mang tính bước ngoặt của hội đồng quản trị. “Cảm ơn”, ông nói với Roy và Gold. “Chúng tôi biết nhờ các anh chúng tôi mới đứng ở đây hôm nay.”
“Bất cứ khi nào chúng tôi làm các anh thất vọng, hãy nói với tôi,” Eisner nói thêm. “Các anh đã cho tôi công việc này. Tôi sẽ không bao giờ quên điều đó. Nếu tôi làm các anh mất lòng tin, chỉ cần cho tôi biết, tôi sẽ từ chức ngay lập tức.”
2
Jeffrey Katzenberg háo hức muốn chuyển sang làm cho Disney, vì thế mà anh đã bắt đầu gặp gỡ Eisner và Wells ngay cuối tuần sau khi họ nhận công việc mới. Vậy là các phiên họp cuối tuần để bàn định chiến lược cứ đều đặn diễn ra, thường là ở nhà Wells, ngay cả khi về danh nghĩa Katzenberg vẫn đang làm việc cho Paramount. Eisner tiếp tục cố vấn cho Katzenberg về các dự án mà Paramount đang triển khai. Ông đã kí một thỏa thuận để Paramount sản xuất bộ phim dã sử mang tên King David (Vua David) do Richard Gere thủ vai chính còn Bruce Beresford làm đạo diễn. Giờ thì Katzenberg đang phụ trách việc triển khai. Ba tuần sau khi mở máy, Katzenberg đưa cho Eisner xem các đoạn phim.
Vừa nhìn thấy chúng, Eisner lập tức nhấc máy gọi cho Katzenberg. “Chuyện quái gì thế?” Eisner hỏi.
“Ý anh là sao?” Katzenberg đáp lời.
“Sao Richard Gere lại mặc váy và đeo khuyên tai thế kia?”
“Bruce nói rằng họ trông như thế,” Katzenberg giải thích, liên hệ tới những người Do Thái cổ đại.
“Tôi không biết là vua David lại mặc váy,” Eisner nói. Ông cũng tự bào chữa cho mình bằng lý do đó khi King David thất bại ở phòng vé.
Nhưng những gì xảy ra ở Paramount đã nhanh chóng nhạt nhòa trong tâm trí Eisner. Tại các phiên họp chiến lược cuối tuần ở Disney, các nhà quản lý và điều hành cao cấp không nằm trong diện bị cắt giảm lần lượt được gọi lên thuyết trình, trong số đó có Stan Kinsey, phó chủ tịch trẻ tuổi đang phụ trách các mảng vận hành, tài chính và công nghệ mới. Kinsey, một học viên của trường Cao học Kinh doanh Stanford đồng thời là cựu nhân viên của Goldman Sachs, từng là cậu bé vàng của bộ máy lãnh đạo cũ; Miller thích các trận golf của Kinsey và từng lấy tiền riêng của mình ra để tài trợ cho Kinsey tham gia vào câu lạc bộ Bel Air Country. Nhưng các nhà điều hành mới thì dường
như lại bị ấn tượng bởi kế hoạch táo bạo mà Kinsey đề xuất: cắt giảm 30% chi phí gián tiếp của Disney.
Kinsey cũng háo hức muốn trình bày một dự án quan trọng hơn mà anh ta đang ấp ủ liên quan tới một công ty công nghệ mới, một nhánh của Industrial Light & Magic, công ty chuyên thực hiện hiệu ứng hình ảnh đặc biệt có trụ sở nằm phía ngoài San Francisco của George Lucas, đạo diễn phim Star Wars. Vào một buổi chiều khoảng chừng một năm trước, khi Kinsey đang ở xưởng phim hoạt hình của Disney thì được ba kỹ sư – Lem Davis, Dave Wolf và Mark Kimball – gọi ra để trao đổi riêng. “Chúng tôi chỉ cho anh xem cái này được chứ?” Họ hỏi nhỏ rồi dẫn Kinsey tới một căn phòng tối và cho anh xem một màn hình máy tính, trên đó có hình một chiếc thuyền đã được xử lý bằng công nghệ vector. Không hề có màu sắc, nhưng bức vẽ gần như trở thành một hình ảnh ba chiều.“Chúng tôi có thể xin khoảng 12.000 đô la để mua một chiếc máy xử lý đồ họa như thế này được chứ?” Họ đề nghị.
“Thế các họa sĩ nghĩ sao?”Kinsey hỏi.
“Họ rất thích nó,” các kỹ sư nói.
“Vậy thì sao các anh không xin luôn 12 triệu đô la đi?”
Kinsey thấy vô cùng hứng thú với công nghệ mới này. Ở Stanford anh từng học cùng lớp với Scott McNealy, giám đốc điều hành của Sun Microsystems và anh đã gọi cho McNealy để xin lời khuyên về loại máy trạm có thể xử lý được công đoạn diễn hoạt hình ảnh cho phim hoạt hình. McNealy dẫn Kinsey tới gặp George Lucas. Sau đó Kinsey cùng ba kỹ sư và họa sĩ John Lasseter bay tới San Francisco để có thể tận mắt chứng kiến công nghệ của Lucas vận hành ra sao. Họ vô cùng thích thú – không chỉ bởi nó có thể thay thế được lao động tỉ mẩn của con người, mà còn bởi kết quả mà nó mang lại thật tuyệt vời, cả về màu sắc lẫn chiều sâu của hình ảnh. Kết quả đó chắc chắn sẽ đưa phim hoạt hình Disney trở về thời kỳ hoàng kim mà nay đã nhạt nhòa bởi gánh nặng chi phí nhân công và thiết bị ngày càng tăng cao. Sau khi đi xem các xưởng diễn hoạt hình ảnh bằng công nghệ máy tính khác trên khắp nước Mỹ, Kinsey và cả nhóm quyết định chọn xưởng của Lucas.
Card Walker trước đây đã tỏ ra do dự trước ý niệm rằng một
chiếc máy tính có thể thay thế công việc vẽ tay tỉ mẩn của con người. Nhưng giờ thì Kinsey lại có một cơ hội khác. Anh bắt đầu giải thích làm thế nào công nghệ máy tính lại có thể diễn hoạt được chuyển động của nhân vật hoạt hình mà như với cảnh mở đầu của bộ phim Pinocchio thì phải cần tới mười bảy nhà quay phim làm việc cùng lúc. Nhưng anh đã phải một lần nữa thất vọng khi bị Wells cắt lời. “Chúng ta sẽ không làm phim hoạt hình nữa,” ông thẳng thừng. “Chẳng được lợi lộc gì.” Ban giám đốc mới dường như hứng thú với kế hoạch cắt giảm chi phí của Kinsey hơn nhiều, còn Kinsey thì không thể ngờ rằng tên của nơi làm ra công nghệ mà anh đang nói tới thậm chí đã được đăng ký bản quyền dưới tên gọi Pixar Advanced Computer Graphics – công ty đồ họa vi tính công nghệ cao Pixar.
Ngày thứ Hai đầu tiên sau chuỗi các cuộc họp diễn ra vào cuối tuần đó, từ bàn làm việc của mình, Kinsey nhận được điện thoại của Katzenberg, lúc đó vẫn còn ở Paramount. “Tôi là người luôn tin vào ấn tượng đầu tiên,” Katzenberg vào đề luôn như thường lệ, bỏ qua các thủ tục chào hỏi dạo đầu. “Chưa có ai ngay từ lần gặp đầu tiên đã khiến tôi có ấn tượng mạnh đến thế. Chúng ta sẽ nâng sản lượng lên hai mươi phim mỗi năm.Trong vòng bốn năm chúng ta sẽ trở thành cái tên số một ở khắp các phòng vé.” Rồi ông gác máy. Cuộc gọi chỉ kéo dài hơn ba mươi giây, nhưng lại gây ra hiệu ứng vô cùng mạnh mẽ. Disney chỉ vừa mới bước chân vào ngành kinh doanh phim ảnh, vậy mà Katzenberg đã dự báo họ sẽ là số một! Thật là một thay đổi lớn so với chế độ cũ, Kinsey nghĩ thầm.
Wells cũng rất ấn tượng với Kinsey và bắt đầu thường xuyên mời nhà điều hành trẻ tuổi tới văn phòng của mình vào cuối ngày làm việc. Wells sẽ mở một chai rượu, rót ra hai ly, rồi sau đó tha hồ khai thác các ý tưởng của Kinsey về nhân sự và hoạt động của Disney. Một buổi tối khi Kinsey đang ngồi trong văn phòng của Wells thì George Lucas gọi tới. “Ở đó có ai đáng được giữ lại không?” Lucas hỏi.
“Anh ta đang ngồi ngay đây,” Wells trả lời trong khi mỉm cười với Kinsey. Mọi chuyện dường như tốt đẹp đến khó tin.
Dù có vẻ như là chuyện đã rồi, Katzenberg vẫn phải chốt lại một thỏa thuận để có thể chính thức đồng hành cùng Eisner và Wells trên con thuyền Disney. Như một cách để tạo ấn tượng, Wells hào phóng thuê một biệt thự riêng biệt tại khách sạn Beverly Hills cho Katzenberg, còn Katzenberg thì mang theo “danh mục điều ước” được
thảo vội vàng cho vị trí mới của mình – giám đốc xưởng phim Walt Disney. Hoàn toàn trái ngược với sự thanh đạm bấy lâu nay vẫn chế ngự ở Disney, danh mục điều ước của Katzenberg mang đầy đủ những biểu tượng xa hoa nhất của Hollywood những năm 1984: “2 thư ký riêng, nhà ở gần bãi biển, phi cơ phục vụ các chuyến công tác, chi phí đi lại cho cả gia đình, phòng chiếu phim, chi phí sửa sang nhà cửa? Người phục vụ?”
Quan trọng hơn, Katzenberg còn đòi hỏi quyền chọn mua cổ phiếu giống như những gì Eisner và Wells nhận được. “Hội đồng quản trị sẽ không bao giờ đồng ý với điều kiện đó,” Wells cương quyết. Nhưng cả Wells lẫn Eisner đều cho rằng Katzenberg cần và xứng đáng được hưởng một sự ưu đãi nào đó để làm động lực trong công việc. Vậy là Wells đề xuất với Katzenberg một khoản tiền thưởng hàng năm tương đương với 2% lợi nhuận có được từ hoạt động sản xuất, bao gồm cả phim hoạt hình, cả phim chuyển thể lẫn các chương trình truyền hình. Khi tính toán lợi nhuận, doanh thu sẽ được tính trên “toàn bộ các hình thức khai thác,” nghĩa là không chỉ có doanh thu phòng vé và phí phát sóng mà còn cả video, nhượng quyền và các hoạt động tại công viên giải trí theo chủ đề dựa trên sản phẩm mà Katzenberg làm ra. Hơn thế nữa, bất cứ khi nào muốn về hưu hay rời khỏi công ty vì bất cứ lý do gì, Katzenberg cũng sẽ được hưởng một khoản tiền tương đương với giá trị tương lai ước tính của 2% lợi tức tính trên lợi nhuận.
Wells có vẻ tự hào về đề xuất của mình, một mặt Wells giải thích với Katzenberg rằng khoản lợi tức đó sẽ là một khoản tích lũy cố định hàng năm cho hai cậu con trai mới chào đời của Katzenberg, mặt khác lại phân trần với Eisner rằng khoản thưởng 2% thực ra chẳng đáng là bao. Xưởng phim Disney lúc đó vẫn đang chủ yếu sống dựa vào các bộ phim hoạt hình kinh điển. Sản phẩm chào đón Giáng sinh của họ năm đó là phiên bản mới của bộ phim Pinocchio từng được sản xuất vào năm 1940, chỉ có được thành công ở mức rất khiêm tốn cho dù sử dụng phần tạo hình gốc. Cứ 7 năm Disney lại cho ra phiên bản mới của một trong số các bộ phim hoạt hình kinh điển của mình, quãng thời gian đó được tính toán để họ có được một thế hệ khán giả trẻ em và bố mẹ mới. Rồi sau đó nó lại được cất kỹ vào trong kho.
Thậm chí còn hơn cả Eisner và Wells, sự góp mặt của Katzenberg tại Burbank đã thổi một luồng gió mới vào công cuộc làm Disney sống dậy. Mối quan hệ đối tác với Eisner mà Katzenberg đã tiên lượng
được từ khi còn ở Paramount ngày một trở nên vững bền, dù Katzenberg vẫn ở vị thế của một người dưới quyền. Dù trước đây họ hiếm khi gặp gỡ thân tình ngoài công việc, nhưng giờ đây, nếu cả hai cùng có mặt trong thành phố vào thứ Hai, họ sẽ cùng ăn tối với nhau ở Locanda Veneta, một nhà hàng Ý ở Beverly Hills. Katzenberg chuyển văn phòng của mình vào trong tòa nhà của xưởng phim hoạt hình, bên cạnh văn phòng của Eisner.
Một chiều nọ, Katzenberg bước vào phòng họp trong khi các bản vẽ phục vụ việc cải tạo văn phòng của mình vừa được bày ra. Katzenberg nhìn chằm chằm các bản vẽ, rồi chẳng buồn chào hỏi người kiến trúc sư chưa hề quen biết, anh ra lệnh: “Hãy cùng tới đó xem sao.” Họ hướng về phía cửa, và trong khi họ bước đi, viên quản lý phụ trách dự án của Disney cất tiếng, “Jeffrey, có lẽ tôi sẽ nhân lúc này giới thiệu anh với…” Trước khi anh ta kịp nói hết câu, Katzenberg đã khoát tay. Chẳng thèm quay lại hay dừng bước, anh nói cụt lủn, “Chúng tôi vừa gặp nhau rồi,” rồi thả tay xuống.
Dù thi thoảng lại hối hả với những lịch trình hay phiên họp kéo dài hàng giờ, nhưng một vài tháng và thậm chí là một vài năm đầu tiên sau khi Disney được bộ máy lãnh đạo mới tiếp quản lại trôi qua một cách dễ chịu đến không ngờ. Rất nhiều ý tưởng tuyệt vời nhất đã ra đời từ những bữa trưa định kỳ của Eisner với nhân viên công ty vào thứ Hai hàng tuần. Đó là thời điểm những người đứng đầu của các bộ phận khác nhau cùng tập trung lại nếu không vướng vào một chuyến đi công tác. Những lần đầu tiên, ai cũng chuẩn bị sẵn sàng những số liệu cùng kế hoạch làm việc cập nhật nhất của mình, sẵn sàng cho việc bị ông chủ mới căn vặn. Nhưng rồi tất cả đều ngỡ ngàng khi ngay tại một trong những cuộc gặp gỡ đầu tiên, Eisner mào đầu: “Hôm nay chúng ta sẽ cùng thỏa luận xem liệu Mickey và Minnie có nên kết hôn hay không.” Một kịch bản đã được xây dựng trong đó các chú chuột sẽ đính hôn vào đúng ngày lễ Tình yêu, đi chọn nhẫn cưới tại một cửa hiệu Tiffany vào tháng Tư, làm đám cưới và hưởng tuần trăng mật ở Paris vào tháng Sáu, nhưng nhiều người cho rằng ý tưởng đó sẽ khó được nhiều người chấp nhận, vì thế Eisner đã bỏ qua nó. Nhưng cuộc thảo luận đó đã cho thấy sự sốt sắng, thậm chí là mong muốn mãnh liệt của Eisner trong việc thách thức lối tư duy truyền thống ở Disney. “Hãy đưa ra những ý tưởng mà bản thân các bạn thấy mình sẽ bị bẽ mặt vì nó,” Eisner thường gợi ý. “Hãy đưa ra ý tưởng mà các bạn cho là quá xa vời,” hoặc hãy nghĩ đến những thứ như, “Các bạn sẽ làm gì nếu không được cấp ngân sách nữa?”
Stanley Gold đã đúng khi dự cảm rằng kỹ năng cùng cá tính của Eisner và Wells sẽ bổ sung một cách hoàn hảo cho nhau. Mối quan hệ công việc giữa họ diễn ra êm đẹp, trong đó Wells nhận lấy hầu hết gánh nặng của nhiệm vụ quản trị hoạt động của công ty và giải quyết các vấn đề về tài chính, trong khi đó Eisner chăm lo các hoạt động mang tính sáng tạo, từ sản xuất phim, chương trình truyền hình đến mở rộng các công viên giải trí theo chủ đề.
Eisner và Wells cùng thoải mái qua lại văn phòng của nhau. Eisner cảm thấy mình có thể hoàn toàn tin tưởng Wells. Là người khôn ngoan và biết suy sét, nên ngay từ đầu Wells không bao giờ nuôi tham vọng tiếm quyền hay lấn át vai trò của Eisner. Ông là một nhà quản lý đồng thời là một nhà thương thuyết bẩm sinh. Khi ai đó gặp vấn đề với Eisner, Wells sẽ là người được cầu cứu. “Chuyện đó để tôi lo,” Wells thường nói thế, và hầu như lúc nào ông cũng xử lý êm xuôi mọi việc.
Những thay đổi bất chợt cùng sự tín nhiệm của gia đình Basses, cổ đông chủ chốt, đã khiến Disney gây được ấn tượng với Phố Wall. Chỉ một tháng sau khi Eisner nhận chức, cổ phiếu Disney đã dậy sóng. Một buổi chiều nọ, Eisner nhận được cuộc gọi từ kỳ phùng địch thủ Barry Diller. Khi nói đến các quyền chọn mua cổ phiếu mà Eisner được hưởng, Diller hỏi, “Có thật là trên giấy tờ anh vừa kiếm được 3 triệu đô la không đấy?”
“Tôi đoán là vậy,” Eisner đáp, cứ như thể bản thân cũng chưa tin hẳn vào điều vừa được nghe.
Hoạt động kinh doanh duy nhất vẫn duy trì được lợi nhuận khi Eisner và Wells gia nhập Disney là các công viên giải trí, dưới sự lãnh đạo của Richard Nunis, thành viên duy nhất của ban điều hành có mặt trong hội đồng quản trị, ngoài Walker và Miller. Nunis và đội ngũ các nhà điều hành tại các công viên đã đưa Eisner và Wells dạo quanh cả công viên Disneyland ở Anaheim và Walt Disney World ở Florida trong những tuần làm việc đầu tiên. Trong chuyến thăm Disney World, Eisner mang theo Ovitz và gia đình nhằm có được chút hậu thuẫn tinh thần. Sau đó, Ovitz đã viết cho Eisner một lá thư cảm ơn dạt dào tình cảm, trong đó có đoạn “chúng tôi yêu quý gia đình anh và vui sướng được làm bạn với anh.”
Trong khi hoàn toàn tự tin vào khả năng điều hành mảng kinh
doanh phim ảnh và chương trình truyền hình, Eisner chỉ hiểu biết rất ít về các công viên giải trí. Cũng tương tự như chuyện ông chưa bao giờ xem một bộ phim hoạt hình nào của Disney khi còn nhỏ, Eisner chưa từng được đưa tới Disneyland. Ông từng đến Walt Disney World một lần với các con của mình, dù bản thân chúng đã được tới Disneyland vài lần. Eisner biết rõ rằng hình bóng của Walt ở các công viên giải trí thể hiện rõ nét hơn nhiều so với các mảng kinh doanh khác của công ty. Disneyland xuất phát từ ý tưởng của Walt; ông đã theo đuổi nó bất chấp sự phản đối của Roy O., nó phản chiếu giấc mơ của Walt về cuộc trốn chạy không tưởng khỏi thế giới thực với sức hấp dẫn kỳ diệu đối với cả người lớn lẫn trẻ con. Các công viên đều sạch sẽ đến kinh ngạc; tất cả nhân viên vào vai các nhân vật hoạt hình của Disney, “các thành viên diễn đoàn”, như cách đặt tên của Walt, đều có vẻ ngoài chỉn chu, thân thiện và luôn tận tình giúp đỡ mọi người, tất cả những điều nhỏ nhặt nhất từ vẻ ngoài đến cử chỉ thái độ của họ đều được quy định chi tiết trong một cuốn sổ tay hướng dẫn; mọi thứ đều đẹp đẽ lung linh đến khó tin. Các nhân viên trong công viên đều thể hiện sự tận tâm thành thực đến cuồng tín nhằm lưu giữ giấc mơ của Walt, thái độ hình thành từ khóa học định hướng kéo dài hai tuần mà họ đều phải trải qua trong đó có cả bài tập thực hành vào vai một nhân vật hoạt hình và xuất hiện ở công viên.
Truyền thống thiêng liêng hơn cả ở các công viên giải trí là lưu giữ một thói quen của Walt, tự tay nhặt bất kỳ mẩu rác nào mà ông bắt gặp trong những chuyến thăm thường kỳ tới Disneyland. Walt bị ám ảnh với sự sạch sẽ tuyệt đối ở các công viên, và ở Disney đã hình thành một truyền thống là các nhà điều hành thường thi đua nhau tìm và nhặt rác trong những chuyến viếng thăm Disneyland của họ. Giờ đây Eisner cảm thấy như tất cả mọi người đều đang nhìn vào mình. Ông lo lắng “Chúa phù hộ để mình không bỏ qua một cái vỏ kẹo nào.” Khi nhìn thấy một mẩu giấy vương trên đường, ông lao tới và cúi người tự nhặt nó lên. Cái lưng chết tiệt lại hành hạ ông. Chứng đau lưng nặng mà ông cho là hậu quả của việc ông đã quá căng thẳng trước con mắt phán xét của các nhà điều hành ở công viên. Rồi ông lại phát hiện thấy những mẩu rác khác. Nhưng nhìn vào những chậu hoa tươi tắn đã được thay mới, những đám cỏ được cắt tỉa gọn gàng, những lối đi được lát lại và nhiều công trình được sơn sửa thì Eisner ngờ rằng toàn bộ vụ rác rưởi cũng nằm trong kế hoạch đã được xếp đặt từ trước. Một trò chơi khăm chăng? Eisner quyết định dù đau đến đâu vẫn cứ phải nhặt cho bằng hết rác trên đường đi. Vừa may khi chuyến thăm quan kết thúc, chứng đau lưng của ông cũng hoàn toàn
biến mất.
Khi lên kế hoạch xây dựng Disneyland, Walt đã tự mình lựa chọn cẩn thận một nhóm sáng tạo bao gồm các họa sĩ hoạt hình, đạo diễn, biên kịch, nghệ sĩ và thiết kế dựng cảnh từ xưởng phim của Disney. Họ bí mật gặp gỡ để lên kế hoạch cho công viên và sau này được biết đến với chức danh Kỹ sư Tưởng tượng. Ban đầu họ thuộc về công ty WED do Walt thành lập, chính là thứ đã gây ra nhiều căng thẳng giữa ông với gia đình anh trai. Sau này họ đã sáp nhập trở lại với Disney nhưng vẫn duy trì vị thế đặc biệt của mình, chiếm trọn một nhà xưởng riêng ở Glendale, nơi những ý tưởng mới lạ hấp dẫn được phát triển và giữ bí mật tuyệt đối. Trái ngược hoàn toàn với các “thành viên diễn đoàn,” các Kỹ sư Tưởng tượng lại reo rắc và phô trương sự kỳ dị của mình ở khắp Disney. Một số mang vẻ ngoài như những người tị nạn trong các bộ phim sitcom (hài kịch tình huống) từ những năm 1950, số khác để tóc dài, buộc đuôi ngựa, để râu quai nón, đeo khuyên tai (nhiều người dái tai còn được kéo dài xuống đến gần vai). Quản lý của họ là Marty Sklar, người quản lí quan hệ công chúng trước đây của Walt. Thời gian gắn bó lâu dài cùng những mối liên hệ mật thiết với ông chủ khiến đường thăng tiến của Sklar tại Disney luôn rộng thênh thang.
Cùng với việc dựng lên công viên giải trí theo chủ đề Epcot với 300 triệu đô la bội chi ngân sách, ban lãnh đạo trước đây đã từng có ý định dẹp bỏ đội ngũ của Sklar bởi phần lớn công việc của họ có thể được thuê ngoài với giá rẻ hơn rất nhiều. Khi Eisner và Wells tới, Sklar và người của anh ta đang xây dựng một đường trượt nước mới, trong đó hành khách sẽ ngồi lên những khúc gỗ và trượt xuống một khe nước chảy siết để tận hưởng cảm giác cực mạnh như khi lao xuống từ một thác nước. Dick Nunis đã yêu cầu có một trò chơi trượt nước, loại hình trò chơi đang trở nên rất phổ biến ở các công viên giải trí trên khắp đất nước, nhưng đành lùi bước trong ngậm ngùi trước mức chi phí đề xuất ngất ngưởng 80 triệu đô la. Nhưng Eisner lại rất thích thú với mô hình thu nhỏ của đường trượt nước mà Sklar cho xem và hối thúc Sklar cùng Nunis tiếp tục triển khai dự án. “Tôi và Frank thường ưu tiên những giải pháp sáng tạo (và đắt đỏ) hơn,” sau này Eisner nói, và nó hoàn toàn trùng khớp với thái độ xưa nay vẫn coi thường các giới hạn tài chính của các Kỹ sư Tưởng tượng. Sklar còn chỉ cho Eisner xem những mô hình đầu tiên của Disneyland và Disney World, đưa Eisner đi xem kho lưu trữ dữ liệu và thết đãi ông chủ mới bằng vô vàn các câu chuyện về mối quan hệ nhiều trắc trở