🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Cách Mạng Ngược Trong Khoa Học
Ebooks
Nhóm Zalo
CUỘC CÁCH MẠNG NGƯỢC TRONG KHOA HỌC: CÁC NGHIÊN CỨU VỀ SỰ LẠM DỤNG LÍ TÍNH
—★—
Nguyên tác: The Counter-Revolution of Science: Studies on the Abuse of Reason Tác giả: Friedrich August Hayek
Người dịch: Đinh Tuấn Minh
và các cộng sự
Nhà Xuất Bản Tri Thức năm 2016
(Tái bản 1/2017)
ebook©vctvegroup
19-10-2018
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Xin bạn đọc lưu ý, Nhà xuất bản Tri Thức trân trọng giới thiệu cuốn sách Cuộc cách mạng ngược trong khoa học: Các nghiên cứu về sự lạm dụng lí tính (The Counter-Revolution of Science: Studies on the Abuse of Reason) của F. A. Hayek, do Đinh Tuấn Minh và các cộng sự dịch một cách đầy đủ và mạch lạc.
Chúng tôi tôn trọng, nhưng không nhất thiết đồng tình với quan điểm, cách tiếp cận và lí giải riêng của tác giả về các vấn đề được đề cập đến trong cuốn sách.
Chúng tôi xin lưu ý, thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội” mà tác giả đề cập đến trong sách này không phải là “chủ nghĩa xã hội” theo quan điểm của Việt Nam.
Chúng tôi mong độc giả đọc cuốn sách này như một tài liệu tham khảo với tinh thần phê phán và khai phóng.
Xin chân thành cảm ơn!
LỜI GIỚI THIỆU
F. A. Hayek (1899-1992) được ghi nhận là học giả có những đóng góp to lớn cho nhiều chuyên ngành khoa học xã hội khác nhau như kinh tế lí thuyết, tâm lí lí thuyết, chính trị học, triết học về kinh tế chính trị, và lịch sử kinh tế. Nhưng điều đáng nể phục nhất ở Hayek là hầu như tất cả những đóng góp học thuật của ông đều dựa trên cùng một hệ thống phương pháp luận nhất quán do chính ông xây dựng trên nền tảng của những nhà tư tưởng tiền bối người Áo, đặc biệt là Carl Menger và Ludwig von Mises.
Cuộc cách mạng ngược trong khoa học là tác phẩm Hayek trình bày đầy đủ nhất quan điểm của ông về hệ thống phương pháp luận trong lĩnh vực khoa học xã hội. Cuốn sách gồm ba phần, tương đương với ba bài luận được ông đăng trên chuyên san Economica trong giai đoạn 1941-1944. Phần đầu đưa ra những khác biệt nền tảng về đối tượng và phương pháp nghiên cứu giữa lĩnh vực khoa học xã hội và lĩnh vực khoa học tự nhiên, và lí giải tại sao việc áp dụng một cách mù quáng phương pháp nghiên cứu của lĩnh vực sau vào lĩnh vực đầu - thái độ mà ông gọi là chủ nghĩa duy khoa học (scientism) - lại dẫn đến sai lầm. Phần hai là một nghiên cứu về lịch sử tư tưởng của chủ nghĩa duy khoa học. Hayek chỉ ra rằng cái nôi của sự ngạo mạn duy khoa học là Trường Đại học Bách khoa Paris; Saint-Simon là người ươm mầm các ý tưởng của chủ nghĩa này; Auguste Comte và những người theo chủ nghĩa Saint Simon là những người phát triển và truyền bá tư tưởng. Phần ba của cưốn sách là một nghiên cứu so sánh tư tưởng của hai triết gia thế kỷ XIX, Georg Wilhelm Friedrich Hegel, người Đức, và Auguste Comte, người Pháp. Ông cho rằng, mặc dù hai triết gia này rất khác nhau trên phương diện triết học cũng như tuổi đời, họ
lại cùng chia sẻ những quan niệm cơ bản của chủ nghĩa duy khoa học, và đó là nguyên nhân khiến cho triết lí về nhà nước của họ tương tự.
* * *
Xét trên khía cạnh đóng góp về mặt phương pháp luận thì Phần I của cuốn sách là đáng chú ý và cũng “khó đọc” hơn cả. Trong phần này, ông tổng hợp những ý tưởng về phương pháp luận của Carl Menger và Ludwig von Mises, đưa thêm ý tưởng trung tâm của ông về sự phân hữu tri thức, để hình thành phương pháp tiếp cận, mà theo ông là đúng đắn, cho các hiện tượng xã hội.
Tương tự các nhà kinh tế học Áo tiền bối, đối với Hayek, hiện tượng xã hội là kết quả của các hành động có ý thức của con người, các hành động đòi hỏi người hành động phải lựa chọn giữa nhiều mục tiêu và phương tiện mà anh ta có thể tiếp cận. Khi nói về các hiện tượng xã hội, chúng ta không nói về các thuộc tính hay các mối quan hệ vật lí của các sự vật và con người, về các phản xạ hoặc quá trình vô thức của con người, và về hành động của những người mất trí. Cái mà chúng ta quan tâm là “tất cả những thứ mà mọi người biết và tin tưởng về chính mình, về người khác, và về thế giới xung quanh, tóm lại là tất cả những hiểu biết và niềm tin về tất cả những gì quyết định hành động của con người, trong đó bao gồm cả bản thân khoa học” (tr. 44). Điều này có nghĩa là hành động của con người dựa trên bất kì niềm tin nào, dù phù hợp với khoa học hay không, chẳng hạn việc lập đàn để cầu cho mùa màng tươi tốt do tin tưởng vào phép mầu của tà thuật, đều cấu thành đối tượng của nghiên cứu xã hội.
Mặc dù hiện tượng xã hội gắn liền với hành động có ý thức của
con người nhưng Hayek lại cho rằng mục đích nghiên cứu của khoa học xã hội không phải là giải thích hành động có ý thức. Đấy là nhiệm vụ của tâm lí học. Mục đích của khoa học xã hội là “giải thích các kết quả không định trước hoặc không được thiết kế từ trước nảy sinh từ hành động của nhiều người” (tr. 45). Theo nghĩa này, khoa học xã hội không có nhiệm vụ tìm kiếm các nguyên nhân nội tâm khiến một số người có hành vi ăn cắp còn một số khác lại không. Tuy nhiên, nó sẽ quan tâm tới việc khám phá các thiết chế xuất hiện để duy trì được trật tự xã hội khi có người ăn cắp.
Tuy việc lí giải hành động có ý thức không phải là đối tượng nghiên cứu của lĩnh vực khoa học xã hội, nhưng những luận đề trong lĩnh vực tâm lí học thường lại trở thành các tiền giả định ban đầu để nghiên cứu các hiện tượng xã hội. Hayek xác lập hai tiền giả định quan trọng về nhận thức luận trong nghiên cứu về tâm lí học lí thuyết của mình: tiền giả định về việc con người có một cấu trúc tâm trí chung và tiền giả định về việc con người phân loại các hiện tượng bên ngoài theo cách riêng của mình. Đây là hai tiền giả định được Hayek nhắc đến trong cuốn Cuộc cách mạng ngược trong khoa học (tr. 41, chú thích 1; tr. 41, chú thích 2) và được triển khai chi tiết trong cuốn Sensory Order [Trật tự cảm giác] (1952). Tiền giả định đầu lí giải tại sao chúng ta lại có thể giao tiếp được với nhau, có thể hiểu nhau được và có thể hình thành được những quy tắc hành xử chung, trong khi tiền giả định sau lí giải tại sao mỗi chúng ta lại có những hiểu biết khác nhau về thế giới bên ngoài, thậm chí về cùng một khách thể. Chúng là hai vế của luận đề nổi tiếng của Hayek về sự phân hữu tri thức (division of knowledge) trong xã hội, rằng các cá nhân sở hữu những phần tri thức riêng khác nhau và sự tương tác tự nguyện của các cá nhân trong xã hội sẽ mang lại lượng tri thức tổng thể lớn hơn lượng tri thức mà bất cứ một cá nhân siêu việt nào có thể sở hữu.
Với việc xác định phạm vi đối tượng nghiên cứu và việc xác lập hai tiền giả định nền tảng về tâm lí, Hayek đã rút ra ba điểm đặc trưng của phương pháp nghiên cứu “đúng đắn” (đối lập với những nét đặc trưng tương ứng của chủ nghĩa duy khoa học) về các hiện tượng xã hội trong cuốn Cuộc cách mạng ngược trong khoa học: (i) tiếp cận đối tượng theo chủ quan luận (đối lập với cách tiếp cận theo khách quan luận), (ii) tiếp cận đối tượng theo cá thể luận (đối lập với cách tiếp cận tập thể luận), và (iii) tiếp cận mang tính giả thuyết (hypothetical) đối với các đối tượng lịch sử (đối lập với cách tiếp cận duy sử luận).
Bởi các hiện tượng xã hội là kết quả của các hành động có ý thức của con người nên các dữ kiện mà người nghiên cứu thu thập để nắm bắt các hiện tượng xã hội phải là các quan niệm chủ quan của người hành động về thế giới xung quanh mình chứ không phải là các thuộc tính tự nhiên của các sự vật. Khi nghiên cứu cái “búa” trong khoa học xã hội, chúng ta quan tâm đến công dụng của nó theo quan điểm của người sử dụng nó chứ không phải là các thuộc tính lí hoá của nó. Ông đúc kết: “Chừng nào chúng ta còn quan tâm tới các hành động con người, thì các sự vật là những thứ mà những người đang hành động nghĩ rằng chúng là như thế” (tr. 40- 41). Hơn nữa, vì chúng ta quan tâm đến quan niệm của người hành động nên chúng ta phải chấp nhận một sự thật là quan niệm của các cá nhân khác nhau về cùng một sự vật có thể khác nhau. Chính những quan niệm và suy nghĩ khác nhau của những cá nhân trong xã hội mới là thứ cấu thành đối tượng nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội.
Để có thể nắm bắt được các hiện tượng mang tính chủ quan như thế, Hayek chỉ ra rằng nhà nghiên cứu xã hội cần phải tiếp cận bằng phương pháp nghiên cứu cá thể luận và phương pháp compozit. Phương pháp nghiên cứu cá thể luận là cách tiếp cận
dựa trên quan niệm cho rằng chúng ta chỉ có thể hiểu được đúng đắn các hiện tượng xã hội thông qua việc tái dựng các hiện tượng đó từ các hành động độc lập của các cá nhân cũng như những thứ gắn với hành động cá nhân như niềm tin, thái độ, mong muốn, kì vọng v.v. Đấy là những phần tử cơ bản mà chúng ta, những người nghiên cứu, và những người hành động trong cuộc đều hiểu được vì con người có cùng một cấu trúc tâm trí. Chúng ta tiến hành việc tái dựng các hiện tượng xã hội bằng cách tìm ra các loại động cơ, niềm tin, hay thái độ đằng sau các hành động cá nhân liên quan đến hiện tượng mà chúng ta muốn nghiên cứu, coi chúng như là dữ liệu, rồi sau đó sắp xếp những dữ liệu này theo một hệ thống mối quan hệ nhân quả nhất định để giải thích hiện tượng mà chúng ta quan tâm. Quy trình nghiên cứu này được Hayek gọi là phương pháp compozit. Để minh họa, ta có thể xem ví dụ đơn giản mà Hayek đưa ra về hiện tượng hình thành những con đường mòn ở nông thôn (tr. 71-72). Việc lí giải quá trình hình thành những con đường này bắt đầu bằng việc chỉ ra hành động của các cá nhân trong việc thử nghiệm dò tìm các con đường khác nhau để đạt mục đích di chuyển từ nơi này đến nơi kia. Sự khai phá của các cá nhân tiên phong sẽ giúp cho các cá nhân đi sau có cơ hội học hỏi kinh nghiệm hoặc dấu ấn để lại từ những người đi trước. Nhờ sự học hỏi đó, một con đường hợp lí nhất dần dần được hình thành. Ta thấy, trong ví dụ này, việc giải thích đi từ nhu cầu di chuyển của các cá nhân và cách thức thực hiện để thỏa mãn nhu cầu đó. Người phân tích xâu chuỗi các kết quả tạo ra từ các hành động cá nhân với nhau theo một trình tự nhất định để giải thích con đường mòn được hình thành như thế nào. Tất nhiên, bất cứ ai cũng có thể đưa ra cách lí giải này khác về sự hình thành của con đường. Tuy nhiên, phương pháp nghiên cứu theo cá thể luận, và gắn với nó phương pháp compozit, cho phép người nghiên cứu có thể đưa ra
được một bức tranh chính xác hơn về hiện tượng so với kinh nghiệm đại chúng thông thường, một bức tranh cho ta biết về nguyên nhân phát sinh và quá trình hình thành hiện tượng đó thay vì chỉ mô tả trạng thái của hiện tượng đó.
Điểm đặc trưng cuối cùng mà Hayek đưa ra trong việc tiếp cận đúng đắn các hiện tượng xã hội - nhìn nhận các thực thể lịch sử là các thực thể mang tính lí thuyết (hypothetical characteristic) hay nhân tạo - hàm ý rằng các thực thể lịch sử mà chúng ta thường nói tới không tồn tại dưới dạng vật thể để quan sát một cách tổng thể như chúng ta quan sát một cái cây hay một hòn đá. Ý niệm của chúng ta về các thực thể lịch sử phụ thuộc vào các lí thuyết hay các mô hình mà chúng ta xây dựng về chúng, tức các cấu trúc mối quan hệ nhân quả giữa các loại động cơ, niềm tin, hay thái độ ẩn đằng sau các hành động cá nhân cấu thành các thực thể này. Trong xã hội hiện đại ngày nay, các “mức giá cả”, “tiền tệ”, “chu kì kinh doanh”, “nền kinh tế” v.v. mà chúng ta cho là đã và đang xuất hiện đều là những thực thể kinh tế nhân tạo được các nhà khoa học tạo dựng nên một cách nhất quán từ những loại phần tử tâm trí nhất định, gắn kết bởi những nguyên lí nhất định, chứ không phải là những thứ có thể quan sát trực tiếp được. Hay nói một cách khác, không tồn tại những “tổng thể xã hội” hay “tổ chức xã hội” ngoài những mô hình hay cấu trúc lí thuyết được chúng ta tạo dựng về hệ thống các mối quan hệ bền vững giữa những phần tử cơ bản (niềm tin, thái độ, kì vọng, ước muốn v.v.) gắn với các hành động cá nhân mà mọi người đều biết đến.
Trong thập kỉ 1960 và 1970, F. A. Hayek đã tổng hợp và phát triển các luận điểm của mình về phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội lên một tầm cao mới. Dưới ảnh hưởng của Karl Popper, Hayek thừa nhận rằng sự khác biệt giữa nghiên cứu lí thuyết trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội là
không quá nhiều. Cả hai đều phải dựa vào phương pháp diễn dịch thay vì quy nạp. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc tính chủ quan của các hiện tượng xã hội và đặc tính phân hữu tri thức trong xã hội, Hayek cho rằng hiện tượng xã hội là hiện tượng phức (complex phenomena) theo nghĩa để mô tả một hiện tượng xã hội cụ thể chúng ta phải cần một số lượng vô hạn các biến số, khác với các hiện tượng tự nhiên, nơi ta có thể sử dụng một số lượng hữu hạn các biến số để mô tả[1]. Đối với các hiện tượng phức, chúng ta không thể áp dụng các thí nghiệm trong những điều kiện lí tưởng để kiểm nghiệm các lí thuyết khác nhau, qua đó tìm ra được các lí thuyết tốt hơn. Quy trình nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội phải tiến hành theo cách khác. Nhờ có cấu trúc tâm trí giống nhau, những nhà nghiên cứu xã hội khi nghiên cứu một hiện tượng nào đó có thể tự chiêm nghiệm để tìm ra các phần tử tâm trí đơn giản có liên quan mà mọi người đều quen thuộc, sau đó cẩn thận áp dụng phương pháp compozit để tìm ra các nguyên lí chi phối sự hình thành hiện tượng quan tâm từ những loại phần tử tâm trí đơn giản đó. Các nhà nghiên cứu xã hội phải chấp nhận việc hầu như không thể dùng các biện pháp thực nghiệm để kiểm sai (falsify) một lí thuyết nào đó về các hiện tượng phức[2].
* * *
Việc phát hiện ra bản chất của hiện tượng xã hội là hiện tượng phức, nhưng lại là hiện tượng được cấu tạo từ những phần tử tâm trí mà chúng ta có thể hiểu được vì chúng ta đều có một cấu trúc tâm trí chung, đã đưa Hayek đến những luận đề quan trọng. Một số luận đề được Hayek trình bày trong cuốn Cuộc cách mạng ngược trong khoa học, một số khác được ông đề cập trong các tác phẩm khác.
Trước hết, Hayek khẳng định sự tồn tại của một hệ thống lí thuyết thuần tuý, tổng quát về các hiện tượng xã hội. Hệ thống lí thuyết này không phụ thuộc vào lịch sử. Ngay từ khi loài người có lịch sử thì cấu trúc tâm trí của con người thời đó với chúng ta bây giờ phải là giống nhau. Con người tiền sử ắt cũng có hành động có chủ đích, có niềm tin, có mong muốn, có kì vọng v.v. Và bởi khoa học xã hội là khoa học nghiên cứu về những hiện tượng hình thành từ các hành động có chủ đích của con người nên những lí thuyết xã hội được xây dựng một cách đúng đắn hoàn toàn có thể giải thích được những hiện tượng ở những thời điểm khác nhau miễn là sự kết hợp của những phần tử tâm trí mà lí thuyết đó mô tả xuất hiện tại thời điểm mà lí thuyết muốn giải thích. Như Hayek viết: “Nơi mà hiểu biết của chúng ta không thể vươn tới, nơi mà chúng ta không còn có thể nhận ra được các phạm trù của tư duy, rằng chúng tương tự những phạm trù mà chúng ta dùng để suy nghĩ, thì đấy là nơi mà lịch sử không còn thuộc lịch sử nhân loại. Và chính xác tại điểm đó, và chỉ tại điểm đó, các lí thuyết tổng quát của lĩnh vực khoa học xã hội mới không còn phù hợp nữa” (tr. 130). Kết luận này của Hayek đã góp phần quan trọng vào việc bác bỏ duy sử luận, thứ luận thuyết cho rằng các lí thuyết xã hội chỉ có thể đúng trong từng giai đoạn đoạn lịch sử, rằng bản thân lịch sử xã hội diễn tiến theo những quy luật nhất định từ thấp lên cao.
Luận đề quan trọng tiếp theo là lí thuyết về hiện tượng xã hội cần phải hướng vào hệ thống các quy tắc hành xử (rules of conduct) trong cộng đồng. Như đã đề cập, hiện tượng xã hội được cấu thành từ các phần tử tâm trí như niềm tin, mong muốn, kì vọng, niềm tin v.v. của các cá nhân. Nhưng những phần tử có vai trò quan trọng trong việc tạo ra trật tự của hiện tượng xã hội lại chịu sự chi phối bởi một số lượng nhất định các quy tắc ứng xử trong xã hội. Chính những quy tắc đó mới đóng vai trò giúp cho
tương tác giữa các cá nhân diễn ra theo một trật tự nhất định, giúp các cá nhân đối mặt với sự bất trắc của thế giới xung quanh do sự khiếm khuyết về tri thức mang tính bản thể của mình[3]. Chúng là tri thức xã hội cho phép các cá nhân điều chỉnh các kế hoạch hành động của mình qua các quá trình học hỏi sao cho các kế hoạch của họ trở nên ngày càng tương hợp với nhau, nhờ đó các trật tự tự phát trong xã hội được hình thành và phát triển. Trong vai trò những nhà nghiên cứu, chúng ta chỉ có thể tái dựng được cấu trúc có trật tự của hiện tượng xã hội bằng cách khám phá các quy tắc hành xử chi phối hành động của các cá nhân; đó cũng chính là đóng góp thực sự của các nhà nghiên cứu cho khoa học xã hội, vì rằng cá nhân bình thường hiếm khi nhận ra được mình đang bị chi phối bởi những quy tắc hành xử gì, và vì thế anh ta chỉ có thể đưa ra được những quan niệm đại chúng về các hiện tượng xã hội. Hayek chính là người đã dấn thân nghiên cứu về sự tiến hóa của các hệ thống các quy tắc hành xử trong suốt cuộc đời còn lại của mình qua các tác phẩm Law, Legislation and Liberty (1973,1976,1979) và The Fatal Conceit: The Errors of Socialism (1988). Trong những tác phẩm ấy, ông đã chỉ ra rằng một xã hội tự do hoàn toàn có thể vận hành trong trật tự dựa trên những quy tắc, những luật lệ minh bạch và phổ quát, được các cá nhân chọn lọc qua quá trình thử sai khi tương tác với nhau trong cuộc sống hằng ngày.
Luận đề quan trọng thứ ba là lí thuyết về hiện tượng xã hội cần phải là lí thuyết về quá trình hình thành hiện tượng (process theory). Luận đề này được rút ra từ việc phương pháp nghiên cứu đúng đắn các hiện tượng xã hội phải là phương pháp compozit. Trong con mắt của Hayek, mọi lí thuyết đều tước bỏ một phần sự thật, nhưng lí thuyết tĩnh về trạng thái cân bằng của xã hội lại là lí thuyết tước bỏ đi phần sự thật chính yếu nhất bởi nó loại bỏ tính
nhân-quả của hiện tượng. Theo phương pháp compozit, để hiểu được hành động con người chúng ta phải xuất phát từ các mong muốn và niềm tin ẩn đằng sau hành động. Các mong muốn và niềm tin này sẽ khiến cho con người xây dựng kế hoạch để thỏa mãn các mong muốn đó, và sau đó thực hiện một loạt các hành động để hoàn thành kế hoạch đặt ra. Tương tự, để hiểu được các kết quả của thị trường, chúng ta cũng phải xuất phát từ các mong muốn và niềm tin của các cá nhân tham gia vào thị trường, xem xét sự hình thành các kế hoạch cá nhân dựa trên những niềm tin nhất quán nhằm thỏa mãn các mong muốn của họ, xem xét việc các cá nhân khám phá những sai sót trong niềm tin khi việc thực thi kế hoạch không thành công, và xem xét việc họ sửa chữa lại các kế hoạch để khắc phục các sai sót. Khái niệm trạng thái cân bằng động mà Hayek xây dựng có lẽ là ví dụ tiêu biểu nhất trong số những đóng góp của ông về lí thuyết quá trình hình thành hiện tượng trong lĩnh vực kinh tế. Đấy là một trạng thái mà tại đó các kế hoạch của các cá nhân tương hợp với nhau sao cho ước muốn của tất cả đều thỏa mãn[4]. Điều này giúp ông và các nhà kinh tế sau này đưa được các yếu tố về sự truyền tải và sử dụng tri thức vào trong các mô hình lí thuyết kinh tế để mô tả thị trường như là một quá trình liên tục, tại đó các cá nhân khám phá ra các sai sót và khắc phục sai sót, sao cho các kế hoạch của mình tương hợp với kế hoạch của các cá nhân khác[5]. Trong giai đoạn sau của cuộc đời, trong tác phẩm The Fatal Conceit (1988), ông tiếp tục mở rộng ý tưởng này sang việc mô tả sự tiến hóa của hệ thống các quy tắc hành xử trong xã hội, rằng xã hội tự do là xã hội tại đó các quy tắc hành xử đúng đắn hơn sẽ được các cộng đồng thử nghiệm, lựa chọn và lan truyền rộng khắp.
Luận đề quan trọng cuối cùng trong hệ thống phương pháp luận của Hayek mà tôi muốn đề cập ở đây là tính hạn chế của lí thuyết
xã hội trong việc giải thích và dự báo các hiện tượng xã hội trong thực tế. Bởi các hiện tượng xã hội là hiện tượng phức, được kết thành từ một số lượng vô cùng lớn các mối quan hệ giữa các phần tử đơn lẻ, chúng ta không thể nào quan sát được chúng dưới dạng tổng thể. Cái mà chúng ta có thể làm là nhận biết được các loại mối quan hệ và mô tả một loại hiện tượng nào đó như là một tập hợp của một số lượng nhất định các mối quan hệ bền vững giữa các phần tử. Chúng ta cần lưu ý rằng mối quan hệ ở đấy chính là quy tắc hành xử hay kiến thức chung mà các cá nhân chia sẻ. Trong kinh tế học, các mức giá cả chính là một trong các loại quy tắc hành xử như vậy. Căn cứ vào các mức giá cả cũng như sự thay đổi của chúng, các cá nhân tự động điều chỉnh kế hoạch của mình để phản ánh tình trạng khan hiếm nguồn nhiên liệu, sự thay đổi công nghệ và sự thay đổi sở thích của người tiêu dùng. Một số nhà kinh tế, như Léon Walras chẳng hạn, đã sử dụng hệ thống các phương trình đồng thời để thể hiện các mối quan hệ chung giữa các mức giá cả và khối lượng hàng hoá được bán hay mua nhằm mô tả sự vận hành của nền kinh tế. Chúng ta cần lưu ý, trong ví dụ này, hệ thống phương trình đồng thời của Walras chỉ cho chúng ta biết về mô thức các mối quan hệ kinh tế nhất định trong xã hội, nhưng nó lại không cho chúng ta biết gì về một tình trạng cụ thể của nền kinh tế bởi chúng ta không thể nào biết được các hệ số gắn với các biến số của các phương trình ở một thời điểm cụ thể nào đó[6]. Việc chúng ta chỉ biết được các mối quan hệ bền vững giữa các phần tử cấu thành hiện tượng phức nhưng lại không biết được các hệ số xác lập các mối quan hệ cụ thể đã dẫn Hayek đi đến kết luận rằng trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tuợng phức, các dự báo chính xác là không thể; điều chúng ta có thể làm là “dự báo mô thức” cũng như “giải thích nguyên lí vận hành” của hiện tượng. Khi các nhà kinh tế nói rằng, giả sử các yếu tố khác giữ nguyên (ceteris
paribus assumption), mức tiêu thụ một sản phẩm nào đó sẽ giảm nếu chính phủ đánh thuế tiêu thụ hàng hoá đó, thì đó là một dự báo mô thức vì họ không thể dự đoán được tiến trình sắp tới của các mức giá cụ thể trong thực tế tiếp theo sẽ như thế nào do có nhiều yếu tố tác động mà mô hình dự báo của họ không kiểm soát được.
* * *
Hayek viết cuốn Cuộc cách mạng ngược trong khoa học trong những năm khốc liệt nhất của Thế chiến II với mong muốn làm sáng tỏ một sự thật hiển nhiên: sự hữu hạn bẩm sinh của tâm trí con người. Bất cứ khi nào chúng ta không chịu chấp nhận sự thật ấy, không coi đó là xuất phát điểm để định hướng tư duy và hành động của mình, chúng ta ắt sẽ phạm phải sai lầm cả trên bình diện học thuật lẫn trên bình diện thực tiễn.
Rất may là loài người lại có phân hữu tri thức, nhờ đó sự khiếm khuyết của cá nhân này lại được cá nhân khác bù đắp. Đấy chính là nền tảng để hình thành các trật tự tự phát, tại đó các cá nhân, dù theo đuổi các mục tiêu cá nhân của mình, nhưng kết cục lại đem lại lợi ích cho những người khác. Trật tự đó được tạo ra từ hoạt động của con người nhưng lại không do một cá nhân nào thiết kế ra. Trật tự tự phát chính là nguyên lí để xây dựng một xã hội hiện đại vì tự do, hoà bình, và thịnh vượng.
Ông đã kiên trì xây dựng hệ thống phương pháp luận của mình trên dòng triết lí này và triển khai các luận đề chống lại xu hướng duy khoa học trong nghiên cứu xã hội, vốn bắt chước một cách mù quáng cách tiếp cận trong nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên, về mặt lí thuyết, đóng góp của ông đã tạo ra một nền tảng vững chắc
về phương pháp luận để nhánh kinh tế học thể chế mới, kinh tế học về thông tin, kinh tế học về hiện tượng phức, và lí thuyết trò chơi phát triển sau này. Những luận đề của ông cũng góp phần dẹp bỏ được ảo tưởng về sự tồn tại của một “học thuyết” khoa học xã hội nào đó nhằm dự báo hoặc làm “kim chỉ nam” để thiết kế hay cải tạo xã hội. Chúng ta có thể xây dựng các lí thuyết về các hiện tượng xã hội, nhưng ứng dụng của chúng chỉ dừng ở mức độ giải thích nguyên lí hay dự báo mô thức, hoặc góp phần vào điều chánh các định chế có tính phổ quát trong xã hội theo hướng hiệu quả hơn. Đấy chính là sự khiêm cung mà Hayek mong muốn các nhà khoa học xã hội ghi nhớ để có những đóng góp tích cực, thay vì phá hủy, vào quá trình phát triển nền văn minh mà loài người đã dày công xây dựng trong suốt hàng nghìn năm qua.
Đinh Tuấn Minh
Hà Nội, tháng 12/2016
LỜI TỰA ẤN BẢN TIẾNG ANH
(1952)
Các bài luận được tổng hợp lại trong cuốn sách này, dù được công bố riêng trong nhiều năm, đều thuộc về cùng một chủ đề bao quát. Trong lần in này, tôi vẫn giữ nguyên luận điểm chính của chủ đề chỉ thay đổi nhỏ về trình bày và bổ sung thêm những gì còn khiếm khuyết. Các bài luận được sắp xếp lại một cách có hệ thống theo trình tự phát triển của luận điểm không như khi chúng còn là các bài viết riêng lẻ. Do đó, cuốn sách sẽ bắt đầu bằng những phân tích về các vấn đề tổng quát, rồi tiến tới xem xét vai trò lịch sử của các dòng tư tưởng liên quan. Với tôi, đây đơn thuần không chỉ là việc mô phạm hóa hay cách thức để loại bỏ sự lặp lại không cần thiết, mà là một điều cần thiết để thể hiện ý nghĩa thực sự của một quá trình nghiên cứu nhất định. Tuy vậy tôi hoàn toàn nhận thức được rằng việc sắp xếp này sẽ khiến cho những chương đầu của cuốn sách trở nên khó đọc hơn so với phần cuối, do vậy sẽ tốt hơn nếu đưa phần trực quan lên phía trước. Nhưng tôi vẫn tin rằng hầu hết độc giả - những người quan tâm đến chủ đề này - sẽ thấy đây là cách trình bày dễ chịu hơn. Tuy nhiên, nếu độc giả nào thấy không có hứng thú lắm với phân tích trừu tượng thì có thể đọc phần thứ hai trước - phần có tiêu đề được đặt tên cho cuốn sách. Tôi hi vọng sau đó độc giả sẽ thấy thú vị hơn đối với việc phân tích tổng quát về cùng loại chủ đề được trình bày trong phần đầu.
Hai phần đầu cuốn sách được công bố lần đầu trên chuyên san Economica, phần thứ nhất rải rác ở các số khác nhau trong giai đoạn 1942-1944 và phần sau năm 1941. Phần thứ ba, được viết mới gần đây dưới dạng một bài giảng, xuất hiện lần đầu trên tạp chí Measure vào tháng Sáu năm 1951, là kết quả của việc thu thập
các ghi chép trong thời kì viết hai phần đầu. Tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với các biên tập viên của Economica và Measure, Trường Khoa học Kinh tế và Chính trị London, và Công ty Henry Regnery ở Chicago cũng như các nhà xuất bản liên quan của hai cơ sở này đã cho phép tôi in lại những bài được công bố lần đầu trên các ấn phẩm của họ.
F. A. Hayek
PHẦN I
CHỦ NGHĨA DUY KHOA HỌCVÀ NGHIÊN CỨU VỀ XÃ HỘI
“Các hệ thống [tư duy] nói chung đều bắt nguồn từ những tác phẩm được sáng tác công phu bởi những người am tường trong một lĩnh vực nhất định nhưng lại thiếu hiểu biết về những lĩnh vực khác; những người mà vì thế đã giải thích cho riêng mình những hiện tượng vốn lạ lẫm với họ bằng các phương pháp quen thuộc với họ; và với những người này, bằng thói quen tư duy đó, phép tương tự, vốn được các nhà văn thỉnh thoảng khai thác để thực hiện một vài so sánh hấp dẫn, đã trở thành điểm tựa vĩ đại để xoay vần mọi thứ trên đó”.
Adam Smith, Essay on the History of Astronomy
(Luận về lịch sử thiên văn học)
1
ẢNH HƯỞNG CỦA LĨNH VỰC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ĐỐI VỚI LĨNH VỰC KHOA HỌC XÃ HỘI
Trong thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX, công việc nghiên cứu các hiện tượng kinh tế và xã hội diễn ra một cách chậm rãi và được định hướng bằng các phương pháp chủ yếu dựa trên bản chất của các vấn đề cần nghiên cứu[7]. Dần dần người ta hình thành phương pháp thích hợp cho những vấn đề này mà không cần thiết phải ưu tư nhiều về đặc trưng của các phương pháp nghiên cứu hay về mối liên quan giữa chúng với đặc trưng của các phương pháp áp dụng trong các bộ môn nghiên cứu khác. Những nghiên cứu viên ngành Kinh tế chính trị có thể miêu tả ngành học của mình như một bộ môn khoa học hoặc bộ môn triết học về xã hội hay luân lí mà không phải băn khoăn gì về việc chuyên ngành của họ thuộc về khoa học hay triết học. Thuật ngữ khoa học khi đó chưa mang nghĩa hẹp chuyên biệt như ngày nay[8], và cũng không hề có bất kì một tiêu chí nào nhằm định ra ranh giới cho các ngành khoa học vật lí hoặc tự nhiên, rồi gắn cho chúng một chân giá trị đặc biệt. Thực ra những người cống hiến cho các ngành này sẵn sàng lựa chọn cái tên triết học khi phải suy nghĩ tới những khía cạnh chung hơn trong các vấn đề họ nghiên cứu[9], và đôi khi chúng ta còn tìm thấy đâu đó cụm từ “triết học về tự nhiên” tương phản với “khoa học về luân lí”.
Trong nửa đầu thế kỉ XIX, một tâm thế mới khiến sự phân biệt
này xuất hiện. Thuật ngữ khoa học ngày càng trở nên bị bó hẹp trong các chuyên ngành vật lí và sinh vật - là các ngành khi đó cũng đang phải tự tranh đấu cho hai tiêu chí đặc thù của mình, tính chính xác và tính tất định, để phân biệt chúng với tất cả các ngành khác. Các ngành này thành công tới mức chúng nhanh chóng tạo ra một sức thu hút khác thường đối với những người làm việc ở những ngành khác, khiến những người này nhanh chóng bắt chước cách giảng dạy hay vốn từ vựng của chúng. Đây là điểm khởi đầu của thời kì chuyên chế mà các phương pháp và kỹ thuật của các ngành Khoa-Học[10], hiểu theo nghĩa hẹp của thụật ngữ này, áp đặt lên những bộ môn khác. Những bộ môn khác này ngày càng muốn chứng minh vị thế ngang bằng của mình bằng cách thể hiện rằng các phương pháp nghiên cứu của chúng cũng giống như các phương pháp của người anh em tài giỏi thành công kia, thay vì điều chỉnh lại các phương pháp sao cho ngày càng phù hợp với những vấn đề riêng của mình. Và, dù cho trong khoảng 120 năm, khoảng thời gian mà tham vọng muốn mô phỏng những phương pháp nghiên cứu của Khoa-Học chứ không phải tinh thần của nó đã giành được vị thế thống trị trong các lĩnh vực nghiên cứu xã hội, thì tham vọng này đã không đóng góp được gì mấy cho những hiểu biết của chúng ta về các hiện tượng xã hội, không chỉ trên khía cạnh nó tiếp tục khiến cho công việc nghiên cứu của các bộ môn khoa học xã hội lộn xộn và mất uy tín, mà còn trên khía cạnh nó khiến chúng ta phải tiêu tốn ngày càng nhiều sức lực theo hướng này với lí lẽ là ngày càng có nhiều phát kiến mang tính cách mạng mới nhất [trong lĩnh vực Khoa-Học] xuất hiện mà nếu được áp dụng sẽ đảm bảo mang lại cho chúng ta sự tiến bộ nhanh chóng không ngờ.
Tuy nhiên, có thể nói ngay rằng những người lớn tiếng nhất cho những đòi hỏi này hiếm khi là những người có những đóng góp
đáng kể vào việc làm giàu thêm tri thức của chúng ta về Khoa Học. Từ Francis Bacon, Chủ tịch Thượng viện, người vừa mới được coi và sẽ mãi luôn bị coi là nguyên mẫu của những “kẻ mị dân về khoa học”, cho tới Auguste Comte và tới những nhà “duy vật lí” trong thời đại của chúng ta, luôn có những nhân vật đưa ra những đòi hỏi phải giành địa vị độc tôn cho các phương pháp nghiên cứu này khác sử dụng trong khoa học tự nhiên. Những người này là những người mà tư cách đại diện cho các nhà khoa học của họ không thể không bị nghi ngờ, vì chính họ trong nhiều trường hợp đã thể hiện nhiều tín điều mù quáng trong bản thân các chuyên ngành Khoa-Học hệt như trong thái độ của họ với những bộ môn khác. Chính vì Francis Bacon phản đối Thiên văn học của Copernics[11], vì Comte cho rằng bất kì sự xem xét quá kĩ lưỡng các hiện tượng bằng các dụng cụ như kính hiển vi đều có hại và nên bị cấm bởi quyền năng tinh thần (spiritual power) của xã hội tiến bộ do nó làm đảo lộn những quy luật của khoa học thực chứng, nên thái độ võ đoán này đã đẩy những người theo nó lạc lối trong lĩnh vực riêng của mình khủng khiếp đến mức chúng ta chẳng có gì phải băn khoăn khi không dành sự tôn họng đúng mực cho những quan điểm của họ về các vấn đề còn xa lắc xa lơ so với những lĩnh vực mà họ thực sự chú tâm vào.
Tuy vậy, vẫn còn một điểm nữa bạn đọc nên lưu ý khi xem tiếp các phần sau. Những phương pháp mà các nhà khoa học hay những con người bị mê hoặc từ lĩnh vực khoa học tự nhiên thường xuyên cố gắng áp đặt lên lĩnh vực khoa học xã hội không nhất thiết luôn phải là những phương pháp mà các nhà khoa học đang áp dụng trong chuyên ngành riêng của họ trên thực tế, mà thay vì đó lại là những phương pháp mà họ tin rằng họ đã sử dụng. Điều này không nhất thiết phải là một. Một nhà khoa học suy ngẫm và lí thuyết hóa quy trình nghiên cứu của mình không phải lúc nào
cũng đưa ra những chỉ dẫn đáng tin cậy. Trong một vài thế hệ gần đây, các quan điểm về đặc điểm của phương pháp nghiên cứu Khoa-Học đã thay đổi khá nhiều, nhưng chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng những phương pháp thực sự được áp dụng chẳng có gì thay đổi về bản chất. Nhưng bởi đấy chỉ là những điều mà các nhà khoa học tin rằng họ đã làm, bao gồm cả những quan điểm gây ảnh hưởng lên khoa học xã hội mà họ đã từng mang trước đó, nên những bình luận tiếp sau về các phương pháp nghiên cứu được tiến hành trong các ngành khoa học tự nhiên cũng không nhất thiết phải nên được xem như là một lời giải thích đúng đắn cho những gi mà các nhà khoa học thực sự làm, chúng chỉ nên được xem như là một trong những quan điểm về bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học vốn có vị thế vượt trội trong thời gian gần đây.
Lịch sử của ảnh hưởng này, các kênh ảnh hưởng và chiều hướng tác động tới sự phát triển xã hội sẽ là các chủ đề theo sát chúng ta trong loạt bài nghiên cứu lịch sử mà trong đó chương này được viết với vai trò như là một lời giới thiệu. Trước khi tìm hiểu quá trình lịch sử của những ảnh hưởng này cũng như các hệ lụy của chúng, chúng ta sẽ cố gắng miêu tả những đặc điểm chung của nó và bản chất của những vấn đề khiến cho sự phát triển tùy tiện và không thích hợp về các thói quen suy nghĩ trong các ngành khoa học vật lí và sinh vật ngày càng nảy nở. Chúng ta sẽ gặp lại một số yếu tố tiêu biểu của khuynh hướng này nhiều lần, và vì tính thoạt-đúng (prima facie plausibility) của chúng nên chúng ta cần phải xem xét chúng một cách cẩn trọng. Trong khi từ một vài ví dụ lịch sử khó có thể chỉ ra bằng cách nào những quan điểm có tính đặc trưng này lại có mối quan hệ hay có nguồn gốc từ những thói quen suy nghĩ của các nhà khoa học, chúng ta lại làm được điều này dễ dàng hơn thông qua một khảo cứu có hệ thống.
Cần phải khẳng định dứt khoát rằng, mọi thứ mà chúng ta sẽ
trình bày không có một chút nào nhằm chống lại những phương pháp nghiên cứu của Khoa-Học trong đúng lĩnh vực của chúng, hay tỏ thái độ nghi ngờ, dù là nhỏ nhất, về những giá trị của các phương pháp này. Và để loại trừ mọi hiểu lầm, chúng ta sẽ dùng thuật ngữ chủ nghĩa duy khoa học (scientism) và định kiến duy khoa học (scientistic prejudice) bất kì khi nào chúng ta đề cập đến sự bắt chước mù quáng các phương pháp và ngôn ngữ của Khoa Học, chứ không phải đến tinh thần chung về sự nghiên cứu vô tư. Tuy những thuật ngữ này không phải hoàn toàn không được biết đến trong tiếng Anh[12], chúng thực ra lại là những từ vay mượn từ tiếng Pháp, nơi mà trong những năm gần đây chúng cũng đang được sử dụng theo nghĩa tương tự như cách chúng sẽ được sử dụng ở đấy[13], cần phải lưu ý rằng, với cái nghĩa mà chúng ta sử dụng những thuật ngữ này, tất nhiên chúng biểu tả một thái độ hoàn toàn phi khoa học theo nghĩa thực sự của thuật ngữ, bởi nó còn liên quan tới việc áp dụng một cách máy móc và không có tính phê phán những thói quen tư duy trong những lĩnh vực mà các thuật ngữ này được hình thành nên vào các lĩnh vực hoàn toàn khác biệt. Khác với quan điểm khoa học, quan điểm duy khoa học không phải là một cách tiếp cận phi định kiến mà là một cách tiếp cận rất định kiến; Trước khi xem xét một chủ đề gì, nó luôn đòi hỏi phải biết đâu là phương pháp thích hợp nhất để nghiên cứu chủ đề đó[14].
Sẽ thuận lợi hơn nếu có một thuật ngữ tương tự để miêu tả não trạng đặc trưng của người kĩ sư. Mặc dù trên nhiều khía cạnh, nó có liên hệ chặt chẽ nhưng vẫn khác biệt với duy khoa học, ngay cả khi chúng ta nghiên cứu nó trong mối quan hệ với duy khoa học. Tiếc rằng, không có một từ cụ thể nào diễn tả được đầy đủ ý này, và chúng ta sẽ phải bằng lòng miêu tả loại não trạng thứ hai này - cách suy nghĩ rất đặc trưng của thế kỉ XIX và XX - bằng thuật ngữ “loại tâm trí máy móc” (engineering type of mind).
2
VẤN ĐỀ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LĨNH VỰC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Trước khi tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến những lạm dụng [lí tính] của chủ nghĩa duy khoa học, chúng ta cần hiểu cuộc đấu tranh mà bản thân Khoa-Học đã phải tiến hành để chống lại những khái niệm và tư tưởng làm tổn hại đến tiến bộ của nó ở mức độ giống như định kiến duy khoa học hiện nay đang đe dọa sự phát triển của hoạt động nghiên cứu xã hội. Mặc dù hiện tại chúng ta đang sống trong một môi trường mà những quan niệm và thói quen suy nghĩ trong đời sống hằng ngày bị ảnh hưởng nhiều bởi những suy nghĩ của Khoa-Học, nhưng chúng ta không được phép quên rằng các ngành Khoa-Học khởi đầu cuộc tranh đấu tìm kiếm phương pháp luận cho mình trong một thế giới mà hầu hết các khái niệm được hình thành từ mối quan hệ giữa người với người và từ cách biện giải các hành động của con người. Một lẽ khá tự nhiên là xung lượng mà Khoa-Học thu được trong công cuộc đấu tranh đó lại đưa nó vượt quá ranh giới và tạo ra một tình thế trái ngược mà ở đó mối nguy hiểm lại là ưu thế của chủ nghĩa duy khoa học, làm cản trở bước tiến của nghiên cứu xã hội[15]. Nhưng ngay cả khi con lắc đã hoàn toàn lắc theo hướng ngược lại, nó chỉ gây thêm nhầm lẫn cho chúng ta trừ phi chúng ta nhận ra được những yếu tố đã tạo ra tâm thái này và xem xét nó trong phạm vi thích hợp của nó. Có ba cản trở chính ngăn cản sự tiến bộ của Khoa-Học hiện đại
khiến nó không ngừng tranh đấu kể từ lúc mới ra đời trong thời Phục hưng; và phần lớn lịch sử quá trình phát triển của Khoa-Học được viết nên thông qua những bước đi dần dần để vượt qua những khó khăn này. Cản trở thứ nhất, dù không phải quan trọng nhất, là: vì rất nhiều lí do khác nhau, các học giả có thói quen dành hầu hết công sức của mình để phân tích những tư tưởng của người khác; điều này không chỉ bởi trong các bộ môn nghiên cứu phát triển nhất thời đó, như luật học và thần học, thì đây là những đối tượng nghiên cứu thực sự, mà chủ yếu là bởi trong quá trình suy tàn của Khoa-Học vào thời Trung cổ có vẻ như không có cách nào để tìm ra sự thật về tự nhiên tốt hơn bằng việc nghiên cứu các tác phẩm của những tên tuổi lớn trong quá khứ. Cản trở thứ hai, và quan trọng hơn, là niềm tin rằng các “ý niệm” (“ideas”) về các sự vật chứa đựng một thực tồn siêu nghiệm (transcendental reality) nào đó, và do vậy bằng cách phân tích các ý niệm chúng ta có thể biết đôi chút hoặc mọi thứ về các tính chất của các sự vật thực (real things). Thứ ba (có lẽ là quan trọng nhất) là con người ở mọi nơi bắt đầu diễn giải các sự kiện của thế giới bên ngoài, thông qua sự hình dung về chúng như là được tạo dựng bởi một tâm trí tương tự tâm trí của anh ta, và do vậy các ngành khoa học tự nhiên tiến hành lí giải mọi trường hợp bằng cách so sánh chúng với cơ chế hoạt động của tâm trí con người thông qua các thuyết “duy nhân” và “duy linh” - những thuyết đi tìm kiếm mẫu vật hướng đích và thấy thỏa mãn nếu như phát hiện ra bằng chứng chứng tỏ trong mẫu vật đó có sự hiện hữu của trí tuệ biết thiết kế.
Để vượt qua tất cả những cản trở này, Khoa-Học hiện đại đã thể hiện một nỗ lực không mệt mỏi hướng tới các “sự thật khách quan”, ngừng việc nghiên cứu con người suy nghĩ về tự nhiên như thế nào hay chấm dứt việc coi những khái niệm/ý niệm có sẵn là những hình ảnh đúng đắn của thế giới thực, và trên hết, Khoa-Học
loại bỏ tất cả những học thuyết mà ngụy giải hiện tượng bằng cách gắn chúng với một tâm trí biết định hướng giống như tâm trí con người. Thay vào đó, nhiệm vụ chính của Khoa-Học là chỉnh lí và xây dựng các khái niệm hình thành từ kinh nghiệm thông thường, dựa trên việc kiểm nghiệm có hệ thống các hiện tượng, nhằm mục đích giúp chúng ta nhận biết tốt hơn một hiện tượng cụ thể với tư cách như là một trường hợp của quy luật chung. Trong quá trình này, không chỉ sự phấn loại tức thời có được từ các khái niệm thông dụng, mà cả sự phân biệt sơ khai giữa các nhận thức (perceptions) truyền tải từ giác quan cũng phải nhường đường cho một phương thức hoàn toàn mới giúp chúng ta sắp xếp hay phân loại các sự kiện của thế giới bên ngoài.
Khuynh hướng chấm dứt thuyết duy nhân khi bị đẩy tới cực đoan thậm chí đưa đến niềm tin rằng bản thân việc “giải thích” vẫn là cách lí giải mang tính duy nhân về các sự kiện và vì thế Khoa-Học cần hướng tới việc mô tả đầy đủ thế giới tự nhiên[16]. Rồi chúng ta sẽ thấy, có một ý đúng ẩn chứa trong phần đầu của nhận định này, đó là: chúng ta có thể hiểu và giải thích hành động con người theo một cách tiếp cận mà không thể áp dụng cho các hiện tượng vật lí, và vì thế cụm từ giải thích sẽ vẫn có chỗ đứng của nó ngay cả khi không áp dụng cho các hiện tượng vật lí[17]. Các hành động của những người xung quanh có lẽ là những trải nghiệm đầu tiên khiến con người phải đặt câu hỏi tại sao, và phải tốn rất nhiều thời gian để anh ta biết được, mà có lẽ vẫn không tài nào biết được một cách thấu đáo[18], rằng với những sự việc không thuộc phạm vi hành động con người anh ta không thể mong đợi tìm được một loại “giải thích” giống như loại dùng để giải thích hành vi con người.
Việc những khái niệm thông thường không cung cấp cho chúng ta một cách thức phân loại thích hợp để chỉ ra quy luật chung về sự vận động của những sự kiện xung quanh trong nhiều hoàn cảnh
khác nhau đòi hỏi chúng ta phải thay thế chúng bằng một cách phân loại khác. Tuy vậy, điều có lẽ tương đối bất ngờ đối với chúng ta là: cái nhận định mà đúng đối với trường hợp các trừu tượng hóa nhất thời này [tức việc hình thành các khái niệm thông thường - ND] thì cũng đúng đối với trường hợp các chất liệu thuần túy cảm giác - thứ mà hầu hết chúng ta đều có khuynh hướng coi như là thực tồn tối hậu (ultimate reality). Nhưng dù cho việc khoa học phá vỡ và thay thế hệ thống phấn loại mà các chất liệu cảm giác (sense qualities) của chúng ta tạo dựng ra là điều ít người biết tới, thì đó chính xác lại là những gì mà Khoa-Học làm. Điều này bắt đầu từ việc nhận ra rằng những gì xuất hiện trước chúng ta giống nhau không hẳn là luôn có hành vi như nhau, và những gì xuất hiện trước chúng ta khác nhau đôi khi lại có hành vi giống nhau trên mọi khía cạnh; và dựa trên kinh nghiệm đó, chúng ta tiến hành thay thế việc phân loại các sự kiện dựa trên cảm giác bằng một cách sắp xếp mới, trong đó các sự kiện không phải được nhóm lại từ những gì trông giống nhau, mà từ những gì, trong những hoàn cảnh tương tự, có hành vi giống nhau.
Trong khi một đầu óc nông cạn thường giả định rằng những sự kiện bên ngoài mà các giác quan của chúng ta ghi nhận là giống nhau hay khác nhau chắc hẳn phải có số lượng các khía cạnh giống nhau hay khác nhau lớn hơn nhiều so với những thứ mà các giác quan của chúng ta đơn thuần ghi nhận được, thì kiểm nghiệm có hệ thống của Khoa-Học lại chỉ ra rằng điều này thưừng không đúng. Nó không ngừng chỉ ra rằng “các sự thật” (facts) khác với “các vẻ bề ngoài” (appearances). Chúng ta coi sự vật giống hay khác nhau không chỉ đơn giản thông qua việc nó trông như thế nào, cho cảm giác gì, có mùi gì, v.v. giống hay khác, mà qua những gì xuất hiện đều đặn và thường xuyên trong cùng một hoàn cảnh không gian và thời gian. Và chúng ta biết rằng các nhận thức bằng
cảm giác (simultaneous sense perceptions) cùng loại có thể bắt nguồn từ “các sự thật” khác nhau, và những sự kết hợp khác nhau giữa các chất liệu cảm giác có thể diễn tả cùng một “sự thật”. Một thứ bột trắng, với khối lượng và “độ mịn” nhất định, nếu không nếm hay ngửi, có thể là bất cứ thứ gì trong nhiều sự vật khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh nó xuất hiện hay sau khi kết hợp với những yếu tố khác, hay tùy thuộc vào việc nó tạo ra kết quả gì khi được kết hợp với những yếu tố khác theo những cách thức khác nhau. Vì thế trong nhiều trường hợp, kiểm nghiệm hệ thống các hành vi thường chỉ ra rằng, những sự vật mà giác quan của chúng ta cảm nhận khác nhau lại có các hành vi giống hay ít nhất là tương tự nhau. Ví dụ, chúng ta có thể tìm thấy không chỉ một vật có màu xanh da trời, khi xuất hiện dưới một cường độ ánh sáng nhất định hay sau khi chúng ta uống một loại thuốc nhất định, lại có màu xanh lá cây, hay một thứ có hình elip hóa ra lại có hình tròn khi nhìn từ góc độ khác, mà còn có thể thấy những hiện tượng thoạt tưởng khác biệt như băng đá và nước, “thực ra” lại cùng là “một sự vật” mà thôi.
Cái quá trình sắp xếp lại các “đối tượng” đã được giác quan của chúng ta phân loại theo cách riêng của nó, cái quá trình thay thế các chất liệu “thứ cấp” (tức quá trình tại đó các giác quan của chúng ta sắp xếp các tác nhân kích thích bên ngoài) bằng một hệ thống phân loại mới dựa trên những mối quan hệ giữa các lớp sự kiện được hình thành có chủ ý, có lẽ là yếu tố đặc trưng nhất của quy trình nghiên cứu của lĩnh vực khoa học tự nhiên. Toàn bộ lịch sử của Khoa-Học hiện đại là một quá trình giải phóng không ngừng bắt đầu từ sự phân loại bẩm sinh trong chúng ta về các tác nhân kích thích bên ngoài cho tới khi chúng hoàn toàn biến mất, thời điểm mà “khoa học vật lí đã đạt tới một giai đoạn phát triển mà ở đó chúng ta không thể dùng ngôn ngữ tương thích với cái mà
các giác quan của chúng ta nhận thức được để trình bày những hiện tượng quan sát. Loại ngôn ngữ duy nhất thích hợp là ngôn ngữ toán học”[19], nghĩa là, bộ môn được phát triển để diễn tả mối quan hệ phức tạp giữa các yếu tố vốn không có một tính chất nào cả ngoại trừ các mối quan hệ này. Trong khi, ở thời kì đầu, các yếu tố mới - các đơn vị được dùng để “phân tích” thế giới vật lí - vẫn chứa đựng các “chất liệu” [cảm giác], tức là về nguyên tắc vẫn có thể trông thấy hay sờ thấy, thì chúng ta lại không thể dùng các mô hình cơ học để mô tả thỏa đáng những thứ như các hạt điện tử (electron) hay sóng, như cấu trúc nguyên tử hay các điện từ trường.
Thế giới được hành thành theo cách mới trong tâm trí con người là thế giới hoàn toàn bao gồm những thực thể không thể nhận thức được bằng các giác quan của chúng ta, nhưng lại vẫn có mối liên hệ rõ ràng với thế giới cảm giác của chúng ta. Thực ra, nó có tác dụng giải thích thế giới cảm giác của chúng ta. Trên thực tế, thế giới Khoa-Học được miêu tả có lẽ không gì khác hơn là một tập các quy tắc cho phép chúng ta lần theo dấu vết về những mối quan hệ giữa các liên hợp (complex) khác nhau của các nhận thức bằng cảm giác. Nhưng vấn đề là, những nỗ lực xây dựng các quy tắc thống nhất như thế cho các hiện tượng có thể nhận thức được đã và sẽ không thể đạt được thành công nào cho tới chừng chúng ta vẫn còn coi các liên hợp không đổi của các chất liệu cảm giác mà chúng ta có thể cùng lúc kiến nhận được là những đơn vị tự nhiên hay các thực thể có sẵn. Đúng ra thì, những thực thể mới, “các kiến dựng” (constructs), được hình thành và được định nghĩa chỉ dưới góc độ các nhận thức bằng cảm giác về “cùng” một sự vật trong những hoàn cảnh và tại những thời điểm khác nhau - tiến trình này hàm chứa một điều, theo một nghĩa nhất định nào đó, sự vật đó vẫn không thay đổi dù tất cả những tính chất có thể nhận biết được
của nó có thể đã thay đổi.
Nói cách khác, mặc dù những lí thuyết của khoa học vật lí đã đạt đến giai đoạn không còn cần thiết phải liên hệ tới các chất liệu cảm giác, thì chúng vẫn có ý nghĩa đối với việc giải thích thế giới cảm giác vì rằng chúng ta đang có trong tay các quy tắc, một thứ “chìa khóa”, giúp chúng ta biên dịch chúng thành những mệnh đề về các hiện tượng có thể nhận biết được. Người ta có thể so sánh mối quan hệ giữa lí thuyết vật lí hiện đại và thế gĩớỉ cảm giác của chúng ta với mối quan hệ giữa các cách thức khác nhau mà qua đó người ta có thể “biết” một ngôn ngữ chết, vốn chỉ hiện hữu dưới dạng các kí tự đặc biệt trên các bia khắc. Các tổ hợp những kí tự khác nhau trên bia khắc là hình thức xuất hiện duy nhất của ngôn ngữ chết, chúng tương ứng với những kết hợp khác nhau của các chất liệu cảm giác. Khi chúng ta tiếp cận với ngôn ngữ chết, chúng ta dần thấy được rằng các tổ hợp khác nhau của các kí tự có thể diễn tả cùng một thứ, và trong những hoàn cảnh khác nhau, cùng một nhóm kí tự có thể diễn tả những thứ khác nhau[20]. Khi chúng ta nhận ra được những thực thể mới này, chúng ta xâm nhập vào một thế giới mới trong đó đơn vị không phải là các mẫu tự, và trong mối quan hệ của chúng, chúng tuân theo những quy luật nhất định không thể nhận ra từ sự phối hợp giữa các mẫu tự đơn lẻ. Chúng ta có thể miêu tả quy luật của các đơn vị mới này, những quy tắc ngữ pháp, và tất cả những cái có thể được diễn tả thông qua các từ phối hợp theo những quy tắc trên mà không cần phải đề cập tới những mẫu tự riêng lẻ hay cái nguyên tắc mà dựa vào đó chúng cấu thành để tạo nên ý nghĩa cho các từ. Ví dụ, chúng ta có thể biết toàn bộ ngữ pháp tiếng Trung Quốc hoặc Hi Lạp và ý nghĩa của tất cả các từ ngữ của ngôn ngữ đó mà không cần phải biết kí tự tiếng Trung Quốc hay Hi Lạp (hay các âm tự của các từ ngữ tiếng Trung Quốc hay Hi Lạp). Tuy vậy, nếu như tiếng Trung
Quốc hay Hi Lạp chỉ xuất hiện dưới dạng chữ viết, thì tất cả những kiến thức này sẽ ít có giá trị sử dụng giống như việc chúng ta chỉ hiểu biết về các quy luật tự nhiên chi phối các thực thể hay kiến dựng trừu tượng mà lại thiếu hiểu biết về các quy tắc để chuyển đổi chúng thành những mệnh đề về các hiện tượng có thể nhận biết được bằng các giác quan của chúng ta.
Như trong thảo luận của chúng ta về cấu trúc ngôn ngữ, không cần thiết phải có sự miêu tả về cách các đơn vị ngôn ngữ khác nhau được cấu thành từ tổ hợp các mẫu tự (hay âm tự), vì thế trong miêu tả lí thuyết của chúng ta về tự nhiên, sẽ không còn các chất liệu cảm giác mà chúng ta sử dụng để quan sát và nhận thức thế giới tự nhiên. Chúng không còn được coi như là một bộ phận của đối tượng nghiên cứu, mà chỉ đơn thuần là các phương thức giúp chúng ta tự động nhận biết hoặc phân loại các yếu tố kích thích bên ngoài[21].
Ở đây chúng ta không đi sâu vào việc giải thích cơ chế phân loại các yếu tố kích thích bên ngoài của con người thông qua các chất liệu cảm giác[22]. Tuy nhiên, có hai điểm mà chúng ta sẽ quay lại bàn luận sau này nhưng cần đề cập vắn tắt ngay bây giờ. Thứ nhất, có hai câu hỏi thực sự cần phải trả lời là: tại sao, đối với chúng ta, các sự vật ở thế giới bên ngoài chỉ thể hiện sự đồng nhất trong hành vi khi chúng ta phân nhóm chúng theo một cách thức khác với cách mà các giác quan của chúng ta cảm nhận, và đặc biệt tại sao chúng lại xuất hiện theo cùng một kiểu[23] với những người khác nhau. Và thứ hai, chúng ta phải coi việc những người khác nhau nhận biết các sự vật khác nhau có biểu hiện tương tự nhau nhưng lại không tương ứng với bất kì mối quan hệ đã biết nào giữa những sự vật này ở thế giới bên ngoài là một mốc kinh nghiệm quan trọng để làm xuất phát điểm cho việc phân tích hành vi con người.
Ở đây chúng ta không quan tâm tới các phương pháp của các ngành Khoa-Học trong đúng lĩnh vực của chúng và vì thế chúng ta không thể tiếp tục đi sâu thêm nữa vào chủ đề này. Điểm chính mà chúng ta cần nhấn manh là: Khoa-Học chưa bao giờ coi những gì con người biết hay nghĩ về thế giới bên ngoài hay bản thân mình - các khái niệm và thậm chí các chất liệu chủ quan của các nhận thức bằng cảm giác của họ - là thực tồn tối hậu, là dữ liệu cần phải chấp nhận. Đối tượng mà nó nghiên cứu không phải là chuyện con người nghĩ gì về thế giới và các hành vi sau đó của con người, mà là những gì con người buộc phải nghĩ tới. Những khái niệm mà con người thực sự sử dụng, cách thức mà con người nhìn nhận thế giới, là một bức tranh nhất thời, và nhiệm vụ của nhà khoa học là phải thay đổi bức tranh đó, phải thay đổi các khái niệm, sao cho các mệnh đề đưa ra sau đó trở nên chính xác và rõ ràng hơn khi đề cập tới các lớp sự kiện mới.
Tất cả những điều này dẫn đến một hệ quả đòi hỏi chúng ta cần bàn luận thêm một chút nhằm phục vụ những xem xét tiếp sau. Đấy là vai trò đặc biệt của các mệnh đề số và các phép đo định lượng trong lĩnh vực khoa học tự nhiên. Người ta thường cho rằng ý nghĩa của việc sử dụng phương pháp định lượng trong hầu hết các ngành khoa học tự nhiên là ở chỗ nó đem lại độ chính xác lớn hơn cho các mệnh đề. Thực sự không hẳn như vậy. Định lượng không đơn thuần chỉ làm tăng độ chính xác cho một quy trình vốn dĩ đã khả thi ngay cả khi không được biểu diễn dưới dạng toán học - cốt lõi của quy trình này là sự phá vỡ những dữ liệu cảm giác (sense data) trực tiếp của chúng ta và thay thế sự miêu tả dưới dạng các chất liệu cảm giác bằng sự miêu tả dưói dạng các phần tử mà thay vì chứa các tính chất lại là các mối quan hệ lẫn nhau thuần túy. Nó là một phần cần thiết trong nỗ lực chung để giải thoát con người khỏi bức tranh hiện có về tự nhiên, để thay thế hệ
thống phân loại dựa trên cảm giác thông thường bằng một hệ thống mới dựa trên các mối quan hệ được thiết lập thông qua quá trình kiểm nghiệm và thí nghiệm có hệ thống.
Trở lại với kết luận tổng quát mà chúng ta đã đưa ra: thế giới mà Khoa-Học quan tâm tới không phải là thế giới của các khái niệm hiện có hay thậm chí các cảm nhận hiện có. Mục đích của nó là xây dựng một cách phân loại mới cho tất cả những kinh nghiệm của chúng ta về thế giới bên ngoài. Và để làm được như vậy, nó không chỉ phải tái dựng những khái niệm mà còn phải thoát khỏi các chất liệu cảm giác và thay thế chúng bằng một hệ thống phân loại mới các sự kiện. Đối với Khoa-Học, bức tranh mà con người có về thế giới và giúp con người định hướng trong cuộc sống hằng ngày - những nhận thức và khái niệm - không phải là đối tượng nghiên cứu mà là một công cụ chưa hoàn chỉnh cần phải hoàn thiện. Khoa-Học cũng không quan tâm tới mối quan hệ giữa con người với các sự vật, hiểu theo nghĩa sự nhìn nhận hiện tại của con người về thế giới dẫn anh ta đến hành động. [Đối với Khoa-Học), đấy là một mối quan hệ, đơn giản thế thôi, hoặc chính xác hơn, là một quá trình thay đổi không ngừng nghỉ các mối quan hệ này. Khi một nhà khoa học nhấn mạnh rằng anh ta nghiên cứu các sự thật khách quan, anh ta muốn nói anh ta đang nghiên cứu những thứ độc lập với những gì mà thiên hạ nghĩ hay quan tâm đến chúng. Đối với nhà khoa học, quan điểm của người khác về thế giới bên ngoài luôn là một điều cần phải bỏ qua.
Vậy đâu là những hậu quả của việc con người nhận thức về thế giới và về mọi người xung quanh thông qua các cảm nhận và các khái niệm được tổ chức theo một cấu trúc tư duy quen thuộc với tất cả mọi người? Chúng ta có thể nói gì về toàn thể mạng lưới các hoạt động được con người tiến hành dựa theo những hiểu biết mình có, những hiểu biết mà đa phần đều luôn quen thuộc với tất
cả mọi người? Trong khi Khoa-Học luôn bận rộn chỉnh sửa bức tranh mà con người nhận thức về thế giới bên ngoài và chỉ coi bức tranh đó là nhất thời, thì vẫn còn đấy một chủ đề không kém phần quan trọng mà nó bỏ qua. Đó là việc giải thích nguyên nhân và hệ quả của cái thực tế rằng con người mang trong mình một bức tranh nhận thức nhất định, và rằng bức tranh nhận thức của tất cả những sinh vật mà chúng ta nhìn nhận là những con người có tư duy, những sinh vật mà chúng ta có thể hiểu được, ở một chừng mực nhất định, là một bức tranh cùng thể loại. Tới thời điểm giả tưởng khi Khoa-Học đã hoàn tất những công việc của mình và không để lại một sự mơ hồ nào dù là nhỏ nhất về những điều con người có trách nhiệm phải tư duy, thì những hiện tượng tâm trí vẫn còn đó, không chỉ bao gồm những dữ liệu cần phải làm sáng tỏ, mà còn cả những dữ liệu dùng để giải thích những hành động của con người vốn được dẫn dắt bởi những hiện tượng tâm trí đó. Ở đây xuất hiện một tập hợp các vấn đề mà nhà Khoa-Học không trực tiếp giải quyết. Và rõ ràng là các phương pháp nghiên cứu quen thuộc đối với nhà Khoa-Học không còn thích hợp để giải quyết những vấn đề này. Câu hỏi ở đây không phải là bức tranh nhận thức của con người về thế giới bên ngoài tương thích với các sự thật như thế nào mà là: làm thế nào, bằng những hành động xuất phát từ quan niệm và suy nghĩ của chính mình, con người xây dựng được một thế giới khác trong đó mỗi cá nhân là một bộ phận. Khi nói “xuất phát từ quan niệm và suy nghĩ của chính mình” chúng ta không hàm ý chỉ nói đến hiểu biết của con người về thế giới bên ngoài. Chúng ta muốn nói đến tất cả những thứ mà mọi người biết và tin tưởng về chính mình, về người khác, và về thế giới xung quanh, tóm lại là tất cả những hiểu biết và niềm tin về tất cả những gì quyết định hành động của con người, trong đó bao gồm cả bản thân khoa học.
Đây là lĩnh vực nghiên cứu của khoa học xã hội hoặc “các ngành khoa học luân lí”.
3
ĐẶC TÍNH CHỦ QUAN CỦA DỮ LIỆU
TRONG CÁC NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI
Trước khi tiến hành xem xét ảnh hưởng của chủ nghĩa duy khoa học đối với nghiên cứu xã hội, sẽ thiết thực nếu chúng ta khảo lược đôi chút đối tượng đặc thù và các phương pháp nghiên cứu xã hội. Các nghiên cứu xã hội không giải quyết các mối quan hệ giữa vật với vật, mà là giữa người với vật hoặc người với người. Chúng liên quan đến các hành động của con người và mục tiêu của chúng là giải thích các kết quả không định trước hoặc không được thiết kế từ trước nảy sinh từ các hành động của nhiều người.
Tuy nhiên, không phải tất cả chuyên ngành liên quan đến đời sống của con người trong cộng đồng đều quan tâm đến các vấn đề thực sự khác biệt so với các vấn đề của lĩnh vực khoa học tự nhiên. Sự lan tràn các bệnh dịch hiển nhiên là một vấn đề rất gần gũi với đời sống của con người trong xã hội và dù thế việc nghiên cứu nó chẳng mang đặc điểm đặc biệt nào của lĩnh vực khoa học xã hội theo nghĩa hẹp của từ này. Tương tự việc nghiên cứu di truyền, hay việc nghiên cứu dinh dưỡng, hoặc việc tìm hiểu các thay đổi về số lượng hoặc thành phần tuổi tác dân số, không khác nhiều lắm so với các nghiên cứu tương tự trên động vật[24]. Và điều này cũng đúng đối với các nhóm ngành như nhân chủng học hay dân tộc học chừng nào chúng còn chỉ liến quan đến các tính chất vật lí của con người. Nói một cách khác, tồn tại những ngành khoa học tự nhiên
về con người mà không nhất thiết phải đương đầu với các vấn đề không thể nào giải quyết nổi nếu vẫn sử dụng phương pháp của khoa học tự nhiên. Chừng nào chúng ta vẫn chỉ đề cập đến hiện tượng phản xạ vô thức hoặc các quá trình trong cơ thể con người thì chúng ta vẫn sẽ không vấp phải trở ngại nào khi xem xét và tìm hiểu chúng một cách “cơ học” như là những thứ hình thành bởi các sự kiện bên ngoài có thể quan sát khách quan. Chúng xảy ra mà không liên quan gì tới kiến thức của người đang bị quan sát và nằm ngoài khả năng khống chế của người đó; và các điều kiện hình thành chúng có thể thiết lập được bằng các quan sát từ bên ngoài mà không cần phải truy xét tới giả thiết rằng liệu người bị quan sát có phân loại các kích thích bên ngoài theo cách thức nào đó khác với cách mà chúng được định nghĩa dưới các góc độ thuần túy vật lí hay không.
Nhóm các ngành khoa học xã hội theo nghĩa hẹp, nghĩa là những ngành trước đây được xem là các ngành khoa học về luân lí[25], quan tâm tới các hành động có ý thức hay có tư duy của con người, các hành động mà một người phải quyết định lựa chọn giữa nhiều cách thức khác nhau đang mở ra trước mắt anh ta, và ở đây tình huống thực sự khác hẳn. Loại kích thích bên ngoài mà chúng ta có thể coi là nguyên nhân hay duyên cớ dẫn đến các hành động đó tất nhiên cũng có thể được định nghĩa dưới các góc độ thuần túy vật lí. Nhưng giả dụ chúng ta cố gắng làm như vậy vì mục đích giải thích hành động con người, chúng ta đã tự trói buộc mình vào trong khuôn khổ mà đáng lẽ chúng ta có thể biết nhiều hơn thế về hành động con người, vấn đề không phải là bởi vì chúng ta phát hiện thấy có hai sự vật có hành vi như nhau trong mối quan hệ với các sự vật khác, mà bởi vì chúng xuất hiện như nhau đối với chúng ta, nên chúng ta mong muốn chúng xuất hiện như nhau đối với những người khác. Chúng ta biết rằng thiên hạ sẽ phản ứng theo
cùng cách thức đối với các kích thích bên ngoài vốn được xem là khác nhau dựa theo tất cả các kiểm nghiệm khách quan, và có lẽ cũng vậy họ sẽ phản ứng theo một cách thức hoàn toàn khác với một kích thích giống nhau về mặt vật lí nếu nó tác động tới cơ thể của họ trong các hoàn cảnh khác nhau hoặc tại một thòi điểm khác. Nói cách khác, chúng ta biết được cách thức mà một người dùng để phân loại các kích thích bên ngoài trong các quyết định có ý thức của mình thuần túy là nhờ kinh nghiệm chủ quan của chúng ta về cách thức phân loại này. Chúng ta giả định trước rằng những người khác phân loại sự vật này giống hay khác sự vật khác theo cùng cách thức như của chúng ta mặc dù không có kiểm nghiệm khách quan, không có tri thức về các mối quan hệ giữa những sự vật này với những bộ phận khác của thế giới bên ngoài chứng thực điều này. Phương pháp tiếp cận của chúng ta được dựa trên cái kinh nghiệm rằng những người khác, theo lẽ thường, phân loại các ấn tượng cảm giác của họ giống như chúng ta tiến hành (mặc dù không phải luôn như vậy - ví dụ, nếu họ không mù màu hay điên khùng).
Nhưng chúng ta không chỉ biết có điều này thôi. Chắc chắn chúng ta sẽ không thể giải thích hay hiểu được hành động con người nếu như không sử dụng loại tri thức này. Mọi người trong cộng đồng có cùng kiểu hành vi đối với các sự vật, không phải bởi vì những sự vật đó giống nhau về mặt vật lí, mà bởi vì họ đã học được cách phân loại chúng vào cùng loại nhóm, bởi vì họ có thể sử dụng chúng theo cùng một cách thức hay mong đợi từ chúng cái điều mà đối với cộng đồng sẽ là một kết quả tương đương. Trên thực tế, hầu hết các đối tượng của hành động xã hội hay con người không phải là các “sự thật khách quan” theo nghĩa đặc biệt hẹp vốn được sử dụng trong các ngành Khoa-Học, những thứ đối nghịch với các “ý kiến”, và chúng cũng không thể nào được định
nghĩa dưới các góc độ thuần túy vật lí. Chừng nào chúng ta còn quan tâm tới các hành động con người, thì các sự vật là những thứ mà những người đang hành động nghĩ rằng chúng là như thế.
Tốt nhất chúng ta minh họa điều này qua một ví dụ - một đối tượng bất kì nào đó của hành động con người. Hãy xem xét một khái niệm, chẳng hạn khái niệm “dụng cụ” hay “công cụ”, hay về bất kì một dụng cụ cụ thể nào, chẳng hạn một cái búa hay một cái phong vũ biểu. Dễ thấy là những khái niệm này không thể diễn giải được dưới dạng “các sự thật khách quan”, nghĩa là thành các thứ không liên quan gì tới điều mà mọi người hình dung về chúng. Phân tích logic cẩn thận những khái niệm này sẽ thấy là tất cả chúng biểu tả các mối quan hệ giữa những thành phần khác nhau (ít nhất là ba): thứ nhất là người đang hành động hoặc suy nghĩ, thứ đến là ảnh hưởng mong đợi hoặc tưởng tượng đến, và thứ ba là vật thể theo nghĩa thông thường. Nếu người đọc cố gắng đưa ra một định nghĩa anh ta sẽ sớm thấy là mình không thể đưa ra một thứ gì mà không sử dụng một thuật ngữ nào đó như “thích hợp để” hay “nhằm mục đích để” hay một loại cách thức biểu tả nào đó liên quan đến việc sử dụng vì mục đích mà một ai đó đề ra[26]. Và một định nghĩa mà phải bao quát tất cả các phần tử của một nhóm nhất định nào đó sẽ không chứa đựng bất kì liên hệ nào đến bản chất, hay hình dạng, hay một tính chất vật lí khác nào đó của nó. Một cái búa thông thường và một cái búa máy, hoặc một cái phong vũ biểu dùng cột nước hay một cái phong vũ biểu dùng thủy ngân, chả có gì chung ngoài mục đích sử dụng của chúng[27] do con người nghĩ ra.
Đồng ý rằng đây đơn thuần chỉ là những ví dụ về các quá trình trừu tượng hóa để tạo ra các thuật ngữ phổ quát, tương tự quá trình tạo thuật ngữ trong các ngành khoa học tự nhiên. Nhưng điểm mấu chốt ở đây là: chúng là các khái niệm được trừu tượng
hóa tách khỏi toàn bộ các tính chất vật lí của sự vật đang xem xét, và do đó các định nghĩa về chúng hoàn toàn nói về các tâm thái (mental attitutes) của con người đối với các sự vật. Sự khác biệt sâu sắc giữa hai cách nhìn về các sự vật sẽ trở nên rõ ràng nếu chúng ta liên tưởng, ví dụ, đến công việc của nhà khảo cổ học, người đang cố gắng xác định liệu cái trông tựa một dụng cụ đồ đá có thực sự là một sản phẩm “nhân tạo”, hay đơn thuần chỉ là một sản phẩm tự nhiên mà ngẫu nhiên con người có được. Không có cách nào xác định được điều này ngoại trừ việc cố gắng tìm hiểu cơ chế hoạt động của tâm trí người tiền sử, một nỗ lực tìm hiểu cách thức mà người tiền sử có lẽ sử dụng để tạo ra một dụng cụ như thế. Nếu chúng ta thấy khó khăn trong việc nhận ra rằng đây là điều mà chúng ta thực sự làm trong các trường hợp như thế và rằng chúng ta nhất thiết phải tin tưởng vào hiểu biết của chính mình về cơ chế hoạt động của tâm trí con người, thì điều này chủ yếu là bởi vì tính bất khả của việc tưởng tượng ra một người quan sát mà lại không sở hữu một tâm trí con người và diễn giải điều anh ta thấy bằng chính suy nghĩ của anh ta.
Để làm sáng tỏ sự khác biệt giữa phương pháp nghiên cứu của lĩnh vực khoa học tự nhiên và của lĩnh vực khoa học xã hội tốt nhất nên gọi cách tiếp cận của nhóm đầu là “khách quan” còn của nhóm sau là “chủ quan”. Dù thế các thuật ngữ này vẫn còn khá mơ hồ và có thể gây ra nhầm lẫn nếu không được làm rõ thêm. Trong khi đối với nhà khoa học tự nhiên, thì sự đối lập giữa các sự thật khách quan và các ý kiến chủ quan trở nên quá rõ ràng, thì điều này lại không phải là như vậy đối với đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội. Lí do của điều này là đối tượng hoặc “sự thật” của các ngành khoa học xã hội cũng chính là các ý kiến - tất nhiên không phải là các ý kiến của người nghiên cứu các hiện tượng xã hội mà là ý kiến của những người có hành động hình
thành nên đối tượng nghiên cứu của nhà khoa học xã hội. Do vậy, một mặt các sự thật của nhà khoa học xã hội có ít tính “chủ quan” giống như các sự thật của các ngành khoa học tự nhiên, bởi vì chúng độc lập đối với nhà nghiên cứu; đối tượng mà anh ta nghiên cứu không do sự võ đoán hay sự tưởng tượng của anh nặn ra mà là đã có sẵn để cho những người khác nhau quan sát. Nhưng mặt khác khi chúng ta phân biệt giữa sự thật và ý kiến thì các sự thật của các ngành khoa học xã hội thuần túy chỉ là các ý kiến, quan điểm của những người gây ra các hành động mà chúng ta nghiên cứu. Chúng khác với sự thật của các nhóm ngành vật lí vì chúng là niềm tin hay ý kiến của những con người cụ thể; những niềm tin như thế là dữ liệu của chúng ta, bất kể việc chúng đúng hay sai, và hơn thế nữa chúng là cái ở bên trong tâm trí của những người đó và chúng ta không thể nào quan sát trực tiếp được, nhưng chúng ta lại có thể nhận biết và diễn tả được hành động của họ đơn giản là vì bản thân chúng ta cũng có một tâm trí tương tự họ.
Việc chúng ta đối nghịch giữa phương pháp theo chủ quan luận trong nhóm ngành khoa học xã hội và phương pháp theo khách quan luận trong nhóm ngành khoa học tự nhiên chỉ nhằm mục đích cho thấy nhóm ngành đầu tiên trên hết giải quyết các hiện tượng liên quan đến tâm trí cá nhân, hay các hiện tượng về tâm trí (mental phenomena), và không liên quan trực tiếp tới các hiện tượng vật chất. Các hiện tượng mà nhóm ngành này xem xét có thể hiểu được là bởi vì đối tượng nghiên cứu của chúng ta mang một tâm trí có cấu trúc tương tự với cấu trúc tâm trí của chúng ta. Đấy là một sự thật có ý nghĩa thực nghiệm chẳng thua kém gì việc chúng ta có thể hiểu biết về thế giới bên ngoài. Nó được minh chứng không chỉ đơn thuần bởi khả năng giao tiếp giữa người với nhau - chúng ta vận dụng loại tri thức này bất kể khi nào chúng ta nói hoặc viết; nó còn được xác nhận bởi những kết quả mĩ mãn có
được từ những nghiên cứu của chúng ta về thế giới bên ngoài. Cho tới chừng nào vẫn còn kiểu giả thiết ngây thơ rằng tất cả các chất liệu cảm giác (hay các mối quan hệ giữa chúng) mà những con người khác nhau có nói chung đều là các thuộc tính của thế giới bên ngoài, thì vẫn còn thứ lí lẽ cho rằng hiểu biết của chúng ta về các tâm trí [cá nhân] khác không có gì khác hơn hiểu biết chung của chúng ta về thế giới bến ngoài. Nhưng một khi chúng ta đã ý thức được là các giác quan của chúng ta tạo cho chúng ta cảm giác những sự vật xuất hiện trước chúng ta giống nhau hay khác nhau chỉ chứng tỏ một điều là chúng giống nhau hay khác nhau chẳng phải là từ các mối quan hệ từ bản thân chúng, mà là từ cách thức mà chúng tác động đến các giác quan của chúng ta, thì đây là một sự thực quan trọng có được từ kinh nghiệm về việc con người phân loại các kích thích bên ngoài theo một cách thức nhất định như thế nào. Trong khi các chất liệu cảm giác biến mất khỏi bức tranh khoa học về thế giới bên ngoài, chúng bắt buộc phải có một chỗ trong bức tranh khoa học của chúng ta về tâm trí người. Trên thực tế, việc loại bỏ các chất liệu cảm giác khỏi bức tranh của chúng ta về thế giới bên ngoài không có nghĩa là những chất liệu cảm giác đó thôi không còn “tồn tại”, mà là khi chúng ta nghiên cứu các chất liệu [cảm giác] thay vì nghiên cứu thế giới vật chất, chúng ta nghiến cứu tấm trí con người.
Trong một số trường hợp nhất định, chẳng hạn khi chúng ta phân biệt giữa các thuộc tính “khách quan” của các sự vật, những thuộc tính tự minh định trong các mối quan hệ lẫn nhau giữa các sự vật, và các thuộc tính đơn thuần được con người gán cho chúng, thì có lẽ là thích hợp hơn nếu chúng ta tạo cặp tương phản giữa “khách quan” (objective) với “được gán” (attributed), thay vì sử dụng thuật ngữ mơ hồ “chủ quan”. Tuy nhiên, từ được gán có mức độ sử dụng bị hạn chế. Có một số lí do giải thích cho tính tiện lợi
của việc tại sao vẫn duy trì cặp thuật ngữ chủ quan và khách quan để thể hiện sự tương phản như chúng ta đã trình bày ở trên, dù là xét đến cùng thì chúng vẫn mang trong mình mầm mống dẫn đến sự hiểu nhầm. Thứ nhất, hầu hết các thuật ngữ khác, như thuộc tâm trí (mental) và thuộc vật chất (material), đều mang trong mình một gánh nặng, thậm chí còn tồi dở hơn, của những thứ dính líu đến siêu hình. Thứ nữa, ít nhất trong kinh tế học[28]thuật ngữ chủ quan đã được sử dụng từ lâu một cách chính xác theo nghĩa mà chúng ta sử dụng ở đấy. Và, điều quan trọng hơn cả là thuật ngữ tính chủ quan nhấn mạnh tới một khía cạnh quan trọng khác mà chúng ta sẽ vẫn phải đề cập tới: đó là tri thức và niềm tin của những người khác nhau, trong khi chứa đựng cấu trúc tâm trí chung giúp cho con người có khả năng giao tiếp được với nhau, vẫn khác nhau và thường đối nghịch nhau trên nhiều khía cạnh. Giá như chúng ta có thể giả thiết được là tri thức và niềm tin của những con người khác nhau là đồng nhất, hoặc giá như chúng ta chỉ đề cập tới một tâm trí đơn lẻ, thì chẳng thành vấn đề khi chúng ta mô tả một cái gì đó như là một sự thật “khách quan” hay như một hiện tượng chủ quan. Nhưng tri thức cụ thể chi phối hành động của một nhóm người nào đó không bao giờ tồn tại ở dạng một thể nhất quán và cố kết. Nó chỉ tồn tại dưới hình thức phân tán, không hoàn chỉnh và phi nhất quán, hiện diện trong tâm trí của các cá nhân. Tính phân tán và tính không hoàn thiện của mọi tri thức là hai thực tế cơ bản, làm điểm khởi đầu cho nhóm các ngành khoa học xã hội. Điều mà các triết gia và nhà logic học coi là một khiếm khuyết “bẩm sinh” (“mere” imperfection) của tâm trí con người và thường tìm cách loại bỏ lại trở thành một sự thật cơ bản, đóng vai trò hết sức quan trọng trong nhóm các ngành khoa học xã hội. Rồi chúng ta sẽ thấy, quan điểm của những người theo “tuyệt đối luận” (absolutlist) đối nghịch là nguồn gốc tạo ra các lỗi lầm
dai dẳng trong nhóm các ngành xã hội học như thế nào khi họ xem tri thức, đặc biệt là tri thức cụ thể về các hoàn cảnh, cứ như là được cho sẵn một cách “khách quan”, nghĩa là cứ như thể tri thức là giống nhau với hết thảy mọi người.
Các khái niệm “dụng cụ” hay “công cụ” mà chúng ta sử dụng trước đây để minh họa các đối tượng của hành động con người có thể cũng tương xứng với các ví dụ tương tự trong các nhánh nghiên cứu khoa học xã hội khác. Một “từ” hay một “câu”, một “tội ác” hay một “hình phạt”[29] dĩ nhiên không phải là những sự thật khách quan theo nghĩa chúng ta không thể định nghĩa chúng nếu như không dựa trên hiểu biết của chúng ta về các ý định của con người về chúng. Và luận điểm này nói chung hoàn toàn đúng bất cứ khi nào chúng ta phải giải thích hành vi của con người hưởng tới những sự vật; những sự vật này bắt buộc phải được định nghĩa dưới góc độ mô tả người đang hành động suy nghĩ về chúng thay vì dưới góc độ thuần túy xuất phát từ các phương pháp khách quan của Khoa-Học. Ví dụ, một vị thuốc hay một loại mĩ phẩm dưới góc độ nghiên cứu xã hội không phải là thứ chữa trị bệnh tật hay làm tôn vẻ đẹp mà là cái thiên hạ nghĩ sẽ gây ra hiệu ứng đó. Bất kì tri thức nào chúng ta chẳng may có được về bản chất thật sự của sự vật, nhưng lại không được sở hữu bởi những con người có loại hành động [liên quan đến những sự vật đó mà chúng ta muốn giải thích, sẽ chẳng mấy hữu ích cho việc giải thích các hành động của họ. Điều này cũng tương tự sự hoài nghi cá nhân của chúng ta về tính hiệu quả của một phép yêu thuật khi chúng ta muốn tìm hiểu hành vi của bộ tộc hoang dã vẫn còn tin vào điều đó. Trong quá trình nghiên cứu xã hội đương đại, nếu “các quy luật tự nhiên” mà chúng ta phải sử dụng như là mốc căn cứ (datum) do chúng tác động tới các hành động của con người gần giống với những quy luật được phát hiện trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học tự nhiên, thì, với chúng ta, đây chỉ là một điều tình cờ và chúng ta không được phép để sự tình cờ này che mắt khiến cho không nhận thấy cái đặc điểm khác biệt giữa các quy luật này trong hai lĩnh vực. Điều cần quan tâm trong nghiên cứu xã hội không phải là liệu những quy luật tự nhiên này đúng theo một nghĩa khách quan nào đó, mà chỉ là liệu những người hành động có tin vào chúng hay không. Nếu tri thức “khoa học” hiện hành của xã hội mà chúng ta nghiên cứu bao gồm cả niềm tin rằng việc trồng trọt sẽ chẳng đem lại hoa lộc gì cho tới khi tiến hành các lễ cầu siêu, thì loại tri thức này cũng quan trọng với chúng ta chẳng kém gì bất kì quy luật tự nhiên nào mà tới nay chúng ta tin tưởng là đúng. Và tất cả “các quy luật vật lí về sản xuất” (physical laws of production) mà chúng ta gặp phải, chẳng hạn trong kinh tế học, chẳng phải là các quy luật vật lí trong các ngành khoa học vật lí, mà là những niềm tin của thiên hạ về điều mà họ có thể làm.
Điều mà đúng cho các mối quan hệ giữa người với vật tất nhiên còn đúng hơn nữa cho mối quan hệ giữa người với người vốn là cái mà vì các mục đích của nghiên cứu xã hội không thể định nghĩa được dưới dạng khách quan như trong nhóm các ngành khoa học vật lí mà chỉ dưới dạng niềm tin của con người. Ngay cả mối quan hệ tưởng như thuần túy sinh học, chẳng hạn như giữa cha mẹ và con cái, cũng không thể định nghĩa được dưới góc độ thuần túy vật lí trong nghiên cứu xã hội và cũng không thể nào làm thế được vì mục đích của chính những người tham gia vào mối quan hệ này: việc niềm tin của họ, rằng một đứa trẻ cụ thể là máu mủ của họ, là đúng hay sai [dưới góc độ sinh học] chẳng ảnh hưởng gì đến các hành động của họ.
Tất cả điều này được thể hiện rõ nhất trong kinh tế học - một ngành khoa học xã hội có hệ thống lí thuyết phát triển nhất. Và có lẽ không quá chút nào khi nói rằng mọi tiến bộ quan trọng nhất
của lí thuyết kinh tế trong vòng một trăm năm qua đều là sự kế thừa truyền thống áp dụng nhất quán chủ quan luận[30]. Việc các đối tượng của hoạt động kinh tế không thể định nghĩa được dưới dạng khách quan mà chỉ liên quan tới chủ đích con người là một điều không phải bàn cãi. Chẳng thể định nghĩa được một “hàng hóa” hay một “mặt hàng kinh tế”, “thực phẩm” hay “tiền tệ” dưới góc độ vật lí mà chỉ có thể dưới góc độ những quan điểm của những người bận tâm đến chúng. Lí thuyết kinh tế chẳng có gì để nói về những mảnh kim loại tròn nhỏ như cách mà một người theo chủ nghĩa duy vật hay khách quan luận cố gắng định nghĩa tiền tệ. Nó cũng chẳng liên quan gì đến sắt hay thép, gỗ hay dầu hỏa, hoặc lúa mạch hay những quả trứng hoặc những thứ tương tự. Thực ra khi xem xét lịch sử của bất kì một loại hàng hóa cụ thể nào chúng ta đều thấy là khi tri thức con người thay đổi thì cùng một vật liệu có thể thuộc về những nhóm hàng hóa khác hẳn nhau. Chúng ta cũng không thể phân biệt được, dưói góc độ vật lí, phải chăng hai người đang tiến hành trao đổi hàng hóa hay đang chơi một trò chơi hay thực hiện một nghi lễ tôn giáo nào đó. Trừ phi chúng ta có thể hiểu được điều mà những người đang hành động muốn thể hiện qua các hành động của họ, bất kì nỗ lực nào để giải thích các hành động đó, nghĩa là sắp xếp chúng theo các quy tắc mà theo đó các tình huống tương tự được gắn với các hành vi tương tự, sẽ thất bại[31].
Đặc tính chủ quan có tính bản thể của toàn bộ lí thuyết kinh tế - chuyên ngành rõ ràng là đã phát triển hơn rất nhiều so với các chuyên ngành khoa học xã hội khác[32], nhưng tôi vẫn tin rằng đây là đặc điểm chung của tất cả các nhóm ngành khoa học xã hội theo nghĩa hẹp - sẽ trở nên rõ nét qua một minh họa tường tận về một trong những định lí đơn giản nhất, chẳng hạn, “quy luật về tiền thuê” (“the law of rent”). Khởi thủy, đây là một định đề về những thay đổi giá trị của một sự vật được định nghĩa dưới góc độ vật lí,
với cái tên đất đai. Theo định đề này[33], những thay đổi về giá trị của các hàng hóa trong quá trình sản xuất cần sử dụng đất đai sẽ dẫn đến những thay đổi về giá trị của đất đai lớn hơn nhiều so với giá trị của các yếu tố sản xuất cần thiết khác. Dưới hình thức này, nó là một định đề thực nghiệm được tổng quát hóa nhưng không cho chúng ta biết tại sao cũng như dưới các điều kiện nào thì nó sẽ đúng. Trong kinh tế học hiện đại, định đề này được thay thế bằng hai định đề riêng rẽ liên quan đến các khía cạnh khác nhau nhưng khi kết hợp lại thì cùng dẫn đến một kết luận. Một định đề thuộc về lí thuyết kinh tế thuần túy cho rằng: trong bất cứ quá trình sản xuất một loại hàng hóa nào mà đòi hỏi các yếu tố sản xuất (khan hiếm) khác nhau theo các tỉ lệ có thể biến đổi được nhưng có một yếu tố chỉ có thể sử dụng cho mục đích sản xuất hàng hóa đó (hoặc chỉ cho một vài mục đích khác trên cơ sở so sánh tương đối) trong khi các yếu tố khác có phạm vi sử dụng rộng rãi hơn, thì một sự thay đổi về giá trị của hàng hóa đó sẽ tác động đến giá trị của yếu tố chuyên dụng mạnh hơn so với giá trị của các yếu tố khác. Định đề thứ hai là một phát biểu thực nghiệm, rằng đất đai, như một thông lệ, là yếu tố thuộc nhóm thứ nhất, nghĩa là, con người biết nhiều cách sử dụng lao động của họ hơn là đối với một mảnh đất cụ thể nào đó. Định đề đầu tiên, giống như mọi định đề của lí thuyết kinh tế thuần túy, là một mệnh đề ngụ ý về những thái độ nhất định của con người đối với các sự vật, và dưới dạng như thế, nó nhất thiết phải đúng cho mọi thời điểm và ở mọi nơi. Định đề thứ hai là một khẳng định rằng các điều kiện nêu ra trong định đề đầu xuất hiện tại một thời điểm xác định và liên quan đến một mảnh đất cụ thể, bởi vì những người liên quan đến mảnh đất có những niềm tin nhất định về tính hữu ích của mảnh đất và tính hữu ích của các thứ khác cần thiết để vun xới nó. Như là một định đề thực nghiệm được tổng quát hóa, tất nhiên là nó có thể bị phản chứng
và sẽ bị phản chứng thường xuyên. Ví dụ, nếu một mảnh đất được sử dụng để trồng một loại hoa màu nào đó mà việc chăm sóc nó đòi hỏi một loại kĩ năng đặc biệt, thì ảnh hưởng của việc giảm cầu đối với loại hoa màu đó có thể làm giảm chỉ các mức lương của những người có kĩ năng đặc biệt đó, trong khi giá trị của mảnh đất có lẽ không bị ảnh hưởng gì trên thực tế. Trong một tình huống kiểu như thế thì lao động có lẽ lại là yếu tố mà “quy luật về tiền thuê” ứng vào. Nhưng khi chúng ta đặt câu hỏi tại sao, hay bằng cách nào chúng ta có thể biết được trong trường hợp cụ thể nào thì quy luật về tiền thuê sẽ ứng vào thì chẳng có thông tin nào về các tính chất vật lí của mảnh đất, loại lao động, hay của dạng sản phẩm giúp chúng ta tìm được câu trả lời. Nó phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan được phát biểu trong quy luật về tiền thuê trên phương diện thuần túy lí thuyết; và chỉ tới chừng nào chúng ta có thể biết được đâu là tri thức và niềm tin của những người trong cuộc thì chúng ta mới có thể tiên đoán được rằng thông qua cách thức nào một sự thay đổi về mức giá của sản phẩm sẽ ảnh hưởng tới các mức giá của các yếu tố sản xuất. Điều đúng trong lí thuyết về tiền thuê cũng đúng cho lí thuyết về giá cả nói chung: nó chẳng đề cập gì tới hành vi giá cả của sắt hay len dạ, của những sự vật có các thuộc tính vật lí như thế này như thế kia, mà chỉ liên quan tới những thứ mà con người mang niềm tin nhất định nào đó về chúng và họ muốn sử dụng chúng theo một cách thức nhất định nào đó. Và do đó, chỉ có lượng tri thức bổ sung về điều mà những người trong cuộc có quan hệ với sản phẩm đó nghĩ về nó, chứ không phải là bất kì lượng tri thức bổ sung nào mà chúng ta (người quan sát) có được về sản phẩm đó mới ảnh hưởng tới giả thiết của chúng ta về một hiện tượng giá cả nhất định.
Chúng tôi không có điều kiện tiếp tục sử dụng cách tương tự để bàn luận các hiện tượng phức tạp hơn mà lí thuyết kinh tế quan
tâm đến, nơi có sự phát triển trong những năm gần đây gắn liền với tiến bộ của chủ quan luận. Chúng tôi chỉ có thể chỉ ra những vấn đề mới, đang trở thành trung tâm của sự chú ý, chẳng hạn vấn đề về tính tương hợp giữa các ý định và các kì vọng của những người khác nhau, vấn đề về sự phân hữu tri thức giữa họ, và vấn đề về quá trình tiếp nhận tri thức hữu quan cũng như quá trình hình thành các kì vọng[34]. Tuy thế, ở đây chúng tôi không quan tâm tới các vấn đề cụ thể của kinh tế học, mà chỉ tới đặc tính chung của tất cả các ngành có liên quan đến các kết quả hình thành bởi hành động có ý thức của con người. Những điểm mà chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là trong tất cả các hướng nghiên cứu xã hội thì chúng ta bắt buộc phải khởi đầu từ cái mà con người suy nghĩ và gán cho ý nghĩa để hành động: từ thực tế là các cá nhân hợp thành xã hội định hướng các hành động của họ bằng một hệ thống phân loại các sự vật hay các sự kiện dựa theo một hệ thống các chất liệu cảm giác và các khái niệm vốn có một cấu trúc chung và chúng ta hiểu biết được hệ thống đó là vì chúng ta đều là con người; và từ thực tế là tri thức cụ thể mà những cá nhân khác nhau sở hữu khác nhau trên nhiều khía cạnh. Không phải chỉ hành động của con người hướng tới các đối tượng bên ngoài, mà còn cả các mối quan hệ giữa con người với nhau cũng như tất cả các thể chế xã hội, là những thứ mà chúng ta chỉ có thể hiểu được dựa trên điều mà người trong cuộc nghĩ về chúng. Xã hội như chúng ta biết về nó, nếu có thể nói như vậy, được tạo dựng từ các khái niệm và các ý tưởng có được từ những người trong cuộc; và các hiện tượng xã hội mà chúng ta có thể nhận ra được và có ý nghĩa đối với chúng ta chỉ khi chúng hiện hữu trong tâm trí của họ.
Cấu trúc tâm trí con người - một nguyên lí chung dựa vào đó con người phân loại các sự kiện bên ngoài - cung cấp cho chúng ta loại tri thức về các phần tử có tính định kì. Đây là các phần tử
được sử dụng làm chất liệu để xây dựng các cấu trúc xã hội khác nhau và dựa trên chỉ các phần tử này chúng ta mới có thể mô tả và giải thích được các cấu trúc xã hội[35]. Dẫu là trong khi các khái niệm hay ý tưởng chỉ có thể tồn tại được bên trong tâm trí các cá nhân, và cụ thể là trong khi chỉ ở bên trong tâm trí các cá nhân thì các ý tưởng này mới có thể xuất hiện trên cơ sở các ý tưởng khác, thì không phải là tổng thể toàn bộ tâm trí các cá nhân với toàn bộ tính phức tạp của chúng, mà chỉ là các quan niệm cá nhân, các quan niệm mà mọi người nghĩ về nhau và về các sự vật, là những thứ hình thành nên các phần tử thực thụ cấu thành cấu trúc xã hội. Nếu một cấu trúc xã hội vẫn được bảo toàn dù rằng tại mỗi thời điểm có các cá nhân thế chỗ nhau, thì không phải bởi vì các cá nhân thế chỗ nhau giống nhau hoàn toàn mà là bởi vì họ chỉ thay thế nhau trong các mối quan hệ cụ thể, trong các thái độ cụ thể của họ đối với người khác và trở thành đối tượng để những người khác nhìn nhận. Các cá nhân đơn thuần chỉ là foci (các tâm điểm) trong mạng lưới các mối quan hệ, còn các nhìn nhận khác nhau về nhau của các cá nhân (hay các nhìn nhận tương tự hay khác nhau của họ về các đối tượng vật lí) mới chính là cái hình thành nên các phần tử quen thuộc, có thể nhận ra được, và có tính định kì của cấu trúc xã hội. Nếu một người cảnh sát thế chỗ một vị trí của một người cảnh sát khác thì điều này không có nghĩa là người cảnh sát mới sẽ đồng nhất với người tiền nhiệm của anh ta trên mọi phương diện, mà đơn thuần chỉ là anh ta thay thế người tiền nhiệm trong một số nhìn nhận nhất định hướng tới những người đồng nghiệp và trở thành đối tượng để những người đồng nghiệp nhìn nhận lại anh ta trong cương vị là một người cảnh sát. Nhưng điều này cũng đủ để bảo tồn một phần tử không đổi thuộc cấu trúc [xã hội] và chúng ta có thể tách riêng phần tử đó ra để nghiên cứu độc lập.
Trong khi chúng ta có thể nhận ra được những phần tử chứa
đựng các mối quan hệ con người này chỉ bởi vì chúng ta biết chúng từ cơ chế hoạt động của chính tâm trí của chúng ta, thì điều này không có nghĩa là chúng ta có thể nhận ra ngay tức thì ý nghĩa của một tổ hợp các phần tử chứa đựng những mối quan hệ liên quan đến những cá nhân khác nhau theo một mô thức (pattern) cụ thể nào đó. Chỉ bằng cách theo đuổi một cách có hệ thống các tâm tư (implications) của rất nhiều người với những quan điểm nhất định, chúng ta mới có thể hiểu được, thậm chí chỉ là học được cách nhìn nhận, các kết quả không được định trước và thường là không được biết đến trước đó từ các hành động, dẫu có liên hệ qua lại với nhau nhưng vẫn riêng rẽ, của những con người trong xã hội. Từ thực tế là chỉ những cái mà thiên hạ biết hay tin tưởng mới có thể được cân nhắc trong hành động có ý thức của họ, chúng ta đi đến kết luận là: để tái dựng các mô thức các mối quan hệ xã hội khác nhau, chúng ta nhất thiết phải sử dụng các dữ liệu là các nhìn nhận về người khác và về thế giới vật chất xung quanh của những con người có các hành động mà chúng ta muốn giải thích, chứ không phải là xem xét một hành động cụ thể của một cá nhân cụ thể dựa trên các thuộc tính khách quan của những con người hay của sự vật cụ thể mà hành động của cá nhân này hướng tới.
4
PHƯƠNG PHÁP THEO CÁ THỂ LUẬN VÀ “COMPOZIT”
TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC XÃ HỘI
Tới đây, để tránh những nhầm lẫn có thể phát sinh từ nội dung trình bày ở trên, có lẽ chúng ta nên tạm rời luận điểm chính một chút. Việc chúng ta nhấn mạnh rằng bản thân các dữ liệu hay “sự thật” (facts) trong nhóm các ngành khoa học xã hội cũng là các ý tưởng hoặc các khái niệm dĩ nhiên không nên bị hiểu thành toàn bộ các khái niệm chúng ta phải xử lí trong nhóm các ngành khoa học xã hội đều mang đặc tính này. Nếu mà sự thể diễn ra như thế thì chẳng còn có chỗ cho bất kì một công trình khoa học nào; và nhóm các ngành khoa học xã hội, cũng giống như nhóm các ngành khoa học tự nhiên, có mục đích là chỉnh lí lại các khái niệm đơn giản do con người tạo thành liên quan đến các đối tượng nghiên cứu của các ngành đó và thay thế các khái niệm đơn giản này bằng những khái niệm chính xác hơn. Những khó khăn đáng kể của nhóm các ngành khoa học xã hội, và rất hay có sự nhầm lẫn về đặc điểm của chúng, xuất phát chính xác từ thực tế là trong các ngành khoa học xã hội, các ý tưởng xuất hiện dưới hai hình thức, như là một bộ phận của đối tượng nghiên cứu và như là các ý tưởng về đối tượng nghiên cứu đó, nếu có thể nói như vậy. Trong khi, trong nhóm các ngành khoa học tự nhiên, sự tương phản giữa đối tượng nghiên cứu và cách lý giải đối tượng được quy về sự phân biệt giữa
các sự thật khách quan và các ý tưởng, thì với nhóm các ngành khoa học xã hội, chúng ta nhất thiết phải phân biệt giữa những loại ý tưởng cấu thành các hiện tượng mà chúng ta muốn lí giải và các ý tưởng [hay nhận định] mà hoặc bản thân chúng ta hoặc chính những người trong cuộc (tức những người có những hành động mà chúng ta muốn giải thích) đưa ra về các hiện tượng đó; những ý tưởng [thuộc loại thứ hai] này không phải là nguyên nhân hình thành mà là các lí giải về các cấu trúc xã hội.
Khó khăn đặc thù của nhóm các ngành khoa học xã hội không đơn thuần xuất phát từ việc chúng ta phải phân biệt giữa các quan điểm của những người trong cuộc vốn đóng vai trò như là đối tượng nghiên cứu của chúng ta và các quan điểm của chúng ta về các quan điểm đó, mà còn từ thực tế là những người trong cuộc, vốn cũng là đối tượng nghiên cứu của chúng ta, không chỉ hình thành các động cơ từ những ý tưởng mà còn hình thành các ý tưởng về những kết quả không được dự định từ trước, phát sinh từ các hành động của họ - những lí giải đại chúng về các cấu trúc hay các hệ thống tổ chức xã hội (social structures or formations) mà chúng ta cũng mang trong mình như họ và là thứ mà chúng ta tìm cách chỉnh lí và sửa đổi cho phù hợp qua công việc nghiên cứu của chúng ta. Sự nguy hiểm của việc thay thế “các sự thật” bằng “các khái niệm” (hay “các lí giải”) trong nhóm các ngành khoa học xã hội và sự thất bại trong việc né tránh nó gây ra ảnh hưởng tiêu cực cho nhóm ngành này không kém gì đối với nhóm các ngành khoa học tự nhiên[36]; hơn thế, sự nguy hiểm lại biểu hiện dưới một hình thức khác hẳn và sẽ là hời hợt nếu xem đó chỉ như là sự tương phản giữa các ý tưởng và các sự thật. Sự tương phản thực sự là giữa một bên mà các ý tưởng có ở những người trong cuộc vốn đóng vai trò như các nguyên nhân hình thành một hiện tượng xã hội và bên kia là các ý tưởng mà thiên hạ nhìn nhận về hiện tượng đó. Sự
khác biệt rõ rệt giữa hai loại ý tưởng này (mặc dù trong các ngữ cảnh khác nhau, sự phân biệt có lẽ phải tiến hành theo những cách khác nhau)[37]có thể dễ dàng nhận thấy: các thay đổi quan niệm của mọi người về một hàng hóa cụ thể mà chúng ta cho là nguyên nhân dẫn đến một sự thay đổi mức giá của mặt hàng đó rõ ràng thuộc về một phạm trù khác hẳn so với các ý tưởng cũng của chính những người đó về các nguyên nhân của sự thay đổi giá cả hay về “bản chất của giá trị” nói chung. Tương tự, các niềm tin và các ý tưởng khiến cho một số người thường xuyên lặp lại những hành động nhất định, ví dụ để sản xuất, bán hay mua những lượng nhất định các mặt hàng hoàn toàn khác so với các ý tưởng mà họ nhận định về tổng thể “xã hội” hay “hệ thống kinh tế”, vốn là cái mà họ góp mặt như là thành viên và là cái được cấu thành từ sự phối hợp của toàn bộ các hành động của họ. Loại ý kiến và niềm tin thứ nhất là một điều kiện về sự tồn tại của các “tổng thể”, những cái sẽ không thể tồn tại nếu không có chúng; như chúng ta đã nói, chúng “cấu thành” và không thể thiếu đối với sự tồn tại của cái hiện tượng mà những người trong cuộc xem là “xã hội” hay “hệ thống kinh tế”, nhưng cái hiện tượng đó sẽ tồn tại bất kể những người trong cuộc có ý tưởng hay khái niệm gì về những tổng thể đó.
Điều tối quan trọng là chúng ta phải phân biệt cẩn thận giữa một bên là những ý kiến thúc đẩy hay cấu thành (motivating or constitutive opinions) [lên các tổng thể] và bên kia là những quan điểm tư biện hay lí giải (speculative or explanatory views) mà thiên hạ đưa ra về các tổng thể; sự nhầm lẫn giữa hai loại này là một trong những ngọn nguồn gây ra những tai họa dai dẳng. Phải chăng đó là thủ phạm hình thành các khái niệm có tính đại chúng về những hiện tượng tập thể như xã hội hay hệ thống kinh tế, chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc, và các thực thể tập thể tương tự - những khái niệm mà nhà khoa học xã hội cần phải nhìn nhận
chỉ như là các lí thuyết nhất thời, những sự trừu tượng hóa có tính đại chúng, và là những cái mà nhà nghiên cứu không được phép nhầm lẫn thành các sự thật? Nếu khoa học xã hội nhất quán từ bỏ việc coi những giả thể đó (pseudo-entities) là các sự thật, và nếu anh ta khởi đầu công việc nghiên cứu của mình một cách có hệ thống từ các quan niệm chi phối hành vi của các cá nhân chứ không phải từ các kết quả do các cá nhân đó nhìn nhận về hành động của họ thì nhà khoa học đó đang tuân theo đặc điểm tiêu biểu của cá thể luận về phương pháp nghiên cứu (methodological individualism), vốn có quan hệ mật thiết với chủ quan luận của nhóm các ngành khoa học xã hội. Ngược lại, rồi chúng ta sẽ dần thấy, cách tiếp cận duy khoa học, do nó sợ hãi khỏi đầu bằng [thực tế rằng] các khái niệm chủ quan quyết định hành động của cá nhân, thường xuyên dẫn đến loại sai lầm nghiêm trọng mà nó cố gắng muốn tránh: đó là việc coi những hiện tượng tập thể vốn thực ra chỉ là những khái quát hóa mang tính đại chúng là các sự thật. Việc tránh né sử dụng các quan niệm chủ quan của các cá nhân như là những dữ liệu khi chúng có thể được phân biệt, được trình bày cũng như được mô tả một cách rõ ràng và tường tận đúng như chúng hiện hữu chính là nguyên nhân khiến cho thiên hạ liên tục vướng vào chủ nghĩa duy khoa học và chấp nhận một cách ngây thơ các khái niệm tư biện, có tính đại chúng như là các sự thật xác định thuộc về chủng loại mà họ quen thuộc.
Chúng ta sẽ bàn đến bản chất của định kiến mang màu sắc của tập thể luận trong cách tiếp cận duy khoa học một cách chi tiết hơn ở chương sau.
Có một vài điểm chúng ta cần phải lưu ý thêm liên quan đến phương pháp nghiên cứu lí thuyết đặc thù của nhóm các ngành khoa học xã hội: chủ quan luận và cá thể luận về phương pháp nghiên cứu. Xuất phát từ thực tế rằng các khái niệm và quan điểm
của các cá nhân chính là cái mà chúng ta trực tiếp biết được và là cái hình thành nên các phần tử giúp chúng ta hình dung được, nếu có thể nói như vậy, các hiện tượng phức tạp hơn, chúng ta lại rút ra được một sự khác biệt quan trọng nữa giữa phương pháp luận của nhóm các ngành khoa học xã hội với nhóm các ngành khoa học tự nhiên. Đó là, đối với nhóm các ngành đầu, các thái độ của các cá nhân là những phần tử quen thuộc và thông qua việc tổng hợp các phần tử này chúng ta cố gắng tái dựng .các hiện tượng phức, vốn là những kết quả do các hành động cá nhân mang lại, những hiện tượng mà chúng ta thường rất ít biết về chúng. Quá trình tái dựng những hiện tượng phức đó thường dẫn tới việc khám phá ra các nguyên lí về sự cố kết mang tính cấu trúc của các hiện tượng phức đó - điều mà chúng ta không biết được (và có lẽ không thể biết được) từ quá trình quan sát trực tiếp. Còn đối với các nhóm ngành khoa học vật lí, chúng ta nhất thiết phải bắt đầu từ các hiện tượng phức của thiên nhiên và tiến hành theo cách ngược lại để suy luận ra các phần tử cấu thành các hiện tượng đó. Cái vị thế mà từng con người có được trong trật tự của muôn vật dẫn đến một tình huống: một mặt, những cái mà anh ta nhận biết được là các hiện tượng tương đối phức tạp, đòi hỏi anh ta phải phân tích mổ xẻ thành các chi tiết, thì mặt khác, những cái mà anh ta có sẵn lại là các phần tử dùng để hình dung các hiện tượng phức tạp hơn - những hiện tượng mà anh ta không thể quan sát chứng dưới dạng các tổng thể được[38]. Theo ý này, trong khi phương pháp mà nhóm các ngành khoa học tự nhiên áp dụng là phương pháp phân tích, thì phương pháp mà nhóm các ngành khoa học xã hội sử dụng lại là phương pháp tổng hợp hay compozit[39](compositive or synthetic). Cái mà chúng ta thường gọi là các tổng thể - các nhóm các phần tử được nối kết với nhau theo một cấu trúc nào đó - chính là những thứ mà chúng ta dần học được cách phân tách khỏi toàn thể các hiện tượng
quan sát được thông qua không gì khác hơn ngoài quá trình chắp nối một cách có hệ thống các phần tử có các thuộc tính quen thuộc lại với nhau, và chúng cũng chính là những thứ mà chúng ta tạo dựng hoặc tái dựng từ các thuộc tính đã biết của các phần tử đó.
Một điểm quan trọng mà chúng ta cần lưu ý là: nói chung bản thân các loại niềm tin hoặc thái độ khác nhau của cá nhân không phải là đối tượng phân tích của chúng ta. Chúng đơn thuần chỉ là các phần tử để từ đó chúng ta tạo dựng nên cấu trúc về các mối quan hệ khả thể giữa các cá nhân. Khi chúng ta tiến hành phân tích nhận thức của cá nhân trong nhóm các ngành khoa học xã hội thì mục đích của chúng ta không phải là giải thích nhận thức đó mà đơn thuần chỉ là việc phân biệt những nhóm khả thể các phần tử mà chúng ta sẽ phải cân nhắc sử dụng trong việc xây dựng các mô thức khác nhau của các mối quan hệ xã hội. Sẽ thật sai lầm, một phần gây ra bởi một số các phát biểu thiếu cẩn trọng của các nhà khoa học xã hội, khi mọi người tin rằng mục đích của các nhà khoa học xã hội là nhằm giải thích hành động có ý thức. Nếu muốn giải quyết ổn thỏa việc này thì đó thuộc về một lĩnh vực khác - lĩnh vực của tâm lí học. Các dạng hành động có ý thức là các dữ liệu[40] và tất cả các công việc các nhà nghiên cứu xã hội phải làm liên quan tới các dữ liệu là sắp xếp chúng lại theo một trình tự nhất định sao cho chúng có thể giải quyết nhiệm vụ của họ một cách có hiệu quả[41]. Các vấn đề mà chúng ta phải giải đáp nảy sinh chỉ trong trường hợp các hành động có ý thức của nhiều người dẫn đến các kết quả không được thiết kế một cách có chủ đích từ trước, khi những thường hiện (regularity) quan sát được không phải là kết quả của sự thiết kế của bất kì ai. Giả dụ các hiện tượng xã hội không có trật tự gì cả trừ phi chúng được thiết kế có chủ ý thì thực sự sẽ không có chỗ cho các ngành khoa học lí thuyết về xã hội và như mọi người thường tán đồng, sẽ chỉ còn các vấn đề tâm lí. Chỉ
khi có một loại trật tự nào đó xuất hiện như là kết quả của hành động cá nhân nhưng lại không được thiết kế bởi bất kì cá nhân nào thì đó mới là vấn đề đòi hỏi chúng ta phải giải thích bằng lí thuyết của khoa học xã hội. Dù cho những người mang định kiến duy khoa học vẫn thường hay khước từ sự tồn tại của bất kì loại trật tự nào như thế (và gián tiếp khước từ sự tồn tại của đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học lí thuyết về xã hội) thì vẫn còn một vài người, nếu có thể nói vậy, sẵn sàng tiến hành công việc đó một cách nhất quán với sự động viên từ một thực tế mà hầu như không ai có thể nghi ngờ: ít nhất hệ thống ngôn ngữ bộc lộ một trật tự rõ ràng và nó không phải là kết quả của bất kì một sự thiết kế có chủ đích nào.
Việc đòi hỏi nhà khoa học tự nhiên thừa nhận sự tồn tại một trật tự bên trong các hiện tượng xã hội tương tự như hệ thống ngôn ngữ là một công việc khó khăn vì những trật tự này không thể biểu diễn được dưới góc độ vật lí, vì nếu chúng ta đinh nghĩa các phần tử dưới góc độ vật lí thì không thể có một trật tự như thế hiện hữu, và vì các đơn vị [phân tích] tham gia vào việc hình thành một sắp đặt có trật tự không (hay ít nhất là không cần thiết) mang bất kì thuộc tính vật lí nào chung (trừ phi mọi người nhìn nhận các phần tử đó theo một cách thức “như nhau” - nhưng một lần nữa “mức độ như nhau” trong sự nhìn nhận của những người khác nhau, trên nguyên tắc, lại không thể xác định được dưới góc độ thuần túy vật lí). Đấy chính là một trật tự mà tại đó các sự vật thể hiện hành vi theo cùng một cách thức bởi chúng hàm ý tới cùng một sự vật đối với con người. Nếu như, thay vì xem xét những thứ xuất hiện thế này thế kia trước người đang hành động là giống nhau hay khác nhau, chúng ta lại bắt buộc phải sử dụng chỉ những thứ mà Khoa Học chỉ ra là giống nhau hay khác nhau làm các đơn vị [phân tích] của chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ chẳng thể nào tìm ra được một
trật tự có thể nhận biết được trong bất kì hiện tượng xã hội nào - ít nhất là không phải tới chừng nào mà nhóm các ngành khoa học tự nhiên hoàn tất nhiệm vụ phân tích tất cả các hiện tượng tự nhiên thành các cấu tử nhỏ nhất và tâm lí học cũng hoàn tất nhiệm vụ đảo ngược là giải thích một cách chi tiết nhất vì sao tất cả các đơn vị nhỏ nhất của khoa học vật lí lại xuất hiện đối với con người như chúng vốn vậy, nghĩa là biết được bộ máy phân loại do các giác quan của chúng ta tạo nên hoạt động như thế nào.
Có lẽ chỉ thông qua những ví dụ minh họa đơn giản nhất chúng ta mới có thể trình bày ngắn gọn hiện tượng vì sao các hành động độc lập của các cá nhân lại tạo ra được một trật tự không đòi hỏi chủ ý của họ mà không cần thiết phải vận dụng đến bất cứ hệ thống lí luận chuyên sâu nào; và trong các ví dụ đó cách thức giải thích thường hiển nhiên đến nỗi chúng ta chẳng bao giờ cần phải dừng lại để xem xét loại lí lẽ phía sau những lời giải thích. Cách thức mà các con đường mòn được hình thành ở vùng thôn quê hoang sơ là một ví dụ. Đầu tiên mọi người tự tìm kiếm cho mình lối đi tốt nhất theo chủ kiến riêng của mỗi người. Nhưng hiển nhiên là một lối đi như vậy một khi đã được tạo lập thì khả năng được ai đó tìm thấy sẽ dễ dàng hơn và do đó có khả năng được sử dụng lại nhiều hơn; và do vậy xuất hiện những lối đi ngày một rõ ràng và chúng có xu hướng tiếp tục được sử dụng thay vì phải tìm kiếm các con đường khác. Sự di chuyển của con người qua một vùng nào đó thường có xu hướng bám theo một khuôn trạng nhất định, cái khuôn trạng không phải là do một ai đó thiết kế một cách có chủ ý dù cho đó là kết quả của những quyết định có chủ ý của nhiều người. Cách lí giải này về hiện tượng vừa mô tả là một “lí thuyết” sơ đẳng có khả năng áp dụng cho hàng trăm ví dụ cụ thể khác trong lịch sử; và chẳng phải là từ sự quan sát về quá trình phát triển trong thực tế của một con đường cụ thể nào khiến cho cách
giải thích này trở nên thuyết phục, mà là từ hiểu biết chung của mỗi chúng ta về việc chúng ta và những người khác có hành vi như thế nào khi gặp phải loại tình huống theo đó dòng người kế tiếp nhau tự thấy rằng chính họ là người phải tìm kiếm một con đường cho họ và cũng chính họ là người góp phần tạo ra con đường mòn nhờ ảnh hưởng tích lũy từ hành động [riêng rẽ] của họ. Đó chính là các phần tử của một tổ hợp các sự kiện quen thuộc với chúng ta từ kinh nghiệm hằng ngày, nhưng chỉ nhờ nỗ lực tư duy nghiêm túc chúng ta mới thấy được những ảnh hưởng tất yếu của tổ hợp các hành động của nhiều người. Chúng ta “hiểu” được cách thức tạo ra hiện tượng mà chúng ta quan sát diễn ra như thế nào, dù chúng ta có lẽ chưa bao giờ quan sát được toàn bộ quá trình hay phán đoán được chính xác sự tiến triển và kết quả của quá trình.
Với mục đích hiện tại của chúng ta thì không có sự khác biệt giữa một quá trình diễn ra trong một thời gian dài, chẳng hạn các trường hợp về sự phát triển của tiền tệ hay sự hình thành ngôn ngữ, với một quá trình lặp lại liên tục bằng một hình ảnh mới, chẳng hạn sự hình thành các loại giá cả hay khuynh hướng sản xuất do sức ép của cạnh tranh. Các hiện tượng về quá trình diễn ra trong dài hạn làm nảy sinh các vấn đề lí thuyết (nghĩa là có tính phổ quát để phân biệt với các vấn đề hoàn toàn mang tính lịch sử thuần túy theo nghĩa mà chúng ta sẽ làm sáng tỏ trong phần sau) về cơ bản tương tự các vấn đề nảy sinh từ các hiện tượng định kì như sự xác lập các mức giá. Dù là trong công việc nghiên cứu một trường hợp cụ thể nào đó về quá trình tiến triển của một “thể chế” như tiền tệ hay ngôn ngữ thường xảy ra việc vấn đề lí thuyết bị các hoàn cảnh cụ thể có liên quan (công việc thuần túy mang tính lịch sử) xen vào che lấp mất, thì điều này không làm thay đổi một thực tế là bất kì một sự giải thích nào về một quá trình lịch sử đều liên quan đến các giả thiết về loại hoàn cảnh mà có thể gây ra các loại
kết quả nhất định - tức các giả thiết, trong trường hợp chúng ta phải xử lí các hiện tượng hình thành không phải trực tiếp từ ý chí của một cá nhân nào đó, mà chỉ có thể trình bày dưới dạng một giản đồ phổ quát (generic scheme), hay nói một cách khác, dưới dạng giản đồ của một lí thuyết.
Nhà vật lí muốn hiểu các vấn đề thuộc nhóm các ngành khoa học xã hội bằng phương pháp tương tự trong chuyên ngành của mình sẽ phải tưởng tượng ra một thế giới mà tại đó anh ta đã biết được cấu tạo bên trong của các nguyên tử qua quan sát trực tiếp, nhưng lại chẳng có điều kiện tiến hành các thí nghiệm sử dụng hàng tá vật liệu cũng như chỉ có cơ hội quan sát một vài tương tác giữa một số ít các nguyên tử trong một khoảng thời gian xác định. Từ hiểu biết của mình về các chủng loại nguyên tử khác nhau anh ta có thể xây dựng các mô hình về tất cả các trường hợp khả thể về khả năng kết hợp giữa chúng thành các đơn vị lớn hơn và bắt các mô hình này ngày càng phải tái tạo chính xác hơn tất cả các khía Cạnh của một vài trường hợp để từ đó anh ta có thể quan sát được nhiều hiện tượng phức tạp hơn. Nhưng các quy luật của thế giới vĩ mô mà anh ta có thể rút ra được từ hiểu biết của mình về thế giới vi mô luôn mang tính”diễn dịch” (deductive); bởi hiểu biết của anh ta về dữ liệu liên quan đến hiện tượng phức là giới hạn nên các quy luật đó rất hiếm khi cho phép anh ta dự đoán chính xác kết cục của một tình huống cụ thể; và anh ta chẳng thể bao giờ chứng thực được chúng qua quá trình thí nghiệm mà anh ta có thể kiểm soát được - mặc dù chúng có thể bị phản chứng khi việc quan sát các sự kiện mà đáng lí ra theo lí thuyết của anh ta là không thể xảy ra.
Trong một chừng mực nhất định thì một số vấn đề của thiên văn học lí thuyết có nhiều điểm tương đồng với các vấn đề của nhóm các ngành khoa học xã hội hơn bất kì nhóm ngành khoa học thực nghiệm nào. Dù thế thì vẫn có một số điểm khác biệt quan
trọng. Trong khi nhà nghiên cứu vũ trụ có mục đích tìm hiểu tất cả các phần tử hợp thành vũ trụ của anh ta, thì nhà nghiên cứu các hiện tượng xã hội không thể hi vọng biết gì nhiều hơn các chủng loại phần tử từ đó vũ trụ của anh ta được tạo nên. Anh ta hầu như không bao giờ biết được tất cả các phần tử trong vũ trụ của mình và tất nhiên anh ta sẽ không bao giờ biết tất cả các đặc tính liên quan của mỗi phần tử. Khiếm khuyết không thể nào tránh được của trí tuệ con người ở đây đóng vai trò không chỉ là cái dữ liệu cơ bản (basic datum) về đối tượng mà người nghiên cứu đang tiến hành nghiên cứu, mà vì khiếm khuyết này cũng đúng luôn với cả người nghiên cứu, nên nó còn là một giới hạn về mức độ trọn vẹn mà anh ta có thể hi vọng giải thích về các thực tế quan sát được. Với bất kì hiện tượng xã hội nào, số lượng các biến riêng rẽ mà quyết định kết quả phát sinh từ một thay đổi nhất định nào đó, trên nguyên tắc, sẽ là quá lớn đối với bất kì bộ óc nào để nắm bắt và điềụ khiển chúng một cách có hiệu quả[42]. Hậu quả là kiến thức của chúng ta về nguyên lí chi phối các hiện tượng này sẽ hiếm khi, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ, cho phép chúng ta phán đoán được kết cục chính xác trong một tình huống cụ thể nào đó. Trong khi chúng ta có thể giải thích được cái nguyên lí chi phối các hiện tượng nhất định và có thể từ kiến thức đó loại trừ khả năng dẫn đến những kết cục nhất định, chẳng hạn các sự kiện xảy ra đồng thời nhất định, thì kiến thức của chúng ta sẽ vẫn chỉ có tính loại trừ; nghĩa là nó sẽ chỉ đơn thuần cho phép chúng ta loại trừ được trước một số kết cục nào đó nhưng không cho phép chúng ta thu hẹp được vùng khả năng xảy ra các kết cục ở mức độ đủ lớn sao cho chỉ còn lại duy nhất một trường hợp.
Việc phân biệt giữa một bên là cách lí giải đơn thuần về nguyên lí chi phối một hiện tượng và một bên là cách lí giải cho phép chúng ta dự đoán một kết cục chính xác nhất định nào đó có một ý
nghĩa rất đáng kể để hiểu được các phương pháp nghiên cứu lí thuyết của nhóm các ngành khoa học xã hội. Tôi tin là nó cũng có ý nghĩa quan trọng như thế ở các lĩnh vực khác, chẳng hạn trong sinh học và tất nhiên trong tâm lí học. Tuy vậy nó vẫn còn có đôi chút xa lạ và tôi biết là không đâu giúp chúng ta tìm được lời giải đáp thỏa đáng. Ví dụ minh họa tốt nhất trong lĩnh vực nghiên cứu của nhóm các ngành khoa học xã hội có lẽ là lí thuyết tổng quát về giá cả, chẳng hạn được trình bày dưới dạng các hệ thống các phương trình Walras hay Pareto. Các hệ thống này chỉ đơn thuần chỉ ra nguyên lí về mối quan hệ cố kết (principle of coherence) giữa các mức giá cả của các loại hàng hóa có trong các hệ thống các phương trình; nhưng nếu không có thêm thông tin về các giá trị của tất cả các hằng số trong các hệ thống, điều mà có lẽ chúng ta chẳng bao giờ biết được, thì nguyên lí này sẽ không cho phép chúng ta phán đoán được các kết cục chính xác phát sinh từ bất kì một thay đổi cụ thể nào[43]. Ngoài cái ý nghĩa cụ thể này, một hệ thống các phương trình mà thuần túy chỉ cho biết hình dạng của một hệ thống các mối quan hệ nhưng không cung cấp giá trị của các hằng số của các phương trình đó có lẽ là một minh họa tổng quát nhất về một cách lí giải đơn thuần chỉ về cái nguyên lí chi phối một hiện tượng nào đó.
Tới đây, phần mô tả cách nhìn đúng đắn về các vấn đề đặc trưng của nhóm các ngành khoa học xã hội đã đầy đủ. Trong các phần tiếp theo chúng ta sẽ đối sánh quy trình đặc thù này của nhóm các ngành khoa học xã hội với các nét đặc trưng nhất của các khuynh hướng mà xem xét đối tượng nghiên cứu của nhóm ngành này rập theo khuôn mẫu của nhóm các ngành khoa học tự nhiên.
5
KHÁCH QUAN LUẬN
TRONG CHỦ NGHĨA DUY KHOA HỌC
Những khác biệt cơ bản giữa các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của nhóm các ngành khoa học tự nhiên và của nhóm các ngành khoa học xã hội lí giải tại sao một nhà khoa học tự nhiên khi chuyển sang nghiên cứu các hiện tượng xã hội lại thường cảm thấy rằng anh ta đang làm việc với đám người luôn mắc phải tất cả các lỗi chết người mà anh ta thường cố gắng tránh, và vì thế một bộ môn khoa học về xã hội theo các chuẩn mực của anh ta vẫn chưa tồn tại. Từ suy nghĩ này cho tới nỗ lực tạo ra một ngành khoa học mới về xã hội thỏa mãn các tiêu chí nhận thức của mình về Khoa-Học chỉ còn là một bước. Trong bốn thế hệ gần đây, những nỗ lực theo hướng này liên tục được thực hiện; dù là chúng chưa bao giờ đưa ra được các kết quả như mong đợi, và dù là chúng thậm chí chẳng tạo ra được một truyền thống có kế thừa - một biểu hiện của một bộ môn khoa học thực thụ - thì những cố gắng kiểu này vẫn cứ lặp lại hầu như hằng tháng bởi một ai đó có tham vọng tạo ra một cuộc cách mạng trong tư duy xã hội. Thêm nữa, dù là những nỗ lực này hầu như không diễn ra liên tục, chúng vẫn thường có chung các nét đặc trưng như chúng ta xem xét ngay dưới đây. Để thuận tiện, chúng ta có thể phân tích những nét đặc trưng về phương pháp luận này dưới các chiều kích “khách quan luận”, “tập thể luận” và “duy sử luận”, đối ứng với “chủ quan luận”, “cá
thể luận” và cách tiếp cận lí thuyết của các bộ môn khoa học xã hội đã phát triển hoàn chỉnh.
Loại thái độ mà chúng tôi gọi bằng cái tên “khách quan luận” trong cách tiếp cận duy khoa học đối với việc nghiên cứu con người và xã hội đã hé lộ điểm đặc trưng của nó qua nhiều nỗ lực nghiên cứu với ý đồ loại bỏ loại tri thức chủ quan của chúng ta gắn với cơ chế hoạt động của tâm trí con người; những cố gắng này tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau và chúng đã tác động tới hầu hết tất cả các bộ môn nghiên cứu về xã hội. Từ sự khước từ của Auguste Comte về khả năng của phương pháp nội quan (instrospection) tới rất nhiều cố gắng nghiên cứu để xây dựng một bộ môn “tâm lí khách quan”, đến hành vi luận (behaviorism) của J. B. Watson và “chủ nghĩa duy vật lí” của O. Neurath, là một danh sách dài các tác giả đã cố gắng nghiên cứu mà không cần trông cậy vào loại tri thức rút ra từ “quá trình nội quan”. Nhưng chúng ta có thể dễ dàng chỉ ra được là: những cố gắng nghiên cứu hòng tránh sử dụng loại tri thức mà chúng ta vốn dĩ đã sở hữu đang trên đà phá sản.
Một người theo hành vi luận hay chủ nghĩa duy vật lí, để đảm bảo tính nhất quán, nhất thiết không được phép bắt đầu công việc nghiên cứu bằng việc quan sát các phản ứng của những người khác nhau đối với những cái mà các giác quan của chúng ta mách bảo là những đối tượng tương tự; anh ta có nghĩa vụ phải tự bó mình vào việc nghiên cứu phản ứng của mọi người đối với các kích thích đồng nhất thuần túy về mặt vật lí. Chẳng hạn, anh ta không được phép tiến hành nghiên cứu các phản ứng của những người khác nhau khi thấy một vòng tròn đỏ hay nghe một âm thanh nhất định, mà chỉ nghiên cứu các ảnh hưởng của một sóng ánh sáng với một tần suất nhất định lên một điểm cụ thể của võng mạc của con người v.v. và v.v. Tuy nhiên, không thấy có người theo chủ nghĩa
hành vi nào có ý định làm như thế trên thực tế. Tất cả họ đều đơn giản coi chuyện những cái xuất hiện đối với chúng ta cũng sẽ xuất hiện giống như thế với những người khác là điều mặc nhiên. Dù là họ chẳng có ý định làm thế nhưng họ lại liên tục sử dụng cách thức các giác quan và tâm trí của chúng ta tiến hành phân loại các kích thích bên ngoài vào các nhóm giống nhau hoặc khác nhau, cách thức phân loại mà chúng ta biết tới chỉ từ kinh nghiệm cá nhân của chúng ta trong quá trình sử dụng nó và không dựa trên bất kì kiểm nghiệm khách quan nào nhằm chứng tỏ việc các kích thích bên ngoài này cũng biểu hiện hành vi theo cách tương tự trong mối quan hệ với nhau. Điều này ứng dụng khá nhiều cho cái mà chúng ta vẫn thường xem là các chất liệu cảm giác đơn giản, như màu sắc, cường độ âm thanh, mùi v.v. cho tới nhận thức của chúng ta về các cấu hình (Gestalten) mà giúp chúng ta phân loại về mặt vật lí các vật rất khác nhau như các mẫu vật có một “hình dáng” cụ thể, ví dụ như một vòng tròn hay một giai điệu nhất đinh. Đối với người theo chủ nghĩa hành vi hay duy vật lí, việc chúng ta nhận thức được tính chất tương tự của những vật này là không đáng quan tâm.
Tuy nhiên, không thể biện minh thái độ ngây thơ này bằng những điều mà bản thân quá trình phát triển của khoa học vật lí dạy bảo chúng ta. Như chúng ta đã biết, một trong những thành tựu chính của quá trình phát triển này là những sự vật xuất hiện giống nhau với chúng ta có thể lại không thuộc cùng loại với nhau theo nghĩa khách quan, tức là, chúng không có các thuộc tính chung. Tuy nhiên, một khi chúng ta thừa nhận là những sự vật khác nhau xét trên khía cạnh gây ra các tác động đối với các giác quan của chúng ta không nhất thiết phải giống với việc chúng khác nhau xét trên khía cạnh gây ra các tác động lẫn nhau, chúng ta sẽ không còn có cái quyền xem rằng thứ đối với chúng ta thuộc
về cùng một loại hay khác loại lại cũng là như thế đối với người khác, là một cái gì đó đương nhiên. Việc coi đây như là một quy tắc là một cơ sở thực nghiệm quan trọng, cái cơ sở một mặt đòi hỏi chúng ta phải giải thích (một nhiệm vụ của tâm lí học), nhưng mặt khác đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận như là một mốc căn cứ cơ bản trong nghiên cứu của chúng ta về hành xử của thiên hạ. Việc những đối tượng khác nhau được những người khác nhau xếp vào cùng một loại sự vật, và việc những người khác nhau nhìn nhận cùng một sự vật theo các biểu hiện khác nhau là những sự thật đáng lưu ý dù cho khoa học vật lí có thể chỉ ra là những đối tượng này hay những biểu hiện này chẳng có thuộc tính chung nào cả.
Tất nhiên, đúng là chúng ta chẳng biết gì về tâm trí của những người khác nhau ngoài những điều biết được thông qua các nhận biết bằng giác quan, nghĩa là, qua việc quan sát các sự kiện vật lí. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta chẳng biết gì hơn nữa ngoài các sự kiện vật lí. Loại sự thật mà chúng ta phải xử lí trong một bộ môn nào đó không phải hình thành từ tất cả các thuộc tính của các đối tượng trực quan mà bộ môn đó đụng chạm đến, mà chỉ từ những thuộc tính mà chúng ta lựa chọn vì mục đích nghiên cứu của bộ môn đó. Lấy một ví dụ từ nhóm các ngành khoa học vật lí: tất cả các loại đòn bẩy hay con lắc mà chúng ta biết đều có các thuộc tính hóa học và quang học; nhưng khi chúng ta đề cập đến đòn bẩy và con lắc thì chúng ta lại không nói gì tới các sự kiện hóa học hay quang học. Yếu tố quyết định một số các hiện tượng đơn lẻ trở thanh các sự thật thuộc về một chủng loại này khác chính là những tính chất (attributes) mà chúng ta lựa chọn để sắp xếp các hiện tượng đó thành các phần tử của một nhóm. Và dù rằng tất cả các hiện tượng xã hội mà chúng ta có khả năng suy xét đều chứa đựng các tính chất vật lí thì điều này không có nghĩa là chúng ta phải coi các hiện tượng đó là các sự kiện vật lí trong chuyên ngành
của chúng ta.
Có một điểm quan trọng về các đối tượng của hoạt động con người mà chúng ta quan tâm trong lĩnh vực khoa học xã hội cũng như bản thân các hoạt động con người là: để lí giải các hoạt động con người chúng ta phân loại một cách tự nhiên và vô tình một số các hiện tượng vật lí nào đó vốn chẳng có một thuộc tính vật lí chung nào trong một mẫu lớn các hiện tượng vật lí thành các phần tử của cùng một đối tượng hoặc cùng biểu hiện cần nghiên cứu. Chúng ta biết rằng những người khác nhau, giống như bản thân chúng ta, coi bất kì một phần tử nào trong một tập hợp lớn các sự vật, a, b, c, d... v.v., vốn dĩ khác nhau về mặt vật lí thuộc cùng một nhóm; và chúng ta biết điều này là bởi vì những người khác kia, cũng như chúng ta, phản ứng lại với bất kì sự vật nào trong nhóm những sự vật này qua bất kì biểu hiện nào trong số các biểu hiện α, β, , ... mà cũng lại chẳng có một thuộc tính vật lí chung nào. Dù thế thì loại tri thức này - loại tri thức mà chúng ta liên tục sử dụng, và được giả định là phải có trước để giao tiếp với người khác - vẫn không phải là tri thức do ý thức mà có (conscious knowledge) theo nghĩa chúng ta có khả năng liệt kê chi tiết tất cả các hiện tượng vật lí khác nhau và rồi không ngần ngại sắp xếp chúng thành các phần tử thuộc các nhóm nhất định, bởi một lẽ chúng ta không biết những tổ hợp nào trong rất nhiều các tổ hợp khả thể các thuộc tính vật lí cần được chúng ta nhìn nhận như là một từ, hay một “khuôn mặt thân quen” hay là một “cử chỉ hăm dọa”. Có lẽ vẫn chưa có bất kì nghiên cứu thực nghiệm nào thành công trong việc xác định chính xác phạm vi các hiện tượng khác nhau mà được chúng ta không ngần ngại coi là ám chỉ cùng một thứ theo chủ kiến của chúng ta cũng như của những người khác; tuy thế, chúng ta lại tiến hành việc này liên tục và thành thục dựa trên giả thiết là chúng ta phân loại những thứ đó theo cùng một
cách thức giống như những người khác làm. Chúng ta không có khả năng - và có lẽ không bao giờ có được cái khả năng - thay thế các phạm trù tâm trí (mental categories) vốn được chúng ta sử dụng thường xuyên để diễn tả hành động của những người khác bằng các khách thể được xác định dưới góc độ vật lí[44]. Bất kì khi nào chúng ta làm như thế thì các sự kiện vật lí mà chúng ta đề cập đến lại mang nội dung không phải là các sự kiện vật lí, tức là không phải là các phần tử thuộc một nhóm vốn cùng mang một số các thuộc tính vật lí chung nhất định, mà là các phần tử của một nhóm mà có thể chứa những thứ chẳng có bất kì thuộc tính vật lí nào chung nhưng lại “ám chỉ” đến cùng một sự vật đối với chúng ta.
Đã tới lúc cần phải làm rõ một điều được ngụ ý trong toàn bộ lí lẽ của chúng ta về luận điểm này - điều mà, dù có lẽ là hệ quả từ quan niệm hiện đại về đặc điểm của nghiên cứu vật lí, vẫn còn khá lạ lẫm. Đó là: không chỉ các thực thể tâm trí (mental entities), chẳng hạn “các khái niệm” hay “các ý tưởng”, những thứ vẫn thường được xem là “các thứ trừu tượng”, mà là tất cả các hiện tượng tâm trí, các nhận biết thông qua giác quan và các hình ảnh cũng như “các khái niệm” và “ý tưởng” trừu tượng hơn, đều phải được xem như là các biểu hiện của quá trình phân loại do não bộ thực hiện[45]. Tất nhiên, đấy đơn thuần chỉ là một cách biểu đạt khác cho hiện tượng rằng các chất liệu mà chúng ta nhận biết được không phải là thuộc tính của các khách thể mà là cách thức mà chúng ta (từng cá nhân hay theo chủng tộc) dần học được để phân nhóm hay phân loại các kích thích bên ngoài. Nhận biết là hành động phân [một cái gì đó] vào một phạm trù (hay những phạm trù) quen thuộc: chúng ta không thể nhận biết được bất kì cái gì hoàn toàn khác biệt so với các thứ khác mà chúng ta đã từng biết trước đây. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là mọi thứ chúng ta phân
vào một nhóm trong thực tế phải mang cùng những thuộc tính chung chỉ vì lẽ trên thực tế chúng ta phản ứng lại với những thứ này theo cùng một cách thức. Có một sai lầm chung nhưng khá nguy hiểm khi tin rằng mọi sự vật mà các giác quan hay tâm trí của chúng ta đối xử như là các phần tử của cùng một nhóm phải có một cái gì đó chung vì lẽ rằng chúng được tâm trí của chúng ta ghi nhận theo cùng một cách thức. Mặc dù thường sẽ tồn tại một biện minh khách quan nào đó để lí giải tại sao chúng ta lại xem một số sự vật nhất định là tương tự nhau, thì điều này không nhất thiết hàm ý rằng đây là lí giải đúng. Nhưng, trong khi trong nghiên cứu về tự nhiên, nếu các phân loại không dựa trên bất kì nét tương tự nào liên quan đến hành vi của các khách thể đối với nhau, chúng sẽ bị xem như là hành vi “lừa gạt” - điều mà chúng ta bắt buộc phải tránh thì chúng lại có ý nghĩa tích cực trong việc tìm hiểu hành động con người. Sự khác biệt quan trọng về vai trò của các phạm trù tâm trí này trong hai lĩnh nghiên cứu tự nhiên và nghiên cứu xã hội là ở chỗ khi chúng ta nghiên cứu sự vận hành của thế giới tự nhiên bên ngoài thì các cảm giác và suy nghĩ của chúng ta không phải là các mảnh ghép trong chuỗi các sự kiện quan sát được - chúng đơn thuần chỉ là các biểu tả về các mảnh ghép; còn trong cơ cấu vận hành của xã hội thì các cảm giác và suy nghĩ của chúng ta lại tạo nên một mảnh ghép cốt yếu, các lực lượng thường trực trong cơ cấu này vận động thông qua các thực thể tâm trí này, những thứ chúng ta trực tiếp biết đến: trong khi những sự vật nhất định ở trong thế giới tự nhiên không thể hiện hành vi giống nhau hoặc khác nhau bởi vì chúng xuất hiện giống nhau đối với chúng ta, thì chúng ta lại thể hiện hành vi theo một cách thức tương tự hoặc khác nhau bởi vì những sự vật nhất định xuất hiện giống nhau hoặc khác nhau đối với chúng ta.
Người theo hành vi luận hay chủ nghĩa duy vật lí kiên định -
người thực sự muốn tránh sử dụng các phạm trù vốn có sẵn trong tâm trí của chúng ta trong công việc nghiên cứu về hành vi con người, và cũng muốn giới hạn công việc nghiên cứu của mình một cách rõ ràng vào các vấn đề về phản ứng của con người đối với các đối tượng được định nghĩa dưới góc độ vật lí thuần túy - nhất định sẽ từ chối bình luận về bất cứ điều gì liên quan đến các hành động con người cho tới khi anh ta đã thiết lập xong trên phương diện thí nghiệm quá trình mà các giác quan và tâm trí của chúng ta gộp các kích thích bên ngoài vào các nhóm giống nhau và khác nhau. Anh ta sẽ phải trả lời câu hỏi rằng những đối tượng vật lí nào xuất hiện giống nhau cũng như khác nhau đối với chúng ta (và tại sao chúng lại xuất hiện như thế) trước khi anh ta có thể bắt tay vào nghiến cứu hành vi con người hướng tới các đối tượng đó.
Một điểm cần lưu ý: chúng ta không đưa ra luận điểm rằng việc giải thích nguyên lí về cách thức mà tâm trí hay não bộ của chúng ta chuyển biến các sự kiện vật lí thành các thực thể tâm trí là bất khả. Một khi chúng ta nhận ra rằng đây là một quá trình phân loại thì không có lí do gì lại khiến chúng ta không thể biết cách lĩnh hội được nguyên lí điều phối hoạt động của nó. Sự phân loại rốt cuộc chỉ là một quá trình cơ học, nghĩa là, một quá trình mà có thể thực hiện bằng máy móc nhằm “sắp xếp” các đối tượng thành các nhóm dựa trên các tính chất nhất định[46]. Thay vì thế, luận điểm của chúng ta là: thứ nhất, việc giải thích sự hình thành các thực thể tâm trí và các mối quan hệ giữa các thực thể này với các thực tế vật lí mà chúng đại diện là thứ công việc không cần thiết, nghĩa là nó chẳng giúp ích gì cho công việc nghiên cứu xã hội của chúng ta; và thứ hai, một giải thích như thế, dù là có thể hình dung ra được, không những chưa tồn tại ở thời điểm hiện tại và có lẽ cả trong dài hạn nữa, mà còn mãi chỉ không gì khác hơn là một “sự giải thích về nguyên lí” về sự vận hành của bộ máy phân loại
này. Dường như mọi bộ máy phân loại luôn ẩn chứa một mức độ phức tạp lớn hơn so với bất kì thứ gì khác mà nó phân loại; và nếu điều này đúng thì hệ quả tiếp theo sẽ là não bộ của chúng ta sẽ không thể đưa ra được một lời giải thích trọn vẹn (tức phân biệt với một lời giải thích thuần túy về nguyên lí) về những cách thức cụ thể mà bản thân não bộ dùng để phân loại các kích thích bên ngoài. Sau này chúng ta sẽ xem xét ý nghĩa của cái nghịch lí liên quan, rằng để giải thích tri thức của chính chúng ta thì chúng ta nhất thiết phải biết nhiều hơn điều mà chúng ta thực sự biết; tất nhiên, đây là một mệnh đề có mâu thuẫn nội tại.
Nhưng hãy tạm giả thiết là chúng ta thành công trong việc quy tất cả các hiện tượng tâm trí về các quá trình vật lí. Giả sử chúng ta đã biết cơ chế mà hệ thần kinh trung ương của chúng ta dựa vào để gộp bất kì một trong những kích thích bên ngoài (cơ sở hay liên hợp), a, b, c... hay l, m, n... hay r, s, t... vào các nhóm xác định, sao cho khi tiếp xúc với bất kì một phần tử nào của một nhóm kích thích chúng ta cũng sẽ phản ứng lại bằng bất kì một trong những phản ứng của nhóm phản ứng tương ứng trong các nhóm α, β, ... hay , , ... hay , , ... Giả thiết này có hai ngụ ý: thứ nhất, chúng ta không những chỉ đơn thuần tỏ tường về hệ thống này như là cách thức mà tâm trí của chính chúng ta vận hành, mà chúng ta còn biết một cách tường minh tất cả các mối quan hệ xác định hệ thống đó; và thứ hai, chúng ta cũng biết cơ chế thực sự ảnh hưởng đến quá trình phân loại. Sau đó, chúng ta có thể xây dựng mối tương quan chặt chẽ giữa các thực thể tâm trí với các nhóm các sự kiện vật lí xác định. Do vậy, chúng ta đã “thống nhất” được khoa học, nhưng có lẽ chúng ta vẫn sẽ không có đữợc một vị thế tốt hơn để giải quyết nhiệm vụ cụ thể của lĩnh vực khoa học xã hội so với cái vị thế hiện có của chúng ta. Chúng ta sẽ vẫn phải tiếp tục sử dụng các phạm trù cũ, dẫu rằng
chúng ta có khả năng giải thích sự hình thành chúng và dẫu rằng chúng ta biết các sự kiện vật lí “đằng sau” chúng. Mặc dù chúng ta biết là một sự bố trí các sự kiện tự nhiên khác đi sẽ phù hợp hơn cho việc giải thích các sự kiện ngoại cảnh, nhưng trong việc lí giải các hành động con người thì chúng ta vẫn phải sử dụng cách phân loại theo đó các sự kiện này thực sự xuất hiện trong tâm trí của những người hành động. Vì thế, khác hẳn với thực tế là chúng ta có lẽ nên tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi cho tới khi nào chúng ta có khả năng thay thế các sự kiện vật lí cho các thực thể tâm trí, thì, ngay cả nếu như điều này thành công, chúng ta cũng vẫn không có được một công cụ tốt hơn để giải quyết vấn đề mà chúng ta theo đuổi trong nhóm các ngành khoa học xã hội.
Do vậy ý tưởng, vốn được ngụ ý trong hệ thống phân cấp khoa học của Comte[47]cũng như trong nhiều lập luận khác nữa, rằng lĩnh vực khoa học xã hội ở một mức độ nhất định nhất thiết phải dựa trên lĩnh vực khoa học vật lí, rằng chúng chỉ có thể hi vọng có được thành công sau khi có sự thành công của lĩnh vực khoa học vật lí - cái lĩnh vực cho phép chúng ta xem xét các hiện tượng xã hội dưới các góc độ vật lí, bằng “ngôn ngữ vật lí” - là thứ ý tưởng hoàn toàn sai lầm. Việc giải thích các quá trình tâm trí bằng các công cụ vật lí hoàn toàn xa lạ với nhóm các ngành khoa học xã hội, và đấy là vấn đề của khoa tâm sinh lí (physiological psychology). Dù vấn đề này có thể giải quyết được hay không, thì đối với lĩnh vực khoa học xã hội, các thực thể tâm trí nhất thiết cần phải được xem là điểm khởi đầu, bất kể sự hình thành chúng có được giải thích ngọn ngành hay không.
Ở đây chúng ta không thể xem xét mọi biểu hiện đặc trưng của “khách quan luận” trong cách tiếp cận duy khoa học, thứ luận thuyết đã tự rơi vào ngõ cụt và đã gây ra sai lầm trong lĩnh vực khoa học xã hội. Trong phần khảo cứu lịch sử ở phần sau, chúng ta
sẽ phát hiện thấy nhiều hình thức khác nhau của khuynh hướng này trong nỗ lực tìm hiểu các tính chất “thật” của các đối tượng thuộc về hoạt động con người, vốn bị các quan niệm này khác về chúng che lấp. Ở đây chúng tôi chỉ trình bày một khảo cứu sơ lược.
Một khuynh hướng chung trong nghiên cứu các hiện tượng xã hội, song song với các trào lưu dựa trên hành vi luận và các chủ thuyết tương tự, là việc gạt bỏ mọi hiện tượng “thuần túy” định tính và tập trung vào các khía cạnh định lượng, vào những thứ có thể đo đếm được, theo kiểu của lĩnh vực khoa học tự nhiên. Ở phần trước, chúng ta đã trình bày vì sao xu hướng này trong nhóm các ngành khoa học tự nhiên lại là một kết cục tất yếu xuất phát từ một nhu cầu cụ thể của lĩnh vực này: đó là nhu cầu thay thế bức tranh về thế giới quan sử dụng các chất liệu cảm giác bằng bức tranh hình thành từ các đơn vị được tách biệt bởi các mối quan hệ tường minh. Thành công của phương pháp này trong lĩnh vực khoa học tự nhiên đã khiến nó có xu hướng được xem như là chuẩn mực của mọi quy trình nghiên cứu khoa học đúng đắn. Nhưng raison d’être (lí do tồn tại) của khuynh hướng này, tức nhu cầu thay thế việc phân loại các sự kiện mà các giác quan cũng như tâm trí của chúng ta đưa ra bằng một cách phân loại khác phù hợp hơn, sẽ không có chỗ đứng ở nơi chúng ta cố gắng khám phá hoạt động của con người, và ở nơi mà sự nhận thức này có thể tiến hành nhờ một thực tế là chúng ta cũng có một tâm trí giống như của những người khác, và từ các phạm trù tâm trí mà chúng ta cũng có như của những người khác kia chúng ta có thể tái dựng các hiện tượng phức của xã hội mà chúng ta quan tâm. Nỗ lực bắt chước mù quáng phương pháp định lượng[48] vào một lĩnh vực, nơi không tồn tại các điều kiện xác định vốn được xem như là những thứ hết sức quan trọng để áp dụng nó trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, là hậu quả của một định kiến hoàn toàn vô căn cứ. Đấy có lẽ là những
lầm lạc tồi tệ nhất mà chủ nghĩa duy khoa học gây ra cho lĩnh vực khoa học xã hội. Nó khiến các nhà khoa học xã hội thường chỉ chọn nghiên cứu các khía cạnh hầu như chẳng có liên quan gì đến các hiện tượng xã hội do đòi hỏi chúng phải có thể định lượng. Hơn thế, nó còn sản sinh ra những “đại lượng” (measurements) và những trị số hoàn toàn vô nghĩa. Điều mà một triết gia danh tiếng phát biểu trong lĩnh vực tâm lí học cũng hoàn toàn đúng trong toàn bộ nhóm các ngành khoa học xã hội là: không có gì vô bổ hơn việc “tiến hành đo đạc một cái gì đó mà chẳng cần đếm xỉa gì đến cái mà chúng ta đang đo đạc là gì, hay điều mà chúng ta đo được có ý nghĩa gì. Theo nghĩa này, một số các đại lượng gần đây thuộc cùng nhóm logic theo kiểu mà Plato xác định, rằng một người cầm quyền công bằng mang lại hạnh phúc gấp 729 lần so với người thiếu công bằng”[49].
Quan hệ mật thiết với khuynh hướng vốn xem xét các đối tượng của hoạt động con người dựa trên các đặc tính “thật” của chúng thay vì các biểu hiện mà chúng thể hiện ra đối với người đang hành động là khuynh hướng coi người nghiên cứu xã hội là người sở hữu một loại trí tuệ siêu đẳng, được trang bị loại tri thức tuyệt đối, khiến cho anh ta không cần thiết phải bắt đầu nghiên cứu của mình từ những thứ mà những người trong cuộc - những người có các hành động mà anh ta đang quan tâm nghiên cứu - biết đến. Các hình thức đặc trưng của khuynh hướng này là các biến thể khác nhau của ngành “năng lượng học” về xã hội (social “energetic”), được khởi xướng từ Ernest Solvay, Wilhelm Ostwald và F. Soddy và kéo dài tới tận ngày nay[50]; chúng liên tục được các nhà khoa học và các kĩ sư trưng đi trưng lại khi họ chuyển sang nghiên cứu các vấn đề về tổ chức xã hội. Ý tưởng chủ đạo của các lí thuyết này là, do khoa học được giả định là phải chỉ ra rằng mọi thứ có thể tối giản về các lượng năng lượng khác nhau, nên con
người sẽ coi mọi thứ trong các kế hoạch của mình không phải theo tính hữu dụng trực quan mà chúng mang lại cho các mục đích có thể đạt được theo cách thức sử dụng mà anh ta biết đến, mà là theo các đơn vị năng lượng trừu tượng có khả năng hoán đổi, “thực sự” tương đương với những thứ đó.
Một ví dụ khác, không kém phần thô thiển và thậm chí lại còn phổ biến hơn, của khuynh hướng này, là khái niệm về các khả năng sản xuất “khách quan”, về lượng sản lượng xã hội, những thứ có thể tạo dựng được từ các dữ kiện vật lí, một ý tưởng mà thường thấy trong các ước tính định lượng về “năng lực sản xuất” giả định của xã hội, với xã hội là một tổng thể. Những ước tính này thường đề cập, không phải tới cái mà con người có thể sản xuất được nhờ bất kì phương thức tổ chức đã biết nào, mà là tới cái, theo một cái nghĩa khách quan không xác định nào đó, “có thể” được sản xuất từ các nguồn lực sẵn có. Hầu hết các khái niệm này không chứa đựng bất kì một nội dung xác tín nào. Chúng không mang nghĩa là x hay y hay bất kì một cách thức tổ chức con người cụ thể nào có thể đạt được những thứ đó. Điều mà chúng muốn truyền tải là nếu như tất cả tri thức được phân tán cho nhiều người có thể sở hữu bởi một bộ óc đơn nhất, và nếu như bộ óc siêu đẳng này có thể khiến cho mọi người hành động ở bất kì thời điểm nào theo hướng mà hắn mong muốn, thì sẽ có thể đạt được những kết quả nhất định; nhưng tất nhiên có thể chẳng ai biết đến những kết quả này trừ bộ óc siêu việt kia. Chúng ta hầu như chẳng cần phải chỉ ra là một nhận định về một “khả năng” dưới các điều kiện như thế lại tồn tại trong thực tế. Không có cái gọi là khả năng sản xuất của xã hội dưới dạng trừu tượng - tách rời khỏi các dạng thức tổ chức xã hội cụ thể. Chỉ có một dữ kiện mà chúng ta có thể coi là có sẵn, đó là có những con người cụ thể sở hữu những lượng tri thức trực quan nhất định về cách thức sử dụng những thứ cụ thể để đạt được các