🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội Leon Trotsky Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động Nguồn: http://vnthuquan.net Phát hành: Nguyễn Kim Vỹ. https://thuviensach.vn Mục lục Lời Giới Thiệu Mục Tiêu Của Công Trình Này 1- THÀNH TỰU - 2 - - 3 - - 4 - - 5 - - 6 - - 7 - - 8 - - 9 - - 10 - - 11 - PHỤ LỤC PHỤ LỤC (2) PHỤ THÊM TỪ MỤC https://thuviensach.vn Leon Trotsky Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội Dịch giả: Hoàng Khoa Khôi Lời Giới Thiệu Đã trở thành một thông lệ, gần như một cái “mốt”! Hễ nói tới sự sụp đổ của Liên xô và các nước Đông âu, tức khắc có một số đông người thi nhau lên tiếng bài xích chủ nghĩa mác xít, cho rằng sự sụp đổ này là sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Trong số những người nói trên, có người thực tâm, nghĩ sao nói vậy. Có người a dua theo trào lưu dư luận. Có người mượn dịp thanh toán với một chủ nghĩa thù địch. Ít ai bình tĩnh đưa ra một nhận xét khách quan, vô https://thuviensach.vn tư, dựa trên những lý luận đúng đắn. Chúng tôi dịch và in cuốn Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội của Lêông Trôtski, mục đích cống hiến bạn đọc một tài liệu tham khảo. Viết năm 1936, sách này có vài tiết mục bị thời cuộc vượt qua như những đoạn nói về nền kinh tế của Liên xô trong những năm 30 chẳng hạn. Nhưng toàn bộ vẫn giữ giá trị thời cuộc. Người đọc có cảm tưởng nó mới được viết ngày hôm qua, vì nó thể hiện đầy đủ những khuyết tật mà xã hội Liên xô mang nặng trong vòng hơn nửa thế kỷ. Sách này ít người biết, trừ một số chuyên gia chính trị. Ở các nước “cộng sản”, nó bị cấm. Ở các nước tư bản “tự do”, mặc dầu có nhiều nhà xuất bản phát hành hàng chục ngàn cuốn, nó vẫn chưa được tới tay quảng đại quần chúng lao động. Các cơ quan truyền thông tư bản chẳng “dại” gì mà mất công tuyên truyền cho nó. Tác giả, Lêông Trôtski, là một trong những người thân cận nhất của Lênin, đã cùng Lênin lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng mười đến chỗ thành công, xây dựng Hồng quân Nga, sáng lập ra Liên bang Xô viết, đặt nền móng cho một chế độ xã hội xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử. Hơn ai hết, ông hiểu rõ những ưu điểm cùng nhược điểm của chế độ này. Ông đã theo dõi từng bước biến chuyển của nó, đánh giá khách quan những thành tựu cũng như những thất bại, đề ra những phương sách đấu tranh tránh cho nó sự băng hoại. Đối với Trôtski, cuộc Cách mạng Tháng mười đã bị phản bội. Một cuộc phản cách mạng chính trị técmiđo (Thermidor)[1] đã diễn ra trên đất nước Liên xô. Kể từ 1925[2], nền dân chủ Xô viết mà cách mạng 1917 khai trương, không còn nữa. Lợi dụng giai đoạn thoái trào quần chúng, một tầng lớp quan liêu, do Stalin đứng đầu, đã cấu kết nhau, nhảy ra lũng đoạn các cơ quan đảng, Nhà nước, nghiệp đoàn cùng các tổ chức quần chúng. Họ tước đoạt quyền hành của lao động, loại trừ và giết hại các chiến sĩ cách https://thuviensach.vn mạng, xuyên qua những vụ án bịa đặt, đẫm máu. Mỗi cuộc cách mạng thường kéo theo sau một thời kỳ thoái bộ hay phản cách mạng. Cuộc đại cách mạng tư sản Pháp 1789 đã kế tiếp bằng Tháng Nóng (Thermidor) rồi đến Đế chế của Nã Phá Luân. Cách mạng vô sản Nga cũng không tránh khỏi hiện tượng này. Từ ngày lên chính quyền, Stalin và đẳng cấp quan liêu đã biến đổi đảng Cộng sản Nga thành đảng quan liêu, các cơ quan xô viết thành hình nộm, Nhà nước Chuyên chính vô sản thành Nhà nước Độc tài quan liêu. Cuộc phản cách mạng chính trị này đã thay đổi diện mạo của Liên xô, tuy không thay đổi tính chất của chế độ. Hạ tầng cơ sở do Cách mạng Tháng mười để lại (quốc hữu hóa, công cộng hóa, kế hoạch hóa, độc quyền ngoại thương Nhà nước v.v...) vẫn duy trì. Nhưng thượng tầng kiến trúc có những thay đổi nghiêm trọng, khiến Nhà nước lao động bị suy thoái, biến dạng, không còn là Nhà nước lao động đích thực của thời Lênin nữa. Ngoài mặt, người ta vẫn tiếp tục tung hô Lênin và những khẩu hiệu của Lênin. Thực tế, Liên xô không còn là Liên xô của những người đã sáng lập ra nó. Đọc Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội của Trôtski, bạn đọc sẽ thấy nhiều nguyên lý của chủ nghĩa mác xít đã bị quan liêu chà đạp, xuyên tạc. Nhiều kết quả những cuộc đấu tranh của quần chúng đã bị tiêu tán hoặc bị đe dọa. Trên nhiều lãnh vực cơ bản: chính trị, xã hội, quân đội, thanh niên, văn hóa, ngoại giao, v.v..., Liên xô mỗi ngày xa rời chủ nghĩa xã hội. Để thiết lập nền độc tài một đảng, quyền lực một lãnh tụ, Stalin và đẳng cấp quan liêu đã thi hành luật lệ và các biện pháp thu hẹp quyền dân chủ. Thanh niên bị tước đoạt quyền chính trị. Trí thức, văn nghệ sĩ bị bịt mồm, bịt miệng. Dân chúng bị kiểm soát từng lời nói, ý nghĩ, việc làm. Xã hội đầy rẫy những kẻ nịnh hót, tham ô, đầu cơ, trục lợi. Bọn hãnh tiến ngoi lên. Người trung thực bị trù dập. Đảng và Nhà nước lựa chọn những người đại diện cho mình, không lựa chọn theo khả năng mỗi người mà chỉ dựa https://thuviensach.vn trên một tiêu chuẩn duy nhất: trung thành với Stalin và với đảng. Kết cục: chỉ lựa chọn một lũ người cơ hội và giả dối. Kế hoạch kinh tế, đáng nhẽ nhắm mục tiêu thỏa mãn yêu cầu của dân chúng, chỉ quan tâm đến yêu cầu của lãnh tụ và cán bộ. Đáng nhẽ xây dựng nhà ở cho lao động, người ta ưu tiên xây dựng những biệt thự sang đẹp cho các nhà chức sắc, những trụ sở huy hoàng cho Đảng, những lâu đài nguy nga cho Nhà nước, những trạm tàu điện ngầm đồ sộ... mục đích phô trương nhiều hơn là phục vụ dân chúng. Sản xuất đồ tiêu dùng, chương trình kế hoạch chú trọng sản xuất những xa xỉ phẩm, hợp với khẩu vị của tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Trẻ em thiếu bánh thiếu kẹo, nhưng không thể thiếu nước hoa hạng tốt dành riêng cho các “phu nhân” của các lãnh tụ, cán bộ. Lãnh tụ, cán bộ cao cấp có nhà thương riêng, nhà nghỉ mát riêng, nhà mua đồ riêng mà thường dân không được bén mảng. Họ thừa thãi những đồ vật tiêu dùng, trong lúc toàn dân thiếu thốn đủ thứ. Đối với giai cấp lao động, một chính sách “làm khoán” theo kiểu “stakhanôvích” đã được đem ra áp dụng. Chính sách này không những bóc lột lao động tệ hại hơn chế độ tư bản mà còn gây ra đố kỵ và hiềm khích trong hàng ngũ lao động do sự cách biệt quá mức giữa tiền lương mỗi người. Về mặt quân đội, người ta đã bãi bỏ chủ trương thành lập “quân đội nhân dân”, lập lại phẩm trật như thời Sa hoàng. Các thói tục phong kiến như sùng bái cá nhân, tôn ti trật tự, đắp tượng xây lăng tẩm cho các lãnh tụ v.v... đã được đem ra thi hành triệt để, xô đẩy xã hội vào vòng u muội. Cứ thế, xã hội phân chia nhiều thứ bậc như thời phong kiến, mặc dầu không có vua. Chênh lệch xã hội ngày một khơi sâu. Kẻ có vây cánh và thần thế chiếm giữ đặc quyền. Kẻ yếu kém, không điều kiện thay đổi cuộc sống. Nhiều tầng lớp nhân dân bất mãn với chế độ. Muốn cho xã hội khỏi rối loạn, chính quyền đã xây dựng một bộ máy công an, mật vụ kiên cố, https://thuviensach.vn một Nhà nước chuyên chế! Chính thể độc tài của Stalin phát sinh từ đó! Hiến pháp 1936, tuyên dương giai cấp đã xóa bỏ, phân biệt giai cấp không còn nữa. Liên Xô đã thực hiện xong giai đoạn kiến thiết chủ nghĩa xã hội và bắt đầu bước vào giai đoạn kiến thiết chủ nghĩa cộng sản. Thực tế hoàn toàn trái hẳn. Trôtski nói: “Trong những lãnh vực cơ bản, Liên xô chưa có một tí gì gọi là chủ nghĩa xã hội”! Đối với Trôtski, chủ nghĩa xã hội chỉ có thể gọi là thành công khi nào năng suất lao động ở Liên xô cao hơn các nước tư bản tiên tiến nhất. Như thế cũng chưa đủ, cần phải có một nền dân chủ xô viết đi song đôi. Không có dân chủ xô viết, không thể có chủ nghĩa xã hội. Một trong các biểu hiện của nền dân chủ xô viết là sự tiêu vong của Nhà nước, sự trao trả quyền hành Nhà nước cho dân sự, sự tự quản lý của nhân dân trong việc sản xuất. Vì những lý do nói trên, chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện lẻ loi riêng biệt trong một xứ. Chỉ khi nào cách mạng xã hội lan ra các xứ tư bản tiền tiến, lúc ấy mới có điều kiện thực hiện chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Thuyết “chủ nghĩa xã hội thành công trong một xứ” của Stalin và của quan liêu không những đi ngược lại những nguyên lý của chủ nghĩa mác xít mà nó còn là một sự lừa đảo có ý nghĩa đối với lao động và nhân dân thế giới. Nó đã gây ra các đổ vỡ như ta đã thấy! Đối với Trôtski, Liên xô là một chế độ giao thời giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Là giao thời, chế độ này có thể tiến đến chủ nghĩa xã hội hoặc trở lại chủ nghĩa tư bản, theo điều kiện biến chuyển quốc gia và quốc tế! Theo ông, nó chứa chất nhiều mâu thuẫn trầm trọng, một cuộc bùng nổ sẽ không tránh khỏi. Muốn cho Liên xô khỏi băng hoại, phải có một cuộc cách mạng chính trị, lật đổ chính quyền quan liêu, tái lập nền dân https://thuviensach.vn chủ xô viết thời Lênin. Không có cuộc cách mạng chính trị này, Liên xô sẽ tiến theo một trong hai giả thuyết: Một là nó sẽ bị một đảng tư sản lật đổ, tái lập chế độ tư sản. Ở trường hợp này, đại bộ phận đẳng cấp quan liêu sẽ tình nguyện trở thành tư sản. Hai là, do sự mâu thuẫn nội tại, quan liêu phân hóa. Đa số sẽ tranh thủ thành lập chế độ tư sản. Quan liêu tự động chuyển hóa thành giai cấp tư sản. Những gì đã xẩy ra gần đây chứng minh cho giả thuyết thứ hai này của Trôtski. Đúng là khi nền kinh tế Liên xô còn duy trì quốc hữu hóa, công cộng hóa, kế hoạch hóa, độc quyền ngoại thương Nhà nước, tóm lại, còn duy trì những thành quả của Cách mạng Tháng mười, chế độ Liên xô chưa thể coi là chế độ tư sản, đẳng cấp quan liêu chưa thể coi là giai cấp tư sản. Trong điều kiện ấy, Trôtski đã đem hết sức mình đấu tranh bảo vệ Liên xô, đứng trước các cuộc tấn công của tư bản. Sự bảo vệ này chỉ có nghĩa bảo vệ những thành quả của Cách mạng Tháng mười. Ngược lại, ông giữ toàn quyền tự do chỉ trích chính sách của Stalin và ban lãnh đạo Liên xô, mà theo ông, sẽ đi tới kết quả tiêu hủy những thành quả đó! Hồi sinh thời, Trôtski đã từng luận chiến với hai ông Buyếch Nam (Burnham) và Sát Man (Shachtman)[3], hai học giả người Mỹ, về vấn đề quan liêu và Liên xô. Cuộc luận chiến đã kết liễu bằng sự đoạn tuyệt chính trị giữa đôi bên. Trong hàng ngũ Đệ tứ quốc tế, cứ từng thời kỳ, vấn đề này lại được nêu ra, tranh cãi sôi nổi. Khuynh hướng thiểu số cho rằng quan liêu ở Liên xô, với chính sách phản động của họ, đã trở thành giai cấp tư sản kiểu mới; Liên xô trở thành một nước tư sản kiểu mới. Vấn đề bảo vệ Liên xô không đặt ra nữa như thời Trôtski còn sống. Khuynh hướng đa số vẫn duy trì lập trường cũ của Trôtski, khẳng định “bước nhảy biện chứng” (saut dialectique) đó chưa trở thành hiện thực. Chính sách bảo vệ Liên xô vẫn còn giá trị thời cuộc. Ngày nay, những diễn biến xẩy ra gần đây ở Liên xô đã giải quyết vấn đề này. Quan liêu và chính sách của quan liêu là vấn đề trọng tâm của mọi https://thuviensach.vn vấn đề về Liên xô. Không thể hiểu nổi sự sụp đổ của Liên xô, nếu không có sự nhận xét minh bạch về quan liêu. Một lẽ giản dị: quan liêu chứ không phải chủ nghĩa mác xít đã gây nên sự sụp đổ này. Thời Mác, thời Lênin, quan liêu chỉ là một khái niệm trừu tượng. Hai ông chưa có điều kiện cụ thể để nhận xét. Công trình của Trôtski là đã khai thác vấn đề, phân tích và phê phán theo phương pháp khoa học và biện chứng. Ông đã đóng góp một phần không nhỏ vào gia tài của chủ nghĩa mác xít. Trong nhiều tác phẩm, Trôtski trình bày một cách có hệ thống tính chất của quan liêu, sự thành hình và sự trở nên của nó. Dưới mắt ông, quan liêu không phải là một thói tục, một tư cách xử sự trong công việc hành chánh hay bàn giấy. Thứ quan liêu này ở chế độ nào, dưới bầu trời nào cũng có. Quan liêu mà ông nói là một “phạm trù xã hội” (catégorie sociale) xuất hiện từ sau Cách mạng Tháng mười. Đó là một tầng lớp gồm hàng ngàn hàng vạn người[4] nắm giữ những chức vụ then chốt trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, nghiệp đoàn, cùng các tổ chức quần chúng. Sự phát sinh ra tầng lớp quan liêu đó không do lý thuyết hay chương trình mà do các điều kiện vật chất, kinh tế và xã hội, sự nghèo nàn và lạc hậu của nước Nga, sự thấp kém về trình độ văn hóa và về nhân số vô sản, sự suy sụp của lực lượng sản xuất, sự mệt mỏi của quần chúng và sự tiêu hao lực lượng và nhân số các chiến sĩ, sau ba năm nội chiến và chiến tranh chống can thiệp ngoại bang v.v... Thêm vào đó, sự thất bại của phong trào cách mạng Đức 1918-23 và Hung gia lợi tiếp theo, sự chậm trễ của cách mạng châu Âu mà ban lãnh đạo cách mạng Nga mong đợi để giải tỏa vòng vây tư bản. Tất cả những yếu tố nói trên đã tạo ra điều kiện bất thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng và thuận lợi cho sự xuất hiện một tầng lớp quan liêu cơ hội, đứng ra chiếm giữ đặc quyền. Lớp người này cần có một lãnh tụ tin cậy, có quá khứ cách mạng, đồng thời có bộ óc thiển cận, có bản lãnh cương quyết, có mối dây liên hệ mật thiết với các cơ quan chính https://thuviensach.vn quyền: “Họ đã tìm ra Stalin, trước khi Stalin tìm ra lối đi của mình”! Nói về sự thắng lợi của Stalin trong Đảng, cuốn sách này cống hiến bạn đọc nhiều trang nhận xét độc đáo. Tác giả cho ta biết vì sao và dựa vào động lực xã hội nào, điều kiện nào, một người kiến thức hẹp hòi như Stalin, đóng vai trò thứ yếu trong cuộc Cách mạng Tháng mười, chưa mấy ai biết tên tuổi[5] thế mà bỗng nhảy ra sân khấu chính trị nắm giữ những chức vụ quan trọng, loại bỏ được các đối thủ tài giỏi hơn mình! Sau ngày Lênin mất, một trong những biện pháp của Stalin để chiếm đa số trong Đảng là mở rộng cửa Đảng đón nhận các phần tử quan liêu cơ hội vào Đảng. Chiến dịch này mệnh danh là “khóa Lênin” (promotion Lénine)[6] đã kết nạp hàng ngàn, hàng vạn đảng viên mới mà đại đa số là những người chưa từng có một ngày nào tham gia cách mạng. Họ chỉ có đặc tính là trung thành với Stalin và với Đảng. Xét về tính chất, quan liêu không phải là một giai cấp, mặc dầu có khát vọng trở thành một giai cấp. Trong quá trình sản xuất, quan liêu không có vị trí độc lập và cần thiết như một giai cấp. Quan liêu chỉ là một đám người ăn bám vào giai cấp lao động, như cây tầm gửi ăn bám vào một thân cây to, rút nhựa để sống. Trong hàng chục năm, quan liêu ở Liên xô đã rút ở nền kinh tế Nhà nước những đặc lợi, đặc quyền cho mình. Mặc dầu không chiếm hữu những phương tiện sản xuất, họ vẫn có quyền hưởng thụ tối đa những sản phẩm do những phương tiện sản xuất này làm ra. Chính vì thế, họ đã bảo vệ (bảo vệ theo phương pháp quan liêu của họ!) nền kinh tế tập thể, thành quả của cách mạng Tháng mười, như “bảo vệ con ngươi của mắt” họ. Nhưng có một vài điều vẫn làm cho họ không thỏa nguyện. Thứ nhất là cái địa vị “chông chênh” của họ. Hôm nay nắm đặc lợi đặc quyền. Ngày mai có thể mất hết! nếu không bị đưa đi đầy ở các gu-lắc hoặc bị một phát súng bắn vào sọ! Thứ hai họ vẫn phải lẩn lút giấu giếm thu nhập của https://thuviensach.vn họ, trước mắt dân chúng. Họ vẫn phải giả dối, đem chủ nghĩa mác xít ra tuyên truyền, trong lúc họ áp dụng chủ nghĩa này dưới lăng kính quan liêu của họ. Về mọi phương diện, tinh thần cũng như vật chất, đời sống của quan liêu khác biệt với đời sống của lao động, ngoài việc họ ăn bám lao động như những ký sinh trùng! Khác với giai cấp tư sản có quyền tư hữu, làm giàu, quan liêu có quyền hưởng thụ, không có quyền thuê mướn, bóc lột nhân công, trở thành triệu phú. Triển vọng số đông trong đám họ là có sự ổn định trong đời sống, tránh khỏi những bất trắc do chính thể của Stalin luôn luôn gây ra cho họ. Đứng trước sự sụp đổ của nền kinh tế tập thể do sự quản lý quan liêu của họ làm ra, họ nhận thấy không còn lối nào thoát ngoài việc tự mình chuyển hóa thành giai cấp tư sản. Họ sẽ có quyền tự do tích lũy tư bản, có quyền công khai xây dựng những xí nghiệp tư gia, có quyền công khai tuyên bố lý tưởng của mình như mọi giai cấp khác. Họ cần phải cắt mối giây ràng buộc họ với giai cấp lao động, đoạn tuyệt với Cách mạng Tháng mười mà họ đã lạm dụng danh nghĩa và uy tín trong vòng hơn nửa thế kỷ! Cũng như mọi tầng lớp xã hội khác, tầng lớp quan liêu phát triển không đồng đều. Hàng ngũ họ bao gồm nhiều cấp bậc. Do đó có nhiều khuynh hướng khác nhau. Nếu đại đa số[7] muốn trở thành tư sản, một thiểu số, gọi là “bảo thủ”, vẫn còn luyến tiếc quá khứ. Lớp người này lo sợ ngày mai không biết có duy trì được đặc lợi đặc quyền mà họ đang có? Trong đám đa số, gọi là “đổi mới” cũng phân chia hai ba khuynh hướng. Có người muốn “đổi mới” nhanh. Có người muốn chậm. Có hạng người thứ ba muốn điều hòa nhanh chậm để tránh đổ vỡ và nhất là tránh sự phản đối mạnh mẽ của quần chúng. Bản chất sâu xa của quan liêu là bảo thủ. Họ sợ những gì mới, những gì mà họ chưa kiểm soát được. Họ sợ nhất là các phong trào tự phát và độc lập của quần chúng! Kêu gọi quần chúng xuống đường lật đổ chế độ cũ là một hành động “mạo hiểm” đối với họ. Mạo hiểm vì tình hình có thể https://thuviensach.vn diễn biến khác với ý muốn của họ, một khi quần chúng nhảy vào cuộc tranh đấu. Nhưng họ không còn con đường nào khác chấm dứt một tình trạng đổ vỡ mà chính họ đã gây ra! Sau khi đã tận hưởng gia tài của Cách mạng Tháng mười và làm cho nó khánh kiệt, quan liêu “khám phá” ra rằng sự băng hoại của Liên xô không do tội lỗi của họ mà do đường lối của Lênin, “do sự không chính lý” của Cách mạng Tháng mười “là cuộc cách mạng đi ngược bước tiến của lịch sử”. Họ quên rằng những thể chế quốc hữu hóa, công cộng hóa, kế hoạch hóa, độc quyền ngoại thương v.v... tự nó không nhất thiết gây ra tai hại cho nền kinh tế. Sự tai hại là do việc quản lý quan liêu, do những thể chế chính trị quan liêu đã ngăn cản bước tiến triển của nó. Họ quên rằng Cách mạng Tháng mười xẩy ra 1917, Lênin mất 1924! Sau đó, trải qua hơn 50 năm, ai đã giữ vận mệnh của Liên xô? Ai đã thực hiện chính sách đi ngược hẳn đường lối của Lênin và những nguyên lý mà Cách mạng Tháng mười đã đề ra? Sự sụp đổ của Liên xô không phải là tiền định, không phải không thể tránh khỏi. Một đảng cách mạng theo tinh thần Lênin, một đảng có chương trình đúng đắn, biết dự báo hiểm họa, đưa ra các biện pháp đề phòng quan liêu và loại trừ nó trong trứng nước; một đảng biết tôn trọng quyền tự do dân chủ, quyền đối lập trong nội bộ đảng, quyền tự do phê bình kiểm soát lãnh đạo, tình hình có thể diễn biến một cách khác hẳn. Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội là bản cáo trạng lên án chính sách quan liêu staliniên đã áp dụng ở Liên xô. Nó giải đáp một số những sự kiện xẩy ra gần đây ở xứ này. Nó trả lời những ai, thiếu nhận xét khách quan, coi sự sụp đổ của Liên xô là sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Hoàng Khoa Khôi https://thuviensach.vn Paris, Décembre 1992 Chú thích: [1]Cuộc phản cách mạng chính trị Tháng Nóng (Tháng 7-1794) ở Pháp đã xử tử Robespierre và một số các lãnh tụ cách mạng. [2]Coi Trôtski Toàn Tập, Tập V trang 86. [3]Hai ông Buyêch Nam và Sát Man chống sự bảo vệ Liên xô trong cuộc chiến tranh 1939 - 40. [4]Năm 1936, Trôtski lượng tính 400.000 người trong giới lãnh đạo và 6.000.000 người ở các cấp dưới (những người có vai trò quản lý, chỉ huy, phân phát, phạt và thưởng). Ít nhất là 12% dân số. [5]Trong “Tờ Trình Bí Mật Của Krúpxêp về Stalin) trang 70, nxb Nghiên Cứu tại Pháp 1982. [6] Khóa này đã chấp nhận 240.000 đảng viên mới, chiếm gần một nửa số đảng viên của đảng. (Coi cuốn La Nomenklatura en URSS của Michael Volensky, trang 80, nxb Belfond, Paris). [7]Nhiều người đã sai lạc gọi đám người này là “tiến bộ”. https://thuviensach.vn Leon Trotsky Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội Dịch giả: Hoàng Khoa Khôi Mục Tiêu Của Công Trình Này Thế giới tư bản bắt đầu tảng lờ không chú ý đến những thắng lợi kinh tế của chế độ xô viết, bằng chứng thực nghiệm sức sống của các phương pháp xã hội chủ nghĩa. Trước nhịp điệu phát triển công nghiệp chưa từng có trong lịch sử, các nhà bác học kinh tế phục vụ tư bản thường cố giữ một thái độ im lặng sâu sắc hoặc chỉ nêu lên “Sự bóc lột thái quá” những người nông dân. Nhưng như thế họ lại bỏ mất một cơ hội rất tốt giải thích cho chúng ta biết tại sao sự bóc lột vô hạn độ những người nông dân ở Trung quốc, Nhật bản, Ấn độ lại không kéo theo một sự phát triển công nghiệp nhanh chóng ít nhiều giống như ở Liên xô. Tuy nhiên các sự việc vẫn tiếp tục phát huy tác dụng. Thư viện các nước văn minh chứa đầy các tác phẩm viết về Liên xô. Điều này không lạ: những hiện tượng như thế không phải thường xảy ra. Loại văn chứa đựng một thứ hận thù mù quáng với Liên xô chiếm một vị trí ngày càng nhỏ đi; ngược lại, một phần rất lớn những tác phẩm gần đây ngày càng tỏ rõ mối thiện cảm, nếu không nói là sự thán phục Liên xô. Ta chỉ có thể càng hoan nghênh sự có nhiều những tác phẩm thân Liên xô, coi đó là dấu hiệu tiến bộ về tiếng tăm của một quốc gia mới ngoi lên. Vả lại, lý tưởng hóa Liên xô thì còn hay gấp vạn lần so với lý tưởng hóa nước Ý phát xít. Nhưng người đọc không thể tìm thấy được trong những trang sách ấy một sự đánh giá khoa học về những gì thực tế đã diễn ra trên đất nước của cách mạng Tháng mười. Các tác phẩm của “những người bạn của Liên xô” chia làm ba loại lớn. Loại văn báo chí của những tay tài tử, loại mô tả, loại văn phóng sự “cánh tả” - ít hoặc nhiều đã viết ra số lượng lớn nhất của sách và bài báo. Bên cạnh đó, mặc dầu có ý đồ cao hơn, là những tác phẩm của “chủ nghĩa cộng https://thuviensach.vn sản” nhân văn trữ tình và có xu hướng hòa bình. Phần thứ ba dành cho những bản sơ đồ hóa về kinh tế, trong tinh thần Đức cổ của chủ nghĩa xã hội dạy trong các trường đại học. Lu-i Phisơ (Louis Fisher) và Đuyarăngti (Duranty) được mọi người biết là đại điện cho loại hình tác giả thứ nhất. Bacbuyt (Barbusse) và Rômanh Rôlăng (Romain Rolland) đại diện rõ nhất cho loại hình những “người bạn nhân văn”: Không phải là không có lý do, trước khi đến với Stalin, người này đã viết Cuộc Đời Chúa Kitô và người kia, một Tiểu Sử Của Găngđi (Gandhi). Cuối cùng, chủ nghĩa xã hội bảo thủ và thông thái rởm có cặp sử gia cổ điển Oep (Webb) viết không biết mỏi là những đại diện có thẩm quyền nhất. Cái nối liền ba loại hình tác giả rất khác nhau ấy là sự tôn sùng sự việc đã rồi và thiên về những sự khái quát hóa làm yên tâm mọi người. Tất cả các tác giả ấy không có sức để vươn lên chống lại chủ nghĩa tư bản nước mình. Họ lại càng phải dựa vào một cuộc cách mạng của nước ngoài, vả chăng đã được lắng dịu. Trước cuộc cách mạng Tháng mười và nhiều năm sau đó, không một ai trong họ, không một ai là bậc tiền nhân tinh thần của họ, đã tự hỏi một cách nghiêm chỉnh chủ nghĩa xã hội có thể đến thế gian này bằng con đường nào. Họ lại càng dễ dàng nhận ra chủ nghĩa xã hội trong những gì đang diễn ra ở Liên xô, điều đó đem đến cho họ dáng dấp những con người tiến bộ đi với thời đại và một thứ sức mạnh tinh thần mà không ràng buộc họ với cái gì cả. Tác phẩm của họ, một thứ tác phẩm của trầm tư và chiêm ngưỡng, mang sắc thái lạc quan, hoàn toàn không có sức công phá, chỉ thấy được những điều phiền nhiễu ở trong quá khứ, làm yên tâm cân não người đọc đang sẵn sàng chào đón. Tự nhiên hình thành một trường phái quốc tế có thể gọi là trường phái của “Chủ nghĩa bônsêvích dùng cho giai cấp tư sản sáng suốt” hoặc trong một nghĩa hẹp hơn, trường phái của “Chủ nghĩa xã hội của những du khách cấp tiến.” Chúng tôi không nghĩ đến việc tranh luận với những tác phẩm kiểu ấy, bởi vì chúng không tạo ra những cơ hội nghiêm chỉnh để tranh luận. Các vấn đề kết thúc ở chỗ trong thực tế nó chỉ mới bắt đầu. Mục tiêu của công trình https://thuviensach.vn nghiên cứu này là cung cấp một sự đánh giá đúng đắn về cái hiện có để hiểu rõ hơn cái đang làm. Chúng tôi chỉ dừng lại ở ngày đã qua trong chừng mực cần thiết để dự đoán tốt hơn về ngày sắp tới. Bản trình bày của chúng tôi sẽ mang tính chất phê bình. Kẻ nào cúi mình trước sự đã rồi, kẻ đó hoàn toàn không có năng lực để chuẩn bị cho tương lai. Sự phát triển kinh tế và văn hóa của Liên xô đã trải qua nhiều giai đoạn nhưng chưa đạt, và còn xa mới đạt đến chỗ cân bằng nội bộ. Nếu nghĩ rằng mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là tạo ra một xã hội không giai cấp, dựa trên sự liên kết và thỏa mãn hài hòa mọi nhu cầu, trong ý nghĩa cơ bản ấy thì chưa có một tí xã hội chủ nghĩa nào ở Liên xô. Đúng là những mâu thuẫn trong xã hội xô viết, do bản chất của chúng, khác nhau về căn bản với những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, nhưng không vì thế mà chúng kém gay gắt. Nó bộc lộ ra bằng sự bất bình đẳng vật chất và văn hóa, bằng sự đàn áp, bằng sự hình thành những nhóm chính trị, bằng sự đấu tranh giữa các phe phái trong đảng. Chế độ cảnh sát, mật vụ bóp nghẹt và làm méo mó cuộc đấu tranh chính trị nhưng không loại trừ được nó. Những tư tưởng bị ngăn cấm cứ từng bước ảnh hưởng đến đường lối chính trị của chính phủ, hoặc nó làm phong phú thêm, hoặc nó cản trở. Trong những điều kiện ấy, phân tích sự phát triển của Liên xô không thể có một lúc nào tách rời những tư tưởng và khẩu hiệu mà dưới đó đã diễn ra trong toàn quốc một cuộc đấu tranh chính trị bị bóp nghẹt nhưng rất sôi nổi. Ở đây lịch sử hòa lẫn với một nền chính trị sống động. Những kẻ tầm thường “Cánh tả”, tư duy theo lối phải đạo, hợp truyền thống, thích nhắc nhở rằng cần phải hết sức thận trọng trong việc phê phán Liên xô để khỏi hại cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về phía chúng tôi, chúng tôi không nghĩ rằng Nhà nước xô viết lại mong manh đến thế. Những kẻ thù của Liên xô biết về Liên xô nhiều hơn những người bạn chân chính của Liên xô là những công nhân của tất cả các nước trên thế giới. Bộ tham mưu các nước đế quốc ghi chép tường tận ưu và https://thuviensach.vn nhược điểm của Liên xô, và không chỉ căn cứ vào những báo cáo được công bố. Rủi ra, kẻ thù có thể lợi dụng những chỗ yếu của Nhà nước lao động, nhưng chúng không có cách nào lợi dụng được sự phê phán những khuynh hướng của Nhà nước này mà chính chúng cũng coi là những khuynh hướng tích cực. Sự bất bình của đa số những “người bạn” công khai của Liên Xô đối với những ai phê phán Liên xô thật ra là che giấu sự băn khoăn và tính mong manh yếu ớt của tư duy của họ hơn là sự mong manh của bản thân Liên xô. Vậy thì chúng ta hãy bình thản gạt đi những lời cảnh cáo và những mối lo ngại ấy. Sự việc quyết định, chứ không phải những ảo tưởng. Chúng tôi muốn trình bày một khuôn mặt thật chứ không phải một cái mặt nạ. L.T. 4 tháng tám 1936 Tái bút: Cuốn sách viết xong và vừa gửi đến nhà xuất bản đúng vào lúc được tin vụ án “Những người khủng bố”[1] ở Matxcơva, vì thế sự việc ấy không được bình phẩm ở đây. Lại càng thấy cần thiết phải nhấn mạnh rằng công trình này giải thích một cách dự báo vụ án “Những người khủng bố” đang diễn ra và cho thấy tính thần bí của nó chỉ là một sự lừa gạt. Tháng chín 1936 https://thuviensach.vn Chú thích: [1]Vụ án tháng tám 1936 https://thuviensach.vn Leon Trotsky Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội Dịch giả: Hoàng Khoa Khôi 1- THÀNH TỰU Những Chỉ Tiêu Chính Của Sự Phát Triển Nông Nghiệp Vai trò không đáng kể của giai cấp tư sản Nga khiến những mục tiêu dân chủ của nước Nga lạc hậu, như là sự thanh toán chế độ đế chế và sự lệ thuộc của nông dân sống trong tình trạng bán nô lệ, chỉ có thể đạt được nhờ chuyên chính vô sản. Nhưng khi đã dẫn đầu giai cấp nông dân và nắm được chính quyền, giai cấp vô sản không thể dừng lại ở những cải cách dân chủ. Cuộc cách mạnh tư sản hòa nhập ngay với giai đoạn đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều đó không phải vì những lý do ngẫu nhiên. Lịch sử những thập kỷ cuối cùng chứng tỏ với một sức mạnh đặc thù rằng trong những điều kiện của thời kỳ suy đồi của chủ nghĩa tư bản, những nước lạc hậu không thể ngoi lên ngang tầm những cường quốc cổ truyền của tư bản. Bọn văn minh trong ngõ cụt chặn đường những kẻ muốn tiến tới văn minh. Nước Nga đi vào con đường cách mạng vô sản, không phải vì nền kinh tế của nó đã chín muồi nhất để biến hóa thành xã hội chủ nghĩa mà bởi vì nó không thể phát triển được nữa trên những nền móng tư bản chủ nghĩa. Sự xã hội hóa các phương tiện sản xuất trở thành điều kiện tiền đề cần thiết đưa đất nước ra khỏi tình trạng man rợ: đó là qui luật phát triển phối hợp của các nước lạc hậu. Đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa như là “mắt xích yếu nhất của giây chuyền tư bản” (Lênin), đế quốc cũ của Nga hoàng ngày nay, mười chín năm sau cách mạng, còn phải “đuổi kịp và vượt” - trước hết là đuổi kịp - châu Âu và châu Mỹ. Nói cách khác, là phải giải quyết những vấn đề sản xuất và kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản tiên tiến đã giải quyết từ lâu. Có thể khác được không? Sự lật đổ các giai cấp thống trị già cỗi chưa phải là đã giải quyết xong những vấn đề đó. Nó chỉ mới nêu lên mà thôi: làm sao tiến từ tình trạng man rợ đến chỗ có văn hóa. Đồng thời tập trung quyền sở hữu của phương tiện sản xuất trong tay Nhà nước, cách https://thuviensach.vn mạng đã cho phép áp dụng những phương sách kinh tế mới có hiệu lực vô cùng lớn. Chỉ nhờ có sự lãnh đạo theo một kế hoạch duy nhất mà trong thời gian ngắn người ta có thể xây dựng lại những gì đã bị phá hoại trong chiến tranh đế quốc và nội chiến, dựng lên những nhà máy mới đồ sộ, những công nghiệp mới, những ngành công nghiệp hoàn chỉnh. Sự chậm trễ quá mức của cách mạng thế giới mà các nhà thủ lĩnh của đảng bônsêvich vẫn trông đợi trong một kỳ hạn ngắn, vừa gây cho Liên xô những khó khăn lớn lại vừa làm nổi bật hiện tượng Liên xô có những tài nguyên nội tại và những khả năng đặc biệt to lớn. Sự đánh giá đúng đắn những kết quả đạt được - về thành công to lớn cũng như những hạn chế - tuy nhiên chỉ có thể làm được ở tầm cỡ quốc tế. Phương pháp mà chúng tôi sử dụng là phương pháp giải thích bằng lịch sử và xã hội học và không phải là sự tích lũy những điều minh họa bằng thống kê. Tuy nhiên chúng tôi cũng sẽ lấy khởi điểm từ vài con số chọn trong những số liệu quan trọng nhất. Tầm rộng lớn của công cuộc công nghiệp hóa ở Liên xô trong khung cảnh ứ đọng và suy vong của hầu khắp thế giới tư bản, làm nổi bật những chỉ tiêu tổng thể sau đây. Sản xuất công nghiệp của nước Đức lúc này chỉ mới trở lại ngang tầm năm 1929 nhờ có cơn sốt của chạy đua vũ trang. Trong cùng thời gian, sản xuất của nước Anh, kể cả có chế độ thuế quan bảo hộ, chỉ tăng có 3 đến 4%. Sản xuất công nghiệp của nước Mỹ giảm chừng 25%, của nước Pháp trên 30%. Nước Nhật, điên cuồng chạy đua vũ trang và cường đạo, nhờ những thành công, đã đứng vào hàng đầu các nước tư bản: sản xuất của nó đã tăng gần 40%. Nhưng chỉ tiêu đặc biệt ấy cũng phải mờ đi trước tính năng động của sự phát triển của Liên xô mà sản xuất nông nghiệp đã tăng 3,5 lần trong cùng một thời gian, có nghĩa là tăng 250%. Trong mười năm cuối (1925 - 1935), công nghiệp nặng xô viết đã tăng sản xuất lên hơn mười lần. Trong năm đầu của kế hoạch năm năm lần thứ nhất, vốn đầu tư là 5,4 tỉ rúp, năm 1936, nó sẽ là 32 tỉ. Nếu thấy đồng rúp là đơn vị đo lường không ổn định, chúng ta từ bỏ những tính toán tài chính, và chọn những cách đánh giá khác chắc chắn hơn. Tháng chạp 1913, mỏ Đônet (Donetz) sản xuất 2.275.000 tấn than, https://thuviensach.vn tháng chạp 1935, 7.125.000 tấn. Trong ba năm cuối, sản xuất gang đã gấp đôi, thép và thép tấm được nhân lên gần hai lần rưỡi. So với trước chiến tranh, khai thác dầu lửa, than đá, quặng sắt nhân lên với ba hoặc ba rưỡi. Năm 1920, khi đã quyết định kế hoạch thứ nhất điện khí hóa, đất nước có 10 nhà máy điện địa phương, tổng công suất 253.000 kilôoat. Năm 1935, đã có 95 nhà máy điện địa phương, tổng công suất 4.345.000 kilôoat. Năm 1925, Liên xô đứng thứ mười một trên thế giới về sản xuất điện lực; năm 1935, Liên xô chỉ còn thua kém Đức và Mỹ. Về khai thác than đá, Liên xô từ chỗ đứng thứ mười tiến lên đứng thứ tư. Về sản xuất thép, từ thứ sáu lên thứ ba. Về sản xuất máy kéo, Liên xô đứng đầu thế giới. Về sản xuất đường, cũng vậy. Những kết quả to lớn trong công nghiệp, sự mở đầu đầy hứa hẹn của một nền nông nghiệp đang vươn lên, sự lớn lên kỳ diệu của các thành phố công nghiệp truyền thống, sự xuất hiện những thành phố mới, sự tăng trưởng nhanh chóng nhân số công nhân, sự nâng cao trình độ văn hóa và nhu cầu, đó là những kết quả không chối cãi được của cách mạng Tháng mười, cuộc cách mạng mà các nhà tiên tri của thế giới cũ chỉ muốn coi là nấm mồ của nền văn minh. Cũng không cần phải tranh cãi với các nhà kinh tế học tư sản: chủ nghĩa xã hội đã chứng minh quyền thắng của nó, không phải trong những trang của Tư bản luận, mà trên một khu vực kinh tế rộng bằng một phần sáu địa cầu; không bằng ngôn ngữ của biện chứng pháp mà bằng ngôn ngữ của sắt, xi măng và điện. Cho dù có phải ngã gục do những đòn từ ngoài đánh vào và do những lỗi lầm của những người lãnh đạo - chúng tôi tin chắc điều đó sẽ tránh được - Liên xô vẫn còn cơ sở bảo đảm cho tương lai, cơ sở không thể phá hủy mà chỉ có cách mạng vô sản mới cho phép một nước lạc hậu, trong vòng không đầy hai mươi năm thu được những kết quả chưa từng thấy trong lịch sử. Như thế là kết thúc cuộc tranh cãi với phái cải lương trong phong trào công nhân. Có thể nào, dù chỉ trong một phút giây, so sánh những hoạt động chuột nhắt của những người này với sự nghiệp khổng lồ của một dân tộc vươn tới một cuộc sống mới theo tiếng gọi của cách mạng? Nếu năm 1918, đảng xã hội-dân chủ Đức biết lợi dụng chính quyền mà giai cấp công https://thuviensach.vn nhân trao cho để làm cách mạng xã hội chủ nghĩa chứ không phải để cứu chủ nghĩa tư bản, thì có thể hình dung dễ dàng theo gương của Liên xô, sức mạnh vô địch của nền kinh tế sẽ như thế nào của khối xã hội chủ nghĩa Trung và Đông âu và một phần lớn của châu Á. Các dân tộc thế giới còn phải trả giá bằng những cuộc chiến tranh mới và những cuộc cách mạng mới cho những tội ác lịch sử của chủ nghĩa cải lương. Đánh Giá So Sánh Các Kết Quả Các hệ số năng động của công nghiệp xô viết là hiện tượng chưa từng có trong lịch sử. Nhưng không phải một sớm một chiều mà chúng giải quyết được vấn đề. Liên xô đi lên từ một trình độ thấp kinh khủng, trong khi các nước tư bản trườn lên từ một trình độ rất cao. Tương quan lực lượng hiện nay được quyết định không phải từ tính năng động phát triển mà từ sự đối lập của lực lượng tổng thể của hai đối thủ, biểu hiện bằng các nguồn dự trữ vật chất, kỹ thuật, văn hóa và trước hết năng suất lao động của con người. Chúng ta chỉ mới đề cập vấn đề dưới góc độ thống kê ấy, tình hình tỏ ra bất lợi cho Liên xô. Câu hỏi đặt ra của Lênin: “Ai sẽ thắng?” là vấn đề tương quan lực lượng giữa một bên là Liên xô và giai cấp vô sản cách mạng thế giới, một bên là các lực lượng thù địch bên trong và chủ nghĩa tư bản thế giới bên ngoài. Những thành tựu kinh tế của Liên xô cho phép Liên xô được mạnh lên, tiến lên, tự võ trang và nếu cần, đánh thắng và chờ đợi, nói tóm lại, là đứng vững. Nhưng tự bản thân nó, vấn đề “Ai sẽ thắng?” không chỉ ở ý nghĩa quân sự của danh từ mà trước hết ở ý nghĩa kinh tế, được đặt ra cho Liên xô trên bình diện thế giới. Sự can thiệp bằng quân sự là nguy hiểm. Sự thâm nhập bằng hàng hóa rẻ tiền, đi theo sau các đội quân tư bản, còn nguy hiểm hơn rất nhiều. Lẽ tự nhiên, thắng lợi của giai cấp vô sản trong một nước phương Tây đem đến liền ngay một thay đổi căn bản về tương quan lực lượng. Nhưng ngày nào Liên xô còn bị cô lập, tệ hơn nữa, ngày nào giai cấp vô sản châu Âu còn đi từ thất bại này sang thất bại khác và lùi bước, sức mạnh của chế độ xô viết cuối cùng sẽ đo bằng năng suất lao động. Trong sản xuất hàng hóa, năng suất này được biểu thị bằng giá thành và giá bán. Hiệu số giữa các giá hàng nội địa và giá hàng trên thị trường thế giới https://thuviensach.vn là một trong những chỉ số quan trọng nhất về tương quan lực lượng. Thế nhưng thống kê xô viết lại bị cấm không được đụng chạm đến, dù chỉ một chút xíu về vấn đề này. Bởi vì xét trong lĩnh vực kỹ thuật, tổ chức và văn hóa lao động, chủ nghĩa tư bản, mặc dù sự đình đốn và ứ đọng của nó, vẫn còn ở mức độ xa hơn so với Liên xô. Người ta biết khá nhiều về tình trạng lạc hậu cổ truyền của nông nghiệp xô viết. So sánh với công nghiệp, nông nghiệp bất cứ ở địa hạt nào, vẫn chưa có thành công tương xứng “Chúng ta còn rất chậm trễ đối với các nước tư bản,” Môlôtôp (Molotov) kêu ca vào cuối năm 1935 khi nói về “năng suất củ cải đường.” Năm 1934, Liên xô đạt 82 tạ một hecta, năm 1935, ở Ucơrai (Ukraine), trong một vụ đặc biệt, 131 tạ. Ở Tiệp khắc và Đức, một hecta thu hoạch gần 250 tạ, ở Pháp trên 300. Những lời than vãn của Môlôtôp có thể nói chung cho tất cả các ngành nông nghiệp, mà không phải là quá đáng, từ cây công nghiệp đến cây lương thực và đặc biệt là, trong chăn nuôi. Cách luân canh hợp lý, chọn hạt giống, dùng phân bón, máy kéo, thiết bị nông nghiệp tiên tiến, nuôi gia súc cho giống, thực tế tất cả các việc đó chuẩn bị cho một cuộc cách mạng rộng lớn trong nền nông nghiệp được xã hội hóa. Nhưng ngay trong lĩnh vực này, một trong những lĩnh vực bảo thủ nhất, cách mạng đòi hỏi phải có thời gian. Mặc dù đã tập thể hóa, mục tiêu trong hiện tại là tiến gần đến các mẫu hình cao của tư bản phương Tây với hình thức những trại tư nhân nhỏ của họ. Sự phấn đấu để tăng năng suất lao động trong công nghiệp đi theo hai đường: tiếp thu kỹ thuật tiên tiến và sử dụng tốt nhân công. Khả năng xây dựng trong thời gian ngắn những nhà máy lớn theo kiểu hiện đại nhất, một mặt là nhờ kỹ thuật cao của tư bản chủ nghĩa phương Tây, mặt khác nhờ chế độ kế hoạch hóa. Ở lĩnh vực này, chúng ta tiếp thu những thành quả của người khác. Sự kiện công nghiệp xô viết và cả thiết bị của hồng quân tăng trưởng nhanh chóng, bao hàm những lợi thế tiềm tàng to lớn. Kinh tế không buộc phải kéo lê thê một thiết bị cũ kỹ như ở Pháp hoặc ở Anh, quân đội không bắt buộc phải dùng vũ khí cũ. Nhưng sự tăng trưởng như cơn sốt ấy có những mặt tiêu cực: các nhân tố kinh tế không hài hoà với nhau, con người không theo kịp kỹ thuật, lãnh đạo ở dưới tầm nhiệm https://thuviensach.vn vụ. Tất cả được biểu thị bằng những giá thành quá cao trong một nền sản xuất mà chất lượng còn thấp. Người lãnh đạo công nghiệp dầu lửa viết: “Các giếng dầu của ta cũng cùng một thiết bị như các giếng dầu của Mỹ, nhưng tổ chức khoan thì chậm trễ, cán bộ thì năng lực rất yếu.” Số lớn những tai nạn xảy ra là do “sự lười nhác, thiếu năng lực và thiếu sót trong việc theo dõi kiểm tra kỹ thuật.” Môlôtôp phàn nàn “chúng ta rất chậm tiến trong tổ chức các công trường xây dựng... Thông thường ở đây vẫn theo nếp cũ, lối mòn, sử dụng thiết bị, máy móc một cách quá tồi tệ”. Người ta thấy những lời thú nhận như thế trong tất cả báo chí xô viết. Kỹ thuật hiện đại còn xa mới cho Liên xô được những kết quả như ở các xứ tư bản quê hương của nó. Những thành công tổng thể của công nghiệp nặng là một thắng lợi khôn kể: người ta chỉ có thể xây dựng trên những nền móng như thế; nhưng chỉ trong sự sản xuất nhỏ tinh vi nhất, một nền kinh tế hiện đại mới biểu hiệu rõ khả năng của mình. Về mặt đó, còn rất chậm trễ. Những kết quả nghiêm chỉnh nhất, không chỉ số lượng mà là cả chất lượng, chắc chắn là đã đạt được trong công nghiệp vũ khí, quân đội và hải quân là những khách hàng có thế lực nhất và đòi hỏi cao nhất. Tuy nhiên những người lãnh đạo các cơ quan trong quân đội, kể cả Vôrôsilôp (Vorochilov), không ngừng kêu ca, trong những diễn văn đã được công bố: “Chúng ta không lúc nào hoàn toàn thỏa mãn về chất lượng sản phẩm cung cấp cho hồng quân”. Người ta đoán được không khó khăn mối lo trong những lời nói thận trọng ấy. Người đứng đầu của công nghiệp nặng, trong một báo cáo công khai, nói rằng chế tạo máy “là phải chất lượng cao, nhưng khốn thay lại không được như thế...” Xa hơn: “Máy của chúng ta đắt quá.” Cũng như bất cứ lúc nào, báo cáo viên tránh không cung cấp những dữ kiện so sánh chính xác với nền sản xuất thế giới. Máy kéo là niềm tự hào của công nghiệp xô viết, nhưng hệ số sử dụng các máy kéo lại rất thấp. Trong kiểm tra kinh tế mới rồi, 81% máy kéo đã phải sửa chữa lớn và khá nhiều máy đã ngoài vòng sử dụng giữa lúc thời vụ khẩn trương nhất. Theo một số tính toán, những trạm máy và máy https://thuviensach.vn kéo chỉ đủ chi phí với những vụ thu hoạch từ 20 đến 22 tạ hạt một hecta. Như hiện nay năng suất trung bình theo hecta chưa đạt một nửa con số đó, Nhà nước buộc phải bù lỗ đến hàng tỉ đồng. Tình hình vận chuyển bằng ôtô còn xấu hơn nữa. Một xe tải chạy ở Mỹ 60.000, 80.000 và đến 100.000 km một năm, ở Liên xô chỉ chạy được 20.000, từ ba đến bốn lần kém hơn. Trên một trăm máy, năm mươi lăm chiếc chạy trên đường, những chiếc khác đang sửa chữa hoặc chờ sửa chữa. Chi phí cho các sửa chữa lớn bằng hai lần tổng giá sản xuất ra những máy mới. Theo ý kiến của ban kiểm tra của chính phủ, không có gì lạ “Những vận chuyển bằng ôtô đối với giá thành của sản xuất là một gánh nặng đặc biệt”. Theo lời ông chủ tịch Hội đồng Dân ủy, sự gia tăng khả năng vận chuyển của đường sắt đi kèm theo với “một số lớn tai nạn và trượt bánh.” Nguyên nhân chủ yếu không thay đổi vẫn là chất lượng làm việc kém, để lại từ quá khứ. Sự phấn đấu để bảo dưỡng đúng mức đường sắt trở thành một sự nghiệp anh hùng, những người bẻ ghi được khen thưởng, đọc báo cáo ở điện Cơremlanh, trước những đại diện cao nhất của chính quyền. Mặc dầu thành quả của những năm gần đây, vận chuyển đường biển còn rất chậm tiến so với đường sắt. Người ta thấy cứ từng thời kỳ trên các báo những mục về “công việc tồi tệ trong vận chuyển đường biển,” chất lượng “thấp không tưởng được của những sửa chữa trong hạm đội” v.v... Trong các ngành của công nghiệp nhẹ, tình hình còn bất lợi hơn trong công nghiệp nặng. Đối với công nghiệp xô viết, người ta có thể vạch ra một qui luật khá đặc biệt: nói chung, các sản phẩm, càng gần người tiêu thụ càng xấu. Theo báo Sự Thật (Pravda), trong công nghiệp dệt, “tỷ lệ phần trăm phế phẩm thật đáng sỉ nhục, cách phối hợp kém, chất lượng xấu chiếm phần lớn.” Những lời kêu ca chất lượng xấu của những hàng thiết yếu bậc nhất thường kỳ xuất hiện trên báo chí xô viết: “hàng sắt tây được gia công một cách vụng về”; “đồ gỗ xấu xí, đóng đinh không chặt, làm qua quít, cẩu thả”; “không tìm đâu những khuy dùng tạm được”; “các cửa hàng thực phẩm công cộng làm việc rất đáng chê” v.v... Khẳng định những thành công của công nghiệp hóa mà chỉ căn cứ https://thuviensach.vn vào những chỉ số về số lượng thì cũng gần như xác định thân thể của mỗi người chỉ bằng chiều cao, không cho biết vòng ngực. Vả lại, một sự đánh giá đúng hơn về tính năng của nền kinh tế xô viết đòi hỏi, đồng thời với sự hiệu chỉnh về chất lượng, cần phải luôn luôn nhớ rằng những thành công nhanh chóng giành được trong một lĩnh vực lại đi song đôi với những chậm trễ trong các lĩnh vực khác. Sự thành lập những nhà máy lớn sản xuất ôtô trả giá bằng sự coi thường và bỏ rơi hệ thống đường sá. Báo Tin Tức (Izvestia) nhận xét: “Sự bỏ mặc đường sá của chúng ta thật kỳ lạ, không thể chạy xe trên mười cây số trên lòng đường rất quan trọng Matxcơva Zarôtlap (Moscou-Iaroslav).” Chủ tịch ủy ban kế hoạch khẳng định đất nước vẫn còn giữ những truyền thống của những “thế kỷ không đường sá.” Kinh tế đô thị cũng ở trong một tình trạng tương tự. Những thành phố công nghiệp mới xuất hiện trong thời gian ngắn trong khi hàng chục thành phố cổ rơi vào sự lãng quên hoàn toàn. Các thủ đô và các thành phố công nghiệp lớn lên và đẹp ra, người ta thấy nổi lên đây đó những nhà hát và những câu lạc bộ đắt tiền, nhưng khủng hoảng nhà ở thì quá mức không chịu đựng nổi, thông thường vấn đề nhà ở bị sao nhãng hoàn toàn. “Chúng ta xây dựng xấu và đắt, toàn bộ nhà ở hỏng nát và không được bảo dưỡng, chúng ta ít sửa chữa và sửa chữa kém.” (Tin Tức) Những mất cân đối ấy là sự xảy ra thông thường của toàn bộ nền kinh tế. Trong một chừng mực nào đó, nó không tránh khỏi bởi vì phải và vẫn còn phải bắt đầu xây dựng từ những khu vực quan trọng nhất. Càng đúng hơn nữa là tình trạng lạc hậu của một số khu vực tạo ra sự thấp kém cho những khu vực khác. Nếu ta hình dung một nền kinh tế chỉ huy lý tưởng, không nhắm thúc đẩy sự phát triển nhanh của một số ngành, mà chỉ nhắm tạo dựng những kết quả tốt nhất cho toàn bộ nền kinh tế, hệ số thống kê tăng tiến sẽ nhỏ hơn trong giai đoạn đầu, nhưng toàn bộ nền kinh tế và người tiêu thụ sẽ được lợi hơn. Do đó, sự năng động chung của nền kinh tế cũng được lợi hơn. Trong thống kê của chính phủ, sản xuất và sửa chữa ôtô được cộng lại thành một tổng số của sản xuất công nghiệp; đứng trên quan điểm hiệu quả kinh tế, ở đây làm tính trừ thì phải hơn là làm tính cộng. Nhận xét này https://thuviensach.vn cũng bao hàm những công nghiệp khác. Cho nên tất cả những ước tính tổng quát bằng rúp chỉ có một giá trị tương đối: người ta không biết đồng rúp là gì và người ta không bao giờ biết cái gì nấp sau nó, sự làm ra hay phá đi quá sớm một cỗ máy. Nếu tính bằng rúp “ổn định,” tổng sản xuất công nghiệp nặng đã tăng sáu lần so với nó trước chiến tranh. Sự khai thác dầu lửa và than đá cũng như sản xuất gang tính bằng tấn chỉ mới nhân lên với ba hay ba rưỡi. Nguyên nhân chính của sự không hài hòa là công nghiệp xô viết đã tạo ra những ngành mới, nước Nga thời Sa hoàng chưa từng biết. Nhưng cần nhìn rõ một nguyên nhân phụ là sự thao tác có ý đồ trong các bản thống kê. Ta biết rằng bộ máy quan liêu nào cũng đều nhận thấy nhu cầu hữu cơ là phải tô vẽ thực tế. Tính Theo Đầu Dân Năng suất lao động trung bình cá nhân còn rất thấp ở Liên xô. Theo lời thú nhận của giám đốc nhà máy luyện kim hạng nhất sản xuất gang và thép tính theo đầu thợ, ba lần thấp hơn năng suất trung bình ấy ở Mỹ. Sự so sánh trung bình giữa hai nước chắc sẽ cho những tỉ lệ từ một đến năm, hoặc thấp hơn nữa. Trong điều kiện ấy, sự khẳng định các lò luyện kim ở Liên xô được sử dụng “tốt hơn” các nước tư bản, lúc này là vô nghĩa; kỹ thuật không có mục tiêu nào khác hơn là tiết kiệm sức lao động của con người. Trong công nghiệp rừng và xây dựng, tình trạng lại còn xấu hơn trong ngành luyện kim. Tính đầu thợ khai thác sản xuất ở Mỹ là 5000 tấn một năm và ở Liên xô 500 tấn, tức là mười lần kém hơn. Sự khác nhau quá đáng được giải thích bằng sự kém tổ chức lao động hơn là sự kém đào tạo nghề nghiệp của thợ. Tầng lớp quan liêu ra sức đốc thúc thợ nhưng không biết sử dụng đúng đắn nhân công. Và lẽ tự nhiên, nông nghiệp lại còn không may hơn về mặt đó. Năng suất lao động thấp thì thu nhập quốc dân cũng thấp và từ đó, mức sinh hoạt của quần chúng nhân dân cũng thấp. Khi người ta nói với chúng tôi Liên xô năm 1936 sẽ đứng đầu ở châu Âu về sản xuất công nghiệp - thành công to lớn tự bản thân nó - người ta không chú ý đến không những chất lượng và giá thành, mà cả con số dân. Thế nhưng trình độ phát triển chung trong nước và đặc biệt, điều kiện https://thuviensach.vn sinh hoạt vật chất của quần chúng chỉ có thể xác định, dù trong những nét lớn, bằng cách chia sản xuất với con số những người tiêu thụ. Ta thử làm xem phép tính đơn giản ấy. Vai trò những đường sắt trong kinh tế, đời sống văn hoá và chiến tranh không cần phải chứng minh nhiều. Liên xô có 83.000 kilômet đường so với 58.000 của Đức, 63.000 của Pháp, 417.000 của Mỹ. Điều đó có nghĩa là cứ 10.000 dân: ở Đức có 8,5 km đường; ở Pháp, 15,2 km; ở Mỹ, 33,1 km; ở Liên xô 5 km. Về đường sắt, Liên xô vẫn ở hàng cuối của thế giới văn minh. Đội tàu buôn trong năm năm gần đây đã lớn lên ba lần. Hiện nay gần ngang tầm Tây ban nha và Đan mạch. Thêm vào đó sự thiếu đường sá. Năm 1935, Liên xô sản xuất 0,6 ôtô cho 1.000 dân; nước Anh làm ra (1934) gần 8 chiếc cho cùng một con số dân, Pháp 4,5, Mỹ 23 (so với 36,5 năm 1928). Mặc dù tình trạng hết sức lạc hậu về đường sắt, về vận chuyển đường sông và ôtô, Liên xô không hơn, cả Pháp, cả Mỹ về tỷ số ngựa (ngựa cho 10-11 dân), hơn thế lại còn lạc hậu hơn nhiều về chất lượng của ngựa. Những chỉ số so sánh vẫn tiếp tục bất lợi cho Liên xô trong công nghiệp nặng, mặc dù đã đạt những thành công rất đặc biệt. Khai thác than đá năm 1935 gần 0,7 tấn đầu dân; ở Anh, lên đến gần 5 tấn; ở Mỹ gần 3 tấn (so với 5,4 năm 1913), Đức gần 2 tấn. Thép: Liên xô, gần 67 kilôgam đầu dân; Mỹ gần 250. Tỷ số tương tự về gang và thép tấm. Điện lực 153 kilôoat giờ đầu dân ở Liên xô, năm 1935, ở Anh, 443 (1934) ở Pháp, 363, ở Đức, 472. Thường lệ, những chỉ số ấy lại còn thấp hơn nữa trong công nghiệp nhẹ. Đà sản xuất năm 1935 không đầy năm mươi xăngtimét vải len đầu người, từ tám đến mười lần kém hơn ở Mỹ hoặc ở Anh. Dạ chỉ đến tay những công dân xô viết có đặc quyền, đặc lợi. Quần chúng phải tự mãn với vải hoa dệt được mười sáu mét đầu người và cũng như xưa kia dùng để may cả áo quần mùa đông. Công nghiệp giày ở Liên xô hiện có 0,5 đôi/ năm, mỗi người dân; ở Đức hơn một đôi, ở Pháp 1,5 đôi, ở Mỹ gần ba đôi, và chúng tôi chưa nói đến chỉ tiêu chất lượng, càng khắc sâu thêm sự khác nhau. Chắc chắn tỷ lệ phần trăm số người có nhiều đôi giày trong các nước https://thuviensach.vn tư bản cao hơn số người ở Liên xô; tai hại thay, Liên xô vẫn chiếm hàng đầu về tỷ lệ phần trăm những người đi chân đất. Các tỷ lệ đều thế cả, có bộ phận còn bất lợi hơn, như trong sản xuất thực phẩm, mặc dầu những tiến bộ hiển nhiên trong những năm cuối: đồ hộp, lạp xưởng, phó mát, chưa nói đến bích qui và kẹo hiện vẫn ngoài tầm với của đại đa số nhân dân. Tình hình cũng xấu cả về thực phẩm có sữa. Ở Pháp và ở Mỹ, ít ra cũng có một con bò cái cho năm người dân, ở Đức một cho sáu, ở Liên xô một cho tám, và về mặt sản xuất sữa, hai bò cái xô viết cộng lại, tính là một. Chỉ có trong sản xuất ngũ cốc, đặc biệt là lúa mạch đen và khoai tây, nếu tính thu hoạch theo đầu người thì Liên xô mới hơn đa số các nước châu Âu và Mỹ. Nhưng bánh mạch đen và khoai tây mà được coi là lương thực chính của nhân dân thì đó là dấu hiệu cổ điển của sự nghèo đói! Sự tiêu thụ giấy là một trong những chỉ tiêu văn hóa quan trọng nhất. Năm 1935, ở Liên xô, đã sản xuất được không đầy 4 kilô giấy đầu người, ở Mỹ hơn 34 kilô (so với 48 kilô năm 1928), ở Đức, hơn 47 kilô. Nếu ở Mỹ có mười hai bút chì cho mỗi người dân một năm, thì ở Liên xô chưa đủ bốn cái và chất lượng kém đến nỗi giá trị sử dụng chỉ bằng một hoặc nhiều lắm là hai cái. Các báo luôn luôn phàn nàn việc thiếu sách học, thiếu giấy và bút chì làm tê liệt công việc nhà trường. Không có gì lạ nếu việc thanh toán nạn mù chữ, định vào dịp kỷ niệm mười năm cách mạng Tháng mười, còn xa mới làm được. Có thể làm sáng tỏ vấn đề này bằng những nhận định tổng quát. Thu nhập quốc dân tính theo đầu người thấp hơn so với thu nhập ở các nước phương Tây. Và vì những đầu tư vào sản xuất choán gần 25 đến 30% nghĩa là một phân số lớn hơn bất cứ ở nước nào, quỹ tiêu thụ của quần chúng nhân dân dĩ nhiên thấp hơn nhiều so với quỹ tiêu thụ trong các nước tư bản tiên tiến. Đúng là ở Liên xô không có những giai cấp hữu sản mà sự tiêu pha hoang phí bù vào sự tiêu thụ dưới mức của quần chúng nhân dân. Nhận xét ấy không đúng lắm như thoạt đầu ta tưởng. Khuyết tật chủ yếu của hệ tư bản không phải là trong sự hoang phí, cho dù tự trong bản thân nó, sự https://thuviensach.vn hoang phí ấy là đáng ghét, mà là ở chỗ muốn được quyền hoang phí, giai cấp tư sản phải nắm quyền tư hữu các phương tiện sản xuất và như thế họ buộc kinh tế phải đến chỗ hỗn loạn và phân hủy. Lẽ dĩ nhiên họ nắm giữ độc quyền tiêu thụ hàng xa xỉ. Nhưng giai cấp cần lao lại là đám người đông nhất trong việc tiêu thụ những hàng thông dụng thiết yếu. Chúng ta sẽ thấy trong đoạn sau rằng nếu ở Liên xô không có những giai cấp hữu sản theo nghĩa đen của nó thì lại có một tầng lớp lãnh đạo có đặc quyền đặc lợi cao, chiếm lấy phần của chúa sơn lâm trong việc tiêu thụ. Và nếu Liên xô sản xuất ít hơn những hàng thiết yếu bậc nhất tính theo đầu người so với các nước tư bản tiên tiến, điều đó có nghĩa là điều kiện vật chất của quần chúng ở đây còn thấp hơn mức đã có ở các nước tư bản. Trách nhiệm lịch sử của tình trạng ấy dĩ nhiên là cái quá khứ nặng nề và đen tối của nước Nga và tất cả những cái gì là khốn cùng, dốt nát nó đã để lại cho chúng ta. Không có lối thoát nào đi lên tiến bộ ngoài sự lật đổ chủ nghĩa tư bản. Để tin chắc điều đó chỉ cần nhìn qua các nước ven bờ Ban tích và nước Ba lan xưa kia là những khu vực mở mang nhất của đế quốc và nay không ra khỏi sự trì trệ, đình đốn. Công lao bất hủ của chế độ xô viết là cuộc đấu tranh rất gay go gian khổ và thường thường có hiệu quả chống một tình trạng man rợ đã hàng thế kỷ. Nhưng sự đánh giá đúng đắn các kết quả là điều kiện đầu tiên của sự tiến bộ sau này. Dưới mắt chúng ta, chế độ xô viết đang qua một giai đoạn chuẩn bị trong đó nó du nhập, tiếp thu, vay mượn những thành quả kỹ thuật và văn hóa của phương Tây. Những hệ số liên quan đến sản xuất và tiêu thụ chứng tỏ giai đoạn chuẩn bị ấy còn lâu mới kết thúc, dù trong một giả thuyết không chắc lắm về một sự đình đốn hoàn toàn của chủ nghĩa tư bản, giai đoạn này vẫn còn phải kéo dài cả một thời kỳ lịch sử. Đó là kết luận thứ nhất, cực kỳ quan trọng, chúng tôi đã đi đến và chúng tôi sẽ còn trở lại trong quá trình của việc nghiên cứu này. https://thuviensach.vn Leon Trotsky Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội Dịch giả: Hoàng Khoa Khôi - 2 - SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NHỮNG “DÍCH DẮC” (NGOẮT NGOÉO) CỦA LÃNH ĐẠO “Chủ Nghĩa Cộng Sản Thời Chiến”, Chính Sách Tân Kinh Tế (NEP), Và Chính Sách Đối Với Phú Nông (Kulak) Đường cong biểu diễn sự phát triển của kinh tế xô viết còn xa mới đi lên một cách đều đặn. Trong mười tám năm lịch sử của chế độ mới, người ta có thể phân biệt rõ ràng nhiều giai đoạn, đánh dấu bằng những cuộc khủng hoảng sâu sắc. Một cái nhìn tổng quát ngắn về lịch sử kinh tế của Liên xô, xem xét mối liên quan với đường lối chính trị của chính phủ đối với chúng ta là cần thiết cho sự chẩn đoán cũng như sự dự đoán. Ba năm sau cách mạng là những năm của một cuộc nội chiến rõ nét và kịch liệt. Đời sống kinh tế lúc đó hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu của các mặt trận. Trước tình hình quá ít ỏi về tài nguyên, đời sống văn hóa bị đẩy vào hàng thứ yếu mà đặc điểm là sự mở rộng táo bạo của tư duy sáng tạo và trước hết là tư tưởng của Lênin. Đó là giai đoạn được gọi là “Chủ nghĩa cộng sản thời chiến” (1918-1921), đi song song anh dũng với “Chủ nghĩa xã hội thời chiến” của các nước tư bản. Các mục tiêu kinh tế của chính quyền xô viết chủ yếu tập trung vào việc ủng hộ công nghiệp chiến tranh và trông vào những kho dự trữ nghèo nàn hiện có để chống nạn đói kém và cứu đám dân thành thị khỏi chết đói. Xét đến cùng, chủ nghĩa cộng sản thời chiến là sự qui định việc tiêu thụ trong một pháo đài bị phong tỏa. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng những ý đồ ban đầu của nó còn rộng lớn hơn. Chính phủ xô viết hy vọng và mưu tính rút ra từ những điều qui định một nền kinh tế chỉ huy trong lĩnh vực tiêu thụ cũng như trong lĩnh https://thuviensach.vn vực sản xuất. Nói cách khác, họ nghĩ có thể từ từ, không thay đổi hệ thống, chuyển từ chế độ cộng sản thời chiến sang chủ nghĩa cộng sản thực sự. Chương trình đảng bônsêvich được thông qua năm 1919 nói: “Trong lĩnh vực phân phối, chính quyền xô viết kiên trì thay thế sự buôn bán bằng sự phân phối sản phẩm tổ chức theo qui mô quốc gia, trên kế hoạch của tổng thể.” Nhưng sự xung đột ngày càng gay gắt giữa thực tiễn và chương trình của chủ nghĩa cộng sản thời chiến: sản xuất không ngừng đi xuống, không chỉ do hậu quả của chiến tranh mà còn do thiếu sự kích thích của lợi ích cá nhân đối với người sản xuất. Thành phố đòi hỏi nông thôn lúa mì và nguyên liệu, không đổi lại cho họ gì hơn những tờ giấy in màu có tô vẽ mà theo thói quen từ cổ lai vẫn gọi là giấy bạc. Người mugích (nông dân) đem chôn những dự trữ của mình. Chính phủ phải phái từng đội công nhân vũ trang đi sục lúa. Người mugích gieo ít đi. Sản xuất công nghiệp năm 1921, năm tiếp liền sau cuộc nội chiến, nơi cao nhất chỉ bằng một phần năm trước chiến tranh. Sản xuất thép rơi từ 4.200.000 tấn xuống 183.000 tấn, tức là hai mươi ba lần kém hơn. Tổng thu hoạch mùa màng rơi từ 801 triệu tạ xuống 503 năm 1922. Đói kinh khủng. Ngoại thương trượt từ 2.900 triệu rúp xuống 30 triệu. Sự phá hoại các lực lượng sản xuất vượt tất cả những lần mà lịch sử từng biết. Đất nước cùng với chính quyền, đứng trên bờ vực thẳm. Những hy vọng hão huyền của chủ nghĩa cộng sản thời chiến sau đó được đưa ra phê phán cực kỳ nghiêm khắc và đúng đắn, về rất nhiều mặt. Sai lầm về lý luận của đảng cầm quyền hoàn toàn không hiểu được nếu người ta quên rằng hồi đó mọi tính toán đều dựa vào sự trông chờ một cuộc thắng lợi tương lai của cách mạng ở phương Tây. Về vấn đề thực phẩm và nguyên liệu, người ta coi như một điều tất nhiên giai cấp vô sản Đức, khi thắng lợi, sẽ tiếp tế cho nước Nga xô viết máy, hàng công nghiệp và còn cung cấp cho hàng vạn công nhân tay nghề cao, kỹ thuật viên và cán bộ tổ chức. Chắc chắn, nếu cách mạng thắng ở Đức - chỉ có đảng xã hội-dân chủ mới làm cản trở thắng lợi đó - sự phát triển kinh tế của Liên xô và cả của Đức, sẽ đi những bước khổng lồ, khiến cho số phận của châu Âu và thế giới https://thuviensach.vn sẽ có một cục diện thuận lợi khác hẳn. Tuy nhiên, có thể nói một cách hoàn toàn chắc chắn rằng dù trong giả thuyết may mắn đó, cũng phải từ bỏ cách phân phối sản phẩm qua tay Nhà nước và trở về với phương pháp thương nghiệp. Lênin nêu sự cần thiết phải thiết lập lại thị trường do sự tồn tại trong nước hàng triệu nông dân làm ăn riêng lẻ, quen xác định những quan hệ của họ với môi trường xung quanh bằng buôn bán. Sự lưu thông hàng hóa phải là “mối hàn” giữa những người nông dân và công nghiệp quốc hữu hóa. Công thức lý thuyết của “mối hàn” ấy rất đơn giản: công nghiệp phải cung cấp cho nông thôn những hàng hóa cần thiết với những giá khiến cho Nhà nước có thể từ bỏ việc trưng thu những sản phẩm của nông nghiệp. Không còn nghi ngờ gì nữa, sự lành mạnh hóa và ổn định các mối quan hệ kinh tế với nông thôn là nhiệm vụ cần kíp nhất và gai góc nhất của chính sách Tân Kinh Tế (NEP). Kinh nghiệm cho thấy chính công nghiệp, mặc dầu đã được xã hội hóa, cũng cần những phương pháp tính toán tiền nong do chủ nghĩa tư bản xây dựng nên. Kế hoạch không thể chỉ dựng trên những dữ kiện của trí tuệ. Luật cung cầu đối với nó còn lâu dài vẫn là cơ sở vật chất cần thiết và là cái hiệu chỉnh để cứu nguy. Thị trường hợp pháp hóa bắt đầu phát huy tác dụng của mình với sự hỗ trợ của một hệ thống tiền tệ được chấn chỉnh lại. Ngay từ 1923, với sự thúc đẩy đầu tiên đến từ nông thôn, công nghiệp phục hồi và biểu thị ngay một sự hoạt động sôi nổi. Chỉ cần chỉ ra rằng sản xuất tăng gấp đôi năm 1922 và 1923 và năm 1926 đạt mức trước chiến tranh, có nghĩa là gấp năm lần kể từ 1921. Mùa màng cũng tăng song song nhưng với mức độ kém hơn. Kể từ năm mấu chốt 1923, những bất đồng quan điểm về quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, bất đồng đã biểu hiện từ trước, trầm trọng thêm trong đảng lãnh đạo. Trong một nước đã cạn nguồn dự trữ và kho tàng, công nghiệp chỉ có thể phát triển bằng cách vay của nông dân ngũ cốc và nguyên liệu. Nhưng những “món vay cưỡng ép” quá to bóp nghẹt tính kích thích sức lao động: người nông dân, không tin ở cuộc sống sung sướng đi sau, trả lời sự trưng dụng lúa mì bằng sự đình gieo hạt. Những sự https://thuviensach.vn đi vay quá nhỏ đe dọa kéo theo sự trì trệ: không nhận được hàng công nghiệp, người nông dân chỉ làm việc để thỏa mãn nhu cầu của chính mình và trở về với những hình thức thủ công nghiệp cũ. Những bất đồng quan điểm trong đảng bắt đầu bằng vấn đề xét xem cần lấy gì ở nông thôn cho công nghiệp để tiến tới một cân bằng năng động. Những vấn đề về cấu trúc xã hội của nông thôn làm phức tạp thêm cuộc tranh luận. Mùa xuân 1923 tại đại hội đảng, đại diện cho phái đối lập cánh tả[1] - lúc đó còn chưa mang tên gọi này - giải thích sự chênh lệch giữa các giá hàng công nghiệp và các giá hàng nông nghiệp bằng một biểu đồ đáng lo ngại. Hiện tượng này được gọi tên là “cánh kéo”, sau này đi vào từ vựng của thế giới. Báo cáo viên nói: nếu công nghiệp tiếp tục cứ chậm tiến, cánh kéo càng mở rộng ra, sự đoạn tuyệt giữa thành thị và nông thôn là không tránh khỏi. Người nông dân phân biệt rất rõ cuộc cách mạng dân chủ ruộng đất do những người bônsêvich thực hiện và đường lối chính trị của những người này muốn đem lại một nền móng cho chủ nghĩa xã hội. Sự trưng dụng những đất đai của tư nhân và của Nhà nước mang lại cho nông dân hơn nửa tỉ rúp vàng một năm. Nhưng những người nông dân đã mất số tiền đó và số tiền lớn hơn thế nhiều, do những giá hàng cao của nền công nghiệp quốc hữu hóa. Chừng nào quyết toán giữa hai cuộc cách mạng, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, chằng chịt với nhau do múi buộc Tháng mười, kết liễu bằng một sự thất thiệt cho nông dân mỗi năm vài trăm triệu rúp, liên minh giữa hai giai cấp vẫn cứ là mơ hồ. Sự chia vụn ruộng đất, do quá khứ để lại, tăng lên với sự kiện cách mạng Tháng mười, con số những mảnh đất trong mười năm cuối tiến từ 16 lên 25 triệu, điều này lẽ tự nhiên làm tăng khuynh hướng của đa số nông dân chỉ cần thỏa mãn những nhu cầu của bản thân họ. Đây là một trong những nguyên nhân của sự khan hiếm nông sản. Sự sản xuất hàng hóa tất nhiên làm nảy sinh bọn bóc lột. Lần lần với sự phục hồi của thôn quê, sự phân hóa tăng lên trong lòng quần chúng nông dân: người ta đi theo con đường cũ của sự phát triển dễ dàng. Anh kulak - phú nông - làm giàu nhanh hơn sự tiến bộ của công nghiệp. Đường https://thuviensach.vn lối của chính phủ mà khẩu hiệu là “Quay về với nông thôn!” thực tế làm lợi cho kulak. Thuế nông nghiệp đối với bần nông nặng hơn rất nhiều so với những anh giàu có, ngoài ra bọn này còn rút mất phần tính túy của tín dụng Nhà nước. Lúa dư thừa, chủ yếu chỉ có phú nông lớn mới có, dùng để nô lệ hóa người nghèo và bán với giá đầu cơ cho tiểu tư sản thành thị. Bukharin (Boukharine), lúc đó là lý thuyết gia của phân số lãnh đạo, quẳng vào nông thôn khẩu hiệu nổi tiếng: “Các anh hãy làm giàu đi!” Về mặt lý thuyết, điều đó có nghĩa là sự đồng hóa dần dần những người kulak vào chủ nghĩa xã hội. Trên thực hành, điều đó có nghĩa là sự làm giàu của thiểu số trên lưng tối đại đa số. Chính phủ bị cầm tù vì chính đường lối của mình, buộc phải lùi từng bước trước giai cấp tiểu tư sản nông thôn. Sự sử dụng nhân công trả lương trong nông nghiệp và sự thuê đất được hợp pháp hóa năm 1925. Quần chúng nông dân chia làm hai cực: anh tư bản nhỏ và anh làm thuê công nhật. Nhà nước không có hàng công nghiệp, do đó bị loại trừ khỏi thị trường nông thôn. Một nhân vật trung gian xuất hiện như mọc dưới đất lên giữa anh kulak và anh tiểu chủ thủ công. Những nhà máy của Nhà nước cũng phải ngày càng nhiều hơn dựa vào con buôn để tìm nguyên liệu. Đâu đâu người ta cũng cảm thấy ngọn triều tư bản chủ nghĩa đang dâng. Tất cả những ai có suy nghĩ đều dễ thấy sự biến đổi các hình thái tư hữu còn xa mới giải quyết dứt khoát được vấn đề chủ nghĩa xã hội và chỉ mới là đặt vấn đề. Năm 1925, trong khi chính sách ưu đãi kulak đang lúc cực thịnh, Stalin bắt đầu chuẩn bị việc xóa bỏ quốc hữu hóa ruộng đất. Một nhà báo xô viết đặt câu hỏi: “Phải chăng, vì lợi ích của nông nghiệp, sẽ giao cho mỗi nông dân mảnh đất trong mười năm?” - Stalin trả lời: “Sẽ giao cho cả đến bốn mươi năm!” Dân ủy nông nghiệp nước cộng hòa Giêocgi, theo chỉ thị riêng của Stalin, đề nghị dự luật về xóa bỏ quốc hữu hóa ruộng đất. Mục đích là để đem lại niềm tin vào tương lai cho người chủ trại. Ngay từ mùa xuân 1926, gần 60% lúa mì bán ra nằm trong tay 6% nông dân, Nhà nước thiếu ngũ cốc cho ngoại thương và cho cả nhu cầu trong nước. Hàng xuất cảng ít đến mức vô nghĩa buộc Nhà nước phải thôi nhập cảng hàng công https://thuviensach.vn nghiệp và hạn chế đến mức thấp nhất việc nhập cảng nguyên liệu và máy móc. Làm trở ngại công cuộc công nghiệp hóa và gây tác hại cho đại đa số nông dân, đường lối ưu đãi phú nông, ngay từ 1924-1926, bộc lộ rõ rệt những hậu quả chính trị: gây một niềm tin tưởng đặc biệt cho giai cấp tiểu tư sản thành thị và nông thôn. Nó dẫn đến việc số người này nắm được nhiều xô viết địa phương; nó tăng cường sức mạnh và củng cố bộ máy quan liêu, ngày càng đè nặng lên giai cấp công nhân; nó kéo theo sau sự xóa bỏ hoàn toàn mọi hình thái dân chủ trong đảng và trong xã hội xô viết. Sức mạnh tăng lên của phú nông làm cho Dinôviep (Zinoviev) và Kamênep (Kamenev), hai thành viên quan trọng của nhóm lãnh đạo hoảng sợ - và chắc chắn không phải là điều ngẫu nhiên - họ cũng là chủ tịch của xô viết của hai trung tâm vô sản quan trọng nhất, Lêningơrat (Leningrad) và Matxcơva. Nhưng các tỉnh và nhất là bọn quan liêu ủng hộ Stalin. Đường lối khích lệ trại chủ lớn đã thắng. Dinôviep và Kamênep, theo sau là những người cùng phái với họ, năm 1926 bắt tay với phái đối lập năm 1923 (gọi là “Trốtki” - Troskyite). Lẽ tự nhiên phân số lãnh đạo không khi nào ruồng bỏ “nguyên lý” hợp tác hóa nông nghiệp. Nhưng người ta đẩy lùi nó ra xa hàng chục năm. Năm 1927, dân ủy tương lai về nông nghiệp Zacốplép (Yakovlev) viết rằng sự biến đổi xã hội chủ nghĩa ở nông thôn chỉ có thể thực hiện bằng công cộng hóa “lẽ tự nhiên không phải trong một, hai hoặc ba năm và có lẽ cũng không phải trong mười năm...”. “Những nông trường tập thể và làng xã, - ông ta viết trong một đoạn sau, - vẫn còn và chắc chắn vẫn còn lâu dài là những ốc đảo nhỏ giữa những mảnh đất bị chia vụn...”. Thật thế, chỉ mới có 0,8% hộ nông dân tổ chức làm ăn tập thể. Trong đảng, cuộc đấu tranh cho cái mạo nhận là “Đường lối chính cương” nổ bùng công khai năm 1923 và kể từ 1926 trở thành đặc biệt gay gắt và sôi nổi. Trong cương lĩnh rộng lớn của mình bao quát tất cả vấn đề kinh tế và chính trị, phía đối lập viết: “Đảng phải không khoan nhượng lên án một khuynh hướng dẫn đến sự xóa bỏ hoặc làm yếu việc quốc hữu hóa ruộng đất, là một trong những nền móng của chuyên chính vô sản”. Về https://thuviensach.vn điểm đó, phái đối lập đã giành được thắng lợi, những mưu toan đánh thẳng vào việc quốc hữu hóa ruộng đất đã phải dừng. Nhưng không phải chỉ có vấn đề hình thức của sở hữu ruộng đất. Cương lĩnh của phái đối lập còn nói “Trước tầm quan trọng ngày càng lớn của các trại cá nhân ở nông thôn, ta phải chống lại bằng sự tăng trưởng nhanh hơn của các tổ chức làm ăn tập thể. Dứt khoát mỗi năm cần phải cấp những khoản tiền quan trọng ủng hộ bần nông tổ chức làm ăn tập thể”. “Toàn bộ hoạt động của hợp tác xã phải thấm nhuần ý thức cần thiết biến sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn tập thể”. Người ta ngoan cố coi là không tưởng trong một tương lai gần mọi chương trình lớn về tập thể hóa. Trong việc chuẩn bị cho đại hội XV của đảng nhằm khai trừ phái đối lập, chủ tịch tương lai Hội đồng dân ủy Môlôtôp nhắc lại: “Trong những điều kiện hiện tại, người ta không thể để mình rơi (!) xuống mức những ảo tưởng của bần nông về tập thể hóa quảng đại quần chúng”. Lúc ấy là cuối năm 1927. Và phân số lãnh đạo vẫn còn rất xa đường lối của họ sẽ phải làm ở nông thôn! Những năm ấy (1923-28) cũng là những năm đấu tranh của liên minh nắm chính quyền (Stalin, Môlôtôp, Rưcôp (Rykov), Tomski, Bukharin; Dinôviep và Kamênep đã chuyển sang phía tả đối lập (đầu năm 1926) chống với những người “siêu công nghiệp hóa” tán thành kế hoạch. Sử gia tương lai không khỏi ngạc nhiên khi nhận thấy sự ngờ vực thiếu thiện chí của những người cầm đầu chính phủ một quốc gia xã hội chủ nghĩa đối với mọi sáng kiến kinh tế táo bạo. Nhịp điệu công nghiệp hóa theo kinh nghiệm, được tăng trưởng nhanh do những thúc đẩy bên ngoài, mọi tính toán đều phải đột ngột sửa lại một cách thô bạo trong tiến trình công tác, theo một sự gia tăng cực độ về tổng chi phí. Kể từ 1923, khi phái đối lập đã đòi hỏi một kế hoạch năm năm, đề nghị này được tiếp đón bằng những lời nhạo báng giống như anh tiểu tư sản sợ “nhảy vào khoảng hư vô”. Tháng tư năm 1927, trong hội nghị toàn thể ban chấp hành trung ương, Stalin còn khẳng định rằng, đối với chúng ta, việc dự tính xây dựng nhà máy điện lớn Đơniép (Dniéper) cũng như đối với người mugích (nông dân) đáng lẽ mua một con bò cái lại đi mua một cái máy hát. Câu cách ngôn ấy https://thuviensach.vn tóm tắt cả một chương trình. Không phải là thừa, nếu cần nhắc lại việc báo chí tư sản toàn cầu, tiếp theo là báo chí xã hội chủ nghĩa, lặp lại một cách thích thú những lời buộc tội công khai chống lại cánh tả đối lập về tội đưa chủ nghĩa lãng mạn vào trong công nghiệp. Trong khi đảng tranh cãi ầm ĩ, người nông dân trả lời việc thiếu hàng công nghiệp bằng một cuộc đình công ngày càng dai dẳng: họ không chịu mang lúa ra chợ và tăng diện gieo giống. Cánh hữu (Rưcôp, Tômski, Bukharin) lúc đó lên giọng, đòi mở rộng tự do hơn cho các xu hướng tư bản chủ nghĩa ở nông thôn: nâng giá lúa mì, cho dù biện pháp đó có làm chậm sự phát triển của công nghiệp. Do đường lối như thế, giải pháp duy nhất là nhập cảng hàng công nghiệp đổi bằng những nguyên liệu mà các chủ trại cho xuất khẩu. Như thế, đáng lẽ nối kinh tế nông dân với công nghiệp xã hội chủ nghĩa thì lại nối người phú nông với chủ nghĩa tư bản thế giới. Chẳng phải làm cách mạng Tháng mười làm gì nữa. Trong hội nghị đảng năm 1926, đại diện phái đối lập[2] phản bác: “Sự đẩy nhanh công nghiệp hóa và đặc biệt sự đánh thuế mạnh hơn vào phú nông sẽ đem lại nhiều hàng hóa hơn và như thế có thể hạ giá hàng... Công nhân được lợi ở chỗ đó, và đa số nông dân cũng vậy... Chúng ta quay về với nông thôn không có nghĩa là quay lưng với công nghiệp mà có nghĩa là hướng công nghiệp về nông thôn bởi vì nông thôn chẳng cần gì ngắm bộ mặt một Nhà nước không có công nghiệp.” Để trả lời chúng tôi, Stalin đã nghiền nát những “Kế hoạch quái đản của phái đối lập”; công nghiệp không được “vượt lên trước nhiều quá, xa rời nông nghiệp và nhịp điệu tích lũy của đất nước chúng ta”. Những nghị quyết của đảng tiếp tục nhắc lại những chân lý sơ đẳng về sự thích nghi thụ động với nhu cầu của các chủ trại mới giàu lên. Đại hội thứ XV của đảng cộng sản, họp tháng mười hai 1927, để đánh bại hoàn toàn phái “siêu công nghiệp hóa,” đưa ra lời cảnh cáo về “nguy cơ đầu tư quá lớn cho công cuộc xây dựng công nghiệp.” Phân số lãnh đạo vẫn chưa muốn thấy những nguy cơ khác. Năm kinh tế 1927-28 kết thúc thời kỳ gọi là phục hồi trong đó công nghiệp công tác chủ yếu với thiết bị trước cách mạng và nông nghiệp với https://thuviensach.vn cơ sở vật chất cũ của mình. Sự tiến triển sau này đòi hỏi một công cuộc xây dựng công nghiệp rộng lớn. Không thể quản lý lần mò, không kế hoạch. Những khả năng giả định của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đã được phái đối lập phân tích từ 1923-1925. Kết luận chung mà phái này đã đi đến là sau khi sử dụng đến cùng kiệt khả năng của thiết bị cũ do giai cấp tư sản để lại, công nghiệp xô viết có thể, nhờ tích lũy xã hội chủ nghĩa, có một nhịp độ tăng trưởng mà chủ nghĩa tư bản hoàn toàn không vươn tới được. Các thủ lĩnh của phân số lãnh đạo công khai chế nhạo các hệ số từ 15 đến 18% đã được thận trọng đề ra như là một bản nhạc kỳ quái của một tương lai xa lạ. Cuộc đấu tranh chống “chủ nghĩa trôtki” hồi đó là như vậy. Chương trình chính thức phác thảo đầu tiên của kế hoạch năm năm, làm cuối năm 1927, với một tinh thần co cụm, không đáng đếm xỉa. Sự sản xuất công nghiệp hàng năm gia tăng theo một đường cong nhỏ mọn từ 4% đến 9%. Trong năm năm, mức tiêu thụ cá nhân chỉ tăng 12%! Sự dè dặt đến mức không tin là có được của quan niệm ấy càng nổi bật rõ hơn trong ngân sách Nhà nước, vào thời gian cuối năm năm, chỉ choán có 16% thu nhập quốc dân, trong khi ngân sách nước Nga của Sa hoàng tuy không nghĩ đến việc xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa, đã chiếm tới 18% của thu nhập đó! Có lẽ cũng không thừa mà nói thêm rằng các tác giả của kế hoạch này, các kỹ sư và nhà kinh tế, vài năm sau đây, sẽ bị tòa án kết án rất nặng về tội phá hoại, tuân theo chỉ thị của một cường quốc nước ngoài. Những người bị kết tội ấy có thể trả lời rằng, nếu họ dám nói, khi xây dựng kế hoạch, họ đã hoàn toàn nhất trí với “đường lối chính cương” của bộ chính trị mà họ đã tiếp thu được sự hướng dẫn. Sự đấu tranh giữa các khuynh hướng được diễn ra bằng ngôn ngữ của các con số. Bản cương lĩnh của phái đối lập nói “Xây dựng để kỷ niệm mười năm cách mạng Tháng mười với một kế hoạch tầm thường đến thế, bi quan một cách sâu sắc đến thế, trong thực tế là phản lại chủ nghĩa xã hội.” Một năm sau, Bộ chính trị phê chuẩn một dự án mới về kế hoạch năm năm, với mức tăng bình quân hàng năm của sản xuất lên 9%. Sự phát triển trong thực tế biểu thị một xu hướng cố tình tiến sát đến các hệ số của những người “siêu công nghiệp hóa” đã nêu lên. Lại một năm sau nữa, khi đường https://thuviensach.vn lối của chính phủ đã căn bản thay đổi, ủy ban kế hoạch quyết định một dự án thứ ba mà tính năng động trùng lặp một cách kỳ lạ với những tiên đoán giả thuyết của phái đối lập năm 1925. Ta thấy đó, lịch sử đích thực về đường lối kinh tế của Liên xô rất khác với huyền thoại nêu ra của phái nắm quyền. Đáng phàn nàn những tác giả đáng trọng như vợ chồng ông Oep (Webb) không biết được gì về chỗ đó. Bước Ngoặt Vội Vàng: “Kế Hoạch Năm Năm Trong Bốn Năm” Và “Tập Thể Hóa Toàn Bộ” Sự thoái thoát do dự trước hiện tượng làm riêng lẻ của nông dân, sự hoài nghi đối với các kế hoạch lớn, sự bảo vệ việc phát triển cầm chừng, chậm chạp, sự coi thường vấn đề quốc tế, đó là những yếu tố, tập hợp lại, làm thành lý thuyết “chủ nghĩa xã hội thành công trong một nước,” được Stalin nêu lên lần đầu tiên mùa thu 1924, sau cuộc thất bại của giai cấp vô sản ở Đức. Đừng có nóng vội trong công cuộc công nghiệp hóa, đừng có gây lộn với anh nông dân, đừng có tính đến cách mạng thế giới và trước nhất, cần bảo vệ chính quyền quan liêu khỏi mọi sự phê phán! Sự phân hóa các giai cấp trong nông dân chỉ là chuyện bịa đặt của phái đối lập. Zacôplep (Yakovlev), con người đã có lần chúng ta nêu tên, đã phế bỏ Cục thống kê trung ương vì những họa đồ Cục này nêu ra đã để cho phú nông chiếm một chỗ lớn hơn là chính quyền muốn. Trong khi các nhà lãnh đạo tuôn ra hàng tràng những lời khẳng định trấn an về sự đã xóa bỏ nạn thiếu hàng hóa, “nhịp điệu bình yên của sự phát triển” sắp đến, sự dự trữ ngũ cốc từ nay được “đều” hơn v.v... anh phú nông mạnh lên, lôi kéo anh trung nông theo mình và từ chối không chuyển mì cho thành phố. Tháng giêng năm 1928, giai cấp công nhân đứng trước một nạn đói ghê gớm. Lịch sử đôi khi có những lối nói đùa tàn bạo. Đúng vào các ngày mà anh phú nông nắm lấy cuống họng của cách mạng, những đại diện của phái đối lập cánh tả bị ném vào nhà tù hoặc đày đi Xibêri (Siberie) vì tội đã “gieo hoảng loạn” bằng bóng ma của anh kulak! https://thuviensach.vn Chính phủ cố trình bày việc đình công về lúa mì như là chỉ do sự hiềm khích của anh kulak (nhưng anh kulak ở đâu mà ra?) đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa, có nghĩa sự việc xảy ra là do những động cơ chính trị. Nhưng anh nông dân giàu có thì ít chú ý về thứ “chủ nghĩa lý tưởng” ấy. Nếu anh ta giấu bột mì của anh ta là vì đem bán đi thì không có lợi. Cũng với lý do đó, anh khuếch trương được ảnh hưởng trong nông thôn. Những biện pháp đàn áp, rõ ràng không đủ để chống lại sự phá hoại của phú nông, cho nên cần phải thay đổi đường lối. Và những thái độ chần chừ thì lại cứ kéo dài. Rưcôp, lúc đó đứng đầu chính phủ, không phải là người duy nhất tuyên bố, tháng bảy 1928, rằng “sự phát triển của hiện tượng làm riêng lẻ trong nông dân là nhiệm vụ quan trọng nhất của đảng”. Stalin cũng hưởng ứng. Và nói: “Có những người nghĩ rằng sự trồng trọt trên những mảnh đất riêng đã hết thời và không đáng khuyến khích nữa... Những ý kiến ấy không có gì ăn nhập với đường lối chung của đảng ta”. Không đầy một năm sau, đường lối chung của đảng không còn gì ăn nhập với những lời tuyên bố nói trên nữa: bình minh của thời kỳ tập thể hóa toàn bộ đã nổi dậy ở chân trời. Phương hướng mới rút ra từ những phương sách kinh nghiệm chủ nghĩa cũng như phương hướng trước, sau một cuộc đấu tranh ngấm ngầm sâu sắc trong ban lãnh đạo chính phủ. “Các nhóm cánh hữu và cánh giữa đoàn kết lại với nhau vì cùng chung một mối hiềm khích với phái đối lập, và khi sự thanh trừ phái này làm xong, nhất định sẽ xảy ra sự xung đột giữa họ với nhau.” Lời cảnh cáo ấy đã được đưa ra trong cương lãnh của phái đối lập. Mà sự việc đã diễn ra đúng như vậy. Những thủ lĩnh của khối cầm đầu chính phủ đang ở giai đoạn phân hủy, khăng khăng không chịu thừa nhận lời tiên đoán ấy của phái đối lập mà thực tế đã kiểm chứng, như bao lời dự đoán khác. Ngày 19 tháng mười 1928, Stalin còn tuyên bố: “Đã đến lúc phải chấm dứt những chuyện phao đồn về sự hiện diện của một cánh hữu trong bộ chính trị của ban chấp hành trung ương đảng”. Tuy nhiên cả hai nhóm đều lần mò, thăm dò các cơ quan của đảng. Đảng sống trong tình trạng ngột ngạt, dư luận xì xào và phỏng đoán. Vài tháng trôi qua, báo chí https://thuviensach.vn công khai viết với một giọng trâng tráo quen thuộc, rằng Rưcốp, người cầm đầu chính phủ “đầu cơ, lợi dụng những khó khăn của chính quyền xô viết,” rằng Bukharin, người lãnh đạo Quốc tế cộng sản, đã lộ ra là “tay sai của bọn tự do tư sản”, rằng Tômski, chủ tịch hội đồng trung ương các công đoàn, chỉ là một tên công liên (trade-unioniste) khốn nạn. Cả ba, Rưkôp, Bukharin và Tômski đều ở trong bộ chính trị. Nếu, trong cuộc đấu tranh trước đây chống phái đối lập cánh tả người ta sử dụng những vũ khí mượn trong kho của cánh hữu, thì bây giờ Bukharin có thể, không nói sai sự thật, buộc tội Stalin đã sử dụng từng đoạn trong cương lĩnh của phái đã bị lên án để chống cánh hữu. Mặc dù thế nào, bước ngoặt đã thực hiện. Khẩu hiệu “Các anh hãy làm giàu đi!” và lý thuyết về sự tiếp nhận không màu sắc anh phú nông vào chủ nghĩa xã hội đã bị bác bỏ, tuy có chậm, nhưng lại càng kiên quyết hơn. Công nghiệp hoá được đưa vào chương trình nghị sự. Sự cầu an tự mãn nhường chỗ cho một sự ồn ào hoảng loạn. Khẩu hiệu của Lênin, hầu như đã bị quên, “đuổi kịp và vượt” nay được bổ sung bằng những lời: “trong thời hạn ngắn nhất.” Kế hoạch năm năm tối thiểu đã được đại hội đảng thông qua trên nguyên lý nhường chỗ cho một kế hoạch mới mà những yếu tố chính hoàn toàn mượn của cương lĩnh phái đối lập cánh tả vừa bị đánh bại hôm qua. Nhà máy điện Đơniep mới hôm qua còn bị so sánh với cái máy hát nay được hoàn toàn chú ý. Từ những thành công đầu tiên, một chỉ thị mới được tung ra: hoàn thành kế hoạch năm năm trong bốn năm. Bọn kinh nghiệm chủ nghĩa điên đầu tưởng rằng từ nay cái gì chúng cũng làm được. Như đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử, chủ nghĩa cơ hội biến thành cái nghịch lại với nó, là chủ nghĩa phiêu lưu. Bộ chính trị, sẵn sàng trong những năm 1923-28 thích nghi với triết lý Bukharin về “bước đi của con rùa”, ngày nay nhẹ nhàng chuyển sang mức tiến từ 20 đến 30% hàng năm, lấy bất cứ thành công nhất thời nào làm tiêu chuẩn và không nhìn đến mối liên quan phụ thuộc lẫn nhau giữa các ngành kinh tế. Những mảnh giấy con con in màu bịt lấy những lỗ hổng tài chính của kế hoạch. Trong thời gian đầu kế hoạch năm năm, tiền giấy lưu hành từ 1,7 tỉ rúp lên 5,5 - rồi vươn tới vào đầu thời kỳ https://thuviensach.vn thứ hai 8,4 tỷ. Bộ máy quan liêu không những chỉ gạt bỏ sự kiểm tra của quần chúng mà công cuộc công nghiệp hóa hết tốc độ là một gánh nặng không chịu đựng nổi, nó còn thoát ly ra khỏi sự kiểm tra tự động của đồng secvôniet.[3] Hệ thống tài chính được củng cố hồi đầu thời kỳ Tân kinh tế (NEP) nay bị lung lay đến tận nền móng. Nhưng hiểm họa lớn nhất, cho chế độ cũng như cho kế hoạch, xuất hiện từ phía nông thôn. Ngày 15 tháng hai 1928, nhờ một bài xã luận báo Sự Thật, nhân dân sửng sốt được biết nông thôn chẳng có chút gì giống với quang cảnh các nhà cầm quyền vẫn mô tả mà lại rất giống với bức tranh mà phái đối lập vừa mới bị đại hội khai trừ vẽ ra. Mới hôm qua báo chí còn hoàn toàn phủ nhận sự tồn tại của anh kulak, hôm nay phát hiện ra anh ta, do một dấu hiệu từ trên, không những trong làng xóm mà cả trong đảng. Người ta thấy rằng các chi bộ đảng thường thường bị điều khiển do những phú nông, có trong tay những nông cụ đủ loại, sử dụng một số nhân công đông đảo, cất giấu hàng trăm, thậm chí hàng ngàn put (rouds) ngũ cốc, ngoài ra còn thấy họ là những địch thủ không thể hòa giải được với chính sách “trôtkit”. Các báo thi nhau đưa tin giật gân về những kulak, bí thư các ban chấp hành địa phương đóng cửa không cho các bần nông và người làm công nhật gia nhập đảng. Tất cả các giá trị cũ bị lật đổ. Các dấu cộng và trừ đem tráo trở đổi ngược. Để nuôi thành thị, cấp thiết phải lấy ở kulak miếng bánh hàng ngày. Người ta chỉ có thể dùng vũ lực mới làm được việc ấy. Sự tước đoạt các dự trữ ngũ cốc không chỉ của phú nông mà cả của trung nông, được gọi là “biện pháp bất thường” trong lối nói của công báo. Như thế có nghĩa là mai mốt lại trở lại vết xe cũ. Nhưng nông dân không tin ở lời nói hay và họ có lý. Sự trưng dụng cưỡng ép lúa mì làm cho những người nông dân sung túc mất hào hứng mở rộng diện gieo trồng. Người làm công nhật và bần nông không có công ăn việc làm. Nông nghiệp một lần nữa lại đi vào ngõ cụt và Nhà nước cũng đi theo vào đó. Bằng bất cứ giá nào người ta nhận thấy phải thay đổi triệt để “đường lối chính cương”. Stalin và Môlôtôp vẫn tiếp tục chủ trương giành hàng đầu cho những cách cấy trồng manh mún, nhấn mạnh sự cần thiết mở rộng nhanh https://thuviensach.vn chóng diện canh tác của nhà Nước, các nông trường quốc doanh và diện canh tác nông dân tập thể, các nông trường tập thể. Nhưng sự thiếu thốn nghiêm trọng lương thực không cho phép từ bỏ những cuộc hành quân về nông thôn, chương trình vực dậy việc canh tác trên những mảnh đất manh mún, vì vậy bị treo lơ lửng trong khoảng không. Phải “trượt theo đà của tập thể hóa.” Các “biện pháp bất thường” tạm thời dùng để lấy lúa mì, làm nảy sinh điều không ai ngờ đến là chương trình “thanh toán các phú nông về mặt giai cấp.” Những chỉ lệnh mâu thuẫn nhau, còn nhiều hơn các khẩu phần bánh mì, chứng tỏ hiển nhiên sự thiếu mọi chương trình trong nông nghiệp, không phải cho năm năm, mà cả cho năm tháng. Theo kế hoạch được xây dựng dưới ngọn roi của cơn khủng hoảng về tiếp tế lương thực, nông nghiệp tập thể hóa đến cuối năm thứ năm phải thu hút được gần 20% hộ nông dân. Chương trình ấy thật là to tát nếu người ta biết rằng công cuộc tập thể hóa trong mười năm trước chỉ thu được không đầy 1% số hộ. Nó lại còn được vượt rất xa ngay từ nửa đầu của thời hạn năm năm. Tháng mười một 1929, Stalin, từ bỏ những do dự của mình, thông báo chấm dứt nền nông nghiệp manh mún: “Từng làng trọn vẹn, từng tổng, cả từng quận, nông dân đi vào nông trang tập thể.” Zacôplep, mới hai năm trước còn chứng minh các nông trang tập thể rất nhiều năm vẫn “còn là những ốc đảo giữa vô số những mảnh vụn”. Hôm nay, với tư cách là dân ủy nông nghiệp, ông ta nhận nhiệm vụ đi “thanh toán Kulak về mặt giai cấp” và áp đặt việc tập thể hóa toàn bộ “trong thời hạn ngắn nhất.” Năm 1929, số hộ vào nông trang tập thể từ 1.7% lên 9%; rồi con số đạt 23,6% năm 1930, 52,7% năm 1931 và 61,5% năm 1932. Chắc không còn có ai để nhắc lại cái mớ ý kiến tự do bùng nhùng cho rằng sự tập thể hóa toàn bộ chỉ là kết quả của riêng bạo lực. Trong cuộc đấu tranh giành đất vì thiếu đất, nông dân ngày xưa đã nổi dậy chống lãnh chúa và đôi khi đi lập trại chinh phục những vùng hoang; hoặc họ lập những giáo phái, ở đó người mugich bù vào chỗ thiếu đất bằng khoảng trống của trời. Từ khi trưng dụng các đất đai lớn và phân manh mún các mảnh đất nhỏ, sự tập hợp những mảnh đất này thành những mảnh lớn hơn https://thuviensach.vn trở thành vấn đề sinh tử cho nông nghiệp, cho toàn thể xã hội. Nhưng cách nhìn lịch sử chung ấy cũng không giải quyết được gọn vấn đề. Khả năng thực tế của tập thể hóa không thể quyết định bằng tình thế không lối thoát của nông dân, cũng không phải bằng sự kiên quyết của chính phủ; trước hết nó phải được quyết định bằng những phương tiện sản xuất nhất định, có nghĩa là trong chừng mực công nghiệp có thể cung cấp được thiết bị cho nền đại sản xuất nông nghiệp. Những dữ kiện vật chất ấy thiếu. Những nông trường tập thể được tổ chức với một thiết bị nói chung chỉ thích hợp với những mảnh đất vụn. Trong những điều kiện ấy, sự tập thể hóa gấp gáp thái quá là chuyện phiêu lưu. Chính phủ, ngạc nhiên vì bước ngoặt quá lớn, không có thể và cũng không biết chuẩn bị về mặt chính trị, dù chỉ chút ít thôi, cho sự phát triển mới. Cũng như nông dân, các nhà chức trách ở địa phương không biết người ta yêu cầu họ những gì. Nông dân thì điên đầu bởi những tiếng đồn về “tịch thu gia súc”. Cũng không xa lắm với sự thật, rồi ta sẽ thấy. Ý đồ xưa kia gán cho phái đối lập để nhạo báng những quan điểm của phái này, nay được thực hiện: bộ máy quan liêu “cướp bóc nông thôn”, tập thể hóa đối với nông dân là một sự trưng dụng toàn bộ. Người ta xã hội hóa không những ngựa, bò cái, cừu, lợn mà đến cả gà con. Một người đã chứng kiến tận mắt viết ở nước ngoài “Người ta tịch thu của Kulak đến cả những ủng bằng dạ của trẻ con.” Kết quả của việc này là nông dân bán gia súc hàng loạt với giá thấp hoặc giết nó đi để lấy thịt và da. Tháng giêng 1930, Anđôrêiep (Andreiev), ủy viên trung ương đảng, vẽ ra tại đại hội Matxcơva bức tranh sau đây của tập thể hóa: một mặt, phong trào tập thể hóa hùng mạnh đã lan ra khắp nước “lôi cuốn trên đường đi mọi trở ngại”; mặt khác, việc nông dân, trước khi vào nông trường tập thể, bán nông cụ, gia súc và cả hạt giống với một tinh thần vị lợi thô thiển “đã đạt những tỷ lệ rõ ràng đáng sợ...” Dù mâu thuẫn, hai điều khẳng định ấy đã xác nhận đúng đắn, từ hai quan điểm đối lập, tính chất truyền nhiễm của công cuộc tập thể hóa, một phương sách tuyệt vọng. Nhà phê bình mà chúng tôi vừa trích dẫn viết: “Công cuộc tập thể hóa toàn bộ đã nhận chìm nền kinh tế vào trong sự khốn cùng từ lâu chưa từng thấy; như có một cuộc https://thuviensach.vn chiến tranh ba năm vừa xảy ra ở đó.” Đối với hai mươi lăm triệu hộ nông dân lẻ loi, ích kỷ, hôm qua đây còn là động lực duy nhất của nông nghiệp - yếu như con ngựa già của anh mugích, nhưng vẫn là động lực - bộ máy quan liêu mưu toan ngay một lúc thay họ bằng sự điều hành của hai mươi vạn ban quản trị nông trường tập thể, thiếu phương tiện kỹ thuật, thiếu kiến thức nông học và thiếu sự ủng hộ của nông dân. Những hậu quả phá hoại của chính sách phiêu lưu này chẳng mấy chốc đã lộ rõ và kéo dài hàng năm. Tổng thu hoạch ngũ cốc năm 1930 đã đạt 835 triệu tạ, hai năm sau tụt xuống dưới 700 triệu. Hiệu số ấy, tự bản thân nó, chưa phải là một tai họa, nhưng nó biểu thị sự thất thiệt lượng lúa mì cần thiết cho các đô thị, trước khi các đô thị này làm quen với những khẩu phần chết đói. Việc trồng cây công nghiệp lại còn tệ hơn. Trước khi tập thể hóa, sản lượng đường đạt gần 109 triệu pút để rồi hai năm sau, giữa cao trào tập thể hoá, do thiếu củ cải đường, tụt xuống 48 triệu pút, vị chi chưa bằng một nửa. Nhưng cơn bão tai hại nặng nề nhất chuyển qua việc chăn nuôi ở nông thôn. Số ngựa tụt 55%, từ 34,6 triệu con năm 1926 xuống 15,6 triệu con năm 1934, gia súc có sừng tụt từ 30,7 triệu xuống 19,5, vị chi 40%; lợn 55%, cừu 66%. Tổn thất về người - vì đói, rét, dịch bệnh và khủng bố đàn áp - khốn thay không được ghi chính xác như sự thất thiệt về gia súc; nhưng con số phải đến hàng triệu. Trách nhiệm không phải ở chỗ tập thể hóa mà ở những phương pháp mù quáng, liều lĩnh và bạo ngược người ta đem áp dụng. Bộ máy quan liêu chẳng dự kiến được gì trước. Ngay cả đến điều lệ của nông trường tập thể đặt mối liên hệ giữa quyền lợi cá nhân của người nông dân với quyền lợi của tập thể cũng mãi sau khi nông thôn đã bị tàn phá ghê gớm mới được công bố. Sự áp dụng vội vàng đường lối chính trị mới ấy là do sự cần thiết thoát khỏi mau chóng những hậu quả của đường lối từ 1923-28. Tuy nhiên việc tập thể hóa phải và có thể đi theo một bước đi hợp lý hơn, với những hình thức tính toán kỹ hơn. Làm chủ chính quyền và nắm trong tay công nghiệp, bộ máy quan liêu đáng lẽ phải điều chỉnh được việc tập thể hóa, không để đất nước nằm trên miệng vực thẳm. Người ta cần phải và có thể chọn một bước đi phù hợp hơn với khả năng vật chất và tinh thần của đất https://thuviensach.vn nước. Cơ quan ngôn luận ở nước ngoài của phái cánh tả đối lập, viết năm 1930: “Trong những điều kiện quốc gia và quốc tế đầy đủ, tình hình vật chất và kỹ thuật của nông nghiệp có thể thay đổi căn bản trong chừng mười hoặc mười lăm năm và có thể bảo đảm cho công cuộc tập thể hóa một cơ sở trong nền sản xuất. Nhưng trong thời gian từ nay đến khi đó, người ta có thể nhiều lần làm đổ chính quyền xô viết...” Lời cảnh cáo ấy không phải là quá đáng: chưa bao giờ tư khí tử vong lại sà xuống thấp đến thế trên lãnh thổ của cách mạng Tháng mười như những năm tập thể hóa toàn bộ. Sự công phẫn, thiếu an ninh, sự khủng bố trấn áp chia xé đất nước. Một hệ thống tiền tệ vô tổ chức: sự chồng chéo giữa các giá quá cao do Nhà nước qui định với giá “qui ước” và giá thị trường tự do; sự chuyển từ hình thức và thương mại giả tạo giữa nhà nước và nông dân qua phương pháp đánh thuế bằng ngũ cốc, thịt và sữa, cuộc đấu tranh sống chết chống những vụ ăn cắp thường xuyên tài sản của các nông trường tập thể và sự che giấu những vụ ăn cắp ấy, sự động viên thuần túy quân sự của đảng chống sự phá hoại của Kulak sau khi thanh toán giai cấp Kulak; đồng thời, việc trở lại với hệ thống các sổ lương thực và những khẩu phần chết đói, cuối cùng sự thiết lập lại những giấy thông hành nội địa - tất cả những phương sách ấy đưa đất nước trở lại bầu không khí nội chiến đã kết thúc từ lâu. Sự cung ứng nguyên liệu cho các nhà máy tồi tệ thêm, tháng này sang tháng khác. Những điều kiện sống không chịu đựng nổi kéo theo sự phân tán của nhân công, những thiếu sót trong công việc, sự làm ăn cẩu thả, phá máy, tỷ lệ phần trăm về làm hỏng cao lên, chất lượng sản phẩm xấu. Hiệu suất lao động trung bình năm 1931 sụt 11,7%. Theo một lời thú nhận mà Môlôtôp để lọt ra và được tất cả báo chí xô viết in lại, sản lượng công nghiệp năm 1932 chỉ tăng 8,5%, thay vì 36% như kế hoạch đã trù tính. Sau đó một ít lâu, thế giới được biết kế hoạch năm năm đã được hoàn thành trong bốn năm ba tháng. Điều đó chỉ có nghĩa là đối với các con số thống kê và dư luận quần chúng, sự vô sỉ và trơ tráo của bộ máy quan liêu không có giới hạn. Nhưng điều quan trọng nhất không ở chỗ đó, vấn đề được thua của ván bài này hoàn toàn không phải là kế hoạch năm năm mà là sự mất https://thuviensach.vn còn của chế độ. Chế độ vẫn đứng vững. Đó là công lao của nó. Sở dĩ như vậy, là vì nó đã mọc rễ sâu trong miếng đất quần chúng và nhờ hoàn cảnh bên ngoài thuận lợi. Trong những năm hỗn loạn về kinh tế và nội chiến ở nông thôn ấy, Liên xô thực tế đã bị tê liệt trước kẻ thù bên ngoài. Sự công phẫn của nông dân lan sang quân đội. Sự thiếu an ninh và ổn định làm mất tinh thần bọn quan liêu và cán bộ chỉ huy. Một cuộc tấn công nào từ phương Tây hoặc phương Đông vào lúc đó có thể có những hậu quả tai hại. May thay, những năm đầu của cuộc khủng hoảng công nghiệp và thương nghiệp nhận chìm thế giới tư bản trong một sự trông chờ mất hướng. Không ai sẵn sàng làm chiến tranh, không ai dám thử liều làm chiến tranh. Vả lại, không địch thủ nào của Liên xô biết được chính xác tính nghiêm trọng của những sự đảo lộn xã hội làm xáo trộn đất nước xô viết qua những tiếng thanh la chũm chọe của các ban nhạc ca ngợi “đường lối chính cương”. Chúng tôi hy vọng rằng mặc dầu ngắn, bản nhận xét đại cương lịch sử này chứng tỏ bức tranh lý tưởng về một sự tích luỹ tuần tự và liên tục trong thực tế còn xa mới tiến tới sự phát triển một Nhà nước lao động thực sự. Chúng tôi sẽ rút ra sau, từ một quá khứ chứa nhiều khủng hoảng, những điều chỉ dẫn quan trọng cho tương lai. Theo chúng tôi sự nghiên cứu lịch sử đường lối kinh tế của chính phủ xô viết và những ngoắt ngoéo của đường lối ấy là cần thiết để bài trừ tệ sùng bái cá nhân, đã tìm nguyên nhân của những thắng lợi thật hoặc giả trong những phẩm chất khác thường của những người lãnh đạo, không coi trọng những điều kiện của chế độ sở hữu xã hội do cách mạng tạo ra. Lẽ tự nhiên những lợi thế khách quan của chế độ xã hội mới cũng được biểu thị ở các phương pháp lãnh đạo; nhưng những phương pháp ấy cũng nói lên không kém, tình trạng kinh tế và văn hóa lạc hậu của đất nước và môi trường tiểu tư sản tỉnh lẻ trong đó các cán bộ lãnh đạo đã được đào tạo. Người ta sẽ phạm một sai lầm thô thiển nếu từ đó suy diễn rằng đường lối những nhà lãnh đạo xô viết là nhân tố có tầm quan trọng thứ ba. https://thuviensach.vn Không có một chính phủ nào khác trên thế giới lại nắm được trong tay vận mệnh của đất nước đến mức độ đó. Thành công hay thất bại của một anh tư bản tùy thuộc trong một chừng mực rất lớn, có khi trong một chừng mực có tính quyết định, dù không hoàn toàn, những phẩm chất cá nhân của anh ta. Mutatis mutandis (thay đổi cái cần phải thay đổi), chính phủ xô viết đối với toàn bộ nền kinh tế tự đặt mình vào tình thế của anh tư bản đối với nhà máy riêng của anh ta. Tính tập trung của nền kinh tế làm cho chính quyền trở thành một nhân tố có tầm quan trọng hơn. Và chính vì thế mà đường lối của chính phủ phải được xem xét, đánh giá không phải trên những bản tổng kết sơ lược, không phải trên như con số trần trụi của thống kê mà trên vai trò đặc biệt của sự dự kiến sáng suốt, và sự lãnh đạo có kế hoạch trong việc thu hoạch các kết quả. Những ngoắt ngoéo trong đường lối của chính phủ, đồng thời với những mâu thuẫn của tình hình, nói lên sự kém cỏi của những người lãnh đạo trong sự tìm hiểu những mâu thuẫn ấy và đề ra những biện pháp phòng ngừa. Những sai lầm của lãnh đạo không dễ dàng tính bằng phương pháp kế toán. Chỉ một sơ đồ vạch ra những ngoắt ngoéo mới cho phép chúng ta kết luận một cách chắc chắn những sai lầm ấy đã buộc nền kinh tế xô viết phải chịu những tổng chi phí lớn lao. Đúng là người ta không thể hiểu, nếu chỉ đề cập lịch sử theo quan điểm thuần lý, tại sao và như thế nào phân số nghèo tư tưởng nhất và có nhiều khuyết điểm, sai lầm nhất lại thắng được tất cả các nhóm khác và tập trung trong tay mình một quyền lực không giới hạn. Sự phân tích trong phần sau sẽ cho chúng ta chìa khóa của bí mật này. Chúng ta cũng sẽ thấy các phương pháp quan liêu của chính phủ chuyên chế ngày càng mâu thuẫn với các nhu cầu của nền kinh tế và văn hóa, và tính tất yếu từ đó sẽ làm nảy sinh những khủng hoảng mới và những chấn động mới trong sự phát triển của Liên xô. Nhưng trước khi đề cập việc nghiên cứu vai trò kép của bộ máy quan liêu “xã hội chủ nghĩa,” chúng tôi phải trả lời câu hỏi sau: vậy thì cán cân tổng quát của thành tựu là gì? Chủ nghĩa xã hội đã có thật chưa? Hoặc, thận trọng hơn: Những thành công kinh tế và văn hóa đạt được có giúp https://thuviensach.vn chúng ta chống lại nguy cơ một sự phục hồi tư bản chủ nghĩa được không, cũng như xã hội tư sản ở một giai đoạn nào đó nhờ những thắng lợi của mình đã chống lại được sự phục hồi chế độ phong kiến và nô lệ? Chú thích: [1]đó chính là Trôtski (Trotsky) [2]vẫn chính là Trôtski [3]đơn vị tiền tệ tạm thời dựa trên giá thạch đen - tchervonietz. https://thuviensach.vn Leon Trotsky Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội Dịch giả: Hoàng Khoa Khôi - 3 - CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ NHÀ NƯỚC Chế Độ Giao Thời Có thật như giới cầm quyền khẳng định, chủ nghĩa xã hội đã được thực hiện ở Liên Xô? Nếu câu trả lời là không, thử hỏi, ít nhất những thành tựu có bảo đảm được không cho sự thực hiện chủ nghĩa xã hội trong phạm vi biên giới một nước, bỏ ngoài những diễn biến tình hình trong phần còn lại của thế giới? Sự đánh giá phê phán những chỉ tiêu căn bản của nền kinh tế Xô Viết đặt cho chúng ta một khởi điểm trong việc đi tìm câu trả lời đúng. Nhưng chúng ta không thể bỏ qua sự nhận xét về mặt lý luận cần đưa ra trước. Chủ nghĩa Mácxít bắt nguồn từ sự phát triển của kỹ thuật, coi nó là động lực chính của tiến bộ, và xây dựng chương trình cộng sản trên tính năng động của các lực lượng sản xuất. Giả thử có một thiên tai vũ trụ tàn phá hành tinh chúng ta trong một tương lai gần gũi, chúng ta buộc phải từ bỏ viễn ảnh của chủ nghĩa cộng sản cũng như nhiều điều khác nữa. Ngoài nguy cơ đó ra, lúc này còn là giả định, chúng ta không có một tí lý do khoa học nào định trước các giới hạn, dù giới hạn nào, về các khả năng kỹ thuật, công nghiệp và văn hóa của chúng ta. Chủ nghĩa Mác thấm nhuần sâu sắc tinh thần lạc quan đối với tiến bộ và xin nói lướt qua, như thế là đủ hiểu sự đối lập triệt để của nó đối với tôn giáo. Cơ sở vật chất của chủ nghĩa cộng sản là ở chỗ phát triển sức mạnh kinh tế của con người đến mức lao động sản xuất không còn là một gánh nặng, một việc làm bắt buộc. Sự phát triển ấy không cần có bất cứ một sự kích thích nào và sự phân phối như ngày nay trong một gia đình khá giả https://thuviensach.vn hoặc một quán trọ “tử tế” – không cần sự kiểm tra nào khác ngoài sự kiểm tra của giáo dục, của tập quán, của dư luận. Thẳng thắn mà nói, phải là quá ngớ ngẩn mới coi là không tưởng một viễn cảnh xét đến cùng cũng là rất bình thường. Chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị các điều kiện và các lực lượng cho cuộc cách mạng xã hội: kỹ thuật, khoa học, giai cấp vô sản. Nhưng xã hội cộng sản không thể tiếp nối liền ngay xã hội tư bản; di sản vật chất và văn hóa của quá khứ để lại còn thiếu thốn. Ngay buổi đầu, Nhà nước công nhân không thể cho phép mỗi người làm việc “tùy theo khả năng”, nói cách khác, có thể và muốn làm đến đâu thì làm; cũng không thể thưởng công mọi người “theo nhu cầu”, công việc đã làm được. Lợi ích của sự phát triển lực lượng sản xuất buộc phải trở về những tiêu chuẩn quen thuộc của đồng lương, có nghĩa là sự phân phối của cải theo số lượng và chất lượng công việc của từng cá nhân. Mác gọi giai đoạn đầu của xã hội mới ấy là “giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản”, phân biệt với giai đoạn cao, trong đó sự bất bình đẳng vật chất biến mất cùng với cái bóng ma cuối cùng của sự thiếu thốn. Học thuyết của Nhà nước Xô viết hiện nay nói: “Lẽ tự nhiên, chúng ta chưa phải đã có chủ nghĩa cộng sản hoàn chỉnh, nhưng chúng ta đã thực hiện được chủ nghĩa xã hội, tức là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản”. Và để làm chỗ dựa cho luận đề đó người ta nêu ra ưu thế tuyệt đối của các tờ-rớt (trust). Nhà nước trong công nghiệp, trong các nông trường tập thể, trong nông nghiệp, các xí nghiệp quốc hữu hóa và hợp tác hóa, trong thương nghiệp. Thoạt nhìn, có vẻ ăn khớp hoàn toàn với sơ đồ tiên nghiệm (a priori) - và do đó mang tính giả định – của Mác. Nhưng cũng chính theo quan điểm Mácxít, vấn đề không chỉ ở các hình thức của sở hữu, độc lập với hiệu suất lao động. Bất luận truờng hợp nào, Mác hiểu “giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản” là của một xã hội mà sự phát triển kinh tế ngay từ đầu đã phải cao hơn sự phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản tiên tiến. Về lý thuyết, cách đặt vấn đề như vậy là không thể chê được, bởi ở chủ nghĩa cộng sản, xét trên qui mô toàn thế giới, ngay từ giai đoạn mở đầu, ngay từ khởi điểm, phải ở một mực cao hơn so với xã hội tư bản. Vả lại, Mác vẫn https://thuviensach.vn trông chờ người Pháp mở đầu cách mạng xã hội chủ nghĩa, người Đức sẽ tiếp tục và người Anh hoàn thành. Còn người Nga thì đứng xa ở hậu cứ. Thực tế đã đảo ngược lại. Trong giai đoạn phát triển của Liên Xô hiện nay, nếu cứ muốn áp dụng máy móc quan điểm thế giới của Mác về lịch sử vào trường hợp đặc biệt của Liên xô thì sẽ rơi ngay vào những mâu thuẫn không gỡ ra được. Nước Nga không phải là mắt xích bền nhất mà là mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa tư bản. Liên xô hiện nay chưa vượt được trình độ của kinh tế thế giới, nó còn phải đuổi kịp các nước tư bản. Nếu cái xã hội dựa trên cơ sở xã hội hóa các lực lượng sản xuất của các nước tư bản tiên tiến nhất đối với Mác là “giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản”, định nghĩa ấy rõ ràng không vận dụng được cho trường hợp Liên xô, hiện vẫn còn rất nghèo so với các nước tư bản, xét về mặt kỹ thuật, tài sản và văn hóa. Vậy, định nghĩa chế độ Xô viết hiện nay, với tất cả những mâu thuẫn của nó, không phải là xã hội chủ nghĩa mà là quá độ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, hoặc chuẩn bị cho chủ nghĩa xã hội thì đúng hơn. Một sự quan tâm về từ ngữ như vậy không có ý gì là thông thái rởm. Sức mạnh và tính ổn định của các chế độ xét đến cùng được xác định bởi hiệu suất tương đối của lao động. Một nền kinh tế xã hội hóa đang vượt chủ nghĩa tư bản về mặt kỹ thuật thì thật sự nó phát triển thành xã hội chủ nghĩa một cách có thể nói là tự động, điều mà khốn thay chưa có cách nào nói được cho nền kinh tế Xô viết. Đại đa số những kẻ tầm thường ca tụng Liên Xô theo lý luận như sau: dù cho chế độ Xô viết hiện nay chưa phải là xã hội chủ nghĩa, sự phát triển sau này của lực lượng sản xuất, trên những cơ sở hiện nay, sớm hoặc muộn sẽ phải dẫn đến sự toàn thắng của chủ nghĩa xã hội. Chỉ còn yếu tố thời gian, trong trường hợp này, là phải bàn cãi. Thế thì có gì phải ồn ào đến thế? Dù lý luận đó có vẻ không chối cãi được, thật ra nó rất nông cạn. Thời gian hoàn toàn không phải là một yếu tố phụ, khi nó là một quá trình lịch sử: lẫn lộn hiện tại với tương lai trong chính trị nguy hiểm hơn trong ngữ pháp. Sự phát triển không phải như bọn tiến hóa luận tầm thường loại Oép (Webb) hình dung, sự tích lũy theo kế hoạch và sự “cải tiến” thường https://thuviensach.vn xuyên cái hiện có. Nó gồm những biến hóa từ lượng thành chất, những khủng hoảng, những bước nhảy về phía trước và những bước lùi. Chính bởi vì Liên xô chưa phải trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, một hệ thống thăng bằng về sản xuất và tiêu thụ, nên sự phát triển ở đó mới không nhịp nhàng mà đầy mâu thuẫn. Những mâu thuẫn kinh tế đề ra những đối kháng xã hội cứ lớn lên theo lôgich của chúng, không đợi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta vừa thấy điều đó trong vấn đề anh Kulak, không chịu để cho chủ nghĩa xã hội “đồng hóa” và đòi phải có một cuộc cách mạng bổ sung mà phái quan liêu và lý thuyết gia của họ không ngờ. Phái quan liêu, tập trung trong tay họ quyền lực và của cải, có chịu để cho chủ nghĩa xã hội đồng hóa không? Ta có quyền nghi ngờ. Dù sao, tin vào lời nói của họ là thiếu thận trọng. Trong vòng ba, năm, mười năm sắp tới, tính cơ động của các mâu thuẫn kinh tế và những đối kháng xã hội trong xã hội Xô viết sẽ đi theo hướng nào? Chưa có câu trả lời cuối cùng và chắc chắn cho câu hỏi này. Sự kết thúc tùy thuộc cuộc đấu tranh của các lực lượng sống động của xã hội, không chỉ ở qui mô quốc gia mà cả ở qui mô quốc tế. Mỗi giai đoạn mới lại bắt chúng ta phải có một sự phân tích cụ thể các khuynh hướng và những tương quan thực sự, trong các mối nối tiếp và thường xuyên phụ thuộc lẫn nhau. Tầm quan trọng của một sự phân tích kiểu đó sẽ nổi bật dưới mắt chúng ta trong vấn đề Nhà nước Xô viết. Chương Trình Và Thực Tế Sau Mác và Angghen, Lênin thấy nét nổi bật đầu tiên của cách mạng là trong khi tước quyền sở hữu của bọn bóc lột, cách mạng xóa bỏ sự cần thiết có một bộ máy quan liêu thống trị xã hội và trước hết là cảnh sát và quân đội thường trực. Năm 1917, hai hoặc ba tháng trước khi cướp chính quyền, Lênin viết: “Giai cấp vô sản cần có Nhà nước, tất cả bọn cơ hội đều nhắc lại điều này, nhưng họ quên không nói thêm rằng giai cấp vô sản chỉ cần một Nhà nước tàn lụi dần, tức là nó bắt đầu tàn lụi và không thể không tàn lụi” (Nhà Nước và Cách Mạng). Lời phê phán ấy hồi đó chĩa vào bọn xã hội chủ nghĩa cải lương thuộc loại mensêvích Nga, phabiêng Anh v.v… ngày nay, nó quay lại với một sức mạnh gấp đôi chống bọn tôn sùng xô viết và sự sùng bái Nhà nước quan liêu của chúng không muốn “tàn lụi”. https://thuviensach.vn Đứng về mặt xã hội, chế độ quan liêu là hiện tượng tự nhiên mỗi khi xuất hiện những đối kháng xã hội gay gắt, cần phải “xoa dịu”, “dung hòa”, “điều chỉnh” (bao giờ cũng vì quyền lợi những kẻ có đặc quyền, đặc lợi và những kẻ có của và bao giờ cũng vì quyền lợi của bản thân bọn quan liêu). Bộ máy quan liêu được củng cố và cải tiến qua tất cả các cuộc cách mạng tư sản, dù dân chủ đến mấy. Lênin viết: “Đội ngũ viên chức và quân đội thường trực là những “sinh vật ăn bám” trên cái thân thể của xã hội tư sản, những con vật ăn bám ấy sinh ra vì những mâu thuẫn nội bộ đang dằng xé xã hội đó, nhưng chính nó làm tắc các lỗ chân lông…” Kể từ 1918, nghĩa là từ khi đảng coi việc nắm chính quyền là một vấn đề thực tiễn, Lênin không ngừng quan tâm đến việc loại trừ những “sinh vật ăn bám” ấy. Lênin giải thích và chứng minh trong Nhà Nước và Cách mạng: sau khi lật đổ các giai cấp bóc lột, giai cấp vô sản đập tan bộ máy quan liêu cũ và lập ra bộ máy của mình gồm công nhân và viên chức, và để ngăn họ không trở thành những tên quan liêu cần phải áp dụng “những phương sách mà Mác và Angghen nghiên cứu chi tiết”: 1. Bầu ra và cả bãi miễn được bất cứ lúc nào. 2. Lương không cao hơn lương công nhân. 3. Chuyển ngay sang một tình hình trong đó tất cả mọi người sẽ làm các nhiệm vụ kiểm tra và giám sát, trong đó tất cả mọi người sẽ tạm thời là “những quan chức”, không ai có thể vì thế mà trở thành quan liêu. Người ta sẽ hiểu sai nếu nghĩ rằng đối với Lênin, đó là công việc đòi hỏi phải hàng chục năm; Không, đó là bước đầu: “Người ta có thể và phải bắt đầu từ đó cuộc cách mạng vô sản.” Một năm rưỡi sau khi cướp được chính quyền, những quan điểm táo bạo như thế về Nhà nước của chuyên chính vô sản được diễn đạt hoàn chỉnh trong chương trình của đảng bônsêvích, đặc biệt trong các chương về quân đội. Một Nhà nước mạnh, nhưng không có quan lại, một lực lượng vũ trang nhưng không có xa-mua-rai (võ sĩ Nhật)! Chế độ quan liêu quân sự và dân sự không bắt nguồn từ những nhu cầu về quốc phòng mà là sự chuyển dịch của sự phân chia xã hội thành giai cấp vào tổ chức quốc phòng. Quân đội chỉ là sản phẩm của các tương quan xã hội. Lẽ tự nhiên https://thuviensach.vn trong Nhà nước lao động, cuộc chiến đấu chống ngoại xâm đòi hỏi một tổ chức quân sự và kỹ thuật chuyên môn hóa nhưng bất luận hoàn cảnh nào, cũng không thể là một đẳng cấp sĩ quan có đặc quyền, đặc lợi. Chương trình bônsêvích đòi hỏi sự thay thế quân đội thường trực bằng cả nước được vũ trang. Ngay từ khi mới thành lập, chế độ chuyên chính vô sản do đó thôi không còn là chế độ của một “Nhà nước” theo nghĩa cũ của từ đó, nghĩa là một bộ máy dựng ra để duy trì sự tuân thủ của đại đa số nhân dân. Cùng với vũ khí, lực lượng vật chất chuyển trực tiếp và nhanh chóng sang tổ chức, như là các xô viết. Nhà nước, bộ máy quan liêu, bắt đầu tàn lụi ngay từ ngày đầu của chuyên chính vô sản. Đó là tiếng nói của chương trình hồi đó cho tới nay vẫn chưa bãi bỏ. Kỳ lạ thật, tưởng chừng như là tiếng nói của bên kia thế giới phát ra từ lăng tẩm Lênin. Dù người ta hiểu về bản chất của Nhà nước xô viết như thế nào, điều không chối cãi được là: sau hai mươi năm, nó còn xa mới “tàn lụi”, và cũng không bắt đầu “tàn lụi”. Tệ hơn nữa, nó trở thành một bộ máy cưỡng bức chưa từng có trong lịch sử. Chế độ quan liêu, còn xa mới biến đi, lại trở thành một sức mạnh không bị kiểm soát, thống trị quần chúng. Quân đội, còn xa mới được thay thế bằng nhân dân vũ trang, đã dựng nên một đẳng cấp sĩ quan đặc quyền, đặc lợi, trên thượng đỉnh đã xuất hiện những thống chế, còn quần chúng ở Liên xô, trong khi nói “thiết lập nền chuyên chính bằng vũ khí,” không được phép có cả đến gươm, dao, giáo, mác. Dù sức tưởng tượng cuồng nhiệt đến đâu người ta cũng khó lòng mà hình dung được sự tương phản lạ kỳ giữa mô hình Nhà nước lao động của Mác Angghen và Nhà nước mà Stalin đứng đầu hiện nay. Vừa cứ tiếp tục in lại các tác phẩm của Lênin (cố nhiên có kiểm duyệt và cắt xén), các thủ lĩnh hiện nay của Liên xô và các lý thuyết gia đại diện của họ, không tự hỏi những nguyên nhân nào khiến cho có sự khác biệt quá rõ ràng như thế giữa chương trình và thực tế. Chúng ta phải cố gắng làm thay họ vậy. Đặc Tính Lưỡng Diện Của Nhà Nước Xô Viết Chuyên chính vô sản là cái cầu giữa các xã hội tư bản và xã hội chủ nghĩa. Bản chất của nó cho nó một tính chất nhất thời. Nhà nước này thực https://thuviensach.vn hiện chuyên chính, có một nhiệm vụ phụ nhưng lại đứng hàng đầu, là chuẩn bị cho sự tiêu vong của chính mình. Mức độ thực hiện nhiệm vụ “phụ” này kiểm tra, trong một ý nghĩa nhất định, sự thành công của tư tưởng chủ chốt: xây dựng một xã hội không giai cấp và không có mâu thuẫn vật chất. Chủ nghĩa quan liêu và sự hài hòa xã hội tiến theo tỷ lệ ngược lại. Angghen nói trong cuộc luận chiến nổi tiếng chống Đuyring (Duhring) viết: “… Sau này, khi không còn sự thống trị giai cấp và đồng thời không còn cuộc đấu tranh của mỗi cá nhân để tồn tại do sự tổ chức hỗn loạn của nền sản xuất hiện nay, và do sự va chạm và xung đột thái quá bắt nguồn từ cuộc đấu tranh này, thì không còn gì để phải đàn áp, không cần có một lực lượng đặc biệt của Nhà nước để đàn áp nữa. Kẻ tầm thường nghĩ rằng muôn đời vẫn cần có anh sen đầm. Thật ra anh sen đầm còn chế ngự con người chừng nào, con người sẽ chưa đủ lực để chế ngự thiên nhiên. Muốn cho Nhà nước tiêu vong, phải làm tiêu vong ‘sự thống trị giai cấp và cuộc đấu tranh để cá nhân tồn tại’.” Angghen hợp hai điều kiện ấy lại làm một: Trong viễn cảnh của sự nối tiếp các chế độ xã hội, vài chục năm chẳng kể là bao. Những thế hệ gánh cách mạng lên hai vai của mình hình dung sự việc một cách hoàn toàn khác. Đúng là cuộc đấu tranh của tất cả chống lại tất cả sinh ra từ sự hỗn loạn của tư bản. Nhưng việc xã hội hóa các phương tiện sản xuất không tự động xóa bỏ “cuộc đấu tranh để cá nhân tồn tại.” Và đó là then chốt của vấn đề! Nhà nước xã hội chủ nghĩa, ngay như thành lập ở Mỹ, trên những cơ sở chủ nghĩa tư bản tiên tiến nhất, cũng không thể cung cấp cho mỗi người tất cả những cái người ấy cần, và do đó, buộc phải kích thích mọi người sản xuất càng nhiều càng tốt. Chức năng kích thích trong những điều kiện như thế tất nhiên là cần thiết đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nó bắt buộc phải sử dụng những phương pháp phân phối theo lao động do chủ nghĩa tư bản dựng nên với những thay đổi ít nhiều và giảm nhẹ hơn. Theo nghĩa đó, năm 1875 Mác viết rằng “sự phân phối hưởng thụ theo lối tư sản… là không tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản dưới hình thức sinh ra từ xã hội tư bản, sau những cơn đau đẻ kéo dài. Quyền https://thuviensach.vn hưởng thụ không bao giờ có thể vượt lên trên chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ đó đã qui định.” Bình luận những dòng đáng chú ý này, Lênin thêm: “Quyền hưởng thụ theo lối tư sản trong lĩnh vực phân phối các hàng tiêu dùng lẽ tự nhiên đòi hỏi phải có Nhà nước tư sản, bởi vì pháp lý không là gì cả nếu không có một bộ máy cưỡng bức áp đặt những qui phạm của nó. Thành ra pháp lý tư sản còn tồn tại một thời gian trong lòng chế độ cộng sản và có thể nói Nhà nước là Nhà nước tư sản tuy không có giai cấp tư sản!” Câu kết luận đầy ý nghĩa ấy, bọn lý thuyết gia chính luận ngày nay hoàn toàn không biết, có tầm quan trọng quyết định để hiểu bản chất Nhà nước xô viết ngày nay hoặc nói đúng hơn, một sự tiếp cận đầu tiên theo hướng đó. Cái Nhà nước có nhiệm vụ biến đổi xã hội thành xã hội xã hội chủ nghĩa, buộc phải dùng cưỡng bức để bảo vệ sự bất bình đẳng xã hội, tức là bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi của một thiểu số, trong một chừng mực nào đó, vẫn cứ là Nhà nước “tư sản”, mặc dầu không có giai cấp tư sản. Những lời ấy không bao hàm sự khen hay chê; chúng chỉ gọi sự vật bằng đúng tên của nó. Những tiêu chuẩn tư sản về phân phối thúc đẩy sự gia tăng lực lượng vật chất phải nhằm phục vụ những mục đích xã hội chủ nghĩa. Và Nhà nước có ngay một đặc tính lưỡng diện: xã hội chủ nghĩa trong chừng mực nó bảo vệ quyền sở hữu tập thể các phương tiện sản xuất, tư sản trong chừng mực sự phân phối của cải còn làm theo những chuẩn mẫu tư bản về giá trị, với tất cả những hệ quả của nó. Một định nghĩa chứa đựng mâu thuẫn như vậy có lẽ làm bọn giáo điều và bọn kinh viện hoảng sợ; chúng tôi chỉ còn biết tỏ lời rất tiếc đối với họ. Diện mạo cuối cùng của Nhà nước lao động phải được định nghĩa bằng sự đổi thay của mối tương quan giữa các khuynh hướng tư sản và xã hội chủ nghĩa của nó. Sự thắng lợi của khuynh hướng cuối này (tức là xã hội chủ nghĩa) có nghĩa là sự nhất thiết phải xóa bỏ được anh sen đầm, nói cách khác là sự hòa nhập Nhà nước vào trong một xã hội tự quản. Điều đó đủ làm nổi bật tầm quan trọng vô cùng rộng lớn của vấn đề chế độ quan liêu ở Liên xô, về mặt sự kiện cũng như triệu chứng. https://thuviensach.vn Chính do sự suy nghĩ của mình, Lênin đã đem lại cho quan niệm của Mác một hình thức sâu đậm nhất nên ông vạch ra cội nguồn của những khó khăn sắp đến, kể cả của chính bản thân, mặc dầu Lênin không có thời giờ để đẩy sự phân tích đến cùng. “Nhà nước tư bản không có giai cấp tư sản” đã tỏ ra không thể đi đôi với nền dân chủ Xô viết chân chính. Tính hai mặt của những chức năng của Nhà nước không thể không biểu hiện ra trong cấu trúc của nó. Thực nghiệm đã chỉ ra những điều mà lý thuyết chưa có thể dự kiến thật rõ ràng đầy đủ: nếu “Nhà nước của những công nhân được vũ trang” có lý do đầy đủ tự bảo tồn khi phải bảo vệ tài sản xã hội hóa chống lại bọn phản cách mạng, thì khi phải điều chỉnh sự bất bình đẳng trong lĩnh vực tiêu thụ, vấn đề lại hoàn toàn khác. Những người không có gì để sở hữu không có thiên hướng tạo ra đặc quyền đặc lợi và bảo vệ chúng. Đại đa số không thể quan tâm đến quyền lợi ưu đãi của thiểu số. Để bảo vệ “pháp quyền tư sản”, Nhà nước lao động buộc phải lập ra một cơ quan kiểu “tư sản”, nói gọn hơn, trở lại với anh sen đầm, khoác cho anh ta một bộ binh phục mới. Như thế chúng ta đã đi bước thứ nhất đến với sự hiểu biết mâu thuẫn cơ bản giữa chương trình bônsêvích và thực tiễn Xô viết. Nếu Nhà nước, đáng lẽ tàn lụi đi, lại càng ngày càng trở nên chuyên chế, độc đoán; nếu những người được ủy quyền của giai cấp công nhân lại quan liêu hóa, trong lúc chế độ quan liêu dựng lên trên đầu xã hội đổi mới, như thế không phải là vì những nguyên nhân thứ yếu như là những tàn dư tâm lý của quá khứ, v.v… mà là vì sự bức thiết phải hình thành sự chiêu đãi một thiểu số có đặc quyền, chừng nào vẫn chưa bảo đảm được sự bình đẳng trong thực tế. Những khuynh hướng quan liêu ngăn cản hơi thở phong trào công nhân sẽ bộc lộ ra khắp nơi sau cuộc cách mạng vô sản. Nhưng điều hoàn toàn hiển nhiên là xã hội thoát thai từ cách mạng càng nghèo thì cái “quy luật” ấy càng biểu hiện nghiệt ngã hơn, không quanh co che giấu; và chủ nghĩa quan liêu càng mang những hình thức tàn bạo hơn, càng trở nên nguy hiểm hơn cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Không phải là những “tàn dư”, tự bản thân bất lực, của các giai cấp thống trị cũ đã ngăn cản sự tiêu https://thuviensach.vn vong và sự bài trừ bọn quan liêu ăn bám, như học thuyết theo quan niệm “mật vụ” của Stalin thường nêu ra, mà là những yếu tố mạnh hơn rất nhiều, như sự đói nghèo vật chất, sự thiếu văn hóa chung và sự thống trị của “pháp lý tư sản” biểu lộ, trong các lĩnh vực quan hệ trực tiếp và mạnh mẽ đến con người: sự tồn tại của bản thân. Sen Đầm Và “Nhu Cầu Xã Hội Hóa” Hai năm trước khi ra đời Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, Mác thời còn trẻ viết: “Sự phát triển của các lực lượng sản xuất là điều kiện tiên khởi, về mặt thực hành, tuyệt đối cần thiết (cho chủ nghĩa cộng sản) bởi vì còn lý do này nữa, không có nó người ta sẽ xã hội hóa sự đói nghèo và sự đói nghèo lại buộc người ta phải làm lại cuộc chiến đấu cho sự no đủ và do đó lại làm sống lại tất cả mớ hỗn độn xưa kia…” Ý kiến này Mác không bàn tới ở đâu cả, và không phải là điều ngẫu nhiên: Mác không dự kiến thắng lợi của cách mạng trong một nước lạc hậu. Lênin cũng không dừng lại ở chỗ này, và càng không phải là chuyện ngẫu nhiên: Lênin không dự kiến Nhà nước Xô viết phải ở trong cảnh đơn độc lâu ngày như thế. Vả lại, văn bản mà chúng tôi vừa trích dẫn ở Mác chỉ là một giả thiết trừu tượng, một luận cứ bằng phương pháp đối chứng, cho chúng ta cái chìa khóa lý thuyết duy nhất để đề cập những khó khăn hoàn toàn cụ thể và những chứng bệnh của chế độ Xô viết. Trên mảnh đất lịch sử của đói nghèo, càng trầm trọng hơn bởi sự tàn phá của các cuộc chiến tranh đế quốc và nội chiến, “cuộc đấu tranh cho sự tồn tại” của cá nhân không những còn lâu mới biến mất sau ngày giai cấp tư sản bị lật đổ, còn lâu mới dịu xuống trong những năm tiếp theo, mà có lúc còn trở thành kịch liệt chưa từng thấy: có cần phải nhắc lại những hành động dã man, tàn bạo đã hai lần xảy ra trong một số vùng của đất nước? Khoảng cách phân chia giữa nước Nga và phương Tây được đem ra đo thật sự là lúc này. Trong những điều kiện thuận lợi nhất, tức là không có sự đảo lộn ở bên trong và tai họa đến từ bên ngoài, Liên xô cũng phải nhiều lần năm năm mới tiếp thu được toàn bộ thành tựu kinh tế và giáo dục, nó là kết quả của hàng thế kỷ đối với những đứa con đầu lòng của nền văn minh https://thuviensach.vn tư bản. Sự vận dụng những phương pháp xã hội chủ nghĩa vào những nhiệm vụ tiền xã hội chủ nghĩa lúc này là cái nền của công tác kinh tế và văn hóa ở Liên xô. Đúng là Liên xô hiện nay, về lực lượng sản xuất, vượt các nước tiên tiến nhất thời Mác. Nhưng trước tiên, trong cuộc thi đua lịch sử giữa hai chế độ, phải nhìn những mức tương đối, chứ không phải những mức tuyệt đối: kinh tế Xô viết so sánh với chủ nghĩa tư bản của Hitle, Banđuynh (Baldwin) và Rudơven (Roosevelt), chứ không phải so sánh với Bitmác (Bismarck), Panmecxtơn (Palmerston) và Abơraham Linhcôn (Abraham Lincoln); hai là, sự gia tăng những nhu cầu của con người thay đổi căn bản đồng lượt với sự phát triển của kỹ thuật toàn cầu; những người đương thời với Mác không biết về ô tô, vô tuyến điện, máy bay. Thế mà xã hội chủ nghĩa thời đại chúng ta sẽ không thể quan niệm được nếu không có sự sử dụng tự do những cái hay ấy. Để dùng từ ngữ của Mác, “giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản” bắt đầu ở mức mà chủ nghĩa tư bản tiên tiến nhất đang tiến gần đến. Thế mà chương trình thực tế của kế hoạch năm năm sắp tới của các nước cộng hòa Xô viết chỉ là “đuổi kịp Châu Âu và Châu Mỹ”. Muốn tạo ra một hệ thống đường nhựa và xa lộ trong những khoảng bao la của đất nước Xô viết thì phải cần thì giờ và phương tiện nhiều hơn việc nhập từ Mỹ những nhà máy ô tô sẵn sàng để sản xuất và việc chiếm lĩnh được kỹ thuật của họ. Phải bao nhiêu năm để cho phép mọi công dân sử dụng được ô tô trong mọi hướng không gặp những khó khăn về cung ứng xăng dầu? Trong xã hội dã man, người đi bộ và người cưỡi ngựa là hai giai cấp, chiếc ô tô phân chia xã hội không kém con ngựa để cưỡi. Chừng nào chiếc Pho (Ford) nhỏ nhắn còn là đặc quyền của một thiểu số, mọi quan hệ và mọi tập quán của xã hội tư sản vẫn còn tồn tại. Và Nhà nước, kẻ bảo vệ sự bất bình đẳng, vẫn tồn tại với chúng. Xuất phát từ lý thuyết mácxít về chuyên chính vô sản, trong tác phẩm chủ yếu về vấn đề này (Nhà Nước và Cách Mạng) và trong chương trình của đảng, Lênin chưa có thể rút ra hết những suy luận về tính chất của Nhà nước, bị hạn định bởi điều kiện lạc hậu và tình trạng bị cô lập. Giải https://thuviensach.vn thích sự phát triển của chế độ quan liêu bằng sự thiếu kinh nghiệm hành chính của quần chúng và những khó khăn do chiến tranh gây ra, chương trình của đảng đề ra những phương sách thuần túy chính trị để vượt khỏi những “biến dạng quan liêu”: bầu ra và bãi miễn bất cứ lúc nào đối với những người được ủy nhiệm, xóa bỏ những ưu đãi vật chất, kiểm tra hiệu lực của quần chúng. Người ta nghĩ rằng, bằng cách đó, người viên chức sẽ thôi không là ông xếp (thủ trưởng) để trở thành cán bộ chuyên môn bình thường, vả lại cũng chỉ là tạm thời, còn Nhà nước thì cứ từ từ, lẳng lặng rút khỏi sân khấu chính trị. Cách đánh giá rõ ràng thấp những khó khăn sắp tới là do chương trình hoàn toàn dựa vào triển vọng của tình hình quốc tế. “Cách mạng Tháng mười đã thiết lập chuyên chính vô sản ở Nga… Kỷ nguyên cách mạng vô sản của cộng sản toàn thế giới đã mở đầu”. Đó là những dòng đầu của chương trình. Các tác giả của tư liệu này (tức chương trình) không đặt cho mình mục đích duy nhất xây dựng “chủ nghĩa xã hội thành công trong riêng một nước” – ý nghĩa này không đến với ai cả, càng không đến với Stalin – và họ cũng không tự hỏi Nhà nước Xô viết sẽ có tính chất nào nếu nó phải một mình, trong hai mươi năm, thực hiện những nhiệm vụ kinh tế và văn hóa đã được hoàn thành từ lâu trong các nước tư bản tiên tiến. Cuộc khủng hoảng cách mạng sau chiến tranh rủi thay lại không đem thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu: đảng xã hội dân chủ đã cứu sống giai cấp tư sản. Giai đoạn mà Lênin và các đồng chí chiến hữu của ông coi như là một cuộc “hưu chiến” ngắn đã trở thành cả một thời kỳ lịch sử kéo dài. Cấu trúc xã hội chứa đựng sự mâu thuẫn của Liên xô và tính chất siêu quan liêu của Nhà nước Xô viết là những hậu quả trực tiếp của cái “khó khăn” lịch sử đặc biệt và bất ngờ ấy, đồng thời khó khăn ấy cũng đưa các nước tư bản đến chủ nghĩa phát xít hoặc trào lưu phản động tiền phát xít. Nếu sự cố gắng ban đầu – xây dựng một Nhà nước cởi bỏ được nạn quan liêu – trước hết vấp phải sự thiếu kinh nghiệm của quần chúng trong việc tự quản, sự thiếu những người lao động lành nghề tận tụy với chủ nghĩa xã hội v.v…, những khó khăn khác cũng chẳng mấy chốc bộc lộ ra. https://thuviensach.vn Việc Nhà nước rút lại chỉ còn những chức năng “kiểm kê và củ soát”, các chức năng cưỡng bách không ngừng giảm đi theo như yêu cầu của chương trình, như vậy sẽ dẫn đến một cuộc sống dễ chịu nào đó. Điều kiện cần thiết ấy không có. Sự chi viện của phương Tây đã không đến. Chính quyền các xô viết dân chủ trở thành trở ngại, thậm chí không chịu đựng nổi, khi cần phải ưu đãi các nhóm quan trọng nhất của quốc phòng, công nghiệp, kỹ thuật, khoa học. Một đẳng cấp những chuyên gia có thế lực về phân phối được hình thành và mạnh lên nhờ những thao tác không có chút nào là xã hội chủ nghĩa lấy của mười người đem cho một người. Quá trình nào và tại sao những thành quả kinh tế to lớn của thời gian mới rồi, đáng lẽ phải làm dịu bớt sự bất bình đẳng, lại làm tăng lên và đẩy chế độ quan liêu từ “biến tướng” trở thành hệ thống quyền lực? Trước khi thử trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy nghe những thủ lĩnh có thẩm quyền nhất của chế độ quan liêu Xô viết nói về chế độ của chính họ. “Thắng Lợi Hoàn Toàn Của Chủ Nghĩa Xã Hội” Và “Sự Củng Cố Nền Chuyên Chính” Thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội đã được nhiều lần thông báo ở Liên xô và dưới một dạng đặc biệt dứt khoát sau việc “thanh toán những người Kulak về mặt giai cấp”. Ngày 30 tháng giêng 1931, bình luận một bài diễn văn của Stalin, báo Sự Thật viết: “Kế hoạch năm năm lần thứ hai sẽ thanh toán nhữngtàn dư cuối cùng của những nhân tố tư bản trong nền kinh tế của chúng ta” (chúng tôi gạch dưới). Theo quan điểm này, Nhà nước sẽ phải tiêu tan, không còn trở lại trong cùng thời gian, bởi vì nó không còn việc gì để làm nữa, ở chỗ mà “những tàn dư cuối cùng” của chủ nghĩa tư bản đã thanh toán hết. Chương trình của đảng bônsêvich tuyên bố về vấn đề này: “Chính quyền Xô viết thừa nhận tính chất giai cấp không tránh được của mọi Nhà nước, chừng nào chưa hoàn toàn biến đi sự phân chia xã hội thành giai cấp và, với nó, mọi quyền lực chính phủ”. Có một số lý thuyết gia Matxcơva khinh suất suy ra rằng thanh toán “những tàn tích cuối cùng của chủ nghĩa tư bản” – họ chấp nhận là thực tế – là đi đến sự tàn lụi của Nhà nước. Ý kiến đó tức khắc bị bọn quan liêu coi là “phản cách https://thuviensach.vn mạng”. Vậy sự sai lầm lý thuyết của chủ nghĩa quan liêu là ở trong mệnh đề chính hay trong phép suy diễn? Trong cả hai. Phái đối lập phản bác lời tuyên bố đầu tiên về “thắng lợi hoàn toàn”, cho rằng không thể giới hạn ở chỗ chỉ xét nhận những hình thức pháp lý xã hội của các mối tương quan, vả lại (chúng?) còn chứa đựng mâu thuẫn và chưa chín muồi trong nông nghiệp, mà không nói đến tiêu chuẩn chính: trình độ đạt được do năng suất lao động. Bản thân những hình thức pháp lý cũng có một nội dung xã hội, nó thay đổi sâu sắc tùy theo độ phát triển của kỹ thuật: “Quyền hưởng thụ không bao giờ có thể vượt lên trên chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ đó đã qui định.” (Mác). Những hình thức sở hữu Xô viết dựa trên những thành tựu mới nhất của kỹ thuật Mỹ, mở rộng ra cho tất cả các ngành kinh tế, sẽ đem lại giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội. Những hình thức Xô viết, với một năng suất lao động thấp, thì chỉ có nghĩa là một chế độ giao thời mà số phận chưa được lịch sử quyết định. Tháng ba 1932, chúng tôi đã viết: “Có phải là quái gở không, đất nước chưa ra khỏi tình trạng khan hiếm hàng hóa, sự tiếp tế dừng lại bất cứ lúc nào, trẻ em thiếu sữa mà những lời phán truyền của Nhà nước lại tuyên bố “đất nước đã đi vào thời kỳ xã hội chủ nghĩa”. Còn gì làm hại cho uy tín của chủ nghĩa xã hội hơn thế không?” Các Rađếch (Karl Radek), nay là một trong số nhà báo được các giới lãnh đạo Xô viết chú ý nhất, trả lời lại lời phản bác ấy trong một số đặc biệt của Beclinơ Tagơbơlat (Berliner Tageblatt) về Liên xô (tháng năm 1932), bằng những lời lẽ sau đây, đáng để lưu lại hậu thế: “Sữa là sản phẩm của con bò cái, không phải của chủ nghĩa xã hội, và phải thật là lầm lẫn chủ nghĩa xã hội với hình ảnh một nước trong đó đang chảy những dòng sông sữa, mới không hiểu được một nước có thể vươn lên một độ phát triển cao hơn mà tạm thời sinh hoạt vật chất của quần chúng vẫn không được cải thiện trông thấy”. Những dòng này được viết giữa lúc cả nước đang làm mồi cho một trận đói kinh khủng. Chủ nghĩa xã hội là chế độ của sự sản xuất có kế hoạch để thỏa mãn tốt nhất những nhu cầu của con người, không như thế, nó không xứng đáng với tên gọi đó. Nếu những con bò cái được tuyên bố là của sở hữu tập thể, https://thuviensach.vn nhưng nếu chúng có ít quá hoặc vú sữa của chúng gầy guộc quá, những xung đội sẽ bắt đầu diễn ra vì thiếu sữa: giữa thành phố và nông thôn, giữa các nông trường tập thể và nông dân cá thể, giữa các tầng lớp khác nhau của giai cấp vô sản, giữa bộ máy quan liêu và toàn thể những người lao động. Chính vì việc xã hội hóa các con bò cái mà chúng bị nông dân làm thịt hàng loạt. Những xung đột xã hội do đói nghèo sinh ra, đến lượt chúng lại làm quay trở lại “mớ hỗn độn xưa kia”. Câu trả lời của chúng tôi là như vậy. Trong nghị quyết ngày 20 tháng tám 1935, đại hội VII của Quốc tế cộng sản long trọng chứng nhận “thắng lợi hoàn toàn và không thể trở ngược của chủ nghĩa xã hội và sự củng cố về mọi mặt của Nhà nước chuyên chính vô sản” ở Liên xô là kết quả những thành công của công nghiệp được quốc hữu hóa, sự loại trừ những nhân tố tư bản chủ nghĩa và sự thanh toán các phú nông về mặt giai cấp. Mặc dù lời nói quả quyết, sự chứng nhận của Quốc tế cộng sản chứa đựng mâu thuẫn sâu sắc: nếu chủ nghĩa xã hội đã thắng “hoàn toàn và không thể trở ngược”, nhận xét dưới hình thức một tổ chức xã hội sống động, chứ không phải như một nguyên lý trừu tượng, nếu như thế thì “sự củng cố” mới của nền chuyên chính là một sự hiển nhiên vô lý. Và ngược lại, nếu sự củng cố chuyên chính là cần thiết để đáp ứng tình hình thật sự của chế độ, thì chúng ta còn xa mới đến chỗ thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Mọi đường lối chính trị thực tiễn, chưa nói là mácxit, phải hiểu rằng sự cần thiết “củng cố” chuyên chính, tức là sự cưỡng bức của chính phủ, chứng tỏ (đây?) không phải sự thắng lợi của một xã hội hài hòa, không giai cấp mà là sự phát triển của những mâu thuẫn xã hội mới. Cơ sở của chúng là gì? Sự khan hiếm các phương tiện sinh sống, kết quả của năng suất lao động thấp. Có lần Lênin đã khẳng định chủ nghĩa xã hội như sau: “Chính quyền Xô viết, cộng thêm điện khí hóa”. Cái định nghĩa dưới hình thức châm ngôn ngắn gọn ấy là để đáp ứng mục đích tuyên truyền, dù sao cũng lấy mức điện khí hóa của tư bản làm khởi điểm thấp nhất. Nhưng ngày nay, tính theo đầu người, Liên xô còn ba lần kém hơn về điện lực so với các nước tư bản tiên tiến. Cùng một thời gian các xô viết đã trở thành một bộ https://thuviensach.vn máy độc lập đối với quần chúng, Quốc tế cộng sản chỉ còn có việc tuyên bố chủ nghĩa xã hội là “chính quyền quan liêu, cộng thêm một phần ba điện khí hóa tư bản chủ nghĩa”. Định nghĩa ấy sẽ đúng như chụp ảnh, nhưng chủ nghĩa xã hội có quá ít chỗ đứng trong đó. Tháng mười một năm 1935, trong bài diễn văn đọc trước những người thợ stakhanôvit, Stalin, thể theo mục đích thực tiễn của cuộc họp này, đột nhiên tuyên bố: “Tại sao chủ nghĩa xã hội có thể thắng, phải thắng và tất yếu sẽ thắng hệ thống tư bản chủ nghĩa? Bởi vì nó có và có thể có một năng suất lao động cao hơn”. Nói như thế, Stalin đã vô tình gạt bỏ nghị quyết của Quốc tế cộng sản vừa đưa ra cách đấy ba tháng và cả những lời y tuyên bố lặp đi lặp lại về vấn đề này. Lần này Stalin nói về “thắng lợi” bằng động từ tương lai: chủ nghĩa xã hội sẽ thắng hệ tư bản khi sẽ vượt được nó trong năng suất lao động. Ta thấy đấy, không chỉ các thì cùa động từ mới thay đổi tùy theo tình huống, các chuẩn mực xã hội cũng biến đổi theo. Và chắc chắn là người công dân Liên xô không dễ gì theo được “đường lối tổng quát” ấy. Cuối cùng, ngày mồng 1 tháng ba năm 1936, trong cuộc nói chuyện với ông Rôi Hauơc (Roy Howard), Stalin lại cho một định nghĩa mới nữa về chế độ Xô viết: “Tổ chức xã hội mà chúng tôi đã tạo ra có thể gọi là xô viết xã hội chủ nghĩa, nó chưa hoàn chỉnh, nhưng xét đến cùng nó là một tổ chức xã hội chủ nghĩa”. Cái định nghĩa có dụng ý mập mờ ấy, có bao nhiêu chữ thì hầu như có bấy nhiêu mâu thuẫn. Tổ chức xã hội ở đây được gọi là “xô viết, xã hội chủ nghĩa”. Nhưng các Xô viết đại diện cho một hình thức Nhà nước và chủ nghĩa xã hội đại diện cho một chế độ xã hội. Từ góc độ chúng ta quan tâm, những từ ấy còn xa mới đồng nhất. Nó lại còn đối lập với nhau là khác, các Xô viết phải dần dần biến đi trong chừng mực tổ chức xã hội trở thành xã hội chủ nghĩa. Cũng như những dàn giáo phải dỡ đi khi cái nhà đã xong. Stalin có cho thêm một hiệu đính: “Chủ nghĩa xã hội chưa thật sự hoàn chỉnh”. “Chưa hoàn chỉnh” nghĩa là thế nào? Khoảng 5% hay 75%? Người ta không nói với chúng ta điều đó, cũng như người ta tránh không nói với chúng ta phải hiểu cái “đáy” của xã hội xã hội chủ nghĩa là gì? Là các hình thức sở hữu hay là kỹ thuật? Sự mờ tối của định nghĩa này https://thuviensach.vn có nghĩa là một bước lùi so với những công thức dứt khoát hơn rất nhiều của những năm 1931 và 1935. Thêm một bước nữa trên con đường này, người ta phải thừa nhận rằng gốc rễ của mọi tổ chức xã hội là ở trong các lực lượng sản xuất, và cái rễ xô viết đúng là còn quá yếu cho cái cây xã hội chủ nghĩa và cho hạnh phúc con người, mục đích cuối cùng cần đạt đến. https://thuviensach.vn Leon Trotsky Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội Dịch giả: Hoàng Khoa Khôi - 4 - CUỘC PHẤN ĐẤU CHO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Kế Hoạch Và Tiền Bạc Chúng tôi vừa đặt chế độ xô-viết qua thử thách dưới góc độ Nhà nước. Chúng tôi cũng có thể làm như thế dưới góc độ lưu thông tiền tệ. Hai vấn đề Nhà nước và tiền tệ có nhiều mặt chung với nhau bởi vì xét đến cùng, cả hai rút lại vẫn trở về với vấn đề của mọi vấn đề, đó là vấn đề năng suất lao động. Sự cưỡng bức của Nhà nước và tiền tệ thuộc về di sản của xã hội phân chia giai cấp, xã hội này chỉ có thể quyết định những quan hệ giữa người với người bằng những vật tôn sùng thần thánh hoặc vô thần và đặt những vật tôn sùng ấy dưới sự bảo hộ của vật tôn sùng đáng sợ nhất, Nhà nước - một con dao lớn ngậm giữa hai hàm răng. Trong xã hội cộng sản, Nhà nước và tiền bạc sẽ biến mất. Vậy sự suy tàn dần dà của chúng phải bắt đầu từ chế độ xã hội chủ nghĩa. Người ta chỉ có thể nói về thắng lợi thật sự của chủ nghĩa xã hội kể từ thời điểm lịch sử mà Nhà nước sẽ chỉ còn là một nửa Nhà nước và tiền bạc bắt đầu mất quyền lực ma quái của nó. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa xã hội được giải phóng khỏi những vật tôn thờ tư bản, bắt đầu thiết lập được những quan hệ trong sáng hơn, tự do hơn và xứng đáng hơn giữa người với người. Những yêu sách đòi “xóa bỏ” tiền bạc, “xóa bỏ” chế độ tiền lương hoặc “loại trừ” Nhà nước và gia đình, đặc trưng của chủ nghĩa vô chính phủ, chỉ đáng chú ý ở chỗ chúng là mẫu hình của tư tưởng cơ giới, máy móc. Tiền bạc không thể bị xóa bỏ một cách độc đoán, cũng như Nhà nước và gia đình không thể “loại trừ”, chúng phải làm hết nhiệm vụ lịch sử của chúng, mất hết ý nghĩa rồi mới biến đi. Sự tôn thờ đồng tiền chỉ sẽ nhận https://thuviensach.vn phát súng kết liễu cuộc đời của nó khi sự phát triển không ngừng của cải xã hội giải phóng giống động vật hai chân khỏi sự keo xỉn từng phút làm việc thêm và sự băn khoăn xấu hổ trước mỗi khẩu phần lớn, nhỏ. Một khi mất đi cái quyền lực mang lại hạnh phúc và ném con người vào cát bụi, tiền bạc chỉ còn là phương tiện kế toán thuận lợi cho thống kê và kế hoạch. Sau đó, chắc người ta sẽ không cần đến thứ biên lai ấy. Nhưng điều lo lắng ấy chúng ta để dành phần cho cháu chắt chúng ta, chắc chắn chúng sẽ thông minh hơn chúng ta. Sự quốc hữu hóa các phương tiện sản xuất và tín dụng, sự nắm lấy nội thương của các hợp tác xã và Nhà nước, sự độc quyền ngoại thương, sự tập thể hóa nông nghiệp, pháp chế về di sản, tất phải hạn chế nhiều sự tích lũy cá nhân về tiền bạc và làm trở ngại việc biến tiền bạc thành vốn riêng (cho vay nặng lãi, thương nghiệp và công nghiệp). Chức năng ấy của tiền bạc, gắn liền với sự kinh doanh khai thác, không bị thanh toán ngay từ đầu cuộc cách mạng vô sản mà chuyển sang, dưới một dạng mới, Nhà nước thương nghiệp, ngân hàng và công nghiệp chung. Ngoài ra các chức năng sơ đẳng hơn của tiền bạc, như thước đo giá trị, phương tiện lưu thông và thanh toán được giữ lại và còn có một trường hoạt động rộng hơn trong chế độ tư bản. Sự xây dựng kế hoạch bằng biện pháp hành chính đã bộc lộ đầy đủ sức mạnh của nó và đồng thời cản những giới hạn của sức mạnh đó. Một kế hoạch kinh tế vạch ra một cách tiên nghiệm (a priori), nhất là trong một nước lạc hậu 170 triệu dân, nhức nhối vì những mâu thuẫn sâu sắc giữa thành thị và nông thôn, không phải là một giáo lý bất di dịch, mà là một công trình giả thiết phải kiểm chứng và biến đổi trong quá trình thực hiện. Người ta còn có thể nêu lên qui tắc sau: sự chỉ đạo hành chính càng “sát sao” thì tình hình càng vướng mắc cho những người lãnh đạo kinh tế. Hai đòn bẩy phải dùng để điều chỉnh và cải biên kế hoạch: một đòn bẩy chính trị, tạo ra nhờ sự tham gia thật sự của quần chúng vào việc lãnh đạo, điều này không thể có nếu không có một nền dân chủ xô viết, và một đòn bẩy tài chính, kết quả của sự kiểm tra có hiệu lực những tính toán tiên nghiệm, bằng một đương lượng chung, điều này không thể có, nếu không có một hệ https://thuviensach.vn thống tiền tệ ổn định. Vai trò của tiền bạc trong nền kinh tế xô-viết còn xa mới cáo chung, còn phải mở ra đến cùng. Thời kỳ quá độ giữa tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, nhìn chung toàn bộ, đòi hỏi không phải sự giảm bớt lưu thông hàng hóa mà là sự mở rộng ra đến cùng. Tất cả ngành công nghiệp đều biến đổi và lớn lên, luôn luôn những ngành mới được tạo ra và tất cả phải, về số lượng cũng như chất lượng, xác định vị trí của chúng đối với nhau. Sự thanh toán đồng loạt nền kinh tế nông thôn, sản xuất để tiêu thụ tại chỗ và kinh tế gia đình khép kín, có nghĩa là bước vào sự lưu thông xã hội và từ đó, sự lưu thông tiền tệ của tất cả năng lượng lao động trước kia chỉ hao phí trong giới hạn của trang trại hoặc trong những bức tường gia đình. Lần đầu tiên trong lịch sử, tất cả các sản phẩm và dịch vụ có thể trao đổi được cho nhau. Mặt khác, một sự xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công không thể quan niệm không dựa vào hệ thống kế hoạch lợi ích cá nhân trực tiếp, tính ích kỷ của người sản xuất và người tiêu dùng, những nhân tố ấy chỉ có thể biểu hiện có ích khi chúng có được một phương tiện quen thuộc, chắc chắn và mềm dẻo, đó là tiền bạc. Sự tăng năng suất lao động và sự cải tiến chất lượng sản phẩm tuyệt đối không thể làm được nếu không có một bản vị đo lường tự do thấm vào được tất cả các lỗ chân lông của nền kinh tế, tức là nếu không có một đơn vị tiền tệ chắc chắn. Từ đó ta thấy rõ rằng trong nền kinh tế quá độ cũng như trong chế độ tư bản, đồng tiền duy nhất đúng là đồng tiền dựa trên vàng. Mọi thứ tiền khác chỉ là đồ thay thế (thế phẩm). Đúng là Nhà nước xô-viết làm chủ cả khối lượng hàng hóa và cả các cơ quan phát hành bạc. Nhưng cũng chẳng thay đổi được gì: những thao tác hành chính định đoạt giá hàng không hề tạo ra một đơn vị tiền tệ ổn định và cũng không bù gì được hơn cho nội thương, càng không được gì cho ngoại thương. Thiếu một cơ sở thích hợp, tức là một kim bản vị, hệ thống tiền tệ Liên xô, cũng như của một số nước tư bản, tất yếu là một hệ thống khép kín; đồng rúp không đáng kể trên thị trường thế giới. Nếu Liên xô chịu đựng được những bất lợi của một hệ thống loại đó hơn Đức hoặc Ý, một https://thuviensach.vn phần nhờ sự độc quyền ngoại thương và chủ yếu nhờ có tài nguyên thiên nhiên phong phú: chỉ những tài nguyên ấy cho phép nó tránh chết ngạt trong gọng kìm của nền kinh tế tự cung tự cấp. Nhưng sứ mệnh lịch sử không phải là không chết ngạt mà là tạo ra mặt đối mặt với những thành tựu cao nhất của thị trường thế giới, một nền kinh tế hùng mạnh hoàn toàn hợp lý, bảo đảm sử dụng thời gian tốt nhất và từ đó sự phát triển cao nhất của văn hóa. Nền kinh tế xô-viết đúng là một nền kinh tế trải qua những cuộc cách mạng kỹ thuật không ngừng và những thí nghiệm vĩ đại, cần phải có hơn lúc nào hết một sự kiểm tra thường xuyên nhờ một chuẩn mực giá trị cố định. Về mặt lý thuyết, chắc chắn nếu Liên-xô có đồng rúp vàng, kết quả của các kế hoạch năm năm sẽ còn tốt hơn hiện nay rất nhiều; nhưng người ta không thể xét đoán một cái gì hiện đang thiếu. Tuy nhiên cũng không nên lấy cái nghèo làm điều hay vì cái đó sẽ dẫn chúng ta đến những thất thiệt mới và những sai lầm kinh tế mới. Lạm Phát “Xã Hội Chủ Nghĩa” Lịch sử của chế độ tiền tệ xô-viết cũng đồng thời là lịch sử những khó khăn kinh tế, những thành công và thất bại, lịch sử những biến đổi ngoắt ngoéo của tư tưởng quan liêu. Sự khôi phục đồng rúp năm 1923 – 24, móc nối với sự chuyển sang chính sách Tân kinh tế gắn bó mật thiết với sự khôi phục các “chuẩn mực của pháp quyền tư sản” trong lĩnh vực phân phối hàng tiêu dùng. Đồng hắc mạch (secvôniet) được chính phủ lưu ý chừng nào người ta còn hướng về người chủ trại. Ngược lại, tất cả các cửa cống của lạm phát được mở toang trong thời kỳ đầu kế hoạch năm năm. Từ 0,7 tỉ rúp đầu năm 1923, tổng số các đợt phát hành đầu năm 1928 tiến tới con số tương đối khiêm tốn 1,7 tỉ, xấp xỉ bằng sự lưu hành tiền giấy thời đế chế trước lúc có chiến tranh, nhưng cố nhiên không có bản vị kim loại cũ. Xa hơn, năm này sang năm khác đường cong lạm phát có những bước nhảy điên cuồng như sau: 2 - 2,8 – 4,3 – 5,5 - 8,4! Con số cuối cùng 8,4 tỉ rúp, đạt vào đầu năm 1933. Rồi bắt đầu những năm co lại và rút lui: 6,69 – 7,7 – 7,9 tỉ (1935). Đồng rúp năm 1924, chính thức định giá là 13 phờrăng (franc), https://thuviensach.vn tháng 11-1935 rơi xuống 3 phờrăng, tức là không bằng một phần tư, gần bằng mức đồng phờrăng Pháp sau chiến tranh. Hai cách định giá, cũ và mới, đều có tính cách ước lệ: Sức mua của đồng rúp, đối chiếu với giá hàng thế giới có lẽ không đạt 1 phờrăng 50. Nhưng tầm quan trọng của sự mất giá đã chỉ rõ đồng tiền xô-viết đã trượt giá đến chóng mặt cho đến 1934. Giữa cao điểm của thời phiêu lưu kinh tế, Stalin hứa sẽ “tống cổ” chính sách Tân kinh tế, tức là thị trường. Cũng như vào năm 1918, tất cả báo chí thi nhau nói về sự thay đổi hoàn toàn công thức bán mua bằng một “sự phân phối xã hội chủ nghĩa trực tiếp” mà quyển sổ lương thực là dấu hiệu bên ngoài. Lạm phát bị kiên quyết phủ nhận như một hiện tượng, nói chung, xa lạ đối với chế độ xô-viết. Tháng giêng năm 1935, Stalin nói “Tính ổn định của tiền tệ xô-viết trước hết được bảo đảm do khối lượng to lớn hàng hóa mà Nhà nước có và cho lưu hành theo giá đã định”. Dù rằng câu châm ngôn bí hiểm ấy không được phát triển và bình luận (và một phần cũng bởi vì thế), nó trở thành qui luật cơ bản của lý thuyết tiền tệ xô-viết, nói đúng hơn, của sự phủ định lạm phát. Đồng hắc mạch từ nay không còn là một lượng tương đương chung, nó chỉ là một cái bóng chung chung của một khối lượng “to lớn” hàng hóa, điều đó cho phép nó dài ra hay rụt lại như mọi cái bóng khác. Nếu cái học thuyết xoa dịu ấy có một ý nghĩa thì chỉ là: đồng tiền xô-viết không còn là đồng tiền nữa, nó không còn là một thước đo giá trị nữa; các “giá ổn định” là do chính phủ định đoạt; đồng hắc mạch chỉ còn là dấu hiệu ước lệ của nền kinh tế kế hoạch hóa, một thứ thẻ phân phối chung; nói tóm lại, chủ nghĩa xã hội đã thắng “vĩnh viễn và không quay trở lại”. Những tư tưởng không tưởng nhất của chủ nghĩa cộng sản thời chiến lại xuất hiện trên một cơ sở kinh tế mới, đúng là có cao hơn một ít, nhưng, hỡi ôi! vẫn hoàn toàn chưa đủ để loại trừ được tiền bạc. Trong các giới lãnh đạo, người ta nói lạm phát không đáng sợ nữa trong một nền kinh tế có kế hoạch hóa. Gần giống như nói một lỗ hổng để lọt nước vào khoang tàu không nguy hiểm khi người ta có địa bàn. Thực tế, lạm phát giấy bạc không tránh khỏi dẫn đến lạm phát tín dụng, thay thế những giá trị thực bằng giá trị ảo và nuốt ngấu nghiến từ bên trong nền kinh tế kế hoạch hóa. https://thuviensach.vn Chẳng cần nói ai cũng biết lạm phát có nghĩa là thu một thứ thuế cực kỳ nặng trên lưng giai cấp cần lao. Còn cái lợi của nó cho chủ nghĩa xã hội thì còn đáng ngờ. Đúng như thế, bộ máy sản xuất tiếp tục phát triển nhanh, nhưng hiệu quả kinh tế của những xí nghiệp lớn mới xây dựng được đánh giá theo những tiêu chuẩn của thống kê, chứ không phải tiêu chuẩn của kinh tế. Chỉ huy đồng rúp, tức là định cho nó một cách độc đoán một số sức mua trong các tầng lớp khác nhau của nhân dân, chế độ quan liêu tự tước mất một công cụ tối cần thiết để đo một cách khách quan những thành công và không thành công của mình. Thiếu một sự kế toán chính xác, được che dấu trên giấy tờ bởi những sắp đặt của “đồng rúp ước lệ”, trong thực tiễn, người ta đi đến chỗ mất yếu tố kích thích cá nhân, năng suất lao động thấp và chất lượng hàng hóa còn thấp hơn nữa. Từ thời kỳ đầu của kế hoạch năm năm, tai họa đó đã có những tầm vóc đáng sợ. Tháng bảy năm 1931, Stalin nêu lên “sáu điều kiện” nổi tiếng, mà mục đích là để giảm giá thành. Những “điều kiện” ấy (tiền lương hợp với năng suất lao động cá nhân, tính toán giá thành v.v…) chẳng có gì mới: những “chuẩn mực của pháp lý tư sản” có từ đầu thời kỳ Tân kinh tế và được khai triển ở đại hội XII của đảng, đầu năm 1923. Stalin chỉ mới vấp vào đó năm 1931, dưới ảnh hưởng của hiệu quả ngày càng sút kém của các vốn đầu tư vào công nghiệp. Trong hai năm tiếp theo, hầu như không có bài nào trong báo chí xô-viết không viện dẫn đến sức mạnh cứu nguy của các “điều kiện”. Nhưng lạm phát cứ tiếp tục, những bệnh của nó gây ra lẽ cố nhiên không thuận với việc chạy chữa. Những biện pháp đàn áp nghiêm khắc để dẹp bọn phá hoại không đem lại kết quả hơn. Ngày nay hầu như khó tin được việc quan liêu vừa tuyên chiến với “sự vô danh” và “chủ nghĩa bình quân” trong lao động, tức là lao động trung bình, trả bằng một tiền lương “trung bình”, mọi người bằng nhau, lại vừa tống cho “quỷ sứ” chính sách Tân kinh tế -nói cách khác, sự đánh giá các hàng hóa bằng tiền, kể cả sức lao động. Một tay thiết lập lại các “chuẩn mực tư sản”, tay kia của họ (bọn quan liêu) lại hủy mất cái công cụ duy nhất có ích. Sự đánh tráo rút các “cửa hàng dành riêng” ra khỏi thương nghiệp và sự hỗn loạn giá cả tất yếu làm biến mất mọi tương quan giữa lao https://thuviensach.vn động cá nhân và tiền lương cá nhân; và yếu tố kích thích lợi ích cá nhân đã bị giết chết trong con người công nhân. Những chỉ thị nghiêm khắc nhất về các tính toán kinh tế, chất lượng sản phẩm, giá thành, năng suất lao động bị treo lơ lửng trong khoảng không. Điều đó không hề ngăn trở những người lãnh đạo gán mọi thất bại vào tội cố ý không thi hành sáu biện pháp của Stalin. Một sự ám chỉ thận trọng nhất về lạm phát cũng trở thành tội ác. Các nhà cầm quyền cũng tỏ ra thành thực như khi họ buộc tội các thày giáo đã sao nhãng việc vệ sinh trong khi vẫn cấm các thày không được nêu lên việc thiếu xà-phòng. Vấn đề số phận của đồng mạch đen đã nổi lên hàng đầu trong cuộc đấu tranh của các nhóm trong đảng bônsêvích. Cương lĩnh của phái đối lập (1927) đòi “sự ổn định tuyệt đối của đơn vị tiền tệ”. Yêu sách đó vẫn là chủ đề quán xuyến (leitmotiv) trong những năm tiếp theo. Cơ quan báo chí của phái đối lập năm 1932, viết: “chặn đứng lạm phát bằng một bàn tay sắt và thiết lập lại một đơn vị tiền tệ vững chắc”, dù bằng giá một “sự thu hẹp mạnh dạn việc đầu tư vốn…”. Những người ca ngợi “bước đi của rùa” và những người siêu công nghiệp hóa hình như đổi vai trò cho nhau. Trả lời cho sự khoác lác “tống cổ thị trường (việc mua bán) cho ma quỷ,” phái chống đối đề nghị ủy ban kế hoạch nên đóng ở cơ quan cái bảng “lạm phát là bệnh giang mai của nền kinh tế kế hoạch hóa”. Trong nông nghiệp, lạm phát có những hậu quả không kém nghiêm trọng. Giữa thời chính sách đối với nông dân còn ưu đãi anh Kulak (phú nông), người ta nghĩ rằng nhờ sự biến đổi nông nghiệp thành xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở của chính sách Tân kinh tế, sẽ diễn ra trong vài chục năm. Lần lượt thu tóm các lĩnh vực dự trữ, bán, tín dụng, công cuộc hợp tác cuối cùng sẽ xã hội hóa nền sản xuất. Tất cả đã mang tên gọi là “kế hoạch hợp tác của Lênin”. Chúng ta biết, thực tế lại đi theo một con đường hoàn toàn khác, nói đúng hơn, ngược lại, ấy là con đường tước đoạt bằng vũ lực và tập thể hóa hoàn toàn. Không còn là vấn đề xã hội hóa tuần tự các chức năng kinh tế khác nhau, dần dà theo những khả năng vật chất và tinh thần cho phép. Sự tập thể hóa đã thực hiện như là phải thiết lập ngay tức khắc https://thuviensach.vn chế độ cộng sản trong nông nghiệp. Ngoài việc phá hoại hơn một nửa đàn chăn nuôi, việc này còn một hậu quả nghiêm trọng hơn nữa: sự thờ ơ hoàn toàn của nông trường viên đối với tài sản xã hội hóa và kết quả công việc của họ. Chính phủ tiến hành một cuộc rút lui lộn xộn. Nông dân lại có lại gà mái, lợn, cừu, bò cái với danh nghĩa của riêng. Họ được nhận những mảnh đất nhỏ ở gần nhà ở. Cuốn phim tập thể hóa được quay ngược trở lại. Bởi sự thiết lập trở lại những cơ sở sản xuất cá nhân, chính phủ phải chấp nhận một sự thỏa hiệp, trả lại một thứ tiền chuộc cho các khuynh hướng cá thể của nông dân. Các nông trường tập thể tồn tại: như thế, bước lùi ấy, thoạt nhìn, có vẻ là thứ yếu. Thực tế, khó mà biết đánh giá tầm quan trọng của nó. Nếu ta bỏ ngoài giới quý tộc trong nông trường, các nhu cầu hàng ngày của người nông dân trung bình chỉ trông vào phần lớn ở công việc “làm cho mình” hơn là công việc cho nông trường. Nhiều khi thu nhập của mảnh đất cá nhân, nhất là khi họ trồng cây công nghiệp, làm vườn hoặc chăn nuôi, có tới hai, ba lần cao hơn đồng lương nhận được của tập thể. Việc này, được báo chí xô-viết công nhận, làm nổi bật rất rõ ràng, một mặt sự lãng phí hoàn toàn man rợ sức lao động của hàng chục triệu đàn ông, và hơn nữa, của phụ nữ, trong những trồng tỉa thấp, và mặt khác, năng suất lao động rất thấp trong các nông trường tập thể. Muốn vực dậy nền đại nông nghiệp tập thể, lần nữa lại phải nói với nông dân, bằng tiếng nói mà họ nghe lọt tai, nói cách khác, bỏ thuế hiện vật, trở về với thương nghiệp, mở lại các chợ (thị trường), tóm lại, lại xin lại của quỷ sứ cái chính sách Tân kinh tế đã bị tống cổ sớm quá. Vậy nên sự chuyển sang một công tác kế toán tiền tệ ít nhiều ổn định trở thành điều kiện cần thiết cho sự phát triển sau này của nông nghiệp. Sự phục quyền cho đồng rúp. Mọi người biết con cú khôn ngoan cất cánh bay sau khi mặt trời lặn. Cũng vậy, lý thuyết của hệ thống “xã hội chủ nghĩa” về tiền bạc chỉ có ý nghĩa đầy đủ vào lúc hoàng hôn của những ảo tưởng về lạm phát. Những giáo sư ngoan ngoãn đã xây dựng trên những lời phát biểu của Stalin cả một học thuyết, theo đó giá cả xô-viết, trái với giá cả thị trường, hoàn toàn https://thuviensach.vn do kế hoạch hoặc các chỉ thị định ra; đó không phải là một phạm trù kinh tế, mà là một phạm trù hành chính có mục đích phục vụ tốt hơn sự phân phối mới của thu nhập quốc dân theo lợi ích của chủ nghĩa xã hội. Các giáo sư ấy quên giải thích làm sao người ta có thể “điều khiển” các giá mà không biết giá thành thật sự, và làm sao người ta có thể tính ra giá đó nếu tất cả các giá, đáng lẽ biểu thị số lượng lao động xã hội cần thiết để làm ra các sản phẩm, lại chỉ biểu thị ý muốn của bộ máy quan liêu. Quả vậy, chính phủ, để có phân phối mới trong thu nhập quốc dân, nắm trong tay những đòn bẩy cũng mạnh như các thuế khóa, ngân sách và tín dụng. Theo ngân sách các khoản chi năm 1936, hơn 37,6 tỉ trực tiếp dành cho các ngành khác nhau của kinh tế, những tỉ khác cũng gián tiếp đổ vào đến đó. Các chuyên viên của ngân sách và tín dụng cũng đủ để hoàn thiện cho sự phân phối theo kế hoạch của thu nhập quốc dân. Còn về giá cả, họ càng phục vụ tốt cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khi họ diễn đạt trung thực hơn các tương quan kinh tế ngày nay. Kinh nghiệm đã có tiếng nói quyết định ở chỗ này. Giá “chỉ đạo” không có trong đời sống một ấn tượng to lớn như nó có trong các sách vở thông thái. Giá của nhiều loại được đặt cho riêng một mặt hàng. Trong những khe hở rộng của chúng tự do lọt vào mọi thứ thủ đoạn đầu cơ, tư vị, ăn bám và những thói xấu khác, và như thế là thường lệ chứ không phải ngoại lệ. Đồng mạch đen đáng lẽ là cái bóng ổn định của các giá hàng, chỉ còn là cái bóng của chính mình. Lần này lại phải đột ngột thay đổi phương hướng, do những khó khăn sinh ra từ những thắng lợi kinh tế. Năm 1935 mở đầu xóa bỏ phiếu bánh mì, các phiếu lương thực được xóa bỏ cho các sản phẩm khác vào tháng mười, các phiếu cung cấp các mặt hàng thiết yếu bậc nhất cũng được xóa bỏ vào khoảng tháng giêng năm 1936. Các quan hệ kinh tế giữa những người lao động thành phố và nông thôn với Nhà nước lại trở về với ngôn ngữ của tiền tệ. Đồng rúp trở nên một phương tiện tác động của nhân dân trong các kế hoạch kinh tế, bắt đầu bằng chất lượng và số lượng các mặt hàng tiêu dùng. Kinh tế xô-viết không thể hợp lý hóa bằng cách nào khác. Tháng mười hai năm 1935, chủ tịch ủy ban kế hoạch tuyên bố: “Hệ https://thuviensach.vn thống hiện nay của những tương quan giữa các ngân hàng và kinh tế cần phải xem xét lại và các ngân hàng phải thật sự thực hiện sự kiểm tra bằng đồng rúp”. Như vậy có nghĩa là sự sụp đổ những điều mê tín về kế hoạch theo lối hành chính và những ảo tưởng của giá cả theo lối hành chính. Nếu sự tiếp cận với chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực tiền tệ có nghĩa là sự xích lại gần nhau của đồng rúp và cái phiếu phân phối, như thế phải coi những cải cách năm 1935 là rời xa chủ nghĩa xã hội. Nhưng đánh giá như thế sẽ là sai lầm thô thiển. Sự thay thế phiếu phân phối bằng đồng rúp chỉ có nghĩa là sự từ bỏ một ảo tưởng và sự thừa nhận cần thiết phải tạo ra những cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội bằng cách quay về với những phương pháp tư sản. Trong phiên họp ban chấp hành trung ương các xô-viết tháng giêng năm 1935, ủy viên dân ủy tài chính tuyên bố “Đồng rúp xô-viết vững hơn bất cứ đồng tiền nào trên thế giới”. Người ta nhầm nếu chỉ thấy ở đó một lời tuyên bố huênh hoang. Hàng năm ngân sách Liên-Xô có một số dư về thu đối với chi. Ngoại thương, quả là ít quan trọng, có một cán cân tích cực. Dự trữ vàng Ngân hàng của đồng rúp ngày nay vượt quá một tỉ. Việc khai thác vàng tăng nhanh; về phương diện này, Liên-xô năm 1936 chiếm vị trí thứ nhất trên thế giới. Sự gia tăng lưu thông hàng hóa đã trở thành to lớn kể từ khi phục hồi lại thị trường. Trong thực tiễn lạm phát đã chặn lại từ 1934. Những nhân tố của một sự ổn định nhất định của đồng rúp đã có, tuy nhiên lời tuyên bố của ủy viên dân ủy về tài chính phải được giải thích bằng một sự lạm phát lạc quan nào đó. Nếu đồng rúp xô-viết có một chỗ dựa mạnh ở sự phồn vinh chung của nền kinh tế, giá thành quá cao của sản phẩm lại là cái điểm yếu của nó. Nó chỉ trở thành đơn vị tiền tệ ổn định nhất của thế giới khi năng suất lao động xô-viết sẽ vượt trình độ thế giới, tức là khi nó nghĩ rằng nó sẽ tiêu vong. Về phương diện chuyên môn, đồng rúp lại càng không thể nghĩ đến việc ngang bằng. Với một dự trữ vàng hơn một tỉ, đất nước có gần tám tỉ bạc giấy lưu hành; vậy sự bảo đảm thanh toán mới chỉ là 12,5%. Vàng của Ngân hàng Nhà nước lúc này không thể đụng đến. Nó phải coi là kho dự trữ cho trường hợp có chiến tranh hơn là cơ sở cho hệ thống tiền tệ. Xét về https://thuviensach.vn mặt lý thuyết, ở một giai đoạn tiến hóa cao hơn, có lẽ phải cần đến kim bản vị để đem lại nhiều tính chính xác hơn cho kế hoạch kinh tế và đơn giản hóa các quan hệ với nước ngoài. Trước khi tắt thở, hệ thống tiền tệ một lần nữa lại khởi sắc. Dù sao, vấn đề ấy không đặt ra cho những ngày sắp tới. Chưa thể có vấn đề ngang bằng về vàng trong một tương lai gần gũi. Nhưng trong chừng mực mà Nhà nước, xây dựng một dự trữ vàng, cố gắng tăng, dù chỉ là lý thuyết, tỷ lệ phần trăm sự bảo đảm thanh toán, trong chừng mực mà các đợt phát hành giấy bạc được giới hạn vì những lý do khách quan độc lập với ý muốn của bọn quan liêu, đồng rúp xô-viết có thể đạt một sự ổn định ít ra là tương đối. Những cái lợi từ đó sẽ thật to lớn. Từ nay kiên quyết bỏ lạm phát, hệ thống tiền tệ, dù không có những cái lợi của việc ngang bằng về vàng, chắc chắn sẽ góp phần vào việc băng bó nhiều vết thương sâu sắc của cơ thể kinh tế do chủ nghĩa chủ quan quan liêu gây nên trong những năm trước. Phong Trào Stakhanôp (Stakhanov) Mác nói “Mọi sự tiết kiệm suy đến cùng đều dẫn đến sự tiết kiệm thời gian” tức là cuộc đấu tranh của con người với thiên nhiên ở mọi tiến độ của nền văn minh. Suy đến cơ sở ban đầu, lịch sử chỉ là sự đuổi theo việc tiết kiệm thời gian lao động. Chủ nghĩa xã hội không thể tự minh chứng chỉ bằng sự xóa bỏ bóc lột; nó còn phải bảo đảm cho xã hội một sự tiết kiệm thời gian lớn hơn là chủ nghĩa tư bản. Nếu điều kiện ấy mà còn để khuyết, sự xóa bỏ bóc lột sẽ chỉ là một màn kịch không có tương lai. Kinh nghiệm lịch sử đầu tiên của những phương pháp xã hội chủ nghĩa chứng tỏ khả năng của chúng thật là rộng lớn. Nhưng kinh tế xô-viết còn xa mới biết lợi dụng thời gian, cái nguyên liệu quí nhất ấy của nền văn minh. Sự du nhập kỹ thuật, phương tiện chính để tiết kiệm thời gian chưa đem lại trên lãnh thổ xô-viết những kết quả bình thường đạt được trên quê hương tư bản. Ở điểm đó, điểm quyết định đối với toàn thể nền văn minh, chủ nghĩa xã hội chưa thắng. Nó đã chứng tỏ nó có thể, và phải thắng. Nhưng lúc này chưa thắng. Tất cả những lời khẳng định ngược lại chỉ là kết quả của sự ngu dốt hoặc lường gạt. Tháng Giêng 1936, Môlôtôp – cũng phải công bằng với ông ta – đôi https://thuviensach.vn khi cũng thoát ra đôi chút lối nói nghi thức của các nhà lãnh đạo xô-viết khác, đã phát biểu trong phiên họp của thường vụ: “Mức độ trung bình của năng suất lao động… ở xứ ta còn thấp hơn rõ ràng so với ở Mỹ và Châu Âu”. Đáng lẽ phải nói chính xác: mức độ ấy còn ba, năm và đến cả mười lần thấp hơn so với châu Âu và châu Mỹ, cho nên giá thành của chúng ta cao hơn rất nhiều. Cũng trong bài diễn văn ấy, Môlôtôp có lời thú nhận này tổng quát hơn: “Trình độ văn hóa trung bình của công nhân chúng ta còn thấp hơn trình độ công nhân của một số nước tư bản”, đáng lẽ phải nói thêm: điều kiện sinh sống vật chất trung bình của họ (công nhân xô-viết) cũng vậy. Sẽ là thừa nếu nhấn mạnh sự thẳng thắn và sáng suốt của những lời ấy được bất chợt nói ra, đã gạt bỏ những luận điệu khoác lác của vô số nhân vật chính phủ và những lời mơn trớn của các “bạn” nước ngoài! Sự phấn đấu để tăng năng suất lao động cộng với sự lo toan về quốc phòng hợp thành nội dung chủ yếu hoạt động của chính phủ xô-viết. Ở những giai đoạn tiến hóa khác nhau của Liên-xô, cuộc chiến đấu ấy đã khoác nhiều hình thức. Các phương pháp “đội xung kích” áp dụng trong khi thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất và giai đoạn đầu kế hoạch lần thứ hai, dựa trên sự kích động, gương cá nhân, áp lực hành chính và mọi thứ khuyến khích và ưu đãi dành cho các nhóm. Những cố gắng để thiết lập một kiểu làm việc theo sản phẩm trên cơ sở “sáu điều kiện” năm 1931 vấp phải đồng tiền ma và các thứ loại giá. Thay cho sự phân biệt uyển chuyển các thứ thù lao, hệ thống phân phối sản phẩm của Nhà nước đặt ra những “phần thưởng”, trong thực tế có nghĩa là sự độc đoán quan liêu. Việc săn đuổi quyền lợi làm lọt vào hàng ngũ những người lao động xung kích, ngày càng đông, những tay khéo xoay sở, có thần thế vì được che chở. Toàn hệ thống cuối cùng quay trở lại mâu thuẫn với những mục đích nó đề ra. Chỉ có sự xóa bỏ các phiếu cung cấp, tiêu biểu sự ổn định của đồng rúp và sự thống nhất các giá cả mới cho phép thực hiện các phương pháp lao động theo sản phẩm hoặc làm khoán. Trên cơ sở đó phong trào stakhanôp đã nối tiếp các đội lao động xung kích. Nhận thấy đồng rúp đã có giá trị hơn, các công nhân chú trọng hơn đến máy móc của họ và sử dụng giờ làm việc của họ tốt hơn. Phong trào stakhanôp, trong một chừng https://thuviensach.vn