🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Covid Operation - Cách Covid Hoạt Động
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
LỜI GIỚI THIỆU
bởi Pam Popper
Tôi đã đăng một video lên kênh YouTube của tôi với tiêu đề, ―Năm 2020, bạn cần biết gì về Coronavirus‖. Tôi đã có cảm hứng tạo ra video này bởi vì chúng tôi đã tổ chức một sự kiện lớn tại văn phòng của chúng tôi vào ngày 7 tháng 3 và một số người đã quyết định không tham dự vì họ lo sợ sẽ ―bị lây nhiễm virus‖. Đồng thời chúng tôi cũng đã lên kế hoạch cho một sự
kiện lớn khác với một diễn giả khách mời vào ngày 2 tháng 4 và chúng tôi đã nhận được nhiều cuộc gọi về việc liệu điều này có bị tạm hoãn lại do ―virus‖ hay không. Tôi rất tò mò - cúm mùa là một điều diễn ra thường niên, và tôi chưa từng bao giờ nghe nói về việc bất cứ điều gì sẽ bị hủy bỏ bởi vì nó.
Với rất nhiều hoài nghi về mức độ nghiêm trọng của ―virus‖, tôi đã bắt đầu một cuộc điều tra của riêng mình, trong cuộc điều tra của tôi về dịch cúm H1N1 (Cúm lợn) vào năm 2009-2010, tôi đã phát hiện cả Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) và Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) đều đã thực hiện những hoạt động phi đạo đức để biến căn bệnh cúm đang hoành hành trở thành đại dịch. Các công ty dược đã được hưởng lợi rất lớn về mặt tài chính, hàng triệu người đã được tiêm một loại vaccine không được thử nghiệm lâm sàng đầy đủ, và không có bằng chứng nào cho thấy loại vaccine này có hiệu quả. Liệu kiểu lừa dối này có đứng đàng sau mối lo ngại đang ngày càng tăng của công chúng về loại virus này?
Có vẻ như đây chỉ là một trường hợp. Vào thời điểm video của tôi được đăng, số ca mắc và tử vong do COVID-19 trên toàn thế giới chỉ là một phần nhỏ so với những gì được coi là bình thường trong mùa cúm. Nhưng đã có
https://thuviensach.vn
nhiều phản hồi tiêu cực và tôi cũng đã nói về một số động cơ tiềm ẩn sau những phản ứng tiêu cực này trong video của mình.
Trong nhiều năm, tôi thường xuyên đăng video lên youtube vào ngày thứ ba và thứ năm hàng tuần, nhiều video trong số đó đã bị coi là ―gây tranh cãi‖. Với những lời nhận xét khó chịu, cả từ người xem thông thường và các chuyên gia y tế, đối với tôi, điều này đã là một chuyện bình thường trong suốt 25 năm làm công việc chăm sóc sức khỏe. Nhưng những phản hồi với video này khác với những lần trước theo một số cách. Lần này có nhiều người phê bình hơn, và thái độ thù địch của họ tăng lên rất nhiều. Mọi số người đã buộc tội là tôi đã đặt cuộc sống của những người khác vào trong tình trạng nguy hiểm, bằng cách giảm thiểu những nguy cơ tử vong do COVID-19 gây ra. ―Cuối cùng ông sẽ phải chịu trách nhiệm cho việc giết người‖ một người viết. Một số đã gửi email nói rằng tôi không có đủ tư cách để nói về chủ đề này. Một người khác viết: ―Bạn đang can thiệp quá nhiều vào vấn đề này. ―Tôi sẽ không bao giờ lắng nghe bạn về bất cứ điều gì nữa‖. Các chuyên gia y tế, một số người mà tôi đã từng kính trọng, cũng đã thách thức tôi - không phải với sự thật, mà là những lời chê bai về việc tôi đã sai lầm và sai lầm như thế nào về vấn đề này.
Nếu họ đang làm những điều này với mục đích là để ngăn chặn cuộc điều tra của tôi hoặc ngăn cản tôi đăng thêm những video mới, thì họ đã thất bại thảm hại. Thay vào đó tôi lại càng tò mò hơn. Những người này lấy đâu ra ý tưởng rằng bệnh cúm lại đột nhiên trở thành một mối đe dọa đối với sự
tồn vong của loài người? Tại sao mọi người lại không quan tâm đến những sự thật về COVID-19?
https://thuviensach.vn
Khi toàn bộ thế giới bắt đầu bị phong tỏa, cuộc điều tra về COVID-19 của tôi, một công việc bán thời gian, đã trở thành một công việc toàn thời gian. Thay vì chỉ đăng hai video mỗi tuần, tôi bắt đầu đăng bốn video. Bình thường chỉ có vài trăm phản hồi mỗi tuần, tôi bắt đầu nhận được hơn một nghìn phản hồi mỗi ngày. Mọi người đã gửi cho tôi những tài liệu và video từ khắp nơi trên thế giới, tiết lộ rằng có điều gì đó khủng khiếp đang xảy ra. Nó không phải là bệnh cúm, nhưng nó lây lan nhanh như bệnh cúm, và nguy hiểm hơn nhiều so với bất kỳ loại virus nào. Đó là một đại dịch được lên kế
hoạch từ trước và được dàn dựng cẩn thận, liên quan đến một chiến dịch thông tin sai lệch được kích hoạt bởi các phương tiện truyền thông, cho phép một số kẻ xấu giành được quyền kiểm soát hàng tỷ người và đóng cửa hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Sự tò mò của tôi đã chuyển thành sốc nặng và cảm thấy kinh hoàng, và tôi quyết định rằng toàn bộ câu chuyện này cần phải được đưa ra ánh sáng.
―COVID-19 Hoax‖, như chúng ta vẫn luôn đề cập đến, là hậu quả lớn nhất đã xảy ra trong thế giới của chúng ta kể từ sau Thế chiến thứ hai. Nhưng nó còn tồi tệ hơn nhiều so với chiến tranh. Thế chiến thứ hai do một người mất trí ở Đức gây ra với số lượng người liên quan tương đối nhỏ. Hitler và những người theo ông ta đã gây ra thiệt hại chưa từng có trên thế giới, nhưng họ là những kẻ thù có thể xác định và có thể đánh bại được.
Nhưng trò lừa COVID-19 lại được tạo ra bởi một mạng lưới kẻ thù rộng lớn hơn, bao gồm những người đã cố gắng cải trang thành công chức, chuyên gia y tế, người sáng lập và người đứng đầu của các tổ chức phi lợi nhuận trên toàn cầu. Họ có mặt ở khắp mọi nơi, vô cùng giàu có, có quyền
https://thuviensach.vn
lực và luôn có ý định trong mục đích của mình. Để chiến thắng được những kẻ thù này sẽ là một điều không dễ dàng.
Loài người sẽ không có nguy cơ bị tuyệt chủng vì COVID-19. Nhưng tất cả mọi người chúng ta sẽ có nguy cơ bị kiểm soát cuộc sống bởi những kẻ thù, những người đã lấy đi quyền tự do của chúng ta chỉ trong vài tuần. Họ đã đưa ra những quy định để xác định những trường hợp mà chúng ta có thể rời khỏi nhà để tương tác với những người khác, và vận hành công việc kinh doanh của chúng ta. Trong một thời gian rất ngắn, họ đã có thể phá hủy các cộng đồng của chúng ta, loại bỏ quyền tự do tôn giáo và quyền hội họp, và làm cho chúng ta chống lại nhau. Họ rất phấn khích trong trò chơi của họ. Chúng ta không thể để cho họ giành chiến thắng.
Cuốn sách này sẽ kể về câu chuyện sự sụp đổ này đã được bắt đầu như thế nào, những người chơi chính là ai và kế hoạch được thực hiện như thế nào. Đó là một giải thích đáng lo ngại về mức độ dễ dàng kiểm soát những người cho rằng họ sẽ tiếp tục hưởng sự tự do mà không cần quan tâm đến những quy định chính phủ, giới truyền thông và những người phải chịu trách nhiệm khác đã không có bất kỳ sự ủng hộ nào về phía họ.
Với kiến thức là sức mạnh, chúng tôi hy vọng rằng những thông tin trong cuốn sách này sẽ thúc đẩy được nhiều người chống lại những gì được gọi là ―điều bình thường mới‖, hãy làm bất cứ điều gì cần thiết để lấy lại cuộc sống của chúng ta, và đảm bảo rằng trong tương lai các thế hệ sau này sẽ được sống trong tự do.
“Nếu chúng ta có niềm tin vào chính nghĩa của mình với một ý chí không thể khuất phục, chiến thắng sẽ không thể từ chối chúng ta”. Winston Churchill
https://thuviensach.vn
LỜI GIỚI THIỆU
của đồng tác giả Shane Prier
Một thời gian sau khi cơn cuồng loạn COVID-19 bắt đầu, tôi cảm thấy có điều gì đó không ổn và tôi bắt đầu tự mình điều tra việc này. Tôi có bằng về sinh vật học và đã có một thời gian làm việc tại phòng thí nghiệm nghiên cứu về virus, vi khuẩn, DNA, điện di (electrophoresis) và công nghệ phản ứng chuỗi polymerase (PCR). Từ những kinh nghiệm nghiên cứu của mình, tôi biết rằng mặc dù virus có thể nguy hiểm và gây chết người, nhưng thường thì không như vậy. COVID-19 chỉ là một loại coronavirus, và hầu hết chúng ta đều đã tiếp xúc với một hoặc nhiều loại coronavirus trong suốt cuộc đời của mình, và những loại virus này là nguyên nhân gây ra cái mà chúng ta gọi là ―cảm lạnh thông thường‖. Dựa trên những gì tôi biết về coronavirus, cùng với phân tích các báo cáo hàng ngày về các ca lây nhiễm, hành động của các cơ quan y tế có vẻ như đã phóng đại chúng lên. Và theo thời gian, sự mất kết nối giữa những nguồn dữ liệu và những quy định mới được áp đặt lên toàn bộ thế giới đang ngày càng trở
nên đáng sợ hơn. Có một cái gì đó rất khác đang diễn ra.
Tôi cũng có thêm kiến thức nền tảng về tài chính. Trong mười bảy năm qua, tôi đã làm việc với tư cách là cố vấn quản lý tài sản tư nhân và đang quản lý hơn 100.000.000 đô la tài sản cho khách hàng của mình. Tôi đã được đào tạo để xem xét về hầu hết mọi thứ đang diễn ra trên thế giới, và đánh giá về những ảnh hưởng của chúng đối với thị trường tài chính và chính trị, vì những điều này đều có tác động đáng kể đến sự ổn định tài chính và những tài sản mà tôi đang quản lý. Tôi đã sớm nhận thấy rõ rằng, có những động cơ chính trị và tài chính mạnh mẽ để dàn dựng lên một đại dịch. Theo thời gian, người chiến thắng tiềm năng của đại dịch này cũng đã trở nên rõ ràng.
https://thuviensach.vn
Trong phần này, tôi sẽ dựa trên nền tảng kiến thức về sinh học, khoa học, nghiên cứu, của tôi, để giải thích một số điều cơ bản về virus, và cả về khả năng miễn dịch cộng đồng, điều này sẽ làm cho virus bớt đáng sợ hơn rất nhiều. Ở phần sau của cuốn sách, bạn sẽ tìm hiểu thêm về các phân nhánh tài chính và chính trị, và cách cả hai đã thúc đẩy trong việc đưa ra nhiều quyết định tồi tệ và tiếp tục được thực hiện trong phản ứng chống lại COVID-19. Virus là gì?
Theo hầu hết các nhà khoa học, virus đã xuất hiện từ khi bắt đầu có sự sống. Có một số cuộc tranh luận về việc liệu virus có nên được coi như là một phần của sự sống hay không, với thực tế là chúng không thể lây lan mà không có tế bào chủ, nhưng đó là một cuộc tranh cãi đã kéo dài hàng thập kỷ. Cũng có một số tranh luận về nguồn gốc tự nhiên ban đầu của virus. Chúng là kết quả của vật chất di truyền bị loại bỏ từ các tế bào, hay là chúng có trước? Một lần nữa, đây là một cuộc tranh luận vẫn còn tiếp tục.
Vậy, virus là gì? Để giải thích rõ hơn điều này, cách tốt nhất là bắt đầu với mô tả cơ bản về tế bào, deoxyribonucleic acid (DNA) và ribonucleic acid (RNA). Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với khái niệm DNA. Nó là những gì mang lại các chức năng và đặc điểm của chúng ta. Cho dù bạn có tai to, mũi nhỏ, tóc nâu hay tóc vàng, v.v., thì những điều này chính là đến từ nó.
Phần lớn các phân tử DNA được cấu tạo từ hai mạch polymer sinh học xoắn đều quanh một trục tưởng tượng tạo thành chuỗi xoắn kép. Hai mạch DNA này được gọi là các polynucleotide, vì thành phần của chúng bao gồm các đơn phân nucleotide. Mỗi nucleotide được cấu tạo từ một trong bốn loại nucleobase chứa nitơ—hoặc là cytosine (C), guanine (G), adenine (A), hay thymine (T)—liên kết với đường deoxyribose và một nhóm phosphat. Các
https://thuviensach.vn
nucleotide liên kết với nhau thành một mạch DNA bằng liên kết cộng hóa trị giữa phân tử đường của nucleotide với nhóm phosphat của nucleotide tiếp theo, tạo thành ―khung xương sống‖ đường-phosphat luân phiên vững chắc
Bản thân DNA không có khả năng tạo ra các protein cần thiết để cung cấp cho chúng ta các đặc điểm hoặc thực hiện các chức năng tế bào cần thiết. Đầu tiên, một quá trình được gọi là phiên mã phải xảy ra. Phiên mã là một quá trình, thông qua một Enzyme có tên là RNA Polymerase, tạo ra một bản sao sợi đơn từ DNA. Nó là một bản sao giống hệt nhau từ một trong các sợi DNA, với một ngoại lệ. Thymine được thay thế bằng Uracil (U). Bản sao sợi đơn này là RNA, sau đó được giải phóng từ nhân vào tế bào chất của tế bào, là vùng mở bao quanh nhân. Từ đây, với việc sử dụng các bào quan của tế bào gọi là ribosome và lưới nội chất, quá trình dịch mã xảy ra. Đây là nơi ―điều kỳ diệu‖ xảy ra. Về cơ bản, ribosome di chuyển xuống sợi RNA, đọc bản thiết kế của nó, và sau đó chỉ đạo sản xuất bất kỳ axit amin nào (các khối cấu tạo của protein) mà nó yêu cầu. Một cách tương tự thường được chúng ta gọi là dây rút. Bạn luồn một đầu vào rãnh ở đầu kia và thắt chặt lại. Quá trình di chuyển khe xuống bản thân sợi thực, là một cách tuyệt vời để nghĩ về cách ribosome đọc bản thiết kế của RNA.
Virus là những sợi DNA hoặc RNA, được bảo vệ bởi một lớp áo protein, và trong một số trường hợp, một lớp bao lipid bổ sung là một lớp phân tử béo bảo vệ virus. Virus có kích thước rất nhỏ nên chúng ta chỉ có thể nhìn thấy chúng dưới kính hiển vi điện tử. Điều quan trọng cần lưu ý là virus luôn có trong cơ thể chúng ta. Chúng luôn ở xung quanh chúng ta, trong môi trường sống của chúng ta, trong không khí, trong chất lỏng,… Hầu hết các loại virus đều không có hại. Tuy nhiên, virus có thể biến đổi theo thời gian.
https://thuviensach.vn
Nói cách khác, mã di truyền của chúng có thể thay đổi đôi chút. Trong một số trường hợp, điều này có thể làm cho chúng có hại cho tế bào của chúng ta. Chúng có thể phát triển một chuỗi các protein ở lớp ngoài, liên kết hoàn hảo với các thụ thể trên màng ngoài của tế bào của chúng ta giống như một ổ khóa và chìa khóa. Các thụ thể là các hợp chất protein, chỉ liên kết với một số protein khác. Đây là cách tế bào xác định đâu là ―tốt‖ và đâu là ―xấu‖… nên
cho vào. Nếu virus đột biến đến mức đã ―bẻ mã‖ được điều này, nó có thể liên kết với các thụ thể này. Một khi nó có thể làm được điều đó, nó sẽ tiêm DNA hoặc RNA của nó (tùy thuộc vào virus) vào trong tế bào.
Ở bên trong tế bào chất của tế bào, trong trường hợp có virus RNA như COVID-19, tế bào sẽ ngay lập tức bắt tay vào việc sao chép virus. Lý do cho điều này, là vì tế bào không nhận ra đó là một vị khách không mời mà đến. Có thể nói rằng khi virus tấn công bộ máy của tế bào của chúng ta, chúng đã
sử dụng tế bào để chống lại bộ máy của tế bào. Khi đã vào được bên trong, RNA polymerase sẽ hoạt động và tái tạo lại chuỗi virus xâm nhập. Điều này cứ tiếp tục, và cuối cùng, các chủng virus được sao chép sẽ được giải phóng khỏi tế bào và xâm nhập vào các tế bào khác theo cách tương tự. Trong một số trường hợp, sự sao chép trong tế bào lớn đến mức nó làm cho tế bào vỡ ra. Kết quả là như nhau, các bản sao của virus được giải phóng sẽ tiếp tục xâm nhập vào các tế bào khác.
Tất cả những điều này nghe có vẻ như rất nghiệt ngã, nhưng có một tin tốt. Con người có một hệ thống miễn dịch thật là tuyệt vời. Ban đầu, các tế bào của chúng ta sẽ không nhận ra rằng virus là một kẻ xâm lược, và nhờ thế nó có thể gây ra một số thiệt hại trong thời gian đó. Những người có các vấn đề về sức khỏe, ít có khả năng chống chọi lại được các tác động tiêu cực do
https://thuviensach.vn
virus gây ra, và kết quả thậm chí có thể gây ra tử vong. Nhưng ở những người khỏe mạnh, hệ thống miễn dịch sẽ nhanh chóng tìm ra những kẻ xâm nhập và bắt tay vào hành động để tiêu diệt chúng.
Khi các tế bào bị virus xâm nhập nhận thấy sự mất cân bằng hóa học bên trong và phát ra tín hiệu ―đang lâm vào nguy hiểm‖. Tín hiệu khẩn cấp này ở dạng các protein được gửi đến màng ngoài của chúng. Phản ứng đầu tiên là tế bào T, một loại tế bào bạch cầu. Chúng được gọi như vậy vì chúng trưởng thành trong tuyến giáp. Tế bào T lập tức tìm kiếm các tế bào đang kêu cứu và sau đó tiêu diệt chúng hoặc bằng cách liên kết với các protein đang kêu cứu và tiêm một chất được gọi là granzyme vào trong tế bào, quá trình này được gọi là apoptosis (cơ chế làm chết tế bào theo chương trình). Vì vậy, về cơ bản là các tế bào đang kêu cứu đã thực hiện một hành động rất can đảm, là yêu cầu được chết vì lợi ích của toàn bộ cơ thể. Mục tiêu của việc tiêu diệt các tế bào bị nhiễm bệnh là ngăn không cho virus nhân lên và lây lan sang các tế bào khác.
Trong khi các tế bào T đang thực hiện công việc của mình, hệ thống miễn dịch sẽ huy động thêm các tế bào lympho B, là một loại tế bào bạch cầu khác, để tạo ra các protein được gọi là kháng thể. Cần thời gian lâu hơn một chút để tạo ra kháng thể vì chúng được chế tạo riêng theo từng đặc điểm của
kẻ xâm lược hoặc kháng nguyên ngoại lai. Các kháng thể sẽ liên kết với virus giống như một chiếc chìa khóa vừa vặn với một ổ khóa. Lúc này virus sẽ bị vô hiệu hóa hoặc bị tiêu diệt. Một khi các kháng thể đã được tạo ra cho một loại virus cụ thể, một người sẽ có khả năng miễn dịch với loại virus đó trong ít nhất một vài năm nếu gặp lại loại virus này.
https://thuviensach.vn
Nếu virus xâm nhập vào tế bào trong thời điểm đã có kháng thể, tế bào bạch huyết sẽ lập tức khởi động một quá trình được gọi là ly giải, bằng cách sử dụng lysin là một hình thức giết chết tế bào, liên quan đến sự xâm nhập vào màng tế bào. Sau khi được trung hòa, các tế bào T sẽ nhận ra các trình tự
protein và tiêu diệt virus đã xâm nhập vào đó.
Có một số loại virus khó ngăn chặn hơn những loại khác. Ví dụ như loại virus gây ra sự suy giảm miễn dịch ở người (HIV), xuất hiện lần đầu vào những năm 1970 và 1980, và cho đến ngày nay vẫn còn là một vấn đề lớn ở các nước thế giới thứ ba. HIV là một bệnh nhiễm trùng khó giải quyết, vì virus này chuyên tấn công vào các tế bào T, là một phần của đội quân tế bào miễn dịch có nhiệm vụ vô hiệu hóa virus xâm nhập.
Nhưng chủ đề của cuốn sách này là coronavirus, và họ virus này đã gắn bó với con người trong một thời gian rất dài. Bất cứ ai đã từng bị cảm lạnh, đều đã bị nhiễm coronavirus. Tên gọi ―coronavirus‖ là khi quan sát dưới kính hiển vi điện tử, ta sẽ thấy một ―vầng hào quang‖ bao quanh nó trông giống như một vương miện, điều này là do lớp vỏ protein bên ngoài để liên kết với các thụ thể tế bào có chứa các ―gai‖ được gọi là S-Proteins.
Coronavirus là loại virus RNA, có nghĩa là một khi vào được bên trong tế bào, sự nhân bản có thể xảy ra gần như ngay lập tức. Chúng là một loại virus đường hô hấp giống như cúm, có nghĩa là chúng có thể lây nhiễm trong không khí và tồn tại trên các bề mặt trong thời gian dài. Chúng xâm nhập qua mắt, mũi, miệng, và tấn công các tế bào phổi, điều này khác với virus dạ dày,
thường là khi ăn phải thực phẩm bị ô nhiễm, virus sẽ xâm nhập qua đường miệng và đi đến hệ thống dạ dày-ruột. Do đặc tính lây lan trong không khí, các virus đường hô hấp có xu hướng dễ lây lan hơn các loại virus khác.
https://thuviensach.vn
Miễn dịch cộng đồng
―Khi đã có đủ số người trong chúng ta đại diện cho những ―ngõ cụt‖ đối với việc lây truyền virus, thì sự lây lan trong cộng đồng sẽ được giảm bớt, và cuối cùng là chấm dứt. Đây được gọi là miễn dịch cộng đồng‖. Tiến sĩ David L. Katz,
Chủ tịch của True Health Initiative và là giám đốc sáng lập của Trung tâm Nghiên cứu Yale-Griffin
Khả năng miễn dịch của cộng đồng sẽ phát triển khi một tỷ lệ phần trăm đáng kể dân số bị nhiễm virus và đã phát triển các kháng thể. Những người này sẽ không bị bệnh trở lại nếu tiếp xúc với virus một lần nữa. Điều này sẽ cung cấp một sự bảo vệ cho những người không có miễn dịch với bệnh, bởi vì những người đã miễn dịch sẽ không còn lây lan bệnh. Người ta cho rằng nếu 50% -70% dân số đã trở nên miễn dịch, thì quần thể đó đã phát triển khả năng miễn dịch cộng đồng và virus không còn có thể lây lan được nữa, kể cả với những người đã bị tổn thương hệ thống miễn dịch.
Một số nhà nghiên cứu, như Gabriela Gomes, giáo sư toán học và thống kê tại Đại học Strathclyde đã báo cáo rằng, ngưỡng miễn dịch của cộng đồng đối với COVID-19 cần thấp nhất là 20% và chúng ta có thể đã đạt đến ngưỡng đó. Điều này là do thực tế có rất nhiều người đã từng tiếp xúc với coronavirus và những người này sẽ cung cấp một số khả năng miễn dịch. Các nhà nghiên cứu tại Oxford cũng đồng ý với quan điểm này và báo cáo rằng, ngoài số người đã đạt được khả năng miễn dịch, một số người còn có khả
năng chống lại được tất cả các loại bệnh nhiễm trùng một cách tự nhiên. Trước COVID-19, việc đưa một người khỏe mạnh vào diện cách ly là một điều chưa từng xảy ra, và virus được phép ―chạy theo định hướng‖ cho
https://thuviensach.vn
đến khi khả năng miễn dịch của cộng đồng được phát triển. Nếu những người khỏe mạnh được phép tiếp tục cuộc sống bình thường hàng ngày của họ trong cuộc khủng hoảng COVID-19, cơ thể của con người sẽ thể hiện khả năng tuyệt vời của nó để mang lại sự bảo vệ cho những cá nhân này và tránh lây lan cho những người có hệ thống miễn dịch bị tổn thương. Nhưng các tổ chức y tế đã thực hiện những hành động chưa từng có là yêu cầu mọi người ―hãy ở yên trong nhà‖. Điều này đã ngăn chặn sự phát triển khả năng miễn dịch của cộng đồng như bạn sẽ tìm hiểu ở phần sau, đối với tôi đây là một quyết định khủng khiếp.
https://thuviensach.vn
MỘT CƠN BÃO HOÀN HẢO
Nếu chúng ta nhìn lại quá trình của nhiều sự kiện xảy ra trong suốt vài thập kỷ trở lại đây thì sẽ thấy, sớm hay muộn thì một điều gì đó tồi tệ nhất định sẽ xảy ra. Rất có thể sẽ không ai (ngoại trừ những người lập ra kế hoạch này) có thể dự đoán rằng, họ sẽ sử dụng một đại dịch được tạo ra để phong tỏa
toàn bộ thế giới. Có rất nhiều người đã nói rằng, tình trạng giáo dục, y tế, chính phủ, và các phương tiện truyền thông đã trở nên tồi tệ hơn trong những những năm gần đây. Hóa ra họ đã đúng, và những yếu tố này đã tạo ra một môi trường hoàn hảo cho một đại dịch được bắt đầu vào đầu năm 2020.
Chúng ta hãy bắt đầu với giáo dục. Những người được giáo dục tốt có rất nhiều hiểu biết về lịch sử và cả về thế giới mà họ đang sống ngày nay. Họ là những người có tư duy phản biện và luôn đặt ra câu hỏi về những gì họ đã đọc, thấy và nghe. Những người được giáo dục tốt có thể đóng góp cho xã hội theo nhiều cách, bao gồm làm việc trong cộng đồng, xây dựng gia đình vững mạnh và tham gia hiệu quả vào công việc. Có một thời, tốt nghiệp trung học là một thành tích đáng để hướng tới. Giáo dục đại học thậm chí còn nhiều hơn thế, sẽ dẫn đến thu nhập cao hơn trong suốt cuộc đời.
Nhưng mọi thứ đã thay đổi, và không phải là tốt hơn. Hơn 30 triệu người trưởng thành ở Hoa Kỳ không thể đọc hoặc viết ở trình độ lớp ba, và 50% người lớn không thể đọc và hiểu được sách ở trình độ lớp 8. Tính đến ngày 14 tháng 12 năm 2017, Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ báo cáo rằng, 90% người Hoa Kỳ từ 25 tuổi trở lên đã hoàn thành xong chương trình trung học. Điều này có nghĩa là hầu hết những người trưởng thành không thể đọc hiểu sách ở cấp lớp 8, lại trở thành những người đã tốt nghiệp trung học. Điều này thật là không tốt.
https://thuviensach.vn
Tình hình cũng không khả quan hơn đối với những sinh viên tốt nghiệp đại học. Vào năm 2019, một cuộc thăm dò của Quỹ Gallup-Lumina đã xác định, chỉ có 13% người Hoa Kỳ nghĩ rằng sinh viên tốt nghiệp đại học đã được chuẩn bị tốt để có được một việc làm thành công. Quan điểm này thậm chí còn mạnh mẽ hơn ở những người Hoa Kỳ đã tốt nghiệp đại học - chỉ 6% trong số họ nghĩ rằng những người tốt nghiệp đại học đã sẵn sàng để bắt đầu công việc. Rõ ràng là các trường cao đẳng và đại học đã không chuẩn bị cho các sinh viên trong tương lai có được một cuộc sống hữu ích và mãn nguyện.
Xu hướng gần đây hướng tới việc thiết lập ―không gian an toàn‖ trong các khuôn viên trường đại học, sẽ cung cấp một ví dụ về cách nhiều sinh viên đại học không được chuẩn bị tốt để thành công trong cuộc sống. Không gian an toàn là nơi các sinh viên sẽ được bảo vệ khỏi những cuộc tranh luận và bài phát biểu có khả năng khiến cho họ cảm thấy không thoải mái, hoặc không đồng ý với ý kiến đó. Thời báo New York đã đăng một bài báo vào năm 2015 nói về một ―không gian an toàn‖ được thành lập tại Đại học Brown danh tiếng, để đáp lại các cuộc tranh luận trong khuôn viên trường về ―vai trò của văn hóa trong tấn công tình dục‖. Các sinh viên tình nguyện đã quảng cáo căn phòng như là một nơi nghỉ dưỡng để phục hồi sức khỏe cho những sinh viên nhận thấy cuộc tranh luận là ―khó chịu‖.
Emma Hall, một nhà giáo dục đồng đẳng về nạn hiếp dâm và bị tấn công tình dục, đã giúp thiết lập căn phòng này. Căn phòng được trang bị Play-Doh (đất nặn), nhạc êm dịu, gối, mền, bánh quy, sách tô màu và video về các chú chó con đang chơi đùa. Emma cho biết đã tham dự vào một phần của cuộc tranh luận, nhưng phải quay trở lại ―không gian an toàn‖ vì ―Tôi cảm thấy bị tấn công bởi rất nhiều quan điểm thực sự đi ngược lại với niềm
https://thuviensach.vn
tin yêu quý và chặt chẽ của tôi.‖ Tất cả chúng ta không thể nghe bất cứ thứ gì khác ngoài lời nói củng cố niềm tin của một người.
Nhưng ―không gian an toàn‖ của đại học Brown không phải là một trường hợp cá biệt. Đến năm 2017, không chỉ ―không gian an toàn‖ đã trở nên phổ biến hơn trong khuôn viên các trường đại học, mà ―những diễn giả gây tranh cãi‖, được định nghĩa là những cá nhân thảo luận về một quan điểm mà một số sinh viên không đồng ý, đã bị hủy cuôc tranh luận của họ. Một số người có mặt để trình bày các cuộc thảo luận đã bị đe dọa dùng bạo lực và buộc họ phải rời đi.
Các trường cao đẳng và đại học đã từng là nơi các sinh viên sẽ được học cách lắng nghe các quan điểm khác nhau, và nếu họ không đồng ý, họ sẽ phải giải thích lý do cho sự bất đồng đó. Tranh luận cởi mở là một phần của cuộc sống đại học, việc bảo vệ mọi người khỏi phải nghe thấy những quan điểm đối lập, sẽ làm cho họ không có khả năng có được những suy nghĩ phản biện hoặc độc lập.
Tại sao nó quan trọng? Sẽ dễ dàng hơn khi ―bán‖ một câu chuyện sai sự thật cho nhiều người nếu như một tỷ lệ phần trăm đáng kể trong số họ không thể đọc, hiểu, hoặc suy nghĩ chín chắn. Như bạn sẽ tìm hiểu trong cuốn sách này, không có dữ liệu nào hỗ trợ cho việc tuyên bố về một đại dịch vào thời điểm nó được công bố, và theo thời gian, dữ liệu đã cho thấy rõ ràng rằng tuyên bố đó là không có cơ sở. Những câu chuyện về ―đại dịch‖ đang ngày càng trở nên vô lý hơn, ngay cả khi những hạn chế trong cuộc sống hàng ngày của người dân đang ngày càng trở nên gay gắt hơn.
Ví dụ, các doanh nghiệp nhỏ đã phải đóng cửa vì xung quanh có những người khác đang được coi là ―dương tính‖ và cần phải đóng cửa để hạn chế nó lây lan. Tuy nhiên, khi đi mua thực phẩm tại các cửa hàng tạp hóa đông
https://thuviensach.vn
đúc và mua hàng tại các siêu thị lớn thì lại không nguy hiểm. Nói cách khác, bằng cách nào đó, virus đã bị vô hiệu hóa khi bạn đi mua sắm tại WalMart nhưng lại trở nên nguy hiểm trong một cửa hàng giày nhỏ. Ai có thể tin được những điều vô nghĩa như vậy? Đó là những người được giáo dục kém và không được dạy để tham gia phản biện và không có được tư duy độc lập.
Y học có một lịch sử lâu dài về sự liều lĩnh và kiêu ngạo, đã phải đối mặt với rất nhiều thảm họa trong một thời gian dài. Có nhiều cuốn sách đã được viết về chủ đề này, nhưng có lẽ vấn đề quan trọng nhất chúng ta cần thảo luận ở đây là, làm thế nào mà các bác sĩ và ngành y tế lại có thể dễ dàng bị thuyết phục để làm bất cứ điều gì. Ví dụ điển hình nhất – việc tuyên chiến với đại dịch opioid (thuốc giảm đau có tính chất gây nghiện) gần đây của Tổng thống Trump lẽ ra sẽ dẫn đến những cải cách lớn trong lĩnh vực đào tạo và thực hành y tế, nhưng điều đó đã không xảy ra. Nhiều người vẫn nghĩ rằng các ―pill mills‖ (phòng khám giảm đau thông thường, nhưng thường xuyên kê các đơn thuốc giảm đau mà không cẩn biết đầy đủ về tiền sử bệnh) bất hợp pháp là nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng thuốc gây nghiện, nhưng thật ra chúng chỉ đóng một vai trò khá nhỏ. Chính các tổ chức y học, các công ty dược phẩm trị giá hàng tỷ đô la và các đối tác Chính phủ đã gây ra thảm họa này. Câu chuyện về những gì đã thực sự xảy ra sẽ cung cấp cho chúng ta một số thông tin chi tiết về cách thức dàn xếp đại dịch COVID-19.
Có rất nhiều nhà sản xuất thuốc opioid, một trong những nhà sản xuất lớn nhất và có ảnh hưởng nhất là Purdue Pharma. Ủy ban Chống Nghiện Ma túy và Khủng hoảng Thuốc gây nghiện của Tổng thống đã kết luận rằng, chương trình tiếp thị và các khoản đầu tư hàng tỷ đô la của Purdue Pharma nhằm tác động đến những quy định của chính phủ và chính sách y tế đã dẫn đến việc kê đơn opioid và Purdue Hoa Kỳ đã được hưởng lợi rất nhiều. Kết
https://thuviensach.vn
quả là một số thành viên của gia đình Sackler, cổ đông chính của Purdue và một số công ty sản xuất thuốc opioid khác đã trở thành tỷ phú. Purdue không phải là công ty dược phẩm duy nhất hưởng lợi từ đại dịch opioid. Vậy làm sao chuyện này lại xảy ra?
Bertha Madras của Trường Y Harvard là tác giả chính trong báo cáo của Ủy ban. Cô nói rằng các công ty dược phẩm đã đầu tư một số tiền khổng lồ để ―mua đứt‖ theo đúng nghĩa đen, Ủy ban hỗn hợp (cơ quan công nhận các bệnh viện và đặt ra các chính sách y tế), Liên đoàn các Hội đồng Y khoa Nhà nước Hoa Kỳ, một số hiệp hội chẩn đoán và điều trị đau cùng các cơ quan lập pháp, bằng cách đầu tư gần 2,5 tỷ đô la trong việc vận động hành lang và tài trợ cho các thành viên của Quốc hội. Trên thực tế, có nhiều nhà vận động hành lang trong ngành dược phẩm hơn là các thành viên được bầu của Quốc hội, điều này sẽ cho phép các công ty dược ngăn chặn thành công hành vi của một số nhà lập pháp biết có vấn đề và cố gắng giải quyết vấn đề đó. Các công ty dược phẩm thậm chí còn kiểm soát cả việc đào tạo bác sĩ và thiết lập các hướng dẫn điều trị đau. Nói cách khác, các công ty dược phẩm đã làm hỏng chính các tổ chức mà lẽ ra phải bảo vệ người Hoa Kỳ và chuyển đổi họ từ cơ quan quản lý thành đối tác kinh doanh.
Các khoản đầu tư này đã được đền đáp. Tính đến năm 2012, các bác sĩ tại Hoa Kỳ đã kê trung bình khoảng 255 triệu đơn thuốc mỗi năm cho các loại thuốc opioid.
Các công ty dược phẩm đã nhận thức rõ về những tác động này với các sản phẩm của họ và tích cực theo đuổi các chiến lược mở rộng thị trường cho chúng. Ví dụ, Johnson and Johnson đã thuê công ty tư vấn uy tín McKinsey and Company để giúp tăng doanh số bán hàng. McKinsey khuyến nghị nên nhắm mục tiêu vào các bác sĩ đang kê đơn một lượng lớn OxyContin và
https://thuviensach.vn
khuyên nhà sản xuất thuốc hãy ―nhắm mục tiêu đến những bệnh nhân có nguy cơ lạm dụng thuốc cao‖. Điều này nghe giống như những cuộc trò chuyện diễn ra giữa các thành viên của một băng đảng ma túy, hơn là những gì người ta mong đợi từ các phiên họp chiến lược có sự tham gia của các giám đốc điều hành các doanh nghiệp Hoa Kỳ.
McKinsey cũng từng là cố vấn cho Purdue, đã khuyên Purdue và Johnson và Johnson hãy ―phát minh‖ ra một cơn đau chưa từng được điều trị để tăng nhu cầu về sản phẩm của họ. Đây hóa ra là một chiến lược thành công. Các nhà sản xuất opioid đã tài trợ cho một tổ chức độc lập có tên là American Pain Society (APS), tổ chức này đã thúc đẩy ý tưởng rằng giảm đau bằng thuốc opioid là một quyền của con người. APS chịu trách nhiệm thuyết phục Cơ quan quản lý cựu chiến binh và Ủy ban hỗn hợp (TJC, trước đây là Ủy ban hỗn hợp về công nhận các tổ chức chăm sóc sức khỏe) công nhận đau là ―dấu hiệu quan trọng thứ năm‖, cùng với các dấu hiệu như huyết áp và thân nhiệt, và nên ưu tiên điều trị giảm đau bằng opioid.
Đơn kiện của một số thành phố ở tây Virginia chống lại TJC cho thấy, TJC đã hợp tác với Purdue Pharma và các nhà sản xuất opioid khác để ban hành ―Tiêu chuẩn quản lý cơn đau‖ đã mô tả sai về nguy cơ nghiện opioid và dẫn đến việc kê đơn thuốc không phù hợp. Vụ kiện này cáo buộc rằng, TJC vẫn tiếp tục duy trì mối quan hệ hợp tác này sau khi Purdue đã thừa nhận rằng đã trình bày sai sự thật liên quan đến OxyContin vào năm 2007.
Theo Chris McGreal, tác giả của American Overdose, Purdue đã lập và phân phát các ―tài liệu giáo dục‖ miễn phí cho TJC để đổi lấy cơ hội tương tác và đào tạo nhân viên y tế. Các video và sách hướng dẫn cho biết rằng những lo ngại về nghiện ngập và quá liều là ―không chính xác và phóng đại‖.
https://thuviensach.vn
Ngoài ra, Purdue đã tài trợ hơn 20.000 chương trình giáo dục về cơn đau, vốn là những cuộc hội thảo bán hàng trá hình cho các sản phẩm của công ty. Trên trang web của TJC, tổ chức này tự giới thiệu mình là một tổ chức độc lập với sứ mệnh ―Liên tục cải thiện việc chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng‖. TJC đã chứng nhận cho hơn 22.000 tổ chức và chương trình chăm sóc sức khỏe tại Hoa Kỳ, cấp ―Dấu chứng nhận Vàng‖ cho các tổ chức đủ điều kiện và tuyên bố rằng tầm nhìn của TJC là để tất cả mọi người được trải nghiệm dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng cao và an toàn nhất. Nhưng những điều này dường như không phù hợp với các hành động của tổ chức, bao gồm sự hợp tác với Purdue để mở rộng việc kê đơn thuốc opioid. TJC là một tổ chức mạnh mẽ, các tiêu chuẩn của tổ chức này quy định cách vận hành các bệnh viện và cơ sở y tế của Hoa Kỳ. Nó buộc các tổ chức y tế và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe phải tích cực tìm kiếm cơn đau ở bệnh nhân và điều trị bằng opioid. Theo McGreal, Ủy ban Hỗn hợp gần đây đã thay đổi những hướng dẫn của mình, nhưng phủ nhận mọi hành vi sai trái. Ủy ban hỗn hợp tuyên bố rằng, các bác sĩ và APS phải chịu trách nhiệm cho cuộc khủng hoảng opioid, vì họ đã đưa ra những bằng chứng sai lệch. Điều này thật thú vị - làm thế nào TJC có thể tuyên bố cung cấp một chứng nhận có bất kỳ ý nghĩa nào, nếu về cơ bản họ tin rằng bất kỳ thông tin nào được trình bày cho họ mà không cần điều tra thêm? APS tan rã vào năm 2019, và tuyên bố họ là nạn nhân của một cuộc săn phù thủy. Không ai trong số các nhóm hoặc cá nhân có liên quan nhận trách nhiệm, và thay vào đó lại thể hiện mình chỉ là nạn nhân.
Liên đoàn các Hội đồng Y khoa Nhà nước Hoa Kỳ là một tổ chức phi lợi nhuận, chuyên xây dựng các hướng dẫn cho 70 hội đồng y tế tiểu bang ở Hoa Kỳ và các vùng lãnh thổ trực thuộc, đồng thời cũng tài trợ cho các kỳ
https://thuviensach.vn
kiểm tra cấp phép y tế. Liên đoàn đã nhận 100.000 đô la từ Purdue Pharma để trả chi phí cho việc in ấn và phân phối tài liệu ―Kê đơn thuốc opioid có trách nhiệm: Chỉ thị chăm sóc sức khỏe‖. Liên đoàn ước tính rằng, họ sẽ cần 3 triệu đô la để hoàn thành chương trình tiếp thị nhằm thúc đẩy việc sử dụng an toàn các loại thuốc opioid cho các cơn đau mãn tính. Sáu nhà sản xuất opioid khác đã được yêu cầu đóng góp cho chiến dịch này.
FDA cũng đáng trách không kém, khi phê duyệt cho các loại thuốc opioid mới, trong khi ngày càng có nhiều người Hoa Kỳ chết vì dùng chúng. Nhưng mặc kệ điều đó, họ vẫn cứ làm việc này. Họ đã cấp phép cho Dsuvia® vào năm 2018, một phiên bản mạnh hơn của fentanyl. Quyết định này, được coi là sự hòa giải trong bối cảnh cuộc khủng hoảng opioid đang diễn ra, bởi kết quả thực tế là FDA chủ yếu được tài trợ bởi các công ty dược phẩm và hiện thu về khoảng 2,6 tỷ đô la hàng năm từ ngành công nghiệp này. Không có gì ngạc nhiên khi tỷ lệ chấp thuận đối với thuốc là 96%. Mặc dù một tỷ lệ phần trăm đáng kể trong ngân sách hoạt động của họ là đến từ các công ty dược dưới dạng các khoản phí này, nhưng FDA phủ nhận rằng sự hỗ trợ tài chính này đã ảnh hưởng đến các quyết định của họ.
Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (AMA) cũng đóng một vai trò lớn trong việc phản đối một đạo luật, yêu cầu các bác sĩ phải được đào tạo để kê đơn opioid được đưa ra tại Quốc hội. Các thành viên của Quốc hội được tài trợ bởi Big Pharma đã giúp AMA giết chết dự luật này, với các cuộc tấn công công khai vào các nhà tài trợ và những người ủng hộ. Dân biểu Butterfield, một đảng viên thuộc Đảng Dân chủ đến từ Bắc Carolina, đã ca ngợi các nhà phân phối dược phẩm vì những nỗ lực ―rất ấn tượng‖ của họ trong việc ngăn chặn opioid rơi vào tay những người không nên sử dụng chúng. Điều trớ trêu là cùng lúc tuyên bố này được đưa ra, các công ty dược đã phải nộp phạt cho Bộ
https://thuviensach.vn
Tư pháp vì không báo cáo các đơn đặt hàng đáng ngờ cho hàng triệu viên thuốc đến từ các hiệu thuốc nhỏ ở vùng nông thôn.
Tại sao nó quan trọng?
Việc dàn dựng một đại dịch giả đòi hỏi các chuyên gia y tế phải ―tham gia‖ vào ý tưởng cho rằng thực sự đã có đại dịch, ngay cả khi dữ liệu bắt đầu cho thấy rõ ràng rằng có điều gì đó không ổn. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã mô tả đợt bùng phát COVID-19 là một đại dịch vào ngày 11 tháng 3 năm 2020, khi có 118.000 trường hợp mắc bệnh và 4.291 người đã tử vong trên toàn thế giới. Đến ngày 26 tháng 3, WHO báo cáo rằng đã có 575.444 trường hợp mắc bệnh, và 26.654 trường hợp tử vong do coronavirus kể từ khi cuộc khủng hoảng này bắt đầu. Theo Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh (CDC), tính đến ngày 28 tháng 3, đã có 103.321 trường hợp mắc bệnh và 1.668 trường hợp tử vong do coronavirus ở Hoa Kỳ.
Trang web của CDC (https://www.cdc.gov/flu/about/burden/2018- 2019.html) báo cáo rằng trong mùa cúm 2018-2019, ước tính có khoảng 35,5 triệu trường hợp mắc bệnh, 406.600 trường hợp phải nhập viện và 34.200 trường hợp tử vong do cúm mùa. CDC ước tính rằng trong mùa cúm 2019- 2020, sẽ có từ 17 triệu đến 24 triệu lượt khám bệnh vì cúm ở Hoa Kỳ, 370.000-670.000 ca nhập viện vì cúm và có từ 22.000 đến 55.000 ca tử vong.
Những dữ liệu về coronavirus, được lấy trực tiếp từ các trang web của WHO và CDC đơn giản là không có ý nghĩa. Làm thế nào mà 575.444 trường hợp bị nhiễm coronavirus trên toàn thế giới lại có thể gây ra hậu quả như chúng ta đã biết, và làm cho thế giới gần như ngừng hoạt động, trong khi chỉ
riêng ở Hoa Kỳ hàng năm đã có hàng chục triệu trường hợp nhiễm bệnh và gấp 13-33 lần số ca tử vong do cúm mùa, nhưng họ lại không có phản ứng gì
https://thuviensach.vn
cả (ngoại trừ việc liên tục cằn nhằn cần phải tiêm phòng cúm, điều mà CDC thừa nhận có thể có hiệu quả hoặc không).
Hầu hết các giám đốc sở y tế nhà nước đều nhanh chóng tham gia câu chuyện. Rõ ràng là không có ai trong số họ đã thực sự kiểm tra, để xác nhận rằng tuyên bố về đại dịch đã được chứng minh bằng khoa học. Không mất nhiều thời gian để thuyết phục với các bác sĩ rằng bệnh viện sẽ sớm bị quá tải và có đến hàng trăm nghìn, nếu không muốn nói là hàng triệu người sẽ chết. Lệnh phong tỏa được bắt đầu.
Nhưng điều thực sự đáng kinh ngạc là điều này đã không thành hiện thực, nhiều tuần và nhiều tháng sau khi đại dịch - các bệnh viện đã trống rỗng và tỷ lệ tử vong còn thấp hơn so với cúm mùa – nhưng các bác sĩ vẫn tiếp tục hành xử như thể COVID-19 đang là một mối đe dọa sắp xảy ra.
Những người dàn dựng sự suy sụp này biết rằng, rõ ràng là vì bất cứ điều gì, hầu hết các bác sĩ đều rất dễ thuyết phục. Họ có thể tin tưởng vào ngành y tế để thực hiện kế hoạch bất kể dữ liệu cho thấy điều gì.
Các phƣơng tiện truyền thông, có những thời điểm, bao gồm các phóng viên và điều tra viên chính, là những người quyết tâm tìm kiếm và báo cáo sự thật cho chính phủ, chính trị gia, doanh nghiệp và các vấn đề quan trọng trong ngày. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các phương tiện truyền thông chính thống đã bị suy thoái, và việc đăng bài theo đạo đức và tính liêm chính của báo chí dường như đã trở thành dĩ vãng. Quan điểm này ngày càng được phổ biến rộng rãi, các cuộc thăm dò đã liên tục cho thấy rằng, hầu hết mọi người đã không còn tin tưởng vào các phương tiện truyền thông nữa. Một cuộc khảo sát đã chỉ ra sự thiếu chính xác, thiên vị, thay thế bản chất sự kiện, và có quá nhiều thông tin dựa trên ý kiến và cảm xúc cá nhân, là những lý do khiến họ không còn tin tưởng vào giới truyền thông nữa.
https://thuviensach.vn
Tại sao nó quan trọng?
Kế hoạch yêu cầu các phóng viên và các hãng truyền thông phải đưa tin một cách nghiêm túc, bất kỳ thông tin nào được cung cấp cho họ. Việc kiểm tra thực tế và những thông tin không phù hợp sẽ đưa ra những câu hỏi mang tính thách thức khiến cho mọi người đặt ra câu hỏi, liệu đó có phải là một đại dịch hay không? Và liệu các câu trả lời cho điều đó có hợp lý hay không?
Những người tổ chức biết rằng, các phương tiện truyền thông có thể được tin tưởng để đưa ra một thông điệp được xây dựng cẩn thận nhằm gây ra và duy trì một sự hoảng loạn trong công chúng, bằng cách lặp đi lặp lại các thông tin không chính xác giống nhau.
Chính phủ ở các nước phương Tây đã mở rộng mức phong tỏa theo cấp số nhân, và tăng mức độ kiểm soát đối với công chúng. Việc chuyển đổi các quan chức được dân bầu chọn trở thành các nhà cai trị đã được bắt đầu từ rất lâu trước đây, và điều này diễn ra khá từ từ, để không gây lo lắng cho hầu hết mọi người.
Ý tưởng về việc tăng cường sự kiểm soát của chính phủ đã trở thành một xu hướng chủ đạo, đến mức vào đầu năm 2020, Bernie Sanders, người đang trên đường giành được đề cử của đảng Dân chủ cho chức Tổng thống Hoa Kỳ đã công khai ca ngợi Fidel Castro và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng đảng Dân chủ đã không để cho điều này xảy ra. Nhưng điều này cũng cho thấy rằng có nhiều công dân Hoa Kỳ vào thời điểm đó nghĩ rằng, cả Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản, đều liên quan đến mức độ kiểm soát rộng lớn của chính phủ, và điều đó có thể chấp nhận được.
Tại sao nó quan trọng?
Việc dàn dựng một đại dịch giả sẽ dễ dàng hơn nếu có một số lượng lớn công chúng có thể tin tưởng được, để làm theo những gì chính phủ yêu
https://thuviensach.vn
cầu. Các hướng dẫn bao gồm ở yên trong nhà, đóng cửa cơ sở kinh doanh, đeo khẩu trang (đôi khi ngay cả khi đang ở trong nhà riêng), đồng ý kiểm tra thân nhiệt và các đánh giá y tế khác tại các tiệm làm tóc và sân bay, và tố cáo
những người vi phạm, mặc cho đó là thành viên gia đình hay bạn bè . Điểm mấu chốt: Thời gian cần thiết cho tiến trình COVID xảy ra là hoàn hảo. Một cộng đồng thiếu hiểu biết, một tỷ lệ phần trăm đáng kể ủng hộ sự kiểm soát nhiều hơn của chính phủ, các thành viên chính phủ, nhiều quan chức được bầu vì họ hứa sẽ lập thêm các kế hoạch lớn, các bác sĩ y khoa, những người có thể bị thuyết phục để làm hầu hết mọi thứ, và một phương tiện truyền thông có thể quảng bá và củng cố cho câu chuyện, là những thành phần cần thiết để tạo ra một trò lừa bịp lớn nhất trong lịch sử thế giới.
https://thuviensach.vn
ĐÁNH GIÁ TRƢỚC NHỮNG ĐIỀU SẮP XẢY RA
Theo trang web của CDC, hàng năm khoảng 9% dân số thế giới bị ảnh hưởng bởi bệnh cúm mùa và có đến một tỷ ca bị lây nhiễm, trong đó có 3-5 triệu ca bệnh nặng và 300.000-500.000 ca tử vong mỗi năm. Người ta ước tính rằng có khoảng 20% người Hoa Kỳ bị ảnh hưởng, với 25-50 triệu trường hợp được ghi nhận, 225.000 ca nhập viện và hàng chục nghìn ca tử vong hàng năm. Trong lịch sử, người cao tuổi chiếm 90% trong các ca tử vong do cúm. Những dữ liệu này là dành cho những năm ―bình thường‖.
Một mùa cúm được coi là bất thường là 2009-2010, trong thời điểm đó dịch cúm lợn (H1N1) đang hoành hành. Dữ liệu của CDC đã cho thấy, chỉ riêng ở Hoa Kỳ đã có 60,8 triệu trường hợp mắc bệnh, 274.304 trường hợp phải nhập viện và 12.469 trường hợp tử vong do cúm lợn. Chỉ trong khoảng thời gian một năm, ước tính có khoảng 575.400 người chết vì H1N1 trên toàn thế giới.
Vào ngày 11 tháng 6 năm 2009, WHO tuyên bố rằng H1N1 là một đại dịch sau khi có 70 quốc gia báo cáo các trường hợp mắc cúm A (H1N1). Dữ liệu đã cho thấy, ngay cả khi có số ca mắc bệnh và tử vong do H1N1 tăng cao, cũng không có lý do gì để tuyên bố đó là một đại dịch.
Một dấu hiệu cho thấy có điều gì đó không ổn là khi CDC hướng dẫn cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe ngừng việc xét nghiệm H1N1, và cho rằng tất cả những người có các triệu chứng giống cúm đều là H1N1 và phải báo cáo như vậy. Tuyên bố của CDC với công chúng là không nên lãng phí các nguồn lực vào việc xét nghiệm, khi chính phủ đã xác định rằng đó là một đại dịch. Một lý do có thể đối với sự thay đổi chính sách này là do chính phủ Hoa Kỳ đã đặt hàng 193 triệu liều vaccine cúm và cần phải ―bán‖ lại những
https://thuviensach.vn
liều vaccin này cho công chúng; chỉ thị của CDC về việc ngừng xét nghiệm là một nỗ lực để ngăn cản công chúng biết được sự thật về số trường hợp mắc bệnh, mà điều này chắc chắn sẽ làm giảm sự quan tâm đến vaccine.
Một cuộc điều tra tin tức của CBS đã xác nhận trường hợp này. CBS đã yêu cầu CDC cung cấp kết quả xét nghiệm theo từng tiểu bang trong khoảng thời gian trước khi CDC yêu cầu tạm dừng xét nghiệm. CDC đã từ chối cung cấp những dữ liệu này, vì vậy CBS đã đệ đơn yêu cầu theo Đạo luật Tự do Thông tin lên Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh, đồng thời yêu cầu tất cả 50 tiểu bang phải cung cấp những dữ liệu của họ về H1N1 đã được phòng thí nghiệm xác nhận, trước khi có lệnh ngừng việc xét nghiệm.
Kết quả cuối cùng sau khi kiểm tra dữ liệu? Đa số các bệnh nhân đều âm tính với cả H1N1 và cúm mùa, mặc dù các bang chỉ xét nghiệm cho những bệnh nhân được coi là có nguy cơ mắc H1N1 cao nhất, chẳng hạn như những người đã đi du lịch đến Mexico. Cơ quan y tế thông báo rằng những người này chỉ bị cảm lạnh hoặc nhiễm trùng đường hô hấp trên, nhưng không phải cúm.
Điểm mấu chốt là những dự báo về dịch cúm, cùng với số ca tử vong và bệnh đồng mắc đã diễn ra không đúng với thực tế. Thay vì nói cho công chúng biết sự thật, CDC đã nói dối để cho rằng những dự đoán của mình là đúng, nhằm mục đích để quảng cáo cho vaccine cúm mùa.
Tổ chức Y tế Thế giới cũng đã tích cực tham gia vào việc lừa dối này. Theo Ủy ban Xã hội, Sức khỏe và Gia đình thuộc Hội đồng Nghị viện của Hội đồng Châu Âu (PACE), WHO đã tham gia vào việc thổi bùng nỗi sợ hãi với dịch cúm H1N1, mà không có bất kỳ bằng chứng nào để chứng minh cho hành động của mình. Kết quả là khoảng 18 tỷ đô la đã bị lãng phí trên toàn
https://thuviensach.vn
thế giới. PACE xác định WHO đã thông đồng với các công ty dược phẩm để biến bệnh cúm mùa trở thành một ―đại dịch‖.
Các công ty dược đã được hưởng lợi rất nhiều về mặt tài chính, và hàng triệu người đã được tiêm vaccine một cách vô cớ mà không có bằng chứng nào cho thấy loại vaccine này có hiệu quả, vì nó không được thử nghiệm lâm sàng. Lời khai tại một phiên điều trần công khai bao gồm tuyên bố này, ―Chúng ta đang chứng kiến một sự phân bổ sai lầm các nguồn lực về sức khỏe cộng đồng. Chính phủ và các dịch vụ y tế công cộng đang lãng phí một số tiền khổng lồ trong việc đầu tư vào một căn bệnh được coi là đại dịch mà những bằng chứng cơ sở về chúng còn yếu‖.
Nhà dịch tễ học Wolfgang Wodarg cho biết, ―đại dịch giả‖ H1N1 là một trong những vụ bê bối y tế lớn nhất thế kỷ. Tiến sĩ Ulrich Kiel, giám đốc Trung tâm Hợp tác của WHO về Dịch tễ học ở Munster Đức cũng đồng ý như vậy. Cúm lợn thực sự nhẹ hơn nhiều so với bệnh cúm mùa. CDC sau đó đã báo cáo rằng, tỷ lệ tử vong do H1N1 chỉ bằng 1/10 đến 1/3 tỷ lệ tử vong so với cúm mùa thông thường.
Tại sao WHO lại tuyên bố là có đại dịch trong khi không có đại dịch nào? Không có gì ngạc nhiên khi ảnh hưởng của các công ty dược phẩm liên quan đến phản ứng này, vì họ rất nhiều lợi ích. Ba nhà khoa học đã giúp xây dựng hướng dẫn của WHO về chuẩn bị cho đại dịch cúm, cũng đã tư vấn cho các công ty dược phẩm sẽ thu được lợi nhuận từ các chính sách của WHO liên quan đến đại dịch. Những điều trái ngược này được tiết lộ trong một tài liệu có tiêu đề Hướng dẫn của WHO về việc sử dụng thuốc kháng virus và vaccine trong đại dịch cúm ban hành năm 2004. WHO từ chối tiết lộ tên của các thành viên trong Ủy ban khẩn cấp của WHO được thành lập để hướng
https://thuviensach.vn
dẫn ứng phó với ―dịch bệnh‖ H1N1. Điều này liên quan đến trách nhiệm của ủy ban này bao gồm thời điểm thay đổi/ tăng tỷ lệ đối ứng.
Một thúc đẩy bổ sung đã được tiết lộ bởi Margaret Chan, lúc đó đang là Tổng Giám đốc WHO. Bà đã nói trong một bài phát biểu rằng ―các bộ trưởng y tế‖ nên tận dụng ―tác động tàn phá‖ của dịch cúm lợn sẽ gây ra đối với các quốc gia nghèo hơn để đưa ra thông điệp rằng ―những thay đổi trong hoạt động của nền kinh tế toàn cầu‖ là cần thiết, để phân phối của cải trên nền tảng ―các giá trị‖ như cộng đồng, đoàn kết, và công bằng xã hội. Bà tuyên bố thêm rằng, đại dịch nên được sử dụng như là một vũ khí để chống lại ―các chính sách và hệ thống quốc tế chi phối thị trường tài chính, nền kinh tế, thương mại, và các vấn đề đối ngoại‖. Nói cách khác, Chan coi ―đại dịch giả‖
như là một hình thức social engineering (lừa đảo phi kỹ thuật), tất nhiên điều này sẽ được thực hiện theo niềm tin của bà ấy.
Ngoài một số bối rối tạm thời, không có hậu quả thực sự nào đối với bất kỳ ai trong số những người tham gia tích cực vào vụ lừa gạt cúm lợn. Vì vậy, sẽ không có lý do gì để không làm điều tương tự một lần nữa trong tương lai.
https://thuviensach.vn
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGƢỜI CHƠI CHÍNH
Sự sụp đổ, một phần được chỉ đạo bởi một nhóm gồm 19 người đã có kinh nghiệm làm việc với nhau trong một thời gian dài trước đó. Trong suốt sự nghiệp của họ, và thường là với nhau, họ đã đưa ra những quyết định và tham gia vào các hoạt động liên quan đến giới truyền thông, chính phủ và công chúng. Tuy nhiên, như bạn sẽ thấy, không có sự trả giá thực sự nào cho những hành động của họ.
Tedros Adhanom Ghebreyesus (Tổng Giám Đốc WHO) Tedros, như tên gọi của ông, đến từ Ethiopia, nơi ông từng giữ nhiều chức vụ trong chính phủ trước khi được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới.
Ethiopia là một quốc gia rất đa dạng về sắc tộc, với hơn 100 ngôn ngữ được sử dụng. Các dân tộc chính là Oromo, Amhara, Somali và Tigray, những dân tộc này chiếm hơn 75% dân số.
Là một người dân tộc Tigray, Tedros đã trở thành một thành viên của Mặt trận Giải phóng Nhân dân Tigray (TPLF), lực lượng này đã giành được quyền lực sau khi lật đổ một chế độ có liên hệ với người Amhara vào năm 1991. Người Tigray tuy chỉ chiếm có 6% dân số, nhưng lại nắm giữ phần lớn quyền lực chính trị trong nước. TPLF đã được Hiệp hội Nghiên cứu và Phân tích Khủng bố phân loại là một tổ chức khủng bố.
Tedros đã làm việc trong Bộ Y tế Ethiopia và cuối cùng trở thành Bộ trưởng Y tế vào năm 2005. Nhiệm kỳ của ông mang đầy tai tiếng bởi những vụ bê bối. Theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, TPLF đã tham gia vào ―sự phân biệt đối xử có hệ thống và vi phạm nhân quyền‖ bằng cách từ chối cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người Amhara, bởi vì họ đã nói dối với
https://thuviensach.vn
đảng đối lập. Rona Peligal, Giám đốc phụ trách Châu Phi tại Human Rights Watch cho biết: Chính phủ Ethiopia thường xuyên sử dụng nguồn viện trợ như là một vũ khí để kiểm soát người dân và đè bẹp những người bất đồng chính kiến. ―Nếu bạn không chơi trò chơi của đảng cầm quyền, bạn sẽ bị loại‖. Tuy nhiên, các nhà tài trợ nước ngoài lại đang tưởng thưởng cho hành
vi này bằng những khoản viện trợ phát triển ngày càng lớn hơn. Đáng quan tâm hơn nữa là trong một báo cáo của chủ tịch ủy ban điều tra dân số Saima Zekaria cho thấy, có ít nhất 2,5 triệu và có thể là 6 triệu người Amhara đã biến mất khỏi cuộc điều tra dân số. Theo Samira, ủy ban đã phân tích dữ liệu nhiều lần và thậm chí thuê các chuyên gia từ bên ngoài vào, nhưng không thể tìm ra lý do cho sự khác biệt. Bà đã tuyên bố công khai rằng, có một ―sự giảm sút có hệ thống về số lượng người Amharas.‖ Trong thời gian Tedros làm bộ trưởng Y tế, đã có ba đợt bùng phát dịch tả lớn ở Ethiopia - vào các năm 2006, 2009 và 2011. Các chuyên gia đã xét nghiệm mẫu phân và tìm thấy vi khuẩn tả, nhưng ông ta đã đối phó bằng cách phân loại lại các đợt dịch đang bùng phát thành tiêu chảy cấp tính, mục đích của điều này nhằm để tránh sự chất vấn của quốc tế. Theo các nhà nghiên cứu của Liên Hợp Quốc, nhiều viện trợ hơn sẽ được chuyển đến Ethiopia hơn nếu Tedros nói sự thật về những đợt bùng phát dịch tả này.
Một Báo cáo kiểm toán từ Quỹ Toàn cầu Phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét cho thấy, có những khiếm khuyết đáng kể trong cách quản lý quỹ viện trợ của Tedros. Đoàn công tác của Tổng Thanh tra đã đến thăm 77 trung tâm Y tế mới được xây dựng đã cho thấy, 71% không có nước sử dụng, 32% không có nhà vệ sinh còn hoạt động, 53% sàn có vết nứt lớn và 19% có mái nhà bị dột. Chỉ 14% trung tâm có thiết bị như kính hiển vi và giường đỡ đẻ, 12% có phòng chức năng và phòng thí nghiệm thì thiếu thốn trang thiết bị.
https://thuviensach.vn
Hơn nữa, hàng triệu đô la không đủ điều kiện chi đã được tính để cấp cho các chương trình, hồ sơ tài chính thì được lưu giữ trên Excel, các bảng sao kê ngân hàng không được đối chiếu, và việc giải ngân lại không được xem xét thường xuyên.
Năm 2012, Tedros được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Ngoại giao Ethiopia. Trong nhiệm kỳ của mình ở vị trí này, ông đã không có hành động gì khi một số nước bao gồm Ả Rập Xê-út, Nam Phi và Yemen, cho hồi hương hàng nghìn người Ethiopia đã di cư đến các nước này do tỷ lệ thất nghiệp cao ở Ethiopia. Trong khi các quốc gia khác như Kenya và Nigeria đã tích cực trong việc giúp đỡ công dân của họ trở về nhà, nhưng Tedros chỉ theo dõi mà không làm gì cả, trong khi có hàng ngàn công dân của mình bị bỏ tù, đánh đập và giết chết.
Ngay sau khi Tedros được đề cử vào vị trí Tổng Giám đốc WHO, hầu như tất cả các bài báo và báo cáo về những thất bại của ông trên cương vị Bộ trưởng Y tế và Bộ trưởng Ngoại giao đã được rửa sạch. Chứng chỉ chăm sóc sức khỏe của ông đã được phóng đại để tập trung vào những thành công và dễ dàng bỏ qua những thất bại của ông ta. Điều đáng ngạc nhiên là vào thời điểm cuốn sách này được phát hành, một bộ phim tài liệu dài, đầy đủ, vẫn còn lưu trên mạng, bao gồm ảnh chụp màn hình các bài báo và ảnh tĩnh từ
video mô tả cuộc tàn sát diễn ra trong thời gian Tedros tại vị. Dựa trên những thông tin này, Tedros có vẻ như là một sự lựa chọn kỳ lạ cho vị trí Tổng giám đốc WHO. Như bạn sẽ thấy sau này, ông ta có bạn bè ở những vị trí quan trọng.
Người ta nói rằng không thể thay đổi được các đốm trên lông của báo leopards, và với Tedros cũng vậy. Ngay sau khi trở thành người đứng đầu WHO, Tedros đã bổ nhiệm Robert Mugabe, cựu tổng thống Zimbabwe, làm
https://thuviensach.vn
đại sứ thiện chí của WHO. Chế độ của Mugabe nổi tiếng với bạo lực, và ông được biết đến như một nhà cai trị tàn nhẫn, người đã từng tuyên bố rằng chỉ có Chúa mới có thể loại bỏ ông ta khỏi vị trí này. Dưới áp lực của dư luận quốc tế, đề nghị bổ nhiệm này đã bị rút lại.
Bill Gates: Quyền lực và sự nguy hiểm của việc có quá nhiều tiền Ngay từ khi còn nhỏ, Bill Gates đã được biết đến là một người rất thông minh, ít nhất là theo quan điểm toán học. Ông đã nói với một giáo viên rằng, ông sẽ trở thành triệu phú ở tuổi 30. Điều thú vị là cách ông ấy có được nhiều tiền và quyền lực thì không ai biết rõ. Điều mà rất nhiều người tin, và những gì Bill Gates đã nói với thế giới, là ông ấy ―tự lập‖. Sự thật của vấn đề là ông đã được giúp đỡ - rất nhiều sự giúp đỡ. Gates sinh ra trong một gia đình giàu có. Cha ông là một luật sư thành đạt, và mẹ ông, Mary, là một nữ doanh nhân nổi tiếng, người đã sử dụng ảnh hưởng của mình để đưa ra những lời giới thiệu quan trọng mở đường cho thành công của Bill trẻ tuổi. Bà là người phụ nữ đầu tiên lãnh đạo United Way of America, và John Opel, chủ tịch của IBM, đã cùng bà tham gia ủy ban điều hành. Sau cuộc trò chuyện giữa Mary và Opel, IBM đã thuê Microsoft phát triển một hệ điều hành cho máy tính cá nhân đầu tiên sắp được giới thiệu của mình. Đây là cách Microsoft trở thành nhà sản xuất phần mềm hàng đầu thế giới.
Biết được lịch sử cá nhân của Bill Gates và ảnh hưởng của gia đình ông là điều cần thiết để hiểu được vai trò của ông trong sự sụp đổ của thế giới vì coronavirus. Gates nói rằng, cha của ông (Bill Gates Sr.) là người có ảnh hưởng lớn nhất đến cuộc đời ông. Quá khứ của Bill Jr đã cung cấp một số
thông tin chi tiết về việc ông lả một người theo chủ nghĩa toàn cầu, khao khát quyền lực, người tuyên bố rằng kiểm soát dân số là một trong những mục tiêu chính trong sự nghiệp của ông.
https://thuviensach.vn
Bill Gates Sr. là thành viên trong hội đồng của Planned Parenthood (Tổ chức kế hoạch hóa gia đình Hoa Kỳ), một tổ chức mà phần lớn doanh thu đến từ việc phá thai và tiền liên bang do người đóng thuế tài trợ. Người sáng lập Margaret Sanger, trong bài phát biểu của bà tại một cuộc biểu tình dành cho phụ nữ của tổ chức Ku Klux Klan (hội tam điểm), đã công khai phân biệt chủng tộc, tự xưng mình là người ủng hộ thuyết ưu sinh và kiểm soát dân số. Các phòng khám của Planned Parenthood chủ yếu nằm ở các khu vực có nhiều người Hoa Kỳ gốc Phi, và tổ chức này đã đóng góp một tỷ lệ đáng kể các vụ phá thai được thực hiện ở Hoa Kỳ, Gates Sr. cũng thân thiết với gia đình Rockefeller và Soros. Quỹ Rockefeller đã nhận được hàng triệu dollars quyên góp từ Quỹ Bill and Melinda Gates (BMGF), quỹ này cũng ủng hộ mạnh mẽ việc kiểm soát dân số, và đã công khai tuyên bố trong nhiều năm rằng, quỹ quan tâm đến việc thúc đẩy việc tiêm chủng trên toàn thế giới và kiểm soát dân số.
Microsoft đã gặp phải những vấn đề pháp lý nghiêm trọng dưới sự quản lý của Bill trẻ tuổi. Công ty đã bị kiện nhiều lần vì vi phạm luật chống độc quyền. Cuối cùng, chính phủ Hoa Kỳ phán định rằng Microsoft đã tạo ra sự độc quyền bất hợp pháp đối với hệ điều hành và các thành phần của chúng, nhằm hạn chế sự cạnh tranh từ các công ty khác nhằm tăng giá cho các sản phẩm của họ. Các sản phẩm của Microsoft đã là chủ đề bị chỉ trích đáng kể trong nhiều năm liền. Theo Dan Kusnetzky, chủ tịch của Kusnetzky Group (Công ty chuyên nghiên cứu ngành công nghệ thông tin có uy tín), có nhiều công ty đã phát triển thành công các sản phẩm tốt hơn Windows, nhưng không thể bán được sản phẩm của mình vì sự kìm hãm của Microsoft đối với ngành IT. Trong phiên điều trần về vụ kiện chống độc quyền, Bill Gates đã tỏ ra kiêu ngạo và cứng
https://thuviensach.vn
đầu, không muốn thừa nhận rằng có bất cứ điều gì sai trái đối với sản phẩm hoặc phương thức kinh doanh của mình.
Gates đã hành xử giống như khi ông xây dựng nền tảng hệ điều hành Windows và thay đổi trọng tâm sang lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Tin rằng mình thông minh hơn tất cả những người khác, ông ta đã sử dụng tính cách cứng đầu, kiêu ngạo và hành vi độc quyền của mình để tiếp quản hệ thống chăm sóc sức khỏe trên khắp thế giới. Với nguồn tiền không giới hạn đầu tư vào việc thu hút những người phù hợp và nhìn mọi thứ theo như cách của ông. Điều đáng nói là động lực, chương trình nghị sự của ông cũng như các sản phẩm và dịch vụ mà ông và tổ chức quảng bá, đều nhắm đến mục đích chủ yếu là kiểm soát dân số và tiêm chủng.
Tại một hội nghị TED vào năm 2010, Bill Gates nói ―Bây giờ nếu chúng ta phát triển được một loại vaccine mới, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản của chúng ta sẽ giảm bớt xuống có lẽ 10% hoặc 15%.‖ Theo trang web BMGF, quỹ này đã tài trợ hơn 11 triệu đô la cho Hội đồng Dân số từ năm 2018 đến năm 2020. Hội đồng Dân số được thành lập bởi John D. Rockefeller vào năm 1952, trang web của tổ chức này tuyên bố rằng, sự gia tăng dân số là một rào cản đối với sự phát triển kinh tế và xã hội ở các nước đang phát triển, và tuổi thọ gia tăng ở các nước phát triển đã làm tăng chi phí cho các chương trình phúc lợi xã hội. Hội đồng này đã tiến hành nghiên cứu về những tác động của sự gia tăng dân số đối với xã hội, gia đình và cá nhân, dường như không chỉ dừng lại ở ―kế hoạch hóa gia đình‖, mà mục tiêu làm giảm dân số còn được khuyến khích như là một hoạt động chính của tổ chức này.
Giống như cha mẹ của mình, Gates dường như có những người bạn thú vị, bao gồm cả Jeffrey Epstein (một nhà tài chính và là tỷ phú ấu dâm) quá
https://thuviensach.vn
cố. Tin rằng DNA của mình vượt trội hơn DNA của những người khác, Epstein là một người theo chủ nghĩa ưu sinh, người đã lên kế hoạch nuôi dưỡng các cô gái trẻ đẹp tại một trang trại mà ông ta sở hữu ở New Mexico để tạo ra một chủng tộc siêu việt. Trong nhiều năm Bill Gates đã gặp Epstein vài lần, ngay cả sau khi ông ta đã bị kết tội ấu dâm. Gates đã bay trên máy bay riêng của Epstein, mặc dù sau đó ông khẳng định không biết máy bay đó là của Epstein. Khi Epstein được tìm thấy đã chết vì tự sát vào ngày 10 tháng 8 năm 2019, Gates có thể là một trong số nhiều người giàu có nổi tiếng cảm thấy nhẹ nhõm, vì một người ủng hộ cho sự lựa chọn giới tính và ủng hộ cho thuyết ưu sinh sẽ không còn có thể nói về mối quan hệ đối với họ.
Cả Bill và Melinda Gates đều là những người ủng hộ nhiệt tình cho việc tiêm chủng, đã công khai đưa ra một lý thuyết thú vị về cách vaccine có thể giúp kiểm soát sự gia tăng dân số. Họ cho rằng, lý do phụ nữ ở thế giới thứ ba và các nước đang phát triển sinh nhiều con là do tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ quá cao, dẫn đến việc phải sinh ngày càng nhiều con để bù đắp. Họ cho rằng, vaccine sẽ cứu sống trẻ em và phụ nữ sẽ không cần phải sinh nhiều con như vậy, dân số cuối cùng sẽ giảm bớt. Đó là một lý thuyết chưa được chứng minh, có lẽ bởi vì mọi việc không diễn ra theo như tính toán. Nếu sinh ra nhiều trẻ em hơn để thay thế cho những đứa trẻ đã chết, có vẻ như dân số đang tăng lên do có quá nhiều trẻ em được sinh ra trong mỗi gia đình. Việc không thể giải thích điều này với bất kỳ ai vẫn không ngăn được Quỹ Gates sử dụng vaccine cho mục đích kiểm soát dân số theo nhiều cách khác nhau.
Các công ty dược phẩm lớn do BMGF tài trợ đã tiêm vaccine gây sẩy thai làm từ các hợp chất nhiễm Human Chorionic Gonadotropin (HCG) cho những người đang mang thai, đồng thời triệt sản những phụ nữ đang ở độ tuổi
https://thuviensach.vn
mang thai ở châu Phi. Chương trình tiêm chủng này đã được WHO thúc đẩy, và các phụ nữ đang mang thai được cho biết rằng, vaccine này sẽ ngăn ngừa bệnh uốn ván cho con của họ, trong khi thực tế đứa trẻ sẽ không bao giờ được sinh ra.
Dựa trên sự nghi ngờ của các bác sĩ Công giáo đang làm việc ở Châu Phi, ba phòng thí nghiệm hóa sinh độc lập ở Nairobi đã kiểm tra các mẫu vaccine uốn ván đang được sử dụng, và hợp chất HCG đã được tìm thấy trong một nửa số vaccine đó.
Vào tháng 1 năm 2019, Obianuju Ekeocha (Uju), người sáng lập Văn hóa cuộc sống châu Phi cho biết ―Tôi đã thành lập Văn hóa cuộc sống châu Phi vào năm 2013, chỉ vài tháng sau khi Quỹ Gates tăng cường mục đích kiểm soát dân số của họ. Ở các nước đang phát triển, họ gọi nó là ―kế hoạch hóa gia đình‖, nhưng theo quan điểm của tôi, đó là một hành động tàn nhẫn trong việc kiểm soát dân số.‖ Là một người lớn lên và sống phần lớn cuộc đời ở Châu Phi, bà đã kinh hoàng về cách BMGF và giới tinh hoa giàu có từ phương Tây đang cố gắng kiểm soát dân số của lục địa Châu Phi. Ý nghĩ về
các biện pháp tránh thai và đặc biệt là phá thai, thậm chí còn không có trong từ vựng của người dân châu Phi, như bà đã đề cập trong một bài phát biểu trước Liên Hợp Quốc.
Trong nhiều cuộc phỏng vấn, Uju đã nói ―Người dân châu Phi chúng tôi không muốn điều này!‖ Vào tháng 8 năm 2012, Uju đã viết cái mà bà gọi là ―Thư ngỏ gửi Melinda Gates‖ nêu rõ những lo ngại của người dân Châu Phi liên quan đến các biện pháp tránh thai cưỡng bức, phá thai, triệt sản và các phương pháp làm rụng trứng khác. Trong lá thư của mình, bà yêu cầu BMGF thay vào đó hãy cung cấp hàng hóa và các dịch vụ cần thiết ở Châu Phi như các chương trình dinh dưỡng và thực phẩm cho trẻ em, và chăm sóc
https://thuviensach.vn
cho phụ nữ sau sinh tốt hơn. Không có gì ngạc nhiên khi Melinda Gates không phản hồi, và quỹ này vẫn tiếp tục quảng bá vaccine sẽ là biện pháp tránh thai và phá thai tốt nhất cho người dân châu Phi.
Trong một thập kỷ qua, BMGF đã tài trợ hơn 80 triệu đô la cho công ty phá thai khổng lồ Planned Parenthood. Quỹ này cũng đã tài trợ hơn 40 triệu đô la cho một công ty phá thai của Anh có tên là Marie Stopes. Công ty này đã bị đuổi ra khỏi Kenya vào năm 2018 vì tội phá hoại chính phủ và thực hiện phá thai bất hợp pháp ở đất nước này. Bất kể là ý kiến của ai về việc phá thai, hầu hết mọi người sẽ đồng ý rằng BMGF không có quyền áp đặt việc kiểm soát dân số đối với các quốc gia không muốn phá thai. Tất nhiên, Bill Gates sẽ cho rằng ông ấy đang làm điều tốt nhất cho mọi người.
Triệt sản không phải là sản phẩm phụ duy nhất của chương trình tiêm chủng của gia đình Gates. Quỹ Bill and Melinda Gates đã cam kết tài trợ 450 triệu đô la để xóa bỏ bệnh bại liệt ở Ấn Độ, đồng thời nắm quyền kiểm soát Nhóm Cố vấn Kỹ thuật Quốc gia về Tiêm chủng của Ấn Độ để thực hiện kế
hoạch của mình. Trẻ em được yêu cầu cần tiêm một số liều vaccine bại liệt trước năm tuổi, với các đợt tiêm chủng đại trà được thực hiện 3 lần mỗi năm để duy trì khả năng miễn dịch của cộng đồng. Kết quả là khởi phát một dịch bệnh liệt mềm cấp tính (khiến các cơ và phản xạ trong cơ thể trở nên yếu) ở
trẻ em dưới 15 tuổi, và tỷ lệ Alpha-Fetoprotein (AFP) tăng cao ở trẻ không bị bại liệt liên quan đến tần suất sử dụng vaccine bại liệt.
Chương trình Công nghệ Thích hợp trong Y tế do BMGF tài trợ, đã thực hiện các nghiên cứu quan sát, sử dụng vaccine HPV Gardasil và Cervarix cho hàng nghìn bé gái từ 9 đến 15 tuổi ở Ấn Độ. Trong vòng vài tháng, các bé bắt đầu bị ốm và một số bé tử vong. Các phản ứng bao gồm co
https://thuviensach.vn
giật, động kinh, đau bụng dữ dội, đau đầu, thay đổi tâm trạng, bắt đầu hành kinh sớm và chảy máu nhiều.
Một cuộc điều tra cho thấy có những vấn đề nghiêm trọng về sự đồng ý tiêm vaccine, đôi khi được đưa ra bởi các trường học thay vì phụ huynh. Rất nhiều cha mẹ mù chữ đã đồng ý bằng cách in dấu ngón tay cái trên các mẫu đơn. Ở một tỉnh, 3.944 trong số các biểu mẫu đồng ý có dấu ngón tay cái và 5.454 có hiển thị chữ ký hoặc dấu ngón tay cái của người giám hộ. Phần lớn, các bé gái và cha mẹ của họ không hiểu gì về ung thư cổ tử cung hoặc vaccine hoặc những gì trong mẫu đơn mà họ đã đồng ý.
Năm 2017, chính phủ của Tổng Thống Modi đã tống cổ Gates và các sáng kiến vaccine của ông ta ra khỏi Ấn Độ.
Có những vấn đề đạo đức bổ sung liên quan đến Quỹ Gates ngoài các sáng kiến tiêm chủng. Việc đầu tư vào thị trường chứng khoán của một tổ chức phi lợi nhuận là không phạm pháp nếu không có xung đột lợi ích. Một trong những thương vụ gần đây của BMGF là mua lại cổ phần của một công ty chuyên nghiên cứu và phát triển các loại thuốc mới có tên là Schrodinger. BMGF đã tham gia vào các liên doanh tài chính với công ty này từ năm 2010 và gần đây nhất là một liên doanh 85 triệu đô la vào năm 2019. Trang web của công ty nói rằng, các sản phẩm đầy hứa hẹn của họ sẽ là thuốc điều trị và vaccine COVID-19. Quỹ Gates hiện cũng đang đầu tư vào Merck, GSK, Eli Lilly, Pfizer, Novartis và Sanofi. Quỹ Gates cũng đã tài trợ hơn 300 triệu đô la cho Inovio Pharmaceuticals, AstraZeneca, Moderna và các công ty dược phẩm khác để thực hiện các cuộc thử nghiệm lâm sàng vaccine COVID-19.
Không có gì ngạc nhiên khi Quỹ Gates được thành lập bởi một số cựu giám đốc điều hành của các công ty dược phẩm. Giám đốc điều hành hiện tại là Penny Heaton, trước đây đã từng làm việc tại Merck và Novartis. Trevor
https://thuviensach.vn
Mundel, chủ tịch của ban Y tế toàn cầu, đã từng làm việc cho Novartis và Pfizer. Người giữ vị trí này trước đây là Tachi Tamanda, từng là giám đốc điều hành của GlaxoSmithKline (GSK). Một cựu giám đốc GSK khác, Kate James, hiện đang là giám đốc truyền thông của quỹ.
Cuối cùng, Bill dường như nghĩ rằng ông ta có thể kiểm soát được cả Thế giới. Ông đã nói trong một cuộc phỏng vấn trên chương trình This Morning của CBS vào ngày 2 tháng 4, 2020: ―Khi tất cả mọi người đều đã được tiêm chủng, những thứ đó có thể sẽ không quay trở lại nữa.‖ Vì vậy, Gates đã công bố với thế giới về những điều kiện mà ông cho rằng để con người có thể quay trở lại với cuộc sống bình thường. Và vào thời điểm tôi viết cuốn sách này, có vẻ như Chính phủ và các cơ quan y tế đều đang lắng nghe ông ta, vì hầu hết thế giới vẫn đang ở trong một số hình thức phong tỏa
hoặc hạn chế. Sau tất cả, Bill Gates biết điều gì là tốt nhất cho tất cả chúng ta. Robert Redfield
Robert Redfield, MD là Giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh. Trang web của CDC đã mô tả Redfield là một ―nhà lãnh đạo y tế công cộng‖, người đã tham gia vào các nghiên cứu và chăm sóc lâm sàng liên quan đến nhiễm virus và các bệnh truyền nhiễm trong hơn 30 năm.
Xuất thân của ông ta nghe có vẻ rất ấn tượng. Ông đã có 20 năm làm việc tại Quân đoàn Y tế Hoa Kỳ và là giám đốc sáng lập của Cục Nghiên cứu Virus, một phần trong chương trình nghiên cứu về virus HIV của Quân đội Hoa Kỳ. Sau đó, ông còn là đồng sáng lập Viện nghiên cứu về virus ở người và là trưởng khoa truyền nhiễm và phó chủ tịch Y khoa tại Trường Đại học Maryland. Redfield chắc chắn có vẻ như đủ tiêu chuẩn cho vị trí này dựa trên những thông tin được đăng trên trang web của CDC.
https://thuviensach.vn
Nhưng tất cả không phải như nó có vẻ. Vào năm 1994, Redfield bị buộc tội phóng đại kết quả thử nghiệm của một loại vaccine AIDS do MicroGeneSys sản xuất. Ông bị điều chuyển từ phòng thí nghiệm mà ông đã đứng đầu trong sáu năm đến một vị trí kém uy tín hơn nhiều tại Trung tâm Y tế Walter Reed ở Maryland gần Washington DC, nơi ông phải trực tiếp điều trị cho các bệnh nhân. Vào thời điểm đó, lực lượng Không quân đã khẳng
định rằng đây không phải là bị cách chức, mà do Redfield muốn quay trở lại công việc chăm sóc bệnh nhân.
Tuy nhiên, nhiều còn có nhiều câu chuyện hơn trong việc này. Khi có thông tin rõ ràng rằng Redfield có thể sẽ được bổ nhiệm làm người đứng đầu CDC, một trong những người trong quân đội đã tố giác ông ta, Trung tá Không quân Craig Hendrix, một bác sĩ đứng đầu Bộ phận dược học lâm sàng
tại Trường Đại học Johns Hopkins quyết định lên tiếng về những gì thực sự đã xảy ra. Hendrix nói rằng, trong khi Redfield đang tiến hành nghiên cứu về HIV trong quân đội, ―Ông ta đã biên tập dữ liệu một cách quá đáng hoặc những điều đó là bịa đặt. Mọi người nên nghiêm túc đặt ra những câu hỏi về mức độ đáng tin cậy của ông ấy.‖ Hơn nữa, theo Hendrix, hai thành viên trong nhóm của Redfield báo cáo rằng họ đã cố gắng tái tạo lại kết quả nghiên cứu của ông ấy, nhưng không thể. Bản thân Hendrix cũng đã cố gắng tái tạo lại các phát hiện của Redfield và cũng không thành công, ông đã báo
cáo lại các vấn đề về dữ liệu của Redfield cho cấp trên của mình. Một cuộc họp giữa Hendrix, Redfield và những người khác có liên quan đến sự cố đã được tổ chức để thảo luận về vấn đề này, và theo Hendrix, Redfield thừa nhận rằng ông ta đã phóng đại kết quả nghiên cứu của mình. Nhưng sau cuộc họp này, Redfield vẫn tiếp tục đưa ra những tuyên bố không
https://thuviensach.vn
chính xác tương tự, trong bài thuyết trình tại một hội nghị AIDS quốc tế ở Amsterdam vào tháng 7 năm 1992.
Chỉ hai tháng sau, Quốc hội đã duyệt chi 20 triệu đô la để thử nghiệm trên quy mô lớn hơn đối với vaccine của MicroGeneSys.
Các nhà nghiên cứu của Viện Y tế Quốc gia đã không đồng ý với quyết định này, họ nói rằng, chỉ có các nhà khoa học chứ không phải là các chính trị gia, mới được đưa ra quyết định về loại vaccine nào sẽ được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng.
Những lời nói dối liên tục của Redfield đã khiến cho Hendrix viết một lá thư chính thức cáo buộc Redfield về các hành vi sai trái trong khoa học. Một hội đồng đánh giá thể chế của lực lượng Không quân cũng đã khuyến nghị rằng vấn đề này cần phải được điều tra. Nhưng thực tế lại không phải
như vậy. Thay vào đó, Quân đội tuyên bố rằng dữ liệu sẽ được sửa chữa lại và Redfield đã được thuyên chuyển sang vị trí khác.
Bị sốc vì vấn đề đã được giải quyết một cách quá đơn giản, vào tháng 6 năm 1994, Public Citizen đã viết thư cho Dân biểu Henry Waxman yêu cầu tiểu ban của ông về Y tế và Môi trường tổ chức một buổi điều trần để điều tra về Redfield.
Dưới đây là các đoạn trích trong bức thư, sẽ cung cấp thêm thông tin về những gì đã xảy ra:
―Chúng tôi viết thư này để yêu cầu Tiểu ban của ông tổ chức một phiên điều trần càng sớm càng tốt, để điều tra về các cáo buộc nghiêm trọng do các nhà nghiên cứu AIDS trong Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ thực hiện. Chúng tôi đã nhận được bản ghi nhớ nội bộ chưa từng được công bố trước đây từ Bộ Quốc phòng, cáo buộc một kiểu thao túng dữ liệu có hệ thống, đã thống kê và phân tích dữ liệu theo
https://thuviensach.vn
cách không phù hợp, đồng thời công bố những dữ liệu sai lệch của các nhà nghiên cứu Quân đội, trong một nỗ lực rõ ràng nhằm quảng bá tính hữu ích của vaccine phòng bệnh AIDS GP160...‖
―Bị cáo buộc là các nghiên cứu giai đoạn I và giai đoạn II, trong đó những hành vi sai trái này được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Quân đội Walter Reed, do Trung tá Robert Redfield, MD, Trưởng phòng Nghiên cứu virus chỉ đạo. Kết quả từ những thử nghiệm này đã được báo cáo trên Tạp chí Y học New England vào tháng 6 năm 1991, tạp chí Nghiên cứu AIDS và Retrovirus ở người vào tháng 6 năm 1992 và Hội nghị AIDS Quốc tế
thường niên tại Amsterdam vào tháng 7 năm 1992. Ngoài ra, các kết luận phóng đại này đã được trình bày hai lần tại các phiên điều trần trước Tiểu ban của ông.‖
Cuộc họp được tổ chức vào ngày 23 tháng 10 năm 1992 để thảo luận về các cáo buộc của hai bác sĩ nghiên cứu trong Lực lượng Không quân về những hành vi sai trái trong khoa học của Tiến sĩ Redfield, một tiểu ban của Ủy ban Xem xét Thể chế tại Trung tâm Y tế Không quân Hoa Kỳ Wilford Hall, San Antonio, Texas. Đã đi đến kết luận sau:
―Ủy ban nhất trí rằng những thông tin do Tiến sĩ Redfield trình bày đã đe dọa nghiêm trọng đến uy tín của ông với tư cách là một nhà nghiên cứu, và có khả năng tác động tiêu cực đến việc tài trợ cho những nghiên cứu về AIDS của các cơ quan Quân sự nói chung. Những hành vi phi đạo đức của ông ta đã tạo ra một hy vọng sai lầm và có thể dẫn đến việc triển khai sớm vaccine...‖
https://thuviensach.vn
―Cuộc họp đó được coi là để xem xét bản ghi nhớ ngày 21 tháng 10 năm 1992 ... của Thiếu tá Craig W. Hendrix, MD, Giám đốc Chương trình nghiên cứu HIV trong Không quân, và Đại tá R. Neal Boswell, MD., Phó Chỉ huy trưởng của Bộ phận Y tế trong Không quân, cùng Đại tá Donald Burke, MD, Giám đốc Bộ phận Hồi sức học tại WRAIR và người giám sát trực tiếp của Tiến sĩ Redfield. Biên bản ghi nhớ đã chỉ trích ―Vấn đề trình bày dễ gây hiểu lầm, hoặc có thể là không trung thực của Tiến sĩ Redfleld, người đã phóng đại dữ liệu về GP160 [vaccine] trong giai đoạn I ...‖ và khuyến nghị nên thực hiện các hành động sau:
(1) Công khai việc sửa chữa lại hồ sơ với một phương tiện thích hợp và phổ biến rộng rãi cho các nhà khoa học đồng nghiệp trong các phòng thí nghiệm khác;
(2) Khiển trách Tiến sĩ Redfield về các hành vi sai trái trong khoa học mà ít nhất nên bao gồm tạm thời đình chỉ sự tham gia của ông ta vào các phác đồ điều trị miễn dịch hiện tại;
(3) Thực hiện một cuộc điều tra bởi một cơ quan điều tra độc lập bên ngoài ... để đánh giá chi tiết các tình tiết của vụ việc và đề xuất các hành động thích hợp.
―Các nhà khoa học cấp cao của Bộ Quốc phòng đã biết về những hành vi sai trái này ít nhất là từ tháng 10 năm 1992, và Tiến sĩ Redfield đã thừa nhận rằng, các báo cáo phân tích của ông đã không trung thực trong ít nhất là ba lần khi trình bày trước hội đồng thẩm định nội bộ của Bộ Quốc phòng (lần đầu tiên là vào ngày 28 tháng 8 năm 1992) ... ‖
https://thuviensach.vn
Vào thời điểm những sự kiện này diễn ra, có áp lực to lớn trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng AIDS, và Giám đốc Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia (NIAID) Anthony Fauci đã không ngừng thúc đẩy ý tưởng rằng vaccine sẽ là câu trả lời tốt nhất. Những phần thưởng tài chính to lớn sẽ
được trao cho các cá nhân hoặc những tập thể nào phát triển được một loại vaccine có hiệu quả, và thậm chí còn có khả năng giành được giải Nobel. Chính những điều này đã là động cơ để Redfield bùa phép trên những dữ liệu nghiên cứu của mình.
Ngay cả hãng truyền thông chính thống CNN cũng đã đưa tin về sự thất bại của nghiên cứu này, cũng như thực tế là các nhân viên y tế từng làm việc với Redfield đã báo cáo rằng ông ta thường xuyên thể hiện khả năng lãnh đạo tồi, có xu hướng bắt nạt và thường đặt mục tiêu chính trị lên trên dữ liệu.
Mặc dù có nhiều tai tiếng như vậy, nhưng Redfield vẫn không bị kỷ luật, thay vào đó, Redfield lại được trao thêm nhiều cơ hội hơn trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và còn được bố trí vào các vị trí lãnh đạo, tất cả những điều này đã mang lại cho ông ta thêm nhiều cơ hội hơn để tham gia vào cùng một hành vi sai trái, mà ông ta đã thể hiện nhiều lần trước đó.
Deborah Birx
Deborah Birx MD hiện đang được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyển dụng với tư cách là Điều phối viên AIDS Toàn cầu của Hoa Kỳ và là Đại diện Đặc biệt của Hoa Kỳ về Ngoại giao Y tế Toàn cầu.
Tiến sĩ Birx được Tiến sĩ Robert Redfield tuyển dụng vào năm 1988 để làm trợ lý nghiên cứu cho ông khi đang tiến hành nghiên cứu vaccine AIDS trong thời gian làm việc tại Quân đội. Vào thời điểm đó, các đồng nghiệp mô
https://thuviensach.vn
tả họ là một cặp đôi ăn ý, luôn làm việc cùng nhau khi thử nghiệm vaccine MicroGeneSys.
Khi Redfield bị cáo buộc làm sai lệch dữ liệu liên quan đến khả năng bảo vệ của vaccine, Birx chính là người đã bảo vệ ông ta, và đặt ra câu hỏi về động cơ của những người đã buộc tội ông ta.
Như trước đây, Redfield cũng như trợ lý của ông ta là Birx chưa bao giờ bị buộc tội có hành vi sai trái, mặc dù Quân đội đã kết luận ông ta đã vi phạm quy tắc của Quân đội do mối quan hệ của ông ta với Americans for Sound AIDS Policy (ASAP). Quân đội tuyên bố rằng ASAP đã nhận được những dữ liệu khoa học từ Walter Reed ―ở mức độ không phù hợp‖ và ASAP dường như là một phương tiện tiếp thị cho ―nghiên cứu của LTC Redfield.‖ Redfield cùng với Birx đồng thời cũng phục vụ trong ―Ban Cố vấn Khoa học‖ của ASAP.
Sau khi cả hai rời khỏi Quân đội, Redfield tiếp tục tiến hành nghiên cứu về bệnh AIDS, và viện nghiên cứu của ông tại Đại học Maryland là cơ quan thụ hưởng hàng triệu đô la tài trợ, được Birx, người điều hành Kế hoạch Cứu trợ Khẩn cấp (PEPFAR) của Tổng thống phê duyệt. Bà được bổ nhiệm bởi Tổng thống Barack Obama.
Bất chấp quá khứ đáng ngờ này, Birx vẫn được bổ nhiệm làm Điều phối viên Ứng phó với Coronavirus khi ―khủng hoảng‖ COVID-19 bắt đầu. Birx còn là thành viên trong hội đồng quản trị của Viện Đo lường và Đánh giá Y tế (IHME), nơi đã tạo ra một trong những mô hình dự đoán cực kỳ không chính xác, được sử dụng để đưa ra những quyết định ứng phó với COVID-19. Là một nhà quảng bá nhiệt tình cho mô hình dự đoán này, IHME đã nhận được sự tài trợ đáng kể từ Quỹ Bill and Melinda Gates.
https://thuviensach.vn
Birx cũng nằm trong hội đồng quản trị của Quỹ toàn cầu, cũng được tài trợ bởi Quỹ Bill and Melinda Gates. Quỹ này đã tài trợ cho Quỹ toàn cầu 750 triệu đô la vào năm 2012.
Theo tiểu sử của bà được đăng trên một trang web của chính phủ, Birx ―là người dẫn đầu một trong những thử nghiệm vaccine HIV có ảnh hưởng nhất trong lịch sử (được gọi là RV 144 hoặc thử nghiệm ở Thái Lan), cung cấp những bằng chứng hỗ trợ đầu tiên về khả năng hoạt động tiềm năng của bất kỳ loại vaccine nào trong việc ngăn ngừa lây nhiễm HIV.‖ Nhưng sau nhiều thập kỷ nghiên cứu và tiêu tốn hàng tỷ đô la, chúng ta vẫn chưa có được loại vaccine chủng ngừa HIV nào.
Anthony Fauci
Bề ngoài có vẻ như Tiến sĩ Anthony ―Tony‖ Fauci có một thành tích đáng nể. Ông là người đứng đầu Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia (NIAID), là một bộ phận của Viện Y tế Quốc gia (NIH). Ông được bổ nhiệm vào năm 1984 dưới thời chính quyền Reagan, và kể từ đó ông ta đã giữ
nguyên chức vụ này qua các nhiệm kỳ tổng thống. Ông đã được Tổng thống Trump bổ nhiệm làm thành viên của Lực lượng đặc nhiệm Coronavirus. Sơ yếu lý lịch của ông ấy thật ấn tượng. Tốt nghiệp với bằng hạng ưu tại Trường Y Cornell. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng và danh hiệu cao quý trong sự nghiệp của mình, bao gồm Giải thưởng của Chủ tịch Hiệp hội Phòng chống AIDS Quốc tế năm 2016 (19/07/2016). Năm 2019, ông được vinh danh là thành viên xuất sắc của Hiệp hội các nhà miễn dịch học Hoa Kỳ (22/03/2019), và được vinh danh 35 Năm Lãnh đạo trong Chính sách và Nghiên cứu về HIV bởi Hội đồng Chính sách Công của Hoa Kỳ về AIDS (10/02/2019).
https://thuviensach.vn
Bề ngoài của ông ấy nhìn có vẻ như là một người có hiểu biết và là một chuyên gia. Nhưng tất cả không phải đều giống như nó có vẻ. Fauci, giống như nhiều quan chức khác, tuy không được dân bầu chọn nhưng lại giữ được chức vụ của họ trong một thời gian dài đáng kể, đã kết bạn với nhiều chính trị
gia quan trọng, giám đốc điều hành của các công ty dược và những người có ảnh hưởng lớn như Bill Gates. Các quyết định của ông ta cho thấy sự không sẵn sàng thừa nhận rằng ông ta sai, cũng như xung đột lợi ích. Tuy nhiên, ông vẫn là một người có quyền lực hơn hầu hết những người được dân bầu chọn.
Một câu hỏi quan trọng cần được đặt ra là, ―Ông ta đã làm gì với quyền lực của mình?‖
Ngƣời hùng chống HIV hay kẻ phản diện?
Fauci đã bắt đầu sự nghiệp của mình tại Viện Y tế Quốc gia vào năm 1968, và cho đến năm 1977 trở thành phó giám đốc lâm sàng của NIAID. Ông chưa bao giờ hành nghề y, và không được biết đến như là một nhà khoa học hay một nhà nghiên cứu, và chưa bao giờ quản lý một cơ quan lớn. Tuy nhiên, ông ta lại có rất nhiều tham vọng và cuộc khủng hoảng HIV/AIDS đã mang đến một cơ hội tuyệt vời cho ông ấy.
Năm 1985, NIAID đã nhận được một khoản tài trợ nhỏ cho HIV/ AIDS, nhưng theo thời gian, số tiền này đã tăng lên đến hàng tỷ đô la, và chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng ngân sách của NIH. Giả thuyết của Fauci là, tất cả các trường hợp AIDS đều do HIV gây ra và cơ quan của ông nên tập trung vào việc hỗ trợ phát triển vaccine.
Thật không may cho ông ta, những dữ liệu không thuận lợi bắt đầu xuất hiện cho thấy rằng không phải tất cả những người bị AIDS đều bị nhiễm HIV. Khi đối mặt với thực tế là có tới 4.621 bệnh nhân AIDS được chẩn đoán
https://thuviensach.vn
lâm sàng là âm tính với HIV, Fauci cùng với CDC, đã đổi tên những trường hợp này thành ―giảm bạch cầu CD-4 tự phát (ICL)‖.
Fauci cũng chọn cách phớt lờ thực tế HIV/AIDS không có cùng những đặc điểm chung của các bệnh truyền nhiễm, là không phân biệt dựa trên giới tính. Điều này cũng đúng với tất cả các bệnh truyền nhiễm đã được biết bao gồm cúm, bại liệt, viêm gan, lao và viêm phổi. Mặt khác, AIDS thường phát triển ở một số nhóm nguy cơ cao như những người sử dụng ma túy qua đường tĩnh mạch, những người đồng tính nam sử dụng các loại thuốc kích thích. Bệnh xảy ra ở đàn ông nhiều gấp mười lần phụ nữ và nó ưa thích đồng tính nam hơn đàn ông bình thường.
Các bệnh truyền nhiễm thường lây lan theo cấp số nhân, nhưng AIDS lại không đi theo quỹ đạo này. Nó tăng đều đặn từ vài chục ca vào năm 1981 lên đến hơn 80.000 ca vào năm 1994. Nó không bùng phát và lây lan rộng rãi, nhưng cũng không suy giảm, điển hình là ngay cả khi quần thể đó đã có được miễn dịch cộng đồng.
Nói cách khác, Fauci vẫn không thay đổi suy nghĩ và sự tập trung của ông ta hoặc các hoạt động của cơ quan ông ta, khi nhìn thấy một lượng bằng chứng đang ngày càng tăng cho thấy giả thuyết của ông ta là không chính xác. Nhưng những điều đó chưa phải là tất cả.
AZT là tên viết tắt của azidothymidine, một loại thuốc ban đầu được phát triển để điều trị ung thư. Loại thuốc này không chỉ không có tác dụng điều trị ung thư, và những con chuột thí nghiệm được điều trị bằng loại thuốc này đã chết vì độc tính của nó. Loại thuốc này chưa bao giờ được cấp bằng sáng chế cho đến khi công ty sở hữu nó, Burroughs-Wellcome, đề xuất sử dụng nó để điều trị cho bệnh nhân AIDS dựa trên khả năng ngăn chặn virus HIV nhân lên trong ống nghiệm.
https://thuviensach.vn
Các nhà điều hành tại Burroughs ngay lập tức đã vận động FDA cho phép thử nghiệm lâm sàng. Trong khi các thử nghiệm lâm sàng được cho là mù đôi và giả dược có kiểm soát, nhưng mọi người đều đã sớm biết bệnh nhân nào đang dùng AZT do tác dụng phụ khủng khiếp của thuốc. Nhưng dù sao thì FDA cũng đã chấp thuận dùng AZT để điều trị cho bệnh nhân AIDS, một phần là do áp lực của dư luận trong việc tìm ra phương pháp chữa trị.
Ngay cả với những tác dụng phụ đã được biết của thuốc, NIAID, dưới sự chỉ đạo của Fauci, đã quyết định cho tiến hành thử nghiệm lâm sàng AZT qua đường tĩnh mạch trên những bà mẹ nghiện ma túy đang mang thai và bị nhiễm HIV. Thử nghiệm kết thúc sớm khi Fauci và các cộng sự của ông thông báo rằng, với điều trị bằng AZT, họ đã giảm được 2/3 sự lây truyền HIV - từ 25% xuống còn 8%. Dữ liệu cho thấy 13 trong số 180 trẻ sinh ra từ
các bà mẹ được điều trị bằng AZT dương tính với HIV, so với 40 trong số 184 trẻ sinh ra từ các bà mẹ được điều trị bằng giả dược.
Fauci dường như phớt lờ với thực tế rằng trong nhóm dùng giả dược, hầu hết trẻ sinh ra đều không dương tính với HIV, và để cứu 27 trẻ sơ sinh, 180 bà mẹ và 153 thai nhi đã được cho dùng một loại thuốc độc hại có những tác dụng phụ đáng kể. Việc chấm dứt sớm thử nghiệm lâm sàng có nghĩa là việc điều trị bằng AZT cho các bà mẹ đang mang thai có HIV dương tính, sẽ trở thành một tiêu chuẩn chăm sóc mà không cần theo dõi lâu dài đối với bà mẹ hoặc trẻ sơ sinh. Lúc này Fauci đã biết rằng HIV không phải là nguyên nhân gây ra bệnh AIDS, điều này càng khiến cho việc quảng bá phương pháp điều trị này trở nên bất cẩn hơn.
Năm 2008, sau khi tiêu tốn hàng tỷ đô la cho nghiên cứu vaccine HIV và cho phép một thử nghiệm lâm sàng đáng ngờ trên phụ nữ đang mang thai, Fauci thừa nhận rằng có rất ít người biết rõ về HIV. Ông cho biết, trong số
https://thuviensach.vn
hàng chục triệu người đã nhiễm HIV, không có một trường hợp nào được ghi nhận về một người đã bị nhiễm và sau đó không còn virus. Theo Fauci, điều này có nghĩa là ―… chúng tôi thậm chí không biết liệu cơ thể có khả năng tạo ra phản ứng miễn dịch bảo vệ hay không.‖ Ông cũng thừa nhận rằng có nhiều người được gọi là ―long-term non-progressors‖ (những người đã bị nhiễm HIV, nhưng họ lại duy trì được số lượng CD4 lớn hơn 500 mà không cần điều trị bằng thuốc kháng virus, với tải lượng virus có thể phát hiện được, bằng cách nào đó họ vẫn có thể sống lâu dài với virus)
Bất chấp sự kém cỏi của mình, Fauci vẫn tiếp tục đứng đầu NIAID. Và thật không may cho người dân Hoa Kỳ, ông ta lại được coi là người tốt nhất để chỉ huy nhóm phản ứng khi đại dịch COVID-19 bắt đầu.
Thấy rõ một khuôn mẫu
Fauci, Birx và Redfield đều có một số đặc điểm chung. Một khi họ nắm bắt được một ý tưởng, không có gì có thể ngăn cản họ tiếp tục theo đuổi nó, kể cả những bằng chứng cho thấy ý tưởng đó không còn khả thi nữa. Cả ba dường như đang bị thử thách về mặt đạo đức. Và tất cả chúng dường như kết thúc ở cùng một nơi, vào cùng một thời điểm - một lần nữa, và một lần nữa.
https://thuviensach.vn
ÂM MƢU VACCINE VÀ SỨC KHỎE TOÀN CẦU
Trong những năm gần đây, một vài cá nhân và các công ty trong quá trình thành lập các quỹ của mình, cuối cùng đã hợp tác với các tổ chức Quốc tế, và cùng với nhau lại thành lập thêm nhiều tổ chức Quốc tế hơn nữa. Các tổ chức này có nhiều mục tiêu giống nhau, nhận tài trợ từ cùng một tổ chức và lại tách ra thành nhiều nhóm cá nhân và công ty giống nhau. Những tổ chức này đã tạo ra ảo tưởng rằng có một ―sự đồng thuận toàn cầu‖ liên quan đến các chính sách, thực hành chăm sóc sức khỏe và đặc biệt là vaccine. Thực tế là chỉ có một số lượng khá nhỏ các cá nhân và công ty dược đã giành được quyền kiểm soát đối với việc chăm sóc sức khỏe, vốn là một phần quan trọng trong cuộc sống của toàn bộ mọi người trên thế giới. Và trong khi những người này đã cố gắng che giấu những mối quan hệ giữa họ, họ lại khá rõ ràng về mục tiêu cuối cùng của họ: tiêm vaccine bắt buộc cho tất cả mọi người trên thế giới. Họ cho rằng cần phải tiêm vaccine cho tất cả mọi người, và coi điều này như là một điều kiện cho các quyền tự do mà chúng ta hiện đang coi là đương nhiên. Tự do di chuyển, đi lại, làm việc, mua sắm và tụ họp với những người khác.
Một số tổ chức, chẳng hạn như Quỹ Rockefeller, đã được thành lập cách đây rất lâu và có lịch sử lâu đời tham gia vào các hoạt động đáng ngờ. Những Quỹ khác được thành lập gần đây hơn và những người mới thường được bắt đầu bởi những người và nhóm giống nhau. Một số ít đã tham gia vào các hoạt động dường như cho thấy rằng, đại dịch COVID-19 đã được lên kế hoạch từ trước hoặc ít nhất đã được dự tính trong một thời gian dài.
Sức khỏe toàn cầu và âm mưu vaccine là một ma trận cực kỳ phức tạp của các tổ chức. Chúng tôi đã vật lộn với việc làm thế nào để trình bày những thông tin rất quan trọng này một cách mạch lạc và quyết định rằng, tốt nhất là
https://thuviensach.vn
chỉ nên liệt kê chúng và chỉ cho mọi người thấy cách những người giống nhau xuất hiện trở lại, với cùng một tổ chức tài trợ chính - Quỹ Bill and Melinda Gates.
Lịch sử đầy mê hoặc của Quỹ Rockefeller
Thoạt nhìn, Rockefeller Foundation có vẻ như là một tổ chức nhân đạo được tạo ra bởi một trong những gia đình giàu có nhất Hoa Kỳ. Thật không may, kể từ khi thành lập vào năm 1913, quỹ này đã tham gia và tài trợ cho một loạt các dự án cho thấy một chương trình nghị sự độc ác hơn nhiều.
John D. Rockefeller đã thành lập quỹ với tên của mình ―để thúc đẩy hạnh phúc cho con người trên toàn thế giới.‖ Quỹ này đã tham gia phong trào ―từ thiện xã hội‖ tại Hoa Kỳ do Andrew Carnegie phát động nhằm sử dụng sự giàu có để hỗ trợ ―… cải thiện xã hội… trật tự, năng suất và sự thăng tiến trong đời sống‖. Ngoài sự tập trung vào sức khỏe cộng đồng, quỹ còn tham gia vào các hoạt động chính trị bao gồm tác động đến các chính phủ nước ngoài và cách họ phản ứng với công dân của mình, mở rộng thị trường tiêu dùng và thúc đẩy Quốc tế hóa khoa học và văn hóa.
Ảnh hưởng của quỹ này đã dẫn đến một số hoạt động được mô tả là ―sự bất đối xứng rõ rệt trong quyền lực y tế chính trị‖. Chúng bao gồm thiết lập các chương trình nghị sự từ trên xuống, sử dụng động cơ tài chính để tác động đến kết quả, hướng tới sự đồng thuận Quốc tế thay vì ra quyết định mang tính địa phương, và hỗ trợ các thực hành y tế xã hội được tích hợp với các tham vọng và kết quả chính trị.
Mặc dù một số hoạt động được mô tả ở trên có thể gây lo ngại cho một số người, nhưng với các dự án nền tảng khác, điều này hoàn toàn đáng báo động. Vào đầu những năm 1900, Quỹ Rockefeller cùng với nhiều cá nhân và
https://thuviensach.vn
nhóm người giàu có khác, đã tài trợ cho nghiên cứu về thuyết ưu sinh, một hoạt động bắt nguồn từ Frances Galton, là anh họ của Darwin. Năm 1904, Galton đã viết một bài báo với chủ đề Eugenics: Its Definition, Scope and Aims, trong đó phác thảo cách Hoa Kỳ có thể cải thiện dân số của mình thông qua việc lựa chọn những người có những đặc điểm nhất định như ―sức khỏe, thể chất, khả năng, nam tính và cư xử lịch sự‖. Ông định nghĩa thuyết ưu sinh là ―khoa học sẽ giải quyết tất cả những yếu tố ảnh hưởng đến phẩm chất bẩm sinh của một chủng tộc.‖ Ông tuyên bố trong bài báo của mình rằng ―hầu hết các chủng tộc man rợ‖ đều biến mất khi tiếp xúc với nền văn minh, nhưng ―một số, như người da đen, thì không.‖ Ông nói, đây là một lập luận vì đã mang lại ―càng nhiều ảnh hưởng càng tốt, để khiến cho các tầng lớp hữu ích trong cộng đồng đóng góp sự ưu tú của họ với tỷ lệ nhiều hơn cho những thế hệ sau‖.
John D. Rockefeller đã quan tâm đến thuyết ưu sinh, đặc biệt là kiểm soát dân số. Ông gia nhập Hiệp hội Ưu sinh Hoa Kỳ, và là người được ủy thác của Cục Vệ sinh xã hội. Trong quan hệ thư từ với Charles Davenport, Giám đốc Hồ sơ Ưu sinh, Rockefeller đã đề nghị rằng, một số phụ nữ nên bị
giam giữ lâu hơn mức án thực tế của họ để họ ―… không tiếp tục quan hệ với đồng loại… cho đến khi thời kỳ mang thai đã qua đi.‖
Ngay từ đầu, Rockefeller đã muốn quảng bá thuyết ưu sinh trên toàn thế giới, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi quỹ này quyết định hỗ trợ cho nghiên cứu về thuyết ưu sinh ở Đức. Người Đức đã quan tâm đến thuyết ưu sinh từ trước khi Hitler lên nắm quyền, và người đóng góp lớn nhất cho các chương trình ưu sinh ở Đức là Quỹ Rockefeller. Đến năm 1926, quỹ đã tài trợ
https://thuviensach.vn
410.000 đô la (tương đương với 4 triệu đô la ngày nay) - cho hàng trăm nhà nghiên cứu ưu sinh ở Đức.
Một trong những khoản tài trợ lớn của quỹ, 250.000 đô la đã được trao cho Viện Nghiên cứu Tâm thần Đức, nơi nghiên cứu về các vấn đề như mối quan hệ giữa chủng tộc và bệnh tâm thần. Các nhà nghiên cứu ―tập trung vào việc xác định cơ sở di truyền và thần kinh của các đặc điểm như, khuynh hướng tội phạm và bệnh tâm thần‖ và mối quan hệ giữa chậm phát triển trí tuệ và chủng tộc. Việc tài trợ tiếp tục kéo dài ít nhất hai năm sau khi Hitler và Đức Quốc xã lên nắm quyền. Ernst Rudin, người đứng đầu Viện này đã hỗ trợ rất nhiều cho các chính sách phân biệt chủng tộc của Hitler.
Năm 1932, Eugen Fischer, người đứng đầu Viện Kaiser Wilhelm về Nhân chủng học, Di truyền con người và Ưu sinh (KWIA) và là kiến trúc sư của Dự án Bản đồ Đức, đã tìm kiếm nguồn tài trợ từ Quỹ Rockefeller để nghiên cứu sự khác biệt giữa người Do Thái Đức và người Đức thuần chủng, và để xác định các hành vi giao phối giữa các loài. Ngoài ra, KWIA cũng đã tiến hành nghiên cứu trên các cặp song sinh. Một trong những dự án của Fischer liên quan đến việc tiêm các chất như chì và thủy ngân cho các cặp song sinh, để xác định tác động của chúng đến trẻ em và thế hệ tương lai. Họ đã xác định rằng, các cặp song sinh giống hệt nhau sẽ có phản ứng giống nhau hơn, so với các cặp song sinh cùng trứng.
Quỹ Rockefeller (RF) bắt đầu tài trợ cho các chương trình tiêm chủng trẻ em vào năm 1984, sau khi tài trợ cho một cuộc họp quốc tế tại trung tâm hội nghị của Quỹ Rockefeller ở Bellagio, Ý. Tổ chức Y tế Thế giới đã thành lập Chương trình Tiêm chủng mở rộng (EPI) vào năm 1980, và sau cuộc họp ở Bellagio, hàng trăm triệu đô la đã được tài trợ cho EPI.
https://thuviensach.vn
Sáng kiến Vaccine cho Trẻ em (CVI) được bắt đầu vào năm 1990 và là sự hợp tác giữa Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Ngân hàng Thế giới và Quỹ Rockefeller (RF) đã tài trợ 2,5 triệu đô la cho CVI.
Mối liên hệ giữa Rockefeller Foundation và COVID-19 có thể đã bắt đầu vào năm 2010, khi tổ chức này đã cho xuất bản một báo cáo hợp tác với Mạng Doanh nghiệp Toàn cầu (GBN) có tiêu đề ―Các kịch bản cho tương lai của Công nghệ và Phát triển Quốc tế‖. Chủ tịch GBN và đồng tác giả của báo cáo Peter Schwartz đã mô tả dự án là ―đầy tham vọng‖ và nói rằng ―Quỹ (Rockefeller) đã mở rộng tư duy của mình vượt xa các mô hình lý thuyết về đổi mới công nghệ và cách sử dụng, để hình dung cách công nghệ thực sự có thể
thay đổi cuộc sống của mọi người thuộc nhiều tầng lớp xã hội.‖ Judith Rodin, chủ tịch quỹ và đồng tác giả của báo cáo cho biết, ―Tôi hy vọng ấn phẩm này nói rõ lý do tại sao tôi và các đồng nghiệp của tôi rất hào hứng với lời hứa sử dụng kế hoạch kịch bản để phát triển các chiến lược mạnh mẽ và có một quan điểm mới mẻ về những khả năng còn ở phía trước.‖
Sự hợp tác này đã sử dụng ―kế hoạch kịch bản‖ để xem xét các phản ứng có thể xảy ra đối với các tình huống giả định, bao gồm cả đại dịch. Các tác giả lưu ý rằng, các tình huống được mô tả trong báo cáo được thiết kế để ―đáng tin cậy‖ nhằm khám phá tương lai sẽ như thế nào. Các điểm được đề cập bao gồm:
∙ Dòng thời gian của các tiêu đề và sự kiện khi chúng mở ra. ∙ Mô tả về công nghệ có thể được sử dụng.
∙ Thảo luận về vai trò của các tổ chức từ thiện và cách họ có thể đóng góp. ∙ Một ―ngày trong đời‖ của một người đang sống trong kịch bản.
https://thuviensach.vn
Kịch bản đầu tiên có tiêu đề ―LOCK STEP; một thế giới có sự kiểm soát chặt chẽ hơn của chính phủ từ trên xuống và sự lãnh đạo độc đoán hơn với sự đổi mới, và sự phản đối ngày càng tăng của người dân.‖ Nó mô phỏng một đại dịch xảy ra vào năm 2012 là rất nguy hiểm và chết người. Ngay cả những quốc gia được chuẩn bị tốt cũng nhanh chóng bị nhấn chìm và 20% dân số bị nhiễm bệnh. Báo cáo bao gồm các tuyên bố sau:
―Đại dịch cũng có một tác động cực lớn đối với các nền kinh tế: sự di chuyển quốc tế của cả con người và hàng hóa bị đình trệ, làm suy yếu các ngành như du lịch và phá vỡ chuỗi cung ứng toàn cầu. Ngay cả ở các địa phương, các tòa nhà văn phòng và các cửa hàng bình thường vốn nhộn nhịp sẽ không có một bóng người trong nhiều tháng, không có cả nhân viên lẫn khách hàng.‖
―Chính sách ban đầu của Hoa Kỳ chỉ là ―không khuyến khích‖ công dân đi máy bay lại là một lỗ hổng gây chết người, làm tăng tốc độ lây lan của virus không chỉ ở trong Hoa Kỳ mà còn xuyên biên giới. Tuy nhiên, ở một số quốc gia khác - đặc biệt là Trung Quốc. Việc chính phủ Trung Quốc nhanh chóng áp đặt và thực thi các biện pháp cách ly bắt buộc đối với tất cả công dân, cũng như phong tỏa tức thời và gần như ở tất cả các cửa ngõ biên giới, đã cứu sống được hàng triệu người, họ đã ngăn chặn được sự lây lan của virus sớm hơn nhiều so với các quốc gia khác và tạo điều kiện cho sự phục hồi nhanh hơn sau đại dịch.‖
―Trong thời kỳ đại dịch, các nhà lãnh đạo quốc gia trên khắp thế giới đã linh hoạt sử dụng quyền lực của mình để áp đặt các quy tắc và hạn chế, từ việc bắt buộc phải đeo khẩu trang đến kiểm tra
https://thuviensach.vn
nhiệt độ cơ thể, khi ra vào các nơi công cộng như ga tàu và siêu thị. Ngay cả sau khi đại dịch không còn, sự kiểm soát và giám sát sẽ độc đoán hơn đối với công dân và các hoạt động của họ vẫn bị hạn chế và thậm chí còn tăng cường thêm. Để tự bảo vệ mình khỏi sự lây lan của các vấn đề toàn cầu đang ngày càng gia tăng — từ đại dịch và khủng bố xuyên quốc gia đến khủng hoảng môi trường và nghèo đói gia tăng — các nhà lãnh đạo trên khắp thế giới đã nắm chắc quyền lực của họ hơn‖.
―Lúc đầu, khái niệm về một thế giới được kiểm soát nhiều hơn đã nhận được sự đồng tình và tán thành rộng rãi. Các công dân sẵn sàng từ bỏ một số chủ quyền và quyền riêng tư của họ, đổi sang một nhà nước theo chủ nghĩa độc tài hơn để đổi lấy sự an toàn hơn
và sự ổn định. Người dân đã khoan dung hơn, và thậm chí háo hức đối với sự chỉ đạo và giám sát từ trên xuống, và các nhà lãnh đạo quốc gia sẽ có nhiều khả năng hơn để áp đặt trật tự theo những cách mà họ thấy phù hợp. Ở các nước phát triển, sự giám sát ngày càng cao này diễn ra dưới nhiều hình thức: chẳng hạn như ID sinh trắc học cho tất cả công dân, và quy định chặt chẽ hơn đối với các ngành công nghiệp then chốt mà sự ổn định được coi là quan trọng đối với lợi ích quốc gia. Ở nhiều nước phát triển, việc thực thi và hợp tác với một loạt các quy định và thỏa thuận mới được thực hiện một cách chậm rãi nhưng ổn định, và quan trọng nhất vẫn là tăng trưởng kinh tế‖.
―Đến năm 2025, mọi người dường như ngày càng mệt mỏi với quá nhiều sự kiểm soát từ trên xuống khi để các nhà lãnh đạo và
https://thuviensach.vn
chính quyền đưa ra lựa chọn cho họ. Bất cứ nơi nào lợi ích quốc gia xung đột với lợi ích cá nhân đều có xung đột. Sự phản kháng lẻ tẻ đã ngày càng trở nên có tổ chức và có sự phối hợp, phần lớn xảy ra ở các nước đang phát triển khi mà thanh niên và những người đã thấy địa vị và cơ hội của họ bị mất đi - đã kích động bất ổn dân sự. Năm 2026, những người biểu tình ở Nigeria đã hạ bệ chính phủ, vì quá chán ngấy chủ nghĩa thân hữu cố hữu và nạn tham nhũng. Ngay cả những người thích sự ổn định và có khả năng chịu đựng cao hơn
cũng bắt đầu cảm thấy khó chịu, vì bị ràng buộc bởi quá nhiều luật lệ chặt chẽ và bởi sự nghiêm ngặt của ranh giới quốc gia. Cảm giác khó chịu kéo dài này rằng sớm hay muộn, thì một điều gì đó chắc chắn sẽ làm đảo lộn trật tự gọn gàng mà các chính phủ trên thế giới đã phải tốn rất nhiều công sức để thiết lập.‖
Công nghệ trong Lockstep phần lớn được thúc đẩy bởi chính phủ và tập trung vào các vấn đề an ninh quốc gia, sức khỏe và an toàn: Máy quét sử dụng công nghệ chụp cộng hưởng từ đa chức năng (fMRI) sẽ trở thành quy chuẩn tại các sân bay và các khu vực công cộng, để phát hiện các hành vi bất thường có thể cho thấy ―ý định chống đối xã hội‖.
Các phương pháp chẩn đoán mới được phát triển để phát hiện các bệnh truyền nhiễm. Việc áp dụng khám sức khỏe cũng thay đổi; sàng lọc trở thành điều kiện tiên quyết để được rời khỏi nhà tù hoặc bệnh viện, thành công làm chậm sự lây lan của nhiều loại bệnh truyền nhiễm.
Vai trò của từ thiện trong Lockstep:
https://thuviensach.vn
Các mối quan hệ của người nhận tài trợ từ thiện và xã hội
dân sự sẽ được chính phủ kiểm soát mạnh mẽ, và một số tổ chức có thể chọn cách thích ứng chặt chẽ hơn với các Chiến lược hỗ trợ phát triển quốc gia (ODA) và các mục tiêu của chính phủ.
Các tổ chức từ thiện quan tâm tới việc thúc đẩy các quyền
công dân và sự tự do sẽ bị chặn ở biên giới của nhiều quốc gia. Phát triển các mối quan hệ thông minh, linh hoạt và rộng rãi trong thế giới này sẽ là chìa khóa; một số nhà từ thiện có thể chọn chỉ hoạt động ở những nơi mà tiêu chí hoạt động của
họ không gặp phải sự cấm đoán.
Chúng ta có thể kết luận rằng, các tác giả của tài liệu giả lập này có siêu năng lực thật đáng kinh ngạc, hoặc tài liệu này đang được sử dụng trên toàn thế giới ngày nay như là một cuốn cẩm nang để ra quyết định.
Tài liệu này không được đăng trên trang web của Quỹ Rockefeller, và công trình này không còn được tham chiếu trong các báo cáo hàng năm của tổ chức này. Cũng không có thông tin trên trang web về thuyết ưu sinh và sự hợp tác với Đức Quốc xã. Điều này dường như cho thấy rằng, những người trong tổ chức biết rằng một số các hoạt động và ý tưởng của tổ chức có thể không được một số thành viên và công chúng tán thành.
Chúng ta có thể tìm thấy trên mạng trực tuyến nhiều cuộc phỏng vấn khác nhau, trong đó đồng tác giả Peter Schwartz đã thảo luận về giá trị của việc lập ―kế hoạch kịch bản‖; bản tin tức về báo cáo này; và nó đã được đăng trên Goodreads vào ngày 17 tháng 5 năm 2020. Chúng tôi cảm thấy chắc chắn rằng tài liệu này là hợp lệ.
https://thuviensach.vn
Đế chế vaccine Byzantine của Quỹ Bill and Melinda Gates Bill và Melinda Gates và quỹ cùng tên của họ là những người quảng bá và ủng hộ nhiệt thành cho vaccine. Trong bức thư thường niên vào năm 2011, Bill Gates đã viết, ―Giống như cách mà tôi đã nói về sự kỳ diệu của phần mềm Windows trong suốt thời gian làm việc tại Microsoft, giờ đây tôi sẽ dành thời gian để nói về sự kỳ diệu của vaccine‖. Một mục tiêu của Quỹ Bill and Melinda Gates (BMGF) là đẩy nhanh ―sự phát triển và thương mại hóa các loại vaccine mới và sản xuất bền vững các loại vaccine hiện có‖. Để đạt được mục tiêu đó, Quỹ đã đầu tư vào ―chuyên môn và các công nghệ nền tảng, để giúp chúng tôi sản xuất vaccine nhanh hơn, tốt hơn và rẻ hơn‖. Thật vậy, BMGF đã đầu tư hàng tỷ đô la cho nghiên cứu vaccine và quảng bá vaccine. Quỹ này cùng với một số đối tác khác, bao gồm Quỹ Rockefeller, WHO, Ngân hàng Thế giới và UNICEF, đã thành lập Liên minh Toàn cầu về Vaccine và Tiêm chủng (GAVI) vào năm 2000. Ban đầu Quỹ này đã cung cấp 750 triệu đô la cho GAVI, và cho đến nay đã cung cấp tổng cộng 4,1 tỷ đô la. Cùng với chính phủ Hoa Kỳ, Quỹ Rockefeller vẫn tiếp tục tài trợ cho GAVI, cho đến năm 2019 quỹ này đã tài trợ 2,5 tỷ đô la trong số gần 19 tỷ đô la mà GAVI đã nhận được.
GAVI tự mô tả mình là một quan hệ đối tác công/tư và tuyên bố rằng nó ―… đại diện cho tổng thể các điểm mạnh của từng đối tác, từ chuyên môn khoa học của WHO và hệ thống kiểm soát của UNICEF cùng với bí quyết tài chính của Ngân hàng thế giới và kiến thức thị trường trong ngành vaccine.‖ (nhấn mạnh của chúng tôi).
Liên đoàn các nhà sản xuất và liên kết dược phẩm quốc tế (IFPMA) có một ghế trong Hội đồng quản trị Gavi. IFPMA đại diện cho hơn 55 thành
https://thuviensach.vn
viên bao gồm các nhà sản xuất vaccine Johnson and Johnson, GlaxoSmithKline, Merck & Co., Novartis, Sanofi Pasteur, và bộ phận vaccine của Sanofi-Aventis và Pfizer. GAVI cũng liệt kê các đối tác của mình là WHO, Ngân hàng Thế giới, UNICEF, Chính phủ các nước tài trợ và Chính phủ các nước đang phát triển và công nghiệp hóa sẽ là những nước sẽ nhận được vaccine.
Năm 2010, khi tham dự Hội nghị thường niên Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Bill và Melinda Gates đã tham gia cùng Julian Mob-Levyt, Giám đốc điều hành của Liên minh GAVI và cùng nhau tuyên bố Quỹ tài trợ 10 tỷ đô la cho nghiên cứu vaccine. Bill nói, ―Chúng ta phải biến thập kỷ này trở thành thời kỳ của vaccine‖ và Melinda nói ―Vaccine là một điều kỳ diệu…‖ Các chính phủ đã nhiệt tình tham gia và 194 quốc gia thành viên đã tán thành Kế hoạch Hành động Tiêm chủng Toàn cầu (GVAP) tại cuộc họp của Đại hội đồng Y tế Thế giới.
Quỹ Toàn cầu Phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét được thành lập vào năm 2002 để gây quỹ và đầu tư vào các giải pháp điều trị cho bệnh truyền nhiễm có trụ sở tại Geneva Thụy Sĩ. Một số chính phủ bao gồm cả Hoa Kỳ đã đóng góp cho quỹ này, và nhà tài trợ khu vực tư nhân lớn nhất là BMGF, cho đến nay đã tài trợ tổng cộng 2,24 tỷ đô la. Các nhà đầu tư khác bao gồm Quỹ Rockefeller và Takeda Pharmaceutical.
Vào năm 2019, hội nghị bổ sung lần thứ sáu của Quỹ Toàn cầu tại Lyon Pháp đã huy động được hơn một tỷ đô la, trong đó 760 triệu đô la được tài trợ bởi BMGF. Tại cuộc họp này, người ta đã thông báo rằng số tiền này sẽ được sử dụng để phát triển một loại vaccine phòng bệnh lao một bộ phận
https://thuviensach.vn
cấy ghép có kích thước bằng que diêm có thể được đưa vào dưới da để bảo vệ một cá nhân khỏi virus HIV trong một năm.
Deborah Birx nằm trong hội đồng quản trị của Quỹ toàn cầu, và như đã lưu ý trước đây, đã được bổ nhiệm làm Điều phối viên Ứng phó với Coronavirus của Nhà Trắng khi đại dịch bắt đầu.
Năm 2012, WHO, UNICEF, Viện Quốc gia về Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm (NIAID, với Tiến sĩ Fauci là Giám đốc) và BMGF đã công bố sự hợp tác với 194 quốc gia thành viên được gọi là Kế hoạch Hành động Vaccine Toàn cầu (GVAP). Các thành viên hội đồng quản trị bao gồm: ∙ Tiến sĩ Anthony Fauci, Giám đốc NIAID
∙ Tiến sĩ Margaret Chan, Tổng giám đốc của WHO, người bị phát hiện có tội trong việc thúc đẩy một đại dịch giả vào năm 2009-2010 ∙ Tiến sĩ Tachi Yamada, Chủ tịch Y tế Toàn cầu của Quỹ Bill và Melinda Gates
Thành viên Ban chỉ đạo bao gồm:
∙ Tiến sĩ Nicole Bates, Chuyên gia Cao cấp về Chính sách Y tế Toàn cầu & Vận động chính sách của BMGF và Helen Evans, Quyền Giám đốc điều hành Liên minh GAVI
∙ Tiến sĩ Lee Hall, Giám đốc Chi nhánh Ký sinh trùng và Chương trình Quốc tế, Phòng Vi sinh và Bệnh truyền nhiễm, NIAID
Nhóm tƣ vấn chiến lƣợc gồm các chuyên gia về tiêm chủng (SAGE) Nhóm công tác về vaccine được thành lập bởi WHO để xem xét Kế hoạch Hành động Toàn cầu của Thập kỷ Vaccine (GVAP) và đánh giá tiến độ. Các thành viên thư ký của nhóm này bao gồm:
∙ Magdalena Robert từ BMGF
https://thuviensach.vn
∙ Hope Johnson từ Liên minh GAVI Lee Hall từ NIAID
∙ Robin Nandy từ UNICEF
∙ Joachin Hombach từ WHO
Vào tháng 10 năm 2014, Frances Collins, giám đốc Viện Y tế Quốc gia, đã công bố “Giai đoạn hợp tác mới giữa NIH và BMGF.” Mục đích của sự hợp tác này, là kết quả của một cuộc họp lập kế hoạch giữa hai tổ chức là để quảng bá, một trong số những thứ khác, vaccine.
NIH và BMGF bắt đầu mối quan hệ của họ khi Grand Challenges in Global Health được thành lập, được tài trợ một phần bởi BMGF, và The Foundation for the National Institutes of Health. Grand Challenges đã bắt đầu bằng cách tập trung vào 14 thách thức lớn, nếu giải quyết được, có thể
cải thiện sức khỏe ở các nước đang phát triển, sáu trong số đó có liên quan đến vaccine. Đến năm 2014, Quỹ đã tài trợ cho Grand Challenges một tỷ đô la, và vào năm 2019, chín trong số 25 khoản tài trợ được dành cho các dự án liên quan đến vaccine.
Các thành viên của hội đồng khoa học của Grand Challenges tại thời điểm thành lập bao gồm
∙ Richard Klausner, BMGF
∙ Sir Roy Anderson từ Đại học Hoàng gia London - đã từng là cố vấn cho WHO, BMGF, và là người đứng đẩu của Wellcome Trust (hỗ trợ phát triển và phân phối vaccine).
∙ Christine M. Debouck, Dược phẩm GlaxoSmithKline
∙ Anthony S. Fauci, Viện Quốc gia về Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm, NIH
∙ William H. Foege, BMGF
https://thuviensach.vn
∙ Yiming Shao, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Trung Quốc
Foundation for the National Institutes of Health (FNIH) tạo ra các mối quan hệ đối tác công tư để chống lại dịch bệnh ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới, tài trợ cho nghiên cứu, tài trợ cho các sự kiện giáo dục và hội nghị chuyên đề, và đào tạo các nhà nghiên cứu. Các nhà tài trợ chính bao gồm nhiều công ty dược phẩm và BMGF. Trong năm 2017, hàng chục triệu đô la đã được tài trợ bởi các công ty dược phẩm và BMGF.
Vào tháng 4 năm 2020, NIH đã công bố mối quan hệ đối tác công tư có tên là Accelerating COVID-19 Liệu pháp Can thiệp và Vaccine. Sự hợp tác bao gồm 16 công ty dược phẩm và sẽ được điều phối và chỉ đạo bởi FNIH.
Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia là một chi nhánh của Viện Y tế Quốc gia, và Anthony Fauci là giám đốc từ năm 1984. Trung tâm Nghiên cứu Vaccine tiến hành nghiên cứu và hỗ trợ phát triển vaccine và đã nhận được tài trợ từ BMGF.
Vào năm 2015, các nhà lãnh đạo thế giới đã đồng ý với một Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) liên quan đến vaccine. Trong một bài báo đăng trên tờ Lancet, một nhóm những người ủng hộ nhiệt tình cho vaccine đã viết, ―cộng đồng y tế toàn cầu phải tiếp tục làm việc để cung cấp tất cả các loại vaccine được WHO khuyến nghị cho từng trẻ em, bằng cách tăng cường tiêm chủng và mở rộng tiêm chủng đầy đủ cho khoảng 19 triệu trẻ em, những người vẫn chưa được bảo vệ đầy đủ trước một loạt các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vaccine.‖
Họ cũng viết, ―Mặc dù các Chính phủ sẽ là nhà cung cấp dịch vụ tiêm chủng chính, nhưng sự thành công của GVAP cần phụ thuộc vào nhiều bên
https://thuviensach.vn
liên quan - gia đình, cộng đồng, chuyên gia y tế, xã hội dân sự, đối tác phát triển, các hiệp ước toàn cầu, nhà sản xuất, truyền thông và khu vực tư nhân.‖ Bài báo được viết bởi Margaret Chan, lúc đó đang là Tổng giám đốc WHO; Christopher Elias của BMGF; Anthony Fauci, Giám đốc NAIAD; Anthony Lake của Quỹ Nhi đồng LHQ; và Seth Berkley Giám đốc điều hành của GAVI.
BMGF đã khởi động Liên minh Đổi mới, Sáng tạo, Sẵn sàng cho Dịch bệnh (CEPI) vào năm 2017, để phát triển vaccine cho các bệnh truyền nhiễm mới. Ủy ban cố vấn khoa học bao gồm Penny Heaton, từ Viện Nghiên cứu Y khoa Bill and Melinda Gates, và năm thành viên đại biểu đến từ 4 công ty dược phẩm - Tekeda, Sanofi-Pasteur, Johnson and Johnson, và Pfizer.
CEPI cũng có một ―Nhóm điều phối chung‖ liên quan đến nghiên cứu và phát triển, quy định, dự trữ và phân phối vắc xin, cũng như ―lập kế hoạch phản ứng nhanh với mầm bệnh ưu tiên hoặc mầm bệnh chưa biết‖. Các thành viên của nhóm này bao gồm WHO, GAVI, EMA (Cơ quan Y tế Châu Âu), FDA, MSF, UNICEF, AFRC, AVAREF, NISBC và Wellcome Trust.
Tổ chức Bác sĩ không biên giới (MSF) đang hoạt động trong việc quảng bá vaccine. Điều phối viên y tế quốc tế của tổ chức, Myriam Henkens cho biết ―Sự phát triển của phong trào chống vaccine ở nhiều nước phát triển có vẻ rất vô lý‖ và chỉ ra rằng những quan điểm này rất hiếm ở các khu vực khác trên thế giới, nơi mà tổ chức của bà đang hoạt động.
∙ AFRC (Bộ Tư lệnh Lực lượng Không quân dự bị)
∙ AVAREF (Diễn đàn Quy định về Vaccine Châu Phi)
∙ NISBC (Viện Kiểm soát và Tiêu chuẩn Sinh học Quốc gia)
https://thuviensach.vn
Bây giờ mọi thứ trở nên thực sự phức tạp. Cơ quan Nghiên cứu và Phát triển Y sinh Nâng cao (BARDA) được thành lập vào năm 2006 để ―phát triển và mua sắm các trang thiết bị y tế nhằm giải quyết các hậu quả y tế và sức khỏe cộng đồng sau các tai nạn, sự cố và tấn công hóa học, sinh học, phóng xạ hạt nhân (CBRN), đại dịch cúm, và các bệnh truyền nhiễm mới.‖ BARDA đồng thời còn hỗ trợ việc phát triển các loại thuốc và vaccine.
Công ty hợp danh CARB-X công bố khoản đầu tư 500 triệu đô la để đẩy nhanh sự phát triển của thuốc và vaccine. Các nguồn tài trợ bao gồm: ∙ BARDA
∙ NIAID của Fauci
∙ Wellcome Trust
Và BMGF được liệt kê là Đối tác Liên minh.
Cả Inovio và Moderna đều đã nhận được tài trợ từ CEPI. Trang web của Inovio liệt kê các đối tác sau:
∙ BMGF
∙ NIAID của Fauci
∙ DARPA (xem bên dưới)
BMGF tài trợ cho CEPI, quỹ này lại tài trợ cho Inovio, và quỹ này cũng được tài trợ bởi BMGF.
Vào tháng 4 năm 2020, Moderna được BARDA tài trợ 483 triệu đô la tiền thuế để phát triển một loại vaccine COVID-19. Nhưng Moderna là công ty được hưởng lợi nhiều hơn từ chính phủ. Trung tâm Nghiên cứu Vaccine NIAID của Fauci đã hợp tác với Moderna để tiến hành thử nghiệm lâm sàng vaccine của mình. Nguồn vốn bổ sung được cung cấp bởi CEPI, nhận tài trợ từ BMGF. Và BMGF đã cung cấp một khoản tài trợ cho Moderna với số tiền
https://thuviensach.vn
20 triệu đô la. Trang web của Moderna đã liệt kê BMGF cùng với BARDA là một đối tác.
Moncef Slaoui, cựu giám đốc điều hành Moderna, được bổ nhiệm làm đồng chủ trì dự án vaccine coronavirus của Nhà Trắng mang tên Operation Warp Speed. Slaoui cho biết, ngay sau cuộc hẹn của ông ấy trong một sự kiện Rose Garden, ―Thưa Tổng thống, gần đây tôi đã có dữ liệu ban đầu từ một
thử nghiệm lâm sàng với vaccine coronavirus. Và dữ liệu này đã khiến cho tôi càng tin tưởng rằng chúng tôi sẽ có thể cung cấp vài trăm triệu liều vaccine vào cuối năm 2020‖. Ba ngày sau, Moderna thông báo rằng những kết quả ban đầu là đầy hứa hẹn từ các thử nghiệm trên người đối với vaccine coronavirus.
Tuy nhiên, một cơ quan khác là Dự án Nghiên cứu Quốc phòng Nâng cao (DARPA), một chi nhánh nghiên cứu của Lầu Năm Góc chuyên đầu tư vào các công nghệ thúc đẩy an ninh quốc gia. Các nhà nghiên cứu của DARPA đã nghiên cứu về công nghệ vaccine từ đầu những năm 2010. Cơ quan này đã tài trợ 25 triệu đô la cho Moderna để phát triển loại vaccine
mRNA đầu tiên được đưa vào thử nghiệm lâm sàng. DARPA cũng tham gia vào việc phát triển các thử nghiệm COVID-19.
Ban giám sát sự chuẩn bị toàn cầu (GPMB) được thành lập để đảm bảo sự chuẩn bị sẵn sàng cho các cuộc khủng hoảng sức khỏe toàn cầu. Các thành viên hội đồng quản trị của nó bao gồm:
∙ Tiến sĩ Victor Dzau, Chủ tịch Học viện Y khoa Quốc gia ∙ Tiến sĩ Chris Elias, Chủ tịch Chương trình Phát triển Toàn cầu, BMGF ∙ Sir Jeremy Farrar, Giám đốc Wellcome Trust
∙ D. Anthony Fauci, Giám đốc Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia
https://thuviensach.vn
∙ George F Gao, Tổng giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Trung Quốc
Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới và GPMB được liệt kê là đối tác và người sáng lập. Vậy ai tài trợ cho GPMB? Tất nhiên, trong danh sách các nhà tài trợ đương nhiên bao gồm BMGF.
Vào năm 1863, Viện hàn lâm khoa học quốc gia được Quốc hội và Tổng thống Lincoln cho phép làm cố vấn cho chính phủ về khoa học và công nghệ. Viện Y học (IOM) được thành lập vào năm 1970 theo điều lệ của Học viện Khoa học Quốc gia về y học và chăm sóc sức khỏe và là một tổ chức độc lập, phi lợi nhuận và phi chính phủ. Vào năm 2015, IOM đã trở thành Học viện Y khoa Quốc gia (NAM) và hiện là một tổ chức tư nhân, phi lợi nhuận hoạt động bên ngoài chính phủ.
Victor Dzau hiện là Chủ tịch NAM và BMGF là nhà tài trợ chính. Ủy ban Cố vấn của Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh về Thực hành Tiêm chủng (ACIP) đã ban hành các khuyến nghị về vaccine từ năm 1995. Các khuyến nghị của ACIP đã được CDC công bố và có tác động lớn đến chính sách về vaccine ở Hoa Kỳ và các quốc gia khác. ACIP là ―chìa khóa vào thiên đàng‖ - được sử dụng để yêu cầu các nhà lập pháp tiểu bang thông qua luật quy định vaccine như là một điều kiện để được nhận vào trường học. CDC được tài trợ một phần bởi CDC Foundation. BMGF là nhà tài trợ cho Quỹ này.
Liên minh Hoa Kỳ và các tổ chức thành viên nỗ lực phát triển và tài trợ cho các nghiên cứu về y tế và sức khỏe, thông báo cho công chúng và thúc đẩy công chúng hỗ trợ cho nghiên cứu y tế và sức khỏe. Các tổ chức thành viên bao gồm gần hai chục công ty dược phẩm. Victor Dzau là cựu thành
https://thuviensach.vn
viên hội đồng quản trị và khi từ ―tiêm chủng‖ được nhập vào công cụ tìm kiếm của trang web, 466 bài báo, thông báo và dự án sẽ được liệt kê. Nhập ―Gates‖ trong công cụ tìm kiếm sẽ cho ra 107 mục, bao gồm thông báo tài trợ từ BMGF và giải thưởng đã được trao cho Bill và Melinda Gates cùng nhiều đề mục liên quan đến vaccine.
Cochrane là một tổ chức từ thiện quốc tế của Anh, được thành lập để thu thập các kết quả nghiên cứu y tế nhằm tạo điều kiện cho các lựa chọn dựa trên bằng chứng về các can thiệp sức khỏe liên quan đến các chuyên gia y tế, bệnh nhân và các nhà hoạch định chính sách, nhằm hướng dẫn việc đưa ra những quyết định sáng suốt về các vấn đề chăm sóc sức khỏe. Tổ chức này luôn tự hào về việc không chấp nhận tài trợ thương mại, và điều này sẽ cho phép những đánh giá của họ có được cái nhìn khách quan, mà không bị ảnh hưởng bởi những lợi ích thương mại và tài chính.
Trong khi trên trang web của Cochrane vẫn cho thấy tổ chức này không nhận sự tài trợ từ bên ngoài, tuy nhiên điều này không còn đúng nữa. Vào năm 2016, Cochrane đã đồng ý nhận 1,5 triệu dollars tài trợ từ BMGF. Mặc dù điều này nghe có vẻ như không quá nhiều, nhưng số tiền đó đủ để bắt đầu thay đổi quan điểm của tổ chức này về vaccine.
Trên thực tế, trong một bài báo được đăng vào năm 2018 trên British Medical Journal đã kêu gọi rút lại những đánh giá của Cochrane về Thuốc chủng ngừa HPV do ảnh hưởng của tổ chức này. Lauri Markowitz là thành viên trong Ủy ban Cố vấn Hoa Kỳ về Thực hành Tiêm chủng (ACIP) và
Nhóm làm việc về virus Papillomavirus ở người là một người ủng hộ nhiệt tình cho vaccine HPV, đã tham gia trong nhóm đánh giá của Cochrane. Markowitz đã viết các bài báo quảng cáo cho vaccine, đồng thời cô cũng là
https://thuviensach.vn
―người chuẩn bị tương ứng‖ các tài liệu cho ACIP để triển khai việc tiêm chủng HPV.
Vào tháng 9 năm 2018, Cochrane đã trục xuất Tiến sĩ Peter Gøtzsche, một thành viên lâu năm và được kính trọng cũng đồng thời là giám đốc Trung tâm Cochrane Bắc Âu ở Copenhagen Đan Mạch, người đã có những phát biểu trung thực về một số loại vaccine, đặc biệt là vaccine HPV. Tom Jefferson là một thành viên của Cochrane và một đồng nghiệp khác, đã viết một bức thư phản bác và gửi cho những người cùng cộng tác nói về tính an toàn của vaccine, nhưng những người này đã bác bỏ những lo ngại của họ và vẫn quyết định loại bỏ Gøtzsche.
Bill Gates đã mua chuộc được một trong số ít các tổ chức nghiên cứu đã chỉ trích vaccine mà không cần nhiều tiền.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
Cho đến khi Chính quyền Trump ngừng tài trợ cho WHO, Hoa Kỳ vẫn là nhà tài trợ lớn nhất của WHO, đóng góp hơn 400 triệu đô la hoặc 15% ngân sách của WHO vào năm 2019. Tại thời điểm cuốn sách này đang được viết, BMGF đang là nhà tài trợ lớn nhất, với hơn 200 triệu đô la mỗi năm, tương đương với 9,8% ngân sách tài trợ của quỹ này. Quỹ Gates đã tài trợ hơn 2,4 tỷ đô la cho WHO kể từ năm 2000, trong một bài báo đăng trên Politico vào năm 2017 có tiêu đề ―Gặp gỡ vị bác sĩ quyền lực nhất thế giới: Bill Gates‖ bài báo được bắt đầu với lời bình luận rằng: Một số nhà tỷ phú hài lòng với việc mua cho mình một hòn đảo. Nhưng Bill Gates lại có một cơ quan y tế của Liên hợp quốc ở Geneva.‖
Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tổng giám đốc WHO. Như đã đề cập trước đó, Ghebreyesus, là người châu Phi đầu tiên đứng đầu Tổ chức Y tế
https://thuviensach.vn
Thế giới, đã trở thành Tổng giám đốc vào năm 2017. Ông cũng là người đầu tiên không phải là một bác sĩ, nhưng lại là người đứng đầu tổ chức này. Trước khi được bầu làm lãnh đạo WHO, ông từng là Bộ trưởng Bộ Y tế Ethiopia từ năm 2005-2012 và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao từ năm 2012-2016. Một bài bình luận nói về về Tedros đăng trên trang web của WHO bao gồm tuyên bố này ―phương án triển khai bảo hiểm y tế cho toàn dân của Tiến sĩ Tedros đã chứng minh đó là điều cần thiết, để mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe với nguồn lực hạn chế.‖
Từ năm 2009-2011, Ghebreyesus cũng là Giám đốc của Global Fund, do BMGF khởi xướng, được thành lập để chống lại bệnh AIDS, bệnh lao và bệnh sốt rét. BMGF đã cam kết tài trợ 650 triệu đô la cho Global Fund khi thành lập, và 750 triệu đô la khác trong 10 năm sau đó. Ghebreyesus cũng là thành viên của Board of the GAVI Alliance for Immunization và đã hợp tác chặt chẽ với Clinton Foundation. Khi ông còn là bộ trưởng Y tế của Ethiopia, BMGF đã tài trợ cho các chương trình được triển khai ở Ethiopia, khiến cho một số người nghĩ rằng Gates ủng hộ cho cuộc bầu cử của ông ở WHO. Lo ngại về sự ảnh hưởng của Gates đối với WHO đã khiến 30 nhóm vận động ký một lá thư gửi Ban điều hành WHO, nêu rõ sự phản đối của họ trong việc biến Gates Foundation trở thành một đối tác quan trọng của tổ chức này.
Hai tháng trước khi đắc cử, Ghebreyesus đã được mời đến Trung quốc và có bài phát biểu quan trọng tại Đại học Bắc Kinh, mà tại đó Bill Gates cũng đã có bài phát biểu về ―Hướng tới tương lai: Đổi mới, Từ thiện và Quản trị Toàn cầu‖. Trong buổi nói chuyện của mình, Gates nói: ―Với nguồn lực dồi dào và đội ngũ đông đảo các nhà khoa học tài năng, cùng với năng lực phát triển các loại thuốc và vaccine mới, Trung Quốc là một lựa chọn rõ ràng
https://thuviensach.vn
để chúng tôi thành lập Global Health Drug Discovery Institute. Viện này với sự hợp tác giữa quỹ của chúng tôi, Chính quyền thành phố Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa - sẽ giúp đẩy nhanh việc khám phá và phát triển các loại thuốc cứu sinh mới.‖ Global Health Drug Discovery Institute đã tham gia vào nhiều dự án, bao gồm cả việc phát triển vaccine.
Không có gì ngạc nhiên cả, vào năm 2020, Tedros đã ca ngợi phản ứng của chính phủ Trung Quốc đối với sự bùng phát COVID-19, và cảm ơn chính phủ Trung Quốc vì sự minh bạch của họ. Ông cũng lên tiếng phản đối Hoa Kỳ và các quốc gia khác đã đóng cửa biên giới với họ, trong khi có những bằng chứng rõ ràng rằng Trung Quốc đã không kiềm chế sự lây lan của virus.
Một kết nối thú vị với WHO
Margaret Chan, cựu Tổng Giám đốc WHO và là người chỉ đạo công bố đại dịch giả H1N1, đã bổ nhiệm Peng Liyuan làm Đại sứ thiện chí của WHO về bệnh Lao và HIV/AIDS. Bà Peng được mô tả trên trang web của WHO là ―nữ diễn viên và giọng nữ cao nổi tiếng của Trung Quốc‖, ―người đứng đầu Đoàn ca múa thuộc Tổng cục Chính trị Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và đã xuất ngũ với quân hàm thiếu tướng.‖
Trang web của WHO cũng cho biết rằng ―Ms. Peng là người ủng hộ mạnh mẽ cho việc kiểm soát sức khỏe của bệnh nhân lao và HIV. Tại Trung Quốc, bà trở thành Bộ trưởng Bộ Y tế, Đại sứ Phòng chống HIV/AIDS vào tháng 1 năm 2006 và Đại sứ Quốc gia Phòng chống bệnh Lao vào tháng 3 năm 2007‖
Tedros đã được gia hạn thêm nhiệm kỳ hai năm vào năm 2019. Điều mà trang web này không cho biết, bà Peng là vợ của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Trang web này cũng không liệt kê một số thành
https://thuviensach.vn
tích chính của bà với tư cách là thành viên của quân đội Trung Quốc. Bà gia nhập Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung quốc vào năm 1980, và trở nên nổi tiếng như là một ngôi sao của mạng truyền hình nhà nước Trung Quốc, chuyên hát những bài hát ca ngợi Đảng Cộng sản và sự vươn lên của đất nước Trung quốc như là một cường quốc của thế giới. Trong bộ đồng phục của quân đội, bà đã hát để phục vụ cho những người lính Trung Quốc trong khi họ đang tàn sát những người biểu tình ủng hộ dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn.
Bà Peng thường tháp tùng với Tập Cận Bình tới các cuộc họp quan trọng, bao gồm cả các cuộc họp của Liên Hợp Quốc. Tại một trong những cuộc họp này, bà đã gặp và trở nên thân thiện với Bill Gates.
Vào tháng 4 năm 2020 Tổng thống Trump đã cắt tiền tài trợ cho WHO, và gọi tổ chức này là “pipe organ” chuyên phục vụ vì lợi ích của Bắc Kinh. Càng nhiều sự hợp tác hơn
Vào ngày 14 tháng 5 năm 2018, Victor Dzau đã xuất hiện tại Đại học McGill để khánh thành McGill School of Population and Global Health. Tim Evans (trước đây từng làm việc tại WHO, Rockefeller Foundation và GAVI) được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng của trường, chủ trì lễ khai giảng. Paul Farmer. là người đồng sáng lập Partners in Health, đã ký hợp đồng với chính quyền tiểu bang và địa phương để thực hiện các phương tiện theo dõi việc tiếp xúc, như là một biện pháp ngăn chặn sự lây lan của COVID-19, đã đọc bài diễn văn khai mạc
Vậy ai là người tài trợ cho Partners in Health? Tất nhiên là Quỹ Bill and Melinda Gates.
https://thuviensach.vn
Kiểm soát tin nhắn
Để ―bán‖ được vaccine cho công chúng, điều đặc biệt quan trọng là phải ngăn chặn được sự tự do ngôn luận về vaccine, vì đang ngày càng có nhiều người đặt ra câu hỏi về vaccine và các khuyến cáo hiện hành. Việc kiểm duyệt thông tin đã được thực hiện theo nhiều cách khác nhau, một trong số đó là sử dụng International Fact-Checking Network.
Tổ chức International Fact-Checking Network tuyên bố trên trang web của mình rằng, một trong những hoạt động của họ là ―… bao gồm các xu hướng, định dạng, và những tin tức liên quan đến xác minh tính xác thực, ―tin tức giả mạo‖ và những thông tin sai lệch.‖ Được thành lập vào năm 2015, tổ
chức này đã liệt kê BMGF là một trong những nhà tài trợ chính của họ. Nhập từ ―vaccine‖ trên công cụ tìm kiếm, sẽ dẫn đến một trang web, mà trong đó nhiều nhà phê bình và các bài báo có liên quan đến một số hành vi tiêu cực của vaccine đã được dán nhãn là ―false‖. Vào ngày mà chúng tôi tìm kiếm trên trang web, tất cả các phản biện về vaccine đều được gắn nhãn ―false‖, có nghĩa là nó chỉ cho ra kết quả của những phản biện có nhãn ―false‖, hoặc tất cả các bài viết phản bác đối với vaccine đều được dán nhãn là ―false‖.
Bạn đang rất bối rối? Hầu hết mọi người cũng đều như vậy. Nhưng điểm mấu chốt và quan trọng là BMGF đã có những ảnh hưởng đáng kể đối với hầu hết các cơ quan y tế quan trọng trên toàn thế giới, bằng cách cung cấp các khoản tài trợ to lớn kể cả trực tiếp và gián tiếp. Hội đồng quản trị của các cơ quan này hầu hết đều là những người bạn của Gates. BMGF đã giành được quyền kiểm soát sức khỏe của toàn thế giới, và Bill Gates đã thực sự trở thành một vị ―bác sĩ‖ quyền lực nhất thế giới. Và Gates biết rõ điều đó.
https://thuviensach.vn
Có rất nhiều người đã đặt ra câu hỏi về những ý định của Gate. Chúng tôi thực sự không biết, và có lẽ sẽ không bao giờ biết. Chúng ta hãy cho rằng ý định của ông ta là tốt, và lẽ phải luôn thuộc về kẻ mạnh. Quyết định sử dụng phần lớn tài sản của mình để cải thiện xã hội là một quyết định cao cả, vì vậy có lẽ Gates thấy việc đầu tư lớn vào vaccine và công nghệ là một điều tốt đẹp. Nhưng điều này không có nghĩa là đúng như vậy, vì chắc chắn cần phải có một sự tranh luận công khai về tất cả những điều này. Nhưng ngược lại, bất cứ ai lên tiếng về những điều này đều sẽ bị buộc phải im miệng.
COVID-19 đã đƣợc lên kế hoạch từ trƣớc?
Bạn đã đọc xong về bài tập lập ―kế hoạch kịch bản‖ của Quỹ Rockefeller. Nhưng sẽ còn nhiều hơn thế nữa.
Trong một diễn đàn về chuẩn bị cho đại dịch tại Đại học Georgetown Tiến sĩ Anthony Fauci dự đoán rằng Chính quyền Trump sẽ phải giải quyết một đợt bùng phát dịch bệnh bất ngờ, và ―rủi ro sẽ cao hơn bao giờ hết‖. Đây là một dự đoán tuyệt vời dựa trên các sự kiện xảy ra năm 2020.
Báo cáo thƣờng niên của Ủy Ban giám sát sự chuẩn bị toàn cầu năm 2019 đã cảnh báo rằng, thế giới đang gặp rủi ro. ―Trong một thời gian quá dài, chúng ta đã thờ ơ và lơ là khi nói đến đại dịch: chúng ta chỉ dồn sức khi có một mối đe dọa nghiêm trọng, nhưng sau đó lại nhanh chóng quên chúng đi sau khi mối đe dọa giảm bớt. Đây là một thời gian tốt để thực hiện các hành động chuẩn bị.‖
Báo cáo này bao gồm ―Bảy hành động khẩn cấp để chuẩn bị cho thế giới trong các trường hợp khẩn cấp về y tế‖. Trong đó Điều thứ bảy đã ghi rằng:
https://thuviensach.vn
Liên hợp quốc phải tăng cường các cơ chế điều phối. Danh sách ―sự tiến triển của các chỉ báo trước tháng 9 năm 2020‖ bao gồm:
Liên hợp quốc (bao gồm cả WHO) cần tiến hành ít nhất hai cuộc diễn tập mô phỏng và đào tạo trên toàn hệ thống, trong đó có một cuộc diễn tập đề cập đến việc cố ý phóng thích một mầm bệnh đường hô hấp gây chết người.
Trung tâm An ninh y tế Johns Hopkins được thành lập để bảo vệ mọi người khỏi dịch bệnh và thảm họa. Nó nhận được tài trợ từ: ∙ WHO
∙ BMGF
∙ Quỹ Rockefeller
∙ CDC
∙ Bộ ngoại giao Hoa Kỳ
∙ FDA
Sự kiện 201 được tổ chức bởi Trung tâm An ninh Y tế Johns Hopkins phối hợp với Diễn đàn Kinh tế Thế giới và BMGF. Được mô tả là ―một cuộc diễn tập để đối phó với đại dịch mức độ cao‖, nó diễn ra vào ngày 18 tháng 10 năm 2019 tại New York và đó là một mô phỏng của đại dịch coronavirus. Trưởng nhóm bao gồm:
∙ Eric Toner, Crystal Watson, Tara Kirk Sell đến từ Trung tâm An ninh Y tế Johns Hopkins
∙ Ryan Morhard, đến từ Diễn đàn Kinh tế Thế giới
∙ Jeffrey French, đến từ BMGF
Các thành viên trong ban tổ chức sự kiện này bao gồm:
∙ Tiến sĩ Christopher Elias, Chủ tịch Phát triển Toàn cầu của BMGF
https://thuviensach.vn
∙ Tiến sĩ George Fu Gao, Tổng giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Trung Quốc
∙ Timothy Grant Evans, cựu Trợ lý Giám đốc WHO, cựu Giám đốc Chủ đề Công bằng Y tế tại Quỹ Rockefeller, đồng sáng lập GAVI ∙ Stephen C. Redd, Giám đốc Trung tâm Chuẩn bị và Ứng phó của CDC ∙ Jane Halton, Chủ tịch CEPI
Cốt truyện của Sự kiện 201 là vào cuối mùa hè năm 2019, một loại virus lây nhiễm cho lợn ở Brazil đã lây sang người và đến tháng 10 bắt đầu lây lan nhanh đến mức cả thế giới bắt đầu phải chú ý. Virus này là một loại coronavirus có tên là CAPS, chưa từng được thấy trước đây. Nó gây ra viêm phổi và suy hô hấp cấp tính, trong một số trường hợp nghiêm trọng, phổi bị tràn ngập chất lỏng và bệnh nhân không thể thở được.
Khi virus lây lan, một Ban Đối phó với Đại dịch được thành lập với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, các chuyên gia y tế công cộng và đại diện từ Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh để xây dựng và thực hiện các kế hoạch ngăn chặn sự lây lan của virus. Mười lăm người được mời để tham gia cuộc diễn tập mô phỏng này là thành viên của hội đồng quản trị Trung tâm An ninh Y tế Johns Hopkins.
Giống như tin tức chúng ta được thấy hàng ngày trên các phương tiện truyền thông, trong cuộc diễn tập của đại dịch giả lập, các trường hợp lây nhiễm và số người chết ngày càng tăng sẽ được hiển thị trên màn hình, và vào phần cuối cùng của buỗi diễn tập, có đến 65 triệu người chết. GDP của thế giới giảm 11% và các Chính phủ đều bị tê liệt.
Cuộc diễn tập đã đưa ra các khuyến nghị để giải quyết đại dịch trong tương lai, bao gồm giáo dục các doanh nghiệp về mức độ tàn phá của đại dịch
https://thuviensach.vn
đối với nền kinh tế, tầm quan trọng của các kế hoạch dự phòng, xây dựng kho dự trữ vật tư y tế, và đảm bảo rằng luôn có sẵn các phương tiện vận chuyển thích hợp để cung cấp hàng hóa khi cần thiết.
Ngoài ra còn có cuộc thảo luận về tầm quan trọng của việc chống lại những tin tức giả, các thuyết âm mưu và các chiến dịch tuyên truyền mà ủy ban cho là không phù hợp. Trong mô phỏng, nó được coi là điều cần thiết để chống lại những ―tin tức giả‖, nhưng trong đợt bùng phát CAPS, chính phủ đã xử lý quá mức cực đoan và đàn áp tất cả những ai lên tiếng và những người chống đối chính trị. Một số chính phủ còn thắt chặt thêm các quy định hơn nữa và thậm chí còn áp dụng thiết quân luật.
Jane Halton, Chủ tịch CEPI và một số người tham gia Sự kiện 201 bày tỏ lo ngại rằng, việc phát triển vaccine cho các bệnh lây nhiễm mới vừa tốn thời gian lại vừa tốn kém, nhưng đồng thời lại đưa ra tuyên bố sai lầm nghiêm trọng rằng, các công ty dược phẩm có rất ít động lực để sản xuất ra những loại vaccine như vậy. Tuyên bố của bà không bị bất kỳ ai trong nhóm phản đối.
Ban tổ chức cuối cùng đã đưa ra các khuyến nghị, bao gồm các Chính phủ cần cung cấp thêm nguồn lực và hỗ trợ cho việc phát triển và sản xuất vaccine, xét nghiệm và phương pháp điều trị, phát triển các biện pháp để chống lại những thông tin sai lệch khi ứng phó với đại dịch. Ban tổ chức đã khá cụ thể trong việc khuyến nghị nên tạo quan hệ đối tác với các công ty truyền thông xã hội và thông tin truyền thống, để chống lại những thông tin sai lệch
tràn ngập trên các phương tiện truyền thông. Cần nhất quán trong truyền bá thông tin và tuyển dụng những người có ảnh hưởng và đáng tin cậy để ―tăng cường thông điệp công khai một cách dễ dàng, đáng tin cậy, quản lý chặt tin
https://thuviensach.vn