🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cõng Nhau Trong Một Cõi Người - Hoàng Công Danh full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn Ebooks Nhóm Zalo Cõng Nhau Trong Một Cõi Người Tác giả: Hoàng Công Danh Thể loại: Tuyển Tập Truyện Ngắn Mục lục 1. Cõng nhau trong một cõi người 2. Mạ đi chợ về chưa? 3. Ai nhặt lá? 4. Bóng đổ trên đường đi 5. Đường về nẻo thiền 6. Tâm bão 7. Chờ mặt trời 8. Ươm cây giữa vườn đời 9. Nhập thất 10. Kinh chiều rền tiếng sấm 11. Tiếng kêu vẳng từ gốc si 12. Đau ở đâu? 13. Hồi bát nhã lỗi nhịp 14. Nuôi heo trong chùa 15. Trò chơi của khói 16. Lạc 17. Trò chơi nơi cửa thiền 18. Níu một bờ tâm 19. Luyện nước 20. Về đi! 21. Xe chưa rời bến 22. Nhặt hòn sỏi ở sân chùa 23. Đâu chỉ là trò chơi Cõng Nhau Trong Một Cõi Người N ăm tôi mười tuổi, hôm nào tôi cũng lên chùa để nghe sư thầy giảng kinh Phật và nói chuyện pháp. Mái chùa làng tranh tre nứa lá. Tịnh thất của thầy chỉ là một căn phòng nhỏ kế bên chánh điện. Thầy mặc chiếc áo tràng màu nâu cánh gián, đi một đôi dép lào hai quai mộc mạc. Mỗi lần tôi lên chùa, thầy thắp một tuần nhang, cử một hồi chuông, tôi quỳ vái ba lần. Sau đó hai thầy trò vào phía trong tịnh thất, ngồi xếp bằng, đối diện nhau. Tôi nhớ nhất một câu chuyện thầy kể thế này. Thuở xưa có hai vị sư đi hành lễ về. Đến một bờ suối thì hai sư gặp một cô gái đang khóc. Tại vì nhà cô ở bên kia suối, hồi sáng cô đi thì nước cạn, nhưng giờ quay trở về thì nước dâng cao quá nên không lội qua suối được. Vị sư già liền cõng cô gái qua suối rồi cùng với người đồng tu đi về. Khi về tới cổng chùa, vị sư trẻ liền nói với vị sư già: – Này sư huynh, trước lúc đi hành lễ, hai chúng ta đã hứa với nhau là không chạm vào da thịt đàn bà, sao lúc nãy huynh lại cõng cô gái ấy? Vị sư già trả lời: – Ta đã bỏ cô gái ấy lại ở bên suối rồi thế mà đệ vẫn còn cõng cô ấy từ nãy đến giờ hay sao? * Gần chùa làng tôi có chị Gái, ba mươi tuổi vẫn chưa chồng. Chị không được đẹp cho lắm! Chị làm nghề cắt cỏ thuê cho một nhà nuôi trâu bò trong làng. Hằng ngày, chị đều đến cắt cỏ quanh nương chùa. Tôi ngồi trong tịnh thất nghe pháp, thi thoảng hương cỏ phả vào một mùi thơm man mác. Một hôm, cỡ mười giờ đêm rồi, ở nhà thấy chan chán, tôi đi lên chùa xin thầy kể chuyện cho nghe. Hình như hôm nay thầy đi nằm sớm, ngọn đèn trong tịnh thất đã tắt rồi. Tôi đứng ngoài cửa chùa, nghĩ bụng chắc thầy mệt, thôi đừng làm phiền nữa. Bỗng dưng nghe có tiếng sột soạt phía bụi cây sau lưng chùa. Tôi chậm rãi đi đến, nép vào gốc cây chứa, giương mắt nhìn xem. Trời ơi! Sư thầy đưa tay lần cởi từng chiếc cúc trên áo của chị. Đêm nay là lần đầu tiên trong đời thầy không lần tràng hạt niệm kinh, thay vào đó là lần cởi cúc áo một người phụ nữ. Những hạt cúc áo đã đổi vị trí cho chuỗi hạt cườm. Tôi hoảng hốt quay mặt đi, không dám nhìn bởi không muốn tin vào chuyện đang xảy ra. Đây là sư thầy của mình ư? Người đã dạy cho mình bao nhiêu kinh kệ, bao nhiêu câu chuyện đạo pháp. Mình còn nhớ rõ thầy đã dạy rằng tu sĩ thì không có quan hệ xác thịt với nữ giới kia mà! Tất cả như đổ sụp, hình tượng thầy. Tôi nghe được tiếng của chị và sư thầy. – Nhanh lên thầy ơi! – Thầy làm thế này là mắc tội với Phật, là phạm giới con ơi. – Thầy làm phước giúp con đi. Con chỉ muốn kiếm một đứa con để nuôi. Thầy về già còn có Phật để nương tựa. Chớ con biết lấy ai mà cậy nhờ đây? Sao đàn bà chúng con khổ thế này thầy ơi! … * Kể từ hôm đó tôi không lên chùa nữa. Tôi thề rằng sẽ không bao giờ gặp thầy nữa. Sư thầy, trong tôi đã không còn là một vị tu sĩ đạt đạo mà là một người quá ư tầm thường. Mười tuổi, tôi như một đứa con nít tự nắn đất sét thành tượng để chơi. Và khi bức tượng ấy bị bể rồi thì mãi mãi sẽ không bao giờ tôi giữ nó làm gì nữa. Chín tháng sau, chị sinh con. Chuyện không cần tôi kể, người làng cũng biết ai là cha đứa bé rồi. Sư thầy viên tịch sau mười hôm chị sinh con. Buồn quá mà chết? Hay vui quá mà chết? Nhục quá mà chết? Hay ân hận không biết làm sao chuộc gỡ đành phải chết? Chừng nào loài người chưa giải quyết được những thắc thỏm này, chưa dám vượt qua chướng ngại của miệng lưỡi, thì chừng đó con người sống không thanh thản. Chết là giải pháp cuối cùng và khả quan hơn cả để không phải lắng nghe hồi chuông báo tử điểm từng ngày. * Câu chuyện này có thật, xảy ra tại một làng quê Quảng Trị, mười năm về trước. Nhân vật chị và đứa bé bây giờ vẫn còn sống. Thời gian sẽ xóa đi mặc cảm cho mẹ con chị, tôi tin là như vậy! Còn sư thầy của tôi, có ai hiểu cho thầy không? Viết xong truyện này, tôi chợt nhớ đến câu chuyện sư thầy đã kể cho nghe hồi trước. Chao ôi, có phải sư thầy chính là vị sư già đã cõng một người con gái qua sông, đặt đó rồi về. Còn tôi là vị sư trẻ kia, ích kỷ, hẹp hòi, nông cạn. Chính tôi mới là người cõng chị cắt cỏ suốt mười năm qua. Hôm nay tôi đặt chị xuống truyện ngắn này, chính thức trút đi một gánh nặng để thanh thản. Mạ Đi Chợ Về Chưa? N gười ta bảo tôi là đứa trẻ bướng bỉnh, khó nuôi. Chính vì thế mà lúc năm tuổi, tôi được ông nội đưa lên chùa Sắc Tứ để sống và cải nghiệp. Hơn nữa, nhà nghèo đói suốt nên ông nội quyết định cho tôi đi tu. Vào chùa ăn cơm Phật! Ở chùa có con chim dòng biết nói tiếng người, nhưng chỉ duy nhất một câu: “Mạ đi chợ về chưa?” Tôi được cạo trọc đầu, chỉ chừa lại một chòm tóc hệt cái vá xúc cơm. Sư thầy nói: “Từ nay con là người nhà chùa, tên phàm tục không dùng nữa, thầy đặt cho con tên mới là Sanh”. Từ đó mọi người gọi tôi là điệu Sanh. Tôi được sư thầy giao nhiệm vụ chăm sóc con chim dòng. Nhiệm vụ cũng nhẹ nhàng thôi. Sáng dậy trộn cơm với ớt, bỏ vào cái chén sứ đặt sẵn ở trong lồng tre. Chim dòng là loài thèm ăn ớt và phải có ớt nó mới sống được. Thi thoảng xem nếu cái cốc nước sắp hết thì rót thêm vào. Hôm đầu tiên đem thức ăn ra vườn, vừa đưa tay sớt cơm vào chén thì tôi nghe có tiếng người nói: “Mạ đi chợ về chưa?” Hóa ra đó là tiếng của con chim dòng. Sư thầy bước tới và hỏi tôi: “Con nhớ mạ không?” Tôi ngúc ngắc đầu: “Không!” Thầy mỉm cười độ lượng: “Con đúng là đứa trẻ bướng bỉnh. Khi mô con nhớ mạ thì thầy cho con về nhà, nghe”. Tôi không nhớ mạ, không nhớ ai cả; tôi không thích về nhà. Ở chùa thế này thích hơn. Ở chùa có vườn rộng, nhiều cây cối cho tôi leo trèo. Có tiếng gõ mõ, tiếng chuông và tiếng tụng kinh hằng ngày chứ không buồn tẻ như ở nhà. Ở chùa có cơm ăn no chứ không đói hoải đói hoài như ở nhà. Và hơn hết, ở chùa có con chim dòng biết nói tiếng người khiến tôi thích thú. Một tháng ở chùa, tôi trở nên thân thiết với con chim dòng và nó cũng rất mến tôi. Dường như tôi không còn nhớ gì về những người thân ruột thịt ở làng. Hai tháng sau, ông nội lên thăm. Tôi dửng dưng như gặp người xa lạ. Ba tháng sau, mạ tôi đùm lên một túi mãng cầu xiêm - thứ quả này hồi còn ở nhà tôi rất thích. Thế nhưng khi mạ đưa túi quà thì tôi không thèm lấy, tôi chạy ra vườn chơi với con chim dòng. Lát sau mạ cũng ra vườn. Mạ ôm tôi và khóc rất nhiều. Tôi đẩy mạ ra rồi vùng chạy. Tôi ghét nước mắt, không thích nhìn người ta khóc. Tôi lẻn vào một bụi cây và trốn ở đó. Cho đến khi mạ rời chùa tôi mới chạy ra. Sau đó có vài lần mạ lên chùa, khi thì mang theo mấy trái ổi, lúc lại vài trái chuối. Mạ nói: “Ở nhà không có chi cả, chỉ có mấy trái ni mạ hái đem lên cho con”. Những thứ hoa quả này ở chùa không thiếu, người ta mang đến dâng Phật hằng ngày. Vì thế mà tôi chẳng thèm nhận quà của mạ. Con chim dòng vẫn chỉ nói được một câu duy nhất: “Mạ đi chợ về chưa?” Mỗi lần nghe tiếng của nó, tôi thấy ngồ ngộ và vui hơn. Năm tuổi, sự thú vị lấn át những cảm xúc thiêng liêng. Ở chùa một năm. Có bữa sư thầy hỏi tôi: “Con nghe chim dòng nói hoài mà vẫn không nhớ mạ à?” Tôi trả lời: “Không”. Một hôm, ông nội lên chùa và nói điều gì đó với sư thầy, tôi đứng ngoài cửa lén nhìn vào và thấy hai người có vẻ trầm ngâm. Lát sau, sư thầy đem cái túi vải màu lam đựng áo quần của tôi, một túi trái cây và một bó nhang. “Điệu Sanh mô. Ra đây với thầy, nhanh con!” Tôi chạy ra đứng trước mặt sư thầy và ông nội. Sư thầy xoa đầu tôi rồi nhỏ nhẹ: “Điệu Sanh, nghe thầy nói đây. Mạ con chết rồi! Con về nhà với ông nội nghe”. Tôi trố mắt ra nhìn. Chết là gì? Là nhắm mắt như ngủ chứ gì. Tôi ngúc ngắc không chịu nghe lời thầy. Tôi chạy đi trốn, lần này tôi băng ra khỏi chùa và dốc sức ra mà chạy. Tôi sợ bị bắt về nhà lắm! Hết sức, tôi nằm lịm đi giữa một bãi trồng bắp ven sông Thạch Hãn. Tỉnh dậy, tôi thấy mình đã nằm trong chùa. Sư thầy vẻ mặt lo lắng và một chút buồn. Sau khi ăn ba bát cơm, tôi cảm thấy khỏe trở lại. Tôi chạy ra vườn. Con chim dòng gặp tôi, mừng rỡ, nó chào tôi bằng một câu nói quen thuộc: “Mạ đi chợ về chưa?” Tôi cũng mỉm cười chào nó. Mới có một hôm mà tôi nhớ con chim dòng kinh khủng. Các sư huynh ở chùa đi qua nhìn tôi với ánh mắt hơi khang khác (sau này tôi biết, đó là những ánh mắt tràn đầy thương cảm và chia sẻ). * Tôi ở chùa thêm ba năm nữa, lúc đó tôi tám tuổi. Sau trận bão, cái lồng chim đã bị đánh văng xuống đất và tuột một vài nan tre. Con chim dòng đã bay đi rồi. Tôi không khóc nhưng buồn lắm. Lần đầu tiên trong đời tôi biết đến cảm giác buồn bã của sự mất mát. Ôi, con chim dòng thân thuộc của tôi đã bay mất rồi. Tôi thành hụt hẫng, không có gì ở chùa vui nữa. Vườn tược, tiếng chuông mõ đã không còn gây cho tôi hứng thú. Một hôm, ông nội lên chùa. Sư thầy hỏi tôi: “Điệu Sanh, con về với ông nội nghe”. “Dạ”. Tôi đồng ý về nhà. Không phải vì nhớ nhà mà vì con chim dòng đã bay đi, ở chùa không còn trò vui. Về nhà, quang cảnh vẫn thế. Nhưng hình như hơi thiêu thiếu một điều gì đó mà tôi không biết rõ. Tôi được đi học ở trường làng. Tôi có những đứa bạn ở bên hàng xóm cùng chơi trò. Bà con lối xóm thương tôi, có gì ngon cũng đem sang cho. Tôi nhận ra cái mình khác so với bạn bè, đó là tôi không còn có mạ trên đời nữa. Tôi thui thủi đi học một mình, rồi lại thui thủi về nhà một mình. Tôi không buồn, chỉ thấy thiêu thiếu một điều gì đó mà thôi. Hôm đó, khi lũ trẻ chúng tôi đang chơi thì thấy mạ của mấy đứa bạn gánh triêng đi chợ về. Mấy đứa chạy ùa ra níu lấy tao gióng lục quà. Tôi lẳng lặng quay về nhà. Tôi vẫn không buồn, chỉ thấy thiêu thiếu một điều gì đó mà thôi. Vừa vào tới ngõ thì thật bất ngờ, tôi gặp lại con chim dòng đang đậu trên cây vú sữa. Tôi chưa kịp mừng thì nó nhanh nhảu cất câu nói quen thuộc để chào tôi: “Mạ đi chợ về chưa?” Và lần đầu tiên trong đời, tôi khóc. Ai Nhặt Lá? S ư thầy đang ngồi trong thư phòng soạn lời cho buổi pháp thoại sắp tới thì đột nhiên điệu Sanh chạy vào. Vẻ gấp gáp, điệu Sanh túm lấy hông áo thầy và giục: “Thầy nhanh ra coi!” Dù chưa rõ chuyện gì, nhưng sư thầy luôn chiều theo ý của điệu Sanh. Thầy bước đến thềm cửa, nhìn ra chỗ gốc cây si ở trước sân chùa, thấy một nam một nữ đang ngồi ở ghế đá, tựa vai vào nhau. Điệu Sanh nói với vẻ tiếc nuối: “Thầy ra sớm chút nữa là hay rồi!” Từ hôm đó sư thầy phạt điệu Sanh bằng cách phải nhặt lá si ở sân chùa. Trước nay, sân chùa mỗi ngày chỉ quét một lần vào sáng sớm, nhưng bây giờ thầy nhủ hễ lá nào rơi xuống thì điệu Sanh phải nhặt lên, cho vào chiếc giỏ mây mang theo bên mình. Điệu Sanh khoác giỏ vào, lâu lâu nếu trời đứng gió, lá không rụng thì điệu ngửa mặt lên kêu: “Thổi đi gió ơi cho tôi lượm lá!” Có vẻ điệu Sanh thích thú với nhiệm vụ mà sư thầy gọi là “công án thiền – nhặt lá rụng trong tâm”. Điệu Sanh hỏi: “Thầy ơi! Có phải nhặt lá là để các cô các chú ngại con, không dám tới đây tựa vai nhau nữa?” Thầy mỉm cười, không trả lời mà chỉ nhủ điệu Sanh: “Con cứ nhặt đi, bao giờ con thấy sạch rồi thì sẽ rõ thôi”. Điệu Sanh ngơ ngác nhủ thầm: “Cây rậm tán thế biết đến khi nào mới rụng hết lá si được?” * Ngôi chùa này nhỏ thôi, chỉ có sư thầy và mấy đệ tử, nhưng khách đến viếng không phải ít. Một hôm, có nữ thí chủ độ bốn mươi tuổi vào thăm chùa. Trông chị có vẻ khá giả, ăn mặc đẹp, đeo dây chuyền vàng, mặt thoa phấn trát son thơm phức. Sư thầy rót trà tiếp khách, như thường lệ mỗi lần có người đến chùa. Đối với thầy, mọi người đều đáng kính như nhau, vào cửa Phật, sang hèn đều là hư ảo mà thôi. Ngó qua dung mạo, thầy biết nữ thí chủ có nỗi khổ tâm. Mà thật ra ai cũng mang nỗi khổ tâm cả, lắm người đến đây lúc đầu giấu giếm, cứ bảo hạnh phúc bình an, nhưng hồi sau thấy thầy gần gũi nên dần dần họ bộc bạch mong được hóa giải giúp. Thầy nghiêng vòi ấm cho nước vào chén. “Uống đi chị! Trà này ướp hương sen từ tối qua”. Nữ thí chủ cầm tách trà, nhấp môi, khen trà thơm rồi hỏi thầy cách ướp trà. Thầy nói sau nương chùa có hồ sen, ban đêm thả vào nhụy đóa một ít trà sao. Sương suốt đêm thấm vào trà và quyện lấy hương sen. Sáng ra khẽ tay hứng nhúm trà đó đem cho vào ấm. Hoa cũng như người, vẻ ngoài dẫu thanh cao hay hèn mạt thì trong lòng vẫn có hương thơm, chỉ cần khéo một chút là ta nhận được niềm vui từ lòng nhau. Thầy tiếp khách tự nhiên như thế, không cần phải hỏi han tên tuổi gia cảnh hay nỗi niềm. Cứ để cho khách tự mở lòng mình. Buổi đầu đến chùa, chị cũng không nói gì nhiều, bảo chỉ đến thăm viếng cho biết thôi. Khi sư thầy tiễn chị ra sân, trông thấy điệu Sanh chạy tới chạy lui giỡn lá, chị quay sang: “Chú tiểu này ngộ quá, thầy ha?” Nói xong, chợt chị chạnh buồn, vái tay chào thầy rồi đi ngay. Qua vài lần tiếp xúc, thầy cũng được biết hoàn cảnh của nữ thí chủ. Chị đã từng có chồng nhưng không sanh được con nên đồng ý ly dị, anh đi lấy người khác để kiếm con. Từ đó chị ở một mình, bán vải ở chợ. Thu nhập cũng không đến nỗi nào nhưng chị hay buồn rầu, nhất là mỗi lúc thấy người ta dắt con vào quầy sắm vải. Những khi ấy chị thường không lấy tiền vải, chị bảo chỉ cần thấy trẻ con là vui lắm rồi. Thấy trẻ con, chị đều coi như đó là con mình. Thỉnh thoảng thầy vẫn gặp những người có hoàn cảnh như chị đến chùa. Có người muốn vào chùa xin bế trẻ con về nuôi, ấy là những đứa trẻ từ khi còn nhỏ bị bỏ rơi trước cổng chùa. Trường hợp này thầy cũng đã gặp vài lần. Có người lại muốn vào chùa xuống tóc đi tu luôn, những khi ấy thầy thường tìm cách khuyên giải, chuyển hóa. Nếu họ vẫn nằng nặc đòi tu thì thầy cho phép ở lại trong chùa nhưng bảo họ khoan xuống tóc. Cửa từ bi luôn rộng mở nên không cần vội vàng. Tuy nhiên, nữ thí chủ này lạ lắm, chị đến đây không phải vì hai nhẽ trên. Cứ ngày rằm hay mùng một hằng tháng chị lại đến chùa, đôi khi ở chơi suốt buổi. Có bữa chị nói rằng thầy tuy không gia đình nhưng lại có rất nhiều con. Những chú tiểu, rồi các thí chủ đều xưng con với thầy. Còn chị, chị đã từng lập gia đình mà lại chẳng có con. Rồi chị cười, méo xệch. Khách đến viếng chùa thấy chị hay lui tới cũng sinh dị nghị. Một người đàn bà có nhan sắc, lụa là son phấn mà đi một mình là chắc có nhẽ gì rồi? Bụng dạ người đời không xấu, nhưng trông thế ít nhiều người ta cũng thoáng nghi ngờ chị vướng tơ lòng với sư thầy. Tháng trước chị đến chùa, vẻ buồn thảm hơn mọi khi. Thầy coi bộ chị muốn khóc lắm rồi, nếu vậy thì nên đưa chị ra ngoài cho thoáng, ngồi trong chùa lại quấy quá cửa thiền. Thế là thầy mời chị ra ngồi ở ghế đá dưới cây si, chỗ thầy từng thấy đôi trai gái hôm bữa. Sư thầy vẫn chưa biết chị cần gì, chị không cần xin con nuôi, cũng không muốn đi tu. Tự dưng chị chảy nước mắt, tựa đầu lên vai thầy. “Đôi khi con cũng muốn có một bờ vai để tựa lắm, thầy ơi!” Sư thầy vẫn cứ ngồi yên như hóa tượng. Vài lần sau chị đến chùa, lại xin thầy cho tựa đầu vào vai một lúc. Chỉ thế thôi, không hề ngợi nghĩ đến cảm giác trần tục. Đơn giản là chị muốn được nhắm mắt để trí óc yên tĩnh trên một bờ vai chân chính. Từ dạo đó khách đến chùa vãn đi trông thấy. Lại nghe phong thanh chuyện quý đạo hữu đề nghị giáo hội mời sư thầy khác về làm trụ trì. Mấy đệ tử trong chùa ngó thấy cảnh này đâm ra không còn tin tưởng thầy như trước, họ xin thầy cho đi chùa khác tu. Thầy đồng ý, tự nhủ với lòng mình điều tâm niệm thứ mười của nhà Phật: oan ức không cần bày tỏ. Tuy đã tu lâu rồi, lòng thầy như đã an lắm rồi, nhưng nhìn từng đệ tử khoác túi vải rời chùa, thầy cũng chạnh buồn chút chút. “Các con của ta cứ bỏ mà đi. Biết đâu đến một lúc ta lại thành không con, như nữ thí chủ ấy. Đó là lẽ vô thường chăng? Sắc sắc không không”. Riêng điệu Sanh vẫn ở lại với thầy, vì điệu ấy nhỏ tuổi nhất, còn vô tư lắm. Điệu Sanh chưa biết những chuyện phải trái trong cõi người. Hay ngược lại, chính điệu Sanh mới là người hiểu rõ nhất? Thầy đang đứng trước thềm chùa vẩn vơ nghĩ ngợi thì điệu Sanh chạy tới kéo thầy ra dưới tán si. Điệu trỏ tay xuống nền: “Thầy ơi, ngộ quá! Có hai chiếc lá đang tựa vào nhau. Gió thổi mà chúng vẫn không hề xê dịch như mấy chiếc lẻ đơn kia”. Sư thầy xoa đầu điệu Sanh: “Ừ. Khéo quá ha. Bữa nay thầy cho phép con thôi nhặt lá”. Điệu Sanh hơi bất ngờ, ngước mặt lên hỏi lại: “Thế ai sẽ nhặt hả thầy? Các sư huynh đi cả rồi. Có phải thầy sẽ nhặt không?”. Ừ. Phải chăng bây giờ đến phiên thầy nhặt lá si? Câu hỏi bâng quơ của điệu Sanh khiến thầy giật mình. Im lặng. Chợt điệu Sanh nhớ lại chuyện hôm bữa có hai cô chú ngồi ở chỗ ghế đá này, điệu reo lên: “A! Con biết rồi. Cứ để yên thế cho người ta tựa vai vào nhau, khỏi ngần ngại. Phải không thầy?” * Đêm mưa gió, lá ngoài kia trút nhiều. Điệu Sanh nằm nghĩ chắc sáng mai phải dậy sớm cùng thầy quét chùa, rồi ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ điệu Sanh thấy các sư huynh mang tay nải quay lại chùa, quý đạo hữu cũng đến viếng chùa đông như mấy bữa. Trước chùa, không có ai nhặt lá mà sân sạch, si sạch. Bóng Đổ Trên Đường Đi Đêm thiếu trăng, sân chùa vắng lặng, tịnh không một bóng người. Chỉ có cái bóng đèn móc ở trên mái hiên hắt sáng một vùng như chiếc màn phủ chụp lấy khoảnh sân. Từ đầu hôm, sư thầy đi thăm nhà một đạo hữu trong vùng đến giờ vẫn chưa về. Điệu Sanh bước xuống thềm hiên giỡn bóng, trò nghịch này có lần sư thầy đã khuyên điệu bỏ đi, đừng có đeo đẳng cái ám ảnh con người ta như thế. Nhưng hình như Sanh quên mất, lại vốn tính tò mò nên điệu luôn tìm cách khám phá những điều bí ẩn mà đôi khi người khác cho là vớ vẩn. Từ trong cái quầng sáng ở sân, điệu Sanh cố đưa mắt nhìn ra vườn cây, song chẳng thấy một thân cây nào, chỉ tuyền một màn đen. Sanh đi thẳng ra vườn, khi đã chìm trong bóng tối thì điệu nhìn rõ cả những chiếc lá đang đung đưa trên cành, vài nhánh khô gẫy rơi dưới đất nữa. Lạ quá, đứng trong chỗ sáng thì không thấy gì, ra chỗ tối lại thấy được? Điệu đem thắc thỏm này hỏi ngay khi sư thầy vừa vào đến cửa chùa. Sư thầy là một người thông tuệ, ngoài kinh kệ văn chương thầy còn giỏi cả kiến thức của các lĩnh vực khoa học tự nhiên. Rõ ràng đây là chuyện của ngành vật lý, hiện tượng đồng môi trường quang học, thầy biết căn cớ của nó. Nhưng nói chuyện vật lý với điệu Sanh chẳng khác nào bắt trẻ con mang đá vào đầu, nặng lắm! Hơn nữa, nếu như nhà thơ thi vị hóa cuộc sống, nhà văn tô vẽ cuộc đời, thì bậc tu hành có thể cảm nhận mọi hiện tượng tự nhiên thông qua một thứ lăng kính gọi là nhân sinh quan. Thầy sẽ giải thích điều đó với điệu sanh bằng cách vừa dễ hiểu mà lại thấm nhuần đạo pháp, trước nay vẫn vậy. Hai thầy trò vào ngồi ngay ngắn trong tịnh thất. Buổi học của điệu Sanh bắt đầu, người truyền thụ không ai khác chính là vị sư khả kính. Sanh đã quên khuấy cái điều lúc nãy, quên như kiểu người ta vẫn nói trẻ con ngủ một giấc, sáng mai quên hết ấy mà. Nhưng sư thầy lại không nghĩ thế, thầy không cho cái sự thắc thỏm của điệu là “đồ trẻ con, để ý làm gì”. Sanh lật vài trang sách lấy khí thế cho buổi học. Trong lúc đó sư thầy đang sắp sẵn những ý tưởng để dạy, cốt sao cho điệu dễ hiểu. Xưa nay, học trò càng nhỏ càng khó dạy là vậy. - Hôm qua chúng ta đến đoạn thái tử Tất Đạt Đa xin phép vua cha cho đi coi tình hình dân chúng rồi, phải không điệu Sanh? – Thầy hỏi khẽ một câu cốt là để nhắc lại coi điệu có nhớ bài không mà thôi. Sanh sắp buồn ngủ, định ngáp vặt một cái thì phải há mồm dạ một tiếng rõ to. Sư thầy kể tiếp chuyện về lịch sử đức Phật Bổn sư Thích Ca. Sau khi được vua cha cho phép ra khỏi cung điện. Dù vua cha đã khuyên đoàn tùy tùng đừng để cho thái tử nhìn thấy cảnh cơ cực của dân chúng. Song, mọi sự khó qua được đôi mắt tinh anh của chàng hoàng tử có vầng trán thông minh ấy. Ra khỏi ánh sáng hoàng cung, hòa mình vào cảnh cơ cực của con người và sinh vật, Tất Đạt Đa đã nhận ra nỗi khổ thế gian. Kể đến đấy, sư thầy dừng lại, úp nhẹ lòng bàn tay vào vai điệu Sanh. - Cái điều con hỏi lúc nãy, chính là đây. Khi ở nơi ánh sáng, ta khó nhận ra được những điều ở trong bóng tối. Như thái tử Tất Đạt Đa sống sung sướng trong hoàng cung thì không thấy hết nỗi cơ cực của cuộc sống ngoài kia. Chỉ khi ở trong cùng hoàn cảnh, con nhớ chưa, chỉ khi ở trong cùng hoàn cảnh người ta mới thấy rõ nhau. Buổi học kết thúc ở đó. Hình như Sanh chẳng để ý lắm đến câu chuyện mà thầy vừa kể, điệu nhíu mắt lại. Sư thầy cũng cảm thấy diễn giảng như thế còn trúc trắc khó hiểu và hơi xa vời so với một học trò chưa đầy mười tuổi, chi đành cho điệu ấy tận mắt chứng kiến. Trước khi nghỉ, thầy dặn điệu Sanh sáng mai hãy cùng thầy xuống phố. Sanh mừng quá, tan cơn buồn ngủ. Xuống phố vui lắm, đông người, nhiều xe cộ, lắm trò thích nhé! Tối đó điệu Sanh nằm trơ mắt khá lâu, cảm giác ngóng chờ đến sáng để được đi chơi cùng thầy. Trong căn phòng không ánh đèn, điệu nhìn thấy biết bao nhiêu thứ, đúng ra là điệu đang tưởng tượng ra nhiều điều, xen lẫn vào cả giấc mơ. * Sáng hôm sau điệu Sanh dậy sớm hơn mọi ngày. Thường thì sau khi thầy thỉnh xong hồi chuông điệu mới dậy hẳn. Riêng sáng nay, có lẽ do muốn xuống phố nên Sanh bật dậy trước khi nghe chuông. Súc miệng xong, điệu bước vào chánh điện, quỳ đảnh lễ cùng thầy. Nghi thức hành lễ đầu ngày không quá dài, kết thúc bài kệ Hồi hướng trời vẫn chưa sáng hẳn. Trong chút nhờ nhờ ảo mị, ánh sáng ban mai quyện với sương, chỉ đủ để mắt nhìn ra tới cổng chùa, hai thầy trò tay nải bắt đầu chuyến đi. Đây là lần đầu tiên điệu Sanh được xuống phố cùng sư thầy. Một năm ở chùa, quen với cảnh ở đấy rồi, thành ra Sanh cũng không mấy nghĩ gì đến việc được đi tới những nơi ồn ào đông đúc. Vả lại, trong đầu Sanh, hình ảnh phố xá cũng là thứ xa xỉ mà thôi. Có thì tốt, không cũng chẳng sao, cái hứng thú đi phố hôm nay chẳng qua là tính hiếu kỳ trẻ con. Riêng sư thầy lại khác. Chuyến đi theo dự tính vỏn vẹn một ngày thôi nhưng thầy không muốn vô bổ. Mỗi bước đi của người tu hành đều phải có chơn niệm và mang lại chơn quả. Ý định đi xuống phố mới nảy sinh tối hôm qua, lúc thầy giảng bài cho điệu Sanh xong coi bộ hàn lâm quá, đành phải tiếp cận hiện thực, như cách giáo dục học đi đôi với hành. Lại nhớ lời dạy của đức Bổn sư trước khi nhập diệt đã nói với ông Tu Bạt Đà La, đại ý, con đừng có tin vào bất cứ ai cả, dầu đó là lời nói ra từ một đức giáo chủ, con hãy tin vào chính mình. Hòa mình vào cuộc sống ngoài kia cũng là một nhiệm vụ của người tu hành, để tìm được chân lý cho niềm tin vững chắc chứ không nhất thiết chỉ dựa vào kinh kệ pháp thư truyền lại. Một công đôi việc, đi để dạy cho điệu Sanh, cũng là để cho thầy tu tập. Quãng đường từ chùa xuống phố thả bộ chừng nửa tiếng. Mải ngắm cây cỏ ven đường nên thi thoảng điệu Sanh rớt lại phía sau thầy vài bước. Nắng bắt đầu lên. Sanh đi sau, giẫm chân chạm vừa đến cái bóng đổ chập chờn của sư thầy. Chợt nhớ có lần bị thầy quở vì trò giỡn bóng, điệu bước vội lên trước. Lát sau đã tới cái nơi cần tới. Phố hôm nay y như rằm thầy nhỉ? Sanh thốt lên một câu ngộ nghĩnh trước cảnh người xe ngược xuôi rộn ràng trên đường. Ở chùa, chỉ có rằm mới đông, mà cũng không đông như ngoài phố. Lui tới vẫn những khuôn mặt quen thuộc của đạo hữu và phật tử trong vùng thôi. Ngoài phố đúng là ngày nào cũng đông như rằm thật đấy, nhưng họ không dễ gì quen mặt nhau, mỗi giờ mỗi phút lườn lượt người qua quả là khó nắm bắt được vẻ hình. Nếu có gặp người quen chưa chắc kịp chào nhau một câu cho trọn vẹn. Một quãng đường vốn là nơi kẹt xe vào giờ tan sở, ùn lại, người sau đẩy người trước. Buộc phải đi. Gấp gáp thế nhưng chẳng tiến được là bao, thầy nhỉ? Thỉnh thoảng điệu Sanh lại hỏi những câu giản đơn khiến thầy băn khoăn. Hình như người ta buộc phải đi và sống theo kiểu đó. Ai cũng biết càng chen lấn chỉ tổ làm chậm vướng chân nhau, nhưng không ai chịu nhường ai vì không tin tưởng người kia cũng có ý thức nhường nhịn như mình. Thành ra cái lòng tin dần dần nhạt đi! Từ lề đường, thầy dắt tay điệu Sanh len hẳn vào giữa cái đám đông như ghim đinh nhau ấy. Những người cầm lái xung quanh thấy hai cái đầu trọc ngồ ngộ, nửa tò mò ngắm nghía nửa muốn nhường giới tu hành nên không lấn át nhau nữa. Có ý thức một chút rồi. Và họ đâu có ngờ rằng, mười mấy năm sau, tức vào cái thời điểm tác giả đang kể câu chuyện này, có một nhà sư thực hành nhất bộ nhất bái. Trên con đường quốc lộ xe cộ chạy như đua, hình ảnh một nhà sư thong dong chậm rãi đi một bước cúi xuống vái một lạy đã khiến nhiều tài xế lưu tâm mà giảm tốc độ cho. Đến ngã năm không có bùng binh, nhưng toán xe cộ đã vô tình cô lập hai thầy trò ở chính giữa, và tự dưng hai thầy trò hệt một cái bùng binh tưởng tượng cho từng loạt xe vo cua. Người vẫn xoáy quanh như quấy xô đa, đặc quánh lại. Có người lái xe chạy hết một vòng quanh hai thầy trò mà vẫn chưa tìm ra nghẽ ngách nào để rẽ về nhánh đường của mình. Thế đấy, đôi khi biết con đường đúng rồi mà không thể đi vào được, đành phải luẩn qua luẩn quẩn. Những biển báo chỉ dẫn đường đi chi tiết. Ai cầm lái đều có bằng, có hiểu luật giao thông. Song, không phải ai cũng tuân thủ. Vượt đèn đỏ, chạy ngược chiều, đi sai làn đường… Biết sai cả đấy, thế mà vẫn cứ liều. Có khổ không! Hai thầy trò đi thêm vài con phố nữa. Tuy không đông đúc như cái phố trung tâm. Đường có thưa hơn nhưng người ta phạm luật thì vẫn cứ. Thấy thưa thớt thì đánh võng, đua xe, hoặc không đua mà vẫn ráng bồ cóc ra chạy vút cái lèo. * Đứng giữa phố phường, tự dưng Sanh nhớ ngôi làng nhỏ bé của mình, nơi ấy Sanh đã sống mấy năm tuổi thơ trước khi vào chùa. Nhớ là vì hồi đó mấy đứa trẻ con trong xóm cứ ao ước được lên phố cho biết, nghe nói trên phố người ta giàu sang sung sướng lắm. Chả bù cho cái làng được bao quanh toàn đồng ruộng của mình. Bắt đầu mùa, nhà nhà dắt trâu ra đồng cày ruộng. Nắng trưa hành hạ người cày. Người cày cầm roi tre quất trâu đi, đứng đó mà thở đấy à? Đi! Đi! Giống cảnh người trên này húc bánh xe vào nhau mà thúc. Bóng người bóng trâu úp lên nhau trên mặt đất bùn lô hốc lô hiểm. Đến mùa gặt nắng lại càng to. Bà con mừng lắm vì nắng càng to phơi lúa càng sướng. Còng lưng đưa vằng vơ từng bó lúa. Bóng người bóng nón trải lên trên khóm chẹn lúa vàng. Phăng tay gặt luôn cái bóng. Điều này người ta rất kiêng kỵ, cũng phải làm thôi. Phang vằng rồi cái bóng vẫn ở trước mặt. Mấy đứa trẻ con rủ nhau đi tát cá ở những hố bom giữa đồng. Lấm la lấm lết bùn dính từ đầu xuống chân. Bắt được oi cá đem về cho mạ nấu ăn. Cả nhà mừng lắm. Nhưng ba lại buồn, nói tụi bay sau này đừng có ở làng này nữa. Cực! Kéo nhau lên phố mà ở cho sướng. Thì bây giờ Sanh đang đứng ở phố này, nghĩ bụng, phố cũng chẳng phải sướng đâu. * Về đến cổng chùa thì đã chiều muộn. Trời nhá nhem mờ mờ như hồi sáng ra đi. Ngày thứ nhất xuống phố, hai thầy trò chẳng quan sát được gì nhiều ngoài chuyện xe cộ. Chỉ chừng ấy thôi, ý thầy là để điệu Sanh thấy cái xô bồ tất bật của cuộc đời, cảm được cái khổ của sự đua chen chứ không phải đơn thần chỉ quan sát giao thông. Hơn nữa, bài học đầu tiên của chương trình thực hành là bài học về con đường. Người ta phải biết được con đường mình đi như thế nào đã rồi mới đi được. Sự tu tập cũng khó khăn như thế, và cũng cần có một con đường, không gì khác ngoài việc đi thẳng vào cuộc đời chẳng ngại lánh né. - Xuống phố một ngày con thấy được gì, điệu Sanh? Thầy hỏi khi hai người đã về tới vườn cây trước chùa, những mong điệu Sanh ngộ ra một cái gì đó để tự trả lời cho điều thắc thỏm tối hôm qua. Khi ấy, nắng đã tắt hẳn một cách chóng vánh. Trong bóng tối vườn chùa, điệu Sanh như nhìn thấy những mặt người lo âu khắc khổ hiện ra, chen lấn với lá cành. Riêng có một thứ ở trong chiều muộn này không thể nhận ra được. Và Sanh đem nó ra trả lời. - Dạ, con thấy dưới phố ai cũng đeo theo mình một cái bóng đen, cả thầy cũng có. Làm sao dứt được cái đó hả thầy? Lại thêm một câu hỏi khó cho thầy nữa rồi, đành hẹn bữa sau. Đường Về Nẻo Thiền S ớm nào cũng vậy, hễ sư thầy đánh thức điệu Sanh dậy để đi học là điệu lại làm biếng. Mùa thu ở miền cao này mỗi buổi tối hơi đá phả ra, đến tận lúc trời sáng ai cũng thèm trùm chăn ngủ thêm chút nữa. Điệu Sanh mắt ngái ngủ, cứ nằm ì ra. Có khi thầy phải xốc lấy hai nách điệu kéo ra khỏi mùng màn. Sanh khóa chéo hai chân lại, ưỡn thẳng người, gân cơ căng cứng, cố ý đừng để ai lôi mình dậy. Thầy vừa bồng điệu Sanh, vừa nhỏ nhẹ: - Dậy thôi con. Sáng trợt sáng trời rồi. Rồi thầy bế hẳn Sanh xuống khỏi giường. Khi hai chân điệu vừa chạm đất là thầy thốt lên “ui, xịch”. Hôm ấy là ngày tựu trường nên thầy đánh thức điệu Sanh dậy sớm hơn mọi ngày. Miễn cho điệu ấy việc tụng kinh đầu ngày. Thầy chỉ cử mấy hồi chuông rồi đi rửa mặt mày tay chân cho điệu Sanh. Lát sau Sanh đã tỉnh hẳn, quay sang nói với thầy: - Lát thầy dẫn con đến trường nghe thầy. - Ừ, thầy đưa con tới cổng thôi. Điểm tâm sáng xong, thầy lấy ra bộ áo quần lam mới. Bộ áo quần này do chị bán vải ở chợ tặng cho điệu Sanh nhân ngày chú ấy nhập học. Sanh mặc áo quần vào, ngửi mùi vải thơm, tự dưng thèm đến trường. Thầy lấy chiếc mũ xà cút tứ ân màu xanh lá mạ đội lên đầu Sanh. Ngắm nghía chú tiểu của mình. Trông cũng hay hay. Lần đầu tiên Sanh mới đội mũ chóp tứ ân nên điệu thấy hơi cấn cái, cứ ngúc ngoắc đầu rồi hỏi thầy sao gọi nó là mũ tứ ân. Thầy nói tứ ân là bốn ân lớn cần đặt lên trên đầu. Thứ nhất là ân cha mẹ, thứ hai ân thầy cô bạn bè, thứ ba ân quốc gia xã hội, và ân tam bảo nữa là thứ tư. Thầy khoác lên vai điệu Sanh chiếc túi xách may bằng vải lam bên trong đựng ba quyển vở với cây bút. - Chà, ra dáng học trò thư sinh dữ nghe. Gắng học con. Đến trường có bạn bè chơi vui lắm, nhưng đừng hoang nghịch. Đến trường phải nghe lời thầy cô. Sanh dạ, rồi hai thầy trò cùng men theo con đường mòn tới trường. Sanh không đi học lớp vỡ lòng, nhưng từ lúc vào chùa sư thầy đã dạy cho điệu toàn bộ bảng chữ cái. Nhờ vậy nên mới tới trường chưa đầy một tháng, Sanh đã ghép chữ đánh vần được. Vì thế điệu rất thích đọc, hễ gặp bất cứ nơi đâu có hình thù chữ cái là điệu dừng lại đọc cho bằng được mới chịu đi. Hôm đi học về, ngang qua một quán nhỏ nằm bên chân núi, Sanh đọc biển gỗ nhỏ màu xanh treo nơi thân cây. Bảng chữ hai câu xếp theo hai hàng. Hàng trên màu vàng ghi chữ: “Quán nhậu bình dân”. Phía dưới ghi: “Chùa cách 100 mét”, chữ màu trắng nhỏ hơn. Tấm biển này mới đóng lên cách đây mấy hôm. Đang mùa vu lan, biết khách thập phương tụ về chùa đông, đường về chùa lại khó tìm nên chủ quán đề thêm cái dòng chữ chỉ dẫn phía dưới. Có người khen chủ quán cũng có tấm lòng. Nhưng lại có người bảo như thế chẳng qua là một cách câu khách. Đa phần người lên chùa đều cố giương mắt tìm một vài chỉ dẫn. Và cứ thấy biển chữ là người ta đọc xem có phải hướng dẫn không. Nhưng đập vào mắt người ta dòng chữ quán nhậu trước tiên, to và rõ hơn dòng chữ hướng dẫn lên chùa. Vài người nói ra nói vào làm vậy không có được. Thà không chỉ dẫn còn hơn là chỉ dẫn thiếu nhã nhặn. Đường lên núi đã khó, leo dốc từ dưới kia lên đây đã mệt, chỉ mong tới được chùa. Dẫu còn một trăm mét thôi nhưng giữa hai dòng chữ ấy, giữa hai lối ấy, một lên chùa, hai đi vào quán, thời ai cũng muốn ghé vào nghỉ chân chút. Đàn bà mệt uống nước, nhưng đàn ông khát cứ thèm ngụm bia cho khỏe. Trừ số ít người mặc áo lam đến chùa, còn phần nhiều cánh đàn ông khi vào chùa đều đã có mùi men. Điệu Sanh nói với thầy: - Hôm bữa có một bác đến chùa ôm lấy con mà mùi bia rượu nồng nặc. Tại cái quán kia bán đồ nhậu đó thầy. Thầy cũng biết điều đó, nhưng cấm người ta sao được. Thầy chỉ quản lý được ngôi chùa nhỏ này và khuôn viên chừng một mẫu đất, dưới kia là của người ta rồi. Mà đường về nẻo thiền thì dài và trắc trở, người ta mệt muốn nghỉ ai dám cấm. Đường về nẻo thiền của thầy và các chú tiểu cũng còn dài và trắc trở, chính thầy cũng đâu có dám tin tưởng mình đi trọn vẹn và thông tâm được. Bằng chứng là mỗi cuối tuần thầy đều cho điệu Sanh ăn một bữa mặn ở cái quán ấy. Điệu Sanh còn nhỏ, cần có chút mặn mòi để lớn. Thế có khi thầy cũng duồng theo người ta rồi chứ chẳng chơi. Chao ôi, cùng trên một tấm biển mà có hai lối đi. Chay và mặn, đạo và đời, tịnh và phàm sao gần nhau quá. Một hôm, điệu Sanh về muộn hơn thường ngày. Cái tính mải chơi ham vui của điệu ấy khiến cho sư thầy lo lắng. Thầy bảo điệu Năng đi tìm coi điệu Sanh ở đâu. Năng lớn hơn Sanh hai tuổi, tính tình lại ôn hòa nhẹ nhàng và biết nghe lời nên thầy nhủ cái là Năng đi ngay. Năng cũng thương Sanh như em ruột, nên nếu thầy lo cho Sanh mười phần thì Năng cũng lo cho sư đệ sáu bảy. Điệu Năng rảo bước lần theo đường về dưới phố, vừa đi vừa niệm chú Quán Thế Âm để cầu mong không có điều gì bất trắc xảy ra với sư đệ. Đến ngang quán nhậu, mùi thơm thịt hầm đã xốc ngay vào mũi. Nước bọt cứ ứa ra chèn lấy cổ họng Năng khiến điệu không thể niệm chú được nữa. Bước chân cũng nhấc chậm lại, nặng nề hơn. Điệu Năng thấy túi vải của Sanh móc ở cổng nên an tâm chắc sư đệ đang ở đây. Năng bước đến nép tựa vào gốc cây nhìn. Điệu Sanh đang ngồi trong bàn ăn. Chễm chệ như bao thực khách khác. Trước mặt là tô bún bò bốc khói ngậy. Điệu Năng nhớ sư thầy dặn rằng, trời đánh tránh bữa ăn. Đừng quấy rầy lúc người ta đang ăn mà mắc tội. Thế nên điệu cứ đứng ngoài đợi cho Sanh ăn xong bước ra chứ không gọi. Điệu Sanh ăn xong, cảm giác khoái khẩu vẫn còn. Một xíu lá hành xanh còn dính bên mép môi. Năng đưa tay quệt đi cho sư đệ. Sanh hỏi: - Huynh tới lâu chưa, sao không vào ăn cùng em? - À, cũng mới. Tui không được phép Sanh ạ. Về thôi. Thầy mong. Đi một chặng, điệu Sanh quay sang nói với Năng: - Hôm nào huynh lén đi ăn mặn với em nghe. Điệu Năng không nói gì. Có vẻ cũng thèm đấy, nhưng ngay lập tức phải loại trừ ham muốn ấy đi. Thầy dặn rồi, cái gì có mầm nguy hiểm đừng nên tiến hành, ý nghĩ nào phạm giới nên ngưng ngay. Năng nói: - Hôm nay chưa cuối tuần sao Sanh ăn mặn vậy. Sư thầy quở chết. - Hì, tại em đói quá. Sáng nay giờ ra chơi chạy nhảy nhiều mau đói. Mà thầy không nạt em đâu. Hai chú tiểu về đến chùa. Sư thầy đã ngồi bên mâm cơm chờ ăn cùng. Thấy đệ tử, thầy hỏi: - Sao đi học về muộn thế con. Lại ham chơi đẩu đâu đúng không? Năng đỡ lời cho sư đệ: - Điệu Sanh mải hái hoa thôi thầy ạ! Hai chú tiểu cùng vào mâm cơm. Sanh thò đũa chọn một vài hạt đậu lạc ướp xì dầu rồi thôi. - Sao ăn kỳ vậy con? – Thầy hỏi. Sanh nhanh nhảu đáp: - Dạ, lúc nãy con ghé vào “quán nhậu bình dân chùa cách một trăm mét” ăn bún bò rồi thầy. Năng nghẹn đi. Thế là điệu Sanh nói thật rồi. Mất công Năng nói đỡ cho điệu Sanh. Sau bữa cơm, thầy trách khéo điệu Năng: - Hôm nay con vừa phạm hai lỗi. Thứ nhất là nói dối thầy. Thứ hai là bao biện cho sư đệ. Như thế là không nên. Đừng có ủng hộ cho cái sai của người khác con ạ. Làm vậy là mình cũng sai theo. Đêm trăng non, thứ ánh trăng mong mỏng khiến sư thầy thích uống trà. Dù biết rằng buổi tối mà uống trà là khó ngủ. Hai chú tiểu đang ngồi học bài trong tịnh thất. Thầy nhẹ nhàng đi lấy nước sôi, tự tay pha một ấm nhà nhạt rồi bưng ra đặt nơi chiếc bàn kê đầu hiên. Có lần, điệu Năng buổi tối ra ngồi ở chiếc bàn này ngắm trăng, vẻ nhơ nhớ một điều gì đấy. Cái cảnh trăng đêm dễ khiến người ta thèm bầu bạn, thèm tự do và nhớ một chốn nào đó xa xôi. Bữa ấy thầy biết Năng thèm về với đời, nhưng quê ở đâu mà về, điệu Năng bị bỏ rơi trước cửa chùa từ khi đỏ hỏn. Sau lần đó thầy cố ý không cho các đệ tử ngồi ngắm trăng đêm nữa, sợ những phút giây xao lòng làm lệch lạc chí hướng tu tập. Thế mà đêm nay thầy ngồi ngắm trăng và uống trà. Cái biển gỗ treo ở quán nước gần chùa ám ảnh thầy. Dù chỉ mới nghe qua lời kể của điệu Sanh chứ thầy chưa tận mắt nhìn thấy. “Quán nhậu bình dân, chùa cách một trăm mét”. Gần quá. Buổi tối tiếng khách rôm rả dưới ấy thỉnh thoảng vẫn vang lên đây. Thiên thời địa lợi. Trời đẹp, quán nằm treo bên bìa rừng. Đối với người thích du hí thì không quản ngại chạy năm cây số đường đêm để tìm một chốn hữu tình. Địa cơ ở đây tốt, chùa chắc sẽ nên thôi. Hồi sư thầy mới về gây dựng chùa đã có một cụ ông trong làng đến xem đất mà nói vậy. Nhưng ở đời cái chỗ tốt không chỉ riêng mình biết, cái miếng ngon đâu chỉ riêng mình dùng. Chốn đẹp có chùa thì cũng có dịch vụ quán xá nổi lên. Mấy cái quán bán nước cho khách nghỉ chân, bán nhang đèn cho người ta viếng Phật thì không nói làm chi. Đằng này tự dưng quán làm thêm dịch vụ nhậu nhẹt. Mà còn treo tấm biển lạ kỳ. Nhưng thầy không cấm được. Cõi người lắm tham sân. Nhiều khi vì miếng cơm manh áo buộc lòng người ta làm những điều mình cần, dầu biết việc ấy gây ảnh hưởng xấu đến người khác. Thầy cũng không buồn nhiều về chuyện đó, thầy chỉ lo cho các đệ tử của mình thôi. Trước đây đã có vài đệ tử bỏ thầy mà đi. Rời đạo về với đời. Thầy tự trách cái đức của mình ít, chỉ đủ để tu dưỡng cho bản thân chứ chưa nâng đỡ được nhiều đệ tử. Hai chú tiểu vẫn đi học qua về con đường ấy. Chỉ một con đường dẫn từ chùa xuống núi để đến trường mà thôi. Điệu Sanh học buổi sáng, điệu Năng học buổi chiều. Cứ cuối buổi chiều, lúc Năng đi học về là quán thường có khách ngồi nhâm nhi. Đôi khi điệu Năng đi quá một đoạn rồi nhưng vì mùi thơm hành mỡ khiến điệu chững lại, đi chậm hơn. Cho đến khi nghe tiếng chuông chùa điệu mới rảo bước đi cho dứt được. Vài lần điệu Năng đi học về muộn hơn, sư thầy biết là điệu ấy bị cái mùi mặn mòi ngoài kia làm chậm bước chứ Năng chẳng ham chơi như điệu Sanh đâu. Thế nên canh chừng lúc điệu Năng gần về tới chùa là thầy thỉnh mấy tiếng chuông vọng ra. * Một hôm điệu Sanh hí hửng báo với thầy cái biển gỗ ở quán đã không còn nữa. Quán vẫn bán bình thường nhưng chỉ cất tấm biển đi thôi. Thầy ừ với điệu Sanh một tiếng. Rồi nghĩ, cái biển đã cất đi nhưng đường về nẻo thiền vẫn chỉ một lối ấy. Đường đạo đường đời chung nhau, dầu có chỉ dẫn hay không thì điều quan trọng là do người đi mà thôi. Hôm khác đi học về, điệu Năng vẻ buồn buồn, mếu miệng nói với thầy: - Thầy ơi con không đi đường ấy nữa đâu. Sư thầy xoa vai Năng an ủi: - Có một con đường ấy thôi con, chẳng thể còn lối nào khác. Đi cho khéo là được. Tâm Bão …Vào hồi 5 giờ sáng hôm nay, ngày 26 tháng 9, vị trí tâm bão ở vào khoảng 16,4 độ Vĩ Bắc; 110,1 độ Kinh Đông, cách bờ biển Đà Nẵng – Quảng Ngãi khoảng 120km, sức gió mạnh nhất ở vùng gần tâm bão mạnh đến cấp 8, giật cấp 9, cấp 10. Dự báo trong mười hai giờ tới, bão di chuyển theo hướng Tây - Bắc, mỗi giờ đi được khoảng 10 đến 15km. Đến 19 giờ hôm nay, vị trí tâm bão ở vào khoảng 16,6 độ Vĩ Bắc; 108,3 độ Kinh Đông, trên vùng bờ biển các tỉnh Quảng Bình - Đà Nẵng, và tràn vào đất liền… Tiếng báo hiệu thảng thốt vang lên từ chiếc radio đặt trong tịnh thất của ngôi chùa nhỏ. Lúc ấy mới sáu giờ, trời chưa sáng hẳn. Sư thầy vừa tụng xong hồi kinh đầu ngày, đang vặn nhỏ lại mấy cây đèn dầu trên bàn thờ, nhỏ đến mức mỗi chúp lửa chỉ còn bằng hạt đậu xanh. Điệu Sanh biết thầy có thói quen nghe đài buổi sớm nên ngay sau khi dứt chuông vãn hồi, điệu đã rời chánh điện, lui vào tịnh thất bật đài lên. Và tin bão đến. Nghe tin, thầy không bất ngờ lắm, vẫn an nhiên vặn nốt ba cây đèn còn lại. Tháng chín là mùa mưa bão, xưa nay vẫn vậy, lạ gì đâu mà phải giật mình hay nao núng. Chuyện đâu đã có đó. Bây giờ ngoài trời vẫn đang mưa đấy thôi, lúc râm rỉ khi ào ạt. Mưa kiểu dằng dặc của mùa đông xen lẫn từng đợt mưa trộ của tiết hè. Mưa xạo bên này xạc bên kia, chẳng biết đâu mà lần. Sư thầy kéo lại tà áo cà sa cho bớt lạnh rồi bước vào tịnh thất, vừa đến cửa đã chạm phải điệu Sanh luống cuống chạy ra. - Có bão, thầy ơi! - Không sao đâu, gió mùa thôi con - vừa nói thầy vừa chỉ tay ra vườn cây bao bọc quanh nương chùa - đã có cây cối ngăn bớt, con đừng lo chi cả. Thực tình, nói là không lo để cho điệu Sanh khỏi sợ, chớ thầy cũng có chút hoang mang. Ở chùa thì chẳng sao, nhưng còn bà con quanh vùng nữa, không lo hóa ra mình vô tâm. Hai hôm trước thầy đi qua đồng, thấy xóm làng đang vào vụ mùa hè - thu. Lúa vàng chen lẫn lúa xanh. Cả cánh đồng thênh thang như thế mà mới gặt có được vài thửa; còn lại nhà thì chờ lúa chín, nhà thì chờ nắng lên mới cắt về phơi phóng. Thầy không làm ruộng vì đất chùa hẹp, chỉ trồng được vườn cây săng lẻ xen vài gốc cổ thụ. Nhưng xuất thân từ con nhà nông nên thầy hiểu cái khó khăn của nghề trông chờ “ơn trời mưa nắng phải thì”. Thầy vặn to lên chiếc radio nghe tin tức, chặp hồi nhà đài lại cắt ngang bản tin để thông báo tin bão khẩn cấp, các công điện khẩn của chính phủ và lãnh đạo tỉnh. Nghe thế cũng ấm lòng hơn, vì chẳng ai bỏ đồng bào mình trong cuộc thiên biến. Quan chức, xưa nay vẫn bị tiếng là vô tâm, nhưng đến lúc hoạn nạn thì tự dưng cái tình người nó trỗi dậy. Mải nghe tin tức, trời đã sáng hẳn tự lúc nào. Gió lặng. Cây trong vườn tạm thời đứng yên, chỉ còn lá vẫn nhỏ những giọt mưa xuống nền đất ẩm. Chị gái bán vải, “người quen” của sư thầy, bước vào chùa, cởi chiếc áo mưa mỏng ra rồi vái chào. Nhiều lần chị đến thăm chơi, thành ra sư thầy cũng coi chị như một phật tử thân tín. Và lần nào gặp nhau, cả thầy cả chị đều nở nụ cười thanh thoát sau nghi thức chắp tay chào vốn dĩ của nhà chùa. - Mưa quá thầy ạ – vừa nói chị vừa đưa tay vuốt lẹ khuôn mặt ướt đẫm nước, vẫn còn vài giọt bám ở dưới tai và hai bên sống mũi. - Chị vừa dưới nhà lên hay đi đâu ghé vào? Mưa gió thế này… Thầy hỏi một câu mà như không hỏi, rồi bỏ lửng ngang đó. Trong lúc tay đang pha ấm trà. Mưa thì mưa gió dẫu gió, cũng phải làm ấm trà mời khách cho ấm cái đã. Chính nhờ vẻ điềm nhiên tự tại của nhà sư mà chị hay đến chùa. Bởi cứ hễ gặp thầy, dù chưa nói chuyện gì chị vẫn cảm thấy sự an tâm, một nguồn động viên kì lạ. - Con ở dưới nhà, thức dậy từ sớm. Nhưng nghe tin bão đến, chợ đò chắc cũng ế ẩm nên không ra mở quán. Trời thế này người ta lo cái ăn chứ ai nghĩ đến chuyện làm đẹp mà chăng lụa vải ra bán, phải không thầy? Chị cúi xuống, xách túi đồ đặt lên bàn. Một đùm muối mè với hai chai xì dầu. - Cái này con đem lên cho thầy với chú Sanh. Ngày mưa rét rau ráng trong vườn chùa không tiện kiếm. Với lại, biết đâu được, nhỡ mà lũ thì vẫn có cái ăn. Con cũng rang vội ít muối mè đem lên. Cái tính con nó thế, sống một mình nên cứ hay phải lo trước. Thầy đừng trách. Mấy chữ “sống một mình” mà chị vừa nói khiến thầy cảm thương quá. Hồi điệu Sanh chưa vào chùa, thầy vẫn sống một mình đó thôi. Song, bên thầy còn có những bức tượng Phật và Bồ Tát nên chẳng thấy cô quạnh. Còn bây giờ, khi nghe chị nói, tự dưng mắt thầy như trôi về phía căn nhà nhỏ của chị, ở trỏng đồ đạc đầy đủ nhưng vẫn thiếu những hình người. Một bức ảnh kỉ niệm ngày cưới thì chị đã gỡ xuống, tháo khung gỗ, cuộn tấm hình lại từ bữa li dị với anh. Chị đặt tách trà xuống, tay vẫn chưa hết lạnh khiến tách trà gõ tiếng cụp vào mặt bàn. Sư thầy thoáng giật mình. - Cảm ơn chị. Thế này thì phiền chị quá - chợt thấy lời vừa nói hơi khách sáo, thầy tiếp - mùa này mà có muối mè ăn vừa ngon vừa chắc bụng lắm. Hồi trước, bà cụ nhà tôi cứ hễ trời trở gió là đem đậu lạc ra rang, rồi giã muối hột trộn thành một hũ to. Thế này này - Thầy khoanh hai bàn tay quanh ấm trà. Nghĩ lại, thấy các cụ nhà mình cũng mẹo ra phết - Chẳng thế mà người ta bảo, ngày đông không chăn ăn cơm mè cũng ấm. Ngoài trời mưa tạm ngớt, gió phạt qua vườn cây viu viu âm thanh rất nhỏ. Cái khoảng lắng của ông trời ấy thật dễ sợ. Cứ như đang lũ mà có nắng là nước lên chứ đừng tưởng bở là trời tha. Và cũng chính lúc trời yên thế này, lòng người ai biết được, đang cuộn sóng mạnh, có thể nói ra hết nỗi niềm của mình. - Cứ đến mùa mưa lũ con lại sợ, thầy ạ. Cái hồi anh ấy mới đi khỏi nhà, mùa lũ đầu tiên nước tràn vào ngang đầu gối, con phải dùng cái bàn như căn nhà thu nhỏ, mọi sinh hoạt tất tần tật trên đó cả. Lắm lúc cứ muốn lao đầu xuống nước cho xong. Nói đến đấy, chị cúi xuống, buồn. Sư thầy chêm thêm nước vào tách trà. Thầy chẳng biết an ủi chị như thế nào, chỉ góp chuyện. - Ở đời, sống khó mà chết cũng chẳng dễ đâu. Chết chưa chắc hết khổ, có khi chính cái sự liều lĩnh dại dột ấy lại tạo khổ nghiệp cho kiếp sau. Chi bằng cố gắng sống, chứ tìm đến cái chết thì chẳng khác nào lối sống buông thả. Lạ thế, con người ta cứ nghĩ chết là hết, ừ thì hết thật đấy, nhưng vẫn chưa xong. Gió nổi một đợt, thốc mạnh, đánh ạt cánh cửa sổ gập sát vào bức tường. Chị xin phép ra về. - Con hiểu ý thầy rồi. Tranh thủ trời lặng mưa, con chạy ù về tháp lại mấy cánh cửa đã. Cũng may bão số bốn không đi thẳng vào vùng này, thầy ạ. Mình chỉ bị ảnh hưởng thôi. Đúng như lời chị nói, bão không đánh trực diện. Hiện giờ nó đang ở ngoài khơi và có xu hướng đi chếch lên phía Bắc, nhằm vào hòn đảo Hải Nam. Ở vùng này cùng lắm chịu ảnh hưởng gió và nước trên thượng nguồn đổ về gây lũ nhỏ. Thầy có một kinh nghiệm đoán bão. Cứ ra giêng, thầy thường đi quanh mấy lùm tre, tìm những chồi măng. Chồi măng mọc ngoài thì không sao, nhưng hễ nó mọc vào giữa bụi tre là năm ấy bão to. Có lẽ kinh nghiệm đó thuần túy suy luận, rằng người ta thường nói vững như tre trước bão giông, bây chừ mụt măng nó mọc giữa bụi thì chứng tỏ gió mạnh khiếp lắm. Thế nhưng từ dạo ra Tết đến nay, mấy lần thầy đi khắp lũy tre trong xóm, coi thật tỉ mẩn mà vẫn không thấy một mụn măng nào, thật khó đoán định. Đài lại chen ngang tin bão. Vẫn ổn định hướng đi, có thể bão đã lạc ra khỏi địa phận nước Việt. Nhưng cấp trên vẫn thúc giục nhân dân đề cao cảnh giác, không được chủ quan. Tính trời khó lường, như lòng người vốn khó đo vậy. Suốt cả ngày hôm ấy lòng thầy cứ hoang mang. Lúc nhà đài kể chuyện lãnh đạo tỉnh đang đi thăm các gia đình neo đơn là thầy lại nhớ đến chị. Cũng cảnh neo đơn, một thân một phận. Mà người sống cô đơn hay làm liều lắm, cứ nghĩ không còn gì để mất. Đến trưa, mấy cây chuối sau nương chùa chúc xuống, mưa mấy ngày nay làm long đất, thêm ít gió quật ngã chúng. Điệu Sanh xin sư thầy chặt số chuối ấy đóng chiếc bè, lỡ lũ chèo chơi. Chuyện đóng bè mùa lũ hầu như ai ở nông thôn đều biết, nó như cái thú vui của trẻ con khi nước về. Thầy cũng có một tuổi thơ như thế, chặt chuối đóng bè chèo quanh sân. Còn bây giờ, khi nghe điệu Sanh đòi đóng bè, thầy lại nhớ câu thơ của cụ Nguyễn Du: “Tiền đường thả một bè lau cứu người”. Có khi thầy phải đóng chiếc bè chuối, lũ còn chèo quanh xóm coi giúp được ai chút gì cũng nên. Trời tối sớm, mọi hôm giờ này kênh AM đang phát chương trình văn nghệ, riêng hôm nay tạm hoãn để phát tin tức gió bão khắp nơi. Hai thầy trò ăn bữa cơm chiều sớm hơn mọi ngày. Bữa cơm chay ngày gió đạm bạc, có thêm chén muối mè mà chị bán vải vừa đưa đến hồi sáng. Suốt bữa điệu Sanh chỉ ăn mỗi thức ấy, dùng muỗng vãi mè lên trên chén cơm mà xắn từng cục như ăn xôi. Cơm sớm, tụng kinh cũng sớm. Hôm nay chỉ tụng kinh cầu an thôi. Điệu Sanh mừng thầm, vì kinh cầu an tụng nhanh, chứ không như tụng kinh bộ, cứ ngồi miết suốt buổi. Mưa ngoài trời nặng hạt thêm, gió quật mạnh từng đợt sát phạt, ngọn gió sắc lẻm như roi cước quất vào da trâu. Cứ vu vu… vút… vút. Thầy đi quanh chùa, kiểm tra cửa ngõ một lần nữa cho an tâm rồi mới lên giường đi nằm. Hôm nay hai thầy trò ngủ chung một giường cho ấm. Sanh thích ngủ với thầy. Nằm với thầy chẳng khác nào ngủ chung với ông nội, hè thì ông phẩy quạt, đông thì ông ủ ấm cho. Thầy kéo chiếc mền che lên ngang cổ. Điệu Sanh thi thoảng cứ rụt đầu vào trong mền, ngốt quá lại thò đầu ra. Ngoài vườn gió vỗ vào bức tường cái rạt. Sanh giật mình, nghiêng người qua vòng tay ôm lấy thầy, dúi nguyên khuôn mặt vào bên sườn sư thầy. Nằm một hồi, thầy cứ trằn trọc, điệu Sanh cũng chưa chìm giấc, thật khó ngủ, cứ thiêu thiếu cái gì. Kể chuyện đi, mỏi mồm ắt sẽ ngủ. Ngày trước bà nội Sanh bảo thế. - Thầy ơi, hồi con ở làng. Trời lũ là cả nhà lại ngủ chung một chiếc giường. Mạ nằm sát trong vách, ba nằm phía ngoài vì lâu lâu phải thức dậy canh chừng nước lên. Con nằm lọt thỏm ở giữa, ấm lắm. Sư thầy chợt thương điệu Sanh quá chừng. Trẻ con thích nằm giữa mẹ cha, để quay bên nào cũng có tình thương. Còn giờ đây, điệu chỉ có một phía ấm áp, là sư thầy. Mà cái sự ấm áp ấy nó cũng không bằng tình mẫu tử được. Bất chợt Sanh kéo mền xuống, ngắc đầu lên nói nhỏ: - Thầy ơi! Hồi nãy sao không bảo chị ấy ở lại đây ngủ cho vui. Về dưới nhà chị ở một mình, giờ chắc cũng chưa ngủ được đâu. Ý nghĩ hồn nhiên của Sanh thật chẳng trẻ con chút nào. Bằng chứng là thầy đang xúc động mạnh. Ừ, biết đâu cho chị ấy ở lại đây lại là chuyện tốt. Thu xếp cho chị bảo chị nằm bên giường của Sanh. Chùa vắng, có thêm người càng đỡ hẻo chớ sao. Thậm chí, nếu có chị đang ở đây, thầy cũng cho phép điệu Sanh qua nằm cùng chị, để lây lan một chút tình cảm của người mẹ, thứ mà cả chị lẫn Sanh đều thiếu thốn. Càng nghĩ, thầy càng thấy tội cho điệu Sanh. Giá cái hồi đó thầy đừng nhận Sanh thì bây giờ đỡ áy náy. Bữa ấy thầy cứ ngỡ Sanh ham cảnh chùa, rồi vài bữa chán ngay thôi, ai dè điệu ấy có căn tu, mắc duyên với tam bảo đến vậy. Sư thầy nghiêng người qua phía điệu, vòng tay ôm lấy Sanh và vuốt nhẹ dọc sống lưng. Điệu Sanh đã ngủ, chốc chốc hít vào nhẹ rồi thở ra thật mạnh, kiểu đang vào giấc ngủ sâu thường thấy ở trẻ con. Thầy vẫn chưa ngủ được, hai mắt chẳng thấy mỏi, đành với tay sang lấy chiếc radio, vặn từ từ nút mở cho tiếng loa đủ nghe. Tin khẩn cấp, bão đột ngột rẽ hướng Tây và đã vào gần đến bờ, nghĩa là hướng về vùng đất liền nơi thầy đang sống. Hèn chi đầu hôm đến giờ gió cứ mạnh hẳn, thầy mải nghĩ chuyện đâu đâu quên theo dõi, cứ ngỡ đợt gió cuối cùng nó mạnh thế thôi. Ngoài sân lá đánh vèo vèo, điệu bay cuộn xoáy thật tròn của đám lá si, lát sau đã tán xuống sân lạo xạo. Sư thầy ngồi nhổm dậy, một ý định bất ngờ mới ập đến, cũng mạnh chẳng kém gì cơn bão. Khẽ đắp lại chiếc mền, cẩn thận bọc quanh người điệu Sanh, thầy bước xuống khỏi giường. Thắp cây đèn lên, cho lửa đỏ vừa hạt đậu. Mở một cuốn sách ra, đặt cây bút ở giữa, kiểu đang đọc dở. Việc này thầy đã từng làm trong những đêm khuya dậy đi vệ sinh, để lỡ điệu Sanh bất thình lình thức giấc mà không thấy sư phụ thì an tâm ngủ tiếp. Nhưng lần này, hình như thầy có ý đánh lừa điệu Sanh, bước đi cứ rón rón rén rén, lật trang sách cũng ngoái lui coi có làm Sanh trở giấc không. Xong, thầy bước ra khỏi tịnh thất, cố khép cửa thật nhẹ. Thật ra là giằng lấy cánh cửa từ bàn tay khổng lồ của ngọn gió đang chực đóng sập lại. Khoác vội chiếc áo mưa, thầy đi nhanh ra cổng chùa. Mặc kệ gió đang làm mình làm mẩy với cây cối trong vườn chùa, thầy đi về phía con người. Theo đường mòn hướng xuống xóm chợ, là cái nơi đông mặt người khắc khổ mà thầy ít khi đến. Ở đấy có một khuôn mặt đang hiển hiện dần trong đầu thầy, nước da trắng trẻo tái nhợt đi, chắc lạnh lắm. Rõ ràng khuôn mặt chị bán vải, hồi sáng còn tươi tỉnh mà bây chừ trắng bạch quá thể, mấy đường gân trên trán thâm tím lại. Người ta bán vải nhưng có khi lại khốn đốn vì thiếu áo quần ủ ấm cũng thường. Nói vạ miệng, không phải cám treo heo chết đói, song, đàn bà họ nghĩ cho người khác thì nhiều mà lại vô tâm với chính mình lắm. Khuôn mặt ấy cứ rõ dần rạng dần lôi thầy đi giữa xoáy gió đêm bão. Cũng nhanh như bão, thầy đã đứng trước cửa nhà chị. Rét run người. Chiếc áo mưa đẫm ướt mặt trong, dính chặt vào chiếc áo choàng nâu tu sĩ thành một tấm mút nhẫy nước, hay là giống chiếc khăn mùi xoa của ai đó lau dòng nước mắt không ngớt. Khi đặt tay vào cánh cửa, ổ nắm khóa kim loại lạnh toát truyền một luồng khí khiến thầy sực tỉnh. Ban đêm tự dưng mò đến nhà người ta. Mò, nó thô thiển thật, nhưng cái từ ấy tự thầy nghĩ ra. Lại nữa, đến nhà một người đàn bà không chồng con. Dào ôi, mưa gió thế này ai ở nhà nấy, mặc sức đâu ra đường mà sợ người ta biết. Việc thầy làm đây, chỉ có trời biết đất biết và… Phật biết. Mà trời đất biết, nếu thương thầy thì đừng có làm cuồng phong như thế. Còn Phật biết, chắc cũng sẽ lượng thứ cho thầy. Vặn nắm cửa hoặc gõ cửa cho lịch sự? Không, không được làm thế - thầy tự nhủ. Hay là lấy cái đèn pin nhỏ trong túi ra, rọi qua khe cửa, xem chị ấy thế nào bên trong? Có phải khuôn mặt trắng bệch như thầy vừa tưởng tượng ra, đường gân thâm tím của người sắp lả đi vì rét mướt. Cũng không được, như thế chẳng khác nào… tên ăn trộm. Mưa gió ôm nhau dập mạnh, một tấm tôn lợp phía ngoài hiên đã bung thép buộc, cuộn chéo góc đè lên tấm kia. Đứng thế này thì ích gì, làm một việc nào đó nhanh lên. Thầy tự thúc giục mình rồi bỏ hết mấy ý định lúc nãy. Xem ra thầy vẫn ngại, vẫn sợ phạm một điều răn đe nào đó của hàng tu sĩ. Biết đâu được khi cánh cửa mở, thầy đi vào nhà, và từ đó đi ra khỏi chùa. Lối vào chốn này thực chất là lối ra của chốn kia mà thôi. Lắc đầu cho mọi ý nghĩ bay theo bão, thầy đi vòng quanh nhà, tay sờ vào từng chỗ cửa. Thấy đã nêm nẹp chặt chẽ. Rồi thầy lẹ làng rời căn nhà, hướng về ngôi chùa. Trên đường về, vẫn hi vọng chị ấy đang yên ổn ở trong căn nhà, hoặc hay hơn thì chị ta sang nhà hàng xóm ngủ nhờ. Chỉ có một trong hai trường hợp đó thôi. Nghĩ vậy cho yên tâm. Đường về có vẻ xa hơn lúc đi, thầy đếm được từng bước chân nặng trịch. Nước mưa xoàm xoạp dưới chân. Có chỗ hố gà, thầy xỉa chân, nước bùn bắn lên tận mặt. Chẳng nhớp! Mưa sẽ rửa sạch ngay thôi mà. Chỉ có điều bùn ấy như bay vào miệng, trôi theo cổ đi vào sâu thẳm nội tâm khiến thầy lớ lớ cồn cào. Bản tin nhà đài phát suốt ngày giờ chỉ còn đọng lại trong thầy hai chữ, và dội lên theo từng ý nghĩ vẫn hai chữ ấy. Tâm bão. Là tâm mình có bão chắc? Cùng lúc ấy, ở trên chùa, có một người đàn bà cũng vừa bước đến cửa giữa, nắm tay vào ổ kim loại, lạnh toát. Rồi cũng không dám xoay ổ hoặc gõ cửa. Chần chừ chốc lát đành đi quanh chùa mà kiểm tra từng ô cửa sổ xem đã nêm nẹp chắc chắn chưa. Và ra khỏi cổng chùa, theo hướng chợ lần về. Cũng xen lẫn những ý nghĩ lo toan. Chẳng biết trên đường trở về, hai người có gặp nhau không nữa?! Có thể gặp, vì chung một con đường nhỏ, lại đi ngược chiều hướng về nhau. Hơn nữa đêm nay mọi người ai đã ở nhà nấy rồi, một bóng người trên đường dễ nhận ra lắm. Mà cũng có thể không gặp, vì mưa to gió lớn, ai cũng chăm chắm đường mình đi, sức đâu để ý đến người ta làm gì. Chẳng biết nữa! Chỉ có điều chắc chắn là bão đã vào sát bờ biển. Dù có suy yếu đi nhưng tâm bão vẫn nhằm theo hướng Tây. Nghĩa là tâm đang hướng về phía đất liền, nơi có con người. Chờ Mặt Trời M ùa đông bắt đầu với vài trận mưa rải xuống vùng đồi thấp. Và dấu hiệu rõ rệt nhất của nó là khi cái lạnh chùng chình kéo qua vườn cây quanh nương chùa. Hai thầy trò quấn thêm vào cổ chiếc khăn len màu cánh gián, mặc loại áo tràng thứ vải dày. - Lạnh cũng vui, thầy nhỉ? – Điệu Sanh hồn nhiên nói khi sư thầy lật nắp chiếc hòm rương gỗ lấy mấy thứ khăn áo đông. Thầy dừng tay: - Vui là vui sao con? - Dạ. Con cũng không biết. Chỉ thấy mặc thêm mấy thứ đồ ấm vào ngồ ngộ. Điệu Sanh vừa nói vừa cười khi nhìn thấy sư thầy đội cái mũ len có chóp ú, trông giống một nhân vật nào đó trong truyện tranh. Thầy đặt tay lên hai vai điệu Sanh, xoay nhẹ để xem phần khăn choàng phía sau cổ của điệu. - Ấm rồi đấy. Đi học nhớ mặc như thế cho đỡ gió. Mùa lạnh mà để hở ra mắc cảm là lâu lành lắm. - À, thầy ơi. Thầy nhớ cái khăn choàng này không? Sư thầy không biết điệu Sanh muốn nói gì, đành hỏi lại: - Sao con? - Cái này của cô bán vải tặng cho năm ngoái đấy. Mà sao mấy hôm nay không thấy cô đến chùa. Thầy cũng không lưu tâm lắm đến chuyện cái khăn, của nả nhà chùa tất thảy đều của chúng sanh phụng cúng góp vào, làm sao nhớ được. Chỉ đến khi Sanh nhắc thì thầy mới nhớ ra, đúng rồi, mấy bữa nay tại thầy bận đôi ba công chuyện nên không để ý đến chị, hèn chi thầy cứ thấy văng vắng một cái gì đó. - Chắc mưa lạnh cô không tới đó con? – Thầy trả lời. Nhưng vẫn có chút thắc mắc trong lòng. Cũng lạ nhỉ. Năm ngoái mới đầu mùa lạnh là chị ấy đã lên chùa, sắm cho thầy và điệu Sanh thêm mấy đồ mặc ấm. Rồi có lần sắp bão, chị ấy còn chuẩn bị một hộp muối mè rang nữa cơ mà. Mấy hôm nay chẳng biết có chuyện gì không mà chị vắng bặt. * Buổi sáng mưa tạnh hẳn, trời đằm đằm màu lam, không có nắng nhưng cũng chả có dấu hiệu của mưa sẽ tới. Thời tiết này đem giâm củ là tốt nhất. Đếm lóng tay, thầy thấy còn chỉ ba tháng nữa là Tết. Chắc đem giâm mấy củ giống hoa thược dược là được rồi. Bình thường mọi năm thầy ươm củ thược dược vào giữa tháng mười, lay ơn thì muộn hơn. Nhưng tùy vào thời tiết mỗi năm. Nếu năm nào trời tốt, có nắng giữa đông thì hoa nở sớm. Thầy coi trời, đoán có thể năm nay rét triền miên, thế thì phải ươm hoa ngay bây giờ để nó nở kịp Tết. Điệu Sanh vẫn còn nằm ngủ. Trời lành lạnh thế này người ta ai cũng thích nằm ngủ nán thêm một lúc, huống nữa là trẻ con. Với lại điệu Sanh đi học thường hay phải dậy sớm, hôm nay thứ bảy thôi thì cho điệu ấy ngủ thêm chút nữa. Nghĩ vậy nên thầy cũng không đánh thức Sanh dậy thỉnh chuông và tụng kinh đầu ngày. Riêng thầy vẫn dậy đúng giờ, vẫn thực hành nghi thức tụng niệm buổi sớm, không thể nương vào tiết trời mà bỏ bê công việc hành trì. Thầy đem cái cuốc nhỏ ra, xắn xới vạt đất bên nương. Mấy hôm mưa nước giẫy lên làm cho đất mềm như thứ bột ngấm nước, cứ sin sít lại với nhau. Thầy phải xới đất lên cho tơi, trộn ít tro bếp để đất có mùn và giữ ấm rồi giâm củ xuống, mỗi củ cách nhau chừng một cánh tay. Thứ củ hoa thược dược thầy tự cất giống từ năm này qua năm khác. Cứ mỗi khi ra Tết, khoảng giữa tháng hai âm lịch, khi lá cây bắt đầu héo rụi là thầy vặt cây đi. Thứ nhất, trong vườn chùa không nên có dấu hiệu tàn úa. Thứ hai, đấy là lúc tốt nhất dỡ lấy củ phía dưới để dành cho mùa Tết tới. Thầy rải một lớp cát dưới chân sạp tre, vùi củ vào đấy. Có khi do chỗ đất cát bị ẩm, đang giữa mùa hè củ lại trồi mầm lên. Thầy phải bẻ đi cho củ khỏi mất “sức”. Cái vui của người chơi hoa không phải chỉ đến khi hoa nở mà quanh năm, phải luôn để mắt đến nó. Ươm hết số củ thược dược xong, thầy cắm quanh vị trí mỗi chỗ ươm ba thanh tre tạo thành cái chum đánh dấu để lỡ có ai ra vườn thì tránh chỗ ấy đi. Điệu Sanh thức giấc, đưa mắt nhìn sang bên bàn chẳng thấy thầy đâu. Bình thường giờ này, tức sau khi tụng kinh và điểm tâm sáng là thầy ngồi vào bàn đọc sách hoặc viết pháp. Sanh ngó sang đồng hồ thấy đã khá muộn. Điệu chạy ra sân, tới chỗ thầy ươm củ, thấy mấy cái que tre cắm đã xong. - Gần Tết rồi hả thầy? – Sanh hỏi. - Ừ, ba tháng nữa thôi con. Năm nay ươm sớm, thà cho thược dược nở vào Chạp chứ để muộn như năm ngoái là Tết vườn mình không có hoa. Rồi thầy lẩm nhẩm một mình: năm nay có khi rét đậm, chẳng biết củ có mọc mầm nổi không đây. Điệu Sanh lại hỏi thế bao giờ có mầm mọc lên? Thầy đáp: - Lúc nào có mặt trời. * Bình thường, vào thứ bảy chị bán vải lên chùa. Đấy là ngày điệu Sanh không đến trường, chị tới chùa cũng để chơi với điệu. Có khi nom hai người chơi với nhau, thầy nghĩ bụng giống hai mẹ con. Nghĩ rồi thêm thương chị. Nhưng hôm nay biết chị có lên hay không. Cả thầy và điệu Sanh vẫn có chút ngóng chờ. Sau khi cắm xong mấy que tre ở chỗ vườn ươm, thầy dặn điệu Sanh chớ có đi tiểu bậy ra vườn mà củ thược dược nó tịt mầm luôn đấy. Đến chiều vẫn không thấy bóng chị. Thầy nhủ điệu Sanh: con chạy ù về dưới chợ xem sao. Sanh vâng lời, xỏ đôi dép vào chân, hất ngược cái tua khăn len ra sau vù chạy ra cửa. Thầy gọi với theo: đi chậm thôi con. Điệu Sanh lẩm bẩm trong miệng, vừa mới bảo chạy ù giờ lại nhủ đi chậm. Sanh trở về chùa, báo với thầy rằng nhà cô ấy khóa cửa. Điệu qua hỏi bên hàng xóm thì họ cho hay là mấy hôm nay cô đóng quầy vải, hình như đi vào Nam có việc gì đó. Nghe xong thầy nghĩ bụng, hèn chi vắng lâu dữ vậy, đi đâu không báo cho người ta biết với cơ chứ. Rồi thầy hỏi thêm điệu Sanh: - Thế họ có nói lúc nào cô ấy về không? Điệu Sanh đáp gỏn lọn: - Lúc nào có mặt trời. Thầy bất ngờ với câu trả lời của Sanh, mỉm cười và chỉ tay về phía đầu hiên, chỗ treo cái lồng chim. - Con sắp thành chim dòng rồi đấy! * Tối đến hai thầy trò nằm mãi mà vẫn không ngủ được. Thỉnh thoảng điệu Sanh quay sang hỏi thầy ơi thầy còn thức không? Thầy ừ. Lát sau điệu lại quay qua hỏi thầy ơi vẫn chưa ngủ được à? Thầy đáp, kệ thầy con, ngủ đi. Nhưng Sanh vẫn không ngủ được. Đêm mưa nhiều quá, rộp rạp ngoài sân nghe rõ mồn một. Hai thầy trò quấn chung một chiếc chăn bông mỏng. Cái chăn này dùng để đắp từ khi trời sang thu, nó chỉ đủ ấm vừa mà không khiến người ta bị ngốt ngát khó thở. Đồng hồ đã chỉ nấc kim sang ngày mới, điệu Sanh vẫn chưa ngủ được vì lúc trưa điệu ấy say giấc đến quá nửa buổi chiều mới dậy nên giờ hai mắt cứ trơ hông hốc lên. Còn thầy không ngủ được là vì cứ mải nghĩ đến chị bán vải. Chính xác là sáu hôm rồi không thấy bóng dáng chị ta lên chùa. Thầy cố nhớ lại xem cái lần cuối cùng chị tới đây, sáu hôm trước, có chuyện gì đã xảy ra. Soi xét xem mình có làm điều gì khiến chị phật lòng buồn ý mà lánh thầy không. Một thôi một hồi mà thầy vẫn chưa nghĩ ra, xưa nay thầy vốn không làm cho ai buồn lòng cả. Đặc biệt đối với chị bán vải thì thầy càng cẩn thận hơn trong cư xử, dù gì chị ấy cũng là đàn bà một thân một mình, ở cái tuổi xuân sắp đổ vụng ấy sẽ rất dễ có những cảm giác không hay. Thầy nhớ như in hôm đó chị tới đây vội vàng, ngồi chơi cũng chỉ được một chốc là vái chào thầy để ra về. Thầy không kịp nói gì cả. Chỉ có chị nói được mấy câu nửa úp nửa mở. Chị bảo dạo này chắc con sẽ thưa lên chùa, thầy đừng hỏi con lý do, lúc nào xong việc con sẽ báo cho thầy hay. Chị nói kiểu ngừa đường ấy thì ngay cả những người tò mò nhất cũng không dám hỏi han thêm điều gì. Lúc bước xuống thềm hiên để về, chị còn ngoái lui: À, thầy ơi, có điều này. Thầy hấp tấp đặt tách trà xuống hướng mặt về phía chị để nghe xem chị cần gì. Nhưng ngay lúc đó chị lơ đi: Mà thôi, con về đây. Nhớ lại kiểu ngấp ngửa của chị mấy hôm trước, thầy đâm ra băn khoăn. Chắc chị ta có điều gì muốn cầu thị mà sợ thầy bận tâm không dám nói ra thôi. Giá như lúc đó thầy cật vấn chị một chút, tỏ ra tò mò một chút, thì có khi thầy đã giúp chị giải được cái thắc thỏm trong lòng rồi, và bây giờ chắc thầy cũng khỏi cảm thấy day dứt trong tâm. Thầy thở hắt ra mấy tiếng giữa đêm khuya, khó ngủ kiểu này chắc là trắng đêm luôn. Điệu Sanh vẫn tỉnh như sáo, quay sang nói hay là dậy ăn cái gì đó đi thầy. Sư thầy cũng thấy hơi rỗng trong bụng. Nhưng lâu nay thầy không có thói quen ăn khuya và thầy cũng dạy các đệ tử không nên như thế. Trong bát quan trai, tức tám cửa tịnh cần thực hành mà đức Phật khuyên hàng đệ tử thì có một điều là không nên ăn phi thời. Người xuất gia thường chỉ ăn vào bữa trưa, còn các giờ khác tịnh khẩu vì họ cho rằng ngoài giờ ngọ là thời gian thọ thực của Phật, còn lại các giờ khác là giờ ăn của quỷ. Thế nhưng lúc này điệu Sanh có ý muốn ăn một cái gì đó thì thầy cũng thấy có lý. Người ta hay nói căng cơ bụng kéo cơ mặt, ăn chắc bụng dễ ngủ hơn. Thầy hỏi điệu Sanh: - Con đói à? Sanh đáp dạ. Hai thầy trò kéo chăn, dậy khỏi màn đi xuống bếp. Thầy nhúm lửa, bắc nồi nấu nước. Ăn mì sợi luộc nhé. Điệu Sanh gật đầu, để con pha nước tương. Lát sau mì đã chín, thầy trút ra chiếc rá cho ráo nước rồi hai thầy trò cùng ăn. Điệu Sanh nói hồi còn ở dưới quê, đêm nước lũ tràn về thì cả nhà lại xúm quanh bếp lửa, rang chảo bắp ngồi nhai và canh chừng nước lên. Thầy ừ, còn hai thầy trò mình bây giờ ngồi chờ trời sáng. Điệu Sanh vặc lại, bảo chờ mặt trời lên chứ? - Mà mưa thế này chắc ngày mai chẳng có mặt trời đâu, thầy nhỉ - Điệu Sanh quay sang phía thầy thỏ thẻ. Thầy nghĩ có khi điệu Sanh cũng đang nhớ chị bán vải. Lâu nay lên chùa, chị và điệu quấn quýt nhau như mẹ con, giờ vắng chị ấy điệu Sanh nhớ là phải rồi. Thầy thử hỏi lại điệu Sanh để khẳng định chắc chắn cái điều mình suy đoán là đúng: - Con cần mặt trời làm chi? Sanh đáp: - Để mấy cái củ thược dược mau đâm chồi. Hồi sáng mới trồng đó thầy không nhớ sao. Ừ nhỉ. Thầy cứ mải nghĩ chuyện người mà quên chuyện hoa. Sáng vừa ươm xong còn mong có nắng để củ bật mầm cơ mà. * Suốt mấy hôm sau vẫn không thấy chị lên chùa. Điệu Sanh đi học rồi về, cũng chả hỏi han thầy chuyện chị có tới hay không. Trẻ con, mau nhớ mau quên. Chỉ có người lớn là dai dẳng một thói quen đợi chờ mong ngóng. Kiểu nhớ mong này hình như thầy chưa gặp nên chưa thực hành tu tập. Mặc dù thầy hiểu rõ thuyết vô thường, mọi vật hợp tan, đến đi đều do duyên và nghiệp. Có khi duyên chưa hội đủ thì dù khẩn thiết ngóng trông cũng chả ích gì. Thầy cố gắng quên chị đi. Nói như thế chưa phải lắm. Vì thầy đâu có nặng nợ gì với chị mà phải quên, thầy chỉ thấy lo lo sợ xẩy ra chuyện gì đó với chị thôi. Vậy nên chính xác phải nói thầy cố gắng thực hành sâu hơn nữa phép vô ưu đối với mọi sự. Cái phép vô ưu này không phải cứ hiểu rõ luật vô thường mà làm được, nếu chỉ dựa vào vô thường để khai trừ mọi sự vướng bận với đời thì thành ra vô tâm, và đó không phải con đường chính đạo. Sư thầy làm nhiều việc hơn. Mùa lạnh chả đi đâu ngoài chùa, thầy cứ ngồi miết trong thư phòng mà hí hoáy viết viết, không viết thì chú tâm đọc đọc, lúc nào mỏi mắt lại đi ra vườn, cắm sửa mấy cái que quanh chỗ ươm củ hôm trước. Trời vẫn im ỉm không làm mưa to và dằng dặc, chỉ thỉnh thoảng về đêm có mưa trộ rồi ngưng ngay vào sớm hôm sau. Tìm mặt trời vào quãng mùa đông này quả khó, buổi sáng trời chỉ hừng lên âm ấm một chút rồi thôi. Nhưng tiết trời kiểu đó cũng đủ để cỏ dại không rụi vì lạnh, và những mầm cây có cớ bật chồi. Một củ thược dược thầy ươm đã bung chồi ngoi lên khỏi đất, mầm non trắng đục vì thiếu diệp lục, chỉ nhớm chút xanh nhạt ở đầu chóp mầm. Điệu Sanh phát hiện ra điều này đầu tiên và reo lên thích thú khiến thầy phải chạy ra xem. Sanh nói: - Nó mọc mầm rồi thầy ơi. Chẳng cần mặt trời. Vui quá. Thầy vui không? Trông điệu Sanh hí hửng như thế, sư thầy cũng thấy mừng mừng. Ừ, chẳng cần mặt trời vẫn vui. Ươm Cây Giữa Vườn Đời T rời vẫn rét triền miên, dù không mưa nhưng từng đợt gió kéo qua khiến sư thầy phải buông bút, vò vò hai nắm tay với nhau cho đỡ cóng rồi mới viết được. Nhưng lạ, chính cái lúc buốt tê, bàn tay cầm ngòi bút vụng về thì ý tưởng và chữ nghĩa cứ tuôn trào. Thầy nhập tâm soạn pháp một cách say mê và dễ dàng. Cứ như chẳng thể có mối vướng bận nào phá tan mạch viết ấy được. Chỉ ba hôm nay, thầy đã viết được một cuốn. Đấy là sách luận về nhân quả ngay trong mỗi một đời người. Điệu Sanh nãy giờ đứng ngoài vườn, ngó mấy mụt hoa thược dược vươn lên khỏi đất. Có mụt dài chừng ngón tay của điệu ấy rồi, thế mà vẫn chưa chịu trổ ngọn lá. Sư thầy bước tới chỗ điệu, nói: - Tại trời lạnh quá đó con. Cứ rét thế này sợ chết mầm luôn ấy chứ. Điệu Sanh nghe thế, tỏ vẻ lo lắng, hỏi thầy có cách nào không, chứ chẳng lẽ tết năm nay lại không có hoa. Năm ngoái thời tiết lúc đầu tốt, mầm cây lên khỏe khoắn. Nhưng đến khi lá cành đủ đầy thì gặp bão số bốn, một đêm thôi đã quật gẫy hết năm chòm cây. Tết năm ngoái không có hoa trong vườn, hai thầy trò tiếc lắm. Thế nên năm nay cả thầy cả điệu quyết tâm phải chăm sóc, giữ gìn cây thật tốt. Vườn chùa đất rộng mà ngày tết không có hoa nở, bà con đạo hữu đến viếng chùa cũng quở mồm vài câu. Thầy sợ mang tiếng là làm biếng lắm. Người nhà chùa, có khi được gọi là người làm vườn cơ mà. Cả năm người ta có được ba ngày xuân để khoe tài chăm tỉa tưới tẩm hoa cành, mà mình lại trống huơ sao. Nghĩ thế nên thầy nhủ điệu Sanh cùng đi về phía sau bếp. Hai thầy trò đốt một đống rạ sưởi ấm. Thầy nói lát nữa chờ tro nguội gom lấy đem ra phủ quanh mấy gốc thược dược. Làm thế cho ấm đất, may ra cũng đỡ đôi chút. Chị bán vải tới chùa. Nửa tháng rồi chị mới lại lên đây. Thấy phía sau bếp có khói bay lên, chị đoán có lẽ sư thầy và chú Sanh đang ở sau đó. Chị đi khẽ, muốn làm cho hai thầy trò bất ngờ. Khi đã đứng ở thềm cửa bếp, chị mới cất tiếng: - A Di Đà Phật. Hai thầy trò đang nấu chi đó, cho con ăn với. Điệu Sanh vừa đưa tay phải dụi mắt vì khói, vừa quay đầu nhìn. Thầy cũng dừng que cời lửa. Bất ngờ quá. Ở đời cái buồn thường đến tình cờ, cái vui thì bất ngờ. - Chị về rồi à? - Thầy hỏi, thay cho lời chào. Rồi chợt thấy ngượng vì câu nói vừa phát ra của mình. Nó giống như hỏi một người thân thích trong gia đình, em về đấy à, bà đã về đấy à. Với lại đây là chùa, có phải nhà chị ấy đâu mà bảo chị về với chả đi. Chị đáp: - Con mới về hôm qua. Lát con thưa chuyện với thầy. Giờ con xin phép lên lạy Phật đã. Chị đưa túi quà cho điệu Sanh, trong đó có cả quà của sư thầy nữa. Hộp bánh với gói trà hoa nhài. Xong chị đi lên chánh điện, bầy trái cây lên đĩa quả. Thắp nén nhang, vái ba vái. Thầy mở hộp trà hoa nhài chị mới biếu, đem pha một ấm đặt ở bàn nước đầu hiên. - Tới đây ngồi uống nước chị. Trà thơm quá. Cảm ơn chị. - Con đi mấy hôm về mà thấy vườn chùa có khác - Chị vừa nói vừa nhìn ra chỗ góc vườn thầy ươm củ. Thầy nâng chén trà lên. - Chị uống nước. Ươm mấy củ thược dược đón tết đó mà. Trời rét quá chẳng biết nó có lên nổi không nữa. Chị kể chuyện. Mấy hôm vừa rồi con đi làm thiện nguyện theo đoàn của nhóm từ thiện - xã hội. Đi vào các vùng khó khăn trong kia. Chương trình có tên “Mang hơi ấm đến với các em”. Đi một chuyến học được nhiều điều thầy ạ. Hôm bữa con định báo với thầy chuyện này rồi mới đi. Nhưng nghĩ lại, sợ nói trước bước không qua. Cũng may lần này chuyến đi tốt đẹp, giúp đỡ được nhiều hoàn cảnh thương tâm lắm. Sư thầy gật đầu. Vậy là chị đã biết tham gia vào những công tác cộng đồng. Trước giờ thầy vẫn khuyên chị nên có mặt trong những việc thiện như thế, thứ nhất là để giúp đỡ thêm nhiều người, sau nữa, đi cho khuây khỏa. Nhưng mấy lần trước chị ngại. Sợ mang tiếng làm từ thiện là khoe khoang xưng danh, như mấy cô diễn viên ca sĩ từng làm để báo chí ca ngợi, giật tít kiểu đẹp người đẹp nết, hoa thơm từ sắc đến lòng. Rồi có nhiều người mượn công việc thiện nguyện để kiếm chác nữa, cũng là chuyện đang xẩy ra thường ngày đó thôi. Giả danh tổ chức này nọ đi vận động tiền những tấm lòng hảo tâm rồi gom cả vào túi mình. Làm con dấu giả hội người mù viết thư giới thiệu để xin tiền các doanh nghiệp. Đời, càng ngày cái thật càng lụi đi, cái giả trăm hoa đua nở. Có cô diễn viên đi làm từ thiện, tay phát quà cho trẻ, mắt cố rơm rớm vài giọt long lanh, diễn xuất là nghề của nàng mà. Mặt cứ đăm đăm nhìn vào ống kính máy ảnh của phóng viên. Máy bấm bụp, được rồi cô ơi, thì cô diễn viên mới cười toe toét. Thầy nói, ở đời người ta có lợi thì muốn danh, có danh rồi ham vọng. Nhưng làm từ thiện đúng nghĩa thì không phô diễn. Một hạt muối tâm thành đậm hơn bao la nước biển. Có người đi nhiều nơi, phát lắm quà mà không bằng một chút chia sẻ của người thực tâm. Thế mới có chuyện bà già cúng đèn, chỉ một cây thôi đã chứng quả Bồ Tát, hơn ngàn cây đèn khác của bậc đế vương. Trong bố thí cúng dường không phân biệt địa vị sang hèn của người phát lòng bố thí, người nổi tiếng hay người sống lặng lẽ, một khi đã khởi tâm làm từ thiện thì chỉ có một điều, đó là mang đến được gì cho người thọ nhận. Sư thầy kể thêm cho chị nghe các câu chuyện bố thí. Rồi giảng về các hạnh bố thí trong sách nhân quả ba đời. Kiếp trước cúng dường cơm áo, kiếp này được ấm no an vui. Kiếp này cúng dường hoa quả, kiếp sau được phước sang giàu. Và cũng chẳng cần đến ba đời, ngay chính trong một đời người ta, luật nhân quả cũng rõ ràng lắm. Khi trẻ ham chơi bời ỉ lại vào bố mẹ, lớn lên ắt phải đói nghèo. Thế nên Tam Tự Kinh viết “ấu bất học lão hà vi” là vậy. Bữa đó nghe thầy giảng xong, chị thấy sợ. Có khi vì mình từng làm nhiều việc xấu nên mới chuộc quả nhãn tiền hôm nay: không sanh được con, vợ chồng đôi ngả chia ly. Chị bộc bạch với thầy tất cả những việc làm hồi trước. - Lúc mở quầy vải, con bán được khấm khá thầy ạ. Nhờ thế mới xây được cái nhà. Nhưng xây nhà xong còn nợ tiền người ta nên nghĩ cách kiếm lời nhiều hơn để trả. Nhiều khi phải cắt thiếu vải của người ta ít phân. Rồi nhập hàng vải xấu bán với giá vải tốt. Hồi đó cả chợ chỉ có lèo tèo vài ba quán vải, quầy của con hàng nhiều hơn cả nên khách khứa đông. Vẫn biết bán buôn cần chữ tín. Nhưng nếu làm ngay ăn đứng thì chẳng thể phát lên được. Sư thầy chăm chú lắng nghe, thi thoảng gật nhẹ đầu để người đối thoại được tự nhiên nói tiếp. Lắng nghe cũng là một nghệ thuật, và đối với người tu hành thì nó là công lực. Chị nói tiếp: - Sau rồi vợ chồng đôi ngả. Con cái thì không. Làm nhiều cũng chả để cho ai, nghĩ thế nên con không bon chen nữa. Mấy chị dưới chợ khuyên con thử lên chùa xem có an nhiên hơn không. Lên đây con mới tỉnh ra nhiều điều. Thì đã muộn… Chị bỏ lửng ngang đó và dừng lại, buồn buồn. Sư thầy góp thêm mấy lời: - Kể ra được như thế cũng nhẹ lòng, đúng không chị? Vẫn còn may là mình sớm nhận ra được việc đã làm. Đời có nhiều người cứ sống vô tư, cái sai này nối tiếp cái sai khác. Thức tỉnh không bao giờ là muộn cả. Chị không nên quá nặng nề việc đã qua. Như thế là u uẩn, bi lụy. Hãy xả bỏ hết, làm lại. Đi làm từ thiện là cách gây phước hay nhất, chị cũng nên tham gia. Sau chuyến đi từ thiện về, chị thấy lạc quan hẳn. Chị biết còn nhiều hoàn cảnh cần sự giúp đỡ, nhiều người còn cần mình, vậy nên khát khao sống. Một lẽ giản đơn như thế mà bấy lâu nay chị không nhận ra. Đã bao lần chị cứ uẩn u nghĩ, chồng không con không thì chết quách cho xong. Sư thầy nhận ra sự thanh thản nơi gương mặt chị ngay khi mới gặp. Và cảm thấy vui vui trong lòng. Từ ngày về trụ trì ở đây, thầy đã giúp được rất nhiều người thoát khỏi bế tắc. Riêng trường hợp chị, thầy biết đấy là một ca khó. Thầy dùng phương pháp tụng kinh, nhưng vốn chị ít học nên chưa thấu được nhiều. Giảng pháp với chị thì cũng chỉ là một cách an ủi. Thầy biết đàn bà ở tuổi ấy, với lại đứt gánh giữa đường, thường bó mình trong một khuôn khổ, ngại tiếp xúc rộng. Cuối cùng thầy khuyên chị cởi mở với đời bằng những chuyến đi. Đấy là nguyên lý trả mình về với thiên nhiên để nhận chân niềm vui cuộc sống. Nếu chị cứ mải mê với kinh kệ, với ngôi chùa này, và cứ níu vào thầy thì e xảy ra nhiều chuyện không hay. Nhất là tiếng đời người ta dị nghị. Nói chuyện một hồi, thầy đứng dậy, mời chị cùng đi ra vườn dạo. Chị lặng lẽ bước theo. Hai người đi tới vườn ươm ngắm mấy mụt thược dược. Thầy nói, người như cây đời, bão giông dồn dập quá thành ra khó vươn mình lên. Vậy nên cần tự tại sống, đấy là thực hành vô úy thí. Chị nhìn xem, một chút xanh trên đầu mầm kia, cũng là nhờ cái củ phía dưới gắng gỏi làm nên. Tu nhân tích đức, tạo nghiệp lành, ấy là nhân để hái về hoa tươi. Ươm cây giữa vườn đời vậy thôi. Nhập Thất C ứ đến giữa tháng chạp là sư thầy lại rời chùa, đi ngược lên phía núi chừng mười lăm phút thả bộ và ngụ tại một lán tre ở trên đó. Cái lán dành cho giới tu hành gọi là thất, và quãng thời gian ở đó gọi là mùa nhập thất. Phải hết tháng giêng thầy mới rời thất để về lại chùa. Thầy thích yên tĩnh nên có ý đi ở ẩn vào mỗi dịp tết nhất, độ này khách khứa đến viếng chùa đông lắm. Ngày thầy chuẩn bị nhập thất, điệu Sanh nằng nặc đòi theo. Sanh nói mỗi ngày không thấy mặt thầy con chịu sao nổi. Khuyên mãi không được, thầy đành miễn cưỡng giao cho điệu Sanh nhiệm vụ đưa cơm chiều lên thất. Mấy mùa vào thất trước, thầy đều đùm gạo với muối mè lên trên ấy rồi tự lo chuyện ăn uống. Củi nhặt cành khô, lửa nhúm lá mục, nước đã có bên suối. Thầy chỉ việc kê ba hòn đá lại thành cái kiềng là có ngay bếp nấu. Nhập thất vốn là một công việc hành trì độc lập, người tu hành đến một ngưỡng nhất định mới có thể thực hiện. Lấy sự yên tĩnh làm đầu để thiền quán, dùng sự giản dị tự thân để nương tựa. Thế mà bữa nay điệu Sanh đòi gặp thầy mỗi ngày, xem ra khó từ chối nên thầy nhủ điệu đem cơm từ chùa lên. Với lại, thời gian này thầy cũng đang hoàn thành nốt cuốn sách nên muốn toàn tâm toàn ý cho việc viết. Điệu Sanh mừng ra mặt: “Vậy con đem thêm phần cơm của mình nữa lên ăn cùng thầy cho vui”. Thầy nghẹn đi, không còn nói chi được nữa, đành lắc đầu nhẹ và cười. Ngôi thất nằm nép dưới một hòn núi. Mấy năm trước thầy cố ý dựng ở đây để tránh gió mùa thốc vào, nhờ thế nên thất vẫn còn ở được. Mấy cột tre có yếu thì tháp thêm, vách nứa đứt lạt thì buộc lại; vào mùa hạ cỏ gianh tốt ngồng, thầy bứt đem về phơi khô rồi lợp lại cái mái. Riêng việc bện tranh thôi đã là một phương pháp tu tập, vừa gài lá vừa niệm kinh, đánh tranh như gõ mõ. Tranh phải đan khít để nước mưa không thấm qua được, khi ấy mới mong công pháp tu tập che chở được chúng sanh. Một mình thầy dựng thất, sành nghề chẳng kém gì bác thợ mộc hay người miền cao. Tháng chạp cỏ dại chung quanh dần xanh, vài bông hoa nở trước kỳ xuân đến. Vách núi gió hong khô, trơ ra ngoài những vạt đá màu lam. Buổi sáng thầy dậy sớm, mở cửa thất sương đã tràn vào. Thầy bước ra vừa làm vài động tác thể dục vừa ngắm thiền cảnh. Xong lại vào thất, tọa nghiêm ngắn và thảo chữ. Lần đầu đưa cơm đến thất, điệu Sanh nhảy chân sáo qua mấy cục đá thầy kê theo lối đi. Chưa tới cửa điệu đã hét toáng lên gọi thầy. Thầy không mắng điệu Sanh mà chỉ lấy giấy ra, viết năm chữ “an lạc từng bước chân” rồi nhủ điệu đem ra dán ở cây săng lẻ bên bậc đá đầu tiên. Từ bữa đó Sanh nhẹ nhàng hơn, nhưng tính ham vui trẻ con thì vẫn còn. Một lần xách ca mèn cơm lên thất, điệu Sanh gặp mấy đứa trẻ đi bắt chim. Hồi ở nhà Sanh hay cùng trẻ con trong xóm đi bắt chim và bẫy tắc kè nên thấy thế thích lắm. Định bụng chạy đến coi, rồi Sanh nhớ ra hôm bữa học luật có một điều trong sách pháp khuyên không nên săn bắt, thế là điệu cố ý đi nhanh qua. Một đứa kêu: - Ê, trọc lóc, tới đây chơi! Sanh bước thêm bước nữa, thấy đi không đành nên quay lại coi chúng bắt tổ sáo. Bắt được bốn con chim non, chia ba đứa ba con, còn một con chúng cho Sanh. Sanh cầm lấy, không biết đặt ở đâu cho phải. Ba đứa kia thì có ba cái mũ lưỡi trai, chúng ngửa mũ ra cho chim vào. Còn sanh, trọc lóc không đội mũ biết lấy cái gì nựng chim. Một trong ba đứa kia góp ý với Sanh: - Hay trọc đưa cơm cho tụi này ăn, rồi lấy cái ca mèn bỏ chim vào. Nghĩ cũng phải, Sanh đưa ngay phần cơm cho chúng ăn. Xong, Sanh lấy ít cỏ cú khô cho vào ca mèn để đặt con chim non. Sanh xách ca mèn lên thất. Dọc đường, thi thoảng chú chim kêu rích rích khiến điệu thích thú. Đến cửa thất, Sanh đưa nguyên cái ca mèn ấy cho sư thầy. Mở nắp, thầy ngạc nhiên nhưng không trách điệu mà chỉ hỏi: - Con đem chú chim này về rồi cho nó ở đâu? Nghĩ một lúc, Sanh thốt lên: - À! Con sẽ làm cho nó một ngôi nhà trên cây, giống cái túp lều tranh này. Thầy ở trong kia, nó ở trên này. Mỗi ngày con đem phần cơm lên cho cả thầy và chim. - Rồi sao nữa? – Thầy hỏi. - Bao giờ thầy về lại chùa thì con đem chim về. Đến mùa nhập thất năm sau con lại đưa nó lên đây. Chiều theo ý Sanh, sư thầy cùng điệu làm một cái tổ nho nhỏ trên chãng ba cây. Điệu Sanh hớn hở vui mừng, nghĩ đến cảnh có hai “ông thầy tu” ở hai túp lều tranh, một ông suốt ngày ngồi im, một “ông” suốt ngày hót. Rộn ràng bên cạnh lặng im, đó là lẽ đời. Lấy thanh tịnh nuôi dưỡng náo nức, đó là pháp đạo. Riêng sư thầy lại thấy khó xử, thầy biết mình đang đối mặt với một bài toán hóc búa. Cuộc đời luôn đặt ra những khó khăn buộc người ta vượt qua. Với bậc tu hành, thì điều ấy là cần thiết để luyện công án. Ngay khi thầy đang ngồi trong thất, tưởng chừng lánh đời, nhưng thực tế sự chiêm nghiệm về lẽ đời lại nhiều hơn. Còn biết bao người neo đơn đang ở trong những túp lều tranh giống thầy; họ không có cơm ăn, sống từng ngày để đón chờ cái chết. Chính quyền nào cũng có chế độ bảo trợ, nhưng việc ấy làm sao chu tất được. Ví thử cái tổ chim vừa làm xong kia là một căn nhà của người neo đơn, thầy có trách nhiệm bảo trợ. Chim không thể nghe đọc kinh mà sống. Chính thầy cũng không thể đọc kinh để sống cơ mà? Chú chim non phải được mớm mồi châu chấu. Nghĩa là vì sự sống của loài này, phải hy sinh sự sống của loài khác. Xưa có một vị sư, mỗi lần về thăm nhà đều ghé qua chợ mua cá về cho mẹ. Vị sư ấy cũng đấu tranh tư tưởng giữa hiếu đạo và luật trì. Bây giờ thầy nuôi con chim nhỏ, tức là phải phân vân giữa luật trì với luật trì. Tu là không sát sanh, nhưng không sát sanh châu chấu thì con chim non chết, tức là vô tình mà phải nhún tay sát sanh một trong hai loài. Mới chỉ một chú chim thôi đã thế. Ở ngoài đời kia còn biết bao nhiêu điều tương tự, muốn tồn tại phải đấu tranh. Vì tài nguyên mà nước này đánh nhau với nước kia, súng đạn hạ sát thân người rơi trên chiến trường. Người kinh doanh phải mẹo mực, sát phạt đến tận cùng đồng tiền của nhau, thương trường là chiến trường. Người muốn lấy vợ phải khôn ngoan, giành giật nhau chút tình cảm gái trai, tình trường cũng là chiến trường… Vào thất, tưởng chừng xa lánh cuộc sống ồn ã của loài người dưới kia, nhưng thực chất lại vướng vào chuyện khác. Con người sẽ sống thế nào khi có rất nhiều mối bận tâm như thế. Những mối quan hệ chằng chịt có cả thói ghen tức, ganh đua, tị hiềm, dối trá lừa lọc, tham nhũng, hối lộ… Có lẽ càng cô đơn yên tĩnh, như người tu hành trong một mái thất, thì càng nghĩ ngợi nhiều. Nhưng đó là lẽ thường, bởi giác ngộ không phải lãng quên tất cả, mà đấy là sự đối mặt với thực tại để tìm ra lối. Sư thầy đang ở trong tình thế khó khăn, phải tìm ra lối thoát cho một chú chim non đã thế, huống hồ dẫn đường cho mọi người. Ngay trong chiều hôm đó, con chim non đã chết. Không rõ lý do vì sao. Có thể trúng gió độc. Có thể thèm mồi mà chết. Và biết đâu con chim đã ý thức rằng phải hy sinh để loài châu chấu được sống, phải hy sinh để sư thầy không phải bận tâm nhiều về nó. Sư thầy cùng điệu Sanh đào hố chôn con chim xuống đất. Xong rồi tụng một bài kinh cầu siêu cho chim. Xong rồi tụng một bài kinh sám hối cho mình. Xong rồi nhưng chưa xong. Không thể cứ sám hối chuộc lỗi lầm là hết chuyện. Trong khi ấy thầy vẫn chưa tìm ra cách xử lý bài toán đấu tranh sinh tồn. Hai thầy trò bước vào trong thất. Bất giác điệu Sanh hỏi: - Sao dưới kia người ta không làm cái chòi lá thế này để nghỉ ngơi hả thầy? Ừ, giá mà mỗi người có một cái chòi đơn sơ để nghỉ ngơi và nghĩ ngợi. Một cái thất tự dựng lên trong miền tưởng tượng thôi. Như kiểu Phật tại tâm ấy! Mỗi năm chỉ cần nhập thất một lần vào mùa xuân. Có khi khỏi phải đi chùa cầu an hái lộc bẻ rụi cây, khỏi phải phóng sanh cho cá chết lềnh bềnh, khỏi phải thả rùa tai đỏ cầu may mà gây bệnh hoạn, khỏi phải chen lấn đi dự khai ấn phát lương đền Trần đến mức giẫm đạp lên nhau. Thế thôi. Kinh Chiều Rền Tiếng Sấm C hiều tháng tư trời chia làm hai mảng. Một bên nắng vàng ưng ửng. Bên kia mây kéo nhau đùn lại, mây xám mây trắng chồng nhau như những khối núi già cỗi đã mòn đỉnh. Ngó trời là biết mùa hạ sắp sửa sang. Nói chuyện tiết trời thì chỉ có người làm nông quanh vùng bận tâm để ý tới, còn như cái ngôi chùa nhỏ này, mùa nào mà chả phải tu hành. Xuân hay hạ, thu hay đông thì vẫn niệm kinh trì chú. Nhưng lại nói theo kiểu vô thường ấy thì chỉ có những bậc chân tu đạt đạo mới dám nhận. Dân mình bảo trở trời là trở lòng người. Cứ còn duyên nợ với đời thì ai dám chắc không biết nóng lạnh khi trời đổi nắng thay mưa? Chị gái bán vải rảo bước lên mấy tầng cấp ở thềm hiên. Hôm nay chùa vắng, chỉ có sư thầy và điệu Sanh ngồi trong thư phòng. Sư phụ đọc sách chăm chú, đệ tử học luật, vừa học vừa vẽ vu vơ vào giấy. Thỉnh thoảng thầy phải quay qua nhắc nhở, điệu Sanh lại úp bàn tay che mấy cái hình thù ngộ nghĩnh kia. Theo thói quen, cứ đến chùa mà ngó vào chánh điện vắng vẻ thì chị đi thẳng về phía thư phòng. Tay trái chị bận xách túi hoa quả, còn tay phải đưa lên ngang ngực, vái chào hai thầy trò. - Hôm nay mười bốn rồi thầy nhỉ? Mới đó mà nhanh… Chẳng biết ý chị nói mới đó là lúc nào. Chắc là từ bữa Tết đến giờ. Giống như cách người ta thường dùng Tết làm cái mốc để so sánh thời gian đời người, qua một cái Tết là hết một tuổi xuân. Nói xong chị mang hoa quả đi sang bên chánh điện. Dưới chân trời tây mây xám chen nhau trồi lên rồi đùn đẩy mớ mây mỏng trên cao lấn qua gần hết khoảng trời sáng, khiến cho mới nửa buổi chiều thôi mà chánh điện đã ngòm ngòm tối. Thầy phải bật bóng đèn lên để chị thấy rõ mà bày trái cây lên đĩa cúng Phật. Ngày thường, cứ vài hôm chị lại lên đây. Riêng cứ tới rằm hàng tháng thì chị luôn mang theo hoa quả tới chùa. Có lần thầy nói vui, công đức của chị sánh ngang công đức bà già cúng đèn trong chuyện cổ Phật giáo. Bà già ấy làm nghề ăn xin, nghe tin đức Phật đến thọ ký gần nên bà đi xin tiền đủ mua một cây đèn, một ít dầu để cúng dường. Sáng hôm sau đức Phật sai đệ tử đi tắt tất cả đèn thì riêng ngọn đèn của bà vẫn sáng, dùng áo cà sa mà quạt đèn càng sáng hơn. âËy là cái tâm chí thành rực sáng. Nhờ công đức cúng dường vô úy mà bà được chứng đạo. Nghe xong chị cười: “Con có khá giả hơn bà già cúng đèn ấy thật, nhưng tấm lòng sao lớn lao nhường kia được. Mà con cúng dường chư Phật chẳng mong được độ này đạt nọ. Chỉ biết rằng cứ dâng hoa cúng dường là lòng mình thấy thanh thản, yêu đời hơn mà sống thầy ạ”. Thầy gật đầu tán thành rồi nói thêm: “Giữa cuộc biển nhập trần lao, ai đã làm người chẳng mang lấy khổ đau. Có nhân duyên ắt có quả nghiệp. Có sanh thời có tử. Có yêu thương thì có gian nan. Dâng hoa cũng là cách để tự an ủi cho mình đó thôi”. Vệt sáng chớp lên xé toạc màn trời. Nó bắt đầu từ dưới đất rồi len lỏi ánh sáng giữa những đám mây, giống một xác cây khô hiện ra in giữa chiều trời tối xám rồi biến mất chớp nhoáng. Kèm theo đó là tiếng sấm đất đánh ùm. Chị đang đưa tay sửa lại mấy trái quả thì nghe tiếng sấm bất ngờ. Chị rụt tay lại theo phản xạ, trái cam lăn ra khỏi khay quả, rớt xuống bàn thờ. A di đà Phật! Con sơ ý quá. Sắp đặt xong đĩa quả, chị lui ra chắp tay vái một lạy. Sư thầy đã sang bên tịnh thất hồi nãy, giờ đang thay cái áo bà ba bằng chiếc áo dài màu nâu cài nút phía bên sườn. - Lại tụng kinh hả thầy? – Điệu Sanh hỏi. - Ừ, hôm nay mười bốn rằm, tụng một hồi kinh chiều. Ngoài trời lắt nhắt vài hạt mưa rột roạt như kiểu đánh động để người ta biết là mưa to sắp tới, ai phơi phóng gì thì đem vào nhà cất ngay, ai lỡ đường lỡ sá thì kiếm nơi trú. Sấm đất rung ầm ầm. Điệu Sanh tự giác mở tủ lấy chiếc áo khác ra thay để chuẩn bị hành lễ. Từng động tác chậm chạp, uể oải như thể không muốn đi tụng kinh vào lúc này. - Sao thế con? – Thầy quay sang nhỏ nhẹ hỏi. - Con thích tắm mưa. Vừa lúc ấy chị đã vào cửa tịnh thất. Cả thầy cả chị cùng cười khiến điệu Sanh ngượng ngạo, cái miệng méo đi như mếu nom rất vui. Chị sửa lại cổ áo cho điệu, vừa nói: - Chú Sanh ngoan đi tụng kinh. Trời mưa giông chưa tắm được đâu. Giờ mà nhảy ra sân dầm lấy hơi đất là bị cảm ngay. Lát lễ Phật xong mới tắm được. Cả ba người cùng bước vào chánh điện. Sư thầy làm chủ lễ, gõ một hồi mõ, đánh mấy tiếng chuông khai thị rồi chắp tay niệm thầm. Chị và điệu Sanh đứng phía sau, cũng nhắm mắt mật niệm. Xong thầy gõ tiếp ba tiếng chuông và nhập kinh. Chị vốn chẳng phải là một Phật tử theo đạo từ nhỏ. Chỉ từ khi ly dị chồng chị mới tìm đến chùa, được gần một năm nay. Lúc đầu chị đến chơi với sư thầy để nghe thầy nói chuyện đời chuyện đạo, dần dần mới vào lễ Phật. Chị ít để ý đến kinh kệ. Thầy khuyên đã có duyên với chánh pháp thì cũng nên bỏ chút thời gian tìm hiểu thêm về kinh sách. Chị thú thật: “Con có biết chữ đâu. Hồi nhỏ học vỡ lòng được một ít không dùng quên hết. Chỉ biết số với mấy phép tính cộng trừ nhân chia giắt lưng mà tính toán bán buôn thôi”. Thầy an ủi: “Không sao. Thế thì nên lắng nghe người khác đọc kinh rồi nhẩm theo cũng mau thuộc. Dần dần mà hiểu thêm kinh. Đa số quý đạo hữu mình biết chữ đấy, đọc kinh làu làu từng bộ dày dặn. Thế nhưng kinh phiên âm tiếng Phạn, đọc được đấy mà chẳng hiểu gì. Rồi có khi hiểu được lại chưa chắc thực hành nổi”. Sấm đánh ùm một tiếng rung chuyển khiến chị và điệu Sanh giật bắn, riêng thầy vẫn bình tâm tụng kinh. Mưa lập tức xả xuống rồm rộp ngoài sân. Tiếng kinh chìm nghỉm trong chiều giông bầu trời ứ nước. Điệu Sanh đứng chắp tay, ngoái đầu lui nhìn ra ngoài sân, mong thầm: “Mưa rồi, mưa to nữa đi, mưa lâu nữa đi”. Lại quay đầu vào nhìn lên điện Phật. “Kinh ơi dứt nhanh. Sao tụng hoài tụng mãi không hết thế này?” Chị gái dù chẳng bao giờ đọc lấy một cuốn sách kinh, nhưng những bài kinh, bài sám thông dụng trong bộ nhật tụng thì chị thuộc hết. Thuộc như kiểu người ta học bồi một thứ ngoại ngữ nào đó. Rất nhanh, nhớ dai, đọc làu làu, song nếu bảo viết ra thì chịu, đề nghị giảng giải cho thì càng tịt luôn. Bây giờ chị đang chắp tay tụng kinh, và chẳng cần suy niệm gì nhiều nên chị lắng nghe tiếng mưa bên ngoài. Mưa này là mưa giông chiều hạ, mưa sa đà nhưng tắt bất ngờ. Chị cũng chẳng mảy may mong mưa dứt hay không. Dù thế nào thì chị cũng đang rảnh rỗi, chả có việc gì mà vội phải về nhà. Mưa rề rề có khi lại hay, có cái cớ cho chị ở lại đây chơi được lâu hơn. Những câu kinh vẫn nối nhau không dứt, cứ rền rền một nhịp điệu. Mưa đậm hơn nhấn chìm tiếng cầu kinh. Ba người tụng kinh chẳng nghe thấy nhau. Không hẳn vì tiếng mưa kêu to quá, có khi là vì mỗi người mải đuổi theo những ý nghĩ của mình. Họ tụng kinh như một quán tính. Sư thầy thỉnh mấy tiếng chuông để cả ba người cùng vái lạy kết thúc buổi lễ Phật. Khi thầy quay lui thì chẳng thấy Sanh đâu nữa. Điệu ấy đã chạy tót qua phòng cởi hết áo quần rồi trần trùng trục lao ù ra ngoài mưa. Điệu đứng giữa sân nhẫy nước, khoan khoái hét toáng lên, úp hai lòng bàn tay vào vuốt lớp nước mưa tràn trề trên khuôn mặt. Chị theo thầy qua ngồi bên chiếc bàn gỗ kê ở đầu hồi. - Ngồi đây vừa uống trà vừa ngắm mưa cho vui – Thầy nói. - Dạ. Mưa giông mà cũng lâu ngơi quá thầy nhỉ? - Năm con rồng, mưa dai dẳng thế đấy. Mà bữa nay trời lạ lắm, chẳng có theo quy luật gì đâu. Hôm rồi mới bão số một đó thôi. Đương xuân đã có bão. Mưa giông bây chừ khác hồi trước cũng là phải. Chẳng biết từ nay tới cuối năm còn chuyện gì nữa đây? - Nghe nói năm nay thời tiết khắc nghiệt hơn, mưa nắng thất thường thầy ạ. Có khi chưa tới lễ Phật đản đã mắc lũ tiểu mãn cũng nên. Coi bộ con đến nương chỗ thầy dài dài rồi đây. - Con người ta sống cũng thất thường huống nữa là trời – Thầy nói đùa một câu cho vui. Ai ngờ lại làm chị buồn. Cứ như thể là đọc trúng ruột gan của người ta vậy. Mưa tạm ngưng một lát điệu Sanh đã giẫm chân nhảy, hối ông trời ơi mưa đi mưa to nữa đi. Thầy nói vống ra nhắc nhở: “Coi tắm mau vào mặc áo quần kẻo cảm lạnh con”. Sấm lại rền một tràng, rùng rùng như ai luồn một lợi dây khổng lồ xuyên dưới lòng đất. Mưa lại bắt đầu đổ ào ào một trận khác. Chị chêm thêm trà vào chén sư thầy. - Đấy, lại mưa nữa rồi. Con tính tới ở đây theo thầy học thêm kinh sách cho mở mang, chứ đến chùa tụng miết mà chẳng hiểu kinh kệ gì cả. Thầy im lặng, không trả lời, nghĩ bụng: “Chị ấy muốn tu thật sao? Nếu có căn cơ theo đạo Bổn sư thì ta không nên can ngăn”. Nhưng muốn vào chùa ở hẳn thì thầy sẽ giới thiệu chị đến một ngôi chùa ni ở cách đây năm chục cây số. Xưa nay chốn thiền không thể có cảnh vừa tăng vừa ni cùng tu ở một nơi được. Ngày xưa khi thành lập giáo đoàn, đức Bổn sư từ chối tiếp nhận nữ giới là có cái lý của ngài. Tội lỗi do tham dục mà sanh. Và tham dục lại ngáng đường tìm đến chánh quả. Cho nữ và nam cùng tu ở một nơi thì không chừng hỏng tất cả. Hơn nữa, đàn bà sức yếu chí mềm, sợ không đi hết được con đường đã chọn. Bây giờ nghe chị muốn tới đây ở thầy đâm khó nghĩ. Đừng có đổ tội cho trời mưa gió khó lường mà nương vào sư thầy là phải tội đấy. Điệu sanh nhảy lưng tưng giữa sân mưa. Dầm nước nãy giờ đã khéo lạnh, ngó cái chỗ thừa dưới bụng chú tiểu săn thun lại thì biết. Chị gái mỉm cười, với ra trêu: - Chú Sanh vào đi. Thút hết cả rồi kìa! Điệu sanh xem chừng vẫn chưa muốn nghỉ tắm, còn thích chèo kéo mời mọc: - Thầy với cô ra tắm cho vui. Mát lắm! - Đúng là trẻ con, hồn nhiên quá thầy nhỉ? – Chị quay sang thầy, buông một câu. Thầy chẳng đáp, chỉ nói vu vơ: - Thà làm trẻ con! Chiều đã muộn mà sấm đất chưa dứt, cứ đánh ê a như những câu kinh mắc cụt. Tiếng Kêu Vẳng Từ Gốc Si S ân chùa không phải là nơi có tất cả mọi thứ trên đời, nhưng với điệu Sanh, chỉ khoảnh nhỏ ấy thôi cũng đủ để vui chơi một mình. Chẳng hiểu cơn cớ nào run rủi để rồi một cậu bé ở làng trở thành chú tiểu điệu Sanh như hôm nay. Có thể đấy là duyên, là nghiệp. Sanh không để ý lắm đến điều ấy. Một khi đã vào đây buộc phải chấp nhận cảnh sống khác, lối sống khác. Sanh hầu như không có bạn cùng trang lứa, ngoại trừ những dịp sóc vọng lễ vía có vài đoàn sinh Phật tử đến viếng chùa. Thôi thì làm bạn với những gì sẵn trong khuôn viên chùa, chẳng sao, mọi thứ dưới con mắt của nhà Phật đều là loài hữu tình và đáng được trân trọng. Chớm hạ, nắng vàng dần lên, trời bắt đầu oi nực, từng chiếc lá si khô cong lại. Buổi trưa Sanh hay ra ngồi nơi thềm hiên, gió thoảng qua mát dịu. Lâu lâu có cơn gió bạt mạnh, một đàn lá si cuộn tròn lăn lăn xô nhau dồn về góc sân. Sanh thích ngồi chơi như thế, bỏ quên cả giấc ngủ trưa. Ngôi chùa này tuy nhỏ nhưng chánh điện niệm Phật luôn trang nghiêm và khuôn viên sẵn có vườn cây hai bên phủ bóng mát. Lũ gà xem ra cũng khôn nên thường lui tới đây kiếm cái ăn và cả kiếm ái tình, thứ mà nhẽ ra ở chùa không nên có. Buổi trưa, một chú gà trống của nhà bên xóm lẻn vào vườn chùa, đứng khệnh khạng dưới gốc si rồi cất tiếng gáy vang như thể không chịu nổi cái nắng sang mùa đột ngột. Sanh nghĩ thế vì có hôm nực quá, điệu đã kéo xệch cổ áo rồi hét toáng lên, sư thầy phải bước ra răn ngay đừng có làm náo lên nữa. Khuôn viên chùa cần phải yên tĩnh và người xuất gia luôn giữ tâm mình an nhiên, khẩu xuất cũng phải thanh tịnh nhã nhặn. Riêng tiếng gà gáy thì thầy không mắng, cũng không xua đuổi chúng đi. Chỉ có tiếng người mới lụy khổ chăng? Lát sau đã thấy một con gà mái từ phía ngoài nhè nhẹ lần đến gốc si, vừa đi vừa gật gật đầu cúi xuống thẹn thùng. Chú gà trống lượn đi một vòng quanh gà mái, vỗ cánh xoạp xoạp vài cái rồi bất ngờ nhảy lên lưng con khác giới. Gà mái thở rựt rựt mấy tiếng khó nhọc, nhưng rõ ràng nó không hề muốn hất tung con trống đang chễm chệ trên lưng mình. Điệu Sanh vỗ tay khen cú nhảy diệu nghệ của gà trống và cười vui, tỏ ra thích thú với cặp bạn đang cõng nhau. Thầy lại bước ra định nhủ điệu Sanh vì lần này điệu cười quá to, cứ như hét. Khi thầy ra đến cửa thì con gà trống đang cắm mỏ vào nhúm lông trên đầu gà mái, vỗ cánh đánh ụp một phát. Còn điệu Sanh tay đang cầm hòn sỏi giương lên chuẩn bị ném hai con gà. Trò này hồi còn ở nhà mấy đứa trong xóm hay dùng để phá, thể nào hai con cũng kêu toáng lên như chửi lũ trẻ phá đám. Sư thầy kịp nhủ điệu Sanh bỏ hòn sỏi xuống rồi ngay lập tức quay vào trong, không răn dạy thêm một điều gì. Nhẽ ra thầy nên quát hai con gà mới đúng, hoặc chí ít là xúi huầy cho chúng bỏ đi vì đã quấy quả cửa chùa bằng trò dung tục. Sanh nghĩ thế. Cửa chùa không thể chấp nhận những trò ấy. Vậy mà sư thầy lại nỡ can điệu Sanh, tức là thầy dung túng cho chúng chăng? Sanh vẫn không hiểu nổi. Nhưng Sanh không giận thầy, điệu luôn tin sư thầy xử sự mọi việc đều có cái lý riêng, thế là Sanh đổ tất cả sự tức giận lên hai con gà. “Đợi đấy! Không ném đá thì có cách khác. Ta sẽ cho chúng bay biết tay!”. Hôm sau thầy bắt Sanh phải vào nằm nghỉ trưa, chú tiểu này hở ra một chút là lại sinh chuyện, mà toàn chuyện khiến thầy khó xử. Nhưng sao thầy thấy mến điệu Sanh quá chừng. Hình như trên con đường đi tìm chân lý của một vị sư luôn có những chướng ngại do chính con người tạo ra. Và Sanh là một nhân sứ làm nhiệm vụ tạo ra trở lực ấy. Sanh ngoan ngoãn lên giường nằm để đánh lừa thầy, rồi nhẹ chân lẻn ra thềm hiên. Con gà trống vẫn đến chỗ gốc si, đưa ánh mắt thách thức điệu Sanh và thản nhiên rướn cổ lên gáy. Gà mái trễ hẹn. Chắc có chuyện gì đó không ổn. Đến khi thoáng thấy đầu gà mái chui ra khỏi lùm cây thì Sanh mừng. Chẳng nhẽ điệu Sanh cũng ủng hộ cái trò chơi của lũ gà, cái trò mà hôm qua Sanh định phá ngang ấy. Hôm nay gà mái đau chân, nó đi cà nhắc. Gà trống không leo lên lưng nữa, nó dẫn gà mái đi quanh vườn cùng kiếm mồi. Khó khăn thông cảm, hoạn nạn đỡ đần. Sanh biết vậy. Mấy bữa sau gà mái đẻ trứng, không nhớ chính xác là mấy hôm từ cái bữa điệu Sanh thấy chúng chơi trò cõng nhau vì sau bận ấy Sanh không để ý tới cặp gà nữa. Ngay cả chuyện gà mái đẻ trứng Sanh biết được cũng là sự tình cờ. Buổi chiều, điệu chạy ra vườn thì thấy con gà mái chui ra khỏi bụi cây dại, gáy cục ta cục tác một hồi. Sanh tò mò tiến đến gần. Vẫn chưa thấy gì ngoài mấy nhành cây dại phủ kín. Gần thêm chút nữa mới thấy được hai quả trứng nằm lọt giữa bụi rậm. Cái ổ đẻ được xoáy từ mấy cọng lá quanh đó, vo tròn lại như một búi tóc rối. Hồi còn ở nhà, mỗi khi con gà mái cục ta cục tác, mạ nói “gà sắp nhảy ổ”. Rồi mạ lấy cái thúng cạn, lót ổ rơm đặt trên chuồng cho con gà mái nằm đẻ. Còn bây giờ, con gà mái hôm trước mới ngả ngớn chơi trò trong sân chùa lại đẻ khuất trong bụi. Sanh ngó quanh ngó quất, mắt láo liếc như kẻ trộm, biết không có ai, không con gà nào nhìn thấy mình, điệu nhặt lấy một quả trứng, đem giấu tít sau nương chùa. Đúng chiều hôm đó con gà mái cũng đánh mắt canh dò rồi nhảy vào cái tổ hoang để đẻ tiếp quả thứ ba. Mẹ gà nhận ra mất một quả trứng, liền nhảy phóc ra ngoài bụi cây hét toáng lên. Lạy ông tôi ở bụi này. Đẻ hoang còn la làng thì hỏng rồi. Sư thầy đang ngồi trong thư phòng, nghe tiếng gà mái náo náo ngoài vườn liền chạy ra. Bụng nghĩ chắc điệu Sanh lại gây ra trò gì đây. Lần này trên tay Sanh không cầm hòn sỏi nào cả. Quả trứng thứ hai điệu đã giấu kỹ, chắc là sư thầy cũng không lần ra được đâu. Thầy ghé tai nói nhỏ một câu gì đó với Sanh. Chỉ một câu thôi, nhưng đủ khiến điệu Sanh chạy lui sau chùa và đem quả trứng đặt vào chỗ cũ. Con gà mái thất thần, như người mẹ mất con, cần mẫn đi tìm suốt buổi chiều vẫn chưa thấy quả trứng mới đẻ hôm qua đâu. Người mẹ nhận ra mất một đứa con thì đau khổ lắm, nhưng còn một đứa con nữa cần bảo vệ, gà mái chạy về tổ. Như một giấc mơ, hai quả trứng nằm sát nhau trong tổ. Chiều hôm đó gà mẹ yên tâm cho ra quả trứng thứ ba. Không rõ con gà mái này của nhà ai bên xóm vào đây đẻ sòn sòn ra thế. Thầy định nhủ điệu Sanh đi quanh hỏi coi của nhà ai thì đến mà bưng về, chứ để thêm vài bữa nữa là con gà nằm vạ ra đấy mà ấp. Tội nghiệp! Định bụng thế thôi chứ thầy cũng không bảo điệu Sanh nữa. Thà cái của nả rơi rớt, đi kiếm chủ trả lại, chứ đằng này cái tổ gà, đi hỏi khó chịu lắm. Thôi thì cứ để yên đấy. Trước đây đã mấy lần người ta bỏ rơi con trước cổng chùa, thầy đem vào nuôi nấng đến vài tuổi cũng có người đến nhận nuôi. Sư thầy mong rằng sẽ có người đến bế cái tổ trứng kia về. Qua mỗi ngày, cái tổ thêm một quả tròn, một chủng tử sinh linh xuất hiện trong vườn chùa là thêm một nỗi dây oan. Mười cái trứng giống nhau quây kín một hình tròn giữa ổ lá. Những cọng lá cũng đã khô hết, nâng niu trên đó mười mầm xanh sắp hiện ra. Không có ai đến nhận. Bỏ rơi mẹ gà. Đẻ hoang và bỏ rơi hình như luôn đi cùng nhau. Nhưng con gà mái thì không bỏ con, nó nhẹ nhàng lên nằm ấp trứng. Hai thầy trò lấy hai miếng tranh cũ làm một cái lều tam giác đơn sơ cho gà mẹ ấp trứng. Mùa này chưa có mưa gió mạnh, nên cái lều chủ yếu che sương đêm thôi. Ngày ngày, Sanh lấy nắm gạo bỏ bên ổ cho gà mẹ, lấy cái gáo dừa múc ít nước đặt đấy. Gà mẹ đưa mắt hàm ơn rồi cúc cúc từng tiếng trong cổ như nghẹn ngào xúc động. Sanh nhận ra những loài hữu tình đúng thật cái nghĩa của nó, luôn có thứ tình cảm chân thực nếu mình xử sự tốt với chúng. Thế mà hồi còn ở làng, nhiều lần Sanh cùng lũ trẻ trong xóm đi rình bắt tổ chim, có khi gặp được một ổ trứng chim đồng xoáy tổ giữa ruộng lúa, đem chia nhau hút sống quả trứng luôn. Nghĩ lại Sanh chợt thấy ơn ớn lờm lợm trong cổ. Vào chùa, Sanh nhận ra dần những việc phải trái, bỏ đi nhiều những thói xấu mà hồi ở làng không ai chỉ dạy cho biết, cứ nghĩ đấy chỉ là trò chơi trẻ con thôi. Điệu Sanh từng ngày ngóng chờ đàn gà con chui ra khỏi vỏ trứng, khi ấy có cả một đàn gà rộn ràng vườn chùa, càng vui. Còn sư thầy lại nghĩ, không biết rồi chúng sẽ ra sao. Chắc thầy phải nuôi rồi. Mà chủ trương của thầy là không nuôi động vật gia cầm. Hồi trước thầy có nuôi con chim dòng, sau trận bão cái lồng bị gẫy nan, con chim đã bay đi. Từ đó thầy phát nguyện không nuôi thêm con gì nữa, kể cả sinh vật cảnh, bởi đến một ngày tất cả rồi sẽ rời bỏ nơi đây, để lại cho thầy những nỗi day dứt xen lẫn ân hận. Bầy gà cũng thế, thầy sợ cưu mang chúng rồi đến một ngày to lớn, mấy ông nghiện rượu quanh đây thể nào cũng mò đến bắt về thịt. Sư thầy không muốn mình vô tình trở thành người nuôi dưỡng cho lòng tham sân của người khác. Điều này cũng là một giới nghiêm trong luật trì của bậc tu hành. Đàn gà con từ từ chui ra khỏi vỏ trứng, chiêm chiếp kêu rộn ràng sau gốc cây si. Gà mẹ mừng rỡ nhảy ra khỏi ổ vươn cánh xù lông sau quãng thời gian hun đúc tình thương vào lũ con. Con gà trống mất tăm từ bữa dắt con mái đi kiếm mồi. Đến giờ vẫn chưa về, Sanh thèm nghe một tiếng gà gáy giòn giã quá. Đêm cuối tháng tối mò. Canh hai đã nghe tiếng gà thét lên. Tiếng kêu làm hai thầy trò thức giấc. Linh cảm thấy điều chẳng lành nhưng thầy không vội vàng, chuyện đâu đã có đó. Hai thầy trò từ từ đi ra sân. Đàn gà con nháo nhác không tìm thấy mẹ ở đâu trong đêm tối. Sắc không thoáng chốc phiêu bồng. Bên gốc si, bữa nọ tiếng gà trống giục tình đã mở ra một con đường sinh. Rồi tiếng đàn con chiêm chiếp chui khỏi vỏ sừng khóc gào kêu khổ. Cuối cùng, tiếng gà mái rống hết sức lực van lời tạm biệt. Tất cả những tiếng kêu ấy vẳng lên từ dưới gốc si. Biết thế, nhưng khó mà chặt cây đi. Đau Ở Đâu? M ùa chuyển đột ngột, mới xuân mát rượi đó đã sang hạ nóng nực. Thời điểm chuyển giao này dễ nẩy sinh dịch bệnh. Mấy hôm nay trong vùng rất nhiều người đã nhiễm sốt phát ban, chấm đỏ nổi khắp mình mẩy. Ngôi chùa nằm cách xóm dân cư không xa lắm nên chưa chắc thầy trò điệu Sanh được miễn nhiễm virut gây bệnh. Hôm qua, điệu Sanh trốn thầy đi chơi trong xóm. Về. Sáng nay đã nổi những nốt chấm đỏ mờ mờ. Đến trưa thì hai mắt điệu híp lại. Vốn là đứa trẻ hiếu động, ngày thường chạy nhảy đùa giỡn làm náo sân chùa khiến cho thầy không biết bao nhiêu lần phải nhắc nhở, thế mà hôm nay điệu nằm trên giường suốt cả buổi chiều. Sư thầy lo lắng, một chút ưu tư thoáng biểu hiện trên khuôn mặt. Thầy thương điệu Sanh quá. Ở chùa, coi như thầy là cha mẹ của điệu Sanh rồi, chăm bẵm từng li từng tí. Thế nhưng điệu ấy còn nhỏ, thiếu bàn tay săn sóc của mẹ thì quả là thiệt thòi. Ở đời, bình thường không sao, đến khi người ta ngã bệnh ra lại cần đến thứ tình cảm ruột rà mới chóng khỏi. Bệnh tật là một trong bốn thứ khổ của thế gian, người tu hành cũng mắc phải; hay nói cách khác, họ buộc phải vượt qua bệnh tật mới mong tìm được đạo. Cố nhiên, bệnh là thứ giới tu hành phải đối mặt nhiều hơn người thường, bởi đấy không chỉ là bệnh trên cơ thể, mà còn có những căn bệnh vô hình. Tu hành, hiểu theo phương diện khác là dứt trừ nghiệp chướng, loại bỏ sân mê, tức chữa bệnh cho mình và chúng sanh. Trong Ngũ minh pháp của nhà Phật có một pháp là Y phương minh, dùng sự hiểu biết sáng suốt để chữa bệnh. Bởi thế, sư thầy cũng là một vị bác sĩ. Thầy chỉ chữa bệnh bằng phương pháp dân gian, vì cội căn của phương pháp này là đưa người bệnh trở về hòa nhập với thiên nhiên, cho cái tâm an tĩnh. Nhiều người trong vùng thường đến nhờ thầy coi bệnh giúp. Rồi thầy chỉ cho loại thảo mộc, bày cách sao lá, sắc thuốc. Riêng bệnh sốt phát ban thì thầy mới chỉ biết cách hạn chế sự lây lan thôi. Thầy lại không muốn cho điệu Sanh uống thuốc tây. Còn nhỏ, uống thuốc tây nhiều không có tốt. Thuốc tây nó như sữa hộp, trẻ con dùng sữa hộp sao bằng được bú sữa mẹ. Thầy đang suy nghĩ xem có loại thảo mộc nào phù hợp để chữa bệnh sốt phát ban không. Trước khi vào chánh điện niệm kinh cầu an, thầy khép bớt vài cánh cửa, nhủ điệu Sanh đừng ra gió. Bưng một cốc nước lọc cho điệu uống. Bệnh này là dễ bị mất nước lắm, cần phải uống nhiều vào. Ngoài trời nóng nực, nhưng điệu Sanh cảm thấy lành lạnh, lâu lâu quặn lên một đợt ớn lạnh đến rùng mình. Điệu Sanh nằm buồn, nhẩm lui tới câu chú Quan Âm Bồ tát. Đây là vị bồ tát cứu khổ cứu nạn. Nhiều người đã tai qua nạn khỏi, bệnh tật chóng lành nhờ niệm danh hiệu của Ngài. Tụng kinh xong, thầy vào phòng xem điệu Sanh thế nào thì gặp chị bán vải đang ngồi bên giường Sanh. Lúc nãy chị đến, nghe tiếng niệm kinh, biết thầy đang hành lễ nên đi nhẹ vào trong tịnh thất. Chị chừng bốn mươi tuổi, ngang ngửa tuổi với mẹ của Sanh dưới quê. Chị sống một mình, bán vải ở chợ, chồng đã ly dị, không con cái. Từ bữa tết chị đến chùa, rồi cuối tuần nào cũng ghé lên thăm viếng thầy trò điệu Sanh. Đôi khi chị ở chơi suốt buổi để nghe sư thầy nói chuyện hoặc làm vài việc lặt vặt trong chùa. Cũng như nhiều người đến chùa làm công quả, chị tâm niệm rằng tới đây với tấm lòng thành ắt sẽ được phước đức về sau. Chị quay lại chắp tay chào sư thầy, xong bưng thêm cốc nước cho điệu Sanh uống. Thầy nói hôm qua điệu ấy đi chơi về, sáng nay ra thế đấy, trẻ con sức đề kháng thấp, dễ mắc bệnh thật. Chị cười, nói không sao đâu. Bệnh dịch thôi mà. Loại này ép lá cỏ nhọ nồi, ở đây gọi là cỏ mực, cho uống là khỏi liền à. Điệu Sanh lắc đầu, đắng lắm, không uống đâu. Vẫn giữ nụ cười hiền dịu, chị động viên. Dễ uống thôi mà, cố gắng một tí. Chú Sanh cứ nằm yên, để cô đi kiếm lá. Nói xong, chị xin phép sư thầy, đi ra vườn chùa. Thầy không ngờ rằng chị này cũng biết chữa bệnh bằng phương pháp dân gian. Hôm nay, thầy đã học được một cách chữa sốt phát ban. Thầy nghĩ, sự học thật vô cùng, bất cứ ai cũng đều là thầy của ta, dạy ta ít nhiều bài học nào đó. Lát sau chị đã quay lại với nắm cỏ nhọ nồi trên tay. Chị mướn thầy cái bếp. Rửa lá xong, rảy cho ráo, bỏ vào cái cối nhỏ, giã nhẹ nhàng rồi ép ra được lưng tách trà. Một phần lá còn lại chị cho vào ấm nước, nhóm củi đun sôi. Bưng ly nước xanh thẫm vừa ép xong lên tịnh thất, chị ngồi bên giường, vòng tay luồn qua cổ đỡ điệu Sanh ngồi dậy. Ân cần như một người mẹ thương con. Điệu Sanh đưa mắt nhìn cô, chợt thấy sao cử chỉ của cô giống với mạ mình hồi trước quá. Một vòng tay mềm mại, ánh mắt nhìn trìu mến, giọng nói dỗ dành dịu dàng. Tự dưng điệu rơm rớm nước mắt, nhớ mạ. Sư thầy ngồi nơi chiếc ghế kê bên cửa sổ, ngó sang, cảm thấy một thứ tình cảm nào đó giữa người dưng với nhau mà sao thiêng liêng như tình mẫu tử quá chừng. Tu hành cũng thế, phải luôn hết mình yêu thương tất cả chúng sanh, nên chi có một tạng kinh về hàng quả đạo là Thất Phật phụ mẫu tánh tự. Ngay trước mắt thầy bây giờ cũng là một câu kinh từ bi, nhưng đôi khi, câu kinh ấy lại cản trở bánh xe chánh pháp. Sự quyến luyến, nâng nựng rất dễ làm cho giới luật bị phá vỡ. Thầy nghĩ, hay là khuyên điệu Sanh rời chùa, về nhà sống với mẹ cha, cho điệu ấy được hưởng một tuổi thơ đủ đầy như bao đứa trẻ khác. Cửa chùa không ép buộc ai, lối đạo chẳng ngăn chân ai. Khuyên điệu ấy về nhà liệu thầy có bị nghĩ là… đuổi khéo điệu Sanh? Điệu uống hết ly nước ép cỏ nhọ nồi. Tuy có ngai ngái nhưng cũng không đến nỗi khó nuốt lắm. Chị khen chú Sanh giỏi thật đấy, thể nào ngày mai bệnh cũng bớt nhiều, xong quay lại nói với sư thầy: “Con có sắc thêm một ấm nước lá cỏ nhọ nồi. Lát thầy cũng uống lấy vài cốc để phòng bệnh. Chứng bệnh này dễ lây lan, không chủ quan được thầy ạ! Nước này uống cũng ngon và tốt lắm, hồi trước ông thân của con vẫn hay dùng. À, mà thầy nhớ uống lúc nước hẩm hẩm đấy nhé”. Nói xong, chị cúi xuống thủ thỉ với điệu Sanh: “Chú nghỉ ngơi chóng khỏe”. Rồi quay sang chấp tay vái chào sư thầy và ra về. Một cảm giác thật khó tả đang quấn lấy sư thầy. Cái chị bán vải ấy, cũng như quý đạo hữu Phật tử khác thôi, mà sao lại quan tâm đến hai thầy trò quá. Coi này, đã cất công kiếm cỏ nhọ nồi, ép nước cho điệu Sanh, còn sắc lá cỏ nhọ nồi rồi bày thêm cách uống cho thầy. Mấy chục năm ở chùa, đã