🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Con Tằm - Robert Galbraith full prc pdf epub azw3 [Trinh thám] Ebooks Nhóm Zalo Tặng Jenkins, nếu không nhờ anh… mà anh cũng hiểu cả. ★★★ «Máu thù nhuộm cảnh, chuyện tử sinh Gươm kia vấy đỏ, bút say tình Thi nhân nặng bước, trò bi thảm Nguyệt quế quanh đầu tựa gai đinh.» (The Noble Spanish Soldier) Thomas Dekker 1 HỎI Thế ngươi sống bằng gì? ĐÁP Bằng thao thức suốt đêm. Thomas Dekker The Noble Spanish Soldier “Giờ này mà gọi thì phải hàng ngon,” giọng phía bên kia đầu dây khàn khàn, “phải cỡ có số má, vừa ngoẻo càng tốt.” Gã cao lớn, râu ria lởm chởm lê bước trong buổi nhập nhoạng. Trời vẫn chưa sáng. Điện thoại kẹp lên tai, gã nhe răng cười. “Thì cũng cỡ đó.” “Mẹ kiếp, mới có sáu giờ sáng!” “Sáu rưỡi rồi, nhưng nếu ông muốn thì phải tới mà lấy,” Cormoran Strike nói. “Từ chỗ ông tới đây có xa xôi gì đâu. Có một quán…” “Làm sao ông biết tôi ở đâu?” Giọng người lạ hỏi lại. “Thì ông kể còn gì,” Strike đáp, cố gắng không ngáp thành tiếng. “Chẳng phải đang tính bán nhà sao.” “À,” giọng người kia đáp, có phần dịu đi. “Nhớ dai thật.” “Có quán cà phê mở cửa suốt…” “Dẹp đi. Lát nữa ông cứ tới thẳng văn phòng…” “Nghe đây Culpepper, sáng nay tôi có khách rồi. Tay này trả khá hơn ông nhiều. Tôi vừa thức suốt đêm. Nếu muốn có hàng thì đến lấy ngay, nhé.” Culpepper gầm gừ. Strike nghe thấy tiếng chăn mền sột soạt. “Kiểu này mà không ngon ăn thì ông biết tay tôi.” “Quán Smithfield trên phố Long Lane,” Strike nói nốt rồi tắt máy. Strike bước đi, càng lúc càng khập khiễng, xuôi con dốc về phía chợ Smithfield. Khu chợ đặt trong khối nhà sừng sững giữa một sớm mùa đông trời còn tối mịt. Một điện thờ hình hộp chữ nhật hoành tráng dành cho các thể loại thịt thà. Nơi đó, hàng mấy thế kỷ qua, cứ bốn giờ sáng người ta lại bốc dỡ thịt tươi, pha chặt rồi đóng gói chia cho các hàng thịt và nhà hàng khắp London. Trong buổi sớm ảm đạm Strike nghe thấy tiếng í ới chỉ đường xen tiếng động cơ xe tải gầm gừ, bấm còi de đuôi vào cho hàng thịt dỡ những súc hàng tươi nóng. Khi đến phố Long Lane, hắn hòa vào những người đàn ông quàng khăn đội mũ ấm sực mải đi lo công chuyện thường tình của một sáng thứ Hai. Vài người phát thư báo mặc áo phản quang đang đứng túm tụm, bàn tay đeo găng ôm lấy tách trà nóng. Ngay trên đầu họ là bức tượng linh vật mình sư tử đầu chim bằng đá canh gác một góc chợ. Phía bên kia đường quán Smithfield Café tỏa ánh đèn nồng ấm, tựa lò sưởi bập bùng giữa bóng tối chung quanh. Quán mở cửa suốt ngày đêm, một không gian bé nhỏ ấm áp với các món ăn nhiều dầu mỡ. Quán café không có nhà vệ sinh riêng cho khách mà dùng chung với hiệu cá cược cách đó vài căn. Phải ba tiếng đồng hồ nữa thì hiệu Ladbrokes mới mở cửa. Vậy là Strike đành rẽ qua con hẻm nhỏ gần đó. Trong lối đi tù mù, hắn từ từ trút hết nỗi lòng óc ách đầy cà phê loãng nạp vào suốt một đêm thức trắng. Vừa mệt vừa đói, nhưng lại có cái cảm giác hài lòng dễ chịu của một người vừa làm ráng hơi quá sức, hắn bước về bầu không khí sực nức chất béo của món trứng chiên và thịt muối. Hai người đàn ông mặc cả áo len lông cừu lẫn áo khoác chống thấm vừa mới ra khỏi bàn. Strike nặng nhọc nhét người vào chỗ trống. Miệng gầm gừ khoái trá, hắn thả mình xuống chiếc ghế sắt cạnh mặt bàn gỗ. Gần như chưa kịp gọi thì ông chủ quán người Ý đã mang đến trước mặt hắn tách trà cao màu trắng, thêm cả mấy lát bánh mì nướng hình tam giác đã phết sẵn bơ. Chỉ trong vòng năm phút sau đó, bữa điểm tâm kiểu Anh đầy đủ trên chiếc đĩa lớn hình bầu dục hiện ra. Strike dễ dàng lẫn vào cánh đàn ông rắn rỏi ra vào quán. Hắn cao lớn, tóc ngắn, đen, xoăn tít, hất ra sau để lộ vầng trán cao. Dưới vòm trán dồ đó là cái mũi của dân đấm bốc và cặp lông mày sâu róm cáu kỉnh. Trông gương mặt hắn nhếch nhác, râu ria lún phún còn cặp mắt đen thì thâm quầng rõ. Hắn vừa ăn vừa mơ màng nhìn khu chợ đối diện. Chiếc cổng vòm số hai hiện ra khi bóng đêm tan dần: trên cổng một bộ mặt đá già nua rậm râu nghiêm nghị nhìn lại hắn. Liệu có vị thần nào chuyên coi sóc việc giết mổ chăng? Strike vừa ăn tới món xúc xích thì Dominic Culpepper cũng trờ tới. Tay nhà báo cao gần bằng Strike nhưng mảnh khảnh, nước da non tơ như mấy cậu bé hát ca đoàn nhà thờ. Gương mặt Culpepper bất đối xứng kỳ lạ, như thể vừa bị ai vặn một cú ngược chiều kim đồng hồ cho đỡ xinh như con gái. “Phải là hàng ngon à,” Culpepper vừa nói vừa ngồi xuống, tháo găng tay và đảo mắt quanh quán một vòng, có vẻ nghi ngại. “Ăn gì không?” Strike hỏi, vẫn nhồm nhoàm xúc xích. “Không,” Culpepper đáp. “Chắc đợi lát nữa ăn bánh sừng bò chứ gì?” Strike cười khì. “Dẹp đi, Strike.” Anh chàng cựu học sinh trường tư thật dễ bị trêu. Culpepper gọi trà, ra bộ bất cần hầm hố, còn bày đặt suồng sã gọi cậu phục vụ là “mậy, nhỏ” còn tay này chẳng buồn để’ ý. Strike thấy mà tức cười. “Nói?” Culpepper ra lệnh, bàn tay thon dài trắng trẻo vẫn ôm lấy tách trà nóng. Strike lục túi áo khoác lấy chiếc bì thư, đẩy về phía tay nhà báo. Culpepper mở ra, bắt đầu đọc. “Bỏ mẹ, trời đất ơi!” mãi một hồi sau anh ta mới khẽ thốt lên. Culpepper sốt ruột lật mấy tờ giấy, có chỗ chi chít chữ viết tay của Strike. “Ông kiếm đâu ra thứ này vậy?” Miệng đầy xúc xích, Strike chọc ngón tay chỉ vào một tờ giấy trong xấp, trên đó có địa chỉ văn phòng viết nguệch ngoạc. “Ả thư ký của lão, cũng điên lắm rồi,” hắn đáp, sau khi nuốt xong. “Thư ký kiêm bồ nhí, ngoài hai nhân tình mà ông đã biết. Ả cũng vừa biết là không có cửa thành Phu nhơn Parker.” “Làm quái gì mà ông moi được chỗ đó?” Culpepper hỏi, nhìn Strike chằm chằm. Mấy tờ giấy rung rinh phấn khích trong tay. “Điều tra,” Strike gầm gừ, tiếp tục ngốn xúc xích. “Chẳng phải đám các ông khi trước vẫn tự tay làm mấy chuyện này, sau đó mới thuê tới đám tụi tôi? Nhưng mà ả cũng phải tính tới công ăn việc làm trong tương lai, Culpepper à, vậy nên không được đả động tới ả, được không?” Culpepper cười đểu. “Biết vậy thì đừng đi thó…” Trong chớp mắt, Strike rút lại mớ giấy tờ ra khỏi mấy ngón tay của Culpepper, nhẹ như không. “Ả không thó gì cả. Lão ta nhờ ả in ra ngay lúc chiều. Tội lỗi duy nhất là đưa cho tôi coi. Nhưng nếu ông tính đem đời tư của ả ra phơi trên mặt báo, Culpepper à, thì quên đi cưng.” “Mệt quá,” Culpepper sốt ruột, đưa tay chụp lấy mớ bằng chứng tội trốn thuế trầm trọng trong bàn tay lông lá của Strike. “Thôi được rồi, tụi tôi sẽ chừa ả ra. Nhưng kiểu gì lão ấy cũng biết từ đâu mà ra. Lão cũng đâu có ngu hẳn.” “Thì làm được gì, chẳng lẽ kéo ả ra tòa, để ả tha hồ phun ra hết mấy trò mèo trong vòng năm năm qua?” “Thôi được rồi,” Culpepper thở dài sau một thoáng nghĩ ngợi. “Đưa đây. Tôi sẽ chừa ả ra, nhưng phải cho tôi gặp đã. Coi có phải thứ thiệt không.” “Thứ thiệt đó. Khỏi gặp ghiếc gì đi,” Strike kiên quyết. Không thể nào giao người đàn bà vừa bị phản bội, giận run đến mụ cả người đó vào tay Culpepper. Trong cơn cuồng nộ muốn trả thù người đàn ông từng hứa hẹn kết hôn, sinh con đẻ cái với mình, biết đâu ả sẽ tự hủy hoại bản thân và tương lai tới mức không thể cứu vãn. Strike không mất nhiều thời gian để lấy lòng tin nơi ả. Đã gần bốn mươi hai tuổi; ả từng tưởng sẽ thành mẹ của các con Ngài Parker, vậy mà giờ đây chỉ muốn sôi máu trả thù. Strike ngồi đó cả mấy tiếng đồng hồ, nghe trọn câu chuyện tình dữ dội, ngắm ả bồn chồn đi lại trong phòng khách, khi thì nước mắt đầm đìa, khi thì run bần bật trên ghế sofa, tay ôm lấy đầu. Cuối cùng ả đã đồng ý phi vụ này: một đòn cạn tàu ráo máng, không có đường lui. “Ông chừa ra đó,” Strike nói, giữ chặt mớ giấy trong nắm tay cũng phải to gấp đôi tay Culpepper. “Được không? Không có ả thì chuyện cũng xôm lắm rồi.” Sau giây lát ngập ngừng, Culpepper nhăn nhó nhượng bộ. “Thôi được rồi. Đưa đây.” Tay nhà báo nhét mớ sao kê tài khoản ngân hàng vào túi áo trong, nốc cạn tách trà. Vẻ cáu kỉnh tạm thời với Strike dần dần tan đi, nhường chỗ cho viễn cảnh hoành tráng sắp tới, khi vị quý tộc Anh quốc bị giáng cho một đòn thân bại danh liệt. “Ngài Parker xứ Pennywell,” Culpepper hớn hở lẩm bẩm, “cú này thì Ngài toi đời rồi.” “Chắc sếp ông trả luôn vụ này chứ?” Strike hỏi khi phiếu tính tiền vừa được mang ra. “À… ừ…” Culpepper ném tờ mười bảng xuống bàn. Hai người rời quán cùng lúc. Strike châm thuốc ngay khi cánh cửa vừa khép lại sau lưng họ. “Ông làm sao mà ả phun ra hết vậy?” Culpepper hỏi khi cả hai bước đi trong không khí lạnh buốt, qua mấy chiếc xe máy và xe tải vẫn đang ra vào khu chợ. “À thì luôn luôn lắng nghe…” Strike đáp. Culpepper liếc xéo hắn một cái. “Mấy tay thám tử tư làm cho tôi toàn nghe lén điện thoại.” “Phi pháp,” Strike đáp, phả khỏi thuốc ra bóng đêm đang dần tan. “Vậy làm sao…?” “Ăn đâu rào đó chứ, hỏi gì.” Hai người im lặng đi khoảng năm chục thước. Strike càng lúc càng khập khiễng khó nhọc. “Vụ này sẽ rất ngon. Ngon lắm luôn,” Culpepper hí hửng nói. “Lão già chuyên giở giọng đạo đức giả, toàn lên án lòng tham nọ kia mà giờ đây lại tòi ra nguyên hai chục triệu cất kỹ ở quần đảo Cayman…” “Rất hân hạnh phục vụ quý khách,” Strike tiếp lời. “Để tôi email hóa đơn cho ông.” Culpepper lại liếc xéo hắn một lần nữa. “Thấy con trai Tom Jones lên báo tuần rồi không?” tay nhà báo hỏi. “Tom Jones nào?” “Ca sĩ xứ Wales,” Culpepper đáp. “À, cha đó,” Strike nói, không hào hứng gì. “Hồi còn đi lính tôi cũng biết một tay Tom Jones.” “Ông có đọc bài đó không?” “Không.” “Phỏng vấn dài dòng hay ho lắm. Nói là chưa bao giờ gặp cha, chưa bao giờ thư từ gì. Tôi cá là anh ta kiếm được nhiều hơn con số trong hóa đơn của ông.” “Ông vẫn chưa thấy hóa đơn mà,” Strike đáp. “Thì tôi nói vậy đó. Chỉ cần một bài phỏng vấn nho nhỏ là ông khỏi phải đêm hôm đi phỏng vấn thư ký thư keo làm gì.” “Ông dẹp mấy trò gợi ý đó đi,” Strike nói, “bằng không tôi cóc làm gì cho ông nữa, Culpepper à.” “Mà thực ra,” Culpepper đáp. “Cần gì phỏng vấn, tôi cứ viết không cũng được. Con trai bị từ mặt của ngôi sao nhạc rock, anh hùng quân đội, chưa từng gặp cha ruột, giờ đây đang hành nghề thám…” “Nghe đâu thuê người nghe lén điện thoại cũng là phạm pháp đó.” Đến cuối phố Long Lane họ đi chậm lại, quay nhìn nhau. Culpepper cười gượng gạo. “Nhớ gởi hóa đơn, tôi đợi.” “Được thôi.” Họ đi về hai hướng ngược nhau, Strike về phía ga tàu điện ngầm. “Strike!” Giọng Culpepper vọng lại trong bóng đêm sau lưng hắn. “Đừng nói ông xơi ả luôn rồi hả?” “Viết bài đi, tôi chờ đọc.” Strike mệt mỏi hét trả lời, không ngoái đầu lại. Hắn cà nhắc đến cửa ga tù mù, khuất khỏi tầm mắt Culpepper. 2 Dùng dằng đến bao giờ? Ta không thể chờ mãi Không chờ nữa! Ta còn trăm công nghìn việc. Franchis Beaumont và Phillip Massinger The Little French Lawyer Tàu điện bắt đầu đông lên. Những gương mặt đi tàu sáng thứ Hai: rầu rĩ, hốc hác, căng thẳng và chán nản. Strike tìm được chỗ ngồi đối diện một cô gái tóc vàng mắt sưng húp, đầu cứ ngả về một bên gà gật. Cô ta cứ thỉnh thoảng giật mình ngồi thẳng dậy, nhìn chăm chăm vào bảng tên ga mờ mịt, sợ nhỡ trạm. Tàu điện rung lắc, rầm rập chạy, đưa Strike về cái cơ ngơi hai phòng rưỡi dưới mái nhà cách nhiệt sơ sài - tổ ấm của hắn. Trong cơn mệt mỏi rã rời, chung quanh là những gương mặt nhàn nhạt, buồn tẻ, hắn nghĩ đến những “tai nạn” đã đưa đám người đó đến với cuộc đời. Mỗi con người, suy cho cùng, đều được hình thành ngẫu nhiên. Với một trăm triệu con tinh trùng bơi tán loạn mù quáng, khả năng thụ thai của từng con như vậy là vô cùng nhỏ. Trong số những người đi tàu sáng hôm đó, bao nhiêu người là “trong dự tính”, hắn tự hỏi, thấy đầu lâng lâng. Còn bao nhiêu, như hắn, là “ngoài kế hoạch” hoàn toàn? Hồi tiểu học trong lớp hắn có một cô bé có bớt đỏ ngay trên mặt. Khi đó Strike thấy gần gũi kỳ lạ với cô bạn ấy, vì cả hai đều có chút gì đó khác thường từ khi sinh ra, mà chẳng phải do lỗi của mình. Cả hai đều không tự thấy được sự khác thường đó, nhưng người ngoài ai cũng thấy, rồi cứ xấu tính nhắc đi nhắc lại. Khi hắn chỉ mới năm tuổi, thỉnh thoảng lại có người lạ cứ nhìn hắn mà trầm trồ. Lúc đó hắn tưởng người ta trầm trồ mình, nhưng cuối cùng hắn nhận ra người ta coi hắn như chút rơi vãi của tay ca sĩ nổi tiếng, một thứ chứng cứ quan trọng kết tội ăn vụng, mèo mỡ của giới sao siếc. Strike chỉ mới gặp cha ruột có hai lần. Jonny Rokeby chỉ chịu thừa nhận huyết thống sau khi có kết quả xét nghiệm ADN. Dominic Culpepper là hiện thân của hết thảy những hiếu kỳ và định kiến về mối liên hệ giữa tay lính cựu mặt mày sưng sỉa và ngôi sao nhạc rock đã luống tuổi. Những người như Culpepper khi tiếp xúc với Strike thì ngay lập tức nghĩ đến quỹ thừa kế, những món tiền hậu hĩnh, phi cơ riêng, phòng đợi cho khách VIP, những khoản tiêu xài thả ga. Đứng trước gia cảnh khiêm tốn của hắn, biết cả chuyện hắn làm việc hùng hục bất kể ngày đêm, họ sốt ruột tự hỏi: không biết Strike đã làm gì khiến ông già cho ra rìa như vậy? Hay hắn giả nghèo khổ để moi thêm tiền của Rokeby? Rồi hắn tiêu pha kiểu gì mà bay sạch mớ tiền triệu (mà mẹ hắn hẳn đã moi được) trước đó? Những lúc như vậy, Strike lại nuối tiếc nghĩ về thời tại ngũ. Trong quân đội, người ta chỉ biết đến năng lực mà không hề quan tâm đến gốc gác, cha mẹ. Khi còn ở Cục điều tra đặc biệt SIB, cùng lắm người ta chỉ bắt hắn lặp lại cho rõ cái tên kỳ quái do chính người mẹ khác thường đã mãn phần đặt cho. Khi Strike bước ra khỏi tàu điện, phố Charing Cross cũng bắt đầu đông dần lên. Buổi bình minh của một ngày tháng mười một vừa hé dạng, xám xịt và miễn cưỡng. Bóng đêm nhập nhoạng vương vấn như chưa muốn tan hẳn. Hắn rẽ vào phố Denmark, thấy rã rời ê ẩm, chỉ muốn lăn ra ngủ một chút trước cái hẹn với vị khách tiếp theo lúc chín giờ rưỡi sáng. Đưa tay vẫy chào cô gái bên hiệu đàn guitar thỉnh thoảng vẫn đứng dưới đường hút điếu thuốc giải lao cùng hắn, Strike mở cánh cửa đen bên cạnh quán 12 Bar Café, bước lên cầu thang sắt uốn quanh thang máy kiểu lồng chim đã hỏng. Hắn đi qua văn phòng tay thiết kế đồ họa ở tầng một, rồi đến văn phòng của hắn với cánh cửa gương có khắc chữ ở tầng hai, lên đến tầng ba, nơi chật hẹp nhất và cũng là nhà của hắn hiện nay. Người thuê nhà trước đó là tay quản lý quán bar ở dưới nhà. Khi tay này dọn ra chỗ ngon hơn, Strike chộp ngay cơ hội thế chỗ sau mấy tháng ăn ngủ tạm bợ trong văn phòng. Thở phào vì giải quyết được êm đẹp tình trạng vô gia cư khi đó. Tầng áp mái nhìn kiểu gì cũng khá chật hẹp, đặc biệt là với một người đàn ông cao mét chín. Hắn gần như không thể quay người trong nhà tắm; bếp và phòng khách chen chúc ghép chung, còn phòng ngủ thì chỉ cần đặt giường đôi vào đã gần choáng hết chỗ. Mấy thứ đồ đạc của Strike vẫn còn nguyên trong thùng giấy để ngoài cửa, mặc dù chủ nhà đã có quy định cấm để đồ lung tung. Cửa sổ căn hộ nhìn ra các mái nhà chung quanh, phía dưới là phố Denmark. Lên đến đây, tiếng bass lì lợm từ quán bar bên dưới chỉ còn nghe âm ỉ, mỗi khi Strike mở nhạc thì bị át hẳn. Nhìn đâu cũng thấy tính ngăn nắp cố hữu của Strike: chăn mền gấp gọn, bát đĩa sạch sẽ, đâu vào đó. Hắn cần cạo râu và tắm rửa nhưng chưa phải làm ngay. Hắn treo áo khoác, vặn đồng hồ báo thức lúc chín giờ hai mươi rồi mặc nguyên quần áo, thả người xuống giường. Chỉ mất có vài giây hắn đã say ngủ, rồi dường như chỉ vài giây sau đó, lại phải thức dậy. Có tiếng gõ cửa. “Tôi xin lỗi, anh Cormoran, thật tôi ngại quá…” Hắn mở cửa. Cô trợ lý trẻ, cao dong dỏng, tóc vàng hơi hung đỏ đang đứng đó. Trông cô thật bối rối. Khi thấy hắn, cô có vẻ hốt hoảng. “Anh không sao chứ?” “… còn… ng… ngủ… mà. Đêm qua thức suốt, hai đêm rồi” “Tôi xin lỗi,” Robin lặp lại, “Nhưng đã chín giờ bốn mươi rồi. William Baker đang ở đây, đang sắp..” “Bỏ mẹ,” Strike lẩm bẩm. “Chắc tôi để đồng hồ bị nhầm - cho tôi năm phú…” “Chưa hết,” Robin tiếp. “Còn có một bà nữa. Bà này không có hẹn gì cả. Tôi đã nói là sáng nay anh kín lịch rồi nhưng bà ấy không chịu về” Strike ngáp, dụi mắt. “Cho tôi năm phút. Cô pha trà gì đó cho họ đi.” Sáu phút sau, Strike xuất hiện, mặc áo sơ mi sạch, sực nức mùi kem đánh răng và thuốc khử mùi nhưng vẫn chưa cạo râu. Hắn bước vào phòng chờ, Robin đang ngồi bên máy tính. “Thôi thì trễ còn hơn không,” William Baker lên tiếng, cười kẻ cả. “May mà anh có cô thư ký ngon mắt vậy, không thì tôi đã chán mà bỏ về rồi!” Strike thoáng thấy Robin đỏ mặt giận dữ. Cô quay đi soạn mớ thư từ, cố tình đá thúng đụng nia. Cách Baker dùng từ “thư ký” rõ là có gì đó vô cùng xúc xiểm. Tay giám đốc công ty mặc bộ complet sọc kim bảnh bao, đang thuê Strike điều tra hai thành viên hội đồng quản trị. “Chào anh William,” Strike lên tiếng. “Không xin lỗi phải gì à?” Baker lầm bầm, mắt dán lên trần nhà. “Chào chị, chị tên gì?” Strike lơ đẹp ông khách, quay sang hỏi người đàn bà hơi luống tuổi mặc áo khoác màu nâu đã cũ đang ngồi trên ghế sofa. “Leonora Quine,” bà ta đáp, nghe thoáng giọng miền Tây. “Sáng nay tôi bận lắm, Strike à,” Baker lên tiếng. Không đợi mời mọc, ông ta bước thẳng vào văn phòng bên trong. Khi không thấy Strike đi theo, ông ta hơi giật mình, quên mất vẻ kiểu cách khi nãy. “Tôi không biết hồi còn ở lính anh có dám trễ nải như vậy không hả Strike. Phiền anh vào đây cho.” Dường như Strike không nghe Baker nói gì cả. “Chính xác là vì chuyện gì mà chị muốn gặp tôi?” hắn hỏi người đàn bà ăn mặc tuềnh toàng đang ngồi trên ghế. “Chuyện là ông chồng tôi…” “Anh Strike, một tiếng nữa tôi có hẹn,” William Baker lại lên tiếng, lần này còn lớn giọng hơn. “… thư ký của anh có nói là sáng nay anh kín lịch rồi nhưng tôi đã nói tôi sẽ đợi.” “Strike!” William Baker hắng giọng, gọi hắn như người ta gọi chó. “Robin,” Strike mệt mỏi gằn giọng. Cuối cùng hắn hết chịu nổi. “Cô làm hóa đơn cho ông Baker đây, giao hết hồ sơ lại cho ông ta; hồ sơ đã cập nhật đầy đủ.” “Hả?” William Baker hỏi, không tin vào tai mình. Ông ta bước ra phòng đợi. “Ảnh cho ông ra rìa rồi,” Leonora Quine đáp thay, giọng thỏa mãn. “Anh đã làm xong đâu,” Bake nói. “Anh nói là vẫn còn…” “Anh đi thuê người khác làm. Thuê ai chịu làm cho cái thứ như anh đó.” Không khí trong văn phòng căng thẳng tột độ. Mặt lạnh như không, Robin rút hồ sơ của Baker từ trong tủ ra đưa cho Strike. “Anh dám…” “Trong hồ sơ đó có khá nhiều thứ đem ra tòa được,” Strike nói, đưa cho tay giám đốc. “Cũng đáng tiền lắm rồi” “Anh còn chưa…” “Ảnh nghỉ chơi với ông rồi,” Leonora Quine xen vào. “Ngậm miệng lại, cái đồ..” William Baker vừa bắt đầu thì giật mình lùi lại khi Strike tiến tới nửa bước. Không ai nói gì. Tay lính cựu đột nhiên trông bệ vệ gấp hai lần chỉ giây lát trước đó. “Chị Quine, mời chị vào,” Strike nhỏ nhẹ nói. Bà khách hàng răm rắp làm theo. “Anh nghĩ bà ta đủ tiền trả anh sao?” William Baker vừa đi giật lùi vừa mỉa, một tay đã đặt sẵn trên nắm cửa. “Tôi có thể linh động,” Strike đáp, “nếu gặp đúng khách hàng.” Hắn theo chân Leonora Quine vào văn phòng phía trong, đóng cửa đánh rầm một cái. 3 … để tôi lại một mình, gánh chịu khổ đau… Thomas Dekker The Noble Spanish Soldier “Ông đó quá quắt thiệt anh hả?” Leonora Quine vừa ngồi xuống ghế đối diện bàn làm việc của Strike, vừa bình luận. “Ừa,” Strike đồng ý thả phịch người xuống ghế. “Quá quắt.” Nước da Leonora trắng hồng, hầu như không có nếp nhăn. Cặp mắt xanh tái vẫn còn trong. Tuy vậy trông bà ta cũng gần năm mươi. Mái tóc ngả bạc, mềm rũ được cài vén lên bằng hai cái lược nhựa. Bà ta nhìn Strike qua cặp kính gọng nhựa khủng, kiểu kính đã đề-mốt. Áo khoác dù sạch sẽ nhưng rõ là mua từ những năm tám mươi. Đúng mô-đen độn vai và kết nút nhựa to bản thời đó. “Vậy chị tìm tôi vì chuyện ông nhà hả chị Quine?” “Ờ,” Leonora đáp. “Ổng bỏ nhà đi.” “Đi bao lâu rồi?” Strike hỏi, với tay lấy cuốn sổ ghi chép như vô thức. “Mười ngày,” Leonora trả lời. “Chị báo cảnh sát chưa?” “Không cần cảnh sát,” bà ta nói, có vẻ sốt ruột, như thể đã phải giải thích vậy với nhiều người. “Có lần tôi gọi cảnh sát rồi sau đó tôi lãnh đủ hết, vì ổng chỉ ghé qua chỗ bạn. Lâu lâu ổng lại hứng lên đi như vậy. Nhà văn mà,” bà ta nói, như thể ba tiếng đó đã giải thích tất cả. “Ông nhà từng bỏ đi như vậy rồi sao?” “Ổng rất là dễ nổi hứng,” Leonora cau có. “Đùng cái là bỏ đi, nhưng lần này đã mười ngày rồi. Tôi biết ổng đang giận lắm nhưng mà tôi cần ổng về. Còn Orlando nữa, tôi còn có việc phải làm rồi còn chuyện…” “Orlando?” Strike lặp lại, đầu óc hắn mơ màng nghĩ tới thành phố du lịch ở Florida. Hắn không có thì giờ mà đi Mỹ. Với chiếc áo khoác đồ cổ kia, khó có chuyện bà thân chủ này trả đủ xu mua vé cho hắn đi. “Con gái nhà tôi, tên Orlando,” Leonora giải thích. “Cần có người chăm. Tôi có nhờ hàng xóm qua canh giùm nó để mà tới đây.” Có tiếng gõ cửa. Mái tóc vàng rực của Robin xuất hiện. “Anh uống cà phê không anh Strike? Chị Quine, chị có muốn uống gì không?” Sau khi hai người gọi đồ uống, Robin đi ra, Leonora nói tiếp: “Chắc cũng lẹ thôi, vì tôi đoán được ổng đi đâu, chỉ có điều tôi không kiếm ra địa chỉ cụ thể. Điện thoại cũng không thấy trả lời. Mười ngày rồi,” bà ta lặp lại, “hai má con tôi cần ổng về nhà.” Strike thấy vụ đi thuê thám tử tư tìm chồng này hơi bị xa xỉ, nhất là với vẻ bề ngoài bần cùng của Leonora. “Nếu mà chỉ cần gọi điện thôi,” hắn nhẹ nhàng nói, “thì không lẽ chị không nhờ được bạn hay…?” “Edna không gọi được đâu,” bà ta đáp. Strike thấy xúc động lạ kỳ (mỗi khi kiệt sức hắn hay dễ mềm lòng) khi Leonora ngầm thừa nhận rằng thực ra mình chỉ có mỗi một người bạn. “Owen dặn trước với họ là không được nói gì với tôi. Tôi cần,” bà ta nói gọn lỏn “một người đàn ông đi hỏi. Bắt họ phải nói ra.” “Chồng chị tên là Owen hả?” “Ờ,” bà ta đáp, “Owen Quine. Ổng viết cuốn Tội lỗi của Hobart đó.” Tên người và tên sách đều chẳng có ý nghĩa gì với Strike. “Chị đoán được ông ấy đang ở đâu sao?” “Ờ. Hồi đó có lần ổng đưa tôi đi dự tiệc với một đám mấy người làm sách này nọ… ổng đâu có muốn đưa tôi đi theo, nhưng mà tôi nói là: ‘Tôi thuê được người giữ con rồi, để tôi đi chứ,’… rồi bữa đó tôi nghe Christian Fisher nói với Owen về một chỗ, đâu như khu nghỉ mát dành cho nhà văn đó. Vậy là sau đó tôi hỏi ổng: ‘Chỗ đó là chỗ nào vậy?’ rồi Owen nói là: ‘Mắc gì tôi nói với bà, nói ra thì làm sao trốn vợ con được nữa?’” Nghe giọng bà ta như thể mời mọc Strike hùa với ông chồng để cười mình. Leonora có cái vẻ tự hào của mấy bà mẹ hay giả vờ phàn nàn con mình thật láo toét mất dạy. “Christian Fisher là ai?” Strike hỏi, cố tập trung. “Làm bên xuất bản. Còn trẻ, thời thượng lắm” “Chị có thử gọi cho Fisher hỏi địa chỉ chỗ đó chưa?” “Ờ có. Gọi nguyên một tuần, ngày nào cũng gọi, họ cứ hứa hẹn sẽ chuyển lời nhắn, biểu nó gọi lại cho tôi. Nhưng có ơi hỡi gì. Tôi nghĩ chắc Owen đã dặn nó không được nói gì với tôi. Nhưng mà kiểu gì anh cũng moi được địa chỉ từ Fisher. Tôi biết anh giỏi mà,” bà ta tiếp. “Anh phá được vụ Lula Landry còn gì nữa, cảnh sát cũng chạy làng.” Mới tám tháng trước đây, Strike chỉ có một khách hàng duy nhất. Khi đó văn phòng thám tử của hắn đang thoi thóp, tương lai mờ mịt. Thế rồi trước Cơ quan Công tố Hoàng gia Anh quốc, hắn chứng minh được rằng cô gái nổi tiếng ấy không hề tự tử mà bị xô ngã từ ban công tầng bốn. Tiếng tăm sau đó đã khiến hắn ăn nên làm ra hơn. Trong vài tuần hắn được coi là thám tử tư lão luyện nhất thủ đô. Jonny Rokeby chỉ còn là dòng chú thích nhỏ trong những bài báo viết về hắn. Strike có tên tuổi thực sự, mặc dù hầu như ai cũng gọi nhầm… “Lúc nãy tôi ngắt lời chị,” hắn nói, cố gắng tập trung suy nghĩ. “Vậy hả?” “Đúng thế,” Strike nói, nheo mắt nhìn mấy dòng nguệch ngoạc trong cuốn sổ. “Chị nói là: ‘Còn Orlando nữa, tôi còn có việc phải làm rồi còn chuyện…’” “À đúng rồi,” bà ta tiếp, “từ hồi ổng bỏ đi có mấy chuyện kỳ lắm” “Kỳ là sao?” “Cứt,” Leonora nói, tỉnh như ruồi, “quăng vô thùng thư nhà tôi.” “Có người bỏ chất thải vào thùng thư nhà chị?” Strike hỏi lại. “Ờ.” “Từ lúc chồng chị mất tích?” “Ờ. Chó đó,” Leonora nói, phải mất một giây Strike mới luận ra là hai tiếng đó bổ nghĩa cho chất thải, chứ không phải ông chồng. “Cũng phải ba bốn lần rồi đó, mà toàn đêm hôm. Mở mắt ra là thấy, hỏi có sướng không. Rồi còn có cái cô kia tới tận nhà tôi, kỳ lắm.” Bà ta dừng lại, đợi Strike hỏi tiếp. Leonora dường như thích được người ta phỏng vấn. Strike biết những người cô đơn nhiều khi thích trở thành tâm điểm chú ý của người khác, vậy là cứ cố tìm cách kéo dài những lúc hiếm hoi đó. “Người này tới nhà chị khi nào?” “Tuần trước à, hỏi gặp Owen. Tôi nói: ‘Ổng không có nhà,’ thì cổ nói: ‘Nhắn ông ấy Angela chết rồi,’ rồi bỏ đi một mạch.” “Chị không biết cô ta sao?” “Chưa gặp bao giờ.” “Chị có quen ai tên Angela không?” “Không. Nhưng mà đàn bà con gái nhiều khi hay làm trò kỳ khôi với chồng tôi lắm,” Leonora kể, tự nhiên dài dòng hẳn ra. “Ta nói, có cái cô này viết thư cho ổng, rồi còn gởi hình chụp cổ mặc đồ y như nhân vật trong sách ổng viết. Nhiều cô còn viết thư cho ổng nói là ổng hiểu họ hay sao đó, chỉ vì mấy cuốn sách. Nhảm nhí quá hả?” bà ta tiếp. “Chuyện bịa mà cũng tin.” “Độc giả hâm mộ của chồng chị có hay tìm ra địa chỉ nhà chị không?” “Không,” Leonora nói. “Nhưng cô đó có khi là học trò của ổng hay đại loại vậy. Lâu lâu ổng có đi dạy viết văn.” Cửa mở, Robin bưng khay nước vào. Cô đặt tách cà phê đen trước mặt Strike và trà trước mặt Leonora Quine rồi bước trở ra, đóng cửa lại. “Còn chuyện kỳ lạ nào nữa không?” Strike hỏi Leonora. “Ngoài vụ chất thải và có người đến tìm chồng chị?” “Còn, có người theo dõi tôi. Một con nhỏ cao, tóc đen, vai so,” Leonora trả lời. “Người này khác với người…?” “Ờ, cái cô tới tận nhà tìm thì hơi đậm người. Tóc đỏ, dài. Còn nhỏ này thì tóc đen, người liêu khiêu, kiểu vậy đó.” “Chị chắc là cô ta theo dõi chị?” “Ờ, tôi nghĩ vậy. Tôi bắt gặp hai ba lần, cứ đi đằng sau. Không phải người khu đó, tại trước giờ tôi chưa gặp. Mà tôi ở Ladbroke Grove cũng hơn ba chục năm rồi.” “Được rồi,” Strike chậm rãi nói. “Chị nói chồng chị đang giận? Chuyện gì mà giận vậy?” “Ổng cãi lộn với người đại diện.” “Chị có biết cãi chuyện gì không?” “Cãi vụ sách của ổng, cuốn mới nhất đó. Liz - là cái bà đại diện ổng, mới đầu nói là cuốn này hay nhất từ trước tới giờ, rồi ngay hôm sau rủ ổng đi ăn, nói là không thể in được.” “Tại sao bà ấy đổi ý vậy?” “Anh đi mà hỏi bả,” Leonora nói, lần đầu tiên bực ra mặt. “Đương nhiên là sau đó ổng giận rồi. Ai mà không giận được chứ. Ổng viết cuốn sách suốt cả hai năm trời. Hôm đó ổng về tới nhà, bức xúc lắm. Ổng đi thẳng vô phòng làm việc, vơ vét tất tần tật…” “Vơ cái gì kia?” “Cuốn sách, bản thảo, ghi chép, tất tần tật, vừa làm vừa chửi thề văng mạng rồi tống hết vô túi, đi thẳng một mạch tới giờ cũng chưa chịu ló mặt về với tôi.” “Ông ấy có điện thoại di động không? Chị có thử gọi chưa?” “Gọi rồi, không bốc máy. Mỗi khi đi kiểu này ổng chẳng bao giờ bốc máy cả. Có lần còn quăng luôn điện thoại qua cửa xe,” bà ta kể, xem ra lại thoáng chút tự hào về tính nết ông chồng. “Chị Quine à,” Strike nói, lòng thương người của hắn cũng có giới hạn, chứ không hẳn như lúc hắn thể hiện với William Baker, “Tôi nói thật với chị: thù lao của tôi chẳng rẻ chút nào.” “Không sao,” Leonora nói chắc như đinh đóng cột. “Bà Liz sẽ trả” “Liz nào?” “Liz là Elizabeth Tassel, người đại diện của Owen đó. Vì bả mà Owen mới bỏ đi. Nên cứ trừ vô phần trăm của bả. Owen là tác giả ngon lành nhất của bả. Kiểu gì bả cũng muốn Owen quay lại, sau khi nhận ra mình vừa gây chuyện gì.” Strike thấy vụ này không hề chắc chắn như Leonora quả quyết. Hắn thêm ba viên đường vào tách cà phê rồi nốc cạn, cố nghĩ xem giờ phải làm sao. Hắn thấy Leonora Quine cũng tồi tội, đáng thương sao đó. Một người vợ đã miễn dịch với mấy trò ăn vạ của ông chồng, chấp nhận chuyện chẳng ai thèm gọi điện trả lời mình, cả chuyện phải đi mua lấy sự giúp đỡ duy nhất mình có được. Ngoài cung cách hơi lập dị, ở Leonora có gì đó rất thật thà cục mịch. Tuy vậy, kể từ khi ăn nên làm ra Strike đã rất mạnh tay, chỉ nhận những vụ béo bở thực sự. Nhiều người tìm đến hắn với những câu chuyện thương tâm, hi vọng là từ chỗ đồng cảnh ngộ (theo như báo kể lại và thêu dệt) hắn sẽ giúp người ta miễn phí. Nhưng họ đã phải thất vọng ra về. Leonora Quine uống ực tách trà, cũng nhanh như Strike nốc cạn cà phê rồi đứng dậy. Cứ như thể mọi thứ đã được thỏa thuận xong xuôi, tiền trao cháo múc. “Tôi phải đi đây,” bà ta nói, “Tôi không muốn để Orlando ở nhà quá lâu. Nó nhớ ba lắm. Tôi có nói là đi gặp cái ông này, sẽ kiếm được ba về nhà cho nó.” Gần đây, sau cơn khủng hoảng kinh tế vừa rồi, Strike có tiếp tay cho vài quý bà giàu có trẻ đẹp tính kế bỏ mấy ông chồng là dân tài chính hết thời. Nên chuyện đưa một ông chồng về lại với vợ tự dưng cũng hay ho, coi như đổi món. “Được rồi,” hắn vừa ngáp vừa đẩy cuốn sổ về phía bà khách. “Chị ghi lại địa chỉ liên lạc vào đây. Nếu có hình chồng chị nữa thì càng tốt.” Bà ta viết ra địa chỉ và số điện thoại, chữ viết tròn trịa, ngô nghê. Nhưng Leonora có vẻ ngạc nhiên trước yêu cầu đưa hình chồng. “Cần gì hình? Ổng ở cái chỗ nghỉ mát đó. Anh cứ biểu Christian Fisher nói ra.” Bà ta đi ra khỏi cửa phòng rồi Strike mới đứng dậy khỏi bàn, mệt mỏi rã rời. Hắn nghe tiếng bà ta nói cụt lủn với Robin: “Cảm ơn mời trà,” rồi cánh cửa gương mở ra cầu thang hé sáng và đóng lại, khẽ rung rinh. Vị thân chủ mới của hắn đã ra về. 4 À, tri kỷ khôn ngoan được mấy người… William Congreve The Double Dealer Strike thả người xuống sofa ở phòng ngoài. Chiếc sofa gần như mới nguyên, một khoản chi cần thiết sau khi hắn làm hỏng món đồ si đa mua hồi mới mở văn phòng. Chiếc sofa này bọc da giả, lúc ở phòng trưng bày hắn thấy cũng có vẻ tươm tất. Mua về mới biết mỗi khi ngồi lên mà loay hoay không khéo thì nó lại phát ra tiếng… đánh rắm nghe rất kỳ. Cô trợ lý của hắn - cao, gợi cảm, nước da sáng, đôi mắt xanh trong, vừa uống cà phê vừa chăm chăm nhìn hắn. “Trông anh khiếp quá.” “Thức suốt đêm để moi chuyện giường chiếu và tiền bạc bẩn thỉu của một ông quý tộc, từ một bà đang loạn trí,” Strike nói, ngáp sái cả quai hàm. “Ngài Parker hả?” Robin há hốc. “Chính y,” Strike đáp. “Ổng làm gì kia…?” “Cùng lúc cặp ba nhân tình, rồi tuồn hàng triệu bảng ra nước ngoài cất kỹ.” Strike đáp. “Nếu bụng dạ ngon lành không sợ ói ngược thì cô thử đọc tờ News of the World số Chủ Nhật này.” “Làm sao anh biết mấy chuyện đó?” “Người quen của người quen của người quen,” Strike ngâm nga. Hắn lại ngáp tiếp, miệng ngoạc ra trông đến khổ. “Anh đi ngủ đi,” Robin khuyên. “Ừ chắc vậy,” Strike đáp, vẫn ngồi im. “Anh đâu có khách nào khác trừ Gunfrey lúc hai giờ chiều nay.” “Gunfrey,” Strike thở dài, giơ tay mát xa mí mắt. “Tại sao khách của tôi toàn thứ ất ơ?” “Bà Quine kia đâu có vậy.” Hắn nhìn Robin qua kẽ mấy ngón tay thô tháp. “Sao cô biết tôi nhận làm?” “Tôi biết mà,” Robin nói, không nhịn cười được. “Bà đó đúng kiểu anh thích.” “Máy bay bà già đời thập kỷ tám mươi?” “Không phải, ý tôi là kiểu khách hàng anh thích ấy. Với lại anh cũng muốn chọc tức Baker.” “Có tác dụng đó chứ?” Điện thoại đổ chuông. Robin nhấc máy, vẫn còn cười khoái chí. “Văn phòng Cormoran Strike,” cô nói, “A, anh hả.” Là Matthew, chồng chưa cưới của cô. Robin liếc nhìn ông sếp. Strike đã nhắm mắt lại, đầu nghẹo qua một bên, hai tay bệ vệ vòng trước ngực. “Nè,” Matthew nói trong điện thoại. Khi nào gọi từ cơ quan giọng Matthew cũng có vẻ lạnh lùng. “Đổi lại vụ đi uống bia từ thứ Sáu qua thứ Năm đi.” “Sao vậy Matt,” cô nói, cố gắng không tỏ ra thất vọng hay bực tức. Như vậy là đã năm lần thay đổi tới lui. Trong ba người chỉ có mỗi Robin là chưa bao giờ đòi đổi giờ giấc hay địa điểm, lúc nào cũng sẵn sàng đi. “Tại sao vậy?” cô hạ giọng hỏi. Từ sofa phát ra tiếng ngáy ngủ gầm gừ. Strike đã ngủ gục ngay tại chỗ, đầu ngả vào tường, tay vẫn khoanh chéo. “Ngày mười chín ở công ty cũng có kèo,” Matthew nói. “Nếu mà không đi thì dở lắm. Phải có mặt.” Robin cố ghìm lại, không nổi nóng với Matthew. Anh chàng làm cho một công ty kế toán lớn, đôi khi cứ làm ra vẻ nghi thức như dân ngoại giao cao cấp không bằng. Cô biết chắc lý do vì sao Matthew muốn thay đổi lần này. Mấy lần trước toàn do Strike đòi đổi, nói là bận việc đột xuất buổi tối. Lý do hoàn toàn xác thực nhưng vẫn làm Matthew bực mình. Mặc dù anh chưa bao giờ nói ra, Robin nghĩ Matthew đang cay cú, cho là Strike tưởng thời giờ của hắn có giá trị hơn của anh ấy, rằng chỉ có công việc của hắn mới quan trọng. Trong tám tháng Robin làm việc cho Cormoran Strike, sếp và chồng chưa cưới của cô chưa bao giờ gặp nhau, ngay cả vào cái đêm rùng rợn Matthew đi đón cô ở khoa cấp cứu. Hôm đó cô đưa Strike vào bệnh viện, lấy áo khoác của mình bọc cánh tay bị đâm cho hắn. Kẻ giết người ấy khi bị dồn vào đường cùng đã cố giết Strike cho bằng được. Để ông sếp trong phòng cấp cứu, cô trở ra, người run rẩy vấy máu. Matthew lúc đó đã từ chối gặp Strike. Chuyện hôm đó khiến Matthew giận lắm, mặc dù Robin cứ nói mãi là cô không hề gặp nguy hiểm gì cả. Matthew không muốn cô làm việc lâu dài với Strike tí nào. Ngay từ đầu anh đã nghi ngờ tay thám tử. Nghi ngờ từ cảnh sống bần cùng, vụ vô gia cư, rồi cả cái nghề nghiệp kỳ khôi đó. Nghi luôn cả mấy mẩu thông tin mà Robin thỉnh thoảng lại mang về nhà: cựu nhân viên Cục điều tra đặc biệt SIB (cánh thường phục của Quân cảnh Hoàng gia), huy chương anh dũng, bị cụt chân trái, chuyên gia đủ món trên đời mà Matthew mù tịt (trước giờ Matthew đã quen với chuyện chỉ có mình là chuyên gia trong mắt Robin). Những mẩu thông tin về Strike không hề (như Robin từng ngây thơ hi vọng) khiến cho hai người đàn ông xích lại gần nhau, mà còn làm cho bức tường ngăn cách giữa họ thêm vững chắc. Vụ Strike tự dưng nổi tiếng, đang thất bại chuyển sang thành công càng làm Matthew hậm hực. Robin từng lỡ lời đổ dầu vào lửa khi cô chỉ ra tính tiền hậu bất nhất của Matthew: “Anh không thích ổng lúc ổng nghèo khổ vô gia cư, giờ ổng nổi tiếng ăn nên làm ra anh cũng chẳng ưa!” Nhưng tội lỗi lớn nhất của Strike trong mắt Matthew, như cô biết quá rõ, chính là việc hắn mua tặng cô chiếc đầm hàng hiệu ôm sát (thực ra ban đầu có ý là món quà chia tay) để trả ơn. Nhưng sau khi cô hớn hở tự hào khoe với Matthew, phản ứng của anh khiến cô không bao giờ dám mặc nó lần thứ hai. Robin hi vọng sẽ dàn xếp ổn thỏa mọi thứ nếu hai người gặp mặt nhau. Nhưng Strike cứ hủy cuộc hẹn liên tục, khiến Matthew càng ghét sếp của Robin. Lần gần đây nhất Strike còn dám cho hai người leo cây. Lý do: hắn phải đi đường vòng để cắt đuôi. Ông chồng đa nghi của bà khách hàng đó đã tương kế tựu kế, cũng thuê người theo dõi. Robin tin ngay, vì cô biết mấy vụ li dị đó rối rắm ra sao. Ngược lại, Matthew càng cho rằng Strike vô cùng kiêu căng hợm hĩnh, thích được người khác chú ý. Khó lắm cô mới thuyết phục Matthew đồng ý đi uống bia lần thứ tư. Thời gian địa điểm đều do Matthew chọn, nhưng giờ đây, sau khi Robin đã báo với Strike lần nữa, Matthew lại muốn thay đổi ngày giờ. Rõ là anh làm vậy để chứng tỏ một điều, để cho Strike biết rằng anh cũng bận rộn lắm, cũng có quyền (Robin không kìm được ý nghĩ này) cho người ta lên bờ xuống ruộng. “Vậy cũng được,” cô thở dài trên điện thoại, “Để em hỏi lại Cormoran, xem thứ Năm có được không.” “Nghe giọng em chẳng có gì là ‘cũng được’ cả.” “Thôi đi Matt. Để em hỏi ổng, được chưa?” “Vậy thôi nhé!” Robin đặt ống nghe xuống. Strike giờ đây đang ngáy ầm ĩ như máy cày, miệng há hốc, hai chân dang ra, bàn chân duỗi bệt xuống sàn nhà, cánh tay vẫn vòng trước bụng. Cô thở dài, nhìn ông sếp đang ngủ. Strike chưa bao giờ tỏ ra không thích Matthew, chưa bao giờ bình luận gì về anh ấy cả. Chỉ có Matthew mới hằn học về Strike. Lúc nào cũng chăm chăm chỉ ra rằng Robin có thể kiếm được nhiều tiền hơn nếu rời xa cái tay thám tử ồn ào nợ ngập mặt đó. Hắn ta còn đâu có trả nổi mức lương xứng đáng cho cô. Nếu Matthew cũng thích Strike, ngưỡng mộ hắn như cô thì hai người sẽ vui vẻ hơn biết bao nhiêu. Robin là người lạc quan: cô thích cả hai người đàn ông đó, không lý nào hai người lại ghét nhau? Strike thở phì một cái, choàng tỉnh. Hắn mở mắt, chớp chớp nhìn cô. “Lúc nãy tôi ngáy hả?” hắn nói, đưa tay quệt mép. “Ít thôi,” cô nói dối. “Anh Cormoran, đổi vụ uống bia từ thứ Sáu sang thứ Năm được không?” “Uống bia gì kia?” “Đi uống với tôi và Matthew đó,” cô nói. “Anh nhớ không? Quán King’s Arms, phố Roupell. Tôi đã viết lại cho anh rồi,” cô cười gượng gạo. “À,” Strike đáp, “ờ, thứ Sáu cũng được.” “Không, ý Matt là ảnh không đi thứ Sáu được. Chuyển qua thứ Năm được không?” “Ừ được, không sao,” hắn lào khào. “Chắc tôi phải đi làm một giấc quá Robin à” “Anh đi đi. Tôi sẽ ghi lại vụ thứ Năm” “Vụ gì thứ Năm?” “Đi uống với… mà thôi, anh đi ngủ đi.” Robin thẫn thờ nhìn màn hình máy tính sau khi cánh cửa gương khép lại, rồi giật bắn cả người khi nó bật mở ra lần nữa. “Robin, nhờ cô gọi cho một tay tên Christian Fisher” Strike nói. “Nói tôi là ai, nói là tôi đang tìm Owen Quine, tôi muốn hỏi địa chỉ của khu nghỉ mát cho nhà văn mà anh ta có kể với Quine.” “Christian Fisher… người đó làm ở đâu vậy?” “Khỉ thật,” Strike lẩm bẩm. “Tôi quên không hỏi. Mệt quá mụ cả người. Nghe đâu là làm xuất bản… nhà xuất bản gì đó đang nổi lắm.” “Không sao, tôi sẽ tìm được. Anh đi ngủ đi.” Khi cánh cửa gương đóng lại lần thứ hai, Robin ngay lập tức mở trang Google. Chỉ trong vòng ba mươi giây cô đã biết được rằng Christian Fisher là người sáng lập Crossfire, một nhà xuất bản nhỏ đặt ở phố chợ Exmouth Market. Khi bấm số gọi nhà xuất bản, Robin nghĩ đến tấm thiệp cưới vẫn còn nằm trong túi xách gần một tuần nay. Robin chưa nói gì với Strike về ngày cưới sắp đến, cũng chưa nói với Matthew là cô muốn mời ông sếp. Nếu vụ thứ Năm êm đẹp… “Crossfire,” giọng the thé bên kia đầu dây vang lên. Robin tập trung làm việc trước mắt. 5 Có gì khiến ta day dứt khôn nguôi Như nỗi niềm riêng trăn trở? John Webster The White Devil Chín giờ hai mươi tối. Strike mặc quần xà lỏn, áo thun nằm trên tấm chăn, phần cơm hộp cà ri ăn còn thừa đặt trên ghế cạnh đó. Hắn chúi mũi vào mấy trang tin thể thao trên báo. Tivi đặt đối diện giường đang phát tin tức. Thanh kim loại thay thế cổ chân bên phải của hắn lấp lánh, phản chiếu ánh sáng từ chiếc đèn để bàn đặt trên thùng giấy gần đó. Tối thứ Tư có trận giao hữu Anh - Pháp ở sân Wembley, nhưng Strike chỉ quan tâm tới trận derby trên sân nhà của Arsenal gặp Spurs tối thứ Bảy tới. Từ nhỏ hắn đã là fan của Arsenal, giống y như cậu Ted vậy. Strike chưa bao giờ hỏi tại sao cậu Ted lại ủng hộ đội Pháo thủ, mặc dù là cả đời chỉ sống ở Cornwall. Màn đêm mờ ảo phủ lấy bầu trời bên ngoài khung cửa sổ bé xíu, thỉnh thoảng có ánh sao yếu ớt nhấp nháy. Vài tiếng đồng hồ ngủ ngày không làm Strike hết mệt mỏi, nhưng hắn cũng chưa buồn ngủ, nhất là sau khi xơi món cơm biryani thịt cừu và uống hết một lon bia lớn. Trên giường có mẩu giấy viết tay của Robin. Trước khi về cô đã cẩn thận đưa cho hắn. Mẩu giấy ghi hai cuộc hẹn. Đầu tiên là: Christian Fisher, 9 giờ sáng mai, nhà xuất bản Crossfire Exmouth Market EC1 “Tại sao tay này lại muốn gặp tôi?” Strike khi nhận ngạc nhiên hỏi cô. “Tôi chỉ hỏi địa chỉ chỗ anh ta kể với Quine thôi mà.” “Tôi biết,” Robin đáp, “tôi cũng nói vậy đó, nhưng anh ta rất phấn khích muốn gặp anh. Nói là gặp chín giờ sáng, không nhưng nhị gì cả” Strike nhìn mẩu giấy, bực bội nghĩ thầm, Mình đang làm cái trò gì đây hả trời? Lúc sáng hắn mệt đến độ giận quá mất khôn, lỡ chân đá mất một khách hàng béo bở mà biết đâu sẽ còn thuê hắn dài dài. Rồi hắn lại để Leonora Quine dắt mũi, đồng ý nhận một vụ mà công xá nghe mơ hồ quá thể. Giờ đây, khi bà ấy không còn đứng trước mặt, hắn không thể nhớ nổi cái cảm giác thương hại xen lẫn tò mò đã khiến mình nhận lời. Trong căn phòng áp mái yên lặng, lạnh lẽo, Strike nhận ra chuyện hắn đồng ý đi tìm ông chồng dằn dỗi của Leonora thật là vừa anh hùng rơm, lại vừa vô trách nhiệm. Chẳng phải hắn đang cố kiếm tiền trả cho hết nợ để mà thư thả được một chút sao, để chiều thứ Bảy còn đi sân Emirates, sáng Chủ Nhật còn ngủ nướng? Sau hàng tháng trời làm việc gần như không có ngày nghỉ, tới giờ hắn cũng có đồng ra đồng vào, bắt đầu đắt khách không chỉ vì vụ ồn ào kia mà vì hắn thực sự mát tay, tiếng lành đồn xa. Chẳng lẽ hắn không ráng chịu William Baker thêm được ba tuần nữa sao? Strike nhìn xuống mẩu giấy viết tay của Robin. Tại sao cái tay Christian Fisher này lại háo hức muốn gặp hắn? Vì hắn là Strike, người đã phá vụ Lula Landry hay (tệ hơn) vì hắn là con trai của Jonny Rokeby? Thật khó mà hiểu được danh tiếng của chính mình. Vậy mà Strike từng nghĩ chút tiếng tăm bất ngờ đó chỉ còn thoi thóp. Ban đầu đúng là ồn ào, nhưng mấy tháng rồi cánh nhà báo cũng ngớt gọi cho hắn. Cũng lâu rồi đâu có ai nhắc gì đến Lula Landry khi hắn xưng tên. Những người không quen biết lại bắt đầu gọi nhầm tên hắn thành “Cameron Strick” hay từa tựa vậy như ngày trước. Nhưng mà, biết đâu cái tay sách vở này biết gì đó về Owen Quine, văn sĩ mất tích, và đang thật sự nóng lòng muốn kể lại cho Strike? Nhưng nếu vậy thì tại sao anh ta lại không nói với vợ của Quine? Hắn thấy thật khó hiểu. Cuộc hẹn thứ hai mà Robin đã ghi lại cho hắn là: Thứ Năm ngày 18 tháng mười một, 6 giờ rưỡi tối, quán King's Arms, Số 25 phố Roupell, SE1 Strike biết rõ tại sao Robin lại phải ghi tường tận ngày giờ như vậy: cô quyết tâm lần này (lần thứ ba hay thứ tư rồi nhỉ) hắn và anh chồng chưa cưới của cô phải gặp nhau bằng được. Matthew không hề biết thật ra Strike còn thấy biết ơn sự hiện hữu của anh ta trên đời, cũng như chiếc nhẫn gắn kim cương và sapphire trên ngón áp út của Robin. Matthew nghe tả giống loại hay làm bộ làm tịch (Robin không thể ngờ rằng Strike vẫn nhớ những chuyện thỉnh thoảng cô vẫn kể về anh chồng chưa cưới). Nhưng anh ta lại có tác dụng làm rào chắn hữu hiệu giữa Strike và cô gái có thể khiến hắn mất thăng bằng. Strike không thể ngăn nổi chút cảm tình với Robin, người đã ở cạnh hắn trong những lúc tồi tệ nhất, đã giúp hắn xoay chuyển tình thế. Với thị giác hoàn toàn bình thường, hắn cũng không thể chối bỏ sự thật rằng Robin trông rất được. Với hắn, chuyện Robin đã đính hôn đã cản lại cơn gió lòng vừa gợn mà dai dẳng, nếu không cẩn thận sẽ lại thổi tung mọi thứ. Strike nghĩ mình vẫn còn đang dưỡng thương, sau một mối quan hệ lâu dài, rối rắm, kết thúc và bắt đầu đều bằng những lời dối trá. Hắn không hề muốn từ bỏ trạng thái độc thân hiện tại mà hắn thấy khá là thoải mái, tiện lợi. Hắn cũng né được mọi ràng buộc tình cảm trong mấy tháng qua, mặc cho em gái Lucy liên lục mai mối hắn với một loạt các bà các cô mà nghe qua như hàng tồn kho trên những trang tìm bạn. Đương nhiên, rất có khả năng sau khi Matthew và Robin kết hôn, anh ta sẽ dùng vị thế mới cải thiện của mình để thuyết phục vợ bỏ cái công việc mà anh ta cực kỳ ghét đó (Strike đã đoán được chuyện đó từ những lần Robin tỏ ra ngập ngừng né tránh). Tuy nhiên, hắn cũng nghĩ rằng nếu ngày cưới đã được định thì kiểu gì Robin cũng báo ngay. Cho nên giờ đây, nguy cơ đó vẫn còn xa vời lắm. Ngáp thêm một cái dài cả cây số, Strike gấp tờ báo vứt lên ghế, quay sang nghe bản tin trên tivi. Bộ thu sóng vệ tinh là món xa xỉ duy nhất mà hắn dám mua kể từ khi dọn vào căn hộ áp mái nhỏ xíu. Chiếc tivi tiện dụng cũ giờ đây đặt trên bộ thu hình Sky. Hình ảnh không còn phụ thuộc vào chiếc ăng-ten trong nhà yếu ớt nên sắc nét hơn, không còn lợn cợn nữa. Trên tivi Bộ trưởng Bộ Công lý Kenneth Clarke đang công bố kế hoạch cắt giảm 350 triệu bảng từ ngân sách trợ giúp pháp lý. Đầu óc mơ màng, Strike nhìn ông bộ trưởng bụng phệ, da thịt hồng hào phát biểu trước Nghị viện. Ông ta muốn “can ngăn người dân cứ hở ra là dùng luật sư, thay vào đó khuyến khích người dân nghĩ đến những biện pháp giải quyết xung đột phù hợp hơn.” Đương nhiên, ý ông Bộ trưởng là người nghèo đừng tơ tưởng đến dịch vụ pháp lý nữa. Còn những khách hàng quen thuộc của Strike vẫn sẽ dùng đến mấy tay luật sư cắt cổ như thường. Hiện giờ đa phần công việc của Strike vẫn là phục vụ các quý ông quý bà giàu có đa nghi, dường như bị cắm sừng kinh niên. Nhờ có thông tin của hắn, cánh luật sư bảnh tỏng sẽ thương lượng được những khoản dàn xếp ngon lành trong các vụ li hôn chua chát hay tranh chấp làm ăn nảy lửa. Những khách hàng béo bở liên tục rỉ tai nhau về hắn, rồi mang đến những vụ từa tựa nhau đến phát chán. Trong cái nghề này được vậy là rất ngon ăn, công việc chán thì có chán nhưng kiếm bạc ngàn. Khi bản tin kết thúc, hắn nặng nhọc bò ra khỏi giường, dọn chỗ thức ăn thừa trên ghế rồi cà nhắc đi vào bếp, rửa sạch bát đĩa. Hắn không bao giờ bê trễ những chuyện như vậy: thói quen nề nếp trong quân đội vẫn không suy suyển cả khi hắn bần hàn nhất, mà cũng không hẳn có được từ những ngày đó. Từ nhỏ hắn đã là đứa ngăn nắp, bắt chước y hệt cậu Ted. Cậu là người luôn sắp đặt mọi thứ đâu ra đó, từ thùng đồ nghề tới nhà để thuyền, đối lập hoàn toàn với mớ hỗn độn bao quanh cuộc sống của bà Leda mẹ hắn. Trong vòng mười phút kế tiếp, Strike đi tè trong bồn cầu lúc nào cũng ướt nhẹp vì đặt quá gần vòi nước tắm, ra lại chỗ bồn rửa chén để đánh răng cho thoải mái, rồi bò lên giường tháo chân giả ra. Dự báo thời tiết kết thúc chương trình thời sự: trời lạnh, nhiệt độ âm và có sương mù. Strike xoa phấn vào mỏm chân cụt, đêm nay chân hắn đỡ đau hơn nhiều so với mấy tháng trước. Trừ bữa điểm tâm kiểu Anh đầy đủ lúc sáng và hộp cơm cà ri vừa rồi, hắn ăn đồ tự nấu từ khi có bếp riêng, và nhờ đó đã giảm cân được chút ít, nhờ vậy mà áp lực lên chân giả cũng bớt đi. Hắn nhắm remote vào tivi; cô tóc vàng đang tươi cười bên hộp bột giặt biến mất. Strike chật vật xoay người chui vào chăn. Đương nhiên, nếu Owen Quine đang trốn ở chỗ nghỉ mát đó thì lôi cổ ông ta về có khó gì. Nghe như một lão già hợm hĩnh, bày đặt biến mất với kiệt tác nọ kia… Hình ảnh người đàn ông giận dữ với chiếc túi đi đường trên vai vừa hiện ra trong tâm trí Strike đã nhanh chóng biến mất. Hắn chìm vào giấc ngủ thoải mái, sâu, không mộng mị. Tiếng đàn guitar bass từ quán bar ở tầng hầm vọng lên bập bùng, nhanh chóng bị tiếng ngáy khò khò đều đều của hắn át lại. 6 Ôi, Ba Hoa tiên sinh, còn ai kín miệng hơn tiên sinh nữa chứ. William Congreve Love for Love Chín giờ kém mười sáng hôm sau Strike có mặt ở Exmouth Market. Màn sương băng giá vẫn còn bám trên các tòa nhà trên phố. Khu này chẳng giống với những khu phố London khác. Quán xá kê bàn ghế ra cả vỉa hè, mặt tiền nhà cửa sơn tông màu nhạt nhã. Trong phố có Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, kiểu vương cung thánh đường với những chi tiết mạ vàng, sơn xanh, rồi gạch đỏ, nằm giữa lãng đãng sương khói. Màn sương buốt lạnh, những cửa hiệu bán đồ cổ, bàn ghế lề đường: dường như chỉ cần thêm vị nước biển mằn mặn và tiếng kêu inh tai của lũ chim hải âu thì chẳng khác gì Cornwall, nơi Strike sống những ngày yên ổn nhất thời thơ ấu. Một tấm bảng nhỏ gắn trên cánh cửa tầm thường bên cạnh hiệu bánh cho người qua đường biết đây là trụ sở của Nhà xuất bản Crossfire. Đúng chín giờ, Strike nhấn chuông. Cửa mở, dãy cầu thang sơn trắng dốc đứng hiện ra. Hắn chật vật leo lên cầu thang, liên tục phải dựa vào tay vịn. Lên đến đầu cầu thang tầng cao nhất, một người đàn ông độ chừng ba mươi tuổi, mảnh khảnh, điệu đà ra đón hắn. Tóc anh ta gợn sóng, dài đến vai. Anh ta mặc quần jeans, áo sơ mi chim cò và áo gi-lê, cổ tay xếp nếp nhẹ. “Chào anh,” anh ta lên tiếng. “Tôi là Christian Fisher. Anh Cameron phải không?” “Cormoran,” Strike sửa lời Fisher, “nhưng mà…” Hắn định nói cứ gọi Cameron cũng được, xưa giờ nhiều người gọi vậy, nhưng Christian Fisher đáp lời ngay: “Cormoran - người khổng lồ xứ Cornwall.” “Đúng vậy,” Strike ngạc nhiên. “Năm ngoái tụi tôi có làm một cuốn thiếu nhi về văn học dân gian Anh quốc,” Fisher vừa nói vừa đẩy cánh cửa đôi màu trắng, dẫn Strike vào văn phòng kiểu không gian mở, các tấm áp- phích và giá kệ bề bộn sách che kín tường. Một cô gái tóc đen, ăn vận xuề xòa ngước lên, tò mò nhìn Strike khi hắn đi ngang qua. “Trà? Cà phê?” Fisher vừa hỏi vừa dẫn Strike vào văn phòng riêng, một phòng nhỏ tách khỏi không gian chính, nhìn ra đường phố mơ màng sương giăng bên dưới. “Để tôi nói Jade đi mua.” Strike từ chối, nói (thật) là vừa uống cà phê, nhưng cũng ngầm thắc mắc tại sao Fisher có vẻ như muốn dây dưa hơn mức cần thiết. “Vậy thì chỉ mua một cốc latte thôi nhé Jade,” Fisher gọi qua cánh cửa. “Anh ngồi đi,” Fisher mời hắn, rồi nhẹ nhàng lướt qua mấy kệ sách áp tường. “Chẳng phải người khổng lồ Cormoran sống ở núi St. Michael đó sao?” “Đúng vậy,” Strike đáp. “Nghe đâu bị chàng Jack giết. Jack trèo cây đậu thần đó.” “Ở đâu đây thôi,” Fisher nói, vẫn tìm trên kệ sách. “Truyện dân gian các xứ đảo Anh quốc. Anh có con cái gì không?” “Không,” Strike đáp. “Ồ,” Fisher nói. “Thế thì thôi vậy.” Anh ta cười cười, rồi kéo ghế ngồi đối diện Strike. “Cho tôi đoán ai thuê anh nhé? Được không?” “Anh cứ tự nhiên,” Strike đáp, về nguyên tắc hắn không bao giờ cấm người ta phỏng đoán. “Một là Daniel Chard, hai là Michael Fancourt,” Fisher đáp. “Đúng không?” Cặp kính khiến đôi mắt Fisher như đang nhìn xoay xoáy, tròng mắt long lanh như hạt cườm. Mặc dù không thể hiện ra ngoài, Strike thực sự sốc. Michael Fancourt là một nhà văn nổi tiếng, vừa được giải lớn. Hà cớ gì ông ta lại quan tâm đến văn sĩ Quine mất tích? “E là không,” Strike nói. “Là Leonora, vợ Quine.” Trông Fisher sửng sốt đến buồn cười. “Vợ ông ta?” anh ta lặp lại, giọng trống rỗng. “Cái bà nhát cáy trông giống sát thủ Rose West đó sao? Bà ấy thuê thám tử làm gì?” “Chồng bà ấy mất tích. Đã mười một ngày rồi” “Lão Quine mất tích? Nhưng… nhưng thế thì…” Strike thấy ngay là Fisher dự đoán một cuộc gặp gỡ hoàn toàn khác nên bỏ công hí hửng chờ đợi. “Nhưng tại sao bà ta lại gởi anh đến gặp tôi?” “Bà ấy nghĩ là anh biết Quine ở đâu.” “Làm quái gì mà tôi biết?” Fisher hỏi lại, có vẻ như anh ta sửng sốt thật sự. “Có phải chỗ bạn bè gì đâu.” “Bà Quine nói có nghe anh chỉ cho chồng bà ta một chỗ nghỉ mát dành cho nhà văn, ở một bữa tiệc…” “À,” Fisher nói, “Bigley Hall, đúng rồi. Nhưng Quine làm gì mà ở đó!” Khi cười trông Fisher như tiểu yêu Puck đeo kính: vừa hài hước vừa tinh ranh. “Quine có trả tiền cũng không được cho vào. Cái thứ ưa chọc tổ kiến lửa. Một bà điều hành chỗ đó ghét Quine lắm. Lão viết bài bôi bác cuốn tiểu thuyết đầu tay của bà ấy, chua lắm, nên bà ấy căm mãi, chưa tha đâu.” “Anh cứ cho tôi xin địa chỉ được không?” Strike hỏi. “Tôi có sẵn đây này,” Fisher nói, rút điện thoại ra từ trong túi sau quần jeans. “Để tôi gọi…” Rồi anh ta gọi ngay, để điện thoại trên bàn và bật loa ngoài cho Strike nghe cùng. Sau một phút chuông đổ, giọng nữ hổn hển trả lời: “Bigley Hall.” “A lô, chị Shannon đó hả? Chris Fisher đây, Chris bên Crossfire ấy.” “A Chris, sao rồi?” Cánh cửa phòng mở ra, cô gái tóc đen ăn mặc luộm thuộm từ bên ngoài bước vào. Cô ta không nói năng gì, đặt cốc latte trước mặt Fisher rồi bước ra. “Tôi gọi hỏi xem,” Fisher nói, khi cửa đã đóng, “Owen Quine có ở đó không. Đừng nói lão tới đó chứ?” “Quine?” Mặc dù chỉ vọng ra văng vẳng một tiếng duy nhất đó, sự khinh bỉ trong giọng Shannon vẫn vang vọng khắp căn phòng đầy sách. “Ờ, chị có gặp lão không?” “Hơn một năm rồi không gặp. Tại sao? Đừng nói lão định tới đây, hả? Không ai chứa đâu, chắc luôn.” “Không sao, Shan à. Chắc là bà vợ hiểu lầm sao đó. Gặp chị sau.” Fisher nhanh chóng cắt cuộc gọi, nóng lòng muốn trở lại câu chuyện với Strike. “Anh thấy chưa?” Fisher nói. “Tôi nói rồi mà. Quine có muốn cũng không thể ở Bigley Hall được.” “Vậy tại sao anh không nói luôn với bà vợ, khi bà ấy gọi anh?” “Ồ, hóa ra bà ta gọi là vì vậy!” Fisher thốt lên, như vừa chợt hiểu ra. “Tôi cứ tưởng Owen bắt bà ta gọi cho tôi.” “Để làm gì?” “Ôi, còn làm bộ nữa,” Fisher cười nhe răng. Khi Strike không cười theo, anh ta phì một cái rồi nói, “Vì vụ Bombyx Mori. Tôi tưởng kiểu gì lão Quine cũng bắt bà vợ gọi réo tôi.” “Bombyx Mori,” Strike lặp lại, cố không tỏ ra nghi ngờ hay bối rối. “Ờ, tôi cứ tưởng lão Quine đang lẵng nhẵng hỏi xem tôi có chịu in cho không. Lão hay làm trò đó, không ra mặt mà bắt vợ gọi điện. Nhưng nếu có ai dám đụng vào Bombyx Mori bây giờ, thì người đó chắc chắn không phải là tôi. Chỗ tôi nhỏ lắm. Không đủ sức đi hầu tòa đâu.” Thấy cứ giả vờ biết hết thì vẫn sẽ không khai thác được gì, Strike bèn đổi bài. “Bombyx Mori là cuốn mới nhất của Quine à?” “Ờ,” Fisher nói, nhấp một ngụm latte, đuổi theo suy nghĩ riêng. “Vậy là lão ta mất tích sao? Tôi cứ tưởng lão sẽ muốn nán lại xem cho hết trò. Tưởng cốt chỉ mong vậy chứ. Hay sợ rồi? Nghe chẳng giống Owen chút nào.” “Anh làm sách cho Quine bao lâu rồi?” Strike hỏi. Fisher nhìn hắn, sửng sốt. “Tôi chưa bao giờ làm sách cho lão ấy cả!” anh ta đáp. “Tôi tưởng…” “Lão ấy làm với bên nhà xuất bản Roper Chard - ba cuốn gần đây nhất, hay là bốn nhỉ? Không, chuyện là thế này, tôi gặp Liz Tassel, người đại diện của Owen ở một bữa tiệc vài tháng trước. Liz có nói với riêng tôi, khi đã quá chén, rằng bà ấy không biết Roper Chard chịu làm cho Quine tới bao lâu nữa, nên tôi có nói là vậy thì cuốn tiếp cứ gởi tôi xem thử. Thời bây giờ, văn của Quine thuộc thể loại khắm quá hóa hay. Khi tung ra thị trường tụi tôi có thể múa may kèn trống thêm chút đỉnh. Dù sao,” Fisher tiếp, “lão cũng viết được Tội lỗi của Hobart. Cuốn đó đúng hay. Tôi nghĩ biết đâu lão vẫn còn chút vốn liếng.” “Liz Tassel có gởi bản thảo Bombyx Mori cho anh không?” Strike vừa hỏi dò vừa tự rủa mình hôm trước đã không hỏi Leonora Quine tới nơi tới chốn. Hậu quả của việc cứ nhận bừa khách mới khi vừa vắt cạn sức là đây. Trước giờ khi phỏng vấn Strike luôn ở tâm thế biết nhiều hơn đối tượng được hỏi. Ngay lúc này hắn thấy mình sơ hở lạ kỳ. “Có, bà ấy gởi chuyển phát cho tôi một bản, hôm thứ Sáu, hai tuần trước,” Fisher đáp, nụ cười yêu tinh của anh ta càng ranh mãnh hơn. “Sai lầm lớn nhất trong đời Liz già!” “Tại sao vậy?” “Vì rõ là bà ấy chưa đọc kỹ, hoặc chưa đọc hết. Ngay hai tiếng sau, tôi nhận được tin nhắn vô cùng hoảng loạn trên điện thoại, “Chris à, có sơ suất, tôi gởi nhầm bản thảo rồi. Làm ơn đừng đọc, gởi trả lại ngay cho tôi. Tôi sẽ ở văn phòng đợi sẵn” Cả đời chưa bao giờ tôi nghe Liz nói kiểu đó. Thường Liz dữ dằn lắm. Đàn ông đàn ang gặp bà ấy là sun hết cả vòi.” “Vậy anh có gởi trả lại không?” “Đương nhiên là không,” Fisher đáp. “Gần như cả ngày thứ Bảy tôi chỉ đọc cuốn đó.” “Rồi sao?” Strike hỏi. “Chưa ai nói gì với anh sao?” “Nói với tôi chuyện…?” “Trong sách có gì,” Fisher đáp, “lão đã làm gì trong đó.” “Lão làm gì vậy?” Nụ cười của Fisher tắt dần. Anh ta đặt cốc cà phê xuống. “Mấy tay luật sư,” anh ta tiếp, “sừng sỏ nhất London, có cảnh báo với tôi là đừng có ngu mà phun ra.” “Ai thuê luật sư vậy?” Strike hỏi. Khi Fisher không trả lời, hắn nói thêm, “ai nữa, ngoài Chard và Fancourt?” “Chỉ mình Chard thôi,” Fisher đáp, rơi ngay vào bẫy của Strike. “Nhưng nếu là Owen thì tôi sẽ sợ Fancourt hơn. Gì chứ chơi bẩn thì Fancourt cao tay lắm. Thù dai kinh hồn. À, đừng có nói là tôi đó,” anh ta vội vã thêm vào. “Còn Chard thì sao?” Strike hỏi, lại tiếp tục lần mò giữa mớ manh mối nửa vời. “Daniel Chard, giám đốc điều hành nhà xuất bản Roper Chard,” Fisher nói, đã bớt kiên nhẫn. “Tôi không hiểu Owen nghĩ gì mà đi phá người đứng đầu chỗ in sách cho lão, nhưng Owen là vậy đó. Lão già khốn nạn, kiêu căng hợm hĩnh, ảo tưởng nhất mà tôi từng gặp. Ai đời lại đi mô tả Chard là…” Fisher bật cười gượng gạo. “Mà thôi, dễ chừng vạ miệng mất. Tóm lại là, tới tôi cũng thấy ngạc nhiên là Owen dám làm việc đó. Chắc là khi nhận ra ai cũng hiểu lão đang ám chỉ vụ gì, lão hết cả hồn vía nên tìm đường phắn.” “Nhưng viết vậy thì thành tội bôi nhọ phỉ báng còn gì?” Strike hỏi. “Văn chương mà, trắng đen lẫn lộn, không phải vậy sao?” Fisher hỏi. “Nếu anh kể lại sự thật bằng một lối kể’ cường điệu, ví von kỳ khôi… mà nói vậy không có nghĩa là,” anh ta vội vã thêm ngay vào “tôi tin những thứ Owen viết là sự thật. Không thể nào thật theo nghĩa đen được. Nhưng nhân vật trong đó rất dễ nhận ra; lão ta lôi vào khá nhiều người, rất khôn khéo… Thực ra cách viết khá giống với Fancourt thời đầu. Lắm máu me, biểu tượng kỳ quái… nhiều chỗ khó mà biết lão đang ám chỉ chuyện gì, nhưng người đọc cứ bị cuốn vào, muốn biết trong cái bị, trong đám lửa thực ra có gì…” “Có gì kia?” “Không có gì… là mấy chi tiết trong sách thôi. Chẳng lẽ Leonora không kể gì với anh sao?” “Không,” Strike đáp. “Quái thật,” Christian Fisher nhận xét, “hẳn là bà ấy biết chứ. Tôi nghĩ Owen là cái thể loại văn sĩ suốt ngày ra rả sách vở với vợ con.” “Tại sao anh nghĩ Chard hay Fancourt muốn thuê thám tử, khi anh còn không biết là Quine đã mất tích?” Fisher nhún vai. “Biết đâu. Tôi tưởng họ muốn biết Quine định giở trò gì để mà kịp chặn lại, hoặc để cảnh báo với nhà xuất bản là sẽ kiện tới nơi tới chốn. Cũng có thể họ muốn tìm ra chỗ hở của Owen, lấy độc trị độc vậy mà.” “Vậy nên anh rất trông gặp tôi?” Strike hỏi. “Anh biết được chỗ hở nào của Quine hay sao?” “Không,” Fisher đáp, cười phá ra. “Tôi chỉ nhiều chuyện thôi. Muốn biết tình hình đấu đá ra sao.” Anh ta nhìn đồng hồ, mở bản in một bìa sách rồi đẩy ghế ra một chút. Strike hiểu ý. “Cảm ơn anh,” hắn vừa nói vừa đứng dậy. “Nếu anh có biết tin gì về Owen Quine, phiền anh báo lại với tôi” Hắn đưa một tấm danh thiếp cho Fisher. Anh ta vừa nhướng mày đọc, vừa bước quanh bàn nhường lối cho Strike. “Cormoran Strike… Strike… Nghe quen quá…” Cuối cùng Fisher cũng nhớ ra. Anh ta đột nhiên phấn khích trở lại, như thể vừa được thay pin. “Trời đất, anh là cái tay phá vụ Lula Landry!” Strike biết rằng nếu muốn hắn có thể ngồi xuống trở lại, gọi một cốc latte và tận hưởng sự o bế hiếu kỳ của Fisher thêm một tiếng đồng hồ nữa. Nhưng hắn quyết định rút luôn, thân thiện mà dứt khoát. Chỉ vài phút sau, hắn đã đứng một mình trên con phố lạnh lẽo mờ sương. 7 Tôi thề, tôi chưa bao giờ đọc thứ gì giống vậy cả. Ben Jonson Every Man in His Humour Khi được báo trên điện thoại rằng chồng bà ta không hề tới khu nghỉ mát dành cho nhà văn, Leonora Quine trở nên sốt ruột. “Vậy thì ổng đi đâu mới được chứ?” bà ta thốt lên, giống tự hỏi hơn là hỏi Strike. “Mỗi khi đi như vậy ông ấy thường đi đâu?” Strike hỏi. “Khách sạn,” bà ta đáp, “có lần ở với cô nào đó, nhưng đã thôi rồi. Orlando,” Leonora gằn giọng, nói ngoài ống nghe, “bỏ xuống, cái đó của má. Má nói rồi, bỏ xuống! Gì hả?” Leonora nói lớn trở lại. “Tôi có nói gì đâu. Vậy chị có muốn tôi tiếp tục đi tìm ông ấy không?” “Đương nhiên là tôi muốn chứ, còn ai muốn đi tìm ổng nữa giờ? Tôi không thể bỏ Orlando một mình được. Anh đi hỏi Liz Tassel thử. Lần trước chính bà ấy tìm ra ổng chứ đâu. Khách sạn Hilton,” Leonora bật ra. “Có lần ổng ở Hilton.” “Hilton nào?” “Biết đâu, hỏi Liz thử. Vì bà ta mà ổng bỏ đi, nên đáng ra phải tìm giúp chứ. Còn không thèm trả lời điện thoại của tôi nữa. Orlando, bỏ xuống!” “Còn ai mà chị nghĩ…?” “Không, nếu không tôi đã tự đi hỏi cho rồi,” Leonora bực bội. “Anh là thám tử, anh đi mà tìm ổng! Orlando!” “Chị Quine à, ta phải…” “Gọi tôi là Leonora được rồi.” “Chị Leonora à, ta phải tính tới khả năng chồng chị làm gì dại dột. Ta sẽ sớm tìm ra ông ấy,” Strike nói, lớn giọng cố át đi tiếng ồn ào phía bên kia đầu dây, “nếu báo với cảnh sát.” “Tôi không muốn làm vậy. Kỳ trước ổng đi mất một tuần, tôi gọi cảnh sát. Hóa ra ổng ở với cô kia, nên bực lắm. Lần này mà tôi làm vậy nữa thì ổng nổi điên mất. Dù sao thì, Owen sẽ không… Orlando, thôi ngay!” “Cảnh sát có thể công bố hình ảnh của ông ấy hiệu quả hơn và…” “Tôi chỉ muốn ổng quay về, không ầm ĩ gì cả. Tại sao tới giờ vẫn chưa chịu về?” Leonora dằn dỗi. “Đi vậy đủ nguôi giận rồi còn gì.” “Chị đã đọc cuốn mới nhất của ông ấy chưa?” Strike hỏi. “Chưa. Lúc nào tôi cũng đợi xong xuôi hết, đóng bìa đàng hoàng mới đọc.” “Ông ấy có kể gì với chị về cuốn đó không?” “Không, ổng đâu có thích nói chuyện sách khi còn đang… Orlando, bỏ xuống ngay!” Hắn không chắc là Leonora đã cố ý hay vô tình dập máy. Màn sương buổi sớm mai đã tan đi. Mưa rơi lấm tấm trên cửa sổ. Sắp có hẹn với một khách hàng nữa, lại một quý bà đang ly hôn, muốn biết ông chồng sắp cũ của mình có tẩu tán tài sản không. “Robin,” Strike nói, bước ra phòng ngoài, “cô tìm rồi in giúp tôi một bức hình Owen Quine từ trên mạng nhé? Rồi gọi cho người đại diện của ông ấy, bà Elizabeth Tassel, xem thử bà ấy có sẵn lòng trả lời vài câu hỏi ngắn gọn không.” Vừa dợm bước vào phòng, hắn nghĩ ra thêm một chuyện. “À cô tra xem ‘bombyx mori’ có nghĩa là gì giúp tôi nhé?” “Từ đó viết sao?” “Chúa mới biết,” Strike đáp. Quý bà sắp ly hôn đến đúng hẹn, mười một giờ rưỡi. Một phụ nữ bốn mươi tuổi, trẻ trung đến khó tin, quyến rũ đẩy đưa, sực nức nước hoa mùi xạ hương. Mỗi lần bà ấy đến Robin thấy văn phòng như ngột ngạt hơn. Strike cùng quý bà biến mất sau cánh cửa phòng trong. Hai tiếng sau đó, Robin chỉ nghe tiếng người nói chuyện lúc lên lúc xuống nhẹ nhàng, tiếng mưa ầm ầm ngoài cửa sổ và tiếng cô gõ phím lách cách. Những âm thanh đều đều, tĩnh tại. Robin đã quen nghe tiếng òa khóc, rên rỉ, thậm chí là la hét từ bên trong phòng riêng của Strike. Sự im lặng đột ngột lúc nào cũng đáng ngờ nhất, ví dụ như có lần một ông khách ngất tại chỗ (hóa ra ông ta lên cơn đau tim) khi nhìn thấy mấy tấm hình bà vợ và nhân tình mà Strike chụp lén được từ xa. Cuối cùng Strike và bà khách bước ra. Sau màn tạm biệt dây dưa lúng liếng của bà khách, Robin đưa cho ông sếp một tấm hình lớn chụp Owen Quine, lấy từ trang web của Lễ hội văn học thành phố Bath. “Lạy thánh mớ bái,” Strike thốt lên. Owen Quine chừng khoảng sáu mươi tuổi, cao lớn đẫy đà, nước da xanh tái. Văn sĩ có mái tóc vàng lẫn bạc, để cả ria mép lẫn râu cằm. Hai mắt Quine ánh màu khác nhau, tự dưng trông như đang nhìn chằm chằm, khá kỳ quái. Trong hình ông ta mặc áo khoác cánh dơi lùng nhùng, đội mũ vành gắn lông chim. “Kiểu vậy chắc không mai danh ẩn tích được lâu,” Strike nói. “Cô in giùm tôi vài bản được không Robin? Có khi phải đi đưa khắp các khách sạn. Bà vợ nhớ là có lần ông ấy ở Hilton, nhưng không nhớ là Hilton nào, vậy nên cô bắt đầu gọi quanh xem thử ông ấy có ở đó không? Có lẽ ông ấy không dùng tên thật, nhưng cô cứ thử mô tả ông ấy… Còn chỗ Elizabeth Tassel thì sao?” “À,” Robin nói, “anh tin nổi không, tôi vừa định gọi thì bà ấy đã gọi trước.” “Bà ấy gọi tới đây? Vì sao?” “Christian Fisher kể lại là anh có tới chỗ anh ta.” “Rồi sao nữa?” “Bà ấy nói chiều nay có lịch họp, nhưng muốn gặp anh lúc mười một giờ sáng mai ở chỗ của bà ấy.” “Gì nữa đây?” Strike hỏi, thấy hơi tức cười. “Càng lúc càng hay ho. Cô có hỏi bà ấy biết Quine đi đâu không?” “Có, bà ấy nói là không biết gì cả, nhưng trước sau vẫn muốn gặp anh. Nghe giọng bề trên lắm. Như thể cô hiệu trưởng triệu tập học sinh không bằng. Còn Bombyx Mori,” Robin nói luôn, “trong tiếng Latin có nghĩa là Con tằm.” “Con tằm?” “Đúng vậy, anh biết sao không? Tôi cứ tưởng con tằm nhả tơ như nhện chứ, nhưng anh biết thực ra con tằm nhả tơ như thế nào không?” “Tôi chịu.” “Người ta luộc con tằm còn sống, để nó không làm rách kén khi chui ra. Rồi từ kén người ta mới kéo thành sợi tơ. Nghe kinh quá hả? Mà tại sao anh hỏi vụ đó vậy?” “Tôi muốn biết tại sao Owen Quine lại đặt tên cho cuốn tiểu thuyết là Bombyx Mori,” Strike đáp, “nói thật tôi vẫn chẳng hiểu gì cả.” Chiều hôm đó hắn làm cho xong mớ giấy tờ sổ sách liên quan đến một vụ theo dõi, vừa làm vừa mong trời ngớt mưa. Hắn phải đi mua đồ vì trên gác gần như chẳng còn gì ăn được. Sau khi Robin ra về, Strike tiếp tục làm việc trong tiếng mưa rầm rập trên cửa sổ, mỗi lúc một nặng hạt. Cuối cùng, hắn với lấy áo khoác, bước ra đường trong mưa đầm đìa, băng qua con phố Charing Cross tối tăm đến siêu thị mua thức ăn. Gần đây hắn cơm hàng cháo chợ hơi nhiều. Trên đường về, hai tay xách túi lỉnh kỉnh, hắn nổi hứng rẽ ngang vào hiệu sách cũ sắp đóng cửa. Người đàn ông đứng sau quầy không chắc là trong tiệm còn cuốn Tội lỗi của Hobart (cuốn sách đầu tay và dường như cũng là hay nhất của Owen Quine). Ông ta lẩm bẩm gì đó, làm bộ kiểm tra máy tính, rồi mời Strike mua cuốn Anh em nhà Balzac đồng tác giả. Vừa mệt vừa đói, lại bị mắc mưa, Strike móc ra hai bảng, lấy cuốn sách bìa cứng đã cũ mèm đi về nhà. Sau khi cất đồ đạc và nấu mì pasta ăn tối, Strike nằm ườn ra giường. Bên ngoài trời tối dần, lạnh lẽo u ám. Hắn mở cuốn sách của văn sĩ mất tích. Ngôn ngữ hoa mỹ, rườm rà, còn nội dung thì u ám lối gothic và siêu thực. Trong truyện hai anh em tên là Varicocele và Vas bị nhốt trong hầm kín. Xác của người anh cả đang từ từ phân hủy ở góc phòng. Hai nhân vật chính say xỉn, vừa tranh cãi về văn chương, lòng trung thành và văn hào người Pháp Balzac, vừa cùng viết một câu chuyện về cuộc đời người anh đang thối rữa. Nhân vật Varicocele liên tục tự sờ nắn “bi”, để Vas một mình viết gần hết. (Strike nhận ra văn sĩ Quine đang dùng một phép ẩn dụ ngô nghê để bỉ Varicocele là thứ nhà văn tắc chữ). Sau năm mươi trang, hắn lẩm bẩm “dở như hạch,” rồi quăng cuốn sách qua một bên, bắt đầu nhọc nhằn dỗ giấc ngủ. Sự yên lặng dễ chịu đêm trước đã biến mất. Mưa đập ầm ầm lên cửa sổ tầng gác mái. Strike ngủ chập chờn không yên, cứ mộng mị toàn những chuyện kinh hoàng rối rắm suốt cả đêm. Sáng hôm sau hắn thức dậy, cảm giác như đêm trước vừa say bí tỉ, đến giờ vẫn chưa giã rượu. Mưa vẫn nện chan chát vào cửa sổ. Hắn mở tivi, có tin Cornwall bị ngập lụt nghiêm trọng; người ta bị mắc kẹt trong xe, một số được đưa đi chạy lụt, giờ đây túm tụm trong những trung tâm cứu nạn. Strike chụp lấy điện thoại, bấm số điện đã quen thuộc với hắn như lòng bàn tay. Số điện thoại đó luôn khiến hắn nghĩ đến sự an toàn, yên ổn. “A lô!” mợ của hắn lên tiếng. “Cormoran đây mợ Joan. Mợ có sao không? Con mới xem tin tức…” “Cậu mợ không sao hết cưng, mấy người ở gần bờ biển mới cực,” mợ trả lời. “Mưa hoài à, bão nữa, nhưng chẳng thấm vào đâu so với St. Austell. Cậu mợ cũng có xem tin trên tivi. Con sao rồi hả Corm? Lâu quá chừng. Tối hôm qua cậu mợ vừa nói hay là biểu con Giáng Sinh này về nhà chơi, đằng nào con cũng ở một mình mà? Con thấy sao?” Hắn không thể vừa cầm điện thoại vừa mặc áo quần hay gắn chân giả được. Mợ Joan nói liên tục trong nửa tiếng đồng hồ, tám chuyện hàng xóm, rồi đột ngột chuyển hướng, hỏi mấy chuyện riêng tư mà hắn không hề muốn trả lời. Cuối cùng, sau một tràng tra hỏi về tình trường, nợ nần và chân cẳng, mợ cũng tha cho hắn. Strike xuống văn phòng khá trễ, trong người mệt mỏi bực bội. Hắn mặc bộ complet tối màu, thắt cà vạt. Robin tự hỏi sau khi ghé qua chỗ Elizabeth Tassel, liệu hắn sẽ đi ăn trưa với quý bà tóc nâu sắp sửa ly dị chăng. “Anh có xem tin tức không?” “Lũ lụt ở Cornwall hả?” Strike vừa hỏi lại, vừa bật ấm đun. Trong khi mợ Joan liên tu bất tận, tách trà đầu tiên trong ngày của hắn cũng kịp nguội ngắt. “William với Kate đính hôn rồi đó,” Robin đáp. “Ai kia?” “Hoàng tử William,” Robin nói, thấy buồn cười, “với lại Kate Middleton.” “À,” Strike lạnh lùng, “vậy thì mừng cho cả hai.” Chỉ mới tháng trước hắn cũng đứng vào hàng ngũ vị hôn phu như ai. Hắn chẳng biết vụ đính hôn mới của cô vợ hụt đến đâu rồi, càng không thích thú gì khi nghĩ tới đám cưới đi theo sau đó. (Chắc chắn là chẳng giống gì với cái kết cùng hắn: sau khi thừa nhận đã phản bội, cô nàng đã trổ vuốt vào mặt hắn. Vụ đính hôn mới này hẳn sẽ kéo theo kiểu đám cưới mà hắn chẳng thể nào kham nổi, có lẽ không khác mấy với đám cưới của William và Kate sắp đến.) Khi Strike đã uống hết nửa tách trà, Robin áng chừng có thể cắt ngang sự im lặng rầu rĩ nãy giờ. “Chị Lucy có gọi trước khi anh xuống, nhắc anh nhớ thứ Bảy ghé nhà ăn tối mừng sinh nhật, hỏi là anh có định rủ ai đi cùng không.” Strike thấy lòng chùng xuống thêm vài nấc. Hắn đã quên khuấy vụ ăn tối ở nhà em gái. “Được rồi!” hắn nặng nhọc nói. “Thứ Bảy này sinh nhật anh à?” Robin hỏi. “Không phải,” Strike đáp. “Vậy khi nào?” Hắn thở dài. Hắn không ưa bánh ga-tô, thiệp mừng hay quà cáp gì cả, nhưng gương mặt Robin có vẻ chờ đợi. “Thứ Ba,” hắn nói. “Ngày hai mươi ba à?” “Ờ.” Sau một lúc, hắn nhận ra mình phải hỏi lại cho đúng phép. “Còn sinh nhật cô là ngày nào?” Robin có vẻ gì đó ngập ngừng, làm hắn bối rối. “Trời, đừng nói là hôm nay chứ?” Cô bật cười. “Không, qua rồi. Ngày chín tháng Mười, hôm đó là thứ Bảy,” cô nói, vẫn mỉm cười nhìn gương mặt đau khổ của hắn. “Tôi đâu có ngồi đây cả ngày mà đợi hoa.” Hắn nhe răng cười đáp lại. Tự thấy mình phải cố xởi lởi thêm chút nữa, sau khi đã lỡ mất sinh nhật của Robin và chưa bao giờ thèm hỏi cô, hắn tiếp tục mở miệng: “May là cô với Matthew chưa định ngày. Chứ không dễ trùng với đám cưới Hoàng Gia lắm!” “Ừm,” Robin nói, mặt ửng đỏ. “thực ra tụi tôi định ngày rồi.” “Vậy sao?” “Ừ,” Robin đáp. “Là… là ngày tám tháng Giêng. Tôi có mang thiệp mời của anh đây,” cô nói, vội lục lọi trong túi (cô còn chưa hỏi ý Matthew về chuyện mời Strike, nhưng đã muộn rồi). “Đây này!” “Ngày tám tháng Giêng?” Strike hỏi lại, nhận lấy thiệp mời màu bạc. “Như vậy là chỉ… chỉ còn bảy tuần nữa thôi.” “Đúng vậy,” Robin nói. Trong giây lát hai người không nói gì. Strike tự dưng quên mất mình muốn nhờ Robin làm gì, rồi nhớ ra. Hắn vừa gõ tay lên tấm thiệp mời màu bạc trong lòng bàn tay, vừa nói, trở lại công việc. “À vụ khách sạn Hilton sao rồi?” “Tôi có gọi vài cái. Không có ai tên vậy ở đó, cũng không ai nhận ra ông ấy khi tôi mô tả. Nhưng mà có nhiều khách sạn Hilton lắm, nên tôi vẫn phải gọi nữa. Anh đi gặp Elizabeth Tassel rồi làm gì nữa không?” cô hỏi, xã giao bình thường. “Đi giả bộ sắp mua nhà ở Mayfair. Nghe đâu có người đang tính tẩu tán tài sản, tuồn ra nước ngoài trước khi luật sư của bà vợ kịp cản lại. “Thôi,” hắn tiếp, nhét tấm thiệp mời còn chưa mở vào sâu trong túi áo khoác, “tôi đi đây. Rồi còn phải đi tìm ông văn sĩ hạng ruồi nữa.” 8 Tôi cầm lấy cuốn sách, rồi ông cụ ấy biến mất. John Lyly Endymion: or, the Man in the Moon Strike đứng trên tàu, đi mỗi một trạm đến văn phòng của Elizabeth Tassel. Hắn chẳng bao giờ thấy thoải mái trên những cuốc tàu ngắn như vậy vì lúc nào cũng phải tập trung để ý sức ép lên chiếc chân giả, rồi cứ lo sảy chân. Hắn bỗng nhận ra Robin chưa hề trách móc gì chuyện hắn nhận lời làm vụ Quine. Đương nhiên Robin đâu có quyền trách cứ sếp, nhưng cô ấy đã từ chối một công việc lương cao hơn nhiều để làm cho hắn. Một khi hắn trả xong nợ thì chuyện Robin trông được tăng lương cũng đâu có gì quá đáng. Robin thật khác thường. Không chỉ trích, chẳng bao giờ “bằng mặt mà không bằng lòng”. Dường như Robin là người phụ nữ duy nhất trong đời Strike không hề muốn sửa chữa hay cải thiện con người hắn. Strike đã thấm thía rằng trong tình cảm, phụ nữ cứ cho là đàn ông phải hiểu rằng có yêu thì họ mới muốn cải tạo đối phương, càng yêu bao nhiêu thì họ càng phải cố mà cải tạo bấy nhiêu. Vậy là bảy tuần nữa cô ấy sẽ lấy chồng. Chỉ còn bảy tuần nữa là cô ấy sẽ thành bà Matthew… gì nhỉ… Nếu có từng nghe qua họ của anh chồng chưa cưới ấy thì giờ đây hắn cũng không nhớ nổi. Lúc đứng đợi thang máy ở ga Goodge Street, hắn bỗng dưng nảy ra cái ý muốn điên khùng là gọi điện cho bà khách hàng tóc nâu sắp ly dị. Quý bà đã nhiều lần bật đèn xanh cho hắn… Hắn mường tượng ra quý bà trên chiếc giường nệm cao, êm ái, sực nức nước hoa ở khu Knightsbridge. Nhưng hắn gạt ngay ý nghĩ đó. Hành động như vậy thật rồ dại; tệ hơn hơn cả chuyện nhận làm vụ mất tích mà còn không biết công xá ra sao… Mà tại sao hắn lại đi phí thời gian cho Owen Quine? Hắn tự hỏi, cúi đầu trong mưa. Rồi hắn tự trả lời luôn sau vài giây nghĩ ngợi: vì tính tò mò, và có lẽ vì một điều gì đó khó nói hơn. Khi đến phố Store, trong lúc nheo mắt tránh nước mưa và cố bám giày trên vỉa hè trơn trượt, hắn nghĩ ra rằng dạo này mình đã quá ngán ngẩm với vô số các vụ bồ bịch và trả thù na ná nhau mà đám khách hàng giàu có liên tục mang đến. Lâu lắm rồi hắn mới điều tra một vụ mất tích. Mang được Quine về cho vợ con cũng đáng chứ. Văn phòng đại diện tác giả văn học của Elizabeth Tassel nằm trong một con ngõ hầu như chỉ toàn nhà dân, căn nào cũng dùng gạch thẫm màu. Một ngõ cụt yên tĩnh không ngờ gần phố Gower xô bồ. Strike bấm chuông cửa dưới tấm biển kín đáo bằng đồng thau. Có tiếng “rầm” nhẹ, một thanh niên nước da tái, mặc áo sơ mi không cài nút cổ ra mở cửa. Cầu thang lót thảm đỏ hiện ra. “Anh là thám tử tư hả?” Anh ta hỏi, vừa sờ sợ vừa phấn khích. Strike đi theo anh ta vào nhà, nước mưa nhỏ giọt trên thảm sàn mòn xơ cả chỉ. Hai người lên cầu thang đến trước cánh cửa gỗ gụ, rồi đi vào một văn phòng rộng lớn, có lẽ trước đây chia thành lối đi và phòng khách. Vẻ thanh lịch cổ kính dần dần nhường chỗ cho sự luộm thuộm tuềnh toàng. Cửa sổ đọng nước mờ đục, không khí trong phòng nồng nặc mùi thuốc lá. Khắp các bức tường là vô số kệ gỗ đầy nhóc sách vở. Những bức biếm họa văn chương lồng khung che gần hết giấy dán tường đã xỉn màu. Hai chiếc bàn nặng nề đặt đối diện nhau trên thảm sàn đã xác xơ, nhưng không ai ngồi đó cả. “Tôi cất áo cho anh được không?” người thanh niên hỏi, vừa lúc một cô gái gầy gò, trông hoảng loạn chui ra từ sau bàn, một tay cầm miếng xốp lau nhà đã vấy bẩn. “Không cách gì sạch được, Ralph à,” cô ta lo lắng thì thầm với người thanh niên vừa đưa Strike vào. “Thứ chết giẫm,” Ralph bực mình lẩm bẩm. “Con chó già của Elizabeth ói ra ngay dưới bàn của Sally,” anh ta hạ giọng, cầm lấy áo khoác Crombie của Strike treo lên giá treo đồ thời Victoria đặt ngay sau cánh cửa. “Tôi sẽ đi báo với bà ấy là anh đã đến. Cô chùi tiếp đi,” anh ta khuyên đồng nghiệp, rồi đi đến cánh cửa gỗ gụ thứ hai, sè sẹ mở ra. “Anh Strike tới rồi, thưa cô Liz.” Một tiếng sủa lớn, theo sau là một tràng ho khan sặc sụa, nghe qua cứ tưởng của ông thợ mỏ già nào. “Giữ lấy nó,” giọng khàn khàn lên tiếng. Cánh cửa vào văn phòng riêng của Liz Tassel bật ra. Ralph đang nắm chặt vòng cổ của một con chó giống Dobermann Pinscher, mặc dù đã già nhưng rõ là còn khá hung hăng. Cạnh đó là người đàn bà độ chừng sáu mươi tuổi, cao lớn, đậm người, nét mặt thô cứng, không hề ưa nhìn. Bà ta để tóc ngắn chải cúp đúng nếp đến lạnh lùng, mặc bộ complet đen may đo sắc sảo và dùng màu son đỏ sậm, trông ít nhiều ấn tượng. Bà ta toát lên cái vẻ cao kỳ thường thế chỗ cho sự gợi cảm nhục tính ở phụ nữ thành đạt lớn tuổi. “Đem nó ra ngoài đi Ralph,” bà ta lên tiếng, đôi mắt như hai trái olive đen nhìn vào Strike. Mưa vẫn lộp độp bắn vào cửa sổ. “Đừng quên mang theo túi đựng phân, hôm nay bụng dạ nó hơi yếu. Mời anh vào.” Mặt mày nhăn nhó kinh tởm, Ralph lôi xềnh xệch con chó to kềnh có cái đầu y như thần Anubis vừa sống lại ra khỏi phòng bà sếp. Khi ngang qua Strike, nó hăng tiết gầm gừ. “Sally, cà phê!” bà ta lớn tiếng ra lệnh cho cô gái đang thất thần, chỉ vừa kịp giấu đi miếng cọ sàn. Cô ta giật nảy người lên, biến mất qua cánh cửa ngay sau bàn. Strike mong là cô ta sẽ rửa tay cẩn thận trước khi pha cà phê. Văn phòng ngột ngạt của Elizabeth Tassel cũng có cái không khí như phòng ngoài, nhưng đậm đặc hơn: nồng nặc mùi thuốc lá và mùi chó già. Một cái ổ chó bằng vải tweed đặt dưới bàn làm việc, khắp tường treo ảnh cũ và tranh in. Strike nhận ra người trong tấm ảnh lớn: Pinkelman, nhà văn lớn tuổi chuyên viết sách thiếu nhi, cũng khá nổi tiếng. Hắn không chắc ông này còn sống không. Bà đại diện nhà văn không nói năng gì, chỉ đưa tay ra hiệu cho Strike ngồi xuống ghế đối diện. Để có chỗ ngồi hắn phải dời đi một mớ giấy tờ và tạp chí Bookseller. Liz Tassel rút một điếu thuốc từ hộp thuốc trên bàn, châm thuốc bằng bật lửa đá onyx, rít một hơi thật sâu rồi ho một tràng dài khô khốc, rát họng. “Vậy là,” bà ta ngồi xuống chiếc ghế bọc da đằng sau bàn, cất giọng lào khào khi cơn ho dịu đi. “như Christian Fisher có mách lại với tôi, Owen lại giở trò mất tích.” “Đúng thế,” Strike đáp. “Ông ấy mất tích ngay sau buổi tối cãi nhau với bà về cuốn sách.” Liz Tassel vừa định nói, nhưng mở miệng ra lại ho sặc sụa. Tiếng ho xé họng, chát chúa từ trong lồng ngực. Strike im lặng ngồi đợi bà ta dứt cơn. “Nghe khiếp quá,” cuối cùng hắn lên tiếng khi bà ta đã ho xong và ngay lập tức lại rít thêm một hơi thuốc dài, như không liên quan. “Cảm cúm,” Tassel lầm bầm. “Mãi không hết. Vậy Leonora tới tìm anh khi nào?” “Ngày hôm kia.” “Nó có đủ tiền trả cho anh không?” bà ta lào khào. “Tay phá nổi vụ Landry thì chắc chém cũng đẹp.” “Chị Quine có nói là bà sẽ thanh toán,” Strike đáp. Hai gò má thô ráp chợt tím lại. Bà ta nheo đôi mắt tối màu, vốn đã ầng ậng nước sau trận ho dữ dội. “Vậy thì, anh cứ về mà nói ngay với Leonora,” lồng ngực bắt đầu nhô lên dưới chiếc áo vét đen lịch lãm, Liz Tassel ráng kìm cơn ho lại - “rằng tôi sẽ không trả một x-xu để đi tìm cái loại ất ơ đó. Tôi không làm cho lão nữa… Nói với nó, nói là…” Một tràng ho kinh hoàng lại bật ra, không chút xót thương bà đại diện nhà văn. Cửa mở, cô trợ lý gầy gò bước vào, vất vả bưng chiếc khay gỗ khá nặng với tách và bình pha cà phê. Strike đứng dậy đón lấy cái khay. Trên bàn dường như chẳng còn chỗ nào để đặt nó xuống. Cô gái cố dọn dẹp lấy chỗ, run rẩy đến làm ngã một chồng giấy. Liz Tassel vừa ho vừa giận dữ ra dấu quở trách khiến cô gái hết cả hồn vía, lập cập chạy ra ngoài. “Cái thứ vô… vô dụng..” bà ta rít lên. Strike đặt chiếc khay xuống bàn, không đụng gì đến đám giấy vương vãi khắp sàn, ngồi lại chỗ cũ. Tassel là mẫu người ưa bắt nạt thường thấy: kiểu phụ nữ lớn tuổi, thường vô tình hay cố ý làm sống lại hình ảnh người mẹ nghiêm khắc của nhiều người. Strike hoàn toàn miễn nhiễm với kiểu dọa nạt đó. Mẹ của hắn, dù có tội lỗi tày trời, vẫn là một người mẹ trẻ trung, cởi mở trìu mến. Hơn nữa, hắn cảm nhận sự yếu đuối ở người đàn bà dữ như rồng này. Hút thuốc liên tục, những bức ảnh đã cũ, cái ổ chó dưới chân; tất cả cho thấy chút gì mềm lòng đa cảm, có lẽ không sắt đá như đám làm thuê trẻ người lầm tưởng. Khi bà ta đã dứt cơn ho, Strike đưa mời tách cà phê hắn vừa rót. “Cảm ơn,” bà ta lẩm bẩm cộc lốc. “Vậy là bà đã thôi làm cho Quine?” hắn hỏi. “Bà đã nói vậy với ông ta sao, hôm hai người ăn tối đó?” “Tôi không nhớ,” bà ta trả lời, giọng khàn khàn. “Chưa gì đã nhảy chồm chồm. Owen đứng ngay giữa nhà hàng, để mắng tôi cho sướng mồm, rồi khệnh khạng đi ra, để tôi thanh toán. Nếu muốn anh có thể tìm ra rất nhiều nhân chứng hôm đó. Owen muốn làm sao cho thật ồn ào đẹp mặt mà.” Bà ta với tay lấy thêm một điếu nữa, nghĩ sao đó bèn mời Strike một điếu. Sau khi châm thuốc cho cả hai, bà tiếp: “Christian Fisher đã nói gì với anh?” “Không nói gì nhiều,” Strike đáp. “Nếu đúng vậy thì tốt cho cả hai,” bà ta gằn giọng. Strike không nói gì, hút thuốc rồi uống cà phê. Liz Tassel tiếp tục chờ đợi, rõ là mong có thêm thông tin. “Nó có nhắc gì đến Bombyx Mori không?” bà ta hỏi. Strike gật đầu. “Nó nói gì?” “Nói là Quine đưa nhiều người vào sách, đọc là nhận ra ngay.” Im lặng, căng thẳng. “Tôi mong là Chard sẽ đi thưa nó. Hứa ngậm miệng mà vậy hả?” “Bà có liên lạc gì không, từ hôm ông ấy bỏ đi đến giờ, sau bữa tối hôm đó… ở đâu vậy?” Strike hỏi. “Nhà hàng River Café,” Tassel lào khào. “Không, tôi không có liên lạc gì sất. Không còn gì để nói cả” “Còn ông ấy cũng không liên lạc gì với bà?” “Không.” “Leonora kể rằng bà có nói cuốn sách mới của Quine là cuốn hay nhất từ xưa tới giờ ông ấy viết được, nhưng rồi đổi ý và không chịu làm đại diện nữa.” “Nó nói gì? Tôi đâu… đâu có…nói… vậy..” Cơn ho kinh hoàng nhất từ nãy tới giờ. Thấy cảnh bà ta sù sụ vật vã, Strike tự dưng muốn giật phắt điếu thuốc ra khỏi bàn tay ấy. Nhưng cuối cùng cơn ho cũng tan. Bà ta nốc một hơi hết nửa cốc cà phê, cũng có tác dụng làm dịu bớt. Bằng giọng mạnh mẽ hơn, bà ta lặp lại: “Tôi đâu có nói vậy. ‘Cuốn hay nhất từ xưa tới giờ’ chẳng lẽ lão nói vậy với Leonora sao?” “Đúng thế. Chứ thực ra bà nói gì?” “Tôi bị ốm,” bà ta khàn khàn đáp, bỏ qua câu hỏi. “Bị cảm lạnh. Nghỉ việc cả tuần. Owen gọi điện tới văn phòng báo là sách đã xong rồi. Ralph có nói là tôi đang ở nhà, nằm liệt giường. Vậy là Owen gởi chuyển phát bản thảo tới tận nhà tôi. Tôi phải bò ra khỏi giường mà ký nhận. Y kiểu lão ấy từ xưa giờ. Tôi sốt đến bốn mươi độ, đứng còn không vững. Nhưng sách đã viết xong nên lão nghĩ tôi phải đọc ngay lập tức.” Bà ta chiêu thêm cà phê, rồi nói: “Tôi quăng bản thảo ra bàn ăn, đi nằm tiếp. Owen bắt đầu gọi điện, cứ cách một tiếng gọi một lần, hỏi tôi thấy sao. Cả ngày thứ Tư và thứ Năm cứ lèm bèm réo tôi… Trong ba mươi năm qua chưa bao giờ tôi lại làm vậy,” giọng Liz Tassel lạo xạo. “Đáng ra cuối tuần đó tôi đi nghỉ. Tôi đã rất trông tới dịp đó. Không muốn hủy, cũng không muốn Owen cứ ba mươi phút là gọi khi tôi không có nhà. Vậy là… để lão ấy ngậm miệng… dù còn mệt lắm… tôi đọc lướt qua…” Bà ta rít một hơi thuốc dài, lại ho, ngồi thẳng lại, rồi nói: “Cũng không tệ hơn mấy cuốn trước. Nói đúng ra thì có phần khá hơn. Tiền đề câu chuyện khá thú vị. Hình ảnh khá là lôi cuốn. Một câu chuyện cổ tích màu sắc gothic, một kiểu Pilgrims Progress pha rùng rợn.” “Trong những chỗ đã đọc bà có nhận ra ai không?” “Nhân vật hầu hết mang tính biểu tượng,” bà ta nói, có vẻ hơi thủ thế, “kể cả chân dung tự họa như thánh sống của tác giả. Nhiều cảnh làm tình trụy… trụy lạc..” Bà ta dừng lại, ho tiếp. “Chừng đó món như xưa nay, tôi nghĩ… nhưng… tôi… tôi không đọc kỹ, tôi đã thừa nhận ngay từ đầu là vậy.” Strike thấy rõ ràng là xưa nay bà ta không quen thừa nhận cái gì. “Tôi… ừ thì có lướt qua phần cuối, chỗ ông ta viết về Michael và Daniel. Tôi có coi một chút phần kết, vừa kỳ dị, lại hơi ngớ ngẩn… Nếu mà không ốm vậy, tôi đã đọc kỹ càng và đương nhiên ngay từ đầu sẽ bảo Owen rằng chơi kiểu đó không được đâu. Daniel là người kỳ lắm, hay d-dỗi.” - bà ta lại bắt đầu ngắt quãng; nhưng cố nói cho hết câu, giọng rít theo cơn ho, “còn M-Michael là thằng cha đểu… đểu nhất trên đời..” Tới đây, bà ta lại sặc sụa. “Tại sao ông Quine lại cố cho in một cuốn sách mà kiểu gì cũng sẽ bị người ta kiện?” Strike hỏi tiếp, khi Liz Tassel đã ngừng ho. “Vì Owen nghĩ rằng lão ta đứng trên thiên hạ,” bà ta gầm gừ. “Lão cho rằng lão là thiên tài, là enfant terrible! Xúc phạm được ai thì hả hê lắm. Cứ tưởng mình gan trời, anh hùng một cõi mà.” “Vậy khi đọc lướt rồi bà làm gì nữa?” “Gọi cho Owen,” bà ta đáp, nhắm mắt lại như đang lên cơn giận chính mình. “Tôi nói, ‘Ờ, được đó' rồi tôi bảo Ralph ghé qua nhà lấy, rồi sao thành hai bản, một cho Jerry Waldegrave - là biên tập của Owen ở nhà xuất bản Roper Chard và một cho, lạy Chúa cứu con, Christian Fisher.” “Tại sao bà không email thẳng bản thảo tới văn phòng?” Strike hỏi, tò mò. “Bản thảo lưu trên thẻ nhớ hay sao?” Liz Tassel dụi đầu thuốc lá vào gạt tàn đã đầy. “Owen vẫn dùng máy đánh chữ điện, từ lúc viết Tội lỗi của Hobart. Không biết là vì ưa làm màu hay vì dốt. Lão khá dốt công nghệ. Chắc lão cũng thử dùng máy tính rồi nhưng chịu. Lại một kiểu khác người rởm đời của Owen.” “Tại sao bà gởi bản thảo cùng lúc cho hai nhà xuất bản?” Strike hỏi, mặc dù đã biết trước câu trả lời. “Vì Jerry Waldegrave có thể’ coi là thánh sống, người tử tế nhất trong giới sách vở,” bà ta đáp, nhấp ngụm cà phê, “nhưng gần đây đến cả ông ấy cũng mất kiên nhẫn với mấy trò dở hơi của Owen. Cuốn vừa rồi của Owen in bên Roper Chard gần như không bán được. Nên tôi gởi cả bên Crossfire, biết đâu…” “Khi nào thì bà mới nhận ra trong sách có vấn đề?” “Chiều tối hôm đó,” bà ta lào khào. “Ralph gọi tôi. Nó gởi hai bản thảo xong thì ngồi lật qua bản gốc. Nó gọi, hỏi ngay: ‘Cô đã đọc chưa vậy?’” Strike có thể tưởng tượng ra vẻ sợ hãi của anh chàng trợ lý xanh xao trẻ tuổi khi gọi điện cho sếp. Hẳn anh ta phải lấy can đảm ghê lắm, sau một hồi đấu tranh tư tưởng phân tích thiệt hơn với nữ đồng nghiệp trước khi quyết định gọi. “Tôi phải thừa nhận là tôi chưa… đúng ra là chưa đọc kỹ,” bà lẩm bẩm. “Nó đọc tôi nghe vài đoạn tôi bỏ nhỡ và..” Bà ta cầm cái bật lửa đá onyx lên, buồn tay lạt xạt mấy cái, rồi nhìn Strike. “Tôi hoảng cả lên. Tôi gọi Christian Fisher nhưng cuộc gọi vào thẳng hộp thư thoại, vậy là tôi để lại tin nhắn, nói là bản thảo đó chưa hoàn chỉnh, đừng đọc. Tôi nói tôi có nhầm lẫn, làm ơn trả lại càng sớm càng tốt. Tôi gọi tiếp cho Jerry, nhưng cũng không gặp được. Ông ấy có nói là cuối tuần đó sẽ đi nghỉ kỷ niệm đám cưới với vợ. Tôi cứ trông là ông ấy không có thời gian mà đọc, nên tôi cũng để lại tin nhắn như với Fisher vậy. Rồi tôi gọi cho Owen.” Bà ta lại châm thêm một điếu nữa. Khi Liz Tassel rít thuốc, hai hốc mũi lớn phập phồng, vết nhăn quanh khóe miệng trở nên sâu hơn. “Tôi nói không ra hơi, mà thực ra cũng có nói cũng chẳng thay đổi được gì. Owen không cho tôi chen ngang, theo kiểu xưa nay của lão, tự mãn kinh hoàng. Lão nói là kiểu gì cũng phải đi ăn tối, để ăn mừng vừa xong sách. “Vậy là tôi ráng lê lết thay áo, rồi đến nhà hàng River Café ngồi đợi. Rồi Owen xuất hiện. “Hôm đó lão còn không đi trễ. Thường lúc nào cũng trễ. Người lâng lâng như đi trên mây, hưng phấn tột cùng. Lão thực sự nghĩ rằng mình vừa làm chuyện gì đó tuyệt vời lắm, can đảm lắm. Tôi chưa kịp nói gì thì lão đã nói tới khả năng chuyển thể thành phim.” Mỗi khi phả khói ra từ khuôn miệng đỏ thắm, trông bà ta quả rất giống con rồng, nhất là với cặp mắt đen sáng lấp lánh. “Khi tôi nói rằng thứ lão viết thật quá hèn, đầy ác ý và không thể in được, lão nhảy dựng lên, ném bay cả ghế rồi bắt đầu mở miệng gào. Sau khi xúc phạm tôi cả về chuyên môn lẫn đời tư, lão nói rằng nếu tôi không đủ dũng khí để đại diện, lão sẽ tự xuất bản, sẽ cho ra sách điện tử. Rồi lão đùng đùng bỏ ra ngoài, để tôi ở lại thanh toán. C-cũng…”, bà ta càu nhàu, “chẳng ngạc nhiên gì…” Cơn xúc động khiến Liz Tassel lại bắt đầu ho, còn tệ hơn trước. Strike cứ sợ bà ta sẽ nghẹn mà chết mất. Hắn dợm đứng dậy, nhưng bà ta phẩy tay, ra dấu cho hắn ngồi yên. Cuối cùng, mặt mày tím tái, nước mắt chảy thành dòng, bà ta cất giọng, gợn gạo như sỏi đá: “Tôi đã cố hết sức sửa sai. Dịp đi nghỉ cuối tuần vậy là hỏng bét: tôi cứ gọi điện mãi, cố gặp cho được Fisher và Waldegrave. Tôi để lại hết tin nhắn này tới tin nhắn kia, đứng mãi ngoài vách núi ở Gwithian chỉ để có sóng điện thoại…” “Quê bà ở đó sao?” Strike hỏi, thấy hơi ngạc nhiên vì trong giọng Liz Tassel không hề có chút gì của Cornwall nơi hắn lớn lên cả. “Một tác giả của tôi ở đó. Tôi có kể với bà ấy là đã bốn năm rồi chưa đi khỏi London, vậy là bà ấy mời tôi cuối tuần đến chơi. Muốn chỉ cho tôi xem mấy chỗ đẹp mà bà ấy lấy bối cảnh để viết sách. Thực, nhiều cảnh đẹp nhất mà từ trước giờ tôi mới thấy, nhưng trong đầu tôi chỉ nghĩ đến Bombyx Mori chết tiệt, rồi làm sao để ngăn không cho ai đọc nữa. Tôi không ngủ được. Thật kinh hoàng… “Trưa hôm Chủ Nhật thì Jerry gọi lại. Hóa ra cuối tuần đó ông ấy chẳng đi đâu cả, nói là không nhận được tin nhắn nào cả, vậy nên ông ấy đã đọc cuốn sách xui xẻo đó. “Ông ấy thấy ghê tởm, giận sôi cả người. Tôi nói với Jerry là tôi sẽ làm hết sức để ngăn lại… nhưng tôi cũng phải thừa nhận là đã gởi cho Christian một bản. Nghe vậy, ông ấy dập máy tại chỗ.” “Bà có nói là Quine dọa sẽ tự xuất bản trên mạng không?” “Không, tôi không nói gì chuyện đó cả,” bà ta đáp, giọng khàn khàn. “Tôi cầu Trời rằng Owen chỉ dọa chơi vậy thôi. Lão chẳng biết gì về máy móc cả. Nhưng tôi cũng lo…” Giọng bà ta yếu đi. “Bà lo…?” Strike hỏi lần. Bà ta không trả lời. “Chuyện tự xuất bản này cũng không phải không có lý,” Strike thản nhiên nói, “Leonora có kể Quine vơ hết bản thảo và ghi chép trước khi bỏ nhà đi đêm đó. Tôi đã nghĩ hay là ông ấy định đốt hết, hoặc vứt xuống sông. Nhưng biết đâu ông ấy mang hết đi để’ làm sách điện tử.” Chỗ thông tin đó không hề cải thiện tâm trạng của Elizabeth Tassel. Bà ta nghiến răng: “Còn có ả nhân tình nữa. Học trò của lão. Ả đó là dân tự xuất bản. Tôi biết vì có lần Owen nài tôi xem qua mớ tiểu thuyết kỳ ảo khiêu dâm của ả. Khắm thôi rồi.” “Bà có liên lạc gì với cô ấy không?” Strike hỏi. “Đương nhiên. Tôi muốn dọa trước, cho ả biết rằng nếu tiếp tay cho Owen chuyển thành sách điện tử và bán trên mạng thì có ngày đi hầu tòa.” “Rồi cô ấy nói gì?” “Tôi có liên lạc được đâu. Tôi cố vài lần. Chắc số cũ không dùng nữa, tôi chịu.” “Vậy bà cho tôi địa chỉ liên lạc được không?” Strike hỏi. “Ralph có giữ danh thiếp. Tôi nhờ nó gọi giùm. Ralph!” bà ta rống lên. “Anh ấy đang dắt Beau đi dạo, thưa cô!” cô gái sợ hãi, eo éo nói vọng vào từ ngoài cửa. Elizabeth Tassel trợn tròn mắt, giẫm chân bực bội. “Con bé ngoài đó thì thôi khỏi nhờ vả gì.” Khi bà ta đã đi ra, cửa khép lại, Strike đứng bật dậy, đi ra sau bàn và cúi xuống nhìn một bức ảnh trên tường mà nãy giờ hắn cứ cố nhìn. Muốn xem kỹ hắn phải dời một khung ảnh đôi trên kệ sách chụp chân dung hai con chó Dobermann. Bức ảnh đó cỡ A4, ảnh màu nhưng đã phai. Nhìn áo quần của bốn người trong ảnh thì hẳn đã chụp ít nhất cũng phải hai mươi lăm năm trước, ngay bên ngoài ngôi nhà này. Trong ảnh Elizabeth Tassel rất dễ nhận ra: người phụ nữ duy nhất trong nhóm, to con, thô tháp, tóc đen dài thả bay trong gió. Bà ta mặc đầm suông thùng thình, màu hồng đậm và xanh lam. Tassel đứng giữa một thanh niên mảnh khảnh, tóc vàng, cực kỳ đẹp trai và một người đàn ông thấp người, da tái xám, mặt mày sưng sỉa có cái đầu hơi quá khổ so với thân mình. Trông ông ta quen ghê. Strike ngờ ngợ đã nhìn thấy ông này trên báo hay tivi gì đó. Cạnh người đàn ông trông quen mà mãi hắn vẫn chưa nhận ra là Owen Quine, còn trẻ. Owen là người cao nhất trong cả bốn người, mặc một bộ complet màu trắng nhăn nhúm, để tóc mái dựng đứng. Owen khiến Strike nghĩ đến nghệ sĩ David Bowie, có điều là béo hơn. Cánh cửa bung ra nhẹ nhàng, bản lề hẳn được tra dầu đầy đủ. Strike không cố che đậy mình vừa làm gì, quay ra nhìn bà đại diện nhà văn đang bước vào phòng, trên tay cầm một tờ giấy. “Con đó là Fletcher,” bà ta nói, mắt nhìn tấm hình hai con chó trong tay hắn. “Chết năm ngoái rồi.” Hắn đặt chân dung hai con chó trở lại kệ sách. “Ồ,” bà ta sực nhận ra, “Anh đang xem tấm kia à!” Bà ta tiến gần tới tấm hình đã nhạt màu, đứng sát Strike. Hắn để ý thấy Liz Tassel cao cũng hơn một mét tám. Hắn nghe có mùi thuốc lá John Player Specials và nước hoa Arpège. “Hình chụp ngày khai trương văn phòng. Ba khách hàng đầu tiên của tôi.” “Ông đó là ai vậy?” Strike hỏi, chỉ người thanh niên tóc vàng đẹp trai ngời ngời. “Joseph North. Tài năng nhất trong cả ba, vượt xa hai người còn lại. Tiếc là ông ấy chết trẻ.” “Còn ai kia?” “Michael Fancourt, chứ ai nữa,” bà ta đáp, nghe giọng ngạc nhiên. “Hèn gì tôi thấy quen quá. Bà vẫn làm cho ông ấy chứ?” “Không! Tôi tưởng…” Hắn nghe ra phần còn lại, ngay cả khi Liz Tassel không nói ra: Tôi tưởng ai cũng biết chứ. Một vụ thâm cung bí sử nào đó chăng, có lẽ hết thảy giới sách vở ở London đều biết tại sao nhà văn Fancourt không còn là khách hàng của Liz Tassel, nhưng Strike chẳng biết gì cả. “Tại sao bà không đại diện ông ấy nữa?” hắn nói, trở lại ghế ngồi. Bà ta đưa tờ giấy trong tay cho hắn. Tờ giấy sao chụp lại một danh thiếp trông nhàu nhĩ, sến súa. “Chuyện lâu rồi, khi đó tôi phải lựa chọn giữa Michael và Owen,” bà ta đáp. “Rồi như một con dở hơi,” bà ta lại bắt đầu ho; giọng vỡ ra lạo xạo. “Tôi chọn Owen.” “Tôi chỉ có chừng đó về Kathryn Kent thôi,” bà ta dứt dạc, quyết không nói gì thêm về Fancourt nữa. “Cảm ơn bà,” hắn đáp, gấp tờ giấy lại bỏ trong ví. “Bà có biết Quine quen cô này bao lâu rồi không?” “Cũng lâu rồi. Còn kẹp theo đi tiệc tùng trong khi Leonora chết gí ở nhà với Orlando. Không biết xấu hổ.” “Bà không biết liệu ông ấy có thể trốn ở đâu sao? Leonora có kể là lần trước bà tìm ra ông ấy…” “Tôi không ‘tìm ra’ Owen gì sất,” bà ta gằn giọng. “Đi khách sạn được một tuần thì lão gọi điện cho tôi xin tạm ứng, nói theo kiểu lão là tiền biếu, để mà trả tiền nước trong khách sạn.” “Rồi bà trả cho ông ấy sao?” Strike hỏi. Trông bà ta chẳng có vẻ gì là dễ bị dụ dỗ. Bà ta nhăn mặt, thừa nhận điểm yếu, có phần hơi xấu hổ. Nhưng câu trả lời của Liz Tassel khiến Strike ngạc nhiên. “Anh gặp Orlando chưa?” “Chưa!” Bà ta mở miệng, định nói tiếp nhưng rồi nghĩ lại sao đó, chỉ nói: “Owen với tôi là chỗ quen biết lâu năm. Hồi đó vẫn còn bạn bè thân thiết..” Liz Tassel tiếp, giọng hơi chua chát. “Những lần trước ông ấy hay ở khách sạn nào?” “Tôi không nhớ hết. Có lần ở Hilton mạn Kensington. Cả Danubius ở St. John’s Wood. Toàn mấy khách sạn lớn, đầy đủ tiện nghi, những thứ mà lão không thể có ở nhà. Owen đâu phải là loại quen lang bạt kỳ hồ gì, trừ khoản vệ sinh cá nhân.” “Bà biết ông ấy rất rõ. Bà nghĩ có khi nào ông ấy đã…?” “… làm chuyện gì dại dột? Đương nhiên là không. Lão nỡ lòng nào tước đi thiên tài Owen Quine của nhân loại. Không có đâu, lão đang ở đâu đó, vừa âm mưu trả thù vừa tức tối là sao đến giờ vẫn chưa thấy người ta làm um lên.” “Ông ấy nghĩ người ta sẽ rầm rộ đi tìm sao, ngay cả khi đã bày trò như vậy vài lần rồi?” “Đương nhiên,” Elizabeth đáp. “Mỗi lần giở trò mất tích lão cứ nghĩ kiểu gì cũng sẽ lên trang nhất. Vấn đề ở chỗ lần đầu tiên lão biến mất, lâu lắm rồi, sau khi cãi nhau một trận với tay biên tập đầu tiên, thì cũng thành chuyện thật. Người ta cũng xôn xao lo lắng, báo chí cũng vào. Kể từ đó đến giờ lão cứ nuôi hi vọng.” “Leonora nói rằng Owen sẽ rất bực nếu chị ấy đi báo cảnh sát.” “Tôi chẳng hiểu vì sao nó lại nói vậy,” Elizabeth nói, rút thêm một điếu thuốc nữa. “Owen nghĩ tệ gì cũng phải có trực thăng, chó cứu nạn mới xứng tầm của lão.” “Cảm ơn bà đã dành thời gian,” Strike đáp, chuẩn bị đứng dậy. “Bà thật tử tế.” Elizabeth Tassel đưa tay ra, rồi nói: “Không, chả tử tế gì đâu. Tôi muốn nhờ anh một chuyện.” Hắn đứng im, chờ đợi. Rõ là bà ta không quen nhờ vả gì. Liz Tassel im lặng hút thêm vài hơi thuốc, lại phải cố nén một tràng ho nữa. “Vụ… vụ Bombyx Mori này gây cho tôi đủ phiền toái,” cuối cùng bà ta cũng lạo khạo lên tiếng. “Tôi bị từ mặt, cấm không được đến dự tiệc kỷ niệm ngày thành lập nhà xuất bản Roper Chard thứ Sáu này. Hai bản thảo vừa gởi cũng bị trả lại mà không có một tiếng cảm ơn lấy lệ. Tôi còn đang lo vụ cuốn mới nhất của Pinkelman.” Bà ta chỉ tay lên bức chân dung nhà văn viết cho thiếu nhi trên tường. “Đang có đồn đoán rằng tôi vào hùa với Owen; rằng tôi khích bác lão xới lại một vụ scandal của Michael Fancourt, gây ồn ào để người ta xông vào đấu giá bản quyền sách. “Nếu anh sẵn lượn lờ khắp những người quen với Owen,” bà ta nói, cuối cùng cũng chịu vào ý chính, “phiền anh nói luôn với họ - đặc biệt là Jerry Waldegrave, nếu anh có gặp ông ấy, rằng tôi không hề biết trong sách có gì. Nếu biết tôi đã không gởi cho ai, nhất là Christian Fisher. Giá mà tôi không ốm đến vậy. Thực tình tôi chỉ,” bà ta ngập ngừng, “bất cẩn, chứ hoàn toàn không có gì hơn.” À, hóa ra đây mới là lý do bà ta nóng lòng muốn gặp hắn. Nghe cũng không có gì quá đáng để đổi lại địa chỉ của hai khách sạn và cô nhân tình. “Nếu có dịp tôi sẽ nói ngay,” Strike đáp, đứng dậy. “Cảm ơn,” bà ta cộc lốc. “Để tôi tiễn.” Hai người vừa bước khỏi văn phòng thì đụng ngay một tràng sủa inh tai. Ralph và con chó Dobermann già vừa đi dạo về. Mái tóc ướt nhẹp của Ralph hất ra đằng sau. Anh ta chật vật giữ con chó mõm xám, vẫn đang gầm gừ với Strike. “Nó không ưa người lạ,” Elizabeth Tassel thản nhiên nói. “Có lần nó cắn cả Owen,” Ralph chen vào, cứ như thể nói vậy sẽ khiến Strike thấy an ủi trước con chó đang lăm le ăn thịt mình. “Đúng thế,” Tassel lên tiếng, “tiếc là…” Nhưng một cơn ho khô khốc, xé họng lại đến. Ba người còn lại đứng im lặng, chờ cho bà ta dứt cơn. “Tiếc là không cắn chết luôn lúc đó,” cuối cùng bà ta càu nhàu. “Được vậy thì giờ đỡ bao nhiêu.” Hai trợ lý mặt mày thảng thốt. Strike bắt tay Liz Tassel, nói tạm biệt. Cửa đóng lại, con chó Dobermann vẫn gầm gừ, dọa dẫm. 9 Ngài Hờn Mát có đây không, thưa cô? William Congreve The Way of the World Đến cuối ngõ, mưa vẫn đầm đìa, Strike đứng lại, gọi Robin. Máy bận. Hắn đứng dựa vào bức tường ướt nhẹp, cổ áo khoác dựng lên, liên tục bấm nút “gọi lại”. Mắt hắn dừng lại trên một tấm biển màu xanh gắn ở tòa nhà đối diện, tưởng niệm Phu nhân Ottoline Morrell, người bảo trợ cho các tài năng văn chương từng ở đấy. Hẳn là đằng sau những bức tường đó người ta cũng từng bàn thảo về vô số những tác phẩm ám chỉ - những romans à clef của một thời… “Alô, Robin à,” Strike lên tiếng. Cuối cùng cũng gọi được. “Chắc là tôi về trễ rồi. Cô gọi cho Gunfrey, nói là tôi đã có được cuộc hẹn chắc chắn với đối tượng ngay ngày mai. Rồi gọi cho Caroline Ingles nói là vẫn chưa có gì mới, ngày mai tôi sẽ gọi điện báo cáo tình hình.” Khi đã điều chỉnh xong lịch làm việc, hắn nhờ Robin xem thử Owen Quine có đang ở khách sạn Danubius ở St. John’s Wood hay không. “Vụ Hilton tới đâu rồi?” “Chẳng tới đâu cả,” Robin đáp. “Tôi chỉ còn mỗi hai khách sạn thôi. Chẳng có manh mối gì. Nếu có ở đó thì hẳn ông ấy dùng tên giả, hay cải trang sao đó, cũng có khả năng là nhân viên không để ý gì. Chứ dễ gì mà quên một người như vậy, nhất là mặc áo choàng kiểu đó nữa.” “Cô thử khách sạn Hilton ở Kensington chưa?” “Rồi. Không có gì cả.” “Thôi được rồi, tôi vừa có thêm một manh mối nữa: cô nhân tình tự xuất bản sách, tên Kathryn Kent. Có khi lát nữa tôi sẽ ghé qua đó. Chiều nay tôi không thể nhận cuộc gọi được, tôi phải bám đuôi cô Brocklehurst. Nếu cần gì thì nhắn tin cho tôi vậy.” “OK, anh bám đuôi vui nhé!” Nhưng buổi chiều hôm đó thật chán chường và vô ích. Strike đang theo dõi một cô thư ký lương cao kiêm bồ nhí. Theo như lời ông sếp đa nghi, cô này không chỉ chia sẻ giường chiếu mà còn cả bí mật công việc với đối thủ của ông ấy. Tuy nhiên, có vẻ như cô Brocklehurst nói thật khi xin nghỉ một buổi chiều để đi tẩy lông, làm móng và nhuộm rám da, hẳn để chiều lòng ông sếp. Strike ngồi đợi, quan sát mặt tiền cửa hiệu làm đẹp từ quán Café Nero đối diện, suốt cả gần bốn tiếng đồng hồ. Bên ngoài mưa bay lất phất còn trong quán hội tụ tập tám chuyện của các bà mẹ mang theo con trong xe đẩy liên tục nhìn hắn khó chịu. Cuối cùng cô Brocklehurst xuất hiện, da ngả nâu như nước sốt Bisto và có lẽ là từ cổ trở xuống không còn lông tóc gì. Strike bám theo một đoạn thì cô ta lên taxi. Trời vẫn mưa, hên lắm Strike mới vẫy được chiếc taxi khác để kịp đuổi theo khi cô ta chưa khuất dạng. Nhưng như hắn đã dự đoán từ hướng đi, cuộc đuổi bắt buồn tẻ qua những con phố đông đúc mưa dầm kết thúc ngay ở nhà ông sếp đa nghi kia. Suốt đường Strike liên tục chụp ảnh trộm. Hắn trả tiền xe, coi như xong một ngày làm việc. Chưa tới bốn giờ chiều. Mặt trời đang lặn. Mưa mỗi lúc một lạnh lẽo. Ngang qua một quán ăn nhỏ, cửa sổ có giăng đèn trang trí Giáng Sinh nhấp nháy, tự dưng hắn nghĩ về Cornwall. Vậy là ba lần liên tiếp rồi hắn cứ nghĩ về nơi ấy, như thể nó đang thì thầm mời gọi hắn về. Đã bao lâu rồi hắn chưa về thị trấn nhỏ xinh đẹp ven biển đó, nơi hắn từng sống phần tuổi thơ êm đềm nhất? Bốn năm? Hay năm năm rồi? Hắn vẫn gặp cậu mợ mỗi khi hai người lên London, “đi thành phố” như cách họ vẫn nói. Hai người thường ghé ở nhà Lucy, tận hưởng không khí thủ đô. Lần gần đây nhất Strike dẫn cậu đi sân Emirates xem trận đội nhà gặp Manchester City. Điện thoại rung lên trong túi hắn: Robin nhắn tin thay vì gọi điện, như hắn đã yêu cầu. Ông Gunfrey muốn anh gặp ngày mai ở chỗ ông ấy lúc 10 giờ, có nhiều chuyện muốn nói thêm với anh. Rx Cảm ơn, Strike nhắn lại. Hắn không bao giờ thêm dấu “x” - ký hiệu nụ hôn vào sau tin nhắn, trừ khi nhắn cho mợ hay em gái. Ở ga tàu điện, hắn tính nước đi tiếp theo. Vụ Owen Quine khiến hắn bứt rứt không yên: vừa bực bội, vừa tò mò không hiểu tại sao lão nhà văn này lại khó tìm đến vậy. Hắn rút trong ví ra tờ giấy của Elizabeth Tassel. Dưới cái tên Kathryn Kent là địa chỉ một khu chung cư ở Fulham và một số điện thoại di động. Chỗ mép tấm bưu thiếp in mấy chữ: tác giả độc lập. Strike rành một số khu ở London không thua dân taxi. Hắn chưa bao giờ ở những khu siêu giàu nhưng từng dọn đến rất nhiều ngóc ngách thủ đô cùng với người mẹ thích lang thang, đa số là ở nhà hoang hay nhà ở xã hội. Thi thoảng, nếu bạn trai của mẹ tại thời điểm đó mà rủng rỉnh một chút thì cả nhà được ở khu ngon lành hơn. Hắn nhận ra địa chỉ của Kathryn Kent: khu Clement Attlee Court- chung cư cao tầng ban đầu là nhà ở xã hội, về sau phần nhiều đã bán lại cho tư nhân. Đó là những tòa nhà gạch vuông vức xấu xí, tầng nào cũng có ban công, nằm cách những căn triệu bảng ở Fulham chỉ có vài trăm mét. Giờ này chẳng có ai chờ hắn ở nhà. Hắn vẫn còn no nê cà phê và bánh ngọt sau buổi chiều lê thê ở quán Caffè Nero. Thay vì lên tuyến tàu điện Northern, hắn bắt tuyến District về phía Tây Kensington. Hắn xuống tàu, thả bộ trong bóng tối dọc theo phố North End, qua những tiệm cà ri, các cửa hiệu nhỏ bỏ hoang, cửa sổ đóng ván kín cho thấy cuộc khủng hoảng kinh tế vừa đi qua. Lúc Strike đến khu chung cư thì trời cũng sập tối. Tòa nhà Stafford Cripps House gần mặt đường nhất, đứng ngay sau một trung tâm y tế hiện đại, thấp tầng. Tay kiến trúc sư lạc quan của những khu nhà ở xã hội khi đó hẳn đang lâng lâng với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, quyết định cho mỗi căn hộ một cái ban công nho nhỏ. Có lẽ người ta tưởng tượng ra cảnh những cư dân hạnh phúc vừa chăm bồn hoa vừa vui vẻ chào hỏi hàng xóm từ ban công? Trên thực tế hầu như mọi ban công đều bị trưng dụng làm nhà kho, chất đầy nào là thảm cũ, xe đẩy trẻ con, đồ làm bếp, thêm mớ gì trông như áo quần dơ bẩn phơi trơ trơ mặc mưa gió. Ban công trở thành thứ tủ đựng đồ hầm bà lằng không buồn che đậy trước mắt người qua kẻ lại. Một đám choai choai mặc áo khoác dày có mũ rộng trùm lên đầu, đứng hút thuốc gần chỗ thùng rác tái chế, nhìn hắn dò xét. Hắn cao to hơn hết thảy bọn nhóc con đó. “Thằng to xác khốn nạn,” hắn nghe một đứa trong bọn thốt lên khi vừa khuất mắt. Hắn đi thẳng về phía cầu thang bê tông, không màng đến cái thang máy chung cư kiểu-gì-cũng-hỏng. Căn hộ của Kathryn Kent ở tầng ba, cuối một hàng lang lộng gió chạy dọc theo tòa nhà. Strike để ý thấy, khác với hàng xóm chung quanh, Kathryn có treo rèm cửa sổ đàng hoàng. Hắn gõ cửa. Không có người trả lời. Nếu Owen Quine có ở bên trong hẳn ông ấy quyết nấp kỹ: không hề có đèn đóm hay cử động gì cả. Một người phụ nữ mặt mày sưng sỉa, miệng ngậm thuốc lá thò đầu ra từ nhà bên cạnh, liếc hắn một cái rồi quay ngay vào, điệu bộ lấm lét đến buồn cười. Cơn gió buốt lạnh thổi dọc theo hành lang. Áo khoác của Strike lóng lánh nước mưa nhưng hắn biết rõ chiếc đầu trần của mình vẫn y như vậy; mớ tóc ngắn, xoăn tít không hề hấn gì dưới trời mưa. Hắn đút tay vào sâu trong túi, chạm tới tấm thiệp mời đã quên khuấy. Bóng đèn bên ngoài cửa nhà Kathryn đã hỏng, vậy là Strike đi đến cách đó hai căn, lần mò bật đèn hành lang rồi mở bì thư màu bạc. Ông bà Michael Ellacott trân trọng kính mời quý vị đến dự lễ thành hôn của con gái Robin Venetia và Matthew John Cunlif e tại nhà thờ Đức Mẹ Đồng Trinh, Masham Thứ Bảy ngày 8 tháng Giêng năm 2011, lúc hai giờ chiều và sau đó tại Swinton Park Tấm thiệp mời nghiêm trang như mệnh lệnh quân đội, rằng đám cưới này sẽ diễn ra đúng theo y cách thức đã liệt kê. Hắn và Charlotte vẫn còn chưa tới giai đoạn đi phát những tờ thiệp mời màu kem in chữ đen hoa hòe. Strike đút tấm thiệp vào lại trong túi rồi trở lại đợi bên cánh cửa tối màu nhà Kathryn. Hắn đứng đó, ngẫm ngợi, nhìn ra phía con phố LilHe sập tối lấp loáng đèn phố, đèn xe ngược xuôi, hết đỏ rồi cam. Dưới đường đám choai choai đứng túm tụm, tản ra nhập hội với những đứa khác, rồi tụ tập trở lại. Đến sáu giờ rưỡi đám trẻ trâu giờ đã đông hơn quyết định cùng tản đi một lần. Strike dõi theo chúng cho tới khi gần khuất dạng, vừa lúc có một phụ nữ đi ngược chiều xuất hiện. Khi chị ta bước qua vũng nước dưới đèn đường, hắn thấy mớ tóc đỏ dày bay bay dưới chiếc dù đen. Tướng đi của người này hơi xiêu vẹo, một tay cầm dù còn một tay cầm hai túi xách nặng. Nhưng từ xa trông chị ta cũng không đến nỗi, nhất là khi đưa tay hất mớ tóc xoăn dày bay bay trong gió điệu đà, còn cặp chân bên dưới chiếc áo khoác rộng cũng có vẻ thon thả. Chị ta tiến lại mỗi lúc một gần, không hề biết trên tầng ba phía bên kia đường có kẻ đang quan sát mình. Năm phút sau chị ta lên đến ban công nơi Strike đang đứng đợi. Khi chị ta tới gần, hàng nút cài căng trên áo khoác để lộ thân hình quả táo khá đồ sộ. Chỉ đến khi cách khoảng mười mét chị ta mới để’ ý thấy Strike vì đang mải cúi mặt nhìn đường. Khi chị ta ngẩng lên, Strike bắt gặp một gương mặt béo phệ, có nếp nhăn, già hơn nhiều so với hình dung của hắn nãy giờ. Chị ta dừng phắt lại, há hốc miệng. “Anh!” Strike nhận ra chị ta không thể nhìn rõ mặt mình mà chỉ thấy bóng, do đèn trước nhà đã hỏng. “Anh là cái đồ chó đẻ khốn nạn!” Hai túi xách rơi xuống nền bê tông, nghe như có tiếng thủy tinh vỡ: chị ta lao xồng xộc vào hắn, tay nắm lại tính vụt tới. “Đồ chó đẻ, đồ khốn nạn. Tôi không bao giờ tha thứ cho anh, không bao giờ, anh không thoát nổi tôi đâu.” Strike buộc phải né vài cú đấm loạn xạ. Hắn vừa lùi lại vừa cố kìm phản xạ của dân đấm bốc khi chị ta tiếp tục la hét, đấm đá linh tinh chẳng đâu vào đâu. “Anh đợi đó, Pippa sẽ thịt anh, anh cứ đợi đó…” Cửa bên nhà hàng xóm lại mở ra: người đàn bà miệng ngậm thuốc lúc nãy xuất hiện. “Ê!” bà ta la lên. Ánh đèn từ hành lang rọi đến Strike, cho thấy rõ mặt hắn. Cô nhân tình tóc đỏ vừa há miệng thở, vừa toan la tiếp bỗng nhảy lùi ra sau, cố tránh xa hắn. “Cái quỉ gì vậy?” bà hàng xóm hỏi. “Nhầm người thôi,” Strike nhẹ nhàng đáp. Bà hàng xóm đóng sầm cửa, tay thám tử và kẻ tấn công lại chìm vào bóng tối. “Anh là ai?” chị ta thì thầm. “Anh muốn gì?” “Chị là Kathryn Kent phải không?” “Anh muốn gì?” Rồi, đột nhiên, chị ta đâm ra hoảng hốt, “Tôi biết rồi, nhưng tôi không làm công việc đó!” “Gì kia?” “Anh là ai mới được chứ?” chị ta hỏi, giọng vô cùng sợ hãi. “Tôi là Cormoran Strike, thám tử tư.” Hắn đã quá quen với phản ứng của người khác mỗi khi thấy hắn trước cửa nhà họ. Phản ứng của Kathryn - im lặng vì sốc, cũng khá thông thường. Chị ta lùi lại, sém chút nữa ngã vào đám túi đựng đồ. “Ai thuê thám tử theo dõi tôi? Phải bà đó không?” chị ta giận dữ hỏi. “Tôi được thuê để đi tìm nhà văn Owen Quine,” Strike đáp. “Ông ấy mất tích đã gần hai tuần rồi. Tôi biết chị là bạn của ông ấy…” “Không bạn bè gì hết,” chị ta nói rồi cúi xuống nhặt mấy cái túi lên; đồ đạc lỉnh kỉnh va vào nhau. “Anh đi mà nói với bà ấy. Tôi nhường hết cho bà ấy.” “Chị không làm bạn với ông ấy nữa sao? Chị không biết ông ấy ở đâu à?” “Tôi cóc quan tâm ông ấy ở đâu cả.” Một con mèo nhón chân đi dọc theo mé tường đá ban công, điệu bộ kiêu kỳ. “Xin phép cho tôi hỏi câu cuối…?” “Không hỏi han gì hết,” chị ta đáp, vẻ giận dữ. Một cái túi vung ra, Strike nhắm mắt, nghĩ con mèo có khi bị hất bay xuống đường mất. Nhưng nó chỉ rít lên rồi nhảy xuống. Chị ta nhanh chân bồi thêm một cú đá bực dọc vào con mèo. “Cái đồ chết tiệt!” chị ta nói. Con mèo lỉnh đi. “Làm ơn tránh ra. Tôi phải vào nhà.” Hắn lùi lại vài bước để Kathryn Kent bước tới. Chị ta cứ loay hoay tìm chìa khóa. Sau vài giây lúng túng vừa cố lục túi áo vừa cầm mớ túi xách đựng đồ, Kathryn buộc phải đặt đám túi xuống dưới chân. “Ông Quine đã mất tích ngay sau hôm cãi nhau với người đại diện về cuốn sách mới nhất,” Strike nói, Kathryn vẫn loay hoay lục lọi túi áo khoác. “Tôi không biết liệu…” “Tôi cóc quan tâm gì đến sách của ông ấy. Tôi chưa đọc gì cả,” chị ta thêm vào. Hai bàn tay run rẩy. “Thưa chị Kent…” “Không thưa thốt gì cả,” chị ta gạt phắt. “Chị Kent à, vợ của ông Quine có nói rằng có một phụ nữ đến tìm ông ấy. Qua mô tả, nghe như…” Kathryn Kent đã tìm ra chìa khóa, nhưng lại làm rơi ngay. Strike cúi xuống nhặt hộ, chị ta giật phắt từ tay hắn. “Tôi không biết anh đang nói chuyện gì cả.” “Tuần rồi chị không đến nhà tìm ông ấy sao?” “Tôi nói rồi, tôi không biết ông ấy ở đâu, không biết gì cả,” chị ta gằn giọng, bổ chìa vào lỗ khóa, xoay mở cửa. Kathryn cúi xuống nhặt hai túi đồ, một túi lại phát ra tiếng đồ đạc va vào nhau nặng nề. Strike để ý thấy cái túi in tên một cửa hiệu bán đồ phụ tùng gần đó. “Trông nặng quá.” “Bóng phao toilet bị hỏng,” Kathryn gằn giọng. Rồi chị ta đóng sầm cửa, để hắn đứng ngoài. 10 VERDONE: Ta đến đây để đánh. CLEREMONT: Vâng, Ngài sẽ đánh, đánh đủ trận, nhưng hãy chờ giây lát… Francis Beaumont và Phillip Massinger The Little French Lawyer Sáng hôm đó Robin ra khỏi ga tàu điện, tay nắm chặt dù. Cô thấy trong người khó chịu, mồ hôi nhớp nháp. Sau nhiều ngày mưa tầm tã, những chuyến tàu điện sực mùi vải ướt, những vỉa hè trơn trượt và cửa sổ lấm tấm nước mưa, được ngày nắng ráo khiến cô bất ngờ. Gặp người khác hẳn đã thấy nhẹ nhõm khi thoát cảnh mưa dầm và mây xám nặng nề, nhưng Robin thì không vậy. Hôm qua cô và Matthew vừa cãi nhau. Robin nhẹ cả người khi mở cánh cửa gương có khắc tên Strike và thấy ông sếp đang nghe điện thoại trong văn phòng riêng, cửa đóng. Tự dưng cô muốn bình tĩnh lại trước khi gặp Strike, vì hắn ta chính là chủ đề của trận cãi vã đêm qua. “Em mời thằng chả đi đám cưới sao?” Matthew giận dữ hỏi. Cô cứ sợ rằng khi đi uống bia Strike sẽ nhắc đến vụ thiệp cưới, nếu không báo cho Matthew trước thì kiểu gì anh ấy cũng sẽ mặt nặng mày nhẹ với ông sếp. “Từ khi nào mình mời người khác mà không hỏi ý nhau?” Matthew vặn tiếp. “Em tính hỏi anh mà. Em tưởng em hỏi rồi.” Rồi Robin thấy giận chính mình: cô chưa bao giờ nói dối với Matthew cả. “Ổng là sếp em mà, nên phải mời chứ!” Sai hoàn toàn; cô thừa biết có mời hay không Strike cũng chẳng bận tâm. “Thì em quý ổng được chưa,” cuối cùng cô nói, ít ra cũng là nói thật. Cô muốn kéo công việc mình yêu thích gần lại với cuộc sống riêng; cô muốn cả hai vui vẻ hòa thuận với nhau, muốn thấy Strike ngồi ở hàng ghế nhà thờ, gật đầu chấp thuận đám cưới (chấp thuận? mà mắc gì cha đó phải chấp thuận? - Robin thấy mình thật mâu thuẫn). Cô đã biết kiểu gì Matthew cũng sẽ không vui, nhưng cô từng hi vọng rằng đến giờ này hai người đàn ông đã gặp nhau, đã làm thân. Chuyện hai người vẫn chưa gặp đâu phải lỗi lại cô. “Sau vụ anh muốn mời Sarah Shadlock,” Matthew đía thêm. Robin thấy như anh ta vừa ra một đòn tiểu nhân. “Vậy thì anh mời đi!” cô giận dữ đáp. “Nhưng hai chuyện hoàn toàn khác nhau - Cormoran chưa bao giờ dụ dỗ em lên giường cả, mà anh cười vậy là ý gì?” Trận cãi vã lên đến hồi cao điểm thì ba của Matthew gọi điện, báo tin là cơn khó ở tuần trước của mẹ anh ấy vừa được chẩn đoán là một cơn đột quỵ nhẹ. Sau đó hai người thấy cứ cãi nhau về Strike thì thật chẳng ra gì, vậy là cả hai đi ngủ, giả vờ đã làm hòa nhưng Robin biết rõ là không ai chịu ai, vẫn còn giận sôi người. Gần đến trưa Strike mới đi ra văn phòng ngoài. Hôm nay hắn không mặc complet mà mặc một chiếc áo len dơ bẩn, thủng lỗ với quần jeans và giày thể’ thao. Mặt hắn lún phún đúng kiểu chưa cạo râu một ngày. Robin tạm quên nỗi niềm riêng, nhìn hắn chằm chằm. Từ trước đến giờ, ngay cả những ngày hắn ăn ở tạm bợ trong văn phòng, chưa bao giờ trông Strike nhếch nhác đến vậy. “Sáng giờ gọi điện làm hồ sơ vụ Ingles, với lấy số liệu vụ Longman,” Strike kể với Robin, đưa cho cô mấy tập hồ sơ bằng bìa màu nâu kiểu cũ, mỗi tập đều có số series viết tay dọc theo gáy - cách hắn vẫn quen làm từ hồi còn ở SIB. “Anh… cố ý cải trang hả?” cô hỏi, nhìn chằm chằm vào vết gì như dầu nhớt trên đầu gối quần jeans của hắn. “Ờ. Vụ Gunfrey. Chuyện dài lắm.” Khi Strike đi pha trà, hai người nói chuyện thêm về những ca đang làm. Strike cập nhật thông tin cho Robin, chỉ ra những việc cần làm tiếp. “Còn Owen Quine sao rồi?” Robin hỏi, đón tách trà từ tay hắn. “Bà đại diện tác giả nói gì?” Strike thả người xuống ghế sofa, chiếc ghế lại phát ra tiếng đánh rắm như mỗi khi hắn đặt bàn tọa xuống. Hắn kể lại cuộc phỏng vấn Elizabeth Tassel và chuyến viếng thăm Kathryn Kent. “Tôi thề, khi mới thấy tôi chị ta cứ tưởng tôi là Quine.” Robin bật cười. “Anh đâu có đến nỗi ú vậy.” “Cảm ơn, cô quá khen,” hắn đáp, tỉnh khô. “Khi chị ta nhận ra tôi không phải là Quine, nhưng vẫn chưa biết tôi là ai thì nói ngay, ‘Tôi không làm công việc đó' Nghe vậy cô có hiểu gì không?” “Không… nhưng,” cô rụt rè nói thêm, “hôm qua tôi có tìm hiểu được chút ít về Kathryn Kent.” “Sao kia?” Strike hỏi, ngạc nhiên. “Anh có nói chị ta là dân tự xuất bản,” Robin nhắc hắn, “vậy là tôi tìm trên mạng, xem có gì không,” rồi Robin nhấp chuột hai nhát, mở ra một trang web, “chị ta có blog.” “Hay đó!” Strike nói, khấp khởi rời chiếc ghế sofa đến chỗ bàn Robin. Trang web trông có vẻ nghiệp dư có tựa đề Văn nghiệp đời tôi, có hình bút nghiêng trang trí, thêm một tấm ảnh Kathryn khá bắt mắt mà Strike đoán hẳn đã chụp mười năm trước. Blog đăng nhiều bài, sắp theo thứ tự như nhật ký. “Chủ yếu là chê bai các nhà xuất bản truyền thống không biết đâu là sách hay, ngay cả khi dâng tới tận miệng,” Robin nói, chậm rãi kéo chuột xuống để Strike xem hết trang web. “Chị ta viết được ba tiểu thuyết, gọi là bộ tác phẩm kỳ ảo khiêu dâm Melina Saga. Có thể tải về trên Kindle” “Tôi ớn lắm rồi, không đọc nữa đâu; vẫn còn phê cái cuốn Anh em nhà Bao-Rách lắm,” Strike đáp, “Có nhắc gì tới Quine không?” “Nhiều lắm,” Robin đáp, “nếu quả ông ấy chính là Nhà Văn Nổi Tiếng như chị ta gọi. Viết tắt là NVNT” “Tôi nghĩ chắc chị ta không ngủ với hai nhà văn cùng một lúc đâu,” Strike đáp. “Nên hẳn là Quine rồi. ‘Nổi tiếng’ thì nghe hơi quá. Cô có biết gì về Quine trước khi Leonora xuất hiện không?” “Không,” Robin thừa nhận. “Chỗ này có ổng nè, ngày hai tháng mười một”. Một cuộc nói chuyện rất hay với NVNT về Cốt truyện và Chuỗi sự kiện, đương nhiên không phải là một thứ. Dành cho những ai còn băn khoăn: Cốt truyện là việc diễn ra, Chuỗi sự kiện là những gì người viết kể lại cho người đọc, và lối kể như thế nào. Một ví dụ từ Tiểu thuyết thứ hai của mình “Sự dâng hiến của Melina” Khi hai người cùng đi về phía khu rừng Harderell, Lendor rướn thân hình đẹp đẽ lên để xem thử họ tới gần chưa. Thân hình sân chắc của anh, được trau chuốt với môn cưỡi ngựa và bắn cung… “Cho qua đi,” Strike nói, “xem thử chị ta viết gì về Quine.” Robin làm theo, dừng lại ở bài đăng ngày 21 tháng Mười. Vậy là NVNT gọi cho mình rồi nói là anh ấy không thể gặp mình (lại một lần nữa.) Chuyện nhà. Mình có thể làm gì đây trừ việc nói là mình hiểu. Mình đã biết mọi việc sẽ phức tạp khi tụi mình yêu nhau. Mình không thể nói thẳng ra nhưng đại để là anh ấy đang bị kẹt với một người vợ mà anh ấy không yêu, chỉ vì một Bên Thứ Ba. Không phải lỗi của anh ấy. Không phải lỗi của Bên Thứ Ba. Người vợ không để anh ấy ra đi, ngay cả khi đó là điều tốt nhất cho hết thảy mọi người, vậy là cả ba bị kẹt vào tình huống mà đôi khi mình thấy như một thứ Luyện Ngục. Người Vợ biết chuyện mình nhưng cứ dã vờ không biết. Mình không hiểu tại sao bà ấy có thể trịu được chuyện sống trung với một người ông đã đem lòng yêu người khác vì mình biết mình không thể làm vậy được. NVNT nói rằng bà ấy luôn để Bên Thứ Ba lên trên mọi thứ, kể cả Anh ấy. Thật lạ lùng, nhiều người có trách nhiệm chăm sóc kẻ yếu mà lại dùng đó như tấm bình phong che đi tính ích kỷ sâu sa. Sẽ có người nói rằng lỗi lại mình, vì mình yêu một người Đàn ông đã có vợ. Nhưng có phải mình chưa nghe điều đó từ bạn bè, chị gái mình và cả Mẹ mình đâu, lúc nào họ cũng nói vậy. Mình đã cố quên rồi nhưng biết nói gì đây, trừ chuyện Trái Tim có lý lẽ riêng của nó, mà Lý trí không thể hiểu được. Và đêm nay mình lại khóc vì anh ấy, khóc thêm một lần nữa, vì một Lý do hoàn toàn khác. Anh ấy nói là anh ấy viết đã gần xong Kiệt tác của đời anh, cuốn sách Hay nhất anh từng viết. “Anh hi vọng em cũng sẽ thích nó. Em có ở trong sách đấy.” Nói gì đây khi một Nhà văn Nổi tiếng đưa mình vào tác phẩm hay nhất của anh ấy? Mình hiểu anh, theo cách chỉ có dân Viết văn mới hiểu được. Anh ấy khiến mình thấy vừa tự hào vừa nhỏ bé. Đương nhiên dân viết lách như bọn mình vẫn mở lòng đưa người khác vào trong tim, nhưng đưa vào Sách? Thật là đặc biệt. Thật là khác thường. Mình không thể không yêu NVNT. Trái tim có Lý Lẽ riêng của nó. Bên dưới là các bình luận qua lại. Biết sao không? Ông ấy đã đọc vài đoạn cho em nghe đó. Pippa2011 Em đùa à Pip ông ấy không chịu đọc gì cho chị cả! Kath Chị chờ xem. Pippa2011 xxxx “Hay đó,” Strike nói, “Rất hay là đằng khác. Tối hôm qua lúc tẩn tôi Kathryn Kent có nói là Pippa muốn giết tôi.” “Anh đọc chỗ này nè!” Robin phấn khích nói, kéo xuống bài viết ngày 9 tháng mười một. Lần đầu tiên mình gặp NVNT anh ấy nói với mình rằng: “Ta chỉ viết ra văn chương đúng nghĩa nếu có người phải đổ máu, có lẽ là chính ta.” Bạn đọc Blog này có lẽ biết rằng về nghĩa bóng, mình đã rạch mạch máu của chính mình trong blog và cả trong sách. Nhưng ngày hôm nay mình cảm thấy như vừa bị đâm một nhát Chí mạng bởi một người mà mình tin tưởng. “Ôi Macheath! Ngươi đã cướp đi của ta sự Bình lặng - chỉ khi thấy ngươi đau đớn ta mới Thỏa lòng.” “Câu đó ở đâu ra vậy?” Strike hỏi. Mấy ngón tay Robin lia lịa lướt trên phím. “Vở Ca kịch của người hành khất, của John Gray” “Cao siêu vậy, nhất là khi còn viết sai chính tả loạn xị và viết hoa ngẫu hứng.” “Thì có phải ai cũng là thiên tài văn chương đâu,” Robin có ý trách móc. “Ơn Chúa, may mà mới chỉ có chừng đó thiên tài.” “Nhưng anh nhìn bình luận ngay dưới kìa,” Robin nói, trở lại blog của Kathryn. Cô nhấp chuột lên đường liên kết, một câu bình luận đơn độc hiện ra. “Em sẽ giúp chị quay xiên nướng sống lão già khốn nạn chó đẻ *&%, Kath à.” Bình luận này cũng của Pippa2011. “Pippa nghe ghê gớm quá nhỉ?” Strike nhận xét. “Có thông tin gì về nghề nghiệp của Kathryn trong này không? Tôi đoán chị ta không sống bằng mấy cuốn kỳ ảo khiêu dâm đó.” “Vụ đó cũng hơi kỳ. Anh coi nè.” Ngày 28 tháng Mười, Kathryn viết: Như phần lớn các Nhà văn mình cũng có một công việc hàng ngày. Mình không thể tiết lộ quá nhiều vì lý do ang ninh. Tuần này ang ninh được thắt chặt ở Cơ sở của tụi mình. Vậy là Đồng nghiệp nhiều chuyện của mình (một người hồi xuân mộ đạo, lúc nào cũng ưa phán xét đời tư của mình) lại có cớ đề nghị với ban giám đốc phải rà soát lại tất cả blog, v.v… để tránh việc thông tin nhạy cảm bị tiết lộ. May mắng thay, cuối cùng người ta cũng tỉnh táo nên chưa ai đụng gì mình cả. “Khó hiểu thật,” Strike nói. “An ninh thắt chặt… nhà tù nữ? Bệnh viện tâm thần? Hay bí mật công nghệ?” “Anh xem tiếp nè, ngày mười ba tháng mười một.” Robin kéo chuột xuống bài gần nhất trên blog, là bài duy nhất sau khi Kathryn kể chuyện bị đâm một nhát chí mạng. Người chị thân yêu của mình đã gục ngã trước căn bệnh ung thư vú cách đây ba ngày. Cảm ơn mọi người gởi lời thăm và động viên. Bên dưới có hai bình luận, Robin nhấp chuột mở ra. Pippa2011 đã viết: Vô cùng thương tiếc khi nghe tin, Kath à. Gởi chị hết thảy tình yêu trên thế gian xxx Kathryn đáp lại: Cảm ơn Pippa em là một người bạn thực sựxxxx Lời cảm ơn ứng trước của Kathryn nằm trơ trọi ngay trên cuộc trò chuyện ngắn ngủi đó, thay vì nhiều lời chia buồn như dự kiến. “Tại sao vậy ta?” Strike hỏi, thở dài. “Tại sao chuyện gì kia?” Robin nói, ngước nhìn hắn. “Tại sao người ta làm chuyện này?” “Ý anh là viết blog hả? Tôi không biết… chẳng phải có ai đó từng nói đời sống không được chiêm nghiệm thì không đáng sống đó sao.” “Đúng rồi, câu đó của Plato,” Strike nói, “nhưng ở đây đâu phải là chiêm nghiệm gì, mà là trưng hết ra cho thiên hạ coi.” “Trời đất!” Robin nói, đánh đổ trà xuống áo khi chợt nhớ ra. “Tôi quên mất, còn có một chuyện nữa! Christian Fisher gọi, ngay khi tôi vừa chuẩn bị đi về tối hôm qua. Anh ta hỏi là anh có muốn viết sách không.” “Anh ta hỏi gì kia?” “Viết sách,” Robin nói, cố không bật cười trước vẻ kinh tởm trên gương mặt Strike. “Tự truyện. Trải nghiệm trong quân đội và phá vụ Lula Landry…” “Cô gọi lại đi,” Strike nói, “rồi nói là không, tôi không muốn viết sách siếc gì cả.” Hắn nốc cạn tách trà, bước tới chỗ móc treo áo khoác. Một chiếc áo da cũ kỹ đã xuất hiện ngay cạnh chiếc áo khoác đen của hắn. “Anh chưa quên vụ tối nay chứ?” Robin hỏi, thấy gan ruột lại muốn xoắn cả lên. “Tối nay?” “Uống bia,” cô bối rối. “Tôi. Matthew. Quán King’s Arms.” “Tôi chưa quên,” hắn nói, tự hỏi tại sao trông Robin có vẻ căng thẳng và đau khổ vậy. “Chiều này chắc tôi ở ngoài suốt nên tôi sẽ gặp cô ở đó luôn. Tám giờ, đúng không?” “Sáu rưỡi,” Robin đáp, còn căng thẳng hơn. “Sáu rưỡi. Được rồi. Tôi sẽ đến… bái bai Venetia.” Robin giật mình, liếc mắt sững sờ. “Anh làm sao mà biết…?” “In trên thiệp mời,” Strike đáp. “Tên lót lạ thật. Ở đâu ra vậy?” “Là vì, ừm… vì tôi được thụ thai ở đó,” cô nói, mặt ửng hồng. “Ở Venice. Còn tên lót của anh là gì?” cô hỏi, vừa tức cười vừa bực mình. Hắn vẫn còn cười khì. “C.B.Strike, chữ B là gì?” “Tôi đi đây,” Strike đáp. “Hẹn gặp lúc tám giờ.” “Sáu rưỡi!” cô hét lên khi cánh cửa vừa đóng lại. Chiều hôm đó Strike có hẹn ở một cửa tiệm bán đồ điện tử trong khu Crouch End. Phòng sau cửa tiệm cũng là nơi mở khóa các thể loại điện thoại di động và máy tính vừa chôm chỉa. Thông tin cá nhân sau đó được tải hết ra, rồi thiết bị và thông tin sẽ được bán riêng rẽ cho người có nhu cầu. Ông chủ cửa tiệm ăn nên làm ra đó đang khiến Gunfrey, thân chủ của Strike, ăn không ngon ngủ không yên. Gunfrey cũng chẳng ngay thẳng gì hơn tay đầu sỏ hàng luộc này nhưng hoạt động ở phạm vi rộng hơn, hoành tráng hơn. Không may Gunfrey vừa rồi lỡ chân đạp trúng ổ kiến lửa. Strike cho rằng Gunfrey nên tìm đường rút ngay khi còn kịp. Hắn biết tay chủ tiệm này không hề đơn giản; cả hai có người quen chung. Đối tượng đón Strike trong văn phòng trên gác, bốc mùi không kém văn phòng của Elizabeth Tassel. Bên ngoài là hai đứa choai choai mặc đồ thể dục lảng vảng, cắn móng tay ngáp ruồi. Strike đang đóng vai một tay đâm thuê chém mướn, do người quen giới thiệu đến. Hắn lắng nghe khách-hàng-tiềm-năng thổ lộ kế hoạch tấn công thằng con trai mới lớn của Gunfrey. Tay chủ tiệm nắm rõ đường đi nước bước của Gunfrey thiếu gia đến kinh ngạc, giờ đây muốn ngỏ ý mời hắn làm việc: năm trăm bảng, cho thằng nhỏ một nhát. (“Nhưng tao không muốn có án mạng gì sất, chỉ cần dằn mặt ông già nó, mày hiểu không?”) Hơn sáu giờ Strike mới rút khỏi hiện trường. Sau khi biết chắc là không có ai bám đuôi hắn rút điện thoại gọi ngay cho Gunfrey. Trên điện thoại, đại gia sững sờ im lặng, cuối cùng cũng hiểu ra mình đang đùa với lửa. Rồi hắn gọi cho Robin. “Chắc tôi tới trễ mất, xin lỗi cô,” hắn nói. “Anh ở đâu rồi?” cô hỏi, giọng căng thẳng. Hắn nghe được tiếng quán xá xôn xao, tiếng người cười nói. “Crouch End.” “Trời đất,” cô thì thào. “Vậy thì phải lâu lắc…” “Tôi sẽ đi taxi,” hắn hứa hẹn. “sẽ nhanh thôi.” Ngồi trong taxi chạy dọc theo phố Upper, Strike tự hỏi cơn cớ gì mà Matthew lại chọn quán bia ở Waterloo? Để chắc rằng Strike phải mất công đi tới? Để trả đũa vụ Strike cứ chọn những quán tiện đường với hắn ở mấy lần hẹn không thành vừa rồi? Strike mong là quán King’s Arms có bán đồ ăn. Tự dưng hắn thấy đói quá thể. Mất bốn mươi phút hắn mới tới được điểm hẹn, một phần vì xe không thể vào đến trước dãy nhà cho công nhân từ thế kỷ mười chín nơi quán bia tọa lạc. Strike xuống xe, chấm dứt màn chạy lui tới tìm cho đúng số của ông tài xế cộc cằn. Nhà ở khu đó đánh số loạn xạ cả lên, chẳng có logic gì cả. Strike đi bộ tới quán, tự nghĩ có khi nào Matthew chọn quán này vì nó khó tìm hay không. Quán King’s Arms là một tửu quán xinh đẹp nằm ở góc đường, kiểu quán thời Victoria. Ở lối vào dân đi làm còn trẻ đóng bộ complet đứng chen chúc với sinh viên, vừa uống vừa hút thuốc. Đám đông nhỏ nhanh chóng tẽ ra nhường đường khi hắn bước vào, thậm chí chừa chỗ rộng hơn mức cần thiết cho một người cao to cỡ hắn. Hắn đi qua cửa vào quầy bar, vừa nghĩ (cũng có phần khấp khởi hi vọng) rằng biết đâu người ta sẽ bắt hắn đi về vì tội ăn mặc gớm ghiếc. Trong lúc đó ở phòng sau nhộn nhịp, nơi có giếng trời với trần bằng kính và những món trang trí lỉnh kỉnh, Matthew cúi nhìn đồng hồ. “Gần bảy giờ mười lăm rồi,” anh ta nói với Robin. Matthew mặc đồ complet thắt cà vạt gọn gàng tinh tươm. Như thường lệ, anh là người đẹp trai nhất phòng. Robin quá quen với việc các bà các cô trố mắt lên mỗi khi Matthew đi ngang qua. Đến giờ cô vẫn không chắc là Matthew có nhận ra những ánh nhìn thiêu đốt mà lấm lét đó hay không. Hai người buộc phải ngồi ở ghế băng gỗ dài, chung với một đám sinh viên đang nói cười hô hố. Matthew cao một mét tám mươi lăm, cằm chẻ, mắt xanh ngời ngời, đúng kiểu con nhà danh giá thuần chủng. “Ổng tới kìa,” Robin nói, thở phào nhưng vẫn hồi hộp. Strike trông còn to con và bặm trợn hơn lúc hắn rời văn phòng. Hắn dễ dàng vượt qua đám đông tới chỗ hai người. Mắt hắn dán vào mái tóc vàng rực của Robin, bàn tay thô tháp cầm sẵn một vại bia Hophead. Matthew đứng dậy. Trông như anh ta vừa gồng mình. “A Cormoran, cuối cùng anh cũng tìm ra quán.” “Anh là Matthew hả,” Strike đáp, đưa tay ra. “Xin lỗi tôi tới trễ. Lúc nãy tôi cũng cố ra sớm nhưng mà mắc ngồi với một tay hơi ghê gớm. Phải đợi hắn cho phép thì mới dám đứng dậy.” Matthew quay lưng lại, cười nhạt. Anh đã đoán Strike kiểu gì cũng sẽ ăn nói như vậy: làm bộ làm tịch, ra vẻ ta đây bí hiểm lắm. Nhưng coi bộ dạng thì như mới đi thay lốp xe về. “Anh ngồi đi,” Robin căng thẳng mời Strike, lúng túng ngồi xích về một bên, sém nữa thì ngã ra khỏi băng ghế. “Anh đói bụng không? Tụi tôi vừa định gọi đồ ăn.” “Đồ ăn ở đây cũng tạm,” Matthew nói. “Đồ Thái. Không bằng nhà hàng Mango Tree nhưng cũng được.” Strike cười lạnh. Hắn đã đoán Matthew kiểu gì cũng ăn nói như vậy: lâu lâu đưa ra vài cái tên nhà hàng ở khu Belgravia để chứng tỏ rằng, sau một năm ở London, ta đây cũng sành điệu lắm chứ chẳng vừa. “Vụ chiều nay sao rồi?” Robin hỏi Strike. Cô nghĩ nếu Matthew nghe được những chuyện Strike làm, anh ấy sẽ thấy thích thú với công việc điều tra, sẽ bớt thành kiến đi. Strike mô tả ngắn gọn lại buổi chiều hôm đó, bỏ qua tên tuổi những người liên quan. Matthew ngồi nghe, dửng dưng, gần như không thèm giả vờ quan tâm. Strike đề nghị mua bia cho hai người, khi đó cả hai chỉ còn ly rỗng. “Anh làm bộ quan tâm một chút không được sao,” Robin lườm Matthew khi Strike đi đến quầy bar, vừa khỏi tầm nghe. “Robin, thằng chả đi gặp một ông nào đó trong một cửa tiệm,” Matthew đáp. “Anh không nghĩ là sắp có đấu giá bản quyền phim đâu.” Thích thú với sự dí dỏm của chính mình, anh chàng quay sang nhìn thực đơn trên bảng đen đối diện. Khi Strike mang bia trở lại, Robin nằng nặc đòi đi gọi thức ăn ở quầy bar. Cô không hề muốn để hai người đó ngồi lại với nhau, nhưng nghĩ biết đâu làm vậy hai người sẽ tự bắt chuyện. Chút tự đắc của Matthew tan biến nhanh chóng khi Robin vừa đi khỏi. “Anh là lính cựu,” Matthew buột miệng với Strike, mặc dù đã có ý không để tay thám tử lấn át câu chuyện hôm đó. “Đúng vậy,” Strike đáp, “SIB” Matthew không chắc SIB là gì. “Ông già tôi là cựu RAF,” anh đáp. “Ờ, cùng thời với Jeff Young đó.” “Ai kia?” “Cầu thủ rugby xứ Wales. Hai mươi ba lần đội trưởng đó?” Matthew nói. “À vậy hả,” Strike đáp. “Ừ. Ông già làm tới Phi đoàn trưởng. Năm tám sáu thì giải ngũ, rồi làm địa ốc từ đó tới giờ. Cũng được. Sao bằng ông già anh,” Matthew nói, hơi bị thủ thế, “nhưng cũng tạm.” Thằng chó, Strike nghĩ thầm. “Hai anh nói chuyện gì vậy?” Robin nôn nao hỏi, ngồi lại chỗ cũ. “Chuyện của ba thôi.” Matthew đáp. “Tội nghiệp bác ấy,” Robin nói. “Sao mà tội?” Matthew gằn giọng. “Thì… bác ấy lo lắng chuyện bác gái, không phải vậy sao? Cơn đột quỵ nhẹ vừa rồi đó?” “Ờ,” Matthew nói, “vụ đó hả.” Strike từng gặp nhiều người giống Matthew trong quân đội: thường là sĩ quan, bề ngoài thì bảnh tỏng nhưng bên trong yếm thế, nên lúc nào cũng phải cố bù trừ, đôi khi làm quá. “Chỗ Lowther-French đó sao rồi?” Robin quay sang hỏi Matthew, cố để cho Strike thấy Matthew là người tử tế ra sao, để hắn thấy được con người thật của anh, con người mà cô yêu. “Matthew đang làm kiểm toán cho một nhà xuất bản nhỏ hơi bị lạ lùng. Chỗ đó ngộ thật, anh hả?” cô quay sang chồng chưa cưới. “Ngộ gì, nguyên một mớ bòng bong,” Matthew nói, rồi cứ nói cho đến khi thức ăn dọn ra. Câu chuyện của Matthew lâu lâu lại có “chín chục ngàn bảng,” “phần tư triệu”, mỗi câu như soạn sẵn để cho thấy Matthew tuyệt ra làm sao: thông minh, nhanh trí, vượt xa những đồng nghiệp cấp cao hơn nhưng lại chậm chạp, ù lì, rồi cả chuyện Matthew ra tay chỉ dạy những tay đần độn làm cho công ty mà anh ta đang phải kiểm toán. “… cố mà giải trình vụ tổ chức tiệc Giáng Sinh, sau hai năm chỉ mém huề vốn; tiệc tùng gì, có mà tiệc đám ma.” Tiếp theo bài chỉ trích của Matthew là thức ăn và sự im lặng. Robin cứ tưởng Matthew sẽ kể lại cho Strike nghe những thứ hay ho, có phần ấm áp mà anh đã kể cho cô nghe, những nét lập dị thú vị ở nhà xuất bản nhỏ đó. Giờ đây cô chẳng biết nói gì. Tuy nhiên, câu chuyện về nhà xuất bản nhỏ mà Matthew vừa kể làm Strike nảy ra một ý tưởng. Hắn nhai chậm lại. Hắn chợt nghĩ ra một hướng tìm thông tin vụ Owen Quine. Trí nhớ mênh mông của hắn vừa đưa đến một mẩu thông tin mà hắn từng biết. “Anh có bạn gái không, Cormoran?” Matthew hỏi thẳng Strike; anh chàng rất nôn nóng tìm hiểu vụ này. Robin trước giờ tỏ ra khá mơ hồ. “Không,” Strike lơ đễnh đáp. “Vô phép anh… tôi đi ra một lát, phải gọi điện gấp.” “Ừ, không sao,” Matthew bực dọc đáp, nhưng chỉ khi Strike vừa ra khỏi tầm nghe thì nói thêm. “Tới trễ bốn mươi phút rồi lỉnh ra giữa lúc đang ăn tối. Thôi thì tụi tôi cứ ngồi đây mà đợi ông lớn hạ cố quay lại.” “Matt!” Ra đến vỉa hè tối om, Strike rút bao thuốc lá và điện thoại di động. Hắn châm thuốc, bước xa khỏi đám người đang đứng túm tụm hút thuốc, đến góc đường yên tĩnh hơn. Hắn đứng trong bóng tối, bên dưới cổng vòm bằng gạch đỡ đường tàu ở trên. Chuông đổ đến lần thứ ba thì Culpepper nhấc máy. “Strike,” anh chàng nói. “Ông sao rồi?” “Ổn. Gọi điện nhờ ông chút chuyện.” “Nói đi,” Culpepper đáp, không hứa hẹn gì. “Ông có em họ tên là Nina, làm cho nhà xuất bản Roper Chard…” “Làm quái gì mà ông biết?” “Ông kể’ với tôi,” Strike kiên nhẫn đáp. “Khi nào?” “Vài tháng trước, lúc tôi làm vụ tay nha sĩ cà chớn cho ông đó.” “Nhớ dai bỏ mẹ,” Culpepper đáp, giọng kinh hãi hơn là ấn tượng. “Đúng là không bình thường. Nhỏ đó thì sao?” “Nhờ ông sắp cho tôi gặp cô ấy, được không?” Strike hỏi. “Tối mai bên Roper Chard có tiệc, tôi cũng muốn dự.” “Chi vậy?” “Đang làm một vụ,” Strike né tránh. Hắn không bao giờ hé ra chi tiết những vụ ly dị và tranh chấp làm ăn của giới ông nọ bà kia, mặc cho Culpepper liên tục nài nỉ. “Với lại, tôi vừa kính ông một quả ngon lành còn gì.” “Thôi được,” tay nhà báo miễn cưỡng đồng ý, sau một thoáng ngập ngừng. “Để tôi gọi.” “Cô đó có ai chưa?” Strike hỏi. “Gì hả? Còn đòi chè xôi nữa sao?” Culpepper nói. Strike nghe giọng anh ta có vẻ buồn cười hơn là bực tức khi nghĩ đến chuyện Strike tìm cách chài cô em họ. “Không, tôi chỉ muốn biết nếu cô ấy dẫn tôi tới tiệc thì có dễ bị nghi ngờ không.” “À, ra vậy. Hình như mới vừa chia tay chia chân gì đó. Tôi cũng không rõ. Để tôi nhắn tin số của nó cho ông. À, Chủ Nhật này nhớ xem báo,” Culpepper thêm vào, không giấu nổi sự đắc chí. “Ngài Parker chuẩn bị đón nguyên một trận sóng thần cực khắm.” “Cứ gọi Nina cho tôi trước, được không?” Strike hỏi. “Nhớ nói tôi là ai, để cô ấy hiểu đang làm gì.” Culpepper đồng ý rồi dập máy. Strike không hề nôn nóng quay lại với Matthew. Hắn đứng đó, hút hết điếu rồi mới quay vào trong. Vừa đi hắn vừa cúi đầu né tránh đám nồi niêu, các thể loại bảng chỉ dẫn treo chỉ để’ trang trí, vừa ngẫm ngợi. Căn phòng đông đúc đó cũng giống như Matthew: gồng mình quá sức. Nội thất trang trí căn phòng có cả một bếp lò kiểu xưa, một quầy tính tiền cũng loại đồ cổ, giỏ đựng hàng lỉnh kỉnh, tranh in rồi đĩa treo tường: một cuộc phô diễn các món đồ cổ tạp nham. Matthew cố ăn cho hết món mì trước khi Strike quay lại, để’ cho hắn thấy hắn vắng mặt lâu ra sao, nhưng không kịp. Robin mặt mày ủ dột còn Strike thì tự hỏi không biết giữa hai người có chuyện gì khi hắn ở ngoài kia. Hắn thấy Robin tồi tội. “Robin có kể là anh chơi rugby,” hắn lên tiếng, quyết tâm phải xởi lởi hơn. “đáng ra chơi ở đội tuyển tỉnh, phải vậy không?” Ba người nói dông dài nguyên một tiếng đồng hồ: câu chuyện trôi chảy hơn mỗi khi Matthew có dịp nói về chính mình. Strike để ý thấy Robin hay mớm lời cho Matthew, mỗi lần như vậy lại mở ra một chủ đề thế mạnh của Matthew. “Hai người quen được bao lâu rồi?” hắn hỏi. “Chín năm,” Matthew đáp; lại có vẻ thủ thế như trước. “Lâu vậy sao?” Strike hỏi lại, ngạc nhiên. “Vậy là, quen từ hồi học đại học hả?” “Không phải,” Robin đáp, mỉm cười. “Từ hồi trung học kia.” “Trường có lớn gì cho cam,” Matthew nói, “Robin là đứa con gái duy nhất vừa có đầu óc vừa nhìn được. Đâu có gì để lựa với chọn.” Thằng khốn, Strike nghĩ thầm. Ba người ra về, cùng đi đến ga Waterloo. Họ đi bộ trong bóng tối, tiếp tục cố gắng nói những câu xã giao, rồi chia tay ở ngay cửa ga. “Thấy chưa,” Robin nói, vớt vát khi cô và Matthew bước về hướng thang máy. “Ổng cũng tử tế đó chứ?” “Lề mề như gì,” Matthew đáp, không thể tìm ra điểm gì khác để tấn công Strike. “Có khi sẽ tới trễ bốn mươi phút, phá cả lễ cưới.” Nhưng như vậy cũng có nghĩa là Matthew đã đồng ý mời Strike, mặc dù chẳng có gì hào hứng. Robin nghĩ thầm thôi vậy cũng xong. Trong lúc đó, Matthew im lặng, ấm ức những chuyện không thể thổ lộ với ai. Robin đã mô tả chính xác ngoại hình của ông sếp - đầu tóc xoăn tít, tướng tá như dân đấm bốc, nhưng Matthew không ngờ Strike to xác đến vậy. Hắn cao hơn Matthew dễ chừng cũng đến nửa tấc, mà Matthew trước giờ luôn là người cao nhất ở sở làm. Còn nữa, chẳng thà Strike cứ ba hoa bốc phét về Afghanistan và Iraq, cả vụ bị mất chân, rồi khoe huy chương thì anh chàng đã tha hồ mà khinh ghét hắn. Đằng này Strike chẳng hé một lời, khiến Matthew càng bực bội. Chiến tích của Strike, cuộc đời sôi động bôn ba nguy hiểm của hắn cuối cùng lại lửng lơ vô hình ngay trên cuộc trò chuyện của hai người. Cạnh bên Matthew, Robin cũng ngồi im lặng. Đêm nay cô chẳng vui tí nào. Trước đây có bao giờ cô nghĩ Matthew là người như vậy đâu; hoặc ít ra cô chưa bao giờ thấy anh ấy như thế cả. Tên Strike đáng ghét, cô ngẫm ngợi khi tàu rầm rập chạy. Tự dưng Strike đã khiến cô nhìn Matthew bằng đôi mắt của hắn. Cô không biết hắn đã làm việc đó như thế nào - lúc hắn hỏi Matthew về rugby - người ngoài nhìn vào thì cứ tưởng là hắn đang lịch sự, nhưng Robin thì biết quá… hay cô chỉ đang bực mình vì hắn đi trễ, nên đã gán tội cho hắn, biết đâu hắn không hề cố ý? Cặp vợ chồng chưa cưới ra về. Cả hai cùng âm thầm tức tối tay thám tử giờ đây đang ngồi tàu trên tuyến Northern ngược chiều với họ, vừa gà gật vừa ngáy như sấm rền. 11 Xin nói để tôi hay Cơn cớ gì Thầy ruồng rẫy tôi. John Websiter The Duchess of Malfi “Cormoran Strike phải không?” một giọng nữ trung lưu lảnh lót vang lên trên điện thoại lúc chín giờ hai mươi sáng hôm sau. “Phải rồi,” Strike đáp. “Nina đây. Nina Lascelles. Dominic có đưa số của anh cho tôi.” “À vâng,” Strike đáp. Hắn ở trần, đang đứng cạo râu trước gương soi đặt ngay bên bồn rửa chén, vì nhà tắm vừa chật vừa tối. Lấy tay quẹt mớ bọt xà phòng cạo râu quanh miệng, hắn hỏi: “Nina này, Dominic có nói là vì sao không?” “Có nói. Vì anh cần nội gián ở tiệc kỷ niệm bên Roper Chard.” “‘Nội gián’ nghe hơi quá.” “Nói vậy mới hấp dẫn chứ.” “Được rồi,” hắn tủm tỉm đáp. “Vậy là cô nhận lời?” “Đương nhiên rồi, hay ho mà. Cho tôi đoán vì sao anh muốn tới đó do thám được không?” “Lại nữa, ‘do thám’ nghe thật…” “Đừng làm tôi mất hứng chứ. Cho tôi đoán nhé?” “Đoán đi,” Strike đáp, nhấp một ngụm trà, nhìn ra cửa sổ. Trời lại mù sương, chút nắng ít ỏi đã tan mất. “Bombyx Mori,” Nina đáp. “Đúng không? Tôi nói đúng phải không? Nói là tôi đúng đi nào.” “Cô nói đúng rồi,” Strike đáp, cô gái khẽ rú lên sung sướng. “Tôi còn không được nói gì về vụ đó. Cơ quan đang cấm vận, email gởi khắp, luật sư rầm rập ra vào văn phòng của Daniel. Vậy gặp nhau ở đâu? Mình nên gặp nhau ở đâu đó trước rồi đi cùng, anh thấy sao?” “Phải rồi,” Strike hỏi. “Cô muốn gặp ở đâu?” Ngay cả khi với tay lấy cây viết từ chiếc áo khoác treo đằng sau cửa, Strike vẫn mơ màng nghĩ đến một buổi tối ở nhà, ngủ một giấc say sưa, một chút yên tĩnh nghỉ ngơi trước khi phải dậy sớm vào sáng thứ Bảy để bám đuôi ông chồng bội bạc của nữ thân chủ tóc nâu. “Anh biết quán Ye Olde Cheshire Cheese không?” Nina hỏi. “Trên phố Fleet đó? Người bên nhà xuất bản không ai ra đó cả. Từ đó đi bộ về văn phòng được. Chỗ đó sến, nhưng mà tôi thích.” Hai người đồng ý gặp nhau lúc bảy giờ ba mươi. Strike tiếp tục cạo râu, vừa tự hỏi liệu hắn có gặp được ai có thông tin gì về Quine ở bữa tiệc đó chăng. Vấn đề ở chỗ, hắn vừa tự rủa mình trong tấm gương soi hình tròn, vừa nhanh tay cạo sạch chỗ cằm lún phún, mày cứ tưởng mày vẫn còn ở SIB. Nhà nước đâu có trả tiền cho mày để mày làm ra ngô ra khoai nữa đâu, Strike à. Nhưng hắn không biết đến cách làm việc nào khác. Với Strike, đó còn là nguyên tắc cá nhân bất di bất dịch: đã làm gì phải làm tới nơi tới chốn. Strike đã định cả ngày nay sẽ chỉ ở văn phòng. Nếu chỉ như những ngày khác thì chẳng có gì để nói. Hắn và Robin cùng nhau xử lý giấy tờ; cô thông minh, lanh lẹ, lại yêu thích công việc điều tra, vẫn như ngày đầu cô đến làm. Nhưng hôm nay hắn đi xuống cầu thang mà lưỡng lự quá thể. Chưa gì mà khi nghe cô chào, hắn đã sợ cô đột ngột hỏi: “Anh thấy Matthew ra sao?” Strike đi thẳng vào văn phòng trong, đóng cửa lại, ra bộ như sắp phải gọi điện. Hắn tự nhủ cái thế khó chịu lúc này đây chính là lý do vì sao không nên gặp nhân viên duy nhất của mình ngoài giờ làm việc. Mấy tiếng sau cơn đói bụng khiến hắn phải trở ra văn phòng ngoài. Robin đã mua bánh mì kẹp như thường ngày, nhưng cô không gõ cửa để báo cho hắn. Chắc là cô vẫn chưa hết bối rối vụ gặp gỡ đêm qua. Hắn cứ lần lữa, mong rằng nếu không nhắc gì đến vụ đó thì Robin cũng sẽ không hỏi (mặc dù từ kinh nghiệm cá nhân với phụ nữ, hắn biết lần lữa vậy cũng chẳng ích gì). Strike nói (thật) với Robin là vừa bận gọi cho ông Gunfrey. “Ông ấy có định đi báo cảnh sát không?” Robin hỏi. “Ơ… không, Gunfrey không phải là loại ưa báo cảnh sát nếu có ai đó làm phiền. Ổng cũng đi đêm đâu thua gì tay muốn xử con ổng kia. Nhưng lần này thì ổng sợ thật rồi.” “Anh không nghĩ đến chuyện thu âm lại lời nói của tay anh chị đó rồi mang đến cảnh sát hay sao?” Robin hỏi mà không suy nghĩ. “Không được đâu Robin à. Tay đó sẽ biết ngay, còn làm ăn gì được nếu suốt ngày cứ phải lo né sát thủ.” “Nhưng chẳng lẽ Gunfrey cứ phải giữ rịt ông con ở nhà sao!” “Không cần. Ổng sẽ bất ngờ đưa cả nhà đi chơi ở Mỹ, rồi từ LA gọi điện cho ông bạn ưa dao kéo, nói là đã nghĩ lại, sẽ không can dự gì đến việc làm ăn của nhau nữa. Làm vậy mới tránh gây nghi ngờ. Tay đó cũng làm đủ trò rồi, nên chắc sẽ im ắng một lúc. Gì thì cũng đã chọi gạch vô kính xe Gunfrey, còn gọi điện khủng bố bà Gunfrey nữa. “Nói vậy cũng có nghĩa là tuần tới tôi phải trở lại Crouch End, báo là không thấy thằng nhỏ, rồi trả lại khỉ đột nguyên con cho tay đó.” Strike thở dài. “Cũng hơi lo xa, nhưng tôi không muốn tụi nó tới đây tìm.” “Anh trả cái gì kia?” “Khỉ đột nguyên con - tức là năm trăm bảng đó Robin,” Strike đáp. “Chứ ở Yorkshire người ta gọi sao?” “Ít-quá-không-đủ-xử-con-nít,” Robin trả lời ngay, rồi thấy Strike đang mất cảnh giác, hỏi luôn: “Anh thấy Matthew sao?” “Người tử tế,” Strike nói dối trơn tuột. Hắn cố không nói gì thêm. Robin đâu có ngốc; hắn từng bị ấn tượng trước cách cô nhận biết lời nói dối, những dấu hiệu giả vờ. Tuy vậy, hắn không kìm được, ngay lập tức nói lảng sang chuyện khác. “Tôi đang nghĩ, có lẽ sang năm, sau khi mình bắt đầu có lãi và đã tăng lương cho cô, có khi nên thuê thêm một người nữa. Giờ tôi làm việc liên tục không nghỉ, nhưng không thể cứ làm như vậy mãi được. Gần đây cô phải từ chối bao nhiêu khách hàng rồi?” “Đôi ba người,” Robin trả lời, lạnh lùng. Qua thái độ của Robin, Strike đoán chừng mình đã tỏ ra thiếu nhiệt tình về Matthew, nhưng hắn cũng không muốn nói dối nữa. Hắn rút vào văn phòng, đóng cửa lại. Nhưng lần này Strike chỉ đúng có một nửa. Đúng là câu trả lời của hắn khiến Robin thấy hụt hẫng. Cô biết nếu Strike thực sự thích Matthew, hắn sẽ không nói dứt dạc là “người tử tế”. Hắn sẽ nói là: “Ờ, coi bộ cũng được đó,” hoặc “Đâu đến nỗi hả”. Nhưng ở đây thứ khiến cô bực mình, và cả thấy tổn thương chính là lời đề nghị thuê thêm người của hắn. Robin quay về máy tính soạn hóa đơn tuần đó cho nữ thân chủ tóc nâu đang ly hôn. Cô gõ phím rầm rập, mạnh hơn mức bình thường. Vậy mà, cô đã (sai lầm) nghĩ rằng mình không chỉ là thư ký. Cô đã giúp hắn có được bằng chứng kết tội kẻ sát hại Lula Landry; cô còn một mình thu thập một số bằng chứng của vụ đó, tự cô làm không cần hắn chỉ. Mấy tháng rồi cô đã nhiều lần làm việc vượt xa yêu cầu của một thư ký. Cô đi theo dõi đối tượng cùng hắn, đóng giả cặp đôi để giúp hắn đỡ lộ liễu hơn. Cô có công thuyết phục mấy tay giữ cửa, những nhân chứng cứng đầu không hề ưa gì bộ dạng dềnh dàng và vẻ mặt sưng sỉa của Strike. Đó là chưa kể tới chuyện cô liên tục đóng giả đủ loại phụ nữ trên điện thoại mà Strike với chất giọng ồm ồm thì còn lâu mới làm được. Robin đã nghĩ rằng Strike cũng nghĩ như cô: thỉnh thoảng hắn vẫn khen cô “rất có ích về nghiệp vụ” hay “cô nên đi học một khóa về chống theo dõi.” Cô đã nghĩ rằng một khi công việc của hắn ổn định (mà nếu được vậy thì rõ là có công rất lớn của Robin) thì cô sẽ được cử đi đào tạo bài bản. Nhưng giờ đây cô thấy đó chỉ là lời nói gió bay, là cú xoa đầu động viên cô nhân viên đánh máy. Vậy cô đang làm gì ở chỗ này? Tại sao cô lại từ bỏ công việc tốt hơn nhiều để ngồi đây? (Trong cơn giận dữ, Robin cố tình quên đi chuyện cô chẳng hề thích công việc nhân sự chút nào, mặc cho lương có cao bao nhiêu.) Có lẽ nhân viên mới sẽ lại là nữ, sẽ trở thành cộng sự cho Strike, còn Robin sẽ trở thành nhân viên lễ tân kiêm thư ký cho cả hai người, không bao giờ được ra khỏi bàn giấy. Đâu phải vì vậy mà cô chọn ở lại làm cho Strike, đánh đổi công việc lương cao và gây ra bao nhiêu căng thẳng với Matthew. Đúng y năm giờ chiều, Robin dừng tay gõ phím giữa một câu dang dở, mặc áo khoác rồi ra về, đóng cửa mạnh tay hơn mức cần thiết. Cú đóng cửa khiến Strike choàng tỉnh. Hắn đã ngủ gục trên bàn, đầu úp xuống cánh tay. Hắn nhìn đồng hồ, thấy đã năm giờ, tự hỏi không biết ai vừa vào văn phòng. Chỉ khi mở cửa ngăn, không thấy áo khoác và túi xách của Robin còn màn hình máy tính tắt ngóm, Strike mới nhận ra là cô đã ra về mà không thèm chào hỏi. “Trời, có vậy mà cũng…” hắn bực bội lầm bầm. Thường Robin không phải là người ưa dỗi - một trong nhiều nét tính cách nơi cô mà hắn thích. Chuyện hắn không thích Matthew thì đã làm sao? Hắn có phải là người sắp phải cưới anh ta đâu. Strike bực tức lầm bầm, rồi đóng cửa văn phòng, leo lên căn hộ áp mái, chuẩn bị ăn tối và thay áo trước khi đi gặp Nina Lascelles. 12 Nàng là người đáng cậy tin, ứng khẩu tài tình, trí tuệ tường minh. Ben Johson Epicoene, or The Silent Woman Chiều tối hôm đó, Strike đi xuyên qua khu Strand tối tăm lạnh lẽo về hướng phố Fleet. Hai tay hắn nắm chặt lại, đút trong túi. Hắn cố đi thật nhanh dù vẫn mệt và đau chân. Strike vừa nuối tiếc sự yên tĩnh và thoải mái trong căn hộ tuềnh toàng của mình, vừa không chắc tối nay liệu có kết quả gì chăng. Mặc dù vậy, trong giá lạnh hắn vẫn thấy ngơ ngẩn trước vẻ đẹp của thành phố cổ kính, nơi hắn từng gắn bó một quãng đời thơ ấu. Những dấu vết của khách du lịch đã bị cái lạnh đêm tháng mười một xóa sạch: mặt tiền từ thế kỷ mười bảy của tửu quán Old Bell - những mảnh kính cửa sổ sáng đèn toát lên vẻ quyền quý xa xưa; tượng con rồng đứng canh gác trên cột mốc Temple Bar đổ bóng nghiêm nghị và dữ dội trên nền trời thẫm đen đầy sao. Xa xa là mái vòm ẩn hiện trong sương của nhà thờ St. Paul, sáng như mặt trăng đang lên. Khi hắn tới gần điểm hẹn, bức tường gạch trên cao xuất hiện những cái tên gợi nhớ đến quá khứ giấy mực của phố Fleet – tờ People’s Friend, tờ Dundee Courier. Nhưng Culpepper và đồng nghiệp từ lâu đã phải rời phố Fleet - khu phố truyền thống của báo giới Anh quốc, để dọn đến Wapping hay Canary Wharf. Phố Fleet ngày nay là nơi ngự trị của luật pháp. Tòa án Hoàng gia sừng sững trước mặt tay thám tử như một ngôi đền tổ nghiệp. Trong tâm trạng có phần đa cảm hiếm gặp đó, Strike tiến đến cây đèn vàng phía bên kia đường, ngay trước lối vào quán Ye Olde Cheshire Cheese. Hắn men theo lối nhỏ vào quán, khựng người lại vừa kịp tránh rầm cửa. Lối đi vào quán khá chật hẹp, tường ốp vách gỗ, hai bên treo những bức tranh sơn dầu cũ xưa, mở ra sảnh trước cũng nhỏ xíu. Strike lại phải cúi người, né tấm biển giả bằng gỗ ghi dòng chữ “Bar chỉ dành cho quý ông”. Vừa vào đến nơi, hắn thấy một cô gái trắng trẻo, nhỏ nhắn, gương mặt bật lên đôi mắt nâu to đang đưa tay vẫy tới tấp. Cô mặc áo khoác đen, ngồi co ro bên lò sưởi, hai bàn tay trắng nhỏ ôm cái ly đã uống cạn. “Nina phải không?” “Tôi biết ngay là anh mà, Dominic mô tả anh tới tận chân tơ kẽ tóc.” “Cô uống gì để tôi mời?” Nina muốn uống vang trắng. Strike gọi cho mình một vại bia Sam Smith rồi ngồi xuống bên băng ghế gỗ cứng cạnh Nina. Căn phòng đầy giọng London. Như đọc được ý hắn, Nina lên tiếng: “Thực ra chỗ này vẫn là quán bình thường. Chỉ có những người chẳng bao giờ đến đây mới nghĩ chỗ này chỉ có khách du lịch. Dickens từng tới đây rồi, cả Johnson và Yeats nữa… Tôi mê lắm.” Cô tươi cười nhìn hắn. Strike cũng mỉm cười đáp lễ, thấy phấn chấn hẳn sau khi đã có bia trong người. “Chỗ này cách văn phòng bao xa?” “Đi bộ mười phút,” cô nói, “Tụi tôi ở ngay ngoài khu Strand. Tòa nhà mới, có vườn sân thượng. Sẽ lạnh cóng cho mà xem,” cô nói thêm, giả vờ rùng mình rồi kéo áo khoác chặt lại. “Nhưng các sếp có lý do chính đáng để không đi thuê chỗ khác. Thời buổi người khôn của khó mà.” “Như cô nói thì Bombyx Mori có vấn đề lắm sao?” Strike hỏi, vừa vào ngay câu chuyện, vừa duỗi chân giả hết cỡ dưới bàn. “Nói vậy,” cô trả lời, “là đã ăn thua gì. Daniel Chard sôi cả tiết. Ai đời lại đi cho Daniel Chard vào vai phản diện trong sách. Không được. Hoàn toàn không. Dại lắm kia. Chard là người rất lạ lùng. Nghe nói là ông ấy bị ép nối nghiệp gia đình, chứ thực ra chỉ muốn làm họa sĩ. Giống Hitler vậy đó,” cô khúc khích. Ánh đèn từ quầy bar như nhảy múa trong đôi mắt to của Nina. Strike thấy cô hệt như một chú chuột lí lắc. “Hitler?” hắn lặp lại, thấy hơi buồn cười. “Khi cáu ông ấy ra rả như Hitler – tuần này tụi tôi mới biết đó. Trước giờ Chard nói không ra hơi. Vậy mà vừa rồi la hét rú rít vào mặt Jerry; tụi tôi ngồi cách mấy bức tường còn nghe được.” “Cô đọc chưa?” Nina ngập ngừng, thoáng cười tinh nghịch. “Chính thức là chưa,” cuối cùng cô trả lời. “Còn không chính thức…” “Coi như tôi cũng có coi cọp được tí chút,” cô nói. “Tưởng là nó bị cất kỹ, khóa hẳn hoi kia mà?” “Thì đúng vậy, cất trong két sắt của Jerry.” Nina liếc ngang ranh mãnh, như thể mời Strike cùng vào hùa trêu vị biên tập ngây thơ. “Chuyện là, Jerry nói mật mã với tất cả mọi người bởi vì ông ấy cứ quên hoài, nên phải nhờ tụi tôi nhắc. Jerry là người tử tế, đàng hoàng nhất trần đời. Chắc ông ấy còn không nghĩ là tụi tôi dám cả gan đọc đâu.” “Cô đọc khi nào?” “Hôm thứ Hai sau khi ông ấy nhận sách. Lúc đó bắt đầu râm ran rồi, vì Christian Fisher đã kịp gọi điện cho năm chục người trong hai ngày cuối tuần, còn đọc cả trích đoạn trên điện thoại. Nghe nói hắn ta còn chụp lại rồi gởi email nữa.” “Lúc này luật sư vẫn chưa vào cuộc?” “Đúng thế. Rồi tụi tôi bị gọi hết lại, được nghe một bài vô cùng kỳ khôi về hậu quả của việc bép xép. Toàn hù dọa nhảm nhí. Nào là danh tiếng của công ty sẽ bị ảnh hưởng nếu người ta bôi nhọ CEO, nào là nghe đâu nhà xuất bản sắp lên sàn chứng khoán, nên nếu có chuyện gì thì mất việc cả nút. Tôi không biết tay luật sư làm sao mà nghiêm mặt nói chuyện đó được. Ông cụ nhà tôi là luật sư Hoàng gia,” Nina tỉnh khô, “cụ nói là Chard chẳng làm gì được nhân viên. Thật, trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã hay.” “Chard có phải là sếp tốt không?” Strike hỏi. “Cũng có thể nói vậy,” cô đáp ngay, “nhưng mà ông ấy hơi bí hiểm, cao kỳ lắm… vậy nên cái đoạn Quine viết mới tức cười.” “Viết sao kia…?” “À, trong truyện Chard là Dị nhân Phallus Impudicus, với cả…” Strike sặc bia tại chỗ. Nina lại khúc khích. “Ông ấy là “Dị nhân Thối Củ”?” Strike hỏi lại, cười phá ra, đưa mu bàn tay quẹt ngang miệng. Nina cũng cười, tiếng cười dung tục bất ngờ, nhất là với một vẻ ngoài như nữ sinh thế kia. “Anh có học tiếng Latin sao? Tôi bỏ giữa chừng, ghét lắm – nhưng ai chẳng biết phallus là gì, đúng không? Tôi có tra lại, hóa ra Phallus impudicus còn là tên riêng của một loại nấm độc, còn được gọi là nấm sừng thối. Nghe nói loại nấm này thối hoắc luôn và… à,” cô tiếp tục khúc khích, “trông giống hệt như cái của nợ đó nữa. Đúng là Owen, chuyên đặt tên tục tĩu, hàng họ đưa hết ra ngoài.” “Vậy trong truyện Phallus Impudicus làm trò gì?” “Giống hệt Daniel, từ đi đứng, nói năng đến vẻ ngoài. Mắc chứng loạn dâm ái tử thi với một nhà văn rất đẹp trai vừa giết được. Rất là máu me gớm ghiếc. Jerry vẫn hay nói là nếu chưa làm độc giả ói ít nhất hai lần Owen sẽ không ăn ngon miệng. Tội nghiệp Jerry,” cô khẽ nói thêm. “Sao mà ‘tội nghiệp Jerry’?” Strike hỏi. “Ông ấy cũng bị lôi vào sách.” “Vậy trong sách Jerry là thể loại phallus gì?” Nina lại bật cười. “Tôi không biết. Tôi không đọc đoạn về Jerry. Tôi chỉ đọc lướt qua, lật tới chỗ Daniel vì ai cũng nói là vừa gớm vừa tức cười. Với cả lúc đó Jerry chỉ đi ra ngoài có nửa tiếng, tôi cũng không có thời gian. Nhưng ai cũng biết là Jerry có trong sách, vì Daniel kéo Jerry vào, bắt phải gặp luật sư, rồi bỏ tên ông ấy vào tất cả mấy cái email vớ vẩn chỉ để hù tụi tôi là trời sẽ sập ngay xuống đầu nếu đứa nào dám bép xép vụ Bombyx Mori. Tôi nghĩ chắc Daniel thấy an ủi là Owen cũng tấn công cả Jerry. Daniel Chard biết rõ ai cũng quý Jerry, nên tôi đoán ông ấy nghĩ rằng tụi tôi sẽ ngậm miệng để bảo vệ Jerry. “Chúa mới biết cơn cớ gì Quine lại đi tấn công Jerry,” Nina thêm vào, nụ cười tắt đi. “Vì Jerry chẳng có lấy một kẻ thù nào cả. Owen đúng là cái thứ chẳng ra gì,” cô thêm vào sau khi dừng một lát, nhìn chằm chằm xuống đáy ly rượu đã cạn. “Uống gì nữa không?” Strike hỏi. Hắn quay lại quầy bar. Trên bức tường đối diện có một con vẹt xám nhồi bông đặt trong lồng kính. Chi tiết lập dị chân thực duy nhất trong quán mà hắn nhìn ra. Trong tâm trạng dễ chịu giữa chút London cổ xưa, hắn chấp nhận ý nghĩ rằng con vật đó đã từng quang quác giữa những bức tường này khi còn sống, chứ không phải chỉ là một món trang trí dơ dáy được mua về. “Cô biết chuyện Quine mất tích không?” Strike hỏi, khi đã quay về chỗ ngồi bên Nina. “Có, nghe đồn vậy. Tôi cũng chẳng ngạc nhiên, ồn ào quá mà.” “Cô có quen Quine không?” “Không hẳn là quen. Quine có ghé qua văn phòng vài lần, tán tỉnh nhăng cuội. Lão hay mặc cái áo choàng ngớ ngẩn đó, lúc nào cũng tò vè tỏ vẻ, ưa gây sốc. Tôi thấy lão chẳng ra gì, với cả tôi ghét sách lão lắm. Jerry có thuyết phục tôi đọc cuốn Tội lỗi của Hobart. Tôi thấy dở kinh hồn.” “Cô biết ai có liên lạc với Quine gần đây không?” “Tôi không nghe nói gì cả,” Nina đáp. “Mà cũng không ai biết tại sao ông ta lại đi viết một cuốn sách như vậy, kiểu gì cũng sẽ làm cho người ta muốn kiện cáo?” “Ai cũng nghĩ rằng Owen gây sự với Daniel. Về sau đụng ai lão ấy cũng gây gổ; Chúa mới biết lão ấy qua tay bao nhiêu nhà xuất bản trong từng đó năm. “Tôi nghe đâu là Daniel chịu in sách của Owen vì ông ấy cho rằng làm vậy sẽ khiến mọi người nghĩ rằng Owen đã tha thứ vụ Daniel xử tệ với Joe North. Owen và Daniel chẳng ưa gì nhau, chuyện đó thì ai cũng biết.” Strike nhớ lại người thanh niên tóc vàng đẹp trai ngời ngời trong tấm hình treo ở văn phòng của Elizabeth Tassel. “Daniel Chard xử tệ với Joe North ra sao?” “Tôi cũng không biết rõ,” Nina đáp. “Nhưng biết là tệ lắm. Tôi biết Owen từng thề độc sẽ không bao giờ làm với Daniel, nhưng lão ấy gây thù chuốc oán với hầu hết các nhà xuất bản khác, vậy nên lão phải giả vờ là đã hiểu lầm để còn đường quay lại. Còn Daniel nhận in cũng vì thể diện. Nghe nói vậy.” “Quine có gây gổ với Jerry Waldegrave không, theo như cô biết?” “Không hề, vậy mới kỳ quái. Tại sao lại đi đâm Jerry? Ông ấy tử tế lắm! Nhưng nghe đâu, thực ra cũng khó…” Lần đầu tiên trong buổi tối hôm đó, Strike thấy Nina thận trọng suy nghĩ trước khi nói, rồi mới mở miệng tiếp, có phần điềm tĩnh hơn. “Thực ra cũng khó biết Owen muốn ám chỉ gì về Jerry, với lại tôi cũng chưa đọc hết. Nhưng Owen đâm nhiều người lắm,” Nina kể tiếp, “Tôi nghe nói vợ của lão cũng bị lôi vào, nghe đâu lão còn xuống tay tàn tệ với Liz Tassel. Thì bà đó đúng là quỷ cái thật, nhưng ai cũng biết Liz Tassel đã chịu đựng Owen từng đó năm. Liz sẽ không bao giờ làm sách với Roper Chard được nữa; ai cũng giận bà ấy. Tôi biết tối nay bà ấy bị cho ra rìa. Daniel đã có lệnh cấm cửa. Nghĩ có nhục không. Rồi sắp tới còn có tiệc mừng Larry Pinkelman, là một trong những tác giả Liz đại diện, chỉ vài tuần nữa thôi. Mà tiệc đó thì không thể không mời Liz. Larry tội lắm, ai cũng quý ông ấy nhưng Chúa mới biết Liz mà đến thì sẽ bị tiếp đón ra sao.” “À mà,” Nina nói tiếp, khẽ hất mái tóc nâu nhạt và đột ngột đổi chủ đề, “tôi với anh quen nhau sao đây, để đến nơi còn biết đường nói chứ? Anh là bạn trai của tôi, hay sao?” “Bồ bịch có được ké mấy vụ như vậy không?” “Được, nhưng tôi chưa kể với ai là đang cặp với anh, nên phải nói là vẫn chưa được lâu lắm. Vậy đi, tôi với anh gặp nhau ở tiệc cuối tuần trước, được không?” Nghe cách Nina hào hứng dựng chuyện, Strike tự dưng thấy mình cũng có giá hẳn. Hắn thấy vừa ái ngại vừa cảm động. “Đợi tôi đi tè cái rồi hẵng đi,” hắn đáp, nặng nhọc nhấc người khỏi băng ghế gỗ trong khi Nina uống cạn ly rượu thứ ba. Cầu thang dẫn xuống nhà vệ sinh trong quán Ye Olde Cheshire Cheese uốn lượn, trần nhà lại khá thấp nên mặc dù đã cúi xuống hắn vẫn bị cụng đầu một cú. Strike vừa xoa tay lên thái dương, vừa lẩm bẩm chửi thề. Cứ như thể thần thánh ở đâu vừa có ý nhắc nhở hắn rằng đừng có mà dại dột mềm lòng nghe con. 13 Nghe rằng Ngài có cuốn sách Trong đấy ghi cả Tên tuổi đám tội đồ Còn ẩn náu nơi thành đô. John Webster The White Devil Kinh nghiệm tình trường đã dạy Strike rằng hắn luôn hấp dẫn một kiểu phụ nữ nhất định. Các cô đó thường khá thông minh, nhưng tính khí bốc đồng, y hệt như thứ ánh sáng chói mắt mà chớp nháy liên tục của bóng đèn bị chập mạch. Họ rất quyến rũ, nhưng lại là thể loại “tốt mã rã đám”, theo như lời Dave Polworth bạn nối khố của Strike. Tay thám tử chưa bao giờ chịu khó nghĩ xem họ thấy gì hay ho ở hắn, mặc dù chuyên gia triết lý vặt Polworth từng phát biểu rằng các cô như thế (“thất thường, gia giáo”) trong tiềm thức sẽ luôn đi tìm thể loại “dòng giống trâu ngựa” như hắn. Charlotte, vợ hụt của Strike có lẽ là bà hoàng của nữ quốc tốt mã đó. Charlotte xinh đẹp, thông minh, bốc đồng và ruỗng từ trong lõi, đã bao lần bỏ hắn rồi quay lại, mặc cho gia đình phản đối còn bạn bè thì không giấu nổi thái độ ngạc nhiên lẫn kinh hãi. Tháng Ba vừa rồi hắn đã chính thức chấm dứt mười sáu năm khi thăng khi trầm với Charlotte. Cô nàng dường như không chờ gì cả, ngay lập tức quay sang đính hôn với tay bạn trai cũ, người mà rất nhiều năm về trước tại Oxford, Strike đã dám qua mặt để nẫng Charlotte trên tay. Kể từ sau khi chia tay Charlotte, ngoại trừ một đêm “trúng số độc đắc”, tình trường của Strike vô cùng vắng lặng, mà hoàn toàn có chủ ý. Hắn làm việc không ngừng nghỉ, luôn biết cách từ chối những đòn tấn công dù là kín kẽ hay công khai của các quý bà tóc nâu kiều diễm, đều sắp-sửa-ly-hôn, có nhiều thời giờ mà lại ít bầu bạn, luôn cần được an ủi. Nhưng luôn hiển hiện thứ cám dỗ ấy, khiến hắn muốn buông xuôi, bất chấp hệ lụy, chỉ để được vỗ về một vài đêm. Giờ đây Nina Lascelles đang bước cạnh hắn trong khu Strand tối om, vừa gấp gáp giữ nhịp bước với hắn, vừa nói rành rọt địa chỉ nhà riêng ở St. John’s Wood, để “làm bộ như anh đã tới đó rồi.” Cô nàng đứng chưa tới vai Strike, mà hắn thì xưa nay không thích phụ nữ nhỏ con. Nina liên tục nói chuyện về nhà xuất bản Roper Chard, cười nhiều hơn mức cần thiết và đôi khi còn chạm vào cánh tay hắn, chỉ để nhấn mạnh một ý gì đó. “Đây rồi,” Nina reo lên khi hai người đứng trước một tòa nhà cao tầng hiện đại. Trước nhà có cửa xoay bằng gương và dòng chữ “Roper Chard” bằng kính dẻo màu cam nổi bật trên tường đá. Sảnh trước nằm ngang, đối diện với mấy cánh cửa trượt bằng kim loại, trong sảnh lác đác vài người ăn mặc sang trọng. Nina rút thiệp mời trong túi xách, trình cho tay gác cửa mặc bộ lễ phục như đồ mặc khính, có lẽ là nhân viên được thuê trọn gói. Sau đó Strike và Nina suôn sẻ đi vào thang máy ốp gương, cùng với khoảng hai mươi người khác. “Tầng này rồi nè,” cô reo lên. Hai người ra đến một khu vực văn phòng không gian mở. Ban nhạc đang chơi, sàn nhảy còn thưa thớt. “Thường ngày có vách ngăn. Vậy… tối nay anh muốn gặp ai?” “Bất kỳ người biết rõ Quine và có khả năng biết ông ấy đang ở đâu.” “Vậy thì chỉ có mỗi Jerry thôi…” Một lớp khách nữa vừa mới đi thang máy lên, dồn hai người vào đám đông. Strike có cảm giác Nina vừa túm lấy áo khoác của hắn như mẹ nắm cổ con, nhưng hắn không đáp trả, không nắm tay hay có cử chỉ gì khác khiến người ta nghĩ hai người là một cặp. Thỉnh thoảng cô lại lên tiếng chào hỏi người quen. Cuối cùng cả hai ra đến bức tường phía xa, nơi đặt dãy bàn đầy những món ăn tiệc, đứng quanh là những tay phục vụ mặc đồ trắng. Ra đến đây thì có thể nói chuyện mà không cần phải lớn giọng la hét. Strike bốc vài miếng chả cua nhỏ xíu, nghĩ bụng thứ này ăn chẳng dính răng. Nina nhìn quanh. “Không thấy Jerry đâu cả, chắc ông ấy lên sân thượng hút thuốc rồi. Hay mình lên đó đi? Ô, nhìn kìa – Daniel Chard, đang hạ cố tiếp dân!” “Là người nào vậy?” “Ông hói đầu đó.” Khách đi tiệc đã kính nể chừa khoảng trống nhỏ quanh ông giám đốc, như đám ruộng bắp ngã dạt ra khi trực thăng bay lên. Daniel Chard đang nói chuyện với một phụ nữ còn trẻ mặc bộ đầm đen ôm sát, trông khá đầy đặn. Phallus Impudicus; Strike không nhịn được, nhe răng cười thầm. Nhưng cũng phải thấy rằng Chard rất hợp với kiểu đầu hói. Trông ông ta trẻ trung hơn hắn đã hình dung, thực ra xét theo một kiểu nào đó còn khá đẹp mã: lông mày rậm, mắt sâu, mũi khoằm và môi mỏng. Bộ complet màu đen Chard mặc chẳng có gì nổi bật, nhưng chiếc cà vạt màu hoa cà nhạt thì có bản rộng hơn bình thường, trên mặt vải có nhiều hình vẽ mũi người ngộ nghĩnh. Gu ăn mặc của Strike thường chỉn chu, không phá cách – được rèn giũa từ trong quân ngũ, nên hắn thấy tò mò. Chiếc cà vạt như một dấu hiệu nổi loạn nhỏ bé nhưng mạnh mẽ của ông giám đốc, nhất là khi thỉnh thoảng cũng có người để ý liếc nhìn, tỏ ra ngạc nhiên hoặc tủm tỉm cười. “Đồ uống để đâu?” Nina nói, cố nhón chân vô ích. “Đằng kia,” Strike đáp. Hắn đã kịp thấy quầy bar ngay trước cửa sổ nhìn ra sông Thames trong đêm. “Cứ ở đây, tôi sẽ đi lấy. Rượu vang trắng hay sao?” “Champagne, nếu đêm nay Daniel chịu chi.” Strike đi qua đám đông, cố tình kín đáo tiến lại gần Chard. Ông ta nhường hết phần giao đãi cho cô đứng cạnh. Điệu bộ cô này hơi thảm, như thể biết mình nói năng chẳng ra gì. Chard đang cầm ly nước, để lộ mu bàn tay bị chàm bóng đỏ. Strike đứng lại ngay sau lưng Chard, giả vờ dừng lại nhường đường cho một nhóm các cô đang đi băng qua phía bên kia. “… thực là buồn cười dã man,” cô mặc đầm đen run giọng kể. “Đúng vậy,” Chard nói, giọng cực kỳ chán nản, “hài thật.” “Chuyến đi New York tuyệt lắm hả? Ý tôi là có ích không? Vui chứ?” cô ta hỏi Chard. “Bận lắm,” Chard đáp. Mặc dù không thấy mặt ông CEO, Strike vẫn hình dung ông ta đang ngáp. “Toàn là nói chuyện kỹ thuật số nọ kia.” Một người đàn ông bệ vệ mặc complet có áo gi-lê bên trong tự dưng đứng lại ngay trước mặt Strike, làm bộ điệu đàng nhường đường cho hắn đi trước. Trông ông này đã ngà ngà say mặc dù vẫn chưa tới tám giờ. Strike buộc phải bước tiếp, đứng dịch ra xa, không còn nghe được giọng Daniel Chard nữa. “Cảm ơn,” Nina lên tiếng vài phút sau đó, đón lấy ly champagne từ tay Strike. “Giờ đi lên sân thượng đi!” “Được đó,” Strike đáp. Hắn cũng lấy cho mình một ly champagne, không phải vì hắn thích champagne mà vì chẳng có món gì khác hay ho. “Daniel Chard đang nói chuyện với ai vậy?” Nina rướn người ra nhìn, cô đi trước Strike trên cầu thang xoắn ốc. “Joanna Waldegrave, con gái của Jerry. Vừa viết xong tiểu thuyết đầu tay. Sao anh hỏi vậy? Anh thích kiểu đó hả?” cô hỏi, vừa cười vừa thở. “Đâu có,” Strike đáp. Hai người đi lên cầu thang lưới. Strike phải tì người liên tục vào tay vịn. Lên đến sân thượng, gió đêm lạnh buốt xộc vào như muốn gột rửa buồng phổi. Sân thượng đầy những dải cỏ mịn, chậu hoa nhỏ, cây con rồi cả băng ghế lác đác. Còn có hồ cá lắp đèn pha, cá trong hồ lượn thoăn thoắt như ánh lửa chớp ngay dưới những lá hoa súng màu đen. Máy sưởi ngoài trời tựa những cây nấm thép khổng lồ đặt thành từng khóm giữa những bãi cỏ ngay ngắn. Người hút thuốc đứng quanh máy sưởi, quay lưng với cảnh trí êm đềm giả tạo, quay mặt vào nhau. Đầu thuốc lá sáng lên trong đêm. Quang cảnh thành phố nhìn từ đây thật ngoạn mục, một màu đen nhung mượt lấp lánh ánh đèn, có thể thấy được vòng xoay London Eye sáng đèn xanh dương, tòa nhà Oxo Tower với những khung cửa sổ sáng màu hồng ngọc, cả khu Southbank Centre, tháp đồng hồ Big Ben và Nhà nghị viện rực ánh vàng ở bên phải. “Đi nào,” Nina nói rồi mạnh dạn nắm tay Strike, dẫn đến trước mặt một nhóm ba cô gần đó. Hơi thở các cô bốc thành khói trắng, mặc dù chẳng ai hút thuốc. “Ê mấy bồ,” Nina nói, “Thấy Jerry đâu không?” “Say quắc cần câu rồi,” cô tóc đỏ thẳng thừng. “Thôi xong,” Nina kêu lên. “Mới còn ngon lành đó mà!” Cô tóc vàng cao lêu nghêu liếc xuống vai Nina rồi thầm thì: “Tuần rồi ở nhà hàng Arbutus nghe đâu ông ấy say bí tỉ, mất mặt lắm.” “Vẫn chuyện Bombyx Mori,” cô tóc đen ngắn, mặt mày cáu kỉnh tiếp chuyện. “Rồi vụ đi kỷ niệm đám cưới ở Paris cũng tan tành. Nghe đâu Fenella lại lên cơn. Đến lúc nào ông ấy mới chịu bỏ mụ đó?” “Bà ấy có đây không?” cô tóc vàng cảnh giác. “Chắc đứng đâu đó,” cô tóc đen đáp, “Không giới thiệu gì sao hả Nina?” Sau màn giới thiệu tíu tít, Strike vẫn không biết ai là Miranda, Sarah hay Emma. Bốn cô lại tiếp tục say sưa mổ xẻ đời tư và chuyện rượu chè của Jerry Waldegrave. “Đáng ra nên bỏ quách Fenella từ lâu mới phải,” cô tóc đen bình luận. “Bà chằn chính hiệu.” “Suỵt,” Nina khẽ nhắc rồi cả bốn cô tự dưng sững người lại, bối rối, hết cả tự nhiên. Một người đàn ông cao gần bằng Strike đang chậm rãi tiến tới chỗ họ. Khuôn mặt Jerry tròn trịa, phinh phính sau cặp kính gọng sừng lớn và mớ tóc nâu rối bời. Ông ta cầm một ly rượu vang đỏ đầy tràn trong tay, cứ như thể sắp đổ tới nơi. “À, bắt quả tang tại chỗ,” ông ta lên tiếng, mỉm cười hồn hậu. Giọng ông ta vang rền, điệu đàng, khiến Strike nghĩ đến một con sâu rượu có nghề. “Để tôi đoán xem, các cô đang nói chuyện: Bombyx Mori - Quine, đúng không? Chào anh,” ông ta tiếp, nhìn Strike và chìa tay ra. Hai người đàn ông nhìn nhau. “Mình chưa gặp nhau bao giờ nhỉ?” “Jerry, đây là anh Cormoran. Anh Cormoran, Jerry,” Nina nói ngay. “Bạn trai của tôi,” cô giải thích, dường như là với ba cô kia chứ không phải với ông tổng biên tập cao to. “Cameron à?” Waldegrave hỏi lại, một tay khum úp lên tai. “Cũng gần gần vậy,” Strike đáp. “Xin lỗi anh,” Waldegrave tiếp, “Tôi bị điếc một bên tai. Quý cô vừa ngồi lê đôi mách với người lạ, đúng không?” Jerry rề rà hỏi tiếp, pha trò, “mặc cho Ngài Chard đã có chỉ thị rõ ràng là không được kể bí mật công vụ với người ngoài cơ quan?” “Ông sẽ không mách tội bọn tôi chứ Jerry?” cô tóc đen hỏi. “Nếu mà Daniel thực sự muốn giữ kín chuyện cuốn sách,” cô tóc đỏ bồn chồn chen ngang, vừa nói vừa liếc quanh để chắc ông sếp không đứng gần đó, “thì ông ta không nên cho luật sư đi gõ cửa khắp như thế. Người ta cứ gọi điện cho tôi, hỏi thực ra là có chuyện gì.” “Jerry này,” cô tóc đen đánh bạo, “vì sao ông phải nói chuyện với luật sư?” “Bởi vì tôi có trong sách, Sarah à,” Waldegrave đáp, đong đưa ly rượu, đổ tràn một ít xuống thảm cỏ. “Tới cái tai điếc cũng có nữa. Trong sách ấy.” Các cô thi nhau xuýt xoa kinh ngạc, phẫn nộ. “Nhưng Quine nói gì được ông cơ chứ, ông quá tử tế với lão ấy còn gì?” cô tóc đen hỏi tiếp. “Nỗi niềm của Quine là tôi quá tàn nhẫn với đám kiệt tác của ông ấy,” Waldegrave đáp, rồi đưa bàn tay không cầm rượu, làm động tác cắt kéo. “Ôi, có vậy thôi sao?” cô tóc vàng lên tiếng, giọng thoáng chút thất vọng. “To chuyện nhỉ. Có hợp đồng làm sách là may lắm rồi, cái thứ như lão!” “Hình như ông ấy lại rút về ở ẩn lần nữa,” Waldegrave bình luận. “Chẳng trả lời điện thoại gì cả.” “Hèn quá thể,” cô tóc đỏ nói. “Thực tôi thấy lo đấy.” “Lo?” cô tóc đỏ lặp lại, kinh ngạc. “Ông đùa sao Jerry.” “Nếu mà cô có đọc sách thì cô cũng sẽ thấy lo,” Waldegrave nói, thoáng nấc một cái. “Tôi nghĩ có khi Owen quẫn trí rồi. Cứ như thư tuyệt mệnh ấy.” Cô tóc vàng bật cười, rồi ghìm lại ngay khi bắt gặp ánh mắt của Waldegrave. “Tôi không đùa đâu. Tôi nghĩ có khi ông ấy suy sụp thật. Dưới mấy món kinh dị thường thấy của Quine, cuốn sách có ý ngầm rõ rệt: ai cũng chống lại tôi, ai cũng muốn hại tôi, ai cũng ghét tôi…” “Thì đúng là ai cũng ghét lão còn gì,” cô tóc vàng xen vào. “Không ai đầu óc bình thường lại tin rằng một cuốn sách như vậy sẽ được xuất bản. Giờ ông ấy lại biến đi đâu mất.” “Nhưng lão vẫn hay giở trò đó,” cô tóc đỏ sốt ruột. “Hô biến là nghề của lão mà, chẳng phải vậy sao? Daisy Carter bên Davis-Green có kể với tôi là hồi bên đó làm cuốn Anh em nhà Balzac, lão đùng đùng bỏ đi tới hai lần.” “Tôi lo cho ông ấy lắm,” Waldegrave vẫn khăng khăng. Ông ta nốc một hơi rượu, rồi tiếp. “Nhỡ mà làm gì dại dột…” “Owen đời nào mà tự tử!” cô tóc vàng giễu. Waldegrave nhìn cô gái. Strike thấy trong cái nhìn đó có cả thương hại lẫn phật ý. “Người ta tự tử đấy, cô biết không hả Miranda, một khi đã không thiết sống nữa. Mặc cho người khác cười mình.” Cô tóc vàng sửng sốt, rồi nhìn quanh như thể tìm đồng minh, nhưng không ai lên tiếng. “Cánh nhà văn khác người lắm,” Waldegrave nói tiếp. “Thực tình tôi chưa gặp tay nào viết được mà lại không chập cheng. Hơn ai hết Liz Tassel phải hiểu điều đó chứ.” “Bà ấy nói rằng bà ấy không biết sách viết gì,” Nina kể. “kể là bị ốm, nên không đọc kỹ càng…” “Tôi quá biết Liz Tassel,” Waldegrave gầm gừ. Strike nhận ra một thoáng giận dữ thật sự nơi vị tổng biên tập sâu rượu nhưng hiền lành. “Bà ấy biết rõ mình đang làm gì khi tung cuốn sách ra. Liz định làm cú chót với Owen. Thêm chút tai tiếng của Fancourt nữa, xưa nay bà ấy vốn đã chẳng ưa… nhưng giờ mọi chuyện vỡ lở ra thì bỏ mặc tác giả của mình. Thật chẳng ra gì.” “Daniel rút lại lời mời bà ấy tối nay,” cô gái tóc đen nói, “Tôi phải gọi điện để báo. Kinh lắm.” “Ông có biết Owen đi đâu không hả Jerry?” Nina hỏi. Waldegrave nhún vai. “Chẳng biết được. Nhưng tôi mong là ông ấy không sao, ở đâu cũng được. Có chuyện gì đi nữa tôi vẫn quý ông ấy lắm.” “Vụ tai tiếng của Fancourt mà Quine đem vào sách là vụ gì vậy?” cô tóc đỏ hỏi. “Tôi nghe đâu là có liên quan tới một bài phê bình…” Trừ Strike ra, mọi người trong nhóm đồng loạt nói, nhưng khi giọng Waldegrave nổi lên, các cô im lặng ngay lập tức, theo kiểu ý tứ rất mực nữ tính khi gặp đàn ông bị điếc. “Tưởng ai cũng biết chuyện đó chứ,” Waldegrave nói, lại nấc. “Đại để là Elspeth, vợ đầu của Michael Fancourt viết một cuốn tiểu thuyết ấm ớ. Sau đó có tạp chí văn học cho in bài nhại theo, tác giả khuyết danh. Bà ấy cắt bài đó ra, dán trước ngực áo rồi mở bếp ga để ngạt mà chết, theo gương Sylvia Plath.” Cô tóc đỏ há hốc miệng. “Bà ấy tự tử?” “Đúng thế,” Waldegrave đáp, tay lại đong đưa ly rượu. “Tôi nói rồi mà, nhà văn đồng nghĩa với chập cheng.” “Ai viết bài nhại đó vậy?” “Ai cũng nghĩ là Owen Quine viết. Ông ấy phủ nhận thẳng thừng, nhưng nếu đúng ông ấy viết thì phủ nhận cũng dễ hiểu, hậu quả ghê gớm vậy mà,” Waldegrave nói. “Sau khi Elspeth chết Owen và Michael từ mặt nhau. Nhưng trong Bombyx Mori, Owen nghĩ ra một cách khá độc đáo để ám chỉ rằng chính Michael viết bài đó.” “Trời!” cô tóc đỏ thốt lên, kinh ngạc. “À mà nhắc tới Michael Fancourt,” Waldegrave tiếp, nhìn xuống đồng hồ, “Tôi phải nhắc mấy cô là chín giờ ở tầng dưới sẽ có tin sốt dẻo. Các cô đừng để lỡ mất.” Jerry Waldegrave rảo bước đi. Hai cô dụi thuốc lá rồi theo sau. Cô tóc vàng lảng ra một nhóm khác. “Jerry đúng là người tử tế, anh thấy vậy không?” Nina hỏi Strike, co ro trong chiếc áo khoác len xúng xính. “Rất cao thượng,” Strike đáp. “Trừ ông ta ra ai cũng nghĩ Quine đang giở trò. Đi vào trong cho đỡ lạnh nhé?” Hắn thấy thấm mệt, người lâng lâng. Hắn chỉ muốn về nhà, để còn nhọc nhằn dỗ giấc ngủ, nhắm mắt và cố làm một giấc tám tiếng trước khi phải bò dậy, lẽo đẽo đi rình một ông chồng mèo mỡ nữa. Căn phòng ở tầng dưới chật như nêm. Nina phải dừng lại mấy lần, lớn tiếng chào người quen. Cô giới thiệu Strike với một tác giả tiểu thuyết diễm tình to béo, dường như đang choáng ngợp trước champagne rẻ tiền và ban nhạc ầm ĩ. Sau đó hai người gặp vợ của Jerry Waldegrave. Bà ta cũng ngà ngà say, vồn vã chào hỏi Nina mà tóc tai rối bời. “Bà ấy rất ưa xun xoe,” Nina lạnh lùng nói, sau khi giả vờ thân thiện. Cô kéo Strike lại gần bục sân khấu tạm thời. “Dân giàu từ trong trứng, nên lúc nào cũng phải tỏ rõ là Jerry không xứng với bà ấy. Hợm quá thể.” “Chắc bà ấy muốn o bế cô vì ông già cô là luật sư Hoàng gia, phải không?” Strike hỏi. “Anh nhớ dai thật đó,” Nina nói, nhìn hắn ngưỡng mộ. “Không, tôi nghĩ… mà nói đúng ra tôi cũng có tước hiệu nọ kia. Nhưng ai thèm để ý mấy chuyện đó chứ, trừ cái thể loại như Fenella.” Một nhân viên đang đứng chỉnh micro ở bục gỗ trên sân khấu, ngay gần quầy bar. Logo của nhà xuất bản Roper Chard - một nút thắt dây thừng giữa hai cái tên và dòng chữ “Kỷ niệm 100 năm” được in kiểu cọ trên dải băng-rôn căng ngang. Sau đó là mười phút rề rà chờ đợi. Strike trả lời mấy câu xã giao của Nina, cố sao cho lịch sự, đứng đắn. Nina thấp hơn hắn khá nhiều, còn căn phòng thì ồn ào kinh khủng. “Larry Pinkelman có ở đây không?” hắn hỏi, nhớ lại bức chân dung ông nhà văn chuyên viết cho trẻ em trong văn phòng Elizabeth Tassel. “Không đâu, ông ấy ghét tiệc tùng lắm,” Nina tươi cười. “Tôi cứ tưởng cô chuẩn bị làm tiệc cho ông ấy?” “Làm sao anh biết?” cô hỏi lại, giật mình. “Thì cô kể còn gì, lúc còn ở quán ấy.” “Trời, anh tinh ý thật đấy! Ờ, tụi tôi sắp làm một bữa tiệc tối để mừng đợt tái bản mấy cuốn sách Giáng Sinh của Larry, nhưng tiệc nhỏ lắm. Larry không ưa đám đông, ông ấy rất e thẹn nhút nhát.” Cuối cùng Daniel Chard cũng lên đến sân khấu. Tiếng nói cười bên dưới tan dần, rồi tắt hẳn. Strike thấy không khí có phần căng thẳng khi Chard lật đám giấy tờ, hắng giọng. Strike nghĩ thầm Daniel Chard trông như đã tập dợt kỹ càng, nhưng dường như vẫn không phải là người giỏi nói trước đám đông. Chard đều đặn nhìn vào một điểm nhất định dưới khán giả, nhưng không nhìn thẳng vào ai cả, thỉnh thoảng còn nói không ra tiếng. Sau khi kể lại vắn tắt lịch sử hoàng tráng của nhà xuất bản Roper, Daniel Chard khiêm tốn nhắc đến công ty sách Chard do ông nội mình sáng lập ra. Tiếp đó hai công ty sáp nhập, theo lời kể tự hào, hãnh diện mà khiêm tốn của Chard, (cũng bằng một giọng đều đều). Rồi mười năm sau đó ông ta trở thành người đứng đầu công ty xuất bản toàn cầu. Mỗi khi Chard nói gì dí dỏm, đám đông lại cười rộ lên hưởng ứng. Strike cảm giác như trong tiếng cười đó có cả sự dè dặt lẫn hơi men. Hắn không thể rời mắt khỏi đôi bàn tay đỏ như luộc, hẳn là rất đau đớn của ông giám đốc. Khi còn tại ngũ hắn có biết một binh nhì còn khá trẻ, mỗi khi stress lại nổi chàm đỏ nặng đến độ phải nhập viện. “Rõ ràng,” Chard vừa nói vừa quay sang nhìn chỗ Strike, có lẽ vì hắn là một trong những người cao nhất trong phòng, lại đứng khá gần sân khấu, gần đến nỗi thấy được Chard đang đọc tới trang cuối cùng, “ngành xuất bản đang đứng trước nhiều thay đổi nhanh chóng và thử thách mới mẻ, nhưng có một điều không bao giờ đổi thay, từ hàng thế kỷ qua: nội dung vẫn là trên hết. Cùng với các tác giả hàng đầu, Roper Chard sẽ tiếp tục thực hiện sứ mệnh của mình: khuấy động, phản biện và mua vui. Trong không khí đó,” diễn văn chuẩn bị lên đến đỉnh điểm, nhưng giọng Chard không có vẻ gì là hứng thú mà chỉ nhẹ nhõm vì sắp hết màn phát biểu cực hình, “tôi vô cùng vinh dự và sung sướng thông báo rằng tuần này chúng ta đã có được một trong những tài năng văn chương kiệt xuất của thế giới. Kính thưa quý ông quý bà, xin hân hạnh giới thiệu Michael Fancourt!” Đám đông đồng loạt há hốc, như có cơn gió vừa thổi qua. Một phụ nữ hét lên đầy phần khích. Cuối phòng có người bắt đầu vỗ tay, rồi tiếng vỗ tay lan ra khắp phòng. Strike thấy cánh cửa đằng xa mở ra. Hắn thoáng nhận ra cái đầu quá khổ và bộ mặt sưng sỉa của Fancourt trước khi ông ta chìm vào đám đông. Phải đến mấy phút sau Fancourt mới lên đến sân khấu, bắt tay Chard. “Ôi lạy Chúa,” Nina vừa vỗ tay phấn khích vừa reo lên. “Lạy Chúa tôi.” Cũng như Strike, Jerry Waldegrave cao vượt trội giữa đám đông, đứng dưới nhưng gần như đối mặt với hai người trên sân khấu. Tay Jerry cầm ly rượu đầy tràn nên không vỗ tay được. Ông ta nâng ly chạm lên miệng, không mỉm cười, quan sát cách Fancourt đứng trước micro, đưa tay ra hiệu cho đám đông im lặng. “Cảm ơn Dan,” Fancourt lên tiếng, “Đúng là tôi không nghĩ có ngày lại đứng đây,” ông ta nói tiếp, đám đông rộ lên một tràng cười, “nhưng tôi thấy như được về nhà. Trước đây tôi cộng tác với nhà xuất bản Chard, rồi với công ty sách Roper, đấy thật là những năm tháng tươi đẹp. Khi ấy tôi còn trẻ người non dạ, bồng bột nóng nảy,” khán phòng lại khúc khích, “còn giờ đây, tôi đã già đầu nhưng vẫn còn bồng bột lắm”- tiếng cười lớn hơn, đến Daniel Chard cũng khẽ mỉm cười – “tôi mong sẽ cứ bồng bột như thế cùng các bạn” – Chard và đám đông cười càng rộ. Dường như chỉ có Strike và Waldegrave là không phát cuồng. “Quay lại nơi đây, tôi rất vui sướng. Tôi sẽ làm hết sức để tiếp tục góp sức cùng sứ mệnh của Roper Chard, như thế nào nhỉ Dan? Khuấy động, phản biện và mua vui.” Tiếng vỗ tay như sấm nổ, hai người đàn ông bắt tay nhau giữa ánh đèn flash chớp liên tục. “Tôi đoán là mất nửa triệu,” người đàn ông đứng sau Strike lè nhè, “cộng với mười ngàn nữa mới chịu có mặt tối nay.” Fancourt đi từ sân khấu xuống ngay trước mặt Strike. Gương mặt trình trịch của ông ta dường như không thay đổi gì trước máy ảnh, nhưng có vẻ hồ hởi hơn khi đám đông liên tục với tay về phía mình. Rõ là Michael Fancourt cũng khoái được tung hô. “Oa,” Nina quay sang Strike. “Tin nổi không?” Cái đầu quá khổ của Fancourt lại biến mất vào đám đông. Joanna Waldegrave với thân hình bốc lửa xuất hiện, cố bám theo ông nhà văn nổi tiếng. Jerry lập tức theo sau, lảo đảo chụp lấy cánh tay của con gái, có phần hơi mạnh tay. “Ông ấy còn phải gặp nhiều người khác, Jo à, để ông ấy yên.” “Má-mi cũng chạy thẳng tới kìa, sao không chụp mámi lại?” Strike nhìn Joanna đùng đùng bỏ đi, vùng khỏi tay ông bố, bộ dạng dằn dỗi. Daniel Chard cũng đã biến mất; Strike tự hỏi phải chăng ông ấy lỉnh ra ngoài khi đám đông còn bận trầm trồ Fancourt. “CEO của cô không thích ánh đèn sân khấu nhỉ,” Strike bình luận. “Nghe nói là ông ấy tiến bộ nhiều rồi đó,” Nina đáp, vẫn hướng mắt về phía Fancourt. “Mười năm trước phát biểu còn không ngẩng mặt lên khỏi tờ giấy. Nhưng mà ông ấy giỏi làm ăn lắm, anh biết không. Khôn lắm.” Strike thấy thấm mệt, nhưng vẫn tò mò. “Nina này,” hắn nói, kéo cô ra khỏi đám đông đang vây quanh Fancourt, cô đi theo mà không phản đối, “cô nói bản thảo Bombyx Mori cất ở đâu ấy nhỉ?” “Trong két sắt của Jerry,” cô nói. “Ngay tầng dưới đây.” Cô nhấp một ngụm champagne, đôi mắt long lanh. “Tôi biết anh sắp nhờ tôi làm gì, đúng không?” “Như vậy có nguy hiểm cho cô lắm không?” “Cũng nguy lắm đấy,” cô đáp mà không nghĩ ngợi. “Nhưng tôi có mang theo thẻ nhân viên, với cả giờ này có ai đâu”. Ông già cô ta là luật sư Hoàng gia, Strike lạnh lùng cân nhắc. Họ sẽ không dám đuổi việc Nina. “Cô nghĩ mình sao một bản được không?” “Tới luôn bác tài,” Nina nốc cạn ly rượu. Thang máy trống trơn, tầng dưới tối om, vắng tanh. Nina dùng thẻ nhân viên mở cửa vào khu làm việc. Strike tự tin theo sau, đi giữa đám màn hình máy tính tối om và bàn làm việc không có người ngồi, đến một văn phòng riêng lớn ở trong góc. Ánh sáng duy nhất trong phòng lúc này là đèn phố đêm London từ cửa sổ đổ vào và đốm màu cam nhỏ xíu gần đó thỉnh thoảng lại lóe lên, cho thấy máy tính đang ở chế độ standby. Văn phòng của Waldegrave không khóa cửa. Két sắt đặt ngay sau giá sách ở góc tường có gắn khóa mật mã. Cửa két sắt mở bung ra, Strike thấy một chồng giấy lộn xộn nằm bên trong. “Đây rồi,” Nina reo lên. “Nói nhỏ nhỏ thôi,” Strike nhắc cô. Strike đứng cảnh giới. Nina đi ra máy photocopy đặt ngay ngoài cửa. Tiếng máy photocopy chạy đều đặn, rì rầm có gì đó thật êm ái. Không ai ra vào, không ai thấy gì cả. Mười lăm phút sau, Nina đặt lại bản thảo vào chỗ cũ rồi khóa két. “Của anh đây.” Cô đưa chồng bản thảo vừa sao lại cho hắn, còn cẩn thận lấy dây thun ràng lại. Hắn đón lấy chồng giấy, lúc đó cô dựa vào hắn vài giây, như đang lảo đảo. Hắn rõ là đang mắc nợ, nhưng mà mệt quá; hắn chẳng còn bụng dạ nào nghĩ đến chuyện đi về nhà cô ở St. John’s Wood hay đưa cô về căn hộ áp mái ở phố Denmark. Nếu hẹn ngày mai đi uống rượu thì có ổn không nhỉ? Thế rồi hắn nhớ ra tối mai là tiệc sinh nhật của hắn ở nhà em gái. Lucy đã nói là hắn có thể rủ bạn đi cùng. “Tối mai cô muốn đi dự một buổi sinh nhật chán ơi là chán không?” hắn hỏi cô. Cô bật cười, rõ là rất vui. “Chán sao kia?” “Chán từ đầu tới cuối. Có cô sẽ đỡ chán hơn nhiều. Đi nhé?” “Tại sao không chứ?” cô vui vẻ đáp. Vụ mời mọc thật là có lý; hắn thấy không cần phải đụng chạm gì nữa. Hai người ra khỏi văn phòng, vui vẻ như hai chiến hữu, bản sao Bombyx Mori nằm gọn dưới áo khoác của Strike. Sau khi ghi lại địa chỉ và số điện thoại của Nina, Strike tiễn cô vào taxi, thấy nhẹ cả người, như vừa được thả tự do. 14 Rồi đôi khi anh ta ngồi cả một buổi chiều, đọc những dòng ghê tởm, xấu xa, bất lương ấy (gớm ghiếc quá chừng, chịu sao thấu!). Ben Johnson Every Man in His Humour Ngày hôm sau, người ta xuống đường biểu tình phản đối cuộc chiến tranh đã khiến Strike mất đi một chân. Hàng ngàn người cùng đi qua trung tâm London lạnh buốt, mang theo khẩu hiệu. Những gia đình quân nhân đi hàng đầu. Strike có nghe đồng đội cũ nói rằng cha mẹ của Gary Topley – đồng đội đã hi sinh trong trận bom nổ cướp đi chân của hắn, cũng sẽ có mặt trong đoàn người biểu tình. Nhưng Strike không tham gia. Cảm xúc của hắn về cuộc chiến ấy chẳng thể nào gói gọn bằng mấy dòng chữ đen trên tấm bìa trắng. Khi đó và cho tới bây giờ hắn vẫn nghĩ đã làm gì thì làm cho thật tốt. Với hắn đi biểu tình đồng nghĩa với hối tiếc việc đã làm, mà hắn thì không hề hối tiếc. Vậy là hắn gắn chân giả, mặc bộ complet Ý đẹp nhất rồi đi về hướng phố Bond. Đối tượng theo dõi của Strike là gã chồng trắc nết của quý bà tóc nâu. Tay này cứ khăng khăng rằng bà vợ vì say rượu bất cẩn mà đánh mất mấy món trang sức quý khi hai người đi nghỉ ở khách sạn. Strike biết được rằng gã đó sáng nay có hẹn ở phố Bond. Hắn đoán rất có khả năng mớ trang sức bị mất tích sẽ xuất hiện. Đối tượng đi vào hiệu kim hoàn. Strike đứng bên kia đường, làm bộ như đang nhìn vào cửa sổ tiệm đối diện. Nửa tiếng sau, đối tượng đi ra. Strike đi uống cà phê, đợi đúng hai tiếng đồng hồ nữa, rồi mới vào hiệu kim hoàn. Hắn thổ lộ với chủ hiệu rằng cô vợ ở nhà rất mê ngọc lục bảo. Thêm nửa tiếng đồng hồ cố tình lựa chọn các món khác nhau, cuối cùng Strike nhặt lên chính chuỗi hạt mà gã chồng thân chủ tóc nâu vừa bán lại. Hắn mua ngay lập tức, nhờ nữ thân chủ đã ứng trước mười ngàn bảng. Mười ngàn bảng để chứng minh tội gian dối của chồng chẳng thấm vào đâu so với khoản dàn xếp tiền triệu sắp đến. Trên đường về nhà Strike ghé mua bánh mì kebab. Hắn cất chuỗi hạt vào két sắt trong văn phòng (chuyên dùng để cất kỹ mấy tấm ảnh bằng chứng mèo mỡ), rồi đi lên gác, pha một tách trà đậm, cởi bộ complet và bật tivi đợi xem trận Arsenal - Spurs. Hắn duỗi người ra giường và bắt đầu đọc tập bản thảo luộc được từ tối hôm trước. Đúng như Elizabeth Tassel từng nhận xét, Bombyx Mori giống như một phiên bản kỳ quái của tác phẩm Con đường hành hương, lấy bối cảnh là một xứ sở xa xôi, đậm chất văn học dân gian. Trong sách, nhân vật chính cùng tên (một tài năng văn chương trẻ tuổi) bắt đầu hành trình từ một hòn đảo toàn những cư dân ngu độn bẩm sinh, nơi đó chẳng ai nhận ra tài năng của chàng, để đi về một thành phố xa lắc lơ. Cuộc hành trình của chàng mang đầy tính biểu tượng. Ngôn ngữ rườm rà, quái dị, những hình ảnh trong sách giống với cuốn Anh em nhà Balzac mà hắn đã vô cùng ngán ngẩm, nhưng vì tò mò, hắn vẫn đọc tiếp. Leonora Quine hiện lên trong hình ảnh yêu nữ Succuba, nhân vật đầu tiên ngoi lên từ mớ câu cú ngồn ngộn, xen kẽ các món tục tĩu. Chàng Bombyx tình cờ gặp yêu nữ khi đến một vùng rừng thiêng nước độc. Trong truyện yêu nữ được mô tả súc tích bằng hai từ: “đĩ rạc”. Succuba bắt lấy chàng, trói lại rồi hiếp tại chỗ. Leonora được mô tả sống động: gầy yếu, xơ xác, mang kính ngố và cũng có cung cách tưng tửng như ngoài đời. Sau khi bị đày đọa suốt mấy ngày, Bombyx thuyết phục được Succuba thả chàng ra. Khi phải chia tay chàng, yêu nữ vô cùng đau khổ. Thấy vậy, Bombyx đồng ý để Succuba theo mình cùng đi phiêu lưu. Nút thắt mở đầu tiên trong chuỗi diễn biến lạ lùng, ma mị trong truyện: một tình tiết tồi tệ, đáng sợ lại trở nên tốt đẹp, sáng sủa mà chẳng cần lý do lý trấu gì cả. Thêm vài trang nữa: Bombyx và Succuba bị con bọ tinh Tick tấn công. Strike ngay lập tức nhận ra Elizabeth Tassel: hàm bạnh, giọng trầm đầy đe dọa. Một lần nữa Bombyx lại rủ lòng thương sau khi đã bị lợi dụng, và đồng ý để Tick cùng nhập hội. Bọ tinh Tick có một thói quen ghê tởm là bú sữa Bombyx mỗi khi chàng ngủ. Chàng bắt đầu trở nên gầy gò ốm yếu. Giới tính của Bombyx cũng thay đổi liên tục một cách kỳ quái. Bên cạnh khả năng cho bú, chàng còn có dấu hiệu thai nghén, mặc dù vẫn tiếp tục đủ sức lực phục vụ nhiệt tình thêm vài chị em ham hố trên đường đi. Ngụp lặn trong mớ ngôn ngữ tục tằn mà rối rắm, Strike tự hỏi không biết hắn đã bỏ lỡ bao nhiêu chân dung người thật trong sách. Quan hệ giữa Bombyx và các nhân vật trong truyện đầy bạo lực đến kinh ngạc, tính trụy lạc và tàn bạo được đẩy lên cao, mọi giới hạn bị phá bỏ: một cơn cuồng loạn ác-thống dâm đúng nghĩa. Nhưng bản chất vô tội và thuần khiết của Bombyx vẫn là một chủ đề xuyên suốt trong sách. Dường như tác giả cho rằng chỉ cần thêm một câu đơn giản về tài năng của Bombyx là người đọc có thể tha thứ cho chàng sau mọi tội lỗi đã gây ra và đám quái vật vây quanh. Strike vừa đọc vừa nhớ lại Jerry Waldegrave cho rằng hẳn Quine đã loạn trí. Hắn bắt đầu thấy đồng cảm với ông biên tập… Bóng chuẩn bị lăn. Strike đặt bản thảo xuống, thấy như vừa chui ra từ một tầng hầm tối om bẩn thỉu, không đủ cả ánh sáng lẫn không khí. Hắn thấy thật khoan khoái, hào hứng. Hắn chắc mẩm kiểu gì Arsenal cũng sẽ thắng – Spurs chưa bao giờ thắng nổi đội Pháo thủ trong vòng mười bảy năm trên sân nhà. Trong bốn mươi lăm phút sau đó Strike tha hồ hò hét cổ vũ. Arsenal đã dẫn 2-0. Hết hiệp một, hắn chần chừ rồi tắt tiếng tivi, trở lại với thế giới kỳ quái trong tưởng tượng của Owen Quine. Hắn không nhận ra được người nào nữa cho tới khi Bombyx đi gần đến thành phố. Tại đó, trên một cây cầu bắc qua hào bao quanh thành trì, chàng gặp một nhân vật to lớn, dáng bộ rề rà, mắt cận: sát thủ Cutter. Thay vì đeo kính gọng sừng như Jerry Waldegrave, Cutter trong truyện đội mũ sùm sụp, trên vai vác theo một cái bị vấy máu, động đậy như có gì bên trong. Bombyx nhận lời để Cutter dẫn bộ ba đi theo cánh cửa bí mật vào thành phố. Đã quen với không khí bạo lực dâm loạn trong truyện, Strike chẳng ngạc nhiên gì Cutter hóa ra lại chỉ chăm chăm muốn thiến Bombyx. Trong trận ẩu đả sau đó, cái bị rơi khỏi vai Cutter. Một sinh vật giống cái trông như người lùn từ trong bị nhảy vọt ra. Cutter lập tức đuổi theo, để Bombyx, Succuba và bọ tinh Tick chạy thoát. Cả ba tìm ra một khe nứt ở tường thành, quay lại nhìn thì thấy sát thủ Cutter đang dìm chết sinh vật lạ dưới hào nước. Strike đọc chăm chú đến nỗi không nhận ra là hiệp hai đã bắt đầu từ lâu. Hắn liếc nhìn cái tivi đã tắt tiếng. “Bỏ mẹ!” Hai - đều: thật không thể tin được, Spurs đã cân bằng tỉ số. Strike vứt bản thảo qua một bên, sững sờ. Hàng thủ của Arsenal tan rã ngay trước mắt hắn. Một trận đáng ra phải ăn chắc. Arsenal đáng ra phải lên đầu bảng. “Khốn kiếp!” mười phút sau đó Strike rống lên khi trông thấy cú đánh đầu đưa bóng vượt khỏi tay thủ môn Fabianski. Spurs đã thắng. Hắn tắt tivi, lầm bầm chửi thề rồi nhìn đồng hồ. Hắn chỉ có nửa tiếng để tắm rửa, thay đồ rồi đi đón Nina Lascelles ở St. John’s Wood. Hai cuốc xe tối nay sẽ vô cùng tốn kém. Hắn nghĩ đến chỗ bản thảo chưa đọc mà phát tởm, tự dưng lại đâm ra tội nghiệp Elizabeth Tassel, chẳng trách bà ta chỉ đọc lướt qua mấy đoạn cuối. Hắn chẳng hiểu vì sao mình lại bỏ công đi đọc cái của nợ này, ngoài tính tò mò cố hữu. Chán nản và bực bội, hắn lê xác ra nhà tắm, trong bụng ước gì tối nay được ở nhà. Tự dưng hắn nghĩ lẩn thẩn, biết đâu Arsenal đã thắng nếu hắn không bị cuốn vào thế giới rùng rợn dâm dục của Bombyx Mori. 15 Nhưng này, ở chốn thị thành người thân rồi cũng lạ. William Congreve The Way of the World “Anh thấy Bombyx Mori ra sao?” Nina hỏi hắn. Hai người ngồi trong taxi, xe vừa lăn bánh rời khỏi nhà cô, hắn vẫn còn đang đầy bụng xót của. Nếu không phải đón cô, hắn đã đi tàu hay xe buýt đến Bromley, mặc dù có bất tiện và mất thời giờ hơn nhiều. “Bệnh hoạn toàn tập,” Strike đáp. Nina bật cười. “Đó là anh còn chưa đọc mấy cuốn khác của Owen, cuốn nào cũng tởm vậy hết. Nhưng dù sao cũng phải thừa nhận rằng cuốn này có yếu tố gây cười mạnh. Anh đọc tới chỗ đống của nợ bốc mùi của Daniel chưa?” “Chưa tới. Nghe hấp dẫn quá chừng.” Đêm nay Nina cũng mặc áo khoác len ấm sực như tối qua, bên dưới là một chiếc đầm hai dây đen ôm dáng. Lúc mới vào nhà Nina ở St. John’s Wood hắn đã được no mắt chiêm ngưỡng bộ đầm khi cô loay hoay tìm túi xách và chìa khóa. Khi thấy hắn đi tay không, cô vào bếp lấy ngay một chai rượu mang theo. Đúng là một cô nàng vừa xinh xắn vừa thông minh, lại còn chu đáo. Nhưng chuyện cô sẵn lòng gặp hắn ngay đêm hôm sau, lại là thứ Bảy nữa, cho thấy chút gì đó liều lĩnh, hoặc dễ mềm lòng, lụy tình. Một lần nữa Strike tự hỏi không biết mình đang làm trò gì. Xe rời khỏi London, ra đến vùng ngoại ô trung lưu với những ngôi nhà rộng rãi, bên trong kiểu gì cũng có máy pha cà phê, tivi HD và tất tần tật những thứ hắn chưa bao giờ sở hữu. Em gái Lucy cứ nghĩ rằng hắn phải lấy đó lấy làm mục tiêu phấn đấu trong đời. Tổ chức sinh nhật cho ông anh ngay tại nhà mình. Thật đúng y kiểu của Lucy. Em gái hắn là người không hề có đầu óc tưởng tượng. Mặc dù hay càm ràm, Lucy vẫn khá tự hào về ngôi nhà riêng. Chỉ có Lucy mới muốn bày trò tiệc tối mặc dù hắn chẳng tha thiết gì, mà cũng chỉ có Lucy mới không chịu hiểu vì sao. Trong thế giới của Lucy, sinh nhật nào cũng phải được kỷ niệm, không thể bỏ qua: lúc nào cũng phải có bánh ga-tô, có nến, có thiệp chúc mừng và quà tặng; mỗi mốc thời gian đều cần được đánh dấu, mọi thứ lễ nghi được duy trì, lề thói được giữ vững. Taxi chạy qua đường hầm Blackwall dưới lòng sông Thames, đưa hai người về phía nam London. Strike bỗng nhận ra việc hắn rủ Nina đi cùng tối nay có gì đó hơi bị nổi loạn. Mặc dù đã chu đáo mang theo chai rượu đúng phép tắc, Nina là người khá bốc đồng và liều lĩnh. Cô ấy sống một mình, thích nói chuyện sách vở chứ không phải chuyện tã lót trẻ con. Nói tóm lại, Nina không thể nào vừa mắt Lucy. Nửa tiếng sau khi hắn rời phố Denmark, năm mươi bảng cũng kịp bốc hơi theo đồng hồ xe taxi, Strike đỡ Nina ra khỏi xe trong cái se lạnh đêm tối bên ngoài nhà Lucy. Hắn dẫn cô đi trên lối nhỏ ngay dưới cây hoa mộc lan lớn phủ bóng cả khu vườn trước nhà. Trước khi bấm chuông cửa, hắn ngập ngừng: “Đáng ra tôi phải nói trước với cô, hôm nay là tiệc sinh nhật. Sinh nhật tôi.” “Ôi, thế mà anh chẳng nói gì! Chúc mừng…” “Cũng không đúng ngày mà.” Strike ngắt. “Có sao đâu.” Rồi hắn nhấn chuông. Greg, em rể hắn ra mở cửa. Hai người đàn ông vỗ vai đập tay các kiểu, Greg tỏ vẻ hào hứng hơi quá đà khi thấy Nina. Sự hào hứng của Greg càng rõ rệt, nhất là khi đặt ngay bên cạnh Lucy hơi bị lạnh lùng, vừa chạy từ trong bếp ra, tay cầm cây phới bột như cầm kiếm, vẫn còn mặc tạp dề bên ngoài bộ đồ vía. “Anh chẳng thèm nói trước là có rủ bạn đi cùng!” Lucy nghiến răng thì thầm vào tai Strike khi hắn cúi xuống hôn má em gái. Lucy thấp người, tóc vàng, mặt tròn trĩnh: nhìn vào chẳng ai nghĩ hai người là anh em. Em gái hắn là kết quả của vụ dan díu của mẹ hắn với một tay guitar đệm nổi tiếng. Rick, cha của Lucy vẫn giữ liên lạc bình thường với con cái, khác với cha của Strike. “Tưởng em dặn nhớ rủ bạn đi cùng kia mà,” Strike nói thầm với Lucy khi Greg dẫn Nina vào phòng khách. “Ý em là hỏi anh có định rủ…” Lucy bực bội đáp. “Trời đất, em phải đi lấy thêm… mà tội nghiệp Marguerite…” “Marguerite nào kia?” Strike hỏi, nhưng Lucy đã líu ríu chạy ra phòng ăn, tay vẫn cầm cây phới bột, để mặc ông khách quý đứng một mình ở hành lang. Strike thở dài, theo chân Greg và Nina vào phòng khách. “Ngạc nhiên chưa!” một người đàn ông tóc vàng hơi hói đứng dậy từ ghế sofa, cô vợ đeo kính đang ngồi đó mỉm cười chào Strike. “Trời đất,” Strike đáp, chạy đến bắt tay mừng rỡ. Nick và Ilsa là hai người bạn thân từ lâu của Strike, cặp vợ chồng này cũng chính là gạch nối hạnh phúc giữa hai phần đời trước đó của hắn: London và Cornwall. “Chẳng ai thèm nói tối nay có tụi mày!” “Thì bất ngờ mà, Oggy,” Nick nói khi Strike hôn chào Ilsa. “Mày có quen Marguerite không?” “Không,” Strike đáp. “Đâu có quen.” Vậy đây chính là lý do tại sao Lucy muốn biết Strike có định rủ ai đi cùng không. Marguerite là kiểu phụ nữ mà Lucy nghĩ hắn sẽ thấy xiêu lòng, rồi sẽ cưới để mà còn sống trọn đời bên nhau trong một căn nhà có cây mộc lan ở vườn trước. Marguerite tóc đen, da nhờn, mặt mày rầu rĩ, mặc đầm màu tím óng ánh hình như mua từ lúc chưa tăng cân. Strike chắc chắn cô này đã ly dị. Gần đây hắn nhìn ra các bà các cô kiểu đó cực kỳ nhanh. “Chào anh,” cô ta lên tiếng, trong khi Nina mặc áo đầm đen hai dây vẫn say sưa nói chuyện với Greg. Tiếng chào cụt ngủn mà chứa đựng cả một trời chua chát. Bảy người ngồi xuống bàn ăn. Từ khi giải ngũ Strike ít gặp bạn bè cũ. Hắn tham công tiếc việc, ngày thường cũng như ngày nghỉ. Giờ đây hắn nhớ ra mình thích Nick và Ilsa như thế nào. Giá mà tối nay chỉ có ba người, cùng đi đâu đó ăn cà ri thì tuyệt biết mấy. “Anh chị quen với Cormoran ra sao?” Nina nhanh nhảu hỏi. “Tôi là bạn học hồi còn ở Cornwall,” Ilsa mỉm cười nhìn Strike đang ngồi đối diện. “Nhưng cứ khi có khi không. Dăm bữa đi học, dăm bữa nghỉ, đúng vậy không hả Corm?” Rồi mọi người vừa ăn cá hồi xông khói, vừa nói chuyện tuổi thơ lang bạt của Strike và Lucy. Hai anh em cứ rày đây mai đó với người mẹ thích lang thang, thỉnh thoảng lại về St. Mawes ở với cậu mợ mà gần như là cha mẹ nuôi trong những ngày ấu thơ lẫn thời niên thiếu. “Rồi Corm lại theo mẹ đến London khi nào nhỉ, mười bảy tuổi, đúng không?” Ilsa kể. Strike thấy rõ là Lucy không thích câu chuyện chút nào: em gái hắn không ưa nhắc đến tuổi thơ khác thường của hai anh em và người mẹ đầy tai tiếng. “Khi tới London hắn học một trường phổ thông quậy có tiếng với tôi,” Nick kể. “Một thời oanh liệt.” “Quen Nick rất có lợi,” Strike nói, “Cha này rành London như lòng bàn tay; ông già lái taxi mà.” “Anh cũng lái taxi hả?” Nina hỏi Nick, phấn khích trước đám bạn bè thú vị xa lạ của Strike. “Không,” Nick vui vẻ trả lời. “Tôi là bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa. Oggy và tôi tổ chức sinh nhật mười tám tuổi chung…” “… rồi Corm mời Dave và tôi từ St. Mawes lên dự. Lần đầu tiên đến London đó, trời, vui quá chừng…” Ilsa kể tiếp. “Cũng là lần đầu tiên tôi gặp Ilsa.” Nick kể nốt, tươi cười nhìn vợ. “Vậy mà chừng đó năm vẫn chưa chịu có con?” Greg hỏi, đúng giọng ông bố vênh váo của ba đứa con trai. Câu chuyện đứng lại trong tích tắc. Strike biết rằng Nick và Ilsa đã cố gắng nhiều năm mà chưa có kết quả. “Vẫn chưa,” Nick đáp, “Cô làm đâu hả Nina?” Nghe đến nhà xuất bản Roper Chard, Marguerite sinh động lên đôi chút. Nãy giờ cô ta vẫn ngồi bên kia góc bàn, nhìn Strike mà mặt mày sưng sỉa như thể hắn là một món ngon xui xẻo đặt quá tầm tay với. “Michael Fancourt mới chuyển về Roper Chard,” cô ta tuyên bố. “Sáng nay tôi thấy trang web của ông ấy có đăng.” “Dữ thiệt, mới công bố hôm qua chứ mấy,” Nina góp chuyện. Hai tiếng “dữ thiệt” làm Strike nhớ đến cách Dominic Culpepper gọi nhân viên quán ăn bằng “mậy, nhỏ”. Nina rõ là đang cố ăn nói cho giống dân taxi để lọt tai Nick, vừa để chứng tỏ với Strike rằng coi vậy mà cô cũng có thể hòa đồng với giai cấp vô sản. (Charlotte, vợ hụt của Strike chẳng bao giờ thèm thay đổi từ vựng hay giọng nói, ở bất cứ hoàn cảnh nào. Mà Charlotte vốn chẳng ưa gì bạn bè riêng của hắn.) “À, tôi là fan ruột của Michale Fancourt mà,” Marguerite nói. “Ngôi nhà hoang hốc là một trong những cuốn tôi thích nhất. Tôi thích các tác phẩm của Nga, ở Fancourt có gì đó khiến tôi nghĩ đến Dostovesky…” Rõ là Lucy đã bỏ nhỏ trước với Marguerite rằng Strike từng học Oxford, rằng hắn rất thông minh. Hắn ước gì Marguerite đang ở tận đẩu đâu, còn Lucy thì hiểu ông anh của mình hơn một chút. “Fancourt không viết về phụ nữ cho ra hồn được,” Nina bỉ bôi. “Cố lắm cũng viết không ra. Ổng tả đàn bà toàn ngúng nguẩy ngực mông với cả tăng xông đồng bóng.” Nick phì cười ngay trên ly rượu khi Nina nói “ngúng nguẩy ngực mông”. Strike cười theo. Ilsa vừa khúc khích vừa nói: “Hai ông này, đã ba mười sáu tuổi mà cứ như trẻ con.” “Nhưng tôi thấy ông ấy tuyệt vời,” Marguerite lặp lại, không một mảy may mỉm cười. Đêm nay cô ta vừa bị nẫng mất một ứng cử viên tiềm năng (mặc dù chỉ có một chân và hơi ú), nên làm sao bỏ nốt Michael Fancourt. “Với cả, rất có duyên. Tôi luôn thích loại đàn ông phức tạp và có đầu óc,” cô ta thở dài, khẽ liếc Lucy, rõ là có ý nhắc đến tình sử bi đát của mình. “Đầu Fancourt hơi quá khổ so với thân mình,” Nina nói tiếp, mặc dù đêm trước cô cũng phấn khích không kém khi thấy ông nhà văn, “với lại ông ta nổi tiếng kiêu căng hợm hĩnh.” “Tôi cứ thấy cảm động, chuyện ông ta giúp tay nhà văn người Mỹ trẻ tuổi đó,” Marguerite đáp trả. Lucy dọn đĩa món khai vị vừa ăn xong, cùng lúc đưa tay ra hiệu cho Greg vào bếp phụ mình. “Ông ấy giúp bạn hoàn tất tác phẩm… tay đó nghe đâu chết vì Aids, tên gì nhỉ…?” “Joe North,” Nina đáp. “Tao thấy lạ là tối nay mày còn bụng dạ đi chơi,” Nick khẽ nói với Strike. “Sau vụ hồi chiều.” Nick, đáng tiếc thay, lại là fan của Spurs. Greg quay lại bàn ăn, mang theo khúc thịt cừu, vừa thoáng nghe Nick nói, ngay lập tức nhập hội. “Đau không Corm? Vậy mà cứ tưởng ăn chắc rồi chứ.” “Chuyện gì nữa đây?” Lucy lên tiếng như cô hiệu trưởng gọi học sinh trật tự, đặt đĩa khoai tây và rau củ xuống bàn. “Lại nói chuyện bóng đá nữa rồi hả Greg, thôi đi.” Vậy là bóng lại về chân Margeurite. “Đúng vậy, Ngôi nhà hoang hốc là lấy từ cảm hứng từ căn nhà mà người bạn đó để lại cho Fancourt, nơi họ từng có những tháng ngày hạnh phúc thời tuổi trẻ. Câu chuyện vô cùng cảm động. Một câu chuyện về nuối tiếc, mất mát và những hoài bão bị đè nén…” “Thực ra Joe North để lại căn nhà cho cả Michael Fancourt và Owen Quine,” Nina mạnh dạn sửa lời Marguerite. “Cả hai đều viết tiểu thuyết lấy cảm hứng từ đó; Michael được giải Booker còn Owen thì bị ném đá tơi tả,” Nina thêm vào, khẽ liếc Strike. “Rồi cái nhà đó giờ sao?” Strike hỏi Nina. Lucy vừa chuyền cho hắn đĩa thịt cừu. “À, lâu lắm rồi, chắc là bán đứt rồi,” Nina đáp, “Hai người đó đâu có muốn đứng tên chung cái gì; không ưa gì nhau đã bao năm nay. Từ khi Elspeth Fancourt tự tử chỉ vì bài đăng báo nhại theo đó.” “Cô biết cái nhà đó ở đâu không?” “Lão không tới đó đâu,” Nina hạ giọng. “Ai không ở đâu kia?” Lucy hỏi, không thèm che đậy thái độ bực tức. Kế hoạch mai mối đã phá sản. Em gái hắn sẽ không cách gì mà quý Nina được. “Một tác giả làm bên chỗ tôi vừa mất tích,” Nina kể. “Bà vợ ông ấy nhờ Cormoran đi tìm.” “Cha đó ngon lành không?” Greg hỏi. Rõ là Greg suốt ngày nghe Lucy rên rỉ về ông anh giỏi giang mà túng thiếu của mình, làm việc tối mày tối mặt và vẫn chật vật. Nhưng hai tiếng “ngon lành” khi qua miệng Greg khiến Strike khó chịu như gai đâm. “Không,” hắn đáp. “Khó mà nói Quine là ‘ngon lành’ được.” “Ai thuê anh vậy hả Corm? Bên nhà xuất bản à?” Lucy lo lắng hỏi. “Vợ ổng,” Strike đáp. “Chắc bả sẽ trả công đầy đủ chứ?” Greg hỏi. “Nói gì thì nói Corm à, làm ăn là phải sòng phẳng.” “Còn không biết lấy giấy bút ra mà ghi lại nữa,” Nick thì thầm vào tai Strike nhân lúc Lucy hỏi Marguerite có muốn ăn thêm gì nữa không (như thể bồi thường cho chuyện cô ta sẽ không được ra về với Strike, lấy nhau rồi dọn đến sống cách Lucy hai khu phố, rồi trong nhà sẽ có máy pha cà phê là quà tặng của Lucy và Greg). Sau bữa tối cả nhà trở lại bộ sofa màu beige trong phòng khách, đến màn trao thiệp và mở quà. Lucy và Greg tặng hắn một chiếc đồng hồ mới, “Vì em biết cái cũ của anh đã bị vỡ,” Lucy nói. Hắn thấy cảm động, tạm thời không bực bội chuyện em gái hắn đã lôi hắn tới đây, chuyện cô suốt ngày ca cẩm hắn, và cả chán nhất là đi lấy Greg làm chồng… Hắn tháo chiếc đồng hồ rẻ tiền nhưng vẫn còn xài được mà hắn đã mua để thế cho chiếc bị vỡ, rồi đeo đồng hồ Lucy tặng: mặt đồng hồ to và sáng bóng, có dây đeo thép, y chang cái Greg đang đeo. Nick và Ilsa tặng hắn “thứ whisky ruột của mày”: Arran Single Malt, làm hắn nhớ đến Charlotte, người đã cùng hắn nếm món này lần đầu tiên, nhưng chưa kịp ngậm ngùi thì ba thằng cháu mặc pyjama đã xuất hiện ngay cửa. Đứa cao nhất hỏi: “Có bánh ga-tô chưa?” Strike chưa bao giờ muốn có con cái (rất là trái ý Lucy) và hầu như chẳng biết gì nhiều về mấy đứa cháu mà lâu lâu mới gặp. Đứa lớn nhất và bé nhất líu ríu theo mẹ ra bếp để lấy bánh; đứa nhỡ chạy tọt tới trước mắt hắn, chìa ra một tấm thiệp tự làm. “Cậu đó,” Jack nói, chỉ vào hình vẽ trên thiệp, “cậu được tặng huy chương đó.” “Anh được tặng huy chương à?” Nina hỏi, hai mắt mở to, mỉm cười. “Cảm ơn con,” Strike đáp. “Con cũng muốn làm lính,” Jack nói. “Tội của anh đó, Corm,” Greg nói, Strike nghe đâu có chút hằn học. “Cứ mua đồ chơi lính tráng cho nó mãi. Còn kể chuyện cây súng của anh nữa.” “Hai khẩu lận,” Jack sửa lời ông bố. “Cậu Cormoran có hai khẩu súng,” thằng bé quay sang nói với Strike. “Nhưng cậu phải trả lại cho họ hết.” “Con nhớ giỏi quá,” Strike khen thằng bé. “Rồi sẽ tiến xa.” Lucy xuất hiện với chiếc bánh tự làm, cắm ba mươi sáu cây nến và rắc có lẽ đến hàng trăm viên kẹo nút Smarties đủ màu. Greg tắt đèn, cả nhà bắt đầu hát Happy birthday. Strike tự dưng chỉ muốn đi khỏi đây ngay lập tức. Hắn sẽ gọi taxi ngay khi ra khỏi phòng, nhưng trước mắt hắn phải nhe răng cười, thổi nến, vừa cố tránh ánh mắt của Marguerite giờ đây đang ngồi gần đó, nhìn hắn đắm đuối, không thèm che đậy. Hắn làm gì nên tội mà suốt ngày cứ bị bạn bè và người thân sốt sắng ép vào vai hiệp sĩ cho các bà các cô tồn kho thế này? Strike gọi taxi ngay trong toilet ở tầng dưới. Nửa tiếng sau, hắn ra bộ luyến tiếc, tuyên bố là hắn và Nina phải đi ngay vì hôm sau còn phải dậy sớm. Hai người bước ra khỏi phòng khách đông đúc ồn ào. Hắn kịp né cái hôn môi của Margeurite. Mấy đứa cháu còn nhảy tưng tưng phấn khích sau khi được ăn bánh ngọt thỏa thích ngay trước giờ đi ngủ. Greg nhanh nhảu giúp Nina mặc áo khoác. Nick nói thầm vào tai Strike: “Tưởng mày không thích gái nhỏ con.” “Thì vậy,” Strike thì thầm đáp. “Nhưng hôm qua cổ vừa luộc giùm tao một món.” “Vậysao?Cònkhôngbiếtđáplễnữa,nhớchonàngởtrênđó,”Nicknói,“Khéomàbịmàyđèbẹp ruột.” 16 … cần gì của tươi vật sống, rồi nợ máu kia cũng đủ khiến người no say. Thomas Dekker và Thomas Middleton The Honest Whore Sáng hôm sau, vừa mở mắt hắn đã biết ngay là giường lạ. Nệm quá êm ái, tấm trải quá mềm mại; ánh sáng đổ vào phòng cũng khác, còn tiếng mưa đập vào cửa sổ đã bị làm dịu đi qua rèm cửa khép kín. Hắn ngồi thẳng dậy, nheo mắt đảo một vòng quanh phòng ngủ của Nina mà đêm trước chỉ kịp nhìn lướt qua trong ánh đèn mờ. Qua tấm gương đối diện hắn thấy mình đang ở trần, bộ ngực lông lá đen sẫm nổi bật trên nền tường sơn xanh nhạt sau lưng. Nina không có nhà, nhưng hắn ngửi thấy mùi cà phê. Y như hắn đoán, Nina rất hào hứng nhiệt tình trên giường, khiến hắn tạm thời quên đi chút ngậm ngùi mỗi dịp sinh nhật. Tuy vậy, giờ đây hắn tính bài làm sao chuồn lẹ. Cứ dây dưa ở đây thì sẽ khiến cô nàng tiếp tục kỳ vọng ở hắn, mà hắn thì không sẵn lòng đáp lại. Chiếc chân giả dựa vào bức tường cạnh giường. Hắn vừa dợm với lấy thì kịp dừng tay lại. Cửa mở, Nina bước vào, áo xống đầy đủ, báo mới kẹp dưới cánh tay, một tay cầm hai cốc cà phê còn tay kia cầm một đĩa bánh sừng bò. “Tôi chạy ra ngoài một chút,” cô nói, thở không ra hơi. “Trời đất, thời tiết chán quá. Anh sờ mũi tôi này, cóng cả lên.” “Cô đâu cần phải bày vẽ vậy,” hắn chỉ tay tới đĩa bánh. “Tôi đang đói, dưới đường lại có tiệm bánh ngon hết sẩy. À, mà anh coi nè – tờ News of the World – bài độc quyền của Dom!” Tấm hình vị quý tộc với tài khoản ngân hàng giấu kín mà Strike đã tiết lộ cho Culpepper chiếm trọn khoảng giữa trang nhất, chung quanh là ảnh chụp hai cô nhân tình và bản sao kê ngân hàng ở đảo Cayman do Strike moi được từ ả thư ký. Ngài Phát-phì xứ Phất-phơ dòng tít như đang hả hê hét. Strike đón tờ báo từ tay Nina, đọc lướt qua. Culpepper đã giữ đúng lời hứa: không đả động đến ả thư ký thất tình. Nina ngồi xuống gường ngay cạnh hắn, cùng đọc báo, lâu lâu lại thích thú bình luận: “Lạy Chúa, ai lại… nhìn ông ta kìa” rồi “Trời đất, gớm chưa.” “Được việc cho Culpepper quá còn gì,” Strike nói, gấp tờ báo lại khi cả hai đã đọc xong. Hắn dừng mắt ở dòng ngày tháng trên báo: 21 tháng mười một. Ngày sinh nhật vợ hụt của hắn. Trong giây lát, hắn thấy nhói lòng, tự dưng một mớ kỷ niệm đau thương xồng xộc ùa về… mới một năm trước, gần y giờ này, hắn thức dậy bên cạnh Charlotte trong căn hộ ở đại lộ Holland Park. Hắn nhớ mái tóc dài đen mượt của cô, đôi mắt màu hạt dẻ, thân hình mà hắn sẽ không bao giờ thấy lại nữa, cũng sẽ không bao giờ được chạm đến… Sáng hôm đó cả hai đã rất hạnh phúc, chiếc giường như chiếc thuyền cứu hộ bồng bềnh trên sóng gió không ngớt trong cuộc sống của hai người. Hắn đã tặng cô một chiếc vòng tay (mà hắn phải mua bằng tiền cho vay nặng lãi, mặc dù cô chẳng hề hay biết)… rồi hai ngày sau đó, vào đúng sinh nhật hắn, cô tặng hắn một bộ complet Ý. Hai người đi ăn tối, đã định một ngày sẽ làm đám cưới, mười sáu năm sau lần đầu gặp nhau… Nhưng việc định ngày như đánh dấu một giai đoạn khủng hoảng mới, cứ như phá đi chút cân bằng mong manh trước đó. Charlotte càng lúc càng thất thường, nóng nảy. Những trận cãi vã, ly tách bị ném vỡ, rồi cả những lời buộc tội hắn lừa dối (trong khi chính cô ta, mà giờ hắn đã biết, mới là người lén lút gặp người thứ ba, cũng là vị hôn phu hiện nay của Charlotte)… Hai người chật vật thêm gần bốn tháng nữa, cho đến một trận cãi nhau long trời lở đất đặt dấu chấm hết vĩnh viễn. Có tiếng chăn mền sột soạt: Strike nhìn quanh, gần như ngạc nhiên khi thấy mình vẫn còn ở trong phòng ngủ của Nina. Cô vừa dợm cởi áo, leo lên giường với hắn. “Tôi phải đi giờ,” hắn nói, với tay lấy chiếc chân giả một lần nữa. “Sao vậy?” cô hỏi, hai tay vẫn còn vòng trước ngực, nắm chặt gấu áo. “Thôi mà, Chủ Nhật mà!” “Tôi phải làm việc,” hắn nói dối. “Chủ Nhật cũng có người cần điều tra.” “Ồ,” cô nói, cố ra vẻ thản nhiên nhưng trông tiu nghỉu. Hắn uống cạn cà phê, cố nói chuyện vui vẻ nhưng không quá thân mật. Cô ngắm hắn lắp chiếc chân giả, đi vào nhà tắm. Khi hắn trở ra, chuẩn bị mặc áo, cô ngồi co người trên ghế, gặm bánh sừng bò, trông hơi buồn buồn. “Cô không biết cái nhà đó ở đâu sao? Cái nhà mà Quine và Fancourt thừa kế đó?” hắn vừa hỏi Nina, vừa mặc quần dài. “Gì kia?” cô hỏi, thoáng bối rối. “À, trời đất, đừng nói anh muốn đi tới đó chứ? Tôi nói rồi, đã bán từ đời tám hoánh.” “Để tôi hỏi vợ Quine xem sao,” Strike đáp. Rồi hắn nói sẽ gọi lại cho cô, nhưng nói thật nhanh, để cô hiểu rằng hắn chỉ hứa suông, cho có lệ. Tạm biệt Nina, trong lòng hắn có chút cảm kích nhưng không hề thấy tội lỗi. Strike bước xuống con phố xa lạ, tìm đường ra bến tàu. Nước mưa đâm thẳng xuống mặt và tay hắn. Đèn trang trí Giáng Sinh lấp lánh trước tiệm bánh nơi Nina vừa mua bánh sừng bò. Bóng Strike cúi người lướt qua trên cửa sổ lấm tấm mưa, tay nắm chặt túi ni lông mà Lucy đã chu đáo đưa để hắn đựng thiệp mừng, chai whisky quà sinh nhật và hộp của chiếc đồng hồ mới. Hắn cứ nghĩ đến Charlotte. Charlotte ba mươi sáu tuổi mà trông như chỉ hai lăm, hẳn đang mừng sinh nhật bên vị hôn phu mới. Có lẽ hôm nay cô được tặng kim cương, Strike thầm nghĩ; lúc nào cô cũng nói cô không cần những món đó, nhưng mỗi khi hai người gây gổ, hình ảnh những thứ lấp lánh mà hắn chẳng thể nào đem đến cho cô cứ hiện ra thật rõ trước mắt… “Cha đó ngon lành không?” Greg đã hỏi như thế về Owen Quine. “Ngon lành” theo ý ông em rể là “Xe xịn? Nhà đẹp? Nhiều tiền?” Strike đi ngang qua quán Beatles Coffee Shop, hình trắng đen chụp nhóm Tứ Quái ngộ nghĩnh nhìn lại hắn, rồi đến nhà ga, hắn thấy ấm dần lên. Hắn không hề muốn nằm chèo queo trong căn phòng áp mái ở phố Denmark trong một ngày Chủ Nhật mưa dầm như thế này. Hắn muốn loay hoay bận rộn, để quên đi hôm nay là sinh nhật Charlotte Campbell. Hắn dừng lại, rút điện thoại ra, gọi cho Leonora Quine. “Alô?” Bà ta cộc lốc. “Chào chị Leonora, Cormoran Strike đây…” “Anh tìm ra Owen chưa?” Leonora hỏi thẳng. “E là chưa. Tôi gọi vì mới nghe là hồi đó chồng chị có được thừa kế một căn nhà từ người bạn.” “Nhà nào?” Nghe giọng bà ấy mệt mỏi và bực bội. Hắn nghĩ đến mấy ông chồng lắm của mà hắn từng gặp trong công việc, ông nào cũng có phòng nhì, vợ con không hề hay biết. Hắn tự hỏi phải chăng mình vừa làm lộ bí mật của Owen. “Có đúng vậy không? Có phải một nhà văn tên là Joe North để lại căn nhà cho chồng chị và…?” “À, cái đó hả,” bà ta đáp. “Phố Talgarth, đúng rồi. Nhưng mà đã hơn ba mươi năm rồi. Anh hỏi chuyện đó làm gì?” “Nhà đó bán rồi sao?” “Chưa,” bà ta bực dọc đáp, “bởi vì Fancourt dở hơi đâu có để tụi tôi bán. Chỉ để trêu ngươi thôi, vì ông ấy cũng không thèm ở. Cái nhà để hoang vậy, không ai ở, mốc meo đổ nát.” Strike đứng dựa lưng vào tường bên cạnh máy bán vé tàu, mắt hắn dán vào trần nhà hình tròn có thanh rầm đỡ như mạng nhện. Hắn lại tự rủa mình, đây, hậu quả của việc nhận khách hàng khi không tỉnh táo. Đáng ra hắn phải hỏi liệu vợ chồng bà ta có nhà cửa nào nữa không. Phải xác minh ngay từ đầu. “Có ai tới đó tìm chồng chị chưa hả chị Quine?” Bà ta hừ một tiếng, bỉ bôi. “Đời nào ổng tới đó!” bà ta nói, cứ như thể Strike vừa nói rằng chồng mình đi trốn trong điện Buckingham. “Ổng ghét chỗ đó lắm, không bao giờ mò tới đâu! Với lại ở đó đâu có đồ đạc gì.” “Chị có chìa khóa nhà không?” “Không biết nữa. Nhưng Owen không tới đó đâu, chắc luôn! Từ đời nào rồi ổng có thèm đâu. Ở gì cái chỗ đó, vừa cũ vừa trống hoác.” “Nếu chị thử tìm chìa khóa…” “Tôi không rảnh mà đi tới phố Talgarth được đâu, còn Orlando nữa” bà ta đáp, đúng y như hắn đoán. “Với cả, tôi nói anh rồi, ổng không…” “Giờ tôi ghé qua nhà chị được,” Strike nói, “rồi tôi sẽ lấy chìa khóa, nếu chị tìm ra, tôi sẽ đến đó xem sao. Cứ tới kiểm tra cho chắc ấy mà.” “Ừ, nhưng… hôm nay Chủ Nhật mà,” bà ta nói, có vẻ ngạc nhiên. “Tôi biết rồi. Chị đi tìm chìa khóa cho tôi được không?” “Được thôi,” bà ta nói, sau khi im lặng trong giây lát. “Nhưng,” bà ta vẫn khăng khăng, “ổng không có ở đó đâu!” Strike đáp tàu, đổi tàu một lần đến ga Westbourne Park. Hắn lật cổ áo khoác che gió mưa tê buốt, đi về phía địa chỉ mà Leonora đã nguệch ngoạc ghi lại khi đến văn phòng tìm hắn. Khu Leonora ở là một trong những khu hơi lạ đời ở London, nơi đó từ nhà đại gia đến nhà của dân lao động mua đã hơn bốn chục năm chỉ cách vài bước chân. Màn mưa để lộ khung cảnh như một bức tranh tầm sâu lạ lùng: những tòa nhà chung cư mới rợi mọc lên sau những dãy nhà liên kế tĩnh lặng, tầm thường, nhà mới thì sang trọng còn nhà cũ trông có vẻ ấm cúng. Nhà của Quine ở phố Southern Row, một con phố nhỏ yên tĩnh toàn những ngôi nhà gạch nhỏ, gần quán rượu sơn màu trắng có tên là The Chilled Eskimo. Lạnh buốt và ướt nhẹp, Strike nheo mắt nhìn bảng hiệu quán ngay trên đầu khi bước qua; bảng hiệu vẽ hình một người Eskimo đang câu cá thư giãn bên cạnh hố nước, quay lưng về phía mặt trời đang mọc. Cánh cửa vào nhà Quine có màu xanh nhờ nhờ, tróc sơn. Mặt tiền nhà nhìn đâu cũng thấy hỏng hóc, đến chiếc cổng cũng chỉ còn mỗi một bản lề. Strike nghĩ đến sở thích ở khách sạn tiện nghi của Owen mà thấy ngán ngẩm với ông nhà văn này. Hắn đưa tay bấm chuông. “Anh lẹ thiệt,” Leonora mở cửa, chào hỏi cụt ngủn. “Vô nhà đi.” Hắn theo Leonora đi vào hành lang tối tăm, chật hẹp. Bên tay trái có một cánh cửa mở hé, phòng bên trong có vẻ như thư phòng của Owen Quine, trông bẩn thỉu và luộm thuộm. Ngăn kéo mở lung tung, một chiếc máy chữ điện đã cũ đặt chênh vênh trên bàn. Strike hình dung cảnh Owen lồng lộn xé giấy trong cơn giận Elizabeth Tassel. “Chị có tìm ra chìa khóa không?” Strike hỏi Leonora khi cả hai bước vào căn bếp cũng tối om, có mùi âm ẩm chua chua phía cuối hành lang. Mấy thứ đồ bếp trông như đã có từ ba mươi năm trước. Strike nhớ hồi những năm tám mươi mợ Joan cũng có một cái lò vi sóng màu nâu sẫm y chang vậy. “À, tìm được một mớ,” Leonora đáp, huơ tay chỉ năm sáu chiếc chìa khóa la liệt trên bàn. “Không biết là cái nào.” Không có chìa nào gắn móc khóa. Một chìa trông to đùng, như thể chìa khóa cửa nhà thờ. “Nhà đó số bao nhiêu phố Talgarth?” Strike hỏi Leonora. “Một trăm bảy chín.” “Chị tới đó lần cuối khi nào?” “Tôi hả? Có tới bao giờ đâu,” bà ta đáp, có vẻ thờ ơ thật sự. “Tôi chả thiết. Đúng vớ vẩn.” “Vớ vẩn sao kia?” “Thì chuyện để lại nhà cho cả hai người đó.” Đáp lại vẻ mặt hỏi han lịch sự của Strike, bà ta sốt ruột nói, “Tay Joe North đó, để lại cho cả Owen lẫn Michael Fancourt. Nói là để có chỗ mà viết sách. Từ đó giờ có ai ở đâu. Vô ích.” “Mà chị chưa bao giờ tới đó sao?” “Không. Hồi đó là lúc tôi vừa sinh Orlando. Tôi chả thiết,” bà ta lặp lại. “Orlando sinh ra lúc đó à?” Strike hỏi, ngạc nhiên. Hắn cứ hình dung Orlando là một đứa bé mười tuổi hiếu động. “Ừ, năm tám sáu,” Leonora đáp. “Nhưng nó bị bịnh.” “Ồ,” Strike nói. “Tôi hiểu rồi.” “Giờ nó đang hờn trên gác, vì mới bị tôi rầy” Leonora kể, tuôn một tràng như thói quen. “Nó cứ tắt mắt, lấy đồ linh tinh. Nó biết làm vậy sai, nhưng mà cứ làm. Hồi hôm qua khi Edna qua chơi, tôi bắt quả tang nó lấy ví của Edna. Không phải tiền bạc gì,” bà ta nhanh chóng kể thêm, cứ như Strike vừa buộc tội con gái. “Vì nó thích màu đó thôi. Edna thông cảm vì bà ấy quen với nó rồi, nhưng không phải ai cũng vậy. Tôi rầy nó. Nó biết lỗi rồi.” “Giờ tôi lấy hết chỗ chìa này đi thử được không?” Strike hỏi, vét đám chìa khóa lên tay. “Tùy anh,” Leonora đáp, rồi khăng khăng, “Ổng không có đó đâu.” Strike bỏ đám chìa khóa vào túi, từ chối lời mời uống trà hay cà phê trễ tràng của Leonora rồi bước vào màn mưa. Hắn nặng nhọc lê bước về phía ga Westbourne Park. Đáp tàu từ đó sẽ tiện đường, không phải đổi tàu nhiều lần. Lúc ở nhà Nina, vội đi nên hắn đã không cẩn thận lắp chân cho kỹ, lại còn không thể xoa kem bảo vệ lớp da mỏm chân. Tám tháng trước đó (ngay hôm bị đâm vào cánh tay) Strike ngã một cú trời giáng xuống cầu thang. Bác sĩ có nói rằng tình trạng chân cẳng của hắn có xấu đi, nhưng vẫn cứu vãn được, dây chằng đầu gối của bên chân cụt bị tổn thương, rồi nói hắn nên chườm đá, nghỉ ngơi và tái khám. Nhưng Strike vẫn chưa nghỉ ngơi được, cũng không muốn đi khám lại, vậy là hắn lắp chân giả lên trên gối rồi mỗi khi ngồi thì nhớ nhấc mỏm chân lên. Vết thương đã đỡ nhưng nếu hắn đi đứng quá nhiều thì lại sưng tấy, đau buốt. Con đường phía trước uốn về phía bên phải. Một dáng người cao, gầy, hơi khom đi ngay sau lưng hắn, đầu cúi gằm xuống, chỉ thấy mỗi chiếc mũ áo đen. Đương nhiên, lúc này đây hắn nên về nhà, nghỉ ngơi. Chủ Nhật mà. Hắn đâu cần đi lang thang khắp London giữa trời mưa như vậy. “Ổng không ở đó đâu”, giọng Leonora vọng lên trong đầu hắn. Nhưng nếu về thì lại nằm nghe tiếng mưa đập rầm rầm trên khung cửa sổ xiêu vẹo cạnh chiếc giường dưới đầu hồi, mấy cuốn album ảnh Charlotte gần đó, ngay trong đám thùng giấy đặt ngoài cửa… Hắn thà đi tiếp, làm việc tiếp, suy nghĩ tiếp về những rối rắm của kẻ khác… Hắn nheo mắt trong mưa, nhìn lên những căn nhà vừa đi qua, cảm nhận rõ bóng người đi bộ sau mình chưa tới hai chục mét. Người đó mặc áo choàng lùng thùng nhưng Strike vẫn cảm giác rõ, từ tiếng bước chân nhanh, ngắn, rằng người này là nữ giới. Strike để ý thấy cách cô ta bước đi có gì đó không bình thường, hơi lạ lùng. Không có vẻ gì là đi bộ lang thang trong trời mưa lạnh cả. Cô ta cúi đầu không phải để tránh mưa, mà giữ khoảng cách đều với hắn, chứ không phải có đích đến rõ ràng. Cô ta cứ thay đổi bước đi từng chút một, nhưng Strike vẫn nhận ra mỗi lần cô ta tiến lại gần hắn hơn một chút. Cứ vài bước gương mặt nấp dưới mũ áo lại thoắt hiện thoắt ẩn dưới màn mưa xối xả. Cô ta đang cố bám theo hắn. Leonora đã nói gì khi đến tìm hắn ở văn phòng? “Còn, có người theo dõi tôi. Một con nhỏ cao, tóc đen, vai so.” Strike thử thay đổi tốc độ bước đi, lúc nhanh lúc chậm từng chút một. Khoảng cách giữa hai người vẫn y nguyên vậy; gương mặt cô ta hé ra thường xuyên hơn, nước da trắng trẻo hồng hào. Cô ta liên tục quan sát hắn. Rõ là cô gái này không biết cách theo dõi. Nếu là Strike, hắn đã chọn đi bên vỉa hè đối diện, giả vờ nói điện thoại để che giấu mục đích, thay vì cứ dò dò bám đuôi như vậy. Để giải khuây, hắn giả vờ dừng lại đột ngột, cứ như thể vừa nhận ra đã đi nhầm đường. Bị bất ngờ, bóng đen theo sau đứng sững lại như tê liệt. Strike bước tiếp, vài giây sau đã nghe thấy tiếng bước chân cô ta vang vọng trên vỉa hè lẹp nhẹp sau lưng hắn. Cô ta còn không biết là mình vừa bị hắn chơi. Ga Westbourne Park hiện ra phía trước: một tòa nhà dài, thấp tầng, gạch vàng. Tới đó hắn sẽ chặn đường bóng đen kia lại, giả vờ hỏi giờ để nhìn cho rõ mặt. Hắn bước vào nhà ga, rẽ qua một bên cửa, đứng đợi sẵn. Ba mươi giây sau hắn thấy bóng đen cao cao xuất hiện, đi thẳng vào cửa ga qua màn nước mưa lóng lánh, tay vẫn đút túi. Rõ là cô ta sợ nhỡ mất hắn, sợ là hắn đã lên tàu rồi. Nhanh như cắt, hắn quay ra cửa ga để đối mặt với cô gái – nhưng cái chân giả bỗng loạng choạng trên nền gạch ướt, mất đà. “Mẹ kiếp!” Hắn vụng về xoạc một chân rồi ngã nhào xuống sàn ướt nhẹp, dơ dáy, ngồi lên cả chai rượu whisky trong túi xách. Hắn thấy cô ta ở cửa ga, đứng sững lại rồi lỉnh đi như con nai vừa thấy động. “Chó chết,” hắn thở hồng hộc, nằm dài trên nền gạch, đám đông đứng gần máy bán vé nhìn hắn chằm chằm. Khi ngã xuống hắn lại trặc chân tiếp; như thể vừa làm rách dây chằng; đầu gối chỉ mới đó còn đau rền, giờ nhức tới xương. Hắn lầm bầm rủa sàn nhà vừa lau, rủa cả khớp mắt cá chân giả quá cứng nhắc, rồi gượng đứng dậy. Không ai muốn lại gần hắn. Rõ là người ta tưởng hắn vừa uống say – chai whisky của Nick và Ilsa tặng tuột khỏi túi ni lông, lăn lông lốc trên sàn nhà. Cuối cùng một nhân viên nhà ga tới đỡ hắn đứng dậy, lẩm bẩm là đã có bảng báo sàn ướt rồi đó, sao quý khách không nhìn ra, bộ bảng để chỗ khó đọc quá hả? Anh ta nhặt chai whisky đưa cho hắn. Nhục nhã ê chề, Strike lí nhí cảm ơn rồi lê lết về phía cổng soát vé, chỉ muốn tránh vô số ánh mắt tò mò chung quanh. Khi đã yên vị trên chuyến tàu đi về phía nam, hắn duỗi chiếc chân ê ẩm, nắn đầu gối cật lực qua làn vải quần. Đầu gối hắn mềm nhũn, đau đớn, y như hồi ngã cầu thang năm ngoái. Hắn tức sôi người, lại còn cái đuôi kia nữa. Hắn cố nghĩ xem chuyện gì vừa xảy ra. Cô ta bám đuôi hắn từ khi nào? Cô ta có nhìn thấy hắn đi vào nhà Quine không? Có khi nào (nghĩ mà phát rầu) cô ta nhầm hắn với Owen Quine không? Kathryn Kent đã từng nhầm rồi, trong bóng tối… Vài phút trước khi tàu dừng ở ga Hammersmith, Strike đứng dậy, chuẩn bị tư thế để xuống tàu mà nơm nớp. Khi đến ga Barons Court, cũng là trạm cuối, hắn lê chân nặng nhọc, ước giá mà lúc này có cây gậy chống. Hắn bước ra khỏi phòng vé tường lót gạch men xanh màu đậu kiểu thời Victoria, cẩn trọng đặt chân xuống nền nhà ướt nhẹp đầy dấu giày. Nhanh chân rời khỏi nhà ga xinh xắn, với những dòng chữ theo trường phái Art Nouveau và đá chạm trang trí, hắn bước vào màn mưa không dứt, đi về phía con đường cao tốc rầm rầm tiếng xe chạy gần đó. Hắn thở phào nhẹ nhõm khi ra đến ngay đoạn phố Talgarth có ngôi nhà đang tìm. Mặc dù ở London đâu cũng có nhà cửa với kiến trúc độc đáo, lạ thường, hắn chưa bao giờ thấy nhà cửa nơi đâu mà không ăn nhập với khung cảnh chung quanh như ở đây. Những ngôi nhà cũ sắp thành hàng riêng, gạch đỏ sẫm như gợi nhớ tới một thời hoành tráng hơn, trong khi xe cộ vẫn nườm nượp ngược xuôi trên tuyến giao thông huyết mạch từ phía tây vào London. Nhà ở đây chủ yếu là loại nhà kiêm xưởng sáng tác kiểu cọ của các nghệ sĩ cuối thời Victoria, với khung cửa sổ thấp, song chì mắt cáo, tầng trên thường có cửa sổ lớn quay hướng bắc, có cả mái vòm cảnh vẽ, tựa những mảnh vỡ của Điện Pha Lê đã biến mất từ lâu. Dù bị mắc mưa, lạnh và đau chân, Strike vẫn đứng lại trong giây lát, nhìn lên nhà số 179. Hắn sững sờ trước kiến trúc nổi bật của ngôi nhà, tự hỏi liệu Quine sẽ kiếm được bao nhiêu tiền nếu Fancourt đổi ý chịu bán nhà. Hắn nhấc người lên tam cấp trắng. Cửa trước có mái vòm gạch chắn mưa, đầy chi tiết bằng đá chạm trổ hình rèm buông, bút nghiêng và phù hiệu. Strike rút đám chìa khóa ra, ngón tay lạnh tê. Chìa thứ tư trượt vào ổ khóa gọn êm, quay một vòng trơn tru như thể đã được dùng nhiều năm. Một tiếng “cách”, cửa trước mở ra. Hắn bước qua bậc cấp, đóng cửa lại sau lưng. Vào nhà, Strike thấy như mình vừa bị tát hay bị tạt một gáo nước lạnh. Hắn loay hoay kéo cổ áo che kín mũi miệng. Hắn đã hình dung sẽ ngửi thấy mùi bụi bặm và gỗ mục, nhưng xộc vào mũi là thứ mùi hóa chất gay gắt, như muốn bám lại trên mũi và cổ họng. Theo phản xạ hắn đưa tay tìm công tắc đèn trên tường. Ánh sáng tràn xuống từ hai chiếc bóng đèn trơ trọi trên trần nhà. Sảnh trước nhà chật, trống trải, có lót gỗ màu mật ong. Giữa chừng sảnh là mái vòm kiểu cọ, có cột chống hoa văn vặn xoắn cũng bằng gỗ. Mới nhìn qua trông mọi thứ có vẻ êm đềm, thanh lịch, cân xứng. Nhưng nheo mắt nhìn kỹ Strike dần dần nhận ra những vết loang lớn, trông như vừa bị cháy trên vách gỗ. Hẳn có ai đó đã tạt một thứ chất lỏng ăn mòn, hăng hắc khắp nhà, như trong một cơn đập phá điên cuồng. Mùi của nó đến giờ vẫn còn nồng nặc trong không khí bụi bặm. Nó đã tẩy sạch lớp véc-ni trên sàn nhà lâu năm, làm tróc luôn lớp nước bóng phủ lên mặt gỗ cầu thang phía trước, thậm chí còn tạt lên khắp các bức tường, khiến từng mảng sơn tường lớn bị tẩy tróc, phai màu. Strike cố hít thở qua lớp cổ áo vải xéc dày sụ. Trong giây lát hắn nhận ra ngôi nhà quá ấm, thật vô lý nếu đã bị bỏ hoang từ lâu. Hệ thống sưởi trong nhà được bật mức cao, khiến cho thứ mùi hóa chất gay gắt đó càng dữ dội, thay vì dịu đi trong cái lạnh của một ngày đông. Dưới chân hắn có tiếng giấy tờ sột soạt. Hắn nhìn xuống, thấy một mớ thực đơn của các tiệm ăn giao tận nhà, thêm một bức thư GỞI CHỦ HỘ/ NGƯỜI COI SÓC NHÀ. Hắn cúi xuống nhặt bức thư lên. Bức thư chỉ là vài dòng ngắn ngủi, bực bội từ hàng xóm kế bên phàn nàn về mùi hôi của căn nhà. Strike thả bức thư xuống tấm thảm chùi chân rồi đi vào phòng khách, quan sát những vết sẹo trên mọi bề mặt bị tạt hóa chất. Bên trái có một cánh cửa; hắn mở ra. Phòng sau cửa tối om, trống trơn, không bị tạt thứ chất như thuốc tẩy đó. Ngoài ra ở tầng dưới chỉ có thêm một phòng bếp xụp xệ, cũng không có đồ đạc gì cả. Bếp cũng bị tạt hóa chất khắp nơi; đến cả nửa khúc bánh mì thiu trên bệ cũng đẫm hóa chất. Strike đi lên lầu. Đã có kẻ vừa đi trên cầu thang vừa đổ thứ chất ăn mòn kinh khủng đó từ một bình chứa khá lớn. Hóa chất văng tung tóe mọi nơi, ngay cả trên bệ cửa sổ, khiến nước sơn sủi bọt, nứt nẻ. Ở tầng một Strike đứng sững lại. Qua lớp vải len dày hắn vẫn nhận ra một thứ mùi khác, không thể che đậy nổi dưới mùi hóa chất công nghiệp đậm đặc. Một thứ mùi ngòn ngọt, khăm khắm, thum thủm: mùi thịt người đang phân hủy. Hắn bỏ qua hai cánh cửa đang đóng ở tầng một. Chai whisky lủng lẳng trong túi ni lông, hắn chầm chậm theo bước chân của kẻ tạt acid, lên một dãy cầu thang nữa, nơi lớp sơn gỗ cũng bị đốt sạch, tay vịn cầu thang chạm trổ sần sùi do lớp da bóng đã bị lột sạch. Strike tiếp tục bước đi, mùi thịt rữa càng lúc càng nồng. Hắn nhớ đến thời còn ở Bosnia, khi đó bọn hắn thường dùng những cây gậy dài để chọc xuống mặt đất, rồi lôi ra, ngửi đầu gậy – một phương pháp hiệu quả để dò tìm những hố chôn người tập thể. Hắn kéo cổ áo che kỹ miệng khi lên đến tầng trên cùng – một xưởng sáng tác có lẽ là nơi một họa sĩ thời Victoria từng miệt mài làm việc trong thứ ánh sáng phương bắc không thay đổi. Strike tiếp tục đi, chỉ thoáng dừng lại khi đẩy cửa bước vào, kéo tay áo phủ xuống để tránh lưu dấu tay trên cửa gỗ. Hoàn toàn im ắng. Bản lề cửa rít nhẹ. Rồi ruồi nhặng bay ra tứ tung. Hắn đã hình dung ra cái chết đằng sau cánh cửa. Nhưng không hình dung sẽ như thế. Trước mắt hắn là một cái xác bị trói gô lại, đang thối rữa, bốc mùi nồng nặc, nội tạng đã bị moi sạch. Xác nằm trên sàn nhà, nhưng khiến người ta nghĩ ngay đến những súc thịt nguyên con treo trên móc ngoài chợ. Nhưng cái thứ trông như con lợn mới vừa ra khỏi lò mổ ấy lại mặc áo quần như người. Xác nằm ngay dưới rầm nhà uốn vòm trên cao, ngập trong ánh sáng đổ qua khung cửa sổ Roman cực lớn. Mặc dù đang đứng trong một căn nhà riêng, ngoài cửa kính xe cộ vẫn chạy ào ào, Strike thấy như mình đang nôn thốc tháo ở giữa một ngôi đền sau khi phải chứng kiến một màn giết chóc hiến tế, một hành động vô đạo, báng bổ thánh thần. Bảy chiếc đĩa ăn và bảy bộ dao nĩa được bày chung quanh cái xác thối, cứ như thể đó là một tảng thịt khổng lồ vừa được dọn lên bàn. Phần thân mình bị rạch một đường từ cổ họng đến khung xương chậu. Chỉ đứng ở bậc cửa Strike cũng kịp nhìn ra khoang bụng đen ngòm, trống hoác. Bộ ruột đã bị lấy đi, như thể vừa được ăn hết. Vải áo và thịt da bị cháy xém ở nhiều hơn, càng gây ấn tượng mạnh rằng xác đã bị nướng chín và dọn ra đánh chén thỏa thuê. Đôi chỗ trên xác vừa bị cháy vừa đang phân hủy trông lóng lánh, như đang tan chảy. Bốn tấm sưởi quanh phòng bật hết công suất, phát ra tiếng xì xèo, làm cho quá trình phân hủy càng mạnh hơn. Phần mặt nạn nhân ở gần cửa sổ là phần cơ thể xa nhất từ chỗ Strike đang đứng. Strike nheo mắt nhìn, không cử động, cố nín thở. Hắn chỉ thấy được lơ thơ vài cọng râu vàng vẫn còn bám vào cằm và một bên mắt bị đốt cháy, chỉ còn trơ hốc. Mặc dù đã có nhiều kinh nghiệm chứng kiến cảnh chết chóc và các màn chém giết phanh thây, Strike phải cố lắm mới kìm được cơn buồn nôn giữa bầu không khí ngột ngạt mùi hóa chất hòa lẫn mùi tử thi. Hắn kéo túi ni lông lên cánh tay, rút điện thoại di động, chụp ảnh hiện trường từ mọi góc độ có thể mà không phải di chuyển thêm vào trong phòng. Rồi hắn rút ra khỏi xưởng, để cửa tự khép lại. Xú khí vẫn đặc quánh. Hắn gọi 999. Mặc dù rất thèm không khí trong lành đã được mưa gột sạch ở bên ngoài, Strike vẫn di chuyển chậm rãi, cẩn trọng, cố không trượt chân thêm lần nữa. Hắn đi xuống cầu thang cháy loang lổ, ra đường đứng đợi cảnh sát đến. 17 Cạn ly, ai chớ để dành Một khi ngã xuống thôi đành hết say. John Fletcher The Bloody Brother Strike đã từng được cảnh sát London triệu tập đến trụ sở cảnh sát Thủ đô. Lần trước cũng có liên quan đến xác chết. Vài tiếng đồng hồ sau khi rời căn nhà trên phố Talgarth, hắn ngồi đợi ở phòng thẩm vấn, chân cẳng đã đỡ nhức nhối hơn. Hắn tự dưng nhớ ra lần đến sở cảnh sát trước đó, ngay đêm trước hắn cũng vừa trúng mánh, được vui vẻ một trận. Hắn ngồi một mình trong căn phòng chỉ rộng bằng kho đựng văn phòng phẩm, những suy nghĩ đeo bám tâm trí hắn như đám ruồi nhặng bâu quanh cảnh tượng thối rữa kinh hoàng mà hắn vừa chứng kiến. Hắn vẫn còn chưa hết choáng. Trong công việc trước kia Strike đã từng thấy nhiều xác chết bị dàn xếp để ngụy tạo bằng chứng tự tử hay tai nạn; từng khám nghiệm những thi thể đầy dấu vết tàn nhẫn nhằm che đậy tội ác ngay trước khi bị giết; hắn từng thấy đàn ông, đàn bà, trẻ em bị phanh thây, tùng xẻo. Nhưng cảnh tượng vừa chứng kiến tại số 179 phố Talgarth lại gần như mang tính truy hoan trụy lạc, như một màn trình diễn ác dâm được dàn dựng cẩn thận. Hắn rùng mình nghĩ đến trình tự tội ác. Kẻ đó đã tạt acid trước hay moi ruột nạn nhân trước: nạn nhân có bị tra tấn trước khi chết không? Liệu Quine còn sống hay đã chết khi sát thủ dọn dao nĩa quanh ông ta? Căn phòng rộng lớn, có vòm trên trần nơi Quine đang nằm giờ đây hẳn đầy những chuyên gia pháp y mặc đồ bảo hộ, tích cực thu thập chứng cứ. Strike ước gì hắn cũng đang ở đó cùng họ. Phải ngồi im sau khi phát hiện ra một chuyện động trời như vậy, với hắn đúng là cực hình. Hắn sốt ruột, chỉ muốn được làm việc. Từ lúc cảnh sát đến, hắn bị gạt ra rìa, đóng vai một kẻ ngớ ngẩn vô tình đi lạc vào hiện trường, tình cờ gặp phải cảnh tượng đó (mà đúng là “cảnh tượng” thật, hắn nhớ lại: thi thể bị trói, đặt giữa ánh sáng đổ vào từ cửa sổ lớn như cửa sổ nhà thờ… một màn hiến tế xoa dịu quỷ thần… bảy đĩa ăn, bảy bộ dao nĩa…) Qua cửa sổ kính mờ của phòng thẩm vấn, hắn chỉ thấy màn đêm đen kịt bên ngoài. Hắn đã ngồi trong căn phòng bé tí này khá lâu mà cảnh sát vẫn chưa chịu hoàn tất thủ tục lấy lời khai. Thật khó mà biết được sự rề rà đó có bao nhiêu phần trăm là nghi ngờ thực sự, bao nhiêu là hiềm khích. Đương nhiên người phát hiện ra nạn nhân cần được hỏi thấu đáo, vì thông thường họ sẽ không khai hết, mà cũng không biết hết như họ nghĩ. Tuy vậy, sau vụ Lula Landry, cũng có thể nói rằng Strike đã dám qua mặt cảnh sát thủ đô, những người trước đó vừa dõng dạc tuyên bố Lula Landry đã tự tử. Strike không nghĩ mình hoang tưởng khi cho rằng trong thái độ của nữ thanh tra tóc ngắn vừa ra khỏi phòng có cả quyết tâm hù dọa hắn. Hắn cũng thấy thật không cần thiết chuyện đồng nghiệp cô ta cứ chạy ra chạy vào để nhìn mặt hắn, người thì chỉ nhìn chằm chằm, người thì mỉa vài tiếng. Nếu họ nghĩ họ đang làm hắn phải khó chịu, thì họ đã lầm to. Hắn cũng đâu còn chỗ nào để đi, mà họ lại vừa dọn cho hắn một bữa ăn khá tử tế. Giá mà họ để hắn làm một điếu thì hắn còn thấy dễ chịu hơn nữa. Nữ thanh tra vừa thẩm vấn hắn nguyên một tiếng đồng hồ có nói rằng nếu muốn hắn có thể đi ra ngoài hút thuốc, nhưng phải có cảnh sát đi kèm. Trời vẫn còn mưa. Nhưng hắn lười, lại tò mò, nên quyết định ngồi im đó. Chai whisky quà sinh nhật vẫn nằm trong túi để bên cạnh. Hắn nghĩ nếu họ cứ dây dưa mãi, hắn sẽ mở chai. Họ có để sẵn cho hắn một cốc nhựa đựng nước. Cánh cửa sau lưng hắn sè sẹ mở, kéo lê trên thảm nền nhà dày dặn xám xịt. “Bob Bí hiểm đây rồi,” có người gọi. Richard Anstis, cảnh sát thủ đô, sĩ quan dự bị, bước vào phòng, cười nhe răng. Tóc anh ta đẫm ướt nước mưa, cánh tay kẹp một mớ giấy tờ. Một bên mặt Anstis bị sẹo chằng chịt, chỗ da dưới mắt bị kéo căng. Ở bệnh viện dã chiến Kabul, các bác sĩ đã kịp cứu lấy con mắt của Anstis và đầu gối của Strike khi hắn nằm đó bất tỉnh. “Anstis!” Strike reo lên, bắt tay viên cảnh sát. “Cái quái gì…” “Nghiêm chỉnh đi bồ tèo, tao làm vụ này đó,” Anstis đáp, ngồi phịch xuống chiếc ghế mà nữ thanh tra sưng sỉa vừa ngồi lúc này. “Ở đây mày không được yêu quý lắm, biết không hả. Nhưng đừng lo, đã có anh hai mày đây rồi. Để tao nói khó cho mày một tiếng.” Anstis luôn nói rằng chính Strike đã cứu mạng anh ta, mà có lẽ sự thật là vậy. Hai người từng ở dưới làn đạn trên con đường đất vàng lấm bụi ở Afghanistan. Chính Strike cũng không hiểu điều gì đã khiến hắn linh cảm được vụ nổ đó. Người thanh niên kéo tay cậu bé chạy phía trước có thể chỉ đơn giản là đang chạy tránh đạn. Hắn chỉ nhớ là hắn đã hét vào tai người lái chiếc xe tăng Viking, bảo anh ta đạp thắng, nhưng anh ta đã không làm theo, có lẽ vì không nghe được. Vậy là hắn chồm ra phía trước, chụp lấy lưng áo của Anstis rồi kéo anh ta ra phía sau xe. Nếu Anstis không được kéo ra sau thì lẽ anh ta đã phải chịu chung số phận như Gary Topley trẻ tuổi. Gary khi đó ngồi ngay trước Strike. Sau vụ nổ người ta chỉ tìm được đầu và thân mình của Gary để chôn cất. “Giờ tao phải hỏi mày lại lần nữa” Anstis nói, mở tờ ghi lời khai nữ thanh tra vừa giao lại. “Tao uống rượu được không?” Strike mệt mỏi nói. Trước vẻ mặt tủm tỉm của Anstis, Strike rút ra chai whisky single malt từ túi ni lông, đổ chừng hai lóng tay vào chỗ nước âm ấm trong cốc đặt trên bàn. “Vậy là: bà vợ thuê mày đi kiếm tay chồng vừa chết đó… giả định cái xác là của ông…” “Owen Quine,” Strike thêm vào, Anstis nheo mắt đọc ghi chép của đồng nghiệp. “Bà vợ thuê tao cách đây sáu ngày.” “Lúc đó ông ta đã mất tích được…?” “Mười ngày.” “Mà bà vợ vẫn chua chịu đi báo cảnh sát?” “Không. Ông ta vẫn hay giở mửng này: nổi hứng lên là đi, không nói với ai là đi đâu cả, rồi về lại. Thích đi ở khách sạn, để bà vợ ở nhà.” “Vậy tại sao lần này bà ấy lại đi thuê mày?” “Nhà cửa đang lộn xộn. Hai người có con gái bị thiểu năng, lại túng thiếu. Ông ta đi kỳ này hơi lâu hơn thông thường. Bà ấy tưởng là Quine đi đến chỗ nghỉ mát dành cho nhà văn, còn không biết chỗ đó là chỗ nào. Nhưng tao có kiểm tra rồi, ông ta không tới đó.” “Tao vẫn thấy khó hiểu là bả đi kiếm mày, thay vì đi tới chỗ tụi tao.” “Bà ấy có kể là lần trước có gọi cảnh sát, nhưng Quine nổi đóa, vì lúc đó đang đi bồ bịch.” “Để tao kiểm tra lại,” Anstis nói, hí hoáy ghi chép. “Vì sao mày tới cái nhà đó?” “Tối hôm qua tao biết được vợ chồng Quine đồng sở hữu chỗ đó.” Im lặng trong giây lát. “Lúc mới gặp mày bà ta không nhắc gì tới căn nhà đó sao?” “Không,” Strike đáp. “Bà ấy nói là Quine cực kỳ ghét căn nhà, không bao giờ lai vãng. Có vẻ như bà ấy quên mất là hai người có căn đó nữa…” “Thật vậy sao?” Anstis lẩm bẩm, đưa tay gãi cằm. “Nếu đang túng thiếu thật?” “Cũng phức tạp lắm,” Strike đáp. “Người chủ nhà còn lại là Michael Fancourt…” “Tao có nghe tên.” “… bà ấy nói là Fancourt không đồng ý bán. Fancourt với Quine có thâm thù từ lâu.” Strike nốc whisky; hắn thấy cổ họng và dạ dày ấm lên. (Còn dạ dày của Quine, nguyên hệ tiêu hóa đã bị vét sạch. Bị vứt đi đâu rồi? - Hắn nghĩ thầm). “Vậy là lúc trưa tao ghé qua, thấy ông ta nằm đó, đúng ra là phần lớn cơ thể nằm đó.” Whisky làm hắn thèm thuốc cồn cào. “Thi thể nghe nói kinh lắm,” Anstis nói. “Xem không?” Strike rút điện thoại di dộng trong túi ra, mở mấy tấm hình chụp lúc nãy rồi đưa cho Anstis. “Mẹ kiếp,” Anstis thốt lên. Sau giây lát im lặng xem xét hình cái xác thối, Anstis lợm giọng, hỏi tiếp. “Còn mấy thứ gì chung quanh đó kia… đĩa ăn à?” “Đúng thế,” Strike đáp. “Mày biết vì sao không?” “Không biết,” Strike đáp. “Có biết lần cuối cùng có người thấy ông ấy là khi nào không?” “Lần cuối cùng bà vợ thấy mặt là đêm ngày mùng năm. Ông ấy vừa đi ăn tối với người đại diện tác giả về. Bà này nói là cuốn mới nhất của Quine không cách gì xuất bản được vì ông ta phỉ báng tùm lum người trong sách, có cả mấy tay rất khoái kiện cáo.” Anstis nhìn xuống ghi chép của Thanh tra Rawlins. “Mày không kể vụ đó với Bridget.” “Cổ không hỏi. Tụi tao nói chuyện cũng không hợp lắm.” “Cuốn sách này xuất bản được bao lâu rồi?” “Không có,” Strike nói, đổ thêm whisky vào cốc. “Chưa xuất bản mà. Tao đã nói rồi, ông ấy cãi nhau với người đại diện vì bà ta nói là không xuất bản được.” “Mày đọc chưa?” “Đọc gần hết.” “Bà vợ đưa bản thảo hả?” “Không, bà ấy nói là chưa đọc bao giờ.” “Bà ấy quên mất mình có một căn nhà khác, rồi còn không đọc sách của ông chồng,” Anstis nói, giọng đều đều. “Bà ấy kể là chỉ đọc sách của ông ta khi đã in xong, có bìa đàng hoàng,” Strike nói, “Dù sao tao thấy bà ấy có vẻ nói thật.” “À ha,” Anstis tiếp, hí hoáy ghi thêm vào tờ khai của Strike. “Làm sao mày có được bản thảo vậy?” “Tao không muốn kể vụ này.” “Có thể rắc rối đó.” Anstis nói, ngước lên nhìn hắn. “Không phải rắc rối cho tao,” Strike đáp. “Tạm thời để đó vậy Bob, chưa xong đâu.” Strike nhún vai, rồi hỏi: “Đã báo cho bà vợ chưa?” “Chắc giờ này thì báo rồi.” Strike chưa gọi điện cho Leonora. Tin này phải được người có chuyên môn báo cho vợ ông nhà văn. Hắn đã làm việc đó nhiều lần, nhưng đã khá lâu nên hắn thấy không tự tin nữa. Dù sao chiều hôm đó việc chính của hắn vẫn là đứng trông giữ tàn tích thối rữa của Owen Quine, canh gác đến khi bàn giao lại cho cảnh sát. Khi ngồi trong phòng thẩm vấn ở Sở cảnh sát thủ đô hắn vẫn nghĩ đến những việc cùng lúc đang xảy ra với Leonora. Hắn tưởng tượng ra bà vợ mở cửa cho cảnh sát, có lẽ là hai người. Khi thấy sắc phục cảnh sát Leonora sẽ choáng váng, cảnh sát sẽ từ tốn, điềm đạm đề nghị vào nhà hẵng nói chuyện, rồi mới báo tin sét đánh hãi hùng đó, (mặc dù ít ra ban đầu họ sẽ không kể chi tiết tấm áo choàng màu tía bọc lấy xác chồng Leonora, hay khoang bụng ngực hoang hốc trên xác; họ cũng sẽ không kể lại gương mặt của ông nhà văn đã bị phỏng acid, hay chuyện có người dọn dao nĩa quanh xác ông ta như thể món thịt bỏ lò khổng lồ… Strike nhớ lại đĩa thịt cừu ở nhà Lucy hai mươi bốn tiếng trước. Hắn không phải là người dễ chợn chạo, nhưng tự dưng hắn thấy khó nuốt trôi được ngụm whisky khá là mượt, vẫn còn váng vất nơi cần cổ khi hắn đặt cốc xuống bàn) “Có bao nhiêu người đã đọc sách, mày biết không?” Anstis chậm rãi hỏi. “Chịu,” Strike đáp. “Có lẽ là khá nhiều. Người đại diện của Quine, Elizabeth Tassel – tên đọc sao viết vậy,” hắn cẩn thận thêm vào, Anstis vẫn hí hoáy, “bà này gởi một bản cho Christian Fisher ở nhà xuất bản Crossfire, nổi tiếng lắm mồm. Luật sư nọ kia cũng vào cuộc, cố ngăn không để lọt ra thêm.”