🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Con Sẻ Vàng
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
CON SẺ VÀNG
Nguyên tác: The Goldfinch
Tác giả: Donna Tartt
Dịch giả:Nguyễn An Lý
Số trang: 932
Nhà xuất bản Thế giới
Nhà phát hành: Alphabooks
Cuốn tiểu thuyết mới phát hành, được giải Pulitzer 2014. Nếu có điều kiện các bạn hãy mua sách giấy ủng hộ nxb.
https://thuviensach.vn
Đại diện Ban Quản Trị Group “Hội Những Người Thích Đọc Sách Bằng Kindle” xin chân thành cảm ơn tất cả các bạn đã cùng tham gia hoàn thành nên quyển Ebook này. Tuy rằng có tới gần 1.000 trang nhưng các bạn đã không bỏ cuộc và cùng chúng mình hoàn thành.
Các thành viên trong nhóm Ebook “Con Sẻ Vàng” gồm có:
1. Nguyễn Ngọc Thuỷ - Leader Team
2. Phạm Vũ Hoà
3. Trịnh Thanh Phương
4. Nguyễn Tuấn Thành
5. Ryder Nguyễn
6. Duyên Bích
7. Kiều Anh
8. Lê Minh Tâm
9. Thái Huỳnh
10. Võ Hoàng Nhật An
11. Nguyễn Ngọc Sơn
12. Hà Tiến Thành
13. Trịnh Minh Hiếu
14. Nguyễn Trần Anh Văn
Rất mong các bạn tiếp tục đồng hành với chúng mình để làm thêm các dự án ebook mới trong tương lai.
“Ebook được làm hoàn toàn phi lợi nhuận với mục đích - được mang theo những quyển sách hay, hot đi theo bên mình qua những chiếc Kindle. Mọi hình thức sao chép, kinh doanh đều trái với nguyên tắc làm việc của nhóm”
https://thuviensach.vn
PHẦN 1
Cái phi lý không giải phóng mà trói buộc [1] —ALBERT CAMUS—
https://thuviensach.vn
01
Cậu bé cầm đầu lâu
i.
TRONG NHỮNG NGÀY CÒN Ở AMSTERDAM, tôi mơ thấy mẹ lần đầu tiên sau nhiều năm. Tới lúc ấy tôi đã ở lì trong khách sạn hơn một tuần liền, chẳng dám gọi cho ai cũng không dám ra ngoài, tim nảy thình thịch trước những âm thanh dù hết sức vô hại: tiếng chuông thang máy, tiếng lạch xạch khi xe thức ăn đi qua, thậm chí tiếng chuông điểm mỗi giờ ở nhà thờ - de Westertoren hay Kritjberg[2] cũng nhuốm màu u ám, như tiếng chuông báo tử trong truyện cổ. Ban ngày tôi ngồi ở đầu giường, vắt óc tìm cách giải mã bản tin thời sự trên tivi (một việc vô vọng, vì nửa chữ Hà Lan tôi cũng chẳng biết) rồi tới khi bỏ cuộc, lại đến ngồi bên cửa sổ nhìn ra phía con kênh, trùm thêm cái áo khoác lông lạc đà ngoài quần áo thường - vì tôi vội vã rời New York, đồ mang theo chẳng đủ ấm, kể cả khi ngồi trong nhà.
Ngoài kia, đâu đâu cũng rộn rã náo nhiệt. Giáng sinh tới nơi rồi, đêm đến đèn lấp lánh khắp các cây cầu bắc qua con kênh; các dames en hem[3] 2 má đỏ, khăn quàng bay bay trong luồng gió lạnh cóng người, lao xe đạp tưng tưng trên mặt phố rải sỏi, đuôi xe chẳng cây thông. Chiều chiều, một nhóm nhạc nghiệp dư chơi những bản Giáng sinh nghe run rẩy lí nhí, lơ lửng trong làn khí mùa đông.
Những khay thức ăn gọi lên phòng vứt bừa phứa; thuốc lá đốt văng mạng; rượu vodka hâm hẩm mua ở cửa hàng miễn thuế. Trong mấy ngày giam lỏng chôn chân, tôi dần dà thuộc từng phân căn phòng này như kẻ tù nhân thuộc xà lim của hắn. Đây là lần đầu tôi đến Amsterdam; tôi chưa thăm thú gì mấy trong thành phố, thế mà bản thân căn phòng, cùng vẻ đẹp
https://thuviensach.vn
ảm đạm gió lùa nắng gọi, đã gợi lên sắc ngọt vị Bắc Âu, như mẫu hình cả nước Hà Lan thu nhỏ: màu vôi trắng lành mạnh ngay thẳng kiểu Tin lành, sánh cùng vẻ xa hoa rực rỡ theo tàu buôn từ phương Đông đưa lại. Tôi tần ngần ngắm lâu đến mức vô lý cặp tranh sơn dầu tí xíu khung mạ vàng treo trên tủ ngăn kéo, một bức vẽ những người nhà quê trượt trên mặt hồ đóng băng bên nhà thờ, bức kia vẽ tàu buồm lướt phăm phăm trên biển mùa đông dợn sóng: chí là tranh chép trang trí, không có gì đặc biệt, nhưng tôi săm soi nghiên cứu như thể mã hóa bên trong bức tranh đó là chìa khóa đi vào trái tim bí mật của các danh họa Flanders. Ngoài kia mưa tuyết gõ vào kính cửa và lun phun trên dòng kênh; và dù tấm chăn thêu kim tuyến trông thật ấm cúng, còn thảm đi rất êm chân, thì ánh nắng mùa đông vẫn tô lên cái vẻ lạnh lẽo thời 1943, thời đói kém thắt lưng buộc bụng, món trà loãng không đường và những tối ôm bụng lép đi ngủ.
Mỗi sớm lúc ngoài trời còn tối đen, trước khi khách sạn đổi ca và tiền sảnh dần đầy người, tôi lại đi xuống lấy báo. Nhân viên khách sạn đi lại lặng lẽ thì thầm trò chuyện, mắt bình thản trượt qua như không nhận thấy tôi, cái ông khách Mỹ phòng 27 chẳng bao giờ ló mặt xuống lúc ban ngày; và tôi gắng trấn an mình rằng người trực đêm (vét tối màu, đầu húi cua, kính gọng sừng) hẳn sẽ cố làm mọi cách để tránh phiền hà hay ầm ĩ.
Tờ Herald Tribune không nhắc đến điều đang vò xé lòng tôi; trái lại, nó tràn lan trên các mặt báo Hà Lan, những khối chữ in sin sít bằng thứ tiếng xa lạ nhởn nhơ trêu ghẹo khó mà hiểu được. Onopgeloste moord. Onbekende[4]
Tôi lên lầu chui lại vào giường (mặc nguyên quần áo, vì phòng quá lạnh) rồi xòa đống báo trên mặt chăn: ảnh chụp xe cảnh sát, dải băng vàng ngăn hiện trường, cả chú thích ảnh cũng không luận ra được, và mặc dù có vẻ chưa đi đến dược cái tên, nhưng họ có bản mô tả nhân dạng tôi không thì chịu, không cách nào biết được, hay có khi họ đang ém thông tin chưa công bố.
https://thuviensach.vn
Căn phòng. Máy sưởi. Een Amerikaan met een strfblad[5]. Nước kênh xanh ô liu.
Vì tôi đang ốm, bị cảm, và nói chung là không có việc gì làm (không chỉ quần áo ấm, tôi còn quên cả sách), hầu như cả ngày tôi chỉ nằm trên giường. Đêm hình như xuống từ giữa chiều. Chốc chốc - giữa sột soạt giấy báo xung quanh - tôi lại chập chờn ngủ, và phần lớn những cơn mơ đều vẩn lên cái nỗi lo mơ hồ đã thấm ra ngoài thế giới lúc tỉnh: trát tòa án, vali bầy tung trên đường nhựa làm áo quần vung vãi khắp nơi, những sảnh sân bay dài vô tận, còn tôi chạy thục mạng tới những chuyến bay mình biết sẽ không bắt kịp.
Cơn sốt mang đến những giấc mơ quái dị và sống động hết sức, những trận tắm mồ hôi vật vã không biết đang đêm hay ngày, nhưng tới đêm cuối cùng - đêm tệ nhất - tôi mơ thấy mẹ: một giấc mơ chóng vánh và kỳ bí, giống như thấy vong hiện về. Tôi mơ thấy đang đứng giữa cửa hiệu của Hobie - chính xác hơn là giữa một không gian ma mị trong mơ dựng sơ sài mô phỏng theo cửa hiệu - thì bỗng nhiên mẹ đột ngột hiện ra sau lưng, cho phép tôi nhìn thấy bóng mẹ trong gương. Nhìn thấy mẹ, tôi sững người vì sung sướng: đúng là mẹ rồi, đứng đến từng chi tiết nhỏ nhất, từng chấm tàn nhang trên mặt, mẹ đang mỉm cười với tôi, mẹ đẹp hơn mà vẫn chẳng già đi, mái tóc đen nhánh, cái nét nhếch lên ngồ ngộ ở khóe miệng, không phải mơ mà là sự hiện diện có thực choán đầy căn phòng: bản thân mẹ là một lực, một tha tính đang sống thực. Và dù muốn lắm, tôi cũng biết mình không được quay lại, biết rằng nhìn mẹ trực diện sẽ vi phạm giới luật của cả hai cõi, của mẹ lẫn của tôi; mẹ đã đến với tôi bằng đường duy nhất mẹ có thể, và mắt chúng tôi gặp nhau trong gương một hồi lâu lặng yên; nhưng vừa lúc mẹ định cất lời - trong vẻ vừa buồn cười, vừa trìu mến vừa phiền muộn rất đỗi lạ lùng - thì một màn sương cuộn lên giữa đôi bên và tôi tỉnh dậỵ.
ii
https://thuviensach.vn
MỌI CHUYỆN HẲN ĐÃ TỐT ĐẸP HƠN nếu mẹ còn sống. Nhưng thực tế là, mẹ mất từ khi tôi còn nhỏ; và dù tất cả những điều xảy ra từ lúc đó đến giờ hoàn toàn là lỗi của tôi, thì khi mất mẹ, tôi đã mất đi tấm biển chỉ đường dẫn tới nơi chốn hạnh phúc, tới một cuộc đời đông đủ hay đầm ấm hơn.
Ngày mẹ mất là dấu mốc chia đôi ngả: Trước và Sau. Và dù thật thảm khi thú nhận điều này sau chừng ấy năm, nhưng chưa có ai làm tôi cảm thấy được yêu thương như mẹ. Ở bên mẹ mọi thứ đều sinh động hẳn lên; mẹ như bừng tỏa vầng sáng sân khấu khiến bất kỳ điều gì qua đôi mắt mẹ cũng tươi tắn sắc màu hơn thường lệ - tôi còn nhớ vài tuần trước khi mẹ mất, cùng ngồi ăn tối muộn trong nhà hàng Ý dưới Làng Greenwich[6], mẹ đã chộp lấy tay áo tôi, khi đột ngột và đáng yêu đến mức gần như đau đớn, chiếc bánh sinh nhật thắp nến được bưng trên tay đoàn phục vụ đi từ bếp ra, vòng ánh sáng rung rinh vẽ một đường trên trần nhà tối, và rồi chiếc bánh đặt xuống, lung linh giữa gia đình kia, tô rạng khuôn mặt một cụ bà, những gương mặt tươi cười chụm lại, bồi bàn lùi lại tay chắp sau lưng - bữa tiệc sinh nhật bình thường như vẫn thấy trong bất kỳ nhà hàng cỡ trung nào trên phố, và chắc chắn tôi cũng chẳng nhớ nó nếu không phải vì mẹ mất ít lâu sau đó; nhưng sau khi mẹ ra đi, tôi cứ nghĩ hoài nghĩ mãi về buổi tối hôm ấy, và hẳn sẽ còn nghĩ đến nó suốt đời: vòng ánh nến, hoạt cảnh về niềm vui giản dị đời thường đã mất hẳn khi tôi mất mẹ.
Mẹ cũng đẹp nữa. Điều ấy không quan trọng lắm; nhưng đúng là vậy. Hồi mới chân ướt chân ráo từ Kansas tới New York, mẹ làm người mẫu không chuyên, mẹ nhát máy ảnh nên không mấy thành công; mọi nét đẹp ở mẹ đều không chuyển được lên phim.
Thế nhưng mẹ lại trọn vẹn là mình: một điều hiếm có. Tôi không nhớ nổi đã bao giờ gặp ai thực sự giống mẹ chưa. Tóc mẹ đen, da mẹ trắng, đến hè thì nổi tàn nhang, mắt xanh màu sứ rực sáng; và gò má cao trộn lẫn dị thường chất da đỏ và chất Hoàng hôn Celt[7] khiến thỉnh thoảng mẹ bị nhầm là người gốc Iceland. Thực tế thì mẹ lai Ireland và Cherokee[8], sinh ở thị trấn nhỏ bang Kansas giáp ranh Oklahoma; và mẹ thích chọc cười tôi
https://thuviensach.vn
bằng cách tự nhận là dân “Okie”, dù mẹ chải chuốt, mau xúc động và duyên dáng như một chú ngựa đua. Cái chất ngoại lai ấy tiếc thay lại hiện lên quá cứng và khắc nghiệt trong ảnh - tàn nhang đã bị xóa hết bằng phấn, tóc túm đuôi ngựa sau gáy như một lãnh chúa Nhật trong Truyện kể Genji[9] và không thể hiện được chút nào hết về sức ấm, tính khí vui tươi khó đoán tôi yêu nhất ở mẹ. Có thể thấy rõ qua vẻ bất động trong các bức ảnh là mẹ không tin tưởng ống kính chút nào: mẹ toát ra sự cảnh giác, như con hổ gồng mình chuẩn bị đỡ đòn tấn công. Nhưng ngoài đời mẹ đâu có thế. Mẹ di chuyển thoăn thoắt mê hồn, cử động thanh thoát đột ngột, lúc nào cũng ngồi mớm mép ghế như một chú chim đầm lầy thân dài duyên dáng sắp giật mình vù bay. Tôi yêu mùi nước hoa gỗ đàn hương của mẹ, gắt và bất ngờ, yêu tiếng sột soạt áo sơ mi hồ cứng mỗi lần mẹ bất đồ thụp xuống hôn lên trán. Và tiếng mẹ cười khiến cho người ta chỉ muốn quẳng ngay việc đang làm dở mà lẽo đẽo theo mẹ khắp phố phường. Mẹ đi đâu cũng có đàn ông liếc nhìn, vài kẻ đôi khi còn nhìn theo kiểu khiến tôi hơi khó chịu.
Mẹ chết là lỗi của tôi. Mọi người thường hơi quá sốt sắng khi cam đoan rằng không phải thế; mà đúng vậy, trẻ con mà, ai biết được, tai nạn kinh hoàng, số đen, trời kêu ai nấy dạ, tất cả đều tuyệt đối đúng và tất cả tôi đều không mảy may tin.
Chuyện xảy ra ngày 10 tháng Tư ở New York, cách đây đã mười bốn năm. (Tay tôi như chùn lại trước cái ngày ấy; tôi phải ép nó viết ra, ép bút chạy trên mặt giấy. Đấy từng là một ngày hết sức bình thường, nhưng giờ thì ngày ấy chĩa ra trên lịch như đầu đinh gỉ.)
Nếu ngày ấy đã diễn ra đúng theo dự kiến, nó sẽ lặn không vết tích vào nền trời, mất tăm theo toàn bộ năm lớp Tám của tôi. Liệu giờ tôi còn, nhớ gì về nó? Chẳng mấy, hoặc không chút nào. Nhưng lúc này ký ức về buổi sáng hôm ấy còn sắc nét hơn hiện tại, rõ đến cả cảm giác ướt và dấp dính trong không khí. Đêm hôm trước vừa mưa, dông bão kinh hồn, hàng hiệu ngập nước, vài ga tàu điện ngầm phải đóng cửa; còn hai mẹ con tôi đang đứng trên tấm thảm lép nhép ngoài cửa chung cư đợi chú Vàng, người bảo
https://thuviensach.vn
vệ mẹ ưa nhất và cũng tôn sùng mẹ, đang đi giật lùi trên Phố 57 một tay giơ cao, huýt sáo gọi taxi. Xe vùn vụt lao qua quạt nước bẩn sang hai bên; những đám mây bứ nước sà xuống ngay trên đầu các tòa nhà chọc trời, dạt trôi ngang, chiếm chỗ những mảng trời xanh trong, và ở dưới này, trên mặt đường, dưới tầng khói xăng dầu, gió ẩm và dịu như mùa xuân.
“ Ài, có khách mất dồi chị ạ,” chú Vàng kêu vọng lại trong tiếng xe cộ, ồn ào, vừa bước tránh sang bên, khi có chiếc taxi tạt quành góc đường và tắt đèn trên nóc. Chú là người nhỏ con nhất trong đội bảo vệ: gầy gò, xanh xao nhưng hoạt bát, gốc Puerto Rico nhưng da sáng màu, xưa có hồi đấm bốc ở hạng lông. Dù mặt phì lên vì rượu (thỉnh thoảng vào ca đêm chú còn bốc mùi J&B.), chú vẫn dẻo dai, cơ bắp và nhanh nhảu - lúc nào cũng hoặc, đang, trêu đùa cà kê, hoặc đang kiếu ra góc đường hút thuốc chuyển tư thế trên hai chân và hà hơi vào đôi tay đi găng trắng khi trời lạnh, hoặc pha trò bằng tiếng Tây Ban Nha khiến mấy chú bảo vệ khác cười nôn ruột.
“Sáng nay chị vội nắm hả?” chú hỏi mẹ. Tên ghi trên thẻ là BURT D. nhưng ai cũng gọi chú là Vàng, vì chú có một chiếc răng bịt vàng và vì họ chú - de Oro - nghĩa là “vàng” theo tiếng Tây Ban Nha.
“Không, vẫn còn nhiều thời gian, không sao đâu.” Nhưng trông mẹ yếu lả và tay mẹ run rẩy khi thắt lại chiếc khăn vừa tuột ra, phất phơ trong gió.
Chắc cả chú Vàng cũng nhận thấy, vì chú liếc nhìn ra chỗ tôi (đang lần đằng sau tựa vào bồn cây xi măng trước chung cư, một mực cố tránh nhìn mẹ) có phần chê trách.
“Hai mẹ con không đi tàu điện à?” chú hỏi tôi.
“Ờ, chúng tôi phải chạy mấy việc,” mẹ nói, hơi ngập ngừng, khi nhận ra tôi không biết đáp lại thế nào. Bình thường tôi ít khi để ý đến quần áo mẹ, nhưng trang phục của mẹ sáng hôm ấy (áo khoác dài trắng, khăn hồng mỏng như tơ, giày lười hai màu đen trắng) đã hằn kỹ vào ký ức đến nỗi bây giờ tôi khó mà nhớ nổi mẹ theo cách nào khác.
Tôi mới mười ba. Tôi ghét phải nhớ lại chuyện sáng hôm ấy chúng tôi gượng gạo với nhau đến nỗi cả chú bảo vệ cũng nhận thấy; lệ thường mẹ
https://thuviensach.vn
con tôi vẫn trò chuyện rôm rả, nhưng sáng ấy cả hai không biết phải nói gì vì tôi vừa bị đình chỉ học. Ngày hôm trước trường vừa gọi cho mẹ ở công ty; mẹ về tới nhà lặng thinh, giận dữ; và kinh khủng nhất là tôi còn không biết mình bị phạt vì cớ gì, dù tin chắc đến bảy tám phần là thấy Beeman (trên đường từ phòng thầy tới phòng nghỉ giáo viên) đã nhìn ra cửa sổ chiếu nghỉ tầng hai vào đúng thời điểm không nên nhìn và thấy tôi đang hút thuốc trong sân trường. (Hoặc đúng hơn, thấy tôi đứng lớ ngớ bên thằng Tom Cable trong lúc nó hút thuốc, nhưng ở trường tôi như thế là tội ngang nhau.) Mẹ ghét thuốc lá. Ông bà ngoại - trong những chuyện mẹ kể vẫn thường khiến tôi tròn mắt nghe, và đã mất trước khi tôi có dịp được gặp, thật bất công- xưa là những người dạy ngựa mát tính, chu du khắp miền Tây và kiếm sống từ việc nuôi giống ngựa nòi Morgan[10], những người hoạt bát, yêu cocktail và chơi bài canasta, năm nào cũng đi xem giải đua Kentucky và trữ thuốc lá trong các hộp bạc để khắp nhà. Rồi một hôm bà ngoại vừa từ chuồng ngựa bước vào nhà thì gập người ho ra máu; và từ đó tới hết thời niên thiếu, cuộc sống của mẹ có thêm máy thở oxy đặt ở hiên trước và những phòng ngủ cả ngày buồng kín rèm.
Nhưng - điều tôi sợ, và cũng không phải không có lý - vụ thuốc của Tom mới chỉ là phần nổi của tảng băng. Ở trường, tôi sa vào rắc rối cũng kha khá lâu rồi. Tất cả đã bắt đầu, hoặc đúng hơn là đã sầm sập đổ xuống từ lúc bố tôi cuốn gói, rũ bỏ mẹ con tôi trước đó vài tháng; cả hai mẹ con nhìn chung không ưa bố lắm, và không có ông chúng tôi sống vui hơn nhiều, nhưng người ngoài ai cũng có vẻ choáng váng và xót xa khi biết ông rũ tuột chúng tôi đột ngột như vậy (không tiền, không trợ cấp nuôi con, cũng không thèm nhắn địa chỉ mới), còn các thầy cô giáo ở trường, bên Upper West Side, thì thương hại tôi, sốt sắng muốn tỏ ra cảm thông và trợ giúp tới nỗi dành cho tôi - tuy tôi đi học bằng học bổng - đủ thứ ưu tiên, được nộp bài trễ hạn, được gia hạn thêm cơ hội lần sau, rồi lần sau nữa: cuộn dây cứ dần dà nhả trong vài tháng trời, đến khi tôi đã tuột xuống tận đáy hố rất sâu.
Thế là cả hai - mẹ và tôi - bị triệu tập đến họp ở trường. Giờ hẹn mãi tận mười một rưỡi, nhưng vì đằng nào mẹ cũng phải xin nghỉ cả buổi sáng nên
https://thuviensach.vn
chúng tôi xuất phát sang West Side sớm - để ăn sáng (kèm với, như tôi đoán, một cuộc “cạo đầu” ra trò) và để mẹ mua quà sinh nhật cho ai đó ở công ty. Đêm hôm trước mẹ thức đến hai rưỡi sáng, vẻ mặt căng thẳng trong ánh sáng từ màn hình, viết email và thu xếp công việc để sáng còn nghỉ.
“Chả biết chị thấy sao,” chú Vàng đang nói với mẹ, khá sừng sộ, “chứ tôi xin đủ với cái thứ xuân ướt nhách này dồi. Mưa với chả miếc…” Chú rùng mình, làm điệu bộ kéo cổ áp kín lại và liếc nhìn trời.
“Hình như dự báo nói đến chiều sẽ tạnh đấy.”
“Vơng, tôi biết, nhưng tôi thì ham hè lắm dồi.” Xoa tay vào nhau. “Ai cũng đi sạch, ghét hè, kêu hè nóng, nhưng úi chà, tôi nà con chim nhiệt đới. Càng nóng càng khoái. Nóng ơi đến đi!” Vỗ tay, bước lùi trên gót chân dọc phố. “Mà tôi nói chị nghe nhá, biết tôi thích gì không, thích nhất là ở đây nặng phắc, tháng Bảy ấy...? nhà nào cũng vắng, như đang ngủ, chả ai ở nhà, chị biết không?” Bật ngón tay, xe vẫn vụt qua. “Đấy là lúc tôi được nghỉ hè.”
“Nhưng đứng ngoài này anh không chết cháy à?” Ông bố khó gần của tôi vẫn ghét cái thói quen ấy của mẹ - sẵn sàng trò chuyên với phục vụ ở quán, người gác cổng, mấy ông già ho hen ở hàng giặt khô. “Mùa đông ít nhất thì anh cũng có thể mặc thêm áo khoác...”
“Chị nhá, gác cửa mùa đông á? Nói chị nghe, nạnh chết thôi. Chị mặc thêm cả đống áo mũ cũng vậy. Chị đứng đây quãng tháng Một tháng Hai, xong gió thổi vào từ sông? Hóa đá nuôn.”
Vừa nhấp nhổm gặm móng tay, tôi vừa theo dõi đám taxi chạy qua vèo vèo mặc kệ cánh tay chú Vàng giơ lên. Tôi đã chuẩn bị tinh thần sẽ phải khốn khổ chờ cho tới buổi họp mười một rưỡi, và cố lắm mới đứng yên được mà không buột ra những câu hỏi tai hại. Tôi hoàn toàn không tưởng tượng nổi họ định chụp cái gì xuống đầu mẹ con tôi, một khi đến văn phòng; chỉ nghe chữ “họp” là tôi đã hình dung một buổi hội đàm giữa các loại quan chức, các kiểu kết tội và đối đầu, và khả năng bị đuổi học. Bị cắt
https://thuviensach.vn
học bổng sẽ là thảm họa; nhà tôi đã cạn tiền từ hồi bố bỏ đi; cả tiền thuê nhà cũng chỉ vừa đủ trả. Trên hết: tôi lo đến thắt ruột là làm cách nào mà thầy Beeman đã phát hiện ra Tom Cable với tôi vẫn thường phá cửa vào các nhà nghỉ mùa hè vắng chủ hồi tôi tới ở với nó ngoài khu Hampton[11]. Tôi nói “phá cửa” dù thực ra chúng tôi không bẻ khóa, cũng không đập phá cái gì hết (mẹ Tom làm văn phòng nhà đất; chúng tôi mở cửa bằng chìa dự phòng nhón từ bảng móc khóa trong văn phòng). Chủ yếu chúng tôi chỉ ngó nghiêng các tủ và lục lọi các ngăn kéo, nhưng cũng lấy vài thứ: bia trong tủ lạnh, vài đĩa game XBox với một DVD (Chó Danny của Lý Liên Kiệt) và tiền, tổng cộng đâu chừng 92 đô-la: những tờ 5 và 10 đô nhàu nát bỏ trong lọ bếp, những vốc tiền lẻ trong phòng giặt.
Mỗi lần nghĩ đến chuyện này tôi lại thấy chóng mặt. Mấy tháng rồi tôi không đến chỗ Tom, nhưng dù tôi cố tự trấn an rằng thấy Beeman không biết chúng tôi lén vào mấy nhà đó đâu - làm thế quái nào biết được? - thì trí tưởng tượng trong nỗi kinh hoàng vẫn hoạt động hết công suất. Tôi hạ quyết tâm không xì Tom ra (dù không chắc nó có xì tôi hay chưa) nhưng vì thế lại há miệng mắc quai. Làm sao tôi lại ngu đến cỡ đó cơ chứ? Phá cửa vào nhà người khác là phạm pháp; cả đống người đã phải ngồi tù vì vụ đó rồi. Đêm hôm trước tôi thức chong chong hàng giờ, vật vã trăn trở, nhìn mưa quất từng đợt tả tơi vào cửa sổ và suy tính xem nói gì nếu bị truy hỏi. Nhưng bào chữa bằng cách nào đây nếu thậm chí tôi còn không biết họ đã biết những gì ?
Chú Vàng thở dài đánh sượt, bỏ tay xuống và bước giật lùi bằng gót chân về chỗ mẹ đứng.
“Bó tay nuôn, ” chú nói với mẹ, một mắt vẫn nhìn ra phố mệt mỏi. “Đằng SoHo ngập, chị nghe chưa, mà Carlos còn bảo đầu kia mấy phố bị Niên Hợp Quốc cấm đường nữa.”
U ám, tôi nhìn đám công nhân lục tục bước xuống khỏi xe buýt xuyên Manhattan, buồn tẻ như một bầy ong vò vẽ. Nếu chịu khó đi bộ về phía tây một hai phố sẽ dễ gặp may hơn, nhưng tính chú Vàng chúng tôi đã thuộc
https://thuviensach.vn
quá rõ, thế nào chú cũng phật lòng nếu chúng tôi: chủ động đi. Nhưng đúng lúc ấy - đột ngột khiến cả ba giật bắn - một xe còn để đèn nóc cắt làn lạng vèo tới chỗ chúng tôi, làm bắn vọt lên một cánh nước mùi xí- thải.
“Ầy chà!” chú Vàng kêu lên, nhảy vội tránh trong lúc cái xe hãm lại - rồi nhận ra mẹ không có ô. “Chờ tí,” chú nói, dợm chân định chạy vào sảnh chung cư, tới bộ sưu tập ô bỏ quên hoặc lạc chú cắm trong ống đồng bên lọ sưởi đợi các ngày mưa đem ra phân phát.
“Đừng,” mẹ gọi với, mở trong túi tìm cái ô gập nhỏ xíu sọc xanh đỏ như kẹo Giáng sinh, “không cần đâu anh Vàng ơi, tôi có rồi.”
Chú Vàng nhảy lại ra vệ đường, đóng cửa xe cho mẹ. Rồi chú cúi mình gõ lên cửa sổ.
“Chúc chị một ngày may mắn nhé,” chú nói…
iii
TÔI VẪN THÍCH coi mình là người tinh nhạy (chúng ta ai mà chẳng thế), và khi chép lại những chuyện này thật khó cưỡng lại ý muốn vẽ thêm bóng đen lơ lửng trên đầu. Nhưng lúc ấy tôi mù và điếc trước tương lai; mối lo duy nhất đang bóp nghẹt tôi là cuộc họp ở trường. Lúc tôi gọi Tom báo mình bị đình chỉ học (thì thầm qua điện thoại bàn; di động đã bị tịch thu), nó chẳng tỏ ra ngạc nhiên mấy tí. “Theo,” nó ngắt lời tôi, “đừng nói ngu nữa, không ai biết gì đâu nếu mày chịu khó khóa mõm lại”; và trước khi tôi kịp thốt thêm lời nào, nó bảo “Giờ tao phải đi đã” rồi dập máy.
Ngồi trong xe, tôi cố vặn cửa sổ xin tí gió: không ăn thua. Xe bốc mùi như có người vừa thay tã bẩn trong đấy, hay có khi ai đó bĩnh ra thật cũng nên, rồi tìm cách khỏa lấp đi bằng cách phóng tay xả nước xịt phòng mùi dừa ngửi như mùi dầu thoa chống nắng. Mặt ghế nhờn, dán đầy băng dính, bộ giảm xóc thì gần như đơ hẳn. Mỗi lần vấp phải gờ giảm tốc răng tôi lại gõ vào nhau, cả mớ đồ thờ cúng tạp nhạp móc trên gương chiếu hậu cũng gõ vào nhau: mấy mặt dây chuyền, cái gươm cong tí hon nhún nhảy trên
https://thuviensach.vn
sợi xích nhựa, một thầy tu râu dài vấn khăn trên đầu đưa cặp mắt sắc lẻm nhìn xoáy vào băng ghế sau, lòng bàn tay giơ lên làm phước.
Dọc Đại lộ Công viên, từng dãy tulip đỏ đứng nghiêm chào chúng tôi phóng qua. Nhạc phim Bollywood - vặn nhỏ chỉ còn nghe nhèo nhẽo gần như ma mị - khi cuộn xoáy khi khuấy động một cách mê hoặc, vừa đủ ngưỡng tôi nghe thấy. Lá non bắt đầu nhú trên cây. Mấy người giao hàng cho các tiệm D’Agostino và Gristede đẩy những xe trĩu nặng thực phẩm; các bà công sở mặt cáu bẳn gõ gót giày xăm xăm trên vỉa hè, lôi theo bọn nhóc mẫu giáo trì níu; một công nhân mặc đồ bảo hộ vun rác trong rãnh nước vào xẻng cán dài; dân luật sư và chứng khoán ngửa bàn tay nhìn trời mày cau nhăn tít. Trong lúc xe lạng trên đại lộ (mẹ trông vẻ rất khổ sở, bám chặt tay ghế làm điểm tựa) thì tôi ngó ra cửa sổ nhìn những bộ mặt đau bao tử giờ làm việc (những bóng lo âu trùm áo mưa, nhô nhúc từng bầy tăm tối chỗ qua đường, những người uống cà phê trong cốc giấy, nói điện thoại và lén lút đánh mắt sang hai bên), cố không nghĩ tới những tương lai kém dễ chịu có lẽ đang rình đón: vài cái trong đó là tòa án thiếu niên, hay nhà tù.
Chiếc xe đột ngột đảo vòng rất gắt, quành vào Phố 86. Mẹ trượt sang đâm sầm vào tôi rồi chộp lấy tay tôi; tôi thấy mẹ đã dính mồ hôi và trắng nhợt như cá tuyết.
“Mẹ bị say à?” Tôi hỏi, trong thoáng chốc quên bẵng mối lo riêng. Mẹ có cái vẻ đăm chiêu khổ não, cái vẻ tôi quá quen: môi mím chặt, trán dấp nước, đồng tử mở to trong cặp mắt mờ đi.
Mẹ mở miệng định nói - rồi bụm chặt tay lên miệng khi chiếc xe dừng khựng chỗ đèn đỏ, làm chúng tôi ngã nhào tới trước rồi lại ra sau, đập mạnh vào ghế.
“Cố đợi chút,” tôi nói với mẹ, rồi nhoài tới gõ vào tấm kính nhựa dẻo nhớp nháp, làm bác tài (một ông người Sikh đội khăn) giật mình ngạc nhiên.
“Ông ơi,” tôi nói qua lưới mắt cáo, “tới đây được rồi, cho nhà cháu xuống đây.”
https://thuviensach.vn
Ông người Sikh - trong cái gương quấn tràng hoa - chăm chú nhìn trả. “Mấy người muốn xuống đây?”
“Vâng, cho cháu xuống.”
“Nhưng đây không phải địa chỉ mấy người nói.”
“Cháu biết. Nhưng xuống đây cũng được,” tôi nói và nhìn lại mẹ - mascara đã lem ra mặt, vẻ lả đi, đang bới tìm ví trong túi.
“Bà ấy có sao không?” Bác tài băn khoăn hỏi.
“Không, không, không sao cả. Cho chúng cháu ra là được, cảm ơn ông.”
Tay run rẩy, mẹ chìa ra một nắm tiền ẩm ướt rồi đẩy qua lưới. Trong khi ông Sikh thò tay qua nắm lấy (với vẻ cam chịu, mắt nhìn chỗ khác) thì tôi bước ra, giữ cửa xe cho mẹ.
Mẹ hơi loạng choạng khi bước lên vỉa hè, tôi nắm lấy tay mẹ. “Mẹ không sao chứ?” Tôi lí nhí hỏi khi chiếc xe chạy đi. Chúng tôi đang ở nửa trên Đại lộ 5, trước cửa mấy đại dinh thự nhìn ra công viên.
Mẹ hít một hơi thật dài, rồi quệt trán và bóp chặt tay tôi. “Phù,” mẹ nói, phe phẩy bàn tay quạt mặt. Trán mẹ vẫn còn bóng và mắt còn hơi lạc thần; mẹ có cái vẻ xơ xác của con chim biển bay lạc vào cơn gió thổi bạt. “Xin lỗi con, vẫn còn hơi lảo đảo, ơn Chúa ra khỏi cái xe ấy rồi. Mẹ không sao đâu, cần chút khí trời thôi.”
Dòng người tuôn chảy quanh chúng tôi trên góc đường lộng gió: những cô bé mặc đồng phục, vừa cười vừa chạy đuổi nhau vòng tránh chúng tôi; những bà vú em đẩy xe nôi lộng lẫy, trong xe ngồi từng đôi hoặc ba bé con. Một ông bố dáng luật sư cáu bẳn vượt qua rất sát, nắm tay đứa con trai lôi đi. “Không được, Braden,” tôi nghe ông ta bảo nó, còn nó thì đang lót tót cố bắt kịp, “con không được tư duy như thế, quan trọng là phải kiếm việc nào mình thích...”
Chúng tôi bước sang bên tránh dòng lũ bọt xà phòng khi người lau dọn đổ ụp cái xô trên vỉa hè trước cửa tòa nhà.
https://thuviensach.vn
“Nói xem,” mẹ bảo, đầu ngón tay ấn thái dương, “là mẹ tưởng tượng thôi, hay đúng là cái xe ấy đáng sợ một cách… ”
“Rất là ẹo? Theo kiểu dầu Nhiệt đới Hawaii pha phưn trẻ con?”
“Thật ra là... ” - quạt tay trước mặt - “cũng không sao nếu không phải hơi tí lại cà gật cà gật. Mẹ đang hết sức bình thường thì tự dưng gục luôn.”
“Sao mẹ không lên ngồi ghế trước?”
“Con nói cứ y như bố con.”
Tôi nhìn đi chỗ khác ngượng chín - vì cả tôi cũng nghe thấy, thấy cái điệu gì cũng biết đáng ghét của bố trong giọng mình. “Mình đi lại đằng Madison, kiếm chỗ nào cho mẹ ngồi đi,” tôi nói. Tôi đang đói ngấu, mà ở đó lại có một quán tôi kết.
Nhưng - gần như rùng mình, cơn buồn nôn lại ập qua thấy rõ - mẹ lắc đầu. “Khí trời.” Quệt vội mascara nhòe dưới hai mắt. “Khí trời mới dễ chịu!”
“Cũng được,” tôi nói hơi vội quá, sốt sắng muốn tỏ ra chiều ý- “Tùy mẹ thôi.”
Tôi đang rất cố gắng tỏ ra dễ thương, nhưng mẹ - còn đang hổn hển váng vất - đã nghe ra giọng đó; mẹ chăm chú nhìn, cố đoán tôi đang nghĩ gì. (Đây lại một thói quen xấu nữa chúng tôi đã nhiễm phải, sau hàng năm trời sống bên bố: cố tìm cách đọc ý nghĩ người khác.)
“Sao?” mẹ hỏi. “Con muốn đi chỗ nào à?”
“A không, không hẳn,” tôi nói, lùi một bước và nhìn xung quanh hơi rầu lòng; dù đói thật nhưng tôi thấy mình cũng không có quyền đòi hỏi.
“Mẹ không sao đâu. Chờ một phút thôi.”
“Hay là...” chớp mắt bứt rứt, mẹ muốn gì, làm sao cho mẹ vui? “hay mình qua công viên ngồi?”
Tôi nhẹ người thấy mẹ gật đầu. “Cũng được,” mẹ nói bằng giọng tôi vẫn gọi thầm là giọng Mary Poppins của mẹ, “nhưng ngồi tới lúc mẹ lại sức
https://thuviensach.vn
thôi nhé,” và chúng tôi đi về phía ngã tư giao với Phố 79: qua những bụi cây xén hình thú trồng chậu đá kiểu ba rốc, những cửa nặng nề trang trí sắt uốn. Ánh nắng đã phai thành sắc xám công nghiệp ảm đạm, gió nồng như hơi bốc từ vòi ấm đun. Bên kia đường trong công viên, các họa sĩ đang dựng quầy, mở toan, treo lên những bức màu nước chép hình nhà thờ Thánh Patrick và cầu Brooklyn.
Chúng tôi im lặng đi bên nhau. Đầu óc còn đang bận rộn tính toán những rắc rối của mình (bố mẹ Tom có bị gọi không? Sao tôi không nghĩ ra mà hỏi nó?) cũng như tính sẽ gọi gì ăn sáng chừng nào kéo được mẹ tới quán kia (trứng tráng trộn hành ớt và khoai áp chảo, thêm thịt hun khói; còn mẹ sẽ ăn như mọi khi, bánh mì lúa mạch nướng với trứng chần và cốc cà phê đen) nên tôi hầu như không để ý đang đi về đâu thì chợt nhận ra mẹ vừa nói gì đó. Mẹ không nhìn tôi mà nhìn sang bên công viên; nét mặt mẹ khiến tôi nhớ lại một bộ phim Pháp nổi tiếng không nhớ tên, có những người lơ đãng đi lại trên những con phố bạt gió và nói rất nhiều, nhưng có vẻ không phải nói chuyện với nhau.
“Mẹ vừa bảo gì cơ?” Tôi nói sau vài giây ngắc ngứ, rảo bước để bắt kịp mẹ. “Hỏng...?”
Mẹ giật mình, cứ như đã quên có tôi ở đấy. Cái áo khoác trắng - lật phật trong gió - càng tôn thêm dáng cò quăm dài cẳng, cứ như mẹ sắp xòe cánh bay mất qua công viên.
“Hỏng cái gì cơ?”
“À.” Mẹ hơi ngơ ngác rồi lắc đầu cười, tiếng cười khanh khách quen thuộc. “Không. Mẹ bảo là lỗ hổng thời gian.”
Dù đây là một cụm từ lạ lùng nhưng tôi hiểu mẹ muốn nói gì, hoặc tôi tưởng rằng mình hiểu - cái rùng mình tách rời thế giới, những giây vụt mất trên vệ đường như cú nấc nuốt thời gian, hay một vài khung hình bị cắt khỏi bộ phim.
“Không có gì, cún con ạ, chỉ là do khu này thôi.” Vò xù tóc tôi, khiến tôi mỉm cười xấu hổ: cún con là tên ở nhà hồi bé, giờ tôi không thích nữa và
https://thuviensach.vn
cũng chẳng thích bị vò xù tóc; nhưng dù ngượng nghịu tôi cũng mừng khi thấy mẹ đã vui lên. “Lúc nào cũng ở đúng chỗ này. Mỗi lần đến đây mẹ cứ ngỡ như mình trở về tuổi mười tám, vừa bước chân xuống xe đò vậy.”
“Ở đây sao?” Tôi nghi ngờ hỏi và cho phép mẹ nắm tay, dù bình thường không có chuyện đó. “Lạ thế.” Tôi thuộc làu thời kỳ mẹ mới tới Manhattan, cách Đại lộ 5 một quãng kha khá - ở Đại lộ B, sống trong căn hộ một phòng trên đầu quán rượu, bên dưới dân dạt vòm ngủ chắn ngang cửa và ẩu đả trong quán tràn cả ra đường, với một bà già khùng tên Mo nuôi hơn chục con mèo trái phép, trong cầu thang tầng trên cùng đã xây bít lại.
Mẹ nhún vai. “Ừ, nhưng chỉ có trên này là vẫn y như lần đầu mẹ thấy. Như hầm xuyên thời gian. Bên phía Lower East Side - ở con biết dưới đó thế nào mà, lúc nào cũng có gì đó mới, nhưng với mẹ thì cảm giác như vừa ngủ trăm năm tỉnh dậy ấy, mỗi lúc một thêm xa, Có những hôm mẹ mở mắt mà tưởng trong đêm người ta đã đến xáo trộn các cửa hàng hết cả. Mấy nhà hàng cũ đóng cửa, rồi thì quán bar mới tinh đúng mốt chiếm chỗ cửa hàng giặt khô ngày xưa.
Tôi im lặng tỏ ý thông cảm. Dạo gần đây mẹ cứ nhắc mãi về thời gian trôi, có thể vì sinh nhật mẹ sắp đến rồi. Mẹ già quá rồi mà cứ phải làm chuyện này, mới mấy hôm trước mẹ vừa nói khi cả hai cùng bới tung căn hộ, lục tìm dưới đệm xô pha rồi dốc ngược mọi túi áo choàng áo vét cho đủ tiền lẻ trả cậu giao hàng ở quán ăn.
Mẹ cắm sâu hai tay vào túi áo. “Trên này thì yên ổn hơn,” mẹ nói. Giọng mẹ tưng tửng, nhưng tôi vẫn nhìn thấy sương kéo đến trong mắt mẹ; hẳn nhiên đêm qua mẹ không ngủ được, vì tôi. “Công viên Upper Park là một trong vài nơi hiếm hoi vẫn thấy được thành phố trong dáng vẻ thập niên 1890. Cả Công viên Gramercy, và Làng Greenwich nữa, một góc của nó. Hồi mới đến New York mẹ nghĩ khu này cứ như đủ cả Edith Wharton với Franny và Zooey[12] với Bữa sáng ở Tiffany[13]trộn vào làm một vậy.”
“Franny và Zooey là ở West Side chứ.”
https://thuviensach.vn
“Ừ, nhưng hồi đó mẹ ngố quá đâu có biết. Chỉ biết một điều là ở đây khác hẳn dưới Lower East toàn dân lang thang thích phóng hỏa thùng rác.Trên này đến cuối tuần là cứ như cổ tích - vơ vẩn trong bảo tàng - long nhong một mình quanh Công viên Trung tâm,..”
“Long nhong á?” Phần lớn những chuyện mẹ nói tôi nghe thật lạ lẫm, còn long nhong nghe có vẻ một thuật ngữ luyện ngựa hồi mẹ còn trẻ: có thể là nước chạy nhởn nhơ nào đó, dáng đi nào đó của họ nhà ngựa giữa phi nước kiệu và chạy bước nhỏ,
“Ừ, con hiểu mà, lượn vòng chơi rong như mẹ vẫn làm ấy. Tiền không có, tất thủng gót, sống bằng cháo yến mạch. Con có tin vài lần mẹ còn đi bộ lên tận đây vào cuối tuần không? Để dành tiền đi tàu về. Đấy là hồi còn dùng vé xèng chứ không dùng thẻ nhựa. Với lại mặc dù vào cửa bảo tàng phải trả tiền? Cái gọi là ‘mức gợi ý đóng góp’ ấy? Ờ, chắc hồi ấy mẹ táo gan hơn nhiều bây giờ, hoặc có thể chỉ là do họ thấy tội nghiệp mẹ, vì là. .. Ôi không,” mẹ chợt đổi giọng và đứng sững lại, làm tôi bước quá vài bước mà không nhận ra.
“Sao?” Tôi quay lại. “Sao thế ạ?”
“Cảm thấy gì ấy.” Mẹ ngửa bàn tay nhìn trời. “Con thấy không?”
Và vừa khi câu ấy thốt ra, ánh sáng như sầm xuống. Trời tối lại rất nhanh, mỗi giây mỗi tối hơn; gió khua lao xao cây trong công viên, những lá non mảnh dẻ vàng óng nổi hằn trên nền mây đen kịt.
“Trời, ai mà ngờ được,” mẹ nói. “Sắp dông to rồi.” Mẹ nghiêng người ra phía đường, nhìn hướng bắc: chẳng thấy xe.
Tôi lại nắm tay mẹ. “Đi nào,” tôi nói, “sang bên kia đường sẽ may hơn.”
Sốt ruột, chúng tôi đứng đợi vài giây cuối cùng cái đèn đi bộ nhấp nháy báo Xin Chờ. Từng mẩu giấy đang xoay vòng trong không khí, lả tả lăn trên phố. “Mẹ, xe kìa,” tôi nói khi nhìn theo Đại lộ 5, nhưng vừa lúc đó một ông có vẻ doanh nhân giơ cao tay chạy ra lề, và đèn xe tắt ngúm.
https://thuviensach.vn
Bên kia đường, các họa sĩ chạy kéo bạt nhựa che tranh. Xe bán cà phê cũng bắt đầu hạ vách cuốn. Chúng tôi vội vã sang đường và vừa qua đến nơi, một hạt mưa to bự vỗ đánh bộp xuống má tôi. Những chấm tròn nâu lác đác - cách xa nhau, to như đồng mười xu - bắt đầu nở xòe trên lề đường.
“Ôi khỉ thật!” mẹ kêu lên, loay hoay tìm ô trong túi - cái ô nhỏ che một người còn chưa đủ, nói gì hai.
Rồi mưa rơi, từng vạt lạnh buốt tạt xéo vào trong, từng bụm gió lồng lộn trên đỉnh cây, phần phật trên mái bạt các hàng quán bên kia đường. Mẹ thì đang loay hoay không mấy thành công với cái ô con đỏng đảnh không chịu bật. Người đi trên phố hay trong công viên giơ báo hoặc cặp táp lên che đầu, lúp xúp theo cầu thang chạy lên hiên cổng bảo tàng, cả phố chẳng có chỗ trú mưa nào khác. Và náo nức như đi hội, mẹ con tôi hối hả lên cầu thang, núp dưới cái ô lẩy bẩy sọc xanh đỏ, nhanh nhanh nhanh, giống như đang dắt nhau chạy khỏi thứ gì khủng khiếp chứ không phải đâm đầu vào nó.
iv
CÓ BA ĐIỀU QUAN TRỌNG xảy đến với mẹ sau khi khăn gói quả mướp đáp xe đò từ Kansas lên New York, không bạn bè, gần như không xu dính túi. Điều số một là Davy Jo Pickering, một tay săn người của làng giải trí đã để lọt vào mắt xanh cô gái chạy bàn trong quán cà phê ở Greenwich: một cô bé còm nhom đi giày Doc Martens, mặc đồ hàng tầm tầm, bím tóc sau lưng dài đến nỗi ngồi lên được. Khi cô bé bưng cà phê tới, ông ta đã đặt giá ban đầu bảy trăm, sau đó một nghìn đô-la để trám chỗ một cô gái khác cúp việc ngày hôm ấy, trong buổi chụp hình làm ca-ta-lô ngay bên kia đường. Ông ta đã chỉ cô thấy cái xe studio di động, dụng cụ chụp ảnh đang dựng trong công viên quảng trường Sheridan; ông ta đã đếm các tờ tiền, trải ngay lên mặt quầy. “Chờ tôi mười phút,” cô đã đáp, dọn ra nốt các món trong bữa sáng ông ta gọi, rồi treo tạp dề lên móc và bước thẳng ra ngoài.
https://thuviensach.vn
“Tôi chỉ làm mẫu cho đơn đặt hàng ấy mà,” mẹ lúc nào cũng cẩn thận giải thích cho mọi người xung quanh - thế có nghĩa là mẹ chưa bao giờ đi chụp cho các tạp chí hay bộ sưu tập thời trang hoành tráng, mà chỉ chụp tờ rơi cho các chuỗi cửa hàng, những bộ đồ giản dị vừa tiền nhắm tới các cô gái nhỏ ở Missouri hay Montana. Mẹ nói thi thoảng cũng vui lắm, nhưng chủ yếu thì khá cực: diễn đồ bơi vào tháng Một, rét run vì cúm, hoặc vải tuýt hay len giữa hè nắng gắt, mất hàng giờ xông hơi giữa lá vàng giả làm thu trong lúc quạt giữa trường quay thổi gió nóng hầm hập, một anh trang điểm cứ dứt mỗi phiên chụp lại chạy vào dặm phấn thấm mồ hôi cho mẹ.
Nhưng những năm tháng khoe dáng giả đò sinh viên ấy - giữa những bối cảnh hóa trang giả vờ làm sân trường đại học, từng nhóm hai hay ba cô đứng cứng đơ, áp chặt sách vào người - đã giúp mẹ tích cóp đủ để thực hiện ước mơ làm sinh viên thực sự: mẹ vào học lịch sử hội họa ở Đại học New York. Mẹ chưa bao giờ được nhìn thấy bức danh họa nào tận mắt, trước khi chuyển đến New York sống năm mười tám tuổi, và mẹ háo hức muốn bù lại quãng thời gian đánh mất của mình - “hân hoan tột độ, thiên đàng thần tiên”, mẹ đã tả như thế về thời kỳ chìm lút đầu trong sách hội họa và dính mũi vào những phim chiếu cũ (Manet, Vuillard) tới lúc hoa cả mắt. (“Nghe thì cũng dở hơi thật,” mẹ thường bảo, “nhưng mẹ thấy chẳng có gì hạnh phúc cho bằng được cứ thế ngồi ngắm chỉ nửa tá tranh ấy từ giờ đến hết đời. Muốn hóa điên thì chẳng còn cách nào hay hơn.”)
Trường đại học là điều quan trọng thứ hai đến với mẹ ở New York - và hẳn là điều quan trọng nhất, theo ý mẹ. Và nếu không phải vì điều thứ ba (gặp rồi lấy bố tôi - một điều thua xa hai cái đầu) thì hẳn mẹ đã xong bằng thạc sĩ và tiếp tục lên tiến sĩ rồi. Cứ lúc nào được vài giờ rảnh là mẹ lại phi thẳng đến mấy cái bảo tàng hoặc Frick, hoặc Nghệ thuật hiện đại, hoặc Bảo tàng Trung tâm - vì thế tôi chẳng lấy làm ngạc nhiên khi đứng dưới hàng hiên nhỏ giọt, nhìn qua bên kia Đại lộ 5 nhòa nhạt những giọt mưa trắng nảy tưng tưng trên mặt đường, thì mẹ rũ ô và bảo: “Hay là mình vào trong ngó nghiêng một chút, đợi tạnh mưa. ”
“Ừm...” Tôi thì chỉ muốn đi ăn thôi.- “Cũng được ạ.”
https://thuviensach.vn
Mẹ liếc nhanh đồng hồ. “Cũng nên. Trời này khó gọi taxi lắm.”
Đúng là thế. Nhưng tôi thì đói mềm người. Lúc nào mình mới được ăn đây? Tôi bực dọc nghĩ khi theo mẹ lên cầu thang. Rất có thể hết buổi họp mẹ cáu tôi đến nỗi chẳng thèm dắt đi ăn trưa nữa, tôi sẽ phải về nhà ăn bột ngũ cốc hay gì đấy.
Nhưng bảo tàng thì lúc nào cũng như đang mở hội; và khi đã vào đến trong, chìm giữa tiếng ồn ào hoan hỉ của khách tham quan khắp xung quanh, tôi có cảm giác lạ lùng như đã bị tách rời khỏi bất kỳ điều gì đang chực chờ tôi trong ngày hôm nay. Sảnh Lớn rất ồn, hôi mùi áo khoác thấm mưa. Một đám đông các ông bà già người châu Á ướt như chuột diễu qua, có một cô hướng dẫn lùa họ đi; mấy cô bé Hướng đạo sinh lem luốc chụm đầu rì rầm gần quầy gửi áo; bên bàn hướng dẫn xếp một hàng dài học viên trường võ bị mặc quân phục xám, không mũ, tay chắp sau lưng.
Đối với tôi - một đứa trẻ thành phố lúc nào cũng bưng kín trong bốn bức tường - bảo tàng thú vị chủ yếu là vì cái mênh mông của nó, như một cung điện có các phòng nối nhau chạy mãi không ngừng, càng đi xa càng quạnh vắng. Một vài buồng ngủ không có khách hay phòng tiếp khách chăng dây cấm, tít sâu trong khu Nội thất châu Âu, dường như chìm trong giấc ngủ huyền bí do phù phép nào đấy, như từ hàng trăm năm nay chưa có bước chân ai ghé qua. Kể từ hồi được phép đi tàu điện không cần người lớn, tôi thích đến đây một mình, đi vơ vẩn tới khi lạc lối, càng lúc càng tiến sâu trong mê lộ những gian trưng bày tới khi, thi thoảng, thấy mình đứng giữa những sảnh bị lãng quên bày binh khí hay gốm sứ cả đời chưa thấy bao giờ (và dăm ba cái chẳng bao giờ tìm lại được).
Trong lúc lơn tơn xếp hàng sau lưng mẹ, tôi ngửa đầu nhìn vòm trần cao hai tầng lừng lững trên đầu: nếu nhìn thật lâu, đôi khi tôi tự đánh lừa bản thân rằng mình đang trôi lửng lơ trên đó như một cọng lông tơ; nhưng trò này tôi chơi từ bé, giờ thì đã nhạt rồi.
Trong khi đó, mũi đỏ ửng và còn đang lấy lại nhịp thở sau khi chạy ù qua mưa, mẹ đang lần sờ cái ví, miệng nói: “Có khi xem xong mẹ chạy qua
https://thuviensach.vn
hàng lưu niệm chút. Mẹ tin Mathilde chẳng ưa tặng sách hội họa đâu, nhưng nếu tỏ ra phật ý thì cô ta sẽ có vẻ ngốc nghếch lắm.”
“Èo,” tôi đáp. “Quà cho Mathilde ấy à?” Mathilde là “Giám đốc Nghệ thuật”, trong công ty quảng cáo của mẹ, con gái một đại gia nhập khẩu tơ lụa người Pháp, trẻ hơn mẹ và õng ẹo khét tiếng, hơi tí là làm toáng lên nếu xe cộ hay thức ăn chiêu đãi không vừa ý mình.
“Ừ.” Không nói gì thêm, mẹ chia thanh kẹo cao su cho tôi, tôi cầm lấy, rồi bỏ lại gói kẹo vào ví. “Ý mẹ là Mathilde lúc nào cũng ca bài đó, món quà thích đáng không phải là món tốn cả đống tiền, chẳng có gì bằng cục chặn giấy vừa tiền hoàn hảo kiếm được ở chợ đồ cũ. Và mẹ cũng đồng ý là được vậy thì tuyệt lắm, nhưng đây là nếu có ai trong công-ty thừa thời gian vào phố lục lọi chợ đồ cũ. Năm ngoái đến lượt Pru ấy? Cô ấy phát hoảng lên rồi chạy vào Saks giờ ăn trưa, rốt cuộc phải tự chi thêm năm chục bảng ngoài tiền của công ty, mua kính râm, Tom Ford thì phải, mà vẫn còn nghe Mathilde lải nhải về ‘chủ nghĩa tiêu dùng của người Mỹ'. Mà Pru đâu có phải người Mỹ chứ, người Úc mà.”
“Mẹ đă xin ý kiến Sergio chưa?” tôi hỏi. Sergio - có mặt ở văn phòng thì ít mà trên trang tạp chí giấy bóng, khoác vai các nhân vật như Donatella Versace thì nhiều - là ông chủ đại triệu phú của công ty; nói “xin ý kiến Seigio” cũng tương đương như nói “nghĩ xem Jesus sẽ làm gì?”
“Sách hội họa đối với Sergio là Helmut Newton, hay là cái cuốn bày phòng khách mà Madonna làm trước đây.”
Tôi toan hỏi Heimut Newton là ai, nhưng rồi nghĩ ra ý hay hơn, “Sao mẹ không mua cho cô ấy cái thẻ tàu điện ấy?”
Mẹ đảo tròn mắt. “Kể ra làm được thì cũng hay đấy.” Ở công ty vừa có một trận om sòm khi xe Mathilde kẹt giữa khúc tắc đường, làm cô ta mắc lại ở một xưởng trang sức Williamsburg.
“Tặng... ẩn danh cũng được. Đặt một cái lên bàn cô ấy, cái thẻ cũ vào, không còn tiền. Xem thử cô ấy làm gì.”
https://thuviensach.vn
“Con muốn biết cô ấy làm gì thật không?” mẹ hỏi trong lúc luồn thẻ thành viên qua cửa soát vé. “Đuổi việc cô thư ký lập tức, sau đó tống cổ thêm nửa phòng Sản xuất.”
Công ty quảng cáo nơi mẹ làm chuyên về phụ kiện trang phục cho phụ nữ. Suốt cả ngày, dưới con mắt kích động và có phần nham hiểm của Mathilde, mẹ điều hành các buổi chụp ảnh có hoa tai pha lê lấp lánh trên nền tuyết. Giáng sinh giả, hay túi xách da cá sấu - nằm vô chủ trên băng sau những chiếc Limousine bỏ không - sáng ửng giữa quầng thiên quang long lanh. Mẹ giỏi việc ấy; mẹ hợp với vị trí sau ống kính hơn là trước; và tôi biết mẹ rất khoái thấy tác phẩm của mình xuất hiện trên tường hầm tàu điện ngầm hay bảng quảng cáo giữa Quảng trường Thời đại. Nhưng bỏ qua một bên bề nổi hào nhoáng bóng bẩy (sâm-panh kèm bữa sáng, những túi quà từ trung tâm Bergdorf), ngày làm việc lúc nào cũng dài, và tận thẳm sâu bên trong công việc là một sự trống rỗng mà tôi biết khiến mẹ buồn. Điều mẹ thực tình muốn là quay lại học tiếp, dù chúng tôi đều biết còn rất ít cơ hội khi bố đã bỏ đi.
Được rồi, mẹ nói, rời cửa sổ bán vé và đưa tôi cái huy hiệu kẹp áo vào cửa, con chú ý giờ giúp mẹ nhé? Lần triển lãm này rất rộng đấy” - mẹ chỉ lên tờ áp phích lớn, CHÂN DUNG VÀ TĨNH VẬT: BẮC ÂU DANH TÁC THỜI ĐẠI HOÀNG KIM - “một buổi hôm nay mình không xem hết được đâu, nhưng có vài thứ…”
Giọng mẹ trượt đi khi tôi lẽo đẽo theo sau một quãng lên Cầu Thang Lớn - giằng xé giữa nỗi rụt rè muốn bám sát mẹ, và ý thích tụt lại đằng sau vài bước, giả vờ không đi cùng.
“Mẹ ghét cưỡi ngựa xem hoa kiểu này lắm,” mẹ đang nói khi tôi dấn lên bắt kịp ở đầu cầu thang, “nhưng đằng nào thì mấy triển lãm kiểu này cũng phải đến hai hay ba lần. Có bức Giờ học giải phẫu[14] chúng ta nhất định phải xem, nhưng cái mẹ muốn thấy thực sự là một bức nhỏ tí xíu, hiếm hoi vô cùng, cửa một họa sĩ là thầy dạy của Vermeer[15]. Một Đại Danh Họa
https://thuviensach.vn
chẳng mấy ai biết đến. Mấy bức Frans Hals cũng khá quan trọng. Con biết Hals đúng không? Tửu đồ vui vẻ? Với các tổng quản viện tế bần[16] nữa?”’
“Vâng,” tôi dè dặt đáp. Trong mấy bức mẹ vừa kể tên, tôi chỉ biết duy nhất có Giờ học giải phẫu. Một trích đoạn của bức tranh được in trên áp phích quảng cáo buổi triển lãm: da thịt tái ngắt, đủ sắc độ của màu đen, những thầy phẫu thuật mắt vằn máu, mũi đỏ cà chua như nghiện rượu.
“Mỹ thuật Đại cương ấy mà,” mẹ nói. “Rẽ trái, đây.”
Lên tới tầng trên lạnh buốt xương, vì tóc tôi vẫn còn ướt mưa. “Không, đầu này cơ,” mẹ túm tay áo tôi nói. Triển lãm ở nơi quá khó tìm, và trên đường chúng tôi đi khắp các gian trưng bày nhộn nhịp (lách vào rồi lại tách ra khỏi từng cụm người, rẽ phải, rẽ trái, lộn lại qua những mê lộ bảng chỉ đường và sơ đồ rối rắm) thì những bản in lớn thùi lùi bức Giờ học Giải phẫu hiện ra vô tội vạ ở những ngã tư bất thình lình, như những biển đường dữ tợn, vẫn cái xác với cánh tay bị lột da, dưới có mũi tên đỏ chỉ hướng: phòng mổ phía này.
Tôi không phấn khích lắm trưởc cái viễn cảnh ngắm một đống tranh vẽ người Hà Lan mặc áo đen sì đứng quanh phòng, nên khi đi qua cánh cửa đôi bằng kính - từ những hành lang âm vang bước vào cái tĩnh lặng của thảm nuốt tiếng chân - ban đầu tôi cứ tưởng lại vào nhầm hành lang nữa. Những bức tường sáng ửng ánh sương mờ trầm ấm và sang trọng, vẻ mềm mịn không cá tính thời cổ xưa; nhưng chỉ giây lát sau tất cả đã vỡ òa thành đường nét rõ rành, thành màu sắc, thành ánh sáng Bắc phương trong vắt - chân dung, nội thất, tĩnh vật, vài bức nhỏ tí xíu, bức khác đường hoàng vương giả: các phu nhân bên các đức ngài, các phu nhân ôm chó nhỏ, những trang nhan sắc u hoài khoác áo choàng thêu tinh xảo, những thương nhân đứng một mình, trang sức và lông thú lộng lẫy. Những bàn tiệc bị phá phách vương vãi táo gọt dở và vỏ quả óc chó; những thảm thêu vắt rủ bên đồ bạc; những bức trompe l’oeil[17] đánh lừa con mắt, côn trùng bò lổm ngổm hay hoa với những vết kẻ sọc trên cánh. Và chúng tôi càng đi sâu, những bức tranh càng thêm lạ lùng tuyệt diệu. Những quả chanh gọt vỏ,
https://thuviensach.vn
mép vỏ chanh hơi se lại nơi lưỡi dao cắt vào; cái bóng xanh xanh trên đám mốc. Ánh sáng lóe trên mép ly rượu vang đã vơi nửa.
“Mẹ cũng thích bức này,” mẹ thì thầm khi tiến đến bên tôi đang đứng trước một bức tĩnh vật nhỏ vừa, đặc biệt ám ảnh: con bướm trắng trên nền màu tối, lửng lơ trên mấy trái cây đo đỏ[18], Cái nền màu đen sô-cô-la ấm cúng tỏa ra sức ấm khó gọi tên gợi lên những nhà kho chật chội và lịch sử, bước đi của thời gian.
“Họ rất giỏi xử lý cái ranh giới này, các danh họa Hà Lan ấy: chín tới độ ngả sang thối rữa. Quả này đã đạt đến độ hoàn hảo, nhưng sẽ không còn được lâu, nó hỏng đến nơi rồi. Đặc biệt là ở đây,” mẹ nói, vươn qua vai tôi đưa ngón tay vạch theo trong không trung, “khúc này này - con bướm ấy.” Cánh dưới như rắc phấn, mong manh như thể chỉ cần mẹ chạm phải là màu sẽ phai ra. “Ông ấy tạo hình đẹp biết bao. Tĩnh lặng, nhưng lại có thoáng run rẩy vô cùng nhẹ.”
“Ông ấy vẽ bức này mất bao lâu?”
Đang đứng hơi sát bức tranh, mẹ lùi lại để ngắm tổng thể - hoàn toàn không để ý anh bảo vệ miệng nhóp nhép kẹo cao su đã để mắt tới mình, đang chăm chăm theo dõi mẹ từ đằng sau.
“À, chính người Hà Lan đã sáng chế ra kính hiển vi,” mẹ nói. “Họ là dân tộc của những thợ trang sức và thợ mài kính. Họ muốn mọi thứ càng chi tiết càng hay, vì cả những thứ tí hon cũng nói lên điều gì đó. Nếu con thấy ruồi hay côn trùng xuất hiện trong tranh tĩnh vật - một cánh hoa tàn hay một đốm đen trên quả táo - thì đấy là thông điệp mật của họa sĩ. Ông ấy muốn nói với con rằng những vật sống không phải là sống mãi - tất cả đều chỉ phù du. Cái chết giữa cõi sống. Chính vì thế mà tranh tĩnh vật được gọi là nature morte - tự nhiên chết. Có thể thoạt nhìn giữa những tươi đẹp và bừng nở, con chưa nhận thấy nó ngay, cái chấm rữa nát nho nhỏ ấy. Nhưng nhìn kỹ, con sẽ nhận ra.”
Tôi cúi lại gần đọc mảnh giấy chú giải, in chữ hoa rất kín đáo trên tường, cho biết tác giả bức tranh - Adriaen Coorte, không rõ năm sinh năm mất -
https://thuviensach.vn
sinh thời không ai biết đến, mãi tới thập niên 1950 người ta mới định danh được tranh của ông. “Mẹ,” tôi nói, “mẹ có thấy cái này không?”
Nhưng mẹ đã đi tiếp rồi. Phòng rất lạnh và trầm lắng, trần hạ thấp, không hề ồn ã âm vang thiên giới như ngoài Sảnh Lớn. Dù lượng người vào đây xem cũng khá đông, căn phòng vẫn mang cái vẻ miên man thiêm thiếp như một vùng nước đọng, lặng lờ như hút chân không, chỉ nghe những tiếng thở rất dài hay tiếng thốt nho nhỏ kịch tính như một phòng kín học sinh trong giờ thi. Tôi theo sau cách một quãng trong lúc mẹ đi chéo từ bức chân dung này qua bức khác, nhanh hơn nhiều lệ thường xem triển lãm, từ hoa tươi sang bàn đánh bài sang hoa quả, bỏ qua khá nhiều bức vẽ (cái vại rượu bạc hay con gà lôi chết thứ tư thứ năm gì đó), đi thẳng đến vài bức khác không do dự (“Còn đây, Hals. Đôi lúc ông khá sáo khi vẽ tửu đồ[19] hay dân nữ[20] nhưng khi nào có hứng, thì ông ấy hứng -thần kỳ- luôn. Không thèm tỉ mẩn nắn nót gì hết, cứ thế trát vào khi nét trước còn đang ướt, soạt, soạt, tay đưa rất nhanh. Khuôn mặt hay bàn tay - vẽ rất chăm chút, ông biết mắt người xem bị hút về đó, nhưng nhìn quần áo kia - thật qua loa - gần như chỉ phác họa. Xem nét bút lông phóng khoáng và hiện đại chưa!”). Chúng tôi đứng khá lâu trước bức chân dung Hals vẽ một cậu bé cầm đầu lâu[21](“Theo, đừng có nổi đóa nhé, nhưng con có thấy cậu ta giống ai không? Giống ai đó” - giật giật tóc sau gáy tôi - “lâu lắm rồi chưa cắt tóc?”) - và cả hai bức chân dung lớn vẽ các sĩ quan đang tiệc tùng[22] mà mẹ nói là cực nổi tiếng và có ảnh hưởng cực lớn đến Rembrandt.[23]("Van Gogh cũng mê Hals. Ở đâu đó viết về Hals ông đã bảo, Frans Hals có không dưới hai mươi chín sắc độ xám! Hay là Hai mươi bảy nhỉ?”) Tôi đi theo mẹ, cảm giác hơi mụ mị, mừng rơn thấy mẹ chuyên chú vào tranh, hình như đã quên bẵng mỗi phút đang tuột đi. Có vẻ là nửa tiếng dành ra đã sắp cạn rồi; nhưng tôi vẫn muốn la cà thêm, đánh lạc hướng mẹ, hy vọng một cách rất ấu trĩ là thời gian sẽ trôi vèo đi và chúng tôi sẽ lỡ luôn buổi họp.
“Đây rồi, Rembrandt,” mẹ nói, “Ai cũng bảo bức này nói về lý tính và khai sáng, về buổi bình minh của tính hiếu kỳ khoa học và đủ thứ nữa, nhưng mẹ chỉ thấy đựng tóc gáy vì họ quá đỗi lịch sự và trịnh trọng, đứng
https://thuviensach.vn
chen chúc quanh bàn xác cứ như quanh bàn búp phê ở tiệc rượu ấy. Ngoại trừ..- mẹ đưa tay chỉ - “con có thấy hai ông ngơ ngác ở sau cùng không? Hai người đó không nhìn xuống tử thi - mà nhìn thẳng vào mình. Vào mẹ với con. Cứ như họ thấy mình đang đứng đây, trựớc mặt họ - hai du khách từ tương lai tới. Họ giật mình. 'Các người làm gì ở đó?’ Hết sức tự nhiên chủ nghĩa. Nhưng lại nữa” - mẹ đưa ngón tay lần theo cái xác mà không chạm vào - “nếu con nhìn thử sẽ thấy tử thi không hề vẽ theo kiểu tự nhiên. Nó phát sáng rất khác thường, thấy không? Cứ như đang giải phẫu tử thi người ngoài hành tinh ấy. Con thấy nó hắt sáng lên mặt những người đang cúi xuống nhìn không? Như thế có nguồn sáng từ bên trong tỏa ra ngoài? Ông ấy vẽ nó phóng xạ như vậy vì muốn hút ánh mắt người xem vào đó - khiến thi thể nhảy ra ngoài bức tranh về phía chúng ta. Còn đây nữa” - mẹ chỉ xuống bàn tay đã lột da - “con có thấy ông nhấn mạnh bằng cách vẽ bàn tay rất to, to ngoại cỡ so với phần còn lại của cơ thể không? Thậm chí còn xoay ngược nó lại, khiến ngón cái đáng ở ngoài thì lại quay vào trong, thấy chưa? À, không phải ông ấy vẽ nhầm đâu. Da đã lột khỏi tay rồi - nhìn là thấy ngay, có gì đó không ổn - nhưng ngón tay quay vào trong khiến trông nó còn không ổn hơn nữa, vô thức của ta nhận thấy dù ý thức chưa kịp xác định là có chuyện gì, chỉ biết có gì đó rất không đúng, không phải. Mẹo hay.” Chúng tôi đang đứng sau một đám đông khách du lịch châu Á, quá nhiều cái đầu trước mặt đến nỗi tôi hầu như chẳng nhìn thấy bức tranh nữa, nhưng mặt khác tôi cũng không lấy gì làm bực dọc, vì đã thấy cô gái đó.
Cô ta cũng thấy tôi. Chúng tôi đã liếc qua nhau suốt trong lúc đi qua các gian trưng bày. Tôi cũng không hiểu cô bé này có điểm gì đặc biệt, vì cô ta nhỏ hơn tôi và trông cũng hơi dị dị - hoàn toàn chẳng giống các cô nàng tôi vẫn thầm thương trộm nhớ ở trường, những mỹ nhân lạnh lùng nghiêm trang ưa ném cái nhìn khinh miệt khắp hành lang trường và chỉ cặp kè những gã lớp lớn. Cô bé này tóc màu đỏ rực, cử động nhanh thoăn thoắt, khuôn mặt sắc nét là lạ lại pha vẻ tính quái, mắt cô ta cũng có màu rất lạ, nâu vàng như ong mật. Và cô ta cũng gầy, nhìn những xương là xương, có thể coi là xoàng xĩnh nữa, nhưng có gì đó ở cô ta khiến lòng tôi mềm lại.
https://thuviensach.vn
Cô ta đang vung vẩy cây tiêu dài trông khá tơi tả - cũng là trẻ con thành phố ư? Trên đường đi học nhạc à? Cũng có thể không, tôi nghĩ trong lúc lượn lờ sau lưng cô ta, theo mẹ sang gian bên cạnh; quần áo cô ta hơi tẻ, kiểu dân ngoại ô; hẳn là khách du lịch thôi. Nhưng cô ta đi lại dáng vẻ tự tin hơn hầu hết những cô bé tôi từng quen, và ánh mắt ranh mãnh, bình thản trượt qua khi cô ta đi lướt bên cạnh suýt chạm vào nhau khiến tôi muốn phát cuồng.
Tôi đang đi sau mẹ, chỉ để ý nửa vời những gì mẹ nói, thì mẹ dừng phắt lại trước một bức tranh khiến tôi suýt đâm vào.
“Ồ xin lỗi...!” Mẹ nói mà không nhìn, bước lùi lại chừa chỗ cho tôi. Trông mặt mẹ bừng sáng như vừa có ai rọi đèn.
“Đây chính là bức mẹ đã nói,” mẹ nói. “Tuyệt không?”
Tôi nghiêng đầu về phía mẹ, làm bộ chăm chú nghe, trong lúc mắt lại lạc về phía cô bé. Đi bên cô là một nhân vật tóc bạc trắng rất kỳ khôi, mà nhìn khuôn mặt sắc tôi đoán chắc là có họ hàng với cô, có thể là ông nội: áo khoác vải nanh sói, đôi giày buộc dây dài hẹp bóng loáng như gương. Đôi mắt ông ta chụm vào nhau, cái mũi khoằm khoằm như mỏ chim, dáng đi có phần khập khiễng - nói cho chính xác là cả thân người đổ nghiêng về một bên, vai bên này nhô cao hơn hẳn bên kia; chỉ cần sụm người xuống tí nữa thì hoàn toàn có thể gọi ông là gù. Nhưng bất chấp mọi thứ đó, từ ông vẫn toát lên vẻ thanh nhã. Và rõ ràng ông ta rất yêu chiều cô cháu, cứ nhìn thái độ hứng khởi và chịu khó khi ông cập kiễng đi bên cạnh cô, cẩn thận từng bước chân, đầu nghiêng về phía cô là biết.
“Đây có thể nói là bức tranh đầu tiên từng đi vào trái tim mẹ,” mẹ vẫn đang nói, “Chắc nói con không tin đâu, nhưng bức này có trong cuốn sách mẹ hay mượn thư viện từ hồi bé tí. Mẹ thích ngồi trên sàn cạnh giường, ngắm hàng giờ liền, mê mải không chịu được - cái chú nhóc này! Và thật đấy, ít người hình dung nổi có thể biết thêm bao nhiêu điều về một bức tranh bằng cách ngồi thật lâu với một bản sao, kể cả là bản sao không tốt lắm cũng vậy. Ban đầu mẹ yêu chú chim, như yêu một con vật nuôi trong
https://thuviensach.vn
nhà, và cuối cùng mẹ chuyển sang yêu cách ông ấy vẽ nó.” Mẹ bật cười. “Thực ra là Giờ học giải phẫu cũng ở trong cuốn đó, nhưng nó làm mẹ phát khiếp. Mỗi lần giở nhầm phải trang đó là mẹ lại đóng ập sách lại.”
Cô bé và ông già đã đi tới bên chúng tôi. Làm điệu bộ, tôi vươn người tới nhìn bức tranh mẹ nói. Bức này rặt nhỏ, nhỏ nhất trong toàn bộ triển lãm, và cũng là bức đơn giản nhất: một chủ sẻ lông màu vàng, trên nền trơn màu sáng, cái cẳng sậy bị xích vào giá đậu.[24]
“Ông ấy là học trò của Rembandt và là thầy của Vermeer,” mẹ nói.
“Và chính bức tranh nhỏ này là mắt xích còn thiếu giữa hai bậc thầy kia - cái ánh nắng trời trong trẻo ấy, con thấy ngay ánh sáng trong tranh Vermeer là từ đâu ra. Tất nhiên hồi còn nhỏ, mẹ chẳng biết, mà cũng chẳng quan tâm đến mối quan hệ lịch sử ấy. Nhưng đúng là nó rất rõ.”
Tôi lùi một bước nhìn cho rõ. Một sinh vật nhỏ thẳng thắn và nhìn rõ là thực tế, không sến sẩm màu mè; và cái kiểu thu mình trong thân hình gọn gàng chắc lẳn - màu sáng trên mình nó, nét mặt cảnh giác thăm dò. của nó - khiến tội nhớ lại những bức ảnh chụp mẹ hồi còn nhỏ: một chú sẻ đầu đen đôi mắt chăm chú.
“Thảm kịch khét tiếng trong lịch sử Hà Lan,” mẹ vẫn đang nói. “Một phần lớn thành phố bị hủy hoại.”
“Cái gì cơ?”
“Thảm họa ở Delft ấy. Làm Fabritius chết ấy. Con không nghe thấy lúc nãy cô giáo kể với đám trẻ à?”
Tôi có nghe. Khi đi qua bộ ba bức phong cảnh điêu tàn cùa một ông tên là Egbert van der Poel, nhìn từ các góc khác nhau về cùng một vùng hoang địa ngún khói: những xác nhà cháy đổ nát, cối xay gió cánh quạt rách tươm, lũ quạ đảo tròn trên bầu trời khói bốc. Một bà có vẻ quan cách lớn tiếng giải thích cho nhóm học sinh chừng cấp hai đứng bên, rằng một nhà máy thuốc súng ở Delft đã nổ tung vào thập niên đầu thế kỷ 17, và rằng họa
https://thuviensach.vn
sĩ bị ám ảnh vụ hủy diệt thành phố của mình đến nỗi ông không ngừng vẽ đi vẽ lại cảnh ấy.
“Ừm, Egbert là hàng xóm của Fabritius, ông ấy hóa điên sau khi chứng kiến vụ nổ nhà máy - hoặc ít nhất là mẹ có cảm giác thế, nhưng Fabritius thì thiệt mạng và xưởng vẽ của ông cháy rụi. Hầu hết tranh của ông cháy hết, trừ bức này.” Hình như mẹ đang chờ tôi thốt lên câu gì, nhưng thấy tôi không phản ứng, mẹ tiếp: “Ông là một trong những bậc thấy vĩ đại nhất thời mình, đây cũng là một trong những giai đoạn vĩ đại nhất trong lịch sử hội họa. Nổi tiếng kinh khủng vào hồi đó, Thật đáng buồn, vì sót lại chỉ còn khoảng năm sáu bức gì đó, từ thành tựu cả đời người. Phần còn lại đã mất hết - tất cả những gì ông từng vẽ.”
Cô bé và người ông đang đứng bên cạnh lặng yên lắng nghe mẹ nói, làm tôi hơi ngượng. Tôi nhìn đi chỗ khác, và rồi - không kìm nổi - lại đưa mắt về. Họ đang đứng rất gần, gần đến nỗi chỉ cần đưa tay ra là chạm tới. Cô bé đang giật ống tay áo ông già, níu tay ông thì thầm gì đó vào tai.
“Tuy nhiên, theo ý mẹ,” mẹ vẫn đang nói, “đây là bức tranh kỳ diệu nhất trong cả cuộc triển lãm này. Fabritius lần đầu phơi ra một thứ mà tự ông đã phát hiện thấy, mà cả thế giới họa sĩ trước ông chưa từng biết đến - ngay cả Rembrandt cũng chưa.”
Thật khẽ khàng - khẽ đến nỗi tôi chỉ nghe loáng thoáng - cô bé thì thào: “Nó phải sống cả đời như thế à?”
Tôi cũng đang nghĩ đến điều tương tự; cái cẳng bị xiểng, sợi xích kinh hãi; người ông thì thào đáp lại gì đó nhưng mẹ (có vẻ không nhận thấy có họ ở đấy, dù họ đang đứng ngay cạnh) lùi một bước và bảo: “Một bức tranh bí ẩn, đơn giản biết bao. Rất đỗi dịu dàng - như mời gọi ta tiến lại gần, con hiểu không? Bao nhiêu gà lôi chết nãy giờ và đột ngột, một chú chim nhỏ nhắn đang sống.”
Tôi tự thưởng cho mình thêm một cái liếc kín đáo về phía cô bé. Cô đang đứng lò cò một chân, hông đánh sang một bên. Rồi - bất thình lình cô bé quay lại nhìn thẳng vào mắt tôi; tim nhảy lên vì bối rối, tôi nhìn chỗ khác.
https://thuviensach.vn
Tên cô là gì? Sao cô không đi học? Tôi đã cố đọc thử dòng chữ viết ngoáy trên bao đựng tiêu, nhưng dù đã ghé lại gần hết cỡ mà không quá lộ liễu, tôi vẫn không đọc ra những nét bút dạ nhọn đậm nét, như vẽ hơn là viết, như dòng graffiti xịt trên toa tàu điện ngầm. Cái họ thì ngắn, chỉ có bốn năm chữ cái; chữ đầu tiên có vẻ là R, hay là P?
“Người ta vẫn chết, hẳn rồi,” mẹ vẫn nói tiếp. “Nhưng đồ vật bị mất đi mới thật đau lòng, vô nghĩa. Mà hoàn toàn vì cẩu thả nữa chứ. Cháy nổ hay chiến tranh. Điện Parthenon dùng làm kho trữ đạn dược. Phải nói mỗi vật chúng ta cứu được từ lịch sử đều là một phép màu.”
Ông già đã bước đi mất, giờ đã cách đó vài bức tranh; nhưng cô bé vẫn nấn ná vài bước đằng sau, chốc chốc lại liếc về phía tôi với mẹ. Da dẹp quá: trắng như sữa, tay sáng như hoa cương đẽo ra. Trông cô có dáng thể thao, dù trắng thế kia thì không thể nào là dân quần vợt được; chắc cô học múa ba-lê, hoặc thể dục dụng cụ, hoặc có khi nhảy cầu lặn chăng, tập đến tối muộn bên những bể trong nhà mờ tối, vọng âm, khúc xạ, gạch đáy sàn đen thẫm. Ngực uốn căng, mũi chân chụm lại, xuống xuống mãi cho đến tận đáy bể bơi, một tiếng ùm vô thanh, áo bơi đen láng, bong bóng sủi trào thoát khỏi cái thân hình nhỏ đang căng rạ.
Sao tôi lại cứ si mê nghĩ về người khác như thế này? Có bất thường không khi cứ mải mốt đeo đuổi người xa lạ trong những hình dung mê sảng và sống động đến chừng ấy? Chắc là có. Khó mà hình dung có kẻ lạ mặt qua đường nào lại thình lình quan tâm theo cách đó đến tôi. Thế mà đấy lại là lý do chính khiến tôi theo Tom đột nhập vào những nhà kia: tôi mê mẩn người lạ, tôi muốn biết họ ăn thức gì, bát đĩa họ dùng ra sao, họ xem phim nào, họ nghe nhạc gì, tôi muốn ngó dưới gầm giường, dòm vào những ngăn tủ bí mật, và ngăn bàn đầu giường, lộn túi áo choàng của họ. Nhiều lần tôi thoáng nhìn thấy những người có dáng vẻ hay ho trên phố, để rồi mấy ngày sau còn thao thức nghĩ về họ, tưởng tượng cuộc đời họ sống, bịa ra đủ thứ chuyện về họ trên đường đi xe điện ngầm hay xe buýt xuyên trung tâm. Đã hàng năm trời qua mà tôi vẫn không thôi nghĩ về hai đứa trẻ tóc đen mặc đồng phục trường Công giáo - hai anh em - tôi từng nhìn thấy chúng ở ga
https://thuviensach.vn
trung tâm, đang hợp sức cùng lôi ông bố khỏi cửa quán bar bốc mùi đáng ngại, nắm lấy ống tay áo vét ông ta mà kéo. Tôi cũng chưa quên cô gái xanh rớt dáng vẻ di-gan ngồi xe lăn trước cửa khách sạn Carlyle, nói liến thoắng tiếng Ý với chú chó xù bông đặt trong lòng, thêm một gã khá bảnh đeo kính râm (bố? hay vệ sĩ?) đứng sau xe, hình như đang thỏa thuận làm ăn gì đó trên điện thoại. Hàng năm trời tôi đã xoay chuyển những người lạ ấy trong ý nghĩ, đoán thử họ là ai, họ sống ra sao, và tôi biết rồi hôm nay về nhà mình sẽ lại nghĩ hoài vè cô bé cùng ông già kia y như vậy. Ông già ấy giàu; nhìn lối phục sức là biết. Tại sao chỉ có hai người? Họ gốc ở đâu? Có thể họ thuộc một gia đình New York đông đảo, lâu đời, phức tạp nào đấy - nhạc sĩ hay là giáo sư, một trong những gia đình nghệ sĩ West Side nhiều cành nhánh vẫn thường thấy ở Columbia hay những suất diễn chiếu ở Lincoln Center. Hoặc cũng có thể - vì ông già khiêm nhường và văn nhã quá chừng - có thể ông chẳng phải là ông cô. Có thể ông là nhạc sư, còn cô là thần đồng thổi tiêu được ông khai quật từ một thị trấn u buồn nào đó và đưa lên đây trổ tài ở thính phòng Carnegie Hall...
“Theo?” Thình lình mẹ hỏi. “Con nghe mẹ nói không đấy?”
Giọng mẹ làm tôi sực tỉnh. Chúng tôi đã đến gian cuối. Đi tiếp sẽ là cửa hàng lưu niệm - bưu thiếp, quầy tính tiền, những chồng sách hội họa giấy bóng - và than ôi, mẹ vẫn không quên canh giờ.
“Mình phải ngó thử xem còn mưa không,” mẹ đang nói, “Vẫn còn một ít thời gian” (nhìn đồng hồ, ngó qua dẫn tôi lên bảng đèn Lối ra) “nhưng mẹ nghĩ là phải chạy xuống tầng dưới thôi nếu còn muốn mua gì cho Mathilde. Tôi nhân ra cô bé kia đang quan sát mẹ nói - mắt tò mò liếc từ cái đuôi ngựa đen mượt xuống cái áo khoác vải sa-tanh trắng chiết eo - và vui thích lặng người khi trong thoáng chốc được thấy mẹ qua con mắt cô bé kìa, như một người lạ. Cô ta có thấy gốc mũi mẹ hơi gồ lên một tí khó nhận ra, hậu quả cú ngã gãy mũi khi trèo cây hồi nhỏ? Hay những quầng đen bao quanh mống mắt lam nhạt khiến trông mẹ có phần hoang dại, như một sinh vật săn mồi mắt sắc một mình rong ruổi đồng bằng?
https://thuviensach.vn
“Biết sao không...” mẹ ngoái lại đằng sau “nếu con không phiền, có khi mẹ chạy lại ngó qua Giờ học giải phẫu một cái rồi mình đi.
Lúc nãy mẹ không nhìn kỹ được, mà mẹ sợ sẽ không còn dịp quay lại trước khi hết triển lãm.” Mẹ dợm chân đi, gót giày lộp cộp vội vã – rồi ngó lại tôi như muốn hỏi: không đi cùng à?
Chuyện bất ngờ đến nỗi nhất thời tôi không biết đáp sao. “Ờm,” tôi đáp khi hồi lại, “con sẽ chờ mẹ trong cửa hàng.”
“OK,” mẹ nói. “Mua hộ mẹ cái thiếp nhé? Mẹ sẽ quay lại ngay.”
Và thế là mẹ hối hả đi, trước khi tôi kịp nói thêm lời nào. Tim đập thình thịch, mừng không tin nổi, tôi nhìn mẹ thoăn thoắt bước đi xa dần trong chiếc áo khoác sa-tanh trắng. Đây rồi, cơ hội bắt chuyện với cô bé kia; nhưng mình nói gì với cô ấy bây giờ, đầu tôi điên cuồng hỏi, nói gì đây? Tôi thọc sâu hai tay vào túi áo, hít thật căng một hai lần cho trấn tĩnh, rồi thì, bụng dạ phấn khích tưng bừng, quay lại phía cô.
Nhưng tôi rầu cả lòng khi thấy cô đã biến mất. Chính xác thì không phải biến mất, mà mái tóc đỏ vẫn ở đằng xa, miễn cưỡng (hoặc có vẻ thế) di chuyển sang đầu kia phòng. Người ông đã đưa tay khoác lấy cánh tay cô, và vừa phấn khởi thì thầm, vừa lôi cô đi xem bức nào đó trên tường đối diện.
Tôi những muốn bắn chết ông ta. Lo lắng, tôi nhìn qua cánh cửa vắng người. Rồi ấn tay sâu hơn trong túi, mặt đỏ lựng, tôi bước rất lộ liễu dọc tường gian triển lãm. Đồng hồ vẫn quay; mẹ có thể trở lại bất kỳ lúc nào; và dù biết mình không đủ can đảm xông tới mở miệng cất lời, nhưng ít nhất tôi cũng có thể ngó cô một lần cuối thật lâu. Mới mấy hôm trước tôi vừa thức khuya xem Công dân Kane[25] với mẹ, và rất mê ý nghĩ rằng có ai đó thoáng nhìn thấy một người lạ mê hoặc đi ngang đường và nhớ cô cho đến trọn kiếp. Có thể ngày nào đó, tôi cũng giống như ông già trong phim, ngả người trên ghế bành, mắt nhìn xa xăm mà nói: “Con biết không, đã sáu mươi năm trôi qua, ta chẳng bao giờ còn nhìn thấy cô gái có mái tóc đỏ ấy
https://thuviensach.vn
lần nữa, nhưng biết sao không? Không một tháng nào trong từng ấy năm mà ta không nghĩ, về cô ấy.”
Tôi đã đi quá giữa phòng thì có biến. Một người bảo vệ bảo tàng chạy băng ngang khung cửa hàng lưu niệm giáp phòng đó. Trong tay anh ta ôm vật gì.
Cô bé kia cũng nhìn thấy. Đôi mắt nâu vàng gặp mắt tôi: ánh nhìn giật thột dò hỏi.
Bỗng một người bảo vệ khác chạy vụt khỏi cửa hàng. Hai tay giơ lên, anh ta đang gào thét.
Những cái đầu ngẩng phắt. Sau lưng tôi tiếng ai đó, vô cảm rất lạ: Ô! Ngay giây sau, tiếng nổ rùng rùng điếc lỗ nhĩ rung chuyển căn phòng.
Ông già, mặt ngơ ngác, ngã nhào sang bên. Cánh tay ông duỗi dài - năm ngón xòe nổi cục - là điều cuối cùng tôi còn nhớ. Gần như chính lúc đó một luồng chớp đen nháng lên trước mặt, gạch vữa đất đá lổn nhổn bay rào rào tứ tung khắp xung quanh, một trận gió nóng ập tới quàng tôi bắn qua phòng. Và một hồi lâu tôi không biết gì nữa.
v.
TÔI KHÔNG BIẾT MÌNH bất tỉnh bao lâu. Khi hồi lại, tôi tưởng như mình đang nằm sấp, duỗi người trong hố cát hay trong sân chơi tối om nào đấy - ở nơi nào đó tôi không biết, một khu nhà bỏ hoang chăng. Một bầy trẻ trai đầu gấu vườn loắt choắt đang túm tụm quanh tôi, vung chân đá lia lịa vào be sườn, vào gáy. Cổ tôi bị ngoặt sang một bên, hơi thở bị ép khỏi ngực, nhưng thế vẫn chưa phải cái tệ nhất; cát vào đầy mồm, tôi hít cát vào phổi.
Lũ trẻ rì rầm thành tiếng.
Đứng dậy thằng chó kia.
Nhìn nó kìa, nhìn nó kìa.
https://thuviensach.vn
Nó chẳng biết cái mẹ gì cả.
Tôi lật ngửa, giơ tay che lấy đầu và rồi - giật mình chếnh choáng như không thực - nhận ra chẳng có ai hết.
Trong một giây tôi nằm, choáng váng không cất mình nổi. Chuông báo động oang oang vọng về từ đằng xa. Dù lạ, tôi vẫn tưởng mình đang nằm trong sân vườn có tường bao, trong một khu nhà xây dở bị bỏ bê nào đấy.
Tôi vừa bị kẻ nào đó giã cho nhừ tử: khắp người đau như dần, xương sườn nhức nhối, đầu ù như choảng ống thép. Tôi tìm cách nhúc nhắc quai hàm, sờ túi xem có đủ tiền đi tàu về nhà không thì mới đột nhiên vỡ lẽ không biết mình đang ở đâu. Tôi nằm im phắc, càng lúc càng nhận thấy có gì đó rất không ổn, không ổn rồi. Ánh sáng kia không bình thường, không khí cũng thế: mùi chan chát lại đắng gắt, có thứ hóa chất không rõ vơ vẩn như sương mù, đốt cháy họng tôi. Lợi dính gì xào xạo, và khi lật người tìm cách nhổ nó ra, đầu nhức như búa bổ, tôi thấy hiện ra qua lớp lớp khói mù nước mắt là một thứ lạ thường đến mức tôi phải trân mắt nhìn một lúc.
Tôi đang ở giữa một cái hang trắng lởm chởm. Dải vải lòng thòng rủ xuống từ trên trần. Mặt đất lổn nhổn những đống gì đó xám xịt như nguyệt thạch, khắp nơi toàn kính vỡ, sỏi vụn, cả một trận lũ những rác rến, gạch vữa không phân biệt được, với những thứ gì như giấy, phủ đầy lớp tro mỏng mịn như sương giá đầu mùa. Tít trên cao, hai cây đèn chiếu sáng lòa qua lớp bụi, cứ như đèn pha xe bị lật trong sương mù, lệch đường, một bên chiếu lên trời, bên kia lăn nghiêng đổ những cái bóng méo mó.
Tai tôi ù lên, cả người tôi cũng ù lên, cảm giác khó chịu hết sức từ xương đến óc đến tim đều đập ình ình như chuông vừa bị gióng. Vang từ đâu đó xa xôi rất khẽ, tiếng rít chát chúa của còi báo động rên từng chặp đều đặn máy móc. Tôi cũng không biết tiếng động phát ra từ trong hay ngoài mình nữa. Cảm giác là cô độc, giữa chết chóc mùa đông. Chẳng gì có lý dù là thứ lý nào đi nữa.
Tay tì xuống bề mặt nào đó không hẳn nằm ngang, tôi đứng dậy, làm trút xuống một đợt sỏi dăm lả tả, nhăn mặt vì đầu lại nhói lên. Không gian tôi
https://thuviensach.vn
đang đứng có độ nghiêng rất bất thường, bất thường từ tự nhiên. Một bên bụi và khói lặng phắc, lơ lửng thành từng lớp bít kín không khí. Còn bên kia, khối gạch đá bị xắt nát chất đống thành một đụn dốc tanh bành ngay ở chỗ đáng ra phải là mái, hay trần nhà.
Quai hàm tôi đau nhức; mặt và đầu gối xây xước; miệng khô như giấy ráp. Chớp mắt nhìn khắp cảnh hỗn độn, tôi nhận ra một chiếc giày chơi quần vợt; những đống nát vụn nhuộm đen thẫm; một cây gậy chống bằng nhôm bị bẻ cong. Tôi đứng, người lắc lư, ngạt thở váng vất, không biết nên quay phía nào hay nên làm gì nữa, thì đột ngột cảm thấy tiếng chuông điện thoại vang lên đâu đây.
Mất một lúc tôi không dám chắc, gắng nghe thật kỹ; âm thanh ấy, lại ngân lên: văng vẳng và nhèo nhẽo, có vẻ kỳ quái. Vụng về, tôi lần sờ đi qua cảnh đổ nát - làm rơi rào rào những ví hay balo trẻ con bụi bặm, giật tay về khi chạm phải vật nóng hay mảnh thủy tinh vỡ, càng lúc càng lo sợ khi thấy ở nhiều chỗ, đống đổ nát thụt xuống dưới chân mình, và thấy những khối mềm bất động lù lù đằng khóe mắt.
Mãi tới khi đã xác định mình không hề nghe thấy điện thoại nào hết, chỉ là tiếng ù trong tai đánh lừa, tôi vẫn tiếp tục tìm, máy móc thực hiện những cử chỉ kiếm tìm với vẻ tập trung chuyên chú như một con robot đã lập trình. Giữa những bút máy, túi xách, ví da, mắt kính vỡ, chìa khóa thẻ phòng khách sạn, gương bỏ túi, bình xịt nước hoa, đơn thuốc bệnh viện (Roitman, Andrea, alprazolam 0,25 mg), tôi bới được một chiếc đèn pin đeo móc chìa khóa và một chiếc di động đã ngừng chạy (nửa vạch pin, không có sóng), rồi vứt vào túi gấp đi chợ tìm thấy trong ví bà nào đấy.
Tôi thở khò khè, họng tắc bụi thạch cao, đầu đau không nhìn nổi. Tôi chỉ muốn ngồi, nhưng chẳng có chỗ nào để ngồi cả.
Rồi tôi nhìn thấy chai nước. Ánh mắt tôi ngoặt lại, rất nhanh, quét khắp cảnh hoang tàn tới khi lại bắt được nó, cách chừng bốn năm mét, nửa vùi trong đống nát vụn: chỉ vừa đủ nhận ra cái nhãn, màu xanh lơ tủ lạnh quen thuộc.
https://thuviensach.vn
Cử động nặng trĩu và đờ đẫn như mở đường xuyên tuyết, tôi đi vòng vèo qua những đống nát tươm, rác rến vỡ dưới chân răng rắc, chói tai như băng hà. Nhưng chưa đi được mấy thì trong khóe mắt, tôi đã thấy có gì cựa quậy trên mặt đất, đập vào mắt giữa không gian im phắc, màu trắng trêu màu trắng, khẽ cựa mình.
Tôi đứng sững. Rồi lê thêm vài bước. Đây là một người đàn ông, nằm ngửa, bụi phủ từ đầu đến chân trắng xóa. Lớp đổ nát bụi tro ngụy trang quá kỹ, nên phải một giây tôi mới nhận rõ hình thù ông: màu phấn trên màu phấn, đang ráng sức ngồi dậy như một bức tượng vừa bị đẩy đổ khỏi bệ. Đến gần hơn, tôi nhận ra ông rất già và gầy yếu, tấm thân gù xấu xí; tóc ông – phần còn lại - đã bị thổi dựng đứng trên đầu; má ông một loạt đốm bỏng lấm chấm trông rất gớm, còn đầu ông, phía trên tai, là một mảng đen xì dính dấp kinh hoàng.
Tôi vừa tới bên thì - nhanh không tưởng nổi - cánh tay trắng bụi phóng lên chộp cổ tay tôi. Hoảng sợ, tôi giật lùi, nhưng ông ta càng tóm lấy tôi chặt hơn, trong tiếng ho liên hồi có độ ướt rất khó chịu.
Đâu rồi…? Hình như ông đang nói. Đâu rồi…? Ông đang cố nhìn lên tôi, nhưng cái đầu nặng rũ trên cổ, cằm gục xuống lăn lăn trên ngực khiến ông phải trợn ngược mắt nhìn như một con kền kền. Nhưng đôi mắt trên khuôn mặt nát bấy thì thông minh và tuyệt vọng.
“Ôi trời ơi,” tôi nói, cúi xuống toan giúp ông, khoan, khoan đã - và rồi tôi ngừng lại, không biết phải làm gì. Nửa thân dưới ông nằm xoắn vặn trên đất, như một mớ quần áo bẩn.
Ông chống hai tay đỡ mình dậy, vẻ rất can trường, môi mấp máy, vẫn cố nâng người lên. Người ông đầy mùi tóc cháy len cháy. Nhưng nửa thân dưới ông như thể không còn nối với nửa trên; ông bật ho rồi lại ngã sụm xuống.
Tôi nhìn quanh, cố xác định vị trí của mình, cú nện vào đầu đã làm tôi mất phương hướng, lại hoàn toàn mất cảm giác về thời gian, thậm chí không biết đang là ngày hay đêm. Vẻ điêu tàn tráng lệ của không gian xung
https://thuviensach.vn
quanh làm tôi rối trí - cái khoảng không cao vợi không khí loãng tít trên đầu, lớp lớp khói mỏng dần gối lên nhau rồi căng phồng như nóc lều ở nơi lẽ ra là trần nhà (hay bầu trời). Nhưng dù không biết mình đang ở đâu, hay vì sao, cảnh hoang tàn xung quanh vẫn thoáng gợi lại thứ gì đó lờ mờ trong ký ức tôi, đậm chất xi-nê trong ánh sáng chát chúa của những cỗ đèn ắc quy xách tay. Tôi từng xem trên mạng các cảnh phim quay một khách sạn bị đánh bom giữa sa mạc, những phòng san sát như tổ ong chính vào thời khắc đổ sập, bị ngưng đọng giữa luồng sáng gắt đúng y như thế này.
Rồi tôi nhớ ra chai nước. Tôi bước lùi, nhìn khắp bốn phía, tới khi bắt gặp ánh xanh bụi bặm khiến tim nhảy lên.
“Này nhé,” tôi nói, hơi lùi lại. Cháu cần...
Ông già đang dõi mắt vào tôi, vừa hy vọng vừa tuyệt vọng, như con chó đói lả không còn sức bước.
“Không... ông đợi đây. Cháu sẽ quay lại.”
Như người say, tôi lảo đảo đi qua cảnh tàn phá - luồn lách rồi dấn bước, co cẳng thật cao tránh giẫm phải các đồ vật, lầm lũi qua gạch đá và xi măng và giày dép và túi xách và hàng đống mẩu vụn cháy xém không dám đưa mắt nhìn quá gần.
Bình nước còn đầy ba phần tư, cầm bỏng tay. Nhưng vừa nuốt một ngụm cổ họng tôi đã tham lam đòi nữa, và tôi đã uống quá nửa - vị nhựa lờ lợ, ấm như nước ngâm bát đĩa bẩn - trước khi nhận ra mình đang làm gì, buộc mình đóng nắp và bỏ vào túi mang lại chỗ ông.
Quỳ xuống cạnh ông. Đá găm vào đầu gối. Ông đang run, hơi thở khào khào không đều, mắt không nhìn tôi mà vơ vẩn đâu đó lên cao, dán chặt vào thứ gì đó tôi không thấy,
Tôi đang lần mò lấy chai nước thì ông đưa tay lên mặt tôi. Thận trọng, những ngón tay bẹt xương xẩu của người già gạt tóc rủ xuống mắt tôi, nhổ cái gai thủy tinh găm vào lông mày rồi vỗ vỗ đầu tôi.
https://thuviensach.vn
“Được rồi, được rồi.” Giọng ông rất yếu, rất ngập ngừng, rất ấm áp, lẫn tiếng khò khè ghê sợ từ đáy phổi. Chúng tôi nhìn nhau hồi lâu, một phút dài lạ lùng rồi đây cả đời tôi sẽ không bao giờ quên nổi, như hai con vật ngang đường nhau lúc chiều hôm, khi trong mắt ông vụt ánh một tia lửa trong trẻo đầm ấm khiến tôi nhận ra chân tướng sinh vật trước mặt mình - cũng như ông nhận ra tôi, tôi tin vậy. Trong một giây chúng tôi được mắc vào nhau, rung lên trong một nhịp ngân chung như hai cỗ động cơ cắm chung nguồn điện.
Rồi ông lại rũ xuống, lịm đi đến nỗi tôi ngỡ ông đã chết. - “Nào,” tôi vụng về nói, luồn bàn tay đỡ vai ông. “Giỏi lắm.” Tôi nâng đầu ông dậy hết mức có thể, giúp ông uống nước trong bình. Ông chỉ uống được tí chút, chỗ nước chảy gần hết xuống cằm.
Lại ngật xuống. Cố gắng quá sức ông.
“Pippa,” ông nói khản đặc.
Tôi nhìn khuôn mặt bỗng đỏ ửng, ngờ ngợ nhận ra nét quen thuộc trong ánh mắt, trong đôi mắt thẫm đỏ rất trong. Tôi từng thấy ông rồi. Và tôi cũng từng thấy cô bé nữa, hình ảnh vụt hiện, rực rỡ như lá thu: lòng mày đỏ thẫm, mống mắt nâu vàng. Khuôn mặt cô phản chiếu trong mặt ông. Cô ở đâu?
Ông đang cố nói gì đó. Đôi môi nứt nẻ động dậy. Ông muốn biết Pippa đâu.
Khò khè, gấp gáp thở. “Nào,” tôi bứt rứt nói, “ông cố nằm yên một lát.” “Bảo nó đi tàu, như thế nhanh hơn. Trừ khi họ cho xe đưa nó đến.”
“Đừng lo,” tôi ghé lại gần nói. Tôi thì không lo chút nào. Tôi tin chắc sắp có người vào đón chúng tôi rồi. “Cháu sẽ đợi cùng ông đến khi người ta tới.”
“Cháu tốt quá.” Bàn tay ông (lạnh và ram ráp như bột) siết chặt tay tôi. “Ta không gặp cháu từ hồi cháu còn nhỏ xíu. Giờ cháu đã lớn phổng lên rồi.”
https://thuviensach.vn
“Nhưng cháu là Theo mà,” tôi nói, sau một giây lúng túng.
"Tất nhiên rồi.” Ánh mắt cũng như bàn tay ông nắm lấy tay tôi, chăm chú và nhân từ. “Và các cháu đã lựa chọn không thể tốt hơn, ta đoan chắc đấy. Bản Mozart trội hơn hẳn bản Gluck, không phải sao?
Tôi không biết đáp lại thế nào.
“Với hai cháu thì sẽ dễ hơn. Bọn trẻ các cháu đi diễn thử bị đối xử khắc nghiệt quá...” Lại ho. Máu dính môi, đặc và đỏ. “Chẳng được cho cơ hội lần hai.”
“Ông này... ” Cảm thấy không phải nếu cứ để ông tưởng tôi là người khác.
“Ôi, nhưng mà các cháu chơi hay quá đỗi, cháu yêu ạ, cả hai đứa. Cung Sol trưởng ấy. Nó cứ vang mãi trong đầu ta. Nhẹ như mơ, chạm rồi buông...”
Ngâm nga vài nốt không rõ. Một bài hát. Đấy là một bài hát.
“... và chắc ta đã kể rồi phải không, chuyện ta học dương cầm ấy, ở nhà bà già người Armenia? Có con thằn lằn xanh sống trên cây cọ, xanh như giọt kẹo, ta thích ngắm tim nó... thoắt hiện trên bệ cửa sổ... ánh sáng thẩn tiên trong vườn... dupays saind[26]... đi bộ hai mươi phút mà như hàng dặm.. .”
Trong phút chốc, tôi cảm thấy rõ nhận thức của ông đang vuột khỏi mình, càng lúc càng trôi xa như chiếc lá trong lòng suối. Rồi nó lại dạt về và ông lại bên tôi.
“Mà cháu kìa! Giờ cháu mấy tuổi rồi?”
“Mười ba ạ.”
“Học Trường Lycée Français hả?”
“Không, cháu đi học bên bờ Tây.”
“Thì cũng tốt thôi, ta nghĩ thế. Hàng bao nhiêu giờ tiếng Pháp! Ngồi gạo từ vựng thật quá khổ cho học sinh. Nom etpronom[27], loài rồi lại ngành.
https://thuviensach.vn
Chẳng qua là một lối sưu tầm sâu bọ.”
“Ông nói gì ạ?”
“Ở quán Groppi lúc nào người ta cũng nói tiếng Pháp. Nhớ Groppi chứ? Ô sọc và kem hạt dẻ cười?”
Ô sọc. Khó mà tập trung suy nghĩ nổi khi đầu tôi đang nhức như búa bổ thế này. Tôi đưa mắt qua vết xẻ dài trên da đầu ông, máu bết đen xì, như một vết rìu chém. Càng lúc tôi càng nhận ra có những khối hình kinh khủng rất giống người đổ sụm giữa cảnh tan hoang, những khối mờ tối không thấy rõ, hình như đang lẳng lặng áp sát lại khắp quanh tôi, bóng tối tràn lan giữa những thân mình búp bê vải nhưng là thứ bóng tối có thể nâng người ta lên cuốn trôi đi, giữa cõi ngủ mê, sóng đuôi tàu sủi bọt rồi lặn mất vào đại dương lạnh căm đen thẳm.
Bỗng nhiên có việc gì đó không ổn. Ông như bừng tỉnh, lắc lấy lắc để tôi. Bàn tay vỗ vỗ. Ông cần gì đó. Ông cố bẩy người lên, hít vào thật sâu khiến gió huýt trên mũi.
“Sao vậy ạ?” Tôi rùng mình tỉnh lại. Ông đang thở gấp, cuống quýt, giật giật tay tôi. Sợ hãi, tôi ngồi phắt dậy nhìn tứ bề, chờ đợi thấy mối nguy hiểm mới đang ập tới; dây điện đứt, lửa bùng lên, trần nhà sắp sập.
Chộp tay tôi. Siết rất đau. “Đừng để đây,” ông cố gắng thốt lên. “Cái gì cơ?”
“Đừng để lại. Đừng.” Ông đang nhìn ra đằng sau tôi, cố sức chỉ vào thứ gì đó. “Mang nó đi khỏi đây.”
Xin nằm xuống đi...
“Không! Không được để chúng thấy!” Ông đang hoảng hốt, bấu rất chặt cánh tay tôi tìm cách đu người dậy. “Chúng nó đã lấy trộm hết thảm rồi, chúng nó sẽ mang ra nhà kho hải quan…”
Lúc đó tôi nhận ra ông đang chỉ một mảnh ván chữ nhật bụi bặm gần như khuất hẳn giữa đống xà dầm gẫy và rác rưởi, nhỏ hơn cả cái máy tính
https://thuviensach.vn
xách tay của tôi ở nhà.
“Cái đó à?” Tôi hỏi và ghé nhìn gần hơn. Trên bề mặt lấm tấm những giọt sáp chảy, dán bừa những nhãn lở rách ngang dọc. "Ông muốn cái đó à?”
“Xin cháu.” Mắt nhắm nghiền. Ông đang ho khổ sở đến nỗi không nói nổi.
Tôi thò tay, cầm mép tấm ván lôi nó lên. Nhìn thì nhỏ mà cầm nặng không ngờ. Một góc mảnh ván còn bám mẩu khung gãy dài nhọn.
Lấy ống tay áo quệt bụi trên bề mặt. Chú chim vàng nhỏ xíu, lờ mờ hiện ra dưới lớp bụi trắng. Thực ra là Giờ học giải phẫu cũng ở trong cuốn đó, nhưng nó làm mẹ sợ phát khiếp.
Vâng, tôi ngái ngủ đáp. Tôi quay lại, vẫn cầm bức tranh, định chìa cho mẹ xem, rồi nhận ra mẹ không đứng đấy.
Hoặc đúng hơn - mẹ vừa ở đấy mà lại không ở đấy. Một phần của mẹ ở đấy, nhưng nó vô hình. Phần vô hình mới là phần quan trọng. Điều này tôi chưa bao giờ hiểu ra trước đây. Nhưng khi định nói to câu ấy, lời lẽ dính vào nhau và, giật thột như bị dội nước lạnh, tôi nhận ra rằng mình đã nhầm. Cả hai phần phải ở chung với nhau. Không thể có phần này mà thiếu phần kia được.
Tôi quệt cánh tay qua trán, chớp mắt cho bụi bặm rơi ra và vận toàn lực, như nâng đôi tạ nặng quá sức, cố lôi tâm trí trở lại. Mẹ đâu rồi? Mới một khắc trước còn có ba người ở đây và trong đó - tôi biết chắc - một người là mẹ. Nhưng giờ thì chỉ còn hai.
Sau lưng tôi, ông già lại ho hắng và run lên bần bật kích động, gắng sức nói. Tôi ngoảnh lại tìm cách chìa bức tranh cho ông. “Của ông này,” tôi nói, rồi quay sang nói với mẹ - ở vị trí hình như mẹ vừa đứng - “Đợi một lát con quay lại ngay.”
Nhưng không phải ông cần bức tranh. Bứt rứt, ông đẩy nó lại phía tôi, miệng lắp bắp gì không rõ. Nửa bên phải đầu ông đẫm máu đã quánh đến
https://thuviensach.vn
nỗi tôi không nhìn ra đâu là tai nữa.
“Gì ạ?” tôi nói, đầu óc còn luẩn quẩn nghĩ về mẹ - mẹ đâu rồi? “Ông bảo gì cơ?”
“Cầm lấy.”
“Thế này nhé, cháu sẽ quay lại sau. Cháu còn phải...” Tôi không nói được, khó nói thành lời, nhưng mẹ muốn tôi về nhà, ngay bây giờ, tôi phải chờ mẹ ở nhà, đấy là điều mẹ đã nói rất rõ.
“Đem nó đi!” Ấn vào tay tôi. “Đi đi!” Ông đang cố ngồi dậy. Mắt ông sáng quắc điên dại, vẻ kích động làm tôi phát hoảng. “Chúng nó lấy hết bóng đèn, chúng nó đập nát nửa số nhà trên phố rồi...”
Một giọt máu lăn dọc cằm ông.
“Xin ông,” tôi nói, khua tay vội mà sợ không dám chạm vào ông. “Xin ông nằm xuống cho...”
Ông lắc đầu, cố tìm cách nói gì nữa, nhưng chỉ gập người ho thêm một tràng dài nghe ướt và thê thảm. Khi ông chùi tay lau miệng, một dải máu đỏ tươi hiện trên mu bàn tay.
“Có. người đang đến đấy.” Không biết tôi, có thật sự tin điều ấy không, cũng không biết nên nói gì khác.
Ông nhìn thẳng vào mặt tôi, kiếm tìm tín hiệu rằng tôi đã hiểu, rồi khi thất vọng lại cào cấu mặt đất tìm cách ngồi lên.
“Cháy,” ông nói, tiếng nước lọt khọc trong họng. “Biệt thự ở Ma’adi[28] On a tout perdu[29]”
Ông lại ho lên một chặp. Bọt bong bóng sùi qua mũi ông, đỏ thắm. Ở giữa cảnh phi thực ấy, những chồng đá chôn người, những cột trụ tan tành, tôi có cảm giác như trong mơ, như thể mình đã phụ lòng ông, như thể đã vụng về và xuẩn ngốc mà làm hỏng một nhiệm vụ cốt tử giao cho mình trong cổ tích. Giữa cảnh gạch đá tan hoang không nhìn thấy dấu hiệu nào là
https://thuviensach.vn
có cháy, nhưng tôi vẫn bò lại đó, bỏ bức tranh vào túi, cốt sao cho ông khỏi nhìn thấy nữa để đừng sốt ruột.
“Ông đừng lo,” tôi an ủi. “Cháu sẽ…”
Ông đã dịu lại rồi. Ông đặt tay lên cổ tay tôi, đôi mắt sáng và kiên định, dường như có luồng hơi mát lạnh bất cần lý trí phả vào tôi. Tôi đã làm đúng việc cần làm rồi. Mọi thứ sẽ ổn cả.
Tôi còn đang tắm trong niềm khoan khoái từ ý nghĩ này thì ông lại siết tay tôi vỗ về, như nghe thấy tôi nói lớn thành tiếng. Chúng ta sẽ thoát khỏi đây thôi, ông bảo vậy.
“Cháu biết.”
“Lấy giấy báo bọc lại rồi cất tận cùng đáy rương ấy, cháu ạ, Cùng mấy món kỷ vật kia.”
Nhẹ người thấy ông đã bình tâm, mệt lả vì trận nhức đầu, ký ức về mẹ đã nhòa như cánh bướm đêm run rẩy, tôi thả mình ngồi xuống cạnh ông rồi nhắm mắt, cảm thấy an toàn và bình yên lạ lùng. Mơ màng và lơ đãng. Ông thì thào nói như mê sảng: những cái tên ngoại quốc, những món tiền và con số, vài từ tiếng Pháp nhưng chủ yếu là tiếng Anh. Có người sắp đến xem đồ đạc đấy. Abdou sẽ bị mắng vì ném đá cho mà xem. Không hiểu sao tất cả đều hợp lý và tôi thấy khu vườn rợp cọ cùng cỗ dương cầm và con thằn lằn xanh đậu thân cây, rõ như đang lật các trang cuốn sách ảnh gia đình.
Cháu về một mình có sao không, hở cháu? Tôi nhớ ông có hỏi vào một lúc nào đấy.
“Tất nhiên là không sao rồi ông.” Tôi đang nằm trên sàn cạnh ông, đầu đặt ngang tầm lồng ngực già mảnh khảnh, khiến tôi nghe rõ từng ngắc ngứ khò khè trong tiếng thở. “Hôm nào cháu cũng đi tàu một mình.”
“Vậy cháu vừa nói giờ cháu sống ở đâu nhỉ?” Bàn tay ông đặt trên đầu tôi, rất hiền từ, như người ta đặt tay lên đầu chú chó cưng.
“Phố 57 Đông ạ."
https://thuviensach.vn
“À phải! Gần Le Veau d’Or?”
“Vâng, cách vài khối nhà ạ.” Le Veau d’Or là một nhà hàng mẹ rất thích đi, thời chúng tôi có tiền ấy. Lần đầu tiên trong đời tôi ăn ốc là ở đấy, cũng như ngụm Marc de Bourgogne đầu tiên uống từ ly của mẹ.
“Ở phía Công viên à?”
“Không, ở phía sông ạ.”
“Cũng gần mà cháu. Bánh meringue và trứng cá. Lần đầu nhìn thấy thành phố này ta mê nó biết mấy! Nhưng cũng không giống nhau, phải không? Ta nhớ nó khủng khiếp, cháu nhớ không? Cái ban công, với...”
“Khu vườn.” Tôi quay lại nhìn ông. Mùi nước hoa và tiếng nhạc. Giữa cái đầm lầy rối tung trong đầu, tôi bắt đầu có cảm giác ông là một người bạn thân hay họ hàng tôi đã lãng quên, một người bà con bên mẹ vắng mặt đã lâu...
“Ồ, còn mẹ cháu nữa chứ! Thật đáng yêu! Ta chẳng bao giờ quên lần đầu mẹ cháu ghé qua nhà chơi. Thực là cô bé xinh xẻo nhất trên đời ta từng gặp.”
Làm sao ông biết tôi đang nghĩ đến mẹ? Tôi định hỏi, nhưng ông đã ngủ thiếp rồi. Mắt ông nhắm lại nhưng hơi thở nặng và dồn dập, như đang chạy trốn thứ gì đó.
Chính tôi cũng bắt đầu gà gật - tai ù ù, tiếng vo ve sâu thẳm với cái vị kim loại tanh tanh trong miệng như khi đi nhổ răng - và chắc hẳn tôi đã trượt vào rồi nằm lại trong vô thức nếu không phải vì lúc nào đó ông đã lắc tôi, rất mạnh, khiến tôi kinh hoàng sực tỉnh. Ông đang lẩm bầm gì đó, kéo kéo ngón tay trỏ. Ông đã tháo nhẫn, cái nhẫn vàng rất nặng với viên đá quý khắc hoa văn, và đang tìm cách ấn cho tôi.
“Thôi, cháu không cần đâu,” tôi nói và tránh đi. “Ông làm thế để làm gì chứ?”
Nhưng ông vẫn ấn vào bàn tay tôi. Hơi thở ông ra bong bóng và rất kinh. “Hobart và BlackweII,” ông nói, nghe như thể đang chết chìm từ trong ra.
https://thuviensach.vn
“Nhấn cái chuông xanh.”
“Chuông xanh?” tôi nhắc lại, vẫn chưa hiểu lắm.
Đầu ông ngặt ra lăn lăn sang hai phía, mất định hướng, môi run rẩy. Mắt đã lạc thần. Khi mắt ông lướt qua tôi mà không thấy, tôi rùng mình. “Bảo Hobie chạy khỏi cửa hàng đi,” giọng ông khản đặc.
Tôi không tin nổi mắt mình khi thấy dòng máu tươi ứa khỏi khóe miệng ông. Ông dứt dứt cà vạt làm nó tuột ra; “để cháu,” tôi với tay định giúp, nhưng ông đập vào tay tôi xua đi.
“Cậu ấy phải đóng cửa rồi chạy ngay!” ông nói giọng khò khè. “Cha cậu ấy đang cử người đến đánh cậu đấy... ”
Mất ông trợn lên, mi mắt chớp chớp. Rồi ông trùng mình, rũ xuống như không khí đã bị hút khỏi người xẹp lép, ba mươi giây, bốn mươi, như một đống quần áo cũ nhưng rồi - gắt đến nỗi tôi rúm người - ngực ông phồng lên khọt khẹt như ống bễ, giữa tiếng ho rền như trống phun ra vòi máu táp vào người tôi. Vận hết sức bình sinh, ông chống hai khuỷu tay nhỏm dậy - suốt khoảng ba mươi giây hoặc hơn ông thở hồng hộc như chó thở, ngực đập dồn cuống quýt, phồng rồi xẹp, phồng rồi xẹp, mắt dán chặt vào thứ gì đó tôi không thấy và bàn tay mãi siết lấy tay tôi, như nghĩ nếu bám thật chắc ông sẽ thoát nạn.
“Ông có sao không?” tôi hỏi - rối rít, muốn khóc òa lên, “Ông nghe cháu nói không?”
Trong lúc ông đập tay vật vã - như con cá rời khỏi nước - tôi toan đỡ đầu ông dậy, hoặc cố tìm cách đỡ, loay hoay sợ làm ông đau, trong khi ông cứ bấu chặt tay tôi như thể đang lơ lửng bên rìa tòa cao ốc chực rơi. Mỗi hơi thở là một lần rướn lên sòng sọc đứt đoạn, một tảng đá lớn nai muốn đứt cơ mới nhấc lên được rồi lại lập tức đánh rơi. Có một lúc ông nhìn thẳng vào tôi, máu trào lên miệng, định nói gì nữa, nhưng lời lẽ chỉ thành một dòng bong bóng chạy xuống cằm.
https://thuviensach.vn
Rồi - khiến tôi nhẹ cả người - ông dịu lại, lặng đi, bàn tay tóm tay tôi lỏng ta, tan chảy, hình như đang chìm, đang xoay tít, như đang cứ thế nằm ngửa mà bập bênh trôi ra xa tôi, trên dòng nước đưa đi. - Ông đỡ chưa? Tôi hỏi, và rồi...
Thật cẩn thận, tôi nhỏ ít nước vào miệng ông - môi ông động đậy, tôi thấy môi ông động đậy và rồi, quỳ gối, như cậu bé hầu trong câu chuyện, tôi lau bớt máu khỏi mặt ông bằng vuông khăn hoa thấy trong túi ông. Trong khi ông trôi dần - từng nấc từng vĩ độ, một cách không thương xót - vào lặng thinh, tôi đu người ngồi xổm dậy nhìn thật kỹ vào khuôn mặt vỡ nát.
“Ông ơi?”Tôi gọi.
Một bên mí mắt mỏng như giấy đang nhắm hờ khẽ giật, một bên chớp khẽ nổi gân xanh.
“Nếu ông nghe được cháu gọi thì bóp tay nhé.”
Nhưng bàn tay nằm trong tay tôi mềm nhũn. Tôi ngồi đó nhìn ông, không biết phải làm gì. Đến lúc đi rồi, muộn lắm rồi - mẹ đã nói rất rõ rồi mà - nhưng tôi vẫn chưa nhìn ra lối nào rời khỏi nơi mình đang ở, và thực tế là không hiểu sao rất khó hình dung mình có thể ở chốn nào khác trên cõi đời - hình dung còn cõi đời nào khác, ngoài nơi đây. Cứ như tôi chưa bao giờ biết đến cuộc đời nào khác.
“Ông có nghe cháu gọi không?” Tôi hỏi lần cuối, ghé thật gần, áp sát tai vào cái miệng đầy máu. Nhưng chỉ thấy im lặng.
vi.
KHÔNG MUỐN LÀM PHIỀN, sợ nhỡ ông đang ngủ, tôi cố hết sức khẽ khàng đứng lên. Toàn thân đau như dần. Trong một khắc tôi đứng nhìn xuống ông, chùi tay vào áo đồng phục trường - máu ông thấm đẫm khắp người tôi, dính bết vào tay tôi - rồi nhìn khắp hoang địa đá sỏi mặt trăng, cố xác định phương hướng và nghĩ xem nhanh nhất là đường nào.
https://thuviensach.vn
Sau một hồi chật vật, cuối cùng tôi cũng vào được chính giữa nơi ấy hoặc có vẻ là vậy, tôi thấy một bên cửa đã bị chắn ngang bởi những mảng gạch đá vỡ chia ra, nên quay lại mở đường sang phía kia. Bên này, khung ngang trên cửa đã rụng, trút xuống một chồng gạch cao gần ngang đầu tôi, mở ra một khoảng không vẩn khói trên cùng đủ lao nguyên chiếc xe hơi xuyên qua. Tôi bắt đầu kỳ cạch trèo về phía đó - leo lên rồi lại vòng qua từng tảng xi măng lớn - nhưng chưa đi được mấy tôi đã nhận ra sẽ phải quay lại thôi. Có thể thấy lờ mờ ảnh lửa liếm trèn những bức tường từng là quầy lưu niệm của buổi triển lãm, lấp lóe rồi nhảy nhót trong bóng nhập nhòa, có những vết từ tận sâu nơi sàn nhà trước kia.
Cánh cửa kia trông rất đáng ngại (thảm xốp lát sàn vấy đỏ; mũi giày đàn ông thò ra dưới chồng gạch vụn) nhưng ít nhất phần lớn những thứ rơi chặn cửa cũng không đặc lắm. Lảo đảo quay lại qua phòng, hụp người tránh dây điện nổ lách tách từ trên trần, tôi xốc cái túi qua vai và hít một hơi dài, nhào vào đống đổ nát.
Ngay lặp tức tôi muốn chết ngạt vì bụi khói Và vì mùi hóa chất rít gắt. Vừa ho vừa thầm cầu nguyện đừng có thêm dây điện đứt lòng thòng xuống nữa, tôi dò dẫm từng bước trong bóng tối trong lút đủ thứ mảnh vụn trút xuống rơi đầy mắt: gạch vụn, những mảng vữa, từng tảng từng cục có Chúa mới biết là gì.
Vật liệu xây nhà có thứ nhẹ, có thứ không. Tôi càng len lỏi vào được sâu thì xung quanh càng tối, lại càng nóng. Cứ chốc chốc lối đường trước mặt lại hẹp đi hoặc đột ngột bị chặn, trong tai thì rộ lên tiếng huyên náo tưng bừng không biết từ đâu sinh ra. Tôi phải ép mình lách qua những chỗ hẹp, lúc thì bước, lúc thì bò, giữa những xác người trong cảnh tàn phá mà tôi cảm thấy hơn là nhìn thấy, khi có vật gì nằng nặng mềm mềm dựng tóc gáy lún xuống dưới chân, nhưng còn tệ hơn nữa là cái mùi: mùi vải cháy, mùi tóc và thịt cháy và mùi tanh của máu tươi, đồng, thiếc, muối.
Hai bàn tay tôi đầy vết cắt, đầu gối cũng không khá hơn. Tôi thụp người luồn dưới thứ này hoặc đi vòng tránh thứ khác, vừa đi vừa lần sờ tìm
https://thuviensach.vn
đường, đánh hông dò theo mặt bên cái dầm hay xà dài gì đó tới khi nhận ra đã đến trước mặt một khối rất lớn rất đặc chắn ngang, có lẽ là tường. Rất khó khăn - chỗ này hẹp quá - tôi vòng người lại chực thò tay vào túi kiếm thứ chiếu sáng.
Tôi định lấy cái đèn pin móc chìa khóa - ở đáy túi, dưới bức tranh - nhưng mấy ngón tay lại chạm phải cái điện thoại. Tôi bật nó lên - và suýt lập tức đánh rơi, vì ánh sáng rọi cho tôi thấy một bàn tay người thò ra giữa hai tảng xi măng. Ngay giữa cơn kinh hoàng tôi vẫn nhớ đã thầm tạ ơn trời đấy chỉ là một bàn tay, dù mấy ngón tay sưng vù, đen trũi như thịt tôi sẽ không bao giờ quên được; cho đến giờ đôi lúc tôi vẫn rùng mình lùi lại nếu trên đường phố có ông ăn mày nào phóng ra một bàn tay y hệt như vậy, sưng phồng, cáu bẩn quanh đầu móng tay đen xì.
Vẫn còn cái đèn pin- nhưng tôi muốn lấy điện thoại. Nó phả ánh lờ mờ khá yếu vào khoảng không tôi đang đứng, nhưng vừa lúc tôi đủ trấn tĩnh khom người xuống nhặt, màn hình lại tắt ngấm. Cái bóng xanh lè ma quái in trên võng mạc còn nhảy nhót trước mặt tôi giữa màn đen. Tôi quỳ xuống, bò loanh quanh trong bóng tối, đưa cả hai tay mò mẫm khắp đám đá nát và thủy tinh vụn, quyết phải tìm kỳ đựợc mới thôi.
Tôi nghĩ là mình biết nó ở đâu, hoặc đại khái ở đâu, nên cứ tìm mãi, hẳn là lâu hơn cần thiết; mãi đến lúc định bỏ cuộc đứng dậy tôi mới nhận ra mình đã rúc vào một chỗ rất thấp không đủ vươn mình, dường như có mặt phẳng rất chắc ngay trên đầu tôi chỉ chừng tám phân. Xoay người không được, lùi lại cũng không xong, tôi đành cứ thế bò tới, hy vọng sẽ đến chỗ quang, và rồi chẳng mấy chốc đã nhích từng phân đau đớn, lòng tuyệt vọng chỉ muốn buông xuôi còn đầu thì ngoẹo sang một bên.
Hồi lên bốn, có lần tôi bị kẹt nửa người trong cái giường gấp ở nhà cũ trên Đại lộ 7, kể lại nghe có vẻ là một tai nạn nực cười nhưng lúc ấy thì không phải thế; tôi nghĩ chắc mình đã chết ngạt nếu không có Alameda, bà giúp việc nhà hồi đó, nghe thấy tiếng kêu cứu nghèn nghẹn đã chạy đến lôi tôi ra. Tìm cách xoay trở trong cải khoảng không thiếu khí này cũng không
https://thuviensach.vn
khác mấy, chỉ thấy tệ hơn: kính vỡ, kim loại nóng, mùi quần áo cháy xốc óc, đôi lúc thêm vật nào đó mềm mềm chịn vào người làm tôi phải cố không nghĩ xem là thứ gì. Trận mưa mảnh vụn vẫn tới tấp trút xuống đầu không ngớt; cổ họng tôi đặc nghẹt bụi, nhưng đang ho sặc sụa, sắp hoảng vía mất trí đến nơi thì nhận ra đã nhìn thấy, dù mờ mịt, bề mặt nhám của đống gạch vỡ khắp quanh mình. Ánh sáng, thứ ánh sáng chỉ vừa đủ biết là có sáng, len vào hầu như không nhận ra từ bên trái, cách sàn chừng mười lăm phân.
Tôi hụp người thấp hơn nữa, nhận ra mình đang nhìn xuống mặt sàn đá mài tối lờ mờ của phòng trưng bày tầng dưới. Một đống đổ đồng trống có vẻ là trang thiết bị cứu hộ (dây thừng, rìu, cờ lê, bình khí thở in chữ CHNY) nằm tản mát trên sàn.
“Có ai không?” tôi gọi lớn - rồi chẳng chờ nghe trả lời, tụt xuống tìm cách luồn lách qua lỗ hổng càng nhanh càng tốt.
Lỗ hổng rất hẹp; chỉ cần thêm vài tuổi hay nặng thêm hai ba ký nữa chắc tôi đã không qua nổi. Giữa chừng, cái túi mắc phải gì đó, và trong một phút tôi đã tưởng mình sẽ phải bỏ của chạy lấy người, tranh hay không tranh cũng mặc, như con thằn lằn trút đuôi, nhưng ở cú giật cuối cùng nó cũng lọt qua cùng một trận mưa vữa rơi lả tả. Trên đầu tôi có cái rầm ngang, nhìn như thể nó đang đỡ lấy một đống vật liệu xây dựng rất nặng, giữa lúc lăn lộn luồn lách bên dưới tôi vẫn điếng người sợ lúc nào đó nó sẽ trượt xuống cắt đôi người tôi, tới khi nhận ra có ai đó đã lắp con đội chống nó lên.
Xuống đến nơi rồi, tôi lồm cồm bò dậy, bủn nhủn và choáng váng vì nhẹ nhõm. “Có ai không?” tôi lại gọi lớn, không hiểu vì sao thiết bị ở khắp nơi mà lính cứu hỏa lại chẳng thấy ai. Gian trưng bày rất tối nhưng hầu như không hư hại, những lớp khói mỏng như giấy càng lên cao càng đặc hơn, nhưng cũng nhận ra được vừa có luồng lực cực lớn quét qua đây nếu nhìn vào đèn đóm và những chiếc camera an ninh đang nằm phơi bụng lên trần nhà. Nỗi mừng rỡ vì được ra chỗ thoáng khiến phải một phút sau tôi mới
https://thuviensach.vn
nhận ra sự lạ lùng rằng chỉ có duy nhất mình đang đứng giữa gian phòng đầy những người. Ai cũng đang nằm bẹp, ngoại trừ tôi
Phải có đến một tá người trên sàn nhà - không phải ai cũng còn nguyên vẹn. Trông họ như vừa bị ném xuống từ một độ cao cực lớn. Ba hay bốn thân mình được đắp tạm áo khoác lính cứu hỏa, chân thò ra ngoài. Một số khác phơi mình xoãi chân tay giữa thanh thiên bạch nhật, giữa những vết ám sau vụ nổ. Những vệt bẩn hình nước té hay hình sao chứa một vẻ hung bạo như những vết hắt hơi ra máu lớn, hình ảnh chuyển động điên loạn giữa cảnh tính tại. In đậm nhất trong trí nhớ tôi là một bà trung tuổi mặc áo sơ mi in hoa văn trứng Phục sinh Faberzhe lấm tấm máu, trong có vẻ vừa mua tức thì trong hàng lưu niệm. Đôi mắt kẻ viền đen đậm trơ trơ nhìn trần nhà; màu da rám nắng hẳn nhiên là rám nhân tạo, vì làn da vẫn ửng màu mơ chín khỏe khoắn dù nửa trên cái đầu đã bay mất.
Sơn dầu xỉn, vàng mạ đen. Bước từng bước dè dặt, tôi đi ra giữa căn phòng, người lắc lư vì hơi mất thăng bằng. Tôi nghe rõ tiếng thở chính mình thoát ra rồi lại đi vào khọt khẹt, cái âm thanh có vẻ cạn cợt bất thường, lại có vẻ nhẹ bẫng như ác mộng. Dù không muốn nhưng tôi vẫn phải nhìn. Một người gốc Á nhỏ nhắn, thảm hại trong chiếc áo gió nâu, nằm cuộn tròn trong vũng máu đọng lại. Một anh bảo vệ (cả người chỉ còn nhìn rõ mỗi bộ đồng phục, vì mặt đã cháy hết) cánh tay quặt sau lưng, chân chỉ còn là thanh củi còng queo kinh sợ.
Nhưng điều chính, điều quan trọng nhất: trong những người nằm giãi ở đây không có ai là mẹ. Tôi buộc mình kiểm tra tất cả, không chừa một ai, từng người một - kể cả không thể ép mình nhìn vào mặt họ, tôi cũng thuộc chân, thuộc quần áo, thuộc đôi giày hai màu trắng đen của mẹ - và rất lâu sau khi đã có kết luận chắc chắn tôi còn bắt mình đứng đó hồi lâu, rúc sâu vào trong chính mình như con bồ câu rù nhắm nghiền mắt.
Gian trưng bày kế: thêm nhiều người chết nữa. Ba người tất cả. Một ông béo mặc áo gi lê Argyll; một bà lão người lở loét; một cô bé như chú vịt con trắng sữa, thái dương có vết trầy đỏ nhưng ngoài ra toàn thân lành lặn.
https://thuviensach.vn
Nhưng sau đó thì không còn ai. Tôi đi qua vài gian trưng bày đặt rải rác thiết bị cứu hộ, nhưng dù trên sàn có vết máu, lại không thấy người. Tới khi tôi đến gian có vẻ ở rất xa nơi mẹ đã vào, nơi mẹ đã trở lại, cái gian treo Giờ học giải phẫu - mắt nhắm nghiền, lòng cầu khẩn thật lực – vẫn chỉ thấy cáng với thiết bị cứu thương, và trong lúc tôi đi ngang phòng, trong sự im lặng đinh tai điếc óc, nhìn theo tôi chỉ còn hai ông Hà Lan ngơ ngác nãy vừa trố mắt nhìn tôi và mẹ từ trên tường: các người làm gì ở đó?
Rồi bỗng có thử gì đó bùng nổ. Tôi còn không nhớ nguồn cơn ra sao nữa, chỉ biết mình đang ở một nơi khác hẳn và đang chạy, chạy mãi qua những căn phòng trống huơ hoác, ngoại trừ bầu khói lãng đãng khiến nội thất huy hoàng dường như nhẹ bẫng và không thực. Lúc trước các gian trưng bày đều có vẻ thẳng hàng ngay lối, một chuỗi ngoằn ngoèo nhưng logic những nhánh sông đổ về một đích chung là hàng lưu niệm. Nhưng lộn ngược lại từ đó, chạy rất nhanh theo chiều ngược lại, tôi nhận ra đường chẳng thể gọi là thẳng được: cứ chốc chốc tôi lại đâm vào tường trống hay rẽ vào những gian cụt. Cửa với lối đi chẳng hiện ra nơi tôi trông đợi; những bệ không có tượng phục kích tôi trong sương mù. Lúc đảo quá gấp qua một chỗ cua tôi suýt đâm thẳng vào một toán lính canh của Frans Hals; những anh chàng to con thô tháp má đỏ lựng, mắt giàn giụa nước do mải mê bia bọt, cứ như cảnh sát New York mở tiệc hóa trang. Lạnh lùng, họ nhìn tôi, cặp mắt phán xét và giễu cợt chứng kiến tôi tỉnh ra, lùi lại, rồi cắm đầu chạy tiếp.
Ngay cả vào ngày đẹp trời cũng có lúc tội lạc đường trong bảo tàng (đi thơ thẩn trong các gian Nghệ thuật châu Đại Dương, toàn cột totem và thuyên độc mộc) và đôi khi phải tới hỏi nhân viên bảo vệ nhờ chỉ đường ra ngoài. Khu hội họa là đau đầu nhất, vì cứ chốc chốc người ta lại đổi cách bố trí; và càng chạy loanh quanh giữa các gian phòng vắng tanh trong bóng sáng chập chờn ma mị, tôi lại càng khiếp sợ. Tôi cứ nghĩ mình biết đường ra cầu thang chính, nhưng ngay khi vừa ra khỏi khu Triển lãm Đặc biệt thì xung quanh đã trở nên rất lạ lẫm, và thêm một hai phút nháo nhào chạy qua những góc đoán liều nữa tôi nhận ra mình đã lạc hẳn. Không hiểu thế nào
https://thuviensach.vn
tôi đã chạy vượt cả các bức danh tác Ý (rất nhiều ông Ki-tô trên thập giá, rất nhiều vị thánh sửng sốt, rất nhiều rắn và thiên thần giao chiến) để lọt vào nước Anh thế kỷ 18, cái phần bảo tàng tôi hiếm khi từng đến và không hề biết ở đâu. Những bức phối cảnh trang nhã dài hút mắt trải ra trước mặt tôi, những phòng rối rắm mê cung tạo cảm giác một biệt thự ma ám: những chúa đất đội tóc giả ngất ngưởng, những mỹ nhân lạnh lùng trên tranh của Gainsborough[30] kênh kiệu nhìn xuống thằng bé khốn khổ. Những gian bày tranh phối cảnh lâu đài là điên đầu nhất, vì chúng hình như chẳng dẫn ra cầu thang hay ra sảnh chính nào, mà chỉ dẫn tới những gian trưng bày tranh vẽ lâu đài y hệt như các bức kia; và khi suýt òa lên khóc thì tôi chợt thấy cánh cửa nhỏ lặn vào một bên tường phòng tranh.
Phải chú ý lắm mới thấy cánh cửa ấy: nó quét sơn tiệp màu với bức tường bao quanh, là thứ cửa mà trong hoàn cảnh thông thường có lẽ lúc nào cũng khóa. Tôi còn nhìn ra nổi là vì nó không đóng hẳn: cạnh bên trái không nằm khít trong tường, không rõ vì sơ ý hay vì cắt điện nên hệ thống khóa không làm việc. Nhưng mở nó ra cũng không dễ - cửa bằng sắt rất nặng, tôi phải vận hết sức mà kéo. Thình lình, phụt ra tiếng hơi nho nhỏ, nó bật ra bất ngờ làm tôi loạng choạng,
Lách người qua cửa, tôi thấy mình đang đứng trong một hành lang tối ở khu văn phòng, ở đây trần thấp hơn nhiều. Đèn ắc quy cũng không sáng bằng trong phòng chính, mắt tôi phải điều tiết mất một lúc.
Hành lang này có vẻ dài đến hàng dặm. Sợ sệt, tôi lần theo, ngó vào trong những phòng cửa để ngỏ. Cameron Geisler, Giám đốc tiếp nhận. Miyako Fujita, Trợ lý giám đốc tiếp nhận. Các ngăn kéo bàn mở toang, ghế bị đẩy khỏi bàn. Giữa khung cửa một phòng, chiếc giày cao gót lẻ loi nằm nghiêng.
Khung cảnh hoang vắng ấy rùng rợn kinh người. Hình như đằng xa tôi nghe thấy tiếng xe cảnh sát hụ còi, có thế cả máy bộ đàm và tiếng chó nữa, nhưng tai vẫn còn ù đặc sau vụ nổ nên tôi tin chắc mình hoang tưởng đấy thôi. Tôi càng lúc càng khiếp hãi nhận ra mình chưa từng thấy một bóng
https://thuviensach.vn
lính cứu hỏa, cảnh sát hay bảo vệ nào - thực tế là không một bóng người còn sống.
Vào tới khu vực “Không nhiệm vụ miễn vào”, xung quanh không đủ tối để dùng chiếc đèn pin móc khóa, nhưng cũng không đủ sáng để tôi nhìn rõ. Đây hình như là khu vực kiểm kê hay chứa hàng nào đó. Mỗi phòng đều kê những tủ tài liệu cao chạm trần, là những kệ kim loại để khay nhựa đựng thư và thùng các-tông. Hành lang hẹp khiến tôi nhấp nhổm vì cảm giác bị nhốt, tiếng chân vang vọng làm một hai lần, thần hồn nát thần tính, tôi quay phắt lại xem có phải có kẻ đang chạy đuổi theo mình trên hành lang không.
“Có ai không?” Tôi thận trọng hỏi, ngó vào vài phòng trong số đi qua. Nhiều phòng trông mới toanh ít đồ đạc, số khác chật chội bẩn thỉu, từng bó giấy tờ sách vở ngổn ngang.
Florens Klauner, Ban Nhạc cụ. Maurice Orabi-Roussel, Nghệ thuật Hồi giáo. Vittoria Gabetti, Hàng dệt. Tôi đi qua một căn phòng tối rộng thăm thẳm có chiếc bàn thợ dài giữa phòng, những vụn vải khác màu bày ra trên bàn như những miếng tranh xếp hình. Ở cuối phòng để lẫn lộn những giá trang phục có bánh xe, trên mắc cả mớ bao nhựa bọc quần áo, chẳng khác gì những giá để cạnh thang máy nhân viên ở hàng Bendel hay Bergdorf.
Tới một ngã ba tôi nhìn hết bên này đến bên kia, không biết phải rẽ sang phía nào. Tôi ngửi thấy mùi sáp đánh sàn, mùi dầu thông và hóa chất, mùi khói hăng. Các văn phòng và nhà xưởng trải dài vô tận về khắp các phía: một mạng lưới hình học khép kín, cố định, không bản sắc.
Phía bên trái tôi, ánh sáng lập lòe từ cỗ đèn trần. Nó kêu rì rì rồi ngưng lại, như bị nhiễu tĩnh điện, và trong ánh tỏa chập chờn, tôi thấy máy nước uống đặt cuối hành lang.
Tôi chạy bổ tới đó - nhanh đến nỗi hai bàn chân gần như trượt ra dưới thân mình - và nuốt ừng ực, mồm ấn vào vòi nước, quá nhiều nước lạnh, quá nhanh, làm cơn đau xói óc muốn xuyên thủng thái dương. Vừa nấc cụt, tôi vừa xả hết máu trên tay và té nước rửa đôi mắt xót. Những mảnh thủy
https://thuviensach.vn
tinh tí xíu gần như vò hình rơi lanh tanh xuống khay sắt dưới vòi nước, như những cây đinh bằng băng.
Tôi đứng dựa vào tường. Ánh đèn neon trên đầu - nhấp nháy, chớp bật chớp tắt - khiến tôi chao đảo. Vận sức, tôi lại bắt mình đứng thẳng; tôi đi tiếp, hơi lắc lư trong ánh chập chờn không yên. Đi về phía này khung cảnh có vẻ công nghiệp hơn rõ rệt: những giá kệ gỗ, chiếc xe đẩy hàng, khiến người ta nghĩ đến những vật phẩm đóng thùng được đưa đi, được trữ lại. Tôi lại đi qua một ngã ba nữa, nơi một nhánh rẽ trơn trượt tối tăm đi hút vào bóng tối, và tôi vừa định bỏ qua nó mà đi tiếp thì thấy ánh đèn đỏ cuối đường ghi chữ LỐI RA.
Tôi trượt; tôi vấp phải chân mình ngã nhào; tôi lại đứng dậy, vẫn còn nấc, chạy theo hành lang vô tận. Tít cuối hành lang là cánh cửa có thanh sắt chắn ngang, như các cửa an ninh ở trường.
Cửa mở ra nghe kẹt một tiếng. Tôi chạy xuống cầu thang tối mờ, mười hai bậc, rẽ ở chiếu nghỉ, lại mười hai bậc nữa xuống dưới cùng, những ngón tay này trên tay vịn sắt, tiếng giày nện vang vọng xung quanh như cả tá người đang chạy cùng tôi. Chạy hết các bậc đến một hành lang xám tẻ ngắt, lạị thêm một cánh cửa có thanh chắn nữa. Tôi lao cả người vào cửa, đẩy hai tay mở toang - và hứng trọn một mặt toàn mưa và tiếng còi rú điếc óc.
Tôi nghĩ chắc mình đã gào rất lớn, vì quá mừng thoát được ra ngoài, dù giữa tiếng ồn ấy chắc chẳng ai nghe thấy: như thể cố gào át tiếng máy bay xuống đường băng sân bay LaGuardia giữa trận mưa dông. Dường như tất thảy mọi xe cứu hỏa, xe cảnh sát, xe cứu thương và xe cứu hộ, các loại trong cả năm quận, cộng thêm Jersey, đều đang rền rĩ và sầm sập lượn quanh Đại lộ 5, một âm thanh đủ khiến bụng dạ mở cờ: cứ như pháo hoa mừng Năm mới, Giáng sinh và Quốc khánh cùng bắn tưng bừng một lúc.
Hành lang ấy đã ném tôi ra giữa Công viên Trung tâm, qua cánh cửa phụ bỏ không giữa khu nhận hàng và ga-ra xe. Những lối dạo cho người đi bộ vắng tanh giữa màu xanh xám đằng xa; những ngọn cây oằn xuống trắng
https://thuviensach.vn
lóa, vật vã trong gió. Đằng sau nữa, trên con phố ướt nhèm mưa, Đại lộ 5 đã bị chặn xe. Giữa dòng nước như trút, từ tận đây tôi chỉ vừa đủ thấy cảnh đại náo giữa ánh đèn sáng trưng: cần cẩu và xe lớn, cảnh sát dẹp đám đông lùi lại, đèn đỏ, đèn vàng, đèn xanh; pháo sáng nháng lên, đảo tròn, rực rỡ trong cảnh hỗn loạn loang loáng.
Tôi giơ khuỷu tay chắn cho mưa khỏi chảy vào mặt, co cẳng chạy qua công viên không người. Nước mưa găm vào mắt tôi, nhỏ giọt xuống trán, hòa tan ánh đèn trên đại lộ thành vệt mờ thắc thỏm ở đằng xa.
Cảnh sát thành phố, Cứu hỏa thành phố, những xe lớn của chính quyền đang đỗ, cần gạt nước điên cuồng: đội Cảnh khuyển, Binh đoàn cứu hộ sở Cứu hỏa, đội rà phá bom mìn thành phố. Những áo mưa đen càng phồng lật phật trong gió. Một dải băng vàng ngăn hiện trường căng ngang cổng cổng viên, phía Cổng Thợ Mỏ. Không ngần ngại tôi nhắc dây, luồn qua bên dưới rồi chạy ra nhập vào đám đông.
Giữa quang cảnh rối bởi chẳng ai để ý tới tôi. Mất một lúc tôi chạy sấp ngửa trên đường, nước mưa vã trên mặt. Nhìn đâu cũng thấy lướt qua những hình ảnh kinh hoàng của chính mình. Người ta chụm lại rồi trào lên quanh tôi nháo nhào: cảnh sát, cứu hỏa, những người đội mũ bảo hộ, một ông già ôm khuỷu tay gãy và một bà mũi đổ máu cam được viên cảnh sát lơ đễnh xua về Phố 79.
Tôi chưa bao giờ thấy chừng ấy xe cứu hỏa tập trung vào một chỗ: Squad 18, Fighting 44, Ladder 7, Rescue 1, Ladder 4 – Niềm tự hào Khu Trung. Lách qua một biển xe đang đỗ và áo mưa đen công vụ, tôi liếc thấy một cỗ xe cứu thương Hatzolah: những chữ cái Hebrew viết sau đuôi, một phòng bệnh nhỏ sáng đèn thấp thoáng sau cửa xe mở. Nhân viên cứu thương đang lúi húi bên một người phụ nữ, tìm cách giữ bà ta nằm yên trong lúc người bệnh cựa quậy muốn ngồi lên. Một bàn tay nhăn nheo, móng đỏ chót khuơ khuơ vào không khí.
Tôi giơ nắm đấm đập cửa. “Các ông phải vào lại đi,” tôi hét. “Vẫn còn nhiều ngưởi trong đó..
https://thuviensach.vn
“Còn một quả bom nữa,” người hộ lý hét trả mà không thèm nhìn tôi. “Chúng tôi phải sơ tán.”
Trước khi não tôi kịp ghi nhận thông tin này, một gã cảnh sát khổng lồ đã bổ xuống tôi như đòn sấm: một gã não đặc mặt chó bun, tay lực lưỡng như lực sĩ cử tạ. Gã thô bạo chộp cẳng tay tôi, xua rồi đẩy tôi sang bên kia đường.
“Mày làm cái chó gì ở đây?” gã gầm lên, át hẳn tiếng tôi cự cãi trong lúc cố vùng thoát.
“Thưa ông...” Một bà mặt máu bê bết chạy lại, tìm cách khiến gã chú ý - “Thưa ông, hình như tay tôi bị gãy rồi..
“Tránh xa khỏi tòa nhà!” gã thét vào mặt bà ta, hất tay bà ra rồi quay sang tôi - “Cút!”
“Nhưng..”
Giơ cả hai tay gã xô mạnh đến nỗi tôi lảo đảo suýt ngã. “TRÁNH XA KHỎI TÒA NHÀ!” gã hét lớn, vung hai tay khiến vạt áo mưa lật lên. “XÉO NGAY!” Gã còn không buồn nhìn tôi; đôi mắt gấu nhỏ tí dán chặt vào thứ gì đó đang xảy ra tít trên đầu tôi, tận đầu phố, và vẻ mặt gã làm tôi thất kinh.
Vội vã, tôi luồn lách qua đám các nhân viên cứu hộ sang vỉa hè đối diện, ngay phía trên Phố 79 - vẫn không quên để mắt tìm mẹ, dù không thấy. Xe cứu thương và các loại xe bệnh viện ken đặc: Cấp cứu Beth Israel, Lenox Hill, dòng Trưởng lão New York, Cấp cứu EMS Cabrini. Một ông người đầy máu mặc vét nằm ngửa sau hàng thủy tùng cảnh, trong mảnh sân tí xíu sau hàng rào ngôi biệt thự Đại lộ 5. Một đoạn băng vàng đã chăng lên, quay cuồng lật phật trong gió - nhưng cảnh sát và cứu hỏa cùng mũ bảo hộ đẫm nước mưa cố nhấc dây lên chui qua chui lại như chẳng hề bận tâm.
Mọi ánh mắt đều đổ dồn lên đầu phố, và phải mãi sau này tôi mới biết lý do: trên Phố 84 (xa quá tôi không nhìn thấy), đội cảnh sát mặc áo phòng hộ đang gỡ một quả bom chưa nổ bằng cách phun vòi rồng vào nó. Quyết phải
https://thuviensach.vn
nói chuyện bằng được với ai đó nhằm cố hiểu xem chuyện gì đã xảy ra, tôi tìm cách lách về phía một cỗ xe cứu thương nhưng cảnh sát đã lại xông qua đám đông, xua xua rồi vỗ tay, đẩy mọi người lùi lại.
Tôi túm được áo một lính cứu hỏa - một anh có vẻ trẻ và dễ gần, nhai kẹo cao su. “Trong đó vẫn còn có người!” tôi hét.
“Ờ, ờ, biết rồi,” anh cứu hỏa hét lại, chẳng thèm nhìn tôi. “Chúng tôi được lệnh rút lui. Người ta bảo năm phút, năm phút nữa sẽ cho chúng tôi vào lại.”
Bàn tay đẩy nhanh vào lưng. “Đi, đi!” tôi nghe ai đó hét.
Một giọng đặc sệt thô bạo: “Bỏ tay khỏi người tao!”
“ĐI NGAY! Tất cả mọi người đi ra!”
Lại có người khác đẩy lưng tôi. Lính cứu hỏa đu người trên thang xe, nhìn về phía đền Dendur; cảnh sát đứng vai kề vai căng thẳng, mặt không biểu cảm giữa làn mưa. Lảo đảo đi qua họ theo dòng người cuộn chảy, tôi thấy những cặp mắt mờ đi, những cái đầu gục gặc, những bàn chân vô thức gõ nhịp đếm thời gian.
Cho tới khi nghe thấy tiếng “đoàng” từ quả bom bị gỡ, và tiếng hoan hô ồm ồm như cả một sân cổ động viên bóng bầu dục dâng lên từ Đại lộ 5, tôi đã bị đẩy đi mãi xa về phía Đại lộ Madison. Cảnh sát - cảnh sát giao thông - đang khua tay lia lịa, đẩy lùi dòng người ngơ ngác. “Nào các ông các bà, đi đi, đi đi.” Họ đi xuyên qua đám đông, vừa đi vừa vỗ tay. “Tất cả về phía đông. Tất cả về phía đông.” Một gã cảnh sát - rất to con, để râu dê và xỏ khuyên, trông như đô vật chuyên nghiệp - phóng tay xô một anh chàng giao hàng mặc áo phông có mũ đang tìm cách giơ điện thoại chụp ảnh, làm anh ta nhào vào tôi, suýt húc tôi ngã khuỵu
“Coi chừng!” anh chàng giao hàng thét lên the thé rất đáng ghét, và tay cảnh sát lại xô thêm cú nữa, lần này mạnh đến nỗi anh ta ngã ngửa vào cống.
“Ông trời con này điếc hả?” gã hét. “Đi ngay!”
https://thuviensach.vn
“Không được động vào tôi!”
“Tao đập vỡ sọ mày thì được chứ?"
Giữa Đại lộ 5 và Madison đúng là một trại tâm thần. Tiếng quạt trực thăng phần phật trên đầu; tiếng nói không rõ trên loa cầm tay. Dù đã chặn xe cộ nhưng Phố 79 vẫn ken đẩy xe cảnh sát, xe cứu hỏa, những cục bê tông ngăn đường, và hàng dẫy người la hét, hoảng sợ, ướt nhẹp. Một vài người đang chạy từ Đại lộ 5 lại; vài người khác lại cố chen lấn xô đẩy về phía bảo tàng; nhiều người giơ cao điện thoại di động tìm cách chụp ảnh; số khác đứng lặng phắc, miệng há hốc, trong lúc đám đông dồn ứ xung quanh, nhìn đám khói đen trên nền trời mưa dông trùm lên Đại lộ 5 với ánh mắt như xem người sao Hỏa đổ bộ.
Tiếng còi báo động; những bụm khói trắng mọc ra từ rãnh thoát khí trên lề đường. Một người vô gia cư quấn chặt tâm chăn bẩn đi đi lại lại, trông vừa háo hức vừa ngơ ngác. Tôi ngó quanh hy vọng thấy mẹ trong đám đông, hoàn toàn tin tưởng chỉ chút nữa sẽ nhìn ra mẹ; mất một lúc tôi cố lội ngược dòng giữa đám người bị cảnh sát dồn đuổi (kiễng trên đầu ngón chân, ngóc cổ cố nhìn) cho tới khi nhận ra chẳng ích gì mà cố lách ngược lại, mà tìm mẹ giữa cơn mưa như trút, giữa đám bát nháo này. Mình sẽ đợi mẹ ở nhà vậy, tôi nghĩ. Nhà là nơi mẹ con tôi hẹn gặp nhau; nhà là thỏa thuận cho tình huống khẩn cấp; chắc mẹ cũng đã nhận ra tìm tôi trong cảnh chen lấn bẹp ruột như vậy chỉ vô ích. Nhưng dù thế tôi vẫn thấy phật lòng một cách vô lý và nhỏ nhen, giữa lúc đi bộ về nhà (đầu đau muốn vỡ sọ, mắt nhìn một thành hai) tôi vẫn nhìn xung quanh tìm mẹ, khắp những khuôn mặt chăm chú vô danh bốn bể. Mẹ đã thoát được, đấy là điều quan trọng nhất. Mẹ đứng cách khu vực bị nổ nghiêm trọng nhất cả mấy gian cơ mà. Trong số xác người đâu có thấy mẹ. Nhưng dù chúng tôi đã thỏa thuận từ đầu, dù làm thế là việc hợp lý nhất, không hiểu sao tôi vẫn không tin nổi mẹ đã rời bảo tàng mà không có tôi.
https://thuviensach.vn
02
Giờ học giải phẫu.
HỒI CÒN BÉ, chừng bốn năm tuổi, điều tôi lo sợ nhất là một hôm nào đó có thể mẹ sẽ không về sau giờ làm. Toán cộng trừ chủ yếu chỉ dùng theo dõi mẹ từng bước chân (còn bao nhiêu phút mẹ sẽ rời công ty? Bao nhiêu phút nữa đi ra tàu điện?) và ngay từ trước khi biết đếm, tôi đã kỹ lưỡng học cách xem đồng hồ, khổ sở ngẫm ngợi cái vòng tròn thần bí vẽ bút sáp trên đĩa giấy, một khi đọc thủng sẽ là câu thần chú “Vừng ơi” mở cánh cửa bí ẩn về nề nếp đi về của mẹ. Thường lần nào mẹ cũng về nhà đúng giờ đã hẹn, nên chỉ cần muộn mười phút là tôi đã đi ra đi vào; muộn hơn nữa là tôi sẽ ngồi bệt trên sàn cạnh cửa ra vào, như con chó con bị bỏ rơi, căng tai chờ tiếng cành cạch khi cỗ thang máy lên đến nơi.
Gần như ngày nào hồi tiểu học tôi cũng nghe đủ thứ tin tức rất đáng ngại trên kênh 7. Nhỡ một ông lang thang mặc áo gió quân sự bẩn thỉu xô mẹ xuống đường ray chờ tàu số 6 thì sao? Hay là đẩy mẹ vào ô cửa tăm tối nhà nào đó, đâm phập con dao hòng giật cái túi xách của mẹ? Nhỡ mẹ đánh rơi máy sấy tóc vào bồn tắm, bị xe đạp đâm ngã ngay trước mũi ô tô, đi khám răng bị phát nhầm thuốc rồi ngộ độc chết - như từng xảy ra với mẹ một thằng bạn cùng lớp?
Tưởng tượng có chuyện gì xảy đến với mẹ lại tăng thêm phần kinh hãi bởi bố tôi thuộc loại rất khó trông cậy. Rất khó trông cậy là cách nói của những người khéo miệng, tôi nghĩ thế. Ngay cả lúc khoan khoái vui vẻ ông cũng vẫn hay đánh mất phiếu lương, hoặc ngủ quên để cửa căn hộ mở toang, vì ông là sâu rượu. Và khi không vui - tức là hầu như lúc nào cũng vậy - mắt ông vằn đỏ, mặt lầm lầm, bộ vét nhàu nhò như thể ông đã mặc nguyên đồ lăn tròn trên sàn, và ông toát ra cái vẻ lặng phắc bất thường như một món đồ bị nén hơi sắp bùng nổ.
https://thuviensach.vn
Dù tôi không hiểu duyên cớ nào làm cho ông u uất đến thế, nhưng điều này thì rõ: lỗi là ở chúng tôi. Mẹ và tôi làm ông khó chịu. Chỉ tại chúng tôi mà ông phải đeo bám thứ công việc ông không ngửi nổi. Mọi điều chúng tôi làm đều khiến ông cáu. Ông đặc biệt ghét phải ở cạnh tôi, dù cũng chẳng có mấy dịp: Sáng sáng, khi tôi sửa soạn đi học, ông ngồi cù rũ với đôi mắt sưng húp bên cốc cà phê, tờ Wall Street Journal trải rộng trước mặt, cái áo choàng tắm không buộc, tóc dựng đứng từng vệt bò liếm, đôi khi còn run tay đến mức khiến cà phê đổ sánh ra khi đưa cốc lên miệng. Đề phòng, ông nhìn tôi đang đi vào, cánh mũi phồng lên nếu tôi làm ồn khi dùng dao nĩa hay cái bát đựng ngũ cốc.
Ngoại trừ những buổi sáng gượng gạo này thì tôi chẳng mấy khi thấy ông. Ông không ăn tối ở nhà, không đến dự hội hè ở trường; ông chẳng chơi với tôi cũng chẳng nói chuyện gì nhiều khi về nhà; mà thực tế là ông hầu như chỉ về nhà vào cái giờ tôi đã lên giường ngủ; lại có những ngày - chủ yếu là ngày nhận lương, hai tháng một lần vào thứ Sáu - mãi đến ba bốn giờ sáng mới nghe loảng xoảng tiếng ông về: cửa đập sầm, cặp táp rơi đánh xoạch, va đụng tứ tung hết chỗ này đến chỗ khác đến mức nhiều đêm tôi bật dậy kinh hoàng, nhìn chăm chăm lũ trăng sao dạ quang dán trên trần lo có phải kẻ sát nhân nào vừa đột nhập vào căn hộ không. Cũng may là lúc say rồi, bước chân ông chậm lại thành một nhịp điệu giật cục không lẫn vào đâu được - bước chân Frankenstein, tôi thường nghĩ vậy, cẩn thận nện xuống, mỗi bước chân cách nhau lâu đến vô cùng - và lúc nhận ra kẻ va vấp trong bóng tối chỉ là ông, chứ không phải tên sát nhân hàng loạt hay kẻ tâm thần phân liệt nào, tôi sẽ lại thiếp đi chập chờn trong giấc ngủ. Đến hôm sau, ngày thứ Bảy, mẹ và tôi sẽ kiếm cớ chuồn ra khỏi cán hộ khi ông còn chưa kịp tỉnh giấc ngủ bê bối, sũng mồ hồi trên xô pha. Hoặc nếu không, cả ngày chúng tôi rón rén đi quanh nhà, sợ không dám đóng cửa quá mạnh hay động đến ông chút nào cả, còn ông ngồi trước tivi, mặt băng giá, tay cầm chai bia Tàu từ cửa hàng đồ ăn mang về, mắt mờ xỉn, xem thời sự hoặc thể thao nhưng để chế độ tắt tiếng.
https://thuviensach.vn
Cũng vì thế cả mẹ lẫn tôi đều thấy chẳng việc gì phải cuống lên khi một sáng thứ Bảy tính dậy nhận ra đêm qua ông không về nhà. Mãi đến Chủ nhật chúng tôi mới bắt đầu lo ngại, mà cả lúc đó cũng không phải lo ngại như kiểu những người bình thường; khi đó đã bắt đầu mùa bóng chày giữa các trường trung học; có thể tin chắc ông có đặt cược cho trận nào đó, và chúng tôi nghĩ có lẽ ông đã nhảy xe buýt đến Atlantic City mà không báo về. Phải mãi đến hôm sau, khi cô Loretta là thư ký của ông gọi đến vì không thấy ông đến chỗ làm, chúng tôi mới mang máng thấy vấn đề nghiêm trọng. Mẹ gọi cho cảnh sát vì sợ ông bị cướp hay bị đâm chết khi uống say đi ra khỏi quán nào; mấy ngày tiếp theo, chúng tôi như ngồi trên lửa nóng lòng chờ nghe điện thoại hay người gõ cửa. Rồi đến gần cuối tuần, một mẩu thư sơ sài của bố tôi gửi đến (dấu bưu điện ở Newark, New Jersey), mấy dòng ngoằn ngoèo nét bút căng thẳng thông báo với chúng tôi ông đã bỏ đi để “bắt đầu cuộc đời mới” ở một nơi không nêu tên. Tôi còn nhớ lúc ấy đã ngẫm nghĩ cái chữ “cuộc đời mới”, như thể nó sẽ tiết lộ chút gì nơi ông đã đi; vì sau khi tôi nhì nhèo năn nỉ quấy nhiễu mẹ suốt một tuần, cuối cùng mẹ cũng chịu thua và cho tôi xem thư (“hừ, được thôi,” mẹ cam chịu nói khi mở ngăn kéo lấy nó ra, “mẹ cũng chẳng hiểu bố muốn mẹ bảo con ra sao nữa, thôi thì cứ để con nghe trực tiếp từ bố”). Thư viết trên giấy của một quán trọ Doubletree gần sân bay. Tôi cứ nghĩ trong đó sẽ đầy những đầu mối giá trị cho biết nơi trú chân mới của bố, nhưng thay vào đó ấn tượng nhất chỉ là sự cụt ngủn (bốn năm dòng gì đó) và cái kiểu chữ liến thoắng bất cẩn mặc mẹ chúng mày, cứ như ông chỉ ngoáy vội trước khi chạy ra siêu thị.
Về nhiều mặt, bố tôi biến mất là cả một sự nhẹ nhõm. Đương nhiên tôi chẳng việc gì phải nhớ bố, và xem ra mẹ cũng không, dù trái lại chúng tôi rất buồn khi phải cho bà giúp việc Cinzia nghỉ vì không đủ tiền nuôi bà nữa (Cinzia đã khóc mùi và đòi được ở lại làm không công; nhưng mẹ đã tìm được cho bà chỗ làm bán thời gian cũng trong tòa nhà, ở nhà một cặp vợ chồng có con nhỏ; chừng tuần một lần bà lại ghé qua làm tách cà phê với mẹ, còn nguyên cái choàng bảo hộ bên ngoài quần áo khi lau dọn.) Tấm
https://thuviensach.vn
ảnh bố tôi còn trẻ, da rám nắng đứng trên đỉnh dốc trượt tuyết lẳng lặng biến mất khỏi tường, thay vào đó là ảnh mẹ con tôi ở sân trượt băng Công viên Trung tâm. Đêm đêm mẹ thức khuya, bấm máy tính nhẩm chồng hóa đơn. Dù căn hộ thuê thuộc loại “bình ổn giá”, sống mà bớt đi khoản lương của bố vẫn là cuộc bấp bênh qua ngày đoạn tháng, vì cái “cuộc đời mới” nào đó ổng đã tạo lập cho mình ở chốn nào đó hẳn nhiên không bao hàm khoản trợ cấp nuôi con. Về cơ bản, chúng tôi vui lòng tự giặt đồ dưới hầm, xem phim suất chiếu nửa giá, mua bánh mì nướng qua ngày và đồ ăn Tàu gọi về rẻ tiền (mì hay bánh trứng hấp), dành từng xu từng hào đi xe buýt. Nhưng trong lúc lệt xệt về đến nhà hôm ấy - vừa lạnh vừa ướt, vừa đau đầu muốn rơi cả răng - tôi chợt nhận ra rằng vắng bố, trên đời sẽ chẳng còn ai đặc biệt quan tâm lo lắng đến mẹ và tôi; chẳng còn ai đứng ngồi không yên tự hỏi chúng tôi mất tăm đâu cả sáng, sao vẫn chưa thấy có tin tức gì. Dù có ở đâu trong cái Cuộc Đời Mới đó (xứ nhiệt đới hay đồng cỏ, thị trấn trượt tuyết tí hon hay Đại Đô Thị Hoa Kỳ) thì hẳn ông cũng đeo dính lấy màn hình tivi; cũng dễ hình dung có thể ông còn sốt sình sịch lên và quát tháo nữa, như vẫn hay làm khi nghe những tin tức động trời chẳng can hệ gì đến ông, lốc xoáy hay cầu sập: ở những bang chân trời góc biển nào chẳng hạn. Nhưng có lo đến mức nhấc điện thoại hỏi thăm chúng tôi không? Hẳn là không - cũng như ông sẽ chẳng quan tâm gọi hỏi han cái công ty cũ, dù chắc hẳn ông cũng nghĩ đến các cựu đồng nghiệp ở trung tâm, nghĩ không biết cái đám đó lọ nước mắm đếm củ dưa hành (như ông vẫn gọi những người cùng làm) đang làm ăn ra sao ở 101 Phố Công viên. Liệu đám thư ký có sợ mất vía, vơ hết ảnh chụp trên bàn rồi xỏ giày đi bộ về nhà? Hay là tầng mười bốn đã mở một thứ tiệc lặng lẽ, mọi người gọi bánh xăng-uých về rồi tụm quanh cái tivi trong phòng họp?
Dù đường về nhà dài đến cả tỉ năm, tôi chẳng còn nhớ gì về nó trừ cái vẻ xám lạnh ướp mưa trên Đại lộ Madison - những cái ô nhấp nhô, đám đông trên vỉa hè lầm lũi chạy về trung tâm, cảm giác vô danh của những người co cụm như trong những ảnh đen trắng cũ tôi từng thấy, chup những vụ ngân hàng phá sản hay xếp hàng chờ phát bánh mì trong thập niên 1930.
https://thuviensach.vn
Cái đầu nhức với màn mưa hùa nhau thu hẹp thế giới thành một vòng tròn tắc thở, khiến tôi chẳng thấy gì ngoài cái lưng cong gập của những người đi trước trên vỉa hè. Thực tế là đầu tôi đau đến nỗi hầu như chẳng thấy mình đang đi đâu nữa; một hai lần tôi còn suýt bị xe đụng khi xông xuống lối qua đường mà quên nhìn đèn. Hình như chẳng có ai biết đích xác đã có chuyện gì, dù lọt vào tai tôi mấy chữ “Triều Tiên” ông ổng từ loa một chiếc taxi đậu gần đó, và “Iran” với “al-Qaeda” lầm bầm trên miệng mấy người đi qua. Một cậu da đen gầy khẳng kheo để tóc tết, ướt như chuột lột đang đi đi lại lại trước bảo tàng Whitney, giơ nắm đấm dứ dứ lên trời và hét đổng: “Cài khóa an toàn vào, Manhattan! Osama bin Laden lại cho chúng ta rung chuyển rồi!”
Đầu lả đi chỉ muốn ngồi xuống, nhưng không hiểu sao tôi vẫn khập khiễng đi tiếp được, bước chân cà nhắc như món đồ chơi bị trục trặc nửa phần. Cảnh sát huơ tay múa chân; cảnh sát huýt sáo rồi ngoắc tay. Nước rỉ xuống chóp mũi tôi. Chạy đi chạy lại trong đầu tôi, trong lúc chớp mắt gạt mưa, là ý nghĩ: mình phải về nhà với mẹ càng nhanh càng tốt. Chắc là mẹ đang rối rít cuống cuồng chờ tôi ở căn hộ; chắc mẹ đã bứt tóc bứt tai vì lo lắng, tự nguyền rủa mình sao lại tịch thu điện thoại của tôi. Ai cũng đang loay hoay không gọi điện được, người đi bộ xếp hàng dài cả chục, hai chục người ở vài trạm điện thoại công cộng trên đường. Mẹ ơi, tôi nghĩ, mẹ ơi, tìm cách bắn tin thần giao cách cảm rằng mình còn sống. Tôi muốn mẹ biết mình vẫn ổn, nhưng cùng lúc tôi cũng nhớ đã dặn lòng chỉ đi chứ không chạy, nếu không tôi sẽ ngất xíu khi còn chưa về đến nhà. Thật may mẹ đã bỏ đi chỉ vài phút trước đó! Mẹ đã bảo tôi đi thẳng vào giữa trung tâm vụ nổ; chắc hẳn mẹ nghĩ tôi chết rồi.
Và cứ nghĩ đến cô bé đã cứu mạng mình mắt tôi lại cay cay. Pippa! Cái tên kỹ quái và khô khan, rất thích hợp với một cô tiểu yêu ranh ma tóc đỏ. Mỗi lần nhớ đến ánh mắt cổ nhìn mình, tôi lại thấy chóng mặt vì ý nghĩ chính cô, một người hoàn toàn lạ mặt, đã cứu tôi khỏi khu triển lãm mà bước vào ánh chớp đen trong cửa hang bưu thiếp, vào hư vô, vào tận cùng của mọi sự. Liệu tôi có cơ hội nào cho cô biết cô đã cứu mạng tôi không?
https://thuviensach.vn
Còn ông già nữa: đám cứu hỏa và cứu hộ đã tràn khỏi tòa nhà chỉ vài phút sau khi tôi ra, tôi vẫn hy vọng có ai đã lộn trở lại cứu ông ấy - cửa đã được nậy, họ biết có ổng ở trong mà. Liệu tôi, có còn cơ hội nào trông thấy một trong hai người bọn họ?
Khi rốt cuộc cũng về đến nhà, tôi đã lạnh tận xương tủy, đầu nôn nao, đi loạng choạng. Nước chảy ròng từ trên quần áo ướt lướt thướt, ngoằn ngoèo sau lưng thành một đường zigzag ngang sàn sảnh vào.
Vừa đi qua đám đông trên phố, cảnh cô quạnh ở đây khiến tôi rùng mình. Mặc dù trong phòng kho cái tivi xách tay vẫn bật, và đâu đó trong tòa nhà máy bộ đàm đang léo nhéo, tôi chẳng thấy chú Golden cũng như Carlos hay Jose, hay bất cứ ai trong số bảo vệ quen.
Xa hơn nữa ở đằng trong, buồng thang máy để đèn đứng ngoác miệng chờ đợi, như chịếc tủ trên sân khấu ảo thuật chờ biến mất người. Những bánh răng bắt vào nhau rùng mình; từng cái một, những con số trang trí cũ màu ngọc trai nhấp nháy trôi qua trong lúc tôi lên tới tầng bảy. Bước vào hành lang tối mờ trước nhà mình, tôi nhẹ người đến phát khóc - vẫn sơn tường màu nâu lông chuột, vẫn cái mùi nước tẩy sàn bí bức như mọi khi.
Chìa khóa vặn xoành xoạch trong ổ. “Mẹ ơi?” Tôị gọi lớn và bước vào bóng mờ tối trong nhà: rèm kéo hết, rất tĩnh lặng.
Tiếng tủ lạnh rì rì trong lặng yên. Trời ạ, tôi nghĩ và giật nảy người, mẹ vẫn chưa về à?
“Mẹ?” Tôi lại gọi. Tim trĩu xuống, tôi đi thật nhanh qua hành lang giữa, rồi vào giữa phòng khách đứng bối rối.
Không có chìa khóa mẹ trên móc bên cửa, không có túi mẹ trên bàn. Chân giày ướt kêu lép nhép trong tĩnh lặng, tôi đi vào tận trong bếp - cũng không ra dáng bếp lắm, chỉ là hốc tường vừa đủ đặt cái lò hai vòng, quay ra lối thông gió. Ở đó có cốc cà phê của mẹ, bằng thủy tinh xanh lá, mua ở chợ đồ cũ, vành còn dấu son môi.
https://thuviensach.vn
Tôi đứng tận mắt nhìn chiếc cốc chưa rửa, đáy còn một tấc cà phê nguội, nghĩ xem phải làm gì. Tai tôi vẫn khi ù khi ong, đầu đau đến nỗi không tập trung nghĩ được: từng đợt sóng tối om dội vào mép trường nhìn của tôi. Tôi đã quá mải nghĩ xem mẹ sẽ lo lắng thế nào, mải cố về đến nhà cho mẹ biết mình vẫn ổn, đến nổi còn chẳng hề nghĩ ra có thể chính mẹ lại không ở nhà.
Mỗi bước đi một nhăn mặt, tôi bước dọc hành lang tới phòng ngủ của bố mẹ: về cơ bản vẫn không thay đổi sau khi bố bỏ đi, nhưng có lắm đồ đạc hơn và có vẻ nữ tính hơn vì chỉ còn mình mẹ. Máy trả lời điện thoại trên bàn, bên cái giường ngổn ngang bừa bãi vẫn tối đen: không có tin nhắn.
Đứng giữa cửa, váng vất vì đau, tôi cố tập trung. Cảm giác chao đảo vì những chuyển động ban ngày chạy xuyên người, cứ như vừa ngồi quá lâu trong xe.
Việc gì trước phải làm trước: tìm điện thoại, kiểm tra tin nhắn. Có điều là tôi không biết điện thoại mình ở đâu. Mẹ đã tịch thu máy sau khi tôi bị đình chỉ học; mới tối qua khi mẹ tắm, tôi đã gọi vào số mình tìm thử, nhưng có vẻ mẹ đã tắt máy rồi.
Tôi nhớ mình đã vọc tay vào ngăn trên cùng tủ ngăn kéo của mẹ, đào bới qua một lũ khăn choàng tanh bành: hết lụa lại nhung, lại khăn thêu của người da đỏ.
Rồi vận hết sức mình (dù nó cũng không nặng lắm), tôi lôi cái ghế dài để cuối giường lại, trèo lên nhìn tầng tủ trên cùng. Sau đó tôi ngồi xuống thảm, người đờ đẫn, má áp vào chiếc ghế dài, ong ong như muốn điếc.
Có gì không ổn rồi. Tôi nhớ mình đã giật bắn người nhỏm dậy, thình lình tin chắc lò bếp đang hở gas và tôi đang hít đầy khí độc vào người. Nhưng không ngửi thấy mùi gì cả.
Cũng có thể tôi đã đi vào cái buồng tắm nhỏ thông với phòng mẹ, tìm trong tủ thuốc xem có aspirin hay thuốc gì chữa đau đầu không - cái đó tôi không biết. Điều tôi biết là có một lúc tôi ở trong phòng mình mà không biết đã vào bằng cách nào, một tay chống tường đứng cạnh giường, cảm giác sắp nôn ọe. Và rồi mọi thứ rối tung lên chẳng phân tách rành mạch ra
https://thuviensach.vn
được nữa cho tới khi tôi ngồi bật dậy trên ghế xô pha phòng khách, ngơ ngác nhìn quanh khi nghe thấy âm thanh tựa như tiếng cửa mở.
Nhưng không phải cửa nhà tôi, là nhà khác trên hành lang. Phòng tối mò, tôi nghe tiếng xe cộ giờ chiều, giờ tắc đường dưới kia. Trong cảnh chạng vạng, tôi lặng phắc mất một hai giây đứng tim khi các âm thanh rời nhau ra, những đường nét quen thuộc dần hiện lên - cái đèn bàn, cái ghế tựa hình câỵ đàn lia - trên nền cửa sổ mở ra trời chiều. “Mẹ à?” Tôi nói, và nỗi hoảng sợ nghe mồn một trong giọng tôi.
Tôi đã thiếp ngủ mặc nguyên bộ đô ướt dính bụi cát; xô pha, cũng ẩm luôn rồi, hằn rõ vệt hình người dính nhớp chỗ tôi vừa nằm. Luồng gió lạnh ngắt khua lọc xọc mấy cái rèm sáo, hồi sáng mẹ để cửa ngỏ trước khi đi.
Mặt đồng hồ chỉ (6 giờ, 47 phút). Càng lúc càng sợ hãi, tôi bước cứng nhắc quanh nhà, bật sáng trưng các loại đèn - cả đèn trần phòng khách chẳng mấy khi bật vì nó sáng gắt nhức mắt quá.
Đứng giữa ô cửa vào phòng mẹ, tôi thấy ánh đèn đỏ nhấp nháy trong bóng tối. Cảm giác nhẹ nhõm tuyệt trần ập lên người, tôi phóng tới quanh giường, mò mẫm tìm nút trên máy trả lời tự động, và phải vài giây sau tôi mới nhận ra không, không phải giọng mẹ, chỉ là giọng một bà làm cùng chỗ mẹ, hớn hở đến phi lý. “Ê! Audreỵ, Pru nè, gọi điện hỏi thăm tí thôi. Ngày khốn nạn nhỉ? Nè, mầy bản in cuối của Pareja về rồi đó, lúc nào gặp nhau nói chuyện tí, nhưng hạn dời lại rồi nên không lo, chưa cần ngay đâu. Hy vọng là nàng vẫn ổn, rảnh gọi lại nhé.”
Tôi đứng sững, hồi lâu nhìn cái máy, cả khi nghe tiếng tít hết tin. Rồi tôi vén rèm cửa sổ, ngó xuống đường.
Đang là cái giờ ấy; giờ dân chúng về nhà. Tiếng còi xe thấp thoáng dưới phố. Đầu tôi vẫn nhức muốn vỡ toác ra, lại thêm thứ cảm giác (lúc ấy còn mới, nhưng đến giờ, không may thay, đã quá quen rồi) như vừa tỉnh dậy sau cơn rượu chè túy lúy, cảm giác có nhiều việc vô cùng quan trọng đã bỏ bẵng không làm.
https://thuviensach.vn
Tôi quay lại phòng mẹ, bàn tay run rẩy bấm số di động của mẹ, luýnh quýnh bấm nhầm số, phải gọi lại từ đầu. Nhưng không thấy mẹ trả lời, chỉ thấy tiếng tổng đài. Tôi để lại lời nhắn (Mẹ ơi con đây, con lo quá, mẹ ở đâu?) rồi ngồi xuống giường mẹ, hai tay ôm lấy đầu.
Mùi nấu nướng từ mấy tầng dưới bắt đầu bay lên. Những giọng nói lí nhí không rõ từ mấy căn hộ bên cạnh: những tiếng thậm thịch không rõ nghĩa, ai đó đóng mở các loại tủ. Tối rồi, mọi người bắt đầu về nhà sau giờ làm, thả túi cặp xuống, vò đầu chó mèo và trẻ con, bật tivi nghe thời sự, chuẩn bị ngồi vào bàn ăn. Mẹ ở đâu? Tôi cố nghĩ ra mọi thứ lý do có thể khiến mẹ kẹt lại đâu đó, nhưng chẳng ra cái nào dù ai mà biết, có thể khúc đường nào đó bị chặn nên mẹ không về được. Nhưng nếu thế thì sao không gọi?
Hay mẹ đánh rơi điện thoại chăng? Tôi nghĩ. Hay bị hỏng rồi? Hay mẹ đưa cho ai đó cần hơn?
Vẻ tĩnh lặng trong căn hộ làm tôi sợ. Nước chảy khòng khọc trong đường ống, gió giật lách tách rèm sáo nghe rất hắc ám. Thấy mình chỉ ngồi vô tích sự trên giường, cảm thấy phải làm gì đó, tôi lại gọi, nói thêm một tin nhắn nữa, lần này không ngăn được giọng run lên. Mẹ, con quên mất, con về nhà rồi. Mẹ gọi lại nhé, ngay khi được, OK? Rồi tôi gọi đến cả hộp thư thoại ở công ty mẹ nữa cho chắc ăn.
Cái lạnh chết chóc bắt đầu bò lan ra giữa ngực, tôi trở lại phòng khách. Đứng đó một lúc, tôi lại ra bảng tin trong bếp xem mẹ có nhắn gì không, dù đã biết rõ là không. Quay về phòng khách, tôi ghé mắt ra cửa sổ nhìn đường phố nườm nượp bên dưới. Hay mẹ đã chạy ù ra hàng thuốc hoặc quán ăn vì không muốn đánh thức tôi dậy? Một phần trong tôi chỉ muốn bỏ ra phố tìm mẹ, nhưng họa là điên mới nghĩ sẽ thấy mẹ giữa đám đông giờ cao điểm, thêm nữa nếu rời căn hộ, mẹ gọi về sẽ không gặp.
Đa quá giờ thay ca bảo vệ trực dưới nhà. Tôi gọi điện xuống, hy vọng gặp Carlos (người lớn tuổi nhất, oai vệ nhất trong số bảo vệ) hoặc Jose thì tốt nữa: đấy là anh người Dominica to con hớn hở mà tôi ưa nhất. Nhưng
https://thuviensach.vn
chẳng thấy ai trả lời, có đến hàng thiên niên kỷ sau mới thấy một giọng ngoại quốc nheo nhéo ngắc ngứ cất lên: “A lô?”
“Có chú Jose không ạ?”
“Không,” giọng kia nói. “Không. Gọi lại xau đi ”
Tôi đã nhận ra giọng cái anh châu Á có vẻ khiếp nhược, lúc nào cũng đeo kính bảo hộ và găng tay cao su, chuyên đánh bóng sàn và dọn rác cùng đủ thứ việc lặt vặt khác trong tòa nhà. Mấy, người bảo vệ (hình như cũng chẳng biết tên anh ta) chỉ gọi là “thằng mới”, rồi kêu ca ban quản lý sao lại đưa vào một tay tiếng Anh chẳng biết, tiếng Tây Ban Nha cũng không. Bất cứ chuyện gì xảy ra trong tòa nhà, họ cũng đổ tội cho anh ta: cái thằng mới lại không dọn tuyết trên lối đi cho tử tế, thằng mới không bỏ thư vào chỗ cần bỏ, không quét sân sạch như cần sạch.
“Gọi lại xau đi” Thằng Mới đang khấp khởi đề nghị.
“Không, chờ đã,” tôi nói khi anh ta định dập máy. “Cháu cần gặp ai đó” Im lặng không hiểu.
“Xin chú, có ai ở đó không?” tôi nài nỉ. “Chuyện khẩn cấp lắm”
“OK,” giọng kia thận trọng đáp, nhưng vẫn có vẻ đợi nghe khiến tôi lại nhen hy vọng. Tôi nghe rõ tiếng thở ra hít vào trong lặng yên.
“Cháu là Theo Decker,” tôi nói. “Căn hộ 7C, cháu gặp chú dưới nhà nhiều lắm? Mẹ cháu vẫn chưa về nhà, cháu không biết phải làm gì.”
Im lặng dài và bối rối. “7,” anh ta lặp lại, cứ như cả câu chỉ hiểu mỗi phần đó.
“Mẹ cháu,” tôi nhắc lại. “Bác Carlos đâu? Không có ai khác ở đấy à?” “Xin lỗi, cốm on?” anh ta cuống quýt nói rồi cúp máy.
Tôi cũng dập máy, kích động kinh khủng, rồi sau vài giây đứng hóa đá giữa phòng khách, liền ra bật tivi. Thành phố rối tung; cầu dẫn ra các quận ngoại ô đều đã bị chặn hết, chắc vì thế mà Carlos và Jose không vào đi làm được, nhưng tôi chẳng thấy có lý do nào mẹ lại bị kẹt ở ngoài. Trên màn
https://thuviensach.vn
hình hiện số điện thoại để gọi nếu có người mất tích. Tôi chép lại vào mẩu báo, tự thỏa thuận, nếu đúng ba mươi phút nữa chưa thấy mẹ về, sẽ gọi.
Chép lại số đó làm tôi thấy nhẹ nhõm hơn. Không hiểu sao tôi tin rằng bản thân việc ấy đã là hành vi thần kỳ đưa mẹ bước qua cửa vào nhà. Nhưng bốn mươi lăm phút đã qua, rồi một tiếng, vẫn chẳng thấy mẹ, rốt cuộc tôi cũng đầu hàng và nhấc máy gọi (đi đi lại lại, mắt sốt ruột dán vào tivi suốt trong khoảng đợi bên kia nhấc máy, suốt trong khoảng mấy chờ, quảng cáo đệm giường, quảng cáo dàn loa, giao hàng nhanh miễn phí không xét điểm tín dụng). Cuối cùng cũng có một bà vẻ hoạt bát nhấc máy, giọng hết sức sự vụ. Bà ta hỏi tên mẹ, hỏi số của tôi, bảo mẹ "không có trong danh sách” nhưng tôi sẽ được báo ngay nếu thấy có tên mẹ xuất hiện. Mãi tới khi dập máy tôi mới nhận ra quên không hỏi thứ danh sách bà ta nói là danh sách gì; và mất một hồi lo lắng dằn vặt không biết là bao lâu, đi vòng vòng vật vã qua hết bốn căn phòng, mở ngăn kéo, nhặt sách lên rồi bỏ xuống, bật máy tính của mẹ xem Google ra được gì không (chẳng ra gì cả), tôi gọi lại hỏi.
“Bà ấy không có tên trong danh sách tử vong,” người đàn bà thứ hai tôi gặp đáp, giọng thản nhiên đến kinh ngạc. “Cũng không có trong danh sách bị thương.”
Trái tim tôi nở rộ “Vậy là mẹ cháu ổn phải không?”
“Ý tôi chỉ là chúng tôi chưa có thông tin gì cả. Cậu đã để lại số điện thoại chưa? Nếu cần chúng tôi sẽ gọi lại.”
“Rồi”, tôi nói, “họ đã bảo sẽ gọi lại cho tôi.”
“Miễn phí giao và vận chuyển,” tivi vẫn nói. “Hãy nhớ hỏi về chương trình miễn lãi sáu tháng của chúng tôi.”
“Vậy chúc may mắn,” bà kia nói rồi dập máy.
Sự tĩnh lặng trong căn hộ thật thiếu tự nhiên; ngay cả tiếng ồn ào phát ra từ tivi cũng không xua tan được. Hai mươi mốt người chết, “hàng chục người khác” bị thương. Tôi hoài công dùng mấy con số ấy trấn an mình:
https://thuviensach.vn
hai mươi mốt thì cũng không quá nhiều, phải không? Hai mươi mốt chỉ là một nhúm người trong rạp phim, thậm chí trên xe buýt. Lớp Ngữ văn của tôi còn đông hơn con số đó ba người. Nhưng chẳng mấy chốc, nghi ngờ và lo sợ mới lại chen chúc quanh tôi, và phải khó khăn lắm tôi mới không chạy ào ra khỏi nhà hét gọi tên mẹ.
Dù cực kỳ muốn ra ngoài phố tìm mẹ, tôi cũng biết mình cần ở yên. Mẹ con tôi phải hẹn nhau ở căn hộ: đấy là thỏa thuận, là quy ước đã đúc thành sắt kể từ hồi tiểu học, hồi tôi mang từ trường về nhà cuốn Dự Phòng Thảm Họa Cho Trẻ Em, vẽ những chú kiến hoạt hình đeo khẩu trang phòng độc, thu vén đồ dự trữ cho một tai họa không định rõ. Tôi đã giải hết các ô chữ, các bảng câu hỏi tù mù (“Em nên bỏ loại quần áo nào vào Ba-lô Dự Phòng Thảm Họa? A. Đồ bơi. B. Đồ nhiều lớp. C. Váy nhảy Hawaii. D. Giấy nhôm.”) và, cùng với mẹ, đã vẽ ra một Kế Hoạch Dự Phòng Thảm Họa Gia Đình. Kế hoạch ấy rất đơn giản: chúng tôi hẹn nhau tại nhà. Và nếu một trong hai người không về được đến nhà, thì sẽ gọi điện. Nhưng thời gian trôi đi mà điện thoại thì không đổ, và tổng số thiệt hại về nhân mạng trên bản tin lên đến hai mươi hai rồi hai mươi lăm người, và tôi lại gọi cho số điện thoại khấn cấp.
“Phải,” người đàn bà nhấc máy đáp, cái giọng điềm nhiên làm tôi muốn phát điên, “tôi thấy là cậu đã gọi đến đây rồi, tôi đã ghi tên bà ấy vào danh sách?
“Nhưng mà... có thể mẹ đang nằm bệnh viện hay gì đó chăng?”
“Cũng có thể. Nhưng rất tiếc là tôi không thể xác nhận điều đó được. Cậu nói tên cậu là gì nhỉ? Cậu có muốn nói chuyện với tư vấn viên của chúng tôi không?”
“Người ta đưa nạn nhân đến bệnh viện nào?”
“Xin lỗi, thực sự tôi không thể... ”
“Beth Israel? Lenox Hill?”
https://thuviensach.vn
“Vấn đề là, điều đó còn tùy thuộc tình trạng thương tích nữa. Nhiều người bị tổn thương mắt, bị bỏng, đủ thứ. Khắp thành phố ngay lúc bây giờ đây có biết bao người đang phải phẫu thuật...”
“Còn những người vừa kết luận tử vong mấy phút trước thì sao?”
“Thế này, tôi rất hiểu, tôi cũng rất muốn giúp cậu, nhưng tiếc là không thấy Audrey Decker trong danh sách của tôi.”
Mắt tôi lo lắng phóng quanh phòng. Cuốn sách của mẹ Jane và Prudence, của Barbara Pym úp mặt trên lưng xô pha; một trong mấy chiếc áo len cashmere mỏng vắt trên tay ghế dựa. Mẹ có một bộ sưu tập đủ các màu; cái này màu lam nhạt.
“Có thể cậu nên đi xuống Kho Quân dụng xem. Ở đó người ta có sắp xếp chỗ nghỉ cho các gia đình - có đồ ăn, có rất nhiều cà phê nóng, có cả nhiều người để nói chuyện nữa.”
“Nhưng cháu đang hỏi cô, có người chết nào mà cô không biết tên không? Hoặc người bị thương nữa?”
“Thế này, tôi rất hiểu tâm trạng của cậu lúc này. Tôi thật sự, vô cùng muốn có thể giúp gì được cho cậu, nhưng mà tôi không thể. Cậu sẽ được gọi lại ngay khi chúng tôi có thông tin cụ thể.”
“Cháu cần tìm mẹ! Làm ơn đi! Chắc mẹ cháu đang nằm ở bệnh viện nào đó. Cô không thể gợi ý cháu nên tìm ở đâu được ư?”
“Cậu bao nhiêu tuổi?” người đàn bà nghi ngờ hỏi.
Im lặng kinh ngạc một lúc, rồi tôi dập máy. Mất vài giây choáng váng tôi nhìn điện thoại, thấy nhẹ lòng nhưng đồng thời cũng hối hận, cứ như vừa va vấp làm đổ vỡ vật gì. Lúc nhìn xuống thấy hai bàn tay run rẩy, tôi nhận ra, dửng dưng như thể nhận ra pin iPod đã cạn, rằng lâu lắm rồi mình không ăn gì. Cả đời trừ cái hồi bị nhiễm khuẩn dạ dày chưa bao giờ tôi nhịn đói lâu như thế. Thế nên tôi ra tủ lạnh, tìm hộp giấy đựng mì xào hải sản thừa từ tối qua rồi ăn ngấu nghiến bên kệ bếp, yếu đuối phơi mình trước ánh chói lòa từ bóng đèn trên đầu. Vẫn còn cả trứng hấp và cơm, nhưng tôi
https://thuviensach.vn
để lại cho mẹ phòng trường hợp mẹ về đến nhà đang đói ngấu. Đã gần nửa đêm rồi: thêm chút nữa là các quán đồ ăn sẵn sẽ đóng cửa. Ăn xong tôi rửa nĩa cùng mấy món pha cà phê từ sáng, lau cả kệ bếp để mẹ không phải làm gì thêm khi về nhà: chắc mẹ sẽ vui lắm, tôi nghiêm khắc tự nhủ, khi thấy tôi đã lau kệ bếp. Mẹ cũng sẽ vui nữa (hoặc ít ra tôi nghĩ vậy) khi thấy tôi đã cứu được bức tranh của mẹ. Hoặc mẹ sẽ tức điên. Nhưng tôi sẽ giải thích.
Theo bản tin tivi, thì giờ người ta đã biết kẻ chịu trách nhiệm vụ nổ là ai: những nhóm mà bản tin khi thì gọi là “bọn cực đoan cánh hữu” khi lại gọi “bọn khủng bố nội sinh”. Chúng đã cấu kết với một công ty chuyển đồ và lưu kho; nhờ những đồng phạm chưa biết tên trong nội bộ bảo tàng, chúng giấu chất nổ trong giá trưng bày rỗng thuê đóng ngoài, bày bưu thiếp và sách hội họa trong cửa hàng lưu niệm. Trong số những kẻ thủ ác vài tên đã chết, vài tên khác bị bắt giữ, số còn lại đã tẩu thoát. Một vài chi tiết được nói kỹ hơn, nhưng tôi không thể nạp hết vào đầu được.
Lúc này tôi đang loay hoay với cái ngăn kéo bếp bị kẹt, nó đã bị đóng quá mạnh đâm ra kẹt tư đời nào trước cả khi bố bỏ đi; ở trong chẳng có gì, chỉ có khuôn làm bánh quy với xiên nhúng hoa quả và bàn xắt chanh chẳng bao giờ đụng đến; Mẹ đã mất hơn cả năm cố tìm trong tòa nhà xem có ai chữa được ngăn kéo (lại thêm cả nắm đấm cửa hỏng, vòi nước rỉ và nửa tá những thứ lặt vặt dở hơi khác). Tôi lấy dao cắt bơ, thử bẩy mép ngăn kéo, cố không làm trầy thêm lớp sơn vốn đã sứt sẹo. Lực ép từ vụ nổ vẫn còn âm sâu trong cốt tủy, như vọng âm của tiếng ù ù trong tai nay đã lặn sâu vào trong; nhưng tệ hơn nữa là tôi vẫn còn ngửi thấy mùi máu, nếm thấy vị mặn và tanh trong miệng. (Tôi sẽ còn ngửi thấy nhiều ngày nữa, dù lúc ấy còn chưa biết.)
Trong lúc kỳ cạch bên cái ngăn kéo, tôi nghĩ xem có nên gọi cho ai nữa không, mà nếu có thì là ai. Mẹ là con một. Và mặc dù chính ra tôi vẫn còn một cặp ông bà còn sống nữa - ông nội và vợ hai, ở Maryland - tôi cũng không biết làm sao để liên lạc với họ. Quan hệ giữa bố tôi và bà mẹ kế Dorothy chỉ vừa ở mức chịu nhìn mặt nhau, bà ta vốn là dân nhập cư Đông
https://thuviensach.vn
Đức chuyên dọn vệ sinh thuê cho các văn phòng trước khi gặp ông nội. (Vốn là một tay bắt chước cừ, bố tôi từng nhại Dorothy nực cười và ác độc hết sức: một thứ hausfrau [nội trợ] chạy pin, môi mím chặt, điệu bộ giật cục, giọng lơ lớ như Curt Jurgens trong Battle of Britain.[31]) Nhưng dù bố có không ưa Dorothy đến mấy, thì cũng không sánh được với nỗi thù hằn dành cho ông nội: một hình nhân vừa cao vừa béo, bộ dạng đáng sợ, má đỏ hồng, tóc đen nhánh (tôi nghĩ chắc là tóc nhuộm), ưa mặc jacket và đồ caro màu chóe, chủ trương yêu cho roi cho vọt bằng thắt lưng với trẻ con. Chẳng phải chuyện chơi là cụm từ chủ yếu hiện lên trong đầu khi tôi nghĩ đến ông nội Decker - ví như khi bố tôi bảo “Sống với lão khi đó chẳng phải chuyện chơi” hay “Giờ ăn tối ở nhà đó thật chẳng thể coi là chuyện chơi được đâu”. Tôi mới giáp mặt ông nội với Dorothy có hai lần trong đời, hai dịp căng thẳng tột độ, mẹ chồm người về phía trước trên xô pha, mặc nguyên áo khoác, ví bỏ trong lòng, những nỗ lực dũng cảm gợi chuyện theo nhau ngắc ngứ rồi rơi tõm xuống đáy hố. Điều chính yếu tôi còn nhớ là những nụ cười gượng từ các phía, mùi thuốc lá hút tẩu gỗ anh đào nồng nặc và lời phủ dụ không quá thân mật của ông nội rằng nhớ rụt bộ móng khỉ khỏi mô hình tàu hỏa của ông (một cái làng núi cao Alps choán nguyên một phòng trong nhà họ, trị giá hàng vạn đô-la theo lời ông).
Tôi đã làm cong lưỡi dao phết bơ vì găm nó quá chặt vào thành ngăn kéo bị kẹt - Một trong bộ dao tốt của mẹ, bộ dao bạc của bà để lại ngày xưa. Kiên cường, tôi tìm cách uốn ngược trở lại, cắn môi và dồn toàn ý chí vào mục tiêu này, trong lúc các hình ảnh xấu xí lúc ban ngày chớp nhoáng dâng lên giáng vào mặt tôi từng cú. Cố tránh nghĩ về chuyện đó cũng không khác gì cố tránh nghĩ về con bò tía. Đầu chẳng nghĩ được chuyện gì khác ngoài con bò.
Bất đồ cái ngăn kéo bật mở. Tôi nhìn xuống đống hổ lốn ở trong: những cục pin gỉ, cái bàn bào phô mai gãy, khuôn bánh quy hình bông tuyết mẹ đã bỏ không dùng từ tận hồi tôi học lớp Một nhét chúng với những thực đơn đồ ăn mang đi lem nhem của Viand hay Shun Lee Palace và Delmonico. Tôi cứ để nguyên ngăn kéo mở toang - để mẹ sẽ nhìn thấy ngay khi bước
https://thuviensach.vn
vào - và lượn ra ghế bành, quấn mình trong chăn, ngồi thẳng lưng cho dễ quan sát cửa chính.
Đầu tôi đang quay mòng mòng. Một hồi lâu tôi ngồi run rẩy, chùi đôi mắt đỏ trong ánh sáng từ tivi, trong lúc những bóng xanh chập chờn khó chịu hết ra lại vào. "Thực tế là chẳng có tin mới gì; hình ảnh cứ trở lại bảo tàng ban đêm (giờ trông đã bình thường lại hoàn toàn, ngoại trừ cái băng cảnh sát, vàng vẫn còn căng trên hè phố, đằng trước các bảo vệ cầm súng, từng đám khói chốc chốc phụt lên trên mái tỏa vào bầu trời sáng đèn pha).
Mẹ ở đâu? Sao mẹ còn chưa về nhà? Hẳn là mẹ sẽ giải thích cặn kẽ; mẹ sẽ xua tan nỗi sợ của tôi rồi tôi sẽ thấy mình thật ngố vì đã lo lắng đến thế.
Để tạm gạt mẹ ra khỏi đầu, tôi tập trung thật lực vào đoạn phỏng vấn từ đầu buổi tối đang phát lại. Một ông giám tuyển đeo kính, mặc áo khoác vải tuýt có nơ con bướm, rõ là đang choáng váng - đang nói thật đáng xấu hổ là người ta không cho Các chuyên gia vào trong bảo tàng; chăm sóc cho các tác phẩm nghệ thuật. “Phải” ông ta nói, “tôi biết đấy là hiện trường tội phạm, nhưng tranh rất nhạy cảm với các thay đổi trong không khí và nhiệt độ. Tranh có thể bị hỏng vì nước, hóa chất hay khói. Có thể chúng đang tan ra ngay giữa lúc chúng ta đứng đây mà cãi cọ. Điều cực kỳ quan trọng là để cho các giám tuyển và chuyên gia bảo tồn vào những khu vực quan trọng để đánh giá mức độ thiệt hại càng sớm càng tốt…”
Bỗng thình lình điện thoại réo vang - vang một cách bất thường, như tiếng chuông báo thức lay tôi khỏi giấc mộng đáng sợ nhất đời. Khó mà diễn tả nỗi cảm giác nhẹ nhõm trong tối lúc ấy. Tôi vấp, suýt ngã dập mặt xuống đất khi nhào tới chộp điện thoại. Tôi tin chắc đấy là mẹ gọi, nhưng dòng tên người gọi làm tôi ngưng phắt: SGĐTENY.
Sở gì đó tại New York - nhưng sở gì? Sau một giây bối rối, tôi cũng bốc điện thoại. “A lô?”
“A lô, xin chào,” một giọng nói dịu dàng như ru gần như mẹ mìn cất lên. “Xin hỏi tôi đang nói chuyện với ai đây?”
“Theodore Decker,” tôi nói, giật mình. “Ai gọi thế?”
https://thuviensach.vn
“Chào cháu, Theodore. Cô là Marjorie Beth Weinberg, cô là nhân viên xã hội ở Số Gia đình Trẻ em?”
“Đấy là chỗ nào? Cô gọi về chuyện mẹ cháu à?”
“Mẹ cháu là bà Audrey Decker? Đúng vậy không?”
“Mẹ cháu! Mẹ ở đâu? Mẹ có sao không?”
Im lặng hồi lâu - lâu đến kinh hoàng.
“Có chuyện gì?” tôi thét lên. “Mẹ cháu đâu?”
“Bố cháu có ở đấy không? Cho cô nói chuyện với bố cháu được không?” “Bố cháu không nghe điện được. Có chuyện gì thế?”
“Cô xin lỗi, nhưng đây là chuyện khẩn cấp. Cô e rằng bố cháu nhất thiết phải tới nghe điện ngay bây giờ.”
“Thế mẹ cháu làm sao?” tôi hỏi và đứng dậy. “Xin cô! Chỉ cần nói cho cháu mẹ ở đâu thôi! Có chuyện gì thế?”
“Cháu không ở một mình chứ, Theodore? Có người lớn ở với cháu không?”
“Không, họ ra ngoài uống cà phê hết rồi,” tôi đáp, hoảng loạn nhìn quanh phòng khách. Giày ba-lê nằm nghiêng dưới ghế. Hoa đinh hương tím biếc trong chậu bọc giấy bạc.
“Cả bố cháu cũng đi à ?”
“Không, ngủ rồi. Mẹ cháu đâu ? Mẹ có bị sao không ? Có chuyện gì thế ?”
“Cô e rằng phải nhờ cháu đánh thức bố dậy thôi, Theodore à.” “Không ! Không được !”
“Cô e đây là chuyện rất quan trọng.”
“Bố cháu không nghe điện được! Sao cô không nói luôn với cháu là cô chuyện gì ?”
https://thuviensach.vn
“Ờ, thế thì nếu bố cháu không nói được bây giờ, có lẽ tốt hơn cả là cô để lại số điện thoại cho cháu nhé.” Giọng nói trong tai tôi dịu dàng thông cảm, nhưng vẫn khiến tôi nhớ tới cỗ máy Hal trong Chuyến du hành không gian - 2001.[32] “Nhờ cháu nói với bố gọi lại cho cô ngay khi có thể. Đây quả thật là chuyện hết sức quan trọng”
Bỏ máy rồi, tôi ngồi lặng phắc hồi lâu. Theo đồng hồ trên mặt lò từ đây nhìn thấy, thì đã 2 giờ 45 phút sáng. Chưa bao giờ tôi ở một mình và lại thức vào cái giờ này. Phòng khách thông thường rộng mở thoáng khí biết mấy, tưng bừng vì sự có mặt của mẹ, giờ đã rúm lại lạnh lẽo, nhạt nhẽo và khó chịu, như một ngôi nhà nghỉ hè lúc đang đông: vải lụa mong manh, thảm lá thùa thô ráp, chụp đèn giấy mua ở Phố Tàu, ghế ngồi quá nhỏ và nhẹ bẫng. Đồ đạc đều có vẻ gầy gùa, đứng chông chênh vẻ lo âu dè dặt. Tôi cảm thấy tim mình đang đập, nghe thấy từng tiếng cạch, tiếng tích, tiếng xịt của tòa nhà lớn già nua đang lịm ngủ quanh mình. Ai cũng đang ngủ cả. Cả tiếng còi xe xa xăm và tiếng xoành xoạch của những cỗ xe tải thi thoảng chạy trên Phố 57 nghe cũng nhạt nhòa không đáng tin, có lẻ như âm thanh vọng đến từ một hành tinh khác.
Chẳng mấy nữa tôi biết, bầu trời đêm sẽ chuyển sang lam thẫm; những giọt ánh trời lạnh giá dịu dàng đầu tiên của tháng Tư sẽ lọt vào phòng. Xe chở rác sẽ gầm rú hầm hừ dọc đường cáị; chim chóc mùa xuân sẽ véo von trong công viên; chuông báo thức sẽ lanh lảnh trong các phòng ngủ khắp thành phố. Những anh chàng đu sau đuôi xe tải sẽ vứt từng bọc dày cộp New York Times và Daily News rơi bộp trên các vỉa hè ngoài sạp báo. Các ông bố bà mẹ khắp thành phố sẽ lê dép quanh nhà, tóc chưa chải bù xù trên áo choàng tắm hay đồ lót, bật cà phê, cắm máy nướng bánh mì, đánh thức con cái dậy đi học.
Còn tôi sẽ làm gì? Một phần trong tôi đang bất động, câm lặng vì tuyệt vọng, như lũ chuột phòng thí nghiệm đã bỏ cuộc nằm xuống giữa mê cung đợi chết.
https://thuviensach.vn
Tôi cố thu xếp ý nghĩ cho sáng sủa. Suốt một lúc tôi có cảm giác hình như nếu ngồi thật yên và đợi, có thể mọi việc sẽ tự tìm cách dàn xếp xong xuôi. Những đồ vật trong căn hộ rung rinh trong cái nhọc mệt nơi tôi: các vầng sáng lập lòa quanh đèn bàn; những nét sọc giấy dán tường như run rẩy.
Tôi nhấc cuốn danh bạ, lại đặt xuống. Ý nghĩ gọi cảnh sát làm tôi kính khiếp. Mà cảnh sát thì làm được gì? Xem tivi, tôi đã biết quá rõ phải đợi người ta mất tích đủ hai mươi tư giờ đã. Tôi đang tự thuyết phục mình ra ngoài kia tìm mẹ, dù đang nửa đêm cũng vậy, thây kệ cái Kế Hoạch Dự Phòng Thảm Họa Gia Đình đi, thì một tiếng ré đinh tai (cái chuông cửa) phá tan tành im lặng và tim tôi nảy lên mừng rỡ.
Lê chân chạy nháo chạy nhào về phía cửa, tôi vụng về mở khóa. “Mẹ à?” tôi gọi to và kéo chốt trên cùng, mở cửa toang - rồi tim tôi rụng xuống, rơi vụt sáu tầng lầu. Đứng trên thảm chùi chân là hai kẻ cả đời tôi chưa nhìn thấy: một bà Hàn Quốc mũm mĩm cắt tóc ngắn lởm chởm, một ông có vẻ gốc La tinh mặc sơ mi thắt cà vạt trông giống hệt Luis trong Sesame Street. Trông họ không hề đáng sợ, mà trái lại; thân hình trung niên tròn xoe của họ còn toát ra vẻ trấn an, trong bộ quần áo như hai thầy cô giáo dạy kèm, nhưng dù vẻ mặt cả hai đều rất từ tâm, ngay giây lát nhìn thấy họ tôi đã hiểu cuộc đời mình vẫn sống từ trước đến nay đã kết thúc.
https://thuviensach.vn