🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Con Nhà Giàu - Hồ Biểu Chánh full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Mụclục Chương1 Chương2 Chương3 Chương4 Chương5 Chương6 Chương7 Chương8 Chương9 Chương10 Chương11 Chương12 Chương13 Chương14 Chương15 Chương16 Chương17 CON NHÀ GIÀU Hồ Biểu Chánh www.dtv-ebook.com Chương 1 Ông Kế hiền Toại, chết đã lâu rồi, mà trong quận Chợ Gạo từ già chí trẻ ai cũng còn nhớ cái tên của ông. Ông làm chức Kế hiền là chức của. Hội tề trong làng xã đặt đặng khi nào đình miễu hư tệ, hoặc khi nào cúng tế thánh thần thì góp tiền cho dễ, chớ không phải ông cầm quyền chính trị hay là ông ban đức rưới nhơn, nên thiên hạ cảm oai hồi, nghĩa, mà ghi tạc tên ông vào trí. Đến bây giờ người ta còn nhớ ông là nhớ người giàu to, song sự giàu ấy không có ích cho dân trong làng trong xóm chút nào hết, thậm chí con trong nhà là người kế nghiệp nối dòng, mà cũng không nhờ được. Ông sanh trưởng tại làng Mỹ Hội, nhà ông ở dựa bên lộ đá Mỹ Tho xuống Chợ Gạo. Ông làm bạn với bà Võ Thị Hiền sanh được hai người con, một người con traỉ lớn tên là Trần Thượng Chí, với một người con gái nhỏ tên là Trần Thị Ngọc, người lớn sanh trước người nhỏ ba năm. Khi con lớn của ông được 15 tuổi, thì vợ ông mất. Lúc ấy, ông đã làm giàu rồi, mà tuổi của ông lại trên bốn mươi, nếu ông nghĩ công vợ, thương phận con, ông ở góa mà hưởng sự nghiệp nuôi con thơ, thì có lẽ ông là một người sung sướng hơn hết trong làng trong tổng. Không hiểu tại trời khiến gia tài của ông phải tiêu tan, hay là tại ông không muốn cho hai đứa con của ông được hưởng nhờ công lao của vợ chồng ông, mà vợ mới chết ít tháng thì ông lại lo toan chấp nối. Chớ chi ông chấp nối mà ông lựa chỗ hiền đức xứng đôi vừa lứa, thì cũng cho là phải. Ngặt vì ông nói sự nghiệp to mà con cháu ít là điều vô phước, nên ông tính chọn người trẻ tuổi mà cưới đặng kiếm con thêm. Hồi đó ai điềm chỉ cho ông không biết, mà ông ra Rạch Miễu ông cưới cô Lê Thị Nho mới có 18 tuổi, nghĩa là lớn hơn con trưởng nam của ông có 3 tuổi. Cô Lý Thị Nho vốn là con nhà hồi trước cũng có ăn, nhưng vì bị kiện thưa sao đó mà phải suy sụp, nên cực chẳng đã, cô phải ưng người lớn tuổi mà giàu có, đặng nương dựa tấm thân. Cô đã có sắc mà lại lanh lợi, bởi vậy ông cưới cô về thì ông yêu cô vô cùng. Cách một năm, cô sanh cho ông được một đứa con trai. Ông mừng húm, bèn đặt tên là Trần Thượng Tứ. Ông càng ngày càng thương yêu, càng tin cậy vợ mới, các việc trong nhà ông đều phú thác cho vợ hết thảy, thậm chí chìa khóa tủ sắt ông cũng giao cho vợ giữ. Cô Lý Thị Nho trẻ tuổi mà cao trí; được chồng già yêu trọng mà cô không đỏng đảnh như gái khác, cô càng nhỏ nhẹ, càng cung kỉnh, càng lo sợ, chẳng những là cô hết lòng xem xét việc trong nhà mà thôi, mà cô lại còn săn sóc con ghẻ con ruột cũng như nhau, chồng muốn điều chi thì cô làm cho chồng vừa ý hết thảy, Chừng Trần Thượng Chí khôn lớn, ông Kế hiền mới lo cưới vợ cho con. Theo thế thường thì con lớn phải ở chung với cha, đặng hôm sớm lo săn sóc phụng sự cha, khi cha già yếu thì thay mặt cho cha mà phụng tự ông bà. Không hiểu cô Lý Thị Nho nói làm sao, mà cưới vợ cho Thượng Chí rồi, ông Kế hiền lại mua một mẫu vườn cũng dựa lộ, song ở ấp dưới, rồi cất một cái nhà ngói nhỏ ba căn vách ván mà cho con ra riêng. Vợ chồng Thượng Chí săn sóc miếng vườn, làm vài dây ruộng, tuy không làm giàu được, song năm nào cũng đủ ăn, khỏi cậy nhờ cha. Chừng Thượng Chí đúng tuổi, làng tổng vị con nhà giàu nên cử làm Hương chức. Anh ta làm làng được 6 năm, kế có việc quan trên muốn cử một vị Ban Biện để giúp với Cai tổng trong việc tuần phòng. Thượng Chí tính ra tranh chức ấy, ngặt vì trong nhà không có tiền dư, nên phải lên năn nỉ với cha mà xin 5 ngàn đồng bạc. Ông Kế hiền kêu vợ mà nói rằng: Thằng Hai nó xin 5 ngàn đặng nó tranh chức Ban Biện. Má nó tính sao? Bà Kế hiền cười mà đáp rằng: Ông có bạc dư thì ông cho nó chớ tôi có tiền bạc gì đâu mà ông hỏi tôi. Mà tôi nghĩ ở dưới nầy ham tranh đua với người ta mà làm gì. Làm Ban Biện chém giết ai được hay sao mà phải vác bạc ngàn ra lo. Ông Kế hiền ngồi lặng thinh một hồi rồi nói với con rằng: “Tao năm nay mắc cất nhà có bạc dư ở đâu. Như mầy muốn làm Ban Biện thì mầy làm sao mầy làm, chớ tao không thế giúp được.” Thượng Chí biết cha không thiếu gì bạc mà tại mẹ ghẻ nên cha không cho. Anh ta buồn ý, nên trở về nhà đi vay 5 ngàn mà lo chức Ban biện. Ai cũng biết ông Kế hiền Toại là một nhà đại phú, bởi vậy con trưởng nam của ông đi vay bạc, ai lại không cho. Thượng Chí vay bạc thiệt là dễ, mà có bạc nhiều rồi tranh chức Ban biện lại càng dễ hơn nữa. Bà Kế hiền nghe Thượng Chí được cấp bằng Ban Biện thì bà cười mà nói với chồng rằng: Tôi nghe nói thằng Hai nó giận gay ông nên nó đi vay tiền mà lo chức Ban Biện đó đó. Nó không cần tiền của ông, nó cũng làm được. Thằng thiệt cứng cỏi quá! Nếu nó tập cái tánh đó, tôi sợ chừng ông trăm tuổi già ông để ruộng đất lại cho nó bao nhiêu, chủ nợ họ lấy hết. Ông còn sờ sờ đây mà nó dám đi vay; chừng ông chết rồi thì nó còn kể gì nữa Ông Kế hiền châu mày đáp rằng; đồ khốn nạn, nó muốn mạt thây kệ nó! Thôi, để tôi lo cho thằng Tứ ăn học, đặng ngày sau nó nối nghiệp cho tôi. Thằng Chí nó muốn ngỗ nghịch thì nó làm sao nó làm. Nhà giàu lớn, con trưởng nam xin ít ngàn đồng bạc đặng làm cho nở mặt nở mày với người ta, mà ông không chịu cho, rồi lại nghe lời vợ nhỏ thêu dệt mà tỏ ý ghét con nữa, bao nhiêu đó cũng đủ thấy ông thương vợ nhỏ hơn là con dòng lớn, và sự quán suất gia đình đã về tay bà vợ nhỏ lâu rồi. Mà ông có thêm con trai nhỏ, nên ông bớt thương con trai lớn đã đành; có một điều ai cũng lấy làm kỳ là ông có một chút con gái, là cô Trần Thị Ngọc, ông gả cho Hà Trung Hậu, là con của Hội đồng Thế ở Chợ Gạo, mà từ ngày ông gả lấy chồng rồi, thì ông không ngó ngàn gì tới nữa. Đã biết bên chồng của cô nọ giàu có lớn cũng như ông, nên cô chẳng hề khi nào về rút rỉa như con người ta, nhưng mà ông đành lòng làm ngơ, con rể tới thăm chẳng có một lần nào ông cầm một đồng bạc mà cho chúng nó đi xe. Nói cho phải ông Kế hiền Toại bỏn sẻn với mọi người chớ không phải hẹp với con dòng lớn còn rộng với con vợ nhỏ. Chừng Thượng Tứ đúng tuổi ông gởi lên học trên Mỹ Tho, mỗi ngày ông cho phép ăn bánh có 5 xu mà thôi, mà chiều thứ bảy đi về thì ông bắt đi bộ, chớ ông không cho tiền đi xe. Nếu Thượng Tứ không phiền, ấy là vì có mẹ đút nhét, cha cho mỗi tuần ba cắc mà mẹ lén đưa thêm ba đồng bởi vậy bánh hàng đã phủ phê mà chiều thứ bảy lại mướn xe kéo mà về gần tới nhà rồi mới chịu xuống xe đi bộ cho cha đừng biết. Chừng Thượng Tứ được 19 tuổi, đương học trên Sàigòn, thì ông Kế hiền phát bịnh, Bà Kế hiền thấy ông đã quá 60, mà ương yếu như vậy thì bà lo sợ, nên bà òn ỹ khóc lóc xin ông hãy tính giùm việc tương lai cho bà, chớ nếu ông không tính trước rủi ông cỡi hạc chầu trời, thì chắc thầy Ban BiệnThượng Chí dùng quyền trưởng nam mà thâu hết sự nghiệp rồi mẹ con bà không có chỗ mà dung thân. Ông Kế hiền lắc đầu nói rằng: - Tôi chưa chết đâu mà bà lo. Nói cùng mà nghe, ví dầu tôi có chết đi nữa, bà là vợ thứ, có hôn thơ hôn thú hẳn hòi, bà ăn huê lợi mãn đời rồi các con mới có phép tương phân tài sản được; thằng Chí nó nói giống gì đưọc mà bà sợ. - Tôi là đàn bà, tôi không biết luật phép. Tôi sợ kiện thưa lắm. Nếu ông thương mẹ con tôi xin ông tính giùm trước cho yên. Thà là có giấy trắng mực đen vậy cho dễ. - Bây giờ bà muốn làm sao? - Thương ghét cũng nhờ ông, chớ tôi đâu dám muốn sự gì. - Tôi chết rồi bà lấy chồng khác hay không? Bà Kế hiền nghe ông hỏi như vậy thì bà khóc rống lên, rồi bà ngồi tấm tức tắm tửi mà nói rằng: “Vợ clồng ở với nhau hơn 20 năm nay, bây giờ tôi mới biết ông không thương tôi. Tôi tiếc vì con tôi nó còn khờ dại quá, chớ chi mà nó có gia thất như người ta, thì tôi chết phứt cho rồi, sống làm chi mà chồng nghi như vầy, thiệt xấu hổ hết sức”. Ông Kế hiền nói rằng: - Không phải tôi không thương bà. Bà năm nay mới có 38 tuổi, còn trẻ quá, tôi sợ ở góa mà nuôi con không được, bởi vậy tôi phải hỏi cho chắc đặng tôi có tinh chớ. - Nếu ông muốn tôi chết thì tôi chết liền bây giờ cho ông coi, đặng ông hết nghi nữa! - Chết làm chi? Bà không hiểu ý tôi. Vì tôi lo cho phận con, nên tôi mới hỏi như tôi chết bà ở vậy mà nuôi con hay là cải giá. Tôi lo về sau chớ nào phải tôi ghen tương gì hay sao? Tôi chết rồi thì bà làm sao tự ý bà, dầu bà lấy chồng khác, tôi lại cản được hay sao mà ghen. - Tôi thề trên có trời dưới có đất, hễ thằng Tứ nó học xong, tôi cưới vợ cho nó rồi thì tôi chết theo ông liền. Tôi lo cho con, chớ thân tôi mà kể gì. Tôi có phải như người ta vậy đâu. Tôi ăn cơm với muối cũng được, tôi không ham việc chi hết. Tôi sợ là sợ cho thằng Tứ, chừng ông nhắm mắt theo ông theo bà rồi thân nó đói rách tội nghiệp mà thôi chớ. Chưa gì mà tôi coi ý anh với chị nó hầm hầm, cha chả, chừng ông mất rồi nó chịu sao nổi. Ông nằm thiêm thiếp không nói nữa. Bà ngồi một bên thút thít khóc hồi. Ông thấy vậy bèn nói rằng: “Thôi, để thủng thẳng ít bữa rồi tôi sẽ tính”. Tuy ông nói ông tính mà không nghe ông tính với ai hết, chỉ có nghe bà vợ cứ òn ỹ nói dây ruộng nầy tối dây ruộng kia xấu, dây ruộng nầy phải chia cho con mình, dây ruộng kia phải trí phần dưỡng lão. Bà òn ỹ ít bữa rồi ông sai trẻ đi mời Hương chánh Dung, là người thông thạo 2 tuồng chữ, đến đặt giùm tờ chúc ngôn cho ông. Bà Kế hiền thấy Hương chánh Dung đến thì bà niềm nở tử tế, bà lén hứa với Hương chánh hễ đặt tờ rành rẽ thì bà sẽ thưởng công một trăm đồng bạc. Hương chánh Dung nghe có lợi thì ham, không kể chi là công lý, bởi vậy ông Kế hiền nói sơ lược đại ý của ông cho anh ta nghe rồi anh ta đặt tờ, chẳng những là đặt y theo lời ông dặn mà thôi, mà anh ta lại còn thêu dệt thêm chút đỉnh cho bà có lợi nữa. Tờ chúc ngôn đặt trọn một tuần lễ mới xong, đại khái nói như vầy: “Các con tuy 2 dòng, song vốn một cha sanh ra, bởi vậy dầu dòng chánh hay là dòng thứ cũng đồng con hết thảy nên hưởng gia tài phải hưởng đồng với nhau, ông Kế hiền đứng bộ cộng hết thảy được 500 mẫu điền. Ông trích ra 50 mẫu để làm phần hương hỏa của ông và bà vợ lớn, trí cho Trần Thượng Chí ăn huê lợi mà phụng tự. Ông trích ra 50 mẫu nữa để làm phần hương hỏa cho ông bà, trí cho Trần Thượng Tứ ăn huê lợi mà phụng tự. Ông trích thêm 100 mẫu để làm phần dưỡng lão cho vợ thứ là Lý Thị Nho, hễ bà sống thì bà hưởng huê lợi, chừng nào bà chết thì chia làm 2 phần, một phần về Trần Thượng Tứ ăn mà cúng quảy mẹ, còn một phần thì về hai người con dòng chánh. Còn lại 300 mẫu ông chia đồng cho ba con, trai gái mỗi đứa đều cũng được hưởng 100 mẫu”. Tờ chúc ngôn làm như vậy coi cũng chẳng thiệt hại hai đứa con dòng chánh cho lắm. Nhưng đoạn sau ông lại biểu thêm mấy câu rằng: Cái nhà ông ở đó lập làm nhà thờ giao cho Thượng Tứ ở mà phụng tự. Còn những ruộng đất ông chia cho các con đó, tuy mọi người đều được cải tên đứng bộ phần của mình, nhưng mà huê lợi phải để cho vợ thứ là Lý Thị Nho hưởng trọn đời chừng nào Thị Nho chết rồi, các con mới đưọc hưởng, nếu các con đứa nào không tuân ý cha, chừng cha chết rồi mà sanh chuyện kiện thưa, thì phải mang tội bất hiếu và bị cất phần ăn”. Chừng tờ làm xong rồi, ông Kế hiền mới cho kêu các con về ký tên và mời làng tổng đến thị nhận. Người con gái, là Trần Thị Ngọc, đọc tờ rồi cô khóc lóc than phiền cha chia không công bình; cô nói rằng công mẹ cô cực khổ mới gầy dựng ra sự nghiệp, mà bây giờ anh của cô hưởng không bằng con dòng thứ. Cô lại nói mẹ ghẻ của cô còn trẻ tuổi, lời giao chừng nào mẹ ghẻ qua đời rồi anh em cô mới được hưởng huê lợi, thế thì anh em cô không trông mong hưởng của cha mẹ đtrợc, bởi vì cô sợ anh em cô chết hết, mà bà kế mẫu cũng chưa qua đời. Cô làm lẫy xin cha giao hết ruộng đất cho bà kế mẫu làm chủ, anh em cô không lãng làm chi. Làng tổng ai nghe mấy lời phiền ấy cũng cho là hữu lý, duy có một mình ông Kế hiền ổng lại cho là lời ngỗ nghịch, ổng nhiếc om sòm, làm giận làm hờn, rồi lại rầy lây đến thầy Ban biện Thượng Chí, ông nói rằng thầy bày mưu cho em kháng cự với ông. Thầy Ban biện lấy làm phiền trong lòng, nhưng vì thấy cha có bịnh, thầy không dám cãi lẽ với cha. Thầy rầy áp em, rồi thầy giận lẫy, nên lấy viết ký tên phứt vào tờ chúc ngôn tương phân cho vừa lòng cha. Hà Trung Hậu, là chồng của cô Ngọc, sợ mang tiếng xúi vợ tranh gia tài, lại thấy Thượng Chí đã ký tên, nên nói với vợ rằng: “Cha mẹ là trờì biển, mình làm con chẳng nên phiền trách. Cha sanh mình và nuôi mình cho nên vai nên vóc, ơn ấy trọng quá, mình đã có làm điều chi mà đền bồi chút đỉnh hay chưa? Nay cha có bịnh sao mình lại làm cho cha buồn như vậy? May cha có ruộng đất để lại cho minh, mình chê nhiều chê ít, ví như cha nghèo để nợ lại cho mình, rồi mình nói thế nào nữa? Tôi khuyên mình đừng có trái ý cha. Ở đời, giàu nghèo tại ông trời, mình ham cho nhiều mà nếu ông trời không cho hưởng, thì mình cũng không giữ được đâu mà ham”. Cô Trần Thị Ngọc cầm viết ký tên, mà cô khóc và kêu mẹ cô nghe rất ghê gớm. Tổng làng ai thấy tình cảnh như vậy cũng đều động lòng. Tờ chúc ngôn tương phân đem đóng bách phân cầu chứng cải bộ vừa xong, thì ông Kế hiền Toại mất. * * * Ông Kế hiền Toại kiến thức theo xưa, cư xử theo xưa, thậm chí cái nhà của ông ở ông cất kiểu coi cũng xưa quá. Năm trước ông cất cái nhà tốn hơn mười ngàn đồng bạc. Hồi vỡ gỗ, ông tính cất ba căn hai chái bắt vần, nhờ có bà vợ ngăn cản, nói rằng cất rộng minh mông như nhà chợ ở sao cho hết, ông mới tóp bớt cái vòng chung quanh, duy còn để ba căn với hai chái. Nền xây cao tới một thước, cột gõ tròn năm tay, đuôi kèo chạm bát tiên, cửa cuốn gạch bán nguyệt. Nhà coi thì cao ráo khoản khoát, nhưng mà ở trong thì rộng minh mông. Phía trước dọn ba bàn thờ lót ba bộ ván gõ, gần cửa cái để một bộ ghế trường kỷ. Phía sau cũng lót ván gõ, hai cái buồng hai bên thì để hai cái giường cây với cái tủ áo và một cái tủ sắt lớn chớ chẳng có chứng dọn vật chi khác. Từ khi ông mất rồi, Thượng Tứ mắc ở học trên trường, bà Kế hiền ở nội, phía sau, còn phía trước bà đóng cửa hồi, bởi vậy ván ghế bụi đóng lớp lâu lớp mới coi mốc thích. Hôm nọ Thượng Tứ gởi thơ về nói cho mẹ hay rằng lúc nầy chàng sửa soạn thi bằng cấp tốt nghiệp. Bà Kế hiền nằm đêm thầm vái cho con thi đậu, đặng có tiếng tăm một chút, rồi bà lo vợ cho con. Bà vái và trông gần mười ngày rồi bà không được tin tức chi hết. Một buổi chiều, bà Kế hiền ăn cơm rồi, bà đương nằm trên võng đưa tòn ten mà trông tin con, thình lình con Mang, là đứa ở của bà, nó chạy vô thưa cho bà hay rằng cậu Tư về. Bà lật đật đứng dậy bước ra cửa sau, thiệt quả thấy Thượng Tứ ở ngồi cửa ngõ đương xâm xâm đi vô, sau lưng lại có một người vác rương đi theo. Bà cười ngỏn ngoẻn mà hỏi rằng: “Sao con về con không đánh dây thép cho má hay trước đặng má sai bầy trẻ lên Mỹ đón xe lửa mà rưởc?” Thượng Tứ thấy mẹ đã không mừng, mà nghe mẹ hỏi cũng không trả lời, cứ lầm lũi đi vô nhà. Bà Kế hiền và đi theo con và hỏi nữa rằng: “Hôm trước con nói con thi, vậy mà con thi đậu hay không, sao con không gởi thơ nữa cho má hay, để má trông dữ quá”. Thuợng Tứ cùng quằn đáp rằng: “Thi rớt rồi, gởi thơ làm giống gì”. Cậu và nói và quăng cái nón lên ván, rồi chấp tay sau đít đi qua đi lại, tiếng giày Tây chạm trên gạch tàu nghe lốp bốp. Bà Kế hiền nghe tin chẳng lành ấy thì bà ngơ ngẩn, liền bước lại ván ngồi lấy trầu têm ăn, mà mặt mày buồn hiu. Người vác cái rương bước rồi lum khum để dựa cửa. Thượng Tứ không thèm ngó tới, để anh nọ đứng xớ rớ một hồi lâu rồi mới nói rằng: “Má cho một đồng bạc đặng trả tiền xe chút má”. Bà Kế hiền đi mở tủ lấy bạc mà trao cho con. Thượng Tứ cho người vác rương tiền rồi người ấy xá mà lui ra. Thượng Tứ ăn cơm rồi leo lên võng mà nằm. Bà Kế hiền nằm trên bộ ván gần đó, chắc là trong trí bà lo lung lắm, nên bà gát tay qua trán mà ngó ngọn đèn, bà không nói chuyện chi hết. Mấy đứa ở dọn dẹp xong rồi, bèn coi đóng cửa trước cửa sau chặt chịa đặng đi ngủ. Chẳng hiểu bà Kế hiền lo tính làm sao, mà cách một hồi lâu bà vùng ngồi dậy và nói rằng: - Thôi, nếu con không chịu học nữa, con muốn cưới vợ, thì để má kiếm vợ cho. - Má kiếm ở đâu? Nè, tôi nói trước cho má biết, tôi không thèm thứ con gái ở đồng đa má. Má phải cưới con gái ở chợ, biết nói chuyện, thông chữ nghĩa, tôi mới chịu. Con gái đồng quê mùa quá, ai chịu cho nổi. - Mình ở đồng thì cưới con gái ở đồng, chớ kiếm đồ ở chợ về rồi nó biết làm giống gì. - Má tính cưới vợ cho tôi đặng má bắt trèo cau hay là phát cỏ hay sao? - Ai mà tính kỳ cục như vậy. Mà đều mình ở ruộng ở vườn, mình phải kiếm đứa biết công việc theo ruộng vườn, đặng nó coi sóc việc nhà, chớ cưới đứa ở chợ, nó biết đánh bóng sửa dáng, có biết việc gì đâu mà coi sóc. Má nghe nói ông Hội đồng Thưởng ở trên chợ Ông Văn còn một đứa con gái út năm nay mười tám tuổi mà chưa có chồng. Để má mượn thầy coi tuổi, như tốt thì má đi coi rồi má cậy mai nói mà cưới cho con. - Má thấy con đó hay chưa? - Má nghe họ nói chớ chưa ngó thấy. Họ nói con nhỏ đó giỏi dắn khéo léo lắm. - Không được đâu má. Con gái vườn quê mùa khó chịu lắm. Tôi muốn má nói con ông Phán Hương má cưới cho tôi. Cô ấy ngộ mà dễ thương lắm. - Ông Phản Hương nào ở đâu? Sao con biết? - Ổng ở trên Xóm Gà, phía trong Bà Chiểu một chút. Tôi có một đứa anh em bạn học, nó ở gần nhà ổng. Chúa nhựt tôi hay vô nhà nó tôi chơi nên tôi thấy con của ông Phán. - Ông Phán đó giàu hay nghèo? - Má hỏi chuyện đó làm chi không biết! Giàu làm chi, mà nghèo rồi sao? Hồi trước ổng làm việc sở Trường tiền. Bây giờ ổng hưu trí rồi về ở Xóm Gà. Tôi thấy ổng ở một cái nhà lá ba căn, vách ván sạch sẽ, thấy vậy thì hay vậy, chớ ai coi trong tủ ổng được mà biết ổng giàu hay nghèo. - Con là con nhà giàu có, con phải lựa chỗ cho xứng đáng mà cưới vợ. Má nghe nói ông Hội đồng Thưởng giàu hơn mình nhiều lắm, mà ổng không có con trai, có hai đứa con gái, đứa lớn gả lấy chồng rồi, nó về ở theo bên chồng nó, còn đứa nhỏ, vợ chồng ổng cưng lắm, tính gả bắt rể, nếu con sa vào đó con no lắm. - Tôi nghèo cực gì mà phải chui đầu theo bên vợ đặng ăn chực? Tôi không thèm đâu. - Con đừng có nói dại. Con giàu mà được vợ giàu lớn nữa thì càng quí chớ. - Ông Hội đồng đó gả con mà muốn bát rể, vậy chớ ổng đủ sức nuôi tôi hôn? - Sao lại không đủ sức! Ổng giàu lớn lắm mà; người ta nói ổng giàu bằng ba mình lận. - Tôi xài lớn lắm đa má à. Tôi sợ ổng chịu không nổi chớ. - Nếu con xài lớn, mà sao con lại đòi cưới con ông Phán nào đó, ổng nghèo rồi tiền bạc đâu có cho con xài. - Thà là cưới con ông phán nghèo, thì tôi xài tiền của tôi, chớ cưới con ông Hội đồng giàu, mà ổng lại giành phần nuôi rể nữa, thì ổng phải bao hết thảy chớ. - Được mà. Má nghe nói vợ chồng ông Hội đồng cưng con nhỏ đó lắm, giao hết chìa khoá cho nó cầm, xuất phát trong nhà một tay nó hết thảy. Nếu cưới rồi mà con làm cho vợ chồng ông Hội đồng thương con, thì tiền bạc thiếu gì mà con lo. Con ăn ở cho khôn khéo thì người ta mua ruộng đất để cho vợ chồng con đứng bộ riêng nữa a. - Tôi có vợ mà tôi ở theo bên vợ thì má ở nhà một mình rồi má làm sao? - Đây qua Ông Văn mà xa xắc gì. Con chạy qua chạy lại dễ ợt, có sao đâu mà lo. - Sao hồi nãy má nói má tính cưới vợ cho tôi đặng nó coi sóc việc nhà? Nếu cưới mà để nó ở bên nhà nó, thì có coi sóc việc gì được? - Nói thì phải nói như vậy, chớ việc nhà mình cần gì phải nó coi. Cần cho nó coi việc nhà bên nó đó, thì cũng như nó coi vìệc nhà của mình; bởi vì nó không có anh em trai, gia tài của cha rnẹ nó đó tức thị gia tài của nó với của con. - Tôi hiểu rồi. Má muốn cưới gia tài của ông Hội đồng Thưởng cho tôi. - Hễ con có vợ giàu thì tự nhiên con được hưởng nhờ chớ sao. - Má ham giàu quả! - Giàu mà không ham, chớ ham giống gì? - Có tiền đủ xài chơi cho sướng thân thì thôi, giàu mà làm gì! - Thì phải giàu mới có tiền đủ mà xài chớ! - Vậy chớ mình không có tiền hay sao? Cha chết cha để ruộng đất cho má hưởng huê lợi mỗi năm góp mười lăm mười bảy ngàn giạ lúa thiếu gì tiền mà phải ham nữa. - Mình có chút đỉnh, nếu có thêm nữa thì càng tốt chớ sao con. - Có nhiều rồi mà còn muốn có thêm nữa, còn những kẻ nghèo kia họ mới làm sao? - Họ làm sao họ làm, hơi đâu mà lo cho họ. Thượng Tứ nằm lặng thinh một hồi rồi mới nói rằng: “Tôi thấy họ nghèo tôi thương quá, như học ở trên trường có thằng Khả, con của ai ở Gò Công không biết, cha mẹ nó nghèo nên nó học mà coi bộ khổ không biết chừng nào. Nó bận áo vải quần vải mà rách rồi phải vá miếng nào miếng nấy bằng bàn tay. Từ đầu năm đến bãi trường không khi nào thấy nó cầm một miếng bánh mà ăn. Chúa nhựt cả trường ai cũng ra đi chơi, nó cứ ở lục thục trong truờng mà học, không dám đi đâu hết, có tiền đâu mà đi. Hôm thi rồi, nó được đậu mà nó không vui. Tôi thấy vậy tôi hỏi nó thì nó nói nó không có tiền nên không biết làm sao mà về, còn gởi thơ xin cha mẹ thì không biết cha mẹ có mà gởi lên cho hay không nên không dám xin. Tôi nghe nó than như vậy tôi động lòng, nên tôi còn tám đồng bạc tôi chia làm haì cho nó phân nửa. Nó cám ơn tôi quá mà nó lấy có hai đồng, nói rằng bao nhiêu đó thì đủ cho nó về tới nhà rồi, không cần nhiều hơn nữa. Không biết chừng tại cha mẹ thằng Khả nghèo, nên nó mới thi đậu đó đa má a”. Bà Kế hiền thở ra mà đáp rằng: - Con biết thương người ta, sao con không bắt chước người ta? Người ta nghèo cực mà người ta còn học được, còn con học tốn hao của cha mẹ không biết bao nhiêu, mà sao con học không nên? - Tại má a. - Sao mà tại má? - Tại má có tiền nhiều quá, má cho tôi hoài nên tôi mắc lo ăn xài, có học hành gì được. - Thôi, từ rày sắp lên má không cho con đồng nào nữa hết, cho con tiền thì con hư chớ có ích gì. - Ý, sao được! Từ hồi nào tới bây giờ tôi xài quen rồi, má không cho nữa sao được. Mà bây giờ cha mất rồi, tiền bạc về một tay má trước sau gì má cũng phải để cho tôi chớ để cho ai, chuyện gì mà hà tiện không cho tôi xài. Má mua cho tôi một cái xe hơi đi chơi má, mua xe nhỏ nhỏ, chừng vài ba ngàn. Có xe đặng tôi tập cầm bánh rồi chiều chiều tôi chở má lên Mỹ chơi chớ. - È! Mua xe cộ làm gì nà. - Ủa, có tiền thì xài cho sungg sướng tấm thân, chớ hà tiện rồi chừng chết đem theo được hay sao? - Sợ xài hết tiền rồi mà cũng chưa chết mới khổ chớ. - Thuở nay tôi tính trong trí tôi hoài, hễ ngày nào tôi hết tiền tôi chết liền, chớ sống mà nghèo khổ thì sống làm chi. - Con khéo nói bậy! Con đừng có se sua ăn xài lắm, người ta nói. - Ai nói? Nói cái gì? - Con xài phí se sua lắm rồi anh Hai với chị Ba con nó phân bì chớ. - Của tôi thì tôi xài, chớ tôi xài của ảnh chỉ hay sao mà ảnh chỉ nói? - Của thì là của chung, nhờ cha con thương mẹ con mình, để cho má ăn huê lợi mãn đời mà nuôi con, nếu mình làm quá anh chị con nó phiền biết hôn? - Má cho ảnh chỉ xài chung với thì có phiền gì được. - Cha chả! Ai có sức đâu mà bao cùng hết vậy cho nổi. - Tiền bạc của cha làm ra, anh Hai với chị Ba cũng là con, thì phải cho ảnh chỉ hưởng chút đỉnh chớ. - Nói chư con vậy sao được. Vậy chớ tờ di chúc của cha con đó, con không thấy hay sao? Chừng nào má chết rồi, ai muốn làm sao thì làm, chớ má còn sống thì má góp huê lợi, má không cho ai hết. - Má làm như vậy thì anh Hai con ảnh lấy gì ảnh xài? - Nó làm sao nó làm, má biết đâu. Để mãn tang rồi má giao 50 mẫu đất hương hỏa cho nó. Nó ăn cái đó mỗi năm cũng được gần vài ngàn giạ lúa, còn gì nữa. - Còn phần hương hỏa của tôi, má giao cho tôi không? - Không được. Con ở chung với má thì để má góp lúa đặng cúng quảy ông bà, giao cho con làm gì? - Má nói để má cưới vợ cho tôi rồi đễ tôi theo ở bên vợ. Vậy thì tôi có ở nhà đâu mà cúng quảy ông bà? - Hễ tới đám giỗ thì vợ chồng con về cúng. - Thì má phải để cho tôi góp lúa ruộng phần hương hỏa, tôi cúng mới được chớ. Nếu má không cho tôi ăn phần đó thì tôi lấy giống gì tôi xài. - Con ở bên vợ thì con xài tiền bên vợ chớ. - Coi kỳ lắm nà. Má không cho tôi thì tôi không thèm cưới vợ đâu. Mà không thôi phải cưới con, ông Phán Hương cho tôi thì tôi mới chịu, chớ tôi không ưng con ông Hội đồng. - Ờ, thôi để má cưới vợ cho con rồi má sẽ cho con ăn phần hương hỏa. - Đuợc như vậy thì tôi mới chịu. Hai mẹ con nói chuyện vớị nhau tới khuya rồi mới đi ngủ. CON NHÀ GIÀU Hồ Biểu Chánh www.dtv-ebook.com Chương 2 Làm mẹ ai cũng thương con, mà bà mẹ nào có một đứa con mà thôi, thì sự thương dồn trọn về đứa con ấy, tự nhiên cưng nó lung lắm. Nhưng mà cái thương nó có nhiều cách: người thương con thì lo răn dạy cho nó biết phải quấy dại khôn, đặng chừng nó lớn rồi, nó thông thạo đường đời, nó ham vui nhơn nghĩa, nó biết thờ cha kính mẹ, nó biết sợ anh thương em. Người thương con lại sợ con buồn lòng, bởi vậy nó muốn thế nào cũng làm theo thế nấy, dầu nó muốn làm quấy cũng chẳng chịu la rầy. Còn có kẻ thương con lại lo làm cho có bạc tiền ruộng đất mà để lại cho con, dầu làm nhơ nhuốc danh giá hay là khổ khắc người ta cũng bít lai nhắm mắt mà làm, miễn là cho có tiền được thì thôi, không kể lương tâm bây giờ hay quả báo ngày sau chút nào hết. Bà Kế hiền Lý Thị Nho thiệt là thương con, mà lại bà có một mình Thượng Tứ mà thôi, bởi vậy bà cưng thái quá. Con của bà thì bà thương bà cưng, cái đó là lẽ tự nhiên của trời đất, mà cũng là thường tình của con người, mình không có chỗ nào mà trách bà được. Tiếc vì bà thương con mà bà không biết dạy dỗ con. Từ khi sanh con ra rồi thì bà cứ lo mưu nầy tính kế nọ đặng làm cho con ngày sau có sẵn gia tài lớn mà hưởng, song chẳng hề khi nào bà dạy cho nó biết cách hưởng gia tài miên viễn. Mình đã ngó thấy Thượng Tứ thi rớt rồi không chịu học nữa, bà Kế hiền chẳng rầy con một tiếng nào hết, mà bà còn xúi con cưới vợ. Mà cưới vợ cho con chẳng phải bà tính kiếm con nhà hiền đức cho con kết đôi bạn đặng ở hủ hỉ với bà. Không, không phải như vậy. Cưới vợ cho con, bà tính kiếm thêm gia tài cho con nữa, dầu mà con phải lỗi đạo phụng tự ông bà, dầu mà con phải bỏ bà ở nhà tròi trọi một mình, đặng chui nhũi theo ăn chực của vợ, bà cũng không nệ, miễn là con được ruộng đất thêm nhiều thì bà vui lòng. Cách bà Kế hiền thương con tuy không hiệp với đạo nghĩa, song trùng theo cái thuật lý tài. Mà cách cậu Thượng Tứ làm con cưng, tuy chưa thấy lỗi niềm mẹ con, song đã có mòi hại về tài sản. Mẹ mới sửa soạn lập gia thất cho cậu thì cậu đã toan tính cách phá tiền. Chưa gì mà cậu đã đòi sắm xe hơi, cậu mong hưởng huê lợi ruộng hương hỏa. Mẹ thì lo thâu con thì tính xuất, tánh ý hai mẹ con khác nhau như trắng khác với đen. Nhưng mà nghĩ cho chí lý thì cũng nên khen thợ trời khéo sắp đặt, có người thâu thì phải có người xuất đặng đồng tiền vận chuyển, chớ thâu mà không xuất thì tiền bạc có ích gì, còn xuất mà không thâu thì lấy gì mà xuất? Mà người cưng con với người con cưng đối với nhau thiệt là ngộ lắm, ăn ở trong nhà, người nầy xướng bày ra việc nào thì người nọ nói trái liền, song trái thì một chút mà thôi, chớ chung cuộc rồi việc nào cũng xuôi thuận hết thảy. Bà Kế hiền cậy mai đi nói trước với vợ chồng ông Hội đồng Thưởng, rồì dắt Thượng Tứ qua coi con gái út của ông là cô Ba Mạnh. Tuy là con nhà giàu, nhưng mà cô Ba Mạnh so bề nhan sắc thì kém hơn nhiều cô gái khác. Cô to xương lớn vóc nên đi không có dáng yểu điệu. Cô da đen trán thấp, mà lại không biết trang điểm, nên gương mặt coi không được sáng láng. Thượng Tứ coi rồi chừng lên xe trở về thì cậu nói với mẹ rằng: “Nhà ông Hội đồng tốt, mà con gái của ổng xấu quá má à. Cưới vợ như vậy coi không được. Con nầy sánh với con của ông Phán Hương thì con kia mười còn nầy không có một”. Bà Kế hiền châu mày đáp rằng: “Con cứ so sánh tầm bậy hoài. Nhan sác ăn được hay sao mà ham nhan sắc. Người ta như vậy mà người ta nhiều tiền; con xài già đời cũng không hết, con cầu cho được vợ như vậy, khéo làm bộ”. Thượng Tứ thiệt tình chê cô Ba Mạnh chớ không phải làm bộ, bởi vậy trong mấy ngày sau mẹ hỏi thì cậu cứ không ưng hoài. Bà Kế hiền bảo mai nhơn hỏi dọ thì ý ông Hội đồng Thưởng chịu gả, song nài xin nuôi rể y như lời thiên hạ nói bấy lâu nay. Bà nghe người ta chịu gả thì bà càng nôn hơn nữa, nên theo ép uổng con hoài. Bà dùng đủ cách, bà viện đủ lẽ mà nói với con. Ban đầu bà òn ỹ khuyên dỗ. Thượng Tứ không chịu. Bà phải làm giận làm hờn. Thượng Tứ cũng không chịu. Bà ham cái gia tài của ông Hội đồng Thưởng lung quá, bà không thể bỏ mà đi kiếm làm sui chỗ khác được. Bà ăn ngủ không yên, bà lo tính hoài không biết dùng chước gì mà làm cho con xuôi thuận. Cùng thế rồi bà mới nói với con như con ưng chỗ đó dầu con muốn việc gì bà cũng cho hết thảy. Thượng Tứ nói: “Như má muốn cho tôi ưng con đó thì má phải mua cho tôi một cái xe hơi liền bây giờ đi, chừng tôi cưới vợ rồi má phải cho tôi ăn phần hương hỏa đặng tôi xài chơi, có vậy thì tôi mới chịu”. Bà Kế hiền cười và nói rằng: - Mẹ kiếp nó đỏng đảnh quá! Cưới vợ cho nó chớ phải cưới vợ cho tôi hay sao mà nó theo chún chứn với tôi như vầy không biết! - Mà má chịu hay không nè? Như không chịu thì thôi. - Con thấy cưng nó rồi nó làm núng quá! Thôi má cũng chìu lòng con một cái. - Như má chịu thì sáng mai má đi Sài Gòn với tôi đăng lựa mua một cái xe hơi. - Mua thì thủng thẳng rồi sẽ mua, chớ mua làm gì mà gấp dữ vậy? - Mua đặng đi chơi. Xưa rày về ở nhà buồn quá. Mua xe hơi phải tốn mấy ngàn đồng bạc. Bà Kế hiền dục dặc, nhưng vì bà nghĩ mình muốn làm sui chỗ giàu có, thì phải sắm xe hơi coi mới rôm rả, và làm như vậy con mình nó mới vui lòng. Bởi vậy bà dụ dự vài bữa rồi bà đi Sài Gòn vớí Thượng Tứ mà mua một cái xe hơi mới, 10 mã lực, 4 chỗ ngồi. Mua xe rồì, Thượng Tứ lấy làm đắc ý, kiếm mướn một người sớp-phơ, rồi mẹ con lên xe mà về. Bà Kế hiền ngồi xe hơi, bà cũng vui lòng, nên lúc đi dọc đường bà hỏi con rằng: - Con đòi xe hơi má mua đó, con vừa lòng hay chưa? - Tôi chịu lắm. Để về nhà rồi tôi biểu sớp-phơ dạy tôi cầm tay bánh chạy chơi. - Con thấy má cưng con là dường nào. Con muốn gì má cũng cho hết thảy. Vậy để má đi nói vợ cho con, con đừng có chún chứn nữa đa, nghe hôn. Thượg Tứ cười chúm chím. Thượng Tứ có xe hơi thì mê mẩn với cái xe, sớm mơi học cầm bánh, buổi chiều chạy lên Châu Thành chơi. Bà Kế hiền thấy con thuận tùng rồi, thì lo cưới vợ cho con; bà cậy mai dong nói riết với vợ chồng ông Hội đồng Thưởng, bên gái giao điều gì bà cũng chịu hết thảy, đến nỗi giao bắt rể bà cũng chịu nữa. Cưới đủ 3 bữa rồi, vợ chồng Thượng Tứ lo dọn mùng mền quần áo về ở bên nhà ông Hội đồng Thưởng, bà Kế hiền biểu con đem luôn cái xe về bển đặng vợ chồng qua lại mà thăm cho dễ. Lúc nầy Thượng Tứ cầm bánh xe hơi đã giỏi rồi. Mỗi buổi chiều, hễ ăn cơm rồi thì cậu biểu vợ thay đồ đặng lên xe đi chơi với cậu. Khi thì lên Mỹ Tho, khi thì qua Tân An, mà dầu đi nơi nào cũng là đi chơi, chớ không có ích chi mà cũng không thăm ai hết. Có khi bà Hội đồng thấy lâu quá, bà. nhắc con về mà thăm chị sui, thì Thượng Tứ mới dắt vợ về nhà, mà về nhà thì ở một giây một lát rồi Thượng Tứ kiếm chuyện đi, chớ chẳng hề chịu ở chơ trọn ngày với mẹ. Cô Ba Mạnh tuy kém phần nhan sắc, nhưng mà phần đức hạnh cô có dư. Có chồng chừng một tháng thì cô thấu đáo tâm tánh của chồng, cô biết chồng cô là một người ham du hí, ưa xài tiền, đối với vợ không có tình mặn nồng, đối với mẹ thiếu sót niềm cung kỉnh. Cô lấy làm buồn trong lòng, nhưng cô nghĩ phận gái 12 bến nước gặp trong thì nhờ, gặp đục thì chịu, nên cô đánh liều nhắm mắt đưa chơn, cô không than phiền mà cô cũng không đổi ý. Tuy vậy mà cô không muốn chiều theo ý chồng nữa, chồng ở theo chồng, cô ở theo cô. Chồng đi chơi, cô không đi theo, mà cô cũng không ngăn cản. Cô cứ lục thục xem xét việc nhà, lo cơm nước cho mẹ cha, lo thâu tiền góp lúa. Ở không mà đi chơi hoài, nhứt là đi chơi bằng xe hợi, thì tự nhiên hao tốn lung lắm Thượng Tứ đi chơi, chẳng những là tốn dầu tốn mỡ theo cái xe hơi mà thôi, mà đi nhiều ngày rồi lại còn cập bè cập bạn dắt vô khách sạn, rước ra cầu tàu, làm chủ xe hơi phải xài theo bực sang giàu, người ta kêu bằng “cậu Tư” phải chơi cho đúng đắn. Nhờ số tiền của anh chị bà con cho trong bữa hiệp cẩn và nhờ có phụ cấp thêm vài trăm đồng bạc đặng về ở bên vợ, nên trong mấy tuần lễ đầu cậu chơi hơi thong thả không cần phải ngó chừng cái túi tiền. Vả cái túi tiền của cậu không nặng gì cho lắm, mà cách ăn xài của cậu thì đổ tháo hời hợt, bởi vậy cậu đi chơi chẳng được bao lâu thì túi tiền đã trống trơn. Cậu về nhà hỏi mẹ xin tiền thì mẹ nói rằng: “Con xài việc gì mới có một tháng mà tiêu hết bốn năm trăm đồng bạc? Con ở theo bên vợ, thì con xin tiền bên vợ mà xài, chớ phải ở với má hay sao mà xin tiền má”. Bà Kế hiền đi cưới vợ cho con, bổn tâm bà muốn sang sớt của nhà sui đem về nhà bà, có lẽ nào cưới rồi mà bà còn chịu tốn tiền thêm nữa, bởi vậy Thượng Tứ nói hết lời mà bà cũng không cho, bà cứ biểu về xin bên vợ mà xài. Thượng Tứ thất vọng, nên cùng quằn nói rằng: - Má để của cho ai ăn mà má không chịu cho tôi xài hổng biết! Thôi, má giao phần ruộng hương hỏa cho tôi. - Rưộng đó con muốn bưng đi đâu thì bưng đi, má có cản đâu. - Bưng đi đâu! Tôi muốn lấy huê lợi chớ lấy ruộng sao được. Má giao huê lợi cho tôi. - Lúa mới trổ, có huê lợi đâu mà giao. Để ra giêng góp tiền rồi sẽ giao chớ. - Bây giờ không có tiền xài đây, để ra giêng sao được? - Thì má biểu con xin tiền cha mẹ vợ con mà xài. Ảnh chỉ giàu có, tiền bạc thiếu gì. Con muốn xài thì hỏi ảnh chỉ, chớ sao lại về rút rỉa má? - Mới cưới vợ mà xin tiền như vậy mắc cỡ quá, ai xin cho được. - Như con không dám hỏi ảnh chỉ thì con hỏi con Tư mà xin. Nó giữ chìa khóa, bạc tiền trong tay nó, nó muốn cho con bao nhiêu không được. Con dại quá, có vợ giàu mà không dám mở miệng hỏi vợ, để chạy về xin tiền nhà! Con về hỏi nó đi, con o bế nó, con muốn mấy ngàn cũng có mà. Thượng Tứ nghe lời mẹ, nên lên xe mà về chợ Ông Văn. Bữa ấy nhằm rằm tháng 10, buổi chiều trời trong, gió mát, làm cho ai cũng hớn hở trong lòng. Con nít ở Ông Văn tụ nhau lũ bảy đoàn ba, tốp thì lên cầu sắt đứng coi ghe, tốp thì lại sân chợ đánh đáo lổ, người lớn cũng không ở trong nhà, đàn ông thì đi dạo xóm mà nói chuyện, đàn bà thì bồng con ra cửa ngồi đút cơm. Thiên hạ vui vẻ như vậy đó, thậm chí vợ chồng ông Hội đồng Thưởng ăn cơm chiều rồi, thấy trời tối cũng biểu trẻ ở nhắc ghế, để ngoài sân đặng ngồi chơi. Có một mình cậu Thượng Tứ, không biết vui, cậu vô trong buồng nằm dàu dàu không muốn nói chuyện với ai hết. Cô Ba Mạnh tình cờ bước vô phòng, thấy chồng nằm trơ trơ thì hỏi rằng: “Bữa nay sao mình không đi chơi, lại nằm ở nhà đó?” Thượng Tứ lặng thinh một hồi rồi đáp rằng: - Hết tiền rồi, làm sao mà đi chơi cho được. - Đi chơi mà cần gì phải có tiền. - Không có tiền làm sao đổ dầu xăng cho xe chạy. Cô Ba Mạnh chúm chím cười. Cô bước lại cửa sổ mà ngó ra vườn một hồi, rồi cô day vô nhìn chồng rất nghiêm chỉnh mà nói rằng: “Tôi không hiểu tại sao mà mình ưa đi chơi quá. Đi chơi làm chi vậy? Đi chơi đã vô ích, mà có lẽ còn bị hại nữa. Đi chơi tốn tiền tốn bạc chẳng nói làm chi, tôi sợ bị anh em rủ ren rồi sa mê bài bạc, cái hại mới thiệt là lớn. Tuy thầy má không nỡ nói ra, chớ tôi coi ý thầy má thấy mình đi chơi hoài thầy má không vui chút nào hết. Tôi xin mình đừng có đi chơi nữa, ở nhà coi sóc giùm nhà cho thầy má”. Thượng Tứ nghe vợ khuyên lơn thì lồm cồm ngồi dậy hỏi rằng: - Ai biểu mình dạy khôn tôi đó? Hứ! Đời đã trở rồi mà không hay nữa chớ! Thuở nay chồng dạy vợ, bây giờ vợ trở lại dạy chồng! - Tôi nói chuyện phải quấy cho mình nghe vậy thôi chớ dạy giống gì. - Tôi không có dại hơn ai đâu. Mình đừng có làm thầy tôi. Thuở nay tôi đi chơi quen rồi, ở nhà lúng túng tôi chịu không nổi. - Thuở nay mình chưa có vợ thì đi chơi. Bây giờ có vợ rồi thì lo làm ăn, chớ chơi hoài rồi tiền đâu có mà chơi? - Làm ăn cái gì? Mình muốn tôi mang vòng hái đi gặt với họ, hay là chở dừa chở chuối đi bán? - Ai mà muốn kỳ nhự vậy, nghèo khổ gì mà đến nỗi phải đi gặt đi hái, hoặc bán chuối bán dừa. - Vậy chớ mình muốn làm ăn cách nào đâu, mình nói cho tôi nghe thử coi. - Tôi tính ra giêng thưa với thầy má để lại cho mình ít dây ruộng gần nhà đặng mình làm. Mình mướn bạn mua trâu mà làm thì bề nào mãn mùa cũng té ra được năm bảy trăm hoặc một ngàn giạ lúa. Mình làm như vậy trong ít năm có vốn rồi mình sẽ làm lớn hơn nữa. - Thôi, thôi. Tôi không chịu đâu. Ai biết làm ruộng mà bày chuyện cực khổ vậy nà! - Ở đất nầy muốn có tiền thì phải chịu cực. Chớ nếu không chịu cực thì tiền đâu có mà xài. Mà mình làm ruộng thì có bạn bè, mình coi sóc mà thôi, chớ cày cấy gi hay sao mà sợ cực. - Không có được. Tôi biết góp lúa, chớ tôi không biết làm ruộng. - Không chịu làm ruộng thì lúa đâu có mà góp? Mình nói nghe kỳ quá, muốn giàu mà không chịu làm. - Mấy kẻ nghèo thì họ phải làm cực khổ đặng có cơm mà ăn. Mình là con giàu có, dại gì mà phải đi làm cho mệt. - Nếu vậy, hễ con nhà giàu thì không nên làm ăn hay sao? Giàu cho mấy đi nữa, mà nếu không lo làm, cứ ở không đi chơi phá tiền hoài, thì dầu ruộng đất cò bay thẳng cánh đi nữa, tôi sợ cũng phải tiêu hết. - Mình có giỏi làm thì mình làm đi. Tôi đi chơi, chớ tôi không thèm làm việc gì hết. Cô Ba Mạnh hết muốn nói chuyện với chồng nữa. Cô lắc đầu rồi xoay lưng muốn đi ra. Thượng Tứ kêu cô lại mà nói rằng: “Đưa cho tôi ít trăm đồng bạc”. Cô chưng hửng, đứng ngó cậu mà nói rằng: - Bạc đâu có mà đưa? Vậy chớ bạc lạy với bạc má cho hôm về bên này đó mình làm tiêu hết rồi hay sao? - Hết rồi. - Cha chả! Xài giống gì mà bốn năm trăm đồng bạc mới hơn một tháng nay đã tiêu hết lận? - Tôi cho họ mượn. - Cho ai mượn ở đâu? Sao tôi không hay? - Mình không phép tra vấn tôi trong cuộc tôi ăn xài. Tôi không quen thói bo bo, có đồng nào cắc ca cắc củm bỏ ống đồng nấy như họ vậy được. Đời bày đồng tiền đồng bạc đặng cho mình xài, bởi vậy hễ có tiền thì xài, dại gì mà hà liện. - Xài thì xài, song xài phải cho có độ có lượng, chớ xài cố mạng nó tiêu hết rồi còn gì mà ăn? - Chưa hết đâu mà lo! - Dầu bây giờ chưa hết, thì một lát nữa nó cũng phải hết. - Thây kệ, chừng nào nó hết rồi sẽ hay. Bây giờ còn thì xài. - Mình còn thì mình xài đi, sao hỏi tôi nữa làm chi? - Của tôi hết rồi. - Hết thì thôi. Tôi có tiền bạc gì đâu mà mình biểu tôi đưa cho mình? - Mình giữ chìa khóa sao lại không có tiền? - Bạc tôi giữ đó là bạc của thầy má, chớ phải bạc của tôi hay sao? - Bạc của thầy má tửc thị bạc của mình chớ của ai? - Mình nói sao vậy? Bạc của thầy má là bạc của thầy má, chớ của tôi sao được? Mình coi của thiên hạ là của mình hết hay sao nên mình nói như vậy? - Mình là con trong nhà; bạc của cha mẹ là bạc của mình, trước sau gì mình cũng xài, bây giờ mình lấy mớ nhắm mình xài lại hại gì? - Mình muốn tôi ăn cắp bạc của thầy má mà đưa cho mình xài phải hôn? Không được. Tôi không chịu làm cái thói đó. Thuở nay tôi giữ tiền bạc không hề bao giờ tôi dám động tới rnột đồng xu. Như mình muốn có tiền mà xài thì mình thưa với thầy má mà xin. Chừng nào thầy má biểu đưa thì tôi đưa cho. - Ai mà xin kỳ cục vậy nà! - Mình không dám xin thì tôi làm sao dám cho. - Thội, mình xin gìùm cho tôi đi. - Ý, ai dám! Xin bây giờ biết nói sao mà xin. - Làm sao thì làm, không biết. Phải có tiền cho tôi đi chơi, bằng không thì tôi buồn đây tôi đánh mình chết. - Đánh thì đánh chớ biết làm sao cho có tiền. Thượng Tứ xụ mặt châu mày mà nói lầm bầm rằng: “Đồ mọi, biểu đưa ít trăm đồng bạc, nhiều lắm hay sao? Khéo làm bộ chó chết”. Cô Ba Mạnh thấy chồng trổ mòi thô lỗ thì cô chưng hửng; cô ngó chồng một cách rất khinh bỉ, rồi cô bỏ đi ra ngoài. Trời tối đã lâu rồi, mặt trăng rằm đã ló mọc, vợ chồng ông Hội đồng còn ngồi trước sân mà chơi. Cô Ba Mạnh đứng dựa cửa, ngó cha mẹ rồi ngó mặt trăng, cô lấy làm buồn cho mẹ cha mà cô cũng lấy làm thẹn với bà Nguyệt. * * * Cô Ba Mạnh là con gái nhà giàu ở thôn quê, hồi nhỏ có đi học tại trường trong làng, biết chữ quốc ngữ với bốn phép toán mà thôi, chớ cô không có học Nhà trắng hay là Nữ học đường mà biết nói tiếng Tây, biết dồi son phấn, biết đi giày cao gót, biết xách bóp tòn ten như con gái khác. Nhưng mà cô nhờ có cha hiền đức, lại nhờ có mẹ chín chắn, người dạy luân lý, kẻ tập nết na nên dầu chỗ kiến thức của cô không được rộng xa, chớ lòng cô kính thờ cha mẹ, cách cô giao tiếp người trong xóm trong làng, cùng là cách cô cư xử với bạn bè tôi tớ, mỗi mỗi đều đúng đắn hết thảy. Trong gia đình chẳng có một việc nào mà cô không dòm ngó, cô coi nấu nướng dưới nhà dưới, cô coi quét dọn trên nhà trên, bởi vậy từ khi cô mới 15 tuổi thì cha mẹ đã giao hết việc trong nhà cho cô quản suất. Ngày thường thì cô cầm chìa khóa tủ cây tủ sắt hết thảy, đến mùa lúa thì cô coi thẻ mà thâu lúa ruộng vào kho. Bạc tiền bao nhiêu một tay cô giữ gìn; lúa thóc bao nhiêu cũng một tay cô cầm sổ, thuở nay những người trong làng trong tổng thấy ông Hội đồng có con giỏi giắn như vậy thì ai ai cũng cho ông là người có phước. Cũng một người đó mà đối với cha mẹ thì cha mẹ có phưóc, còn đối với chồng sao chồng lại mắng là mọi rợ. Thuở nay cô Ba Mạnh chưa từng nghe ai nói với cô một tiếng nặng nề. Cô có chồng chưa được mấy ngày, lại cô cũng chẳng có làm việc chi quấy mấy mà chồng mắng là “đồ mọi”; cô nhớ tới hai tiếng ấy thì cô đau đớn tức tủi trong lòng, chẳng khác nào như chim bị tên, như hoa héo nắng. Sự đau đớn tức tủi nầy có nên tỏ cho cha mẹ biết, hay là phải giấu giếm để than trộm khóc thầm? Tỏ cho cha mẹ biết thì làm buồn cho cha mẹ, để giấu giếm khóc thầm thì càng nhọc cho trí mình. Mạng số mình phải gặp người chồng du hí du thực, phá của phá tiền, không biết lễ nghi, ăn nói thô lỗ, thì mình cũng nên cười mà chịu, chớ tỏ với ai làm chi mà cũng chẳng nên than phiền làm chi. Cô Ba Mạnh đốt đèn bưng vào phòng, cô thấy Thượng Tứ còn nằm trên giường, cô bèn móc túi lấy hai cái giấy năm đồng mà đưa và nói rằng: “Tôi có mười đồng bạc riêng của tôi đây, mình có muốn đi chơi thì lấy mà đi, chớ tôi không còn đâu nữa”. Thượng Tứ giựt hai tấm giấy bạc xé tan xé nát mà quăng dưới đất và nói rằng: “Tao có phải ăn mày đâu, nên xin năm mười đồng bạc. Đừng có khinh dễ tao. Mặt nầy sướng lắm mà, để rồi coi thì biết”. Chồng vụt chạt bỉ bạt như vậy mà cô Ba Mạnh không giận, cô cười ngỏn ngoẻn và nói êm ái rằng: - Tôi có bao nhiêu thì tôi đưa bao nhiêu. Tôi không có nhiều nữa, tôi biết làm sao. - Nín. Đừng có tưởng mặt nầy mê ăn của vợ. Không thèm đâu. - Tôi có nói mình ăn của vợ bao giờ đâu mà mình giận tôi. Thượng Tứ ngồi dậy rồi mang giày và lấy áo quần Tây mà mặc. Cô Ba Mạnh thấy bộ chồng quạu quọ, sợ đứng đó chắng khỏi bị mắng nữa, nên cô quày quả bỏ đi ra. Thượng Tứ thay đồ rồi cậu đi xuống nhà sau, quây máy xe hơi mà đi, không thèm trình cho cha mẹ vợ biết cậu đi đâu. Bà Hội đồng ngó théo cái xe và nói rằng: “Thẳng đi đâu mà bữa nào nó cũng đi hoài vậy không biết”. Ông Hội đồng thở ra mà ông không trả lời. Ông đứng dậy bỏ đi vô nhà, bà kêu trẻ biểu dẹp ghế rồi cũng theo ông mà vô. Bà bước tới cửa, bà thấy con đương ngồi trên ván mà lau nước mắt, thì bà hỏi rằng: “Thằng Ba nó đi đâu vậy con? Bữa nay tối rồi tưởng nó ở nhà, té ra nó cũng đi nữa”. Cô Ba Mạnh đương khóc thầm cho thân phận, thình lình thấy cha mẹ vô và nghe hỏi như vây, cô lật đật giấu buồn giả vui mà đáp rằng: - Đi về bên nhà hay là đi chơi không biết nữa. - Con làm giống gì mà bữa nay bộ con buồn dữ vậy? Thế khi vợ chồng gây lộn vời nhau đây chớ gì, phải hôn? - Thưa, không. - Vậy chớ sao mà thẳng ngoe ngoảy lên xe mà đi, còn con ngồi đây con khóc? Hay là con thấy nó đi hoài nên con buồn? Cô Ba Mạnh ngồi nín khe, không trả lời. Ông Hội đồng ngồi bên bộ ghế giữa vấn thuốc mà hút, ông nghe bà hỏi như vậy thì ông day qua ngó con mà nói rằng: “Thầy nghe thằng đó cặp bè cặp bạn, rồi chơi bậy bạ lắm. Sao con không khuyên dứt nó? Đời nầy chơi riết rồi hư thân chớ có ích gì”. Cô Ba Mạnh thiệt muốn giấu tâm sự, ngặt vì cô đương ức trong lòng mà mẹ cha lại theo bươi móc chỗ uất ấy nữa, làm cho cô không thế dằn được, nên cô và khóc và nói rằng: “Con khuyên dứt sao được. Con mới mở miệng thì mắng trước con, có nói phải quấy gì được đâu. Mới biểu con mở tủ lấy đưa ít trăm đồng bạc đặng đi chơi, con không nghe lời, giận. mắng con rồi bỏ đi đó. Để con trao chìa khóa cho má giữ, chớ để con giữ cứ theo biểu mở tủ đưa tiền hoài, con chịu không nổi”. Ông Hội đồng thở ra rồi bỏ đi ra cửa mà đứng. Cô Ba Mạnh móc túi lấy xâu chìa khóa để trước mặt mẹ rồi cô đi vô buông. Bà Hội đồng ngồi ngó ngọn đèn rồi lắc đầu nói răng: “Con vô phước quá, ai có dè đâu!” Thương Tứ hết tiền rồì, đi chơi sao được. Cậu cầm tay bánh xe chạy về Mỹ Hội, tính đòi tiền mẹ. Bà Kế hiền nghe xe vô cửa bóp kèn te te, bà tưởng con dâu thừa trăng thanh gió mát về thăm bà, nên bà hối mấy đứa bạn mở cửa đốt đèn lăng xăng. Chừng bà thấy có một mình Thượng Tứ bước vô thì bà hỏi rằng: - Không có cỏn về hay sao? - Không - Sao không dắt nó về chơi? - Thứ đồ đó mà dắt đi đâu kìa! - Con đừng có đánh phách, có vợ được như vậy còn kêu người ta thứ đồ kia thứ đồ nọ nữa! - Nó quí với má, chớ quí với ai! Bà Kế hiền chưng hửng, trong lòng nghi con với dâu gây lộn rồi, song bà chưa kịp hỏi, thì Thượng Tứ đẵ nói rằng: “Má cho tôi năm trăm, má”. Bà càng chưng hửng hơn nữa. Bà hỏi rằng: - Năm trăm gì? - Năm trăm đồng bạc chớ năm trăm gì. - Trời ôi! Bạc đâu có mà cho dữ vậy! Con xin mà làm việc gì? - Tôi có chuyện dùng. - Chuyện gì? - Chuyện gì thây kệ tôi, má hỏi làm chi hổng biết. - Tao không có bạc. - Má nói không có, thôi má đưa chìa khóa cho tôi mở tủ coi có hay không. - Chuyện gì lại phải để cho mầy xét tủ nữa! Vợ mầy thiếu gì tiền, tao biểu hỏi nó lấy mà xài, dại không dám mở miệng thì thôi, ai có tiền đâu mà xin. - Nó nói nó không có tiền. - Nó làm nghề gì mà có tiền? Tiền của cha mẹ nó để trong tủ, nó cầm chìa khóa, biều nó lấy nó đưa cho chớ. - Thứ đồ ngu, nó nói nó không dám lấy tiền trong tủ. - Nó làm bộ vậy chớ gì. Ta biểu o bế nó chớ. Nó thương mầy bây giờ biểu nó l móc ruột nó cũng móc, chẳng luận là lấy tiền. - O bế cái gì! O bế sao được. Rất đổi tôi mắng nhiếc, tôi đòi đánh nó kia, nó còn chưa chịu đưa tllay. - Con thiệt dại quá! Ai biểu con mắng nhiếc nó? Tại con rầy nó, nên nó giận nó chẳng không đưa. Con về o bế nó đi. - Thôi, không thèm. Má cho tiền tôi xài hè, lấy tiền của vợ họ khi dễ. - Con dại quá! Có nhiều người lớn đại mà họ còn ăn chực của đàn bà kia sao, thứ con là con nít ai khinh dễ mà sợ. Nếu con sợ họ cười, thôi con đừng có đi chơi. - Không đi chơi sao.được. Bà Kế hiền không trả lời nữa.Thượng Tứ ngồi ngó mẹ một hồi rồi nói rằng: - Thôi, má cho đỡ ba trăm mà thôi. - Ta nói không có tiền! Sắm xe hơi làm đám cưới, tốn hao thất kinh. Tiền đâu còn mà xin năm trăm ba trăm. - Thiệt má không chịu cho hay sao? - không cho. - Thôi, má để dành đó đặng chừng má chết má đem theo nghé. Tôi không thèm xin nữa đâu. - Trời ơi! Thằng Tứ nó rủa tôi chớ! Con quá rồi! Thượng Tứ ngoe ngoảy bỏ leo lên xe mà đi, không thèm nói nữa. Cái thái độ của con đối với mẹ dường ấy mà bà Kế hiền cười được, sắc mặt bà không lộ một chút giận nào hết. Trong số bậu bạn của Thượng Tứ hay chơi bời trên chợ Mỹ Tho, dúy có thầy thông Hàng thì Thượng Tứ ưa hơn hết. Thầy thông Hàng tuổi đã trên 30, thầy có vợ có con, thầy lịch lãm ăn chơi, hút á phiện cũng biết, bài bạc thứ nào cũng biết, mà bọn bán phấn buôn hương đứa nào thầy cũng biết hết thảy. Thượng Tứ ưa thầy là tại sự thông thạo của thầy đó, mà nhứt là tại tánh thầy ôn hòa, trong mấy cuộc chơi, dầu ngồi uống rượu, hay là nằm nghe đờn, thầy đều êm ái nghiêm trang, không cười lả lơi, không nói thô tục, mà lại hay chỉ chỗ khôn chỗ dại cho anh em, đặng khỏi mang tiếng quê mùa và khỏi bị người lừa gạt. Thượng Tứ bữa đó xin tiền vợ không được, rồi xin tiền mẹ cũng không được nữa thì nổi giận, bởi vậy dông xe tuốt lên Mỹ Tho mà kiếm thầy thông Hàng. Cậu vừa ngừng, xe trước cửa, thì thấy thầy thông Hàng mình mặc đồ lụa, tay cầm ba ton, miệng ngậm xi gà, đầu đội nón nỉ, trong nhà bước ra mà đi chơi. Anh em chào hỏi mừng rỡ, rồi Thượng Tứ mời thầy thông Hàng lên xe đặng chạy xuống cầu tàu ngồi hứng mát. Lúc ấy đã gần 9 giờ. Trên trời mảnh trăng vặc vặc, đưới sông dòng nước nao nao, trăng dọi nước lòa lòa, nước gặp gió dợn dợn. Cái cảnh gió trăng trời nước ấy, khách thanh tao ai nhắm vào cũng đều hớn hở trong lòng. Thượng Tứ mắc có một việc riêng trong trí, bởi vậy cậu chẳng kể cảnh, cậu chẳng động tình chút nào hết; xe vừa đậu ngay cầu tàu, cậu liền nói với thầy thông Hàng rằng: - Tôi giận vợ tôi quá, nên tôi xách xe tôi đi đây. - Sao mà giận? - Thầy nghĩ đó coi, mình hết tiền xài, biểu nó đưa ít trăm đồng bạc, nó đưa 10 đồng! Tôi ghét tôi xé tôi quăng rồi tôi đi. - Cậu xài quá, mà cậu trách mợ nỗi gì. Nếu cậu hỏi bao nhiêu mợ đưa đủ bấy nhiêu, tôi sợ của kho bạc đây cũng không đủ mà đưa cho cậu. - Giống gì mà tới của Kho bạc lận! Ông già vợ tôi thiếu gì tiền, tại nó khinh thị tôi chớ. Mà bà già tôi cũng vậy nữa. Tôi về tôi xin cũng không chịu cho. Tôi nhứt định không thèm xin ai nữa, để tôi vay tôi xài coi họ làm sao. Thầy biết bên này co ai cho vay hay không? Thầy biết xỉn chỉ giùm cho tôi vay một ngàn. - Có tiền xài chơi, không tiền thì thôi. Vay hỏi người ta làm chi cậu. - Thây kệ tôi mà. - Không có được. Thuở nay chơi với anh em, tôi không chịu để cho anh em làm như vậy. Có người ta cho vay thiếu gì. Nhứt là cậu giàu có, bên cậu cũng giàu, mà bên vợ cũng giàu, cậu lại có đứng bộ ruộng đất riêng nữa, bây giờ cậu muốn vay một muôn cũng có người cho, chẳng luận là một ngàn. Song cậu đừng có làm như vậy. Tưởng là muốn buôn bán làm ăn thì vay chẳng nói chi chớ vay đặng xài chơi thì bậy quá mà. - Tôi cũng biết vay tiền đặng xài bậy là một điều không tốt. Nhưng mà tôi nghĩ sự xài bậy của tôi đó cũng có chỗ hữu ich lắm chở. - Xài bậy mà hữu ích nỗi gì? - Ậy, để tôi cắt nghĩa cho thầy nghe. Tôi còn nhỏ tuổi, mà tôi là con nhà giàu. Tôi đã có một cái gia tài rồi, mà vợ tôi một ngày kia nó lại lãnh thêm một cái gia tài bên nó còn lớn hơn của tôi nữa. Ai cũng thấy trong năm mười năm nữa tôi sẽ trở nên một người giàu lớn. Sự đó đã chắc chắn rồi, bởi vậy cho nên tôi lo lắm. Làm một anh chàng giàu phải biết khôn biết dại chớ nếu lờ khờ thì họ lột da còn gì. Mình cũng thường thấy có nhiều cậu nhà giàu ló đến đâu đều bị họ hiếp đáp lừa gạt. Cái đó là tại không chịu học trước cái nghề nhà giàu nên mới bị hại. Tôi muốn tránh cái hại ấy, nên tôi tính bây giờ còn nhỏ phải chơi bời cho biết dại biết khôn với người ta, đặng sau khỏi bị người ta lừa gạt. Thầy nghĩ đó coi, bây giờ mình chịu tốn một đôi ngàn mà mua cái khôn, rồi sau mình khỏi mất năm bảy muôn, không phải tốn chút đỉnh bây giờ đó là hữu ích hay sao? - Cậu nhỏ tuổi mà trí cậu cao quá. Thiệt tôi phục cậu ngay! Phải! Câu nói phải lắm. Nhiều người giàu có, vì không chơi bời, không giao tiếp không thông thạo, nên mới bị họ mưu sự mà cướp hết gia tài. Cậu tính khôn thiệt, vậy mà mợ với bác không hiểu, lại cản trở cậu chở! - Thầy là anh em, thầy phải nói cho ngay, đừng có vị bụng tôi. Tôi chơi xưa rày đó có quấy chỗ nào hay không? - Theo như cậu tính đó, thì cậu chơi có ích về sau chớ quấy cái gì. - Vậy thì thầy phải kiếm chỗ vay bạc giùm cho tôi. - Vậy thì cũng được, nhưng, mà tôi muốn cậu về cắt nghĩa lợi hại cho mợ hoặc bác hiểu rồi lấy tiền nhà mà xài, tiện hơn là đi vay của người ta. - Tôi đã nhứt định không thèm xin tiền nhà nữa. Họ coi đồng bạc bằng cái bánh xe, hỏi làm gì? - Ở đây có ông Giáo Chuột ổng cho vay lớn. Có người vay đến năm bảy ngàn hoặc một muôn ổng cũng cho nữa, song ổng hay buộc thế bằng khoán đất quá. - Tòi có đất mà tôi không có bằng khoán làm sao mà thế? - Không. Tôi nghe nói ông hồi trước có làm chúc ngôn tương phân rồi. Cậu đem bổn tờ tương phân cậu đưa cho ổng thì xong, có khó gì. - Trời ơi tờ tương phân má tôi giữ, tôi lấy sao được. Nếu tôi hỏi thì bể chuyện còn gì. - Được, được. Tôi tính được. Cậu liều tốn ít đồng bạc, cậu làm đơn đem vô Tòa bố mà xin sao lục tờ tương phân. Hễ có bổn tờ rồi cậu thế cho ai cũng được hết thảy. - Vậy thì xin sao lục tiện hơn. Bây giờ còn sớm, thôi hai anh em mình lại nhà ông Giáo Chuột mà nói chuyện coi ổng chịu cho hay không. Như ổng chịu mà ổng buộc phải để bằng khoán thế chưn thì sáng mai tôi sẽ làm đơn tôi xin. - Ổng hút nên ổng thức khuya lắm. Cậu muốn tới nhà ổng liền bây giờ cũng được. Nè, ông già đó có một đứa con gái mười tám mười chín tuổi coi bảnh lắm. Tôi dặn trước cậu, hễ vô đó thì đừng có đảo nhãn con ổng nghe hôn. Nếu cậu đảo nhãn, ổng ghét ổng không cho vay thì cậu chịu đa. - Ai mà thèm. - Cậu nói chắc hôn? Câu nói giỏi để cậu thấy rồi coi cậu có thèm hay không mà! Thượng Tứ cười rồi quây xe mà đi vô nhà ông Giáo Chuột. CON NHÀ GIÀU Hồ Biểu Chánh www.dtv-ebook.com Chương 3 Ông Giáo Chuột làm thầy giáo hồi nào, dạy trường nào ở đâu không ai biết. Cách chừng 20 năm trước, người ta thấy ông lại hỏi mướn một miếng đất phía trên chợ Mỹ Tho, dựa mé sông Cầu Quây, rồi ông cất một cái nhà lá nhỏ mà ở. Lúc ấy không thấy có vợ con chi hết, mà nói chuyện với người trong xóm ông hay khoe tài ông dạy bọc giỏi, bất luận con nít sáng dạ hay là tối dạ, hễ giao cho ông dạy trong ba tháng thì biết đọc chữ quốc ngữ lẹ làng, bởi vậy người ta chắc ông làm thầy dạy học, nên kêu ông là “thầy giáo”. Nay ông đã trên 50 tuổi rồi, tóc bạc hoa râm, răng rụng hết mấy cáì, mà ông lại mang bịnh hút, làm cho hình dạng ông ốm, da mặt ông dùn, coi bộ ông già nên người ta mới kêu ông là “ông Giáo”. Khi ông mới về ở đó, thì nhà cửa ông dọn dẹp tầm thường, cách ăn ở ông không hời hợt cho lắm. Ông ở đó được vài năm, rồi ông dắt một người đàn bà về ở với ông, mà người đàn bà ấy lại có bồng một đứa con gái mới sanh chừng một vài tháng. Người lối xóm cũng không biết người đàn bà ấy là ai, song cách ít ngày nghe ông kêu người ấy bằng “mình”, nghe kêu con ấy bằng “con” thì người ta mới hay là vợ của ông. Từ ngày có hai mẹ con người đàn bà ấy về ở, thì ông mua sắm đồ đạt trong nhà lần lần; cách ít năm ông triệt cái nhà lá mà cất nhà ngói ba căn, nền đúc, cửa cuốn, vách tường, ông ở cho tới bây giờ đó. Còn đứa con gái tên là Hẩu, được chín mười tuổi, thì người mẹ chết, để con nhỏ lại cho ông nuôi. Từ ấy ông mới khởi cho vay đặt nợ, nhà ông khách mới thường tới lui, song không thấy ông đem người đàn bà nào khác về nhà mà ở nữa. Đến ngày nay cô Hẩu đã được mười tám tuổi rồi, cô kêu ông bằng “ba”, ông kêu cô bằng “con”, cha con ở với nhau, không nghe ông tính gả cô lấy chồng, mà cũng không nghe cô phiền trách ông việc gì hết. Thầy thông Hằng dắt cậu Thượng Tứ vô nhà ông Giáo Chuột, đi dọc đường thầy sợ ông Giáo Chuột đã đóng cửa ngủ rồi. Chừng xe ngừng, thầy dòm vô nhà, thấy cửa còn mở, đèn còn sáng, thầy bèn nói với cậu rằng: “May quá, ông già còn thức. Để xe đây, hai anh em mình vô”. Thượng Tứ dục dặc, muốn để cho thầy thông Hàng vô một mình. Thầy thông không chịu, thầy ép cậu phải đi theo và thầy hứa hễ vô nhà thầy lãnh nói giùm, cậu khỏi nói tiếng chi hết. Hai người bước vô tới sân, thấy cô Hai Hẩu mặc quần lục soạn trắng, áo bà ba cũng bằng lụa trắng, đương ngồi trên một cái ghế mây dựa bụi cau vàng mà ăn mía. Thầy thông Hàng tới lui nhà nầy thường, bởi vậy thầy ngó thấy cô Hai Hẩu thì thầy hỏi rằng: “Có ông Giáo ở nhà hay không cô Hai?”. Cô Hai Hẩu đứng dậy cúi đầu mà chào và đáp rằng: “Thưa, có ba tôi ở trong nhà”. Trăng tỏ rạng, lại thêm bóng đèn trong nhà dọi ra nữa, bởi vậy cậu Thượng Tứ thấy mặt cô Hai Hẩu rõ ràng, thiệt là quốc sắc thiên hương, cái tiếng “bảnh” của thầy thông Hàng nói hồi nãy đó là đúng chớ không phải nói dối. Hai anh em bước vô nhà, thấy ông Giáo Chuột nằm vích đốc trên cái giường phía tay trái đương làm thuốc á phiện mà hút, mình mặc áo lá, còn quần thì vén ống lên trên bắp vế. Ông Giáo Chuột thấy có khách, lật đật buông ống hút, ngóc đầu dậy mà dòm. Thầy thông Hàng liền hỏi rằng: “Ông mạnh giỏi ông Giáo há?” Ông Giáo lồm cồm ngồi dậy, rút cặp mắt kiếng và ngó thầy thông Hàng mà nói rằng: “Ủa! Thầy thông! Vậy mà tôi không biết chớ!”. Ông thấy có một thầy lạ đi theo thầy thông, ông không biết là ai, ông sợ thất lễ nên lật đật bước lại giá áo (1) lấy một cái áo lụa trắng mà mặc, rồi mời khách ngồi lăng xăng. Thầy thông Hàng nói rằng: “Ông đừng có làm chộn rộn thất công. Ông nằm xuống đó mà hút đi, để hai anh em tôi nhắc ghế lại ngồi dựa bên giường đây nói chuyện chơi cũng được mà”. Thầy để ba ton với nón nỉ trên bàn, rồi hai tay xách hai cái ghế mây mà đi lại chỗ ông Giáo hút. ----- (1) Nơi máng áo Ông Giáo cười và nói rằng: “Ờ, muốn như vậy cũng được. Thôi mời hai thầy đi ngay lại đây nói chuyện chơi. Xin lỗi, cho tôi làm điếu thuốc cho rồi, kẻo để lâu nó chai”. Thầy thông Hàng đáp rằng: “Được, được, ông cứ việc làm đi mà”. Ông Giáo leo lên giường, mang cặp mắt kiếng vô rồi nằm xuống cầm cây tiêm mà nhồi tiếp điếu thuốc. Thầy thông Hàng để hai cái ghế dựa bên giường, thầy mời cậu Thượng Tứ ngồi đó, còn thầy leo lên giường nằm ngang với ông Giáo. Ông Giáo tay cầm thuốc, mà miệng hỏi rằng: “Thầy đây mới đổi lại hay là ở đâu lại thăm thầy?”. Thầy thông đáp rằng: “Cậu Tư đây là em của thầy Ban Biện Chí ở dưới Mỹ Hội, ông không biết hay sao?”. Ông Giáo ngóc đầu mà dòm Thượng Tứ rồi nói rằng: - Vậy hay sao? Tôi biết thầy ban lắm, thẩy ghé thăm tôi hoài, còn cậu đây thuở nay tôi chưa gặp lần nào, nên tôi không biết. - Cậu lên đi chơi với tôi; xe chạy ngang qua đây, thấy ông còn thức, nên tôi rủ cậu ghé thăm ông chơi. - Trăng bữa nay tỏ quá. - Ông muốn đi chơi hay không? Như ông muốn thì hút hết ít điều rồi đi chơi với hai đứa tôi. Có xe hơi của cậu Tư đây. - Tôi già cả rồi, theo mấy ông sao kịp. Hút đã rồi thì lo ngủ, chớ chơi bời giống gì. Ông lăng điếu thuốc đúng rồi, ông gắn vô nồi và mời hai thầy hút. Khách cứ từ hoài, ông mới ngồi vô đèn mà kéo. Lúc ấy có một con nhỏ ở trong nhà bưng hai tách nước đem lại để trước mặt Thượng Tứ, còn cô Hai Hẩu thì đi guốc lốp cốp ở phía đằng kia. Thượng Tứ tới nhà lạ, mà lại tới mà vay bạc, bởi vậy cậu bợ ngợ, không biết chuyện chi mà nói, nghe cô Hai Hẩu đi guốc thì cậu cứ day lại mà ngó hoài. Ông Giáo Chuột nằm hút, mà ông liếc mắt thấy Thượng Tứ dòm con ông mấy lần, ông nghi thầy thông Hàng dắt cậu này tới đặng coi con ông, ông toan kiếm chước mà đuổi đi phứt cho rồi, bởi vậy ông hút hết điếu thuốc rồi ông liền nói với thầy thông Hằng rằng: - Còn một trăm đồng bạc của tôi đó thầy tính sao thầy thông? Quá kỳ đã gần nửa tháng rồi, thầy cho tôi đặng tôi xài chớ. - Thua muốn chết, làm sao mà trả được, ông! Xin ông chịu phiền đầu năm lãnh tiền viết bộ rồi tôi sẽ trả, chớ biết làm sao bây giờ. - Lúc này tôi túng quá. Thầy phải lo cho tôi xài chớ. - Ông mà túng nỗi gì không biết. - Thiệt chớ. - Ối! Ông nói ai mà tin cho nổi! Ông đưa chìa khóa cho tôi mở tủ sắt, nếu không có trên mười ngàn đồng bạc thì chém tôi, tôi cũng chịu. - Đâu mà có. Tháng này mà tiền bạc đâu có nhiều dữ vậy. - Phải. Tháng này họ chưa trả bạc cho ông. Mà tôi biết trong nhà ông có bạc nhiều lắm mà. Nầy, ông Giáo, cậu Tư đây có chuyện cần dùng gấp, nên cậu cậy tôi nói với ông làm ơn giúp cho cậu một ngàn đồng bạc. Ông tính coi có giúp được hay không? Ông Giáo Chuột ngồi dậy, rót một hớp nước trà mà uống, ông liếc ngó Thượng Tứ rồi nói rằng: “Tháng này trễ quá, bạc tôi cho ra hết rồi còn đâu mà giúp. Sao không hỏi Xã tri, nó có bạc thiếu gì?”. Thầy thông Hàng cũng ngồi dậy đáp rằng: - Hỏi thứ Chà khó lòng quá, ai mà thèm hỏi. Ông giúp giùm cho cậu Tư đi mà. Bộ ông sợ hay sao? Cậu là con của ông Kế Hiền ở dưới Mỹ Hội. Ông Kế Hiền mất rồi, bây giờ phần ăn của cậu tới mấy trăm mẫu điền, chớ phải ít hay sao. Còn bên vợ cậu còn giàu hơn bên cậu nữa; trời ơi, cho vay chỗ như vầy mà ông dục dặc, vậy chớ ông đợi ai vay ông mới cho? - Cậu Tư đây có vợ rồi hay sao? - Chớ sao! Cậu cưới con của ông Hội đồng ở bên chợ Ông Văn đã hơn một tháng nay, ông không nghe hay sao? - Ông Hội đồng nào? Ông Hội đồng Thưởng phải hôn? - Phải. - À, à, hôm trước tôi có nghe nói. Bất nhơn quá, vậy mà tôi quên chớ. Ông Giáo Chuột ngó Thượng Tứ một hồi rồi hỏi cậu rằng: - Cậu hỏi bạc làm chi? Ở nhà thiếu gì tiền, cậu cần dùng sao không lấy bạc nhà mà xài, lại đi vay hỏi? - Tôi có việc xài riêng, nên không muốn lấy bạc nhà. - Cậu hỏi rồi có mợ đứng giấy hay không? - Một mình tôi cũng chắc mà, cần gì phải có vợ đứng giấy. - Cậu hỏi bạc tháng hay bạc năm? - Ông cho vay một ngàn; qua tháng giêng tháng hai, hễ góp lúa bán rồi, thì tôi trả cho ông. - Tôi cho vay thuở nay thì tôi buộc phải có đủ vợ chồng đứng giấy; mà hễ vay từ một ngàn sấp lên thì phải thế chưn bằng khoàn đất. Nếu vợ không đứng giấy thì khó quá. Còn tôi nghe nói ông Kế hiền có lập di chúc chia ruộng đất cho các con rồi, song trong tờ ông lại giao huê lợi để cho bà Kế hiền ăn mãn đời rồi các con mới được hưởng. Nếu vậy thì cậu đứng bộ ruộng đất, mà cậu có góp lúa được đâu. - Không. Má tôi đã giao huê lợi phần ruộng hương hỏa 50 mẫu cho tôi rồi. Mùa này tôi góp huê lợi đó tôi xài. - Khó quá! Tôi muốn có mợ đứng giấy với cậu thì tốt hơn. - Không. Không được. Như ông ngại, thì để tôi lục tờ tương phân tôi giao cho ông. - Cái đó tự nhiên phải có mới được. Mà tôi còn muốn cho có đủ vợ chồng đứng giấy nữa chớ. Thầy thông Hàng nghe ông Giáo cứ nài vợ của Thượng Tứ đứng giấy hoài, thầy mới xen vô mà can rằng: - Ông Giáo né, không phải cậu Tư tính sang đoạt của ông nên cậu không chịu cho mợ đứng giấy. Y vay mà dắt vợ theo lòn thòn coi kỳ quá, tại vậy nên cậu không chịu. Như ông ngại, thôi để tôi đứng bảo lãnh cho, được hôn? - Thầy ăn chịu vào đâu mà bắt thầy bảo lãnh? - Phải. Tôi không ăn chịu vào đâu. Mà như ông có sợ thì tôi ký tên giùm cho cậu đặng ông tin. Ông Giáo Chuột ngồi suy nghĩ một hồi lâu rồi ông nói để chậm chậm ít ngày cho ông tính lại coi rồi ông sẽ trả lời. Hai người khách xin ông làm ơn tính giùm cho gấp rồi đồng đứng dậy cáo từ mà về. Thượng Tứ liếc mắt kiếm cô Hai Hẩu, mà không thấy cô, thì cậu lấy làm thất vọng, nên lên xe mà còn ngó chừng vô nhà. Xe chạy khỏi nhà, Thượng Tứ mới nói với thầy thông Hàng rằng: “Ông già có con thiệt ngộ, mà hỏi bạc ổng làm khó quá, không biết chừng nói con ổng, ổng làm khó đến bực nào nữa”. Thầy thông cười mà đáp rằng: - Cậu coi tôi nói láo hay nói thiệt hử? Tôi nói cô Hai Hẩu ngộ lắm mà. Cậu muốn hôn? - Trời ôi! Hỏi bạc còn không xong, muốn con ổng sao được. - Hỏi bạc thì hỏi, còn muốn con ổng thì muốn, có hại gì mà sợ. - Muốn lắm chớ, ngặt vì tôi có vợ rồi, sợ cô đó cổ không chịu. - Cậu để thủng thẳng rồi tôi sẽ tính cho. Đời nầy hễ có tiền thì muốn cái gì mà lại không được cậu. - Thầy làm sao cho tôi trai gái được với cô đó thì tôi khoái lắm, tôi thưởng thầy mấy trăm tôi cũng thưởng. - Chắc hôn? - Sao lại không chắc. - Nói chơi với cậu, chớ con người ta là con nhà giàu, lại là con gái mới lớn lên, ai mà làm mai cho được. Thượng Tứ nghe nói như vậy, có lẽ cậu thất vọng nên cậu không nói nữa, cứ cầm tay bánh xe mà chạy xuống phía nhà ga xe lửa. Thầy thông Hàng biểu cậu ngừng đặng vô nhà hàng uống rượu chơi. Trong túi cậu Tư còn hai đồng bạc, song cậu nghĩ hai người uống hai ly rượu không lẽ trên số tiền ấy được, bởi vậy cậu đậu xe dựa lề đường rồi dắt thầy thông vô nhà hàng. Thầy thông kêu bồi biểu đem hai cái mạc-ten (2) nước suối, Thượng Tứ nói mình không biết uống rượu nên biểu cho xi-rô (3). Thầy Thông la lớn rằng: “Ê! Cái gì lại uống xi-rô! Đàn ông phải tập uống rượu nới người ta chớ. Bồi, cứ việc đem mạc-ten đây”. Thượng Tứ nghe nói như vậy thì không từ nữa, phải ráng mà uống đặng tập làm người thạo đời. ----- (2) Hiệu rượu Martel, rượu mạnh. (3) Sirop: nước cốt ngọt, khi uống pha thêm nước. Thầy thông Hàng thấy Thượng Tứ uống mà châu mày thì thầy cười và nói rằng: - Cậu mới uống lần đầu, cậu chưa biết ngon. Để cậu uống ít lần đây rồi cậu coi, khoái lắm. - Uống, tôi sợ say rồi cầm bánh xe về không được chớ. - À! Phải a. Chưa biết uống thì tự nhiên phải say. Ối! Mà có say thì ở trên nầy chơi rồi sáng mai sẽ về, hại gì. - Bữa nay tôi ở chơi không được. - Sao vậy? Cậu cũng húy phụ nữa hay sao? - Không phải húy phụ. Trời ơi, tôi chớ phải ai hay sao. Thứ vợ mà tôi kể gì, thây kệ (4) nó. Tại bữa nay tôi có việc riêng ở chơi không được. Để chừng tôi vay bạc được rồi thầy coi tôi chơi mà. - À, cái chuyện hỏi bạc đó, cậu để tôi lo cho. Ông Giáo Chuột làm bộ, bất quá ổng ăn tiền lời mắc, ổng buộc tôi bảo lãnh, chớ gì. Để sáng mai tôi xin sao lục tờ tương phân (5) giùm cho cậu rồi tôi đem cho ổng coi. Trong vài bữa cậu lên đây rồi tôi trả lời cho cậu. Mà cậu nhớ tờ chúc ngôn tương phân làm hồi nào hay không? Phải biết ngày tháng xin sao lục mới được. ----- (4) mặc kệ (5) tờ chia gia tài - Làm hồi tháng giêng, tháng hai gì đó, tôi không nhớ chắc. - Được, được. Biết tháng thì đủ rồi. Hễ tôi chi ít đồng bạc thì họ kiếm như chơi, có khó gì. Cậu đừng lo, để đó tôi tính cho. - Thầy làm ơn tính giùm mau mau nghé. - Mau mà … Hai người nói chuyện tới đó, kế có ba thầy đi ngang, thấy thầy thông Hàng ngồi trong nhà hàng thì ghé vô mà bắt tay. Thầy thông Hàng tiến dẫn cậu Thượng Tứ cho ba thầy ấy mà nói rằng: “Cậu đây là cậu Tư Mỹ Hội, em của thầy Ban biện Chí, mấy thầy biết hôn? Thôi, ngồi đây uống rượu nói chuyện chơi”. Ba thầy chào Thượng Tứ rồi kéo ghế mà ngồi. Thầy thông Hàng kêu bồi vang rân mà biểu đem ly lấy rượu thêm. Thượng Tứ trong túi có hai đồng bạc, mà thấy thầy thông Hàng mời anh em bạn uống rượu lăng xăng, thì trong lòng không an, bởi vậy cậu nha nhổm muốn cáo từ mà về. Thầy thông Hàng với ba người kia nói chuyện không dứt, đã vậy mà người này tiếp với người nọ theo xưng tụng sự giàu có của cậu hoài, hỏi cậu mỗi năm góp lúa ruộng được bao nhiêu, mua xe hơi mấy ngàn đồng, đứng bộ đất mấy trăm mẫu, làm cho cậu không thế đứng dậy được, mà ngồi ở đó thì cậu chín ruột chín gan. Chừng bớt nói chuyện, Thượng Tứ đứng dậy cáo từ thì thầy thông Hàng nói rằng: “Cậu về thì anh em tôi cũng đi, chớ ở đây làm gì. Thôi, uống cho hết rồi đi”. Mấy thầy bưng ly uống cạn rồi đội nón đứng dậy một lượt. Thượng Tứ liệu không đủ tiền mà trả tiền rượu, nên cậu làm lơ. Thầy thông Hàng ngó chừng cậu, không thấy cậu móc bóp phơi, thầy bèn vỗ túi và nói rằng: “Trời đất ơi, cái bóp tôi mất rồi! Báo hại dữ hôn! Chắc là rớt đâu ngoài xe”. Thầy lật đật chạy ra xe mà kiếm. Kiếm có hay không không biết, mà thầy dòm sơ sài rồi trở vô nói rằng: “Chắc là rớt trên nhà ông Giáo hồi nãy. Có vài chục đồng bạc, không nhiều nhõi gì. Thây kệ, để sáng tôi lên trển tôi kiếm. Nếu rớt ở đó thì còn đó, chớ không lẽ mất. Cậu Tư, cậu cho tôi mượn 5 đồng bạc trả tiền rượu rồi bữa nào tôi sẽ huờn lại cho”. Thượng Tứ lấy làm hổ thẹn, bởi vậy cậu nói rằng: - Trời ơi, bữa nay đi chơi tôi cũng quên đem bốp phơi theo. Tôi có 2 đồng mà thôi, trả sao đủ. Thầy nói với chủ tiệm để tôi viết bông (6) rồi mai tôi lên trả được hôn? - Được mà. ----- (6) bon: phiếu, giấy nợ Thầy thông Hàng kêu bồi hỏi bao nhiêu tiền rồi biểu đem giấy mực đặng cho Thượng Tứ viết bông. Thằng bồi cùng quằn song cũng vâng lời; mà trong lúc Thượng Tứ ngồi viết bông thiếu 5 ly rượu giá 4 đồng bạc, thì nó chạy ra coi số xe và tên chủ xe, làm cho Thượng Tứ giận lắm, song không dám rầy nó. Việc tính xong rồi, mấy người mới bắt tay từ giã nhau. Thượng Tứ lên xe còn kêu vói mà nói với thầy thông Hàng rằng: “Chuyện đó thấy ráng giúp giùm mau mau nghe thầy thông. Tôi trông lắm đa”. Thầy thông Hàng gặc đầu; xe rút chạy lên cầu quây. CON NHÀ GIÀU Hồ Biểu Chánh www.dtv-ebook.com Chương 4 Thượng Tứ chạy trở về nhà mẹ mà ngủ. Mây đứa ở mở cửa giăng mùng lộp cộp làm cho bà Kế Hiền giựt mình thức dậy. Bà thấy con sửa soạn ngủ thì bà hỏi rằng: “Sao bữa nay không về bển, mà lại về đây?” Thượng Tứ không trả lời, cứ cổi áo cổi giày mà đi ngủ. Thượng Tứ nằm lim dim, nhớ cô Hai Hẩu mặt sáng rỡ, má miếng bầu, mắt láo liên, tóc láng mướt, tướng đi yểu điệu, miệng nói như cười, gò má trắng đỏ tợ hoa sen, nước da mịn mà coi mát rượi, thì trong lòng cậu khoan khoái, ước thầm chớ chi có người đó nằm một bên mình, chắc là mình vui vẻ chẳng có chi bằng. Cậu nhớ cô Hai Hẩu rồi cậu nhớ tới vợ nhà; cậu so sánh hai người, thì cậu chê vợ nhà đủ thứ, chê nước da không trắng, chê cặp mắt không lanh, chê giọng nói không có duyên, chê tánh ý hay hà tiện. Cậu nhớ chuyện gây gổ với vợ hồi chiều, nhớ chuyện không tiền mà trả nhà hàng hồi nãy thì cậu lấy làm tức giận, quyết thế nào cũng phải vay cho được một ngàn đồng bạc đặng chơi bời với anh em; mà xài hết số đó rồi không biết chừng kiếm thêm nữa. Mình tiếng con rể nhà giàu, người ta kêu mình là “Cậu Tư Mỹ Hội”, mình là người có học thức, mình chơi với thầy ký thầy thông, mà trong bóp phơi không có năm ba tấm giấy xăn (1), thì còn gì là danh giá. Phải có tiền, làm sao cũng phải có tiền mới được. Còn có vợ thì thây kệ vợ, làm sao cũng phải trai gái với cô Hai Hẩu, như cô nài phải cưới thì mình cưới, làm hôn thú bực nhì, vợ nói sao được mà sợ, mà như vợ muốn sanh điều thì mình đạp đít, không tiếc gì. Cậu suy nghĩ riết mệt trí nên mơ màng rồi ngủ quên. ----- (1) (cent) giấy bạc một trăm đồng Sáng bữa sau, Thượng Tứ thức dậy đi ra đi vô, vì cậu có việc lo tính riêng trong trí, nên cậu không muốn nói chuyện với mẹ, mà cũng không tính trở về bên vợ. Chừng ăn cơm rồi, bà Kế hiền mới nói với con rằng: - Cơm nước rồi, thôi con sửa soạn đi về bển đi. Con đi từ hồi hôm cho đến bây giờ, anh chị không biết con đi đâu, chắc là anh chị trông lắm. - Trông thì trông, có hại gì mà lo. - Vậy chớ hồi hôm con đi, con có nói con về bên nây hay không? - Không. - Con không nói cho người ta hay, con đi biệt như vầy, người ta lo chớ. - Họ lo giữ tiền, chớ có biết lo giống gì. - Con nói sao vậy! Dầu mà họ có lo giữ tiền đi nữa, ấy là cái phước của con, chớ sao con lại trách người ta. Cầu cho họ giữ đặng ngày sau có mà để lại cho vợ chồng con chớ. - Má cứ ham tiền hoài! Tại má ham tiền, nên tôi mới mắc một con vợ như vậy đó! - Vợ sao? Cha chả! Vợ như vậy, con còn chê nỗi gì! Phải, nó đen đúa thiệt, nhưng mà coi mặn mòi, chớ không phải xấu xa gì đó! - Tốt với má chớ tốt với ai. Đi ra thấy người rồi dòm lại nó mà mắc cở. - Sao mà mắc cở? Tuy nó không có bóng sắc, song nó hiền đức, nó giỏi việc nhà, nó có tiền nhiều, nó có chỗ gì mà chê được đâu. Con đừng có nói bậy. Ở đời vợ xấu mới chắc là vợ của mình đa con, chớ đồ bóng láng có ra gì đâu. Thượng Tứ nghe mẹ khuyên lơn đã không cám ơn, mà lại rùn vai rồi bỏ đi ra phía trước, coi bộ vô lễ hết sức. Bà Kế Hiền vì thương con nên không thấy cái quấy của con, con ngỗ nghịch mà bà không giận, lại cứ theo khuyên dỗ biểu con về hoài. Thượng Tứ thấy vậy bèn làm núng, xin bà phải cho năm trăm cậu mới chịu về. Bà nghe nói tiền thì bà la ó; cậu làm giận, cậu thề không thèm về vợ nữa. Bà cùng thế, tuy bà rầy om sòm, song rốt cuộc rồi bà cũng phải lòi cho cậu hết một trăm đồng bạc. Thượng Tứ lấy tấm giấy xăn bỏ vào bóp phơi rồi cậu mới thay áo mang giày lên xe mà đi. Bà tưởng con biết nghe lời nên thấy con đi trong bụng mừng thầm, chẳng dè ra khỏi cửa ngõ rồi, cậu không chạy về chợ Ông Văn, mà cậu lại quẹo lên Mỹ Tho. Lúc ấy đã ba giờ chiều, Thượng Tứ biết thầy thông Hàng mắc làm việc, nên cậu không ghé nhà mà kiếm. Cậu ngừng xe đổ dầu xăng đầy thùng mà đổi tấm giấy bạc, rồi chạy theo đường mé sông cầu quây. Chạy ngang nhà ông Giáo Chuột, cậu cho xe chạy chậm chậm đặng có liếc mắt ngó vô nhà mà kiếm cô Hai Hẩu. Bận chạy qua thì không thấy tâm dạng, mà chừng trở lại thì cậu thấy cô nọ đứng trước cửa. Cậu dở nón chào cô; cô cũng cúi đầu đáp lễ, mà cô lại chúm chím cười, làm cho cậu hân hoan, quên bóp kèn, gần cán con xẩm ghánh nước. Cậu xuống nhà hàng trả tiền rượu hồi hôm, rồi ngồi đó uống sữa đá mà đợi 5 giờ sẽ đi đón thầy thông Hàng. Thầy thông Hàng chơi với anh em, hễ thầy hứa giùm giúp việc gì, thì thầy hết lòng lo lắng. Hồi hôm thầy hứa với cậu Thượng Tứ mấy điều, thì sáng ra thầy lo làm liền, chớ không dám để trễ. Buổi sớm mơi thầy lên sở bằng khoán mà xin sao lục tờ chúc ngôn tương phân của ông Kế hiền Toại. Trưa về ăn cơm rồi thầy không thèm nghỉ, thầy kêu xé kéo tuốt lên nhà ông Giáo chuột mà đưa tờ tương phân cho ông coi. Ông Giáo chuột đã mười mấy năm chuyên nghề cho vay đặt nợ, ông lành nghề của ông lắm; ông cầm tờ chúc ngôn tương phân coi từ đầu chí cuối rồi nói rằng: “Cậu Thượng Tứ bây giờ đứng bộ 100 mẫu ruộng thực, 50 mẫu hương hỏa, rồi ngày sau cậu được 50 mẫu trong phần dưỡng lão nữa. Cậu có 200 mẫu điền mà cậu vay có một ngàn, thì cho vay không phải sợ gì. Ngặc vì, theo lời chúc ngôn, chừng nào bà Lý Thị Nho qua đời rồi thì cậu mới được hưởng huê lợi. Cậu có ruộng mà không có huê lợi, cho cậu vay rồi cậu lấy gì cậu trả? Năm ngoái tôi thấy thầy Ban biện Chí là con nhà giàu, tôi làm bướng cho thầy vay năm ngàn. Hôm tháng giêng thẩy trả tiền lời, còn vốn thẩy trả không nổi. Kế tôi nghe ông già thẩy chúc ngôn chia ruộng đất mà không cho ăn huê lợi, tôi chết điếng xưa rày, không biết làm sao mà đòi vốn lại. Tôi bị người anh mà mắc kẹt hết năm ngàn đồng bạc, tôi rầu quá, giúp cho người em nữa sao được”. Thầy thông Hàng cười mà đáp rằng: “Tôi nghe nói ông thạo nghề cho vay lắm, mà sao ông lại sợ như vậy. Ông cầu mà cho anh em thầy Ban biện Chí vay chớ. Phàm cho vay thì cốt lấy tiền lời. Cho mấy chủ chắc chắn mình cầu họ đừng trả vốn, để cho mình lấy tiền nhiều năm. Ví như ông cho một ngàn, ông lấy tiền lời trong 3 năm thì đủ số vốn rồi, mà số một ngàn cũng còn đó, coi không phải là lợi nhiều hay sao. Đã biết thầy Ban biện Chí với cậu Thượng Tứ tuy đứng bộ làm chủ ruộng đất, song chưa ăn huê lợi. Ruộng đất như vậy mới chắc chớ, bởi vì có đem bán cho ai được, mà mình sợ mất nợ. Còn như ông có muốn cho chắc nữa thì ông cho vay nhiều nhiều rồi ông buộc phải làm tờ treo cho ông. Ông với tôi là anh em quen biết nhau lâu rồi, tôi tỏ thiệt với ông: cậu Thượng Tứ còn nhỏ mà tôi coi cậu ham phá nhà quá. Ông thử nhử mà đưa cho cậu chừng mười ngàn đồng bạc thì ông lấy ruộng đất của cậu hết. Tôi hứa tôi sẽ làm mối giùm cho ông. Cậu tin cậy tôi lắm, tôi nói giống gì cậu cũng nghe hết thảy. Ông cho lần một ngàn mà nhử cậu đi. Ông cứ tính tiền lời theo bạc mười bốn. Nếu ra giêng cậu không trả, thì ông bắt chồng vốn lời mà thay giấy. Ông chồng như vậy trong năm ba năm và nếu cậu hỏi thêm thì ông đưa thêm nữa, thì ông sẽ lấy ruộng của cậu”. Ông Giáo Chuột nằm xuống làm thuốc mà hút ít điếu; ông suy hại tính lợi đã cạn rồi, song ông còn làm bộ dục dặc mà nói rằng: - Cậu Thượng Tứ còn con nít, tôi không nỡ toan mưu kế mà giựt sự nghiệp của cậu. Thà là cậu vay của ai cậu vay, chớ thiệt trong bụng tôi không muốn giúp cho cậu đồng nào hết. Mình lớn, cậu nhỏ, mình dính dấp với cậu sợ e mình phải mang tiếng chớ. Ngặt vì cậu là anh em của thầy, thầy nói giúp giùm mà tôi không chịu, thì thất thể diện thầy chăng? - Thôi đi bác. Bác đừng có đánh đạo. - Không phải đánh đạo. Thiệt tình như vậy chớ. - Thôi, chiều nay như cậu qua, thì tôi dắt cậu lên làm giấy lấy bạc đa. - Cũng được. Mà thầy phải nói trước với cậu, tiền lời tính bạc 14 đa, nghe hôn. Chịu như vậy tôi mới cho. - Chịu mà. Ông cứ đòi lời theo bạc 14 đi. Để tôi nói vô cho. Nè, mà ông phải nói tôi đứng bảo lãnh nữa, nghé. - Bảo lãnh làm chi? - Ậy! Ông cứ nài bảo lãnh đặng cho cậu tin, rồi sau làm công chuyện mới được chớ. Ông hiểu hôn? - Hiểu, tôi hiểu rồi. - Ông trả tờ tương phân lại cho tôi, đặng chừng cậu qua tôi trao cho cậu rồi tôi dắt lên đây. Thôi, để tôi về cho ông nghỉ. Thầy thông Hàng xếp tờ tương phân mà bỏ vào túi rồi lấy nón đội lên đầu. Lúc thầy nắm tay ông Giáo mà từ giã, thì thầy vừa nheo mắt vừa cười mà nói rằng: “Ông đừng có đòi một trăm đồng bạc của tôi nữa. Nếu ông biết xử phải, thì tôi sẽ làm cho ông có lợi năm bảy ngàn cho ông coi”. Ông Giáo Chuột gặc đầu mà đáp rằng: “Biết, biết, tôi biết xử phải mà”. Tội nghiệp cho “cậu Tư Mỹ Hội”, người ta sắp đặt như vậy mà cậu không dè, cậu ngồi nhà hàng uống sữa, khí sắc hân hoan, khi thì nhớ gương mặt của cô Hai Hẩu tròn trịa bảnh bao, khi thì ngó chừng đồng hồ đặng đi đón thầy thông Hàng mà hỏi thăm chuyện vay bạc. Đồng hồ gõ 5 giờ. Thượng Tứ lên xe mà đi. Xe chạy vừa khỏi nhà ga xe lửa thì gặp thầy thông Hàng ở trên đường hàng gáo đương lơn tơn đi xuống. Thượng Tứ ngừng xe, anh em mừng rỡ, rồi rủ nhau chạy một vòng chơi. Thầy thông Hàng vừa bước lên xe thì Thượng Tứ nói rằng: - Tôi khoái quá, thầy. Tôi mới gặp mặt cô Hai hồi nãy. - Cô Hai nào? - Cô Hai Hẩu. - Ờ, ờ. Ở đâu mà cậu gặp? - Tôi chạy ngang nhà. Cô đứng trước cửa cô chào tôi, mà cô lại cười nữa chớ, khoái quá! - Cậu nầy đa tình thiệt mà! Cậu dám quá! - Tôi chạy ngoài lộ, có động tới ai mà không dám. - Ông Giáo khó lắm, nói cho cậu biết. - Con ổng khó thì tôi mới lo, chớ ổng khó hay là dễ, nhắm cũng không hại gì. - Cậu muốn vay bạc của ổng, mà cậu làm lộn xộn đây ổng ghét, ổng không giúp bạc cho cậu chớ. - À! Thầy xin sao lục giùm tờ đó rồi chưa? - Rồi, nội buổi sớm mơi. Mà rồi cũng không ích gì, bởi vì hồi trưa tôi gặp ông Giáo, tôi đưa cho ổng coi thử. Ổng coi rồi ổng nói ruộng cậu làm chủ mà cậu không được ăn huê lợi; cậu lấy bạc rồi cậu lấy gì mà trả. Ông già thiệt là khó chịu. Tôi năn nỉ trọn một buổi trưa. Tôi nói riết rồi ổng muốn xiêu lòng, song ổng đòi tiền lời tới mười bốn mười lăm. Gắt gớm quá! - Mười bốn mười lăm là sao? - Nghĩa là cậu vay một ngàn, ra ngoài ngày cậu phải trả vốn lời một ngàn tư hoặc một ngàn rưỡi. - Trời ơi! Ăn lời gì mà nhiều quá vậy? - Thì họ cho vay họ ăn lời như vậy chớ sao. Nhơn nghĩa lắm thì ít nữa cũng là bốn trăm đồng bạc lời. Vì lúc nầy muộn rồi, không ai còn bạc mà cho, nên ổng mới làm ngặt. - Năn nỉ với ổng ăn chừng bốn trăm đồng bạc lời được hôn? Bây giờ tháng mười rồi, từ đây cho tới tháng giêng tháng hai, có ba bốn tháng mà gì. - Để tôi nói lại với ổng coi. Ổng còn buộc tôi phải bảo lãnh nữa đa cậu. - Không hại gì, thầy làm ơn bảo lãnh giùm cho tôi. - Tôi với cậu không ngại gì. Lãnh thì lãnh chớ sao. Không lẽ cậu bỏ nợ cho tôi trả. - Đâu có như vậy. Chừng nào làm giấy lấy bạc được? - Để mình ăn cơm rồi dắt lên nhà ổng nói lại coi. Như ổng chịu thì làm giấy lấy bạc liền. - Chắc ổng chịu mà. Ổng là cha vợ tôi, ổng muốn ăn lời bao nhiêu ổng ăn, tôi không cần. Thầy thông Hàng nghe nói như vậy thì thầy cười, Thượng Tứ tưởng thầy cười về mấy lời nói chơi của mình có duyên, chớ nào dè thầy cười là cười miếng mồi thầy thả ra mà cá đã táp nuốt. Hai người chạy xe chơi ít vòng rồi ghé lại nhà hàng ăn cơm. Thượng Tứ bữa nay có sẵn gần một trăm đồng bạc trong túi, đã mới thấy mặt cô Hai Hẩu, mà lại chắc sẽ có thêm một ngàn nữa, bởi vậy cậu hân hoan, nói nói cười cười không ngớt. Thầy thông Hàng cũng vui về việc của thầy, nên cũng nói cũng cười, mà thầy chẳng nói việc chi khác hơn là việc ông Giáo Chuột cho vay, thầy chẳng cười việc chi hơn là cười cậu Tư mê Hai Hẩu. Ăn cơm xong rồi, thầy thông Hàng mới kêu bồi biểu đem cái bông thiếu tiền rượu hồi hôm đặng thầy trả luôn thể. Cậu Tư nói cậu đã trả tiền rượu rồi, mà cậu lại giành cậu trả tiền cơm, cậu không cho thầy thông hao tốn với cậu. Thầy thông làm giận làm hờn, ngoe ngoảy bỏ đi trước ra xe mà ngồi, chừng cậu Tư ra theo thầy mới nói rằng: “Mỏa giận toa quá, mỏa muốn không thèm dắt toa lên ông Giáo, để toa nhớ cô Hai đêm nay toa khóc cho biết chừng …”. Cậu Tư cười mà đáp rằng: “Tội nghiệp tôi mà, thầy thông. Thầy muốn tôi chết hay sao? Nếu đêm nay mà tôi không ngó thấy mặt cô Hai được, chắc là tôi phải tự vận quá”. Thầy thông cười ngất rồi biểu chạy xe vô nhà thầy mà lấy tờ sao lục tương phân đặng có lên ông Giáo cho sớm. Chẳng hiểu cô Hai Hẩu có biết trước bữa nay sẽ có khách tới nhà hay không, mà gần đỏ đèn cô gỡ đầu bới láng nhuốt, cô dồi phấn mặt trắng đỏ, cô mặc áo màu trứng gà, cô bận quần lụa trắng bông hường, cô đi dép quai nhung đen, sắc cô đã đẹp mà cô còn tô điểm thêm nữa, nên bợm háo sắc ai thấy cũng phải mê mẩn. Khi thầy thông Hàng với cậu Thượng Tứ bước vô nhà, cô Hai Hẩu mắc ở dưới nhà sau. Ông Giáo tiếp khách mời ngồi, rồi kêu đứa ở mà biểu đem nước uống. Vì ông phân cử, ban đêm thường tám giờ ông mới hút, bởi vậy bên cái giường chưa thấy nổi đèn. Ông ngồi tại bộ ghế giữa mà nói chuyện với khách. Con nhỏ ở bưng nước trà vừa để trên ghế, thì cô Hai Hẩu ở trong cửa buồng bước ra, cô cúi đầu chào hai người khách rồi cô vói tay để một gói thuốc với cái hộp quẹt trên dĩa, dựa hai tách nước đó. Thượng Tứ phần thì khớp về hương trời sắc nước, phần thì sợ ông Giáo thấu đáo bụng của mình, bởi vậy cậu ngồi trân trân, cậu không dám ngó mặt cô Hai Hẩu khi cô để gói thuốc trên dĩa, cậu liếc thấy bàn tay của cô trắng nõn, ngón tay nhỏ xíu, phao tay ửng hồng, thì cậu hồi hộp trong ngực, lộn xộn trong trí, nếu ai cắc cớ hồi đó hỏi cậu tại sao mà vậy, thì chắc cậu cũng không biết sao mà nói được. Cô Hai Hẩu lại ghế xít đu mà nằm, và nói chuyện nho nhỏ với con ở. Cái ghế xít đu ở nhằm phía sau lưng cậu Thượng Tứ, cậu không dám day đầu lại mà ngó cô, cậu lấy làm tức vì sự vô ý của cậu, chớ chi hồi mới vô cậu ngồi phía bên kia thì bây giờ liếc ngó dễ biết chừng nào. Cậu mắc tiếc về sự đó, nên cậu quên tưởng chuyện vay bạc. May nhờ có thầy thông Hàng lanh lợi, thầy khởi đầu mà nói với ông Giáo giùm cho cậu. Ban đầu ông Giáo làm khó, không chịu cho, ông nói rằng ông có coi tờ chúc ngôn tương phân rồi, ruộng đất lộn xộn lắm, làm chủ mà không ăn huê lợi, vay bạc rồi lấy gì mà trả, nếu ông kiện ông lấy ruộng, ông cũng không cho mướn được. Thầy thông theo năn nỉ trót nửa giờ đồng hồ, ông mới chịu cho, song ông buộc nội tháng giêng phải trả vốn trả lời, tiền lời tính bốn trăm, mà phải có thầy thông đứng bảo lãnh mới được. Thượng Tứ nghe nói ổng đòi tiền lời theo bạc mười lăm, tẻ ra bây giờ ổng tính theo bạc mười bốn, thì cậu mừng nên cậu chịu liền. Ông Giáo biểu làm giấy phải biên nói vay một ngàn bốn trăm đồng, giao qua tháng giêng An Nam năm sau thì trả, nếu tới kỳ mà không trả đủ số, thì chủ nợ kiện đòi số ấy và đòi tiền lời theo phép kể từ ngày làm giấy. Lại cũng phải khai trong giấy rằng người vay có giao cho chủ nợ một bổn sao lục chúc ngôn tương phân cầm làm bằng, nếu chưa trả đủ số nợ mà lén bán ruộng đất cho người khác thì chủ nợ được phép kiện đến tòa Hình mà buộc tội sang đoạt. Thượng Tứ quyết lấy cho được một ngàn đồng bạc, nên buộc thế nào cậu cũng chịu hết. Ông Giáo bèn kêu con lấy giấy mực rồi ông xin lỗi với khách đặng ông nằm hút ít điếu. Ông Giáo qua bên giường nổi đèn nằm chinh chòng. Thầy thông ngồi viết cái não giấy nợ. Cậu Thượng Tứ ở không, cậu đứng dậy làm bộ coi thầy Thông viết, mà kỳ thiệt cậu qua đứng phía bên nây đặng liếc ngó cô Hai Hẩu chơi. Cô Hai Hẩu nằm trên ghế xích đu, cô tự nhiên, không ái ngại chi hết, cậu ngó cô thì ngó, cô cứ lúc lắc cái ghế, hoặc nói cười với con nhỏ ở như thường. Thầy thông làm não tờ xong rồi mới đem đưa cho ông Giáo coi. Ông bắt bẻ thêm bớt một hai câu cho rành, rồi ông đưa cho Thượng Tứ chép lại và ký tên. Thầy thông cũng đứng bảo lãnh một bên đó, thầy và ký và nói (2) rằng: “Từ nhỏ tới bây giờ tôi mới lãnh nợ lần nầy là lần thứ nhứt. Vợ tôi nó hay đây chắc nó cằn nhằn dữ lắm. Cô có gặp ở nhà tôi, cô đừng có học đi học lại, nghe hôn cô Hai”. Cô Hai Hẩu cười và đáp rằng: “Bẩm thầy, thầy làm ơn cho anh em, em tưởng dầu cô thông có hay, cô cũng vui lòng, chớ sao mà thầy lo. Tuy vậy mà thầy dặn trước, thì em đâu dám học.” Thượng Tứ nghe tiếng nói mềm mỏng, khôn ngoan, trong ngần, lảnh lót, thì cậu ngẩn ngơ trong lòng, nên cậu đứng ngó cô mà miệng chúm chím cười. Ông Giáo đọc cái giấy rồi ông đi mở tủ sắt lấy một ngàn đồng bạc mà trao cho Thượng Tứ. ----- (2) Vừa ký vừa nói Thầy thông Hàng biết ý Thượng Tứ muốn chà lết ở mà ngó cô Hai Hẩu chơi, nên thầy leo lên giường nằm đợi ông Giáo làm thuốc cho thầy hút vài điếu rồi mới chịu từ giã mà đi. Thượng Tứ ra về, cậu chào cô Hai Hẩu mà cậu cười đưa tình. Cô cũng đáp lễ và cũng cười, song không hiểu cô có rõ thấu ý tứ của cậu Thượng Tứ hay không. Thượng Tứ lên xe mà đi, cứ trầm trồ cô Hai Hẩu hoài, ước mong làm sao phải nói chuyện được với cô một lần mới phỉ dạ. Thầy thông Hàng khuyên cậu chậm chậm rồi thầy sẽ liệu giùm. Thầy ép cậu ở chơi một đêm, rồi thầy bày đặt mướn một cái phòng, kêu hai cô ca nhi, dọn mâm á phiện, mua rượu sâm banh sắp đặt đủ các cuộc vui cho Thượng Tứ. Cậu Thượng Tứ vui thì vui, mà một lát cậu nhắc cô Hai một lần, dường như cái hình của cô đã chạm vào trí cậu rồi, chẳng có giây phút nào mà cậu quên được. Chơi đến sáng bét rồi, Thượng Tứ mới cho tiền sắp ca nhi, trả tiền phòng, tiền rượu và từ giã thầy thông Hàng mà về. CON NHÀ GIÀU Hồ Biểu Chánh www.dtv-ebook.com Chương 5 Đêm rằm, cậu Thượng Tứ leo lên xe mà đi, thiệt cậu giận vợ cành hông, song giận là giận vợ không mở tủ đưa bạc cho cậu xài, chớ cậu không có trách vợ về chuyện gì khác nữa. Cậu tính về nhà xin tiền mẹ, rồi trở qua thị nhục vợ chơi, nào dè xin tiền bà Kế hiền không cho, cậu thất vọng, cậu phiền luôn mẹ, nên mới tính đi vay bạc mà xài cho mẹ và cho vợ biết chừng. Khi tới nhà ông Giáo Chuột, thì tâm sự của cậu chỉ có bao nhiêu đó mà thôi; trời khiến cậu lại gặp cô Hai Hẩu, mà gặp rồi cậu lại phát ái tình trong lòng, làm cho cậu ngờ ngẩn ngẩn ngơ, rồi cậu so sánh cô nọ với vợ nhà; hồi tối cậu mới hờn vợ mà thôi, mà tới khuya cái hờn ấy nó sâu thêm rồi hóa thành cái ghét. Có được một ngàn đồng bạc trong bóp phơi rồi, cậu chưa tính để dùng mà xài cách nào, cậu quyết trở về nhà quăng trên mặt vợ mà nhục nó chơi đã, bởi vậy từ giã thầy thông Hàng tại khách sạn rồi thì cậu lên xe chạy thẳng qua chợ Ông Văn, đi ngang Mỹ Hội cậu không thèm ghé nhà. Buổi sớm mới, cô Ba Mạnh tay bưng quảu (1) lúa ra đứng giữa sân mà rải cho bầy gà ăn. Gà trống, gà mái, gà mẹ, gà con đều chạy vù lại mà bao chung quanh cô, gà cồ vừa lượm lúa vừa vè đạp mái, gà mẹ vừa lo ăn vừa túc túc kêu con. Mấy con chim dòng dọc ở trên cây cũng đáp xuống rồi chen lộn với gà mà ăn lúa, vì mỗi bữa được ăn như vậy đã quen rồi, nên cô Ba Mạnh đứng đó, mà gà với chim không sợ chút nào hết. ----- (1) Thúng nhỏ, quảu gạo: thúng nhỏ đựng gạo, quảu may: thúng đựng dụng cụ may vá. Có lẽ cô Ba Mạnh cũng vui mà đãi cái tiệc sớm mơi ấy, nên cô đứng vãi lúa cho gà chim ăn mà miệng cô chúm chím cười. Thình lình cô nghe tiếng xe hơi chạy ồ ồ phía ngoài lộ, chắc là cô đã có ý trông xe chồng về, nên cô ngừng tay, không vãi lúa nữa, mặt lại day ra ngoài cửa mà ngó chừng. Cách chẳng bao lâu, thiệt quả xe của chồng quẹo vô cửa ngõ rồi chạy thẳng vô nhà xe. Cô Ba Mạnh lật đật vãi cho mau hết quảu lúa đặng có vô nhà. Cậu Thượng Tứ cất xe rồi, cậu đi xăn xớm vô cửa, cậu thấy vợ đứng đó mà cậu không thèm ngó. Cô Ba Mạnh không hờn về sự lạt lẽo ấy, mà cô lại ngó chồng mà cười, rồi trút hết quảu lúa trên lưng mấy con gà đứng gần và xây lưng đi vô cửa nhà sau. Cô móc cái quảu trên vách, cô dặn mấy đứa ở sửa soạn nhúm lửa nấu cơm, cô biểu gọt trái bầu mà nấu canh, hái trái đu đủ mà làm gỏi, rồi cô thủng thẳng bước lên nhà trên. Cô thấy cha mẹ đương ngồi uống nước trà, không nói chuyện chi hết, mà cũng không có chồng cô ở đó, thì cô đi tuốt vô buồng. Thượng Tứ đã thay đồ mát rồi, cậu đương nằm ngửa trên giường. Cô Ba Mạnh vừa ngó thấy chồng thì cô hỏi rằng: - Hổm nay mình về bên nhà hay là đi đâu? - Tôi muốn đi đâu tôi đi, mình không được phép tra hỏi. - Tôi hỏi coi có phải mình về bên nhà thăm má hay không, chớ tôi tra làm chi. Thượng Tứ muốn gây, mà bị vợ nói xuôi quá, cậu không có cớ gây được, bởi vậy cậu nín thinh mà mặt coi quạu lắm. Cô Ba Mạnh muốn dã lã cho chồng hết giận, nên cô cười và hỏi rằng: “Chắc bữa hổm mình biểu tôi đưa bạc, tôi không đưa, mình giận nên mình đi đó chớ gì, phải hôn?”. Thượng Tứ vùng ngồi dậy mà nói rằng: “Còn nhắc tới chuyện đó nữa à! Tôi nói cho mà biết, đừng có tưởng tôi mạt, nên bòn tiền của vợ mà ăn. Cái giàu của mình đó tôi xài một vài bữa là hết, không giàu bao nhiêu đâu, đừng có làm phách. Muốn xin tiền đặng để thêm vô tủ hôn? Như muốn tôi cho”. Cậu và nói và mở bóp phơi lấy xấp giấy xăn liệng trên giường nghe một cái xạch. Cô Ba bị chồng nhiếc mà cô cũng cười và đáp rằng: “Tôi có khoe với mình tôi giàu hồi nào đâu mà mình mắng tôi … Mình có tiền nhiều thì mình xài, mình cho tôi làm chi. Thuở nay tôi có biết xài việc gì đâu”. Thượng Tứ trợn mắt nạt rằng: “Nín. Tù mặt thấy phát ghét”. Cô Ba mạnh nghe tới mấy lời đó, cô mới hết cười nữa được, cô đứng ngó ngay mặt chồng, rồi cô bước ra ngoài. Bà Hội đồng thấy con thì bà hỏi rằng: - Thằng Ba nó về nãy giờ, sao nó đi đâu mất vậy kìa? - Thưa, nằm trong buồng. - Kêu nó ra cho má hỏi thăm chút coi nào. Cô Ba Mạnh không dám không vưng lời mẹ, nên cực chẳng đã cô phải trở vô buồng, song truyền lịnh mẹ cho chồng rồi thì cô ra liền và đi thẳng xuống nhà dưới. Thượng Tứ thức cả đêm nên mệt, phần đương gây gổ với vợ nữa, bởi vậy cậu bước ra, tóc chôm bôm, mặt bí sị, coi không có vẻ thanh tao nho nhã chút nào hết. Bà Hội đồng tay xĩa thuốc sống, mắt liếc ngó rể mà hỏi rằng: - Hai bữa rày con về bên nhà hay là đi đâu? - Thưa, về bên nhà. - Chị ở nhà mạnh há? - Thưa, mạnh. Bà ngồi nín thinh ngó ra ngoài sân một hồi rồi bà hỏi nữa rằng: “Con giận vợ con nên con đi hổm nay đó phải hôn? Con đừng có dại như vậy. Con có cần dùng tiền mà mua sắm vật chi, sao con không hỏi thầy của con, hoặc hỏi má, con lại biểu vợ con mở tủ lấy mà đưa cho con? Vợ của con nó thiệt thà lắm. Thuở nay má cho tiền nó nhiều khi nó cũng không lấy nữa; tuy là nó giữ chìa khóa, chớ chẳng bao giờ nó dám lấy một đồng xu trong tủ. Con biểu như vậy, nó đâu có dám nghe lời con. Con đừng có dại như vậy nữa. Con ở bên nhà thì có chị; về bên nây thì có thầy má. Con muốn làm việc gì, con phải thưa cho cha mẹ biết, Con biểu nó đưa tiền cho con chi vậy?”. Thượng Tứ nghẹn cổ, không có sẵn lời mà đáp, cậu đứng suy nghĩ một chút rồi mới nói rằng: - Thưa, tôi muốn thử bụng vợ tôi, nên tôi biểu chơi coi nó nghe lời hay không, chớ có phải là tôi thèm đồng tiền của nó đâu. - Con thử bụng nó, mà nó không chịu đưa tiền, sao con lại mắng nhiếc giận hờn nó rồi bỏ mà đi về bển? - Tại tôi thử bụng nó mà nó trở lại khinh khi tôi quá. Nó trọng đồng tiền, coi đồng bạc lớn bằng bánh xe, nó không biết nhơn nghĩa gì hết. Nó tưởng tôi cưới nó đặng đoạt gia tài của nó hay sao không biết. Tôi có phải mạt ở đâu, mà nó khinh khi tôi quá. - Con đừng có nói như vậy. Con của má đẻ, má nuôi nó nhỏ lớn, má không biết tánh ý nó hay sao. Con Mạnh có bao giờ mà nó khi dễ ai. Rất đổi là đứa ở trong nhà hoặc là tá điền tá thổ, mà nó cũng chẳng hề khinh thị ai, có lý nào chồng nó mà nó khinh khi… Vợ chồng còn nhỏ, nói chơi với nhau, một đứa hơn một tiếng tự nhiên sanh xích mích. Thôi, bỏ chuyện đó đi, đừng có giận hờn chi nữa hết. Con có muốn xin tiền làm chi, thì nói với má đây; nếu nên cho thì má cho, bằng không nên thì thôi, chớ con đừng có hỏi vợ con nữa, nó không có tiền riêng tư gì đâu mà hỏi. - Tôi hỏi nó chơi, chớ tôi thiếu gì tiền đây. Thượng Tứ và nói và phành bóp phơi đưa xấp giấy xăn cho mẹ vợ coi. Ông Hội đồng Thưởng nãy giờ ngồi lặng thinh để nghe vợ nói chuyện với rể, đến nỗi rể kiếm lời nói gay gắt con gái của ông, ông cũng không thèm can dự đến. Chừng ông thấy rể phành bốp khoe bạc, phát biểu cái thái độ vô lễ với cha mẹ ông không thế dằn lòng nữa được, ông mới nói rằng: “Con giàu, thầy với má cũng vẫn biết, con phải khoe làm chi. Ở đời lễ nghĩa mới quí, chớ giàu hay là nghèo cũng không có nghĩa gì. Con về ở bên nây hơn một tháng nay, thầy coi con còn thiếu xót đạo làm người nhiều lắm. Con có vợ rồi, nay mai đây con sẽ có con, chớ không phải còn con nít, mà con không tính làm ăn chi hết, bữa nào cũng leo lên xe đi chơi hoài. Đời nầy chơi thì hư thân, chớ chơi mà có ích gì. Đi chơi tự nhiên phải cập bè cập bạn, người tốt thì ít, người xấu thì nhiều, họ rủ bài bạc, rượu chè, đĩ thả, hễ sa mê vô thứ nào cũng phải chết hết thảy. Con là con rể, bây giờ con ở với thầy nên thầy phải chỉ chỗ quấy của con cho con chừa. Con đừng có đi chơi nữa; thầy nói chắc, hễ con đi chơi hoài thì con phải hư … Bữa nay sẵn dịp, thầy cũng chỉ luôn cái tánh xấu của con cho con biết mà sửa mình. Thầy dòm coi con ở trong nhà đối với vợ con, thì con lỗ mãng, còn đối với cha mẹ thì con ngang tàng lắm. Con là con nhà tử tế, con phải giữ lễ phép, con phải ăn nói cho đúng đắn, đừng có vút vắt nghinh ngang người ta cười. Con phải coi cách ăn ở của thiên hạ mà bắt chước. Dầu con giàu, con cũng phải giữ lễ nghĩa, chớ không nên ỷ giàu mà nghinh ngang. Thầy ít hay nói, mà vì thầy thấy con làm quá, nên thầy phải nói cho con biết”. Thượng Tứ gục mặt mà nghe, nhưng vì ông Hội đồng nói phải mà ông nói nặng lời, bởi vậy cậu chừ bự, coi bộ không vui nghe chút nào hết. Bà Hội đồng thấy vậy bà bèn nói rằng: “Từ nhỏ chí lớn nó mắc đi học, nó chưa hiểu việc làm ăn, nó chưa thạo cách ở đời, nên nó mới như vậy đó. Để thủng thẳng tập lần nó … Con phải ráng mà nghe lời thầy con dạy. Con phải coi cách ăn ở của anh Hai con đó mà bắt chước. Dầu con học chữ Tây, chớ con cũng là người An nam, phải ăn ở theo An nam coi mới được. Cha mẹ thương con nên mới dạy con. Nếu con biết thương cha mẹ thì con phải nghe lời, đừng có ham chơi bời, rủi sa bước vào đường không phải rồi chị bên nhà phiền trách cha mẹ. Thôi, con coi nhựt trình hay là làm việc gì thì làm đi”. Thượng Tứ bỏ đi vô buồng, mà sắc mặt coi quạu lắm. Cậu đi qua đi lại mà bộ cậu hầm hầm, cậu giận vợ, giận cha vợ, giận mẹ vợ, giận mẹ ruột, giận hết thảy. Cậu trách vợ sao học chuyện mình biểu đưa bạc cho cha mẹ nó hay chi vậy? Cha vợ có quyền gì mà được rầy mình? Mẹ vợ không biết dạy con mà còn nói hơi binh con chớ! Tại mẹ mình ép uổng nên mình mới vướng cái bọn khốn nạn nầy! Cậu đi vòng một hồi mỏi chơn, rồi cậu lên giường mà nằm, cậu đạp gối hất mền nghe đùng đùng. May lúc ấy bà Hội đồng mắc đi ra sau vườn, nên không hay cách cùng quằn của cậu đó. Vì cậu thức chơi một đêm đã mệt rồi, nên tuy cậu giận, song cậu nằm một lát rồi cậu ngủ quên. Cơm dọn xong rồi, bà Hội đồng biểu con vô buồng kêu rể ra mà ăn. Cô Ba Mạnh bước vô thấy chồng nằm nghinh ngang trên giường mà ngủ khò, cô lại gần nắm tay mà lúc lắc! Thượng Tứ mở mắt thấy vợ thì hỏi rằng: “Muốn cái gì”. Cô Ba Mạnh cười mà đáp rằng: “Dậy ăn cơm. Cơm dọn rồi, thầy má chờ ở ngoải”. Thượng Tứ day mặt vô vách. Cô Ba Mạnh sợ cha mẹ chờ đợi cực lòng, nên cô kêu nữa, khuyên chồng dậy ăn cơm một chút rồi sẽ ngủ lại. Tiếng cô khuyên chồng thiệt là dịu ngọt, tiếc vì tiếng ấy nói với Thượng Tứ chẳng khác nào nước cam lộ mà rót trên cục đá, rót thì uổng nước, chớ đá có biết mùi ngon ngọt chút nào đâu. Cô Ba Mạnh khuyên vừa dứt tiếng, thì Thượng Tứ nạt rằng: “Ăn uống gì thì ăn đi. Không ai thèm ăn đâu: Kêu nữa đánh thấy cha đa!” Phận làm phụ nữ, may gặp chồng tử tế thì nhờ, rủi gặp chồng lổ mãng thì chịu, song lổ mãng thì nhiếc mắng rầy rà chẳng nói làm chi, chớ lổ mãng mà tới chửi cha thì phàm nhơn còn nịch lục căn lục trần, có thế nào mà nín cho được. Cô Ba Mạnh giận run, cô đứng ngó chồng mà nói rằng: - Tôi có quấy, hay là mình có giận, thì mình mắng nhiếc tôi, chớ cha tôi có can phạm gì mà mình nói động tới cha tôi! - Ừ! Tao nói vậy a. Làm sao tao? - Té ra mình là quân du côn mà! - Du côn hả? … Thượng Tứ vừa nói vừa ngồi dậy, vói tay đánh một thoi, trúng ngay con mắt bên tả của vợ. Ba Mạnh ôm mặt kêu trời và chạy ra. Hai vợ chồng ông Hội đồng nghe con la, không biết chuyện gì, nên bỏ mâm cơm, lật đật chạy lên nhà trên: Ông thấy con đậy con mắt mà khóc, thì ông biết con đã bị chồng đánh, nên ông bước vô cửa buồng mà hỏi rằng: “Mầy lầm cái gì vậy hử? Vợ chồng dầu phải dầu quấy cũng lấy tiếng nói mà nói với nhau, chớ sao mầy lại đánh nó? Mầy thiệt vô phép quá! Cha chả! Rất đổi ở bên nây mà mầy còn như vậy, nếu cưới mà đem về bển thì mầy giết nó còn gì”. Bà Hội đồng gỡ tay con mà coi, thì thấy con mắt bên tả đỏ lòm, mà phía trên chơn mày lại u một cục nữa. Bà chắt lưỡi than rằng: “Trời đất ơi! Nó đánh như vầy, may hôn lọt tròng còn gì!”. Ông nghe nói “lọt tròng”, ông lật đật trở ra mà coi. Ông thấy thương tích, ông càng thêm đau lòng, nên ông la lớn rằng: “Bà đi Mỹ Hội, bà mời chị sui qua đây. Nghinh ngang quá như vầy không ai chịu nổi! Tôi coi mòi tôi đã biết trước. Tại bà gấp lắm, bà sợ con Mạnh ế chồng, nên bà giục giả. Đó, bà thấy hay chưa, hử?”. Bà huỡn đãi đáp rằng: - Vợ chồng con nít, sao cho khỏi rầy rà với nhau. Ông nóng quá. Chuyện gì cũng thủng thẳng mà nói, chớ làm om sòm chi vậy. - Nó ăn ở như vậy, bây giờ tôi phải năn nỉ nó hay sao? Hứ! Còn binh nữa chớ! - Không phải binh. Nó là con rể, nó có quấy thì thủng thẳng mà nói cho nó biết. La ó làm chi? - Bà đi ăn cơm đi. Thôi, đừng thèm nói gì nữa hết. Có thằng Tiều hay đứa nào đó, bây lại chợ mướn một cỗ xe ngựa qua Mỹ Hội mời chị Kế hiền qua đây. Đi đi cho mau. - Thôi mà! Chuyện chút đỉnh, mình nói với nó, mời thỉnh chị sui làm gì? - Mời chỉ qua đây, coi chỉ xử làm sao chỉ xử đi cho xong. - Làm như vậy vỡ lỡ cùng hết. Xin ông đừng có nóng nảy mà mích lòng sui gia. Chỉ có xúi con như vậy hay sao mà mình mời qua đặng trách móc chỉ. Để bữa nào gặp chỉ rồi tôi sẽ nói chuyện cho chỉ nghe cũng được mà … Bầy trẻ, đừng có đi Mỹ Hội đa bây. Ông Hội đồng cưng con, ông thấy con bị đánh thì ông nổi nóng, nên ông rầy quá. Mà người nóng mau thì nguội cũng mau, bởi vậy bà nói một hồi thì ông bớt giận, ông không biểu đi mời chị sui nữa, ông hỏi con chớ tại sao mà chồng đánh. Cô Ba Mạnh và khóc và nói rằng: “Tôi kêu ra ăn cơm, chớ tôi có làm sao đâu. Khi không rồi đòi đánh thấy cha tôi. Tôi giận tôi cự, rồi nhảy thoi tôi”. Ông nghe nói ông nổi giận hơn nữa; ông trợn mắt nói rằng: “Đó, bà nghe hay không?”. Bà nói: “Thôi, thôi” rồi bà hối con rửa mặt. Hai vợ chồng ông Hội đồng cũng đi xuống nhà dưới rồi ngồi lại bàn ăn cơm, ông còn giận rể, thương con, bà mắc lo tính giải hòa, nên hai ông bà không nói chuyện chi nữa hết. Cách chẳng bao lâu, bỗng nghe ngoài nhà xe có tiếng xe hơi lên máy rồi chạy ra cửa. Bà Hội đồng kêu thằng Tiền là, đứa ở, mà hỏi rằng: - Thằng Ba nó đi xe phải hôn? - Thưa phải. Dượng Ba kêu tôi biểu tôi vác rương để lên xe cho dưởng, rồi dưởng quây máy dưởng đi. Bà Hội đồng chống đũa ngồi thở ra. Ông Hội đồng châu mày nói rằng: “Ối! Thứ đồ như vậy, nó đi đâu nó đi cho khuất con mắt; nuôi nó ở trong nhà như nuôi ong tay áo, nó làm mình nhọc lòng chớ có ích gì”. Bà ngó ông mà đáp rằng: - Ông nói kỳ cục quá! Tay lỡ dính chàm, mình nỡ chặt tay hay sao? Tuy tánh nó ngang tàng, song nó còn con nít, cũng như mụt măng, để thủng thẳng mình uốn mình sửa nó, chớ ông nóng quá, ông bẻ gãy còn gì. - Tôi coi rồi, thằng đó hoặc may ông trời sửa nó, chớ ai mà sửa nó được. Bà nghĩ đó coi, tôi mới nói phải quấy cho nó nghe đó, nó vô buồng nó đánh vợ nó rồi nó chưởi tôi. Tôi hiểu mà, nó đánh vợ nó đó là nó đánh gởi cho tôi đa. Chứa nó trong nhà đây mai một nó đánh tới tôi nữa. - Hồi gả con, ông giao bắt rể. Bây giờ không chứa nó trong nhà sao được. - Rể tử tế thì mình nuôi nó, chớ thứ rể như vậy mà nuôi làm gì! - Nếu ông không chịu nuôi nó nữa, ông trả nó về bển, thì ông phải cho con Mạnh đi theo. - Ý! Được đâu! Rất đỗi ở bên nây mà nó còn dám làm như vậy, cho theo về bển nó giết con nhỏ còn gì. - Chớ vợ chồng con nít, mà ông biểu một đứa ở một nơi vậy sao được. Ông ngồi lặng thinh mà ăn hết chén cơm rồi ông quăng đũa đứng dậy mà nói rằng: “Tại bà đa! Tại bà giục gả lắm, bây giờ như vậy đó cho sáng con mắt bà”. Mới 9 giờ sớm mai mà con Mang đã bưng mâm cơm lên để trên ván, rồi chạy ra vườn kiếm chủ mà mời vô ăn. Bà Kế hiền đương coi cho thằng Ngộ bẻ dừa, bà nghe mời ăn cơm thì bà nói rằng: “Tao mới nhai miếng trầu chưa dập mà ăn cơm giống gì. Vô lấy lồng bàn (2) mà đậy lại, để tao coi cho nó bẻ hết liếp nầy rồi tao vô”. Thằng Ngộ bẻ dừa quăng dưới đất thùi thụi. Bà Kế hiền mặc áo bà ba xuyến đen, quần lụa trắng, chơn đi guốc sơn đỏ, đầu đội khăn hột mè, bà đứng một tay chống nạnh, một tay xỉa thuốc, bộ tướng mạnh mẽ lắm, coi thế các con chưa dẽ hưởng gắp huê lợi ruộng đất được. ----- (2) Dụng cụ bằng tre, dùng đậy đồ ăn trên bàn Bà ngước mặt mà đếm coi còn mấy quày dừa sẽ bẻ được, thình lình bà nghe tiếng xe hơi chạy ngoài lộ, tới nay cửa ngõ rồi lại bóp kèn mà quẹo vô nhà. Bà chắc là Thượng Tứ về nên trong trí bà nghĩ thầm rằng: “Thằng hay đi quá! Mới về bển hồi xế hôm qua, bữa nay lại trở qua nữa!”. Ban đầu bà tính không thèm vô, mà một lát bà nghĩ không biết chừng con chưa ăn cơm, nên bà vô đặng cho nó ăn với bà, kẻo đồ ăn nguội hết. Bà vô tới sân, thiệt thấy xe nhà, song Thượng Tứ đã vô nhà rồi nên bà không gặp. Bà vô tới trong nhà mới thấy Thượng Tứ mặc một bộ đồ lụa trắng, đương đứng rửa mặt. Bà vừa cười vừa nói rằng: - Thằng quỉ này nó có cái xe nó đi mãi. Ăn cơm rồi chưa? - Chưa. - Thôi, rửa mặt rồi đi ăn cơm luôn thể. Mang a, lấy thêm chén đũa, con. Bà bước lại dở lồng bàn lên mà dẹp một bên, rồi bà bưng tô nước mà súc miệng. Con Mang bới cơm và đem thêm một cái chén một đôi đũa. Mẹ con ngồi ăn cơm. Bà nói chuyện dong dài, song bà không dè nên bà không nói tới con dâu. Cậu còn giận mà lại mệt, nên cậu ừ hữ cầm chừng với mẹ, và riết hết chén cơm rồi cậu đi uống nước. Cậu đương đứng tại cửa sau, cậu thấy thằng Ngộ ngoài vườn đi vô, cậu kêu mà nói nhỏ ít tiếng rồi cậu bỏ vô buồng mà nằm. Bà Kế hiền ăn cơm rồi, bà thấy vắng con, bà bước vô buồng con, thì thấy con đã ngủ khò. Ba quay trở ra, lại gặp thằng Ngộ vác rương đi vô. Bà hỏi rằng: - Rương ở đâu vậy? - Thưa, rương ở đâu không biết, cậu Tư chở trên xe. Hồi nãy cậu có biểu tôi chừng ăn cơm rồi ra vác đem vô buồng cho cậu. - Rương nầy là rương của nó mà. Nó đem về bên nây làm gì. Thằng Ngô vác thẳng cái rương vô buồng mà để. Bà Kế hiền bước vô dở nhớm nấp rương bà thấy rương khóa chặt, nên bà trở ra bộ ván gõ giữa mà nắm. Cái rương ấy nó làm cho bà phải suy nghĩ hoài, nên bà nằm không yên, một lát ngồi dậy ăn trầu rồi nằm xuống, bà không đi ra ngoài vườn nữa. Đến nửa chiều, Thượng Tứ mới thức dậy. Bà Kế hiền đợi cậu rửa mặt chải đầu xong rồi bà mới hỏi rằng: - Sao con đen rương con về bên nây? - Chớ để bển làm giống gì? - Sao vậy? - Tôi không thèm ở bển nữa. - Thằng quỉ nầy, khéo nói nhiều chuyện hôn! Giao ở bển, thì phải ở chớ nói chúng chứng với ai vậy? - Má muốn ở thì má qua đó má ở. Tôi không thèm ở nữa đâu. Đồ khốn nạn quá, ai ở cho được. - Cha chả! Con gì mà ngang tàng quá như vầy không biết! Ai khốn nạn? Khốn nạn làm sao đâu nói nghe thử coi? - Một lũ khốn nạn hết thảy. Con đó cũng vậy, mà cha mẹ nó cũng vậy. - Trời ơi! Nó nói hơi dộng đầu xuống đất, trở cẳng lên trời, ai chịu nổi thì chịu thử coi nè! Ai đời cha mẹ vợ nó mà nó dám kêu là một lũ khốn nạn chớ! Khốn nạn làm sao đâu, tao biểu mầy nói cho tao nghe sao mầy không nói? - Đồ gì mà hễ mở miệng ra thì binh con. Tại má a, tại má cho tôi ở bển, họ tưởng đâu tôi mạt rồi, theo ăn chực cơm của họ, nên họ mới làm phách như vậy đó. - Trời đất ơi! Người ta hiền lành hết sức, vợ chồng cắn cơm không bể, mà nó dám nói nhiều chuyện như vậy chớ. Ý hị! Vô phước quá … Tao biểu mầy phải trở qua bển mà ở. Cưới vợ giao ở bên vợ thì phải ở, tao không chứa mầy đâu. - Ủa! Mà không chứa sao được. Nhà của tôi thì tôi ở, má có phép gì má đuổi? - Ừ, tao đuổi mầy qua bên vợ mà ở, tao không cho ở trong nhà tao. - Nhà gì mà nhà của má? Má dở tờ di chúc của cha ra mà coi. Cha trí nhà nầy làm nhà thờ, cha giao cho tôi ở mà phụng tự ông bà, má đuổi tôi cái gì? Bà Kế hiền nghe nói tới câu đó thì bà giận muốn ói mật. Bà nghẹn cổ, ứa nước mắt, bà nói không được nữa, nên bà vói tay kéo ô trầu lại gần têm mà ăn. Thượng Tứ bỏ đi vô buồng. Bà Kế hiền leo lên võng năm đưa lúc lắc, tay gát qua trán, miệng nhóc nhách nhai trầu, một lát nghe bà thở dài một cái, thì đủ biết bà lo rầu lung lắm. Cách một hồi lâu, Thượng Tứ ở trong buồng bước ra, mình mặc một bộ đồ tây tút xo, đầu đội một cái nón nỉ xám sậm, mùi dầu thơm bay bát ngát. Bà Kế hiền ngồi dây hỏi rằng: - Bây giờ tính đi đâu mà thay đồ tây đó hử? - Đi lên chợ chơi. - Chơi hoài! Chơi làm chi không biết! Nầy con, con ngồi đó, để má nói cho con nghe. Con đừng có dại như vậy. Vợ chồng có giận nhau, con nói vợ con làm sao con nói, con đừng có hỗn với cha mẹ vợ chớ. Con nói bậy nói bạ, sui gia người ta phiền tới má, biết hôn? Thôi, con đi với má về bển, đặng má giáp mặt con Tư, má hỏi coi tại sao mà rầy rà với nhau như vậy. Con ngồi đó chờ má gỡ đầu rồi má đi với con. - Má đi đâu má đi. Tôi lên chợ tôi chơi. Tôi nhứt định không thèm bước chưn tới nhà đó nữa đâu; tôi thề nếu tôi trở về đó nữa thì lịnh ông Quan Đế vặn họng tôi đi. - Ê! Đừng có nói bậy nà! Chuyện gì mà thề. Nhà cha vợ con mà con không tới, vậy chớ con tới nhà ai? - Tôi không thèm vợ con gì nữa hết. - Ủa! Không thèm sao được? Vậy chớ vợ của con đó, con bỏ cho ai? - Nó lấy ai nó lấy, tôi bỏ, tôi không thèm nữa. - Con nói cái gì vậy? - Đồ như chúa ôn, mà cha mẹ nó nói hơi cầu cao; tôi ghét lắm; tôi nhứt định bỏ, để kiếm vợ khác coi có hơn nó hay không mà. - Ý hị! Có vợ như vậy mà còn chê người ta tệ mạng, thiệt má không biết nói sao nữa được. Má nghĩ má vô phước quá! Mà sanh có một mình con, mọi việc má đều lo cho con hết thảy, đến nỗi đầu nầy oán, đầu kia thù cũng vì con, mà bây giờ con không biết thương má, thiệt má tiếc lắm. - Tôi có nói má giống gì đâu, mà má nói tôi không thương má? - Con thương má sao má nói con không chịu nghe lời. - Má biểu giống gì bây giờ tôi cũng chịu hết thảy, duy có trở về bên vợ, thiệt là không được. Họ kỳ quá mà; họ nói tôi nghe tôi ghét quá, ở chịu sao nổi. - Má biểu con có một việc đó… - Không được, tôi có thề rồi. Thượng Tứ nói dứt tiếng liền bước ra cửa leo lên xe mà đi. Bà Kế hiền lắc đầu, thấy con như vậy bà buồn quá, nên nằm chèo queo trên võng, ăn một đợt năm sáu miếng trầu, mà bà không nói với mấy đứa ở một tiếng chi hết. Đêm đó Thượng Tứ không về ngủ, mà sáng bữa sau đến chín mười giờ cũng không thấy cậu về. Bà Kế hiền chờ hết hơi mà không được, cùng thế bà biểu dọn cơm cho bà ăn, rồi bà mướn một cỗ xe ngựa mà đi qua chợ Ông Văn, bà tính qua trước thăm chị sui, sau hỏi coi tại làm sao mà con dâu bất hòa với nhau như vậy. Trời nắng chang chang, gió thổi phay pháy. Xe chạy cục kịch trên bờ lộ, một lát người xa phu phải giựt cương, tróc lưỡi, hoặc phải lấy roi mà quất nhẹ nhẹ một cái trên đít, con ngựa mới nhớm chạy mau mau, mà mau đó là mau theo sức ngựa dở mà thôi, bởi vì bà Kế hiền ngồi trên xe bà buồn, nên bà trông chừng hoài, mà không thấy tới. Chớ chi đi đường có ai nói chuyện, hoặc có cảnh chi lạ mà ngó chơi, thì có lẽ cũng giải khuây được; ngặt vì bà ngồi một mình với tên xa phu, hai bên ruộng lúa, trước mặt cũng ruộng, sau lưng cũng ruộng, đám lúa đương trổ thì coi màu xám xám, đám lúa gần chín thì coi màu vàng vàng, trên lộ không thấy kẻ đi đường, ngó chừng mấy xóm xa xa chỗ nào cũng dừa với cau chớ chẳng có chi lạ mắt. Bà buồn chừng nào, bà càng nhớ tới chuyện con, mà nhớ tới chuyện con bà còn lo rầu hơn nữa. Xe ngừng ngoài cửa ngõ, bà Kế hiền thủng thẳng che dù đi vô. Mấy con gà đương rảo trước sân kiếm ăn, chúng nó thấy bà thì vụt chạy. Con chó mực nằm ngủ trước thềm, nghe động đất nó cũng thức dậy mà sủa. Bà Hội đồng đương nằm trên ván, bà ngó thấy chị sui, bà lật đật bước ra la chó rồi mời chị sui vào. Bà kêu mấy đứa ở biểu chến nước lấy trầu; bà lấy dao bửa cau, bà kêu đem ống nhổ. Bà Kế hiền ngó chừng mấy cửa buồng rồi ngó xuống phía nhà dưới, có ý kiếm con dâu. Cô Ba Mạnh mình mặc một cái áo xuyến cũ, một cái quần lãnh đen nhục nhục, chơn không có giày guốc chi hết, cô ở dưới nhà dưới đi lên chào mẹ chồng, bộ vui vẻ như thường. Cô xin với mẹ trao con dao với trái cau lại cho cô bửa. Bửa cau rồi cô đứng cắt cuống trầu; bà Kế hiền liếc dòm cô, bà chẳng thấy có vẻ chi lạ. Ông Hội đồng ăn cơm rồi ông nghỉ trưa trong buồng. Ông nghe nói có khách chộn rộn, ông bước ra chào hỏi chị sui, rồi ông ngồi bên bộ ghế giữa, vấn thuốc mà hút. Hai bà sui, bà nào cũng muốn đem chuyện con mà nói, song không bà nào dám khởi đầu, bởi vậy ngồi uống nước ăn trầu nói chuyện với nhau rất lâu, mà chẳng nghe nói chuyện chi khác hơn là hỏi thăm mùa màng, hỏi ruộng trúng hay thất, hỏi lúa chín hay chưa. Ông Hội đồng tánh chơn chất, ít nói mà nóng nảy, ông ngồi chờ hoài ông lấy làm khó chịu, nên vùng hỏi chị sui rằng: - Thằng Ba nó có về bên chị hay không? - Thưa, nó về bển. - Hôm qua nó đánh vợ nó rồi nó chở đồ đi, nó không thèm nói với vợ chồng tôi một tiếng gì hết. - Bất nhơn dữ hôn! Sao mà tới đánh vợ nó lận? Hèn chi nó về bển bộ nó buồn hiu. Tôi hỏi nó về chi mà về hoài vậy: nó nói về chơi. Tôi tưởng thuở nay nó ở nhà nó quen, qua ở bên nây nhà lạ nó nhớ nhà nên nó buồn, chớ tôi có dè chuyện gì đâu. - Thằng quá quắc lằm mà. Tôi nói trước cho chị biết, nó phải hư. Tôi coi rồi, thằng bất trị lắm, làm thế nào nó cũng không nên được. Ông Hội đồng nói vắn tắt mà châm hẩm lắm, làm cho bà Kế hiền ngồi ngẩn ngơ, không biết sao mà trả lời. Bà Hội đồng thấy vậy, bà muốn sửa câu chuyện nghe cho dịu ngọt, nên bà nói rằng: “Thằng Ba nó về bên nây hơn một tháng nay, tôi coi ý nó còn ham chơi quá. Bữa nào nó cũng xách xe đi chơi hoài, không nghe nó tính làm ăn chi hết. Đời nầy thiên hạ họ ma quỷ lung lắm. Đi chơi làm giống gì. Mình có ăn, mình đi chơi rồi kẻ không phải nó rù quến bậy bạ, có phải hại cho mình hay không …”. Bà Kế hiền không đợi cho chị sui nói hết câu chuyện, bà chận mà đáp rằng: - Chị nói phải lắm. Đi chơi thì hại chớ có ích lợi gì. Tôi thưa thiệt với anh chị, tôi có một mình nó, tôi cưng nó quá, nên từ hồi nhỏ cho tới bây giờ nó chúng chứng muốn ngang nào được ngang nấy. Nay nó về bên nây với anh chị, tôi xin anh chị răn dạy nó giùm cho tôi. Nó sợ anh chị có lẽ nó sửa tánh được. - Vợ chồng tôi thấy nó mới về ở, nếu dạy dỗ nó gấp quá e nó buồn. - Có hại gì! Chị thấy nó làm sái chỗ nào, chị rầy liền nó đi mà. Nó là con rể trong nhà. Ngại giống gì. - Chớ chi nó đi chơi, mà về nhà nó ăn ở cho có lễ nghĩa chẳng nói làm gì. Cái nầy nó đi riết hết tiền, rồi bữa hổm nó biểu vợ nó phải mở tủ sắt lấy bạc đưa cho nó. Vợ nó không dám, nó mắng chưởi rồi leo lên xe mà đi, nó không thèm nói một tiếng gì với vợ chồng tôi hết. - Thằng bất nhơn quá! Vậy mà tôi có hay đâu! Nó về ở bển mấy bữa, nó có nói giống gì đâu mà biết. Tôi có cho nó mấy trăm đồng bạc, sao nó không lấy bạc đó mà xài, lại hỏi vợ nó chi vậy kia. Có lẽ nó muốn thử bụng con Tư hay sao chớ? - Thưa phải. Sớm mới hôm qua nó về. Thầy nó có nói chuyện phải quấy cho nó nghe. Nó nói nó muốn thử bụng vợ nó, chớ không phải nó muốn xài đồng tiền của vợ chồng tôi. Nó phành bốp, chưng giấy xăn với vợ chồng tôi, coi ngộ lắm … - Thằng dại quá! - Thưa, nó dại thiệt. Bởi thấy nó dại, nên vợ chồng tôi cũng không chấp gì. - Thưa, phải. Nớ là con rể trong nhà, nó khờ dại thì anh chị trong nhà rầy la nó, chớ có lẽ nào mà chấp nhứt. - Chưa có rầy la. Thầy nó mới giảng chỗ phải chỗ quấy cho nó nghe mà thôi. Tưởng là nó biết nghe, té ra mới nói với nó đó, rồi nó vô buồng nó chưởi vợ nó nát tan hết. Con nhỏ tôi nó không biết chưởi, mà thẳng cứ theo chưởi cha nó hoài. Nó giận nên nói đi nói lại, rồi thẳng nhảy nắm đầu thoi đạp nó gần chết. Đó, bữa nay mà con mắt còn đỏ, trán còn u một cục đó … Con Mạnh mới đây bỏ đi đâu mất rồi? Lên biểu đây con. Cô Ba Mạnh ở dưới nhà dưới đi lên, cặp mắt cô ướt rượt. Bà Kế hiền ngó mặt dâu và nói rằng: “Thằng bất nhơn ác nghiệt quá! Thiệt nó là du côn rồi! Để tôi về tôi biểu bầy trẻ căng dùi nọc, tôi đánh nó cho nó tởn. Dầu quấy, dầu phải, cũng thủng thẳng lấy tiếng nói mà nói, chớ sao lại đánh người ta”. Bà Kế hiền vẫn biết tánh nết con; bà nghe như vậy thì bà chắc là có, nên bà buồn lung lắm. Bà lấy trầu têm mà ăn, mà ba suy nghĩ coi phải dùng lời nào mà chữa lỗi cho con. Bà ngồi một hồi lâu rồi nói rằng: “Con tôi nó ở bên nây, mà nó không kiêng nể anh chị, nó đánh vợ nó như vậy, thiệt nó lỗi lắm. Tuy vậy mà tôi xin anh chị nghĩ nó còn dại khờ mà tha lỗi cho nó; vợ chồng nó còn con nít, sao cho khỏi xích mích với nhau. Nếu anh chị không thương, anh chị chấp trách, thì tội nghiệp cho nó. Để tôi về tôi rầy nó, rồi tôi biểu nó qua lạy anh chị mà xin lỗi. Hèn chi hồi sớm mới tôi biểu nó đi qua bên nây với tôi, nó rút cổ không dám”. Ông Hội đồng châu mày nói rằng: “Nó ghét vợ chồng tôi, nó tính không thèm ở bên nây nữa. Hôm qua nó đi, nó chở đồ đạt đi hết. Nó không chịu trở qua nữa đâu mà chị biểu nó cho thất công”. Bà Kế hiền gượng cười mà đáp rằng: - Thưa anh, anh giận anh nói như vậy, chớ có lẽ nào mà nó không chịu trở qua bên nây. Nó dại nó đánh vợ nó, rồi nó sợ anh chị rầy, nên nó trốn chạy về bển đó chớ. - Ờ, tôi nói vậy, nếu chị không tin thì chị biểu thử coi rồi biết mà. - Thiệt thằng nhỏ tôi có tánh cang cương nhưng mà áo mặc sao qua khỏi đầu. Tôi xin anh chị thương, anh chị hỉ xả cho nó thì mới được. Xưa rày lần nào về bển nó cũng nói nó sợ anh chị quá, nó không dám nói chuyện gì với anh chị hết. Nó muốn xin với anh chị cho vợ chồng nó về bên tôi mà ở. Tôi rầy nó, tôi nói anh chị có một mình con Tư, nếu dắt nhau về bên tôi thì anh chị buồn. - Về bển sao được. Hồi tôi gả con Mạnh, vợ chồng tôi có giao nó phải ở với tôi. Bây giờ tôi có chịu cho đi đâu. - Bở vậy tôi mới rầy nó. Bà Kế hiền vẫn đã biết ý con bà rồi, song nói chuyện với sui gia bà phải môi miếng chút đỉnh. Bà dọ ý, thấy anh sui quyết không cho con dâu của bà đi về bển thì bà lấy làm buồn. Chàng rể không chịu ở với bên vợ, anh sui gái không chịu cho con theo chồng, bây giờ phải làm sao? Bà Kế hiền lo liệu trong trí lung lắm, song bà phải gắng gượng làm vui mà nói chuyện với sui gia cho người ta khỏi thấy cái buồn cái lo của mình. Cô Ba Mạnh lo cơm nước dưới bếp lăng xăng, đến xế mới dọn một mâm cơm bưng lên đãi mẹ chồng: Bà Kế hiền ăn cơm rồi mới từ giã sui gia mà về. Cô Ba Mạnh đưa bà ra xe. Lúc sửa soạn bước lên xe, bà nói với dâu rằng: “Chồng con nó ngỗ nghịch lắm, nhưng mà má khuyên con đừng có phiền. Má sợ e nó làm bậy rồi, nên nó không dám léo hánh qua bên nây nữa. Như nó không qua, thì vài bữa con về bển mà thăm má, nghe hôn con”. Cô Ba Mạnh cúi đầu, mà cô ứa nước mắt. Bà Kế hiền lên xe rồi ngựa rút chạy, lục lạc khua lổn rổn …