🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Con Người Trở Thành Khổng Lồ Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn M. I-lin và E. Xê-gan CON NGƯỜI TRỞ THÀNH KHỔNG LỒ Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va © Dịch ra tiếng Việt và minh họa In theo bản dịch của Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà-nội Người hiệu đính: Mai-lý-Quảng М. Ильин, E. Сегал КАК ЧЕЛОВЕК СТАЛ ВЕЛИКАНОМ На вьетнамском языке Trình bày và ma-két của L. Sca-nôp. Phần ảnh làm theo các tài liệu của Viện bảo tàng lịch sử. Ảnh của V. Séc-tôc. - Minh họa của các họa sĩ Côn-li và Grô-man. Nhà xuất bản Tiến bộ, 1982 In tại Liên Xô https://thuviensach.vn Nguồn sách in: thichankem Scan: bun_oc Nhận dạng: 4DHN Sửa lỗi nhận dạng: thichankem, 4DHN, hhanhh, hmduc44 Kiểm tra chính tả lần cuối: 4DHN Chế bản: Nhóm Tây Phong Lĩnh Thể loại: Lịch sử Thời gian hoàn thành: 14-6-2015 Ebook này được thực hiện theo dự án “SỐ HÓA SÁCH CŨ” của diễn đàn TVE-4U.ORG https://thuviensach.vn Nội dung cuốn sách này đã được A-lếch-xây Mác-xi-mô-vích Goóc-ki, nhà văn vô sản vĩ đại gợi ý. Ông nói: “Các anh có biết, nếu như tôi viết cuốn sách này thì tôi mở đầu như thế nào không? Hãy hình dung một không gian vô tận. Những vì sao, những tinh vân... Ở một nơi nào đó, trong lòng vũ trụ mênh mông mặt trời vừa mới rực cháy. Và các hành tinh tách ra khỏi mặt trời; rồi trên một hành tinh nhỏ bé có một vật thể sống ra đời. Vật thể đó đã bắt đầu ý thức được mình. Thế là con người đã xuất hiện...” Vào năm 1936, hai tác giả đã bắt tay vào viết cuốn truyện về sự xuất hiện của con người, về việc con người tập làm việc, tập suy nghĩ, rồi tìm ra lửa, ra sắt, về việc con người đã chinh phục được thiên nhiên, đã nhận thức được thế giới và cải tạo thế giới. TRÊN TRÁI ĐẤT CÓ MỘT SINH VẬT KHỔNG LỒ. CÁNH TAY NÓ CÓ THẾ NHẤC BỔNG MỘT CÁCH NHẸ NHÀNG CẢ MỘT ĐẦU MÁY XE LỬA. ĐÔI CHÂN NÓ CÓ THẾ CHẠY HÀNG NGHÌN CÂY SỐ MỖI NGÀY, SINH VẬT ĐÓ CÓ CÁNH BAY LÊN TRÊN NHỮNG TẦNG MÂY CAO HƠN MỌI LOÀI CHIM. SINH VẬT ĐÓ CÓ VÂY ĐỀ BƠI GIỎI HƠN CÁC LOÀI CÁ. MẮT NÓ NHÌN ĐƯỢC VẬT VÔ HÌNH; TAI NÓ NGHE THẤU SUỐT TỪ LỤC ĐỊA NAY QUA LỤC ĐỊA KHÁC. NÓ CÓ ĐỦ SỨC MẠNH ĐỂ CHỌC THỦNG CẢ NÚI, CHẶN ĐỨNG NHỮNG THÁC NƯỚC ĐANG CUỒN CUỘN CHẢY. SINH VẬT ĐÓ CẢI TẠO ĐƯỢC TRÁI ĐẤT TÙY THEO Ý MUỐN. NÓ TRỒNG ĐƯỢC RỪNG, NỐI LIỀN ĐƯỢC CÁC BIỂN RỘNG VÀ TƯỚI NƯỚC CHO CÁC SA MẠC KHÔ CẰN. SINH VẬT KHỔNG LỒ ĐÓ LÀ AI? ĐÓ CHÍNH LÀ CON NGƯỜI. https://thuviensach.vn NHƯNG CON NGƯỜI ĐÃ LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRỞ THÀNH KHỔNG LỒ VÀ LÀM CHỦ TOÀN TRÁI ĐẤT? ĐÓ LÀ ĐIỀU MÀ CHÚNG TÔI MUỐN KỂ LẠI TRONG CUỐN SÁCH NÀY. https://thuviensach.vn MỤC LỤC CHƯƠNG I CÁI LỒNG VÔ HÌNH MỘT CUỘC DẠO CHƠI TRONG RỪNG NHỮNG TÙ BINH CỦA RỪNG LOÀI CÁ TỪ DƯỚI NƯỚC LÊN TRÊN CẠN NHƯ THẾ NÀO? NHỮNG NHÂN CHỨNG KHÔNG LỜI CON NGƯỜI TIẾN TỚI TỰ DO GẶP TỔ TIÊN CỦA LOÀI NGƯỜI CHƯƠNG II ÔNG BÀ VÀ ANH EM HỌ CỦA CON NGƯỜI. NHÂN VẬT CHÍNH TRONG CUỐN TRUYỆN CỦA CHÚNG TA RÔ-DA VÀ RA-PHA-EN, NHỮNG ANH EM HỌ CỦA TA CÓ THỂ BIẾN MỘT CON KHỈ THÀNH NGƯỜI ĐƯỢC KHÔNG? CON NGƯỜI TẬP ĐI HAI CHÂN GlẢI PHÓNG CHO HAI TAY RẢNH RANG ĐỂ LAO ĐỘNG CON NGƯỜI TỪ TRÊN CÂY XUỐNG DƯỚI ĐẤT MẮT XÍCH BỊ MẤT CHƯƠNG III https://thuviensach.vn CON NGƯỜI VI PHẠM NHỮNG LUẬT LỆ CỦA THIÊN NHIÊN THEO DẤU VẾT NHỮNG CÁNH TAY CÁI XẺNG VÀ CÁI THÙNG SỐNG CHIẾC XẺNG THAY THẾ BÀN TAY CON NGƯỜI VÀ DÒNG SÔNG - HAI NGƯỜI THỢ LÀNH NGHỀ MỞ ĐẦU TIỂU SỬ CON NGƯỜI CHẾ TẠO THỜI GIAN CON NGƯỜI HÁI LƯỢM CHƯƠNG IV TAI HỌA ĐẾN GẦN CUỘC “CHIẾN TRANH” GIỮA CÁC RỪNG CÂY NGÀY TẬN THẾ KHỞI ĐẦU CỦA THẾ GIỚI CUỐN SÁCH VỚI NHỮNG TRANG BẰNG ĐÁ CON NGƯỜI RỜI KHỎI RỪNG RÚ CUỘC GANH ĐUA CHẤM DỨT CON NGƯỜI TÁI TẠO THIÊN NHIÊN CHƯƠNG V CUỘC DU HÀNH ĐẦU TIÊN VỀ QUÁ KHỨ MỘT CUỘC HỌC NGHỀ DÀI HÀNG NGHÌN NĂM https://thuviensach.vn CUỘC DU HÀNH THỨ HAI TRỞ VỀ QUÁ KHỨ TIẾNG NÓI KHÔNG CÓ ÂM TIẾT NHỮNG ĐIỆU BỘ HÌNH ẢNH TRANG TỪ ĐIỂN NHỮNG ĐIỆU BỘ HÌNH ẢNH NGÔN NGỮ BẰNG ĐIỆU BỘ NGÀY NAY CON NGƯỜI DẦN DẦN CÓ TRÍ TUỆ LƯỠI VÀ CÁNH TAY ĐÃ THAY ĐỔI VAI TRÒ DÒNG SÔNG VÀ NHỮNG NGỌN NGUỒN CỦA NÓ CHƯƠNG VI NGÔI NHÀ BỎ HOANG CÁNH TAY CON NGƯỜI ĐÃ DÀI RA MỘT NÚI THỊT ĐỔ NHỮNG CON NGƯỜI MỚI CHƯƠNG ĐẦU VỀ LỊCH SỬ NGÔI NHÀ NHÀ Ở CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐI SĂN THỜI TIỀN SỬ TRIỂN LÃM HỘI HỌA TRONG HANG NGẦM BÍ MẬT ĐƯỢC GIẢI ĐÁP CHƯƠNG VII MỘT THẾ GIỚI ĐẦY PHÉP LẠ TỔ TIÊN CHÚNG TA HÌNH DUNG THẾ GIỚI RA SAO? NÓI CHUYỆN VỚI TỔ TIÊN https://thuviensach.vn TÀN TÍCH CỦA NGÔN NGỮ CỔ XƯA CHƯƠNG VIII BĂNG HÀ RÚT LUI TÙ NHÂN CỦA BĂNG GIÁ CON NGƯỜI TUYÊN CHIẾN VỚI RỪNG CÂY NGƯỜI BẠN BỐN CHÂN CON NGƯỜI GIAO CHIẾN VỚI CÁC DÒNG SÔNG MỘT CĂN NHÀ CỦA NGƯỜI ĐI SĂN KIÊM NGHỀ ĐÁNH CÁ THỦY TỔ CỦA CON TÀU VƯỢT ĐẠI DƯƠNG NHỮNG NGƯỜI THỢ THỦ CÔNG ĐẦU TIÊN HẠT LÚA LÀM CHỨNG QUÁ KHỨ CÒN SÓT LẠI TRONG HIỆN TẠI KHO LƯƠNG THỰC DIỆU KỲ CHƯƠNG IX ĐỒNG HỒ CHẠY NHANH BÍ MẬT CỦA MỘT CÁI HỒ NHỮNG TẤM VẢI ĐẦU TIÊN NHỮNG NGƯỜI THỢ MỎ VÀ LUYỆN KIM ĐẦU TIÊN NHỮNG NGƯỜI LÀM RUỘNG ĐẦU TIÊN Ở NƯỚC NGA LỊCH LAO ĐỘNG https://thuviensach.vn CHƯƠNG X HAI THỨ LUẬT PHÁP MỘT “THẾ GIỚI MỚI” LÂU ĐỜI MỘT CHUỖI SAI LẦM CHƯƠNG XI ĐÔI HÀI NGHÌN DẶM NGÔI NHÀ CỔ BẮT ĐẦU RẠN NỨT NHỮNG NGƯỜI DU MỤC ĐẦU TIÊN NHỮNG CÔNG CỤ SỐNG TRÍ NHỚ VÀ CUỐN SỔ TAY NHỮNG NGƯỜI NÔ LỆ VÀ NHỮNG NGƯỜI TỰ DO QUÁ TRÌNH CÁI LỀU BIẾN THÀNH CÁI NHÀ, VÀ CÁI NHÀ ĐÃ TRỞ NÊN THÀNH PHỐ CUỘC VÂY ĐÁNH MỘT THÀNH LŨY NHỮNG NGÔI MỘ KỂ CHUYỆN GÌ VỀ ĐỜI SỐNG NGƯỜ1 XƯA CON NGƯỜI TẠO RA MỘT KIM LOẠI MỚI CỦA MÌNH VÀ CỦA NGƯỜI MỘT TRẬT TỰ XÃ HỘI MỚI BẮT ĐẦU CHƯƠNG XII NHỮNG BƯỚC ĐẦU TIÊN CỦA KHOA HỌC CÁC THIÊN THẦN RÚT LUI LÊN TRỜI https://thuviensach.vn THẾ GIỚI MỞ RỘNG NHỮNG NGHỆ SĨ ĐẦU TIÊN VIỆN BẢO TÀNG CỦA CHÚNG TÔI Chú thích https://thuviensach.vn CHƯƠNG I CÁI LỒNG VÔ HÌNH Thời xưa, con người chưa phải là khổng lồ, mà còn là một con vật nhỏ bé, chẳng những không làm chủ được tự nhiên, mà chỉ là một kẻ nô lệ ngoan ngoãn. Con người hầu như không có quyền lực gì đổi với thế giới, cũng như chẳng có tự do y như muôn thú trong rừng, chim chóc trên trời. Người ta thường hay nói: “Tự do như chim”. Nhưng thực ra con chim có hoàn toàn tự do đâu! Đúng là nhờ đôi cánh, chim có thể bay qua các khu rừng, vượt biển cả, núi cao. Chúng ta ai mà chẳng thèm muốn được như những đàn sếu, cứ mùa thu đến là bay đi tìm những xứ sở ấm áp để tránh giá rét mùa đông. Chúng lũ lượt kéo đi từng đàn trên trời cao tít, khiến mọi người ngửa cổ nhìn theo mà nhủ thầm: “Chao ôi, loài chim sung sướng quá! Chúng tha hồ muốn bay đến đâu thì bay!”. Nhưng có loài chim thật như thế không? Có phải là đàn chim kia bay đi chỉ vì chúng thích những cuộc viễn du hay không? Chắc chắn không phải như https://thuviensach.vn vậy! Chúng bay đi từng đàn như thế đâu phải là để thỏa cái thích riêng của chúng. Chúng bay đi là một điều tất yếu để gìn giữ sự sinh tồn mà biết bao thế hệ các loài chim đã làm trong suốt bao nghìn năm. Loài chim di chuyển dễ dàng đến nỗi ta có thể tưởng rằng giống chim nào cũng có thể sinh sôi nảy nở khắp mọi nơi trên trái đất. Nếu quả đúng như vậy thì ta sẽ gặp chú vẹt với bộ lông xanh đỏ ở trong các rừng thông và rừng bạch dương, sẽ nghe thấy tiếng chim sơn ca hót cả ở trong các rừng cây lớn. Nhưng sự thật lại khác: loài chim không được tự do như ta tưởng. Mỗi giống chim có một chỗ ở nhất định trên trái đất. Có giống ở trong rừng, có giống ở thảo nguyên, có giống ở bờ biển. Hãy lấy đại bàng làm ví dụ. Cánh nó khỏe biết bao. Thế nhưng ngay cả đại bàng cũng chọn một khu vực nhất định để sinh sống, khu vực ấy có thể khoanh lại dễ dàng trên bản đồ. Giống đại bàng lông vàng không bao giờ làm tổ ở thảo nguyên ít cây cối. Giống đại bàng thảo nguyên, thì chẳng khi nào làm tổ trong rừng. Hầu như giữa rừng và thảo nguyên có một bức tường vô hình ngăn cách; bức tường này không phải mọi giống thú và loài chim đều có thể vượt qua được. Không bao giờ các bạn có thể thấy ở thảo nguyên những muông thú trong rừng như sóc, gà rừng, chim chích. Trái lại trong rừng thì không thấy những https://thuviensach.vn giống vật sống ở thảo nguyên như chim báo, chuột nhảy chẳng hạn. Và ngay cả ở trong rừng và ở thảo nguyên cũng có những bức ngăn vô hình phân chia thành muốn vàn thế giới nhỏ riêng biệt. MỘT CUỘC DẠO CHƠI TRONG RỪNG Đi dạo trong rừng, ta luôn luôn vượt qua những bức tường vô hình đó. Nếu trèo lên cây, đầu ta sẽ chọc thủng những cái trần mà mắt không nom thấy. Thành thử rừng cây cũng giống như một tòa nhà khổng lồ ngăn ra làm nhiều tầng và nhiều gian, mà mắt ta không trông thấy. Thực ra, khi đi trong rừng cây ta cũng thấy cảnh vật thay đổi; các cây bách nhường chỗ cho các cây thông; các cây thông nơi thì cao, nơi thì thấp hơn. Có chỗ ta giẫm chân lên đám rêu xanh, có chỗ là cỏ rậm hay rêu địa y xám. Dưới con mắt người dân thành thị đi nghỉ thì rừng nào cũng như rừng nào. Nhưng nếu hỏi một người coi rừng thì ông ta sẽ giải thích cho biết là ở đây không phải chỉ có một loại rừng, mà có những bốn loại rừng khác nhau. Ở các vùng đất thấp và ẩm là khu cây tùng bách, mặt đất phủ một lớp rêu mọc cao, mềm mại. Xa nữa, trên những sườn đồi đất cát là rừng thông, ở đầy mặt đất phủ rau xanh khô cứng, lẫn với rất nhiều thứ quả. Lên cao hơn nữa, https://thuviensach.vn trên những đồi đất cát, là rừng bách, có lẫn rêu địa y khô[1], màu xám. Và ở những nơi đặc biệt ẩm ướt là rừng cây thấp, đất phủ rêu trắng. Như vậy ta đã vượt qua ba bức tường ngăn cách bốn loại rừng khác hẳn nhau mà không biết. Nếu như các khu rừng cũng giống như các ngôi nhà ở, có treo biển tên người thuê nhà, thì ta sẽ thấy ở ranh giới rừng tùng bách những biển chữ để tên các loài chim như sau: “bạch yến”, “chim chích”, “chim gõ kiến”, v.v... và ở rừng cây có lá thì sẽ để tên khác: “sáo”, “kim oanh”, “sơn tước”, v.v... Mỗi khu rừng lại chia ra làm nhiều tầng: Rừng thông có hai tầng, có khi ba. Ở sát mặt đất là nơi rêu hoặc cỏ mọc; tầng giữa là các bụi cây và tầng cao là ngọn các cây thông. Rừng cây sồi có bảy tầng. Tầng trên cùng cao vút thẳng lên trời là những ngọn cây sồi, cây tần bì, cây phong, cây bồ đề, những ngọn cây đầy lá, mùa hè thì màu xanh, mùa thu thì nhiều màu sặc sỡ, chính là mái của rừng. Dưới tầng đó là các cây thanh lương trà, táo rừng và lê rừng. Dưới nữa là các cây nhỏ mọc chen chúc: dẻ, sơn trà... Rồi đến các lớp hoa và quả khác nhau: bên trên là hoa hình quả chuông, rồi cây dương xỉ, rồi đến hoa linh lan. Dưới nữa là các hoa đồng thảo và dâu rừng. Mọc lè tè sát đất là rêu. Thế cũng chưa hết. Trong rừng còn một lớp bên dưới mặt đất, là nơi rễ cây, rễ cỏ ăn sâu xuống. Mỗi tầng của khu rừng, dù là rừng thông hay rừng cây có lá, đều là nơi trú của những giống vật khác nhau. Chim cắt làm tổ trên ngọn cây cao nhất. Chim gõ kiến làm tổ ở chỗ thấp hơn, trong những hốc cây kín đáo. Chim bạc má làm tổ trong các bụi cây. Ở tầng cuối cùng là con chim dẽ giun đi dạo ngay trên mặt đất. Và ở dưới hang thì lũ chuột đào các ngóc ngách để trú ẩn. Rừng giống như tòa nhà vĩ đại, có nhiều phòng thích hợp với mọi sở thích: các phòng trên cao thì quang đãng, khô ráo, các phòng bên dưới thì tối https://thuviensach.vn và ẩm. Có phòng thì lạnh lẽo, chỉ ở được về mùa hè; có phòng thì tha hồ ấm, ở được quanh năm. Hang chuột là những “căn buồng” rất ấm. Đo nhiệt độ trong một hang chuột ở sâu một mét rưỡi dưới đất thì thấy tám độ dương, trong lúc đó ở ngoài trời rớt tới mười tám độ âm. Hốc cây thì thua kém về điểm này: về mùa đông mà ở trong hốc cây thì có thể bị cóng. Trái lại, về mùa hè ở đây lại khoái tuyệt, nhất là đối với loại cú và loài dơi; chúng thường rời tổ bay đi kiếm ăn về đêm, còn ban ngày thì nằm nghỉ ngơi trong tổ mát mẻ, khuất ánh nắng mặt trời. Con người thường đổi chỗ ở luôn luôn, từ nhà này sang nhà khác, hoặc từ tầng này sang tầng khác. Đối với các loài sống ở rừng thì khác hẳn: chúng mà dời chỗ ở thì là cả một chuyện lôi thôi! Chim dẽ giun không bao giờ đổi cái tổ ẩm ướt, tối tăm của mình để lấy một cái hốc cao ráo, sáng sủa. Còn chú diều hâu quen sống chót vót trên cao thì chẳng khi nào lại làm tổ trên mặt đất, bên gốc cây. NHỮNG TÙ BINH CỦA RỪNG https://thuviensach.vn Ta hãy tưởng tượng là con sóc muốn đánh đổi chỗ ở với con chuột nhảy. Sóc thì vốn sống ở rừng, còn chuột nhảy thì sống ở thảo nguyên hay sa mạc. Con sóc tìm nơi trú ẩn ở trên cao, trong các hốc cây hay giữa các cành cây. Con chuột nhảy thì ẩn ở trong hang dưới mặt đất. Nếu muốn đổi chỗ ở với con sóc thì con chuột nhảy phải leo lên cây. Nhưng nó lại không biết leo trèo, vì chân nó không thích ứng với việc làm đó. Trái lại sóc ta không thể sống ở bên dưới mặt đất được! Thói quen của sóc buộc sóc phải sống trên cây. Cứ nhìn đuôi và cẳng con sóc thì cũng đủ biết là nó quen ở đâu rồi. Cẳng nó hầu như được tạo nên cốt để bíu vào cành cây, lượm hạt dẻ và quả thông. Đuôi nó giống hệt một cái dù để nhảy của phi công, nhờ thế mà sóc hầu như biết bay và có thể dễ dàng nhảy từ cành nọ sang cành kia, dùng đuôi để lái. Nhờ cái đuôi ấy, nó có thể nhào lộn như làm xiếc để chạy thoát con cầy đang rình đuổi bắt nó. Vì sống ở thảo nguyên, nên con chuột nhảy có cái đuôi và những cái cẳng khác hẳn. Ở đây đất phẳng, chẳng có bụi cây để ẩn nấp, chẳng có cây cao để trèo leo. Muốn trốn khỏi nanh vuốt kẻ thù thì chỉ có cách là chạy trốn, biến đi, náu mình dưới mặt đất. Chính con chuột nhảy đã làm như thế. Thấy bóng loài cú vọ, nó vội nhảy vọt về phía hang để trốn. Chính vì vậy mà bốn cẳng nó không đều nhau, cẳng sau dài và khỏe, tựa như những lò xo giúp nó nhảy https://thuviensach.vn vọt xa; cẳng trước ngắn và bé, dùng để đào đất thì tuyệt. Nó núp dưới hang để trốn kẻ thù. Ở trong hang lại còn tránh được nóng bức mùa hè và giá lạnh mùa đông. Còn cái đuôi thì thế nào? Đuôi nó là bộ phận giúp việc rất đắc lực cho hai đôi cẳng. Khi nó ngồi lên hai cẳng sau và đưa mắt dò xét các phía, thì đuôi nó là chỗ dựa, như một cái nạng. Khi nó nhảy thì đuôi giữ thăng bằng như một bánh lái; nếu không có cái đuôi ấy thì nó mất thăng bằng và dễ ngã chổng kềnh. Muốn đánh đổi chỗ ở, đổi rừng lấy thảo nguyên và đổi hốc cây lấy cái hang, thì sóc và chuột nhảy phải đổi luôn cả đuôi và cẳng cho nhau! Nếu nghiên cứu các giống vật khác ở thảo nguyên và trong rừng, ta sẽ thấy rằng chúng cũng tựa như bị cột chặt vào vị trí của mình bằng một cái xiềng vô hình khó lòng phá vỡ nổi. Thí dụ con dẽ giun, sở dĩ nó ở tầng thấp nhất là vì các thức ăn ưa thích của nó đều ở bên dưới mặt đất. Cái mỏ dài của nó rất thích hợp để kiếm giun. Không bao giờ ta thấy dẽ giun ở trên cây, vì nó ở cao như vậy có ích gì đâu! Còn con chim gõ kiến thì ít khi xuống tới đất. Suốt ngày nó bận bịu trên thân cây bách thông hay bạch dương. Nó làm gì ở đó? Nó tìm kiếm gì ở vỏ cây thế? Hãy nạy một mảnh vỏ cây bách ra, ta sẽ thấy nhiều đường rãnh ngoằn ngoèo. Ai đào những rãnh ấy? Đó là một con sâu chuyên ăn bám cây bách. Cuối mỗi đường rãnh có một cái tổ, ở đó giòi làm kén và biến thành sâu. Sâu ấy sống thích nghi với cây bách; và chim gõ kiến lại quen sống với sâu. Bởi vì mỏ cứng của nó chọc thủng vỏ cây, lưỡi dài và mềm của nó dễ dàng tóm lấy các con giòi và ổ kén trong tổ. Thế là ta đứng trước một thứ dây xích nối liền ba thứ: cây bách, sâu cây bách và chim gõ kiến. Đây mới chỉ là một trong những mắt xích buộc chim gõ kiến gắn chặt với cây, với rừng mà thôi. https://thuviensach.vn Ngoài ra, chim gõ kiến còn tìm thấy ở trên cây các giống sâu khác nữa để ăn. Mùa đông khéo léo kẹp chặt các quả thông vào giữa cành và thân cây để mỏ nhằn lấy hạt. Nó khoét thân cây làm tổ. Đuôi nó khỏe và cẳng nó có móng nhọn rất thích hợp với việc leo trèo. Vậy thì làm sao nó có thể rời bỏ rừng mà đi được. Tóm lại, nói đúng ra thì chim gõ kiến và con sóc không phải là những sinh vật sống trong rừng, mà là những “tù binh” của rừng rú. LOÀI CÁ TỪ DƯỚI NƯỚC LÊN TRÊN CẠN NHƯ THẾ NÀO? Rừng cây là một trong những thế giới nhỏ hợp thành vũ trụ bao la. Trái đất không phải chỉ gồm có thảo nguyên và rừng, mà còn có những núi non, đài nguyên, biển và hồ. Ở mỗi trái núi cũng có những bức tường vô hình ngăn cách một số lớn những thế giới nhỏ ở những tầng cao thấp khác nhau. Biển nào cũng có những giới hạn vô hình chia thành những tầng lớp riêng biệt hẳn. https://thuviensach.vn Ở ngay sát bờ biển, nơi thủy triều lên xuống rì rầm, có vô số vỏ sò bám chắc vào đá đến nỗi gió bão cũng không thể rứt chúng ra được. Xa hơn nữa, trong đám nước xanh thẳm lấp lánh ngũ sắc dưới những tia nắng mặt trời, những con cá màu sặc sỡ bơi lội tung tăng giữa đám rong biển hung và xanh; những con sứa trong suốt lập lờ trôi; và ở dưới đáy biển thì các con hải tinh bò từng bước. Sườn những tảng đá ngập nước phủ đầy những sinh vật kỳ lạ, không động đậy y như loài thảo mộc. Những con vật đó không đi kiếm thức ăn, mà chờ cho thức ăn tự rơi vào mồm. Đó là những con hải tiếu đỏ, thân hình giống các con thoi nối đầu với nhau, nhấm nháp thức ăn cùng với nước biển. Những con hải quỳ màu rực rỡ thì dùng những cái vòi nguều ngoào giống như những cánh hoa, túm lấy những con cá bơi qua. Ở tầng thấp tối tăm của biển lại chứa đựng một thế giới hoàn toàn khác. Ở đây chỉ có rong biển màu đỏ, là loài cây đã biết hấp thụ ít nhiều ánh sáng mặt trời, đi qua tầng dày của nước biển. Đáy đại dương là một nghĩa địa âm u, chứa đầy những hài cốt của các sinh vật và cây cỏ. Trong đám bùn rải trên đáy biển, bao loài tôm cua có rất nhiều càng và bộ râu nguều ngoào đi lang thang. Những con cá mõm rộng hoác bơi trong bóng tối: con thì không có mắt, con thì lại có những đôi mắt lồi ra như những mặt của ống viễn kính. Đây là một con cá lốm đốm những điểm lửa sáng, tựa như một con tàu nhỏ có nhiều cửa sổ thắp đèn sáng trưng đang rẽ sóng. Và kia là một con khác trên đầu mang một ngọn đèn pha gắn vào một cái cần mềm mại như một ngọn hải đăng. Thế giới kỳ lạ đó thật khác xa thế giới mà chúng ta đang sống. Ngay cả những đáy biển nông gần bờ, tuy chỉ cách bờ biển bởi đường lên xuống của nước thủy triều, cũng hoàn toàn không giống trên cạn. Những con vật sinh sống ở một thế giới nhỏ này có thể tự do rời đến ở một thế giới khác được không? Con cá có thể bỏ biển cả lên ở trên đất liền được không? https://thuviensach.vn Điều đó ta thấy hình như không thể được. Thật vậy, loài cá thích ứng với đời sống dưới nước. Muốn lên ở trên cạn, nó phải đổi bong bóng lấy phổi, đổi vây lấy chân. Như vậy nếu cá muốn bỏ biển lên ở trên cạn, nó phải bỏ bản chất loài cá của nó. Điều đó có thể làm được không? Nếu bạn đặt câu hỏi đó với các nhà bác học, thì các vị này sẽ nói rằng: quả thật có một thời đã xưa, xưa lắm, một số loài cá đã rời bỏ môi trường sinh trưởng tự nhiên của mình là nước và đã không còn là cá nữa. Nhưng việc đổi chỗ ở đó không phải là trải qua một vài năm đã xong, mà nó đã phải qua hàng triệu năm mới hoàn thành. Hiện nay, tại những dòng sông khô cạn ở châu Úc, người ta hãy còn tìm thấy một loài cá gọi là “nê-ô-xê-ra-tô-đuýt” có mang rất giống cái phổi. Khi trời nắng hạn, dòng sông cạn dần và biến thành những vũng nước lầy bùn, những loài cá khác thì chết nhan nhản, xác rữa ra làm nước hôi thối và nhiễm độc, duy chỉ có loài cá kia vẫn sống nhởn nhơ - trong cơn hạn hán. Muốn hít thở không khí nó chỉ việc nhoi đầu lên khỏi mặt nước bùn mà hít. Ở châu Phi và Nam Mỹ, có những thứ cá có thể hoàn toàn sống không cần nước. Bởi vì chúng không chỉ có mang mà còn có cả phổi nữa. Trong lúc nắng hạn, chúng vùi mình xuống dưới bùn và thở bằng phổi đến lúc mùa nước trở lại. Vậy là phổi cũng có thể xuất hiện trong thân thể loài cá. Thế còn chân thì sao. Ở đây cũng có một thí dụ sinh động. Ở những vùng nhiệt đới có một loài cá nhảy, chẳng những có thể nhảy lên bờ mà còn leo lên cây được; nó có thể sử dụng những đôi vây của nó tựa như chân vậy. Cách đây không lâu người ta đã bắt được ở dưới đáy sâu của đại dương loài cá La ti-mê-ri rất kỳ lạ. Vây nó giống như những chiếc cẳng. Xương của vây được cấu tạo giống như xương cánh tay người. Những con vật kỳ dị ấy chứng minh rằng xưa kia loài cá đã có thể rời bỏ nước lên sống trên cạn. Nhưng làm sao có thể biết chắc là chúng đã làm được https://thuviensach.vn thế thật? Các bộ xương hóa thạch đã chứng minh điều đó. Trong các tầng đất bồi thời trầm tích xa xưa, người ta tìm thấy xương một con vật, tuy hãy còn rất giống loài cá La-ti-mê-ri, nhưng đã thành một loài lưỡng cư, giống như loài ếch, nhái hay cá cóc. Con vật đó (tên là Xtê-gô-xê-phan) không có vây mà lại có những cái chân thực sự, có năm ngón. Những chân đó giúp nó di chuyển trên mặt đất, tuy hết sức chậm chạp. Và như con ếch hiện nay chẳng hạn. Ở thời kỳ phôi thai, lúc nó còn ở giai đoạn là nòng nọc, thì nó hầu như y hệt loài cá. Tất cả những cái đó bắt buộc chúng ta phải kết luận rằng ở một thời kỳ cổ xưa, rất xa xôi, có những loài cá thực sự đã vượt qua hàng rào ngăn cách biển và đất liền. Nhưng chính trong thời kỳ đó một số loài cá ấy đã biến thành loài khác. Và loài cá đã sản sinh ra loài lưỡng cư[2]. Và loài lưỡng cư đã sản sinh ra loài bò sát. Đến lượt chúng, loài bò sát đã sản sinh ra loài thú và những loài chim, mà rất nhiều giống sau này đã lãng quên đi nguồn gốc của chúng, vốn là sống dưới nước. NHỮNG NHÂN CHỨNG KHÔNG LỜI Những bộ xương hoá thạch của những giống vật cổ xưa là những nhân chứng không lời chứng minh rằng các sinh vật không giữ y nguyên hình dạng của chúng trải qua các thời đại. Nhưng tại sao chúng biến đổi? https://thuviensach.vn Trước khi nhà bác học Sác-lơ Đác-uyn lập ra thuyết về nguồn gốc các loài thì câu hỏi đó chưa ai giải đáp được. Về sau nhiều nhà bác học khác đã kế tiếp sự nghiệp của Đác-uyn, trong số đó có hai nhà bác học Nga là Cô-va lép-xki và Ti-mi-ri-a-dép. Những công trình nghiên cứu đó đã giải thích rõ ràng những điều trước kia rất bí hiểm đối với tổ tiên chúng ta. Mọi sinh vật đều thích ứng với môi trường của nó, với khu vực sinh tồn của nó ở trên thế giới. Nhưng mọi thứ trên trái đất cũng luôn luôn biến đổi: khí hậu nóng trở thành lạnh, núi cao mọc lên ở nơi đồng bằng, biển cả lùi bước trước đà tiến của các lục địa, loài tùng, bách nhường chỗ các loài cây có lá. Khi mọi vật xung quanh biến đổi thì các sinh vật ra sao? Bản thân chúng nó cũng biến đổi theo. Nhưng những biến đổi của các sinh vật không phụ thuộc vào ý chí của chúng. Con voi không thể từ bỏ thức ăn thực vật để ăn thịt được; con gấu không thể kêu bức và trút bỏ bộ lông dày xụ đi được. Những biến đổi của các sinh vật là ở ngoài ý muốn của chúng. Chúng biến đổi vì cần phải thích nghi với thức ăn mới, với cuộc sống mới. Mà những thay đổi đó không phải là lúc nào cũng có lợi cho chúng. Nhiều khi, đặt vào những điều kiện mới lạ, những động vật và thực vật đó bị mòn mỏi suy yếu dần, vì mất đi những hoàn cảnh thuận lợi mà tổ tiên chúng hằng quen thuộc. Chúng bị cái đói, cái rét, hạn hán và khí nóng hành hạ. Chúng trở thành mồi ngon của kẻ thù. Con cháu chúng sinh ra và lớn lên lại còn khổ hơn và càng kém thích nghi với cuộc sống. Rồi kết cục những con vật và giống cây đó bị tiêu diệt vì không thích ứng được với những biến đổi ở xung quanh. Nhưng cũng có thể xảy ra hiện tượng là trong số những con cháu không thích nghi với môi trường mới đó, có loài tốt hơn, thích nghi với môi trường https://thuviensach.vn hơn. Và các thế hệ sau sẽ sống được. Nếu như chúng kế thừa được những đặc tính tốt của cha ông. Và những thế hệ tiếp sau, ở một số trong muốn vàn con, cháu, chút, chít có thể xuất hiện thêm các bản tính có giá trị nào đó, có ích cho sự tồn tại của nòi giống. Những bản tính thích nghi với môi trường đó đồng thời lại di truyền cho các thế hệ kế sau. Ta thấy đó, rõ ràng là con cháu không hoàn toàn giống ông cha nữa. Và bản chất của nó đã đổi khác. Cái mà tổ tiên chúng không thích nghi thì chúng lại thích nghi. Hình như chúng đã thích nghi và hòa hợp với điều kiện mới của cuộc sống. Thế là đã xảy ra một cuộc sàng lọc tự nhiên: những giống nào không thích ứng được với điều kiện mới của môi trường thì dần dần bị diệt vong, giống nào thích nghi thì sinh tồn. Đác-uyn nhận xét rằng ở trên các đảo có gió mạnh, những côn trùng thường bị đẩy ra biển, thì thường có những loại sinh vật bay rất tốt hoặc là rất tồi. Ông đã tìm được dẫn chứng rất xác thực để minh họa cho nhận xét của mình. Những sinh vật bay tốt là những sinh vật có khả năng chống trả được với gió biển, còn những sinh vật bay tồi là những sinh vật chỉ bay là là trên mặt đất để được cây cỏ và cành lá che chở cho. Những cái cánh ngắn và yếu đuối đối với chúng không phải là một thiếu sót mà là ưu điểm. Rõ ràng là qua đây ta thấy rất rõ một sự chọn lọc tự nhiên. Lịch sử trái đất đầy rẫy những thí dụ về biến chuyển của các sinh vật theo sự biến đổi của điều kiện sống. Hãy lấy sự biến chuyển từ loài cá sang loài lưỡng cư làm ví dụ. Sự biến chuyển này diễn ra ở các biển, các hồ bị khô cạn. Vì không thích nghi được với điều kiện mới, cá chết và ít dần đi. Chỉ sống sót lại những con cá nhịn nước được lâu. Khi trời nắng hạn cao độ, chúng vùi mình dưới bùn hoặc dùng vây thay chân để lết tới vũng nước gần nhất. Di truyền giữ lại những biến đổi nhỏ nhất trong cơ thể của chúng, miễn là có ích cho chúng ở trên cạn. Dần dần bong bóng cá biến thành phổi, đôi vây cá phát triển thành chân... Như vậy, do di truyền, do biến dị và do sự sàng lọc https://thuviensach.vn mà các loài sinh vật dưới nước đã dần dần thích ứng được với đời sống trên cạn. Nhờ sự biến dị đã xuất hiện nhiều dạng mới của vây, mang, bong bóng. Sự sàng lọc tự nhiên chỉ giữ lại những đặc điểm có ích và loại bỏ những cái gì không thích hợp để sống được ở trên cạn. Tính di truyền những đặc điểm ấy vào những thế hệ sau, tích tụ làm cho chúng trở thành cố định. Lịch sử của giống ngựa đã được Cô-va-lép-xki nghiên cứu kỹ, càng bổ ích hơn. Ngày nay chúng ta khó lòng tin được rằng con ngựa là dòng dõi một con vật nhỏ trong rừng thời xưa, nó có thể đi lại thoải mái giữa các rừng cây lớn, nhảy qua một cách khéo léo các thân cây đổ. Con vật đó không có móng như con ngựa bây giờ; chân nó có năm ngón, những ngón đó có vuốt nhọn, giúp ích cho nó lúc đi trên mặt đất gỗ ghề trong rừng. Các rừng cây thưa thớt dần, nhường chỗ cho các thảo nguyên. Dần dần tổ tiên của con ngựa bắt buộc phải đi ra những chỗ thưa cây trống trải, ở đó nếu gặp nguy thì không có chỗ án nấp: chỉ còn một cách thoát nạn là chạy trốn. Cái trò chơi đuổi bắt ở nơi trống trải đã thay thế trò chơi ẩn nấp trong rừng, trò chơi này đã kết thúc có hại cho nhiều loài vật ở rừng. Lúc đó, chỉ những con nào có cẳng dài và nhanh nhẹn thì mới thoát khỏi nanh vuốt của thú dữ. Ở đây cuộc sống cũng tiến hành một cuộc sàng lọc, chỉ giữ lại những thay đổi có ích, nghĩa là có thể giúp cho con vật chạy nhanh, còn tất cả những gì không thích hợp thì loại bỏ. Nhờ có cuộc thử thách mà cuộc sống buộc tổ tiên loài ngựa phải trải qua, đã chứng minh rằng: muốn chạy nhanh thì không cần tới nhiều ngón chân, mà chỉ cần một ngón là đủ, song ngón đó phải cứng và khỏe. Thế là thấy xuất hiện những con ngựa lúc đầu có ba ngón, rồi hai ngón chân. Con ngựa hiện nay chân chỉ có một ngón, có móng rất cứng. https://thuviensach.vn Do những điều kiện sinh sống ở thảo nguyên, không phải chỉ riêng có chân mà toàn thân con ngựa thay đổi. Hãy xem cổ nó: nếu chân đã dài ra mà cổ vẫn ngắn thì ngựa ta sẽ không gặm cỏ được. Ta không thấy điều đó trong thực tế vì đời sống đã loại trừ những con ngựa cổ ngắn và chân ngắn. Cả răng ngựa cũng biến đổi. Ở thảo nguyên, ngựa phải ăn một thứ thức ăn thô được nhai kỹ rất lâu mới tiêu hóa được. Con ngựa hiện nay có bộ răng hình tựa cái cối xay, có thể nghiền nhỏ được không những thứ cỏ cứng mà ngay cả rơm nữa. Tất cả công việc sàng lọc và biến đổi vĩ đại của bộ giò, cái cổ và hàm răng con ngựa đã trải qua một thời gian khổng lồ là năm mươi triệu năm mới hoàn thành! Còn biết bao sinh vật phải mất đi trong thời gian đó! Vậy thì các bức tường ngăn cách biển và đất liền, ngăn rừng với thảo nguyên, không phải là hoàn toàn vĩnh cửu và không thể vượt qua được. Biển có thể cạn, hoặc trái lại có thể tràn vào lục địa. Thảo nguyên có thể trở thành sa mạc khô cằn. Các sinh vật ở dưới biển đi lên đất liền. Các giống thú rừng biến thành giống vật ở thảo nguyên. Nhưng việc chuyển từ một khu vực này sang khu vực khác khó khăn biết bao đối với các sinh vật đó! Chúng phải cực nhọc biết bao mới thoát khỏi sự bao vây của giới tự nhiên ở xung quanh! Và ngay cả sau khi đã giật tung những xiềng xích đó rồi, chúng vẫn chưa trở thành tự do được! https://thuviensach.vn Bỏ được một cái lồng vô hình, chúng lại rơi vào một cái lồng khác. Rời bỏ rừng cây để đến sống ở thảo nguyên, con ngựa không còn là thú rừng mà đã trở thành một con thú của thảo nguyên. Lên mặt đất rồi, con cá đã vĩnh viễn rời bỏ biển sâu. Nếu muốn quay trở lại sống dưới nước, thì nó lại phải biến đổi ngược chiều trở lại. Đó là trường hợp của một số con vật ở đất liền quay về sống dưới biển. Chân chúng đổi thành vây, hoặc hình mái chèo. Ví dụ con cá voi đã biến đổi đến nỗi người không am hiểu thường gọi nó là “cá”, tuy rằng nó chỉ giống loài cá ở hình dạng bên ngoài và ở môi trường sinh sống mà thôi. CON NGƯỜI TIẾN TỚI TỰ DO Trên trái đất có chừng một triệu loài vật. Mỗi loài có một thế giới nhỏ riêng của mình, và nó đã thích ứng với thế giới đó. Ở những nơi giống vật này nhìn thấy biển để “Cấm vào!” thì những giống khác lại để là “Xin mời vào!”. Ta hãy thử chuyển giống gấu trắng miền Bắc Cực đến khu rừng nhiệt đới. Gấu trắng miền Bắc Cực sẽ chết ngốt như ở trong lò hấp vì bộ lông dày xụ của nó. Trái lại con voi, một động vật chỉ sống vùng nhiệt đới, mà đem lên vùng băng tuyết Bắc Cực thì sẽ chết cóng: mình nó trần như nhộng, như các con vật vùng nhiệt đới khác. Chỉ có ở một nơi là ta thấy được gấu trắng sống bên cạnh voi. Đó là nơi tập trung các giống thú của tất cả các vùng khí hậu khác nhau: các con thú https://thuviensach.vn rừng sống cạnh các con thú miền thảo nguyên và núi cao. Nơi đó là vườn bách thú. Ở đây thì các con vật ở Nam Phi, ở châu úc và Bắc Mỹ hằng ngày sống bên nhau. Các loài thú ấy được mang từ khắp bốn phương đến vườn bách thú. Nhưng không phải tự ý chúng đến đó mà là do con người đem đến. Muốn sưu tầm các loài thú đó đem về một nơi, người ta đã tốn bao nhiêu công sức! Mỗi con vật đã quen sống với một thế giới riêng. Vì vậy cần phải tạo ra một môi trường thích hợp với thói quen của từng giống thú. Đối với giống này thì phải làm một cái bể xây để thay cho biển cả; đối với giống kia thì phải tạo nên một bãi sa mạc thu hẹp trong khoảng vài chục mét vuông. Lại còn phải bảo đảm cho chúng có đủ thức ăn khi đói để khỏi phải ăn thịt lẫn nhau; con gấu Bắc Cực phải thường xuyên được tắm mình trong nước băng giá; con khỉ thì cần được ấm luôn. Sư tử phải có khẩu phần thịt sống đúng lúc; con đại bàng thì cần có đủ khoảng không để xòe cánh bay... Như vậy, khi tập trung một cách giả tạo vào cùng một chỗ các con vật ở thảo nguyên, ở rừng, núi, đồng bằng, v.v... con người cần phải bố trí cho mỗi giống vật một thế giới riêng, cũng giả tạo. Nếu không làm như thế chúng sẽ chết hết. Nhưng bây giờ ta hãy xem xét chính bản thân giống người. Người ta thuộc giống gì? Là một động vật ở thảo nguyên, ở rừng hay ở núi? https://thuviensach.vn Ta có thể gọi người nào sống ở vùng đồng lầy là “người bãi lầy” được không? Cố nhiên là không. Vì người sống ở rừng vẫn có thể sống ở thảo nguyên. Người sống ở vùng lầy mà đổi đến ở những nơi khô ráo thì càng vừa lòng. Con người có thể sống ở khắp mọi nơi. Bây giờ hầu như không còn nơi nào trên trái đất con người không thể đến ở, không nơi nào có thể trương lên cái biển: “Cấm con người vào đây!”. Các nhà thám hiểm Nam, Bắc Cực có khi sống ròng rã chín mười tháng ở vùng băng tuyết và, khi họ đi thám hiểm ở vùng sa mạc nóng cháy, họ vẫn có thể chịu đựng được. Muốn dời chỗ ở từ thảo nguyên đến rừng rậm, hay từ rừng cây về thảo nguyên, con người không cần thay đổi chân, tay, răng. Người ta đi từ đường xích đạo lên địa cực cũng không chết, tuy không có bộ lông dày như loài thú. Chiếc áo lông, mũ lông và đôi ủng da đã cứu họ khỏi băng giá không kém gì bộ da dày lông của loài thú. Con người có cách vận chuyển nhanh gấp bội so với con ngựa, mà cũng chẳng cần hy sinh bớt đi một ngón chân nào. https://thuviensach.vn Con người bơi dưới nước giỏi hơn cá mà cũng chẳng cần đổi chân tay lấy vây của loài cá. Phải qua hàng triệu năm loài bò sát mới biến được thành loài chim, và muốn thế, chúng đã phải trả một giá đắt: hai chân trước của chúng mất đi, biến thành đôi cánh. Còn con người thì đã chinh phục được không gian sau vài thế kỷ, mà tay không hề bị biến mất. Vẫn giữ nguyên hình dạng cũ, con người đã biết cách vượt qua những bức tường vô hình rất khắt khe giam hãm các con vật. Con người có thể lên những độ cao, ở đó không có không khí để thở, mà vẫn trở về trái đất bình yên. Khi lập những kỷ lục bay cao, các phi công đã vượt ra khỏi giới hạn của thế giới các sinh vật. Có thể nói là họ đã “nâng cao” cái “trần nhà” của đời sống. Các loài thú và loài chim hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Khi ta giải một bài toán, thì đáp số phụ thuộc vào các dữ kiện của bài toán, ở đây cũng vậy: mỗi động vật là một bài toán, bài toán này được cuộc sống giải đáp. Dữ kiện ở đây là các điều kiện sinh hoạt của con vật, và đáp số thì chính là chân, cánh, vây, mỏ, móng vuốt, thói quen và tập quán của con vật. Đáp số phụ thuộc vào môi trường sinh sống của con vật; đó là dưới nước hay trên cạn; là nước ngọt; là ven bờ hay ngoài khơi; ở trên mặt nước hay ở dưới sâu; ở phương bắc hay phương nam; ở trên núi hay dưới đồng bằng; ở trên mặt đất https://thuviensach.vn hay ở dưới đất; v.v... Và cả đến những động vật sống bên cạnh cũng có ảnh hướng tới đáp số. Loài động vật thì hoàn toàn phụ thuộc vào các điều kiện sinh hoạt của nó. Trái lại, con người tự tạo ra môi trường sinh sống cho mình. Càng ngày con người càng có thêm nhiều khả năng đầu tranh thắng lợi với thiên nhiên và xỏa bỏ những điều kiện không thích hợp với mình. Trong cuốn sách của thiên nhiên đã ghi thành quy luật rõ ràng: “Ở sa mạc không có nước”. Chúng ta xóa bỏ câu đó đi và đào kênh mương đưa nước vào sa mạc. Thiên nhiên còn quy định: “Đất đai miền bắc thì cằn cỗi”. Chúng ta làm ngược lại định luật đó khi dùng phân bón, hoặc trồng những loại cây họ đậu để cải tạo chất đất. Trong sách của tạo hóa có ghi: “Mùa đông trời rét, và ban đêm trời tối”. Chúng ta đảo lộn định luật đó, làm cho mùa đông vẫn ấm áp và ban đêm lại sáng như ban ngày. Càng ngày chúng ta càng thay đổi bộ mặt của thiên nhiên quanh mình. Đã từ lâu lắm, ta chặt cây, trồng rừng làm biến đổi hình dạng các khu rừng ở quanh ta. Các thảo nguyên cũng không giống như trước kia: một số đã biến thành đất trồng trọt. https://thuviensach.vn Những loại cây ta trồng như lúa mì, lúa mạch, cây lê, cây táo, hoàn toàn không giống các loại cây hoang dại đã mọc tự nhiên trên các vùng không có vết tích lao động của con người. Làm sao mà ta có thể tìm thấy trong thiên nhiên thứ quả “nửa lê nửa táo” và các thứ lai giống lạ thường khác do nhà thực vật học nổi tiếng người Nga là Mit-su-rin, tạo nên? Các con vật nuôi trong nhà: ngựa, bò, cừu, không giống những con vật cùng loài sống trong thiên nhiên; chính con người đã chọn lọc và tạo dần các giống gia súc đó.. Ngay đối với những con thú rừng nữa, sự có mặt của con người đã buộc chúng phải thay đổi thói quen. Có những con thú đến gần chỗ ở và gần khu trồng trọt của người để kiếm ăn. Có những giống thú khác phải di cư đến các rừng sâu để tránh con người. Về sau thiên nhiên hoang dại chưa bị bàn tay con người cải tạo sẽ chỉ còn sót lại trong những khu rừng cấm do chúng ta cố ý duy trì. Khi ta vạch trên bản ranh giới của những khu rừng cấm, thì tưởng như ta tuyên bố với thiên nhiên rằng: “Ta cho phép người làm chủ ở đây còn ngoài khu vực này ra hoàn toàn thuộc quyển của ta”. Càng ngày con người càng có thế lực mạnh mẽ với thiên nhiên. Nhưng không phải là từ xưa đến nay bao giờ cũng vẫn như vậy. https://thuviensach.vn Đứng trước thiên nhiên mênh mông, tổ tiên chúng ta thời cổ sơ chỉ là những kẻ nô lệ của thiên nhiên, như các động vật đã sinh ra người nguyên thủy. GẶP TỔ TIÊN CỦA LOÀI NGƯỜI Trước đây hàng triệu năm, ở những nơi hiện nay là rừng lớn và bụi cây, thì hồi đó là những đám rừng hoàn toàn khác; cả cây, cỏ và thú vật cũng không giống bây giờ chút nào. Thời đó, các cây bạch dương, bồ đề, cây phong mọc cạnh các cây trúc đào và mộc lan. Cây nho mọc cạnh cây dẻ, cây long não mọc bên cây liễu rủ. Những cây sồi to nhất bây giờ cũng tựa như những chú lùn bên những cây khổng lồ thời đó. Nếu rừng cây bây giờ ví như một tòa nhà nhiều tầng thì rừng cây thời đó cao tựa môt tòa nhà chọc trời. Ở các tầng trên của tòa nhà “chọc trời” đó thì sáng sủa và luôn luôn ồn ào. Các thứ chim lông sặc sỡ vừa bay vừa kêu ríu rít giữa những đóa hoa lớn, màu sắc chói mắt. Hàng đàn khỉ đông đúc đánh đu trên các cành cây, nhảy từ cây này sang cây khác như làm xiếc. https://thuviensach.vn Đây là một đàn khỉ đang di chuyển trên các cành cây dễ dàng như đi trên một chiếc cầu bằng phẳng. Vừa ôm chặt con vào ngực khỉ mẹ vừa nhai các thứ quả và hạt, rồi nhét vào mồm lũ khỉ con. Lũ khỉ con nhỉnh hơn thì bám chân bọn khỉ mẹ. Con đầu đàn là một con khỉ đực già, mình đầy lông lá, nó thoăn thoắt leo lên một cái cây thật lớn và cả đàn ùa leo lên theo. Các con khỉ đó thuộc giống gì? Ta không thể thấy loài khỉ nào như vậy trong bất cứ một vườn bách thú nào hiện nay... Đó là tổ tiên chung của con người, của loài khỉ và loài đười ươi hiện đại. Như vậy chúng ta đã gặp tổ tiên rừng của chúng ta. Những tổ tiên xa xôi của chúng ta đã sống ở tầng trên của rừng tiền sử. Giống như chúng ta ngày nay đi lại trên cầu, trên các bao lơn và hành lang của các tòa nhà, thời đó tổ tiên chúng ta đã đi lại trên các cây cao cách mặt đất hàng vài chục thước. Rừng cây là nhà ở của tổ tiên chúng ta. Ban đêm họ ngủ trong những tổ dựng lên chạc ba của những cành cây to. Rừng cây cũng là pháo đài bảo vệ họ. Ở trên các ngọn cây cao, họ không phải lo ngại vì những kẻ thù đáng sợ như là con “hổ răng lưỡi gươm”, giống thú dữ nanh dài và sắc như gươm. Rừng cây lại còn là kho thức ăn của chúng. Chúng tìm kiếm thức ăn hằng ngày ở trên cành cây cao: đó là các thứ quả và hạt. Nhưng muốn sống được ở tầng cao của rừng cây thì cần phải biết bám chặt vào cành, nhanh nhẹn leo lên các thân cây, nhảy từ cây này sang cây khác, vồ lấy rồi giật đứt các quả, bóc vỏ và nhằn lấy hạt. Muốn như vậy cần phải có những ngón chân biết cầm đồ vật, có đôi mắt tinh, bộ răng khỏe... Tóm lại, có biết bao nhiêu dây xích buộc chặt tổ tiên xa xôi của chúng ta vào rừng cây, thực tế chỉ vào tầng trên của rừng mà thôi. Vậy con người nguyên thủy đã làm thế nào để phá bỏ được những xiềng xích đó, con vật rừng đã dám rời bỏ cái lồng của mình ra khỏi khu rừng như thế nào? https://thuviensach.vn CHƯƠNG II ÔNG BÀ VÀ ANH EM HỌ CỦA CON NGƯỜI. NHÂN VẬT CHÍNH TRONG CUỐN TRUYỆN CỦA CHÚNG TA Thời xưa các nhà văn khi bất đầu kể chuyện cuộc đời và các truyện phiêu lưu của nhân vật, thường không bao giờ quên giới thiệu ngay một cách tỉ mỉ với độc giả tất cả những người thân của nhân vật. Ta chỉ cần lật vài trang là đã biết bà của nhân vật chính đó khi còn trẻ ưa loại áo dài nào; mẹ của anh ta trước hôm về nhà chồng đã mơ thấy cái gì, v.v... Rồi thì đến đoạn tả chi tiết những chiếc răng đầu tiên của anh ta mọc như thế nào, những câu nói bập bẹ đầu tiên của anh ta là gì, tả những bước đi chập chững và những trò tinh nghịch ban đầu của anh ta... Qua một chục chương sau, anh ta đi học, rồi đến cuối tập hai thì anh ta bắt đầu yêu đương... Tập ba kể chuyện anh ta vượt qua bao trở ngại và cưới vợ như thế nào. Và đoạn kết thúc tả một cặp vợ chồng đầu đã bạc đang âu yếm ngắm đứa cháu trai của mình má hồng đang chập chững tập đi. Trong cuốn sách này chúng ta cũng muốn tả cuộc đời và các truyện phiêu lưu của một nhân vật tên gọi là “Con người”. Lẽ ra, theo gương những nhà viết tiểu thuyết đáng kính thời xưa, trước hết ta phải nói đến tổ tiên và bà con https://thuviensach.vn gần gũi nhất của nhân vật chính đã. Ta phải tả lại lúc anh ta ra đời, tập đi, suy nghĩ và tập nói; ta phải tả anh ta đấu tranh để sống còn ra sao; tả các nỗi vui, buồn, những thành công và thất bại của anh ta. Muốn làm thế thì phải thú nhận rằng ta vấp ngay vào những khó khăn rất lớn. Làm thế nào để hình dung được hình dáng “bà” của anh ta là con vượn thủy tổ loài người, ngày nay không còn sống ở trên trái đất nữa? Một bức chân dung của nó cũng không còn, vì rằng loài khỉ không biết vẽ. Chỉ ở trong các viện bảo tàng ta mới còn thấy những di tích của người-vượn đó. Mà ngay ở trong bảo tàng cũng không thấy được toàn bộ hình dáng của người-vượn, vì thực ra người ta chỉ lượm được một ít mảnh xương và những cái răng của người-vượn, đào được ở rải rác khắp châu Á, châu Phi và châu Âu. Tốt nhất nên lưu ý đến những người thân thích khác của nhân vật. Đó là những “người anh, người chị họ” của nhân vật. Đến thời đại con người nguyên thủy rời bỏ từ lâu khu rừng nhiệt đới và đã biết đứng thẳng lên mà đi, thì những giống vật cùng họ hàng với người nguyên thủy là đười ươi, khỉ, vượn vẫn tiếp tục sống cuộc sống dã man trong rừng. Con người không phải lúc nào cũng muốn nhớ lại “những người thân thích tội nghiệp đó” của mình. Có người còn lấy làm phẫn nộ, coi như bị sỉ nhục khi thấy nhắc đến sự thật là người và loài khỉ cùng có một tổ tiên. Ở Mỹ, một lần có một người đã phải đưa ra tòa. Đó là một giáo viên trung học. Anh đã bị quan tòa kết án về tội đã quả quyết rằng tổ tiên của loài người là từ loài khỉ mà ra. Trong căn phòng xử án hôm đó, người đến xem rất đông. Có cả những vị tai to mặt lớn, trên cánh tay đeo những băng có ghi: “Chúng tao không phải là khỉ! Và chúng tao không bao giờ cho phép biến mình thành khỉ!” Người thầy giáo tội nghiệp nọ, cố nhiên, không dự định biến những con lừa đó thành khỉ, đã bị một “trận mưa lên án” đổ lên đầu anh ta. Khi trả lời những câu hỏi đe dọa của quan tòa, người giáo viên chắc đã nghĩ bụng: “Có lẽ bọn quan tòa này điên cả rồi chăng? Thế thì cũng có thể bị lên án vì một bản cửu chương!” https://thuviensach.vn Phiên tòa đã được tiến hành theo đúng mọi luật lệ của mọi cuộc tố tụng. Các nhân chứng đã chất vấn và bị cáo trả lời. Cuối cùng quan tòa đã tuyên án: “1. Tòa khẳng định rằng: người và khỉ không cùng một tổ tiên. 2. Phạt bị cáo 100 đô-la”. Quan tòa đã phế bỏ cả một học thuyết thật đầy đủ về nguồn gốc loài người của Đác-uyn và của các nhà tư tưởng và nghiên cứu khác đã đề xướng. Song chân lý là hiển nhiên và bền vững, không có bản án của bất cứ tòa án nào xóa bỏ được. Nếu như các nhà khoa học được mời đến dự phiên tòa đó, họ sẽ có hàng trăm cứ liệu để chứng minh rằng người thầy giáo kia là đúng. Và không phải bất cứ một quan tòa nào cũng là một quan tòa chân chính, khi mà công việc có quan hệ đến khoa học. Nhưng có nhiều chứng cớ rõ ràng: con người có nguồn gốc là loài khỉ vượn. Hơn nữa chẳng cần gì lý luận dài dòng, bất kỳ ai đã sống gần những con khỉ hay đười ươi chỉ độ một giờ cũng nhận thấy một điều dập vào mắt là người và khỉ giống nhau như những bà con cùng họ. RÔ-DA VÀ RA-PHA-EN, NHỮNG ANH EM HỌ CỦA TA Có một lần, hai con khỉ Ra-pha-en và Rô-da được mang đến vùng Lê-nin grát, làng Côn-tu-si (nay gọi là Páp-lô-vô), nuôi trong phòng thí nghiệm của https://thuviensach.vn nhà sinh lý học người Nga nổi tiếng I-van Páp-lốp. Con người thường gặp gỡ những “người thân” tội nghiệp sống ở rừng núi không được mặn mà lắm. Khi tóm được rồi tức khắc họ nhốt ngay đám “thân nhân” đó vào cũi sắt. Nhưng lần này hai người khách của rừng châu Phi này được đón tiếp rất sang trọng. Người ta chuẩn bị cho chúng cả một căn nhà bao gồm phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn, phòng tắm, phòng chơi và làm việc. Trong phòng ngủ kê hai cái giường có cả bàn ngay sát đầu giường. Trong phòng ăn có bàn ăn phủ khăn trắng tinh, kèm theo một tủ đựng đầy đủ thức ăn. Trong căn phòng đầy đủ tiện nghi này không có một thứ gì làm cho ta nghĩ đến những con vật ấy không phải là người mà là khỉ. Đến bữa ăn cũng có đủ đĩa, thìa, v.v... Tối đến, giường đệm chuẩn bị sẵn sàng. Nói đúng ra thì đôi khi các “vị khách trọ” đã không làm tròn trách nhiệm: vào bàn ăn thì các “vị” quăng luôn thìa đi, vớ lấy đĩa mứt ăn ngốn ngấu; vào giường đáng lẽ phải đặt đầu trên gối thì các “vị” lại làm ngược hẳn là lấy gối úp lên đầu. Tuy vậy cử chỉ hai con khỉ Rô-da và Ra-pha-en, dù không giống hẳn con người, cũng không khác nhiều lắm. Thí dụ, Rô-da sử dụng chùm chìa khóa của tủ đựng thức ăn như một bà nội trợ thành thạo. Thường thường chùm chìa khóa đó nằm trong túi người canh gác. Rô-da rón rén đến gần người canh gác và thoắt một cái đã xoáy được chùm chìa khóa. Thế là nó chạy như bay tới phòng ăn, đặt một cái ghế trước tủ, trèo lên ghế và lần lượt thử từng cái chìa khóa một. Đằng sau cánh https://thuviensach.vn cửa kính bày ra một cảnh tượng hấp dẫn: một bình đầy những quả mơ và những chùm nho. Chỉ một vòng mở khóa là chùm nho đã vào tay Rô-da! Còn Ra-pha-en, hãy xem nó hành động! Người ta cho nó không phải là những quyển sách, mà là một thùng nhỏ đầy quả mơ và nhiều khối gỗ vuông các cỡ khác nhau, nhưng lớn hơn nhiều so với các khối vuông mà trẻ con thường chơi đùa. Khối vuông to nhất cao như cái ghế đẩu; khối bé nhất thì bằng miếng gỗ kê chân cho các bà cụ khi ngồi ở ghế bành. Thùng mơ treo ở trần nhà. Vấn đề đặt ra là phải với tới các quả đó để lấy ăn. Thoạt đầu chú Ra-pha-en đáng thương không làm gì được. Ở trong rừng, trước kia nó quen leo lên cây hái quả. Nhưng những quả mơ này lại mọc thẳng từ trần nhà xuống. Ngoài các khối gỗ vuông thì không còn leo trèo lên đâu để với tới những quả mơ đó. Vậy mà ngay khối gỗ to nhất cũng quá thấp, không đủ để với tới thùng mơ được. Khi Ra-pha-en xoay trở các khối gỗ tứ phía, cho đến một ngày kia mới khám phá ra một điều; có thể đặt những khối ấy chồng lên nhau, như vậy rút ngắn được nhiều khoảng cách với những quả mơ kia. Dần dà chú khỉ đã có thể xếp chồng được ba bốn rồi năm khối gỗ lên nhau. Việc đó chẳng phải dễ dàng vì không thể đặt các khối gỗ tùy tiện thế nào cũng được, mà phải theo một thứ tự nhất định, khối to để ở dưới, rồi đến những khối nhỡ, sau cùng là những khối nhỏ. Nhiều lần Ra-pha-en lầm lẫn, đặt những khối gỗ to trên những khối nhỏ. Cả chồng gỗ lung lay rất nguy hiểm tưởng chừng sắp sụp đổ đến nơi. Nhưng không đến nỗi nào, vì nó ranh như khỉ mà lại! Sau cùng, khó khăn cũng giải quyết được. Ra-pha-en biết chồng cả bảy khối gỗ theo đúng thứ tự cần thiết. Y như là các khối gỗ đã được đánh số thứ tự, và khỉ ta biết đọc chữ số vậy. Với tới thùng mơ rồi, nó chẳng buồn leo từ chồng khối gỗ đang lung lay xuống nữa, và cứ ở nguyên đó mà ngốn ngấu những quả mơ đã gian khổ mới giành được. https://thuviensach.vn Có con vật nào khác có thể hành động khôn như vậy được không? Không thể tưởng tượng là một con chó có thể xếp được những khối gỗ thành hình tháp như vậy, tuy rằng chó là con vật thông minh đấy. Tất cả những ai quan sát khỉ Ra-pha-en tập dượt như trên cũng phải chú ý một điều là nó hành động hoàn toàn giống con người. Kìa xem nó lấy một khối gỗ, vác lên vai và một tay giữ lấy, đem đến chồng gỗ để xếp lên trên. Ủa, xếp thế này không ổn! Khỉ Ra-pha-en để khối gỗ xuống đất và ngồi lên trên như để suy nghĩ. Nghỉ ngơi một chốc, nó lại thử xếp lại, và lần này thì xếp đúng thứ tự không bị nhầm lẫn nữa. CÓ THỂ BIẾN MỘT CON KHỈ THÀNH NGƯỜI ĐƯỢC KHÔNG? Nếu như vậy thì ta có thể dạy cho loài khỉ biết đi, biết nói, biết nghĩ và làm việc như người được chăng? Nhà dạy thú người Nga nổi tiếng là Đua-rốp đã từng mơ ước làm điều đó. Ông đã tốn nhiều công phu luyện tập cho con khỉ Mi-mu yêu quý của ông. Mi-mu là một học trò sáng dạ: nó đã học được cách dùng thìa, buộc khăn ăn vào cổ, ngồi ngay ngắn trên ghế, biết ăn úp mà không làm giây bẩn ra khăn bàn và lại biết cả đi xe trượt tuyết. Mặc dù như vậy, ta vẫn không thể làm cho nó trở thành người được. Điều đó thật là dễ hiểu. Thời kỳ trước kia, khi con người và khỉ vốn cùng một nguồn gốc sau đó tách riêng ra thành hai dòng giống cách biệt, đã quá xa xôi trong dĩ vãng. Những thủy tổ của con người đã rời bỏ cây cao, xuống mặt đất để sinh sống, họ dùng hai chân để đi và làm việc bằng hai tay. Còn tổ tiên loài khỉ vẫn giữ nguyên lối sống trên cây và ngày càng thích ứng với lối sống đó. Chính vì vậy mà cấu tạo của thân hình loài khỉ khác hẳn con người. Từ tay, chân, bộ óc và lưỡi đều khác nhau. https://thuviensach.vn Hãy xem bàn tay con khỉ khác với tay người nhiều. Ngón tay cái của nó ngắn hơn ngón út và không cách xa các ngón khác như tay người. Thế mà ngón tay cái lại là ngón có ích nhất của ta, là đội trưởng một kíp thợ năm người của bàn tay. Ngón tay cái của ta có thể làm việc cùng một lúc với bất cứ ngón nào khác hoặc cùng làm với tất cả bốn ngón kia một lúc. Chính vì vậy mà bàn tay ta có thể rất dễ dàng sử dụng các loại dụng cụ khác hẳn nhau. Khi con khỉ muốn hái một quả gì nó thường dùng tay bám lấy cành cây có quả đó và lấy chân giật quả ra. Khi đi, nó chống bàn tay xuống đất. Như vậy là hai bàn tay của nó nhiều khi dùng thay chân và ngược lại chân có thể cũng thay tay được. Nhưng ngoài hình dáng tay và chân giữa người và khỉ khác nhau, còn có một điều này rất quan trọng mà những nhà dạy thú muốn biến khỉ thành người đã quên đi mất. Bộ óc loài khỉ thì nhỏ và ít phức tạp hơn óc con người rất nhiều. I-van Páp-lốp đã nhiều năm nghiên cứu hoạt động của bộ óc con người. Ông quan sát một cách đầy hứng thú xem con khỉ Rô-da và Ra- pha-en hoạt động như thế nào. Người ta kể lại với chúng ta là nhà bác học thỉnh thoảng ở lại rất lâu trong chuồng nhốt hai con khỉ để nghiên cứu các cử chỉ của chúng, cử chỉ của chúng thật ngô nghê và lộn xộn. Chúng chưa kịp làm một việc này thì đã lại làm một việc khác. Kia là khỉ Ra-pha-en đang chăm chú xếp hình tháp bằng các khối gỗ. Bỗng nhiên mắt nó nhìn thấy một quả bóng, thế là nó bỏ rơi các khối gỗ và https://thuviensach.vn giơ hai cánh tay lông lá vồ bóng. Chỉ một lát quả bóng lại bị bỏ quên, và khỉ ta hoàn toàn mải mê theo dõi con ruồi bò trên nền nhà. Quan sát những cứ chỉ hỗn loạn của hai con khỉ Ra-pha-en và Rô-da, nhà bác học nổi tiếng Páp-lốp đã kết luận: “Hỗn độn! Hoàn toàn là những cử chỉ hỗn độn!” Những cử chỉ hỗn độn của loài khỉ thể hiện sự hoạt động cũng hỗn độn của bộ óc chúng. Hoạt động ấy không giống chút nào với hoạt động rất trật tự, rất tập trung của bộ óc con người. Tuy vậy con khỉ cũng khá thông minh và rất thích nghi với đời sống trong rừng, trong cái thế giới nhỏ bé ấy - cái thế giới đã ràng buộc nó bằng vô số những dây xích vô hình. Có một lần, một nhà đạo diễn điện ảnh đến quay cuốn phim về cặp vợ chồng khỉ Rô-da và Ra-pha-en. Theo kịch bản vạch sẵn, người ta để cho vợ chồng khỉ được một thời gian tự do ở trong vườn. Vừa được thả lỏng ra, Rô da và Ra-pha-en liền leo lên cái cây gần nhất, lấy hai tay bám vào cành đánh đu một cách khoái trá vô cùng. Ở trên cây chúng cảm thấy thoải mái hơn là ở trong căn nhà đầy tiện nghi dành riêng cho chúng. Ở châu Phi, quê hương của chúng, con khỉ sống ở tầng bên trên của rừng. Nó làm ổ trong cành các cây lớn. Chính trên cây cũng là nơi nó chạy trốn kẻ thù và hái quả để ăn. Nó đã quen với lối sống ở rừng đến nỗi nó dạo chơi trên các thân cây nhẵn và thẳng lại dễ dàng hơn đi trên mặt đất. Không có rừng thì không có khỉ. Trước kia có một nhà bác học muốn quan sát giống khỉ trong môi trường quen thuộc của nó từ lúc mới sinh ra. Ông đến ở tại nước Ca-mơ-run, châu https://thuviensach.vn Phi. Ông bắt lấy khoảng chục con khỉ rồi để mặc cho chúng sống tự do trong một khu rừng nhỏ cạnh trại của ông để chúng có cảm giác như sống tại quê hương của chúng. Muốn ngăn không cho chúng chạy trốn, nhà bác học cho chặt hết tất cả các cây cối ở gần khu rừng nhỏ dùng làm nơi ở cho những con khỉ đó. Ông tính toán rất đúng: vốn là con vật sống trong rừng, con khỉ không bao giờ tự ý bỏ rừng ra đi. Những khoảng đất trụi cây ở chung quanh làm chúng lo ngại và giam chân chúng ở lại khu rừng nhỏ mà không cần đến những chấn song sắt. Đôi với giống khỉ thì đến sinh sống ở nơi quang đãng, không cây cối là điều không thể làm được, cũng như giống gấu trắng không thể nào đến sinh sống ở bãi sa mạc. Trong khi loài khỉ không rời bỏ được rừng cây thì tại sao anh em họ của khỉ là con người lại làm được điều đó? CON NGƯỜI TẬP ĐI Tổ tiên chúng ta không phải ngay một lúc có thể rời bỏ được rừng rú, nơi giam hãm nó như một cái lồng. Con người nguyên thủy đã phải trải qua hàng chục vạn năm mới dần dần có đủ tự tin để rời rừng cây và mạo hiểm đi về nơi đồng cỏ và đồng bằng. Muốn phá vỡ dây xích trói buộc mình vào môi trường đầu tiên là rừng cây thì trước hết con vật rừng đó cần phải xuống đất và tập đi bằng chân. https://thuviensach.vn Nhưng tập đi đâu phải là chuyện dễ, ngay bây giờ cũng vậy. Ai đã từng đến thăm một vườn trẻ đều biết rằng ở đấy có những em bé chỉ bò lổm ngổm. Tại sao các em đó lại bò? Chính vì các em bị ý muốn di chuyển thúc đẩy, nhưng lại chưa biết đứng thắng người trên hai chân. Còn phải trải qua nhiều tháng các em đó mới dám đứng thẳng người và tập đưa chân ra phía trước để bước đi. Thật là một điều hệ trọng và nguy hiểm khi phải thôi không chống tay xuống đất nữa và không được bấu víu vào các đồ vật xung quanh! Làm thế còn khó hơn là người lớn tập đi xe đạp. Trong khi con nít mất vài tháng để tập đi thì thủy tổ chúng ta ở rừng xưa kia tập đi đã phải mất hàng nghìn năm. Cũng có thể là trong thời kỳ còn sống trên cây, người nguyên thủy đôi lúc cũng xuống đất. Cũng có thể là hồi đó khi xuống đất anh ta không hoàn toàn chỉ dùng tay để đi mà còn đứng lên hai chân, chạy được vài bước, như con khỉ bây giờ. Nhưng đi hai ba bước là một chuyện, mà đi năm mươi hay một trăm bước lại là một chuyện khác hẳn! HAI CHÂN GlẢI PHÓNG CHO HAI TAY RẢNH RANG ĐỂ LAO ĐỘNG Ở thời kỳ xa xôi khi tổ tiên chúng ta ở rừng chuyên sống trên cây, anh ta đã tập được cách sử dụng hai tay khác hẳn hai chân. Anh ta dùng tay để hái quả và cũng để làm tổ trú ẩn ở giữa các cành cây. Nhưng bàn tay đã có thể bứt một trái cây thì cũng có thể cầm một cái gậy hay một hòn đá. Khi đã nắm được hòn đá hay cái gậy thì cánh tay không giống như trước nữa, nó trở thành dài ra và mạnh hơn nhiều. Bởi vì, với hòn đá, người nguyên thủy có thể đập vỡ vỏ các trái cây cứng rắn nhất mà răng cắn không vỡ được. Cái gậy có thể dùng để đào bới đất, tìm những rễ cây ăn được. https://thuviensach.vn Chính vì vậy mà anh ta càng ngày càng năng dùng phương pháp mới đó để kiếm ăn. Anh ta dùng gậy bới đất, tìm các thứ rễ và củ. Anh ta dùng hòn đá bới và đập vỡ các gốc cây già để tìm sâu bọ. Nhưng muốn rảnh tay hoạt động thì cần phải miễn cho hai tay nhiệm vụ di chuyển: hai tay càng bận việc thì hai chân càng phải độc lập vận động để đi lại. Như vậy là hai tay bắt buộc hai chân phải tự đảm đương việc đi lại, còn hai chân thì giải phóng cho hai tay khỏi nhiệm vụ đó để rảnh rang làm các việc khác. Như vậy là một giống vật chưa từng thấy đã xuất hiện trên trái đất: nó đi đứng bằng hai chân sau và lao động bằng hai chân trước. Trông hình dáng bề ngoài nó còn giống hệt một con vật. Nhưng nếu ai trông thấy nó sử dụng hòn đá hay cái gậy thì chắc chắn phải nói: - Con vật đó, phải gọi là “tiền thân của con người”. Thực vậy, chỉ riêng con người mới biết sử dụng công cụ. Con vật không hề biết công cụ là gì. Khi con chuột nhảy và con chuột chù đào đất thì nó dùng chân để đào chứ không dùng xẻng. Muốn gặm nhấm gỗ, con chuột nhắt không dùng dao mà dùng răng của nó. Muốn chọc thủng vỏ cây, con chim gõ kiến chỉ biết dùng mỏ mà thôi. Tổ tiên loài người không có mỏ để đào khoét, không có chân để dùng thay xẻng, không có răng cứa sắc thay dao! https://thuviensach.vn Nhưng anh ta lại có những cái quý hơn cả nanh vuốt sắc nhọn: có bàn tay để tìm và nhặt ở dưới đất những hòn đá sắc hơn răng chuột và những miếng gỗ nhọn như móng vuốt thú dữ. CON NGƯỜI TỪ TRÊN CÂY XUỐNG DƯỚI ĐẤT Trong khi những sự việc trên xảy ra thì khí hậu trên trái đất cũng thay đổi dần. Trong các rừng cây của con người nguyên thủy, càng về sau, ban đêm càng mát và mùa đông càng rét. Khí hậu hãy còn dịu nhưng không còn là khí hậu nhiệt đới nữa. Đã đến lúc các sườn đồi phía bắc mất đi cái áo khoác làm bằng các cây cọ quanh năm xanh tốt, và các cây mộc lan, nguyệt quế dần dần nhường chỗ cho các cây sồi, cây bồ đề. Người ta hãy còn tìm thấy trong các bãi đất phù sa những dấu vết lá cây sồi, cây bồ đề mà trước kia các trận mưa rào làm rụng xuống. Để tránh gió lạnh, các cây vả và cây nho chỉ mọc ở các thung lũng hay các sườn núi phía nam. Giới hạn những rừng nhiệt đới càng lui mãi xuống phía nam. Các con vật ở rừng cũng đi theo rừng cây về phía nam. Càng ngày càng thấy hiếm những con voi tiền sử và con thú dữ hổ răng lưỡi gươm. Ở những nơi trước kia là rừng rậm cây mọc chằng chịt bây giờ cây mọc thưa hơn, làm thành những bãi quang có các con tê giác và hươu khổng lồ đến gặm cỏ. Loài khỉ thì có giống bỏ đi nơi khác, có giống đã bị tiêu vong. Ở rừng, cây nho và cây vả ngày càng ít. Đi lại trong rừng ngày càng khó khăn. Rừng cây mọc thưa đi nên muốn chuyển từ khóm cây này sang khóm cây khác, cần phải chạy trên những chặng đường dài ở trên đất. Điều đó không phải là chuyện dễ dàng đối với con vật quen sống trên cây: nó luôn bị đe dọa vấp phải nanh vuốt thú dữ. Nhưng vì nhu cầu thúc đẩy nên phải làm theo. Đói bụng, người nguyên thủy buộc lòng phải rời ngọn cây cao là nơi trú ẩn lâu đời. https://thuviensach.vn Càng về sau anh ta càng phải năng xuống đất đi lang thang kiếm ăn. Nhưng một con vật buộc phải rời bỏ cái chuồng, rời cái thế giới rừng rú nó đã quen sống ở đó, thì sẽ ra sao? Như thế tức là nó đã làm trái quy luật sống trong rừng, tự phá bỏ xiềng xích chôn chân mình ở chỗ cũ. Đã đành là các con thú và loài chim có thể biến đổi: không có cái gì ở nguyên một chỗ không thay đổi trên thế giới này. Nhưng sự biến đổi đó chẳng phải dễ dàng. Con vật có móng nhọn muốn biến thành giống ngựa ngày nay, đã phải trải qua hàng triệu năm. Thường thường, con đẻ ra thì giống hệt bố mẹ. Sự tạo thành một giống vật mới, hoàn toàn khác giống nguyên thủy, đòi hỏi phải trải qua hàng nghìn thế hệ. Vậy thì tổ tiên chúng ta, tiền thân của con người, đã biến đổi ra sao? Nếu anh ta không trút bỏ được các phong tục và thói quen cũ, anh ta sẽ bắt buộc phải cùng giống khỉ di cư về phương nam. Nhưng ngay từ hồi đó, con người đã khác với giống khỉ: để kiếm ăn, anh ta đã dùng những răng và móng làm bằng đá và gỗ. Nếu cần, anh ta có thể không màng gì tới những trái quả mọng nước của rừng phương nam, bấy giờ đã ngày càng hiếm có trong rừng anh ta ở. Anh ta cũng không sợ hãi khi thấy cây trong rừng thưa thớt đi: anh đã biết di chuyển trên mặt đất nên không lo ngại ở các vùng đất trống nữa. Nếu gặp thú dữ tấn công trên đường đi, cả đàn người cổ xưa hợp sức đánh đuổi kẻ thù bằng đá và gậy gộc. https://thuviensach.vn Khí hậu khắc nghiệt không làm tiêu diệt tổ tiên loài người mà cũng không buộc được anh ta phải rút lui về phương nam cùng với các rừng cây. Trái lại, chính khí hậu đó đã đẩy mạnh sự biến đổi anh ta thành người thực sự. Trong khi đó số phận anh em họ của người là loài khỉ ra sao? Chúng đã cùng rút về phương nam với các rừng nhiệt đới và đã vĩnh viễn trở thành loài thú ở rừng. Chúng bắt buộc phải làm như vậy, không có cách nào khác. Vì chúng tiến hóa chậm hơn tổ tiên con người và không biết dùng công cụ. Những con khỉ khôn khéo nhất cũng vẫn trú ngụ ở những tầng trên của khu rừng và ngày càng thành thạo trong việc leo trèo và bám vào cành cây. Những giống khỉ vụng về nhất, không thích ứng được với lối sống trên cây, phải chịu một số phận thảm thương. Chỉ còn sống sót những giống khỉ lớn nhất và khỏe nhất. Những con vật càng to và nặng thì càng khó sống ở trên cây. Dù muốn hay không, chúng cũng phải xuống đất. Thí dụ: ngay thời bây giờ, con khỉ độc vẫn sống ở trên mặt đất trong rừng. Và muốn tự vệ trước kẻ thù, nó không biết dùng đá hay gậy, mà chỉ trông cậy vào hai hàm răng khỏe có những nanh nhọn đáng sợ. Đó chính là ngã ba đường phân cách sự tiến hóa của giống người và giống khỉ, anh em họ của người. https://thuviensach.vn MẮT XÍCH BỊ MẤT Con người phải mất nhiều thời gian mới đứng thẳng trên hai chân được. Thoạt đầu tất nhiên dáng di còn vụng về ngượng nghịu. Thời kỳ đầu tiên đó, con người nguyên thủy, hay đúng hơn, con người vượn đó, hình dáng thế nào? Đó là câu hỏi mà bao nhiêu nhà bác học đã tự đặt ra. Những con khỉ “tiền thân của người” đó đã không còn nữa. Nhưng chắc hẳn xương nó còn giữ lại được ở đâu đây, dưới mặt đất. Tìm thấy những bộ xương đó tức là chứng minh một cách chính xác rằng con người từ giống khỉ mà sinh ra. Vì chính con người-vượn đó là cái mắt xích bị mất đi trong cả chuỗi dây xích nối liền con khỉ thời tiền sử với con người có tri thức. Nhưng hình như cái mắt xích đó đã vĩnh viễn bị thất lạc trong đám đất cát, đất sét và phù sa của những thời kỳ xa lắc xa lơ về trước rồi. Nếu cần đào đất để tìm thì các nhà khảo cổ học rất thành thạo trong việc này. Nhưng muốn làm như vậy, trước hết phải biết rõ là cần đi tìm cái mắt xích bị mất ấy ở đâu. Tìm kiếm dưới đất những mảnh xương của con người tiền sử, việc đó khó hơn là mò cái kim giấu trong đống rơm, vì trái đất rộng bao la, biết đâu mà tìm! Cuối thế kỷ trước, nhà bác học Hếch-ken đã đưa ra một giả thuyết: xương của người-vượn (tên khoa học của người-vượn là Ô-xtơ-ra-lô-pi-téc) có thể tìm thấy ở miền nam châu Á. Ông ta còn chỉ rõ ở trên bản đồ khu vực có nhiều khả năng tìm thấy xương đó hơn cả là Nam Dương quần đảo.[3] https://thuviensach.vn Rất nhiều người cho rằng giả thuyết của Hếch-ken là ít căn cứ. Nhưng giả thuyết đó đưa ra không phải là vô ích: có một người tin tưởng ở giả thuyết đó đến nỗi quyết tâm bỏ hết công việc đang làm để lên đường đến Nam Dương quần đảo, với mục đích là tìm kiếm những mảnh xương theo giả thuyết của người-vượn theo giả thuyết. Người đó là bác sĩ Ô-gien Đuy-boa, giáo sư phẫu thuật ở trường đại học tổng hợp Am-xtéc-đam.[4] Rất nhiều bạn đồng nghiệp của ông lắc đầu khi nghe tin đó. Họ cho rằng làm như vậy là điên rồ. Vì họ chỉ có một cuộc du lịch yêu thích nhất là dạo chơi trên đường phố Am-xtéc-đam êm ả và khệnh khạng sáng xách ô vào trường đại học, tồi xách về. Để thực hiện ý kiến của mình, giáo sư Đuy-boa đã từ bỏ nghề dạy học, xin vào làm việc trong quân đội và, dưới danh nghĩa bác sĩ quân y, ông đi sang đảo Xu-ma-tơ-ra xa xôi. Mới đặt chân lên đảo này ông dã bắt tay ngay vào công việc tìm kiếm. Ông thuê người đào bới những khối lượng đất lớn như trái núi. Trải qua một, rồi hai, ba tháng đào đất, tìm tòi, vẫn không thấy bóng dáng mảnh xương nào của người-vượn cả. Khi con người đi tìm kiếm cái đã mất, ít nhất là anh ta cũng biết là mất ở đâu. Và nó sẽ thấy khi anh ta kiên trì tìm kiếm. Công việc của ông Đuy-boa có phần không thuận lợi. Vi dù sao đây cũng mới chỉ là trong giả định. Ông không thể nào xác định một cách chắc chắn rằng xương của loài người-vượn https://thuviensach.vn là có thật. Mặc đầu như vậy, ông vẫn kiên nhẫn tìm tòi với một quyết tâm sắt đá. Thời gian cứ thế trôi qua, và sau ba năm đào bới dưới đất, cái mắt xích bị mất kia cũng vẫn chưa tìm ra. Nếu là bất cứ một người nào khác thì tất nhiên đã phải bó tay từ lâu rồi. Có lẽ chính bản thân giáo sư Đuy-boa cũng đã đôi khi ngờ vực kết quả công việc của mình. Nhưng ông vẫn quyết tâm theo đuổi đến cùng công việc mà ông đã bắt tay vào làm. Không tìm thấy xương người-vượn ở Xu-ma-tơ-ra, ông quyết định đến tìm ở một đảo khác của Nam Dương quần đảo là đảo Gia-va, xem có hiệu quả hơn không. Và chính ở đây ông đã đạt được mục đích. Trước hết ông đào được gần làng Tơ-ri-nin một nắp xương sọ, một mẩu xương hàm dưới, vài cái răng và một xương đùi của người-vượn. Sau đó lại tìm thấy thêm vài mảnh xương đùi nữa. Ông dựa vào những mảnh xương đó để khôi phục lại hình dạng của thủy tổ loài người thời tiền sử, thì thấy hiện ra một cái trán thấp thụt về phía sau, hai vành xương che mi mắt nhô ra và hai mắt sâu. Bộ mặt này giống mặt khỉ hơn là mặt người. Nhưng bộ xương sọ chứng minh rằng người-vượn này thông minh hơn loài khỉ gần gũi nhất với con người: bộ óc to hơn óc khỉ rất nhiều. https://thuviensach.vn Quan sát kỹ xương đùi và dấu vết còn rất mờ của gân nối xương đó với bắp thịt đùi, giáo sư kết luận rằng người-vượn có thể đứng thẳng được. Nó đã đi bằng hai chân, tuy có lẽ còn ngượng nghịu. Như vậy là giáo sư Đuy-boa đã hình dung được thủy tổ xa xôi của loài người như thế nào rồi. Hãy xem anh ta đang lần bước ở giữa đám rừng quang cây, người cúi lom khom nặng nề. Hai đùi gập xuống đầu gối, hai tay dài gần chạm đất. Hai mắt nấp dưới hàng lông mày rậm cúi gằm xuống đất, tìm tòi thức ăn... Nó không còn là vượn nữa, nhưng cũng chưa hẳn là người. Giáo sư Đuy boa gọi nó là “người-vượn đi thẳng” vì nó khác với vượn ở chỗ biết đi thẳng. Có lẽ chúng ta tưởng giáo sư Đuy-boa đã đạt được mục đích của mình, đã tìm thấy người tiền sử rồi. Song chính lúc đó những năm tháng nặng nề nhất đối với ông đã bắt đầu. Quả là đào xuống những lớp đất sau còn nhẹ nhàng hơn phá vỡ những thành kiến của loài người. Sự khám phá của ông đã gây nên những phản ứng điên cuồng của những kẻ ngoan cố không thừa nhận nguồn gốc con người là do khỉ sinh ra. Những nhà khảo cổ học áo thụng Thiên chúa giáo cũng như áo vét tông đua nhau chứng minh rằng: xương sọ do ông Đuy-boa tìm ra chính là xương vượn, còn xương đùi lại là xương con người ngày nay. Nghĩa là đối phương của ông tách rời bộ xương người-vượn đó thành hai phần xương; của một con khỉ và một con người riêng biệt. Hơn thế nữa, họ còn nghi ngờ cả thời kỳ của những mảnh xương đó, và cho rằng xương đó không phải đã có từ hàng chục vạn năm trước mà là những xương mới có cách đây chỉ ít năm Nói tóm lại, họ đã làm tất cả để một lần nữa lại chôn xuống đất người vượn để rồi quên bẵng đi. Bác sĩ Đuy-boa bênh vực công trình của mình rất dũng cảm và được sự ủng hộ của tất cả những ai hiểu rõ giá trị khoa học của sự khám phá đó. Ông bác bỏ luận điệu đổi phương bằng cách vạch ra rằng xương sọ kia không thể là xương vượn được vì xương sọ của vượn không có những chỗ https://thuviensach.vn lõm ở trán như người-vượn. Năm tháng trôi qua... Giả thuyết con người-vượn vẫn chưa được thừa nhận. Nhưng rồi xảy ra một việc bất ngờ, người ta lại tìm thấy những xương còn sót lại của một người-vượn khác rất giống người-vượn của ông Đuy boa... Vào đầu thế kỷ XX, một nhà bác học trong lúc dạo chơi ở các phố Bắc Kinh đã rẽ vào một hiệu thuốc bắc. Trong các tủ hàng bày la liệt nào nhân sâm, nào xương và răng thú vật, lẫn với các thứ bùa hộ mệnh khác. Ông ta chú ý đến một cái răng không thể bảo là của súc vật được, mà cũng khác xa răng con người bây giờ. Nhà bác học liền mua cái răng kỳ lạ ấy và gửi tặng một viện bảo tàng ở châu Âu. Ở đấy người ta xếp loại riêng cái răng đó, gọi bằng một cái tên rất thận trọng là “cái răng Trung Quốc”. Hơn hai mươi năm sau, bỗng nhiên người ta tìm thấy trong một cái hang đá tên là Chu-khẩu-điếm ở gần Bắc Kinh hai cái răng giống như cái răng trên kia, rồi ít lâu sau lại tìm thấy cả bộ xương của con người thời tiền sử mà người ta gọi tên là người-vượn Trung Quốc (hay người-vượn Bắc Kinh). Nói đúng ra thì đây không phải là cả một bộ xương đầy đủ, mà chỉ là một đống xương khá linh tinh, bao gồm chừng năm mươi cái răng, ba xương sọ, mười một xương hàm, một mảnh xương bắp đùi, một đốt xương sống, một xương bả vai, một số xương cổ tay và xương bàn chân. https://thuviensach.vn Như vậy cái hang đá kia đã là nơi trú ẩn của cả một đàn người-vượn Trung Quốc. Trải qua hàng chục vạn năm, nhiều xương đã thất lạc, có khi bị thú dữ tha đi. Những cái xương còn lại cũng đủ để giúp ta hình dung được hình dáng của người-vượn đó, vì các nhà bác học có khả năng dựa vào một vài cái xương tìm thấy mà phác ra được toàn bộ hình dáng của thân thể. Vậy người-vượn thời tiền sử đó dáng dấp ra sao? Phải nói ngay rằng nó chẳng xinh đẹp chút nào. Giá thử chúng ta bất thình lình gặp phải người-vượn đó, chắc là sẽ rùng mình ghê sợ: mặt nó nhô hẳn ra phía trước, hai tay dài đầy lông lá, hệt như một chú khỉ. Nhưng cảm giác đầu tiên đó sẽ thoảng qua thôi, và chúng ta sẽ nhận thấy là đã lầm. Không một con khỉ nào có thể đi đứng thẳng người như vậy và có bộ mặt giống con người như vậy được. Muốn xua tan mọi nỗi hoài nghi, chúng ta hãy rón rén bước theo người vượn Trung Quồc về hang. Người-vượn đang lê bước dọc theo con sông, chân cong bước nặng nề. Bỗng nhiên hắn ngồi xệp xuống bãi cát vì thấy một hòn đá to. Hắn nhắc hòn đá lên ngắm nghía, đập mạnh hòn đá ấy vào một hòn đá khác, rồi lại đứng dậy cầm lấy hòn đá tiếp tục đi nữa. Theo sau hắn, chúng ta trèo lên bờ sông dốc cao. Bè bạn của người-vượn đã tụ tập ở cửa hang. Một lão già râu ria lởm chởm đang mổ xẻ một con sơn dương bằng một dụng cụ bằng đá. Cạnh đó, một lũ đàn bà dùng tay xé thịt sống. Một đàn trẻ con chìa tay xin những miếng thịt vụn. Tất cả cảnh tượng đó được ánh lửa đốt trong hang chiếu sáng. Bây giờ ta không còn nghi ngờ gì nữa: giống khỉ đâu có biết đốt lửa và làm ra công cụ bằng đá! Nhưng người ta có quyền chất vấn: “Làm thế nào chứng minh được rằng người-vượn Trung Quốc biết sử dụng công cụ và lửa?” https://thuviensach.vn Những chứng cớ đó tìm thấy ở ngay trong hang Chu-khẩu-điếm. Đào bới trong hang thì tìm được không những là xương mà còn nhiều thứ khác: cả một tầng tro dày lẫn với đất và một đống dụng cụ bằng đá đẽo gọt thô sơ. Tổng số dụng cụ đó tới hơn hai nghìn cái và tầng tro dày tới bảy mét. Như vậy rõ ràng là đám người-vượn Trung Quốc đã sống trong hang này rất lâu năm và đã đốt lửa ở đó hàng bao năm trời. Có lẽ người-vượn thời đó chưa biết tự mình làm ra lửa mà họ mới chỉ biết tìm ra lửa đã cháy sẵn, cũng như họ đi kiếm rễ cây để ăn và tìm đá để mài thành công cụ. Người-vượn có thể tìm ra lửa trong những đám cháy rừng. Hắn nhặt vài cành cây đang cháy nâng niu mang về cho khỏi tắt lửa. Về đến hang, hắn ấp ủ lửa như vàng, đặt vào một chỗ kín gió và không bị mưa dột để không bao giờ lửa bị tắt ngấm đi. Cách đây không lâu, vào năm 1959, tại Tan-ga-nhi-ca, nhà khoa học Anh Lu-it Li-ki đã tìm thấy một xương sọ của người nguyên thủy, còn xa xưa hơn cả loài người-vượn Bắc Kinh. Loài người-vượn tìm thấy ở Tan-ga-nhi-ca, tên khoa học gọi là Ginơ-gian-trốp, sống ở rừng châu Phi đã trên 1 triệu 700 nghìn năm về trước. Nó đã xuất hiện sớm hơn loại người-vượn Bắc Kinh hàng trăm nghìn năm. Cái quan trọng nhất là ở châu Phi, người ta đã tìm được xương của con người thuộc vào thế hệ cháu và chắt của loại vượn người Ginơ-gian-trốp. Rất có khả năng là “cháu, chắt” này là những người cùng thế hệ với loài người-vượn Bắc Kinh. https://thuviensach.vn CHƯƠNG III CON NGƯỜI VI PHẠM NHỮNG LUẬT LỆ CỦA THIÊN NHIÊN Người-vượn cầm hòn đá hay cái gậy trong tay: nó cảm thấy mình khỏe mạnh và tự do hơn trước rồi. Từ nay trở đi, có hoa quả ăn được ở gần hay không, không phải là việc quan trọng đối với nó nữa. Người-vượn có thể đi xa nơi trú ẩn, đi tìm thức ăn ở ngoài khu rừng quê hương, tới những nơi xa lạ, dừng lại lâu ở những chỗ quang cây, tóm lại là có thể vi phạm tất cả những luật lệ hạn chế từ thời tổ tiên xưa. Như vậy là ngay từ khi bắt đầu bước vào cuộc đời phiêu lưu của mình, con người đã tự đặt mình ra ngoài “vòng pháp luật” của thiên nhiên, đã là một kẻ nổi loạn chống lại tạo hóa. Các bạn hãy nghĩ xem: một con vật vốn sống ở trên cây mà bây giờ dám cả gan tụt từ trên ngọn cây xuống để đi trên mặt đất. Hơn thế nữa, nó, lại đứng trên hai chân sau và có dáng đi trái hẳn tự nhiên. Và táo tợn nhất là nó tìm kiếm ra những thức ăn mới mà tổ tiên nó chưa hề biết, và nghĩ ra những phương pháp hoàn toàn mới để kiếm những thức ăn mới đó. https://thuviensach.vn Trong thiên nhiên, có thể nói rằng các con vật và cây cỏ bị ràng buộc chặt chẽ với nhau bằng những “dây xích thức ăn”. Con sóc thường ăn hạt quả thông, và con cáo phương bắc lại ăn thịt sóc. Con sóc còn ăn cả hạt dẻ và nấm nữa. Mà không riêng gì con cáo săn đuổi con sóc, diều hâu cũng ưa chén thịt sóc. Thế là lại có thêm một dây xích: nấm, hạt dẻ - sóc- diều hâu. Tất cả mọi thú rừng đều bị ràng buộc với nhau bằng những dây xích tương tự. Đã có một thời kỳ, cả người-vượn của ta cũng bị dây xích thức ăn đó trói buộc chặt vào toàn bộ thế giới mênh mông: người-vượn hái quả để ăn, và lại đến lượt các thú dữ như con hổ răng lưỡi gươm ăn thịt nó. Thế mà bây giờ bỗng nhiên người-vượn nổi dậy, giật tung những dây xích vô hình kia. Nó đi kiếm những thức ăn xưa nay chưa hề ăn, và không chịu đem thân làm mồi cho hổ răng lưỡi gươm hung dữ, là con vật trải qua nghìn vạn năm đã quen ăn thịt tổ tiên người-vượn rồi. Sự táo bạo đó do đâu mà có? Vì sao người-vượn dám cả gan tụt trên cây xuống, mạo hiểm đi trên mặt đất là nơi có nanh vuốt các loài thú dữ lớn đang rình anh ta trên mỗi bước đường? Có thể ví như một chú mèo nhảy từ trên cây xuống mà biết rằng một con chó hung dữ đang rình dưới gốc cây... https://thuviensach.vn Chính bàn tay đã giúp cho người nguyên thủy trở nên can đảm như vậy. Hòn đá và cái gậy mà anh ta dùng để kiếm thức ăn cũng giúp anh tự vệ nữa. Công cụ đầu tiên đó cũng đồng thời là vũ khí đầu tiên. Hơn nữa, anh ta không đi mạo hiểm như vậy một mình đâu! Cả một bầy lũ có vũ khí cùng đi với nhau để khi cần đến thì hợp lực chống lại các cuộc tấn công của thú dữ. Lửa cũng là một khí giới của người. Chỉ mới trông thấy lửa, các thú vật đã khiếp sợ, đến nỗi những con thú dữ và táo tợn nhất cũng phải rút lui. THEO DẤU VẾT NHỮNG CÁNH TAY Từ cây xuống đất, từ rừng ra thung lũng bên các dòng sông; đó là con đường tiến hóa của con người, khi con người đã rứt bỏ được dây xích ràng buộc nó với rừng cây. Tại sao ta biết chắc là con người đi đến các thung lũng trước tiên? Chính là vì anh ta đã để lại những vết tích hãy còn giữ nguyên đến bây giờ. Đáng chú ý không phải là những vết chân như ta tưởng, mà lại là dấu vết do các bàn tay để lại. Cách đây một trăm năm, trong thung lũng của dòng sông Xom ở nước Pháp có những công trường lớn khai thác sỏi, cát và đá lát đường. Đã lâu lắm, khi con sông Xom mới ra đời, bắt đầu tràn xuống hạ lưu, thì dòng sông chảy xiết cuốn cuộn mang theo cả những hòn đá lớn. Những hòn đá đó cọ xát mạnh vào nhau trong khi bị nước cuốn đi, mòn dần thành những đá cuội, đá sỏi nhẵn nhụi. Về sau, khi dòng sông trở nên hiền hòa, êm ả thì những đá cuội và đá sỏi đó bị lấp dưới những lớp cát và đất sét. Bây giờ những người thợ đá đến cuốc đất để lấy sỏi lên. https://thuviensach.vn Nhưng kỳ lạ chưa! Có nhiều hòn đá cuội không nhẵn nhụi mà lại gồ ghề như có bàn tay nào đẽo gọt ở hai mặt. Do đâu mà đã có hình dạng đó? Tất nhiên không phải do tác động của nước chảy, vì nước chảy chỉ làm đá mòn nhẵn đi. Những hòn đá cuội kỳ lạ đó được một nhà thông thái ở địa phương tên là Bút-sê Đờ Péc-tơ chú ý. Nhà bác học này đã sưu tầm một lô rất phong phú những vật đặc biệt, tìm thấy dưới những lớp đất trên bờ sông Xom, bao gồm những ngà voi “ma-mút” khổng lồ, những sừng tê giác, những xương sọ của giống gấu ở hang... Chắc hẳn những con quái vật đó trước kia đã đến đây uống nước, như những con ngựa, cừu ta nuôi bây giờ. Còn dấu vết con người tiền sử thì ông Đờ Péc-tơ đã dày công tìm kiếm mà chẳng thấy gì. Nhưng rồi ông chú ý đến những hòn đá cuội kỳ dị kia còn nằm trong đất cát. Ai đã đẽo gọt những hòn đá đó? Ông Đờ Péc-tơ cho rằng chỉ có thể là con người mà thôi. Nhà bác học cảm động ngắm nghía các hòn đá cổ xưa. Không tìm thấy xương của những người nguyên thủy, nhưng những hòn đá kia chẳng phải là kết quả lao động của những con người đó ư? Chỉ có bàn tay con người mới có thể đẽo gọt được những hòn đá đó. Ông Đờ Péc-tơ liền viết một cuốn sách về kết quả tìm tòi của ông, đặt tên một cách táo bạo là: “Bàn về sự sáng tạo - Luận về nguồn gốc và sự tiến hóa https://thuviensach.vn của các sinh vật”. Đến đây thì công việc trở nên phức tạp. Cũng giống như giáo sư Đuy-boa sau đó, nhà bác học Đờ Péc-tơ bị cả một lô đối phương nhao nhao công kích rất dữ dội, cả những nhà khảo cổ học nổi tiếng cũng ra sức chứng minh rằng nhà khảo cứu nghiệp dư tỉnh lẻ kia hoàn toàn chẳng hiểu biết tí gì về khoa học, còn những lưỡi “rìu” đá kia chỉ là giả mạo và cuốn sách đó cần phải kết án về tội đã chống đổi nguyên lý đạo Cơ-đốc về thuyết Thượng đế sáng tạo muôn loài... Cuộc tranh luận giữa ông Đờ Péc-tơ và các đối phương kéo dài suốt mười lăm năm ròng. Nhà bác học Đờ Péc-tơ đã già, râu tóc đã bạc phơ, nhưng vẫn kiên quyết bảo vệ giả thuyết của mình và khẳng định về nguồn gốc xa xưa của loài người. Sau cuốn sách đầu tiên kia ông còn viết thêm một cuốn thứ hai, rồi một cuốn thứ ba nữa. Lực lượng hai bên thật quá chênh lệch. Thế mà chính ông Đờ Péc-tơ đã thắng. Đó là nhờ sự tiếp sức của các nhà địa chất học Lai-en và Pơ-rét-vích. Hai ông này đã đến thung lũng sông Xom, nghiên cứu các công trường làm đá và các đồ vật mà ông Đờ Péc-tơ đã sưu tầm. Và sau khi đã nghiên cứu tỉ mỉ, hai ông tuyên bố rằng các công cụ tìm ra đó quả thực là của những con người sống trên đất nước Pháp thời thượng cổ, khi ấy tại nơi đây còn có cả voi và tê giác. Cuốn sách của ông Lai-en mang tên là “Chưng cớ địa chất về nguồn gốc cổ xưa của loài người” đã buộc bọn đối địch với ông Đờ Péc-tơ phải câm miệng. Nhưng lúc đó bọn chúng lại đưa ra luận điệu là nhà bác học Pháp kia có phát hiện được điều gì mới mẻ đâu; những công cụ thời tiền sử đó người ta đã biết đến từ bao lâu rồi... Về điểm này, ông Lai-en nhận xét một cách sắc sảo rằng: “Mỗi khi khoa học khám phá ra điều gì quan trọng, lúc đầu người ta bảo điều đó trái với https://thuviensach.vn tôn giáo, rồi về sau lại bảo rằng điều đó chẳng có gì mới, ai cũng biết cả rồi!”. Đến bây giờ thì người ta đã tìm ra rất nhiều công cụ giống như những vật mà ông Đờ Péc-tơ đã đào được. Thường thường là tìm thấy trong những công trường khai thác đá ở bên sông. Như thế là những chiếc thuổng của người công nhân ngày nay hay gặp được ở dưới lòng đất những công cụ của những thời xa xưa khi con người mới biết đến lao động. Những dụng cụ cổ xưa nhất tìm thấy là những hòn đá mài đẽo sơ sài ở hai mặt bằng một hòn đá khác. Cũng có khi tìm thấy cả những mảnh đá dẹt thô sơ như những mảnh của một hòn đá lớn vỡ ra. Chính những dụng cụ bằng đá đó là những dấu vết do bàn tay con người thời xưa để lại ở các thung lũng và lòng sông cạn nước. Chính đây là nơi những người thời tiền sử đến tìm trong đám sỏi cuội do nước sông cuốn theo, những vật liệu để chế thành những cái nanh, cái vuốt nhân tạo của mình. Và cái đó đã là một công việc thực sự của con người rồi. Một con vật có thể biết kiếm thức ăn hoặc biết tìm vật liệu làm tổ, nhưng không khi nào lại nghĩ đến việc tìm ra vật liệu để tự làm ra thêm những nanh vuốt sắc nhọn cho mình. CÁI XẺNG VÀ CÁI THÙNG SỐNG https://thuviensach.vn Chúng ta đã từng đọc hay nghe nói đến kỹ thuật khéo léo của những con vật biết xây tổ bằng đất, bằng gỗ, biết dệt sợi, biết cả khâu vá. Thí dụ, con hải ly biết dùng răng cửa khỏe và sắc chặt cây giỏi như người tiều phu lấy rìu đẵn gỗ, và biết lấy thân cây và cành cây dựng lên cả những cái đập để buộc dòng nước chảy tràn ra xung quanh, tạo thành bể chứa nước. Lại lấy thí dụ những con kiến lửa. Nếu ta lấy gậy chọc vỡ một tổ kiến lửa ra thì sẽ thấy cả một công trình xây dựng; tuyệt diệu, một thứ nhà chọc trời bằng cành lá thông. Nhưng có ai nghĩ rằng giống hải ly và giống kiến nếu được tự do hoạt động thì sẽ có thể đuổi kịp con người trong nghệ thuật xây dựng được? Và sau đây một triệu năm, có lẽ ta sẽ thấy những con kiến đọc báo, đi làm trong xưởng, lái máy bay và theo dõi trên đài phát thanh những bài nói chuyện bằng tiếng nói của loài kiến được? Không, không thể được. Vì giữa người và kiến có một sự khác nhau căn bản. Sự khác nhau đó là gì? Phải chăng khác nhau là vì người lớn hơn kiến? Không phải. Hay có lẽ vì kiến có sáu chân mà người chỉ có hai chân? Cũng không phải. Phân biệt nhau về điểm khác kia! Ta hãy nhìn con người làm việc. Con người làm việc không chỉ bằng tay, không phải bằng răng, mà còn dùng cả búa, xẻng, rìu. Những công cụ đó, dù ta mất công tìm kiếm mãi trong các tổ kiến cũng không bao giờ thấy được. Khi con kiến muốn cắt cái gì, nó dùng đôi hàm răng sắc của nó tựa như cái kéo thực sự. Nếu nó muốn đào đất, nó sử dụng bốn cái xẻng luôn luôn mang theo trên người chính là bốn cái chân trong số sáu chân của nó: hai chân trước đào, hai chân sau xúc đất đổ đi, hai chân giữa làm chỗ dựa. Giống kiến lại còn có cả những cái “thùng” do thiên nhiên cho chúng nữa. Ở trong một số tổ kiến, ta trông thấy những cái hầm chứa đầy những cái https://thuviensach.vn “thùng” sống hẳn hoi. Trong những hầm tối dưới đất ấy treo lủng lẳng từng hàng rất sít những cái “thùng” giống nhau. Những cái “thùng” này tưởng chừng như không động đậy. Nhưng ta hãy theo dõi một con kiến vừa bước vào hầm, nó lấy râu gãi gãi vài cái vào cái “thùng”, cái “thùng” liền bắt đầu động đậy. Hóa ra cái “thùng” ấy có cả một cái đầu, một cái mình và chân. Chính nó là một con kiến bụng to phình ghê gớm, treo mình ở trần hầm. Nó hé hai hàm răng, để chảy ra một giọt mật ngọt. Con kiến thợ đến đây để bồi dưỡng sức lực liền hút luôn giọt mật kia rồi trở về tiếp tục làm việc. Còn chú kiến chứa mật lại tiếp tục ngủ say bên cạnh các thùng sống chứa mật khác. Các dụng cụ của giống kiến đều là những bộ phận thân thể của con kiến còn sống. Chúng không thể tùy ý cầm lấy hay vứt bỏ những dụng cụ đó như con người thường làm được. Đối với giống hải ly cũng vậy. Chúng chặt cây bằng răng chứ không phải bằng rìu. Thế là chúng cũng như giống kiến, không thể tự chế tạo ra công cụ để dùng được. Cả hai giống vật đó đã mang sẵn công cụ trên người ngay từ khi mới sinh ra. Lại lấy thí dụ con chim tước mỏ tréo. Đến bữa ăn, nó chẳng cần đến dao, dĩa gì cả. Nó có một cái kìm đặc biệt để ghè vỡ các quả thông lấy hạt ăn. Nó chẳng bao giờ chịu rời bỏ cái “dụng cụ nhà ăn” đó, vì một lý do đơn giản nào. Chiếc kìm đó chính là cái mỏ của con chim. Mỏ chim tước mỏ tréo dùng để mở quả thông rất tốt, chẳng kém gì cái búa để đập hạt dẻ hay cái dùi để mở nút chai. Chỉ khác là dụng cụ của con người thì do người chế tạo ra tùy theo công việc phải làm, còn con chim tước mỏ tréo thì phải tự thích ứng với cuộc sống https://thuviensach.vn trong rừng, và trải qua hàng nghìn năm tiến hóa mới có một cái mỏ hoàn toàn thích hợp để mổ vỏ các quả thông. Thoạt đầu thì cỏ vẻ rất tiện lợi: một dụng cụ sống liền với người không bao giờ thất lạc được. Nhưng nghĩ kỹ một chút thì cái đó cũng có chỗ bất tiện: ta không thể sửa chữa hay cải tiến loại dụng cụ sống ấy được. Con hải ly không thể mài nhọn những răng bị mòn khi nó đã già. Con kiến cũng không thể nào sửa chữa chân nó để đào bới đất tốt hơn được. CHIẾC XẺNG THAY THẾ BÀN TAY Ta hãy thử hình dung một người khi mới sinh ra đã mang sẵn trên mình những dụng cụ như các con vật, chứ không phải là tự mình chế tạo ra các công cụ bằng gỗ, thép và sắt để dùng. Nếu như vậy thì anh ta sẽ không thể phát minh thêm được công cụ mới, hoặc cải tiến được những công cụ sẵn có trên người. Thí dụ, muốn có một cái xẻng, anh ta cần sinh ra với những cánh tay hình giống cái xẻng. Thực ra thì đó là chuyện vô lý. Nhưng cứ tạm coi là có một con quái vật như thế ra đời. Chắc chắn hẳn sẽ là một người thợ đào đất tuyệt vời. Nhưng hắn không thể dạy nghề của mình cho ai được, cũng như một người có đôi mắt tinh không thể nào cho kẻ khác mượn đôi mắt ấy được. Người có đôi tay hình xẻng sẽ không khi nào xa rời cái dụng cụ đó được và cũng chẳng làm được việc nào khác, ngoài việc đào đất. Khi hắn chết thì dụng cụ của hắn cũng mất đi theo, vì tất cả đều chôn chung một hố. Người thợ đào đất trời sinh ra kia chỉ có thể truyền lại cái xẻng đặc biệt của mình cho con cháu, nếu con hay cháu hắn lúc mới sinh ra cũng mang theo xẻng trên mình như hắn. Nhưng thế cũng chưa hết. Công cụ sống chỉ truyền lại đời sau nếu nó vẫn còn có ích cho con cháu. https://thuviensach.vn Đối với những người phải sống chui rúc như chuột ở dưới mặt đất thì các cánh tay hình xẻng là hoàn toàn cần thiết. Nhưng cái đó lại trở nên vô dụng đối với những người sống ở trên mặt đất. Muốn cho một dụng cụ mới có thể ra đời cùng với con vật lúc mới sinh mà không cần đến sự can thiệp nào từ bên ngoài, thì cần phải có đầy đủ biết bao nhiêu điều kiện. May mắn làm sao, con người đã đi theo một con đường khác hẳn. Anh ta không bị động ngồi chờ cho tay mình tự nhiên biến thành hình xẻng. Anh cần đến xẻng thì tự tay anh chế tạo ra xẻng, cũng như anh chế ra dao, búa và bao nhiêu công cụ khác Ngoài số hai mươi ngón tay ngón chân và ba mươi hai cái răng do ông cha truyền lại cho, con người còn chế thêm cho mình hàng nghìn công cụ đủ các loại: dài, ngắn, mỏng, dày, nhọn, tù, để đâm thủng, để cắt đứt, để giết các sinh vật khác. Những công cụ đó thay thế cho các ngón tay, cái răng cửa, nanh, móng và quả đấm. Trong cuộc đấu sức với muốn loài, những công cụ đó mang lại cho con người một ưu thế khiến cho không con vật nào có thể vươn tới tầm con người được. CON NGƯỜI VÀ DÒNG SÔNG - HAI NGƯỜI THỢ LÀNH NGHỀ Trong thời kỳ con người vừa mới thoát ra khỏi cảnh sống thú vật, anh ta chưa biết tự chế tạo cho mình những thứ răng và móng nhân tạo. https://thuviensach.vn Thời kỳ ấy, anh ta mới chỉ biết lượm nhặt những vật có sẵn trong tự nhiên, cũng như ngày nay ta kiếm nấm và trái cây trong rừng vậy. Anh ta đến những bãi cát và những khúc sông nông để tìm kiếm những hòn đá được thiên nhiên đẽo và mài nhẵn cho. Những vũ khí có đầu nhọn sẵn có đôi khi tìm thấy ở gần những chỗ nước xoáy mạnh, cọ xát các hòn đá vào nhau, làm cho đá mòn dần và thay hình đổi dạng. Tất nhiên là dòng sông chẳng hề quan tâm đến kết quả công việc mình làm. Vì vậy, trong số trăm nghìn hòn đá được nước sông chế tác như thế, chỉ có một số rất ít có thể giúp ích cho con người. Cho nên con người đã phải tìm cách tự làm ra những dụng cụ cần thiết. Và đã xảy ra một việc mà sau này còn diễn lại nhiều lần trong lịch sử: con người đã tạo ra những công cụ thay cho những công cụ có sẵn của tạo hóa. Tự nhiên giống như một công xưởng vĩ đại, ở đó con người sắp đặt công xưởng riêng của mình trong một góc nhỏ để sáng chế ra những công cụ mà trong thiên nhiên không có. Đó là trường hợp của những công cụ mà con người trước hết làm bằng đá, rồi hàng nghìn năm sau chuyển sang làm bằng kim loại. Lúc đầu người ta đẽo gọt những mảnh kim khí vụn sẵn có trong tự nhiên, nhưng tương đối hiếm, sau mới biết cách lấy kim khí từ trong quặng ra. Và mỗi khi tiến từ những vật sẵn có trong tự nhiên sang những vật đó, chính tay mình làm ra, tổ tiên chúng ta lại tiến thêm một bước nhảy vọt đến gần tự do, gần việc giải phóng bản thân khỏi sự khống chế khắc nghiệt của tự nhiên. Thoạt đầu, con người chưa biết chế ra các vật liệu làm công cụ. Trước hết họ mới chỉ biết thay đổi hình dạng những vật có sẵn trong tự nhiên. Người nguyên thủy chọn một hòn đá và lấy hòn đá khác ghè dần vào nhau làm biến đổi hình thù hòn đá kia. Như vậy là đã có một dụng cụ mà các nhà khảo cổ học đặt tên là “rìu đẽo hai mặt” hoặc là “cái để thái”. Những mảnh đá vỡ ra cũng được giữ lại để dùng, để cắt, nạo, đâm thủng, v.v... https://thuviensach.vn Những công cụ cổ xưa nhất như vậy, mà ta thường tìm thấy vùi sâu dưới đất, giống hệt những mảnh đá do thiên nhiên chế tác, đến nỗi đôi khi cũng khó mà nói chắc được rằng người chế tác ra nó là ai: con người, dòng nước, hay đơn giản là tiết trời cùng với nước tạo nên. Nhưng còn tìm thấy những dụng cụ khác, mà đối với loại này thì ta không còn có lý do gì để nghi ngờ nữa. Ở những bãi cát trên bờ sông và trong những lòng sông cũ này đã bị cát với đất sét lấp đầy, người ta đã tìm tòi và phát hiện được cả những công xưởng thời tiền sử. Ở đây có những rìu đẽo hai mặt đã làm xong hẳn, lẫn với những mảnh đá ghè vỡ ra để dự trữ. Ở Liên Xô những rìu đẽo như vậy đã tìm thấy ở miền nam, ở Ác-mê-nhia, ở những miền đất biển bồi gần Xu-khu-mi, và trong hang Kích-cô-ba vùng Crưm. Quan sát kỹ những hòn đá người thời xưa dùng để mài thành những rìu đẽo hai mặt, ta hãy còn thấy rõ dấu vết những chỗ bị ghè vỡ và dấu vết những chỗ được mài gọt cho nhẵn nhụi. Không bao giờ tự nhiên có thể làm được những việc tương tự. Chỉ con người mới có thể chế tạo được những công cụ đó. Điều đó thực ra cũng dễ hiểu: tự nhiên hành động không nhằm một mục đích rõ rệt, một chương trình vạch sẵn từ trước. Nước xoáy va chạm làm mòn sỏi đá một cách vô tình. Con người làm biến đổi hình dạng các hòn đá một cách có ý thức, nhằm một mục đích định sẵn. Lần đầu tiên trên mặt đất thấy xuất hiện những kế hoạch, những mục tiêu. Con người bắt đầu sửa chữa, cải https://thuviensach.vn tạo tự nhiên từng tí một, bằng cách đổi thay hình dạng những hòn đá do tự nhiên sáng tạo ra. Thế là con người cùng với việc tự đặt mình cao hơn hẳn một bực trên muôn loài đã làm cho mình bớt phụ thuộc vào xung quanh. Từ nay trở đi, con người không còn phải lo ngại việc tự nhiên không làm sẵn cho họ những hòn đá thích hợp với nhu cầu. Bây giờ con người đã biết làm lấy công cụ để dùng. MỞ ĐẦU TIỂU SỬ Khi viết tiểu sử một nhân vật nào, thường thường người ta bắt đầu bằng ngày sinh và nơi sinh. Thí dụ: “Ông I-van I-va-nô-vích I-va-nốp sinh ở Tam bốp ngày 23 tháng 11 năm 1897”. Đôi khi người ta còn diễn tả việc đó bằng lời văn trịnh trọng hơn: “Trong một ngày mưa tháng 11 năm 1897, ở một ngôi nhà nhỏ tại ngoại ô Tam-bốp, I-va-nô-vích I-va-nốp ra đời. Về sau ông đã làm rạng danh thành phố quê hương mình”. Chúng ta đã sang tới chương thứ ba cuốn tiểu sử của con Người mà vẫn chưa nói con Người ra đời ở đâu và bao giờ. Ngay cả đến tên thật chính xác của anh ta là gì, ta cũng chưa nói đến. Khi thì ta gọi anh ta “người-vượn”, khi thì gọi là “người tiền sử”, có khi còn gọi bằng những danh từ lờ mờ hơn nữa, như “ông tổ ở rừng của loài người”, v.v... Bây giờ đã đến lúc phải làm cho minh bạch theo đúng lệ thường. Trước hết, hãy nói đến tên nhân vật. Dù chúng ta đầy thiện chí đến mấy, chúng ta cũng không thể gọi lên một tên dứt khoát được, vì nhân vật này mang rất nhiều tên khác nhau. Mời bạn hãy mở lướt các trang của bất cứ một cuốn tiểu sử nào. Bạn sẽ thấy rằng, từ trang đầu đến trang cuối, nhân vật kể trong truyện vẫn giữ nguyên một tên họ. Anh ta lớn lên, từ lúc trẻ đến lúc đứng tuổi, cho đến khi râu ria mọc dài, mà tên họ vẫn không thay đổi. Lúc sinh ra nếu người ta đặt https://thuviensach.vn tên anh là I-van, thì anh sẽ vẫn mang tên I-van cho đến cuối đời mình. Nhân vật của chúng ta thì khác hẳn. Anh ta thay đổi nhiều từ chương này sang chương khác, đến nỗi dù muốn hay không, ta cũng buộc lòng phải gọi anh ta bằng nhiều tên khác nhau. Thí dụ người tiền sử cổ xưa nhất, hãy còn rất giống các ông tổ khỉ vượn, thì được mệnh danh bằng các tên “người-vượn”, “người-vượn Bắc Kinh”, “người-vượn Hai-đen-béc”. Sở dĩ có cái tên thứ ba này là vì ta đã tìm thấy gần thành phố Hai-den-béc thuộc nước Đức một cái hàm răng của người nguyên thủy. Chỉ xét kỹ hàm răng đó, ta cũng có thể nói rằng chủ nhân của nó xứng đáng được gọi là Người: răng đó không phải là răng thú vật, đúng là răng người và răng nanh của anh ta không nhô ra như răng khỉ. Tuy vậy “người-vượn Hai-đen-béc” cũng chưa hẳn là một con Người: cằm anh ta thụt vào như cằm khỉ. Như vậy cả ba tên đều dùng để gọi nhân vật của chúng ta ở cùng một thời kỳ, cùng một trình độ tiến hóa. Nhưng anh ta không dừng lại mãi ở một hình dạng cố định. Càng về sau anh ta càng thay đổi và giống người hiện đại hơn. Cũng tựa như một đứa trẻ https://thuviensach.vn biến dần thành thiếu niên rồi người lớn, người nguyên thủy đó biến đổi dần và lại mang những tên gọi mới như “người Nê-ăng-đéc-tan”[5] và “người Cờ rô-ma-nhông”[6]. Biết bao nhiêu tên gọi cùng một nhân vật! Nhưng đó là chuyện ta sẽ nói đến sau. Trong chương này thì cứ gọi nhân vật của ta là “người-vượn”, “người-vượn Bắc Kinh”, “người-vượn Hai-đen béc”. Chính anh ta là kẻ đi lang thang trên các bờ sông để tìm kiếm vật liệu làm các công cụ, chính anh ta đã lấy đá ghè vào nhau để làm ra những “rìu đẽo hai mặt” thô sơ, mà ngày nay ta thường tìm thấy ở các vùng đất phù sa cũ. Như vậy bạn đọc đã thấy là gọi đúng tên nhân vật của chúng ta không phải dễ dàng. Định ra năm sinh của anh ta lại còn khó khăn hơn nữa. Ta không thể nào quả quyết rằng anh ta đã ra đời đích xác năm nào. Vì con vật tiền thân của loài người không phải bỗng dưng hóa thành người ngay được. Nó đã phải trải qua hàng chục vạn năm để dần dần tập đi và chế tạo ra các công cụ. Nếu đặt câu hỏi: “Loài người đã bao nhiêu tuổi?”, thì ta chỉ có thể trả lời phỏng chừng là con người đã xuất hiện cách đây khoảng một triệu năm. Nơi ra đời của con người lại đặc biệt khó định rõ. Muốn làm việc này, người ta đã cố gắng tìm xem đâu là nơi sinh sống của thủy tổ con người, tức là con khỉ lớn thời nguyên thủy đã sinh ra cả giống người, giống đười ươi và giống khỉ. Các nhà bác học gọi tên giống khỉ nguyên thủy đó là vượn-người “Đơ-ri-ô-pi-téc”. Tìm kiếm chỗ ở của giống vượn-người “Đơ-ri-ô-pi-téc” thì thấy chúng ở rất nhiều nơi. Theo dõi vết chân của chúng, ta đi đến cả miền trung châu Âu, miền đông châu Phi và miền nam châu Á. Hỏi ý kiến các nhà bác học, ta biết rằng thời gian gần đây người ta đã phát hiện được rất nhiều điều đáng chú ý ở miền nam châu Phi. Đặc biệt là đã tìm thấy những bộ xương của một giống vượn-người biết đi đứng thẳng và https://thuviensach.vn sống trong đồng cỏ rậm chứ không ở trong rừng cây. Ngoài ra, ta đã biết là di tích người-vượn được tìm thấy ở châu Á, hàm răng của “người-vượn Hai đen-béc” lại được tìm thấy ở châu Âu. Làm thế nào để định rõ quê hương loài người được! Nói rõ ở nước nào đã khó, mà ngay xác định ở châu nào cũng khó. Rồi lại nẩy ra ý kiến thử tìm ở những nơi đã đào được những dụng cụ cổ xưa nhất. Vì con người chỉ thực sự trở thành người kể từ lúc anh ta bắt đầu chế tạo được công cụ để dùng. Cứ theo dõi các dụng cụ cổ xưa đó, có lẽ ta sẽ biết được là con người đã xuất hiện lần đầu tiên ở nơi nào chăng! Hãy lấy một bản đồ trái đất, trên đó ta ghi những nơi tìm thấy những công cụ cổ xưa nhất tức là những cái rìu đẽo hai mặt. Những địa điểm đó ở rải rác nhiều nơi. Nhiều nhất là ở châu Âu, nhưng cũng có cả ở châu Phi và châu Á. Bắt buộc ta phải kết luận: con người đã xuất hiện ở Cựu thế giới[7]. Sự biến chuyển từ vượn thành người đã thực hiện ở những nơi có những con vượn có khả năng thích ứng với tư thế đứng thẳng và với việc lao động bằng tay. Chính từ lúc những con vượn-người đó bắt đầu lao động, chúng đã chịu ảnh hưởng biến đổi của một sức mạnh mới đã khiến cho chúng trở thành người: sức mạnh đó là lao động. CON NGƯỜI CHẾ TẠO THỜI GIAN https://thuviensach.vn Mọi người đều biết con người đã phải làm thế nào để có được sắt, được than, và được lửa. Nhưng làm thế nào để chế tạo được thời gian? Đó là một câu hỏi mà ít người trả lời được. Tuy vậy, từ muôn vạn năm, con người đã biết chế tạo thời gian. Cùng với việc phát minh ra những công cụ đầu tiên, con người đã tìm thấy một việc làm mới, thực sự là của con người: lao động. Mà lao động; thì đòi hỏi phải có thời gian. Muốn chế tạo ra một công cụ bằng đá trước hết phải tìm ra nguyên liệu, chứ không thể dùng bất cứ hòn đá nào cũng được. Đá lửa nặng và rắn, chính là thứ vật liệu tốt nhất mà con người ao ước. Thứ đá ấy không phải luôn có sẵn trên mỗi bước đường đi, cần phải tìm tòi mới thấy. Con người phải mất rất nhiều thì giờ tìm kiếm đá rất mà nhiều khi không có kết quả gì. Lúc đó thì đành phải dùng những thứ đá khác, như đá vôi, dễ vỡ và không được rắn. Một khi đã tìm ra được nguyên liệu để làm công cụ thì phải mài gọt nó bằng cách dùng một hòn đá khác để ghè. Công việc này cũng đòi hỏi thời gian. Con người thời tiền sử làm gì đã có những ngón tay khéo léo, uyển chuyển như chúng ta ngày nay: anh ta mới tập lao động mà thôi. Anh ta muốn làm một cái rìu đẽo hai mặt thô sơ, có lẽ đã phải mất nhiều thì giờ lắm. Thời gian đó thì làm thế nào mà có được? Bởi vì người tiền sử hầu như không có thì giờ rỗi. Nhất định anh ta bận túi bụi hơn những người bận việc nhất bây giờ. Từ sáng đến tối, anh ta đã lang thang khắp chốn rừng rậm, bãi quang để kiếm thức ăn. Vớ được bất cứ cái gì ăn được cũng là quý, miễn là làm dịu được chút nào cơn đói dữ dội luôn giày vò anh ta và con cái anh. Suốt ngày đêm, nào anh có việc gì khác ngoài việc tìm kiếm thức ăn, ăn uống và ngủ! Vả lại thức ăn quá nghèo nàn, thô sơ nên phải ăn một khối lượng thật lớn mới sống được. Ta hãy tưởng tượng xem anh ta phải ngốn bao nhiêu là trái cây, hạt dẻ, ốc, chuột, búp cây, rễ, sâu bọ, và các thứ linh tinh khác để được no lòng! https://thuviensach.vn Đàn người nguyên thủy suốt ngày kiếm ăn trong rừng y như đàn hươu Bắc Cực bây giờ, ngày đêm gặm và nhai lại cỏ rêu vùng đất băng giá. Nhưng nếu suốt ngày phải đi tìm thức ăn và ăn uống, thì lấy đâu ra thời giờ để lao động? Chính ở đây ta thấy nổi bật lên đặc tính kỳ diệu của lao động: tuy chiếm mất một số thời gian, lao động lại làm cho ta tiết kiệm được một lượng thời gian lớn hơn. Thật vậy, nếu trong bốn giờ anh làm được một công việc mà người khác làm trong tám giờ, thì chính là anh đã tiết kiệm được bốn giờ so với người khác. Nếu anh phát minh được một công cụ tăng hiệu suất lao động của anh lên gấp đôi, thì chính là anh đã làm dôi ra được một nửa số thời gian mà trước kia anh phải dùng để làm công việc đó. Đó là phương pháp mà tổ tiên ta thời tiền sử đã dùng để tạo thêm thời giờ cho mình. Con người nguyên thủy mất nhiều thì giờ để tập mài đẽo công cụ bằng đá. Nhưng ngược lại, khi có sẵn trong tay một công cụ nhọn hay sắc, anh ta sẽ nhanh chóng bẩy được vỏ cây, tìm sâu nấp dưới đó để ăn. https://thuviensach.vn Dùng một hòn đá chế tạo được một cái gậy vót nhọn cũng là việc lâu dài và nặng nhọc. Ngược lại, có vũ khí ấy trong tay, anh ta có thể nhanh chóng đào bới đất tìm những rễ củ ăn được, hay đập chết những con vật nhỏ đang lầm lũi trong cây cỏ. Do đó mà việc tìm kiếm thức ăn được nhanh chóng hơn trước và con người có dôi thì giờ để lao động. Khi không bận kiếm thức ăn, anh ta làm ra các công cụ và cố gắng đẽo gọt cho công cụ sắc bén hơn và tiện lợi hơn. Mỗi thứ công cụ mới lại làm cho việc tìm kiếm thức ăn nhanh chóng hơn và do đó làm tăng thêm số thì giờ rỗi rãi. Việc đi săn có thể đặc biệt bảo đảm nhiều thời gian. Thịt là một món ăn chọn lọc, ăn trong nửa tiếng đồng hồ là đủ no cả ngày. Nhưng thời kỳ đầu, thịt muông thú săn được không có nhiều trong các bữa ăn của người nguyên thủy. Với một cái gậy hay hòn đá, đâu có thể đánh được một con thú lớn; còn chuột nhắt, chuột đồng có được mấy tí thịt đâu! Thời kỳ đầu đó, con người chưa phải là nhà đi săn thật sự giỏi. CON NGƯỜI HÁI LƯỢM Hái hoa quả, ngày nay là một công việc không khó khăn gì. Trong chúng ta mỗi người đều đã có dịp dành cả một ngày đi tìm kiếm trái cây hay hái nấm trong rừng. Thật là thú vị biết bao khi ta chợt tìm thấy những cây nấm hương nấp kín trong rêu cỏ, hoặc những chùm dâu rừng tươi đẹp. Nhưng hãy thử tưởng tượng là chúng ta chỉ có một công việc độc nhất là hái nấm và trái cây. Nếu như vậy, liệu chúng ta có chắc chắn ngày nào cũng được no nê không? Lượm nấm, kết quả cũng rất bấp bênh: có khi lấy được đầy một giỏ, nhưng cũng có khi suốt ngày tìm kiếm trong rừng mà chỉ được lèo tèo một dúm! https://thuviensach.vn Chúng ta chắc đã từng quen biết một em bé nọ, mỗi khi sắp vào rừng dạo chơi, thường hay khoe khoang: - Em sẽ mang về ít nhất là một trăm cái nấm! Nhưng phần nhiều em đó hay trở về tay không. May mà bữa cơm đã chờ em sẵn ở nhà... Nếu không thì có lẽ em bé đành phải nhịn đói mà chết thôi. Cho nên ở thời kỳ con người mới chỉ biết hái lượm để sống, thì tình cảnh anh ta rất chật vật, sở dĩ anh ta không đến nỗi chết đói, đó là vì anh chẳng chê bai bất cứ thứ thức ăn xoàng xĩnh nào mà suốt ngày phải tìm kiếm. Anh ta đã mạnh hơn và tự do hơn so với tổ tiên anh khi còn sống trên cây, tuy vậy anh vẫn là một kẻ đáng thương, vì lúc nào cũng chỉ ăn được lưng lưng bụng. Giữa lúc đó, một tai họa ghê gớm chưa từng thấy bỗng trùm lên trái đất. https://thuviensach.vn CHƯƠNG IV TAI HỌA ĐẾN GẦN Vì những lý do chưa biết rõ, đã có một thời kỳ những băng hà miền Bắc Cực bỗng di chuyển và từ từ tràn về phương nam. Dòng nước đóng băng khổng lồ đó lan tràn khắp mọi nơi, miền đồng bằng cũng như đồi núi, đào sườn núi thành những rãnh sâu, phá vỡ và khoét mòn đá, san phẳng cả những đỉnh đồi, đi tới đâu là lôi cuốn theo từng khối lượng khủng khiếp những vật bị phá hủy tan lành. Những tảng băng ở rìa những băng hà đó tan ra thành những dòng nước dữ dội lao đi các phía, đào đất thành những lòng sông nước cuồn cuộn chảy. Tựa như những bầy quân xâm lược hung tàn, những băng hà Bắc Cực lừ lừ tiến xuống phương nam. Cùng góp sức tàn phá với chúng lại còn thêm những băng hà từ trên núi cao đổ xuống các đèo, các thung lũng. Sự lan tràn của các băng hà thời thượng cổ còn để lại dấu vết đến bây giờ: đó là những “khối đá lang thang” ngày nay vẫn nằm rải rác khắp các vùng bình nguyên ở châu Âu và châu Á. Vì vậy ở ngay giữa rừng xứ Ca-rê-li bỗng nhiên thấy nổi lên sừng sững những tảng đá khổng lồ đầy rêu phủ, tựa như có một phép lạ thần kỳ nào đem vứt chúng vào giữa đám cây thông. Làm thế https://thuviensach.vn nào mà những tảng đá ấy tới được chôn này? Đó chính là do những băng hà đã đẩy chúng về đây. Đây không phải là lần đầu tiên các băng hà Bắc Cực chuyển mình và tràn xuống phương nam. Nhưng chưa lần nào chúng tiến xa như lần này. Thí dụ ở trên đất Liên Xô, băng hà đã tràn tới tận vùng Vôn-ga-grát và Đơ-nhe-prô-pê-tơ-rôp-xcơ bây giờ. Ở tây Âu, băng hà tràn tới miền núi vùng trung phần nước Đức và trùm kín cả các đảo nước Anh. Ở châu Mỹ, băng hà tràn tới miền nam các biển hồ. Băng hà tiến không nhanh. Phải sau một thời gian thì khí lạnh của băng hà mới lan tới những miền có loài người sinh sống. Những sinh vật đầu tiên cảm thấy “hơi thở” của băng hà là các sinh vật ở biển. Trên vùng ven bờ biển khí hậu hãy còn ấm áp như trước. Các rừng cây nguyệt quế, mộc lan còn xanh tốt. Ở những đồng cỏ rậm rạp, voi khổng lồ phương nam và tê giác qua lại vẫn đông. Nhưng về sau nước biển ngày càng lạnh dần. Những dòng hải lưu đưa cái lạnh giá của các băng hà Bắc Cực về và đôi khi lôi theo cả những khối băng khổng lồ đã tách rời khỏi những núi băng Bắc Cực. Ngày nay, xem xét những đám đất bồi ở bờ biển cũng thấy rất rõ quá trình biến đổi của các biển nước đang nóng ấm trở thành lạnh giá. https://thuviensach.vn Trong khi ở trong đất liền vẫn còn những cây cỏ và loài vật thuộc các giống vùng ôn đới, thì các sinh vật ở biển đã đổi khác hẳn. Ở các lớp đất bờ biển thời đó đã thấy rất nhiều vỏ các giống trai ốc vùng băng giá. CUỘC “CHIẾN TRANH” GIỮA CÁC RỪNG CÂY Rồi một ngày kia, cái hơi lạnh chết người của băng hà đã thổi đến tận các miền lục địa. Cảnh hoang vu miền Bắc Cực dần dần di chuyển xuống phương nam! Do ảnh hưởng đó, các miền đài nguyên[8] và các rừng tùng bách phương bắc cũng lui dần về phía nam. Đài nguyên tới chiếm chỗ của rừng tai-ga[9]; rừng tai-ga lùi dần và chiếm chỗ của các rừng cây có lá. Và cuộc chiến tranh giữa các rừng cây đã bắt đầu. Cuộc chiến tranh này đến bây giờ vẫn còn tiếp tục diễn ra. Thí dụ: cây tùng bách và cây hoàn diệp liễu là hai đối thủ muôn thuở. Cây này thì sợ mặt trời, còn cây kia, trái lại, lại sợ bóng tối. Trong một rừng tùng bách, cây hoàn diệp liễu thường chỉ mọc cao không quá gót chân người, vì bóng râm của các cây tùng bách không cho phép nó mọc cao được. Nhưng đến khi lưỡi rìu của người đốn củi hạ các cây tùng cao https://thuviensach.vn xuống thì những cây hoàn diệp liễu lùn lè tè kia bỗng như hồi sinh dưới ánh nắng mặt trời và mọc nhanh vùn vụt. Quang cảnh thay đổi nhanh như trò ảo thuật. Đám rêu mọc ở dưới chân các cây tùng bách biến mất. Những cây tùng bách thấp bé được những người đốn củi để chừa lại, nay sống vất vưởng trong sương giá buổi sáng. Thời xưa những cây tùng bách to hãy còn, thì đám tùng bách con nít ấy sống ấm cúng dưới đám lá cây xanh tốt của ông cha chúng, tựa như ẩn nấp dưới những tấm áo khoác dày rộng. Còn bây giờ thì chúng trơ trọi dưới trời rét buốt và héo hon dần. Cây hoàn diệp liễu thì trái lại, lại reo ca chiến thắng. Trước kia nó chỉ họa hoằn mới nhận được vài tia nắng xuyên qua vòm cành lá của đám cây thù địch. Bây giờ kẻ thù của chúng đã bị đốn cụt rồi thì nó độc quyền làm chủ “trận địa”. Và dần dần, thay thế cho rừng tùng bách ẩm thấp và râm mát, rừng hoàn diệp liễu thưa thớt đã xuất hiện, chói chang ánh nắng. Nhưng thời gian trôi dần. Mà thời gian lại chính là một sức lao động lớn lao, đã thay đổi bộ mặt của khu rừng, trong khi ta không hay biết gì cả. Những cây hoàn diệp liễu ngày càng mọc cao; các ngọn cây đó chen sít vào nhau ở trên không và bóng mát ở dưới chân chúng, lúc đầu còn nhỏ bé, đã trở nên rộng rãi. Những cây này đã thắng trong hiệp đầu của cuộc đấu tranh. Nhưng chiến thắng này cũng mang trong nó mầm mống của sự thất bại trong tương lai. Một con người không bao giờ bị chết ngạt vì cây bóng râm mát của chính bản thân mình. Nhưng đối với cây cối thì cái chết đó cũng khá phổ biến. Được bóng các cây hoàn diệp liễu che chở, những cây tùng bách, kẻ thù của chúng, đã dần dần hồi phục. Tấm thảm lá cây héo rụng trên mặt đất, đã giữ cho đất không bị giá lạnh dữ dội nữa. Và dần dần đám cành lá xanh dày của những cây tùng bách nhỏ đã mọc lởm chởm lên cao dần. Sau vài mươi năm nữa, đám con nít sẽ trở thành người lớn, những ngọn cây đó sẽ mọc cao ngang những cây hoàn diệp liễu. Rừng cây bây giờ mọc lẫn lộn: đám lá cây https://thuviensach.vn hoàn diệp liễu màu nhạt xen kẽ với ngọn cây nhọn hoắt, thẫm màu của tùng bách. Tùng bách vẫn tiếp tục mọc cao lên, và bây giờ đám lá xanh um tùm của chúng chỉ để lọt một vài tia nắng mặt trời xuống tới những cây hoàn diệp liễu. Bây giờ là giai đoạn chót: dưới bóng những cây tùng bách, những cây hoàn diệp liễu khô héo, cằn cỗi dần. Rừng tùng bách đã trở lại chiếm lĩnh trận địa cũ của mình. Các loại cây đã giao tranh với nhau như thế đó, khi lưỡi rìu của con người can thiệp vào đời sống của chúng. Nhưng chiến tranh giữa các rừng cây cỏn gay go hơn nhiều ở những thời kỳ xa xôi, khi các băng hà với khí lạnh chết người đến can thiệp vào sự tranh chấp của chúng. Cái hơi lạnh giá của băng hà lan đến đâu là giết chết những thảo mộc vùng ôn đới ở đó, mở đường sống cho các giống cây cỏ vùng hàn đới phía bắc. Các cây thông, tùng bách và bạch dương tấn công, buộc các cây sồi và bồ đề rút lui, và những cây này lại đến chiếm chỗ của những cây lá xanh tốt quanh năm như cây nguyệt quế, cây vả, cây mộc lan. Ở những miền trống trải, mưa gió tứ bề, các cây cối nhiệt đới càng khó sống sót và đành chết đi, nhường chỗ cho những cây ở phía bắc tràn xuống, ở vùng núi thì chúng chống đỡ thuận lợi hơn. Chúng cố thủ trong những thung lũng khuất gió, tựa như những chiến sĩ bị bao vây cố thủ trong pháo đài. Nhưng chả bao lâu đã thấy những băng hà từ những núi cao tràn về làm cho các cây tùng bách và bạch dương thắng thế. Cuộc vật lộn giành quyền sống giữa các rừng cây đó đã kéo dài hàng nghìn năm. Những đám tàn quân bại trận - tức là những cây nhiệt đới - cứ lùi dần mãi xuống miền nam. Trong khi đó, số phận các con vật sống ở những rừng cây bại trận đó ra sao? https://thuviensach.vn