🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Con Mồi Hoàng Kim - John Sandford
Ebooks
Nhóm Zalo
CON MỒI HOÀNG KIM
John Sandford
Nguyễn Thế Hiền dịch
NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
64 Bà Triệu, Quận Hoàn Kiếm, Tp. Hà Nội
Tel: (024) 6263 1706; Fax: (024) 3943 6024
Website: nhaxuatbanthanhnien.vn
Chi nhánh: 145 Pasteur, Phường 6, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh Tel: (028) 3910 6962 - (028) 3910 6963
Chịu trách nhiệm xuất bản
Giám đốc - Tổng Biên tập
Lê Thanh Hà
Biên tập: Nguyễn Thị Hảo
Sửa bản in: Lê Thanh Sơn
Trình bày: Phạm Ngọc Thành
Vẽ bìa: trumeomeo
Liên kết xuất bản Công ty CP Sách Bách Việt
Trụ sở chính:
Địa chỉ: Số 9, ngõ 55/9 Huỳnh Thúc Kháng, P. Láng Hạ, Q. Đống Đa, Tp. Hà Nội
Te l : (024) 3776 5580
Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh:
Địa chỉ: 233 Nguyễn Thượng Hiền, P.6, Q. Bình Thạnh, Tp. HCM Te l : (028) 3517 1788
Website: http://www.bachvietbooks.com.vn
http://www.facebook.com/bachvietbooks.com.vn In 3.000 cuốn, khổ 16x24 cm tại Công ty TNHH In - Thương mại Thuận Phát.
Địa chỉ: Thôn Yên Vĩnh, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức , Tp. Hà Nội
Số xác nhận đăng ký xuất bản: 614-2021/CXBIPH/31-18/TN. Quyết định xuất bản số: 321/QĐ-NXBTN cấp ngày 04/03/2021 Mã ISBN: 978-604-322-976-9
In xong và nộp lưu chiểu quý I năm 2021.
1
G
arvin Poole bò ra khỏi giường, vớ lấy chiếc bật lửa trên bệ lò sưởi, bước đi trong căn nhà tối om với độc chiếc quần lót trên người để vào bếp; hắn lấy một điếu cần sa trong hũ đựng đường, rồi tiếp tục bước tới cánh cửa dẫn ra vườn.
Hắn cố gắng mở cánh cửa mà không phát ra tiếng động, nhưng vẫn có một tiếng khẽ vang lên, dù sao cũng không phải là tiếng động mạnh thu hút sự chú ý. Hắn đi ra ngoài hiên và tiếp tục rảo bước trên con đường lát đá dẫn đến nhà xưởng của mình.
Poole cao gần một mét tám, với đôi vai rộng và đôi tay to như một đô vật phong trào thể thao học đường, thứ mà hắn vốn chưa từng tham gia; và bây giờ, hắn có dấu hiệu trở thành một gã bụng bia. Tuy thế, với mái tóc dày màu nâu ánh đỏ phủ bên trên cặp mắt xanh và bộ râu được tỉa đều đặn ba ngày một lần, phụ nữ vẫn mến hắn; hắn không thể đi đến một cửa hàng Whole Foods1 mà không dừng lại bắt chuyện với một cô nào đó.
1 Whole Foods Market Inc. là chuỗi siêu thị của Mỹ chuyên bán thực phẩm, hương liệu.
Những phiến đá lát dưới chân lạnh mà khô; năm nay trời không mưa nhiều. Mặt trăng ở trên cao tỏa sáng lên bức tường ngoài vườn, và từ khu nhà giàu phía xa, hắn có thể thoáng nghe thấy giọng Rihanna hát bài Work vang lên ngắt quãng trong đêm. Hắn mở cánh cửa nhà xưởng, bật đèn, ngồi xuống chiếc ghế làm việc, châm điếu cần, và nhìn vào cây đàn ghita hắn đang làm dở.
Hắn ngồi như thế được khoảng nửa phút thì Dora Box cất tiếng: “Gar à?” Cô bước qua cánh cửa đang mở, trên người không mảnh vải che thân, cách cô hay đi ngủ. “Anh làm gì thế?”
y g g
Hắn nói: “Nào, ngồi xuống đi em.” Cô ngồi xuống một chiếc ghế gỗ, không vắt chân lại; hắn nhìn một hồi lâu rồi nói: “Anh sẽ quay lại thực hiện một phi vụ. Một lần nữa.”
“Ôi trời.” Giờ thì cô vắt chân lại. Box gặp khó khăn với việc trải qua một ngày mà không bị người ta đụng chạm hoặc có cử chỉ khiếm nhã, nhưng công việc là công việc.
“Có khi là một sai lầm khi đến đây.” Hắn kẹp mẩu cần sa giữa hai ngón tay, khoa lên trong không gian rồi nói: “Anh đã nghĩ về nó rất nhiều, gần như trong cả tháng vừa rồi. Anh thích nơi này, nhưng chúng ta nên rời khỏi đất nước. Đi hẳn ấy.”
“Không có nơi nào khác anh thích mà chúng ta có thể đến.” Box nói. “Đáng lẽ Costa Rica là nơi tốt nhất, nhưng anh lại nghĩ nó rất tệ. Những con rắn. Ôi Chúa ơi, những con rắn. Trở lại chuyện vừa rồi, Gar à, anh hầu như còn chẳng thích nơi nào. Chúng ta sẽ đi đến nơi nào mà chúng ta thích đây?”
Hắn lắc đầu. “Anh không biết. Nơi nào đó bất hảo hơn ở đây.” “Anh biết có nơi nào bất hảo hơn cả Dallas ư?”
“Có chứ. Có những nơi trên thế giới này mà em có thể trả tiền cho cảnh sát để giết người cho mình.” Hắn nói, giọng hắn rít lên khi hắn cố gắng nói chuyện trong khi nén khói trong phổi.
“Nơi mà em có thể làm bất cứ điều gì em muốn.”
“Anh sẽ không muốn sống ở những nơi như thế. Có chuyện gì vậy?”
Poole rít một hơi rồi nói: “Anh đã lấy số tiền kiếm được trong mười năm để đổi sang vàng, và giờ anh đang chạy vạy để cố đổi số vàng đó lấy tiền mặt nhưng vấn đề là anh phải chia số vàng đó ra đổi ở nhiều nơi mà lại không có đủ chỗ để làm vậy trong bán kính một ngày lái xe. Mỗi lần đổi tiền, những gã đó gieo vào anh những cặp mắt dò xét, em biết không? Anh đã quay lại quá
nhiều lần. Chúng biết anh đang làm gì, rằng anh đang đổi tiền phi pháp. Chúng không nói gì cả, nhưng chúng biết.”
“Chúng ta có thể lái xe đến đâu đó.” Box gợi ý. “Thành phố Oklahoma, Houston…”
“Về cơ bản vẫn là vấn đề đó. Người ta nhìn em, nhớ mặt em.” Poole nói.
Im lặng một lúc, rồi Box nói: “Em tưởng việc đổi sang vàng là thông minh.”
“Ban đầu anh cũng nghĩ thế. Bọn cảnh sát đã lục tung mọi thứ ở vùng nam Kentucky để lùng sục anh; và vàng có vẻ… linh hoạt. Ở đâu cũng dùng được. Có lẽ anh đã nghĩ quá nhiều về điều đó.”
Họ đã nói chuyện đó nhiều lần trước đây. Những đồng vàng vô danh, dễ mang, không có số đăng ký. Hắn có thể kiếm được những tờ tiền giấy mệnh giá nhỏ nhờ đổi vàng, nó giữ được giá trị qua thời gian và có thể bán được ở bất kỳ đâu. Hắn đã không lường trước được việc bị theo dõi và bị nhớ mặt.
“Anh đã không thấy trước điều đó, khi đi đổi tiền mặt từ tháng này qua tháng khác. Hiện giờ chúng ta cần mười nghìn đô mỗi tháng để trang trải, là chín đến mười đồng vàng bây giờ đấy.” Hắn nói. “Nếu chúng ta ở một quốc gia thích hợp, chúng ta có thể đổi tất cả sang tiền mặt trong đúng một lần. Dựng lên một công ty ma, giả vờ rằng chúng ta kiếm được tiền, tự trả lương, đóng thuế cho mình; và có thể một ngày nào đó, trở về Mỹ dưới những cái tên khác.”
“Nghe có vẻ sơ sài.” Cô nói. “Cho em một hơi.” Hắn đưa điếu cần, cô rít một hơi, nín lại, rồi thở ra, thêm một hơi nữa rồi đưa trả lại hắn. Cô dạng chân ra và lướt những ngón tay vào vùng kín một cách vô thức. Hương thơm dịu của cần sa hợp với mùi nhựa sống ẩm ướt của khu vườn trong đêm. “Nếu anh đang nghĩ đến
việc đưa chúng ta ra khỏi đất nước, vậy thì sao anh lại nghĩ đến việc làm một phi vụ?”
“Bởi vì anh thực sự không muốn rời khỏi nơi đây. Phi vụ là một cách khác.” Poole nói.
“Kể cho em đi.”
“Sturgill đã gọi điện. Hắn thấy một cơ hội.” “Bao nhiêu?”
“Cũng hơi khó nói trước, nhưng hắn nghĩ ít nhất là Hai hoặc Ba. Có thể còn nhiều hơn. Có thể còn rất nhiều nữa.” Hắn nhấn mạnh từng con số trong khi nói. “Hai” nghĩa là hai triệu. “Ba” nghĩa là ba triệu.
Box lắc đầu. “Nhiều cỡ đó, chắc chắn sẽ có rủi ro.” “Sturg nói rằng sẽ êm ru.”
“Sturg… Sturg là người luôn biết mình phải làm gì.” Box công nhận. “Khi nào anh sẽ làm?”
“Có thể là một tuần, hoặc một tháng lẻ một tuần. Tiền ở đó mỗi tháng một ngày.” Poole nói.
“Ở đâu?”
“Biloxi.”
“Hừm. Em thích Biloxi. Như món jambalaya2đó. Cho em hơi nữa.” Hắn đưa thuốc và cô rít lấy ít khói, đùa giỡn với nó qua lỗ mũi. Cô trả lại điếu cần và xoa hai cánh tay, đêm lạnh làm cô nổi da gà.
2 Jambalaya là một món ăn phổ biến có nguồn gốc từ Louisiana mang ảnh hưởng của Tây Phi, Pháp và Tây Ban Nha, bao gồm chủ yếu là thịt và rau trộn với cơm.
“Vấn đề là, chúng ta sẽ lấy tiền mặt. Toàn bộ tiền mặt. Chúng ta có thể tiêu xài mà không sợ gặp rắc rối.” Poole nói. “Em hãy ở đây, tìm cách vận chuyển số vàng. Chúng ta sẽ lấy vài triệu đô ở Biloxi, chúng ta có thể dành tám đến mười năm để thanh toán số vàng và khi xong việc, chúng ta sẽ có gia tài cho cả đời.”
“Em không thích anh quay lại làm việc, sẽ tốt hơn nếu chạy sang Nga, hay bất cứ vùng đất ất ơ nào như thế.” Box nói. Cô đứng dậy và vươn vai: cô cũng có thân hình phù hợp, cao ráo, hơi gầy, đôi chút tàn nhang, một mái tóc vàng óng với đôi nhũ hoa nhỏ màu hồng và chỉ có chút lông vùng kín. “Em về giường đây. Đừng thức khuya quá.”
Poole mua những bộ phận đàn ghita chất lượng cao, lắp ráp chúng, và rồi bắt đầu tỉ mẩn chạm khắc và đánh sơn màu lên các bề mặt, tạo ra những mẫu thiết kế tùy chỉnh sặc sỡ như truyện tranh. Hắn học nghề mộc tại một nơi mà dân Tennessee, với vẻ mặt ghẻ lạnh, gọi là Trung tâm Phát triển Thanh thiếu niên - nhà tù dành cho bọn trẻ trâu, thực chất nó là như thế.
Khi Box đi khỏi, hắn ngồi đó ngắm nhìn tác phẩm mới nhất của mình, một mẩu hình vẽ về trò câu cá vược đang hoàn thiện cho một tay câu cá chuyên nghiệp, vốn cũng là một nhà sưu tập đàn ghita. Nó cần hai tuần nữa để hoàn thành: giờ thì hắn phải gác việc này lại. Hắn đi ra phía bên kia của căn xưởng và cầm lên một cây đàn Les Paul đã hai mươi năm tuổi, lấy ngón chân cái gạt vào công tắc nguồn trên một chiếc âm li, gảy vài điệu blue tĩnh mịch từ cây đàn. Hắn thích âm nhạc, thích làm mộc, thích mùi hương của véc ni. Nếu hắn xây dựng sự nghiệp bằng nghề này, hắn tính toán rằng mình có thể kiếm được gần nửa số tiền của một giáo viên tiểu học.
Hắn đi đến Biloxi.
Biloxi, Mississippi - mùi hương của biển cả.
Sturgill Darling đang ngồi ở một bàn góc tròn trong quán hàu, tại một khu nhà gần Vịnh Mexico, giữa hơi nước và mùi chua tanh nồng của cả hải sản sống lẫn đang được đun nấu. Trông hắn như một gã dân quê chậm chạp, lười nhác và đần độn nữa, với đôi cánh tay lực điền, mái tóc nâu cắt kiểu bát úp và quần bò sờn, ống rộng. Hắn mặc một chiếc áo sơ mi sọc mềm cùng đôi ủng lao động màu vàng. Hắn nằm ườn ra trên ghế, hai chân bắt chéo và duỗi thẳng ra trước mặt, mỉm cười với đám đông qua lại, để lộ ra hàm răng cũng vàng khè như đôi ủng. Đích thị là một tên ngốc; một gã da trắng đần độn - một sai lầm mà rất nhiều người đã mắc phải trong sự hối tiếc đằng đẵng của mình.
Poole ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh hắn, giơ ngón tay ra hiệu cho cô phục vụ bàn, chỉ vào cốc của Darling và nói: “Cho tôi một cốc giống như vậy.”
Khi cô phục vụ bàn đi khỏi, Darling hỏi: “Mày nghĩ sao?”
Poole đang đeo kính râm trên chòm râu đỏ hơi điểm xám đã một tuần không cắt, đội chiếc mũ đi câu lưỡi trai dài, một cách tốt để tránh khỏi sự nhận diện của các máy quay an ninh. Hắn đã dành gần hết cả buổi để thăm dò địa điểm hành động. “Chúng ta có thể làm được, nếu như không có nhiều người hơn số mày nói. Làm thế quái nào mày tìm được chỗ này?”
“Tao biết ma túy được mang vào qua Galveston nhưng tiền thì chẳng thấy ra. Mỗi lần, chúng mang đến thứ gì đó nặng đến năm trăm cân, tức là, để xem nào, khoảng một nghìn một trăm pound, bằng những chiếc thuyền câu dã ngoại và lấy Honduras làm điểm trung chuyển. Quay lại chuyện lúc nãy, tao tìm được một gã ở Houston, kẻ có thể bán cho tao tầm ba chục gram. Tao theo dõi hắn, theo dõi kẻ bán hàng cho hắn, rồi cả cái thằng cha bán hàng cho thằng bán hàng; và rồi đến khi tao tìm được đến điểm cuối của đường dây, tao đã theo dõi những kẻ có thể bán cho mày hàng trăm cân miễn là mày có tiền. Rồi tao theo dõi dòng tiền, xem những tên bán buôn trả tiền cho những tên giữ
tiền – những thằng không bao giờ động vào ma túy – và theo dõi những tên giữ tiền chuyển cho những tên vận chuyển, bọn này sẽ lái xe qua lại dọc bờ biển từ Charleston đến Galveston và ngược lại, với Biloxi ở giữa. Tóm lại là thứ đó đi xuống đây, vào trong nhà tập kết tiền.”
Poole ngẫm nghĩ về điều đó, tự thú nhận với chính mình rằng Darling có tài năng mà hắn, Poole, chưa đủ trình để hiểu, khả năng khám phá ra những dấu vết có thể dẫn đến một gia tài; nhưng Poole cũng hiểu rằng hắn có một tài năng mà Darling không có: ý chí hành động. Darling có thể khám phá ra mọi nơi tập kết tiền ma túy mà hắn muốn, nhưng hắn sẽ không bao giờ tham gia trực tiếp vào một vụ cướp với vai trò là đầu sỏ, hay tay súng được chỉ định. Điều đó cần một người như Poole.
“Chúng vận chuyển ma túy như thế nào?” Poole hỏi.
“Bằng xe RV3. Một vài ả đồng tính trung niên xăm trổ có tiền án. Chúng có vẻ… có nghề. Chúng có lốp tải đúp cho xe, tao tin là có thể còn có giáp chống đạn. Mấy ả này biết phòng xa – tao tin là chúng trang bị súng ống tận răng.”
3 RV là chữ viết tắt của Recreational Vehicle, là loại xe có khoang tiện nghi như nhà ở lắp ở thùng xe.
“Hừ.” Đó là cách mà Poole sẽ làm; hắn thậm chí còn thích chi tiết đồng tính nữ. Cảnh sát thường quá phân biệt giới tính và quá lười để dành sự quan tâm đến một cặp đồng tính nữ. Một vài trong số những ả đồng tính chết tiệt này có thể xé toạc mặt người khác bằng hàm răng của mình.
“Nhưng chúng ta không muốn ma túy, kể cả nếu có thể lấy.” Darling nói. “Chúng ta không có cách nào để tống khứ nó. Không thể với lượng nhiều như vậy. Và những thằng giữ ma túy thì không bao giờ nhìn thấy tiền mặt, ngoại trừ những cấp nhỏ nhất.”
“Tao chỉ hỏi thôi. Năm trăm cân, gì nhỉ…” Hắn nhắm mắt một vài giây, rồi nói: “Mười hai triệu, khoảng đó, nếu như nó không bị ép giá quá mức. Thế còn tiền?”
“Chúng không mạo hiểm với tiền. Chúng vận chuyển nó theo từng phần nhỏ. Có bốn tay tập kết tiền đi loanh quanh, gặp các tay thu thập là những kẻ lấy tiền mặt từ những tay buôn hàng ở cuối đường dây. Các tay tập kết tiền và tất cả những kẻ khác di chuyển trong những chiếc xe thuê, tao ngờ rằng chúng chẳng bao giờ có đến hai trăm năm mươi nghìn đô trong một lần lấy tiền. Rồi tất cả tập trung về đây mỗi tháng một lần. Những kẻ ở đây đóng gói nó theo các cọc tiền và gửi nó đi vào ngày Chủ nhật cuối cùng trong tháng.” Darling kể. “Đều đặn như lịch tàu hỏa vậy. Chúng mang đi bằng du thuyền cỡ nhỏ rồi ném sang một thuyền khác ở Honduras đang chờ sẵn ngoài Vịnh. Toàn bộ hoạt động là do anh em nhà Arce điều hành, tên là Hector và Simon, ở Puerto Cortés.” “Ở Honduras?”
“Đúng. Hai anh em đó không thực sự tầm cỡ, không như các băng đảng Mexico, nhưng chúng thông minh và độc địa. Chúng biết giữ mình và giữ mồm, không có gì hào nhoáng về chúng cả. Đút lót cho cảnh sát và quân đội Honduras, thế là tất cả đều vui vẻ.”
Poole ngẫm nghĩ về điều đó trong yên lặng, với nụ cười mỉm, trong đầu tính toán theo kiểu dân Miền Nam, và rồi cuối cùng nói: “Được rồi. Có vẻ mày đã tìm thấy hũ mật, hay lắm.”
“Có thể.” Darling nhìn Poole với ánh mắt lười nhác. “Mày có chắc mày tham gia không? Đã lâu rồi đấy.”
“Ừ. Tao có.”
“Sẽ có một thằng ở ngoài, ba thằng ở trong, chúng đều có súng.” Darling nói. “Tao đã theo dõi chúng trong ba tháng, luôn là như vậy.”
“Ta cũng có súng chứ?” Poole hỏi.
“Ừ. Có những món mày thích, mua mới hoàn toàn từ Chicago, mấy khẩu Glock 23 có giảm thanh, lắp đạn 180 grain4. Tao tự tay nạp lại thuốc súng nên khi ra khỏi nòng, đạn sẽ đi chậm hơn tốc độ âm thanh để hạn chế tiếng ồn. Tao đã nghĩ có thể… gọi Sam Brooks nếu như mày nghĩ cần thêm tay súng nữa.”
4 Grain là đơn vị đo khối lượng nhỏ nhất được sử dụng ở Mỹ và Anh, xấp xỉ 0,0648 gam, thường được dùng để đo khối lượng viên đạn.
“Không cần nó và tao không thích nó.” Poole nói. “Tao cần một ngày để làm việc với mấy khẩu súng. Mày có chỗ nào mà tao có thể làm thế không?”
“Tao biết mày sẽ hỏi.” Darling nói. “Tao có một chỗ trong rừng xa đến độ bọn cú cũng bay lạc.”
Cô phục vụ bàn mang cốc bia đến cho Poole, hắn cảm ơn cô và cả hai đợi đến khi cô đi khỏi, rồi Poole nói: “Tập bắn trong vài ngày tới, rồi di chuyển vào tối Chủ nhật nhé?”
“Nghe được đấy. Thế còn phần chia tiền? Mày nghĩ sao?” Poole nhe răng cười và nhấp bia, nuốt xuống, rồi nói: “Tao sẽ không tranh cãi với mày đâu.”
“Tao đang nghĩ, chia sáu mươi – bốn mươi, vì tao đã thực hiện toàn bộ việc sắp đặt.” Darling nói. “Tốn của tao chín tháng đấy. Tao bắt tay vào việc này từ tận mùa đông trước.”
“Vừa đấy.”
“Hay lắm” Darling nói, với nụ cười vàng khè. “Sự tái xuất của nhóm Dixie Hicks. Đúng hơn là những gì còn lại của nó.”
Poole bật cười và ngả người ra sau rồi nói: “Mày có nhớ hồi cùng với Ronnie ở ngoài Charleston…”
Nhóm Dixie Hicks có đủ các loại chuyện về những vụ động tay động chân, một vài chuyện thì vui, vài chuyện khác thì buồn. Trong phần lớn các câu chuyện, kể cả những câu chuyện vui, thì cũng đều có sự thương vong của ai đó. Như Ronnie, trong lúc đang lái chiếc Cadillac CTS–V đời 2009 556 mã lực ăn cắp được, anh ta bị ba cảnh sát bang Georgia rượt sát đít, lao xuống một khe đá tại cao nguyên Piedmont ở Georgia, rồi lăn lông lốc cho đến khi chiếc xe trông như một cây xúc xích bóng lộn, ba mươi ngàn đô tiền ngân hàng nổ tung cùng với óc của Ronnie.
Ôi bạn già Ronnie. Thật là tệ khi anh ta đã giết chính mình.
Ngày tiếp theo Poole và Darling lái xe về phía bắc, đi vào khu rừng nơi mà Poole chuẩn bị làm việc với mấy khẩu súng. Hắn đã im hơi lặng tiếng trong một thời gian dài, nhưng giết người cũng giống như lái xe đạp vậy: một khi bạn hiểu được nó, bạn sẽ nhớ được nó.
Một đêm tối trời nọ, Darling đã đột nhập vào trong phòng kiểm tiền khi các tay tập kết tiền không ở đó và nói rằng chúng đếm tiền ở một chiếc bàn cách cánh cửa ở bức tường ngoài khoảng mười mét – hắn đã kiểm tra bằng thước dây. Ở bất cứ khoảng cách nào từ mười mét trở xuống, Poole sẽ không phải lo về việc bắn vào đâu: hắn chỉ cần cầm chắc tay và bóp cò. Cả hai đã dựng lên vài tờ bia tập bắn hình người trong rừng, gắn lên mấy cây thông, và Poole tập luyện với chúng, lấy lại phong độ. Từ những nhát bắn đầu tiên, hắn vẫn đủ tài thiện xạ, nhưng hắn cần luyện tập về tốc độ.
Hắn đã làm được điều đó, và hắn biết cách làm điều đó: đầu tiên thì chậm rãi, cảm nhận các khẩu súng, cảm nhận những vỏ đạn văng ra, cảm nhận độ giật. Rồi sau đó nhanh thêm một từng chút một, Darling nhìn vào đồng hồ bấm giờ.
Darling đưa ra lời phê bình gần như rất uyên bác về điều đó: “Mày đang ở mức chưa đến nửa giây.” Hắn nói, tay cầm đồng hồ
bấm giờ. “Mày biết rõ điều này hơn tao, nhưng có vẻ như mày vẫn đang vội quá. Mày ngắm bắn quá kỹ, rồi phải sửa lại.”
Poole gật đầu: “Tao có thể cảm thấy điều đó.”
Hắn sẽ bắn một hộp đạn cỡ 10 li, cùng loại mà hắn sẽ dùng lúc lâm trận, và rồi nghỉ ngơi một chút, đi lòng vòng xung quanh, khua khoắng hai bàn tay. Vào cuối ngày, hắn có thể đạt được bốn đường bắn chính xác, chết người trong khoảng thời gian chưa đầy một phần năm giây. Đủ tốt rồi.
Năm 2005, Cơn bão Katrina quét qua Biloxi như một quả bom nhiệt hạch, một cơn triều cường cao chín mét do bão gây ra đã cuốn trôi phần lớn thị trấn. Khu bắc của cảng chính gần như chỉ còn đất trống, mà trước đây thì từng có nhà cửa. Họa hoằn mới thấy một tòa nhà sót lại, nhưng không còn ở trạng thái ban đầu; và cũng không có nhiều người ở quanh đây.
Nhà thờ Grace Baptist từng có phần nền bằng đá phiến cao hơn đầu người, với một cấu trúc tường ván gỗ nằm ở trên, nó được xây dựng từ những năm 1890. Cấu trúc khung, nếu như không bị tan ra thành tro bụi, thì có thể đang nằm ở đâu đó tít trong rừng Kentucky, sau khi cưỡi trên những cơn gió của Bão Katrina như ngôi nhà của Dorothy trong Phù thủy xứ Oz.
Phần móng bằng đá phiến của nhà thờ còn sót lại cao ngang vai, còn phần nền nhà gốc thì hiện được che phủ bởi những tấm giấy hắc ín. Cả nhà thờ, chỉ còn phần nền móng và sàn, được bán lại cho một người sưu tập xe hơi cổ, ông ta cần một nơi để cất giữ những chiếc xe của mình. Đến khi băng đảng tội phạm Honduras tìm một chỗ để làm nhà tập kết tiền, chúng đã cho nhà sưu tập xe hơi một lời đề nghị mà ông ta còn không mảy may nghĩ đến việc từ chối. Không phải vì ông ta sợ: chỉ đơn giản là ông ta tham lam và lời đề nghị thì quá tốt.
Nơi này có hai lợi ích rất lớn: một là không bao giờ có cảnh sát lảng vảng xung quanh, bởi vì chẳng có gì để ăn trộm, phá hoại,
g g g q g g ộ p ạ hoặc tụ tập và nó chỉ cách chỗ neo thuyền năm phút đi bộ.
Đêm Chủ nhật chỉ có hàng chuyển đi, với bốn người phụ trách việc đó. Gần như trong cả buổi tối, hai trong số bốn người sẽ đứng ngoài cảnh giới ở các góc đối diện nhau của nhà thờ cũ, tại các vị trí nằm giữa những bụi cẩm tú cầu được trồng cẩn thận. Cả hai đều được trang bị súng, mỗi tên có ít nhất hai khẩu; Darling nghĩ, có thể là súng tiểu liên bán tự động có lắp giảm thanh, và mấy tên đó được kết nối với nhau thông qua tai nghe radio.
Vào lúc tối muộn, Darling nói, một tên cảnh giới sẽ đi vào trong chỗ hai tên kia, trong khi tên còn lại thì ở ngoài, ngồi sau một bụi cây bên cánh cửa dẫn vào tầng hầm nhà thờ cũ.
Hắn nghĩ có thể ba tên kia đóng gói tiền, sau khi hai tên ban đầu đếm và buộc theo cọc. Khoảng nửa đêm, tên lính gác ở bên ngoài sẽ đi vào bên trong, và vài phút sau, tất cả bọn chúng sẽ đi ra ngoài, mỗi tên mang theo ít nhất là một và thường là hai vali. Từ nhà thờ xuống bờ nước mất năm phút đi bộ. Tại đó, chúng sẽ lên một thuyền câu. Hai đến ba phút sau, chúng sẽ rời thuyền và đi bộ trong bầu không gian yên tĩnh của đêm Chủ nhật về nhà thờ cũ.
Ba tên trong số chúng sẽ đợi ở đó trong khi tên thứ tư đi ra ngoài, đến chỗ một chiếc xe Lincoln Navigator màu đen mà chúng đỗ ở phía sau tòa nhà cách đó vài trăm mét. Hắn sẽ đến đón ba tên còn lại để đi về Nhà trọ Hampton, nơi chúng sẽ ở qua đêm trước khi tản ra để về nơi cư trú.
Con thuyền chở tiền sẽ trôi ra khỏi bến lúc tờ mờ sáng và mất hút về phía đường chân trời phía Nam. Darling đã xem xét đến việc cướp thuyền, nhưng hắn nghĩ rằng có thể tiền được đặt trong một két an toàn, hoặc nếu không phải thì cũng khó mà lấy; vấn đề này có thể gây rắc rối và chúng không có thời gian hay sự chuẩn bị để làm việc đó.
Vào hồi mười giờ tối Chủ nhật, Poole và Darling chui ra khỏi một thân xe nhà kéo FEMA, nơi cả hai đã dành phần lớn thời gian từ chiều đến tối để ăn bánh kẹp Subway, uống nước Smartwater và đi tiểu vào trong nhà vệ sinh không còn đấu đường nước ở phía cuối thân xe.
Cả hai đều mặc đồ tối màu, nhưng trông không quá bất thường hay như kiểu sắp đi đánh trận – đơn giản là quần bò hiệu Levi’s màu đen và áo phông dài tay có cổ màu xanh thẫm. Cả hai đều đeo găng tay phẫu thuật màu xanh nhạt và mặt nạ trượt tuyết, thứ không thường thấy ở thị trấn Biloxi, địa hình ở đây vốn không phù hợp để trượt tuyết.
Poole mang theo hai khẩu súng ngắn, Darling mang một, tất cả đều lắp giảm thanh. Darling dùng đạn 9 li, Poole dùng đạn 10 li. Những khẩu súng gắn ống giảm thanh tự chỉnh dài hơn ba mươi lăm phân nằm trong tay của chúng. Trước khi rời khỏi xe nhà kéo, hai tên đã phun ướt các ống giảm thanh trước khi gắn chúng vào nòng súng. Các ống giảm thanh được làm ướt sẽ hoạt động hiệu quả hơn rất nhiều.
Chỉ có một tên canh gác ở phía ngoài. Hắn đang ngồi sau một bụi hoa hồng tím phờ phạc gần bên cửa ra vào. Chúng vào trong từ phía góc khuất của khối móng nhà, Poole đi trước, Darling theo sát phía sau.
Ở trong góc, khoảng sáu mét từ phía cửa ra vào, Poole liếc nhìn. Bởi bụi hồng che khuất, hắn không nhìn thấy tên canh cửa; nhưng gã lính canh cũng không nhìn thấy hắn. Di chuyển với sự chậm rãi lạnh lùng, hắn khom gối đi men theo tường. Sau ba mét, hắn có thể ngửi thấy mùi của gã kia – mùi thuốc lá, nhưng vẫn chưa nhìn thấy được gã này. Khi còn một mét nữa, Poole cẩn thận đứng dậy, lưng áp vào bức tường đá, nhìn xuống.
Tên lính canh không bao giờ biết được cái gì đã hạ gục hắn: Poole rướn người qua bụi hồng và bắn vào đầu tên kia, một
tiếng bụp như tiếng gậy đánh gôn phát ra từ khẩu súng.
Darling tiến lên, cũng lặng lẽ như Poole và chẳng thèm nhìn vào xác chết. Ở trong còn ba tên nữa. Chúng cần sự kiểm soát chớp nhoáng; không thể chạy theo sự hỗn loạn, với màn đấu súng điên rồ. Cần phải xử lý ba tên còn lại ngay lập tức.
Darling đến bên cửa, hắn hít thở: “Sẵn sàng chưa?”
Cánh cửa sẽ không bị khóa. Chúng đã thấy mấy tên lính canh ra vào mà không cần gõ cửa hay dùng chìa khóa. Poole đứng ngay ngắn vào vị trí, mỗi tay cầm một khẩu súng.
“Vào thôi.” Poole thì thầm.
Darling thò một tay đeo găng chạm vào tay nắm cửa, xoay nó, rồi đẩy vào. Nó kêu két một tiếng và Poole xông vào trong, cả hai khẩu súng giương lên. Hắn có thể thấy ba người đàn ông cách đó chín mét, ngồi cạnh nhau ở một chiếc bàn. Cả ba đều nhìn lên, có thể là đang mong đợi để gặp tên canh gác bên ngoài, nhưng tất cả những gì chúng thấy là một kẻ lạ mặt mặc đồ tối màu, chẳng nói gì mà chỉ nổ súng.
Darling yểm trợ, Poole sẽ hạ đối thủ. Darling đá cánh cửa đóng lại khi Poole cho cả ba tên kia mỗi kẻ một phát đạn; trong vòng nửa giây, hai phát từ tay phải, một từ tay trái, đôi chút chậm hơn lúc hắn tập bắn bia giấy. Nửa giây gần như là đủ nhanh nhưng không hẳn. Một trong ba tên vớ được khẩu 9mm từ bàn kiểm tiền và bắn lại một phát hú họa.
Viên đạn bay trúng phần dưới cánh tay trái của Poole, nhưng gã kia đã chết trước khi Poole nhận ra mình bị trúng đạn. Trong lúc hắn bước đến bàn kiểm tiền thì một bé gái, khoảng sáu tuổi, bỏ chạy về phía cuối căn phòng từ chỗ ngồi của mình ở dưới sàn cùng một con búp bê Barbie. Tuy vậy, cô bé biết rằng mình sẽ không thoát được, đành đứng lại, xoay người ra phía sau, rồi nói: “Chú đã giết ông cháu.”
“Xin lỗi, nhóc.” Poole nói, rồi bắn vào đầu cô bé.
Darling, chạy từ phía sau lên, cất lời, cơn sốc hòa trong giọng nói: “Ôi chết tiệt, Gar, mày có phải làm thế không?”
“Có, tao phải làm thế. Nó đã đủ lớn để biết gọi cảnh sát.” Poole nói. Hắn không có chút cảm xúc gì dành cho cô bé, nhưng hắn phải xoa dịu Darling. “Nếu chúng ta trói nó lại, có thể nó sẽ chết đói trước khi ai đó kịp tìm ra nó. Đây là điều tốt nhất rồi.”
Darling nhìn chằm chằm vào cái xác của đứa trẻ như con búp bê hiệu Raggedy Ann, mặc chiếc váy trắng giờ đang vấy những vết máu loang như những bông hoa đỏ được thêu trên vải màu nhạt. “Ôi chết tiệt. Chúng ta có thể gọi ai đó…”
“Tỉnh lại đi, anh bạn! Xong rồi! Hãy đi lấy mấy cái vali chết tiệt ra đây.” Poole nói. “Chúng ta phải đi! Gã chết tiệt kia đã gặp may và bắn trúng tao.”
“Ôi, Chúa ơi. Tệ không?”
“Không, nhưng ta phải xem đã. Chuẩn bị vali đi.”
Poole không thể xắn tay áo đủ cao để quan sát vết thương, nên hắn kéo áo phông qua đầu. Hắn thấy một vết rách dài hai phân rưỡi ở dưới cánh tay; nó đang rỉ máu, nhưng viên đạn chưa thực xự đâm xuyên qua. Một vết thương phần mềm, như mọi người vẫn nói trong các bộ phim truyền hình cũ về Miền Tây.
Darling đang lùa những xấp tiền lẻ tẻ từ trên mặt bàn vào một chiếc vali, chốc chốc lại dừng lại để ngó về phía xác cô bé, như thể đang hi vọng con bé còn chút dấu hiệu của sự sống. Hắn định thần lại, liếc nhìn Poole, và hỏi lại: “Tệ như thế nào?”
“Không tệ lắm. Cần phải xé một cái áo hay cái gì đó. Chỉ là một chút băng bó thôi.”
“Chúng ta có một đống áo trên sàn ấy. Xé lấy một cái đi.” Darling nói.
Poole xé một miếng từ chiếc váy của cô bé, cho rằng có lẽ nó là thứ ít tiếp xúc nhất với cơ thể của người chủ cũ, và do đó khó mà gây nhiễm trùng được: Poole nghĩ về mọi thứ như vậy, kể cả khi đang căng thẳng. Hắn băng cánh tay của mình lại thật chặt và gọn gàng, thực sự nó là tất cả những gì hắn cần. Hắn kéo áo xuống qua đầu, rồi hắn cùng Darling kiểm tra số tiền chiếm được. Poole chẳng có gì hơn để nói ngoại trừ: “Ôi trời!”
“Đúng đó, anh bạn.” Darling nói. “Nhiều hơn những gì tao nghĩ. Khá nặng đấy. Mày khênh được không?”
“Được chứ. Đau đấy, nhưng không tệ.”
Hắn đã nhầm về việc vác tiền. Mỗi chiếc vali phải nặng từ mười tám đến hai mươi ba cân, nặng như cục ắc quy của tàu đánh cá vược; có đến sáu cái như vậy, thay vì chỉ ba đến bốn cái như chúng dự định. Hắn có thể mang mỗi tay một vali, nhưng không thể chạy với chúng; chiếc vali bên cánh tay bị bắn trúng của hắn khiến hắn đi chậm lại, vết đạn sượt qua giờ bỏng cháy như lửa đốt. Darling, đang vác bốn chiếc vali, mỗi tay một chiếc và hai bên nách hai chiếc, chạy đằng trước và liên tục gắt lên: “Nhanh nào, nhanh nào.”
Chiếc xe ăn trộm nằm cách đó một trăm tám mươi mét. Darling chất đống vali lên xe và chạy về phía Poole, lấy chiếc vali ở bên tay bị thương của hắn, và cả hai cùng nhau quay lại xe.
Chúng lái xe chậm rãi – chúng là những tay lành nghề – đi khỏi Biloxi. Chúng vứt chiếc xe ăn trộm tại một chỗ nghỉ trên đường I-10, chuyển các vali sang chiếc xe Chevy thùng dài của Darling. Darling đã làm một mặt sàn giả trong khoang cắm trại và ở đó, chúng đổ tiền mặt vào qua một cửa khoang giấu kín, đóng nắp lại và vứt những chiếc vali lên trên đó.
Tiếp tục đi về phía Tây, chúng cởi bỏ những chiếc găng tay phẫu thuật và vo tròn lại rồi vứt qua cửa sổ. Những cái mặt nạ trượt tuyết được vứt theo sau, mỗi lần một chiếc, cách nhau vài cây số. Đi thêm hơn ba mươi cây số nữa, Darling cho xe rẽ vào một đường thoát chạy ngoặt vào một con đường phụ dẫn đến một cây cầu.
Chúng vứt súng từ trên cầu xuống con sông tối và hẹp rồi đi về phía đường cao tốc liên bang. Đi xa thêm nữa dọc theo con đường, chúng để năm chiếc vali bên cạnh nhau ở một lề đường ở Slidell, Louisiana, với một tờ giấy đặt ở trên ghi “Miễn phí”.
Tầm hơn một tiếng sau khi giết bốn người và một cô bé, chúng đã ra khỏi Slidell, tiếp tục đi về phía Tây.
“Mày bị cái quái gì vậy?” Poole hỏi, nhìn qua Darling, đang ngồi khom lưng trên tay lái, miệng thì nhăn nhó không dừng.
“Tao nuôi nấng mấy đứa con gái. Tao không thể loại bỏ hình ảnh con bé ấy ra khỏi đầu.” Darling nói.
“Thôi nào, anh bạn. Tuổi tác có gây ra khác biệt gì đâu? Con bé cũng chỉ là một nhân chứng khác.”
“Tao biết. Tao biết. Chỉ là … nó tràn ngập trong đầu tao, anh bạn ạ. Tao… cứ nhìn thấy nó. Tao sẽ ổn thôi.”
Poole chăm chú nhìn hắn trong một phút, rồi nói: “Hãy nghĩ theo cách này nhé – đã xong rồi. Không thể làm lại được. Mọi chuyện là quá khứ rồi.”
Chúng dừng xe tại một siêu thị Walmart5 mở cửa cả ngày tại Baton Rouge, rẽ sang một bên của khu đậu xe, len vào giữa hai chiếc bán tải khác, rồi trèo ra phía sau xe, và lấy đống tiền ra khỏi tấm sàn giả. Đa số là những tờ tiền một trăm đô, đã lưu thông được một thời gian và hơi nhờn, được xếp thành những
xấp mười nghìn đô. Ngoài ra còn một đống tiền lẻ mà Darling đã vét từ trên bàn kiểm tiền.
5 Walmart là một chuỗi cửa hàng bán lẻ của Mỹ.
Chúng đếm vài xấp tiền và đồng ý rằng mỗi xấp này là mười nghìn đô, dù kích cỡ không giống nhau do có nhiều tờ tiền khác mệnh giá trong mỗi xấp. Chúng đếm số xấp tiền. Có bảy trăm tám mươi xấp. “Bảy triệu, tám trăm ngàn đô.” Darling thở mạnh. “Trời, bọn mọi đó sẽ phát rồ lên nếu chúng nghe được chuyện này mất.”
“Kệ xác chúng nó.” Poole nói và cười lớn.
Darling ngồi xuống sàn xe và nói: “Nghe này, bạn ơi. Quên vụ sáu mươi – bốn mươi đi. Tao chưa từng nghĩ chúng mình kiếm được nhiều như thế này. Hãy chia năm mươi – năm mươi và tao giữ đống tiền lẻ. Chẳng có nhiều hơn vài trăm nghìn đô ở đó đâu.”
“Mày là một gã chơi đẹp và chính trực.” Poole nói. “Hãy làm thế đi.”
Hắn giơ nắm đấm ra hiệu và Darling đấm chạm vào rồi chúng chia tiền.
Box đang ở khách sạn Baton Rouge Marriott. Khi tiền được đếm xong và được chia lại vào hai túi xách du lịch, Poole gọi cho cô. “Xong hết rồi.” Hắn nói.
“Em đã đợi hơn ba tiếng, lo lắng hơn cả một con thiên nga trong buổi săn vịt6.” Cô nói. “Anh đang ở đâu thế?” “Ngay tại nơi mà chúng ta phải có mặt.” Poole nói. “Anh làm tốt chứ?” Cô hỏi.
6 Câu gốc là “A nun at a penguin shoot” – “Một bà sơ trong buổi bắn chim cánh cụt”. Đây là câu trích từ serie phim truyền hình Gene Hunt, ý chỉ sự lo lắng tột độ.
“Hơn cả thế.” Poole nói. “Mười phút nữa.” Cô nói.
Cô đến sau mười hai phút. Darling đã đi đường của hắn, và năm tiếng sau, Poole và Box đi tắt vào đường I-20 phía Tây của Shreveport và lái xe qua biên giới bang Texas trên con đường về nhà ở Dallas, nghe Paul Thorne hát bài Bull Mountain Bridge trên đài phát thanh vệ tinh Sirius.
Một đống tiền ở phía sau xe.
Đống tiền, Poole nghĩ, sẽ còn mãi trong suốt cuộc đời hắn.
2
B
a người dân địa phương đang ngồi ở một sân hiên gỗ rộng, trên một chiếc ghế dài màu xanh, phía bên phải cửa trước của một quán rượu. Bóng đèn huỳnh quang
treo cao trên đầu kêu rè rè như tiếng máy khoan của nha sĩ nhưng có vẻ chẳng làm họ bận tâm. Cả ba người đều đội mũ lưỡi trai kiểu dân chạy xe tải và đang uống bia trong những chiếc cốc nhựa.
Họ dừng lại để nhìn khi Lucas Davenport lái chiếc SUV hiệu Mercedes màu đen của mình đi ngang qua bãi đậu xe trải đá cuội để đi vào một chỗ trống nằm giữa một chiếc Ford F–150 mới và một chiếc Cadillac màu vàng loang lổ có vây – một thiết kế chỉ có ở những chiếc xe cổ.
Lucas bước ra khỏi xe, bấm nút “Khóa” trên móc chìa khóa của chiếc Benz, và đi vào quán.
Ở nơi khác, quán Cooter’s có thể là một chỗ lụp xụp. Ở đây thì không, bởi vì đây là quán rượu duy nhất ở Aux Vases, nơi mà tất cả mọi người đều lui tới, từ lao công quét dọn đến giám đốc ngân hàng. Được xây dựng như một ngôi nhà vùng đồng bằng sông Mississippi kiểu cũ, nó có một sân hiên mặt trước rộng với mái che nhô ra, cong vênh, những bức tường ván không sơn, và biển quảng cáo bia bằng đèn neon ở các khung cửa sổ. Hàng triệu con bướm đêm trắng to bằng móng tay cái tự đánh mình đến chết bằng cách lao vào ngọn đèn trên đầu ba người đàn ông, nhưng có vẻ họ chẳng để ý.
Trong một bộ phim, bạn sẽ mong đợi là có rất nhiều gã dân quê miền Nam. Những gã da trắng nghèo vùng Đông Nam. Những gã da trắng quê mùa, với dây thừng và cán rìu.
g g q y g
Nằm cách một trong những con đường hiếm hoi dẫn ra cao tốc liên bang I-55 khoảng hai trăm mét, với một biển hiệu rộng khoảng sáu mét sơn trắng và đỏ nhấp nháy chữ “Cooter ’s” rồi “Đồ uống”, quán cũng thu hút những người đang đi dọc theo cao tốc liên bang giữa St.Louis và Memphis, những người bủn rủn tay chân sau hai tiếng lái xe mà không có rượu uống.
Sỏi lạo xạo dưới chân Lucas khi anh đi qua bãi đậu xe, bước lên những bậc thang của sân hiên, và gật đầu với ba người đàn ông. Anh không cần phải đến gần để ngửi thấy mùi bia tràn. Một trong ba người đàn ông nhìn ngó bộ vét, cà vạt, đôi bốt cao bồi da thằn lằn màu đen hiệu Lucchese của Lucas, rồi nói: “Chào buổi tối, thưa ngài.” - những lời nói líu nhíu khiến Lucas nghĩ rằng có thể mấy gã này không phải tự nguyện ra ghế băng ngồi.
Lucas đáp: “Chào buổi tối, các chàng trai.” “Anh có con xe đẹp đấy.” Người ở giữa nói. “Cảm ơn. Muốn mua không?”
Cả ba bật cười khùng khục. Họ chẳng thể mua nổi một cái lốp của nó, nữa là cả phần còn lại của xe, nhưng lời chào mời mang cho họ một chút ánh sáng ấm áp của sự bình đẳng về kinh tế. Lucas gật đầu lần nữa, nói: “Nhẹ nhàng với nó nhé.” rồi đi vào trong, chọn một chiếc ghế trông có vẻ ít nhớp nháp nhất ở phía cuối quầy rượu, và ngồi xuống.
Người pha rượu, một người đàn ông gầy với một cái răng nanh bằng vàng, đeo một chiếc cà vạt dây màu đen, tiến lại gần và hỏi: “Anh dùng gì?”
“Cho tôi một cốc margarita1 đàng hoàng được không?” Lucas nới lỏng chiếc cà vạt.
1 Margarita là loại cocktail có nguồn gốc từ Mexico, làm từ Tequila, rượu có mùi cam, nước chanh rồi lắc mạnh tay, và có lớp muối trên viền ly.
“Tôi có thể làm một cốc như thế, dù một số gã nghĩ rằng loại không đàng hoàng thì còn ngon hơn nữa.” Người pha rượu nói. Nhận thấy Lucas không mỉm cười đáp lại, ông ta mau miệng: “Một cốc margarita đàng hoàng, có ngay.”
Khi người pha rượu chuẩn bị bước đi thì Lucas hỏi: “Ông gọi tên chỗ này là gì nhỉ?”
Mặt của người pha rượu lộ vẻ bối rối như khi người ta nhận được một câu hỏi rất, rất ngu ngốc. “Chẳng phải là Cooter’s sao?”
Lucas cười. “Không, không, thị trấn cơ. Aux Vases.” Anh phát âm nghe như Óc–va–xi.
“Ôi. Trời ạ, anh làm tôi ngơ ngác một chút đấy” Người pha rượu nói. “Là, ờm, tiếng Pháp, là Ô–Va.”
“Ô–Va. Tôi luôn tự hỏi mỗi khi nhìn thấy biển hiệu.” Lucas nói. “Ừ. Ô–Va.” Ông ta nhìn Lucas gần hơn một chút và thấy một người đàn ông cao to, đôi mắt xanh, với mái tóc đen xen những sợi bạc mọc từ hai bên thái dương.
Người pha rượu đoán rằng ông bạn này có lẽ phải trên dưới năm mươi tuổi. Mũi Lucas có dấu hiệu của việc đã từng bị gãy và một vết sẹo trắng mảnh chạy dài từ trán xuống lông mày; một vết sẹo khác, hình tròn, nằm ngay phía trên nút thắt cà vạt được nới lỏng. Và bộ vét – bộ vét mà anh chàng đang mặc đích thị là bộ vét đắt tiền nhất từng đi qua cửa quán trong mười năm trở lại đây.
Ông rời đi để tìm chút rượu tequila.
Lucas nhìn xung quanh quán. Có mười lăm bàn ăn, mười hai ghế quầy, một vài máy trò chơi điện tử ở phía sau, sàn nhà lát ván kêu kẽo kẹt mỗi khi có ai đi qua, cùng với một mùi khen khét của xì gà Rum Crooks và những thanh cá chiên ngập dầu. Anh là người duy nhất ở đây mang cà vạt và không mang mũ.
Lucas ngồi một mình, mua bốn cốc margarita trong bốn mươi lăm phút và hai lần đi vào nhà vệ sinh nam, hoặc cái gì đó mà anh hi vọng là nhà vệ sinh nam. Những biển báo duy nhất là hình ảnh một con mèo ở một cánh cửa phòng vệ sinh, và một con gà trống ở cửa còn lại.
Trong lúc anh đang uống được nửa cốc margarita thứ tư thì Shirley McDonald ngồi xuống cách đó hai ghế. Lucas nhìn sang cô, mỉm cười, và gật đầu. Đó là một cô gái tóc vàng mảnh mai, rất trẻ, lông mày đen, phấn mắt hơi quá đậm, đôi mắt pha lê màu xanh lá, môi màu đỏ sáp crayola tô hơi tràn viền. Trông cô có vẻ mỏng manh, dễ vỡ; có thể đã bị vỡ vài lần rồi. Cô mặc một cái áo sơ mi nữ trắng khá mỏng, mỏng vừa đủ để nhìn xuyên qua lớp vải, dây áo ngực không lộ rõ, quần bò rách ở đùi và đầu gối, và đi dép quai hậu. Không phải là một cô nàng mới vào đời. Cô cất tiếng hỏi: “Anh khỏe không?”
“Tôi khỏe.” Lucas nói. “So với một người ở cách xa sự tiện nghi ở nhà như thế này.”
“Anh có thuốc lá không?” Cô hỏi. “Tôi không hút thuốc.” Lucas trả lời.
“Chết tiệt, tôi sẽ phải hút một điếu một mình rồi.” Cô nhăn răng cười với anh và móc ra một gói thuốc American Spirits màu xanh nhạt từ trong túi xách. Một trong số những chiếc răng cửa của cô không thẳng lắm, nhưng sự khác biệt đó làm cho cô thêm phần quyến rũ, mà chắc chắn cô biết. “Những thứ chết tiệt này giờ đắt quá, tôi chỉ đủ tiền mua một bao mỗi tuần.”
“Để tôi mời cô một cốc.” Lucas nói.
“Tôi đang chờ được nghe điều đó đấy.” Cô cười. Cô giơ một ngón tay cho người pha rượu và nói: “Eddie ơi …”
“Ừ, tôi biết – thứ gì đó đắt tiền và ngọt ngào.”
“Ông thực đúng là gã trai ngọt ngào.” Cô nói. Cô rút một điếu thuốc ra khỏi bao, gõ đầu lọc xuống bàn quầy để nén thuốc lá lại rồi hỏi Lucas: “Câu chuyện của anh là gì, anh bạn to cao?”
“Tôi chỉ là một anh bạn thôi.” Lucas nói.
“Một anh bạn đã có gia đình.” Cô nói, tay châm điếu thuốc. Anh đang đeo nhẫn.
“Ừ, đôi chút.” “Chỉ đôi chút?”
“Cô biết chuyện đó diễn ra thế nào rồi đấy…” Lucas nói. Người pha rượu đi đến, đặt xuống một cốc nước cao có mùi đường, và đưa cô ấy một cái que mà trên đó ông xiên lên ba quả anh đào ngâm rượu maraschino. Cô mút lấy hai quả rồi uống một ngụm nước; Lucas hỏi. “Cái quái gì vậy?”
“Rượu Jim Beam Single Barrel” Người pha rượu nói. “Và Coca– Cola. Chúng tôi gọi đây là món Ô–Va Libre.”
Lucas nhăn mặt, quay lại với McDonald, rồi hỏi: “Tên cô là gì?”
“Triste.” Cô nói, miệng mút quả anh đào thứ ba. “Tiếng Pháp đấy… như Ô–Va.”
Điệu bộ mút anh đào vừa buồn cười vừa có chút gợi dục, nhưng sẽ là một sự khiếm nhã ghê gớm nếu cười nhạo cô ấy. Lucas không làm vậy. Anh nghĩ cô gái này có khi còn trẻ hơn cả Letty, con gái anh, hiện đang học năm thứ hai tại trường Stanford.
Dù sao thì, chuyện nọ dẫn đến chuyện kia, và Lucas đã không giữ được mình cho đến Memphis. Vào nửa đêm, sau vài cốc margarita và ba lần đi vào phòng vệ sinh nữa, anh và McDonald kết thúc ở Nhà nghỉ số 6 ở phía bên kia đường I-55. Lucas còn chưa kịp đóng kín cửa thì cô gái đã cởi thắt lưng và lột chiếc quần bò ra, cùng đôi dép quai, rồi cởi bỏ áo sơ mi. Lucas vẫn còn mặc áo vét, dù anh đã nhét chiếc cà vạt vào túi áo.
“Anh nghĩ sao?” Triste hỏi, tay chống nạnh. Bầu ngực hình nón màu nhạt, đầu nhũ hoa nhỏ nhắn có màu hồng như một con búp bê Barbie. Chúng dựng thẳng lên và rung rung khi cô nói.
“Thôi nhé, cô bao tuổi rồi nhỉ?” Lucas hỏi. “Mười lăm tuổi.” Cô nói.
Rồi cô ấy nhặt chiếc quần bò dưới đất và bắt đầu hét toáng lên.
Ba giây sau, trong khi cô ả chui vào góc phòng với tay giữ chiếc quần bò che cặp ngực, đám cảnh sát đi từ ngoài cửa vào, bằng chìa khóa, Lucas nhận ra điều đó; không việc gì phải phá vỡ cánh cửa phòng còn cực kỳ tốt.
Tên cảnh sát đầu tiên đi vào là một gã tóc vàng cao to, vạm vỡ, với gương mặt rắn đanh. Hắn trông như đang giận dữ với cả thế giới và sẵn lòng ra tay để xử lý chuyện đó, khả năng cao là bằng một khẩu súng. Hắn để kiểu tóc đầu đinh với phần mái được chải chuốt cẩn thận; tay phải lăm lăm một khẩu súng tự động được phủ lớp chống gỉ màu xanh lam. Hắn chĩa nó vào đầu của Lucas và quát: “Dựa vào tường, thằng chó. Dựa vào tường.”
Lucas nghĩ, chết tiệt, bởi vì nếu thằng này phạm sai lầm, Lucas có thể tiêu đời. Anh quay người, giơ hai tay lên đầu, nhìn vào tường, và tên cảnh sát hét: “Tay đặt lên tường, thằng khốn. Đưa chân ra sau. Dựa tay lên tường.”
Lucas nói: “Tôi không biết...” “Câm mồm lại!”
Tên cảnh sát thứ hai đi vào cửa thì thấp hơn tên đầu, béo tròn, với bộ râu ánh đỏ và mái tóc đỏ thưa thớt, trông hắn không khác gì một con chuột chũi. Cả hai đều đeo máy ghi hình ở ngực. Tên chuột chũi hỏi Triste: “Cô ổn chứ, cô gái?”
Triste nói vào máy ghi hình: “Hắn nói chúng tôi sẽ đi xem phim. Hắn định ép tôi…”
“Mặc quần áo vào đi.” Tay cảnh sát lùn nói.
Lucas đang dựa vào tường bằng hai tay, nhưng quay đầu lại nhìn cô gái và thấy ả nhe răng ra cười với tên cảnh sát. Tên cảnh sát tóc vàng đút súng lại vào bao, đập tay vào hông của Lucas và xung quanh thắt lưng rồi xuống chân và nói: “Tay ra sau lưng. Mày định thịt con bé nữ sinh trung học này hả? Thôi, tối nay mày đen rồi.”
“Tôi nói anh nghe này, lúc đó cô ta đang uống rượu và hút thuốc ở quán rượu…”
Tên cảnh sát kéo giật anh ra và tiện tay thụi vào bụng anh một cú bằng tay phải. Không quá mạnh, nhưng đủ để làm
Lucas gập người xuống. “Im mồm. Mày chỉ được nói khi nào tao cho phép.”
Lucas từ từ gượng lên lại. “Tôi nói anh nghe…”
Bụp – một cú nữa vào bụng, lần này mạnh hơn. “Mày điếc à? Tao nhắc lại, mày nói khi nào tao cho phép.”
“Đừng đánh tôi nữa.” Lucas nói. “Đừng đánh tôi nữa.”
Tên cảnh sát tóc vàng cười khinh bỉ và nói: “Đáng ra tao phải đánh cho mày vãi ra thì thôi.”
Tên chuột chũi khẽ nói: “Chú ý máy quay phim kìa, Todd.” “Tao không nghĩ có thẩm phán nào sẽ gây khó dễ cho tao vì đã đánh một tên vô lại đến thị trấn và cố gắng hiếp dâm một nữ sinh lớp mười. Có thể là vừa vặn mười lăm năm tù, theo thiển ý của tao.”
“Tôi không…” Bụp – một cú nữa vào bụng; trò này bắt đầu nhàm rồi.
Tên chuột chũi nói với cô gái: “Cô phải theo tôi về văn phòng cảnh sát trưởng khu, cô gái ạ. Chúng tôi cần lấy lời khai từ cô.”
“Hắn lột quần tôi…” Cô ả rền rĩ với sự chân thành giả tạo theo kiểu nước mắt cá sấu.
Tên cảnh sát đưa Lucas vào một phòng tạm giam, tay vẫn bị còng chặt sau lưng. “Đừng đi đâu cả.” Hắn nói trước khi đóng sập cánh cửa sắt lại.
Lucas ngồi xuống chiếc ghế dài bằng bê tông và chờ đợi. Phòng giam bốc mùi như mùi bia nôn mửa và thuốc tẩy Clorox. Vợ anh đã yêu cầu anh phải tập yoga sau khi anh nghỉ việc tại Cục Trấn áp Tội phạm Bang Minnesota, như một liệu pháp giảm căng thẳng. Nó chẳng có chút tác dụng nào, nhưng anh đã được thầy dạy yoga chỉ cho một câu chân âm trấn an và giờ anh thử áp dụng nó: “Trí như trăng … Trí như trăng …”
Sau một lúc, nó làm anh bật cười.
Anh không xem được đồng hồ đeo tay của mình, nhưng đoán là đã nửa tiếng trôi qua trước khi nghe thấy tiếng người ngoài cửa. Anh biết biện pháp nghiệp vụ này: họ đang để anh bối rối và lo lắng về những hậu quả. Anh nghe thấy tiếng ai đó bấm vào bảng khóa điện tử, cánh cửa bật mở và một tay cảnh sát tóc vàng cao to khác nhìn anh. Ông ta trông già hơn tên cảnh sát đầu tiên đến hai mươi lăm tuổi, nhưng có nét giống nhau của những người trong một gia đình, kể cả cái mặt rắn đanh và kiểu tóc đầu đinh chải chuốt thẳng thớm. Hai tên cảnh sát ban đầu vận bộ đồng phục với phù hiệu trên vai ghi “Hạt Aux Vases”; còn người đàn ông này thì mặc áo thể thao và quần nâu vàng nhạt.
“Lôi nó ra đây, con trai.” Ông ta nói.
Tên cảnh sát tóc vàng ban đầu, Todd, đi đến gần cửa và nói: “Đứng dậy, thằng khốn.”
Lucas đứng dậy, tên cảnh sát ngoắc lấy cánh tay anh và dẫn anh ra hành lang, theo chân người đàn ông mặc áo thể thao đến một phòng làm việc. Ông ta ngồi vào chỗ sau một chiếc bàn; một tấm biển trên bàn ghi “Cảnh sát trưởng Robert ‘Bob’ Turner.” Có một tá ảnh của ông ta ở bức tường đằng sau, hoặc là đang nhận danh hiệu hoặc đứng với một người quyền cao chức trọng nào đó.
Tay cảnh sát trưởng hỏi: “Triste đâu?”
“Con bé đang ở phòng chờ cùng với Scott.” Todd nói. “Đưa con bé đến đây.”
Todd rời khỏi phòng, Lucas nói với người đàn ông: “Cảnh sát trưởng Turner, tôi không làm gì…”
“Im mồm lại.” Turner nói. “Ở văn phòng này, mày chỉ được nói khi tao cho phép.”
Mười giây sau, Todd quay lại cùng tên cảnh sát chuột chũi và cô ả kia. Turner nhìn Triste rồi hỏi: “Hắn làm gì cô?”
“Hắn nói chúng tôi sẽ uống bia và cùng xem HBO, thế mà khi tôi đi vào phòng hắn, hắn bắt đầu lột đồ của tôi. Hắn suýt lột hết quần áo tôi, tôi đã hét lên, may mà Todd xuất hiện đúng lúc.” Cô ả nói.
Tay cảnh sát trưởng nhìn Lucas và hỏi: “Có đúng thế không?” Lucas lắc đầu: “Không, không đúng.”
“Ý mày là con bé nói dối?” Turner hỏi.
“Đó là điều tôi muốn nói đấy.” Lucas đáp. “Hừ. Thế thì, Todd, có gì báo cáo không?”
“Bọn con đang ở ngoài Nhà nghỉ số 6, đi tuần như thông lệ; khi đang đi dọc theo vỉa hè ở đó thì con nghe tiếng Shirley… à,
Triste… khóc lóc; cửa không khóa nên con đi vào trong và thấy cô ấy trần như nhộng, còn gã này đang sờ soạng cô ấy.”
Cảnh sát trưởng nhìn Lucas. “Đúng không?”
“Không. Cô ấy tự cởi đồ và bắt đầu hét lên.” Lucas nói. “Tôi không sờ soạng cô ấy, tôi đang đứng ở gần cửa còn cô kia ở bên kia căn phòng.”
“Vậy mày bảo Todd cũng nói dối ư?”
“Chính xác.”
Todd vả thẳng vào mặt Lucas, cú tát khiến anh mất thăng bằng, việc giữ cho đôi chân đứng vững khó khăn hơn anh tưởng do hai tay bị còng ra sau. Cú tát đau nhói nhưng chẳng gây tổn thương gì; nhưng cũng đủ để khiến anh nóng mắt.
Tay cảnh sát trưởng phồng má lên thở phù ra một tiếng và nói: “Nào, có vẻ chúng ta đang có một tình huống.” Ông ta quay sang Triste. “Cô bị quấy rối khá nặng nhỉ, cô gái?”
“Đúng vậy.” Ả nói. “Chuyện như này chưa bao giờ xảy ra. Tôi là một người đoan chính.”
Tay cảnh sát trưởng nhìn cô ả một lúc, rồi nói với Scott: “Đưa cô gái về phòng chờ đi. Cậu ở đó với cô ấy. Tôi và Todd sẽ thẩm vấn đối tượng ở đây.”
Khi họ đi khỏi, Cảnh sát trưởng hỏi Todd: “Mày kiểm tra danh tính gã này chưa?”
“Chưa ạ. Con đang định làm thì bố đến.”
“Được rồi, kiểm tra đi. Xem chúng ta tóm được ai.” “Tên tôi là Lucas…” Lucas bắt đầu kể.
“Im đi.” Tay cảnh sát trưởng nói.
y g
Lucas mang một ví da cá sấu gập đôi trong túi quần trước, Todd lôi nó ra kiểm tra và nói: “Không có tiền mặt, không có gì ngoài vài thẻ tín dụng và một bằng lái xe cấp ở Minnesota. ‘Lucas Davenport, Đại lộ Sông Mississippi, thành phố St. Paul.’”
“Được rồi, hãy xem xem chúng ta có gì ở Quý ngài Davenport đây.” Tay cảnh sát trưởng nói. Ông ta quay qua một chiếc máy tính, bấm một nút, mở ra một trình duyệt, vào Google và gõ tên của Lucas. Có một tá bài báo và cả trăm lời đề cập, một số có kèm ảnh chụp. Tay cảnh sát trưởng đọc một lúc, bấm chuột lướt qua các bài báo, và rồi nói với Todd: “Ở đây nói anh Davenport là một nhà bảo trợ giàu có ở Minneapolis và St. Paul, kiếm tiền nhờ lĩnh vực phần mềm; chẳng nói gì đến việc quan hệ với trẻ vị thành niên. Có đúng sự thật không, anh Davenport?”
Lucas gật đầu. “Tôi đoán vậy.” Một chuyên viên máy tính của FBI đã thực hiện vài điều chỉnh về tiểu sử của Lucas từ trước.
“Đoán vậy à? Hừ. Anh không biết chắc à?” Turner hỏi. Lucas nói: “Vâng, là tôi đó.”
“Anh giàu đến độ không mang theo tiền mặt? Anh chỉ huơ cái thẻ Amex đen này trước mặt mọi người?”
“Tôi…”
“Bố biết không?” Todd nói. Hắn vươn tới và đập tay vào ngực của Lucas. “Đây rồi.”
Hắn móc ra một chiếc ví da thứ hai từ túi ngực của Lucas, mở nó ra, và nói: “Ôi, bố ơi. Gã này giàu thật.” Hắn kéo ra một xấp tiền một trăm đô, xòe ra như những quân bài. “Chỗ này phải đến… năm nghìn.”
“Đó là bằng chứng.” Tay cảnh sát trưởng nói. “Đưa đây nào.” Todd đưa tiền cho tay cảnh sát trưởng và ông ta đút vào túi áo khoác, nhìn kỹ Lucas trong vài giây nữa, rồi nói với Todd:
“Tháo còng tay cho anh ta.” Khi còng đã tháo, tay cảnh sát trưởng nói: “Ngồi xuống, anh Davenport. Tôi cần giải thích cho anh vài thực tế cuộc sống.”
Thực tế của cuộc sống, tay cảnh sát trưởng nói, là rằng cả hai sĩ quan cảnh sát đều đã đeo máy quay phim gắn người, thứ mà ông ta gọi là Obama–cam, và rõ ràng là hai người đó đã bắt gặp Lucas và Triste trong nhà nghỉ. Ông ta nói rằng Triste có thể đã bị hủy hoại tinh thần sau những trải nghiệm của vụ tấn công tình dục trong đêm; hoặc, nếu không bị hủy hoại, thì ít nhất là bị tổn thương tâm lý. Sẽ cần sự chăm sóc tâm lý trong thời gian dài để chữa trị, và chăm sóc tâm lý trong thời gian dài không hề rẻ.
“Tôi có đủ bằng chứng để tống anh vào nhà tù liên bang, khoảng năm đến mười năm, nhưng điều đó sẽ chẳng mang lại chút tốt đẹp nào cho Triste, đúng không? Cô gái vẫn bị hủy hoại.” Tay cảnh sát trưởng nói. “Ý tôi là, giữa anh và tôi, có lẽ tốt hơn là dành cho anh một thỏa thuận nho nhỏ. Tôi hiểu anh có thể bị lạc lối như thế nào, và thỉnh thoảng ai cũng muốn vui chơi với một cô nàng non tơ. Nhưng điều đó không quan trọng – con bé vẫn mới mười lăm tuổi. Anh trả tiền chăm sóc y tế cho con bé – nếu như những câu chuyện trên báo chí kia là đúng, anh sẽ chẳng thấy tiếc tiền đâu – và chúng ta quên đi mọi chuyện. Hoặc là, anh có thể phải bóc năm-đến-mười cuốn lịch.”
Lucas không nói gì trong mười giây, mười lăm giây, rồi anh thốt lên: “Bọn chó má. Chúng mày dùng con bé kia để gài bẫy tao. Đó là điều đang xảy ra ở đây. Con bé chẳng cần số tiền đó. Tao cá là mày cho con bé làm trò này ba lần một tuần…”
Tay cảnh sát trưởng nói: “Todd? Giúp một tay nhé?”
Lần này Todd vung tay mạnh hơn, đánh trúng má Lucas bằng cả bàn tay, làm anh ngã ra khỏi ghế. Lucas bò một vòng bằng tay
và đầu gối, lần này thì máu đầy miệng, anh nói: “Thôi nào, đừng đánh, đừng đánh nữa.”
“Tôi không cưỡng lại được.” Tay cảnh sát trưởng nói. “Khép tội tôi vào mấy thứ vi phạm công vụ. Tôi không chịu được sự phỉ báng đó. Bây giờ hãy ngồi lại vào ghế đi.”
Lucas dậy ngồi lại vào ghế, cảm thấy máu trào lên chỗ má bị ăn đòn – một vết bầm nguyên hình bàn tay. Tay cảnh sát trưởng hỏi: “Anh tính sao? Anh muốn trả tiền hay anh muốn ra tòa? Tôi nói sự thật cho anh nghe, chúng tôi không quan tâm lắm đến dân miền Bắc ở đây đâu.”
Lucas quệt tay vào miệng, vị tanh của máu trào lên. “Chúng ta đang nói đến đâu rồi nhỉ? Bao nhiêu?”
Tay cảnh sát trưởng ngẫm nghĩ một lúc rồi nói. “Dựa trên tính nghiêm trọng của hành vi, và dựa vào thực tế anh là một kẻ giàu có… hai mươi lăm nghìn. Nghe có ổn không?”
“Lạy Chúa, tôi làm gì có ngần đó ở đây. Tôi không mang theo séc trong mình…”
“Chúng ta làm như thế này. Anh đưa tôi cái thẻ American Express kia và chúng ta sẽ điền, ngay tại đây, một bản ghi trái phiếu, bảo lãnh tại ngoại cho anh. Chúng tôi cho anh tại ngoại với hai nghìn đô. Rồi anh về nhà và gửi cho chúng tôi một tờ chi phiếu. Nếu anh không gửi chi phiếu, chúng tôi sẽ sắp xếp phiên tòa cho anh và liên lạc với cảnh sát thành phố St. Paul để dẫn độ cái thân xác khốn khiếp của anh. Nếu tờ chi phiếu được gửi thì cho dù anh đã có một đêm tồi tệ ở Ô–Va, anh sẽ không bao giờ nghe thấy lời nào từ phía chúng tôi nữa.”
“Tôi gửi cho các anh tờ séc hai mươi nghìn đô? Các anh đã có năm nghìn đô tiền mặt rồi.”
“Và chiếc đồng hồ.” Todd nói. “Đó là một chiếc Rolex, tao luôn muốn có một chiếc. Đưa nó đây.”
“Đồng hồ thì không được. Vợ tôi tặng nó cho tôi, có khắc chữ ở mặt sau.”
“Cái đồng hồ.” Todd khăng khăng. Tay cảnh sát trưởng ngả người ra sau, mặt thích thú. “Đưa đây.” Todd nói. “Nếu không, thề có Chúa, tao sẽ tát vỡ mặt mày ra.”
“Các người phải trừ giá tiền chiếc đồng hồ ra khỏi số tiền kia, tôi sẽ mua một chiếc mới…” Lucas nói. Anh tháo đồng hồ ra và đưa cho Todd, hắn chiêm ngưỡng nó trong vài giây, rồi cất vào túi.
“Không, không. Tổng số tiền là ba mươi hai ngàn đô, bao gồm chiếc đồng hồ.” Viên cảnh sát trưởng nói, ngồi thẳng nói tiếp. “Anh sẽ để hai nghìn trong thẻ Amex kia, gửi cho chúng tôi hai mươi lăm nghìn và chúng tôi sẽ cầm tất cả.”
“Triste được bao nhiêu? Tao hi vọng cô ả nhận được chút gì đó từ bọn chó má chúng mày.”
Tay cảnh sát trưởng mỉm cười. “Triste ổn. Tốt hơn là làm việc ở McDonald với mùi khói và dầu mỡ ám đầy tóc.” Ông ta ngả người về phía bàn, các ngón tay đan lại với nhau. “Trông anh có vẻ là một người thạo đời, anh Davenport. Nếu anh mà mở miệng nói về chuyện này, sẽ có hàng tít lớn đề Ông Davenport giao cấu với trẻ mười lăm tuổi và hàng tít nhỏ đề Xác nhận hành vi tham nhũng của nhân viên công vụ. Anh nghĩ dân tình sẽ quan tâm đến hàng tít nào? Anh nghĩ vợ anh sẽ quan tâm đến hàng tít nào khi Triste đứng dậy tại chỗ ngồi của nhân chứng và mọi người nhìn thấy cặp ngực ấy?”
Lucas nói: “Được rồi. Các người đã có năm nghìn trong túi, tôi sẽ nạp thêm hai nghìn nữa vào thẻ Amex, nhưng tôi chỉ gửi ông thêm hai mươi nghìn nữa. Thế thôi.”
“Anh thích mặc cả với tôi phải không?” Tay cảnh sát trưởng hỏi với nụ cười rắn độc khi trước. “Bởi vì anh chẳng ở vị thế nào để…”
Cánh cửa văn phòng bật mở và tay cảnh sát vừa dẫn Triste đi chạy lại vào phòng. Mặt hắn nhễ nhại mồ hôi, và có thể là cả sự hối tiếc. Tay cảnh sát trưởng ngừng lại để nói: “Gì đấy…?”
Tay cảnh sát ngoái đầu lại nhìn ra phía sau, rồi một khẩu súng ngắn bán tự động màu xám đậm thò qua tai hắn, chĩa vào đầu Todd; tay cảnh sát loạng choạng lùi lại. Một người đàn ông trong bộ vét xanh lam với một bộ ria xám rộng xông vào và nói: “Todd, tôi không muốn phải nói với cậu đến hai lần, nhưng nếu cậu mà cử động tay về chỗ để súng của mình, tôi sẽ thổi bay bộ não của cậu ra khắp văn phòng của bố cậu đấy.”
Viên cảnh sát trưởng lùi ra khỏi bàn, khuôn mặt hiện vẻ căng thẳng. Ông ta biết mình đã bị chiếu tướng, nhưng vẫn hỏi: “Mày là thằng nào? Mày là thằng chó chết nào?”
“Sĩ quan Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ James Duffy, Khu Đông Missouri. Các người đã bị bắt. Chúng tôi có một danh sách kết tội dààààààài đây, chúng tôi sẽ đọc chúng cho các người khi chúng ta trên đường về St. Louis. Harry? Anh có muốn vào đây, còng tay mấy vị này không?”
Một người đàn ông khác len qua chỗ khẩu súng vẫn đang chĩa vào đầu Todd. Người thứ hai, tên là Harry, nói trực tiếp với Lucas: “Thực sự Turner không ngu ngốc đến độ cho tiền vào túi hắn, phải không?”
“Có, hắn ngu đến mức ấy đấy, còn Todd thì cho đồng hồ vào túi mình.” Lucas nói. “Tôi muốn tháo cái dây nghe lén chết tiệt ra khỏi mình. Lưng tôi ngứa như lửa đốt vậy.”
“Ngoài cái đấy ra thì anh ổn chứ?” Duffy hỏi.
“Ừ. Todd đánh tôi vài lần nhưng chưa bao giờ chạm vào đám dây. Chủ yếu là tôi lo rằng có ai đó thấy tôi xả đống tấm lót cốc margarita xuống bệ xí trong phòng gà trống thôi.”
Sĩ quan tư pháp thứ hai còng tay Todd ra sau lưng và rồi nói với tay Cảnh sát trưởng: “Đứng lên nào, ông Turner.” “Là Cảnh sát trưởng Turner…”
“Không còn nữa đâu.” Sĩ quan cảnh sát tư pháp nói.
Todd bắt đầu khóc, đôi vai rộng của hắn rung lên trong bộ đồng phục cảnh sát; hắn nhìn sang Lucas và nói: “Đồ khốn kiếp.”
“Là Sĩ quan Cảnh sát Tư pháp khốn kiếp, với anh là thế, Todd ạ.” Lucas đáp.
Cảnh sát Tư pháp St. Louis bắt giữ sáu người – tay cảnh sát trưởng, bốn tay sĩ quan cảnh sát và Shirley McDonald. Họ sẽ quay lại sau đó để tìm một thẩm phán bang.
Sau khi họ còng tay Shirley, cô ả bắt đầu mở miệng nói về việc bị ép buộc bởi cha con nhà Turner, và vẫn không ngừng lại khi họ đưa cô lên một xe công vụ liên bang và lái về phía Bắc. “Bọn nhà Turner chó chết đó bắt tôi làm vậy. Todd và Scott cũng bắt tôi thỏa mãn chúng nó bằng miệng. Hỏi chúng về điều đó đi. Tôi mới mười lăm tuổi…”
Mọi thứ tạo ra một cuộc ghi âm thú vị, và bởi vì các nhân viên Cảnh sát Tư pháp đã đọc cho cô ả về quyền lợi của mình đến sáu lần, nhưng cô ả vẫn nói, nên tất cả sẽ có giá trị trước tòa.
Trước khi vào xe, Lucas được xét nghiệm hơi thở, và kết quả là 0.01 BAC – bằng mức một người đàn ông tráng miệng bằng whiskey nửa tiếng trước khi xét nghiệm. Mà thực tế Lucas đã làm vậy. Mức này chứng tỏ không có chút suy giảm nhận thức nào, phòng trường hợp luật sư bào chữa có hỏi.
Vụ đánh án tại Cooter’s bắt đầu khi một thẩm phán liên bang góa vợ vướng phải cạm bẫy tương tự. Cha con Turner cho rằng lợi dụng quyền hạn thẩm phán của ông ta sẽ có lợi hơn là moi tiền. Họ đã lập một thỏa thuận: viên thẩm phán đồng ý cho chúng ba phán quyết, bất cứ phán quyết nào trong số đó có thể được coi là chính đáng, và sẽ không ai nói gì về vụ đi nhà nghỉ với gái trẻ. Ba phán quyết mà được dùng trong những vụ án doanh nghiệp phù hợp thì có thể có giá trị hàng triệu đô…
Nhưng chúng đã đánh giá sai vị thẩm phán. Ngay khi quay trở lại St. Louis, ông ấy đã liên lạc với công tố viên Liên bang và viết lời khai về vụ gài bẫy. Ông ấy thú nhận đã ở trong phòng một mình với một cô gái mà ông không biết bao nhiêu tuổi. Ông ấy nói rằng ông ấy đã nghĩ có thể cô ta đã mười chín hai mươi tuổi, nhưng không bào chữa gì thêm.
Hai ngày sau, văn phòng Cảnh sát Tư pháp St. Louis đã đi tìm kiếm một sĩ quan trông giàu có với một lý lịch tương đối ổn. Họ đã tìm thấy Lucas.
Năm người bị bắt giữ đi lên phía Bắc bằng xe công vụ liên bang, do hai sĩ quan cảnh sát tư pháp điều khiển và giám sát. Duffy, Phó Cảnh sát trưởng của Khu Đông Missouri, ngồi cùng Lucas, trong sự tiện nghi của chiếc xe Benz lớn.
“Chỉ phải mất một ngày để làm công việc giấy tờ, nhưng chúng tôi cần cậu quay lại để lấy các lời khai và các thủ tục cần thiết.” Duffy nói. “Chúng tôi lấy làm cảm kích rằng cậu đã xuống đây. Người của chúng tôi đã nhẵn mặt ở đây, bọn Turner kiểu gì cũng nhận ra họ. Dù sao thì cũng chẳng có ai trong chúng tôi có lớp vải ốp nội thất mượt mà như mấy tay giàu sụ thực sự các cậu có.”
“Chỉ là cái mã thôi mà.” Lucas nói. “Bên dưới cái mã đó, tôi cũng chỉ là một sĩ quan cảnh sát giản dị, không có gì ngoài ưa nhìn.”
Duffy khịt mũi và hỏi: “Lượng công việc của cậu thế nào?” “Tôi vẫn đang tìm.” Duffy biết về trường hợp của Lucas - một sĩ quan cảnh sát tư pháp làm việc tự do, gia nhập Cục Cảnh sát Tư pháp bằng ảnh hưởng chính trị thuần túy. Lucas được Michaela Bowden, ứng viên đảng Dân chủ cho vị trí Tổng thống Hoa Kỳ, thuê riêng để bảo vệ cho mình. Lucas đã giúp Bowden không bị tan xác tại Hội chợ Bang Iowa vào năm ngoái.
Anh đã làm cảnh sát tư pháp được ba tháng và trải qua kỳ huấn luyện ngắn hạn ở Arlington, Virginia, bên bờ kia sông Potomac đối diện với Washington D.C.; hầu hết những điều này không áp dụng với anh bởi vị thế đặc biệt của mình. Mặt khác, anh thực sự phải vục mặt vào núi giấy tờ.
“Cũng có mấy thứ thú vị ở đó, nhưng không hợp với sở thích của tôi.” Lucas nói với Duffy. “Tôi đang tìm thử thách. Thứ gì đó khác thường. Thứ gì đó mà tôi có thể bắt tay vào làm và làm ra tấm ra món.”
Duffy nói: “Hừm.” Ông ấy nhìn ra khung cảnh đồng quê ngoài cửa sổ, ẩm ướt, xanh mướt, chìm trong bóng tối. Một lúc sau, ông ấy hỏi: “Cậu đã bao giờ nghe đến một gã tên là Garvin Poole chưa?”
“Tôi nghĩ là chưa.” Lucas đáp.
“Chưa à? Thế thì để tôi kể về hắn.”
“Poole? Marvin?”
“Garvin. Gar là một gã trai làng đến từ Tennessee3. Có lẽ hắn đã giết mười hoặc mười lăm người vô tội, bao gồm một bé gái sáu tuổi, vừa mới tuần trước và một cảnh sát bang Mississippi trước đấy một thời gian, còn bọn trong giới tội phạm bọn chúng thì Chúa mới biết là bao nhiêu.” Duffy nói. “Hắn thông minh, dễ mến và đẹp mã. Hắn từng chơi ở một ban nhạc đồng quê khá được; nhưng hắn là một kẻ vô thần và vô lương tâm, chẳng có
chút nào luôn. Hắn có những người bạn có thể giết cậu chỉ với giá bằng một cái bánh mặt trăng4. Vài người thì nghĩ rằng hắn đã chết, nhưng không. Hắn ở ngoài kia ẩn nấp và cười vào mặt chúng ta. Đúng, đúng là thế.”
3 Bản gốc: good ol’ Tennessee boy, chỉ những thanh niên đậm chất thôn quê đến từ miền Nam Hoa Kỳ, những người này thích đi săn và sưu tập súng ống.
4 Bánh mặt trăng (Moon pie) là một loại bánh giống kiểu Choco Pie, bao gồm hai lớp bánh mềm kẹp một lớp nhân kẹo dẻo, và bên ngoài có lớp phủ, hiện được sản xuất ở Chattanooga, Tennessee.
3
M
argaret Trane, một nhân viên cảnh sát có thân hình chắc nịch, suýt thì va vào Lucas khi đang chạy ra ngoài tòa văn phòng liên bang trong lúc vội vã. Cô tóm lấy ve áo
khoác của anh và nói: “Chúa ơi, Davenport.” Cùng lúc khi Lucas nắm lấy đôi vai cô, giữ cô đứng thẳng và nói: “Bình tĩnh nào, Maggie.”
Cả hai đều lùi lại và cô nói: “Chào anh. Lâu rồi nhỉ. Có phải cô gái ở Missouri còn quá trẻ như họ nói?”
“Cô ả trẻ đấy, nói là mười lăm tuổi.” Lucas nói. “Hơi kinh khủng, cô hiểu ý tôi chứ?”
“Tôi hiểu.” Trane nói. Cô mỉm cười với anh – cả hai người họ luôn hòa hợp, kể cả khi Lucas là điều tra viên hàng đầu về tội phạm bạo lực của Minneapolis và cô thì mắc kẹt với các cuộc điều tra tại phân khu cảnh sát. Cả hai đều đã chuyển công tác, Trane thì về Phòng Điều tra Án mạng Minneapolis, còn Lucas về Cục Trấn áp tội phạm Minnesota và rồi là Cục Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ. “Tôi nghe nói nhiều chuyện trở nên căng thẳng hơn ở văn phòng cảnh sát tư pháp.”
“À, cũng bình thường thôi. Rồi cuối cùng mọi thứ sẽ được giải quyết thôi.” Lucas nói.
“Anh có Bowden đứng đằng sau và bà ấy sẽ thành Tổng thống. Anh nên tận dụng.”
“Tôi cố gắng không dựa dẫm vào điều đó quá nhiều.” Lucas nói. “Nhưng… ừ.”
“Nếu anh muốn nói chuyện với những cảnh sát thật sự, hãy ghé qua Phòng Điều tra Án mạng. Rất vui được đón tiếp anh.”
Họ tán gẫu thêm một lát, về gia đình con cái, rồi Trane nói cô phải đi, cô có một cuộc họp qua điện thoại về một gã gây án ở cả Minneapolis và Denver. Cô bước đi khỏi đó còn Lucas thì vào tòa văn phòng liên bang.
Cuộc nói chuyện với Trane làm anh vui lên. Do cái cách anh được bổ nhiệm vào Cục Cảnh sát Tư pháp nên anh không phải là người nổi tiếng nhất ở nơi này. Anh nhảy vào từ trên cao, một sĩ quan Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ ngồi ở văn phòng tại Minneapolis nhưng làm việc độc lập và không nhận lệnh từ bất cứ ai ở Minneapolis, dù đôi khi anh nhận được những lời đề nghị. Liên lạc trực tiếp nhất của anh là với một vị quan chức của cục ở Washington tên là Russell Forte. Anh và Forte chỉ gặp nhau rất ngắn ngủi, và đã từng cùng nhau ăn trưa, và Lucas có ấn tượng rằng Forte là kiểu công chức tuyệt nhất: hiệu quả, gắn kết, quan tâm đến kết quả hơn là phương thức hay phong cách.
Cho đến giờ, họ làm việc ăn ý với nhau.
Lucas có một văn phòng ở tầng bốn tại tòa văn phòng liên bang trông có–vẻ–hiện–đại của Minneapolis, dưới hành lang từ phía phòng cảnh sát tư pháp của Khu Minnesota và văn phòng các sĩ quan cảnh sát tư pháp khác. Sự sắp xếp này khá phức tạp và là một nguồn cơn ác cảm từ phía một số sĩ quan.
Ở Cục Cảnh sát Tư pháp có chín mươi tư khu tư pháp liên bang; ở mỗi phòng có một sĩ quan cảnh sát tư pháp được bổ nhiệm trực tiếp vào vị trí cao nhất. Họ, cũng như các thẩm phán liên bang, được tiến cử bởi Tổng thống, thường là theo gợi ý của một Thượng Nghị sĩ, và được phê chuẩn bởi Hạ viện. Dưới họ là các sĩ quan công vụ, bao gồm cảnh sát trưởng tư pháp; dưới người này, là các giám thị cảnh sát tư pháp; và dưới nữa, là các sĩ quan cảnh sát tư pháp thông thường.
Lucas đứng ngoài cái tôn ti trật tự quan liêu thông thường đó; và một vài người ở văn phòng Minneapolis nghĩ anh có thể là gián điệp. Gián điệp cho ai, thì anh không biết, nhưng tin đồn là như vậy.
Thêm nữa, còn có văn phòng riêng của Lucas, mà khi trước, cho tới gần đây, là một phòng kho không cửa sổ. Dù vậy, nó vẫn riêng tư. Sự bực bội của đồng nghiệp ở sở càng trở nên trầm trọng hơn với một thực tế là anh không phải chịu đựng những khắc nghiệt quan liêu như các sĩ quan khác, những giờ giấc làm việc tệ hại, những đầu việc nhảm nhí. Anh không dưới quyền ai ở đây, cũng không phải áp giải tù nhân.
Trên hết, bản thân anh vốn giàu có và đi làm bằng một chiếc xe thể thao đa dụng hiệu Mercedes–Benz hoặc một chiếc Porsche 911. Một thẩm phán liên bang mà anh quen đã gợi ý anh dùng một mẫu xe phổ thông, hàng nội địa, trông sẽ kín đáo hơn, cho đến khi anh trở nên quen thuộc hơn trong cục.
Lucas nói: “Mặc xác họ, quan tâm làm gì cho mệt.”
Vị thẩm phán nói: “Chưa biết ai là người bị mặc xác đâu, con trai ạ.”
Sự khó chịu không chỉ giới hạn trong mối quan hệ với các sĩ quan khác: Lucas đã muốn có một danh hiệu tốt sau khi rời Cục Trấn áp Tội phạm và đã nắm lấy ngay cơ hội đầu tiên mà anh có. Anh thực sự không để tâm lắm về sự cô lập tạm thời – anh nghĩ rằng điều đó sẽ dần dần biến mất theo thời gian – nhưng chính anh cũng ngạc nhiên với cảm giác rằng mình đang trượt khỏi quỹ đạo một cách trầm trọng.
Kể từ ngày đầu tiên làm cảnh sát ở Minneapolis, anh đã bắt tay vào việc hiểu thấu môi trường xung quanh mình. Cuối cùng anh nắm bắt được khu vực Minneapolis – St. Paul và danh sách đen ở khu vực này. Nếu ai đó nói với anh rằng một gã X chưa rõ danh tính đã ra tay sát hại một gã Y đã biết danh tính, thì
y ạ ộ g
thường anh sẽ biết một gã Z mà anh có thể hỏi chuyện, để bắt đầu điều tra từ đó.
Điều đó không tuyệt đối đúng, nhưng đủ đúng để mang đến cho anh một tỉ lệ phá án mà không ai ở sở có thể đạt được.
Khi anh chuyển đến Cục Trấn áp Tội phạm, một cơ quan cấp tiểu bang, anh đã phải vật lộn để có được sự thích nghi tương tự; nhưng lần này, là trên toàn bộ tiểu bang Minnesota. Anh không bao giờ cảm thấy thoải mái với vùng tiểu bang như hồi làm với khu vực thành phố, nhưng anh đã xoay sở được. Qua đó, anh đã phát triển một cơ sở dữ liệu của những tay chỉ điểm trong giới giang hồ mà từ họ, anh có thể thu thập được nhiều thông tin. Anh gọi điện, chúng sẽ đáp lời; nếu chúng có rắc rối riêng, Lucas sẽ có đôi lời với thẩm phán, miễn rằng đó chỉ là những rắc rối nho nhỏ.
Với sự giúp đỡ của các đặc vụ khác, cuối cùng anh lập lên một danh sách những kẻ chỉ điểm với ít nhất vài cái tên ở mỗi hạt của bang Minnesota; đối với các thành phố lớn, như Duluth hay Rochester, anh có cả một bản điểm danh đầy đủ. Trong cơ sở dữ liệu Lucas thêm vào vài chục cảnh sát tạo nên một mạng lưới những mối quan hệ cá nhân đủ chặt chẽ để anh có thể xin giúp đỡ vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ nơi nào trong tiểu bang.
Kể cả ở vị trí mới là sĩ quan cảnh sát tư pháp, anh vẫn nhận được những cuộc gọi của các đặc vụ Cục Trấn áp Tội phạm muốn được vào xem cơ sở dữ liệu của anh: “Anh biết người nào ở Alexandria có thông tin về kẹo1 được vận chuyển qua đây từ Canada không?”
1 Từ gốc: Chicle, trong tiếng Tây Ban Nha, đây là một chất để làm kẹo cao su, nhưng đồng thời cũng có nghĩa là heroin.
Ở Cục Cảnh sát Tư pháp thì lại không áp dụng cách đó được. Thẩm quyền của anh là cả Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, bao gồm
nhiều lãnh thổ. Không tài nào hiểu thấu đáo được, bằng bất cứ cách thức thực tế nào: anh đã rơi vào một bãi lầy. Anh có thể gọi giúp đỡ từ Cục Điều tra Liên bang FBI, từ Lực lượng Chống ma túy DEA, từ Tuần tra Biên giới, tất cả các cơ quan có tên viết tắt bằng các chữ cái đang thực thi luật pháp của quốc gia, nhưng anh không biết cụ thể phải gặp ai. Anh không thể trông chờ vào họ – họ chỉ là những tiếng nói từ phía đầu dây bên kia của một cú điện thoại di động, và sẽ chạy quanh để giúp đỡ anh nếu họ rảnh. Anh không biết ai là kẻ xấu, hay ai là kẻ xấu nhất.
Anh, như Weather - vợ anh, đã nói, đang ở ngoài kia trong sự cô đơn.
Và anh không hiểu chữ “ngoài kia”.
Hal Oder, sĩ quan cảnh sát tư pháp của khu, ngứa mắt với cái vị thế độc lập của Lucas. Lucas không nhận lệnh hay phân công từ Oder; còn với Oder, trông anh như là một mối đe dọa trong công việc. Điều đó không dịu đi, dù Lucas đã nói rõ rằng anh không quan tâm chút nào đến công việc của Oder.
“Tôi ghét đống hổ lốn mà ông phải chịu đựng.” Lucas nói với ông ta. “Tôi sẽ không làm đâu. Tôi sẽ nghỉ việc trước. Những gì tôi muốn là đi săn. Những trò quan liêu vớ vẩn là lí do tại sao tôi bỏ việc ở Trấn áp Tội phạm.”
“Chỉ đi săn?” “Đúng vậy.”
“Nếu anh làm hỏng chuyện và dính kỉ luật, điều đó sẽ làm cho văn phòng này bị liên lụy.” Oder nói.
“Có thể tôi làm hỏng, nhưng nếu vậy, tôi sẽ nói rõ rằng không có liên quan gì đến ông và văn phòng của ông, rằng người của tôi đang ở Washington, không phải ở Minnesota.” Lucas nói.
“Ai là người liên lạc của anh ở Washington?” “Russell Forte.” Lucas nói.
“Tôi không biết hắn.” Oder nói. “Anh có chắc hắn sẽ vui vẻ nhận trách nhiệm nếu anh làm hỏng chuyện chứ?”
“Thì, anh ta là một quan chức. Ông biết rõ hơn tôi về khả năng liệu anh ta có nhận lỗi hay không.”
Oder đang gõ bút chì lên một cuốn sổ ghi chép. Ông ta ngẫm nghĩ về lời của Lucas rồi nói: “Lucas này, tôi biết chuyện gì đã xảy ra khi anh thôi việc ở bên Trấn áp Tội phạm, và tôi cũng cập nhật về chuyện xảy ra ở Iowa. Anh cứu mạng bà Bowden và anh nhận được khen thưởng nhờ chiến công đó. Theo như tình hình hiện nay thì bà ấy sẽ trở thành Tổng thống và tôi không muốn cãi nhau với một người bạn của Bowden. Nhưng tôi cảm thấy mình bị mắc kẹt ở giữa. Tôi không muốn bị khiển trách bởi những chuyện không phải do tôi làm. Nhưng khi anh mắc sai lầm, và anh sẽ thế, bởi đó là điều không thể tránh khỏi trong công việc, thì tôi sẽ phải nhận trách nhiệm. Tôi ghét điều đó.”
“Tôi sẽ không trở thành vấn đề.” Lucas hứa. “Ông sẽ gần như không bao giờ thấy tôi ở quanh chỗ này.”
Oder có vẻ như đã chấp nhận điều đó; nhưng, theo kiểu của các quan chức, ông ta để cho mọi người biết rằng Davenport không thực sự là một trong số chúng ta.
Trong một cố gắng để xoa dịu tình hình hơn nữa, Lucas đã thân thiện đề nghị hợp tác trong những tình huống phát sinh do văn phòng Cảnh sát Tư pháp Minnesota luôn thiếu nhân lực. Và đó là lí do tại sao anh bị chú ý như một gã giàu có ở Missouri.
Lucas và một sĩ quan khác cũng đã truy đuổi một gã biển thủ tiền quỹ, kẻ đã phớt lờ lệnh triệu tập của tòa liên bang Minneapolis rồi lập một danh tính mới và kiếm một ngôi nhà mới ở Idaho. Tuy nhiên sau đó, Lucas và đồng sự đã thu hồi được một lượng tiền biển thủ từ một két ký gửi an toàn ở Idaho. Cái kết đó làm cho tất cả mọi người đều vui vẻ.
Với cơ sở dữ liệu Minnesota của mình, anh giúp xác định vị trí một gã nhà quê lỗ mãng, một kẻ khinh thường luật pháp liên bang về động vật hoang dã; hắn đã quyết định tiêu diệt chó sói và đại bàng ở trong những khu hắn thích. Hắn bị Cục Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ tóm, nhưng đã chịu mất hai nghìn năm trăm đô tiền phạt thay vì xuất hiện tại phiên xét xử của tòa án liên bang.
Hắn “nổ” với các bạn mình rằng bọn đặc vụ liên bang muốn tóm được hắn thì phải bước qua xác hắn; chừng nào khẩu súng trường còn trong tay, hắn sẵn sàng tặng một viên kẹo đồng cho đám công tố viên Hoa Kỳ. Không lâu sau, Lucas và hai sĩ quan khác đã lôi cổ hắn ra khỏi một quán rượu ở Grand Marais, khi miệng vẫn đang khóc lóc nói về những quyền lợi của mình.
Đó là những vụ bắt giữ hay ho… nhưng chưa phải thứ mà Lucas đang tìm kiếm.
Cho tới giờ, anh đã làm việc mẫn cán đến mức mà anh và Carl Meadows, Phó Cảnh sát trưởng Tư pháp, bắt đầu thi thoảng ăn trưa cùng nhau.
Một ngày sau khi quay trở lại từ St. Louis, một ngày thứ Hai mùa thu trong trẻo và mát lành ở Minneapolis, anh cùng Meadows đi bộ và mua xúc xích ở các xe bán đồ ăn nhanh trên Đại lộ Số 2. Lucas kể với ông ấy về vụ đánh án ở Missouri.
“Mọi thứ đều tốt.” Meadows nói, khi Lucas kể xong. “Nhưng anh đã tìm thấy thứ gì khác để bắt tay vào chưa? Anh đã ngồi không được một thời gian rồi.”
“Tôi biết, nhưng có thể giờ tôi có thứ gì đó rồi.” Lucas nói. “Ông đã từng nghe đến một gã tên là Garvin Poole?”
Meadows cau mày và nhìn xuống cây xúc xích của mình, như thể nó đang giữ câu trả lời. “Cái tên đó nghe quen đấy, lâu rồi, nhưng tôi không nhớ là khi nào. Một gã người miền Nam? Có
phải hắn ở trong danh sách Mười lăm tội phạm truy nã hàng đầu của chúng ta một thời gian?”
“Đúng vậy. Mọi thứ tôi biết đều từ buổi nói chuyện với
Jim Duffy ở St. Louis và những gì tôi lôi ra được từ những ghi chép trên mạng trong sáng nay. Poole là một tên cướp có vũ trang kiểu cũ ở vùng Đông Nam – Georgia, Nam Carolina, Alabama, Mississippi, Bắc Florida. Hắn sinh ra ở Tennessee, nhưng không hoạt động nhiều ở đó, ít nhất là không như vậy sau khi hắn ngồi tù bốn năm ở Tennessee. Năm năm trước hắn biến mất. Người ta lờ mờ nhận ra và nghi vấn hắn xuất hiện trong một vụ cướp xe chở tiền bọc thép ở Chattanooga, tuy nhiên chưa đủ căn cứ chắc chắn; và sau đó thì không có gì nữa. Rất nhiều đồng phạm của hắn đã bị bắt và thẩm vấn, nhưng tất cả đều đồng tình rằng hắn đã biến mất. Biến đi đâu thì càng không ai biết. Nhiều người nghĩ hắn đã chết. Và rồi, mười ngày trước, một nhà kiểm tiền ma túy ở Biloxi bị đột kích. Những tên trộm đã giết năm người, bao gồm một bé gái sáu tuổi.”
“Ừ, Chúa ơi, tôi có nghe chuyện đó. Tởm thật.” Meadows nói. “Dường như một trong số các nạn nhân đã bắn trả một phát trước khi bị giết.” Lucas nói. “Nhân viên khám nghiệm hiện trường tìm thấy vài giọt máu, truy theo ngân hàng dữ liệu ADN và tìm được một kết quả khớp – họ nghĩ đó là Poole.”
“Nghĩ? Đáng lẽ ra xét nghiệm ADN phải chắc chắn.” Meadows nói.
“Lần này thì không.” Lucas nói. “Kết quả ADN khớp đến từ vụ cướp xe chở tiền ở Chattanooga. Chiếc xe tải có những máy ghi hình lắp bên trong mà bọn cướp không lấy được. Đoạn phim cho thấy một tên cướp trong số chúng bị va cánh tay vào khung cửa xe khi hắn trèo ra với một túi tiền. Họ tìm được vài mảng da từ khung cửa và chạy xét nghiệm ADN. Họ không thu được kết quả khớp, nhưng tin rằng đó là Poole nhờ vào các căn cứ về chiều
cao, hình thể và phương thức thực hiện vụ cướp. Hắn che mặt và đeo găng tay nên không có dấu tay, không có nhân dạng xác định. Cả hai lái xe đều bị bắn đến chết với súng ngắn cỡ đạn .40, như cách năm người ở Biloxi bị giết. Poole thích những khẩu Glock dùng đạn .40”
“Cùng loại mà chúng ta được biên chế.”
“Vâng. Thực ra thì, các ông thôi.” Lucas mang khẩu .45 của riêng mình, như thế là vi phạm quy định, nhưng chẳng có ai rảnh mà đi bóc mẽ anh về chuyện đó.
“Có lệnh tòa liên bang nào về hắn không?” Meadows hỏi. “Vài cái từ lâu, nhưng còn dùng được. Chín năm trước, hắn và một gã tên là Charles Trevino cướp một xe chở thư ngoài St. Petersburg.” Lucas nói. “Chiếc xe đang chở một đống túi thư có đăng ký sau một hội nghị các nhà sưu tập tem. Trevino bị bắt sau đó một năm khi hắn cố gắng bán đi một số tem. Hắn khai Poole là đồng phạm, và rằng có một gã thứ ba nữa, mà hắn không quen biết, là người thực hiện việc nghiên cứu và sắp đặt. Công tố viên đã trình lên một bản cáo trạng về Poole và một lệnh tòa được đưa ra, nhưng kể từ đó chưa ai tóm được hắn.”
“Nghe như là một kẻ thông minh làm việc với những kẻ thông minh khác, nếu chúng phát hiện ra được một chiếc xe thư riêng biệt chở đầy tem cổ.” Meadows nói.
“Dường như hắn là kẻ thông minh, bên cạnh hình tượng kẻ– giết–người–máu–lạnh.” Lucas nói. “Điều đó thôi thúc tôi làm vụ này và trừng trị hắn. Điều đó và chuyện bé gái.”
“Cậu có một đứa con gái, phải không?” Meadows hỏi.
“Ba đứa.” Lucas nói. “Một đã vào đại học, một chuẩn bị vào, một đứa năm tuổi và tôi còn một cậu con trai nữa.”
“Ừ. Có sự thay đổi về hướng điều tra.” Meadows nói. “Cậu có nghe chuyện cô Sandy Park bị một gã đi xe đạp tông trúng?” Sandra Park là một sĩ quan cảnh sát tư pháp khác. Lucas có gật đầu chào cô ấy ở hành lang.
“Gì cơ? Một chiếc xe đạp?”
“Ừ. Thằng khốn ngồi trên một trong những chiếc xe đạp leo núi lốp to, lao từ trên đồi xuống, phi qua một biển báo dừng lại. Sandy đang đi bộ và bị va chạm từ phía bên hông. Dù sao thì, cô ấy không bị đau nặng, nhưng một mắt cá chân và đầu gối bị chấn thương. Cô ấy sẽ không thể đi lại trong vài tuần. Tuy nhiên cô ấy thông thạo máy tính. Nếu cậu cần hỗ trợ thì cô ấy biết mọi hệ thống máy tính của cảnh sát từ trong ra ngoài. Tôi có thể bảo cô ấy ưu tiên các câu hỏi của cậu… nếu cậu cần.” Meadows nói.
“Xin cảm ơn.” Lucas nói. “Tôi sẽ nói chuyện với cô ấy chiều nay.” “Tôi sẽ đánh tiếng cô ấy trước.”
Lucas nói chuyện với Park và thấy mình rũ bớt được thêm chút khó khăn trắc trở. Lucas nhờ Park làm công việc thư ký, nhưng không phải vì cô là phụ nữ, mà bởi vì Lucas không biết cách làm, cô có kinh nghiệm mà anh không có, và cô đang làm việc khi bị thương, và bởi vì vân vân và vân vân.
Khó khăn được xoa dịu, Lucas yêu cầu cô vét hết mọi thứ có thể tìm thấy về Poole trong các hệ thống máy tính liên bang. Park nói cô sẽ thực hiện, và sẽ có một chồng giấy và một USB đầy dữ liệu vào ngày hôm sau.
Tối hôm đó, Lucas kể với Weather về Poole.
“Hắn là một tên bất lương kiểu cũ. Súng đạn và cướp có vũ trang, xe chở tiền và ngân hàng hoặc bất cứ nơi nào có tiền mặt – hắn thích tiền mặt. Hắn từng cướp phòng vé của một buổi
trình diễn nhạc đồng quê một lần. Không hề do dự gì khi ra tay sát hại người khác. Không làm gì liên quan đến công nghệ cao.”
Anh kể cho cô nghe về cô bé bị giết ở Biloxi, cô lắc đầu: “Thật dã man.”
“Ừ.” Cả hai đều nhìn về phía cô con gái Gabrielle, đang ngồi ở chiếc ghế trong góc và đọc cuốn sách tập đọc với sự tập trung cao độ, không chú ý đến bố mẹ.
“Anh có thể đi xa thành phố một thời gian.” Weather nói. Cả hai đang ngồi trên chiếc ghế sôpha ở phòng trước, đầu cô tựa vai anh. Weather là một người phụ nữ dáng người thấp, một nhà phẫu thuật thẩm mỹ. Xinh đẹp, với đôi mắt đẹp và chiếc mũi mà cô thì tưởng là quá to trong khi Lucas nghĩ rằng nó ấn tượng.
“Có thể thế – không lâu hơn so với thời gian anh phải dành ra, nhưng có thể là vài tuần. Anh không nghĩ là mất đến một tháng. Có thể anh sẽ lái xe, thay vì đi máy bay.” Lucas nói. Anh đứng dậy và đi đi lại lại trong phòng khách, nhìn vào những cuốn sách, đặt chúng xuống, nghĩ về điều đó.
“Nhưng đó không phải là nơi quen thuộc đối với anh.” Cô nói. “Miền Nam khác ở đây rất nhiều.”
“Anh biết.”
“Anh nghĩ vụ này thực sự đáng dấn thân à?” Cô hỏi.
“Một gã đủ xấu xa… quá đủ để anh dấn thân. Poole là kẻ xấu, và chưa có ai động được đến hắn.” “Một thử thách.” Cô nói.
“Chính xác.”
Weather nói: “Em không thích chuyện anh phiêu lưu quá nhiều, nhưng còn hơn là anh ngồi lê la quanh đây, ủ ê. Nhàn cư vi bất thiện mà.”
Lucas gật đầu: “Anh sẽ thành như vậy nếu anh không làm công việc mà anh nên làm.”
“Đi săn.” “Đúng vậy.”
Sáng hôm sau, Lucas gọi điện cho Russell Forte để kể về những gì mà anh đang lên kế hoạch thực hiện. Forte làm việc ở Bộ chỉ huy Cục Cảnh sát Tư pháp ở Virginia, ở bờ bên kia sông Potomac, đối diện Washington D.C.
“Tôi nhớ cái tên Poole.” Forte nói. “Hắn ở trong Danh sách Mười lăm tội phạm truy nã hàng đầu của chúng ta trong một thời gian dài. Chúng tôi để hắn chìm đi vì không có manh mối. Nếu anh tìm được hắn, đó sẽ là một thành tích đáng tự hào cho anh và cho tất cả chúng ta. Đừng cố gắng tự mình hạ hắn. Hắn là một tên giết người. Ngay khi có được manh mối đầu tiên, hãy gọi cho tôi và chúng tôi sẽ bố trí một nhóm từ Đội Đặc nhiệm cho anh.”
“Tôi sẽ làm thế.” Lucas nói.
Sau đó, ở văn phòng liên bang, anh thấy Park đứng bên cạnh máy in, đặt thứ gì đó giống một chồng giấy vào giữa hai tờ bìa cứng. “Còn nữa.” Cô nói. “Cho đến giờ thì đây là những thứ hay ho. Tôi đọc qua chúng trong lúc đang đào bới, và Lucas ạ, tôi sẽ kể cho anh rằng Poole khi xưa là một đứa trẻ xấu tính, và hắn chẳng hề thay đổi. Bố hắn thi thoảng làm việc cho bang Tennessee, những công việc cấp thấp khác nhau, nhưng ông ta cũng là một gã bất lương hạng xoàng. Bị bắt vì phe vé, một lần vì bán giấy phép lái xe ra ngoài Sở Quản lý Cơ giới – nơi ông ta làm việc, nhưng được tha bổng khỏi tội danh đó và được lấy lại công việc. Bị bắt vài lần do buôn bán hàng ăn trộm, nhưng chưa bao giờ bị kết tội. Em gái của hắn được cho là đã một lần chôm cả một xe chở đầy lốp đua, nhưng những lời kết tội được hủy bỏ, không thấy ghi vì sao. Garvin đi lên từ nền tảng đó, nhưng không phải nền tảng của một gia đình tử tế.”
“Bố mẹ hắn còn sống chứ?” Lucas hỏi.
“Chịu, nhưng tôi nghĩ là có. Poole mới bốn mươi hai tuổi, nếu hắn còn chưa chết.” Park nói. “Tôi có thể tìm ra.”
“Cô làm đi và in tất cả ra.” Lucas nói. “Nếu có gì về bố mẹ hoặc anh chị em, tôi muốn thông tin đó. Các hồ sơ về bạn bè, bạn gái, mọi thứ.”
Park vuốt ve chiếc máy in Xerox: “Tôi sẽ làm, miễn là cái máy này không lăn đùng ra hỏng.”
Khi Park hoàn thành công việc, cô đưa Lucas vài chồng giấy phải nặng đến gần năm cân. Lucas mang về nhà và chui vào phòng làm việc của mình để đọc.
Đầu tiên là những bức ảnh hiện trường vụ án ở Biloxi. Lucas đã xem hàng nghìn bức ảnh hiện trường vụ án trong suốt sự nghiệp của mình, và những bức này chẳng là gì so với những thứ tệ nhất. Cả năm nạn nhân đều bị bắn vào đầu và chết ngay lập tức. Một trong số đó, đứa bé gái, nhìn giống như một con búp bê đồ chơi bằng nhựa, nằm xòe tay chân trên nền bê tông, mặt ngửa lên trời, trên trán có một lỗ đạn trông như con mắt thứ ba. Cô bé mặc váy trắng thêu ren, che quá đầu gối. Lucas đã xem rất nhiều ảnh chụp trẻ con chết: anh liếc nhanh vào bức ảnh, rồi chuyển sang bức kế tiếp.
Thế nhưng…
Anh cứ quay lại bức ảnh đó. Cô bé có mối quan hệ về di truyền với một trong số các nạn nhân còn lại trong nhà kiểm tiền, một người đàn ông cao tuổi hơn nhiều – phân tích ADN cho thấy cô bé là cháu gái của người này. Người ông có thể là một tên khốn buôn ma túy, nhưng cô bé thì không. Trong bức ảnh, cô bé nằm ngửa, đôi mắt khép nửa. Chúng vẫn ánh lên vẻ ngây thơ và nỗi ngạc nhiên rằng sao cuộc sống của chúng kết thúc sớm vậy.
Bộ váy cũng có đóng góp điều gì đó. Nó nhắc Lucas nhớ tới những bộ váy của các học sinh trường Dòng, những bé gái đi Rước lễ Lần đầu. Các nhân viên hiện trường tìm thấy một vết máu trên bộ váy, tại vị trí mà ai đó, hẳn là một trong những tên sát nhân, đã xé một miếng, có thể là dùng làm băng cứu thương.
Cô bé trên sàn nhà bắt đầu tác động đến anh. Anh gọi điện xuống Biloxi, thấy rằng không có ai đến nhận những cái xác. “Chúng tôi không thực sự mong đợi rằng ai đó sẽ xuất hiện và nói: Vâng, tôi quen biết mấy người buôn ma túy kia, chúng tôi muốn dành cho họ một buổi tang lễ tử tế tại nhà thờ.”
Giờ Lucas bắt đầu cảm thấy thứ gì đó như một dấu hiệu riêng: hiểu tâm lý kẻ đã giết chết cô bé này. Hắn không nhất thiết phải làm thế, nhưng hắn vẫn làm. Tại sao? Có thể là tính hiệu quả đơn giản, có thể là cô bé đã thấy mặt hắn và sẽ có khả năng nhận diện được hắn, cũng có thể bởi tay súng ấy hoặc những tay súng ấy chỉ đơn giản là thích giết người.
Cùng lúc, mặc cho những tia sáng giận dữ đang lớn dần lên, một dòng suy nghĩ theo thói quen nghiệp vụ cảnh sát phá ngang dòng cảm xúc của anh. Lucas nghĩ, bắn giỏi lắm. Kẻ giết người, dù là Poole hay ai khác, là một tay chuyên nghiệp – hiệu quả, gọn ghẽ, được rèn luyện tốt, tàn nhẫn.
Lucas gạt những bức ảnh sang bên, trừ tấm hình của cô bé. Anh ngả lưng trên ghế ở bàn làm việc, nhìn nó trong một hai phút nữa, rồi lia nó vào tập ảnh. Những bức ảnh và các báo cáo điều tra chẳng cho anh biết thêm gì nhiều, có thể bởi vì chẳng có nhiều thứ để kể, ngoài những gì anh có thể tự mình nhìn thấy.
Văn phòng Điều tra bang Mississippi (MBI) đã xử lý phần lớn khối lượng công việc một cách khá chuyên nghiệp. Khi Lucas đọc xong các báo cáo, anh gọi cho người đặc vụ MBI đã ký chúng. Mất vài phút để được chuyển tiếp qua hệ thống điện
thoại của MBI, rồi Elroy Martin nhấc máy và nói: “Tôi Martin đây.”
Lucas tự giới thiệu mình và nói: “Tôi đang xem xét vụ này bởi vì tình trạng đào tẩu cấp liên bang của hắn. Tôi đã có mọi báo cáo của anh, trừ phi nếu có gì mới từ ngày hôm qua.”
“Không có gì thêm đâu.” Martin nói. “Thế anh nghĩ sao?”
“Nếu anh có thể tìm thấy Poole, dấu vết ADN sẽ vạch tội hắn. Tôi lạc quan về điều đó. Vấn đề là làm thế nào để tìm được hắn. Người ta đã săn lùng hắn trong nhiều năm. Những người tốt. Những người biết họ đang làm gì.”
“Ghi chép của anh nói rằng anh không nghĩ hắn ta thực hiện vụ Biloxi một mình.”
“Đúng vậy. Chúng tôi không biết có bao nhiêu đồng phạm, nhưng tôi không tin là có ít hơn hai hoặc ba tên. Năm người chết bị giết bởi hai khẩu súng khác nhau, đều cỡ đạn .40. Tất cả đầu đạn và vỏ đạn đều từ cùng một lô, và đều được nạp lại thuốc súng. Có thể là hai tay súng chia nhau dùng một lô đạn, nhưng, anh biết đấy…”
“Có thể không.”
“Ừ. Có thể là không. Ai thực hiện vụ này phải tìm ra được nhà kiểm tiền ma túy đó – phải như vậy – và chúng tôi không nghĩ rằng đó là Poole. Chúng tôi cho rằng đó có thể là một kẻ biết về nhà kiểm tiền từ những mối quan hệ trong đường dây ma túy, có thể bởi vì hắn sống quanh đây, ở Biloxi.” Martin nói. “Có thể đó là một gã chỉ điểm chuyên nghiệp, một gã sắp xếp kế hoạch. Một tay tham mưu. Chúng tôi biết hắn đã dùng một tay tham mưu trong vụ cướp tem thư trước đó. Chúng tôi không nghĩ Poole sẽ mó tay vào bất cứ thứ gì ở nơi mà hắn sống, bởi vì hắn biết là chúng tôi nắm rất rõ khu vực đó. Chúng tôi nghĩ hắn
tham gia với vai trò tay súng. Tuy vậy, chúng tôi không biết được ai là kẻ chỉ điểm.”
“Có thể là một kẻ trong băng đảng muốn phần chia của hắn được nhiều hơn?”
“Chúng tôi cũng đã bàn về điều đó nhưng nếu thế thì cần gì phải lôi Poole vào? Thứ ma túy ở Biloxi đó đi vào thông qua một băng đảng Honduras, một đường dây hoạt động chuyên nghiệp thực thụ.” Martin nói. “Nếu anh ở trong băng đảng đó, anh sẽ quen biết nhiều gã có súng, nhưng anh sẽ không biết Poole. Poole không phải là một kẻ chơi với ma túy, hắn là một thành viên của Dixie Hicks. Một kẻ xấu xa kiểu khác hoàn toàn. Chúng thực sự không có điểm chung với nhau.”
“Hừm. Nếu chúng ta có thể tìm ra gã chỉ điểm, đó sẽ là một bước tiến lớn.” Lucas nói.
“Đúng, chính thế, hiện chúng tôi còn chưa có đầu mối gì cả.” Martin nói. “Nhưng chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để tóm được Poole. Chúng tôi nghĩ hắn đã ra tay hạ một người của chúng tôi vài năm trước.”
“Tôi thấy rồi.”
Họ thảo luận thêm vài phút nữa, nhưng Lucas có cảm giác rằng hướng điều tra ở Mississippi đang bế tắc. Anh cảm ơn Martin và quay lại với giấy tờ trên bàn.
Lần đầu tiên Poole vướng vòng lao lý vào năm mười một tuổi, sau một vụ đánh nhau ở sân trường. Khác với các vụ đánh nhau ở sân trường khác, đây không phải là hai cú đấm với việc kẻ bại trận thề sẽ xử được kẻ kia. Poole đã hạ được kẻ bại trận, rồi đá liên tiếp vào mặt, mạng sườn và lưng của đối thủ, cho đến khi một giáo viên lôi hắn ra. Kẻ bại trận phải vào viện trên xe cứu thương.
Không có thêm trận đánh nhau nào nữa cho đến trung học. Khi đó, chỉ có một trận với kết quả tương tự: kẻ bại trận phải vào viện. Một nhân chứng nói tại phiên tòa xét xử vị thành niên rằng Poole “tâm thần”. Poole, từng là trung vệ ở đội bóng bầu dục trung học cơ sở và năm nhất trung học phổ thông, đã bị đuổi học.
Vài tuần sau, hắn cướp một tiệm giặt khô với một khẩu súng lục đồ chơi. Tiệm giặt khô có nhiều tiền mặt và không có chút biện pháp bảo vệ nào: Poole đã không nhắm đến một nơi có thể có cách đối phó với hắn, như cửa hàng rượu hay cửa hàng tiện lợi.
Vụ cướp cũng chỉ ra sự thiếu kinh nghiệm tuổi trẻ của hắn.
Dù hắn đã chọn một cửa hàng cách nhà rất xa về phía Bắc tại ngoại ô Nashville, hắn lại không cảnh giác với những máy ghi hình; hai chiếc máy quay được lắp tại cửa hàng Dunkin’ Donuts1 trong cùng khu trung tâm mua sắm và đã quay được khuôn mặt của Poole.
1 Dunkin’ Donuts là chuỗi cửa hàng bán bánh kếp dày vòng và cà phê của Mỹ.
Gương mặt non choẹt của hắn trong những bức ảnh chụp của cảnh sát gửi đến các trường trung học; người ta đã bắt giữ Poole vào ngay hôm mà hắn ăn cắp, hầu hết số tiền vẫn còn trong túi. Hắn được gửi tới Trung tâm Phát triển Thanh thiếu niên Mountain View, nơi hắn dành chín tháng làm việc trong xưởng gỗ và trò chuyện với các tội phạm vị thành niên khác về cách tốt nhất để tiếp tục sống với cuộc đời tội lỗi.
Ba năm sau khi được thả, hắn bị bắt lần nữa sau khi cùng với hai kẻ khác mò qua mái nhà vào một phòng vé tại nơi tổ chức biểu diễn nhạc đồng quê và cướp nó. Chúng tẩu thoát cùng với một trăm mười nghìn đô, nhưng một trong số những kẻ tham gia,
Boyd Harper, có một cô bạn gái giận dữ tên Rhetta Ann Joyce, người đã tố cáo Harper cho cảnh sát.
Cô ta đã làm thế sau khi biết rằng Harper đã tiêu ba mươi nghìn đô, gần như toàn bộ phần chia của hắn từ số tiền cướp được tại buổi biểu diễn nhạc đồng quê, vào ma túy và gái điếm, trong khi cô ta không được miếng nào. Tuy nhiên, cô ta đã mắc bệnh lậu thể nặng, lây từ một trong các cô ả điếm, khác với những gì mà Harper đã cố gắng lươn lẹo với cô ta: hắn nhiễm lậu qua chỗ ngồi toa-lét.
Đến lượt mình, Harper tố cáo Poole và một đồng phạm tên Dave Adelstein để làm tình tiết giảm nhẹ tội và nhận một án tù ngắn hơn. Poole và Adelstein bóc lịch bốn năm ở nhà tù bang Tây Tennessee. Harper chỉ phải ở một năm và một ngày, tại trại cải tạo vùng Đông Nam Tennessee, nơi hắn học nghệ thuật nấu ăn. Hắn mới chỉ cải tạo được bốn tháng thì bị một kẻ lạ mặt cắm phần chuôi vuốt nhọn của một chiếc dĩa ăn vào tim. Poole và Adelstein không thể tự mình làm việc đó, nhưng cảnh sát bang Tennessee tin rằng chúng là người đứng sau qua một sự dàn xếp theo hợp đồng giữa các băng nhóm trong tù ở Tennessee.
Họ cũng tin rằng Poole và Adelstein, hoặc một trong hai, có thể có liên quan với cái chết của Rhetta Ann Joyce, người đã tự nhảy hoặc bị ném khỏi Cầu Đường sắt New River chỉ một tháng sau khi hai tên này được tha tù. Họ tin là cô ta bị ném xuống bởi chiếc dây thừng quấn quanh cổ.
Sợi dây thừng cũng có thể cho thấy một ý đồ tự sát nào đó, ngoại trừ vấn đề là các vụ tự tử hiếm khi sử dụng loại dây leo núi dài hàng ba chục mét. Cổ của Joyce va vào thòng lọng mạnh đến độ đầu cô ta đứt lìa ra. Cái đầu chỉ được tìm thấy hai tuần sau khi phát hiện cái xác, cách hẻm New River gần một cây số, khi nó dạt lên một bãi bồi.
Lucas, nhìn ảnh chụp hiện trường cái đầu của Joyce ở bờ sông, lẩm bẩm: “Thật là không ra sao.”
Poole đã không bị bắt lại lần nào nữa, nhưng lọt vào tầm ngắm của các nhà chức trách và lực lượng chấp pháp cấp liên bang với vai trò là kẻ khởi xướng của Dixie Hicks, một liên minh lỏng lẻo những gã cướp có vũ trang hoạt động ở vùng cực nam trong địa bàn các bang Liên minh miền Nam cũ.
MBI cũng tin rằng hắn đã ra tay sát hại một cảnh sát tuần tra cao tốc tên là Richard Wayne Coones. Anh ta bị bắn vào một đêm trên Quốc lộ 21 cô độc giữa Bogue Chitto và Shuqualak, Mississippi. Cảnh sát biết được tên hắn thông qua Al Jim Hudson, kẻ đã nói trong lời trăng trối cuối cùng trên giường bệnh rằng hắn đã ở trong xe khi Poole bắn Coones. Hudson chết không lâu sau đó bởi các chấn thương nội tạng hắn phải chịu trong khi chống đối sự bắt giữ.
Các đặc vụ tình báo FBI biết được từ một nguồn tin không được nêu tên trong các hồ sơ của Lucas rằng rốt cuộc Poole tích được số vàng trị giá hơn một triệu đô – có khi hơn thế rất nhiều – mà với số đó hắn định giải nghệ ở Mexico hoặc Belize. Cảnh sát ở cả Mexico và Belize chưa bao giờ thấy bóng dáng hắn, dù họ không thú nhận. Lucas không biết gì về cảnh sát ở Belize, nhưng anh đã gặp một sĩ quan tình báo cấp cao Mexico và bị ấn tượng. Nếu người Mexico không biết gì về Poole, có thể hắn không ở Mexico thật.
Rồi các tin đồn rộ lên rằng Poole đã bị sát hại bởi một đối thủ cạnh tranh tên là Ralph (Booger ) Baca. Theo nguồn tin, Baca ném xác Poole xuống đầm lầy Four Holes ở Nam Carolina, ở đó cái xác không bao giờ được tìm thấy. Vài tháng sau khi được cho là đã giết Poole, Baca chết trong một vụ tai nạn kỳ quặc khi hắn vặn chìa khóa khởi động chiếc xe máy Harley Davidson của mình và rồi bình xăng dung tích lớn Fat Bob nổ tung ngay vào
mặt hắn không rõ lí do, biến Baca thành một ngọn đuốc sống. Hắn vẫn còn thoi thóp, nhưng không được lâu.
Không ai còn nghe và nhìn thấy Poole nữa, cho đến vụ giết người ở Biloxi. Nếu chuyện đó thực sự là do Poole thực hiện.
Dù phải hay không phải, Lucas nghĩ, nhiều người đã chết xung quanh Poole, cả bạn bè và kẻ thù, gồm cả một bé gái gặp vận hạn khi ông mình là một tay buôn ma túy nữa. Nhưng nếu sự kết nối giữa kết quả ADN và đoạn ghi hình là chính xác thì Poole còn sống. Nói đúng hơn là chưa chết.
Trong khi đọc tiểu sử về Poole, Lucas tìm thấy một số ghi chú của một điều tra viên FBI đã nghỉ hưu tên là Rory Pratt. Lucas có được số điện thoại từ MBI và gọi cho ông ta.
“Theo dõi hắn trên phạm vi toàn miền Nam.” Pratt nói chuyện với giọng địa phương trầm của Mississippi. “Không phải lúc nào chúng tôi cũng biết mình đang truy bắt ai hay cái gì, nhưng chúng tôi sẽ không ngừng lại sau khi Dick Coones bị bắn. Đó là một vụ sát hại đủ máu lạnh mà anh có thể bắt gặp. Chúng tôi đã xem xét mọi thứ, nhưng cứ như là đuổi theo một cái bóng. Chúng tôi mà nghe được những tin đồn rằng hắn có liên quan đến một vụ cướp ở nơi nào đó thì chúng tôi sẽ đến đó ngay vào hôm sau. Chưa bao giờ nắm được thứ gì đó chắc chắn. Chúng tôi nói chuyện với những gã đã thực sự có liên quan đến vài vụ cướp có vũ trang đó và chúng luôn chối bay chối biến rằng không quen biết Poole – chứng tỏ chúng hiểu điều gì đã xảy ra với những kẻ đã mở mồm nói về Poole.”
“Ông có cảm thấy hắn thực sự liên quan đến bất cứ vụ cướp nào mà ông đã điều tra không?” Lucas hỏi. “Nhiều người nghĩ rằng hắn đã chết.”
“Hắn chưa chết. Tôi đảm bảo đấy. Trừ phi có ai đó đánh úp hắn rồi chôn xác hắn ở vùng tối của mặt trăng và không bao giờ nói
với ai. Một chuyện khác là, hắn có một cô bạn gái tên là Pandora Box2…”
2 Pandora Box (chiếc hộp Pandora): Trong thần thoại Hy Lạp, đó là một chiếc hộp mà nàng Pandora – người phụ nữ đầu tiên đến thế giới loài người sở hữu. Nàng Pandora đã được thần Zeus dặn kĩ rằng không được mở chiếc hộp đó ra. Nhưng với sự tò mò của mình, Pandora đã mở chiếc hộp ra và tất cả những gì trong chiếc hộp kì bí đó đã khiến cho tất cả những điều bất hạnh tràn ngập khắp thế gian: thiên tai, bệnh tật, chiến tranh.
“Tôi có đọc, nhưng tôi tưởng đó là chuyện đùa.” Lucas nói.
“Không đùa đâu. Ý tôi là, tôi đoán có thể đó là trò đùa của bố cô ấy, nhưng từ đấy trở đi thì đều là thật.” Pratt nói. “Có chuyện kể rằng một lần Poole bắt được một gã từ băng đảng Bandido vì tội lừa hắn trong một vụ thỏa thuận tiền nong. Chuyện này dẫn đến chuyện kia và rồi Box cắt đầu gã Bandido kia với một con dao bếp, không vì lí do gì ngoài việc cô ả có thể. Không có bằng chứng về chuyện đó, không có nhân chứng nào mà ta biết, nhưng câu chuyện là vậy. Dù sao thì, Box biến mất cùng lúc với Poole, nhưng hai năm trước cô ta đến dự đám tang của một người chú ở Tennessee. Một tuần sau chúng tôi mới biết, người xung quanh đó không hề hé miệng. Nếu Box và Poole biến mất cùng lúc, và cô ả còn sống mà còn phát đạt… anh biết tôi đang hướng tới đâu rồi đấy.”
“Có ai kiểm tra các chuyến bay xem cô ả đến từ đâu chưa? Hay đi về đâu?”
“Người ta làm rồi. Cô ả không bay ra bay vào. Cô ả đến lễ tang bằng xe taxi và rời đi cũng như thế. Chúng tôi nghĩ có thể cô ả lái xe từ nơi ẩn nấp của chúng ở xó nào đó và rồi bắt taxi đến để không ai nhìn thấy xe riêng của cô ả. Lễ tang của người chú diễn ra bốn ngày sau khi ông ta chết, nên cô ả có thể lái xe từ bất cứ đâu trong khu vực phía Nam của lãnh thổ lục địa Hoa Kỳ.”
“Được rồi. Nghe này, nếu ông có thời gian, hãy gửi một e-mail tập hợp những gì ông và cộng sự đã làm – không cần tất cả những chi tiết nhỏ nhặt, nhưng về tổng quát, và những gì ông nghĩ.” Lucas nói. “Đa phần là những gì ông nghĩ. Bất cứ gợi ý hoặc đề nghị nào về việc tôi nên làm như thế nào.”
“Tôi có một gợi ý ngay bây giờ đây: nếu anh bị vây, anh phải mở đường máu để vượt qua, anh sĩ quan ạ. Đầu hàng hay thương lượng sẽ chỉ làm anh bị giết.” Pratt nói. “Có khi còn bị chặt mất đầu. Thằng đó là một con rắn hổ mang nước chết tiệt và ả bạn gái hắn cũng vậy.”
Quay lại với đống giấy tờ, Lucas soạn ra một danh sách các đồng phạm đã biết, đặc biệt những kẻ thực sự có vẻ là bạn của Poole. Anh thêm vào đó bố mẹ và em gái của Poole. Dora Box thì dường như là không còn người thân nào còn sống. Khi xong việc, anh có hai mươi hai cái tên. Anh gửi danh sách đó qua e-mail cho Sandy Park, cô sĩ quan cảnh sát tư pháp, người sẽ làm phần tìm kiếm bằng máy tính, và yêu cầu các báo cáo về những người này.
Xong việc, anh gọi cho Văn phòng Điều tra bang Tennessee (TBI) và nói chuyện với người đứng đầu Ban Điều tra Tội phạm. “Tôi muốn nói với anh rằng tôi sẽ qua và cho anh biết tôi đang làm gì.” Lucas nói.
Đặc vụ ở đó, Justin Adams, biết tên tuổi của Poole và vài chi tiết về án mạng ở Biloxi. Anh ta nói: “Khi anh nghĩ anh tìm thấy hắn, hãy gọi cho tôi và chúng tôi sẽ đến đó. Anh có cần ai đến đó cùng anh không?”
“Có lẽ để sau.” Lucas nói. “Đầu tiên, tôi sẽ đi nói chuyện với bố mẹ và em gái hắn – tôi không hi vọng quá nhiều. Dù vậy, nếu tìm được gì, tôi sẽ báo cho anh.”
Sandy Park hồi âm muộn vào buổi chiều, cô đưa ra một danh sách những người là bạn hoặc đồng phạm của Poole. Trong số hai mươi hai cái tên trong danh sách, chín người đã chết – một
g g ộ
số mắc bệnh ung thư hay già yếu, như bố mẹ của Box; trong khi ba người khác có cái chết dữ dội: hai người bị bắn trong những vụ cướp, một người tai nạn xe máy. Chị gái của Dora Box tự tử sau một thời gian dài dùng heroin. Trong số những người còn sống, tám người đang ở tù, đa số là tội phạm chuyên nghiệp lãnh án chung thân. Một người là tử tù ở Alabama.
Trong số năm người khác, Lucas có địa chỉ của ba người; ngoài ra không có chút thông tin gì về địa điểm của hai người còn lại.
Một e-mail gửi từ Pratt, điều tra viên FBI đã nghỉ hưu, cung cấp một vài chi tiết chưa từng được ghi trong hồ sơ chính thức. Poole biết cách tạo ra những “hình ảnh” khác nhau cho chính mình – hắn nhuộm tóc vài lần, râu đã từng cạo nhẵn và để rậm, đôi khi vận quần bò, đi bốt và mặc áo phông lao động, và đôi khi xuất hiện trong những bộ vét với cà vạt đắt tiền. Đôi khi hắn để kiểu tóc cạo trắng hai bên và gáy, đôi khi tóc dài chấm vai.
“Có một điều luôn luôn không đổi.” Pratt nói. “Hắn luôn bắn trước.”
Lucas dành hai ngày ở với Sam, con trai anh, tại căn nhà gỗ của mình tại Wisconsin; họ lau dọn nó và chuẩn bị sẵn sàng để đóng cửa cho mùa đông. Sam lên tám, được trốn học và thích thú với điều đó; cả hai bố con đi câu cá trong một đến hai tiếng vào buổi sáng và Sam bắt được con cá chó đầu tiên của mình, dài đến tám mươi phân. Lucas còn phấn khởi hơn cả cậu nhóc – không chỉ bởi đó là một con cá chó, mà vì cậu nhóc đang cảm nhận được vẻ đẹp thực sự của cuộc sống, tình yêu với cảnh hồ yên tĩnh vào buổi sáng sớm. Lucas hướng dẫn cậu bé cách dẫn cá trong nước, tháo móc câu với cặp kìm, và rồi thả cá về với vùng nước.
Khi cả hai đang rửa tay khỏi mùi cá tanh trong nước hồ, Sam nói: “Đây là điều tuyệt nhất con từng làm trong đời mình.”
Buổi tối, hai cha con xem ti-vi một chút và Lucas tiếp tục làm việc với hồ sơ của Poole. Sau khi xong việc ở nhà gỗ, họ lái xe về
ệ g ệ g ọ thành phố; Lucas nói với Weather rằng anh sẽ khởi hành đến Nashville vào Chủ nhật tuần sau – anh muốn dành cả một tuần để bắt đầu, với tất cả các văn phòng của các lực lượng chấp pháp mở cửa làm việc.
“Anh sẽ đi trong bao lâu?” Cô hỏi. “Áng chừng.”
“Anh sẽ đi vào tối Chủ nhật, đi Nashville vào ngày kế tiếp. Trong khoảng một đến hai tuần đầu tiên, anh cần xác định được liệu có khả năng nào xác định được nơi hắn đang ở không. Nếu kể đến lúc anh có manh mối về hắn… có thể mất hai đến ba tuần.”
“Tại sao anh nghĩ mình có thể tìm thấy Poole khi mà không có ai khác làm được?” Cô hỏi. Họ đang đứng trong bếp, xếp bát đĩa vào máy rửa. Sam đang ở ngoài gara và họ nghe được tiếng cậu bé đang đánh quả bóng chày nhựa bằng chiếc gậy khúc côn cầu cắt ngắn.
“Nếu hắn còn sống, hắn có thể bị phát hiện.” Lucas nói. “Sẽ có người biết hắn ở đâu, hoặc ít nhất là cách để liên lạc với hắn. Nếu hắn là tay súng ở Biloxi, ít nhất một người biết tìm hắn ở đâu, cái gã đã tìm ra nhà kiểm tiền. Nếu anh có thể len mình vào giữa gã này và Poole… anh sẽ tóm được hắn.”
Cô đóng cánh cửa máy rửa bát, nhấn các nút đặt chế độ, rồi tựa lưng vào đó và nói: “Đừng tự tin quá. Nó có thể làm anh bị nguy hiểm đến tính mạng.”
“Anh sẽ cẩn thận hết sức. Gã đó là một tên sát thủ máu lạnh.” Lucas mỉm cười với cô, một nụ cười ma sói. “Kiểu tuyệt nhất đấy.”
“Chúa giúp anh, Lucas.” Cô nói.
4
L
uis Soto là một kẻ xấu xa và hắn thích thế. Sự xấu xa tỏa ra từ hắn như những giọt mồ hôi của căn bệnh sốt rét, một gã chuột nhắt khốn nạn nhỏ bé và xấu tính, kẻ có
thể đi vào một quán rượu và gọi một ly Reposado Gold và mọi người trong quán sẽ hình dung ra rằng hắn có một khẩu súng và một lưỡi dao cạo cùng sự háo hức được sử dụng chúng.
Hắn sinh ra ở Miami nhưng không phải là phần tốt đẹp của Miami; bố mẹ hắn là người nhập cư từ Cuba. Hắn bắt đầu cuộc đời tội phạm của mình từ vị trí một tài xế kiêm bảo kê cho một băng cho vay nặng lãi. Hắn cũng đã đốt cháy vài tòa nhà theo yêu cầu của một số kẻ, đã rửa tiền qua các sòng bạc của dân da đỏ ở Florida cho những sếp của mình, đã làm bảo kê cho một đường dây buôn lậu ngọc lam Iran từ Bahamas vào tiêu thụ trong nước. Hắn đã nhiều lần trộm đồ của khách du lịch trên bãi biển Miami; và hắn đã bị bắt đôi lần, bởi hắn không phải kẻ ranh mãnh nhất.
Hắn được một thám tử ở Miami mô tả là “gã khốn vạn năng của chúng ta.”
Cuộc đời của hắn đã thay đổi khi hắn vướng vào cuộc ẩu đả trong bãi đậu xe của một quán ăn ở San Cristobal, Florida. Hôm đó, hắn đã chém đi phần đẹp nhất trên chiếc mũi của một sĩ quan cảnh sát hạt Jepsen, Florida, sau khi viên cảnh sát này gọi hắn là “thằng mọi đen giáo phái Mỹ La tinh”.
Viên cảnh sát đó mặc thường phục nên Soto không biết người đó là cảnh sát, nhưng kể cả hắn có biết đi nữa thì kết cục có lẽ chẳng thay đổi. Có thể hắn biết rằng hắn sẽ gặp rắc rối vì cú chém nhiều hơn là sự khuây khỏa mà cú chém đó mang lại;
ự y g ạ
nhưng vì niềm kiêu hãnh của một người đàn ông nên hắn cứ chém viên cảnh sát.
Hắn đã đúng về rắc rối. Hắn bị nện một cách chu đáo và liên tục trong ba mươi đêm ở nhà tù hạt Jepsen và đã không thể đi thẳng người hẳn lên hay đập phá bất cứ thứ gì kể từ khi gây ra nhát chém đầy đau thương ấy. Các cai ngục cũng dành đôi chút thời gian lôi hắn đi bằng dây đeo cổ chó, để lại cho hắn một giọng nói thô ráp, inh tai nghe như là một con quạ cạo chân lên mái thiếc.
Khi Soto ra khỏi nhà tù hạt Jepsen về Miami, hắn không thể chạy hay nhấc đồ vật gì quá nặng, và cuối cùng nhận việc giết người để sống. Hắn được từ một nghìn rưởi đến mười nghìn đô cho một lần ám sát, bất cứ giá nào mà đường dây có thể trả. Khách hàng “thân thiết” của hắn là một băng đảng ma túy từ Honduras, kẻ thuê hắn là một người mà hắn chỉ biết gọi là “Sếp”, với chữ “S” viết hoa.
Sếp sẽ cung cấp lời giải thích ngắn gọn về lí do tại sao con mồi cần phải chết và vị trí của kẻ đó; Soto sẽ chuẩn bị cho vụ ám sát và thực hiện nó. Đa phần các vụ giết người đều không hẳn là những kiệt tác về mưu mẹo: Soto sẽ dừng xe ở cửa trước nhà mục tiêu, gõ cửa, và khi kẻ đó ra mở cửa, thì cho hắn ăn no đạn 9 li; khẩu súng ngắn, dĩ nhiên, được lắp giảm thanh. Không hoàn toàn im lặng, nhưng đủ khẽ trong những khu mà dân cư vốn thích yên tĩnh. Một hoặc hai ngày sau, mười nghìn đô sẽ được chuyển vào tài khoản ngân hàng của Soto ở thành phố Panama thuộc đất nước Panama.
Một vài vụ giết người phức tạp hơn thì được trả hậu hĩnh hơn. Đó là những vụ giết người trừng phạt. Soto sẽ truy dấu kẻ vô lại. Vào một thời điểm thích hợp, hắn bắt cóc gã đó, hoặc đôi khi, ả đó. Hắn không tự ra tay trừng phạt, điều đó là do cộng sự của hắn làm.
Xấu xa như Soto là vậy nhưng hắn vẫn chưa là gì so với cơn ác mộng Charlene Kort.
Kort không sống cuộc đời mình, ả chịu đựng nó. Ả chịu đựng nó ngay từ điểm khởi đầu. Sinh ra trong một gia đình da trắng hạ đẳng và béo mù béo mập; ả có khoảng thời gian không mấy tốt đẹp khi còn đi học, từ những năm tiểu học đến hai năm học trung học phổ thông. Ả quyết định sống bất cần với thói quen chơi ma túy đá bắt đầu từ lớp bảy, khi bố mẹ ả bắt đầu điều chế nó.
Một lần ả mặc quần áo chỉnh tề để đi phỏng vấn xin việc và hỏi người bố nghiện ngập của mình rằng trông ả thế nào. Ông ta nói: “Nhìn mày như bị châm lửa đốt và có ai đó dẫm lên bằng giày đánh gôn vậy.” Ông ta thực sự tưởng rằng mình hài hước.
Với hai mươi tám năm trong sự nghèo đói dai dẳng và cay đắng bám đuổi như một thứ bệnh dịch không thuốc chữa, ả tìm thấy định hướng nghề nghiệp của mình khi ra tay sát hại một viên phó quản lý tại cửa hàng tạp hóa nơi ả làm nhân viên kho trong ca đêm.
Tay phó quản lý, Dan Bird, thích thú khi gây khó dễ cho ả. Ả không làm việc nhanh nhẹn, không thông minh, ả còn không đủ sạch sẽ để làm ở Cửa hàng Tạp hóa: “Lần cuối cùng cô gội đầu là khi nào vậy, cô Lọ Lem? Kể cả nếu như cô không tự tôn trọng mình, cô phải tôn trọng cửa hàng, cô nghe thủng chưa?”
Bird đã say rượu và đã làm một chuyến ghé thăm cửa hàng bất ngờ để chắc chắn rằng ả đang chăm chỉ làm việc. Ông ta lèm bèm về chuyện đó khi Kort đang dỡ một chiếc bàn là khỏi hộp:
“Cô phải làm việc nhanh nhẹn và phải thông minh. Cô chẳng đạt được điều nào cả, có phải không, đồ hôi hám? Cô biết tại sao không? Cô là hạng rác rưởi ngu ngốc sống trong xe rác, rác rưởi da trắng, rác rưởi. Vì thế đó…”
Ông ta bước một bước quá gần và ả nện ông ta bằng chiếc bàn là, làm cho cái bộ dạng say khướt của ông ta ngã xuống đất. Vì biết rằng công việc đến thế là hết, ả đánh ông ta vài nhát nữa bằng cạnh chiếc bàn là, cho đến khi hộp sọ của ông ta bắt đầu nhũn ra, và ả nhận thấy một khoái cảm mãnh liệt, một thứ khoái cảm tình dục thuần túy khi nhìn ông ta run rẩy, rùng mình, rên rỉ và chảy máu.
Một lúc sau, khi nghĩ lại rằng chuyện này vui biết bao nhiêu, ả đi về phía gian dụng cụ đồ nghề và lấy một cặp kìm cắt dây thép, một chiếc cưa tay, một cây búa và túi rác loại lớn. Ả cho ông ta vào trong túi rác, kéo ra xe của ông ta, lái xe xuống một bến sông gần đó, nơi mà đôi khi ả đến để hít ma túy đá, và chặt xác ông ta bằng dụng cụ của mình.
Khi xong việc, mà phải mất một lúc mới xong, xác ông ta được đẩy xuống nước. Xe của ông ta được đỗ đằng sau một Cửa hàng Khoái cảm Người lớn, Kort đi bộ về cửa hàng tạp hóa để lau dọn đống máu trên sàn và đợi cảnh sát đến.
Cuối cùng thì cảnh sát cũng đến, ả nghe thấy họ, nhưng không ai nói chuyện với ả, và dần dần không có ai nói chuyện về sự biến mất của Dan Bird. Ả thoát khỏi vụ ám sát, mà còn không cần phải cố gắng.
Với các mối liên hệ của ả trong thế giới của các mối hận thù liên quan tới ma túy đá tại chốn xa xôi hẻo lánh, kĩ năng mới phát hiện và nhiệt huyết giết chóc của ả chắc chắn có thể mang ra buôn bán được. Không có ai biết chính xác ả đã làm gì, nhưng người ta đồn rằng Charlene Kort là con ả độc ác nhất vùng Bắc Florida, mà ác nhất Florida thì cũng không còn quá xa để trở thành ác nhất thế giới.
Kort đã bỏ những cái búa và cưa tường – dù rằng những dụng cụ cắt cạnh cỡ cực lớn vẫn có vị trí trong túi đồ nghề của ả. Khi ả khám phá ra thế giới tuyệt vời của đồ điện cùng tất cả các loại
máy cưa, máy khoan hay máy bắn đinh chạy pin của Nhật, những tay nhà quê thuê ả gọi ả là “nữ hoàng dụng cụ sửa nhà”.
Rồi một ngày, hai năm sau khi ả giết Dan Bird, các Sếp của ả móc nối ả với Soto, kẻ có các mối liên lạc ở bên kia Vịnh Mexico, nơi có tất cả tiền bạc. Soto giết người, kĩ năng đó có giá trị, nhưng kết hợp với hứng thú gây đau đớn người khác của Kort, chúng tạo nên một nhóm sáng giá.
Cứ như thế, dù thực tế hai kẻ này căm ghét nhau từ cái nhìn đầu tiên, gã Cuba thọt và ả da trắng hạ lưu béo mù béo mập trở thành một nhóm. Soto ghét Kort chẳng kém ai và Kort nhận thấy điều đó kể từ lúc ả lên xe của hắn.
Lần này, chúng gặp nhau ở thành phố Panama, tại Bắc Florida, trong nhà hàng Bánh Pizza và Mì hảo hạng của Alegra, một nơi với khăn trải bàn nhựa kẻ ca rô, hộp nhựa đựng giấy vệ sinh cuộn mua từ siêu thị và bánh pizza cùng mỳ ý đông lạnh được hâm nóng qua loa trong lò vi sóng; chúng ngồi ở một bàn nhìn ra tòa nhà ở phía đối diện trong hẻm.
“Phức tạp đấy.” Soto nói với Kort. “Đây là một vụ trừng phạt, nhưng chúng ta cũng cần phải tra khảo lấy chút thông tin. Chúng ta không thể chỉ phanh thây chúng và bỏ đi.”
“Vụ này là thế nào?” Kort hỏi. Soto lắc đầu và quay đi quay lại liên tục, kiểm tra khu vực xung quanh, có thể là để tìm những tay súng lạ. Hắn làm Kort nhớ đến một con búp bê đầu lắc lư với có tính nết khó ưa.
“Ai đó cướp nhà băng của Sếp.” Soto nói. “Ông ta muốn lấy lại tiền và muốn những tên cướp bị trừng phạt. Nếu chúng ta lấy được tiền về, mỗi chúng ta được hai trăm năm mươi nghìn đô. Nếu chúng ta không lấy được tiền về, nhưng trừng phạt được mấy kẻ đó, mỗi chúng ta được hai mươi nghìn.”
“Vậy chủ yếu là về tiền.” “Luôn là vậy.” Soto nói.
Ả
“Tao thích hai trăm năm mươi nghìn.” Kort nói. Ả ngẫm nghĩ về nó rồi hỏi: “Nếu như chúng ta không tìm thấy hắn và không lấy được gì về?”
“Thế thì chúng ta cũng không được gì. Nhưng họ sẽ thanh toán các khoản chi tiêu.”
“Họ có biết ai cướp của họ không?” Kort hỏi, trong khi đang uống Coca–Cola của Mexico.
“Gã Giọng Học Thức nói có thể là một kẻ tên là Garvin Poole. Hắn là một tay cướp có vũ trang và một kẻ giết người. Bọn cảnh sát đã truy lùng hắn suốt mười năm.” Soto nói. “Vấn đề là, không ai biết Poole ở đâu. Họ chỉ biết có thể hắn đi cùng với bạn gái. Tên ả là Dora Box.”
“Làm sao chúng ta tìm ra chúng đây?” Kort hỏi. “Chúng ta không phải là cảnh sát.”
“Gã Giọng Học Thức sẽ giúp. Hắn đã đột nhập vào tất cả các hồ sơ cảnh sát. Vấn đề là, không tìm được Poole, nhưng người thân của hắn đang ở ngoài kia ngồi yên một chỗ. Đó là nơi mày sẽ vào việc.”
Kort gật đầu và nói: “Được rồi. Cần phải nghĩ về điều đó. Có thể cần tìm hiểu mấy thứ.”
“Tìm hiểu? Có gì để tìm hiểu?” Hắn không hẳn chế nhạo về ý kiến đó.
“Trong các phi vụ khác, Sếp chỉ muốn ai đó phải cực kỳ đau đớn, nên lời khai sẽ tuôn ra. Chúng ta đã không quan tâm khi nào kẻ đó chết. Nếu chúng ta cần lôi thông tin từ ai đó ra, tao phải cẩn trọng hơn. Rạch nó ra.”
“Làm mày thấy nóng trong người nhỉ, phải không? Nghĩ về điều đó ý?” Soto nói. “Đã chịch bao giờ chưa?”
Ả
“Mẹ mày.” Kort nói. Ả hút hết nước Coca khỏi chai, kéo ống hút ra và vo lại trong tay, rồi nhét lại vào chai. Ả không biết tại sao mình lại làm thế, nhưng ả luôn làm vậy. “Khi nào chúng ta có những cái tên?”
“Sớm thôi. Gã Giọng Học Thức nói rằng hắn cần phải lục lọi mấy thứ. Sẽ không lâu đâu. Đi thuê xe đi, tao sẽ cho mày biết. Cần phải sẵn sàng để đi tối nay.”
Gã Giọng Học Thức là một tay tin tặc cũng được Sếp tuyển dụng, kẻ có tấm vé giá trị để truy cập hầu như tất cả các hồ sơ của cảnh sát, cũng như rất nhiều hồ sơ khác nữa. Hắn đã tạo ra nửa tá thẻ căn cước giả khác nhau cho cả Kort và Soto, cũng như những thẻ tín dụng có thể thực sự dùng được trong hai tháng. Số tiền chúng trả cho dịch vụ của hắn khá nhỏ – có vài trăm đến vài nghìn đô mỗi lần, làm cho Kort nghĩ rằng hắn có thể có rất nhiều tài khoản.
Chúng có số điện thoại liên lạc đến tay này và ngoài ra thì không còn gì khác. Kort tưởng tượng ra cảnh tay này ngồi trong tầng hầm nhà mẹ mình, bóng tối bao phủ khắp nơi và xung quanh là những chai Orange Crush và vỏ bánh Cheetos. Trong đời thực, khi chúng điện thoại cho nhau, hắn thường đang nghe nhạc rock nhẹ, như của Genesis, hay đại loại thế.
Ngược lại, khi chúng gọi cho Sếp, thì chẳng có tiếng động gì ngoài giọng nam trung của Sếp và những âm thanh thiết bị điện tử rất mờ nhạt cả.
Kort không ngại nói chuyện với Gã Giọng Học Thức, bởi hắn có giọng nói bình thường và thái độ tự nhiên: đưa tôi tiền và tôi sẽ đưa thông tin cho. Còn Sếp thì xa cách kỳ quái và cực kỳ nhã nhặn; vì thế, nó bí ẩn và đầy hăm dọa.
Kort và Soto chia hướng đi ra khỏi nhà hàng, Soto đi trước. Chúng thuê những chiếc xe cho công việc, dù những chiếc xe thuê này sẽ không được dùng trong công việc – chúng thuê
y g ợ g g g ệ g những xe khác cho việc đó. Nhiều xe nghĩa là nhiều lối thoát, nếu mọi chuyện xấu đi.
Kort lấy xe của ả tại sân bay, lái về căn hộ của mình, cách đó bốn mươi phút, vứt mọi thứ ra khỏi tủ lạnh ngoại trừ vài chai nước, mang rác ở phía đằng sau ra thùng rác. Xong việc, ả xem TV trong vài tiếng và lúc chuẩn bị xem lại bộ phim truyền hình Những người bạn thì Soto gọi điện.
“Chúng ta sẽ đi Tennessee. Tao sẽ gặp mày ở đó vào tối mai, tại Nashville. Mất tám tiếng lái xe. Mày lấy xe chưa?” “Rồi.”
“Gã Giọng Học Thức đã đặt phòng cho mày ở khách sạn Best Western tại sân bay Nashville, dưới cái tên Sally Thomas.” “Tao sẽ gọi điện khi đến nơi.” Kort nói.
Ả cúp máy và đi đến chỗ máy tính: đến lúc làm một chút nghiên cứu. Soto đã đúng một điều: việc nghĩ về phi vụ có làm ả thấy hứng lên đôi chút.
5
L
ucas rời St. Paul sau bữa tối Chủ nhật, lái xe về hướng mặt trăng đang mọc. Vốn là người thức khuya, anh không ngại lái xe quá nửa đêm, miễn là anh có đặt phòng
trọ từ trước. Anh dành phần còn lại của ngày hôm ấy, cộng với gần hết ngày thứ Hai, để đến Nashville, nhìn những chiếc lá mùa thu chuyển từ màu vàng và đỏ ở Minnesota và Wisconsin, sang một màu xanh xỉn khi đi qua biên giới Tennessee.
Anh chưa từng đến Nashville. Cái tên đó với anh đa phần gắn liền với loại nhạc của dân nhà quê, những tiếng violin ai oán và tiếng đàn banjo lộp độp như tiếng ếch ộp, mà anh thì lại là một người nghe nhạc rock. Loại nhạc đồng quê mà anh thích nghe thì chủ yếu thuộc một dòng nhạc có xuất xứ từ Bakersfield, California, đến Tulsa, Oklahoma, tới Jacksonville, Florida và phần phía nam của nó. Nói cách khác, không phải loại nhạc trong buổi hòa nhạc đồng quê Grand Ole Pory, hay bất cứ thứ gì liên quan tới dãy Appalachian, rượu lậu hoặc bất cứ thứ gì thuộc về bên kia ranh giới hạt Harlan.
Vào lúc sáu giờ kém, anh đánh xe vào nhà trọ La Quinta ở bên đường I–24, ba mươi hai cây số về phía Nam của Nashville, nhận phòng, đi vệ sinh, rửa mặt, mặc vét, đeo cà vạt và xỏ giày oxford đen – một bộ dạng cảnh sát xịn xò – rồi lái xe về hướng đông bắc vào thị trấn La Vergne, nơi anh tạt xe ngang qua nhà bố mẹ của Poole.
Kevin và Margery Poole sống trong một căn nhà hai tầng màu be với vách nhựa vinyl, ít cửa sổ, một gara đủ chứa một xe và một bãi cỏ cháy xơ xác. Mặt trời đã lặn ở đường chân trời phía Tây và bóng đêm đang tràn tới, nhưng không có ánh đèn nào phát ra từ
trong nhà. Có một chiếc xe đỗ ở đường vào gara, không ngay ngắn lắm, như thể nó bị bỏ lại trong sự vội vã, hoặc do người lái xe có chút say.
Lucas đậu xe dưới đường, đi đến cửa và bấm chuông. Không ai trả lời.
Anh không muốn nấn ná lại lâu vì có thể làm ai đó cảnh giác nên anh quay về xe của mình. Khi đang nổ máy, anh thấy một người phụ nữ to béo đứng sau cánh cửa lưới ở căn nhà bên kia đường. Đôi tay của bà ta đang chắp lại thủ thế: có thể là một dân phòng tự phong hoặc là ai đó sẽ mách lẻo cho nhà Poole về anh.
Anh lái xe về La Quinta, nghĩ tới đồ ăn. Có hai chiếc xe tuần tra cao tốc của cảnh sát Tennessee đỗ ở lối vào nhà trọ, hai sĩ quan cảnh sát đang nói chuyện với một người đàn ông râu rậm đứng bên ngoài một chiếc xe bán tải cũ hiệu Ford. Chiếc xe có một thùng nhà di động ở phía sau và một tấm đề can dán ở cản sau phía ghế lái ghi “Người ăn chay” trên một hình lá cần sa xanh; và phía bên ghế phụ thì ghi “Chúng ta không thể hút hít được với nhau?” Người râu rậm có một thùng đàn cũ sờn ở dưới chân, nhưng không phải là Willie Nelson1.
1 Willie Hugh Nelson là một nhạc sĩ, diễn viên và nhà hoạt động người Mỹ.
Lucas gật đầu với hai viên cảnh sát khi đi ngang qua và một trong số hai sĩ quan gọi anh lại: “Này anh gì ơi.” Lucas quay lại và thấy hai sĩ quan cảnh sát đang nhìn anh, tay đặt lên khẩu Glock của mình. Người cao kều hơn trong cả hai cất tiếng hỏi: “Anh đang mang theo súng?”
Khẩu .45 của Lucas cộm lên dưới lớp áo khoác. Anh nói: “Vâng. Tôi là Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ. Tôi có giấy tờ trong túi bên phải áo khoác.”
Hai viên cảnh sát gật đầu và Lucas vạch áo khoác mình ra bằng đầu ngón tay phải, kéo ví phù hiệu bằng tay trái, lật mở nó ra. Viên cảnh sát nhỏ người hơn nhìn nó và nói: “Được rồi, Minnesota?”
“Vâng. Tôi xuống đây tìm một gã.” Lucas nói.
Người cảnh sát cao kều ngoắc ngón cái về tay nghệ sĩ chơi đàn và nói: “Không phải là anh Rory Harris này chứ?”
“Không. Hắn là vấn đề của các anh.”
Người râu rậm nói: “Tôi biết các quyền của tôi.”
Người cảnh sát cao kều nói: “Quyền của anh là bị yêu cầu dừng xe mỗi ba cây số và bị thẩm vấn rằng liệu anh có giấu cần sa trong xe. Không anh nên bỏ những cái đề can đó đi. Tôi không nói với anh đó là luật, tôi chỉ nói là, hãy làm điều dễ dàng cho bản thân mình.”
“Không bị vấn đề đó ở Alabama…”
Người cảnh sát ngước mắt nhìn lên trời, nhìn xung quanh bãi đậu xe, nhìn sang Lucas, nhấc cánh tay lên và ngửi nách, rồi nói: “Anh biết đấy, tôi thề rằng nơi này là Tennessee.”
Harris không hiểu được trò đùa và không cười. Viên cảnh sát nhỏ người hơn nói với anh ta: “Biến đi.”
Harris biến khỏi đó, lái xe đi trong mùi hôi của dầu cháy, những đề can về cần sa vẫn còn đó. Người cảnh sát cao kều nói:
“Thằng đần.” và hỏi Lucas, lúc này đang cất bước ra đi. “Anh đang tìm ai thế?”
“Một gã đang chạy trốn trong vòng mười năm trở lại đây. Garvin Poole?”
Cả hai cảnh sát lắc đầu. “Hắn đã làm gì?” Một người hỏi. “Mọi thứ.” Lucas nói. “Bao gồm giết một bé gái và một cảnh sát bang Mississippi.”
“Ồ, tệ thật đó.” Người thấp hơn nói. “Anh nghĩ hắn ta ở gần đây hả?”
“Vài thành viên gia đình của hắn ở đây, nhưng Poole á? Tôi chịu. Tôi nghi là hắn không ở đây đâu.” Lucas nói. “Tôi mới bắt tay vào vụ của hắn.”
“Tôi biết khu này khá rõ, tôi đã ở ngoài này được tám năm rồi. Tôi sẽ để ý đến hắn và nếu tôi có tin tức gì, tôi sẽ gọi điện cho anh.” Người thấp bé nói.
Lucas và hai viên cảnh sát nói chuyện thêm một vài phút – người cao kều tò mò về việc làm sao để trở thành cảnh sát tư pháp; Lucas nói với anh ta: “Hãy điền vào giấy đăng ký – có mọi thứ về điều đó trên mạng.”
Viên cảnh sát nói anh ta sẽ làm vậy và Lucas hỏi về một cửa hàng bán món sườn ngon ở quanh đây. Họ chỉ cho anh đến một nhà hàng bán đồ nướng bên đường cách đó vài cây số. Lucas trao đổi danh thiếp với họ trước khi họ rời đi, rồi lên đường đi ăn.
Vào tám giờ tối, với những miếng sườn khó nuốt nằm trong bụng, anh quay lại nhà Poole, vẫn không có đèn, vẫn một chiếc Corolla cũ đỗ ở đường vào. Lucas đỗ vào phía sau nó, xuống xe, đi lên vỉa hè. Anh gõ cửa, nhưng không ai trả lời.
Anh gõ cửa lần nữa, chờ đợi, rồi quay đi và thấy người phụ nữ to béo ở bên kia đường, đằng sau cánh cửa lưới. Anh đi về phía đó và khi đang bước đến lối vào gara của người phụ nữ, bà ấy hỏi: “Anh có phải là cảnh–xát?”
“Tôi là Cảnh sát Tư pháp.” Lucas nói. “Anh muốn gì với nhà Poole?” Bà ấy hỏi.
“Tôi cần thẩm vấn họ.” Lucas nói. “Họ không làm gì sai cả. Bà có thấy họ ở quanh đây không?”
Bà ấy đứng yên lặng một lúc, răng cắn cắn môi dưới, rồi nói: “Tôi nói với anh nghe này, sĩ quan ạ. Tôi đã nghĩ có lẽ cần gọi cảnh– xát địa phương. Xe của Margery đã đỗ ở đó cả ngày như vậy và xe của Kevin thì ở trong gara, bởi vì tôi đã nhìn vào cửa sổ và thấy nó. Chẳng suy suyển gì. Họ thường bảo tôi khi nào họ đi ra khỏi thị trấn, để tôi có thể để mắt đến ngôi nhà của họ – nhưng tôi chẳng nghe tí gì từ họ. Tôi chẳng thấy có gì di chuyển ở đó suốt cả ngày, nhưng họ đã ở đây tối qua. Tôi thấy họ và những ánh đèn. Hôm nay, tôi chẳng thấy gì. Tôi gõ cửa, nhưng không ai trả lời. Tôi hơi lo.”
Lucas nói: “Hừm.” Anh ngoái nhìn về ngôi nhà của nhà Poole. “Không đèn?”
“Đó là một chuyện khác. Họ có những bóng đèn chống trộm giả đó, anh biết đấy, loại tự động bật và tắt với bộ hẹn giờ? Họ luôn dùng thứ đó khi họ đi xa và lúc này thì không có chút ánh sáng nào.”
“Được rồi.” Lucas nói. “Nghe này, tôi sẽ gọi cho vài người. Để xem liệu có cách nào để vào kiểm tra không.”
“Tôi rất lấy làm cảm kích, thưa sĩ quan.” Bà ấy nói.
Lucas đi về xe Benz, nổ máy lên và gọi Adams, điều tra viên của TBI mà anh đã nói chuyện qua điện thoại. Adams đang ở nhà, trông con cho vợ, hiện đang đi chơi với các bạn gái của mình. Lucas nói qua về vấn đề và Adams nói: “Anh có thể đi vào nhà mà không cần lệnh tòa, dựa trên sự bày tỏ quan ngại hợp pháp của hàng xóm… nhưng… trời ạ, tôi không thể đi được bây giờ. Tôi đang mắc kẹt với đám trẻ con. Tôi có thể gọi điện cho văn
phòng và xem liệu có thể kiếm được vài cậu nhân viên dưới đó không.”
Lucas nhớ lại hai người cảnh sát tuần tra cao tốc và đề nghị gọi cho một trong số họ. “Một người nói rằng anh ta sống ở đâu đó quanh khu này, nên có thể anh ta ở gần đây.”
“Được đấy.” Adams nói. “Họ được quyền làm mọi thứ chúng tôi làm.”
Lucas tìm danh thiếp của hai người cảnh sát tuần tra và gọi điện cho người thấp hơn, tên là Manny Dean.
“Manny hả? Tôi Davenport đây, sĩ quan Cảnh sát Tư pháp mà anh vừa nói chuyện cùng hôm nay.”
“À, vâng. Có chuyện gì thế?”
Lucas nói tóm tắt cho anh ta và Dean nói: “Tôi có thể đến đó trong mười lăm phút. Cần phải mặc quần áo đã. Tôi sẽ gặp anh ở trước nhà.”
Lucas đi về phía nhà của Poole. Dưới cặp mắt lo lắng của người phụ nữ bên kia đường, anh bấm chuông lần nữa và gõ cửa một hồi, nhưng không ai trả lời. Dean xuất hiện, mặc thường phục nhưng đi xe cảnh sát của mình. Anh ta đi ra ngoài với đèn pin và hỏi: “Không có gì à?”
“Không có gì. Hãy xem xem chúng ta thấy được gì.” Những tấm mành che ở cửa sổ phía trước đã được kéo xuống nên họ đi vòng ra sau nhà đến chỗ phòng ngủ chính và phòng ngủ cho khách, nơi những tấm mành đang mở, nhưng cả hai phòng ngủ đều có vẻ như để không. Có một sân hiên nhỏ ở sau nhà, dẫn vào bếp. Dean chiếu đèn qua cửa sổ, nhìn quanh, rồi lùi lại, nhăn mặt, rồi quay lại cửa sổ và gọi: “Này.”
Lucas đang ở bãi cỏ cháy, nhìn lên: “Anh thấy gì à?”
“Ra đây. Ngay đằng kia chỗ vòm đi ra mặt trước… có phải là một cái chân?” Dean hỏi. “Không thấy thân người hay gì, nhưng… có phải đó là một cái chân nằm vắt qua kia? Có thể là một mảnh thảm cuộn lên, tôi nghĩ vậy, nhưng trông giống một cái chân.”
Lucas nhìn vào, rồi quay lại nói: “Anh có cây nạy lốp trong xe không?”
“Có, và một cái xà beng.”
“Tôi nghĩ đó là một cái chân. Có thể chúng ta đến quá muộn rồi, nhưng chúng ta cần phải vào trong.”
Họ đi vào qua cửa trước. Dean cậy nó ra bằng xà beng và Lucas đẩy cửa mở ra với một cú thúc khuỷu. Mùi tử khí xộc lên. Lucas quay ra sau và nói: “Đừng chạm vào thứ gì.”
Ngôi nhà tối thui và Lucas chiếu đèn của Dean qua phòng khách: một người đàn ông nằm dưới sàn, đầu dựa vào dàn âm thanh đời tám mươi; một khẩu súng lục nòng ngắn nằm dưới sàn cách tay phải của ông ấy khoảng một mét. Trên trán của ông ấy có một lỗ đạn. Nhìn quanh phòng, Lucas phát hiện ra một xác phụ nữ, đã bị chặt thành nhiều mảnh, ngón tay, ngón cái, cả hai chân, một tay… đến mức mà hẳn bà ấy đã chết vì sốc, trước khi những kẻ tra tấn kịp xử nốt tay còn lại. Chúng ngừng tại đó, bỏ bà ấy nằm trên chiếc thảm lông đầy máu.
Dean nói: “Đó không phải là thứ anh nhìn thấy thường ngày.” Lucas liếc nhìn anh ấy: “Nếu anh sắp nôn, hãy ra ngoài.” Dean nói: “Tôi gặp cả trăm vụ tai nạn xe cộ một năm. Máu chẳng còn làm tôi bận tâm nữa.”
“Được rồi. Ta hãy gọi cảnh sát địa phương và TBI tới đây.” Lucas nói. “Gượm đã – anh gọi cảnh sát địa phương, tôi sẽ gọi người của tôi ở TBI.”