🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu - Agatha Christie full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Hercule Poirot #34CON MÈOgiữaĐÁM BỒ CÂU Cat Among the Pigeons (1959) Võ Hồng Long dịch
MỞ ĐẦU
HỌC KÌ HÈ
Hôm ấy là ngày khai giảng kì học hè ở trường Meadowbank. Ánh chiều tà đổ xuống con đường lát sỏi rộng thênh trước tòa học xá. Cửa trước rộng mở vui đón khách, và ngay ở cửa, tương xứng một cách đáng ngưỡng mộ theo đúng tỉ lệ kiến trúc thời Georgia của tòa nhà là cô giáo Vansittart, tóc gọn gàng, áo khoác và váy được cắt may không chê vào đâu được.
Một số bậc phụ huynh không biết rõ đã nhầm bà với bà Bulstrode, mà đâu hay bà Bulstrode có lệ rút lui vào cấm cung, ở đấy chỉ số ít bậc phụ huynh chọn lọc được hưởng đặc quyền mới được đón tiếp.
Đứng cạnh cô Vansittart, đang điều hành ở một mức độ hơi khác là bà Chadwick, với vẻ tự tin, hiểu biết, và ở Meadowbank này bà đóng một vai trò lớn đến độ thật khó tưởng tượng trường Meadowbank lại không có bà. Chưa bao giờ ngôi trường này thiếu vắng bà. Bà Bulstrode và bà Chadwick đã cùng nhau khởi lập Meadowbank. Bà Chadwick đeo kính không gọng, đầu hơi cúi, ăn mặc không mấy cầu kỳ, giọng nói hòa nhã, và tình cờ thay lại là một nhà toán học xuất sắc.
Những lời chào đón ân cần của cô Vansittart ân cần vang khắp tòa nhà.
“Bà có khỏe không, thưa bà Arnold? Ồ, Lydia, chuyến đi tàu Hellenic của em có vui không? Thật là một cơ hội tuyệt vời! Em có chụp được nhiều ảnh đẹp không?
“Vâng, thưa bà Garnett, bà Bulstrode đã nhận được thư của bà về Lớp Nghệ thuật, tất cả đã được thu xếp rồi.
“Bà khỏe không, thưa bà Bird?… Ô? Tôi nghĩ hôm nay bà Bulstrode không có thời gian để bàn bạc chuyện này. Cô Rowan ở đây, bà có
muốn nói chuyện với cô ấy về vấn đề này không?
“Chúng tôi đã chuyển phòng ngủ của em rồi, Pamela ạ. Em giờ ở chái nhà phía xa, cạnh cây táo…
“Vâng, quả vậy, thưa bà Violet, từ đầu mùa xuân tới giờ thời tiết thật kinh khủng. Cháu bé nhất nhà bà đây phải không? Tên cháu gì nhỉ? Hector hả? Cháu có máy bay đẹp thế, Hector.
“Très heureuse de vous voir, Madame. Ah, je regrette, ce ne serait pas possible, cette après-midi. Mademoiselle Bulstrode est tellement occupée.Rất vui được gặp bà, thưa bà. Ồ, tôi rất tiếc chiều nay thì không thể rồi. Bà Bulstrode rất bận.
“Xin chào giáo sư. Ngài có khám phá thêm được điều gì thú vị không?”
Trong căn phòng nhỏ ở tầng một, Ann Shapland, thư ký của bà Bulstrode, đang đánh máy thoăn thoắt và chính xác. Ann năm nay ba lăm tuổi, vẻ ưa nhìn, mái tóc vừa vặn như chiếc mũ sa-tanh đen đội lên đầu. Nếu muốn, cô có thể trông quyến rũ hơn, nhưng cuộc đời đã dạy cô rằng năng lực và hiệu quả thường được trả công cao hơn vẻ ngoài, lại tránh được những phiền toái bực mình. Ở thời điểm này, cô đang tập trung vào tất cả mọi công việc mà một người thư ký hiệu trưởng của một trường nữ sinh nổi tiếng cần làm.
Thỉnh thoảng, khi đặt một tờ giấy vào máy chữ, cô lại nhìn ra cửa sổ và lộ rõ niềm thích thú về những vị khách mới đến.
‘Trời đất ơi!’ Ann tự nhủ, vẻ ngưỡng mộ, ‘Mình không biết ở nước Anh vẫn còn nhiều tài xế riêng đến vậy!’
Rồi cô bất giác mỉm cười, khi một chiếc xe Rolls uy nghi chạy đi và một chiếc xe Austin nhỏ xíu, cũ mèm và méo mó tiến vào. Một ông bố vẻ lo lắng từ xe bước ra, cùng cô con gái trông bình tĩnh hơn nhiều so với ông bố.
Khi ông dừng lại chừng như sắp ngã đến nơi, thì cô Vansittart từ trong nhà bước ra và làm chủ tình huống.
“Thiếu tá Hargreaves phải không ạ? Đây hẳn là Alison rồi? Xin mời vào trong nhà. Mong ngài vào xem phòng của Alison…”
Ann nhếch mép cười rồi tiếp tục đánh máy.
‘Ôi đúng là Vansittart, người đóng thế vinh quang,’ cô tự nhủ. ‘Cô ta có thể học theo mọi mánh lới của bà Bulstrode. Quả thật, cô ta rất thuộc bài!’
Một chiếc xe Cadillac to lớn và xa hoa đến khó tin, sơn hai tông màu, đỏ mâm xôi và xanh dương, rẽ vào (hơi khó khăn do chiều dài của nó) và đỗ phía sau chiếc xe cũ của Thiếu tá Alistair Hargreaves.
Tài xế bật mở cửa, một người da sẫm, bộ râu dày, mặc áo choàng aba là lượt bước ra, theo sau là một tín đồ thời trang Pari và sau đó nữa là một cô bé mỏng mảnh, da sẫm.
‘Đấy chắc hẳn là Công nương… tên là gì ấy nhỉ,’ Ann nghĩ. ‘Không thể tưởng tượng nổi cô bé ấy mặc đồng phục, nhưng mình cho rằng điều thần kỳ sẽ xuất hiện ngày mai…’
Lần này cả cô Vansittart và bà Chadwick đều xuất hiện. ‘Họ sẽ được đưa vào danh sách diện kiến,’ Ann quả quyết.
Rồi cô nghĩ, cũng khá lạ, rằng người ta không thích đùa cợt về bà Bulstrode. Bà Bulstrode là Người Ai Cũng Biết. ‘Tốt hơn nên tập trung vào chuyên môn đi,’ cô tự nhủ, ‘và gõ xong mấy bức thư này không sai lỗi thì hơn.’
Ann không phải là người hay phạm lỗi lầm. Cô đủ giỏi để có quyền chọn việc như ý. Cô từng là trợ lý riêng cho tổng giám đốc một công ty dầu mỏ, thư ký riêng cho ngài Mervyn Todhunter, nổi tiếng về sự uyên bác, thói cáu bẳn và chữ viết tay khó đọc. Trong số những người thuê cô làm việc, có hai người là Chủ tịch Nội các và một vị
công chức quan trọng trong cơ quan chính phủ. Nhưng nhìn chung, công việc của cô luôn là giữa đám đàn ông. Cô băn khoăn mình sẽ thế nào, như cách nói của cô, khi hoàn toàn giữa đám phụ nữ. Ờ - thì đằng nào cũng là những trải nghiệm thôi. Và dù thế nào cũng có Dennis! Dennis thủy chung từ Malaya, từ Burma, từ nhiều nơi trên thế giới trở về, và vẫn như xưa, vẫn tận tình, và hỏi cưới cô lần nữa. Dennis thân thương! Nhưng thật là tẻ nhạt lắm mới đi cưới Dennis.
Trong tương lai sắp tới, cô sẽ nhớ đến thời gian được làm việc cùng nam giới. Tất cả những giáo viên ở đây - không có lấy một mống đàn ông nào cả, ngoại trừ lão làm vườn đã tám chục tuổi.
Nhưng đến đây Ann bỗng ngạc nhiên. Nhìn ra cửa sổ, cô thấy một người đàn ông đang xén hàng rào ngay phía bên kia lối đi dành cho ô tô - rõ ràng là một người làm vườn nhưng mà còn lâu mới tám chục tuổi. Trẻ, tóc đen, và điển trai. Ann ngẫm ngợi, hình như người ta có nhắc đến chuyện thuê người phụ việc, nhưng người này đâu phải dân quê mùa. À thì, ngày nay người ta làm đủ thứ việc. Một số thanh niên đang cố tích góp tiền cho dự định này nọ trong tương lai, hay chỉ kiếm đủ sống qua ngày. Nhưng anh ta đang xén hàng rào theo cách rất chuyên nghiệp. Chắc hẳn anh ta là một người làm vườn thực thụ.
‘Trông anh ta,’ Ann tự nhủ, ‘trông anh ta như thể đang thích thú…’
Chỉ còn phải đánh máy một bức thư nữa, cô vui mừng nhận ra, rồi cô sẽ dạo quanh vườn…
Trên tầng, cô Johnson, y tá của trường, đang bận bịu xếp dọn, đón những người mới, và chào các học sinh cũ.
Cô vui mừng vì kì học mới lại bắt đầu. Cô không bao giờ biết làm gì vào những ngày nghỉ. Cô có hai người chị gái, họ đã có chồng, và cô luân phiên đến ở với họ, nhưng theo lẽ dĩ nhiên, họ quan tâm công việc và gia đình của riêng mình hơn là quan tâm đến trường Meadowbank. Cô Johnson, dù theo nghĩa vụ vẫn quý mến các chị em mình, nhưng thực sự chỉ quan tâm đến trường Meadownbank mà thôi.
Đúng vậy, thật vui vì kì học đã bắt đầu…
“Cô Johnson?”
“Ừ, Pamela.”
“Cô Johnson ơi. Em nghĩ trong vali của em có gì đó bị vỡ. Nó rỉ nước lên các thứ. Em nghĩ đấy là dầu dưỡng tóc.”
“Chậc chậc!” Cô Johnson nói, vội vã giúp đỡ.
Trên bãi cỏ phía bên kia lối đi rải sỏi dành cho ô tô, cô Blanche, cô giáo tiếng Pháp mới, đang rảo bước. Bằng cặp mắt tán thưởng, cô ngắm nhìn người thanh niên khỏe mạnh đang xén hàng rào.
Assez bieriKhá lắm, cô Blanche nghĩ.
Cô Blanche dáng mảnh dẻ, tính nhút nhát, và không mấy nổi bật, nhưng bản thân cô lại chú ý đến đủ mọi chuyện.
Đôi mắt cô hướng sang những chiếc xe tiến về cửa trước. Cô đánh giá chúng theo thang độ tiền bạc. Trường Meadowbank này chắc chắn phải ghê gớm lắm. Cô nhẩm tính lợi nhuận bà Bulstrode thu về.
Vâng, quả đúng vậy. Ghê gớm lắm.
Cô Rich, giáo viên dạy môn Ngữ văn và địa lý, vội vã tiến đến tòa nhà, thỉnh thoảng hơi vấp chân vì, như thường lệ, cô quên nhìn xem mình đang đi đâu. Mái tóc cô, cũng như thường lệ, đã tuột khỏi búi tóc. Cô có khuôn mặt xấu xí nhưng đầy hăm hở.
Cô tự nhủ: ‘Lại được trở về! Trở về đây… Cứ như nhiều năm rồi…’ Cô vấp phải cái cào, anh chàng làm vườn đưa một cánh tay ra, nói:
“Bình tĩnh nào, thưa cô.”
Eileen Rich nói “Cảm ơn anh,” mà không nhìn anh ta.
Cô Rowan và cô Blake, hai giáo viên mới, đang tản bộ về phía Cung Thể thao. Cô Rowan dáng gầy, tóc đen, và tính tình sôi nổi, còn cô Blake phúng phình, tóc vàng. Họ đang hăng hái chuyện trò về những cuộc phiêu lưu gần đây của mình ở Florence: những phong cảnh đã ngắm, những bức điêu khắc, những loại hoa trái, và những cuộc săn đón (với ý định không mấy tốt đẹp) của hai quý chàng người Ý.
“Dĩ nhiên ai chả biết,” cô Blake nói, “người Ý là như thế nào.”
“Phóng túng,” cô Rowan nói, cô học ngành Tâm lý và Kinh tế. “Hoàn toàn lành mạnh, người ta dễ cảm nhận như vậy. Không hề đè nén.”
“Nhưng Guiseppe tỏ ra khá ấn tượng khi biết em dạy ở trường Meadowbank,” cô Blake nói. “Anh ấy ngay lập tức tỏ ra kính trọng hơn. Anh ấy có người bà con muốn đến dạy ở trường này, nhưng bà Bulstrode không chắc là còn vị trí nào cần người không.”
“Meadowbank là ngôi trường thật sự danh giá,” cô Rowan vui vẻ nói. “Thực sự, Cung Thể thao mới trông ấn tượng nhất. Chị chưa bao giờ nghĩ nó đi vào hoạt động đúng tiến độ.”
“Bà Bulstrode nói phải đúng như vậy,” cô Blake nói với giọng khỏi tranh cãi gì thêm.
“Ô,” cô buông thêm một tiếng ngạc nhiên.
Cửa Cung thể thao bất ngờ mở ra, và một phụ nữ trẻ xương xẩu, mái tóc hung đỏ xuất hiện. Cô nhìn chằm họ bằng ánh mắt sắc lẹm thiếu thiện cảm rồi nhanh chóng rời đi.
“Đó hẳn là cô giáo mới dạy thể dục,” cô Blake nói. “Người đâu thô lỗ thế!”
“Người thay thế không được dễ chịu lắm,” cô Rowan nói. “Cô Jones ngày xưa bao giờ cũng thân thiện và hòa đồng.”
“Cô ta cứ nhìn chằm chằm bọn mình,” cô Blake bực bội nói.
Cả hai đều cảm thấy khó chịu.
Phòng khách của bà Bulstrode có cửa sổ hướng về hai phía, một phía quay về lối dành cho ô tô và bãi cỏ, và cửa còn lại hướng về khóm cây đỗ quyên sau nhà. Một cản phòng khá ấn tượng, và bà Bulstrode còn hơn cả một người ấn tượng. Bà dáng cao, trông khá
quý phái, với mái tóc hoa râm được chải rất đẹp, đôi mắt xám đầy nét hóm hỉnh, và đôi môi cương nghị. Thành công của ngôi trường (Meadowbank là một trong những ngôi trường thành công nhất ở Anh) hoàn toàn nhờ vào cá tính của vị Hiệu trưởng. Học phí rất đắt đỏ, nhưng điều đó không hẳn là vấn đề. Nói chính xác hơn là: bạn đã chi khối tiền vào đó thì bạn được đền đáp xứng đáng.
Con gái của bạn được giáo dục theo cách bạn muốn, và cũng theo cách bà Bulstrode muốn, và kết quả của hai mong muốn ấy gộp lại mang đến sự hài lòng. Vì học phí cao như vậy, bà Bulstrode có thể thuê đủ giáo viên toàn thời gian. Ngôi trường này không phải kiểu
nhà máy sản xuất hàng loạt, nhưng dù trường đề cao chủ nghĩa cá nhân, nó cũng có kỷ luật. Kỷ luật nhưng không khắt khe, ấy là khẩu hiệu của bà Bulstrode. Theo bà, kỷ luật tạo cho lớp trẻ sự tự tin, giúp chúng cảm giác an toàn; khắt khe chỉ gây ra bực dọc. Học sinh của bà rất đa dạng. Có nhiều em là học sinh nước ngoài thuộc các gia đình khá giả, thường là các hoàng gia nước ngoài. Cũng có những cô bé Anh quốc thuộc gia đình danh giá hay giàu có, muốn được giáo dục về văn hóa và nghệ thuật, có kiến thức chung về xã hội và đời sống, các em sẽ trở thành những con người dễ mến, biết chăm sóc diện mạo và có khả năng tham gia vào những cuộc trò chuyện đòi hỏi trí tuệ ở bất kỳ chủ đề nào. Có những em muốn học tập chăm chỉ và đậu các kỳ thi để nhận nhận được bằng cấp cần thiết; và để làm được như vậy, các em cần được dạy dỗ tốt và sự quan tâm đặc biệt.
Có những em phản ứng tiêu cực với đời sống học đường truyền thống. Nhưng bà Bulstrode có nguyên tắc của mình, bà không chấp nhận những học sinh kém trí tuệ hay tội phạm vị thành niên, và bà thích nhận những cô bé mà bà quý mến cha mẹ chúng, và những cô bé mà ở chúng bà nhìn thấy triển vọng phát triển. Độ tuổi các học
sinh của bà cũng đa dạng. Có những em trước đấy đã thành thiếu nữ, và có những em ít nhiều còn trẻ con, một số cô bé có cha mẹ sống ở nước ngoài, và qua họ bà Bulstrode đặt kế hoạch những kỳ nghỉ lễ thú vị. Phán quyết cuối cùng và tối hậu là sự chấp thuận của chính bà Bulstrode.
Lúc này, bà đang đứng cạnh lò sưởi, lắng nghe giọng nói có phần rền rĩ của bà Gerald Hope. Với tài phán đoán tuyệt vời, bà không gợi ý bà Hope nên ngồi xuống.
“Bà thấy đấy, Henrietta rất nhạy cảm. Quả thật là rất nhạy cảm. Bác sĩ của chúng tôi bảo…”
Bà Bulstrode gật đầu, với sự trấn an nhẹ nhàng, kiềm chế lời nói châm chọc mà đôi khi bà thèm muốn thốt ra.
“Thưa bà của tôi ơi, chẳng phải các bà mẹ cả lo đều nói những điều như vậy sao?”
Bà nói với vẻ cảm thông hết sức.
“Bà không cần lo lắng đâu, bà Hope ạ. Giáo viên của chúng tôi, cô Rowan, là người được đào tạo toàn diện về tâm lý. Tôi chắc chắn bà sẽ rất ngạc nhiên trước thay đổi bà nhận thấy ở Henrietta (Đấy là một đứa trẻ ngoan, thông minh hơn bà nhiều) sau một vài kì học ở đây.”
“Ồ tôi biết. Bà đã làm được những điều kỳ diệu cho con nhà Lambeth - hết sức kỳ diệu! Nên tôi rất vui lòng. Và tôi - Ồ vâng, tôi quên mất. Trong sáu tuần nữa chúng tôi sẽ đi miền nam nước Pháp. Tôi nghĩ sẽ mang Henrietta đi cùng. Đấy sẽ là một kỳ nghỉ ngắn với con bé.”
“Tôi e là không thể làm vậy được,” bà Bulstrode nói dứt khoát nhưng mỉm cười duyên dáng, như thể bà đang chấp nhận đề nghị chứ không phải từ chối.
“Ồ! Nhưng mà…” khuôn mặt dằn dỗi yếu ớt của bà Hope do dự, tỏ vẻ nóng giận. “Quả thật, tôi phải nói rằng. Dù gì, con bé là con của tôi.”
“Chính xác như vậy. Nhưng đây là trường của tôi,” bà Bulstrode nói. “Chắc chắn tôi có thể mang con tôi đi bất cứ lúc nào tôi muốn?”
“Ồ vâng,” bà Bulstrode nói. “Bà có thể. Dĩ nhiên là bà có thể. Nhưng như vậy, tôi cũng sẽ không nhận cô bé lại. ”
Bà Hope lúc này thực sự cáu giận.
“Xét đến mức học phí tôi trả ở đây…”
“Chính xác,” bà Bulstrode nói. “Bà muốn con gái bà học trường của tôi, có phải không? Nhưng hãy chấp nhận trường này như vốn có, hoặc là bỏ đi. Cũng giống như mẫu Balenciaga quyến rũ bà đang mặc. Có phải đồ Balenciaga không? Thật thỏa lòng khi gặp một phụ nữ có gu thẩm mỹ thực sự.”
Bà nắm tay bà Hope, lắc lắc, và khéo léo dẫn bà ta về phía cửa.
“Đừng lo lắng gì cả. À, Henrietta đang đợi bà kìa.” (Bà nhìn Henrietta trìu mến, một cô bé thông minh, khôn khéo nếu quả tuổi ấy có đứa bé như vậy, xứng đáng có một bà mẹ tốt hơn.) “Margaret, đưa Henrietta Hope đến chỗ cô Johnson.”
Bà Bulstrode lui vào phòng khách và một lát sau chuyển sang nói tiếng Pháp.
“Dĩ nhiên rồi, Thưa quý bà, cháu của bà có thể học khiêu vũ hiện đại. Môn học xã giao quan trọng nhất. Và cả ngôn ngữ cũng là môn thiết yếu nhất.”
Những vị khách tiếp theo được báo hiệu bằng một làn nước hoa đắt tiền suýt đẩy bà Bulstrode lùi lại.
‘Hẳn hàng ngày bà ta dốc cả lọ nước hoa lên người mất,’ bà Bulstrode thầm nhận xét, khi bà chào một phụ nữ da sẫm màu, vận quần áo trang nhã.
“Enchantée, Madame.Rất vui được gặp bà.”
Quý bà khẽ bật cười duyên dáng.
Một người đàn ông dáng đậm, râu rậm, vận đồ phương Đông cầm tay bà Bulstrode, cúi chào, và nói với thứ tiếng Anh rất chuẩn, “Tôi vinh dự được đưa đến đây Công nương Shaista.”
Bà Bulstrode biết rõ về học sinh mới của mình, cô bé vừa từ một trường học ở Thụy Sĩ chuyển tới, nhưng lại không rõ về người tháp tùng cô bé. Không phải Hoàng thân, bà quả quyết, có lẽ là thủ tướng hoặc Bộ trưởng Ngoại giao. Như lẽ thường khi còn chưa chắc, bà dùng đến danh xưng quý ông, và bảo đảm với ông ta rằng Công nương Shaista sẽ được chăm sóc tốt nhất.
Shaista mỉm cười lịch thiệp. Cô bé cũng ăn mặc rất thời trang và xức nước hoa. Tuổi cô bé, như bà Bulstrode biết, là mười lăm, nhưng cũng giống nhiều cô bé phương Đông và Địa Trung Hải, trông cô bé già dặn hơn - khá trưởng thành. Bà Bulstrode nói về những môn học dự kiến cho cô bé, và thấy nhẹ lòng vì cô bé đáp lại ngay bằng một thứ tiếng Anh tuyệt vời, và không hề cười vô nghĩa. Thực ra, phong thái của cô bé tỏ ra dễ chịu hơn so với kiểu vụng về ngượng nghịu của nhiều cô nữ sinh người Anh ở tuổi mười lăm. Bà Bulstrode thường nghĩ rằng nếu gửi các cô bé Anh quốc ra nước ngoài, tới các nước Cận Đông để học phép lịch sự cũng như lối xử sự ở nơi đó thì đấy hẳn sẽ là một kế hoạch tuyệt vời. Nhiều lời khen ngợi được cả hai phía đưa ra, rồi căn phòng lại vắng vẻ trở lại dù vẫn ngập đầy mùi nước hoa khiến bà Bulstrode phải mở hết hai cửa sổ cho hương bay ra.
Những vị khách tiếp theo là bà Upjohn và con gái Julia.
Bà Upjohn là một phụ nữ còn trẻ, dễ thương, tuổi đã gần bốn mươi, tóc vàng sẫm, mặt rám tàn nhang, với một chiếc mũ không phù hợp,
xem ra bà đội chỉ vì nhượng bộ trước tính nghiêm túc của sự kiện này, vì bà rõ ràng là kiểu phụ nữ thường không đội mũ.
Julia là một cô bé mặt đầy tàn hương, với cái trán thông minh, vẻ hài hước.
Những câu thăm hỏi diễn ra nhanh chóng rồi Julia được Margaret đưa đến cô Johnson, lúc đi cô bé vui vẻ nói, “Lâu lắm đấy, Mẹ ơi. Mẹ hãy cẩn thận khi thắp lò sưởi khí ga nhé, vì bây giờ con không ở đó để làm việc ấy.”
Bà Bulstrode mỉm cười quay sang bà Upjohn, nhưng không mời bà ta ngồi xuống. Không chừng dù vẻ ngoài của
Julia cho thấy một thiên tư tốt, thì bà mẹ cô bé vẫn muốn nói thêm rằng con gái mình có điều gì đó, như tính nhạy cảm đặc biệt chăng.
“Có điều gì đặc biệt bà muốn lưu ý với tôi về Julia không?” Bà Upjohn đáp lại hồ hỏi:
“Ồ không, tôi không nghĩ vậy. Julia là đứa trẻ rất đỗi bình thường. Khá khỏe mạnh và thế thôi. Tôi cũng nghĩ con bé có trí tuệ tốt, nhưng tôi trộm nghĩ bà mẹ nào lại thường không nghĩ như vậy về con mình, chẳng phải sao?”
“Các bà mẹ,” bà Bulstrode nói quả quyết, “cũng có nhiều dạng lắm!”
“Thật tuyệt vời vì con bé có thể đến đây,” bà Upjohn nói. “Thực ra, bà cô của tôi phụ giúp tiền học phí. Bản thân tôi thì không thể lo nổi. Nhưng tôi hết sức hài lòng. Cả Julia cũng vậy.” Bà bước đến cửa sổ nói đầy vẻ ghen tị, “Khu vườn mới đáng yêu làm sao chứ. Thật đâu vào đấy. Chắc bà có nhiều người làm vườn giỏi lắm.”
“Chúng tôi có ba người,” bà Bulstrode nói, “nhưng hiện thời, chúng tôi đang thiếu người, phải thuê lao động địa phương.”
“Dĩ nhiên rồi, vấn đề là thời buổi nay,” bà Upjohn nói, “một người được coi là làm vườn lại thường chẳng phải thợ làm vườn, chỉ là
người giao sữa muốn làm thêm khi nhàn rỗi, hay một ông già tuổi tám mươi. Đôi khi tôi nghĩ - Tại sao chứ!” bà Upjohn thốt lên, vẫn nhìn ra cửa sổ - “thật phi thường!”
Bà Bulstrode không mấy chú tâm tới lời cảm thán bất ngờ này, dù đáng lẽ ra phải vậy. Lúc đó chính bà đang nhìn bâng quơ ra cửa sổ về phía khóm cây đỗ quyên, và nhận thấy một cảnh tượng không mấy hay hóm, không ai khác, chính là bà Veronica Carlton Sandways, chân đăm đá chân chiêu, cái mũ nhung đen to bè lệch sang một bên, đang lẩm bẩm một mình và rõ ràng trong tình trạng say nhừ.
Bà Veronica không phải mối phiền toái mới đây. Bà là một phụ nữ quyến rũ, quyến luyến sâu nặng với hai cô con gái song sinh, và rất dễ mến, như người ta nói, khi bà được là chính mình - nhưng thật không may có nhiều thời điểm không thể đoán trước được, bà không còn là chính mình nữa. Chồng của bà, thiếu tá Carlton Sandways, đối phó khá tốt chuyện này. Có một người họ hàng sống cùng họ, người này thường trực để mắt đến bà Veronica và kiềm chế bà nếu cần thiết. Vào Ngày hội thể thao, với thiếu tá Carton Sandway cùng người họ hàng để ý sát sao, bà Veronica đến dự, hoàn toàn tỉnh táo và ăn mặc rất đẹp, đúng mực một người mẹ.
Nhưng có nhiều lần, khi bà Veronica thoát khỏi những người có thiện ý với bà, thì bà nốc đầy rượu và xông thẳng đến chỗ các con gái đặng trấn an chúng về tình mẫu tử. Sáng sớm hôm nay cặp song sinh đến trường bằng tàu hỏa, nhưng không ai nghĩ bà Veronica xuất hiện.
Bà Upjohn vẫn đang nói. Nhưng bà Bulstrode lại không lắng nghe. Bà còn mải tính toán xem phải xử lý ra làm sao, vì bà nhận ra bà Veronica đang chuyển nhanh sang giai đoạn hung hăng. Nhưng đột nhiên, lời cầu nguyện được phản hồi, bà Chadwick xuất hiện, xăm xăm tiến đến và hơi thở dốc. ‘Chaddy nhiệt thành, bà Bulstrode nghĩ. Lúc nào cũng có thể tin tưởng được, dù đó là một ca đứt mạch máu hay một bậc phụ huynh say xỉn.’
“Thật đáng hổ thẹn,” bà Veronica to tiếng với bà Chadwick. “Cứ cố xua đuổi tôi - không muốn tôi đến đây - tôi đã đánh lừa Edith. Đến đây để nghỉ ngơi - ra khỏi xe - thoát được Edith ngớ ngẩn - mụ hầu già tầm thường… không đàn ông nào muốn nhìn mụ đến lần thứ hai… Trên đường còn cãi cọ với cảnh sát… bảo tôi không đủ khả năng lái xe… vớ vẩn… Tôi sẽ bảo với bà Bulstrode là tôi mang các con tôi về - muốn chúng ở nhà, tình mẫu tử. Điều kỳ diệu, tình mẫu tử…”
“Thật tốt đẹp, thưa bà Veronica,” bà Chadwick nói. “Chúng tôi cũng rất vui vì bà đã đến đây. Tôi đặc biệt muốn bà tham quan Cung Thể thao mới xây. Bà sẽ thích cho mà xem.” Bà khéo léo dẫn bà Veronica đang bước loạng choạng theo hướng ngược lại, xa khỏi tòa học xá.
“Tôi nghĩ chúng ta sẽ gặp các con bà ở đây,” bà nói khẽ. “Cung thể thao thật đẹp, có tủ đựng đồ mới, và phòng phơi đồ bơi…” tiếng họ xa dần.
Bà Bulstrode quan sát. Bà Veronica cố vùng thoát và quay lại tòa nhà, nhưng bà Chadwick là một đối thủ tương xứng. Họ biết mất chỗ những khóm đỗ quyên, tiến về cung thể thao đơn độc mới xây ở đằng xa.
Bà Bulstrode cất tiếng thở nhẹ nhõm. Chaddy thật tuyệt. Thật đáng tin cẩn! Không phải kiểu người hiện đại. Không thông minh - ngoại trừ môn tính toán - nhưng luôn hiện diện kịp thời để xử lý rắc rối.
Bà quay sang bày tỏ vẻ cáo lỗi với bà Upjohn, người vẫn hồ hỏi trò chuyện từ nãy đến giờ…
“… dù, dĩ nhiên,” bà ta đang nói, “không bao giờ là những chuyện bí mật và âm mưu. Không phải chuyện nhảy dù, hay phá hoại, hay làm gián điệp. Tôi không đủ can đảm như vậy. Công việc đa phần là tẻ nhạt. Việc văn phòng. Và sơ đồ. Vẽ mọi thứ lên bản đồ, ý tôi là thế - không phải tạo âm mưu. Nhưng dĩ nhiên, công việc đôi khi cũng gây phấn khích và thường thì rất vui, như tôi vừa nói - mọi mật vụ. Đều theo dõi nhau quanh Geveva, và tất cả đều biết mặt nhau, và
thường vào cùng một quán bar. Lúc đấy tôi chưa kết hôn, dĩ nhiên. Mọi thứ thật tuyệt.”
Bà ta dừng lại đột ngột với nụ cười thân thiện và hối lỗi. “Xin lỗi, tôi đã nói nhiều quá. Mất nhiều thời gian của bà. Trong khi bà còn phải tiếp đón nhiều người như vậy.” Bà ta chìa tay, nói lời tạm biệt, rồi bước ra.
Bà Bulstrode đứng lên, nhíu mày một lát. Bản năng mách bảo bà đã để lỡ điều gì đó quan trọng.
Bà gạt cảm xúc đó đi. Hôm nay là ngày khai giảng kì học hè, và bà phải tiếp đón nhiều bậc phụ huynh. Chưa bao giờ trường của bà lại được ưa chuộng như thế, được đảm bảo thành công hơn thế. Meadowbank đang ở đỉnh cao.
Không điều gì mách bảo bà rằng trong vài tuần nữa, Meadowbank sẽ bị nhúng chìm vào biển rắc rối; rằng sự rối loạn, lộn xộn và vụ giết người sẽ ngự trị ở đây, và một số sự kiện đã bắt đầu diễn ra rồi…
1
CÁCH MẠNG ở RAMAT
Chừng hai tháng trước ngày khai giải học kì hè ở Meadowbank, một số sự kiện đã xảy ra gây tác động bất ngờ đến ngôi trường nữ sinh nổi tiếng này.
Trong Điện Ramat, hai thanh niên đang ngồi hút thuốc và suy tính về tương lai trước mắt. Một người thanh niên tóc nâu, khuôn mặt màu ô liu, dịu dàng, và đôi mắt lớn u buồn. Đó là Quốc vương Ali Yusuf, người thừa kế Tiểu quốc Ramat, một vương quốc tuy nhỏ, nhưng lại giàu nhất vùng Trung Đông. Người thanh niên còn lại tóc vàng sẫm, mặt tàn hương, và gần như nghèo kiết xác, ngoại trừ khoản tiền lương hậu hĩnh anh nhận được khi làm phi công riêng của Quốc vương Ali Yusuf. Dù địa vị khác nhau, họ lại hết sức bình đẳng. Họ đã học chung một trường công, và là bạn bè kể từ hồi ấy.
“Họ nhắm vào chúng ta đấy, Bob,” Quốc vương nói giọng đầy ngờ vực.
“Họ nhằm vào chính chúng ta,” Bob Rawlinson nói. “Và họ cố ý làm thế. Họ cố ý hạ chúng ta.”
“Quân khốn kiếp cố ý làm thế,” Bob nói dứt khoát.
Ali suy xét một lát.
“Chẳng lẽ không đáng thử lần nữa sao?”
“Lần này có lẽ chúng ta không may mắn đâu. Sự thật là, Ali ạ, chúng ta để mọi chuyện quá trễ rồi. Anh lẽ ra phải đi từ hai tuần trước. Tôi đã bảo anh rồi.”
“Có ai muốn bỏ trốn đâu,” người trị vì Ramat nói.
“Tôi hiểu ý anh. Nhưng anh có nhớ Shakespeare hay gã thi sĩ nào đấy viết về kẻ bỏ trốn sống để chờ ngày báo thù không.”
“Cứ nghĩ,” vị Quốc vương trẻ tuổi nói đầy xúc động, “về số tiền đã đổ vào để xây dựng nhà nước phúc lợi này. Các bệnh viện, trường học, dịch vụ y tế…”
Bob Rawlinson ngăn dòng chảy ấy lại.
“Sứ quán không thể làm gì sao?”
Ali Yusuf đỏ mặt giận giữ.
“Tị nạn trong sứ quán nước cậu sao? Không bao giờ. Những kẻ cực đoan sẽ xông vào đó - bọn họ sẽ không tôn trọng quyền miễn trừ ngoại giao đâu. Hơn nữa, nếu tôi làm vậy, thế sẽ thật sự chấm dứt! Lời cáo buộc chủ yếu hiện nay đã cho rằng tôi là kẻ thân phương Tây.” Anh thở dài. “Thật khó hiểu.” Giọng anh đăm chiêu, trẻ hơn rất nhiều cái tuổi hai lăm của anh. “Ông tôi là một người tàn nhẫn, một kẻ bạo chúa thực sự. Ông có hàng trăm nô lệ và đối xử nhẫn tâm với họ. Trong cuộc chiến bộ lạc, ông đã giết kẻ thù của mình không thương xót và xử tử họ thật ghê rợn.
“Chỉ cần nhắc thầm tên ông thôi cũng khiến mọi người xây xẩm mặt mày. Ấy thế mà - ông vẫn là huyền thoại! Được ngưỡng mộ! Được tôn trọng! Achmed Abdulla vĩ đại! Còn tôi! Tôi đã làm gì? Xây bệnh viện và trường học, làm phúc lợi, tạo chỗ ở… tất cả những thứ được cho là người dân muốn. Họ không muốn những thứ đó sao? Họ thích sự cai trị khủng bố của ông tôi sao?”
“Tôi nghĩ vậy,” Bob Rawlinson nói. “Có vẻ hơi bất công, nhưng đúng là vậy.”
“Nhưng tại sao hả Bob? Tại sao?”
Bob Rawbinson thở dài, vật vã và gắng sức diễn giải điều anh nghĩ. Anh phải đánh vật với tài diễn đạt kém cỏi của mình.
“À,” anh nói. “Ông ấy dựng lên một vở diễn - tôi cho điều đó là thực. Ông như một người gây kịch tính, nếu anh hiểu tôi nói gì.”
Anh nhìn bạn mình, con người không hề ra vẻ kịch tính. Một kẻ tốt bụng, lịch lãm và trầm tính, chân thành và thâm trầm, Ali là như vậy, và Bob quý mến bạn mình vì lẽ đó. Anh không phải người màu mè cũng không ưa bạo lực. Ở Anh những người màu mè và bạo lực thường gây khó xử và không được quý mến, nhưng Bob dám chắc, ở Trung Đông thì lại khác.
“Nhưng nền dân chủ…” Ali bắt đầu.
“Ồ, dân chủ…” Bob khua ống tẩu. “Từ này ở mỗi nơi ý nghĩa mỗi khác. Có một điều chắc chắn. Nó không bao giờ mang nghĩa gốc khi người Hi Lạp sinh ra nó. Tôi cá bất cứ cái gì với anh rằng nếu bọn họ ép anh ra khỏi nơi này, sẽ có một gã con buôn chém gió xuất hiện lên nắm quyền, kêu gào ca ngợi hắn, tạo hình ảnh hắn là Thượng đế Toàn năng, và treo cổ hoặc chặt đầu bất cứ ai dám chống lại hắn dưới mọi hình thức. Và, tôi lại cá với anh, hắn sẽ nói đó là một Chính phủ Dân chủ - của dân và vì dân. Tôi đồ rằng người dân cũng thích chính phủ đó. Phấn khích vì nó. Rất nhiều máu rơi.”
“Nhưng chúng ta đâu còn hoang dã! Ngày nay chúng ta đã văn minh rồi.”
“Văn minh cũng có nhiều loại…” Bob nói mơ hồ. “Hơn nữa - tôi trộm nghĩ trong bản thân chúng ta ai chẳng có chút tính man rợ - nếu chúng ta tạo được cớ để nó phát tiết ra.”
“Có lẽ cậu đúng,” Ali ủ rũ nói.
“Ngày nay, điều người dân không muốn có ở bất cứ đâu,” Bob nói, “ấy là người biết lý lẽ một chút. Chưa bao giờ tôi là kẻ thông minh - vâng, anh biết rõ điều đó mà Ali - nhưng tôi thường nghĩ rằng đấy là điều thế giới thực sự cần đến - chỉ một chút lý lẽ.” Anh bỏ ống tẩu xuống và ngồi vào ghế của mình. “Nhưng đừng bao giờ để tâm mấy chuyện đó. Vấn đề là làm thể nào đưa anh ra khỏi đây. Trong quân đội còn ai anh có thể thực sự tin tưởng không?”
Chầm chậm, Quốc vương Ali Yusuf lắc đầu.
“Cách đây hai tuần, hẳn tôi sẽ nói Có. Nhưng bây giờ, tôi không biết… không thể dám chắc…”
Bob gật đầu. “Vấn đề là ở đó. Ngay giữa cung điện của anh, thật kinh hãi.”
Ali đồng thuận không chút cảm xúc.
“Đúng, trong các cung điện gián điệp ở khắp nơi… Bọn chúng nghe tất - biết tất.”
“Thậm chí ở nhà để máy bay…” Bob thốt ra. “Achmed nói đúng. Ông ta có giác quan thứ sáu. Phát hiện một thợ máy lục lọi trong máy bay - một người hẳn chúng ta dám thề là đáng tin. Này, Ali, nếu chúng ta bị bắn trong khi đưa anh ra khỏi đây, thì điều đó sẽ xảy ra sớm thôi.”
“Tôi biết - tôi biết. Tôi nghĩ - lúc này tôi khá chắc chắn - rằng nếu ở lại tôi sẽ bị giết.”
Anh nói không chút cảm xúc, hay lo sợ: thoáng vẻ thích thú bàng quan.
“Khả năng chúng ta bị giết là rất cao,” Bob cảnh báo bạn. “Chúng ta sẽ bay về phía bắc, anh biết đấy. Họ không thể chắn chúng ta hướng đó. Nhưng thế có nghĩa phải bay qua núi - và vào thời điểm này trong năm…”
Anh nhún vai. “Anh phải hiểu. Điều đó hết sức nguy hiểm.” Trông Ali Yusuf ủ rũ.
“Nếu có chuyện gì xảy ra với cậu, Bob…”
“Đừng lo cho tôi, Ali. Ý tôi không phải vậy. Tôi thì không quan trọng. Và dù sao, loại người như tôi sớm muộn gì cũng bị giết thôi. Tôi luôn làm những việc điên rồ. Không - chính là anh đấy - tôi không muốn
thuyết phục anh bằng mọi giá. Nếu một bộ phận quân đội mà trung thành…”
“Tôi không thích chạy trốn,” Ali nói giản dị. “Nhưng tôi không hề muốn trở thành kẻ bạo chúa, bị đám đông xé ra từng mảnh.”
Anh yên lặng một lát.
“Tốt lắm,” cuối cũng anh thở dài nói. “Chúng ta sẽ thử. Bao giờ đây?”
Bob nhún vai.
“Càng sớm càng tốt. Phải đưa anh ra sân bay một cách tự nhiên… Cứ bảo là anh sẽ đi kiểm tra việc làm đường mới ở Al Jasar xem thế nào? Ý định bất chợt. Chiều nay đi. Rồi khi xe của anh đi qua bãi đáp, thì dừng ở đấy - Tôi sẽ cho máy bay nổ máy sẵn sàng. Ý đồ là sẽ để kiểm tra từ trên không việc xây dựng đường, anh hiểu chứ? Chúng ta sẽ cất cánh và biến! Chúng ta không thể mang hành lý, dĩ nhiên. Tất cả phải hoàn toàn ứng biến.”
“Tôi không muốn mang theo gì - ngoại trừ một thứ…” Anh mỉm cười, và đột nhiên nụ cười làm thay đổi khuôn mặt anh, biến anh thành con người khác. Anh không còn là người thanh niên tây hóa hiện đại và có lương tâm nữa - nụ cười chứa đựng nét xảo trá và thủ đoạn mang tính chủng tộc, nó giúp tổ tiên anh tồn tại qua nhiều thế hệ.
“Cậu là bạn tôi, Bob ạ, cậu sẽ thấy.”
Anh đưa tay lục tìm trong áo. Rồi anh chìa ra một túi nhỏ làm từ da sơn dương.
“Cái này à?” Bob nhíu mày và tỏ vẻ bối rối.
Ali nhận lấy từ bạn, tháo dây buộc cổ túi, và đổ lên bàn. Bob nín hơi một lúc rồi thở ra qua tiếng huýt gió nhẹ. “Trời đất ơi. Chúng là thật ư?”
Ali ra vẻ thích thú.
“Dĩ nhiên là thật. Hầu hết là của bố tôi. Hàng năm ông lại mua những viên mới. Tôi cũng vậy. Chúng xuất xứ từ nhiều nơi khác nhau, được những người mà gia đình chúng tôi tin cẩn mua giúp - từ London, từ Calcutta, từ Nam Phi. Đó là truyền thống của gia đình. Giữ chúng phòng khi cần đến.” Anh bình thản nói. “Theo giá ngày nay, chúng khoảng bảy trăm năm chục ngàn.”
“Bảy trăm năm chục ngàn bảng.” Bob lại huýt gió, nhặt những viên đá lên, để chúng trôi tuột qua kẽ tay. “Thật kỳ diệu. Như trong truyện cổ tích. Nó được việc cho anh lắm đấy.”
“Đúng vậy.” Người thanh niên da sẫm gật đầu. Vẻ mệt mỏi cô hữu lại hiện trên khuôn mặt anh. “Khi nhìn thấy đá quý, con người ta không còn là chính mình nữa. Luôn có một dấu vết bạo lực kèm theo chúng. Những xác người, những vụ đâm chém, giết chóc. Phụ nữ thì còn tệ hơn thế. Với phụ nữ, nó không chỉ là vật giá trị. Những viên đá quý đẹp làm phụ nữ phát điên. Họ muốn sở hữu chúng. Đeo chúng quanh cổ, lên ngực. Tôi không tin tưởng giao phó thứ này cho bất kỳ phụ nữ nào. Mà tôi sẽ giao cho cậu.”
“Tôi ư?” Bob nhìn chằm chằm.
“Đúng. Tôi không muốn những viên đá này rơi vào tay kẻ thù của tôi. Tôi không biết cuộc nổi loạn chống lại tôi bao giờ sẽ xảy ra. Có thể được dự tính là ngày hôm nay. Có lẽ chiều nay tôi không còn sống để ra bãi đáp nữa. Hãy cầm những viên đá này và làm điều tốt nhất cậu có thể làm.”
“Nhưng này - tôi không hiểu. Tôi phải làm gì với chúng đây?” “Bằng cách nào đó thu xếp để mang chúng ra khỏi đất nước này.” Ali điềm tĩnh nhìn người bạn đang lo lắng của mình. “Ý anh là, anh muốn tôi giữ chúng chứ không phải anh giữ à?”
“Cậu có thể nói như vậy. Nhưng tôi nghĩ, thực sự là cậu sẽ nghĩ ra một kế hoạch hay ho hơn để mang chúng đến châu Âu.”
“Nhưng Ali này, tôi còn chưa biết trước hết nên làm gì với thứ như vậy nữa là.”
Ali lại tựa vào ghế. Anh mỉm cười một cách lặng lẽ và thích thú.
“Cậu biết lý lẽ. Và cậu trung thực. Và tôi còn nhớ từ hồi cậu làm đầu sai cho tôi, cậu bao giờ cũng có thể nghĩ ra những ý tưởng tài tình… Tôi sẽ đưa cho cậu tên và địa chỉ của một người, và người ấy sẽ xử lý những vấn đề này cho tôi - nghĩa là - nhỡ đâu tôi không còn sống.
Đừng tỏ ra lo lắng như vậy, Bob. Cứ làm điều tốt nhất cậu có thể làm. Tôi chỉ đòi hỏi vậy thôi. Tôi sẽ không trách cậu nếu cậu không làm được. Đó là ý chí của thánh Allah. Với tôi, điều đó đơn giản lắm. Tôi không muốn người ta lấy những viên đá quý này từ xác chết của tôi. Những chuyện còn lại…” anh nhún vai. “Như tôi đã nói đấy. Tất cả đều theo ý Allah.”
“Anh điên rồi!”
“Không. Tôi là người theo thiên mệnh, thế thôi.”
“Nhưng Ali này. Anh bảo tôi là người trung thực. Nhưng bảy trăm năm mươi ngàn… Anh không nghĩ nó sẽ hút hết lòng trung thực của bất kỳ ai sao?”
Ali Yusuf nhìn bạn mình trìu mến.
“Thật lạ đấy,” anh nói, “về chuyện đó thì tôi không hề nghi ngờ gì cả.”
2
NGƯỜI PHỤ Nữ TRÊN BAN-CÔNG
Khi Bob Rawlinson đi dọc hành lang đá cẩm thạch vọng âm trong cung điện, trong đời mình, chưa bao giờ anh cảm thấy lo phiền đến thế. Biết rằng mình đang mang bảy trăm năm mươi ngàn bảng trong túi quần khiến anh lên cơn đau cấp tính. Anh cảm giác như thể mọi người làm trong cung điện mà anh gặp hẳn đều biết sự việc. Anh thậm chí còn cảm giác như cái gánh nặng ghê gớm kia hiện rõ trên nét mặt anh. Hẳn anh sẽ nhẹ lòng khi biết được rằng khuôn mặt đầy tàn hương ấy của anh vẫn giữ nguyên vẻ đôn hậu tươi tắn thường ngày.
Lính gác bên ngoài bồng súng chào lách cách. Bob bước ra con phố lớn sầm uất của Ramat, đầu óc anh vẫn choáng váng. Anh đang đi đâu đây? Anh sẽ làm gì đây? Anh không hề biết. Mà thời gian lại gấp rút.
Con phố lớn trông như những con phố lớn khác ở Trung Đông. Đấy là sự pha trộn giữa nghèo đói và hoa lệ. Các ngân hàng mới xây lên những tòa nhà nguy nga lộng lẫy. Vô số những cửa hiệu nhỏ trưng bày hàng nhựa rẻ tiền. Giày len trẻ em, bật lửa rẻ tiền bày sát nhau. Những chiếc máy khâu và phụ kiện ô tô. Các cửa hàng dược bày những loại thuốc có thương hiệu nhưng kém phẩm chất, và dễ nhận thấy đủ loại penicillin, kháng sinh thì vô kể. Họa hoằn lắm mới bắt gặp các cửa hiệu có thứ mà bạn muốn mua, ngoài trừ hàng trăm chiếc đồng hồ Thụy Sĩ đời mới được bày chi chít trước một ô cửa sổ nhỏ. Hàng hóa đủ chủng loại đến mức dù bạn có né tránh mua hàng, thì vẫn lóa mắt trước sự ngồn ngộn chất đống ấy.
Vẫn bước đi trong trạng thái sững sờ, bị xô đẩy bởi những người trong trang phục bản địa hoặc Âu phục, Bob trấn tĩnh lại và lại tự hỏi anh sẽ đến chỗ quái nào đây?
Anh rẽ vào một quán cà phê bản địa, và gọi trà chanh. Khi nhấp trà, anh bắt đầu, chầm chậm, tỉnh ra. Không khí trong quán cà phê thật dịu dàng. Ở bàn đối diện anh là một lão niên Ả Rập đang thanh thản gõ chuỗi hạt hổ phách. Đằng sau ông ta là hai người đang chơi tric trac. Đây quả là nơi phù hợp để ngồi xuống và suy nghĩ.
Và anh phải suy nghĩ. Món châu báu trị giá bảy trăm năm chục ngàn đã được giao cho anh, và chính anh phải thảo một kế hoạch đưa chúng ra khỏi đất nước này. Không còn thời gian. Tình hình có thể xấu đi bất kỳ lúc nào…
Ali điên rồi, dĩ nhiên. Vô tư ném ba phần tư triệu vào tay một người bạn. Và rồi ngồi yên phó mặc mọi sự cho Allah. Bob không có được chỗ dựa như thế. Chúa của Bob mong các con chiên của Người quyết định và tự thực hiện hành động theo khả năng Chúa đã trao cho họ.
Anh sẽ làm quái gì với mấy viên đá chết tiệt ấy đây?
Anh nghĩ đến Sứ quán. Không, anh không thể để Sứ quán dính vào được. Sứ quán chắc chắn sẽ không chịu nhúng tay vào.
Anh cần một ai đó, một người tuyệt đối bình thường sắp rời đất nước này theo một cách tuyệt đối bình thường. Một doanh nhân, hay tốt nhất là một khách du lịch. Ai đó không liên quan đến chính trị, và hành lý của họ sẽ chỉ bị lục soát hời hợt, hay nhiều khả năng hơn là không kiểm tra gì cả. Dĩ nhiên, còn phải tính đến trạm bên kia nữa… Kiểm tra ở phía sân bay London. Nỗ lực mang những viên đá quý trị giá ba phần tư triệu nhập cảnh. Rồi chuyện này chuyện nọ. Phải liều lĩnh thôi…
Ai đó bình thường - một khách du lịch thứ thiệt. Và đột nhiên anh tự rủa mình là thằng ngốc. Joan, dĩ nhiên rồi. Chị gái của anh, Joan Sutcliffe. Joan đã đến đây được hai tháng cùng cô con gái Jennifer, cô bé sau một trận viêm phổi tồi tệ được bác sĩ chỉ định phải ở nơi khí hậu khô và nhiều ánh nắng. Họ sẽ về nước bằng đường biển trong bốn ngày tới.
Joan là người lý tưởng. Ali đã nói gì về phụ nữ và trang sức nhỉ? Bob tự giễu mình. Joan thánh thiện! Chị ấy sẽ không mất trí vì trang sức đâu. Tin tưởng chị ấy sẽ hiểu rõ thực tế. Đúng rồi - anh có thể tin ở Joan.
Đợi đã, nhưng mà… anh có thể tin Joan được không? Sự chân thật của chị ấy, có. Nhưng sự thận trọng? Bob lấy làm tiếc mà lắc đầu. Joan sẽ nói, sẽ không thể nào giữ mồm miệng được. Thậm chí còn tệ hơn. Chị ấy sẽ nói bóng gió. “Tôi đang mang về nước một thứ cực kỳ quan trọng, tôi không được nói một lời nào với bất kỳ ai. Thật sự khá là hồi hộp đấy…”
Joan chưa bao giờ có thể giữ trong lòng một điều gì, dù chị ấy luôn nổi giận nếu người ta bảo chị như vậy. Vì thế, Joan không nên biết chị mang gì về. Như thế tốt hơn cho chị ấy. Anh sẽ cho chúng vào một gói hàng, một gói hàng trông hết sức bình thường. Bịa ra chuyện gì đó. Một món quà cho ai đó chẳng hạn? Một khoản hoa hồng? Anh nghĩ ra một ý…
Bob liếc đồng hồ và đứng lên. Thời gian đang trôi đi.
Anh tản bước dọc theo con phố, chẳng để ý đến cái nắng ban trưa. Mọi thứ dường như quá đỗi bình thường. Bề ngoài không biểu hiện một điều gì cả. Chỉ có trong cung là nơi người ta nhận thấy ngọn lửa âm ỉ cháy, hoạt động gián điệp, những tiếng thầm thì. Quân đội - tất cả tùy thuộc vào quân đội. Ai trung thành đây? Ai phản trắc đây? Một cuộc đảo chính chắc chắn sẽ được tiến hành. Liệu nó sẽ thành công hay thất bại?
Bob nhíu mày khi rẽ vào khách sạn hàng đầu của Ramat. Nó được khiêm tốn gọi là Ritz Savoy và có mặt tiền hiện đại uy nghi. Nó đã khai trương đình đám ba năm trước, với một quản lý người Thụy Sĩ, một đầu bếp thành Viên, và một trưởng nhóm phục vụ người Ý. Mọi thứ từng rất tuyệt vời. Đầu bếp thành Viên ra đi trước, rồi tới lượt quản lý người Thụy Sĩ. Giờ trưởng nhóm phục vụ người Ý cũng đi nốt. Đồ ăn vẫn rất cầu kỳ, nhưng tệ hại, dịch vụ thật kinh khủng, và phần lớn hệ thống đường ống, thiết bị nhà tắm, vệ sinh đắt tiền đều đã hỏng bét.
Nhân viên đứng quầy biết rõ Bob, và hớn hở chào anh.
“Xin chào anh Đại úy. Anh muốn gặp chị gái phải không? Bà ấy đã đi picnic cùng cô con gái rồi…”
“Picnic ư?” Bob giật mình bối rối - đi picnic vào thời điểm này quá không còn gì ngớ ngẩn hơn.
“Cùng ông bà Hurst ở Công ty Dầu khí,” viên lễ tân bổ sung thông tin. Mọi người đều biết tuốt. “Họ đã đến Đập Kalat Diwa.”
Bob rủa thầm trong bụng. Phải mấy tiếng nữa Joan phải mới về.
“Tôi sẽ lên phòng chị ấy,” anh nói và đưa tay ra lấy chìa khóa gã lễ tân đưa cho.
Anh mở khóa đi vào. Căn phòng, loại phòng lớn có giường đôi, hỗn độn như thường lệ. Joan Sutcliffe không phải là típ phụ nữ ngăn nắp. Gậy đánh golf nằm trên ghế, vợt tennis vứt trên giường. Quần áo ở đâu cũng có, bàn thì bày bừa những cuộn phim, bưu thiếp, sách bìa mềm và đủ loại đồ vật quý giá từ miền Nam, hầu hết được sản xuất ở Birmingham và Nhật Bản.
Bob nhìn quanh, nhìn vào những chiếc vali và túi kéo khóa. Anh phải đối mặt với một vấn đề. Anh không thể gặp Joan trước khi chở Ali trốn đi. Không thể có đủ thì giờ đến con đập rồi quay lại được. Anh có thể gói món đồ và để lại, kèm theo một bức thư - nhưng ngay lập tức anh lắc đầu. Anh biết khá rõ rằng anh gần như luôn bị theo dõi. Có lẽ anh đã bị theo dõi ngay từ cung đến quán cà phê, và từ quán cà phê đến đây. Dù không phát hiện ra ai song anh biết họ theo dõi rất tài tình. Việc anh đến thăm chị gái ở khách sạn thì không có gì phải nghi ngờ - nhưng nếu anh để lại một gói hàng cùng một bức thư, bức thư sẽ bị đọc và gói hàng sẽ bị mở ra.
Thời gian… Thời gian… Anh không có thời gian…
Những viên đá quý trị gia ba phần tư triệu đang nằm trong túi quần anh.
Anh nhìn quanh phòng…
Rồi, với một cái nhếch mép, anh lấy từ trong túi ra bộ dụng cụ nhỏ anh luôn mang theo. Cháu gái Jennifer của anh có đất dẻo, anh để ý, như vậy có thể hữu ích.
Anh thao tác nhanh chóng và khéo léo. Có lần vì nghi ngờ, anh ngước lên, mắt anh nhìn về phía cửa sổ đang mở. Không, ngoài cửa sổ không có ban công. Chỉ là thói lo lắng khiến anh cảm thấy mình đang bị dòm ngó.
Anh hoàn tất nhiệm vụ và gật đầu tán thưởng. Không ai sẽ để ý đến việc anh vừa làm - anh cảm thấy chắc như vậy. Cả Joan hay bất kỳ ai khác. Chắc Jennifer lại càng không, một đứa bé luôn cho mình là
trung tâm, nó không bao giờ thấy hay để ý cái gì khác ngoài bản thân.
Anh xóa hết mọi bằng chứng việc mình vừa làm rồi bỏ chúng vào túi… Rồi anh dè dặt nhìn xung quanh.
Anh lôi tập giấy của bà Sutcliffe ra trước mặt và ngồi cau mày… Anh phải để lại cho Joan một bức thư…
Nhưng anh có thể nói gì đây? Đó phải là điều gì mà Joan hiểu được - nhưng lại là điều không có ý nghĩa gì với ai khác đọc bức thư.
Và thực sự điều đó là không thể! Trong những truyện kinh dị Bob thích đọc để giết thì giờ nhàn rỗi, người ta thường để lại một dạng mật mã để ai đó sẽ hóa giải thành công. Nhưng thậm chí đến cả thư mã hóa anh cũng không nghĩ đến - và dù sao đi nữa Joan là kiểu người phải gợi ý sát sao mới nhận ra vấn đề…
Rồi anh thôi cau mày. Có một cách khác - chuyển hướng chú ý của Joan - để lại một bức thư bình thường. Rồi để lời nhắn lại cho người khác liên hệ với Joan ở Anh. Anh viết thật nhanh…
Joan thân mến -
Em ghé qua hỏi xem chị tối nay chị có thích làm một trận golf không, nhưng vì chị đã tham quan đập, hẳn đến lúc về chị cũng buồn ngủ lắm rồi. Ngày mai thì sao? Năm giờ ở Câu lạc bộ nhé.
Em của chị, Bob.
Một lời nhắn bình thường để lại cho một người chị gái mà có lẽ anh không bao giờ gặp lại - nhưng càng bình thường lại càng tốt. Joan không được dính líu vào bất cứ chuyện gì khác thường, thậm chí không được biết rằng có những việc khác thường ấy trên đời. Joan không biết che giấu điều gì. Điều bảo vệ bà chính là việc bà rõ ràng không biết gì cả.
Và bức thư sẽ đạt được hai mục tiêu. Nó tỏ ra anh không có kế hoạch chạy trốn.
Anh nghĩ ngợi mấy phút, rồi anh đến bên điện thoại và bấm số Đại sứ quán Anh. Anh được nối máy với Edmundson, giữ hàm bí thư thứ ba, một người bạn của anh.
“John hả? Bob Rawlinson đây. Cậu có thể gặp tớ đâu đó sau giờ làm không?… Sớm hơn được không?… Phải như vậy, anh bạn ạ. Quan trọng đấy. À, thực ra là về một cô gái…” Anh ho một tiếng ra ý xấu hổ. “Cô ấy tuyệt vời, rất tuyệt vời. Trên cả tuyệt vời. Chỉ là hơi khó đối phó thôi.”
Giọng của Edmundson, nghe hơi nghẹn vì áo sơ mi chít cổ và có vẻ khó chịu, “Thực ư, Bob, cậu và các cô gái của cậu. Được rồi, hai giờ được không?” rồi cúp máy. Bob nghe tiếng tích nhỏ vọng lại, cơ hồ ai đó đang nghe trộm, qua một tai nghe khác.
Edmundson tốt bụng. Vì mọi điện thoại Ở Ramat bị nghe lén, Bob và Edmundson đã tìm ra một mẹo mã hóa nhỏ cho riêng họ. Một cô gái tuyệt vời “trên cả tuyệt vời” nghĩa là có chuyện khẩn cấp quan trọng.
Edmundson sẽ lái xe đến đón anh ở ngoài Ngân hàng Merchants, lúc hai giờ, và anh sẽ bảo Edmundson chỗ bí mật. Anh bảo anh ta rằng Joan không biết gì, nhưng rằng, nếu có chuyện xảy ra với anh,
điều này quan trọng lắm. Đi đường biển thì Joan và Jennifer phải sáu tuần nữa mới quay về Anh. Lúc ấy cuộc cách mạng hẳn đã xảy ra, có thể thành công hoặc bị đàn áp. Ali Yusuf hẳn sẽ ở châu Âu, hay cả anh ta và Bob hẳn đã chết rồi. Anh sẽ nói với Edmundson vừa đủ, nhưng không quá nhiều.
Bob nhìn lại căn phòng lần cuối. Trông nó vẫn y nguyên, thanh bình, bừa bộn, như ở trong nhà. Thứ duy nhất được thêm vào là bức thư vô thưởng vô phạt anh gửi Joan. Anh để thư lên bàn rồi đi ra. Dọc hành lang không có ai.
Người phụ nữ ở kế bên phòng của Joan Sutcliffe lùi khỏi ban công. Trong tay cô ta cầm một tấm gương.
Cô đã ra ban công, ban đầu chỉ là để xem kỹ hơn một sợi lông dám cả gan mọc trên cằm cô. Cô xử lý nó bằng chiếc nhíp, rồi sau đó để cho khuôn mặt hưởng chút ánh mặt trời trong vắt.
Ngay lúc ấy, khi cô thư giãn, cô nhận thấy một chuyện khác. Cô đang giữ tấm gương ở một góc có thể phản chiếu hình của chiếc gương tủ đang mở ở phòng kế bên, và trong tấm gương đó, cô thấy một người đàn ông đang làm một việc rất gây tò mò.
Quá tò mò và bất ngờ đến nỗi cô đứng đó bất động và quan sát. Anh ta đang ngồi cạnh bàn, hẳn không thể nào nhìn thấy cô, còn cô chỉ nhìn thấy anh qua hai lần gương chiếu.
Nếu anh quay đầu ra sau, hẳn anh sẽ nhìn thấy hình ảnh cô trong gương tủ, nhưng anh quá chú tâm vào việc mình đang làm, nên không nhìn ra phía sau…
Đúng vậy, có một lần, anh đã bất thình lình nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng ở ngoài đấy chảng có gì để nhìn cả, nên anh lại cúi đầu xuống.
Người phụ nữ quan sát trong khi anh hoàn tất việc đang làm. Sau một thoáng ngưng lại, anh viết một bức thư để lên bàn. Rồi anh ra khỏi tầm nhìn của cô, nhưng cô loáng thoáng nhận ra rằng anh đang
gọi một cuộc điện. Cô không thể nghe rõ được, nhưng có vẻ không nghiêm trọng. Rồi cô nghe tiếng cửa đóng lại.
Người phụ nữ đợi chừng vài phút. Rồi cô mở cửa phòng mình. Phía đầu kia hành lang, một người Arab đang trễ nải phẩy cây phất trần, ông ta rẽ đoạn góc hành lang, rồi khuất tầm mắt.
Người phụ nữ len nhanh vào cánh cửa phòng kế bên. Cửa đã khóa, nhưng cô đã tính đến điều đó. Cái kẹp tóc cô mang theo và con dao nhíp nhỏ mở khóa nhanh chóng và thành thạo.
Cô vào trong, đóng cửa lại. Cô nhặt bức thư lên. Nắp bì thư được dán hời hợt nên mở dễ dàng. Cô đọc thư, chau mày. Không có lời giải thích ở đây.
Cô dán thư lại, bỏ xuống, rồi bước trong phòng.
Rồi lúc vừa với tay ra, cô giật mình vì tiếng nói từ dưới sân vọng qua cửa sổ.
Một giọng nói mà cô biết là của người thuê căn phòng cô đang đứng đây. Và một giọng nói quyết đoán và mô phạm, giọng nói hoàn toàn tự tin.
Cô lao đến cửa sổ.
Dưới sân, Joan Sutcliffe, cùng con gái là Jennifer, một cô bé mười lăm tuổi, khỏe khoắn, đang nói cho cả thế giới và một người dáng cao, vẻ khổ sở, hình như là người Anh làm ở Lãnh sự, rằng bà nghĩ sao về việc anh ta vừa nói.
“Nhưng thế thật ngớ ngẩn! Tôi chưa bao giờ nghe chuyện gì vô lí như vậy. Mọi thứ đều hoàn toàn yên tĩnh ở đây, và mọi người khá hài lòng. Tôi nghĩ chỉ người ta cứ làm ầm lên để gây hoang mang thôi.”
“Chúng tôi hi vọng như vậy, thưa bà Sutcliffe, chúng tôi chắc chắn hi vọng như vậy. Như ngài Đại sứ cảm thấy có trách nhiệm…”
Bà Sutcliffe cắt lời. Bà không định xem xét trách nhiệm của các đại sứ.
“Chúng tôi có nhiều hành lý, anh biết đấy. Chúng tôi sẽ đi đường biển - vào thứ Tư tới. Chuyến đi biển sẽ tốt cho Jennifer. Bác sĩ đã bảo vậy. Tôi chắc chắn nói không về chuyện thay đổi kế hoạch sắp xếp trước để bay về Anh hối hả như vậy.”
Người đàn ông vẻ khổ sở ấy động viên rằng bà Sutcliffe và con gái bà có thể không bay về Anh, mà qua Aden và đón thuyền ở đó.
“Với hành lý của chúng tôi sao?”
“Vâng, vâng, chuyện đó có thể thu xếp. Tôi có một chiếc xe đang đợi - xe chở đồ. Chúng tôi có thể xếp mọi thứ lên ngay.”
“Ô vâng.” Bà Sutcliffe đầu hàng. “Tôi nghĩ chúng tôi nên soạn đồ.” “Ngay lập tức, nếu bà không phiền.”
Người phụ nữ đang trong phòng ngủ rút lui vội vàng. Cô lướt nhìn vội địa chỉ ghi trên nhãn hành lý đính vào vali. Rồi cô lẻn nhanh ra khỏi phòng và về phòng mình ngay vừa lúc bà Sutcliffe rẽ nơi góc hành lang.
Nhân viên văn phòng đang chạy theo bà.
“Em trai bà, ngài Đại úy, đã đến đây, thưa bà Sutcliffe. Anh ấy lên phòng bà. Nhưng tôi nghĩ anh ấy đã đi rồi. Hẳn bà không kịp gặp anh ấy.”
“Ôi mệt mỏi quá,” bà Sutcliffe nói. “Cảm ơn anh,” bà nói với nhân viên lễ tân, rồi lại chỗ Jennifer, “Mẹ nghĩ cậu Bob cũng làm rùm beng lên. Mẹ không hề thấy chút dấu hiệu rối loạn nào trên phố. Khóa phòng này không đóng. Sao mấy người này bất cẩn thế chứ.”
“Có lẽ là cậu Bob,” Jennifer nói.
“Ước gì mẹ về kịp để gặp cậu ấy… ồ, có thư này.”
Bà xé phong thư ra.
“Dù sao thì Bob cũng không làm toáng lên,” bà nói vẻ chiến thắng. “Cậu ấy rõ ràng không hề biết gì về chuyện này. Bên ngoại giao cứ làm ầm ĩ lên, có vậy thôi. Mẹ ghét phải đóng đồ giữa cái nóng ban ngày. Căn phòng này như một cái lò vi sóng vậy. Nào, Jennifer, con lấy đồ trong ngăn kéo ra đi. Chúng ta phải lấy hết mọi thứ. Chúng ta có thể đóng gói lại sau.”
“Con chưa bao giờ chứng kiến một cuộc cách mạng cả,” Jennifer trầm tư nói
“Mẹ không cho là lần này con được trải nghiệm thử đâu,” mẹ cô bé gay gắt nói. “Sẽ như mẹ nói. Sẽ chẳng có gì xảy ra cả.”
Jennifer tỏ ra thất vọng.
3
GIỚI THIỆU ÔNG ROBINSON
Khoảng sáu tuần sau, một thanh niên thận trọng gõ cửa một căn phòng ở Bloomsbury và được mời vào. Đấy là một căn phòng nhỏ. Trước bàn, một người béo, tuổi trung niên đang ngồi sụp vào ghế. Ông ta mặc bộ vest nhàu nhĩ, vạt trước áo dính đầy tàn thuốc lá. Các cửa sổ đều khép chặt, không khí ngột ngạt.
“Nào?” người béo nói thăm dò, đôi mắt vẫn khép hờ. “Chuyện gì nữa đây?”
Đó là đại tá Pikeaway, mắt ông như đang buồn ngủ, hay kiểu mới mở mắt sau khi ngủ. Người ta còn bảo tên ông không phải Pikeaway, và rằng ông không phải đại tá. Nhưng điều tiếng thiên hạ thì đủ loại!
“Edmundson ở Bộ Ngoại giao đang có mặt ở đây, thưa sếp.” “Ô,” Đại tá Pikeaway nói.
Ông chớp mắt, ra vẻ như sắp ngủ tiếp rồi nói.
“Bí thư thứ ba ở Đại sứ quán Ramat hồi Cách mạng. Đúng không?” “Đúng vậy, thưa sếp.”
“Vậy thì, tôi nghĩ là nên gặp anh ta vậy,” Đại tá Pikeaway nói không tỏ chút gì hứng thú. Ông ngồi thẳng hơn một chút, và phủi tàn thuốc trước bụng.
Edmundson là một thanh niên dáng cao, tóc vàng, ăn vận rất đúng mực, phong thái phù hợp, và toát lên vẻ khó gần.
“Đại tá Pikeaway phải không? Tôi là John Edmundson. Người ta bảo - ừm - ông muốn gặp tôi.”
“Vậy ư? Hẳn là họ biết,” đại tá Pikeaway nói. “Mời ngồi,” ông nói thêm.
Mắt ông bắt đầu khép lại, nhưng trước khi khép mắt, ông nói: “Anh đã ở Ramat trong lúc xảy ra Cách mạng?”
“Đúng vậy. Một vụ bẩn thỉu.”
“Tôi cũng nghĩ vậy. Anh là bạn của Bob Rawlinson phải không?” “Vâng, tôi biết cậu ta khá rõ.”
“Đã từng biết thì đúng hơn,” đại tá Pikeaway nói. “Cậu ta đã chết.” “Vâng, thưa ông, tôi biết. Nhưng tôi không chắc…” anh dừng lại.
“Cậu không cần phải gồng mình thận trọng ở đây,” đại tá Pikeaway nói. “Ở đây chúng ta biết tất cả. Hoặc nếu không biết, thì chúng ta vờ như là biết. Rawlinson lái máy bay chở Ali Yusuf trốn khỏi Ramat vào ngày xảy ra Cách mạng. Không có tin tức máy bay kể từ đó. Hẳn đã hạ cánh vào một nơi không ai tiếp cận được, hoặc có thể đã gặp tai nạn. Đã tìm thấy mảnh vỡ một chiếc máy bay ở núi Arolez. Hai xác người. Tin tức sẽ được công bố cho báo chí vào ngày mai. Đúng không?”
Edmundson thừa nhận tin đó là đúng.
“Ở đây tất cả chúng ta đều biết việc này,” đại tá Pikeaway nói. “Thế nên chúng ta có mặt ở đây. Máy bay lao vào núi. Có thể vì điều kiện thời tiết. Có lý do để tin rằng đấy là âm mưu phá hoại. Bom hẹn giờ.
Chưa có báo cáo đầy đủ. Máy bay rơi vào một chỗ không tiếp cận được. Người ta đã treo phần thưởng cho ai tìm thấy, nhưng những chuyện này cần nhiều thời gian mới lọt ra. Vậy nên chúng ta phải cử chuyên gia đến xác minh. Những thủ tục nhiêu khê này, dĩ nhiên. Đề nghị chính phủ nước ngoài, phải được các bộ trưởng cho phép, chuyện bôi trơn - đấy là chưa kể đến việc nông dân địa phương
chiếm đoạt những thứ họ thấy có ích.” Ông ngừng lại và nhìn Edmundson.
“Rất buồn, toàn bộ chuyện này,” Edmundson nói. “Quốc vương Ali Yusuf lẽ ra đã là người trị vì khai sáng, với những nguyên tắc dân chủ.”
“Có lẽ vì thế mới đẩy anh chàng tội nghiệp vào cảnh đó,” đại tá Pikeaway nói. “Nhưng chúng ta không thể lãng phí thì giờ mà ngồi kể chuyện buồn về cái chết của những vị vua. Chúng tôi được yêu cầu làm những cuộc điều tra. Bởi các bên liên quan. Các bên, nghĩa là, những người mà Chính phủ giao phó.” Ông dò xét người thanh niên. “Anh hiểu ý tôi chứ?”
“Vâng, tôi có nghe được chuyện gì đó,” Edmundson nói dè dặt.
“Có lẽ anh đã nghe nói rằng, người ta không tìm thấy thứ gì giá trị trên xác của họ, hay trong xác máy bay, hay như tôi biết, người dân địa phương cũng chưa để ý được gì. Nhưng không chắc được, cánh nông dân cũng biết leo núi như các nhân viên Ngoại giao. Anh còn nghe được tin gì nữa?”
“Không gì cả.”
“Anh không nghe rằng có lẽ phải tìm được vật gì giá trị sao? Vậy người ta gọi anh đến chỗ tôi làm gì?”
“Người ta bảo ông muốn gặp tôi để hỏi mấy câu,” Edmundson nói nghiêm nghị.
“Nếu tôi hỏi anh những câu hỏi, thì tôi sẽ trông đợi những câu trả lời,” Đại tá Pikeaway chỉ rõ.
“Hiển nhiên rồi.”
“Anh lại không thấy như thế là hiển nhiên, chàng trai. Bob Rawlinson có kể gì cho anh trước khi anh ta bay khỏi Ramat không? Anh ta là
người Ali tin cẩn, nếu ngài có chịu tin ai đó. Nào, nói đi. Anh ta đã nói gì?”
“Về vấn đề gì, thưa ông?”
Đại tá Pikeaway dò xét rồi gãi tai.
“Ô, được rồi,” ông càu nhàu. “Kín mồm kín miệng. Theo ý tôi, vậy là thái quá! Nếu anh không biết tôi đang hàm ý việc gì, vậy thì anh không biết, thế thôi.”
“Tôi nghĩ là có gì đó…” Edmundson nói thận trọng và dè dặt. “Điều gì đó quan trọng mà hẳn Bob muốn nói với tôi.”
“A,” đại tá Pikeaway nói, với vẻ một người cuối cùng đã lôi được cái nút ra khỏi chai. “Thú vị đấy. Thử xem anh biết gì nào.”
“Cũng ít lắm, thưa ông. Bob và tôi có một quy ước đơn giản. Chúng tôi hiểu thực tế là ở Ramat tất cả điện thoại đều bị nghe lén. Bob thì nghe mọi chuyện ở trong cung, còn tôi thỉnh thoảng có chút thông tin hữu ích báo cho cậu ta. Thành ra, nếu chúng tôi gọi cho nhau, và đề cập đến một hay nhiều cô gái, theo một cách nhất định, sử dụng cụm từ ‘trên cả tuyệt vời’ khi nói về cô ấy, nghĩa là có chuyện!”
“Một dạng thông tin quan trọng?”
“Đúng. Bob gọi cho tôi, dùng cụm từ đó, vào đúng hôm xảy ra vụ đình đám. Tôi sẽ gặp cậu ta ở chỗ hẹn quen thuộc - ngoài một ngân hàng. Nhưng bạo loạn nổ ra ở góc phố đó, và cảnh sát phong tỏa con đường. Tôi không thể liên lạc với Bob, cậu ta cũng không liên lạc được cho tôi. Cậu ta chở Ali đi trốn chiều hôm đó.”
“Tôi hiểu,” Pikeaway nói. “Không biết anh ta đứng ở đâu gọi điện sao?”
“Không. Có thể là bất kỳ đâu.”
“Thật tiếc.” Ông dừng lại, rồi nói bâng quơ:
“Anh có biết bà Sutcliffe không?”
“Ý ông là chị gái của Rob Rawlinson? Tôi gặp bà ta ở đó, dĩ nhiên. Bà ấy cùng cô con gái đang là học sinh. Tôi không biết rõ bà ấy.”
“Bà ấy và Bob Rawlinson có thân thiết không?” Edmundson suy xét.
“Tôi không cho là vậy. Bà ấy già hơn cậu ta nhiều, và thích đóng vai bà chị hơn. Và cậu ấy cũng không ưa ông anh rể vì luôn gọi cậu ấy là đầu đất kiêu căng.”
“Vậy đấy! Một nhà công nghiệp xuất chúng - và họ có thể kiêu căng đến thế nào! Vậy cậu không nghĩ rằng có khả năng Bob Rawlinson đã chia sẻ một bí mật quan trọng cho chị gái mình ư?”
“Khó nói lắm - nhưng không, tôi nghĩ là không.”
“Tôi cũng vậy,” đại tá Pikeaway nói.
Ông thở dài. “Ô mà, vậy là bà Sutcliffe và cô con gái đang trên đường về nhà, qua đường biển. Cập cảng Tilbury, trên tàu Eastern Queen, vào ngày mai.”
Ông lặng yên một lát, trong khi con mắt ông dò xét người thanh niên đối diện. Thế rồi, như đã ra quyết định, ông chìa tay ra và nói nhanh.
“Anh đã rất tử tế vì đã đến đây.”
“Tôi lấy làm tiếc vì không giúp được gì. Ông chắc là không cần đến tôi nữa chứ?”
“Không. Không. Tôi e là không.”
John Edmundson đi ra.
Người thanh niên thận trọng kia lại quay vào.
“Tôi đã định cử anh ta đến Tilbury để báo tin cho bà chị gái,” Pikeaway nói. “Một người bạn của em trai bà ta - vậy thôi. Nhưng tôi
đã quyết định khác. Anh ta không phải người mềm dẻo. Dân ngoại giao được đào tạo như thế. Không phải kẻ biết nắm cơ hội. Tôi sẽ cử… anh ta tên gì nhỉ?”
“Derek?”
“Đúng vậy,” đại tá Pikeaway gật đầu tán thành. “Anh biết rõ tôi muốn gì đúng không?”
“Tôi sẽ cố hết sức, thưa sếp.”
“Cố gắng thôi không đủ. Anh phải thành công. Trước hết gọi Ronnie cho tôi đã. Tôi có nhiệm vụ cho cậu ta.”
Đại tá Pikeaway sắp sửa ngủ tiếp thì người thanh niên tên Ronnie bước vào phòng. Anh ta dáng cao, tóc đen, người lực lưỡng, có phong thái vui vẻ và hơi thô lỗ.
Đại tá Pikeaway nhìn anh ta một lát rồi nhếch mép.
“Anh có muốn xâm nhập vào một trường nữ sinh không?” ông hỏi.
“Trường nữ sinh ư?” Người thanh niên nhướng mày. “Đấy quả là điều mới mẻ! Nhưng có chuyện gì ở đó. Chế tạo bom trong lớp hóa học sao?”
“Không phải chuyện đó. Một ngôi trường cực kỳ thượng lưu. Meadowbank.”
“Meadowbank!” người thanh niên huýt gió. “Không thể tin nổi!”
“Hãy bỏ cái giọng xấc xược của cậu, và nghe tôi đây. Công nương Shaista, người họ hàng thân cận nhất và duy nhất của Quốc vương Ali Yusuf đã quá cố của Ramat, sẽ đến học ở đó vào kì học này. Cô bé này hiện đang ở một trường tại Thụy Sĩ.”
“Tôi làm gì? Bắt cóc con bé à?”
“Chắc chắn là không. Tôi nghĩ con bé có thể sẽ thành tâm điểm chú ý trong thời gian tới. Tôi muốn cậu để mắt đến các diễn biến. Tôi sẽ nói chung chung. Tôi không biết ai sẽ xuất hiện hay chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng nếu có một người bạn khó chịu nào đó của chúng ta có ý quan tâm đến cô bé, cậu hãy báo cáo lại… Quan sát và báo cáo, đấy là việc của cậu.”
Người thanh niên gật đầu.
“Làm sao tôi lọt vào đó mà quan sát? Tôi sẽ làm giáo viên dạy vẽ sao?”
“Giáo viên ở đấy toàn là nữ.” Đại tá Pikeaway nhìn anh ta, vẻ suy xét. “Tôi nghĩ sẽ để anh làm vườn.”
“Làm vườn ư?”
“Đúng. Tôi cho rằng cậu biết chút ít việc làm vườn?”
“Đúng, quả có vậy. Hồi trước, tôi đã có một năm giữ mục Vườn của bạn trên tờ Sunday Mail.”
“Mẹ kiếp!” đại tá Pikeaway nói. “Thế thì làm ăn gì! Tôi cũng có thể giữ mục làm vườn mà chẳng cần biết tí gì về việc này cả - chỉ cần cóp nhặt vài cuốn catalogue Nurseryman và một bộ Bách khoa thư Làm vườn là được. Tôi biết hết những câu nghe kêu như mõ. ‘Tại sao năm nay bạn không phá bỏ truyền thống và làm cho khu vườn của mình mang sắc thái nhiệt đới thực sự? Cây Amabellis Gossiporia dễ thương, và một giống cây mới, tuyệt vời của Trung Quốc, có tên Sinensis Maka. Hãy thử vẻ đẹp hồng thắm của bụi Sinistra Hopaless, không khó trồng lắm, nhưng sẽ hợp với bức tường phía tây.’”Ông dứt lời và nhếch mép. “Chả có gì cả! Bọn khờ khạo mua mấy thứ đó và mấy con ếch sẽ chui vào làm chết đám cây ấy, rồi họ lại ước giá như cứ trồng cây quế trúc và lưu ly! Không, chàng trai ạ, ý tôi là biết việc thực kia. Nhổ nước bọt vào tay, và dùng thuổng, quen với mấy đống phân, cần mẫn ủ cho cây, đánh luống cho cây đậu hoa - và tất cả những chuyện khác của cồng việc khó chịu này. Cậu làm được không?”
“Tất cả những việc này tôi đã làm từ bé rồi!”
“Dĩ nhiên nhỉ. Tôi biết mẹ của cậu. Vậy là chốt nhé.” “Có chân việc làm vườn nào trống ở trường Meadowbank không?”
“Chắc chắn phải có,” đại tá Pikeaway nói. “Mọi khu vườn ở Anh đều thiếu người làm. Tôi sẽ viết cho cậu mấy nhận xét hay ho. Cậu sẽ thấy, người ta sẽ nhảy bổ vào cậu. Đừng phí thì giờ nữa, kì học hè khai giảng ngày 29 này.”
“Tôi làm vườn và để mắt quan sát, phải vậy không?”
“Đúng thế, và nếu có nữ sinh quá khích nào tìm đến cậu, mong Thượng đế giúp cậu biết ứng phó ra sao. Tôi không muốn cậu bị tống cổ ra khỏi chỗ đó quá sớm.”
Ông lấy một tờ giấy đưa cho anh ta. “Cậu thích tên là gì?” “Adam có vẻ phù hợp.”
“Họ?”
“Eden thì sao?”
“Tôi không chắc là tôi ưa kiểu suy nghĩ của cậu. Adam Goodman sẽ là một cái tên hay. Giờ cậu cùng Jenson viết tiểu sử cho cậu ngay đi.” Ông nhìn đồng hồ. “Tôi không còn thời gian cho cậu nữa. Tôi không muốn ông Robinson phải đợi. Giờ này ông ta hẳn đã tới đây rồi.”
Adam (theo tên mới của anh ta) dừng lại khi đến cửa. “Robinson ư?” anh ta tò mò hỏi. “Ông ta đang đến sao?”
“Phải.” Chuông trên bàn đổ tiếng. “Ông ta đến rồi. Luôn đúng giờ, tay Robinson này.”
“Cho tôi biết được không,” Adam tò mò nói. “Thực sự ông ta là ai? Tên thật của ông ta là gì?”
“Tên ông ta,” đại tá Pikeaway nói, “là Robinson. Tôi chỉ biết thế, và mọi người chỉ biết có vậy.”
Người bước vào trông chẳng ứng với tên. Dễ liên tưởng ông tên Demetrius, hay Isaacstein, hay Perenna. Ông ta không hẳn giống người Do Thái, hay người Hi Lạp, hay người Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha, hay Nam Mỹ. Khó lòng cho rằng đó là người Anh tên Robinson. Ông ta béo, ăn mặc chỉn chu, khuôn mặt vàng, cặp mắt đen u buồn và vầng trán cao, khuôn miệng rộng phô hàm răng trắng. Bàn tay rất đẹp, và được chăm sóc cẩn thận, ông ta nói tiếng Anh, không dấu vết phương ngữ.
Ông ta và đại tá Pikeaway chào nhau trịnh trọng như hai vua tương kiến. Những lời lịch sự được trao gửi.
Rồi, khi ông Robinson nhận lấy điếu thuốc, đại tá Pikeaway nói. “Ông thật tử tế khi đề nghị giúp chúng tôi.”
Ông Robinson châm lửa, trân trọng thưởng thức, rồi cuối cùng nói.
“Ông bạn thân mến. Tôi vừa nghĩ - tôi nghe được những chuyện, ông biết đấy. Tôi quen biết nhiều người, và họ kể cho tôi nghe nhiều chuyện. Tôi không biết tại sao.”
Đại tá Pikeaway không bình luận về nguyên do.
Ông nói:
“Theo tôi hiểu thì ông đã biết tin đã tìm thấy máy bay của Quốc vương Ali Yusuf?”
“Thứ Tư tuần trước,” ông Robinson nói. “Phi công là Rawlinson. Một chuyến bay khó. Nhưng tai nạn không phải do lỗi của Rawlinson. Máy bay đã bị phá hoại - bởi một tay tên Achmed nào đó, vốn là thợ cơ khí lâu năm. Nhưng hắn ta thì không chết. Giờ hắn có một công việc hái ra tiền ở chế độ mới.”
“Vậy là có âm mưu! Chúng tôi không biết chắc chuyện đó. Một câu chuyện buồn.”
“Vâng. Chàng trai tội nghiệp - ý tôi là Ali Yusuf- không hề được chuẩn bị để đối phó với nạn tham nhũng và chuyện mưu phản. Kiến thức học được ở trường không ích gì - ít nhất đó là quan điểm của tôi. Nhưng giờ chúng ta không băn khoăn về anh ta nữa phải không? Anh ta là chuyện quá khứ rồi. Không có cái chết nào như cái chết của một vị vua. Chúng ta quan tâm, ông quan tâm theo cách của ông, và tôi theo cách của tôi, đến những gì nhà vua để lại.”
“Nghĩa là?”
Ông Robinson nhún vai.
“Một số dư tài khoản khổng lồ ở Thụy Sĩ, một số dư khiêm tốn ở London, những tài sản đáng kể ở nước ông ta giờ đây đã bị chế độ mới vinh quang tiếp quản (Chuyện chia chác không mấy vui vẻ,, tôi nghe nói vậy!), và cuối cùng một món đồ cá nhân nho nhỏ.”
“Nhỏ ư?”
“Mấy chuyện này có liên quan đấy. Dù sao, nhỏ theo nghĩa kích thước. Dễ dàng mang theo người.”
“Chúng không có trên người Ali, như chúng ta biết.” “Hẳn thế. Vì anh ta đã đưa cho chàng thanh niên Rawlinson rồi.” “Ông có chắc không?” Pikeaway sắc giọng.
“Ồ, không ai dám chắc điều gì,” ông Robinson phân trần. “Trong một cung điện có quá nhiều tin đồn. Không phải chuyện gì cũng đúng cả. Nhưng có nhiều lời đồn nặng ký theo hướng đó.”
“Chúng cũng không có trên người anh chàng Rawlinson…”
“Trong trường hợp đó,” ông Robinson nói, “dường như chúng được mang ra khỏi đất nước đó bằng cách khác.”
“Cách nào khác? ông có ý gì không?”
“Rawlinson đến quán cà phê trong thành phố sau khi nhận được món đồ ấy. Khi ở đó, người ta không thấy anh ta nói chuyện với ai hay có ai đến tiếp cận. Rồi anh ta đến khách sạn Ritz Savoy nơi bà chị gái ở. Anh ta lên phòng bà chị, rồi ở đó chừng hai mươi phút. Bà ta không ở khách sạn. Rồi anh ta rời khách sạn, đến Ngân hàng Merchants trên Quảng trường Victory, ở đó anh ta đổi séc ra tiền mặt. Rồi anh ta ra khỏi ngân hàng, cuộc hỗn loạn bắt đầu. Sinh viên bạo loạn về chuyện gì đó. Một lát sau quảng trường bị phong tỏa. Lúc ấy Rawlinson đi thẳng đến bãi đáp máy bay, cùng với Trung sĩ Achmed, anh ta đến chỗ máy bay.
“Ali Yusuf lái xe đi kiểm tra việc làm đường mới, dừng xe ở bãi đáp, rồi gặp Rawlinson, sau đó bày tỏ mong muốn bay một chuyến ngắn để từ trên không kiểm tra đập và xem xét việc xây dựng đường cao tốc. Họ cất cánh và không quay lại.”
“Và suy đoán của ông từ chuyện này?”
“Ông bạn thân mến, tôi cũng đoán như ông thôi. Tại sao Bob Rawlinson mất hai chục phút trong phòng chị gái, trong khi bà ta không có ở đó, và anh ta đã biết tin mãi đến tối bà chị gái mới quay về? Anh ta để lại một bức thư, mà có lẽ chỉ mất ba phút là viết xong. Thời gian còn lại anh ta làm gì?”
“Ông đang gợi ý rằng anh ta giấu châu báu vào nơi phù hợp trong đồ đạc của bà chị gái?”
“Có vẻ là vậy, phải không? Bà Sutcliffe được sơ tán cùng ngày đó với những công dân Anh khác. Bà ta bay đến Aden cùng cô con gái. Bà ta sẽ đến Tilbury vào ngày mai, tôi tin là vậy.”
Pikeaway gật đầu.
“Chăm sóc bà ta,” ông Robinson nói.
“Chúng tôi sẽ chăm sóc bà ta,” Pikeaway nói. “Mọi việc đã được thu xếp.”
“Nếu bà ta giữ món quý giá đó, bà ta sẽ gặp nguy hiểm.” Ông nhắm mắt. “Tôi không hề thích bạo lực.”
“Ông nghĩ có khả năng xảy ra bạo lực sao?”
“Có nhiều người quan tâm. Rất nhiều kẻ không mong muốn - nếu ông hiểu ý tôi.”
“Tôi hiểu ý ông,” Pikeaway nói dứt khoát.
“Và dĩ nhiên, họ sẽ phản bội nhau.”
Ông Robinson lắc đầu. “Thật rối rắm.”
Đại tá Pikeaway tế nhị hỏi. “Bản thân ông có quan tâm đặc biệt đến chuyện này không?”
“Tôi đại diện cho một nhóm lợi ích,” ông Robinson nói. Giọng ông thoáng vẻ bực dọc. “Những viên đá quý ấy được công ty của tôi cung cấp cho vị Quốc vương quá cố - với mức giá công bằng và hợp lý. Nhóm người mà tôi đại diện đó, họ quan tâm đến việc thu hồi những viên đá ấy, tôi liều lĩnh mà nói rằng hẳn họ đã được sự chấp thuận của người chủ quá cố. Tôi không muốn nói thêm nữa. Những chuyện này quá tế nhị.”
“Nhưng chắc chắn ông đứng về phía các thiên thần,” đại tá Pikeaway mỉm cười.
“À, những thiên thần! Những thiên thần - vâng.” Ông ngừng lại. “Ông có tình cơ biết được ai ở căn phòng bên cạnh phòng bà Sutcliffe và con gái trong khách sạn không?”
Đại tá Pikeaway tỏ vẻ mơ hồ.
“Để tôi xem nào. Phía bên trái là bà Angelica de Toredo - một người Tây Ban Nha - ờ - vũ công làm trong đoàn ca múa của địa phương.
Có lẽ không hoàn toàn là người Tây Ban Nha mà cũng không phải vũ công giỏi. Nhưng được các khách hàng ưa chuộng. Phía bên kia là một người thuộc đoàn giáo viên, tôi hiểu vậy…”
Ông Robinson mỉm cười đồng ý.
“Ông vẫn luôn như vậy. Tôi đến để kể cho một biết một số chuyện, nhưng gần như ông đã biết hết rồi.”
“Không không.” Đại tá Pikeaway lịch sự chối bỏ.
“Giữa tôi và ông thôi nhé,” ông Robinson nói, “chúng ta biết một chuyện rất quan trọng.”
Ánh mắt họ bắt gặp nhau.
“Tôi hi vọng,” ông Robinson cao giọng, “rằng chúng ta biết vừa đủ…”
4
NGƯỜI DU KHÁCH TRỞ VỀ
“Đùa sao chứ!” bà Sutcliffe nói, giọng khó chịu, khi Ly bà nhìn ra cửa sổ khách sạn, “mẹ không hiểu tại sao khi trở về Anh thì trời lại mưa suốt như vậy. Nó khiến mọi thứ trở nên sầu não.”
“Con thì nghĩ thật vui vì được về nhà,” Jennifer nói. “Được nghe người ta nói tiếng Anh trên phố! Và lúc này chúng ta có thể thưởng một bữa trà ngon thực sự. Bánh mì và bơ và mứt cùng bánh nướng đúng nghĩa.”
“Mẹ ước gì con đừng thiển cận như thế, con yêu ạ,” bà Sutcliffe nói. “Mẹ đưa con đi nước ngoài, đến tận Vùng Vịnh, thế mà con lại bảo thà ở nhà còn hơn, thì thử hỏi việc mẹ làm còn ý nghĩa gì chứ?”
“Con có phiền gì chuyện đi nước ngoài một vài tháng đâu ạ,” Jennifer nói. “Con chỉ bảo là con thấy vui vì được về nhà thôi mà.”
“Thôi con tránh ra cho mẹ nhờ nào, để mẹ xem họ đã mang đủ hành lý lên hết chưa. Nói thực, mẹ cảm thấy - mẹ cảm thấy từ khi cuộc chiến bắt đầu, người ta đã trở nên dối trá. Mẹ dám chắc nếu mẹ không để mắt mọi thứ, thì lúc ở Tilbury, người đàn ông kia đã khoắng cái túi màu xanh có khóa kéo rồi. Lại còn một kẻ khác lảng vảng gần hành lý nữa chứ. Mẹ thấy hắn sau khi lên tàu. Con biết đấy, mẹ tin rằng bọn trộm cắp hợp với chốn tàu xe lắm, nếu người ta say sóng hoặc buồn nôn là chúng sẽ biến đi cùng với mấy chiếc va li.”
“Ồ, mẹ toàn nghĩ như vậy thôi,” Jennifer nói. “Mẹ cứ nghĩ những người mẹ gặp toàn gian trá cả.”
“Hầu hết họ như thế mà,” bà Sutcliffe nói dứt khoát.
“Người Anh thì không,” Jennifer kiên định nói.
“Thế lại càng tệ,” mẹ cô bé nói. “Người Ả Rập và người nước ngoài thì chẳng trông đợi gì, nhưng ở Anh họ thiếu cảnh giác và điều đó lại càng tạo thuận lợi hơn cho những kẻ bất lương. Để mẹ đếm xem nào. Cái vali lớn màu xanh kia và cái màu đen, và hai cái nhỏ màu nâu, một cái túi khóa và gậy đánh golf, và vợt tennis, túi xách, túi vải - và cái túi xanh lá đâu nhỉ? Ô, đây rồi. Còn cái hộp thiếc chúng ta mua để đựng mấy thứ đâu nhỉ - à đây, một hai, ba, bốn, năm, sáu được rồi, đủ hết. Tất cả ở đây có mười bốn món.”
“Chúng ta không thể uống trà bây giờ được sao?” Jennifer nói. “Trà ư? Mới ba giờ thôi mà.”
“Con đói lắm rồi.”
“Được rồi, được rồi. Con xuống một mình đi và gọi trà nhé? Mẹ thực sự phải nghỉ ngơi, rồi sau đó còn phải mở những thứ cần dùng tối nay nữa. Thật tệ là cha con không thể gặp chúng ta được. Tại sao ông ấy lại có cuộc họp quan trọng của ban giám đốc ở Newcastle on-Tyne vào hôm nay nhỉ, mẹ không tài nào tưởng tượng nổi. Đáng ra bố con phải nghĩ đến vợ và con gái là trên hết chứ. Nhất là ba tháng nay ông ấy không gặp chúng ta rồi còn gì. Con chắc là có thể tự xoay xở được chứ?”
“Ôi trời đất ơi,” Jennifer nói, “mẹ nghĩ con mấy tuổi rồi nào? Mẹ cho con ít tiền được không? Con không còn đồng tiền Anh nào cả.”
Cô bé nhận lấy tờ mười si-ling từ tay mẹ, rồi cau có bước ra ngoài.
Điện thoại cạnh giường đổ chuông. Bà Sutcliffe bước đến nhấc ống nghe.
“A-lô… Vâng… Vâng, tôi là Sutcliffe đây…”
Có tiếng gõ cửa. Bà Sutcliffe nói vào ống nghe, “Đợi một lát,” rồi đặt ống nghe xuống và bước đến cửa. Một thanh niên đứng đó, mặc quần yếm màu xanh thẫm, tay cầm bộ dụng cụ nhỏ.
“Tôi là thợ điện,” anh ta nói luôn. “Đèn trong phòng không được tốt. Tôi được cử đến để kiểm tra.”
“Ô - được thôi…”
Bà lùi lại. Thợ điện đi vào.
“Phòng tắm ở đâu nhỉ?”
“Đằng kia - bên kia phòng ngủ.”
Bà quay lại nghe điện thoại.
“Tôi xin lỗi… Anh đang nói gì nhỉ?”
“Tôi là Derek O’Connor. Có lẽ tôi nên đến phòng bà, thưa bà Sutcliffe. Là về em trai bà.”
“Bob ư? Có - tin gì về nó sao?”
“Vâng - tôi e là vậy.”
“Ô… Ô, tôi hiểu rồi… Vâng, anh cứ đến đi. Ở tầng ba, phòng 310.” Bà ngồi lên giường. Bà đã biết tin đấy là gì.
Ngay lúc đó, có tiếng gõ cửa và bà ra mở, một thanh niên bắt tay bà một cách nhã nhặn phù hợp.
“Anh ở Bộ ngoại giao phải không?”
“Tôi là Derek O’Connor. Cấp trên cử tôi đến đây, vì dường như không có ai khác có thể báo tin này cho bà.”
“Xin anh nói xem,” bà Sutcliffe nói. “Cậu ấy bị giết rồi. Phải không?”
“Đúng vậy, thưa bà Sutcliffe. Anh ấy chở Quốc vương Ali Yusuf rời Ramat, và máy bay đâm vào núi.”
“Sao tôi không nghe tin gì nhỉ - tại sao không ai đánh điện lên thuyền?”
“Mãi vài ngày gần đây mới có tin chính xác. Người ta chỉ biết máy bay mất tích, chỉ có vậy thôi. Trong hoàn cảnh này, vẫn còn hi vọng. Nhưng bây giờ, xác máy bay đã tìm thấy… tôi chắc bà sẽ vơi lòng khi biết rằng cái chết xảy ra ngay tức thì.”
“Quốc vương cũng bị chết sao?”
“Vâng.”
“Tôi cũng không ngạc nhiên lắm,” bà Sutcliffe nói. Giọng bà hơi run rẩy, nhưng bà hoàn toàn kiểm soát bản thân. “Tôi biết Bob sẽ chết trẻ. Cậu ấy bao giờ cũng táo bạo, anh biết đấy - luôn bay những chiếc máy bay mới, thử những trò mạo hiểm mới. Bốn năm qua tôi chẳng còn hi vọng gì về cậu ấy nữa. Ồ vâng, người ta đâu thể thay đổi người khác được, phải không?”
“Quả thế,” vị khách nói, “tôi e là vậy.”
“Henry luôn bảo cậu ấy sớm muộn cũng tự nghiền nát bản thân,” bà Sutcliffe nói. Dường như bà tìm thấy chút hài lòng buồn bã trước lời tiên đoán chính xác của chồng bà. Một giọt lệ đổ xuống gò má, bà tìm chiếc khăn tay. “Quả là một cú sốc,” bà nói.
“Tôi biết - tôi rất lấy làm tiếc.”
“Bob không thể chạy trốn, dĩ nhiên rồi,” bà Sutcliffe nói, “Ý tôi là, cậu ấy đã chọn công việc làm phi công cho Quốc vươưg. Tôi hẳn sẽ không muốn cậu ấy từ bỏ. Cậu ấy là một phi công giỏi nữa. Tôi dám chắc nếu máy bay đâm vào núi, đó không phải lỗi cậu ấy.”
“Đúng vậy,” O’Connor nói, “đấy chắc chắn không phải lỗi của anh ấy. Để đưa Quốc vương ra khỏi biên giới, hi vọng duy nhất là bằng đường không, bất kể trong hoàn cảnh nào. Đó là một chuyện rất mạo hiểm, và sự cố đã xảy ra.”
Bà Sutcliffe gật đầu.
“Tôi hiểu lắm,” bà nói. “Cảm ơn anh đã đến báo cho tôi hay.”
“Còn một điều nữa,” O’Connor nói, “có điều này tôi phải hỏi bà. Em trai bà có gửi lại cho bà thứ gì để mang về nước Anh không?”
“Gửi gì cho tôi à?” bà Sutcliffe nói. “Ý anh là sao?”
“Anh ấy có đưa cho bà - một gói đồ - một gói nhỏ để mang về và chuyển lại cho ai đó ở Anh không?”
Bà lắc đầu băn khoăn. “Không. Sao anh nghĩ cậu ấy làm vậy?”
“Có một gói đồ khá quan trọng mà chúng tôi nghĩ em trai bà hẳn đã đưa cho ai đó để chuyển về nước. Anh ấy đến thăm bà tại khách sạn vào hôm đó - ngày xảy ra cuộc Cách mạng, ý tôi là vậy.”
“Tôi biết. Cậu ấy có để lại một bức thư. Nhưng trong thư không nói gì - chỉ nói vớ vẩn về việc hôm sau chơi tennis hay chơi golf thôi. Tôi cho rằng khi viết giấy nhắn, cậu ấy không biết mình sẽ phải chở Quốc vương đi ngay chiều hôm đấy.”
“Chỉ có vậy thôi sao?”
“Trong tờ giấy nhắn ư? Vâng.”
“Bà còn giữ không, bà Sutcliffe?”
“Giữ tấm giấy đó à? Dĩ nhiên là không. Chẳng có gì quan trọng. Tôi xé vứt đi rồi. Có việc gì cần sao?”
“Không lý do gì đâu,” O’Connor nói. “Tôi chỉ có phần băn khoăn thôi.”
“Băn khoăn gì cơ?” bà Sutcliffe gắt.
“Liệu trong thư còn thông điệp gì khác ẩn giấu không. Dẫu gì…” anh ta mỉm cười, “Có thứ gọi là mực tàng hình, bà biết đấy.”
“Mực tàng hình!” bà Sutcliffe nói, với vẻ hết sức khó chịu, “Ý anh là cái thứ mà người ta dùng trong những câu chuyện gián điệp sao?”
“Vâng, tôi xin lỗi, nhưng tôi quả có ý như vậy,” O’Connor nói, vẻ hối lỗi.
“Thật vớ vẩn,” bà Sutcliffe nói. “Tôi chắc Bob sẽ không bao giờ dùng bất kỳ cái gì như mực tàng hình. Tại sao cậu ấy phải dùng? Cậu ấy là người thực tế và biết phải trái.” Một giọt lệ lại rỏ xuống gò má bà. “Ô trời, túi của tôi đâu nhỉ? Tôi phải lấy chiếc khăn tay. Có lẽ tôi để ở phòng kia.”
“Tôi sẽ đi lấy cho bà,” O’Connor nói.
Anh ta đi qua cửa thông phòng, và dừng lại khi thấy một thanh niên mặc quần yếm đang cúi người trước một chiếc vali, người này đứng lên nhìn anh, tỏ vẻ giật mình.
“Thợ điện,” người thanh niên vội nói. “Bóng đèn ở đây có vấn đề.” O’Connor bật thử một công tắc.
“Tôi thấy chúng có vẻ ổn,” anh ta vui vẻ nói.
“Chắc người ta báo nhầm số phòng cho tôi,” thợ điện nói.
Anh ta thu dọn túi dụng cụ và nhanh chóng lẻn ra cửa nối ra hành lang.
O’Connor nhíu mày, cầm chiếc túi ở bàn trang điểm và đưa cho bà Sutcliffe.
“Xin thứ lỗi,” anh ta nói, rồi nhấc điện thoại. “Phòng 310 đây. Các anh có gọi thợ điện lên kiểm tra bóng đèn ở phòng này không? Vâng… Vâng, tôi sẽ chờ máy.”
Anh ta đợi.
“Không ư? Không, tôi nghĩ là không. Không, không có gì đâu.”
Anh ta đặt điện thoại xuống và quay sang bà Sutcliffe.
“Bóng đèn ở phòng này không làm sao cả,” anh ta nói. “Và văn phòng cũng không gọi thợ điện lên đây.”
“Vậy người kia làm gì? Anh ta là trộm ư?”
“Có thể là vậy.”
Bà Sutcliffe nhìn vội vào túi. “Anh ta không lấy gì trong túi của tôi cả. Tiền vẫn còn.”
“Thưa bà Sutcliffe, bà có chắc, tuyệt đối chắc chắn là em trai bà không gửi gì để bà mang về nước chứ, để trong đồ đạc của bà chẳng hạn?”
“Tôi tuyệt đối chắc chắn,” bà Sutcliffe nói.
“Hay con gái bà - bà có cô con gái phải không?”
“Đúng. Con bé đang dùng trà ở dưới nhà.”
“Em trai bà có thể đưa cho cô bé không?”
“Không, tôi chắc là cậu ấy không thể.”
“Còn một khả năng khác,” O’Connor nói. “Hẳn trong khi ngồi chờ trong phòng bà hôm ấy, anh ta giấu gì đó trong hành lý của bà.”
“Nhưng sao Bob lại làm như vậy? Nghe lố bịch quá thể.”
“Không hẳn đâu. Có vẻ như Quốc vương Ali Yusuf đã trao gì đó cho em trai bà nhờ giữ, rồi em trai bà nghĩ để trong đồ đạc của bà sẽ an toàn hơn là giữ lại.”
“Tôi lại thấy điều đó rất khó xảy ra,” bà Sutcliffe nói. “Bà có phiền nếu chúng ta tìm thử không?”
“Tìm trong hành lý của tôi à, ý anh là thế ư? Tháo đồ ra?” Bà Sutcliffe dài giọng nhấn mạnh chữ tháo đồ.
“Tôi biết,” O’Connornói. “Đề nghị bà làm như vậy thật bất nhã. Nhưng điều đó rất quan trọng. Tôi có thể giúp bà,” anh ta nói, giọng thuyết phục. “Tôi quen với việc đóng đồ cho mẹ tôi. Bà ấy bảo tôi là chuyên gia đóng đồ đây.”
Anh ta dùng hết vẻ quyến rũ vốn được Đại tá Pikeaway coi là một tài sản.
“Ồ thế thì,” bà Sutcliffe nói, giọng nhượng bộ, “tôi cho là - nếu anh đã nói vậy - ý tôi là, nếu điều đó thực sự quan trọng…”
“Có thể là rất quan trọng,” Derek O’Connor nói.
“Vâng, bây giờ,” anh ta mỉm cười với bà. “Chúng ta bắt đầu thôi nhỉ.”
Bốn lăm phút sau, Jennifer uống trà trở về. Cô bé nhìn quanh phòng và há hốc miệng vì ngạc nhiên.
“Mẹ ơi, mẹ vừa làm gì thế?”
“Mẹ và chú đây đã dỡ đồ ra,” bà Sutcliffe gắt gỏng nói. “Giờ đóng gói các thứ lại. Đây là chú O’Connor. Con gái tôi, Jennifer.”
“Nhưng tại sao mẹ lại đóng gói rồi lại dỡ ra?”
“Đừng hỏi mẹ tại sao,” bà mẹ cáu kỉnh. “Có người cho là cậu Bob của con đã bỏ gì đó trong hành lý của mẹ để mang về nước. Cậu không đưa gì cho con chứ, Jennifer?”
“Cậu Bob có đưa cho con gì để mang về không à? Không. Mẹ đã dỡ đồ của con chưa?”
“Chúng tôi đã dỡ tất cả rồi,” Derek O’Connor hớn hở nói, “và chúng tôi không tìm thấy gì cả, giờ chúng tôi lại đóng gói lại. Tôi nghĩ bà nên uống chút trà hay gì đó, bà Sutcliffe ạ. Tôi gọi gì đó cho bà dùng
nhé? Rượu brandy hoặc soda chẳng hạn?” Anh ta đến bên điện thoại.
“Tôi uống trà cũng được,” bà Sutcliffe.
“Con dùng bữa trà thỏa thích,” Jennifer nói. “Bánh mì và bơ, bánh mì kẹp, bánh ngọt, rồi phục vụ còn mang thêm bánh mì kẹp cho con nữa khi con hỏi xin thêm. Dễ thương quá.”
O’Connor gọi trà, rồi anh ta làm nốt việc đóng gói đồ đạc của bà Sutcliffe với sự gọn gàng và khéo léo buộc bà phải khâm phục dù không muốn.
“Mẹ của anh huấn luyện anh đóng đồ rất giỏi,” bà nói. “Ồ, tôi có đủ thứ tài lẻ,” O’Connor mỉm cười nói.
Mẹ anh ta đã mất từ lâu, và kĩ năng đóng gói và dỡ đồ đạc anh ta học được hoàn toàn trong thời gian phục vụ Đại tá Pikeaway.
“Một điều nữa, bà Sutcliffe. Tôi mong bà hết sức thận trọng.” “Thận trọng ư? Như thế nào?”
“À,” O’Connor bỏ lửng, mơ hồ. “Mấy chuyện cách mạng phức tạp lắm. Chúng để lại rất nhiều hệ quả. Bà ở London có lâu không?”
“Ngày mai chúng tôi sẽ về quê. Chồng tôi sẽ lái xe đưa đi.”
“Vậy thì không sao. Nhưng - đừng làm điều gì mạo hiểm. Nếu có chuyện gì bất thường, xin gọi ngay đến 999.”
“Ô ồ!” Jennifer nói, giọng thích thú. “Gọi 999. Con vẫn muốn làm thế.”
“Đừng ngớ ngẩn thế, Jennifer,” mẹ cô bé nói.
Trích bài tường thuật của một tờ báo địa phương.
Hôm qua một người đã phải ra tòa tiểu hình, bị cáo buộc về hành vi xâm nhập vào nơi ở của ông Henry Sutcliffe với ý định ăn trộm. Phòng ngủ của bà Sutcliffe bị lục lọi bừa bộn khi mọi người trong gia đình đang đi nhà thờ vào sáng Chủ nhật. Nhân viên làm bếp lúc đó đang chuẩn bị bữa ăn trưa, không nghe thấy gì. Cảnh sát đã bắt được người đàn ông này khi anh ta đang trốn khỏi ngôi nhà. Rõ ràng anh ta bị giật mình vì chuyện gì đó nên bỏ ra ngoài mà không lấy được gì.
Người đàn ông này tên Andrew Ball, không có chỗ ở cố định, bị tuyên có tội. Anh ta khai bị thất nghiệp và thiếu tiền. Trang sức của bà Sutcliffe, ngoài những món bà mang trên người, đều gửi ở ngân hàng.
“Anh đã dặn em phải khóa cửa sổ phòng khách rồi mà,” ông Sutcliffe nói.
“Henry thân yêu,” bà Sutcliffe nói, “dường như anh không nhận thấy là ba tháng qua em ở nước ngoài. Và dù sao, em dám chắc đọc đâu đó rằng, nếu bọn trộm đã muốn đột nhập thì thể nào chúng cũng vào được thôi.”
Bà nói thêm, vẻ đăm chiêu, khi bà liếc nhìn lại tờ báo địa phương:
“Cái chữ ‘nhân viên nhà bếp’ nghe mới đẹp đẽ làm sao. Thật khác xa với thực tế, bà cụ Ellis thì điếc đặc, và hầu như không đứng thẳng được, và cái đứa đầu đất con gái nhà Bardwells đến giúp việc vào những sáng Chủ nhật nữa chứ.”
“Điều con không hiểu,” Jennifer nói, “là làm sao cảnh sát phát hiện ra ngôi nhà có kẻ xâm nhập và đến đúng lúc để bắt hắn?”
“Thật khác thường rằng hắn không lấy gì cả,” mẹ cô bé nhận xét.
“Em có chắc không, Joan?” chồng bà hỏi. “Ban đầu em còn không chắc mà.”
Bà Sutcliffe cất tiếng thở dài khó chịu.
“Việc như thế thật không thể nào nói thẳng ngay ra được. Đống hỗn loạn trong phòng em - mọi thứ bị vứt khắp nơi, ngăn bàn bị kéo ra rồi lật ngược. Em đã xem kỹ càng mọi thứ mới dám chắc - dù bây giờ nghĩ lại, em nhớ là không thấy chiếc khăn Jacqmar đẹp nhất đâu cả.”
“Con xin lỗi mẹ. Lỗi ở con. Nó bị thổi bay xuống Địa Trung Hải lúc còn ở tàu. Con đã mượn nó. Con định nói với mẹ, nhưng quên mất.”
“Thật ư, Jennifer, mẹ đã nhắc con bao nhiêu lần là muốn mượn gì phải hỏi mẹ trước cơ mà?”
“Con ăn thêm bánh pudding được không?” Jennifer nói lảng.
“Ừ, được. Thật sự, bà Ellis quả là có bàn tay tinh tế tuyệt vời. Cũng đáng tiền thuê, dù cứ phải lớn giọng bà ấy mới nghe ra được. Nhưng mẹ hi vọng rằng ở trường người ta sẽ không nghĩ con là kẻ háu ăn. Meadowbank không phải trường thường đâu, con nhớ đấy.”
“Con không chắc có thích trường ấy không,” Jennifer nói. “Con biết một bạn có họ hàng học ở đó, và bạn ấy bảo trường đấy kinh khủng lắm. Suốt ngày người ta dạy cách lên xuống xe Rolls-Royces ra sao, lại còn phải cư xử thế nào nếu được đi ăn trưa với Nữ Hoàng.”
“Thôi đủ rồi đấy, Jennifer,” bà Sutcliffe nói. “Phải may mắn lắm mới được nhận vào trường Meadowbank, thế mà con chẳng biết trân trọng gì cả. Không phải ai bà Bulstrode cũng nhận vào đâu, mẹ nói con biết. Việc này hoàn toàn nhờ vào địa vị quan trọng của bố con và ảnh hưởng của dì Rosamond của con đấy. Con cực kỳ may mắn. Và nếu,” bà Sutcliffe nói thêm, “con được đi ăn trưa với Nữ Hoàng, thì việc con biết xử sự thế nào ấy cũng là điều tốt chứ.”
“Ô vâng,” Jennifer nói. “Con cứ nghĩ là Nữ Hoàng thường phải đi ăn trưa với những người không biết cách cư xử chứ, kiểu như tù trưởng các bộ lạc châu Phi, tuyển thủ môn jockey và các tiểu vương.”
“Thái độ của các tù trưởng châu Phi là lịch sự nhất đấy,” bố cô bé nói, ông vừa mới công tác ngắn ngày ở Ghana về.
“Các tiểu vương Ả Rập cũng vậy,” bà Sutcliffe nói. “Thật sự lịch lãm.”
“Mẹ có nhớ bữa tiệc của tiểu vương mà chúng ta dự không,” Jennifer nói. “Và cách ông móc mắt cừu tặng mẹ, và cậu Bob huých khuỷu tay bảo mẹ đừng làm ầm lên, mà ăn con mắt ấy đi? Ý con là, nếu ở điện Buckingham mà một tiểu vương làm như vậy với con cừu nướng, điều đó sẽ khiến nữ Hoàng giật bắn người nhỉ, chẳng phải ư?”
“Thôi đủ rồi, Jennifer,” bà mẹ khép chủ đề.
Khi gã Andrew Ball vô gia cư bị kết án ba tháng tù vì tội phá cửa và đột nhập, thì Derek O’Connor, người đang chiếm một vị trí khiêm tốn ở phía cuối phòng xử của tòa Tiểu hình, gọi điện thoại đến một số máy của Bảo tàng.
“Khi bị tóm, trên người hắn không giấu gì cả,” anh ta nói. “Chúng ta đã cho hắn khá nhiều thời gian.”
“Hắn là ai? Có phải người chúng ta biết không?”
“Một người trong nhóm Gecko, tôi nghĩ vậy. Cũng không quan trọng. Bọn họ thuê hắn làm những việc kiểu như này. Không sáng dạ lắm, nhưng hắn được cho là người cẩn thận.”
“Và hắn ngoan ngoãn nhận bản án như một con cừu thế à?” Đại tá Pikeaway nhếch mép ở đầu dây bên kia.
“Vâng. Hình ảnh hoàn hảo của một gã ngốc từ cuộc đời lương thiện bị đẩy vào vòng sa ngã. Không thể tìm được mối liên hệ giữa hắn với những vụ nghiêm trọng. Tất nhiên, giá trị của hắn là ở chỗ đó.”
“Hắn không tìm thấy gì,” Đại tá Pikeaway đăm chiêu. “Cậu cũng không tìm thấy gì cả. Có vẻ như chẳng có gì phải tìm cả, đúng
không? Chúng ta cứ nghĩ Rawlinson gài món này vào đồ đạc của chị gái hóa ra lại sai.”
“Những người khác cũng nghĩ thế.”
“Hiển nhiên là vậy… Có lẽ chúng ta mắc mưu rồi.”
“Có lẽ vậy. Còn khả năng nào khác không?”
“Nhiều lắm. Vật đó có thể vẫn còn ở Ramat. Được giấu đâu đó trong khách sạn Ritz Savoy, có lẽ vậy. Hoặc Rawlinson đã chuyển cho ai đó trên đường anh ta đến bãi đáp. Có chút manh mối trong lời khai của ông Robinson. Một phụ nữ đang giữ nó. Hoặc có lẽ bà Sutcliffe đã giữ nó ngay từ đầu mà bà ta không biết, và quẳng nó xuống Biển Đỏ cùng với thứ mà bà ta không còn dùng nữa.
“Và như vậy,” ông ta nói vẻ trầm ngâm, “có lẽ là điều tốt nhất.” “Ô, thôi nào, thứ đó giá trị hàng đống tiền đấy, thưa sếp.” “Mạng người cũng đáng giá lắm,” Đại tá Pikeaway nói.
5
NHỮNG LÁ THƯ
Thư Julia Upjohn gửi mẹ:
Mẹ thân yêu,
Giờ con đã ổn định rồi, và con rất thích ngôi trường này. Có một bạn cũng mới đến từ đầu học kì, bạn tên là Jennifer, bạn ấy và con khá hợp nhau. Chúng con đêu rất ham thích tennis. Bạn ấy chơi khá giỏi. Bạn ấy có cứ giao bóng xuất sắc, nhưng không phải bao giờ cũng đạt. Bạn ấy bảo tại vợt bị vênh do từng mang sang Vùng Vịnh. Ở đấy trời rất nóng. Bạn ấy đã ở đó trong thời gian xảy ra cách mạng. Con bảo như vậy không thú vị sao, bạn ấy bảo không, họ không tham quan được gì cả. Họ được đưa đến sứ quán hay đâu đó mà con không nghe rõ.
Cô Bulstrode rất hiền từ nhưng cũng rất đáng sợ, khi cô muốn thế. Cô ấy đối xử nhẹ nhàng với học sinh mới đến. Nhưng sau lưng cô ấy, mọi người gọi cô là Bull hay Bully. Dạy con môn văn học Anh là
cô Rich, cô ấy tuyệt lắm nhé. Lúc hào hứng, tóc cô ấy xõa cả ra. Khuôn mặt cô ấy trông lạ lùng nhưng sinh động, và khi cô trích đọc Shakespeare, tác phẩm nghe rất khác và rất thực. Có hôm cô dạy chúng con về Iago, chuyện nhân vật ấy cảm thấy thế nào - rất nhiều ghen tuông, nó ngấm sâu vào con người ta như thế nào, và ta chịu đau đớn khi đến khi ta phát điên đến muốn làm tổn thương người ta yêu. Bọn con nghe mà rùng cả mình - ngoại trừ Jennifer, vì không gì làm bạn ấy nao núng cả. Cô Rich dạy chúng con môn Địa lý nữa. Con cứ nghĩ môn học ấy sao mà tẻ nhạt, nhưng học với cô Rich thì không vậy. Sáng nay cô ấy kể cho chúng con về việc kinh doanh gia vị và tại sao người ta cần có gia vị, ấy là bởi nhiều món rất dễ bị hỏng.
Con học môn Vẽ với cô Laurie. Cô ấy mỗi tuần đến hai lần và đưa chúng con lên London để xem phòng trưng bày tranh. Chúng con
học tiếng Pháp cùng cô Blanche. Cô ấy không giữ được trật tự trong lớp. Jennifer bảo người Pháp không biết giữ trật tự. Cô ấy không khó chịu, chỉ tẻ nhạt thôi. Cô ấy nói: “Enfin, vous m’ennuiez, mes enfants!Các trò làm cô buồn đấy!” Cô Springer thật kinh khủng. Cô ấy dạy giáo dục thể chất. Tóc cô màu vàng nhạt và khi cô toát mồ hôi thì bốc mùi. Rồi còn có cô Chadwick (Chaddy) - cô ở đây khi trường mới thành lập. Cô ấy dạy toán và hơi khó tính, nhưng khá là tốt bụng.
Rồi còn cô Vansittart dạy môn lịch sử và tiếng Đức. Tính cô hơi giống cô Bulstrode, có phần sôi nổi hơn.
Ở đây có nhiều bạn là người nước ngoài, hai bạn người Ý, mấy bạn người Đức, và một bạn Thụy Điển khá dễ thương (bạn ấy là Công chúa hay gì đó) và một bạn mang dòng máu Thổ Nhĩ Kỳ lai Ba Tư, bạn ấy bảo đáng lẽ sẽ kết hôn với Quốc vương Ali Yusuf nếu ông ấy không chết trong tai nạn máy bay kia, nhưng Jennifer bảo điều đó không đúng, rằng Shaista chỉ nói vậy vì bạn ấy là họ hàng thôi, người ta nghĩ là họ hàng sẽ kết hôn với nhau. Nhưng Jennifer bảo ông ấy sẽ không chịu kết hôn. Ông ấy thích người khác. Jennifer biết rất nhiều thứ nhưng bạn ấy không hay kể.
Mẹ sắp khởi hành rồi nhỉ. Mẹ đừng quên hộ chiếu như lần trước nhé!!! Và mẹ hãy mang theo túi đồ cứu thương phòng khi có chuyện.
Yêu mẹ!
Julia.
Thư Jennifer Sutcliffe gửi mẹ:
Mẹ yêu quý,
Ở đây cũng không đến nỗi. Con thích trường này nhiều hơn con tưởng. Thời tiết dạo này rất đẹp. Hôm qua, chúng con phải viết một bài luận về chủ đề “Phẩm chất tốt có thể trở thành cực đoan không?” Con không nghĩ ra được gì để viết. Chủ đề tuần sau sẽ là
“Tính cách đối lập giữa Juliet và Desdemona.” Cái đấy nghe cũng vớ vẩn. Mẹ có nghĩ con cần mua cây vợt mới không? Con biết mẹ đã căng dây vợt cho con hồi tháng Tám vừa rồi - nhưng nó bị làm sao ấy. Có lẽ nó bị vênh. Con cũng thích học tiếng Hi Lạp. Con có thể học không? Con thích ngoại ngữ lắm. Tuần tới sẽ có mấy bạn đến London xem ballet. Vở Hồ thiên nga. Đồ ăn ở đây ngon lắm. Hôm qua bọn con ăn trưa món thịt gà, và bọn con có món bánh tự làm dùng với trà, rất tuyệt.
Con không nghĩ được chuyện gì để kể nữa - mẹ có bị thêm vụ trộm nào không?
Con gái yêu của mẹ,
Jennifer
Thư Margaret Gore-West, Lớp trưởng, gửi mẹ
Mẹ thân yêu,
Có rất ít tin mới. Kỳ này con học tiếng Đức cùng cô Vansittart. Có tin đồn cô Bulstrode sẽ nghỉ hưu và cô Vansỉttart sẽ kế nhiệm, nhưng người ta kháo nhau chuyện này đã hơn một năm nay, và con chắc chuyện đó là không thật. Con đã hỏi cô Chadwick (dĩ nhiên, con không dám hỏi cô Bulstrode!) và cô ấy tỏ ra hơi khó chịu. Cô bảo chắc chắn là không và đừng có nghe chuyện ngồi lê đôi mách. Chúng con đi xem ballet vào thứ Ba. Vở Hồ thiên nga nhé. Như trong mơ ấy, không diễn tả thành lời!
Công chúa Ingrid khá thú vị. Đôi mắt rất xanh, nhưng bạn ấy đeo niềng răng. Có hai bạn mới người Đức. Họ nói tiếng Anh khá tốt.
Cô Rich đã quay lại và trông cũng khỏe. Chúng con thực sự nhớ cô ấy ở kì học trước. Cô giáo mới dạy thể dục tên là Springer. Cô ấy rất hắc xì dầu và không ai ưa. Nhưng mà cô ấy dạy tennis rất hay. Một bạn mới, tên là Jennifer Sutcliffe, chơi rất giỏi, con nghĩ vậy. Cú đánh bạt trái khá yếu tay. Bạn thân của bạn ấy là Ịulia. Chúng con gọi bạn ấy là Jays!
Mẹ đừng quên ngày 20 đến đón con nhé? Hội thao vào ngày 19 tháng Sáu.
Con yêu mẹ.
Margaret
Thư Ann Shapland gửi Dennis Rathbone:
Dennis thân mến,
Trước tuần thứ ba của kì học thì em không rảnh đâu. Khi có thời gian em rất muốn ăn tối cùng anh. Thứ Bảy hoặc Chủ nhật nhé. Em sẽ cho anh biết.
Em thấy làm việc ở trong trường cũng khá vui. Nhưng ơn Chúa, em không phải giáo viên! Nếu không thì em sẽ phát điên mất.
Em của anh,
Ann
Thư Cô Johnson gửi chị gái:
Edith thân mến,
Mọi thứ ở đây vẫn bình thường như mọi ngày. Học kì hè luôn dễ chịu. Khu vườn trông thật đẹp và bọn em có người làm vườn mới để giúp ông già Briggs - anh ta trẻ và khỏe! Lại khá đẹp trai, thật tiếc. Mấy cô học trò thì thật ngốc nghếch.
Cô Bulstrode không nói gì nữa chuyện nghỉ hưu, nên em hi vọng cô ấy bỏ ý định này. Cô Vansittart hẳn sẽ không giữ nguyên được trường như thế này. Em nghĩ khi ấy mình không ở lại được mất.
Cho em gửi lời hỏi thăm Dick và các cháu, và gửi lời hỏi thăm Oliver và Kate khi chị gặp họ.
Elspeth
Thư cô Angele Blanche gửi René Dupont, Post Restante, Bordeaux. René thân mến,
Mọi thứ ở đây đều tốt, dù không thể coi là vui vẻ dễ dàng. Các học sinh không lễ phép cũng chảng biết cư xử. Em nghĩ tốt hơn không nên phàn nàn với cô Bulstrode. Người ta phải biết tự bảo vệ mình khi đối mặt với tình huống đó!
Hiện tại chẳng có gì thú vị kể cho anh.
Mouche
Thư cô Vansttart gửi bạn:
Gloria thân mến,
Kì học hè này bắt đầu thật êm ả. Mấy cô học sinh mới rất được. Những học sinh nước ngoài đang thích nghi tốt. Công nương (cô bé người Trung Đông, không phải người Bắc Âu) có vẻ thiếu nỗ lực, nhưng thế là thường nhỉ. Cô bé ấy có phong thái khá duyên dáng.
Cô giáo dạy thể dục mới, cô Springer, không phù hợp lắm. Học sinh không thích cô ta, và cô ta không biết cách đối xử khéo léo với chúng. Dù gì, đây đâu phải trường thường. Môn giáo dục thể chất đâu có quan trọng đến thế! Cô ta cực kỳ tọc mạch, và hỏi quá nhiều câu hỏi riêng tư. Những chuyện như vậy rất phiền phức, và cũng thật thô lỗ. Cô Blanche, cô giáo tiếng Pháp mới, lại khá thân thiện, nhưng không được như cô Depuy.
Vào ngày khai giảng bọn mình tránh được một sự cố nho nhỏ. Bà Veronica Carlton-Sanduiays xuất hiện trong tình trạng hoàn toàn say xỉn! May nhờ cô Chadwick phát hiện và ngăn kịp, chứ không thì đấy sẽ là sự việc khó chịu nhất. Cặp song sinh khá là ngoan.
Cô Bulstrode chưa nói gì dứt khoát về tương lai - nhưng theo thái độ của cô, mình nghĩ cô ấy đã quyết định chắc chắn. Meadowbank thực
sự là một thành công rực rỡ, và mình sẽ rất tự hào được tiếp nối truyền thống này.
Cho mình gửi lời hỏi tham Marjorie khi cậu gặp cô ấy nhé. Bạn của cậu,
Eleanor
Thư gửi Đại tá Pikeaway, qua kênh thông thường:
Về chuyện cử người vào chỗ nguy hiểm! Tôi là người duy nhất có sức vóc trong cái trường học, có chừng một trăm chín mươi phụ nữ.
Quý Bà đến trường theo đúng phong cách. Cadillac màu đỏ mâm xôi và xanh tùng lam, nước da sẫm nổi bật trong áo váy truyền thống, kiểu bà vợ tín-đồ-thời-trang-Pari, và một phiên bản nhỏ y hệt (H.R.H).
Khó mà nhận ra cô bé vào ngày hôm sau trong bộ đồng phục của trường. Không khó khăn để tạo lập mối quan hệ thân thiện với cô bé. Rõ là như thế. Cô bé đang hỏi tôi tên của mấy loài hoa, theo kiểu ngây thơ ngọt ngào, thì bỗng một mụ quỷ dạ xoa mặt đầy tàn hương, tóc đỏ, và giọng nói thì như vịt bầu đến và tách cô bé khỏi tôi giữa lúc đang thân mật. Cô bé không muốn đi. Tôi luôn muốn tìm hiểu những cô gái phương Dông được nuôi dưỡng sau mạng rèm che khiêm tốn. Cô bé này hẳn rất có ít trải nghiệm về cuộc sống trong những ngày đi học ở Thụy Sĩ, tôi nghĩ vậy.
Quỷ dạ xoa, hay còn gọi là cô Springer, cô giáo dạy thể dục, quay lại lên lớp tôi. Nhân viên làm vườn không dược nói chuyện với học sinh v.v… Đến lượt tôi tỏ vẻ ngạc nhiên chất phác. “Xin lỗi cô. Cô bé đấy
hỏi tôi vê cây phi yến này. Có lẽ ở quê hương cô bé không có loại cây này.” Quỷ dạ xoa dễ dàng bị xoa dịu, đến lúc cuối cùng còn cười điệu bộ với tôi. Kém thành công với thư ký của bà Bulstrode. Kiểu gái nông thôn váy áo chỉn chu. Cô giáo tiếng Pháp thì cởi mở hơn. Trông thì có vẻ e dè và nhút nhát, nhưng thực tế thì không đến nỗi vậy. Cũng đã làm bạn được với ba cô gái dễ thương, hay cười, đều
mang những cái tên Ki-tô, Pamela, Lois và Mary, chưa biết họ, nhưng thuộc dòng dõi quý tộc. Một con ngựa chiến già tên là Chadwick để mắt cảnh giác tôi, nên tôi thận trọng không tiện giở chiêu lấy lòng bà ta.
Quản lý của tôi, ông già Briggs, là một kẻ cộc cằn, chủ đề trò chuyện chính của lão là những chuyện tốt đẹp thời xa xưa, mà tôi đồ rằng khi lão ta là người đứng thứ tư trong số năm người làm. Lão càu nhàu về đủ mọi thứ và mọi người, nhưng có sự tôn trọng hoàn toàn với bà Bulstrode. Tôi cũng vậy. Bà ấy kiệm lời, rất dễ chịu với tôi, nhưng tôi có cảm giác ghê rợn rằng bà ta nhìn xuyên thấu và biết mọi thứ về tôi.
Đến nay, không có dấu hiệu gì xấu - nhưng tôi vốn là người sống trong hi vọng mà.
6
NHỮNG NGÀY ĐẦU
Trong phòng sinh hoạt chung của giáo viên, các tin tức đang được trao đổi. Những chuyến đi nước ngoài, những vở kịch đã xem, những triển lãm nghệ thuật đã tham quan. Những bức ảnh được chuyền quanh. Hiểm họa ảnh màu sắp xảy ra. Ai cũng hăng hái khoe ảnh mình, nhưng lại ngại xem ảnh người khác.
Lúc này, cuộc trao đổi trở nên ít tính cá nhân hơn. Cung Thể thao mới xây nhận được cả những lời chỉ trích lẫn ngưỡng mộ. Người ta thừa nhận đó là một tòa nhà đẹp, nhưng hiển nhiên ai cũng có ý kiến này khác về thiết kế.
Những học sinh mới cũng được nhắc đến, nhìn chung đều là nhận xét tích cực.
Hai giáo viên mới được bắt chuyện làm quen nhẹ nhàng. Cô Blanche trước đây đã ở nước Anh chưa? Cô là người vùng nào ở nước Pháp?
Cô Blanche lịch sự đáp lại, nhưng vẫn giữ kẽ.
Cô Springer thì cởi mở hơn.
Giọng cô nghe mạnh và dứt khoát, tưởng như đang giảng bài, mà chủ đề là Sự tuyệt vời của cô Springer. Với tư cách một đồng nghiệp, cô được đánh giá cao thế nào. Những cô hiệu trưởng trước đây đã nghe theo ý kiến của cô để sắp xếp lại thời khóa biểu cho phù hợp ra sao.
Cô Springer không được tinh ý lắm. Cô chẳng nhận ra sự bứt rứt trong đám thính giả. Cô Johnson đành phải hỏi, giọng nhẹ nhàng:
“Tuy nhiên, tôi cho là ý kiến của cô không phải bao giờ cũng được chấp nhận theo như - ờ - đáng lẽ ra phải vậy.”
“Thì cũng phải chuẩn bị tinh thần tiếp nhận thói vô ơn chứ,” cô Springer nói. Giọng của cô, đã to lắm rồi, lại càng to hơn. “Vấn đề là, mọi người quá hèn nhát - không đối diện với sự thật. Họ thường không muốn nhìn điều diễn ra suốt ngay trước mũi mình. Tôi thì không như vậy. Tôi đi thẳng vào vấn đề. Đã hơn một lần, tôi khui ra một vụ bê bối bẩn thỉu - đưa nó ra ánh sáng. Mũi tôi đánh hơi vấn đề rất nhanh - một khi đã lần theo, tôi không bỏ cuộc - chừng nào tôi rõ ngọn ngành mới thôi.” Cô phát ra tiếng cười ồ ồ sung sướng. “Theo ý tôi, ai mà sống đời không minh bạch thì thôi đừng đi dạy ở trường. Nếu ai có điều giấu giếm, người khác sẽ biết ngay. Ô! Các chị sẽ ngạc nhiên nếu tôi kể những chuyện tôi đã phát hiện ở mọi người. Những chuyện không ai hình dung nổi.”
“Chị thích chuyện đấy à?” cô Blanche nói.
“Dĩ nhiên là không. Chỉ làm nhiệm vụ của tôi thôi.
Nhưng tôi không được ủng hộ. Chẳng có quy củ gì hết. Nên tôi nghỉ việc - để tỏ ý phản đối.”
Cô nhìn quanh rồi lại cất tiếng cười khảng khái.
“Hi vọng ở đây không ai có điều gì phải che giấu,” cô vui vẻ nói.
Không ai thích chuyện đó cả. Nhưng cô Springer không thuộc hạng người nhận ra điều đó.
“Tôi có thể nói chuyện với bà một lát không, thưa bà Bulstrode?”
Bà Bulstrode đặt bút xuống và ngước lên nhìn khuôn mặt đỏ bừng của người y tá, cô Johnson.
“Được, cô Johnson.”
“Là về học sinh Shaista - cô bé Ai Cập hay là gì đó.”
“Vâng?”
“Là chuyện - ờ - đồ lót.”
Lông mày bà Bulstrode nhếch lên, vẻ ngạc nhiên kiên nhẫn. “À - chuyện áo ngực của cô bé.”
“Có chuyện gì về áo lót của cô bé?”
“À - chuyện này không bình thường - ý tôi là nó không giữ ngực, chính xác là như vậy. Ờ, nó đẩy ngực cô bé lên - thật sự không cần thiết.”
Bà Bulstrode mím môi để nén nụ cười, như bà thường hay thế khi nói chuyện với cô Johnson.
“Có lẽ tôi nên đến xem,” bà nghiêm trang nói.
Sau đó một cuộc điều tra được tổ chức, với món đồ phản cảm được cô Johnson bày ra, trong khi đó Shaista ngắm nhìn với vẻ thích thú rõ ràng.
“Như thể là có gọng và miếng độn nữa” cô Johnson bày tỏ sự phản đối.
Shaista giải thích đầy nhiệt tình.
“Nhưng cô thấy ngực em rồi đấy, chúng không lớn lắm - không đủ lớn. Trông em chẳng giống phụ nữ gì cả. Mà điều này rất quan trọng với một cô gái - chứng tỏ mình là phụ nữ chứ không phải con trai.”
“Còn nhiều thời gian cho chuyện đó. Em chỉ mới mười lăm thôi mà,” cô Johnson nói.
“Mười lăm - thế là phụ nữ rồi! Và trông em đã ra dáng phụ nữ đấy chứ, không phải sao?”
Cô bé nhìn bà Bulstrode cầu cứu, bà gật đầu nghiêm nghị.
“Ngực em ấy, lép quá. Nên em muốn trông chúng không lép như vậy. Cô có hiểu không?”
“Cô hoàn toàn hiểu,” bà Bulstrode nói. “Và cô rất đồng cảm với em. Nhưng em thấy đấy, ở đây, trong trường này em sống cùng các học sinh khác, mà phần lớn là người Anh, và các cô bé người Anh ở độ
tuổi mười lăm thì thường chưa ra dáng phụ nữ. Cô muốn học trò của mình thận trọng trong việc dùng mỹ phẩm, và mặc trang phục phù hợp với giai đoạn phát triển của mình. Cô khuyên em mặc áo lót ấy khi em diện đồ đi dự tiệc hoặc đến London, còn mặc hàng ngày ở đây thì đừng. Ở đây chúng ta vận động và chơi thể thao nhiều, vì vậy cần ăn mặc sao cho em vận động được dễ dàng.”
“Nhưng mà nhiều quá - mấy chuyện chạy nhảy này,” Shaista hờn dỗi nói, “còn cái môn giáo dục thể chất nữa, em không thích cô Springer - cô ấy suốt ngày nói, ‘nhanh lên, nhanh nữa lên, đừng có lờ đờ’. Em thấy phát mệt ra.”
“Thôi đủ rồi, Shaista,” bà Bulstrode nói, giọng bà chuyển sang ra lệnh. “Gia đình đưa em đến đây để học theo lối của Anh. Và những bài tập này sẽ rất tốt cho ngoại hình của em, và để phát triển ngực của em nữa.”
Cho Shaista về nghỉ, bà mỉm cười với cô Johnson đang bực bội.
“Đúng là…” bà nói. “Cô bé này về ngoại hình đã trưởng thành rồi. Nhìn bề ngoài cứ như đã hơn hai mươi tuổi, và tâm lý hẳn cũng vậy. Cô đừng mong cô bé cảm thấy như đang ở độ tuổi Julia Upjohn, ví dụ vậy. Về mặt trí tuệ, Julia vượt xa Shaista. Về thể chất, thì cô bé này vẫn mặc yếm được.”
“Tôi ước tất cả học sinh đều như Julia Upjohn,” cô Johnson nói.
“Tôi thì không,” cô Bulstrode nói ngay. “Một ngôi trường đầy những học sinh giống hệt nhau thì tẻ nhạt lắm.”
Tẻ nhạt, bà nghĩ, khi bà quay về chấm điểm bài luận về Kinh thánh. Dạo gần đây, từ này lặp lại rất nhiều trong tâm trí bà. Tẻ nhạt…
Nếu kể một đặc tính mà ngôi trường của bà không có, thì ấy là sự tẻ nhạt. Trong suốt đời làm hiệu trưởng, chính bà chưa bao giờ cảm thấy nhàm tẻ. Có nhiều khó khăn phải đối phó, những khủng hoảng bất ngờ, sự bực bội với các phụ huynh, với các học sinh: các biến động trong gia đình. Bà đã gặp và xử lý thảm họa chớm nảy sinh, biến chúng thành chiến thắng. Tất cả đều rất kích thích, gây phấn chấn, và cực kỳ xứng đáng. Ngay cả lúc này, dù bà đã quyết định, bà vẫn không muốn ra đi.
Về thể chất, sức khỏe của bà rất tốt, mạnh mẽ như hồi bà cùng Chaddy (ôi Chaddy trung thành!) khởi một cuộc thử thách tuyệt vời chỉ có vài học sinh và sự ủng hộ của một ngân hàng có tầm nhìn xa khác thường. Thành tích học thuật nổi bật của Chaddy tốt hơn thành tích của bà, nhưng chính bà mới là người có tầm nhìn, và lên kế hoạch biến ngôi trường này thành một nơi danh tiếng khắp châu Âu. Chưa bao giờ bà e sợ thử nghiệm cái mới, trong khi Chaddy lại hài lòng giảng dạy những điều hợp lý nhưng không hấp dẫn, những điều bà ấy biết. Thành tựu to lớn nhất của Chaddy ấy là luôn có mặt ở đó, kề cận, là cái đệm giảm xóc trung thành, nhanh chóng giúp đỡ khi cần có sự giúp đỡ. Như sự cố với bà Veronica xảy ra hôm khai giảng. Chính sự vững chắc của bà ấy, bà Bulstrode ngẫm lại, mà một công trình lớn thú vị được xây lên.
Ồ, nói về vật chất, cả hai bà đều kiếm bộn từ ngôi trường này. Nếu giờ cả hai nghỉ hưu, họ sẽ có nguồn thu nhập tốt bảo đảm cho phần đời còn lại. Bà Bulstrode băn khoăn liệu khi bà nghỉ hưu rồi thì Chaddy có muốn nghỉ không? Có lẽ là không. Có lẽ, với bà ấy, ngôi trường này chính là nhà. Bà ấy sẽ tiếp tục, trung thành và trách nhiệm, làm chỗ dựa cho người kế nhiệm bà Bulstrode.
Vì bà Bulstrode đã quyết định - nên phải có người kế nhiệm. Ban đầu là cùng bà quản lý, rồi sau đó sẽ làm việc độc lập. Biết chọn thời điểm ra đi - ấy là chuyện tất yếu tuyệt vời trong cuộc sống. Ra đi trước khi quyền lực của mình bắt đầu suy tàn, sức kiểm soát lỏng dần, trước khi mình thoáng cảm thấy sự thoái trào, thiếu tinh thần đương đầu với việc phải cố gắng liên tục.
Bà Bulstrode đã chấm xong các bài luận và nhận thấy rằng cô bé nhà Upjohn suy nghĩ rất độc đáo. Jennifer Sutcliffe hoàn toàn thiếu óc tưởng tượng, nhưng cô bé cho thấy khả năng nắm bắt thực tế tốt khác thường. Mary Vyse, dĩ nhiên, thuộc hạng học thuật - một trí nhớ dai dẳng tuyệt vời. Nhưng mà cô bé tẻ nhạt làm sao! Tẻ nhạt - lại cái từ ấy. Bà Bulstrode xua nó đi khỏi tâm trí, và nhấc máy gọi thư ký.
Bà lại đọc cho thư ký viết thư.
Bà Valence kính mến. Jane có chút vấn đề về tai. Tôi gửi kèm theo báo cáo của bác sĩ - v.v…
Nam tước Von Eisenger kính mến. Chắc chắn chúng tôi có thể thu xếp cho Hedivig xem opera nhân dịp Hellstern nhận vai Isolda…
Một giờ nhanh chóng trôi qua. Bà Bulstrode hiếm khi dừng lại để tìm lời. Chiếc bút chì của Ann Shapland chạy thoăn thoắt trên mảnh giấy.
Một thư ký rất tốt, Bulstrode nghĩ. Tốt hơn Vera Lorrimer. Một cô gái khó chịu, Vera ấy. Bỏ việc quá bất ngờ. Trầm cảm nặng, cô ta đã nói vậy. Chuyện liên quan đến đàn ông, bà Bulstrode cam chịu nghĩ. Thường là liên quan đến đàn ông.
“Xong rồi đấy,” bà Bulstrode nói, khi bà đọc từ cuối cùng. Bà cất tiếng thở dài nhẹ nhõm.
“Quá nhiều việc tẻ nhạt phải làm,” bà cảm thán. “Viết thư cho phụ huynh chẳng khác nào cho chó ăn. Ném những lời dễ chịu nhàm chán vào mấy cái miệng đang há ra chờ.” Ann bật cười. Bà Bulstrode nhìn cô dò xét.
“Sao cô lại chọn công việc thư ký?”
“Tôi cũng rõ. Tôi không có sở thích gì đặc biệt, và đấy là công việc mà hầu hết mọi người sẽ làm thôi.”
“Cô không thấy nó đơn điệu à?”
“Tôi cho là mình gặp may. Tôi đã làm rất nhiều chỗ khác nhau. Tôi đã làm việc cho ngài Mervy Todhunter, nhà khảo cổ học, trong một năm, sau đó tôi làm việc cho ngài Andrew Peters ở tập đoàn Shell. Tôi làm thư ký cho diễn viên Monica Lord một thời gian - công việc
quả thực rất bận rộn!” Cô mỉm cười hồi tưởng.
“Ngày nay có rất nhiều người như các cô,” bà Bulstrode nói. “Cứ lông ba lông bông.” Nghe giọng bà có vẻ không hài lòng.
“Thực ra tôi không thể làm việc gì lâu được. Tôi có một bà mẹ ốm yếu. Bà thỉnh thoảng lại phát bệnh. Nên tôi phải về nhà chăm bà.”
“Tôi hiểu.”
“Nhưng dù vậy, tôi e là mình cứ phải thay đổi thế này. Tôi không có khả năng làm việc gì liên tục quá lâu. Tôi thấy thay đổi công việc lại đỡ tẻ nhạt hơn.”
“Tẻ nhạt…” bà Bulstrode lẩm bẩm, từ chết người đó lại hiện ra. Ann ngạc nhiên nhìn bà.
“Đừng bận tâm,” bà Bulstrode nói. “Chỉ là đôi khi một từ đặc biệt nào đó cứ tình cờ xuất hiện trong đầu. Cô có thích làm giáo viên không?” bà hỏi, với chút tò mò.
“Tôi e là mình ghét công việc ấy,” Ann nói thẳng thắn. “Tại sao?”
“Tôi thấy nó tẻ nhạt khủng khiếp - Ô, tôi xin lỗi.”
Cô dừng lại vẻ lo lắng.
“Dạy học không phải công việc tẻ nhạt đâu,” bà Bulstrode nói, lòng phấn chấn. “Đó có thể là điều thú vị nhất trên đời. Khi về hưu tôi sẽ nhớ nó kinh khủng.”
“Nhưng có chắc là…” Ann nhìn chằm bà. “Bà đang tính chuyện nghỉ hưu sao?”
“Đã quyết định rồi - đúng. Ô, nhưng phải một vài năm nữa tôi mới nghỉ.”
“Nhưng - tại sao?”
“Vì tôi đã cống hiến những gì tốt nhất của mình cho ngôi trường này rồi - và nhận được điều tốt nhất từ ngôi trường này. Tôi không muốn điều tốt thứ nhì.”
“Ngôi trường này vẫn tồn tại chứ?”
“Có chứ. Tôi có một người kế nhiệm tốt.”
“Cô Vansittart, tôi nghĩ vậy?”
“Vậy cô tự động nghĩ đến cô ấy à?” bà Bulstrode thình lình nhìn cô, “Thú vị thật…”
“Tôi e là mình chưa thực sự nghĩ về việc đó. Tôi chỉ nghe các giáo viên nói chuyện. Tôi cho rằng cô ấy sẽ tiếp quản rất tốt - chính xác theo truyền thống của bà. Và cô ấy có vẻ ngoài rất thu hút, xinh đẹp, và phong thái khá là tốt. Tôi những tưởng điều đó là quan trọng, không phải ư?”
“Đúng, đúng vậy. Tôi dám chắc Eleanor Vansittart là người phù hợp.”
“Cô ấy sẽ kế tục ở nơi bà bỏ lại,” Ann thu dọn đồ đạc. Nhưng mình có muốn như vậy không? Bà Bulstrode tự vấn khi Ann đi ra. Tiếp nối ở nơi mình bỏ lại? Đấy chính là điều Eleanor sẽ làm! Không thử nghiệm mới, không yếu tố cách mạng. Đấy không phải cách mà mình đã tạo nên Meadowbank như ngày hôm nay. Mình chớp lấy cơ hội. Mình đã làm nhiều người thất vọng. Mình đã lấn áp, thu phục, và từ chối đi theo mô hình những trường khác. Đấy không phải là điều mình muốn tiếp nối ở đây sao? Có người thổi đời sống mới vào
ngôi trường này. Một cá tính năng động… như là, phải rồi, Eileen Rich.
Nhưng Eileen chưa đủ chín chắn, chưa đủ kinh nghiệm. Cô ấy biết động viên, và biết giảng dạy. Cô ấy có những ý tưởng. Cô ấy không bao giờ tẻ nhạt - Vớ vẩn, bà phải tống cái từ đó ra khỏi đầu mình. Eleanor Vansittart không tẻ nhạt… Bà ngước lên khi bà Chadwick bước vào.
“Ồ, Chaddy,” bà nói. “Gặp chị mừng quá!”
Bà Chadwick tỏ ra hơi ngạc nhiên.
“Tại sao? Có chuyện gì vậy?”
“Do tôi. Tôi không biết đầu óc mình làm sao nữa.”
“Thật không giống chị chút nào, Honoria ạ.”
“Đúng thế, không phải sao? Kì học này thế nào, Chaddy?” “Khá ổn, tôi cho là vậy.” Giọng bà Chadwick không chắc chắn. Bà Bulstrode hỏi gặng.
“Nào. Đừng vòng vo nữa. Có chuyện gì vậy?”
“Không có gì cả. Thực ra, Honoria ạ, không có gì hết. Chỉ là…” Bà Chadwick nhăn trán và trông như một chú chó Boxer đang lúng túng - “ồ, cảm giác thôi. Nhưng thực sự, tôi cũng chẳng thể điều chỉnh gì được. Những học trò mới có vẻ rất được. Tôi không quan tâm nhiều lắm đến cô Blanche. Nhưng tôi cũng chẳng thích Genevieve Depuy. Ranh ma.” Bà Bulstrode không quan tâm nhiều đến những lời chỉ trích này. Trong mắt bà Chaddy thì người Pháp nào cũng thế cả.
“Cô ta không phải là giáo viên tốt,” bà Bulstrode nói. “Thật ngạc nhiên. Những lời nhận xét trong hồ sơ lại rất tốt.”
“Người Pháp không bao giờ biết làm sư phạm cả. Không có kỷ luật,” bà Chadwick nói. “Và thực sự thì cô Springer quá lắm. Bản chất cô Springer cũng như cái tên cô ấy…”
“Cô ấy làm tốt việc của mình.”
“Ồ vâng, nhất hạng.”
“Giáo viên mới luôn gây rầy rà ít nhiều mà,” bà Bulstrode nói.
“Vâng,” bà Chadwick tán thành nhiệt liệt. “Tôi chắc là chẳng có chuyện gì khác nữa đâu. Mà cậu làm vườn mới ấy còn trẻ quá. Thật bất thường ở thời nay. Không thợ làm vườn nào lại trẻ thế. Đáng tiếc trông cậu ta lại điển trai. Chúng ta nên để mắt đến anh chàng này.”
Hai bà gật đầu đồng thuận. Không ai hiểu rõ hơn họ về sự tàn phá mà một anh chàng điển trai gây ra cho những trái tim thiếu nữ.
7
SỰ ĐẾN
“Cũng khá đó, chàng trai,” lão Briggs miễn cưỡng nói, cũng khá.”
Lão nhìn nhận thành quả xới luống đất của người trợ việc mới. Sẽ chẳng hay ho gì nếu để anh chàng này vượt qua mình, Briggs nghĩ.
“Cậu nghĩ mà xem,” lão nói tiếp, “đừng nên làm việc vội vã như vậy. Phải cẩn thận chắc chắn. Làm đâu chắc đó mới được.”
Chàng thanh niên hiểu rằng kết quả của mình tốt hơn nhiều so với lão Briggs.
“Giờ thì dọc theo chỗ này,” Briggs nói tiếp. “Chúng ta sẽ trồng thêm mấy cây trúc. Bà ấy không thích trúc - nhưng tôi chả quan tâm. Phụ nữ thì cảm xúc thất thường, nếu cậu cứ lờ đi thì tôi dám chắc họ chả bao giờ nhận thấy. Dù tôi vẫn nghĩ bà ấy là loại người để ý đến mọi chuyện. Dù bề ngoài xem chừng bà ấy có đủ thứ phải lo rồi, quản lý một ngôi trường thế này mà.”
Adam hiểu “bà ấy”, người chiếm phần quá nhiều trong những cuộc trò chuyện của Briggs, ấy là bà Bulstrode.
“Vừa nãy cậu nói chuyện với ai thế?” Briggs nói tiếp, giọng ngờ vực, “khi cậu đến nhà kho lấy cây trúc đấy?”
“Ô, là cô bé học sinh thôi mà,” Adam nói.
“À. Phải con bé người Ý không? Cẩn thận đấy chàng trai. Đừng có dính đến người Ý, tôi biết quá rõ. Tôi biết người Ý, thực đấy, trong thế chiến thứ nhất, và nếu lúc đó tôi biết được điều mà lúc này tôi biết đây, thì tôi đã cẩn thận hơn. Hiểu chứ?”
“Có hại gì đâu,” Adam nói, ra vẻ sưng sỉa. “Con bé chỉ giết thì giờ thôi mà, thật đấy, và hỏi tên một vài loại cây.”
“À,” Briggs nói, “nhưng cậu phải cẩn thận. Địa vị của cậu không nên nói chuyện với các học sinh. Bà ấy không thích đâu.”
“Tôi không gây hại gì cả, tôi không nói điều không nên nói.”
“Tôi có bảo cậu gây hại gì đâu, chàng trai. Ý tôi bao nhiêu thiếu nữ tập trung về một chỗ như vậy, mà có gì để khuây lãng đâu, cậu nên cẩn thận thì hơn. Vậy thôi. Ô mà Mụ Quỷ già đến rồi kìa. Muốn giao việc khó đây, lại đến tay tôi thôi.”
Bà Bulstrode đang nhanh chân bước đến. “Chào ông Briggs,” bà nói. “Chào anh… ờ…”
“Adam, thưa bà.”
“À vâng, Adam. Ô, dường như anh xới thửa đất này rất đạt yêu cầu. Lưới ở sân tennis bị xệ xuống đấy, Briggs. Ông để ý nhé.”
“Được rồi, thưa bà. Tôi sẽ đến xem sao.”
“Ông định trồng cây gì phía trước này thế?”
“Ồ thưa bà, tôi nghĩ…”
“Không trồng trúc,” bà Bulstrode cất lời, không cho lão nói nốt câu, “Thược dược,” rồi bà đi thẳng.
“Đến - ra lệnh,” lão Briggs nói. “Chẳng phải thường đâu. Nếu cậu làm việc không đúng mực, bà ấy sẽ sớm nhận ra ngay. Và hãy nhớ lời tôi đấy, cẩn thận, chàng trai, về người Ý và những người khác.”
“Nếu bà ta phát hiện tôi có lỗi gì, tôi sẽ sớm biết phải làm sao,” Adam cáu kỉnh nói. “Tôi còn bao nhiêu việc phải làm.”
“A, ngày nay thanh niên các cậu toàn kiểu đấy. Không chịu nghe lời ai cả. Tôi chỉ nói là, phải nhìn trước ngó sau.” Adam tiếp tục khoác vẻ cáu bẳn, nhưng rồi cúi xuống làm việc tiếp.
Bà Bulstrode quay lại con đường về tòa học xá. Bà hơi nhíu mày.
Cô Vansittart từ phía ngược chiều đi lại.
“Chiều hôm nay nóng thế nhỉ,” cô Vansittart nói. “Vâng, rất oi bức và ngột ngạt.” Một lần nữa bà Bulstrode lại cau mày. “Cô có để ý chàng thanh niên kia không - anh chàng làm vườn ấy?”
“Không, không đặc biệt chú ý lắm.”
“Tôi thấy anh ta dường như có vẻ gì đó… ờ… rất lạ,” bà Bulstrode nghiêm nghị nói. “Không phải dân quanh đây.”
“Có lẽ cậu ta vừa ở Oxford ra và muốn kiếm chút tiền.” “Anh ta khá ưa nhìn. Các em học sinh chú ý đến anh ta.” “Cũng dễ hiểu thôi mà.”
Bà Bulstrode mỉm cười. “Kết hợp tự do cho các em học sinh với giám sát chặt chẽ - có phải ý cô là vậy, Eleanor?”
“Vâng.”
“Chúng ta làm được,” bà Bulstrode nói.
“Vâng, quả đúng vậy. Ở trường Meadowbank chưa bao giờ bị vụ bê bối nào sao?”
“Có một đôi lần suýt nữa thì xảy ra,” bà Bulstrode nói. Bà cười. “Quản lý một trường học chưa có giây phút nào là tẻ nhạt cả.” Bà nói tiếp, “Đã bao giờ cô cảm thấy cuộc sống ở đây tè nhạt chưa, Eleanor?”
“Thực sự là không,” cô Vansittart nói. “Tôi thấy công việc ở đây là hứng thú và hài lòng nhất. Hẳn bà phải cảm thấy tự hào và hạnh phúc, thưa bà Honoria, với thành công to lớn mà bà đạt được.”
“Tôi nghĩ mình đã làm được nhiều điều tốt,” bà Bulstrode trầm tư nói. “Dĩ nhiên, chẳng có gì được giống y như điều ban đầu người ta tưởng tượng…
“Này cô Eleanor thử nói xem,” bà bỗng nói, “nếu là quản lý nơi này, cô sẽ thay đổi những gì? Đừng ngại nói. Tôi thích được nghe.”
“Tôi không nghĩ mình muốn thay đổi gì,” Eleanor Vansittart nói. “Tôi thấy dường như tinh thần ở nơi đây và cả ngôi trường này là gần như hoàn hảo.”
“Ý cô là sẽ tiếp nối đường lối này?”
“Vâng, đúng vậy. Tôi không nghĩ còn có thể làm tốt hơn được nữa.”
Bà Bulstrode yên lặng một lát. Bà đang tự nghĩ: Có phải cô ấy nói thế để làm mình vui lòng không. Không ai hiểu hết con người. Dù có sống gần gũi họ nhiều năm. Chắc chắn, cô ấy không có ý đó. Bất cứ ai có tư tưởng sáng tạo ắt hẳn đều muốn thay đổi. Dù đúng là nói như thế cũng không được khéo léo lắm… Và sự khéo léo rất quan trọng. Nó quan trọng đối với các phụ huynh, quan trọng đối với học sinh, quan trọng đối với giáo viên. Eleanor chắc chắn có sự khéo léo.
Bà cao giọng, “Nhưng mà bao giờ cũng phải có những điều chỉnh chứ? Cho hợp thời thế và quan niệm xã hội mỗi lúc.”
“Ồ điều đó, vâng,” cô Vansittart nói. “Như người ta nói, con người phải thay đổi để thích ứng theo thời gian. Nhưng đây là trường của bà, thưa bà Honoria, bà đã tạo ra nó như ngày nay và truyền thống của bà là cốt lõi của ngôi trường này. Tôi nghĩ truyền thống rất quan trọng, bà không nghĩ vậy sao?”
Bà Bulstrode không trả lời. Trong đầu bà đang lởn vởn lời sắp được nói ra, những lời khi đã nói thì không thể rút lại được. Lời mời làm đối tác còn lơ lửng trên không. Dù với cung cách lịch thiệp của mình cô Vansittart tỏ vẻ không nhận ra, nhưng hẳn đã cảm thấy. Bà Bulstrode thực sự không biết điều gì khiến bà kìm lại. Sao bà lại ghét phải nói ra đến thế? Có lẽ, bà lấy làm buồn mà thừa nhận, bởi bà ghét từ bỏ quyền kiểm soát. Trong thâm tâm, dĩ nhiên, bà muốn ở lại, bà muốn tiếp tục lãnh đạo ngôi trường của mình. Nhưng có chắc là không còn ai kế nhiệm xứng đáng hơn Eleanor? Rất đáng tin