🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Con Mắt Biên Tập - Jane T. Harrigan & Karen Brown Dunlap full mobi pdf epub azw3 [Self Help] Ebooks Nhóm Zalo Con mắt biên tập Tác phẩm: Con Mắt Biên Tập Tác giả: Jane T. Harrigan - Karen Brown Dunlap Nhà xuất bản: Tổng Hợp TP.HCM Số trang: 385 Hình thức: Ebook Text: maidorim Ebook: HockeyQ LỜI GIỚI THIỆU Để một bài báo đến được với bạn đọc là một quá trình không đơn giản bởi phải qua rất nhiều công đoạn. Tác giả những bài viết có chất lượng cao thường được độc giả yêu mến và cảm phục, thế nhưng người làm cho bài báo ấy hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn và hấp dẫn hơn lại không được mấy ai biết đến. Đó là các biên tập viên, những người thường được ví von là "những nhà báo thầm lặng". L.R.Blanchard thuộc hệ thống báo chí Gannett nối tiếng trên thế giới, khi nói về tầm quan trọng của biên tập viên, đã cho rằng, một ban biên tập thật giỏi với -những biên tập viên trình độ nghiệp vụ trung bình cũng chỉ có thể cho ra đời một tờ báo xoàng xỉnh. Một ban biên tập tầm thường mà có những người biên tập đầy năng lực thì có thể đưa ra công chúng một tờ báo hạng khá. Một ban biên tập bản lĩnh được hậu thuẫn bởi những người biên tập giỏi thì bảo đảm xã hội có được một tờ báo thật hay. Ông nói thêm: "Dù người viết nổi tiếng đến thế nào đi nữa, bài của họ chỉ có lợi hơn nếu được người khác đọc và biên tập". Vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát triển của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết giản dị, dễ hiểu. Để làm công việc vừa nói một cách hoàn mỹ, người biến tập cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dòng thời sự chủ lưu, có trí phán đoán, sự uyên bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoàn nghi. Giờ đây khái niệm biên tập đã được mở rộng, biên tập viên có mặt hầu như ở các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của một tờ báo với nhiều chức danh khác nhau, từ biên tập nội dung đến biên tập kỹ thuật, từ biên tập tít tựa các bài viết đến hình ảnh và cả biên tập trình bày tang báo… ắ ề Với ban biên tập, họ là một bộ phận tham mưu đắc lực về nội dung tờ báo. Với phóng viên họ là người bạn đồng hành cùng làm việc, có khi tham gia từ bước đầu tư duy đề tài, trao đổi thông tin lẫn giúp hoàn chỉnh bài viết. Khái niệm huấn luyện viên viết báo (Writing-coach) được nói đến trong cuốn sách nghiệp vụ báo chí mà bạn đọc đang cầm trên tay có thể cho chúng ta hình dung biên tập viên làm việc như một huấn luyện viên trong thể thao. Họ không dạy dỗ mà cùng làm việc và chia sẻ thông tin với phóng viên, biết phát huy thế mạnh của từng người trong đội ngũ và tôn trọng phong cách của các cây viết. Sửa bài nhưng không được sửa ý, đó là nguyên tắc mà người biên tập nào cũng thuộc nằm lòng. Chính sự tôn trọng ý tưởng của người viết khiến báo chí phản ánh được những góc nhìn khác nhau về một vấn đề được xã hội quan tâm, mới không bị rập khuôn như cách hiểu máy móc báo chí là một công cụ. Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm báo và người viết báo. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngoài đôi khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có không ít các bậc học giả, các chuyên viên mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đôi chút đã vội phê phán tòa soạn một cách nặng nề rằng: đẻ đứa con ra không ai muốn con mình bị cắt chân, cắt tay. Thật ra người biên tập không độc ác như vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi. Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình. Chẳng hạn không ít cộng tác viên là chuyên viên lỗi lạc, nội dung các bài viết của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngôn ngữ có tính bác học, phù hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, tờ báo lại có yêu cầu là làm sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu, đó là ngôn ngữ của báo chí. Cho nền tìm được một chuyên viên, một học giả, một nhà văn viết báo giỏi là điều rất quý đối với một tờ báo. Nếu không được như vậy, thì công việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để tranh thủ được sự vừa lòng cả hai phía người viết và người đọc. Thực tế cho thấy để bài báo hoàn chỉnh hơn thì công việc biên tập nên khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kỹ năng ế ắ ề ể sẽ biết những nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hoàn thiện cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà báo thận trọng sau khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, tờ báo tạo thêm được uy tín với dộc giả. Báo chí là một sản phẩm của sản phẩm của xã hội. Định chế xã hội dù có khác nhau nhưng đạo đức nghề nghiệp vẫn cần được chuẩn hóa trên cơ sở tôn trọng sự thật, tính trung thực và khách quan, vì sự tiến bộ mọi mặt của con người và sự phát triển của cộng đồng. Làm thế nào để góp phần làm cho xã hội ngày hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay, phải chăng suy nghĩ đó đã khiến ngày càng có nhiều người thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau tham gia vào đời sống báo chí. Trong một không gian viết báo ngày càng được mở rộng như vậy thí CON MẮT BIÊN TẬP (The Editorial Eye) của hai tác giả Jane T. Harrigan và Karen Brow Dunlap được Công ty Sài Gòn truyền thông giới thiệu với người đọc vào thời điểm này rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu của những người yêu nghề báo. Có thể xem đây là một cẩm nang nghiệp vụ đúng nghĩa với những chỉ dẫn chi tiết dành cho cả người viết lẫn người làm báo, không chỉ bổ ích cho phóng viên mới vào nghề tránh đuợc những vấp ngã mà còn giúp những ai muôn đi xa hơn irên con đường viết lách hệ thống lại kỹ năng cơ bản. Nội dung cuốn sách này còn bổ sung cho những khiếm khuyết trong giáo trình báo chí ở các trường đại học hiện nay, nơi mà những nhà báo tương lai được truyền đạt kiến thức đại cương và lý thuyết nhiều hơn các kỹ năng nghiệp vụ của báo chí thế giới dang phát triển không ngừng. Không quá dáng khi nói rằng, CON MẮT BIÊN TẬP là một đóng góp đáng kể trong việc hoàn chỉnh nhông cách viết báo hiện đại mà chúng ta dang hướng đến. TRẦN TRỌNG THỨC NHÀ BÁO LỜI MỞ ĐẦU Hết thảy chúng ta, những người yêu thích việc biên tập, đều không nhớ mình đã học nghiệp vụ ấy bằng cách nào. Chúng ta đã đọc bằng con mắt biên tập tự bao giờ không rõ và chúng ta đã quen nghĩ rằng biên tập viên giỏi là người có năng khiếu bẩm sinh chứ không phải do đào tạo. Trong mức độ nào đó, giả định này có lý. Biên tập là một công việc có tính cá nhân rất cao chứ không phải là một khoa học có thể lập thành công thức. Nhưng khi chúng ta đối mặt với một gian phòng đầy ắp học viên háo hức muốn học nghiệp vụ biên tập, chúng ta nhận ra rằng có thể dạy cho họ bằng “con mắt biên tập”. Một “con mắt biên tập” tốt là một tập hợp các kỹ năng có thể tiếp thu và nâng cao bằng việc học và hành. Không ai có thể biến học viên thành những biên tập viên lý tưởng chỉ trong một hai học kỳ. Thay vào đó, mục tiêu của CON MẮT BIÊN TẬP – cuốn sách này – là dạy cho học viên cách tư duy như biên tập biên tập viên. Nó sẽ giúp cho học viên trau dồi những kỹ năng mà biên tập viên giỏi nào cũng đều có: làm việc với ngôn từ, làm việc với ý nghĩa, và làm việc với tác giả. Ngoài các kỹ năng đó, những năng lực về hình ảnh cũng rất quan trọng trong thời đại truyền thông hội tụ này nên CON MẮT BIÊN TẬP sẽ được chia thành 3 phần chính: biên tập bản thảo, biên tập nội dung và biên tập trang. Tuy kỹ năng biên tập bản thảo chiếm phần lớn, nhất trong một khóa học biên tập căn bản, sẽ có hại cho học viên nếu không đề cập đến các kỹ năng khác. Thời của những biên tập viên chỉ làm việc cấu trúc ngôn ngữ không còn nữa. Biên tập viên ngày nay bắt buộc phải làm nhiều hơn mặc dù họ mang chức danh “biên tập viên”, “biên tập viên trực tuyến” hay “biên tập viên truyền hình”. Hiếm có học viên nào tốt nghiệp một chương trình nghiệp vụ báo chí lại được nhận ngay vào cơ quan báo chí đủ lớn để có đủ bộ phận biên tập riêng biệt. Trái lại, nhiều học viên sẽ thấy mình làm việc ở các tuần báo hay báo nhỏ, một kênh thời sự truyền hình hay trực tuyến, hay một tòa soạn nơi các phương tiện truyền thông bằng báo in và báo điện tử đang được tích hợp chung. Trong truyền thông báo in, ở đại đa số nhật báo quốc gia, mọi ề ấ ề ỗ ấ biên tập viên đều làm rất nhiều việc chứ không chỉ có sửa lỗi chấm câu hay viết tít. Ở các nhật báo nhỏ hơn, chứ không nói đến những tuần báo là nơi hành nghề đầu tiên của rất nhiều học viên tốt nghiệp, một biên tập viên có thể phải xử lý mọi công đoạn từ phân công đề tài cho tới sửa bản in cuối cùng. Và trong truyền thông điện tử, vai trò của một biên tập viên đòi hỏi sự linh hoạt, cho nên đòi hỏi học viên không những phải làm chủ kỹ năng biên tập bản thảo mà còn phải áp dụng rất nhiều kỹ năng biên tập đa dạng khác. Khi những nhu cầu đối với biên tập viên và thực tiễn công việc thay đổi, việc dạy nghiệp vụ biên tập cũng phải thay đổi. Biên tập viên trong thế giới truyền thông hội tụ phải nhìn thấy được tiềm năng tường thuật bằng nhiều phương tiện của các đề tài. Họ cần phải có kỹ năng chuyển hóa một tường thuật truyền thanh hấp dẫn thành một câu chuyện mạnh mẽ cho nhật báo, truyền hình và báo trực tuyến. Họ phải có đủ óc sáng tạo để hình dung ra những ứng dụng mới cho các video clip, đồ họa động và âm thanh cho các câu chuyện. Và họ cũng phải biết khì nào nên để cho một bài viết tốt chuyển tải hình ảnh và âm thanh bằng ngôn từ chứ không cần tới hỗ trợ điện tử. Biên tập viên ngày nay phải có nhiều kỹ năng và lòng dũng cảm dám thử nghiêm với phương tiện truyền thông mà không đánh mất sứ mệnh nghề báo. CON MẮT BIÊN TẬP đề cập đến những vấn đề thực tế này bằng cách bao quát nhiều kỹ năng khác nhau trong công việc biên tập bản thảo, biên tập nội dung, và biên tập trang. Ở phần biên tập bản thảo, Con Mắt Biên Tập đề cập cả vai trò và sứ mệnh của biên tập viên cùng những vấn đề pháp lý và đạo đức nghề nghiệp liên quan đến công tác biên tập. Phần biên tập nội dung trình bày các kỹ năng biên tập thông tin và biên tập ý nghĩa và cũng dành một chương đặc biệt cho việc huấn luyện phóng viên. Trong phần biên tập trang, CON MẮT BIÊN TẬP dành hẳn một chương cho kỹ năng viết tít và hai chương về kỹ năng trình bày và dàn trang - một lãnh vực trọng yếu trong thế giới thị giác ngày nay. Chúng ta có thể cho học viên hàng trăm lý do để học kỹ năng biên tập. Chúng ta có thể nói rằng kỹ năng biên tập sẽ giúp họ nâng cao nhiều kỹ năng viết và tư duy, tăng cường sự tự tin và khả năng tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, thách thức đích thực chính là phải giúp học ầ ề viên cảm nhận được những phần thưởng mà nghề biên tập mang lại. Học viên phải trải nghiệm được sự hài lòng khi trau chuốt những câu văn, niềm phấn khởi khi giúp phóng viên tìm ra câu trả lời, những thích thú khi làm một người đa năng trong một thế giới chuyên môn hóa đến từng chi tiết. Học viên phải nếm trải trách nhiệm xã hội, quyền quyết định những gì công chúng cần biết, sự hào hứng khi tạo ra điều khác biệt. Có lẽ chúng ta có thể khơi gợi cho họ cả những niềm vui của công việc tung hứng lắt léo hàng ngày: cùng một lúc làm 50 việc trái ngược nhau và bằng cách nào đó kết hợp tất cả những việc đó lại kịp thời hạn chót. Chúng ta có thể làm cho nghề biên tập trở thành nhọc nhằn như công việc khổ sai hay biến nó thành một tưởng thưởng của cuộc đời. Chúng ta có thể giúp học viên say mê tích lũy những kỹ năng sẽ biến việc đọc bằng "con mắt biên tập" thành một bản năng thứ hai. Và chúng ta có thể khuyến khích học viên trau dồi và nâng cao những kỹ năng ấy bên ngoài lớp học. Chúng ta đang đào tạo những con người mai đây sẽ đào tạo cả thế giới. Trong lúc tương lai của truyền thông báo chí vẫn đang được tranh cãi ác liệt, đừng quên rằng: Một phần của tương lai đó tùy thuộc vào chúng ta. KAREN BROWN DUNLAP Phần 1: BIÊN TẬP BẢN THẢO Chương 1: BIÊN TẬP VIÊN NGÀY NAY Chương này sẽ giúp bạn: - Khảo sát công việc của các biên tập viên - Học về ba tiêu chí chủ đạo của người biên tập - Hiểu được sứ mệnh báo chí - Khám phá những gì cần biết về công chúng, thời sự và ngôn ngữ. Hãy xét tình huống này: Đài truyền hình KHOU-TV ở Houston điều tra các tai nạn liên quan đến hiệu xe Ford Explorer và tường thuật, rằng những lốp Firestone của xe Explorer là yếu tố góp phần gây ra tai nạn. Tin này lan truyền qua những trang Web và bản tin truyền hình. Người đi làm bằng ô-tô nghe tin nậy qua ra-đi-ô trong xe. Nhật báo tuôn ra nhiều tường thuật chi tiết hơn. Cả hãng ô-tô Ford Motor Company và hãng lốp xe Bridgestone/ Firestone phát hành thông cáo báo chí để bảo vệ vị trí của hộ/ thách thức báo chí và hỗ trợ cả đại lý bán xe lẫn khách hàng trong việc thu hồi lốp xe. Các quảng cáo thay đổi nội dung hoặc ngừng đăng. Chính quyền điều tra và công bố kết quả. Sau đó, nhiều cuốn sách được xuất bản thuật lại chuyện này cặn kẽ hơn. Trong mỗi trường hợp trong chuỗi sự việc trên, các biên tập viên đều đóng vai trò quan trọng. Trong truyền thông đại chúng, dù là phương tiện ấn loát hay điện tử, bằng từ ngữ hay thị giác, những biên tập viên và người sản xuất truyền hình đều tạo ra sự khác biệt. Hiếm khi; nào bạn nhìn thấy mặt họ hoặc thấy tên họ đi kèm với tin tức quan trọng đã công bố, nhưng họ luôn hiện diện ở đó. Họ được tưởng thưởng theo những cách đặc biệt, chủ yếu là niềm thỏa mãn phát xuất từ việc sử dụng tài tình quyền lực của mình. Họ có quyền lực định hình thông tin. Biên tâp viên là người quyết định vấn đề nào sẽ được công bố cũng như công bố vào lúc nào và công bố ra sao. Họ thể hiện óc sáng tạo trong việc tập hợp đúng người và đúng thành phần để tạo ra một tác phẩm tuyệt vời. Mối quan tâm của họ không chỉ là việc đưa tin hàng ngày mà còn bao hàm cả việc phát triển một đội ngũ nhân sự xuất sắc. Phần thưởng chủ yếu của họ là ấ ố ổ nhìn thấy công chúng được phục vụ tốt. Khi thành công, tên tuổi của họ sống mãi không phải vì một công việc cụ thể mà là vì đã xây dựng và duy trì được một kiểu mẫu văn hóa ưu tú. Đó là di sản của công việc biên tập viên. Cuốn sách này sẽ tập trung vào một công tác biên tập cụ thể - biên tập viên bản thảo cuối (copy editor) - nhưng chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc xem xét tổng quát hơn về vai trò của mọi biên tập viên nói chung. Các biên tập viên làm công việc gì? Một tác giả và hai biên tập viên tên tuổi sẽ giải thích về những vai trò đa dạng của nghề biên tập. Donald Murray - tác giả của ít nhất 14 cuốn sách về nghề văn và là người đoạt giải Pulitzer về viết xã luận - đã tóm lược công việc biên tập trong một câu: "Người biên tập giúp người viết truyền đạt được thông điệp muốn nói bằng chính ngôn ngữ của người viết". Saxe Commins - nguyên biên tập viên cho nhà xuất bản Random House, là người đã từng làm việc với các văn hào William Faulkner và Eugene O'Neille - lại nói trong một bài giảng rằng: Biên tập viên "trước hết là một lao động, tự hào về nghề nghiệp của mình, nhạy cảm và biết đáp ứng với mọi loại ý tưởng. Người này kỳ thị với mọi điều không thỏa đáng, thiếu chính xác, thông tin sai lệch, phi lý và lừa dối… Người này tranh đấu cho những cái tài năng… Người này giỏi xoay sở ứng biến… Người này nhạy bén trong tư duy, phỏng đoán và dự báo. Người này lấy mình đánh cược với vận may". Còn Geneva Overholser - từng là biên tập viên của tờ The Des Moines Register và trưởng ban bạn đọc của tờ The Washington Post — lại mô tả vai trò của người biên tập theo cách này: "Một biên tập viên nhật báo giỏi là người xác định được mình cần một tờ báo như thế nào, cho mọi nhân viên biết rõ nhu cầu đó, và rồi luân phiên khen ngợi, thúc đẩy và tránh đường cho mọi người nỗ lực biến nhu cầu đó thành sự thật". Nếu bạn hỏi mọi người xem biên tập viên làm công việc gì, hầu hết sẽ lầm bầm nói gì đó về chuyện đọc và sửa bản in thử với lại điều chỉnh sai sót. Nếu bạn hỏi thẳng các biên tập viên, họ sẽ tuôn ra một danh mục trách nhiệm rất dài. Do biên tập viên đảm nhiệm rất nhiều vai trò khác nhau, trách nhiệm của họ cũng rất đa dạng. Biên tập viên của một công ty xuất bản sách có thể dành gần trọn ngày làm việc để chiêu dụ các tác giả mới và thương thảo các hợp đồng. Một biên tập viên cộng tác (contributing editor) của một tạp chí có thể cũng làm ố ế ể việc giống như thế. Biên tập viên cộng tác có thể là một cây bút. kiêm biên tập viên, vì nhiều tạp chí [Anh-Mỹ] hay trao chức danh này cho những cây bút tự do thường có bài đăng trên các tạp chí ấy. Nhiều biên tập viên ở các nơi khác lại trình bày tập sách quảng cáo, phân công người đi chụp ảnh, chọn lựa ảnh và giám sát thông cáo báo chí. Trong thời đại điện tử này nhiều biên tập viên lại mang chức danh nhà sản xuất chương trình (producer). Họ giám sát nội dung trên các phương tiện phát thanh, truyền hình, hoặc báo trực tuyến. Ít có biên tập viên nào lại có sức tác động đến xã hội lớn lao hơn những người chỉ đạo tường thuật thời sự biên tập viên phát thanh và truyền hình định hướng những tin tức sẽ tiếp cận nhanh chóng đến một lượng khán thính giả khổng lồ. Biên tập viên nhật báo tập trung vào yếu tố thấu đáo và chiều sâu. Biên tập viên trực tuyến lại làm việc với một phương tiện hòa trộn các tính chất của thời sự phát thanh truyền hình với nhật báo. Công việc của họ có tính tức thời và dường như họ có khả năng vô tận để luôn sẵn sàng thông tin. Biên tập viên trực tuyến cũng có khả năng tiếp cận với công chúng toàn cầu và có phương tiện để tương tác. Một số dịch vụ tin tức trực tuyến lại là bộ phận mở rộng của nhật báo, hay đài phát thanh truyền hình. Nhiều mạng lưới tin tức khác chỉ tồn tại trên Web. Những tạp chí như Slate và Salon đứng đầu nhóm những tạp chí Web như thế. David Talbot - nguyên biên tập viên chuyên mục của tờ San Francisco Examiner đã từ bỏ nhật báo này trong một cuộc tranh chấp về lao động - dã cùng các cộng sự lập ra tạp chí Salon vào cuối năm 1994. Michael Kinsley - nguyên biên tập viên tờ The Neio Republic và người dẫn chương trình Crossfire của đài truyền hình CNN - đã trở thành biên tập viên sáng lập tạp chí Slate vào tháng Sáu 1996. Hãng máy tính Apple đã cung cấp khoảng 100.000 USD để tung lên mạng; còn Slate lại do Microsoft lập ra. Cả hai tạp chí Web này đều đăng tải thời sự, điểm tin, các bài phê bình nghệ thuật và chuyên mục. Cả hai tờ này đều sống được trong khi nhiều ấn phẩm trực tuyến khác đã thất bại. Những ấn phẩm trực tuyến như trên đã tiên phong khởi xướng nhiều vai trò mới cho nghề biên tập. 1. Các tiêu chí biên tập ề Dù biên tập viên có đảm trách nhiều vai trò khác nhau thì công việc của họ cũng đều tập trung nhấn mạnh vào ba khía cạnh quan trọng của nghề báo: - Thông điệp - Biên tập viên phải bảo vệ những thông điệp này. Họ là những người lính canh bảo đảm sao đạt được việc truyền thông hữu hiệu. Biên tập viên thăng trầm theo chất lượng của tác phẩm phóng viên. Ít nhất, họ phải tìm cho được thông tin rõ ràng và chính xác trong khi nỗ lực hướng tới sự thúc đẩy dư luận và tạo sự khác biệt trong xã hội. - Người truyền thông điệp - Biên tập viên phải làm việc với phóng viên để giúp họ tạo ra tác phẩm tốt nhất. Là thủ lĩnh, biên tập viện phải hướng dẫn, rèn luyện và kích thích bộ phận phóng viên đầy tính sáng tạo đang làm việc cho mình. Sự quan tâm của một biên tập viên có thể biến những công việc thông lệ hàng ngày của phóng viên thành một công việc đầy thách thức và hào hứng. - Sứ mệnh - Biên tập viên phải nhìn xa hơn các công tác hàng ngày. Họ phải đề ra sứ mệnh và chiến lược cho những tổ chức kinh doanh của mình. Họ phải bảo đảm là công chúng thỏa mãn và doanh nghiệp phát đạt. Các biên tập viên giỏi nhất luôn thường xuyên nhận thức được sứ mệnh lớn lao hơn của họ đối với xã hội. Động lực của họ là phục vụ bằng thông tin. 1.1. Sứ mệnh báo chí Sứ mệnh của bạn trong vai trò biên tập viên, nếu bạn quyết định chấp nhận vai trò đó, sẽ khác biệt rất lớn tùy theo chuyên môn của bạn. Ở phần trên, chúng ta đã phân biệt các loại biên tập viên. Ta đã biết ít có biên tập viên nào có sức tác động lớn hơn những người chỉ đạo tường thuật thời sự. Những biên tập viên này phục vụ cho một sứ mệnh báo chí. Điều đó có nghĩa là họ có một mục tiêu cụ thể. Theo cuốn The Elements of Journalism (Những yếu tố của nghề báo) "Mục đích của báo chí là cung cấp cho công chúng những thông tin họ cần biết để được tự do và tự trị". Muốn đạt được mục đích ấy, các nhà báo phải có: - Nghĩa vụ tiên quyết đối với sự thật. ầ ố - Lòng trung thành hàng đầu đối với công dân. - Tính nguyên tắc trong việc xác minh. - Tính độc lập với những gì đang tường thuật. - Khả năng giám sát quyền lực độc lập. Nhiều năm trước, Nelson Poynter - nguyên chủ nhiệm tờ St. Petersburg Times – đã gọi việc làm chủ một tờ báo là “một tín nhiệm thiêng liêng". Ông ngụ ý rằng nhật báo có bổn phận phải phục vụ cộng đồng. Ngày nay, nghĩa vụ ấy có thể mở rộng sang bất kỳ phương tiện báo chí nào. Nghĩa vụ này tách biệt nghề báo với những hình thức truyền thông khác. Điều đó không có nghĩa là các cơ quan báo chí sẽ tốt hơn hoặc tệ hơn những ngành nghề chuyên môn khác cũng có mục đích truyền thông và thông tin. Ngành quan hệ công chúng, quảng cáo và nhiều nguồn thông tin khác cũng phục vụ công chúng, nhưng chúng có sứ mệnh khác. Sứ mệnh chủ yếu của những ngành này là phục vụ cho những người mà chúng đại diện, trong khi lòng trung thành hàng đầu của sứ mệnh báo chí là dành cho công dân. Trong nghề báo, một doanh nghiệp vững mạnh phải tồn tại để họ trợ cho việc tường thuật độc lập. Trong nhiều ngành kinh doanh khác, kỹ thuật truyền thông lại phục vụ cho mục đích tối hậu là củng cố chính doanh nghiệp đó. Phải phân biệt như thế vì cuốn sách này tập trung vào nghề báo. Những cách rèn luyện trình bày ở đây là nền tảng cho các hình thức truyền thông công cộng khác. Phải đến Chương 12, bạn mới thấy đề cập đến nhưng hình thức truyền thông khác. Nhưng cho dù bạn nghĩ rằng mình chỉ quan tâm đến ngành quảng cáo thì cũng nên đọc kỹ hết cuốn sách. Những bài học về kỹ năng biên tập trong cuốn sách này sẽ phục vụ cho bạn rất tốt trong những ngành quan hệ công chúng, quảng cáo và nhiều lãnh vực truyền thông. Còn một yếu tố khác cỗ vũ cho việc đề cao sứ mệnh báo chí. Các phương tiện truyền thông mới cung cấp nhiều cơ hội và thách thức mới bởi vì hình thức tin tức đã thay đổi quá nhiều. Chương 5 sẽ bàn về vấn đề pháp lý và đạo đức nghề nghiệp mà các phương, tiện truyền thông mới đã tạo ra. Theo thời gian, những quan ngại mới này sẽ nhập chung với những vấn đề đang tồn tại về sứ mệnh báo chí. Cơ quan báo chí có còn được làm báo độc lập không? Nhà báo có còn trông mong được độc lập giám sát quyền lực ố không trong khi uy tín của họ đối với công chúng đã bị xói mòn? Chúng ta sẽ khảo sát chủ đề này ở các phần sau. Còn bây giờ, hãy xem lại lần nữa những yếu tố của sứ mệnh báo chí đã liệt kê ở trên. Khi bạn chọn nghề báo, bạn cần biết rõ những nguyên tắc của nghề này, Đó là những nguyên tắc mà bạn sẽ bảo toàn và truyền đạt cho nhiều người khác nếu bạn trở thành một biên tập viên. 1.2. Các nhiệm vụ hàng ngày Biên tập viên không thực thi sứ mệnh báo chí của mình bằng những bài diễn thuyết to tát hay những kiểu phô trương trịnh trọng. Thay vào đó, họ thực thi sứ mệnh đó qua một loạt nhiệm vụ hàng ngày. Những nhiệm vụ này biến đổi tùy theo phương tiện truyền thông và quy mô của cơ quan báo chí cũng như những vai trò cụ thể của biên tập viên và người sản xuất chương trình. Một nhóm biên tập viên đã lập ra danh mục sau đây về những trách nhiệm thông thương nhất của họ: - Quyết định tường thuật chuyện gì và tường thuật như thế nào. - Định đoạt thứ bậc ưu tiên cửa cấc câu chuyên. - Làm cho phóng viên luôn phấn chấn. - Tuân thủ đúng thời hạn gút bài. - Sửa lỗi văn phạm, chính tả và phong cách. - Duyệt lại ý nghĩa, tính chính xác, giọng điệu và mạch văn. - Quyết định những vân đề về thị hiếu, độ tin cậy và tính công bằng. - Đề phòng bị kiện về tội phỉ báng và các vấn đề pháp lý khác. - Giữ cho các câu chuyện có độ dài hợp lý. - Viết tít và chú thích hình ảnh. - Phân công thực hiện và chọn lựa các yếu tố thị giác. - Thiết kế trang báo. Nhiệm vụ của các biên tập viên khác và những người sản xuất chương trình có thể bao gồm: - Bố trí cuộc hẹn cho nhóm phóng viẽn viết/phóng viên ảnh. - Cập nhật các bán liu thui sự. - Kiểm tra thiết bị để sửa chữa, thay thế, vân vân. - Phê duyệt nội dung phát sóng. - Ứng phó với tình huống khẩn cấp trong thời gian phát sóng, bao gồm các câu chuyện đột xuất và những băng ghi âm vào giờ chót. Hầu như mọi biên tập viên đều có cân đối nhiều mối quan tâm khác nhau: quan tâm về tin tức cũng như về công chúng, nguồn tin, nhân viên và bộ phận quản lý tòa soạn. Trong tòa soạn nhỏ, một biên tập viên có thể đảm trách một phần lớn công việc đã liệt kê ở tòa soạn lớn, những trách nhiệm này được phân chia ra. Ở mọi cơ quan báo chí, các biên tập viên đều phải đề ra nhiều quyết định. Trong tòa soạn, biên tập viên là người hiểu rõ hơn ai hết ý nghĩa của từ "cân nhắc". Biên tập là một tiến trình lựa chọn liên tục, từ chuyện quyết định xem nên tường thuật chuyện gì cho tới chuyện từng nội dung có chuyển tải hết ý nghĩa đúng như mong muốn không. Tuy nhiên, những quyết định biên tập dù mang hình thức nào đi nữa cũng đều phát xuất từ những ý tưởng chung, một kiến thức cốt lõi mà mọi biên tập viên đều có. Những yếu tố cơ bản này có thể đúc kết thành ba phạm trù: 1. Hiểu biết công chứng. 2. Hiểu biết thời sự. 3. Hiểu biết ngôn ngữ. 2. Hiểu biết công chúng Các biên tập viên xưa nay vốn tự tin rằng họ hiểu công chúng cần gì. Họ đã chứng kiến cộng dân sống như thế nào và đã biết những vấn đề nào dân chúng đang phải đương đầu. Họ cũng xác định được độc giả thích thú điều gì, tiếp nhận thông tin ra sao, những gì độc giả cần biết và những gì độc giả tin tưởng. Biên tập viên đã phát triển được khả năng phán đoán hay từ kinh nghiệm sống chung và lắng nghe cộng đồng, dự hội nghị và trò chuyện với những người lãnh đạo địa phương, tiếp xúc doanh nghiệp và trả lời điện thoại và thư của độc giả, tham gia các sự kiện giáo dục và tín ngưỡng. Những hình thức liên lạc này khiến cho biên tập viên tin rằng họ hiểu được cộng đồng. Nhưng trong các thập niên vừa qua, niềm tin ấy đã lung lay. Có ba thay đổi đã thách thức mối quan hệ truyền thống giữa biên tập viên và công chúng. 2.1. Thay đổi trong cộng đồng Trong quá khứ, nhiều người đứng đầu tòa soạn đã sinh trưởng trong cộng đồng mà họ phục vụ. Các gia đình hay công ty địa phương là chủ sở hữu cơ quan báo chí và đã có lịch sử lâu đời trong khu vực. Nhiều biên tập viên khác đã sống cả chục năm hoặc hơn ở một địa phương. Bây giờ nhiều tập đoàn lớn đang mua lại các công ty báo chí đã có sẵn. Nhiều công ty luân chuyển biện tập viên giữa các cộng dồng, cất nhắc các nhà quản lý cho điều hành tòa soạn lớn hơn nhưng lại có mối ràng buộc lịch sử với cộng đồng rất yếu ớt. Những biên tập viên này ít hiểu biết về lịch sử và văn hóa của cộng đồng địa phương hơn những người tiền nhiệm. Họ không hiểu dân chúng và những gì tác động đến người dân. Họ không chia sẻ được nghịch cảnh và thành tựu của những người mà họ phục vụ. Tuy các biên tập viên làm việc hiệu quả đều nỗ lực tìm hiểu cộng đồng sở tại, những người không có cội rễ ở địa phương sẽ rất khó khăn mới thấu hiểu được nhu cầu của cộng đồng đặc thù này. Những khác biệt dân số học làm khoảng cách giữa biên tập viên và công chúng thêm rộng lớn. Biên tập viên thường cho rằng công chúng của họ cũng khá giống với bản thân họ, cũng có chung các mối quan tâm. Thế nhưng, theo một nghiên cứu được trích dẫn trong cuốn The American Journalist in 1990s (Nhà báo Mỹ những năm 1990), báo giới thường được giáo dục tốt hơn, nhiều nam giới hơn và nhiều người da trắng hơn so với toàn bộ dân cư. Các nhà báo này phải phục vụ cho những người khác biệt với họ về giới tính, màu da, sắc tộc, tuổi tác, mức thu nhập và những mối quan tâm. Có nhiều biện pháp - cả cũ lẫn mới - để giúp nhà báo kết nối với cộng đồng. Suốt nhiều năm qua, nhiều cơ quan báo chí đã bảo trợ các cuộc thi viết đúng chính tả, lễ hội, cùng nhiều sự kiện phục vụ cộng đồng khác. Trong hai mươi năm gần đây, nhiều cơ quan báo chí cùng đã thăm dò một tiến trình gọi là "báo chí công ích" ( public journalism hay journalism). Trong tiến trình này công dân và cơ quan báo chí hợp sức giải quyết các vấn đề cộng đồng. Viện nghiên cứu Pew Center đã tài trợ cho các dự án hợp lúc giữa nhật báo The Charlotte Observer với đài truyền hình VVSOC-TV và đài phát thanh WPEG-AM để giảm thiểu tội ác. Viện Pew cũng hỗ trợ cho một dự án bầu cử của tờ Wisconsin state Journal, đài truyền hình Wisconsin Public TV, đài phát thanh Wisconsin Public Radio cùng WlSC-TV. Nhiều cơ quan báo chí đã tổ chức hội nghị, khảo sát nhiều vấn đề xã hội và cổ xúy các giải pháp. Trong nhiều nỗ lực nối kết cộng đồng khác, nhiều tòa soạn sử dụng những nhóm độc giả có chọn lọc hoặc các hội đồng công dân để phê phán tờ báo của mình. Những tờ báo này cho ghi thêm địa chỉ email dưới tên tác giả và cuối nội dung phật sóng để khuyến khích công chúng liên lạc với phóng viên. Biên tập viên trực tuyến bổ sung thêm tính năng tương tác để cho độc giả tham gia. Nhiều biên tập viên phổ biến thông cáo giải thích về các quyết định đăng tải tin tức. Trưởng ban bạn đọc của nhật báo, hoặc những người đại diện độc giả, viết các mục thường xuyên và lưu hành những báo cáo nội bộ nêu chi tiết những mối quan tâm của người đọc báo. Hơn 25 năm qua, các biên tập viên đã tìm cách đa dạng hóa bộ phận nhân sự nhiều hơn để đại diện đúng mức cho những nhóm khác biệt trong cộng đồng. Năm 1968, Kemer Commision Ủy ban chuyên trách về bất ổn dân sự đã điều tra về tình trạng bất ổn sắc tộc ở Mỹ và cho biết một trong những vấn đề chính là nhật báo không hội nhập với cộng đồng. Năm 1978, Hiệp hội Biên tập viên Thông tấn Mỹ (America News ASNE) đề ra mục tiêu cho năm 2000: Bộ phận phóng viên trong tòa soạn phải có tỷ lệ tương ứng với sự đa dạng của cộng đồng mà tờ báo dang phục vụ. Họ không đạt được mục tiêu đó. Các tòa soạn báo chí Mỹ vào năm 2000 có khoảng 11,8% phóng viên da màu, trong khi tỷ lệ dân số da màu trên toàn quốc là gần 30%. Những cơ quan phát thanh truyền hình cũng công bố những con số tương tự. Tòa soạn hiện nay đã hội nhập với cộng đồng hơn 30 năm trước nhưng vẫn còn xa mới đến đích. Một khao sát trên tờ Boston Globe vào tháng Tư 2000 đã khen ngợi nhật báo The Sacramento Bee vì đã có mức đa dạng nhân sự (29% là người thiểu số) vẫn đạt tới tỷ lệ tương ứng của địa phương (32%). Nhiệm vụ phải hiểu biết công chúng bây giờ có lẽ càng phức tạp hơn trước, nhưng biên tập viên vẫn đang tìm kiếm nhiều phương cách phục vụ cộng đồng. ề 2.2. Quá tải truyền thông Khi phương tiện truyền thông bùng nổ nhiều lựa chọn như hiện nay thì mọi người có thể tổng hợp cho mình những gói tin tức và thông tín riêng. Độc giả có thể chuyển từ khái niệm "Daily News" (Nhật báo Chung) sang một bản tin tùy biến theo sở thích mà nhà khoa học Nicolas Negroponte của Học viện MIT gọi là "Daily Me" (Nhật báo Tôi). Nhờ chọn lựa bằng phương pháp điện tử những nguồn tin tức trực tuyến ưa chuộng và tìm kiếm các kênh truyền hình cáp, các tạp chí chuyên biệt cũng như những phương tiện truyền thông có mục tiêu khác, công chúng có thể không cần đến tin tức phổ thông và những người biên tập nội dung đó. Trong một nghiên cứu về độc giả đọc báo trực tuyến, Đại học Standford và Viện Poynter khám phá ra là mỗi lần đọc bình quân một độc giả ghé vào sáu nguồn cung cấp thông tin - tương đương với xem lướt qua sáu nhật báo và đài truyền, hình khác nhau. Mỗi lần đọc trung bình kéo dài 34 phút. Khi công chúng bị phân tán như thế, biên tập viên tự hỏi không biết loại tin tức vạch ra những vấn đề trong cộng đồng và tập trung vào hành động của cộng đồng sẽ đi về đâu. Một phần lý do quá tải thông tin còn phát xuất từ việc chu kỳ tin tức đã mở rộng thêm. Chu kỳ tin tức 24 giờ, với các đài truyền hình và dịch vụ trực tuyến chỉ chuyên tin thời sự, đã thay đổi bộ mặt của nghề báo. Tom Brokaw, biên tập viên đài NBC News, đã lưu ý rằng nhà báo đúng là không còn thời gian rảnh để suy nghĩ về câu chuyện và tường thuật cho thích đáng. Họ gần như liên tục bị sức ép phải đưa tin nhanh và hậu quả là những bản tin tầm thường hoặc thiếu chính xác. Hai biên tập viên cấp cao của tờ Washington Post - Len Downie Jr. là chủ biên còn Robert G. Kaiser là phó tổng thư ký tòa soạn kiêm trưởng ban đặc phái viên - trong cuốn The about the News: American journalism in Peril (Tin tức về tin tức: Nghề báo Mỹ lâm nguy) đã viết: "Quá nhiều những thứ được cung cấp như là tin tức trong những năm vừa qua đều không đáng tin cậy, vô trách nhiệm, gây lầm lạc, hay không đầy đủ". Trước những thách thức này, cách phản ứng chủ yếu là không ngừng nỗ lực tăng cường chất lượng tường thuật tin tức. Vào ngày ấ 11.9.2001 và những ngày sau đó những bản tin chất lượng cao đã gây ấn tượng cho cả công dân lẫn báo giới. Các nhật báo ứng phó với những vụ tân công khủng bố vào nước Mỹ bằng cách ra thêm phụ bản, còn những kênh tin tức điện tử tường thuật không ngừng 24/24 giờ. Công chúng lại nhìn thấy giá trị của một người bạn cũ: làm báo hàng ngày. Những nhà báo nào đã nản lòng trước lượng công chúng đang giảm sút và những đề tài thời sự đáng ngờ đột nhiên thấy mình đang tường thuật những tin tức quan trọng cho một công chúng đói khát. Nước Mỹ cũng lặi được nhắc nhở về nhu cầu tường thuật tốt tin tức quốc tế. Lượng thời sự quốc tế tăng lên khi công chúng cố gắng tìm kiếm thêm thông tin. Hệ quả của những cuộc tấn công này là các tòa soạn lại, thấy tự hào khi làm tốt công việc của mình và lại tận tụy chứng tỏ sức sống tương ứng với niềm tự hào ấy qua những tin tức hàng ngày. Điều đó không dễ khi khủng hoảng đã lắng dịu thì nhiệt tình của cả độc giả lẫn báo giới cũng nguôi ngoai theo, Nhà báo sẽ phải tiếp tục nỗ lực để đăng tải những tin tức quan trọng giữa áp lực của môi trường truvền thông hiện tại. 2.3. Mất dần thói quen đọc báo Ba mươi năm qua, lượng độc giả nhật báo cứ giảm dần. Thống kê ấy đã làm phiền lòng nhiều nhà điều hành nhật báo, nhưng không phải chỉ riêng họ. Năm 2000, Viện nghiên cứu Pew Research Center đã công bố một báo cáo cho biết chương trình thời sự phát thanh truyền hình - cả địa phương lẫn quốc gia - chính là phương tiện truyền thông bị tác động bất lợi nhất. Có hai xu hướng đang làm sụt giảm lượng công chúng: việc sử dụng Internet để xem tin tức ngày càng tăng và công chúng đang mất dần ham muốn biết tin tức. Mối lo ngại chủ vếu của biên tận viên là sự hờ hững của giới trẻ - được cho là những người tiêu thụ tin tức của ngày mai. Theo báo cáo của Viện Pew, hiện nay không tới phân nửa công chúng cho biết họ vẫn còn thích thú cập nhật thời sự. Chỉ có một phần ba giới trẻ trên 18 tuổi hình thành được thói quen đọc báo trong khi hơn phân nửa những người trên 50 tuổi vẫn thích theo dõi tin tức. ổ ầ Năm 2001 Hiệp hội ASNE – tổ chức hàng đầu của các biên tập viên thông tấn Mỹ - và Liên đoàn Nhật báo Mỹ ( Newspaper Association of America - NAA) - tổ chức hàng đầu của các chủ báo - cùng tham gia nghiên cứu với Trung tâm Quản lý Truyền thông của Đại học Northwestern để tìm hiểu xem độc giả muốn gì. Nghiên cứu này cho thấy độc giả muốn có tin tức đa dạng, đặc biệt là muốn có thật nhiều tin địa phương tập trưng vào những con người bình thường, và muôn có nhiều tin về lối sống (lifestyle) hơn. Nghiên cứu này cũng cho biết bình quân trong một tuần có 85% dân số độ tuổi trưởng thành của Mỹ đọc một nhật báo. Vậy thì làm sao những phương tiện thông tin thời sự thu hút được công chúng? Các cơ quan báo chí đã cập nhật hình thức của mình. Nhiều đài truyền hình thử nghiệm với các hoạt hình và đồ họa mới mẻ để ngụ ý thời sự đang chuyển động. Đài WJHG-TV ở Panama City Beach, bang Florida, phục vụ cho chín hạt và hàng trăm thị trấn nhỏ. Tên của từng thị trấn được đưa lên một thanh ngang chạy băng qua màn hình suốt phần hoạt hình mở đầu giới thiệu chương trình của đài này. Tờ The New York Times, vốn từ lâu nổi tiếng là "Gray Lady" (Bà già Xám xịt), từ những năm 1990 cũng bắt đầu cho màu sắc vào trang báo. Nhật báo khắp thế giới tổ chức lại nội dung cho độc giả đã tìm thấy những gì họ cần bổ sung nhân sự cho bộ phận phóng viên ảnh và các mục thường kỳ để tăng cường yếu tố cảm xúc nhân văn. Kiểu chữ và cỡ chữ cũng được thay đổi cho báo dễ đọc hơn. Những người thiết kế báo trực tuyến cũng thí nghiệm với các kiểu bố trí quảng cáo, các thông điệp động (flash) và sử dụng những liên kết (links) để giúp độc giả dễ tìm kiếm thông tin. Phương tiện thông tin thời sự cũng cố gắng thu hút giới trẻ bằng cách làm cho giới này quan tâm đến tin tức sớm hơn trước. Các nhật báo trong những chương trình giáo dục đã phát báo cho trường tiếu học và trung học. Các cơ quan báo chí hợp tác với bộ phận truyền thông của trường trung học. Nhiều thành viên của các tổ chức như Liên đoàn Biên tập viên Trẻ (Editors Association of America -YEAA) chỉ đạo những trang mục dành cho giới trẻ trong nhật báo. Các phương tiện truyền thông cũng cố gắng tiếp cận giới độc giả này bằng cách cung cấp những phân mục về văn hóa thanh niên, quan tâm nghiêm túc và tôn trọng hơn những nhân vật thần tượng của giới ề ể trẻ, và dành nhiều phạm vi hơn cho phóng viên trẻ trong tòa soạn thể hiện mình. Mục tiêu là khích lệ giới trẻ xem nghề báo như một sự nghiệp, cung cấp thông tin cho họ, làm cho họ quan tâm đến thời sự và phát triển thói quen đọc báo. Mục tiêu lớn hơn cho biên tập viên là hiểu biết những cư dân trong cộng đồng - mọi cư dân. Một nhà báo kiêm triết gia nói: "Vai trò của báo chí là phải làm cho cộng đồng luôn đối thoại chính với nó". Nếu muốn cuộc sống công dân thịnh vượng, biên tập viên phải làm cho các cộng đồng giao kết với nhau, phải biết rõ những gì đang bàn luận chung quanh và tường thuật những gì quan trọng. Họ phải biết được ai là người quay lưng với thời sự để cố tiếp cận với những người này. Quan trọng nhất, ho phải phục vụ những ai luôn tìm kiếm tin tức mỗi ngày. 3. Hiểu biết thời sự Chỉ hiểu rõ cộng đồng thôi cũng chưa đủ. Biên tập viên còn phải biết cái gì là tin tức. Họ phải biết chuyên gì cần tường thuật và chuyên gì cần loại bỏ. Hãy tưởng tượng bạn là thư ký tòa soạn của một tờ báo cỡ trung bình. Cả chục ngàn chuyện hấp dẫn xảy ra khắp thế giới trong ngày hôm nay nhưng chỉ có một ít sẽ thích hợp với tờ báo của bạn. Bạn chọn lựa ra sao? Chuyện gì cần phải để cho phóng viên của mình viết, và chuyện gì có thể sử dụng tường thuật của những hãng thông tấn? Bạn sẽ sắp xếp các câu chuyện như thế nào? Chuyện tăng thuế bất động sản ở địa phương có quan trọng hơn chuyện Tòa án Tối cao ra quyết định về nhân quyền không? Chuyện đình công của công nhân vận tải địa phương có quan trọng như chuyện đình công của giáo viên trong vùng không? Đánh giá thông tin - thấu hiểu chuyên gì là tin tức và làm sao để đeo bám nó - chính là thước đo chủ yếu của năng lực biên tập viên. Ngày nay, khi tổ chức nào cũng có định nghĩa riêng về tin tức - và khi hàng ngàn bồi bút đang bận bịu cố đánh bóng những ông chủ của họ trong ánh sáng lộng lẫy nhất - biên tập viên càng phải chắc chắn hơn bao giờ hết về định nghĩa tin tức của riêng mình. Thực tế không có biên tập viên nào sử dụng một danh mục liệt kê để thẩm định giá trị tin tức của một câu chuyện. Nhưng theo truyền ố ề ắ ế ố ố thống làm báo, mọi biên tập viên đều cân nhắc cung các yếu tố giống nhau khi đề ra quyết định. Phần này sẽ bàn đến những yếu tố ấy theo quan điểm của người biên tập. 3.1. Tác động Câu chuyện này sẽ tác động đến bao nhiêu người và sẽ tác động sâu sắc đến mức nào? Nhiều khi lại dễ trả lời. Những gây ô nhiễm thường thấy trong giếng nước của một gia đình, chẳng hạn sẽ tác động đến ít người hơn là những thứ hóa chất ấy tìm thấy trong nguồn cấp nước cho cả thành phố. Nhưng số lượng không phải là thước đo duy nhất. Có lúc mọi người cảm nhận sâu sắc vấn đề này hơn vấn đề khác. Người biên tập cân nhắc mọi yếu tố đó – và nhiều hơn nữa – để quyết định xem câu chuyện có đáng được làm nổi bậc lên không. Và sang ngày hôm sau, họ lại phải thực hiện lần nữa những đánh giá như thế. Tác động không nhất thiết phải trực tiếp hay cấp thời. Phóng viên thời sự luôn giỏi tường thuật các sự kiện đơn lẻ hơn là thu nhập thông tin về những biến đổi từ từ đã dẫn đến những sự kiện đó. Ví dụ, nhà báo đã không tiên liệu được scandal tiền tiết kiệm và cho vay trong những năm 1980 ở Mỹ vì trước đó họ đã không tường thuật những điều kiện đã hình thành nên những tình huống này. Giới phê bình cho biết một trường hợp bỏ sót tường thuật tương tự đã khiến dân chúng Mỹ bất ngờ trước lòng căm thù của Osama bin Laden và những kẻ đi theo hắn. Thách thức đối với biên tập viên không phải là chuyện bị cuốn hút bởi thông tin hay bị lấp đầy trang báo ngày mai mà là những câu chuyện lớn lao hơn – những câu chuyện đang phát triển âm thầm và chậm chạp, không ai để ý thấy cho đến khi bùng nổ. Một thách nữa là thuật lại cho công chúng biết tác động của những gì có vẻ là những là hoạt động nhàm chán không biết bao giờ kết thúc. Rất nhiều độc giả cho biết họ chẳng quan tâm đến những tin tức về chính phủ. Vấn đề có thể chẳng phải vì nội dung thông tin mà là vì cách tường thuật đã không làm nổi bậc được sức tác động của những tin tức như thế. ề 3.2. Cận kề Các biên tập viên thường bảo: “chuyện gì xảy ra càng xa thành phố của tôi thì càng ít giá trị tin tức đối với tôi”. Mọi người cũng quan tâm đến những sự kiện xa xôi nhưng họ hết sức chú ý đến những gì cận kề. Có một chuyện tiếu lâm báo chí về một biên tập viên tưởng tượng đã viết dòng tít này: Người Địa Phương Thiệt Mạng Khi Bom Nguyên Tử Hủy Diệt Châu Âu. Khi những chiếc máy bay lao vào tòa tháp đôi World Trade Center và Lầu Năm Góc năm 2001 và hàng ngàn người chết, biên tập viên đã lùng sục các khu vực địa phương của mình để xem có ai liên quan gì đến bi kịch ấy không. Đó gọi là "địa phương hóa thời sự" - tìm kiếm góc độ địa phương để tường thuật một sự kiện hoặc một vấn đề ở nơi xa. Biên tập viên phải đương đầu với thách thức là phải cung cấp tin tức địa phương mà cộng đồng, muốn lẫn tin tức quốc gia và quốc tế mà công chúng cần. 3.3. Kịp thời Dù người ta thường dùng thành ngữ "tin cũ" nhưng thực ra không hề có khái niệm nào như thế. Mọi kênh thông tin đều muốn tường thuật những sự kiện mới nhất hoặc những diễn tiến mới nhất trong các sự kiện đã tường thuật. Cơ quan, báo chí ngày càng theo những chu kỳ tin tức 24 giờ, có nghĩa là họ được mong đợi phải có tường thuật bất cứ lúc nào tin tức xảy ra. Tuy nhiên, tính kịp thời có thể bị đẩy tới mức cực đoan. Rất thường Xuyên, nhiều bản tin nhấn mạnh quá mức một diễn tiến nhỏ chì để làm cho câu chuyện có vệ mới mẻ hơn các báo đối thủ. Thay vì thế, nếu không có gì quan trọng xảy ra thì biên tập viên hên khôn ngoan tập trung vào chuyện tăng cường tường thuật nội dung chi tiết và trau chuốt hình ảnh, ngôn ngữ. Nên tách biệt với những phiên bản trước đó bằng cách làm cho câu chuyện rõ ràng và hấp dẫn hơn. 3.4. Tên tuổi ề ổ ế Công chúng thường tò mò về những người nổi tiếng. Đó là lý do làm cho những tạp chí như People và các chương trình tivi như Entertainment Tonight phát triển mạnh. Tên tuổi không có nghĩa là đưa tin trang nhất về video mới phát hành của một ngôi sao. Nhưng tên tuổi chính là yếu tố quyết định đăng tin Tổng thống George W. Bush bị sặc bánh quy suýt ngạt thở. Chuyện này có giá trị tin tức hơn là chuyên ông chú của bạn cũng bị sặc như thế. Điều đó có nghĩa là mọi bước đi của danh thủ bóng rổ Michael Jordan đều là tin tức trong khi nhiều hoạt động của các cầu thủ bóng rổ khác sẽ bị bỏ qua. Yếu tố tên tuổi trong việc đánh giá thông tin đã khiến nhiều biên tập viên cảm thấy không thoải mái. Một vấn đề phải cân nhắc là xác định xem tường thuật bao nhiêu là vừa đủ khi một "ngôi sao" chỉ nổi tiếng với một số thành phần trong cộng đồng này nhưng lại ít được biết đến với nhiều thành phần khác. Nhiều người hâm mộ không bào giờ thấy đủ khi đọc các tường thuật về ngôi sao mà họ yêu mến và luôn cho rằng những thần tượng của họ không được báo chí coi trọng đúng mức. Một quan ngại khác là chuyên giới báo chí chính là "tội đồ" ngay từ đầu đã lạm cho ai đó nổi tiếng. Chắc chắn bạn có thể nghĩ ra rất nhiều "sinh vật truyền thông" dường như đã nổi tiếng chẳng vì lý do nào cả. Mặt khác, chính báo chí cũng đã lạnh nhạt với những người mù các biêu tập viên không cho ià đủ nổi tiếng. Chẳng hạn, trong những chiến dịch chính trị, biên tập viên thường xuyên xác định xem ứng cử viên nào là nghiêm túc và đáng đưa tin, còn ai chỉ là "vật trang trí". 3.5. Xung đột Nếu ủy ban quy hoạch địa phương nhóm họp, lướt nhanh qua chương trình làm việc thông lệ rồi về nhà, thì cuộc họp này có thể sẽ được xếp vào một câu chuyện nhỏ đăng ở trang trong hoặc nằm cuối chương trình phát sóng tin tức. Nhưng nếu 50 người xuất hiện ở tòa thị chính với băng-rôn biểu tình và loa phóng thanh cầm tay hô khẩu hiệu đề chống lại một đề án xây dựng trong chương trình nghị sự đó, câu chuyện sẽ quan trọng hơn nhiều. Ở đâu có xung đột, ở đó có tin tức. Nhưng sẽ là sai lầm nếu xem bản thân xung đột là chắc chắn có ể ấ ẫ giá trị thông tin. Kiểu tư duy ấy đã dẫn tới phản ứng chính đáng của công chúng về trò giật gân của báo chí. Thực ra, xưng đột là biểu hiện của khả năng có tin tức giống như phong vũ biểu cho thấy khả năng mưa bão. Dân chúng chỉ đấu tranh cho những vấn đề mà họ quan tâm. Và những vấn đề mà cộng đồng auan tâm chính là những vấn đề bạn phải xem xét trong bản tin. Tại sao thị dân lại bức xúc về đề án xây dựng đó? Cuộc biểu tình ấy là manh mối để tòa soạn tìm hiểu những bất mãn của họ và tìm hiểu tổng thể vấn đề. Có lẽ những người biểu tình đúng khi nói rằng tăng thêm xây dựng nhà ở sẽ làm quá tải trường học hoặc những việc công đang được tiến hành bí mật. Trong một thế giới lý tưởng, nhân sự tòa soạn phải xem xét kỹ mọi sự kiện đã xảy ra trong khu vực của mình. Trong thế giới thực tế, nơi mà phóng viên hàng ngày bỏ lỡ hàng trăm cơ hội thú vị, xung đột thường là cú hích khiến phóng viên và biên tập viên lao tới một câu chuyện hay. Yếu tố đa chiều của sự xung đột sẽ giúp làm sáng tỏ câu chuyên cho công chúng. Bạn sẽ thấy là có một yếu tố xung đột không nằm trong danh mục những yếu tố xác định tin tức. Đó là sự cạnh tranh. Nếu bạn bắt gặp chính mình đang nói: "Chúng ta phải ìàm đề tài này vì báo nào cũng làm cả", thì phải ngưng ngay. Đó không phải là thực thi khả năng đánh giá thông tin. Đó là mù quáng chạy theo bầy đàn. Khi công chúng chỉ trích báo chí, những thuật ngữ như "làm báo bầy đàn" (pack journalism) và "điên cuồng săn tin" (feeding frenzy) là những kiểu làm báo bị khinh miệt thậm tệ nhất. Ngay cả những người bảo vệ báo chí kiên định nhất cũng thấy ngượng ngùng khi chứng kiến một đàn phóng viên để xô về phía một người không có khả năng tự bảo vệ (nhân chứng của một vụ bắn giết, chẳng hạn, hoặc vợ của một cảnh sát vừa thiệt mạng). Bạn và phóng viên phải tự xác định lấy những nguồn tin và góc độ tiếp cận - và xác định xem câu chuyên ấy có dáng theo đuổi hay không. Đánh giá thông tin là đúng như thế: Đánh giá! 3.6. Mới lạ "Kịp thời" là một định nghĩa của "tin tức". "Mới lạ" là một định nghĩa khác. Nó đặt ra vấn đề mà nhà báo không những tự hỏi khi cân nhắc các sự kiện: Sự kiện này khác biệt với mọi sự kiện khác như thế nào? Điều khác thường tạo ra tin tức. Đó có thể là cái "đầu tiên": thường dân đầu tiên lên vũ trụ hoặc chiếc ô-tồ chạy bằng năng lượng mặt trời đầu tiên. Đó có thể là cái "cuối cùng": nông trại cuối cùng ở thành phố New York hoặc ngày làm việc cuối cùng của một thẩm phán Tối cao Pháp viện. Khái niệm về sự mới lạ sẽ giúp biên tập viên đáp ứng lời ta tán thường gặp nhất của công chúng: Tại sao báo chí chỉ toàn "tin xấu"? Một phần nào đó, lý do chính là: ít ai quan tầm đọc một bẳn tường trình toàn những chuyện không có gì sai trái. Tuy nhiên, cái lô-gic này có thể gây ra nhiều vấn đề. Giả sử có hai người bị sát hại trong thành phố của bạn ngày hôm qua, một người ở khu vực thiểu số nghèo khổ có tỷ lệ án mạng cao, người kia ở khu vực giàu có suốt 20 năm qua chưa hề cố vụ giết người nào. Có phải vụ án mạng thứ hai là tin tức đáng chú ý hơn vụ án mạng ở khu vực này là chuyện mới lạ không? Nếu bạn tường thuật kỹ hơn chuyện giết người ở khu nhà giàu thì bạn đang chuyển tải thông điệp gì về tầm quan trọng của sinh mạng con người? (Xem thêm Chương 4 để biết rõ hơn vẩn đề phân biệt sắc tộc và sự công bằng). 3.7. Quan tâm của cộng đồng Nhiều điều công chúng cần biết; nhiều điều khác họ chỉ muốn biết. Đó là cốt lõi của trào lưu đáp ứng nhu cầu độc giả. Mối quan tâm của công chúng biến đổi từ nơi này sang nơi khác. Một câu chuyên về những người hưu trí làm việc bán thời gian sẽ gây chú ý ở thành phố có tỷ lệ lớn người cao tuổi như Miami hơn là ở một thành phố đại học. Sinh viên đại học có thể thích thú một cậu chuyện về nghề đua xe hoặc các chương trình cho sinh viên vay tiền hơn. Những người đọc tờ National Enquirer không có chung mối quan tâm với các độc giả của tờ The Philadelphia Inquirer. Cuối cùng, mối quan tâm của cộng đồng còn là nguyên do của một yếu tố ít được biết đến trong việc đánh giá thông tin: Câu chuyện ế ấ được tường thuật hay đến mức nào? Trong bất kỳ ngày nào trên trang nhất của hầu hết các nhật báo, bạn sẽ thấy ít nhất có một câu chuyện mà, theo tiêu chuẩn truyền thống về giá trị tin tức, dường như không có yếu tố thời sự. Những biến tập viên hiện dại sẵn lòng hơn những người biên tập thời trước trong chuyên giật nổi một bài phi thời sự khỗhg có thời gián tính ở một vị trí khác lạ chỉ vì bài này viết hay, đủ sức thu hút độc giả. Biên tập viên sẽ làm cho việc đọc báo trở thành sự tlúch thú khi họ vừa hiểu biết thời sự vừa am tường nhu cầu của cộng đồng. 4. Hiểu biết ngôn ngữ Thông tin là nguồn hàng hóa của một tờ báo, từ ngữ là công cụ để làm ra thông tin đó. Câu cú viết không rõ ràng sẽ gây bực bội và ngăn cản sự hiểu biết. Câu cú không chính xác có thể gây hại thật sự. Cho dù tin tức chưa chắc đã là sự thật, nhiều người vẫn tin vào báo chí. Khi biên tập viên gia công một tin bài, họ luôn ý thức nội dung đó sẽ dến với hàng ngàn, hay có thể là hàng triệu người. Các tường thuật trực tuyến có thể lan truyền khắp thế giới. Trong trường hợp nào đi nữa thì từng chữ một cũng luôn quan trọng. Không thể nào có chuyện "Jones ra đồn cảnh sát đầu thú". Nhưng tin tức có thể lại là chuyện “Jones ra đồn cảnh sát đầu thú”. Và bạn có muốn trở thành người phải chịu trách nhiệm vì đã bỏ sót chữ "không" khi bản tin của bạn tường thuật rằng Jones không phạm tội giết người? Mọi biên tập viền đều yêu thích ngôn ngữ. Họ tôn trọng cả sức mạnh và sự phóng túng của chữ nghĩa. Họ bị mê hoặc trước những biến hóa của từng thay đổi nhỏ - thêm một dấu phẩy, thay từ này bằng từ khác - có thể làm thay đổi ý nghĩa của cả câu văn. Mọi biên tập viên đều biết họ đang thi thố quyền lực của chữ nghĩa vì điều tốt hay điều xấu. Trong khi một thay đổi có thể cứu vớt phóng viên khỏi một sai sót nghiêm trọng, một thay đổi khác lại có thể phá hỏng cái cảm xúc mà người viết đang cố gắng tạo ra, khiến thính giả xao lãng với dòng thông tin, hoặc làm cho câu văn thành thiếu chính xác. Biên tập viên là người cẩn trọng đến từng chữ và ý nghĩa của tàng từ. Từ bảng quảng cáo đến lời bài hát, ngôn ngữ đang bị ngược đãi hàng ngày. Biên tập viên chứng kiến điều đó và chỉ muốn gào thét lên. ề ể Bạn có đủ am tường về ngôn ngữ để làm người biên tập không? Nếu bạn mắc sai sót trong chính bài viết của mình thì bạn có nên tuyệt vọng không? Tất nhiên là không. Phải rèn luyện thì mới hình thành được con mắt biên tâp. Văn phạm và cú pháp đối với biên tập viên mới vào nghề chẳng khác gì những phác họa đối với họa sĩ. Càng thực hành nhiều, bạn càng tinh tường hơn. Đúng là cảm giác về ngôn tự của mọi người không hề giống nhau, người này có thể nhạy bén với chữ nghĩa hơn người khác. Nhưng tất cả những ai quan tâm đến nghề viết lách đều có thể phát triển một con mắt biên tập. Bạn sẽ nhận ra đôi điều về cách tiếp cận nghề biên tập trong cuốn sách này. Những thông tin trình bày ở đây được áp, dùng trong mọi phương tiên truyền thông, nhưng trọng tâm chính vẫn là nhật báo. Tại sao? Trước hết, kỹ năng biên tập nhật báo sẽ cung cấp một nền tảng tốt cho mọi phương tiện truyền thông tin tức khác. Cách tường thuật thời sự hiện nay phát triển từ kỹ thuật tường thuật của nhật báo. Nhiều người sáng lập các đài truyền thanh-truyền hình thời sự xuất thân từ nhật báo. Thứ hai, cuốn sách này dành cho biên tập viên bản thảo cuối, nhà sản xuất chương trình phát sóng cùng những ai làm công tác biên tập. Ngay cả trong bối cảnh truyền thông thay đổi không ngừng như hiện nay, một tỷ lệ không nhỏ biên tập viên bản thảo cuối vẫn được các nhật báo tuyển dụng. Bạn cũng phải cảnh giác với những gì chúng tôi ngụ ý qua khái niệm "biên tập viên" hay "người biên tập". Những từ này được sử dụng cho các cấp quản lý trong tòa soạn, trong đủ mọi vai trò và trong đủ loại phương tiện truyền thông, ở đầu chương này, chúng tôi thường dùng để chỉ người biên tập cấp cao nhất của một nhật báo, một trưởng ban thời sự của đài truyền hình hay người sản xuất chương trình, hoặc các chức danh lãnh đạo tòa soạn khác. Tuy nhiên, trong cuốn sách này chúng tôi chủ yếu đề cập đến "biên tập viên bản thảo cuối" (copy editor) [hay có khi gọi cho gọn là "biên tâp viên bản thảo"]. Phần kế tiếp sẽ cho bạn thấy những người bảo vệ ngôn ngữ - biên tập viên bản thảo - nằm ở vị trí nào trong tổ chức tòa soạn và họ làm gì trong một ngày làm việc. Từ đó bạn sẽ tiếp tục khảo sát những hình thức ngược đãi ngôn ngữ thường gặp nhất và cách chữa trị ẳ ế ể ắ chúng. Sau đó, bạn sẽ thẳng tiến trên con đường phát triển con mắt biên tập của mình. Chương 2: VAI TRÒ BIÊN TẬP VIÊN BẢN THẢO CUỐI Chương này sẽ giúp bạn: • Làm quen với các vai trò của biên tập viên bản thảo cuối. • Hiểu cách tổ chức tòa soạn và quy trình bản thảo. • Học các phẩm chất của người biên tập bản thảo cuối. • Biết các công cụ cần dùng cho công tác biên tập. Khi nghĩ tới hai chữ "nhà báo", hầu hết mọi người đều nghĩ ngay tới phóng viên nhật báo hay phát thanh viên thời sự truyền hình, những thành viên của nghề báo thường xuất hiện trước công chúng. Họ là những người "tiết lộ tin tức" qua việc công khai các câu chuyện hoặc thông báo sự kiện cho công chúng. Nhưng không phải chỉ có họ mới là nhà báo. Thực tế, số phóng viên chỉ chiếm chừng phân nửa nhân sự tòa soạn ở các nhật báo Mỹ. Năm 2002, Hiệp hội Biên tập viên Thông tấn Mỹ (ASNE) công bố có tổng cộng 54.414 nhân sự tòa soạn và trong số đó có 24.492 phóng viên. Những nhà báo khác là các cấp quản lý (biên tập viên) và phóng viên ảnh, và 10.676 người là biên tập viên bản thảo cuối hoặc người thiết kế trang báo. Tương tự, nhân sự phát thanh truyền hình cũng được phân chia giữa những người quản lý (trưởng ban thời sự và giám đốc sản xuất), phóng viên, phát thanh viên, quay phim và người sản xuất chương trình. Biên tập viên bản thảo cuối đóng vai trò quan trọng trong việc trình bày tin tức. Những người sản xuất chương trình cũng đóng vai trò tương tự trong lãnh vực báo chí điện tử. Cả hai đều sử dụng con mắt biên tập của mình để chăm sóc cho hình thức toàn diện của tin tức cũng như cho các chi tiết về phong cách và độ chính xác. Thế giới bên ngoài hiếm khi biết mặt họ nhưng họ vô cùng quan trọng với trách nhiệm cung cấp những bản tin đáng tin cậy. Công tác biên tập bản thảo cuối có lẽ là bí mật giấu kín nhất trong nghề báo. Ít có nhà báo mới vào nghề nào có chủ đích làm việc ở bỏ phận này vì không hề biết điều gì sẽ chờ đợi ở đó. Hãy nghe Pam Robinson - một trong những người sáng lập Hiệp hội Biên tập viên Bản thảo Mỹ (American Copy Editors Society - ACES) cho bạn biết ế tại sao công việc này lại quan trọng thế. Bà từng làm việc cho tờ Hartford Courvà York Times, và hiện là biên tập viên thời sự cho. Dịch vụ Tin tức Los Angeles Times-Washington Post đặt trụ sở ở New York. Sau đây là câu chuyện của bà: Tôi xem bộ phận biên tập bản thảo cuối là trung tâm của tờ báo. Đó là nơi tờ báo được tạo thành hình hài như độc giả nhìn thấy. Bộ phận biên tập bản thảo là cốt của mọi hoạt động. Tôi thích biết những gì đang diễn tiến, và làm việc ỏ bộ phận này thì bạn sẽ biết hết ai đang làm gì, chuyên gì đang xảy có gì dáng chú ý trong tin tức khắp thế giới. Nhất định bạn bè rất nhanh chóng thấy được điều đó vì mọi thứ đều phải qua tay bạn. Tôi không biết đích xác tại sao mình bị cuốn hút vào nghề biên tập bản thảo. Tôi vào nghề bằng việc viết tin bài thể thao cho tờ báo địa phương, rồi chuyển sang Tờ báo này thực tế không có bộ phận biên tập bản thảo đúng nghĩa và tôi thường phải chỉnh sửa văn phạm hay chính tả cho các phóng viên khác. Vì công việc này mà một bạn đồng nghiệp đã đặt cho tôi biệt danh là "tự điển sống". Lúc làm việc cho tờ Hartford Courant tôi mới thật sự biên tập bản thảo cuối. Tờ báo này tuyển dụng tôi sau ghé qua đó một ngày, gặp gỡ biên tập viên và làm tốt một bài kiểm tra chính tả đột xuất. Tờ báo ấy có những người chuyên nghiệp thật sự đã khích lệ và giúp tôi phát triển. Đó là một trong những tờ báo mà bạn có thể mở rộng khả năng của mình, nếu muốn. Thật ra có hai lý do mà sinh viên nên cân nhắc đến nghề biên tập bản thảo. Lý do thứ nhất chính là sự nghiệp. Biên tập viên bản thảo mới là công việc làm báo, và nó đã như thể từ hàng chục năm nay. Và bạn sẽ không phải ngày nào cũng làm cùng những việc như nhau. Nếu tin tức hấp dẫn bạn thì hãy gia nhập bộ phận biên tập. Bạn sẽ không bao giờ chán. Và bạn sẽ làm việc với một nhóm mà ai cũng tận tụy muốn làm cho mọi thứ đâu ra đấy.Lý do thứ hai, đó đúng là một thiên chức cao quý. Bạn có ảnh hưởng to lớn, dù có thể là không hiển hiện, với những gì độc giả nhìn thấy. Bạn có thể làm cho độc giả đọc tờ báo của bạn vì những dòng tít, chứ thích ảnh và trình bày tuyệt vời. Bạn có thể ngăn chặn sự phỉ báng, ngăn chặn những bất công, ngăn chặn những sai lầm mà đôi khi vô tình chen vào nội dung. Bạn có thể làm cho các câu chuyện hay hơn, có khi bằng rất nhiều nỗ ầ ổ ằ lực, có khi chỉ cần chút thay đổi, và có khi bằng cách không làm gì hết 1. Tổ chức tòa soạn Để hiểu được công việc của biên tập viên bản thảo, bạn phải hiểu được vai trò của biên tập viên này trong tổ chức tòa sọạn và trong quy trình bản thảo (copy flow) - sự chuyển dịch của nội dung từ người viết cho tới trang báo hoàn tất. Cơ cấu tể chức tòa soạn không hề được chuẩn hóa. Biên tập viên nội thành (city editor) của một tờ báo nhỏ về cơ bản có thể làm cùng công việc của phó thư ký tòa soạn (deputy/assistant managing editor) phụ trách tin địa phương của một tờ báo lớn. Một tờ báo có thể có một bộ phận biên tập bản thảo chung cho mọi tin bài từ mọi phòng ban. Trong khi đó, một tờ báo khác có thể có nhiều bộ phận biên tập bản thảo riêng cho các trang mục phi thời sự, thể thao, tin địa phương và quốc tế. Một số nhật báo nhỏ không hề có bộ phận biên tập bản thảo cuối nào cả. Các biên tập viên phân công (assigning editor) - người làm việc với phóng viên từ khi bắt đầu triển khai đề tài - sẽ đảm trách mọi cấp độ biên tập. Bất kể những biến thể trong cơ cấu tổ chức tòa soạn, ta vẫn có thể vạch ra những trách nhiệm chính yếu của các loại biên tập viên khác nhau. Ở nhật báo [Anh-Mỹ], tổng giám đốc điều hành thường là chủ nhiệm (publisher). Đó là chủ sở hữu, hay đại điện cho chủ sở hữu của tờ báo. Người này trông nom cả việc kinh doanh lẫn mặt nội dung của tờ báo. Đứng đầu mặt nội dung là chủ bút (executive editor) thường là biên tập viên duy nhất mà độc giả biết đến tên tuổi. Người này chịu trách, nhiệm về toàn bộ nội dung tờ báo - từ tin thời tiết cho tới loạt phóng sự điều tra. Ở tất cả nhật báo, ngay dưới chủ biên là thư ký tòa soạn (managing editor) và trưởng ban chính luận (editorial page editor). Người này phụ trách phần ý kiến phản hồi, giám sát các cây bút xã luận (hay ờ những tờ báo nhỏ, chính người này viết bài xã luận) và chọn lựa bài nhận định từ các cây bút giữ chuyên mục trong và ngoài tòa soạn hay từ những cây bút tự do. Thư ký tòa soạn cùng với một phó thư ký giám sát mọi nội dung tường thuật và biên tập các trang ể ấ thời sự, cũng như tuyển dụng người làm việc cho những trang ấy. Người chỉ đạo việc tường thuật tin địa phương là trưởng ban nội thành/đô thị (city/metro editor). Các trưởng ban này thường có một hay nhiều phó ban, tùy theo quy mô của tờ báo. Phóng viên theo dõi địa phương nơi đặt trụ sở tờ báo sẽ làm việc trực tiếp với trưởng ban nội thành. Phóng viên theo dõi những khu vực xa thành phố sẽ làm việc trực tiếp với trưởng ban khu vực/ngoại thành (regional/suburban editor). Ngoài những mảng chuyên trách theo địa ỉv,một số tờ báo chỉ định biên tập viên theo các lãnh vực đề tài. Một biên tập viên có thể đảm trách những phóng viên chuyên viết về khoa học, y tế và môi trường, chẳng hạn. Các nhóm điều tra có biên tập viên riêng, và những nhóm dự án đặc biệt chuyên làm các đề tài dài hạn cũng thế. Biên tập viên làm việc cho các trang mục như thể thao, kinh tế và đờì sống, cũng như tờ báo Chủ Nhật, cũng được phân công riêng biệt. Một nhật báo lớn có thể còn có biến tập viên chuyên trách về hình ảnh, đồ họa và trình bày, cũng như một trưởng ban tư liệu (chiefnexus researcher) chuyên giúp truy tìm thông tin trong các cơ sở dữ liệu theo yêu cầu đặc biệt. Thông tin từ nơi xa thì cần thêm biên tập viên chuyên trách. Nhiều nhật báo lớn của Mỹ có một biên tập viên tiểu bang (state editor) quản lý bộ phận phóng viên chuyên theo dõi chính quyền tiểu bang và các hoạt động không có tính địa phương, một trưởng ban quốc nội (national editor) vừa là trưởng đại diện văn phòng thủ đô Washington của tờ báo vừa quản lý luôn những văn phòng địa phương, và một trưởng ban quốc tế (foreign editor) quản lý đặc phái viên ở nước ngoài và tin tức thế giới. Nhiều tờ báo còn có một biên tập viên thông tấn (wire/news editor) chuyên chọn lọc tin tức từ nguồn tin do các hãng tin cung cấp để phục vụ độc giả địa phương. Ở một số tòa soạn, người này làm việc chung với bộ phận biện tập bản thảo cuối, cùng biên tập nội dung và hình bày báo - đặc biệt là trang nhất. John Gibbons - biên tập viên thông tấn của tờ The Roanoke Times – đã mô tả vai trò của ông như thế này. “Trong tòa soạn tôi xoạc chân trên cả hai mảng nội dung và trình bày trong khi trên đầu phải luôn bám chặt vào ý thức thực tế. Về nội dung, tôi đã có kinh nghiệm làm phóng viên, biên, tập viên bản thảo và biên tập viên tin thông tấn. Về trình bày, tôi có kinh ế ế ề ấ nghiệm thiết kế ở nhiều nhật báo và ngành ấn loát thương mại. Cả âm và dương của chuyện làm báo đều được thực thi hàng ngày trong vị trí của tôi". Hầu hết các cơ quan báo chí còn có một biên tập viên trực tuyến (online editor), nhiều người trong số này làm việc một mình hoặc với một bộ phận nhân sự nhỏ. Dee Dee Strickland cho biết công việc biên tập trực tuyến của bà ở tờ The Charlotte Observer khác biệt với công việc biên tập nhật báo truyền thống vì độc giả báo mạng có cảm nhận khằc về tính cấp kỳ. "Tin tức hôm nay có thể thành tin cũ chỉ trong vòng vài giờ", bà nói. Độc giả luôn tìm kiếm" những tin tức đột xuất có tác động đến đời sống của họ ngay lập tức", cũng như các cảnh báo kẹt xe và tỷ số thể thao. Ở tòa soạn của đài truyền hình, tổng giám đốc (general manager) là người điều hành chính, tương tự như chức danh chủ nhiệm của nhật báo. Dưới tổng giám đốc là một giám đốc kinh doanh lãnh đạo khối kinh doanh và một giám đốc thời sự (news director) lãnh đạo khối nội dung. Các đài lớn còn có chức danh giám đốc sản xuất (executive producer) là người điều phối công việc của những người sản xuất chương trình, biên tập viên băng hình và biên tập viên phân công. Các giám đốc thời sự thường quản lý trực tiếp phát thanh viên và phóng viên, mặc dù có sự trùng lắp phần nào với trách nhiệm của giám đốc sản xuất. Nhân sự tòa soạn trực tuyến lại có nhiều hình thức đa dạng trong quá trình phát triển. Thường thì dạng tòa soạn báo mạng sẽ theo cơ cấu tổ chức của cơ quan báo chí chủ quản nếu có. Một số báo mạng sáng tạo ra những mô hình hoàn toàn mới. Hầu hết báo mạng đều rất nhỏ nên nhân sự chỉ có một biên tập viên thời sự và một vài người khác. (tài liệu photocopy bị thiếu trang 38, 39) phải làm nhiều hơn nữa ngoài việc giám sát chữ nghĩa. Williams Connolly, từng làm việc cho tờ The New York Times - nói: "Tôi bảo biên tập viên là: "Tôi coi tiền lượng của anh là tiền thuê mướn cái đầu của anh. Nếu tôi đang thuê cái đầu của anh thì tôi muốn có tất cả - mọi thứ anh biết, mọi kinh nghiệm mà anh phải đem hết ra đặt vào những tài liệu trước mắt mình". Một biên tập viên bản thảo cuối mà ấ ấ ấ ẩ ể không có khả năng tạm gạt bỏ những dấu chấm, dấu phẩy để nêu những câu hỏi lớn thì không thể tiến xa". Dù khái niệm "biên tập viên bản thảo cuối" được định nghĩa rất rộng hay rất hẹp, hầu hết các cơ quan báo chí lớn đều có những nguyên tắc về việc tiếp xúc giữa biên tập viên và phóng viên. Những quy định này bộc lộ một mâu thuẫn: Mặc dù biên tập viên bản thảo có trách nhiệm loại bỏ sai sót ra khỏi tờ báo, nhiều tòa soạn lại không cho họ quyền thay đổi nhiều trong nội dung tin bài. Quyền thay đổi này lại thuộc về biên tập viên phân công, những người làm việc với phóng viên ngay từ đầu. Nếu trưởng bộ phận biên tập bản thảo cuối đồng ý là phải viết lại bài thì biên tập viên bản thảo đó phải tìm cách tiếp xúc với biên tập viên phân công nào xử lý bài đó. Biên tập viên phân công này có thể thay đổi nội dung hoặc yêu cầu phóng viên thay đổi. Nếu không tìm được cả biên tập viên phân công lẫn phóng viên trưởng bộ phận biên tập bản thảo sẽ quyết định xem biên tập viên bản thảo sẽ viết lại hay cứ để y nguyên như thế. Một số biên tập viên bản thảo thấy những quy định này hạn chế khả năng của họ; một số phóng viên lại xem đó là cách bảo vệ sản phẩm, họ làm ra. Biên tập viên bản thảo muốn được tự do vận dụng chuyên môn; phóng viên lại muốn bảo đảm rằng câu chuyện họ đã mất nhiều giờ làm việc cùng biên tập viên phân công mới viết xong sẽ không bị bộ phận biên tập bản thảo thay đổi lần nữa. Biên tập viên bản thảo nói rằng việc biên tập chí gây ra sai sót khi nào bản thảo gốc không mạch lạc rõ ràng; phóng viên ta thán rằng 'biên tập viên bản thảo’ đã "thiến" mất tuyệt tác của mình. Căng thẳng giữa phóng viên, biên tập viên phân công và biên tập viên bản thảo là một thực tế không thể phủ nhận. Tuy nhiên, giống như trong mọi cơ quan, nhiều vấn đề có thể tránh được nếu bạn giỏi nghề và biết tôn trọng ý kiến của người khác. Các biên tập viên cấp cao nhất có thể giúp tạo ra một môi trường làm việc biết cân nhắc nghiêm túc những câu hỏi do biên tập viên bản thảo nêu ra. Cả phóng viên lẫn biên tập viên đều có chung một mục đích quan trọng hơn hết: sản xuất ra một bản tin tốt. Cách tiếp cận có thể khác nhau nhưng mục đích là một. Quy trình bản thảo bắt đầu với phóng viên rồi chuyển sang biên tập viên phân công và kết thúc khi biên tập viên bản thảo cuối viết tít ế ế cho câu chuyện đã hoàn chỉnh, xem lại thiết kế trang, các ảnh thời sự và chuyển sang nhà in hay bộ phận trực tuyến. Tuy việc đọc bản in thử có thể giúp kiểm tra nhanh những lỗi ấn loát trước khi trang báo được in ra hiếm có khả năng còn sót lỗi trong nội dung sau khi biên tập viên bản thảo cuối đã hoàn tất công việc. Điều đó có nghĩa rằng biên tập viên bản thảo cuối chính là thẩm quyền tối hậu, bộ lọc cuối cùng giữa người viết và độc giả. 2. Quy trình biên tập Mới nhìn qua, tưởng chừng như một bài viết bởi một phóng viên giỏi và được biện tập bởi một biên tập viên phân công giỏi sẽ không còn gì để cho biên tập viên bản thảo cuối làm việc. Thực tế biên tập viên bản thảo cuối có nhiều việc để làm. Tất cả biên tập viên bản thảo cuối đều làm việc theo ba bước: - Đọc lần một để nắm nội dung - Đọc lần hai để nắm cấu trúc bài viết - Đọc lần ba để nắm ngôn ngữ. (Bước thứ hai trong quy trình biên tập này sẽ được khảo sát chi tiết trong Phần 2: Biên tập nội dung). Tất nhiên, không biên tập viên nào thực sự chỉ chăm chú vào một mục đích trong mỗi lần đọc nội dung, cung giống như không có phóng viên nào thực hiện riêng lẻ từng bước một của quy trình viết bài. Nhưng biên tập viên thường đọc qua câu chuyện một lần chỉ để xem nội dung nói gì, gần giống như họ đọc tiểu thuyết. Thậm chí một số người còn giấu luôn hai bàn tay dưới đùi để khỏi táy máy với nội dung trong giai đoạn này. Với "sơ đồ tổng thể" của câu chuyện đã rõ ràng trong đầu, biên tập viên sau đó sẽ đọc lần nữa, kiểm tra xem nội dung có chứa dựng thông tin thích hợp không, có trình bày theo trật tự hợp lý không. Chỉ sau khi chu tất các vấn đề lớn này thì việc biên tập mới tiến hành theo cấp độ mà mọi người đều quen thuộc: đọc kỷ từng từ một. 3. Công cụ của biên tập viên bản thảo cuối ố Trong những "mẻ lưới" cuối cùng trước khi tin bài tới tay công chúng, người biên tập bản thảo thực hiện một trách nhiệm lớn. Họ cần phải hiểu biết rất nhiều để biên tập các câu chuyên cho thích đáng nhưng những gì họ biết; cũng chưa đủ. Hiếm có ai nhớ hết mọi quy tắc về phong cách và ngôn ngữ. Hiếm người nào biết được câu trả lời của mọi câu hỏi về lịch sử, địa lý, khoa học và văn hóa đã nảy sinh từ bàn biên tập. Để giải đáp chính xác, biên tập viên bản thảo cần có những công cụ đáng tin cậy. 3.1. Trợ giúp trên bàn làm việc Không có một biên tập viên bản thảo cuối nào mơ đến chuyện không cần dùng tới từ điển và cẩm nang phong cách trong một ca làm việc. Thực tế, trái với mong đợi của nhiều người, những biên tập viên càng kinh nghiệm thì càng tra cứu nhiều sách tham khảo hơn các biên tập viên mới vằo nghề, chứ không phải phải ít hơn đâu. Họ biết các sai sót có thể ẩn náu kín đáo như thế nào, và biết rõ tầm quan trọng của sự nhất quán. Phong cách bất nhất sẽ khiến dộc giả xao nhãng với nối dung thời sự - lý do khiến họ ngay từ đầu đã cầm tờ báo lên. Tệ hại hơn, những lỗi văn phạm và châm câu cố thể khiến câu văn sai lạc về mặt dữ kiên, phá hỏng mục đích tối hậu của một nhật báo: độ tin cậy. Nếu bạn cho rằng độc giả sẽ không để ý đến những lỗi chính tả hay văn phạm, hãy nói chuyện với những người chuyên nhận điện thoại, email hoặc thư độc giả ở một cơ quan báo chí địa phương. Họ sẽ kể cho bạn nghe về cơn thịnh nộ không dứt đối với những lỗi lầm cú pháp. Thực ra, độc giả lại hay than phiền về những sai sót ngôn ngữ và dữ kiện hơn là bình luận về những bài điều tra lớn mà các nhà báo hứng thú và tự hào. Thường thì những người viết thư hoặc gọi điện tới tòa soạn là phụ huynh hay giáo viên. Họ thường hỏi: "Làm sao chúng tôi có thể dạy cho trẻ em nói đúng viết đúng khi mà ngay cả báo chí cũng không thể viết câu cú chuẩn mực?" Do tốc độ sản xuất, các bản tin về cốt lội có thể xem là những bản nháp thô. Cho dù như thế, biên tập viên nếu ý thức được vai trò người bảo vệ ngôn ngữ của mình thì phải cố gắng làm cho bản tin ỗ ẩ mỗi ngày phải chuẩn xác - không chỉ với dữ kiện và với cả văn phạm nữa. Nhiều tòa soạn sử dụng một bộ từ điển chuẩn và cấp cho mỗi phóng viên và biên tập viên một bản, kèm theo chỉ dẫn là nên dùng cách viết liệt kê đầu tiên trong từ điển nếu như có từ nào có thể viết nhiều cách khác nhau. Như thế thì cả tòa soạn mới nhất quán về chính tả được. Nhiều từ điển còn chứa đựng một kho tàng thông tin khác, bao gồm địa dành vấn nhân danh, địa điểm các trường đại học và cả quy tắc chấm câu. Cạnh bên pho từ điển, mọi biên tập viên bản thảo cuối đều có một cuốn cẩm nang văn phạm giản yếu trên bàn làm việc, và nọ lưu giữ kỹ lưỡng những địa chỉ tham khảo trên Internet. Các biên tập viên giàu kinh nghiệm là người am tường ngữ pháp đủ để làm việc "bằng tai". Họ biết khi nào thì câu cú nghe không ổn. Tuy họ có thể không gọi được đích danh đó là lỗi gì nhưng họ biết cách sửa chữa cho chỉn chu. Một cuốn cẩm nang văn phạm là công cụ hữu dụng để xác minh những điểm tinh tế, và càng hữu dụng hơn nữa khi cần giải thích cho một phóng viên bất bình vì một câu hào đồ trong bản thảo của anh ta đã bị thay đổi.. Những công cụ khác bao gồm cẩm nang phong cách của tòa soạn và các, sổ tay về phong cách. Ví dụ, các sổ tay về địa phương cụ thể có danh mục những địa danh thường bị viết sai chính tả, liệt kê những khư vực nào là thành phố hay thị trấn, tóm lược chức năng cửa đủ loại cơ quan chính quyền địa phương, giải thích bất kỳ đặc điểm cá biệt nào trong luật pháp và quy định sở tại. Trong khi từ điển cho biết cách viết đúng của một thuật ngữ, cẩm nang phong cách sẽ cho biết cách dùng thuật ngữ ấy cho thích hợp trong thực tế và những bối cảnh hoặc lãnh vực có liên quan. Một bộ cẩm nang phong cách cũng giúp xác định vị trí của một tòa soạn trong những vấn đề mà không tòa soạn nào nhất trí với nhau. Chẳng hạn như có đăng danh tánh của nạn nhân hay không, hoặc có phiên âm các nhân danh và địa danh của nước ngóài hay không. 3.2. Các công cụ biên tập điện tử ế ố Máy tính hết sức ích lợi cho biên tập viên bán thảo cuối. Công cụ này cho phép họ kiểm tra danh tánh, định nghĩa, những dữ kiện mơ hồ và những câu danh ngôn, đáng ngờ. Các sách niên giám, bản đồ thế giới, bảng biểu và sơ đồ công cụ chuyển đổi đơn vị đo lường và dịch ngôn ngữ… tất cả đều có trên mạng. Ngày trước, thư viện tòa soạn thường lưu trữ tin bài và hình ảnh cũ, xếp loại theo chủ đề và thời gian, để phóng viên và biên tập viên có thể kiểm tra lại thông tin tư liệu. Bây giờ, dạng thông tin này có thể truy cập bằng máy tính. Máy tính cũng cho phép truy cập nhanh đến các ấn phẩm khác. Hầu hết các cơ quan báo chí đều thuê bao những nguồn cơ sở dữ liệu cung cấp quyền đọc toàn bộ mọi nhật báo, tạp chí cùng các loại thông tin khác. Các nhân sự tòa soạn tự xây dựng danh mục địa chỉ truy cập dữ liệu cho riêng mình để khi cần có thể nhanh chóng thạm khảo những kênh thông tin và trang chủ của các phương tiên truyển thông khác. Máy tính cũng tạo ra khác biệt cho những bài phóng sự điều tra và nhiều nội đung khác có dữ liệu phức tạp. Các hồ sơ lưu trữ công cộng cũng có sẵn trên mạng, tiết kiệm thời gian cho phóng viên và biên tập viên đồng thời cung cấp cho họ cơ hội tìm kiếm một khôi lượng thông tin rất lớn. Một số nhà báo đã trở thành chuyên gia về thiết lập bảng tính và các phương tiện sắp xếp dữ liệu. Nhiều biên tập viên và người trình bày báo cũng cẩn thận kiểm tra thông tin và góp phần thể hiện nội dung thật rõ ràng và cuốn hút. Gần như người biên tập nào cũng công nhận rằng máy tính đã nâng cao chất lượng và hình thức của tờ báo. Phần mềm đồ họa và khả năng linh hoạt với kiểu chữ cùng hình ảnh đã giúp cho trang báo sinh động hơn. Phần mềm cho phép hình dung rõ hơn trang báo trước khi in, giúp giảm thiểu sai sót và những bất ngờ khó chịu. Máy tính xách tay và phương tiện truyền ảnh điện tử tăng cường tốc độ tường thuật. Chỉ trong vài năm, máy tính đã thay đổi nghề báo và sẽ còn tiếp tục thay đổi các phương tiện truyền thông theo những cách thức chưa từng có. Tuy nhiên, máy tính cũng có những bất lợi. Một số biên tập viên tin rằng máy tính đã khích lệ phóng viên viết những bài dài quá mức và tốn quá nhiều thời gian chắp vá bài viết của mình. Tuy máy tính đã giúp cho tòa soạn yên tĩnh hơn, điều đó cũng không hoàn toàn tốt. ề ề Một ngành nghề phụ thuộc vào truyền thông hiệu quả và con người làm việc tập thể bây giờ lại thấy rằng nhiều phóng viên và biên tập viên chỉ liên lạc với nhau toàn qua email chứ không trò chuyện nữa. Một số tòa soạn đã cố thiết lập lại nghệ thuật giao tiếp đầy ý nghĩa này. Những cơ sở dữ liệu máy tính cũng đã tạo ra một hình thức hoàn toàn mới của chuyện vô tình đạo văn. Phóng viên hay biên tập viên rất dễ dàng truy tìm một thông tin tứ liệu cũ trên màn hình và chèn vào một câu chuyện mới, quên rằng đoạn văn ấy là công sức của người khác. Một vấn đề nhỏ khác thường xuyên nảy sinh trong các tòa soạn, đặc biệt là với nhà báo trẻ. Máy tính có cách phơi bày bí mật cá nhân rất bực mình. Nếu bạn sẽ làm việc trong một tòa soạn, hãy nhớ hai điều "không bao giờ” quan trọng này: Không bao giờ ghi chú gì ngay giữa nội dung đang biên tập, trừ phi hệ thống máy tính của bạn cho phép mã hóa phần ghi chú sao cho không bị sắp chữ nhầm lên trang báo. Thứ hai, bao giờ sử dụng máy tính ở tòa soạn để viết email hay thư từ riêng tư. Cho dù bạn nghĩ mình đã cẩn thận đến đâu đi nữa, lá thư tình ấy không hiểu sao sẽ được ghim lên bảng tin nội bộ tòa soạn, khiến bạn bị khiển trách hay sa thải, hoặc - tệ hại hơn - in luôn ra báo. 3.3. Sử dụng các công cụ trong công việc Để giúp bạn hiểu thêm cách tư duy của biên tập viên bản thảo cuối, hãy tưởng tượng bạn đang ở vị trí của họ và đang biên tập mẩu tin sau cho tờ báo: George Cleveland, 29 tuổi, ở số 48 phố Longwood, đã bị bắt giữ hôm qua vì tội đột nhập trạm xăng Citgo cạnh nhà ăn trộm. Cảnh sát cho biết một người đã ghé vào trạm xăng khoảng 11 giờ đêm và chĩa một khẩu súng trường tự động có nồng 22 vào nhân viên thu ngân. Cleveland sau này khai với cảnh sát rằng hôm qua là kỷ niệm 100 năm ngày nhậm chức của tổ tiên y là Tổng thống Grover Cleveland, và y ít tiền để ăn mừng. Đây là là vụ trộm thứ tư ở trạm xăng này trong nay. ể Trước tiên, bạn kiểm tra danh bạ điện thoại xem có ông George Cleveland nào ở địa chỉ đó không và xem tên của người này có viết đúng không. Danh bạ điện thoại hay niên giám thành phố có thể cho bạn biết con đường đó là phố Longwood hay đại lộ Longvvoođ, và trạm xăng Citgo có thực sự ở cạnh bên nhà số 48 hay không. Theo từ điển, mô tả kích thước nòng súng mà dùng chữ “khổ” là sai, phải là "cỡ" mới đúng. Tra cứu phẩn "VŨ KHÍ" trong cẩm nang phong cách, bạn phát hiện ra súng tự động cỡ nòng 22 là súng lục chứ không phải súng trường. Mặc dù bạn không thể xác định được tay Cleveland này có thực là hậu duệ của một tổng thống Mỹ thời xưa hay không, bạn kiếm tra sách niên giám xem có đúng là 100 năm ngày nhậm chức của Grover Cleveland không. Sau đó bạn sẽ xử lý một vấn đề quan trọng: hỏi phóng viên hay biên tập viên phân công xem tội danh chính xác của George Clevaland là gì. Bạn biết "đột nhập" có nghĩa là phải đi vào bên trong với ý định phạm tội, còn chĩa súng vào người khác là tội "cướp có vũ trang". Cuối cùng, bạn quyết định, yêu cầu phóng viên hỏi lại cảnh sát để bảo đảm là trạm xăng này trước đó đã bị cướp ba lần nữa. Khi không tìm ra phóng viên, bạn kiểm tra lại thông tin trong thư viện tòa soạn. Thư viện có lưu trữ thông tin cũ trong cơ sở dữ liệu máy tính và nhân viên tư liệu trong thư viện có thể giúp truy tìm. 4. Phẩm chất của biên tập viên bản thảo Muốn hình dung được những yếu tố nào tạo nên một biên tập viên bản thảo tốt thì cách hay nhất là lắng nghe những người tuyển dụng. Họ tìm kiếm điều gì? "Sự nhạy bén về ngộn ngữ là chìa khóa để bạn bước vào tòa soạn", lời Peter Watson, tổng giám đốc Essex County Newspaper. "Nhưng thông minh và tò mò cũng Ịà những yếu tố quan trọng". Còn William Connolly - nguyên biên tập viên cấp cao của tờ The New York Times - lại xổ ra một danh sách dài các phẩm chất: trưởng thành, thông minh, rành mạch, say mê, nghị lực, kỹ năng ngoại giao để thành công trong tòa soạn và sức mạnh để chịu đựng áp lực công việc. Theo Connolly, quan trọng chẳng kém khả năng ngôn ngữ là một nhận thức sắc sảo về thế giới. Ông cho biết ông tìm kiếm "người ầ ầ ế ề nào có cái đầu đầy kiến thức tản mạn - về khoa học, ngôn ngữ, lịch sử, kinh tế, nghệ thuật". Mọi phẩm chất đó có thể dễ dàng mô tả cả phóng viên lẫn biên tập viên. Nhưng Connolly cho biết còn một phẩm chất nữa mà phóng viên ít có được: phải đủ vị tha để thật sự chăm chút cho một bài báo sẽ ký tên người khác. "Hiếm người có phẩm chất đó", ông nói, "nhưng ai có được thì sẽ làm mọi người rất thỏa mãn. Biên tập viên bản thảo cuối là những người tạo ra khác biệt lớn lao". Bà Catherine Martinđale - chủ biên tờ Globe News ở Amarillo (bang Texas) - đồng ý rằng một cái tôi lớn là điều kiện tiên quyết của bộ phận biên tập bản thảo cuối. Theo quan điểm của bà, một biên tập viên bản thảo cuối cùng là người triệt để với các chi tiết, hoài nghi nhưng không cay độc, đọc không ngừng và có khả năng viết tốt đủ để nâng cao chất lượng bản thảo "mà không để lại dấu vết". Giống như Connolly, bà tin rằng nhiều người sẽ muốn trở thành biên tập viên bản thảo cuối nếu họ biết rõ nghề này đòi hỏi những gì. "Tôi ngày xưa thích làm phóng viên nhưng rốt cuộc tôi nhận ra nỗ lực của mình chẳng có ảnh hưởng gì cho cả tờ báo" - Martinđale kể lại chuyện mình, không khác gì câu chuyện của nhiều biên tập viên bản thảo. "Nếu bạn muốn có lý đo để xía vào gần như bất kỳ lãnh vực nào của tờ báo, thì biên tập bản thảo cuối là nghề của bạn. Bạn sẽ có một vị trí đáng thèm muốn. Và khi cần tìm việc thì những biên tập viên bản thảo giỏi luôn có thể tự ra giá cho mình". 5. Phục vụ nghề báo Biên tập bản thảo cuối có thể là một công việc hấp dẫn, nhưng nếu giả vờ như nghề này không có những bất lợi thì lại không thành thật. Biên tập viên bản thảo cuối nói chung thường không được đánh giá đúng. Nhiều người làm nghề này có thể xổ ra đủ thứ tên gọi mà các phóng viên tức tối đã xỉ vả họ: tên đồ tể, kẻ cuồng chữ, thợ thiến… Một rủi ro nghề nghiệp khác là những giờ làm ca đêm khiến biên tập viên bản thảo cuối bị cách ly với sinh hoạt tòa soạn. Họ có thể trở thành vô hình đối với các nhà báo khác, cho nên sự sỉ nhục lớn nhất không phải là bị chửi bới mà là không ai đếm xỉa tới. ấ ể Bất kể - hay chính vì - có lúc bị xem thường mà những biên tập viên bản thảo cuối hay hợp thành một cộng đồng gắn bó chặt chẽ với nhau và tìm thấy niềm vui làm việc tập thể. Trong các thập niên vừa qua, nhiều tình thế đã khiến biên tập viên bản thảo cảm thấy hài lòng với công việc hơn. Khi lãnh đạo tòa soạn cắt giảm nhân sự thì biên tập bản thảo cuối vẫn là vị trí có nhu cầu tuyển đụng cao. Tình trạng thiếu biên tập viên tăng lên và mức lương biên tập viên cũng tăng theo, vượt xa mức lương của nhiều phóng viên có kinh nghiệm. Tình trạng thiếu hụt này dã khích lệ nhiều biên tập viên băn thảo cuối lên tiếng trong (tài liệu photo thiếu trang 50 và 51 – chú thích của người scan và sửa sách) Chương 3: VĂN PHẠM VÀ PHONG CÁCH Chương này sẽ giúp bạn: - Hiểu được ý nghĩa của văn phạm và cú pháp trong việc biên tập - Biết các quy ước về cách dùng từ trong nghề báo - Học cách xây dựng những câu trích dẫn cho thích hợp - Biết cách nhấn mạnh những ý tưởng muốn truyền đạt Bạn nói năng lưu loát? Xin chúc mừng! Bạn viết rất hiếm khi sai ngữ pháp? Điều đó cũng tốt. Nhưng còn khả năng phát hiện lỗi trong tác phẩm của người khác thì sao? Nói cách khác, bạn giỏi đến đâu trong vai trò người biên tập bản thảo cuối? Hãy thử biễn tập mẩu quảng cao sau đây. Một nhà xuất bản địa phương đã đăng rao vặt này trên một nhật báo khi cần tuyển dụng một biên tập viên bản thảo: Hãy khởi động kỹ năng biên tập của bạn trước khi đọc quảng cáo này. Sẵn sàng chưa? Networking Management là một tạp chí kinh tế/ thương mại của ngành truyền thông đa phương tiện đang cần tuyển dụng một người có chuyên môn biên tập trong lĩnh vực chuyên ngành có ít nhất 3 năm kinh nghiệm viết và biên tập bản thảo. Kỹ năng làm việc trên máy tính là bắt buộc, hiểu biết cơ bản quy trình thiết kế và sản xuất là lợi thế. Có bằng báo chí hoặc một lĩnh vực liên quan cũng quan trọng, bạn phải là người có khả năng học hỏi nhanh xử lý được nhiều dự án vào thời hạn chót. Bạn sẽ biên tập chủ lực các bài chuyên mục, điều phối và viết mục Sản phẩm Mới của các tạp chí và viết tin khi cần. Dự các hội chợ thương mại và các cuộc họp báo không thường xuyên cũng là một phần trách nhiệm đòi hỏi. Tác giả của rao vặt này là Joanie Wexler, biên tập viên của nhà xuất bản PennWell ở Westford, bang Massachusetts. Bà đã quá mệt mỏi khi phải phân loại hàng trăm bản lý lịch của người xin việc mà không hề biết kỹ năng của họ ra sao. Bà biết sẽ có ít người nộp đơn với những thông báo tuyển dụng đòi hỏi chuyên môn cụ thể. Bà không cần có thật nhiều ứng viên mà cần có ngay những ứng viên tiềm năng. Vì thế, dưới đoạn văn trên, bà khẩn khoản viết thêm: "Nếu bạn cho rằng mẩu quảng cáo này đã hoàn chỉnh, xin vui lòng tìm việc ở lãnh vực khác". Hiệu nghiệm! Công ty của bà nhận được không nhiều đơn dự tuyển và chính kỹ năng biên tập của ứng viên thể hiện ế qua quảng cáo trên đã giúp bà xếp hạng và chọn được người biên tập giỏi. Có thể bạn chẳng bao giờ phải biên tập một mẩu rao vặt để được tuyển dụng, nhưng có nhiều khả năng là bạn phải lam bài trắc nghiệm kỹ năng. Và rất nhiều khả năng là bài hắc nghiêm ấy sẽ tập trung vào những điểm tinh tế của ngữ pháp và cú pháp. Bạn không thể làm công việc này mà không am tường ngôn ngữ. Đơn giản vậy thôi. Thực tế, bất kỳ ai viết tín hay đọc tin đều cần thông thạo các quy tắc văn phạm và cách dùng từ. Ngày càng có nhiều phóng viên báo in làm thêm việc tường thuật truyền hình. Ngoài ra, thời gian dành cho biên tập và sản xuất chương trình bị rút ngắn hơn trước. Nhà báo phải chính xác và tự tin khi sử dụng ngôn ngữ. Thế nhưng nhiều nhà báo có thể gan dạ tường thuật những cuộc chiến tranh du kích lại tỏ ra hoảng hốt khi nghe tới hai chữ "'văn phạm". Không nên như thế. Văn phạm chỉ là một hệ thông, một phương pháp liên kết từ ngữ theo những cấu trúc nhằm chuyển tải cùng một ý nghĩa đến bất kỳ người đọc hoặc người nghe nào. Hãy nhớ câu hỏi triết học này: Nếu một cái cây gãy đổ trong rừng khi không có người nào gần đó nghe thấy thì nó có tạo ra âm thanh nào không? Nếu nhà báo tường thuật những thông tin gây chấn động mà chẳng ai hiểu nổi thi bản tin của họ dã không cung cấp được thông tin gì hết. Hiển nhiên, cả người viết lẫn người biên tập đều phải am tường văn phạm. Tai họa của mọi thân phận biên tập viên chính là những phóng viên vui vẻ tung hoành trên những vùng cấm của ngữ pháp với tinh thần lạc quan: "Không sao đâu. Sai thì biên tập viên sửa". Nhưng nếu chỉ cần giỏi văn phạm thôi là đủ để viết hay thì bất kỳ ai kiên trì tham khảo sách ngữ pháp cũng có thể sáng tạo ra những áng văn tuyệt tác. Nhưng muốn viết hay lại cần nhiều yếu tố khác chứ không chỉ là văn phạm chính xác. Người viết cần có quan điểm về thế giới và mọi câu chuyện trên đời; cần tinh tường để chuyển tải quan điểm của mình đến với độc giả; vạ cần một yếu tố rất khó nắm bắt: Phong cách. Với cả phóng viên lẫn biên tập viên, khái niệm "phong cách" mang nhiều ý nghĩa khác nhau - từ những quan tâm cụ thể về "các quy định" của tòa soạn cho tới những câu hỏi khó xác định hơn nhiều về ẩ ấ ố ế những phẩm chất của một câu văn tốt, đoạn văn hay, bài viết tuyệt vời. Cách viết có súc tích và sinh động không? Cách viết có tránh được những tô sáo mòn, đơn giản hóa được những khái niệm phức tạp, có động lực thúc đẩy độc giả đi tiếp không? Cách viết có trôi chảy không? Những vấn đề này hò hét trong tâm trí người biên tập, kêu gào sự quan tâm, cùng với bao vấn đề khác liên quan đến cách chấm câu và văn phạm. Phong cách có thể là khái niệm khó xác định nhưng ai cũng từng trải nghiệm những tác động của nổ. Bạn đọc hai bài viết về cùng một sự kiện và ngạc nhiên khi thấy rằng: Dù cả hai bài cùng chứa đựng thông tin giống nhưng một bài lại cuốn hút chú ý trong khi bài kia lại cứ như quả bóng xì hơi chẳng ai màng tới. Hoặc chính bạn từng viết một bài hết sức vất vả nhưng rồi tình cờ đọc một bài tương tự của người khác viết. Bài của bạn trúc trắc, bài người kia bay bổng, vấn đề đâu? Điều đó có liên quan đến phong cách. Phong cách bao quát một số vấn đề - chẳng hạn như trọng tâm, bố cục và giọng điệu - thường là thuộc lãnh vực của biên tập viên phân công hơn là của biên tập viên bản thảo cuối. Những vấn đề như thế sẽ được đề cập ở Phần Hai: Biên Tập Nội Dung. Nhưng những biên tập viên bản thảo cuối cũng có nhiều quan tâm riêng về phong cách - từ cách dùng từ cho đến cách đặt câu và cả đoạn văn. Tuy phải mất thời gian mới phát triển được một con mắt nhạy bén với phong cách và một trực giác tốt về cách viết tốt, bạn có thể thúc đẩy nhanh tiến trình này bằng cách dõi theo con mắt của biên tập viên lướt qua bản thảo. Một khi bạn đã biết những "ổ gà" cản trở lưu thông có khả. năng đang ẩn nấp ở đâu trong mạch văn, bạn sẽ dê dàng tránh "sụp hầm" hơn. 1. Từ ngữ 1.1. Sử dụng cẩm nang phong cách Các nhật báo thường sử dụng những cẩm nang phong cách (stylebook)để dùng từ cho nhất quán, giúp độc giả khỏi rối trí. [Ở Mỹ, loại sách cẩm nang phong cách rất phổ biến và đá dạng nhưng giới ố ấ báo chí thường hay sử dụng cuốn Stylebook của Hãng thông tấn Associated Press do Norm Goldstein chủ biên làm tiêu chuẩn.] Phóng viên và biên tập viên thường xuyên tham khảo - cẩm hang phong cách khi làm việc. Một nữ sinh viên báo chí sau khi tốt nghiệp được tuyển vào làm phóng viên cho hãng tin AP đã nói đùa rằng cuốn Stylebook luôn dính liền với cô như một phần cơ thể — và nói thế là không hề cường điệu. Không có danh sách hay bản liệt kệ nào có thể trả lời được nhiều vấn đề về cách dùng từ chọ bằng, một cuốh cẩm nang phong cách. Với người biên tập, những vấn đề quan tâm nhất cần phải tham khảo sách này là: QUY ƯỚC VIẾT TẮT. Khi nào thì thích hợp dùng từ viết tắt trong các niên đại, địa chỉ, tham chiếu địa lý, và tên tổ chức hay công ty? XƯNG HÔ LỊCH Sự. Tòa soạn của bạn có sử dụng cách gọi Ông, Bà, Cô, và Ngài không hay chỉ gọi tên? Mặc dù nhiều - cơ quan báo chí [Mỹ] đã bỏ hết những từ xưng hô này/ một số báo vẫn còn sử dụng. CÁC THUẬT NGỮ THỂ THAO, KHOA HỌC, QUÂN SỰ, Y KHOA, PHÁP LÝ VÀ TÀI CHÍNH. Những thuật ngữ này sử dụng có chính xác không? Các thuật ngữ ấy khá phổ biến, hầu như ai cũng hiểu, hay cần phải giải thích? ĐỊA LÝ. Tên thành phố nào có thể đứng một mình, và tên thành phố nào cần nêu rõ địa hạt hay tiểu bang để dễ xác định? CÁC CHỮ SỐ. Khi nào nên viết bằng số và khi nào nên viết bằng chữ? CÁC THAM CHIẾU TÔN GIÁO. Nội dung tin bài có sử dụng đúng thuật ngữ và mô tả đúng các nhân vật và nghi thức tôn giáo không? TIẾNG LÓNG. Dừng "nhóc con" thay cho “trẻ em" được không? Thay "cảnh sát" bằng “cớm” thì sao? Mọi biên tập (tài liệu photo bị mất trang 56 và 57 – chú thích của người scan và sửa sách) Dù những từ khoa trương không chướng tai như biệt ngữ, chúng vẫn không có chỗ đứng trong các bản tin. Tại sao lại viết ai đó "hiện được tiểu bang tuyển dụng" thay vì người đó "làm việc cho tiểu bang"? Tại sao lại nói ai đó "từ trần tại tư gia" mà không nói "chết ở nhà riêng"? 1.2. Giải thích các thuật ngữ phức tạp hay lạ thường Thường thì cách tốt nhất để xử lý các thuật ngữ phức tạp hay lạ thường là nên giải thích cho độc giả hiểu được khái niệm trước đã rồi sau đó mới sử dụng thuật ngữ đó trong nội dung. Nhưng phải cẩn thận, đừng có xem thường độc giả. Khi một gia đình trong vùng trúng số độc đắc 20 triệu USD thì không cần phải giải thích "xổ số" là gì? Ai mà chẳng biết! Nếu bản tin phải giải thích từng thuật ngữ trong bài thì bài nào cũng chiếm hết cả trang báo - và chẳng ai thèm đọc nữa. Phải thừa nhận là nhà báo rất khó xác định xem công chúng đã biết chừng nào. Hãy suy nghĩ theo cách này: Một bài viết cũng giống như một lá thư gửi một người bạn thông minh. Người bạn ấy cũng nhanh trí và từng trải như bạn, chỉ có điều là người ấy không có mặt sự kiện mà bạn chứng kiến. Hãy luôn nhớ đến đối tượng công chung cụ thể ấy để xác định giọng điệu và mức độ giải thích tương xứng với nội dung câu chuyện. 2. Câu văn 2.1. Sử dụng lời trích dẫn Dấu ngoặc kép là dấu hiệu báo cho độc giả biết: "Bây giờ có chuyện đặc biệt. Người viết sẽ tránh ra và để cho tôi nghe trực tiếp lời của những người có liên quan". Một bài viết đặt những lời nhạt nhẽo vào giữa hai dấu ngoặc kép đã biến dấu hiệu này thành điều dối gạt. Những bài viết trích dẫn quá nhiều từ sáo rỗng, biệt ngữ hoặc những câu dài dòng, rối rắm cũng vậy. Các trích dẫn hay sẽ bổ sung màu sắc và độ tin cậy. Chúng đưa độc giả đến gần với sự kiện hơn, phô bày cá tính nhân vật, cho thấy tiết tấu và ngữ điệu của văn nói. Khi gặp những câu trích dẫn, người biên tập không chỉ chú ý đến các yếu tố ngữ pháp mà còn chú ý cả phong cách. Có bốn phạm trù liên quan đến cách trích dẫn là: nội dung, cách giới thiệu, giải thích bối cảnh và số lượng câu trích dẫn. NỘI DUNG TRÍCH DẪN. Trích dẫn cảm xúc chứ không trích dẫn dữ kiện. Tuy công thức này không phải híc nào cũng đúng nhưng đó ấ ể ề là cách đơn giản nhất để giải thích về những gì hàm chứa trong nội dung trích dẫn. Để hỗ trợ cho đoạn dẫn nhập, có khi một câu chuyện thời sự buộc phải trích dẫn một tuyên bố khá nhạt nhẽo của một nhân vật có thẩm quyền hay một tài liệu nào đó - nhạt nhẽo nhưng cần thiết. Không kể ngoại lệ đó, những lời trích dẫn phải dành cho những phát biểu mà phóng viên không thể viết sinh động bằng những gì đã nghe thấy. Việc gì phải mất công trích dẫn lời một bà hiệu trưởng đại học nói "Trường này có 10.000 sinh viên"? Câu trích dẫn này không phải là một tuyên bố độc đáo mà cách nói cũng chẳng độc đáo gì. Thay vì thế, trong nội dung tin bài nên nêu ra dữ kiện này và trích lời bà hiệu trưởng bộc lộ phản ứng trước dữ kiện đó: "Tôi luôn lo nghĩ nát óc khi những quyết định của tối sẽ ảnh hưởng đến bao nhiêu người". GIỚI THIỆU CÂU TRÍCH DẪN. Một câu trích dẫn phải phát triển từ câu đứng trước nó. Phải cảnh giác với hai kiểu trích dẫn này: lời trích dẫn lặp lại câu trước và lời trích dẫn dường như trên trời rơi xuống. CẦN CHỈNH SỬA: Bà hiệu trưởng đại học căng thẳng định của bà sẽ ảnh hưởng đến quá nhiều người. Bà nói; "Tôi luôn nghĩ nát ốc khi những quyết định của tôi sẽ ảnh hưởng đến bao nhiêu người". (Trích dẫn lặp lại câu trước). CẦN CHỈNH SỬA: Bà đã làm hiện trưởng đại học từ khi Oklahoma đến đây ha năm trước. Bà nói “tôi luôn lo nghĩ nát óc khi những quyết định tôi sẽ ảnh hưởng đến bao nhiêu người". (Trích dẫn không liên quan gì đến câu trước). ĐÃ BIÊN TẬP: Bà hiệu trưởng đại học này cho biết số lượng sinh viên tăng nhanh đã khiến bà phải thận trọng. Bà nói: "Tôi luôn lo nghĩ nát óc khi nhưng quyết định của tôi sẽ ảnh hưởng đến bao nhiêu người”. (Trích dẫn hỗ trợ câu trước). GIẢI THÍCH BỐI CẢNH TRÍCH DẪN. Nhiều người thường ta thán rằng các nhà báo đã trích lời họ nằm ngoài bối cảnh. Họ nói không sai. Trừ phi nội dung tin bài ghi lại từng chữ những gì ai đó đã nói với phóng viên, những lời trích dẫn luôn nằm ngoài bối cảnh. Những phóng viên giỏi đều ý thức được tầm quan trọng của việc giải thích những gì cần thiết để bảo đảm không ai hiểu sai lời trích dẫn. Những biên tập viên giỏi luôn kiểm tra nội dung để bảo đảm là phóng viên có ố ằ giải thích bối cảnh và lời giải thích này phải nằm trước, chứ không nằm sau, lời trích dẫn. VỤNG VỀ: “Tôi có thể nằm trên giường nghe tiếng vui đùa, ngồi ăn trưa chứng kiến biểu tình, nhìn ra cửa sổ và quan sát những con người mà chính họ là lý do để tôi có mặt nơi này”, bà hiệu trưởng đại học nói về cuộc sống của bà trong ngôi nhà gạch đường bệ nằm ngay trung tâm khu học xá sinh viên. MẠCH LẠC: Bà tận hưởng mọi điều trong cuộc đời hiệu trưởng giữa những bức tường gạch của ngôi nhà nằm ngay khu trung tâm đại học. Bà nói: “tôi có thể nằm trên giường nghe tiếng vui đùa, ngồi ăn trưa chứng kiến biểu tình, nhìn ra cửa sổ và quan sát những con người mà chính họ là lý do để tôi có mặt nơi này”. SỐ LƯỢNG CÂU TRÍCH DẪN. Hầu như trong mọi tờ báo, bạn đều có thể tìm thấy những câu chuyện thực tế không phải do phóng viên viết ra. Đó chỉ là hàng loạt lời trích dẫn được xâu kết với nhau bằng vài từ của phóng viên chen vào giữa. Có khi phóng viên dùng kỹ thuật này để nhường lời cho nguồn tin nói. Có khi phóng viên viết bài theo kiểu này chỉ vì họ không tự tin vào ngôn từ của mình, hoặc vì họ không chịu phân tích mọi lời trích dẫn đã thu thập và chọn ra những câu hay nhất. Dù vì lý do nào đi nữa, bài viết như thế cần phải biên tập lại. Độc giả không giở tờ báo ra để dọc hết những phát biểu trên đời ngày hôm qua. Độc giả trông đợi phóng viên phải làm một số việc cho họ, xếp hạng tầm quan trọng của những sự kiện, giải thích ý nghĩa của chúng, truyền đạt những chi tiết đáng chú ý. Phóng viên phải chứng tỏ là mình biết diễn đạt súc tích và lôi cuốn hơn các nguồn tin. Biên tập viên phải đặc biệt chú ý đến những câu trích dẫn chồng chất gần cuối bài viết. Phóng viên có khi mỏi mệt và, trong tâm lý gấp rút viết cho kịp thời hạn, chỉ làm mỗi việc là gom hết những gì đã ghi chép trong sổ tay đưa vào bài, để cho các nguồn tin thay nhau nói ra rả. Rất dễ giải quyết những câu trích dẫn chồng chất này. Chỉ cần hình dung ra - lý tưởng nhất là nên hội ý với phóng viên - lời của từng người phát biểu sẽ phục vụ cho mục đích nào trong nội dung câu chuyện. Mục đích ấy sẽ trở thành câu giới thiệu cho lời trích dẫn. Sau đó chỉ chon ra một hoặc hai câu hay nhất. Ả Ả ẳ ầ BẢN THẢO: "Tôi phải nghi ngờ những khẳng định của công ty dầu khí cho rằng vùng biển này đầy bất trắc và chuyện không thể trách khỏi”, viên sĩ quan tuần duyên nói: “Tôi đã nói chuyện với những người ở trên chiếc tàu chở dầu ngày hôm ấy. Cụ thể hơn, bản thân tôi từng làm hoa tiêu ở vùng biển này. Không thể nào ví vùng biển này với Tam giác Bermuda. Chúng tôi nói đến một eo biển rộng đến mức mấy đứa con nít cũng có thể lái tàu dầu đi qua an toàn”. BIÊN TẬP: Viên sĩ quan tuần duyên, ngươi ta làm hoa tiêu ở vùng biển này, cho biết eo biển không bất trắc như công ty dầu khí đã quả quyết. Ông nói: “không thể nào ví vùng biển này với Tam giác Bermuda. Chúng tôi nói đến một eo biển rộng đến mức mấy đứa con nít cũng có thể lái tàu dầu đi qua an toàn”. (Câu thứ nhất đúc kết vai trò của viên sĩ quan trong câu chuyện: cung cấp một quan điểm đối nghịch. Những câu trích dẫn là những lời thú vị nhất trong phát biểu của ông ta). 2.2. Đơn giản hóa những cấu trúc câu phủ định Nói chung, phóng viên thời sự luôn cố tránh dùng câu phủ định, đặc biệt là trong câu dẫn nhập và tít. Công chúng muốn biết điều gì đã xảy ra, chứ không phải điều không xảy ra. (Bạn có thấy phần cuối của cáu này là rối rắm không? Quá nhiều phủ định). Phóng viên nào gắn bó với từ “nhưng” thường tỏ ra rất ưa chuộng dạng phủ định kép - và có khi trong một câu lại có đủ cả "nhưng" lẫn hai lần "không". Nếu không có ai biên tập lại, độc giả và thính giả chắc hẳn sẽ vò đầu bứt tai với những cầu như “Nhưng không một ai phủ nhận rằng không hề có vấn đề” Hầu hết phóng viên đều có thể đễ dàng tránh dạng phủ định kép này. Nhưng bệnh "phủ định quá mức" còn xuất hiện trong nhiều hình thức khác ngoài từ "không" - đặc biệt là trong những tin bài về các tiến hình pháp lý hay tố tụng. Chính quyền và tòa án luôn thực hiện những thay đổi lớn theo từng bước nhỏ. Phóng viên rất dễ bị mắc kẹt trong tiến trình đó thay vì tường thuật kết quả một cách đơn giản. Hãy xem ví dụ sau: ố ể ế ố ằ ắ Tòa án Tối cao tiểu bang bác bỏ phán quyết đã tuyên bố rằng sắc lệnh của thành phố nghiêm cấm nhảy múa khỏa thân là vi hiến. "Bác bỏ", "nghiêm cấm", và toàn là những là hàm ý phủ định. Ba từ này hợp lại khiến đầu óc quay cuồng. Thế tòa án đã làm cái trò gì chứ? Hãy xem xét từng bước một. Đầu tiên, chính quyền thành phố ra một sắc lệnh quy định "khùng được nhảy múa khỏa thân", một tòa án cấp thấp bảo rằng sắc lệnh này là vi phạm hiến pháp. Nói cách khác, tòa án cấp thấp bảo thành phố phải cho phép nhảy muá thỏa thân. Sau đó tòa án Tối cao bác bỏ phán quyết đó của tòa án Cấp thấp. Nói tóm lại, Tòa Án Tối Cao cho rằng chuyện thành phố cấm nhảy múa khỏa thân là đúng luật. Ui cha! Sao phóng viên này không viết thế ngay từ đầu cho rồi? 2.3. Các ý tưởng phối hợp và bổ sung Do chứa đựng nhiều chi tiết, tin bài thời sự hay gặp phải vấn đề là từ ngữ trong câu không thể hiện được mối tương quan của các ý tưởng. Khi phóng viên cố lên quá nhiều thông tin vào trong một câu, độc giả có thể lúng túng không biết ý nào là quan trọng, ý nào kém quan trọng hơn, và các ý đó liên quan với nhau ra sao. Những ví dụ bên dưới sẽ cho thấy ba vấn đề phổ biến về phối hợp các ý tưởng: các ý không có tầm quan trọng như nhau lại được nhấn mạnh bằng nhau, ý chính lại biến thành phụ, và quá nhiều ý phụ bổ sung cho ý chính. Ý tưởng không cân xứng, nhấn mạnh như nhau BẢN THẢO: Giải thưởng kèm theo 2.000 USD tiền mặt và tôn vinh những người đã liều mình cứu người khác. GỢl Ý SỬA: Trị giá 2.000 USD tiển mặt, giải thưởng tôn vinh những người đã liều mình cứu người khác. "Và" là một liên từ, nối kết các ý tưống có tầm quan trọng như nhau. Khi bạn gặp hai ý nối kết với nhau bằng thì phải kiểm tra cho chắc là hai ý này cân xứng và không có mối tương quan nào khác. Nếu một ý là nguyên nhân hoặc hệ quả của ý kia, là tương phản với ý kia, hoặc rõ ràng là quan trọng hơn ý kia (giống như hành động anh hùng hẳn là phải quan trọng hơn giải thưởng tiền mặt ở ví dụ trên), ố ế ằ ể chúng phải được nối kết bằng một cái gì đó cụ thể hơn chứ không phải bằng từ “và” Đề phòng lạm dụng những liên từ. Chứng bệnh này đặc biệt phổ biến ở đầu câu. Dù vẫn còn tồn tại ở một vài ấn phẩm, "mọi nhật báo trước đây đều đã từng nghiêm cấm phóng viên mở đầu càu bằng các từ "và" hoặc "nhưng". Tuy nhiên, nhiều biên tập viên ngày nay vẫn cho phép cách viết này nếu đó là cách diễn đạt ý tưởng tốt nhất - miễn là không dùng quá lố. Khi đọc bản thảo, bạn phải để ý xem cổ nhiều câu mở đầu bằng liên từ hay không. Thường thì có thể loại bỏ từ ờ đầu câu mà không ảnh hưởng gì đến phần còn lại. Với từ "nhưng" thì đừng! Phải đặc biệt cẩn thận với những câu có nhiều hơn một từ "nhưng". Trong một câu mà có nhiều ý đối chọi nhau như vậy thì làm sao độc giả biết được đâu là ý chính. Ý chính biến thành phụ BẢN THẢO: Hành trình này thậm chí còn gian khó hơn những gì Timothy Jones đã tưởng tượng, nhưng người mù đi thuyền buồm vòng quanh thế giới này cho biết ông cùng đã thuyết phục được chính mình rằng ông tàn tật. GỢI Ý SỬA: Timothy Jones cả đời đã không ngừng thuyết phục người khác rằng ông mù nhưng không tàn tật. Ông đã đi thuyền buồm vòng quanh thế giới dế chứng minh với mội người quan trọng nhất: chính mình. (tài liệu photo thiếu trang 64 và 65) BIÊN TẬP VIÊN LƯU Ý: Văn phạm và Phong cách - Đã sửa hết lỗi văn phạm và kiểm tra mọi dấu chấm câu chưa? - Đã tham khỏa sách cẩm nang phong cách về mọi vấn đề tiềm tàng chưa? Phải kiểm tra các chữ viết tắt, chữ số, chức danh, tên nước ngoài và các danh từ kỹ thuật. - Trong câu văn có từ nào thừa không? Trong giai đoạn văn có câu nào thừa không? Trong toàn bài có đoạn này thừa không? - Bạn đã loại bỏ hết các từ sáo mòn chưa? - Bạn đã thay những biệt ngữ và từ khoa trương bằng các từ đơn giản chưa? - Những thuật ngữ phức tạp và lạ thường đã được giải thích hết chưa? - Nhưng lời trích dẫn có đáng trích hay không? - Bạn đã kiểm tra các mệnh đề phụ đề phụ để bảo đảm là ý chính không nằm trong đó chưa? - Phóng viên có thay đổi độ dài và cấu trúc câu cho đa dạng không? Chương 4: CHÍNH XÁC VÀ CÔNG BẰNG Chương này sẽ giúp bạn: - Biết nhận ra những nơi sai sót đang ẩn náu và biết cách ngàn ngừa. - Các bước kháo sát để nâng cao tính công bằng khi chọn từ ngữ, xử lý câu trích dẫn và tường thuật những di biệt về văn hóa Một ngày làm việc nữa lại bắt đầu khi Nico đến cơ quan sớm. Cô ra căn-tin mua nước cam mang về bàn rồi xem lướt qua các website tin tức trực tuyến ưa thích. Một đồng tít thu hút ngay sự chú ý của cô và liền sau đó khiến cổ thất vọng. Đó là tin về một công ty kiểm toán, nhưng tên công ty này lại ghi là Anderson trong khi phải là Andersen mới đúng. Một biên tập viên lạc quan có thể hy vọng là Nico thuộc loại dễ tính. Hẳn cô ta chỉ nhún vai nói: "Ô, chuyện nhỏ". Hẳn cô ta sẽ nhớ đến kiểu chính tả thoải mái dùng trong các chat room trên mạng và chấp nhận một tiêu chuẩn khác cho những cách truyền thông trực tuyến. Hẳn cô ta chỉ tập trung ta thán vào mỗi dòng tít ấy, trong lòng cho rằng "Ai mà viết cẩu thả quá!" Nhưng câu chuyện không chỉ có thế. Năm trước, lúc còn ở đại học, Nico đã làm một bài thi có tên của công ty kiểm toán này. Cô buộc phải viết cái tên đó cho đúng. Nico là một nhân viên kế toán và nghề nghiệp đòi hỏi cô phải chính xác. Đó là một yếu tố chuyên nghiệp. Cô nhìn vào màn hình máy tính, thầm càu nhàu: "Sao họ lại để sót một lỗi như thế này chứ?" Từ lúc đó trở đi, dù cô đã quên mất cái lỗi ấy từ lâu, Nico vẫn có chút hoài nghi với mọi thứ cô đọc trên website tin tức đó. Nói cho cùng, nếu cả phóng viên lẫn biên tập viên đều không biết hoặc không quan tâm đến chu việc viết cho đúng tên một công ty nổi tiếng thì sao co dám tin cậy họ khi họ thích những chuyện phức tạp như ngân sách hay xung đột Trung Đông chứ? Một cơ quan thông tấn không thể phát triển nếu không có uy tín. Uy tín không thể tồn tại nếu không có sự chính xác và công bằng. Mỗi năm, các khảo sát mới đều báo cáo những thông tín đáng buồn về uy tín của ngành truyền thông. Việc mất uy tín này đã khiến dân chúng ngờ vực phóng viên và biên tập viên. Họ nhìn thấy những lỗi lầm bất cẩn và bộc lộ thái độ không hài lòng. "Dường như báo chí ẩ ngày càng cẩu thả hơn trong vòng 10 năm qua", một độc giả đã nó thế trong một cuộc thảo luận nhóm có chọn lọc. Công dân đã nhìn thấy những trò tường thuật giật gân khiến họ ngầm hiểu rằng giới truyền thông đang bị chi phối vì lợi nhuận, các chương chính trị hoặc tìm kiếm những giải thưởng - tất cả đều trả giá bằng chính nhu cầu của cộng đồng. Là một tổ chức — lại là dạng tổ chức dễ mắc sai lầm - các cơ quan thông tấn không bao giờ có thể thỏa mãn hết mọi người. Nhưng các nhà bác trong công việc hàng ngày có thể tiến xa trong việc nâng cao uy tín bằng cách đeo đuổi hai mục tiêu trông có vẻ đơn giản: Bảo đảm đưa tin đúng, và bảo đảm đưa tín công bằng. Các biên tập viên và trường ban thời sự không thể đòi hỏi công chứng phải phớt lờ những sai lầm và coi trọng bản tin tường thuật. Việc đeo đuổi chính xác và công bằng phải áp dụng cho cả những cáo phó chỉ có một câu lẫn loạt bài điều tra dài năm kỳ. Bạn chưa biết thế nào là thịnh nộ chừng nào bạn chưa đứng ở đầu dây điện thoại nghe độc giả chỉ trích về một sai sót trong mục ô chữ hay mục hướng dẫn nấu ăn. Các biên tập viên sẽ cho bạn biết. Để thành biên tập viên giỏi, bạn phải tin rằng không chỉ mọi từ ngữ đều quan trọng mà mọi mẫu tự, âm thanh, khoảng trống, hình ảnh và dấu chấm câu đều có thể tạo ra khác biệt lớn. Nếu chưa tin điều đó, hãy tưởng tượng nỗi ngượng ngùng của người biên tập đã không để ý thấy một chữ đã thay thế cho chữ khiến cho tên chuyên mục tư vấn tình cảm "Dear Abby" (Abby thân mến) của tờ báo nhà trở thành "Dead Abby" (Abby đã chết). Và người biên tập sẽ như thế nào nếu để cho câu này in trên trang tin cộng đồng: " The project manager urges everyone to bring paintbrushes, rollers, and drop clothes and join the fun". (Giám đốc dự án khuyến khích mọi người mang theo chổi quét sơn, trục lăn sơn, và trút bỏ áo quần tham gia cuộc vui". Một chữ e thừa [trong " drop clothes" (trút bỏ áo quần) làm sai nghĩa danh từ "drop cloths" (vải lót sàn nhà cho khỏi vấy bẩn khi sơn)] đã biến một lời kêu gọi những người tình nguyện làm công tác xã hội trở thành một lời mời truy hoan. Một con mắt biên tập hoàn thiện là cách phòng vệ tốt nhất đối với rủi ro thiếu chính xác và công bằng. Một kiến thức về văn phạm và văn phong - điều mà bạn luôn trau dồi - có thể ngăn chặn nhiều lỗi lầm tuy đơn giản nhưng có thể phương hại đến uy tín của cả cơ quan báo chí. Nhưng người biên tập giỏi không chỉ am tường văn phạm; họ biết được thế giới vận hành ra sao. Họ không ngừng quan sát, không ngừng đặt câu hỏi, không ngừng bổ sung dữ kiện mới vào tủ hồ sơ trong đầu họ], Bạn có thể biên tập một bài viết về cuộc xung đột giữa chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ và người Kurds, nhưng thông tin sẽ có ý nghĩa hơn nếu bạn hiểu rằng vùng đất của người Kurds trải dài qua nhiều phần lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kỳ và cầc nước lân cận - Armenia, Iraq, Iran và Syria. Nếu bạn không nhận thức được những vấn đề gây tranh cãi quanh việc phi thai, làm sao bạn biết được khi nào thì một bài báo đã phản ánh không công bằng về quan điểm của những người chống đối chuyện này? Biên tập viên thu thập mọi thông tin vì họ say mê và vì họ không bao giờ biết trước lúc nào sẽ cần đến chúng. Dù vậy, họ có thể tin chắc rằng thông tin sẽ có ích cho họ - và có lẽ sẽ không phải chờ đợi lâu: Một nữ biên tập viên gọi hiện tượng hay là Nguyên tắc Isuzu đặt tên cho thời điểm mà hiệu ô-tô này được đưa ra thị trường. Một sáng lái xe đi làm, biên tập viên này “trông thấy chiếc Isuzu đầu tiên trên đường và để ý thấy tên hiệu của chiếc xe rất quái lạ. Hai giờ sau, khi bắt đầu biên tập bản tin dựa theo nhật ký cảnh sát, cô thấy ngay một mẩu tin tai nạn giao thông có liên quan đến một chiếc xe "Azuzu". Chưa hề thấy hiệu xe mới này, phóng viên chỉ chép lại cái tên theo báo cáo của cảnh sát, và báo cáo ấy đã viết sai. Nguyên tắc Isuzu chính là: Bạn càng chú ý, bạn càng ghi nhớ, bạn càng trải nghiệm thì bạn càng làm biên tập giỏi hơn. Không có thứ thần dược nào giúp cho một người 20 tuổi có được kiến thức sâu rộng của một người 50 tuổi. Nếu con mắt là một cơ bắp thì giống như mọi cơ bắp, nó chỉ được củng cố bằng cách vận động. Con mắt biên tập của bạn sẽ ngày càng nhạy bén hơn khi bạn quan sát, khi bạn rèn luyện - và khi bạn biết phái nhìn ở đâu. Một khi bạn đã quen thuộc với hai bản liệt kê này thì đèn đỏ sẽ nháy sáng khi bạn tình cờ gặp phải những từ đáng ngờ. Bạn vẫn phải tra cứu lại, nhưng ít ra bạn sẽ nhận biết được khả năng có vấn đề. Phát hiện lỗi chính tả trong bài viết cũng giống như săn lùng chuột nhắt trong nhà: Không có phép mầu nào cả; bạn phải biết chúng thường ẩn náu ở đâu. ỗ Nhưng khoan, bạn bảo: "Máy tính của tôi có chương trình soát lỗi chính tả. Việc gì tôi phải mất công liệt kê danh mục cơ chứ?" Xin trả lời bạn, các chương trình soát lỗi chính tả có thể có giá trị, đặc biệt trong chuyện bắt những từ viết thiếu mẫu tự và các lỗi gõ phím bất cẩn vốn tạo ra đa số lỗi chính tả trong bản thảo. Nhưng các chương trình như thế không thể phát hiện ra những từ viết đúng chính tả nhưng sử dụng không chính xác. Máy tính không thế nào thay thế được một người biên tập bản thảo có con mắt tốt. (tài liệu photo thiếu trang 70 và 71) 2. DANH TÁNH. Một tỷ lệ lớn sai lầm trong những bản tin - và một tỷ lệ lớn các vụ kiện tội mạ lỵ, như sẽ gặp trong Chương 5 - sẽ bị loại trừ nếu như phóng viên và biên tập viên tuân thủ một quy tắc đơn giản: Kiểm tra mọi danh tánh. Tùy theo người đó là ai, bạn có thể kiểm tra trong niên giám điện thoại, các danh bạ hành chính, hồ sơ lưu của tòa soạn hoặc các từ điển danh nhân. Bạn có thể gọi điện, cho chính người đó, người tuyển dụng người đó, giới có thẩm quyền ở nơi sinh trưởng của người đó, hay người quản thủ thư viện tham khảo tại khu vực bạn ở. Không có gì khiến độc giả bực mình hoặc bào mòn uy tín tờ báo hơn là những cái tên nếu không chính xác. Và không có gì lại dễ kiểm chứng cho bằng chuvên này. Sau đây là những lỗi lầm thường gặp nhất liên quan đến danh tánh: a. Những cái tên nổi tiếng. Nữ diễn viên Sally Field có dùng cái tên Sally Fields không? Vận động viên trượt băng Olympic tên là Apollo Anton Ohno hay là Apolo Anton Ohnol Khoan, chờ chút: Người được bổ nhiệm vào Tòa án Tối cao là Allen Ginsberg hay Arnie hay Douglas Ginsburg? b. Những cái tên khác thường. Cái tên Boake Smith có viết sai chính tả không? Trông có vẻ sau đây, và thậm chí bạn có thể suy diễn là phóng viên chắc đã gõ nhầm Blake thành Boake. Nhưng có vẻ sai không đồng nghĩa với sại. Hãy hỏi lại phóng viên xem người ấy có chắc chắn về cách viết không. Nếu phóng viên không ở gần đó thì bạn phải kiểm chứng bằng mọi cách có thể. Nên nhớ rằng trong một số trường hợp, "sai" lại là đúng. Bạn có thể ngồi trước laptop lòng tự hào vì biết rõ cách viết thông thường của cái tên Isaiah ề ẳ ề ầ nhưng điều đó chẳng có ích gì khi bạn đang biên tập một bài về cầu thủ kiêm huấn luyện viên bóng rổ Isiah Thomas. c. Những cái tên quốc tế. Viết Georgopoulos hay Georgo-polons thì cái nào đúng? Cho dù bạn là chuyên gia về những cái tên Hy Lạp thì bạn cũng không thể đoán chắc. Và dù rõ ràng bạn không thể áp dụng quy tắc chính tả tiếng mẹ đẻ cho những cái tên có nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác không cơ quan thông tấn nào nhất trí với nhau về mức độ phiên âm tên nước ngoài. Chẳng hạn, các ấn phạm, khạc, nhau gọi người lãnh đạo nước Libya là Khadafy, Quadaffi, hay Ghadafi. Và nên dùng cái tên Arafat hay. Yasser Arafat? Cho dù bạn có đóng vai trò gì trong chuyên định đoạt phong cách của tòa soạn hay không, một khi đã có quyết định thì bạn phải thực thi cho nhất quán. Cũng phải cẩn thận về những cái tên đã được dịch nghĩa nữa. Phóng viên thường dịch các cụm từ nước ngoài theo nghĩa đen hoặc đoán nghĩa những từ nước ngoài trông giống tiếng Anh. Chẳng hạn, một nhặt báo đã dịch tên tổ chức quốc tế Médecins Sans Frotières (Bác sĩ không biên giới - tiếng Pháp) thành Frontiers (Y học không biên cương) trong khi tên chính thức bằng tiếng Anh của tổ chức này là Doctors Without Borders. d. Danh tánh phải nhất quán. Anh chàng này có phải là người mang tên Harriman ở đầu bài viết không? Tên người đàn bà này là Johanssen hay Johansenn? Còn Jones là người thuật lại tội ác hay là người bị bắt vì phạm tội? Phải bảo đảm là phóng viên viết nhất quán các danh tánh và không lẫn lộn người này với người kia. e. Các từ viêt tắt. Chữ A thứ hai trong từ NASA là viết tắt của Agency hay Administration? Từ tắt AFL - CLO viết đầy đủ là gì? Bạn có cần viết rõ ra khi nó xuất hiện lần đầu (tài liệu photo thiếu trang 74 và 75) cắt giảm 200 việc làm sao ở phần sau lại nói là sa thải 100 người? Giống như danh tánh, các con số có khuynh hướng biến thái theo quá trình của một bài viết dài. Phải ghì chặt các con số và giữ cho nhất quán. Cũng phải giữ cho nhất quán khi một dãy số được liệt kê ra. Câu “Phí tổn xây dựng nhà tù mới là từ 10 đến 15 triệu USD” rõ ràng đã nói chi phí khả dĩ thấp nhất cho nhà tù mới sẽ là 10 USD. ấ ấ ấ Quá xá rẻ! Phải xác định rõ mức thấp nhất và cao nhất là từ 10 triệu đến 15 triệu c. Các hạn mức. Khi vị tướng nọ nói về cắt giảm quốc phòng là ông ta đang nói chuyện giảm mức chỉ xuống thấp hơn mức chi năm ngoái, hay là giảm mức tăng đã yêu cầu cho năm nay? Phải bảo đảm viết đúng các hạn mức và cung cấp thông tin bổ sung cần thiết để công chúng hiểu đúng những con số ấy. d. Các so sánh. Độc giả sẽ biết được gì qua một bài tường thuật rằng năm ngoái có 30% học sinh của thành phố bỏ học nhưng năm nay chỉ có 100 học sinh? Các so sánh chỉ hữu hiệu nếu so sánh những con số cùng loại phần trăm so với phần trăm, tổng số so với tổng số. Ngay cả khi đó, những con số không thôi cũng khó cho công chúng hiểu rõ. Nhiều khi người biên tập có thể gợi ý thêm một so sánh xa hơn để nhấn mạnh tác động của một thống kê. Ví dụ, một bài về bệnh AIDS nêu rõ số thanh niên Mỹ chết về bệnh này còn nhiều hơn số thanh niên Mỹ đã chết trong Chiến tranh Việt Nam. e. Đếm đám đông. Tháng Tư 2002, dân chúng kéo về thủ đô Washington tham gia cuộc mít-tinh Stop The War. Nhưng bao nhiêu người? Nhà tổ chức sự kiện này cho là 100.000. Cảnh sát nói 75.000. Những con số cách biệt lớn là điểm nổi bật trong cuộc mít-tinh, tuần hành hoặc biểu tình khác. Hiển nhiên không có phóng viên nào hay bất cứ ai ở một sự kiện khổng lồ như thế có thể đếm được từng người tham gia. Thế thì bạn, người biên tập ngồi ở bàn giấy, sẽ phải làm gì với thông tin này? Những gì bạn có thể làm là phải bảo đảm dẫn nguồn cho các số liệu đếm đám đông - nếu con số ước tính từ hai nguồn lại cách biệt nhau xa thì đưa vào cả hai con số. f. Các khảo sát. Ai chi tiền khảo sát? Khỏa sát khi nào và theo phương thức nào? Các câu hỏi cụ thể được soạn thảo ra sao? Bao nhiêu người được phỏng vấn? Biên độ sai sót là bao nhiêu? Đó chỉ là một số câu hỏi mà biên tập viên phải nêu ra trước số lượng ngày càng tăng của các mẫu tin về khảo sát. Dân chúng cần có thông tin đầy đủ để tự họ phán xét kết quả khảo sát này. Giống như so sánh các con số, những kết quả khảo sát không thôi có thể gây ngộ nhận. Chẳng hạn, các tin bài về tệ nạn nghiện rượu thường nêu bang New Hamshire là nơi có tỉ lệ tiêu thụ rượu tính theo đầu người cao nhất nước Mỹ. Nhưng biên tập viên nào thắc mắc ố ấ ấ ố ấ “con số ấy từ đâu ra?” sẽ thấy thống kê ấy không hoàn toàn đúng như thế. Con số ấy là kết quả của việc lấy lượng rượu cồn đã bán trong tiểu bang này chia cho số dân của tiểu bang – nói cách khác, khảo sát giả định rằng tất cả các rượu mạnh bán ở New Hampshre đều được uống tại New Hampshire. Nhưng bất kỳ ai quen thuộc với New Hampshire đều biết những cửa hàng bán rượu do tiểu bang quản lý, nơi giá bán rẻ hơn các tiểu bang lân cận, mỗi ngày đã bán không biết bao nhiêu rượu cho khách vãng lai từ những tiểu bang khác. Một tiểu bang bán nhiều rượu cho người ngoài không có nghĩa là một tiểu bang toàn dân nghiện rượu. Bài viết cần phải giải thích ngồn gốc của con số đó. g. Số liệu vớ vẩn. Các con số có thể tăng thêm chiều sâu cho câu chuyện, nhưng có khi chúng chẳng có ý nghĩa nào cả. Khi nói một dịch vụ mai mối nào đó có tỷ lệ thành công là 87% thì có ý nghĩa gì? Tệ hơn nữa tại sao bài viết đang được biên tập lại nói rằng hiệp ước kết thúc chiến tranh cách mạng Mỹ được ký kết năm 1983 [muộn 2 thế kỷ]? Nhiều con số khiến người viết căng thẳng ấy có thể dẫn đến lỗi đánh máy, thiếu chính xác và ngớ ngẩn hoàn toàn. Biên tập nào luôn hỏi “Cái này có ý nghĩa gì?” sẽ không cho phép in tr6en mặt báo câu này “Thời gian chờ đợi trung bình để được cấp bằng lái xe mới ở phòng quản lý giao thông của thành phố này là 90 phút, so với một giờ rưỡi ở các nơi khác “ và một biên tập viên cảnh giác với “số liệu ngớ ngẩn” sẽ tóm cổ… (Tài liệu photo bị mất trang 78 đến trang 86) 3.KIỂM TRA NHỮNG NGUỒN DẪN KHÔNG RÕ RÀNG. Câu trích dẫn phải luôn luôn ghi nguồn, và phải dẫn nguồn rõ ràng. Thêm cụm từ “bà ấy nói" ở trước hay sau mội câu trích dẫn chẳng có ích gì nếu như trong câu trước đó lại có tên của hai phụ nữ; bạn phải hỏi rõ phóng viên xem người nào đã nói câu đó. (Nếu bạn phỏng đoán, có thể bạn sẽ đoán sai, thì nguy cơ là bạn sẽ lãnh đủ tai họa từ phóng viên và tai họa còn lớn hơn nữa là từ những người đã nói hay không nói câu trích dẫn đó). Khi phải ghi nguồn cho câu trích dẫn, nói là một từ hoàn toàn tốt. Thay thế bằng một từ khác, chẳng hạn " định" hay "thừa nhận", có thể mang những hàm ý ngoài chủ đích của người viết. Và một số từ dùng thay thế cho “nói” lại hoàn toàn ngớ ngẩn. Chẳng hạn, người ta ể ế ế không thể “ho” hay “cười” ra một câu. Nếu tiếng hô hay nụ cười là chi tiết quan trọng, hãy thay đổi cách dẫn nguồn bằng "ông ấy vừa ho vừa nói", hay “cô ấy nói với một nụ cười". Cũng phải thận trọng với những câu trích dẫn gán cho nhiều hơn một người phát ngôn. Không kể trường hợp khả dĩ là các nhóm nhạc rap, người ta thường không đồng thanh nói cùng một câu. Gán câu trích dẫn cho một nhóm vô danh lại còn khiến vấn đề tệ hại hơn, như trong câu này: Những người chống đối nói kế hoạch ấy “gần như phi lý”. Nếu nội dung bài viết xác nhận tuyên bố ấy thì chỉ cần bỏ dấu ngoặc kép đi. 4. KIỂM CHỨNG TÍNH CHÍNH XÁC CỦA NGUỒN DẪN. "Ai nói thế?" Biên tập viên không ngừng hỏi câu ấy, không chỉ với mọi lời trích dẫn mà với mọi chi tiết thông tin trong bài viết. Trong văn thông tấn, mọi lời tuyên bố nào không phải là thực tế luôn được chấp nhận đều phải dẫn nguồn, và nguồn dẫn phải là người có thẩm quyền. Vì có những thông tin có thể diễn dịch theo nhiều cách khác nhau, độc giả cần có nguồn trích dẫn để giúp họ phán xét độ tin cậy của những lời tuyên bố. Thà dẫn nguồn thừa còn hơn thiếu; những cụm từ "ông ấy nói” và "bà ấy nói" không gây khó chịu với độc giả như là với phóng viên. Tuy nhiên, bạn có thể bị sa đà vào chuyện dẫn nguồn đấy. Các câu sau đây cho thấy một phiên bản đơn giản của những điều nên làm và không nên làm. - Diêm Vương tinh là hành tinh xa mặt trời nhất trong Thái dương hệ của chúng ta, theo lời vị giám đốc cơ quan không gian. (Dẫn nguồn ở đây không cần thiết. Ai cũng biết vị trí của Diêm Vương tinh trong hệ mắt trời) - Theo một giáo viên khoa học ở trường tung học địa phương, 50 năm nữa phi thuyền của Mỹ cũng không thể bay tới Diêm Vương tinh được. (Ý kiến này đúng là cần dẫn nguồn, nhưng một giáo viên trung học có phải là nguồn tin tốt nhất không? Trừ phi đây là một bài viết về giáo viên đó và quan điểm của người này, phóng viên nên lấy thông tin từ một người có thẩm quyền hơn.) - Giám đốc NASA hôm qua cho biết rằng dù có đến đời cháu của chúng ta du thuyền của Mỹ cũng không thể bay tới Diêm Vương Tinh được. (Lời tuyên bố này được dẫn nguồn đúng và nguồn tin có thẩm quyền) 1. Lỗi “Biên tập thêm” ề ỗ ế Phóng viên chịu trách nhiệm về những lỗi thiếu chính xác và không công bằng của mình, nhưng biên tập viên phải chịu trách nhiệm gấp đôi: Họ có thể bị khiển trách vì đã bỏ sót sai lầm của phóng viên trong những bài tường thuật hoặc vì "biên tập thêm" lỗi của chính họ vào bài. Hãy ghi nhớ ba điều phải cẩn trọng sau đây để giảm thiểu khả năng chính bạn tạo ra lỗi biên tập. 1. ĐỪNG TIN CẬY TRÍ NHỚ CỦA MÌNH QUÁ MỨC. Biên tập viên cần có trí nhớ tốt, nhưng họ cũng cần phải biết nghi ngờ những ý tưởng của chính mình như là nghi ngờ mọi người khác. Nếu nghi ngờ một tuyên bố nào đó là không đúng thì chính bạn phải kiểm tra lại chứ không được tự thay thế phiến bản của mình vào ngay lập tức. 2. TRÁNH THAY ĐỔI CHỈ ĐỂ THAY ĐỔI. Điều duy nhất khiến phóng viên bực tức hơn cả chuyện biên tập viên tự chèn thêm thông tin sai lạc vào bài viết của họ chính là chuyện có những biên tập viên luôn thò tay vào mọi tin bài, thậm chí vào cả bài viết tốt. Nhưng người biên tập "lăng xăng" này thường nghiêm túc hơn, họ được liệt kê như "vợ của ông…" Họ không nhận được sự kính trọng tương xứng với nam giới. Nhiều nhóm khác cũng không có tiếng nói hoặc sự hiện diện đáng kể trong tòa soạn. Điều này có lẽ đã góp phần vào việc tường thuật theo định kiến. Những người lớn tuổi thường được khắc họa như người già yếu và được gọi là "Ông cụ" hay "Bà lão". Những ai khuyết tật thường chỉ xuất hiện trên mặt báo ở dạng tin tức mà những nhà quan sát gọi là "tin vượt khó". Bạn biết loại tin đó: (Ông/bà/em) đã có cuộc đời đáng ngưỡng mộ nhờ nổ lực siêu phàm bất chấp (khuyết tật/ bệnh tật/ thương tích). Một thập niên trước, nhiều nhà báo đồng tính nam và nữ đã phải cố kiềm chế bớt những chỉ trích của họ trong chuyện tường thuật những vấn dề quan trọng liên quan đến người đồng tính. Một khảo sát năm 1990 cho thấy mọi nhà báo đồng tính đều lo ngại bị phân biệt đối xử trong tòa soạn. Những người Mỹ gốc La-tinh, gốc Á, và nhiều nhóm chủng tộc hay sắc tộc khác nói chung là không được đếm xỉa tới. Nghề báo hoạt động trong một thế giới đầy định kiến. Từ kinh nghiệm, chúng ta ai cũng biết rằng không thể nào khái quát hóa cả một tập thể, thế nhưng hầu hết chúng ta lại thường làm chuyện đó mà không hề bận tâm mấy đến hậu quả. Ngày nay, các ể ẳ ổ ề ố ế quan điểm cũng chẳng thay đổi nhiều như ta muốn tin. Thành kiến có thể tự bộc lộ theo nhiều cách kín đáo hơn thời trước, nhưng nó vẫn tồn tại, và báo chí đóng vai trò lớn trong việc định hình và củng cố quan điểm của mọi người. Nhà báo phải từ bỏ những định kiến của mình để khích lệ xã hội cùng làm theo. Những định kiến không chỉ là vấn đề phấn biệt da trắng da đen hay nam nữ nữa, thách thức của hôm nay chính là phải tường thuật một xã hội đa chủng tộc, đa văn hóa hàm chứa nhiều vấn đề về màu da, giới tính, dân tộc, tầng lớp xã hội, tôn giáo, xu hướng tính dục, tuổi tác, và các điều kiện thể chất hay tinh thần. Điều quan trọng phải ghi nhớ là trong nhiều thành phố, "những người thiểu số" thực tế lại chiếm đa số. Tường thuật về họ như thế nào là mối quan tâm rất lớn. Nhà báo phải tránh các định kiến trong khi cung cấp một diễn đàn kết nối mọi dị biệt văn hóa. THUẬT LẠI CÂU CHUYỆN. Hàng ngày, báo chí đăng tải nhiều tin tức về dị biệt văn hóa. Hãy xem các dòng tít sau: - Gần Nửa Tổng số Gia Đình Ở Thành Phố New York Nói Hai Thứ Tiếng - Kế Hoạch Của Đại Học California Châm Ngòi Tranh Cãi Về Chính Sách Tuyển Sinh - Bất Đồng Vẫn Nóng Quanh Vụ Hãng BET Video Tả Phụ Nữ Da Đen - Sinh Viên Ân Hận Đã Mặc Trang Phục KKK Trong Lễ Halloween - Nhiều Tổ Chức Biểu Tình Phản Đối Florida Ra Luật Cấm Nhận Người Đồng Tính Làm Con Nuôi - Nhân Chứng Nói: Trước Cuộc Bắn Giết Là Những Lời Đả Kích Người Da Trắng Ngoài ra, hàng ngày các nhà báo vẫn đề cập đến những quan ngại phát xuất từ việc tường thuật dị biệt văn hóa: Đây là các dạng câu hỏi mà nhà báo thường cân nhắc: - Tôi đang làm một bài chân dung về một nhà giáo dục khả kính. Được biết ông ta là người đồng tính và ông ta đã từng nói thế, nhưng điều này chưa từng nảy sinh trong các cuộc phỏng vấn của tôi. Tôi có nên nêu nó ra không? Có nhất thiết phải tường thuật phần đời đó của ông ta hay không? Có nên đi sâu vào đời sống riêng tư của nhân vật này thay vào tập trung cac mục tiêu và thành tựu của ông ta? - Nếu dòng tít của tôi nhấn mạnh về một nhân vật là người đầu tiên của một sắc tộc hay một giới tính, v.v thì có thiên lệch vì đã tập trung vào sự dị biệt thay vì nhấn mạnh vào thành tựu cá nhân không? Chúng ta thường đưa những cái đầu tiên lên dòng tít: ố ắ - Các đô thị lớn năm nay mong thị trưởng gốc La – tinh đắc cử - Katharine Graham thành phụ nữ duy nhất đứng đầu danh sách Fortune 500 - Halley Berry: người da đen đầu tiên nhận giải Oscar nữ diễn viên hay nhất - Gary Locke của Washington thống đốc gốc Hoa đầu tiên của Mỹ. - Vonetta Flowers: phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên đoạt huy chương vàng Olympics mùa đông. - Khi viết về một nữ tổng giám đốchàng đầu, tôi có nên tránh đề cập đến sắc đẹp của bà ta hoặc cuộc sống gia đình với chồng con không? Sử dụng nhửng dữ kiện ấy thì có sa đà vào định kiến không? Biên tập viên phải sẵn sàng giúp giải đáp những thắc mắc này. Người biên tập phải là nhà vô địch về tính công bằng, người gác cửa không mệt mỏi ngăn chặn những định kiến. TIẾN LÊN: Vậy thì ta bắt đầu từ đâu? Nơi bắt đầu tốt nhất là ngay trước mắt. 1. Bước đầu tiên có thể là phải đặt câu hỏi: Tòa soạn này đang phản ánh cộng đồng độc giả của mình đến mức nào? Chúng tôi đã đề cập đến việc số nhân sự da màu trong các tờ báo đã tăng lên trong những năm gần đây nhưng vẫn còn xa mới đạt được mục tiêu. Số liệu năm 2001 của Hội Biên tập viên Thông tấn Mỹ (American Society of News - ASNE) cho thấy có 6.567 người dân tộc thiểu số đang làm việc trong tòa soạn nhật báo, chiếm 12,97% nhân sự tòa soạn. Người dân tộc thiểu số chiếm 9,7% nhân sự Cấp quản lý. Khoảng 44% số nhật báo không có nhân sự nào da máu, và khoảng 16% số nhà báo trong mạng lưới tin buổi chiều là dân tộc thiểu số (xem Chương 1). Số nhà báo nữ đã tăng lên trong thập niên 1990, nhưng lượng tăng đó không bằng những con số đáng kể ở cấp quản lý. Số liệu 2001 cho biết 37,35% số nhà báo của nhật báo là phụ nữ và họ nắm giữ 34% những vị trí quản lý. Cũng trong năm này, theo một nghiên cứu của Đại học Arizona State University, số lượng nhà báo nữ xuất hiện trong các chương trình thời sự buổi chiều giảm từ 33% của năm 2000 xuống 29%. Một khảo sát của Hiệp hội Nhà báo Đồng tính Quốc gia (National Lesbian and Gay Journalists Association) công bố năm 2002 cho thấy mức tăng đáng kể về tâm lý thoải mái của họ trong tòa soạn. Họ cũng ể ố ố ề cho điểm tốt hơn đối với việc tường thuật những vân đề liên quan đến người đồng tính. Có thể đây là một đề tài. Khi tòa soạn chính là phản ánh của xã hội và những tiếng nói khác biệt được tự do đối thoại thì có nhiều cơ hội nâne cao tính công bằng trong tường thuật. 2. Bước tiếp theo có thể là việc kiểm tra xem người nào được đưa lên báo và người nào không. Khi viết những bài lấy ý kiến "người trên đường phố" thì phải chăng phóng viên chỉ tiếp xúc với người da trắng trung lưu mà thôi? Có phải hầu hết những "nguồn tin chuyên gia" trong tin bài đều là nam giới? Một nghiên cứu do Betty Friedan và ASNE thực hiện đã nhận ra rằng phụ nữ - vốn chiếm 52% dân số Mỹ trong tổng số trường hợp được dẫn nguồn chỉ chiếm có 14%. Có phải hầu hết những người da đen được đưa lên báo của bạn chỉ toàn là tội phạm hay nạn nhân, nghệ sĩ biểu diễn hay vận động viên? Và nói đến vận động viên thì tờ báo của bạn đưa tin về các môn thể thạo của phụ nữ ở mức độ nào? Các bức ảnh đinh như thế nào? Có phải toàn ảnh chụp trẻ em da trắng đang vui chơi ở một khu vực nào đó trong thành phố? Những hình minh họa có bao gồm nhiều nhóm sắc tộc đa dạng không? Nếu một da trắng và một người gốc La-tinh bị sát hại cùng một ngày trong thành phố thì hai tin án mạng này có chiếm chỗ bằng nhau trên mặt báo không? Có phải những chuyên liên quan đến người không phải da trắng chỉ được đăng tải vào những tháng đặc biệt hoặc những dịp đặc biệt mà thôi? Có phải những người da màu chỉ được đưa tin trong bối cảnh của những vấn đề (tạo ra vấn đề, nạn nhân của vấn đề, hay khắc phục vấn đề) chứ không cho thấy họ đang tham gia vào mọi mặt của cuộc sống? Một điều đáng quan tâm nữa là các cá nhân và tập thể được khắc họa như thế nào. Keith Woods - nguyên biên tập viên nội thành của tờ Times-Picayime ở New Orleans và giám đốc đào tạo nghiệp vụ ở Viện báo chí Poynter - cho biết các cơ quan báo chí đã "thổi luồng sinh khí mới vào việc tường thuật về những người gốc La-tinh, gốc châu Á cùng nhiều chủng tộc khác mà dân số dang tăng vọt theo đường di trú. Hầu hết tin bài đều đã tiến bộ hơn cái thời mà kiểu làm báo gây hiếu kỳ đã khiến những độc giả sáng suốt phải rùng mình". 3. Chúng ta cũng phải đặt câu hỏi: Khi nào thì những vấn đề chủng tộc, dân tộc và các dị biệt khác đưa vào tin bài là phù hợp? Mặc dù không hề có câu trả lời đơn giản nào, thường thì bạn có thể cảm ế ắ ắ ề nhận rõ khi thay thế tên gọi sắc tộc khác cho một sắc tộc được đề cập trong tin bài, đặc biệt là trong câu dẫn nhập. Nếu từ thay thế nghe có vẻ không cần thiết thì rất có khả năng là những đề cập chủng tộc khác cũng là thừa. Hãy thử thay thế câu dẫn nhập sau: (tài liệu photo bị thiếu trang 94 và 95) Những người biên tập thường không cho phóng viên sử dụng những từ ngữ như "bị buộc hay "nghi can/kẻ tình nghi" trong tin bài hình sự theo quan điểm là những từ ngữ ấy đi ngược lại giả định rằng mọi người đều vô tội khi tội chưa được chứng minh. Bạn có thể thay câu "Ông ta bị buộc tội cướp ngăn hàng" thành "Ông ta bị cáo buộc đã cướp ngân hàng", hoặc đổi "nghi can/kẻ tình nghi cưỡng hiếp" thành “người bị cáo buộc đã cưỡng hiếp” hay "người đang bị thẩm tra về vụ cưỡng hiếp". Nhiều cơ quan báo chí không cho đăng tên của "nghi can” cho tới khi nào cảnh sát đã thực sự kết tội người đó. Như bạn sẽ biết ở chương tiếp theo, ngay cả việc dùng cụm từ “bị cáo buộc” [là đã phạm tội xyz] cũng không thể bảo vệ bạn khỏi bị kiện vì tội mạ lỵ. Còn cụm từ “được cho là” [đã phạm tội xyz] cũng nguy hiểm chẳng kém gì “bị cáo buộc" bởi vì nhiều khi nó được sử dụng như một cách lan truyền những tin đồn vô căn cứ hoặc che đậy thói tường thuật lười biếng. Nếu đã tường thuật chuyện gì thì bài viết phải ghi rõ ai tường thuật chuyện đó và cung cấp cho công chúng đầy đủ thông tin để phán xét xem có đáng coi trọng tường thuật đó hay không. Phải đặc biệt cảnh giác với những từ bổ nghĩa có tính phê phán và những từ ngữ chỉ đánh giá chứ không mô tả. Những từ bổ nghĩa có tính phê phán bao gồm những từ như “rốt cuộc” hay "thậm chí". Có công bằng không khi viết rằng "Cơ quan lập pháp rốt cuộc đã bắt tay vào công việc ngày hôm qua"? Thế còn câu hội viên câu lạc bộ này nói tiếng Ba Lan ăn thực phẩm Ba Lan và thậm chí còn diễn kịch Ba Lan" thì sao? Còn câu "Trong thành phần ủy ban này thậm chí còn có một phụ nữ ngồi xe lăn. Khác với bổ từ phê phán, những từ đánh giá có thể thuộc bất kỳ từ loại nào. Hãy xem xét hành động ăn. Những động từ như "nhằm tạo ra ấn tượng hoàn toàn khác với "ngấu nghiến" hay "nhồm nhoàm". Cái ấn tượng ấy có phải là cố tình không? Nếu bạn không xác định được hoặc nếu bạn thấy một từ ngữ nào đó có vẻ bất công, hãy trao đổi với người viết. ể ế ấ ề ằ ổ Thường thì có thể giải quyết vấn đề bằng cách bổ sung thêm thông tin cụ thể. Thay vì tường thuật rằng một công ty phát triển đô thị có kế hoạch xây dựng chung cư sang trọng (điều này đồng nghĩa với quảng cáo không công cho công ty đó), chỉ cần liệt kê ra những đặc điểm của các chung cư đó. Thay vì đề cập tới một "khu công viên nhếch” có thể bài viết nên mô tả cảnh tượng: hàng rào xiêu vẹo, cỏ dại um tùm, băng ghế gãy đổ… Những người quản lý công viên có thể không thấy đó là "nhếch nhác" nhưng họ không thể bác bỏ những mô tả chính xác. Và nếu có vụ cháy nhà ở khu dân cư, phải đề phòng những cụm từ như "một đám cháy ấn tượng/ngoạn mục”. Nhà báo có thể thấy đám chấy ấy ấn tượng hay ngoạn mục vì những ngọn lửa bốc cao tận trời, nhưng những từ ấy hoàn toàn không thích hợp đối với những người dân bị cháy nhà. Những người viết giỏi thường sử dụng nhiều từ ngữ sinh dộng; những người biên tập giỏi phải bảo đảm sao những từ ngữ ấy được sử dụng thích hợp. Tuy nhiên, xác định thế nào là thích hợp lại không phải chuyện dễ. Một từ trung dung đối vối người này lại là một hàm ý nặng nề đối với người khác. Chẳng hạn, tổ chức Những người mẹ chống say rượu lái xe (Mothers Against Drunk Driving) phản đối cụm từ "gặp sự cố do say rượu lái xe”, cho rằng những từ “gặp sự cố” giúp cho kẻ uống rượu dễ thoát tội. Tổ chức này thích dùng từ "gây tai nạn”. Nhiều gia đình nhận con nuôi không thích đề cập tới “mẹ ruột” của đứa trẻ, họ cho từ này hàm ý rằng họ không yêu thương đứa trẻ bằng mẹ ruột; họ muốn nhà báo dùng từ “mẹ đẻ”. Từ năm 1990 ở CNN, Ted Turner đã cấm dùng từ "ngoại quốc" với quan điểm rằng từ này gây chia rẽ và hàm ý những gì xa lạ, không quen thuộc. Thay vào đó, Turner khuyến khích các nhà báo CNN dùng từ “quốc té” mà ông cho là nêu được ý nghĩa của sự hợp nhất. Những từ nặng nề có thể xuất hiện mọi nơi; chúng vừa rọi chiếu vừa gây tranh cãi. Quan điểm cá nhân về chuyện phá thai có thể khiến một người viết dùng cụm từ mô tả là "trung tâm sức khỏe phụ nữ” hay "trạm nạo thai". Là người biên tập bản thảo, bạn phải theo dõi những vấn đề gây tranh cãi và những khẩu hiệu mà các bên đưa ra, tuân theo phong cách của tờ báo, và cổ xúy việc thiết lập những chính sách mới khi có vấn đề mới nảy sinh vì những từ ngữ nặng nề. ể Ngay cả địa danh nơi tường thuật cũng có thể trở thành chuyện bất đồng, như đã từng xảy ra khi các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ bắt đầu tuyên bố độc lập. Những sự kiện được tường thuật từ Vilnius, Liên Xô hay Vilnius, Lithuania? Biên tập viên mọi nơi đều phải lựa chọn. Cuối cùng, hãy xem trường hợp của một phóng viên chuyên về mói trường, người đã cho biết anh ta bị sa thải vì "quá ủng hộ bảo vệ môi trường". Theo lời anh ta, biên tập viên đã lấy ví dụ này làm điển hình: Khi viết về những con cá heo bị sa vào lưới đánh bắt cá ngừ, phóng viên này thay vì nói những con cá heo "đã chết" lại nói chúng “bị tàn sát”. 2. Công bằng trong trích dẫn Khi bạn nghĩ đến tính công bằng trong trích dẫn thì sẽ có hai vấn đề lớn hiện ra: Bạn có nên chỉnh sửa văn phạm của người nói không? Bạn có nên đục bỏ những lời lẽ kém văn hóa của họ không? Vì nhà báo nào cũng muốn được xử lý linh động tối da theo các tình huống riêng biệt nên ít có có quan báo chí nào ấn định chính sách cho những vấn đề này. Nhưng do không có chính sách cụ thể, vấn đề công bằng lại nảy sinh. Nếu ta không áp dụng một quy tắc cho mọi phóng viên thì xu hướng tất yếu là những người viết sẽ chỉnh sửa văn phạm và ngôn từ cho những ai họ thích và để mặc xác những ai họ ghét. VĂN PHẠM LỦNG CỦNG. Giả sử thành phố của bạn có một đội bóng chuyên nghiệp. Sau trận thua đậm trước một đội bóng kém nhất liên đoàn, ngôi sao tiền vệ nói với phóng viên: "Hôm nay là một ngày phải nói là đại xui phải nói là thà ở nhà nằm ngủ mà sướng". Bạn có nên đăng nguyên văn cậu ấy không? Tại sao đăng và tại sao không? Hãy xây dựng luận điểm của bạn trước khi đọc những nhận xét kế tiếp. Biên tập viên nào cho đăng có thể có các lý do sau: cốt lõi của việc trích dẫn là phải chính xác; nếu không ghi đúng nguyên văn thì không dùng dấu ngoặc kép. Chúng ta là những nhà báo được trả tiền để tường thuật chứ không phải dân PR được trả tiền để làm cho cầu thủ có vẻ hoàn hảo. Nhiều người thần tượng thằng cha này; họ cần phải biết hắn thực sự nói năng như thế nào. Dẫu sao thì trên truyền hình thế nào cũng có đoạn phát biểu này, và mọi người rồi sẽ biết hắn ta nói gì. ể Biên tập viên náo không cho đăng có thể có các lý do sau: Câu cú lủng củng làm bài viết khó đọc. Lời trích dẫn khiến cho cầu thủ này có vẻ ngu ngốc trong khi anh ta chỉ nói theo thói quen tự nhiên. Một cầu thủ giỏi đâu cần phải văn hay chữ tốt. Chúng ta loại bỏ những từ “ừ”, “à” ra khỏi lời trích dẫn được thì sao không sửa lại câu cú được? Văn thông tấn phải cố duy trì sự trong sáng của ngôn ngữ, và độc giả (nhất là độc giả trẻ) đâu có phân biệt được giữa lời trích dẫn với nội dung khác. Thế bạn nghĩ sao? Bạn sẽ làm gì? Bạn có thay đổi quyết định nếu như cái câu lủng củng văn phạm ấy lại do ông thống đốc nói ra? Nếu như câu trích dẫn trên kia là một chi tiết của một bài viết về chân dung người cầu thủ ấy chứ không phải bài tường thuật trận bóng thì sao? Viết lại cho câu cú đúng văn phạm là chuyện dễ, nhưng ngộ nhỡ nhân vật đang thu hút giới báo chí kia cả đời không bao giờ nói câu nào đúng văn phạm thì sao? Cứ đăng những bài viết về nhân vật ấy mà không dùng lời trích dẫn nào ư? Thế còn một người hước ngoài nói chưa thạo ngôn ngữ của ta nhưng vẫn được trích dẫn thì sao? Cho dù trong bài viết có giải thích điều này nhưng liệu có độc giả nào sẽ xem thường người ấy vì đã pnát biểu lủng củng không? Những vấn đề này vốn phức tạp; mỗi tin bài lại nảy sinh một tình huống hơi khác trước. Dù các biên tập viên còn lâu mới nhất trí về chuyện này, nhiều tòa soạn tránh trích dẫn những phát biểu lủng củng, trừ phi lời trích dẫn đó phục vụ cho mục đích của nội dung. LỜI LẼ KÉM VĂN HÓA. Bây giờ giả sử có 200 người xuất hiện ở một cuộc họp hội đồng giáo dục thành phố tối hôm qua để phản đối kế hoạch cắt giảm giáo viên. Vị nữ phụ huynh đầu tiên vừa chất vấn thì vị chủ tịch hội đồng người thường bị chỉ trích vì có thái độ khinh thường cử tri - đã nhảy lên chửi bà ta. Sau đó, một thành viên hội đồng khác - người từng cố sức hạ bệ vị chủ tịch kia - cũng nhảy lên chửi ông chủ bằng những lời tục tĩu. Hai bên la lối, chửi bới suốt 20 phút liền, tới đó thì cuộc họp giải tán mà không đạt được kết quả gì. Tường thuật chuyên này có nên đưa vào những lời lẽ tục tĩu cửa hai thành viên hội đồng không? Hay ngẫm nghĩ lý do nên và không nện trước khi đọc tiếp những đoạn sau. Biên tập viên nào cho đăng có thể có các lý do sau: Đúng là họ đã nói năng thô tục như thế; xui thì ráng chịu. Chúng ta phải khắc họa ế ế thế giới đúng như thực tế chứ không nên đưa ra một phiên bản đã tẩy rửa sạch sẽ. Thành viên hội đồng giáo đục là những công bộc mà ăn nói như thế thì phải xem lại trách nhiệm của những cử tri. Lời lẽ tục tĩu đó cho thấy người ta nói đúng khi bảo tay chủ tịch này là hống hách và có thể đối thủ của hắn ta cũng chẳng hay ho gì hơn. Ngoài ra, làm sao tưởng thuật sự việc này mà không có những ngôn từ đó? Toàn bộ vấn đề chính là những lời lẽ kém văn hóa ấy. Biên tập viên nào không cho đăng có thể có các lý do sau: Hãy cho những thành viên hội đồng này yên thân; qua những gì chúng ta đã biết, họ đã gặp phải một ngày kinh khủng. Chúng ta không thể cổ vũ độc giả phê phán một người qua một phút bực tức. Cho đăng những lời tục tĩu chẳng khác nào chúng ta tán thành kiểu phát ngôn kém văn hóa đó. Báo chí cần phải bảo vệ một số chuẩn mực nhất định, và độc giả sẽ không phân biệt được những lời trích dẫn với những câu tường thuật khác. Các trường học trong vùng đều khích lệ học sinh đọc tờ báo này, chẳng lẽ bây giờ bọn trẻ sẽ đọc những ngôn từ mà chứng không được phép nói? Xét dơn thuần về mặt thông tin chính xác, những lập luận ủng hộ chuyện trích dẫn lời lẽ thô tục có lẽ là thắng thế các lập luận phản đối. Nhưng trong những năm gần đây, nhiều tờ báo đã siết chặt tiêu chuẩn về kiểu trích dẫn này trước phản ứng gay gắt của công chúng. Dường như khi những ngôn từ thô tục càng phổ biến trong xã hội thì càng ít người muốn thấy những từ ngữ đó trên mặt báo. Nhiều tòa soạn có chủ trương viết lại chứ không trích nguyên văn những tiếng chửi rủa, nếu phù hợp. Khi Sir Laurence Olivier [một trong những diễn viên xuất sắc nhất thế kỷ 20] trong một cuộc phỏng vấn đã tự gọi mình là "một thằng già dịch" thì câu nói đó có cần được "tẩy rửa" không? Độ tuổi trung bình của độc giả thường lớn hơn độ tuổi trung bình của nhà báo và những người trẻ tuổi hơn thường, không quá khắt khe với từ thô tục. Vậy thì áp dụng tiêu chuẩn nào? Và khi nào thì phù hợp để trích dẫn những lời lẽ kém văn hóa? Có nên sử dụng những tiêu chuẩn khác nhau cho bài và tin, cho những nội dưng liên quan đến giới công quyền, và cho những nội dung liên quan đến những người nghiện ma túy đang hồi phục? Có một điều cần lưu ý nữa về chuyện trích dẫn những lời tục tĩu. Nhiều biên tập vịên không còn xem những từ "viết tắt và ba chấm" là ấ ằ ấ giải pháp chấp nhận được. Họ cho rằng khi độc giả thấy một từ tục tĩu được in theo kiểu đó, họ sẽ có một trong hai phản ứng sau: Họ sẽ thấy cái từ "chấm chấm" ấy cũng tục tĩu như thường, hoặc họ sẽ mất nhiều thời gian đoán xem cái "chấm chấm" ấy có ý nghĩa gì và không còn tập trung vào nội dung thông tin nữa. TRÍCH DẪN ĐẦY ĐỦ VÀ CÓ NGỮ CẢNH. Cuối cùng, tính công bằng trong trích dẫn còn liên quan đến việc cho độc giả hiếu rõ những hàm ý trong các "trích dẫn mồ côi" - người viết chỉ trích dẫn một vài từ chứ không nêu trọn câu nói. Khi tường thuật với kiểu trích dẫn này, phải bảo đảm là lời trích dẫn có đủ những từ ngữ quan trọng nhất trong nguyên văn. Hãy xem ví dụ sau đây: "Vị giám đốc cho biết những hình chụp khỏa thân của cô hoa hậu không "làm hoen ố hình ảnh của cuộc thi”. Từ then chốt trong câu này chính là "không". Nhưng nếu nó không được đưa vào trong lời trích dẫn thì làm sao độc giả có thể tin là ông giám đốc kia đã nói như thế? Một vấn đề công bằng khó khăn hơn nữa liên quan đến ngữ cảnh. Biên tập viên không có mặt tại chỗ khi lời trích dẫn được phát ngôn nên không thể nào biết rõ bối cảnh đưa đến những lời nói đó. Nhưng nếu cảm thấy có điều gì không bình thường trong nội dung trích dẫn, bạn hãy hỏi lại người viết, một lời nói bông đùa vô hại nếu không được nếu rõ ngữ cảnh có thể mang một ý nghĩa nguy hiểm hoặc hoàn toàn khác. Người viết và người biên tập có trách nhiệm không thể xem nhẹ điều này. 3. Đối trọng Một câu hoặc một bài viết có thể rất hay, từ ngữ chính xác và văn phạm hoàn chỉnh, thế mà vẫn không công bằng vì thiếu đối trọng. Trong lúc tìm kiếm những yếu tố đó để biên tập bản thảo, bạn có thể dễ dàng bỏ sót yếu tố này. Sau đây là vài câu hỏi giúp bạn không đi chệch đường hướng công bằng. CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC ĐÃ NÓI GÌ? Một người chặn lối vào hiệu sách của trường đại học để phản đối việc ban quản lý ở đây đã sa thải anh ta mội cách bất công. Phía trường đại học đã nói gì? Người này đã phản ứng thế nào trước những tuyên bố của nhà trường và ngược lại? Những nhà thầu xây dựng nhà máy điện hạt nhân nói rằng những người biểu tình chống hạt nhân phải chịu trách nhiệm trong việc đình trệ thi công nhà máy này. Những người biểu tình nói ề ấ ố gì? Các nhà điều hành cấp liên bang nói gi? Con số thời hạn các bên đưa ra có hợp lý không? Người biên tập viên cần đặt ra những câu hỏi njay2 trong lúc đọc bản thảo. Nếu nội dung không cung cấp câu trả lời, hãy hỏi lại phóng viên. Câu chuyện nào cũng có ít nhất hai chiều quan điểm. Thậm chí ngay cả một câu như: “Đúng là một mùa hè tuyệt vời” coi vậy chứ không hề đơn giản. Có thể những ngày nắng rực rỡ ấy đối với người đi tắm biển là hoàn hảo, nhưng mùa màng của nông dân đang héo hon vì hạn hán, và nhiều người lớn tuổi đã chết vì không chịu nổi cái nóng. Trong bất kỹ một vấn đề nào, không một ai trên thế giới này hiểu biết được tất cả mọi khía cạnh. Đó là lý do khiến biên tập viên không muốn đăng những tin bài chỉ có một nguồn dẫn và lý do khiến họ luôn hỏi "Nếu thế thì…?" CÁC BÊN LIÊN QUAN ĐẾN CÂU CHUYỆN CÓ ĐƯỢC TƯỜNG THUẬT BÌNH ĐẲNG KHÔNG? Vì thế giới này vốn phức tạp, mọi nội dung tin tức đều là những câu chuyên đa chiều, có thể xem xét từ nhiều góc độ. Khi những cô dâu tương lai đến một cửa hiệu trong vùng để nhận áo cưới đã đặt trước, họ chỉ thấy cửa hiệu khóa kín, không một bóng người phục vụ. Bạn đã có một đề tài thú vị. Nhưng nếu phóng viên mãi đến cuối bài viết mới cho biết ban quản lý cửa hàng này hiện đang nỗ lực làm việc tại nhà để bảo đảm giao áo cưới đến từng cô dâu thì như vậy là không công bằng - nhiều độc giả đã không đọc hết bài viết nên khồng hề biết diễn tiến sau cùng. Tường thuật sẽ không công bằng nếu như không đề cập đến mọi đối tượng liên quan đến câu chuyện. Tường thuật cũng sẽ không công bằng nếu các đối tượng được đề cập lại không xuất hiện bình đẳng trong nội dung. Nếu không thể hiện được sự bình đẳng này ngay từ đầu bài thì chính bạn cũng không công bằng với độc giả. CÁC BÊN LIÊN QUAN CÓ TỶ LỆ TƯỜNG THUẬT BẰNG NHAU KHÔNG? Trong một bài viết về cuộc tranh luận giữa hai ứng cử viên chính trị, có thể bạn sẽ phải đếm số đoạn văn trong bài để xác định xem quan điểm của hai ứng cử viên có được người viết tường thuật với lượng nội dung bằng nhau không. Theo trọng tâm của câu chuyện, các quan điểm khác nhau có được thể hiện đúng mức không? Bạn và người viết có thể bât đồng ý kiến, nhưng ít ra là bạn có cân nhắc vấn đề này. Đừng quên rằng viết báo không phải là ghi biên bản. Nếu có chín người tham gia nhóm hội thảo về nhân bản vô ố ố tính con người tại một hội nghị khoa học, nhưng bốn người trong số này chẳng phát biểu gì nhiều thì không có quy tắc nào buộc ta phải dành nội dung tường thuật bằng nhau cho cả chín người. CÁC BÊN ĐỐI NGHỊCH CÓ ĐƯỢC CƠ HỘI PHẢN HỒI CÔNG BẰNG KHÔNG? Trước kia, khi trong nội dung tin bài có một cáo buộc cần phản hồi, những câu như “Không tiếp xúc được ông Smith để lấy ý kiến” dường như là đủ. Ngày nay thì khống như thế. Những hoài nghi của công chúng về uy tín của giới truyền thông, cùng với ý thức cá nhân của nhà báo về tính công bằng, đã khiến biên tập viên phải mạnh tay hơn. Đứng về phía độc giả "Không tiếp xúc được ông Smith để lấy ý kiến” có thể ngụ ý rằng phóng viên đã mất ba tuần lễ để viết một bài buộc tội ông Smith xâm hại tình dục nhiều thiếu nữ, rồi sau đó gọi điện thoại đến văn phòng ông Smith vào lúc 11 giờ đêm trước khi in báo rồi nói "Ồ, không ai bắt máy cả; tôi đã thử rồi". Thay vì thế, phải làm việc với phóng viên để có những tình tiết cụ thể hơn - chẳng hạn "Smith đã không trả lời qua sáu lần điện thoại tới nhà riêng và văn phòng của ông ta trong ba ngày qua" hay “Smith đã chuyển hết mọi câu hỏi cho người luật sư đại diện và luật sư này từ chối trả lời”. Nếu bài đang được biên tập không có yếu tố thúc bách về thời gian và vẫn còn thiếu một ý kiến quan trọng, cách xử lý công bằng nhất là giữ bài lại không đăng để tiếp tục bổ sung. NHỮNG THÀNH KIẾN CỦA CHÍNH BẠN CÓ CAN THIỆP VÀO NỘI DUNG KHÔNG? Nếu bạn đã từng làm việc cho hiệu sách trường đại học nói trên và đã từng oán ghét ban quản lý ở đó, có lẽ bạn sẽ mừng rỡ cho đăng ngay những cáo buộc của nhân viên nọ về chuyện phân biệt đối xử. Nếu bạn phản đối chuyện điện hạt nhân, có khả năng là bạn không để ý thấy trong bài không hề có ý kiến phản hồi nào trước những tuyên bố của tổ chức chống hạt nhân. Quan điểm cá nhân của bạn có liên quan rất nhiều đến những gì bạn xem là tin tức và cách bạn xác định mức độ công bằng. Bạn không thể tránh khỏi thành kiến của mình, nhưng bạn có thể nhận thức được chúng và duy trì một tâm thức phóng khoáng trước những thồng tin mới có thể làm bạn thay đổi cách nhìn. 4. Đính chính các sai lầm Trong công việc-gấp rút hàng ngày của tòa soạn, những vấn đề về tính chính xác và công bằng không xuất hiện rõ ràng theo những ấ hạng mục đã phân loại trong chương này đâu. Chúng nảy sinh rất bất ngờ, trong vô vàn cách biến thái và kết hợp, cho nên nhiều khi bạn chỉ còn cách nhìn nhận vấn đề và khóng thể xử lý gì được. Một ví dụ điển hình là nạn bạo lực đường phố thường xây ra ở nhiều đô thị Mỹ. Nhiều nhà báo cố tránh dung những từ nặng nề như "bạo loạn" e rằng chúng có thể làm tình hình thêm kích động. Thay vào đó, những nguồn tin tức sử dụng những từ “bất an”, “lộn xộn”, “biểu tình”, “bạo lực”, v.v. Cùng lúc đó, phóng viên và biên tập viện tranh cãi về những vấn đề sắc tộc. Một chuyện rắc rối ở Washington đã khởi đầu khi một nữ cảnh sát viên bắn bị thương một người đàn ông. Nữ cảnh sát ấy là người Mỹ gốc Phi. Người bị bắn lại là người Mỹ gốc La-tinh. Nhiều thiếu niên liên can đến những hành động bạo lực tiếp theo sau đó cũng là người Mỹ gốc Phi. Một số cửa hiệu bị phá hoại trong lúc lộn xộn lại thuộc sở hữu những người Mỹ gốc Hàn. Các dữ kiện này có liên quan với nhau không? Nhiều tờ báo đã nêu những dữ kiện này ra và bị chỉ trích là đã khích động tình trạng căng thẳng giữa các sắc tộc. Những tờ báo khác không đề cập đến yếu tố chủng tộc lại bị lên án là đã khỏa lấp căn nguyên của chuyện bất ổn này. Tính chính xác và công bằng không phải là những thành phần duy nhất của độ tin cậy. Trong chương kế tiếp chúng ta sẽ xem xét nhiều vấn đề pháp lý và đạo đức đa dạng sẽ tác động đến độ tin cậy. Tính chất đầy đủ, trọn vẹn của thông tin - một yếu tố gần gũi với tính chính xác và công bằng - sẽ được đề cập ở Phần Hai: Biên tập nội dung. Sai sót là chuyên nghiêm trọng. Có nhiều câu chuyện về những sai sót trên mặt báo đã gây ra nhiều hậu quả tai hại, từ làm tan nát một gia đình đến hủy hoại một doanh nghiệp, cho tới đẩy ai đó đến chỗ tự vẫn. Tuy nhiên, hầu hết các sai lầm đều có hậu quả ít bi đát hơn và nếu bạn - người biên tập - tự tạo ra chúng hoặc không phát hiện ra chúng thì bẹn chỉ tự trách mình mà thôi. Một số cơ quan báo chí thường xuyên gửi những bản câu hỏi đến những đối tượng mà báo đã tường thuật, lấy ý kiến về tính chính xác và công bằng trong tường thuật. Và mọi nhật báo và website tin tức tốt đều đắng đính chính. Các biên tập viện có tiếng nói trong việc xác định những chính sách liến quan đến đính chính sai lầm. Khi đính chính có cần nêu rõ căn nguyên của vấn đề hay không (ví dụ như lỗi tường thuật, lỗi biên ỗ ấ tập, hoặc lỗi sản xuất)? Bạn có dành một chính sách riêng cho những trường hợp cần nói thêm cho rõ không? Chính sách đính chính của các tòa soạn không giống nhau, nhưng tất cả biên tập viên đều nhất trí rằng không thể có sai sót ngay trong nội dung đính chính. Thay vì đăng đính chính là “Một tin trên trang 2 số hôm qua đã gọi giám đốc của Widget Enterprises là phó giám đốc”,các nhật báo hiện nay thường đăng là “tin trên trang 2 số hôm qua đã nêu nhầm chức danh của ông Edward Green. Ồng là giám đốc của Widget Enterprises” Dù chính sách của bạn ra sao, hãy giữ cho những mẩu đính chính luôn ngắn gọn, đơn giản và nghiêm túc. Bạn khó lòng yên thân với một mẩu đính chính như thế này: Bổn báo Washington Post không hề thấy thú vị hay khôi hài chút nào với việc in sai bốn lỗi chính tả trong bài viết đăng hôm qua về cuộc thi Vô địch Chính tả Quốc gia. Bổ báo tin chắc rằng toàn bộ những từ còn lại trong bài ấy, hay đại đa số các từ khác đều đúng chính tả” BIÊN TẬP VIÊN LƯU Ý: Chính xác và Công bằng - Đã kiểm tra mọi danh tánh chưa? - Đã kiểm tra mọi con số chưa? - Các tham chiếu văn hóa, lịch sử và địa lý có chính xác không? - Đã kiểm tra các lỗi dùng từ chưa? - Đã kiểm tra để đảm bảo là phóng viên không nhầm lẫn những từ có nghĩa tương đồng nhưng ngụ ý khác nhau chưa? - Bài viết có kiểm chứng những yếu tố cực cấp trong nội dung chưa? - Những câu trích dẫn có dẫn nguồn phù hợp chưa? - Bạn có tuân thủ những qui tắc của tòa soạn về sử lý những trích dẫn sai văn phạm và những lời thô tục không? - Nếu bạn đã dời chỗ nhiều câu hoặc nhiều đoạn văn trong bài, bạn đã kiểm tra xem chúng có hợp lý ở vị trí mới chưa? - Tin bài này có sa và định kiến nào không? - Các tin bài có phản ánh được nhiều thành phần công chúng trong cộng đồng hay không? - Đã tìm kiếm những từ nặng nề chưa? - Đã kiểm tra xem mọi tính từ có được xác minh bằng chi tiết cụ thể chưa? - Các khía cạnh khác nhau của vấn đề có được thể hiện trong nội dung không? Nếu không, trong bài có giải thích lý do không? Chương 5: PHÁP LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC Chương này sẽ giúp bạn: - Hiểu được cơ chế pháp lý trong công việc của nhà báo - Biết được những điểm then chốt trong nền tảng đạo đức báo chí và những bước cần tiến hành để đưa ra những quyết tốt, đúng qui chế. - Nhận thức những vấn đề pháp lý và đạo đức nảy sinh khi sử dụng Internet. Giới truyền thông là những doanh nghiệp, nhưng đó là các doanh nghiệp duy nhất được bảo vệ bằng một điều bổ sung riêng trong Hiếp pháp: "Quốc hội sẽ không ban hành đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hoặc hạn chế tự do ngôn luận hay tự do báo chí hoặc quyền của người dân được tụ họp ôn hòa, và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình". Chỉ với một câu đó, Tu Chính Án Thứ Nhất của Hiến pháp Mỹ đặt ra một lý tưởng: một quốc gia trong đó mọi người hoàn toàn tụ do nói những gì mình nghĩ và báo giới hoàn toàn tự do tường thuật những gì họ chọn lựa. Tuy nhiên, thực tế không hoàn toàn như thế. Nhiều bộ luật đã hạn chế quyền tự do ngôn luận, và thậm chí mọi nhà báo đều đồng ý rằng tự do không có nghĩa được xuất bản hay phát sóng mọi điều mình biết, bất kể hậu quả. Còn với Tu Chính Án Thứ Nhất, ý nghĩa của nó lại tùy thuộc vào những thay đổi mỗi lần Tòa án Tối cao có một quan tòa mới. Những người sinh trưởng ở Mỹ dễ dàng xem quyền tự do ngôn luận là điều đương nhiên. Những cuộc đấu tranh cho nền dân chủ đang tiến hành trên khắp thế giới càng cho ta thấy rõ quyền tự do ngôn luận không phải là một khái niệm ám bụi thời gian trong một văn kiện có từ 200 năm trước. Đó là một thực tế sống động mà vì nó nhiều người đang chiến đấu, và chết, từng ngày. Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ quyền của người dân chủ không phải quyền của báo chí. Đó là một điểm khác biệt quan trọng vào cái thời có quá nhiều người coi báo giới như một lũ ngạo mạn. Phóng viên đi vào thực tế trong tư cách đại diện cho công chúng, thu thập những thông tin mà độc giả và khán giả có thể không có thời gian hay nguồn tin để tìm, nhưng báo chí cần phải lựa chọn cho khôn ngoan những thông tin nên công bố. Tu Chính Án Thứ Nhất đúng là đã cho báo chí một ề ề ấ ể ề quyền lực, nhưng quyền lực ấy có một mục tiêu cụ thể: trao quyền lực cho những con người mà báo chí phục vụ. Tổn thất của việc Tàm nghề báo có thể còn lớn lao hơn nhiều những hao tổn tài chính. Theo ủy ban Bảo vệ Nhà báo (Committee to Protect Journalists - CPJ), trong khi tác nghiệp vào năm 2001, ít nhất 37 nhà báo khắp thế giới đã thiệt mạng và khoảng 118 người bị giam cầm ủy ban này đã ghi nhận 500 trường hợp đàn áp báo chí ở 140 nước trong cùng năm đó. Báo cáo CPJ cho biết: "Những cuộc tấn công ngày 11.9.2001 và “cuộc chiến chông khủng bố” sau đó đã đẩy mạnh tình trạng khủng hoảng tự do báo chí lên quy mô toàn cầu". Cái chết của Daniel Peari - phóng viên tờ The Wall Street Journal bị giết ở Pakistan nám 2001 - thu hút sự chú ý của giới truyền thông. Trong khi tiếp cận Afghanistan tường thuật các cuộc hành quân của Mỹ, Pearl đã bị bắt cóc. Một băng ghi hình cho thấy những kẻ bắt cóc đã cắt cổ Pearl và sau đó phô bày cái đầu bị chặt lìa của nhà báo này. Đối với nhà báo khắp thế giới, việc hành nghề có thể gặp nhiều hậu quả nghiêm trọng, từ chuyện cơ quan báo chí bị đóng cửa cho tới bản thân bị đánh đập, giam cầm và chết. Tất nhiên, không nhả báo nào phải đối phó với chuyện chết chóc hay bắt giam khi họ thực thi những trách nhiệm hàng ngày hay khi ngồi ăn trưa trong căn-tin tòa soạn tranh luận những khía cạnh triết học sâu xa của Hiến pháp. Dù vậy, hàng ngày phóng viên và biền tập viên đều phải vận dụng Tu Chính Án Thứ Nhất vào công việc khi họ đụng độ với đủ loại vấn đề pháp lý và đạo đức nghề nghiệp. Những vấn đề này nảy sinh ở mọi nơi, từ những tuần báo vùng nông thôn cho tới các tạp chí thời sự lớn, trong một mục nhỏ chỉ có một câu trong nhật kỹ trực của cảnh sát cho tới loạt chóng sự điều tra dài năm kỳ. Chúng này sinh từ một mâu thuẫn: Nền dân chủ coi trọng quyền tự do nhưng cũng coi trọng quyền riêng tư, các quyền cá nhân và bảo vệ những người dễ bị tổn thương. Kết quả là cả phóng viên lẫn biên tập viên phải không ngừng suy nghĩ về những tác động của việc mình làm. "Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ta cho đăng tin này?" - họ hỏi. "Nó có gây hại không? Nó có tạo được điều gì tốt không? Lợi có nhiều hơn hại không?" Là người biên tập, bạn không cần phải là luật sư hay triết gia để xử lý những vấn đề pháp lý và đạo đức trong tòa soạn. Tuy nhiên, ầ ế ấ ề ế ầ bạn cần phải biết nhận dạng các vấn đề đó khi gặp phải và biết cần nêu ra những câu hỏi gì. Khi liên quan đến pháp luật, rốt cuộc người có thể trả lời nhiều câu hỏi chính là luật sư của cơ quan bạn. Khi liên quan đến đạo đức nghề nghiệp, những câu trả lời thường không có trong bất kỳ pho sách nào. Những gì bạn có thể làm chỉ là thu thập càng nhiều thông tin càng tốt, cố gắng suy nghĩ vấn đề này một cách có hệ thống và đề ra những quyết định khả dĩ tốt nhất. Cũng nên học thuộc lòng Tu Chính An Thứ Nhất và lấy nó làm lý tưởng. Đừng quên: Có quyền làm điều gì đó không có nghĩa đó là điều nên làm. 1. Tội mạ lỵ Tội mạ lỵ là một phạm trù luật pháp quan trọng hạn chế quyền tự do ngôn luận. Nói vắn tắt, có thể định nghĩa tội mạ lỵ bằng mấy chữ sau: gây thiệt hại uy tín. Một tuyên bố có tính chất mạ lỵ sẽ phơi trần một người nào đó trước sự khinh bỉ, thù ghét hay chế nhạo của dư luận. Biên tập viên phải không ngừng cảnh giác với bất kỳ chi tiết tường thuật nào có thể gây thiệt hại uy tín ai dó. Đặc biệt, người biên tập bản thảo cuối phải ngăn chặn chuyện mạ lỵ này. Rất dễ vô tình phỉ báng ai trong khi đơn giản hóa câu chữ trong một dòng tít hay chú thích ảnh, hoặc khi rút gọn một đoạn vãn cho thông điệp cô đọng lại. Những chi tiết có tính chất mạ lỵ lại rất ranh ma. Chúng hiếm khi nào ẩn náu ở những nơi bạn thường nghi ngờ nhất: những bài điều tra gai gốc tố cáo tham nhũng. Những vấn đề tiềm tàng trong phóng sự dạng nàv đều rất hiển nhiên cho nên những ai đeo đuổi công việc điều tra thường cẩn trọng hết sức. Các cơ quan báo chí lại thường bị kiện vì tội mạ lỵ những tin bài nhỏ, những nội dung thông thường dễ bó sót - tin an ninh và pháp đình, chẳng hạn, hay tình cờ nhắc đến ai đó trong một bài viết về người khác. Thực tế, nguyên nhân hàng đầu của các vụ kiện mạ lỵ lại rất đơn giản: tường thuật sai danh tánh. Nếu bạn đưa tin rằng ông John Q. Smith bị buộc tội trộm cướp trong khi bị cáo đích thực là John Q. Smith thì ông John Q. Smith có thể kiện bạn vì tội mạ lỵ do sai sót của bạn đã làm thiệt hại uy tín ông ta. Nếu trường hợp John Q. Smith mà được tòa phân xử thì cơ hội thắng kiện của ông ta là 50-50. Theo báo cáo của Libel Defense Resource Center - một trung tâm ở New York chuyên theo dõi những vụ kiện mạ lỵ - các cơ quan báo chí thắng kiện trong 50% số vụ ra tòa trong hai năm 2000 và 2001. Đó là một cải thiện quan trọng so với thập niên 1980 và 1990 khi tỷ lệ thắng kiện của báo chí lần lượt là 35% và 38,7%. Số vụ kiện cũng giảm nữa. Số lần báo chí ra tòa bình quân hàng năm trong thập niên 1980 là 26,1 vụ. Trong thập niên 1990, con số này giảm xuống 18,5 và đến 2001 chỉ còn 17. Dù vậy, bạn cũng không muốn bị kiện vì tội mạ lỵ. Bạn có thể thua kiện, và công ty của bạn có thể thiệt hại rất lớn. Cũng theo trung tâm nói trên, mức thiệt hại trung bình của cơ quan báo chí thua kiện trong năm 2001 là 1,8 triệu USD, còn phía bên kia là 1 triệu USD. Tình huống này nghiêm trọng nhưng không hề bi đát. Đại đa số các vụ kiện mạ lỵ không bao giờ ra tòa. Ngay cả khi ra tòa và nguyên đơn thắng kiện, khoảng phân nửa tiền bồi thường sẽ được giữ lại hoặc loại trừ khi kháng cáo, theo như thống kê của Libel Defense Resource Center, trong suốt 20 năm kể từ 1980. Dù vậy, chỉ cần bị kiện thôi là đủ khổ sở rồi. Chuyện kiện tụng cũng rất tốn kém. Để được bào chữa trong một vụ kiện, cho dù cơ quan báo chí của bạn cuối cùng thắng kiện thì cũng phải tốn hàng trăm ngàn đô-la. Rõ ràng, cách tốt nhất là tránh bị kiện ngay từ đầu. Lời khuyên này nghe vậy chứ không hề đơn giản. Mặc dù chuyện đề phòng mạ lỵ là hết sức cần thiết, bạn không được để cho nỗi lo sợ kiện cáo làm tê liệt mình. Các nhà báo và luật sư gọi hiện tượng này "hiệu ứng ớn lạnh". Nỗi lo kiện cáo có thể làm nhụt nhuệ khí của cả biên tập viên lẫn phóng viên khi họ làm đúng ngay cóng việc cán phải làm nhất: kiểm tra hệ thống chính quyền xem nó có vận hành đúng chức năng hay không. Nhiều biên tập viên thường nói: "Hãy cho tôi xem tờ báo nào không hề mắc lỗi mạ lỵ, và tôi sẽ chứng minh cho anh thấy đó là tờ báo tệ hại. 1. Ngăn chặn mạ lỵ trong nội dung tin bài 1. NHẬN BIẾT NHỮNG VÙNG CẤM. Khi biên tập, bạn phải lưu ý mọi danh tánh của bất kỳ ai có nêu trong nội dung. Câu chuyện có nói bất cứ điều gì tiêu cực về người đó không? Có một số dạng tuyên ố ế