🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Con Đường Hạnh Phúc - Victor Pauchet full mobi pdf epub azw3 [Self Help] Ebooks Nhóm Zalo CON ĐƯỜNG HẠNH PHÚC PHƯƠNG PHÁP TỰ GIÁO DỤC LOẠI SÁCH HỌC LÀM NGƯỜI Tác giả: VICTOR PAUCHET Dịch: THIÊN GIANG và PHẠM CAO TÙNG Cung cấp sách scan: @sadec1 Đánh máy, soát lỗi: @littlethornbird , @Rafa , @rito_1522 , @lichan , @lotus , @teacher.anh (Phần I, Phần II, Phần III: Chương I đến Chương VI) Đánh máy, soát lỗi, tạo Ebook: @hiroshi4869 (Phần III Chương VII đến Chương XVIII) PHẦN THỨ NHẤT THÂN THỂ: DỤNG CỤ CỦA TINH THẦN CHƯƠNG I: THỂ CHẤT VÀ TINH THẦN LIÊN LẠC MẬT THIẾT LẪN NHAU CHƯƠNG II SỨC MẠNH TINH THẦN LIÊN LẠC MẬT THIẾT VỚI SỰ THAO LUYỆN THÂN THỂ ANH CHƯƠNG III ANH ĐƯỢC TỰ DO SỐNG HAY LÀ ĐỂ MÌNH BỊ LÔI CUỐN THEO SỰ SỐNG PHẦN THỨ HAI THỂ DỤC CHƯƠNG I: NUÔI DƯỠNG CHƯƠNG II HÔ HẤP CHƯƠNG III KHÚC RUỘT GIẾT NGƯỜI CHƯƠNG IV HIỆN TƯỢNG TRÚNG ĐỘC VÌ RUỘT CHƯƠNG V CHỮA BỆNH TRÚNG ĐỘC VÌ RUỘT CHƯƠNG VI VỆ SINH BUỔI SÁNG PHẦN THỨ BA LUYỆN TINH THẦN VÀ TÂM ĐỨC CHƯƠNG I NẾU MÌNH MUỐN CHINH PHỤC THIÊN HẠ HÃY KHỞI SỰ CHINH PHỤC MÌNH TRƯỚC CHƯƠNG II QUÂN BÌNH TINH THẦN CHƯƠNG III ĐIỀU HÒA CHƯƠNG IV SỰ BÌNH TĨNH CHƯƠNG V NHỮNG NGƯỜI CẢM XÚC THÁI QUÁ CHƯƠNG VI NGƯỜI HẢO TÂM DỄ QUYẾN RŨ KẺ KHÁC CHƯƠNG VII TÌNH THƯƠNG VÀ LÒNG NHÂN CHƯƠNG VIII ANH HÃY TƯƠI CƯỜI VỚI THIÊN HẠ THIÊN HẠ SẼ TƯƠI CƯỜI VỚI ANH CHƯƠNG IX NẾU ANH MUỐN KẺ KHÁC KÍNH NỂ ANH THÌ ANH PHẢI BIẾT KÍNH NỂ LẤY MÌNH CHƯƠNG X ẢNH HƯỞNG CỦA THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI NGƯỜI VÀ VIỆC CHƯƠNG XI SỰ TẬP TRUNG ĐỨC TÍNH CỦA HẠNH NGƯỜI SIÊU VIỆT CHƯƠNG XII PHẢI CHUYÊN CẦN LÀM THẬT KỸ NHỮNG VIỆC ANH LÀM CHƯƠNG XIII ÍCH LỢI VÀ XUẤT CHÚNG CHƯƠNG XIV LÒNG HĂNG HÁI LÀ MỘT TÌNH CẢM LÀM PHẤN KHỞI NGƯỜI TA CHƯƠNG XV TỰ KỶ ÁM THỊ CHƯƠNG XVI DỤC VỌNG, Ý CHÍ VÀ HÀNH ĐỘNG CHƯƠNG XVIII TINH THẦN QUYẾT ĐỊNH CHƯƠNG XVIII KẾT LUẬN Tự ngôn Một quyển sách có thể làm thay đổi được cuộc đời Tôi muốn nói đến quyển Con đường Hạnh phúc của Bác sĩ Victor Pauchet. Tôi đọc quyển Con Đường Hạnh phúc cách nay 12 năm, nghĩa là vào khoảng 1940. Năm ấy, vì thời cuộc, tôi phải sống trong một trại giam giữa dãy Trường Sơn, cách biệt hẳn với xã hội loài người. Sự sống lẻ loi ấy dễ làm cho ta buồn chán. Buồn chán sinh ra thất vọng, và từ chỗ thất vọng, ta đâm ra trụy lạc hoặc đi dần vào chỗ chết mà không hay. Quyển Con đường Hạnh phúc đến với chúng tôi trong tình cảnh ấy. Nó giúp chúng tôi lấy lại sinh lực và do đó nó khai lại nguồn Hạnh phúc mà chúng tôi tưởng đã bế tắc. Những kết quả chắc chắn mà chúng tôi thâu hoạch được sau khi theo lời dạy của Bác sĩ Victor Pauchet trong lúc ấy là: - Sức khỏe được phục hồi. Chúng tôi ăn ngủ nhiều, lên cân, da thịt hồng hào, vẻ mặt luôn luôn tươi tỉnh. - Sự buồn chán do đó tiêu tan. Mặc dầu sống trong cảnh tù đày, chúng tôi thấy đời đầy ánh sáng, đầy hy vọng. - Sự học hành tiến bộ. Trí thức mỗi ngày một tăng thêm. Chúng tôi đổi rủi thành may, nghĩa là đủ sức lợi dụng sự tù tội mà đào luyện tánh tình, tô bồi trí óc. *** Trên đời này biết bao nhiêu kẻ tuy không bị hãm vào cảnh tù đày như chúng tôi, nhưng lại gặp một cảnh ngộ khắt khe nào đó làm cho mình mất hết nghị lực, đâm ra buồn chán thất vọng đến nỗi không còn thiết đến sự sống nữa, rồi hoặc là sống một cách miễn cưỡng để cho dòng đời chảy đến đây hay đến đó, hoặc là đi tìm cái chết mòn mỏi trong sự trụy lạc bê tha. Đối với những người sống không đường lối ấy, tôi tin chắc Con đường Hạnh phúc sẽ dẫn dắt họ trở lại cuộc sống. Trong lúc này, trừ những người mạnh có sẵn một chí hướng và cương quyết đuổi theo chí hướng ấy, còn một số đông không tránh được sự lo âu, buồn nản như những mũi dao sắc bén châm chích vào da thịt, vào tim óc mỗi ngày. Những người ấy nếu không có một sức khỏe căn bản về thể chất cũng như về tinh thần thì dầu không ngã quỵ, cũng sống một cuộc đời buồn thảm. Họ đã chết trước khi tắt thở vậy. Trong cái xã hội thiếu quân bình này, những người ấy rất đông và rải rác khắp mặt đất, nhất là những nơi đô thị lớn, sự sống đã làm kiệt quệ con người. Bác sĩ Pauchet nghĩ đến hạng người ấy, và đứng trên quan điểm khoa học, giúp cho họ tìm thấy hạnh phúc trong cuộc đời. Khác với nhà tôn giáo nghĩ đến một hạnh phúc hoàn toàn ở cuộc đời tương lai, khác với nhà xã hội học xây dựng hạnh phúc bằng cách cải tạo xã hội. Bác sĩ Pauchet giúp cho những người cần đến ông, tạo một hạnh phúc trong những điều kiện sẵn có và trong cái hoàn cảnh xã hội mình đương sống. Cái hạnh phúc của ông là một hạnh phúc rất tương đối, có thể thực hiện được bất cứ chỗ nào ở một dinh thực trưởng giả hay trong một túp lều cung đình, giữa khoảng đời to rộng hay trong bốn vách của ngục tù. Tóm lại, Con đường Hạnh phúc không phải là một biện pháp sửa đổi lại cả một xã hội loài người; nó chỉ là một sự chỉ dẫn cho những người mất tin cậy sự sống tìm lại sự tin cậy ấy và từ đó, với những năng lực sẵn có trong người, vượt qua những sự yếu đuối, những trở lực, những khó khăn thoát ra khỏi chỗ tối tăm, tìm một cuộc đời tươi sáng. Theo lời bác sĩ, mỗi người đều có một cái vốn năng lực thể chất và tinh thần có thể cung cấp cho mình Sức khỏe, Thành công và Hạnh phúc. Bác sĩ bảo rằng: Hạnh phúc là kết quả của sự thành công và sức khỏe. Thiếu sức khỏe, con người sẽ thiếu tinh thần, thiếu thông minh, thiếu nghị lực, và lẽ tất nhiên không thể nào có hạnh phúc được. Vậy Con đường Hạnh phúc trước hết đưa chúng ta đi tìm một sức khỏe của thân thể. Là một bác sĩ đại tài, ông Pauchet sẽ là một hướng đạo chắc chắn hơn hết của chúng ta ở khoản này. Hơn nữa, bác sĩ dạy ta cách luyện chí để đi tới thành công, tức là đi tới hạnh phúc. Quyển Con đường Hạnh phúc đã từng giúp cho bao nhiêu người sa ngã có đủ sức đứng dậy, đã từng làm thay đổi bao nhiêu cuộc đời, sẽ là một cái bùa hộ mạng cho các bạn nào đã từng bị đời vật ngã. Và khi đọc xong Con đường Hạnh phúc chắc chắn các bạn đã cảm thấy mầm hạnh phúc nẩy ra trong lòng mình. DỊCH GIẢ TỰA Số phận của các anh không tùy sự may mắn và sự ngẫu nhiên, mà nhứt là tùy ở các anh, tức là tùy ở cái vô thức của anh. Cái vô thức (inconscient) của anh là kết quả của khí chất, bao gồm cả tánh tốt và tật xấu thể chất và tinh thần do cha mẹ anh di truyền lại. Khí chất của anh do sự cấu tạo thể chất và tánh tình hoặc là sự cấu tạo tinh thần của anh hóa hợp lại mà thành. Cái vô thức của anh là kết quả của các khuynh hướng, bản năng, thói quen, tật xấu, tánh tốt của anh. Những khuynh hướng, bản năng, thói quen, tật xấu, tánh tốt này lại do hành vi hoặc tư tưởng của anh lặp lại nhiều lần mà có. Vậy thì số phận của anh là kết quả gia tài của ông bà anh để lại, của tư tưởng và hành động của anh ngày trước. Anh không thể hủy diệt bản năng của ông bà anh để lại, nhưng anh có đủ quyền sửa đổi lỗi lầm, tật xấu, phát triển tánh tốt, coi chừng hành vi và tư tưởng của anh để tổ chức một phần cái vô thức của anh và làm nên số phận của anh. Muốn thành công anh phải khi thì hướng dẫn khi thì thích ứng với cảnh ngộ và người chung quanh. Muốn hướng dẫn cảnh ngộ và người chung quanh, trước hết phải tập tự hướng dẫn lấy mình. Tính tự chủ ấy phải luyện tập như một nghệ thuật hoặc như một môn thể thao, như là tập quần vợt hay học hội họa. Nếu anh muốn đưa số phận anh theo chiều anh mong mỏi, anh phải tập huấn luyện lại mình. Đến một lúc nào đó, anh đã trở nên người làm chủ lấy mình rồi, vậy thì anh phải nhận lấy trách nhiệm nếu không phải cái hiện tại của anh thì nhận lấy cái trách nhiệm của quá khứ anh. VICTOR PAUCHET PHẦN THỨ NHẤT THÂN THỂ: DỤNG CỤ CỦA TINH THẦN Phải bồi bổ sức mạnh của thân thể để bảo tồn sức mạnh của tinh thần – Vauvenargues CHƯƠNG I: THỂ CHẤT VÀ TINH THẦN LIÊN LẠC MẬT THIẾT LẪN NHAU Thân thể là dụng cụ của tinh thần: thân thể là dụng cụ của tinh thần; thân thể mạnh khỏe thì việc làm mới được thành công. “Phải bồi bổ sức mạnh của thân thể để bảo tồn sức mạnh của tinh thần” (VAUVENARGUES). Khí chất: Dáng vóc con người biểu lộ tình trạng thể chất. Tính tình biểu lộ tình trạng tinh thần. Hai tình trạng thể chất và tinh thần hòa hợp lại làm thành khí chất. Nói tóm lại theo một qui thức toán học thì: Dáng vóc + tính tình = khí chất. Dáng vóc và tính tình có ảnh hưởng mạnh đối với nhau. Dáng vóc sai khiến tính tình, và tính tình biến đổi dáng vóc. Tỉ dụ: Người có khí chất khỏe mạnh, người ấy da thịt hồng hào, vẻ mặt tươi tắn, tính tình hòa nhã, bặt thiệp, dễ thương, thích ăn ngon và thích cử động, muốn chọn những nghề dễ làm, vì can đảm của họ có chừng mực. Vai trò của hạch nội tiết: Theo nguyên tắc thì mỗi một khí chất gồm có một trạng thái thể chất và một tình trạng tinh thần nhất định. Nhưng người có khí chất tượng tự nhau rất nhiều. Căn bản thể chất của khí chất là gì? Có phải là óc não không, là thần kinh giao cảm không? Phải, nhưng còn có hạch nội tiết, hạch phân tiết bên trong (glades endocrines) quan hệ hơn. Hạch ấy có một vai trò rất quan trọng trong cơ thể của ta. Lá gan phân tiết ra mật, hạch nước miếng phân tiết ra nước miếng, trái thận phân tiết nước tiểu,v.v. Ngoài những hạch phân tiết ra ngoài ấy, còn có những hạch phân tiết bên trong, hoặc cả trong lẫn ngoài, những hạch nầy lại có một vài trò hết sức quan trọng đối với dáng vóc, tính tình và do đó đối với khí chất của ta. Hạch giáp trạng: Trong các hạch nội tiết, hạch giáp trạng là quan trọng nhất và được biết rõ nhất. Hạch này quan hệ trực tiếp với sức khỏe. Nó vận động đều thì sức khỏe bình thường, không đều thì sức khỏe suy kém. Nếu hạch phân tiết không đủ sức thì người trở nên chậm chạp, lười biếng, lờ đờ, hay ưa nằm. Nếu hạch phân tiết quá nhiều thì người ham hoạt động, có khi sanh ra cáu kỉnh, nóng tánh. Phân tiết không đủ làm cho người thành ra phì nộn và lười biếng, trái lại phân tiết quá nhiều làm cho người gầy, lanh lợi, có khi mất sự bình tĩnh, hay bị kích thích, quá độ. Hạch phía trên thận: Phía trên mỗi trái thận có thứ hạch gọi là hạch trên thận (surrénale). Nếu hạch này phân tiết đầy đủ thì người làm việc hăng hái, suy nghĩ sâu xa, và tỏ ra tận tâm trong việc làm. Hạch não đột khởi: Phía dưới bộ óc còn có một cái hạch nội tiết gọi là Não đột khởi. Hạch này có phận sự giúp vào sự phát triển của con người. Nếu hạch này suy yếu thì trí thông minh và tính tình phát triển chậm; đồng thời, thân thể chậm lớn. Trái lại nếu hạch nầy nẩy nở quá độ, thì người trở thành to lớn vô cùng. Chúng ta đã biết qua vài trò các thứ hạch nội tiết đối với phần vô y thức và sức khỏe của ta như thế nào. Chúng ta hãy lấy một ví dụ về tính lười biếng để chỉ rõ sự quan hệ giữa phần vô y thức và tinh thần của con người. Một ví dụ: Ở nhà trường, ta thường thấy học trò lười biếng. Có người lười biếng vì gia đình giáo dục khuyết điểm, hoặc vì cha mẹ treo gương xấu. Phần đông lười biếng nếu không vì bịnh hoạn, suy nhược, thì cũng vì con mắt, lỗ tai hư hỏng, hoặc vì hạch giáp trạng phân tiết t hiếu, vì phổi hay ruột bị đau. Hạch giáp trạng phân tiết không đủ thì người thành ra phì nộn, lông mày thưa, bộ dạng lờ đờ, thiếu hoạt bát. Sau khi chữa bịnh cho hạch ấy rồi thì con người gầy bớt lại, trí thông minh được phấn khởi, việc làm được nhiều kết quả hơn. Có những người lùn, trí nghĩ chậm vì hạch phía dưới óc (não đọt khởi) bài tiết thiếu. Chữa bịnh cho hạch ấy thì trong hai ba năm có thể phát triển đến mực bình thường. CHƯƠNG II SỨC MẠNH TINH THẦN LIÊN LẠC MẬT THIẾT VỚI SỰ THAO LUYỆN THÂN THỂ ANH Muốn thành công: Sức khỏe được dồi dào hay không là do cách động tác của các hạch nội tiết có đầy đủ và sự giữ gìn vệ sinh có đúng phép hay không. Thành công và hạnh phúc có được là nhờ năng lực, tâm đức và tinh thần, những năng lực ấy nhờ luyện tập mà nảy nở. Các nhà vô địch đấu quyền, quần vợt, các ngôi sao trên sân khấu sở dĩ hơn người được là nhờ biết chuyên chú luyện tập môn thể thao hay ngành nghệ thuật của mình. Nếu muốn thành công, anh phải để tâm đeo đuổi sự thành công. Cũng như các nhà vô địch đánh cầu, hoặc đấu gươm, anh có thể đạt đến mục đích nếu anh chịu luyện tập theo phương pháp, chịu coi sự luyện tập ấy là một công việc cốt yếu của đời anh. Nếu anh cảm thấy mệt mỏi hay lười biếng vì thân thể suy yếu hay vì các hạch nội tiết hư hỏng thì hãy làm cho sức khỏe và sinh lực tăng lên. Nếu anh bị thất bại, hoặc chán nản thì sự thất bại ấy vì anh mà ra; anh thiếu một số năng lực hay những năng lực ấy yếu quá: ý chí, nghị lực, nhẫn nại, tinh thần thực tiễn, tinh thần hợp lí, trật tự, trí nhớ, tưởng tượng, v.v.. Sự quân bình giữa thân thể và tinh thần: Bao nhiêu năng lực ấy anh phải có đủ cả. Và nhiều càng tốt. Trong người anh còn có những chỗ yếu thì sự quân bình giữa thân thể và tinh thần chưa thể có được. Nếu anh muốn thành công thì anh phải đem hết sức cố gắng cải thiện con người anh, phải chú trọng trau dồi những năng lực vật chất, tinh thần và tâm đức của anh. Những năng lực ấy, khi rèn luyện được rồi, sẽ làm thành một cái vốn riêng của anh. Anh học giỏi. Anh có nhiều bằng cấp cao. Tốt lắm. Nhưng bao nhiêu đó chưa đủ để thành công. Muốn thành công và hưởng hạnh phúc ở đời, anh phải có nhiều năng lực thực tiễn hơn. Phải có một sự quân bình đầy đủ, nghĩa là phải trau dồi tinh thần, thân thể và tâm đức. Phải phát triển ý chí, nghị lực, quả quyết, tánh công bình, óc vị tha, nghệ thuật làm vui kẻ khác, và trước hết phải tập tự kỷ ám thị. Hãy nhớ luôn luôn câu này: “muốn thành công trên đường đời, phải làm chủ được thời cuộc. Muốn làm chủ được thời cuộc phải làm chủ người chung quanh. Muốn làm chủ người chung quanh, phải làm chủ lấy mình.” Thể dục: Có người cho rằng sức khỏe không cần thiết lắm. Bắp thịt không nở nang, khí huyết không trong sạch cũng không quan hệ gì. Nhưng sức khỏe là một phương tiện để mà sống. Nếu anh ăn ở không hợp với vệ sinh, không lo tập thể dục hằng ngày thì làm sao cho khiếu thông minh và sức mạnh tinh thần của anh phát triển được. Óc não điều khiển hành vi tâm đức và tinh thần của anh. Nhưng nếu óc não ấy không được một thứ khí huyết trong sạch có nhiều dưỡng khí bồi dưỡng thì làm sao nó làm việc đắc lực được? Muốn cho khí huyết trong sạch, muốn cho óc não động tác điều hòa, anh phải theo những điều kiện vệ sinh mà chúng tôi sẽ chỉ dẫn ra sau đây. Sự phát triển tinh thần và tâm đức phải đi đôi với sự phát triển của thân thể. Người nào muốn tinh thần và tâm đức được phát triển không thể không lo phát triển thân thể được. Trí dục và đức dục: Muốn thành công và sung sướng trong đời, về mặt thể chất phải nâng cao sinh lực, làm cho bắp thịt nở nang, khí huyết trong sạch, các hạch nội tiết sung thạnh. Về mặt tinh thần, phát triển trí nhớ, óc tưởng tượng, tinh thần hợp lý. Về mặt tâm đức, phát triển ý chí, óc quyết đoán, sức hành động, phải hiểu nghĩa vụ và tuân theo luật tự nhiên; phải biết vị tha và lạc quan. Về mặt thực tiễn phải biết nhận rõ các giá trị, phải hiểu người, biết nghề. Về mặt xã hội, phải phát triển uy tín, sức hấp dẫn của mình để gây cảm tình và tín nhiệm ở kẻ khác. Về mặt thẩm mỹ, phát triển mỹ cảm và ham lo sửa mình. Hai con người: Phép cải tạo sinh lực có mục đích làm cho những chỗ yếu trong con người trở nên mạnh và làm cho nhân phẩm được điều hòa. Trong mình anh có hai con người khác nhau. Một người “tiêu cực”, bi quan, hoài nghi, dễ bị lôi cuốn vào những tật xấu; không chịu gắng sức, ưa nói xấu kẻ khác, ganh tị, oán hờn. Trái lại con người “tiêu cực” ấy còn có con người “tích cực”. Con người này ưa chân lý, biết tự tín, hăng hái, khoan hồng, ưa giao thiệp và giúp đỡ kẻ khác. Con người tích cực này, anh phải lo trau dồi luôn. Khi anh phát triển được những chỗ mạnh và tích cực rồi, thì những chỗ yếu và tiêu cực phải tàn rụi và tiêu diệt. Các anh phải lo tập tánh lạc quan, hăng hái, tự tín, khoan hồng, vị tha, trật tự, sẵn lòng, quyết đoán, nhẫn nại, can đảm, và mỗi ngày mỗi tiến bộ thêm trong phạm vi nghề nghiệp của mình. Những bài học sau nầy sẽ dẫn đường cho các anh đạt những nguyện vọng ấy. Muốn thành người hoạt động: Anh phải trở nên một người hoạt động. Anh phải thực hiện những điều anh suy nghĩ. Anh lo phát triển nhân phẩm của mình, phải tạo cho mình thành người chắc chắn, không thay đổi. Ta đã thấy rằng trong mình anh có hai con người. Anh phải phát triển con người tốt để tiêu diệt con người xấu. Người nào khi vui, khi buồn, khi bạc nhược, khi can đảm, khi do dự, khi quả quyết, khi rũ liệt, khi hăng hái, người ấy không làm chi nên việc cả. Ấy là một người tầm thường, hay gặp sự thất bại. Đời sống của y là một đời sống bất nhất, mà đã bất nhất thì không thể thành công. Y dễ bị những sức mạnh lặt vặt xô đẩy. Y không thể sắp đặt việc làm của mình theo một mục đích nhứt định. Vậy thì muốn thành công, anh phải đeo đuổi một mục đích duy nhất; đó là đầu đề cốt yếu của bài học này. Cải tạo hoàn toàn con người của anh: Nhưng có một mục đích mà anh có thể theo đuổi không dừng và không sợ lầm lạc, ấy là sự cải thiện hoàn toàn con người anh. Khi anh quyết định như vậy rồi, tâm hồn anh sẽ bình tĩnh, vững chắc, yên ổn, khoan khoái. Tất cả hành vi ý nghĩ và tình cảm của anh phải hướng về cái mục đích ấy. Chúng tôi muốn các anh nhắm mắt tin tưởng nơi sự thành công của mình. Mỗi ngày anh nên thảo một chương trình hành động, ghi vào đó phần luyện tập thân thể và tinh thần và bền chí mà theo. Cần nhất là phỉa bền chí. Không bền chí không thể thành công. Tất cả những người thành công đều là người bền chí. Bền chí là một năng lực cần phải phát triển như bao nhiêu năng lực khác. CHƯƠNG III ANH ĐƯỢC TỰ DO SỐNG HAY LÀ ĐỂ MÌNH BỊ LÔI CUỐN THEO SỰ SỐNG Hai người chèo thuyền: Cuộc đời là một con sông lôi cuốn một đoàn thuyền ra biển; mỗi chiếc có một người chèo. Trong một chiếc thuyền, anh chèo phó mặc thuyền mình do dòng nước. Khi nào cần cho cập bến, anh ta mới quơ mái dầm. Thuyền anh thường chạm nhầm đá, vấp iên cát, đôi khi vì lái chậm mà không vô kịp bờ. Anh ta khổ vì sóng to, bay nước hạ. Sau cùng anh ta cũng ra cửa được, nhưng phải trải qua những cảnh ngộ khó khăn làm cho cuộc hành trình phải chậm trễ. Anh chèo ghe thứ hai biết nương theo dòng nước mà lái con thuyền theo ý mình muốn; luôn luôn chủ ý, y đáp thuyền đúng được chỗ mình định trước. Anh ta đến đích đúng theo thời giờ. Cuộc đời tức là lái thuyền trong dòng sông vậy. Số phận và tính tình: Số phận là kết quả của tính tình; tính tình là kết quả của thói quen; thói quen là do việc làm hàng ngày mà có; việc làm chịu ảnh hưởng của ý nghĩ; ý nghĩ do sự ám thị mà ra; và sự ám thị phát sanh ra do những người chung quanh, do cảnh ngộ, do hoàn cảnh. Muốn điều khiển số phận của mình, anh chỉ nên thừa nhận những ám thị nào hợp với ý nghĩ với việc làm và thói quen thuận tiện cho sự tác thành một tánh tình cao thượng của anh. Tự phát triển lấy mình: Anh phải chịu trách nhiệm hành vi của mình. Con người thường hành động theo sự sai khiến của phần vô ý thức (inconscient) nhưng lại có thể sửa đổi phần vô ý thức ấy khiến nó trở nên thiện mỹ hơn. Đành rằng hành vi của mình chịu nhiều ảnh hưởng chung quanh, nhưng phần trách nhiệm quan trọng vẫn thuộc về mình. Muốn làm chủ thời cuộc, phải làm chủ người chung quanh. Muốn làm chủ người chung quanh, phải làm chủ lấy mình. Muốn làm chủ lấy mình, phải lo phát triển những chỗ yếu của mình cho mạnh lên. Anh phải coi sự tự phát triển lấy mình là mục đích cốt yếu của đời mình. Phương pháp tự huấn luyện: Anh theo phương pháp nào để tự huấn luyện, tự cải tạo? Theo phương pháp tiến hóa theo ý muốn. Ngày nay người ta có thể tùy theo luật tiến hóa của thiên nhiên mà dẫn dắt sự tiến hóa theo ý muốn của mình. Người ta có thể đổi giống cây hoang ra giống cây trồng trong vườn, đổi một giống thú rừng thành ra gia súc. Với cây và thú vật mà người ta có thể thay xấu thành tốt trong một thời hạn mau chóng được thì với con người lại dễ dàng hơn. Nhờ phương pháp tiến hóa theo ý muốn mà con người có thể cải tạo nhân phẩm của mình. Vai trò của tế bào: Thân thể con người gồm có tế bào. Tế bào cũ chết và tế bào mới sanh. Đời sống vì thế mà thay đổi không dừng. Con người nhờ sự thay đổi không dừng ấy mà cải thiện lại tất cả các bộ phận của thân thể, nhất là óc não. Con người có thể thay đổi tư tưởng, tình cảm, phát triển những bộ phận của óc não và biến đổi hẳn các bộ phận ấy. Óc não kiểm soát và kiến tạo lại thân thể, ảnh hưởng đến sự hoạt động, đến thái độ, đến cách đi, tiếng nói, đến quan năng sinh tồn và làm cho thân thể anh biến đổi. Nhưng sự biến đổi ấy phát diễn từ từ, vì cần phải điều hòa với người chung quanh, với hoàn cảnh và với mình. Phải biết hướng dẫn sự gắng sức của anh: Phải biết điều khiển xu hướng của mình. Đừng muốn những việc mà mình không thể làm được. Không nên cố sức làm cho một bông vạn thọ hóa ra bông hường, làm cho con mèo thành ra sư tử. Các anh không nên mộng tưởng làm vĩ nhân. Các anh có một nhân phẩm riêng, khác với nhân phẩm của người đồng loại. Nhân phẩm ấy cũng lớn lao, cao quí như nhân phẩm của bao nhiêu người khác, nếu các anh biết đào luyện nó. Các anh phải tiến hóa trong phạm vi khả năng của mình. Các anh lo rèn luyện thiên tư, phát triển tài năng của mình, làm cho tính tình, nhân phẩm được điều hòa, được sáng suốt. Trong sự tiến hóa, anh phải lo phát triển những chỗ yếu làm trở ngại hay chậm trễ sự thành công, đồng thời phải hạn chế những năng lực quá mạnh biến thành những dục vọng lôi cuốn ta vào những việc gàn dở. Hợp lý hóa đời sống của anh: Trong người anh có hai xu hướng: hai bản năng anh phải lưu ý: bản năng thứ nhất (hạ ý thức) khiến anh yêu đời và bắt buộc anh phải tìm những khoái lạc đứng đắn, những nhu cầu vật chất để giảm bớt sự cực nhọc; bản năng thứ nhì (thượng ý thức) thúc giục anh đến lý tưởng cao xa, đến điều thiện, đến cái đẹp, đến chân lý. Bản năng say nầy, xem bề ngoài có vẻ ích kỷ, nhưng anh phải theo nó. Đừng sợ trở nên ích kỷ, vì hiểu cho chín chắn rồi, cái bản năng ấy sẽ thêm sức mạnh vật chất và tinh thần, làm cho anh trở nên một người hữu ích. Nhưng đừng làm giảm sức của anh, phải biết “hợp lí hóa” đời sống của anh và, muốn khỏi phí sức vô ích, anh nên tạo sự điều hòa giữa anh và hoàn cảnh chung quanh. Hãy phát triển những năng lực cao đẳng của anh: Bản năng thứ hai khiến anh đem dùng những năng lực cao đẳng để vượt đến cái gì cao quí, vĩ đại, khoan hồng. Nếu anh nghi rằng mình không thích hợp với những tình cảm cao thượng, không thể có được những hoài bão tốt đẹp thì anh nên quay về quá khứ và nhắc lại cho mình những cảm giác khi đứng trước một nghĩa cử, hay khi đọc một câu chuyện anh hùng, khi nhìn một khung cảnh vĩ đại, khi thấy trước mắt một công trình nghệ thuật, khi làm được một việc tốt. Trong những trường hợp ấy, năng lực cao đẳng của anh bị kích động và anh nhận thấy rằng anh thích gợi lại những cảm giác êm đẹp ấy. Tiến hóa từ từ: Anh nhớ rằng dầu muốn dầu không anh tiến hóa luôn luôn, theo với thời gian; tâm tính, thị hiếu, khuynh hướng, tánh tình, khả năng của anh thay đổi từ từ mà chắc chắn theo ảnh hưởng của tuổi tác, cảnh ngộ, hoàn cảnh, theo việc làm, hành vi, tư tưởng, tự kỷ ám thị của anh. Nhưng sự tiến hóa ấy có thể lùi chứ không tới, nếu anh để cho mình chịu những ảnh hưởng xấu. Vì thế mà tôi xin lặp lại rằng: nếu anh muốn thành công và hạnh phúc thì sự học vasn của anh phải có tính cách phổ thông; mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi năm, anh phải chú ý đến những tiến bộ mà anh đã thâu được. PHẦN THỨ HAI THỂ DỤC Sức khỏe và sinh lực có thể tìm ra được. CHƯƠNG I: NUÔI DƯỠNG Nên ăn vào lúc nào: Nên ăn vào lúc đói và vào những giờ ăn nhất định; người nào không đói thì đừng ăn. Thứ rượu khai vị tốt nhất là bụng đói. Nếu anh ăn không biết ngon trong 24, 48 giờ, 3 ngày thì tốt hơn anh nên nhịn đói luôn trong khoảng thời gian ấy và uống một thứ nước rau hầm, nước nho, hay ăn trái cây có nước. Các anh đừng tin nơi cái đói do thói quen: người nào mới vừa thức dậy buổi sáng mà tưởng như mình đói là tưởng lầm; một người khỏe mạnh vừa ngủ dậy không thể đói được, nếu đầu hôm y ăn uống được bình thường. Người nào ngủ dậy mà ăn no tất phải vận động ngay. Một ngày nên ăn ba bữa: một bữa trái cây buổi sáng, một bữa ăn không thịt buổi tối và một bữa ăn có thịt cá buổi trưa. Có nhiều người sau một buổi xem hát rồi còn ăn khuya. Đó là một tật xấu sanh chất độc trong máu. Không nên ăn chi cả. Nhịn đói là cách chữa bệnh tốt nhất. Nhịn đói không làm hại sức khỏe, mà còn giữ gìn sức khỏe nữa. Trong các tôn giáo, người ta nhịn đói vì mục đích vệ sinh, và để cơ thể nghỉ ngơi. Người nào không tuân theo sẽ phạm lỗi nặng. Những người đau cần phải nhịn đói hơn là người mạnh; vì mục đích chữa bệnh mà lệ nhịn đói được đặt ra, những người phì nộn quá phải nhịn đói. Trong lúc nhịn đói, nên uống nước có hòa một ít nước nho hay không cũng được, nước rau hầm, ăn trái cây có nước. Thời hạn nhịn đói có thể lâu từ một ngày đến một tháng tùy theo người gầy hay mập. Nên ăn gì? Bữa cơm sáng, nên ăn trái tươi: hồ đào, trái phỉ, lê, táo, cam, chuối v.v. Trái tươi ngon hơn trái nấu chín, vì trái tươi có nhiều sinh tố. Sở dĩ ta phải nấu và thêm đường là bởi trái cây không tốt, có thể sanh chất chua. Lựa trái chín và thứ tốt. Nếu không có trái tươi thì lựa trái khô: chuối khô, táo tây, v.v, có công dụng trừ bịnh bón. Đừng nên lột vỏ, bỏ hột, v.v. như nhiều người đã làm. Vỏ và hột ấy sẽ kích thích dạ dày và chữa được bịnh bón. Nếu anh ngủ sớm thì bữa cơm chiều phải đạm bạc. Nếu trái lại đến nửa đêm mới ngủ thì có thể ăn nhiều chất bổ được. Buổi tối nhất định đừng ăn thịt. Thịt đây tức là đồ hộp, cá, loài gà vịt. Nên ăn những thức ăn chẳng những sinh ra nhiệt độ cho cơ thể, mà còn chứa chất muối. Đừng luộc rau bằng nước, mà luộc bằng hơi nước. Gạo trắng không bổ. Gạo lứt tốt hơn. Đừng bỏ phí nước luộc rau; chất muối trong rau tan ra đó. Nếu anh muốn ăn thịt, ăn cá, nên ăn ít. Tính theo số cân của thân thể mình, cứ mỗi kí-lô thì được ăn một gram. Đừng ăn chả, ăn đồ hộp, thịt thú ươn. Đừng ăn nhiều quá và cũng đừng ăn ít quá. Các món ăn phải đơn giản. Trong bữa ăn, các món ăn càng ít càng tốt. Phải ăn bằng cách nào? Nên ăn rất chậm: nhai thật kỹ. Ăn canh nước hầm hay sữa cũng phải nhai kỹ. Trong các thứ bột nghiền nên thêm vào một ít bánh nướng. Một thức ăn nhai kỹ được coi như tiêu hóa phân nửa rồi. Không nên ăn những thứ kích thích quá: ăn ít muối, không nên ăn tiêu, tương hột cải, dưa món dầm giấm, v.v. Ăn chanh thay cho giấm thì tốt hơn. Trong bữa ăn, nên giữ vẻ mặt vui vẻ, nói những chuyện vui, không nên biện luận. Sắc thái tươi tỉnh, hòa nhã là một thứ thuốc bổ khai vị tốt nhất. Nên uống nước ngoài bữa ăn: Trong bữa ăn, uống rất ít. Rượu chát không ích lợi gì. Rượu mạnh có hại. Đừng uống cà-phê, nước trà, sô-cô-la hoặc hạn chế sự dùng các thức ấy lại. Uống nước nóng hay nước nguội, và uống từ từ, nước để sống hoặc pha rồi. Nên uống ngoài bữa ăn. Nếu các anh bị xây xẩm hay mệt nhọc, tốt hơn đừng ăn. Thay cơm bằng nước nóng. Nếu anh nhịn đói hoàn toàn thì uống mỗi ngày hai, ba, bốn lít nước rễ cây hoặc trái cây,v.v. Như vậy anh có thể tẩy được gan, thận, các sớ thịt và máu; những chất độc làm yếu cơ thể sẽ được trừ khử. Nhai cho kỹ: “Miệng là một cái bàn nghiền của tạo hóa ban cho” (MONTEUIS). Phần nhiều các bệnh đau do đồ ăn lên men trong ruột mà ra. Đồ ăn lên men tại sự tiêu hóa không tốt, mà tiêu hóa không tốt là tại nhai không kỹ. Vậy thì anh phải nhai rất chậm, để biến đổi những vật thực cứng ra lỏng. Nếu vật thực đã là chất nước hay chất bột, thì nên ăn từ từ trộn đều với nước miếng. Miệng là cơ quan tiêu hóa duy nhất đặt dưới sự điều khiển của anh; anh hãy lợi dụng nó và, nếu anh nhai kỹ, anh sẽ khiến đồ ăn tiêu hóa được hoàn toàn. Nhai chậm lại còn có cái lợi là tập cho anh tự kiểm soát, tập cho anh bình tĩnh và tự chủ lấy mình; chẳng những nó đem lại lợi ích vật chất mà còn đem lại lợi ích tinh thần nữa. Ngoài ra anh còn nhận thấy lúc nào sự huấn luyện thể chất và tinh thần cũng đi đôi với nhau và không thể tách khỏi nhau được. Săn sóc bộ răng: Hãy săn sóc bộ răng. Nếu răng tốt thì mỗi năm đi đến nhờ nha y săn sóc hai lần; nha y sẽ cạy bỏ chất dơ. Nếu răng không được sạch sẽ thì nhờ nhà y coi sóc cho đến lúc được bình thường. Sáng và chiều nên dùng bàn chải cứng đánh từ ba đến năm phút, hoặc đánh xà bong cả hai mặt với ngón tay trỏ bọc một miếng vải mịn. Răng trẻ con phải giữ cho thẳng hàng, nếu không thì phải dùng dụng cụ làm cho thẳng. Phải biết nhịn đói: Như tôi đã nói trên kia, nhịn đói là cách giải độc hay hơn hết. Nhịn đói tức là không nên ăn trong hai mươi bốn, bốn mươi tám tiếng đồng hồ hay lâu hơn nữa. Nhịn cho đến lúc chất độc loại hết ra ngoài; ống tiêu hóa được nghỉ; bộ tuần hoàn không bị mệt vì chất bổ tới nhiều. Người nào đau bệnh nặng phải nhịn ăn, Các bệnh kinh niên, trước khi chữa phải cho bệnh nhân nhịn đói. Mỗi khi người ta thấy trong mình bất thường thì nên nhịn đói hoàn toàn, để cho cơ thể được nghỉ ngơi. Riêng phần tôi, tôi rất có kinh nghiệm về thuật nhịn đói, bởi vì tôi thường dạy thuật ấy cho các bệnh nhân sắp mổ của tôi. Phần đông nhịn từ hai đến tám ngày; những người phì nộn nhịn ăn và chỉ uống toàn nước cam trong bốn, sáu, tám tuần lễ trước khi mổ. Trong lúc nhịn đói, phải uống nước lá nóng, thêm một ít đường, trà ô mai, trà táo, trà thảo mộc, v.v. Không uống nước thì ăn trái cây tươi có nước, và chọn lấy thứ tốt và phải nhai thật kỹ. Sự bớt ăn ít gắt gao hơn sự nhịn đói. Bớt ăn tức là bỏ bớt một hay vài bữa ăn trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Theo nguyên tắc thì: ANH KHÔNG NÊN ĂN, NẾU ANH KHÔNG THẤY ĐÓI. Con người đào huyệt chôn mình bằng răng của mình: Nhiều bịnh sanh ra vì phép dưỡng sinh xấu, dùng nhiều chất kích thích, rượu, thuốc lá, thịt, và ăn quá nhiều. “Con người không chết, mà chính nó tự giết mình.” “Con người tự đào huyệt chôn mình bằng răng của mình.” Nếu sự tiêu hóa của anh được bình thường thì sau bữa ăn, anh không cảm thấy nặng nhọc, nhức đầu, đắng miệng, lờ đờ, buồn bực, dạ dày khó chịu, kích thích quá độ. Anh có thể làm bất cứ các việc bằng tay chân hay bằng trí óc. Nhưng không nên làm việc nặng nhọc liền sau bữa ăn. Tim phổi vẫn động tác mà anh không hề cảm thấy đau đớn; dạ dày của anh cũng phải được như vậy: nó động tác mà anh không cảm thấy mệt. Anh hãy thí nghiệm như vầy: sau bữa ăn, uống cong mình tới trước, để ngón tay chấm đất. Rồi hết sức ngửa mình ra sau, ép mạnh buồng gan, tức là chỗ bụng. Nếu một trong cách tập ấy làm anh khó chịu, tức là bộ tiêu hóa của anh không đều. Tật dưỡng sinh xấu: Nhiều người, sau một bữa ăn ngon chưa cho là vừa bụng. Trái lại họ cảm thấy như còn thiếu một cái gì. Sự thiếu thốn ấy do dạ dày bị kích thích mà ra, khiến họ mang những tật xấu trong phép dưỡng sinh: ăn thêm đường, đồ tráng miệng, cà phê, rượu chát, rượu mạnh. Sáng dậy mà lưỡi bị đóng một lớp trắng vàng thì dạ dày và ruột động tác không thường. Nếu ruột lười biếng, anh có thể biết được bằng cách uống ba muỗng xúp than cây và xem xét phân vài giờ sau: nếu sau 36 giờ, phân mới nhuộm đen, ấy là vì ruột bài tiết chậm quá. Anh có thể nhờ thầy thuốc rọi điện để xem sự bài tiết mau hay chậm. Bệnh trọng của thời đại là bịnh bón. Phải trừ tuyệt bịnh ấy bằng phép dưỡng sinh, bằng thể dục, uống dầu nhuận trường (paraffine). CHƯƠNG II HÔ HẤP Dưỡng khí: Nguồn gốc của sự sống: Thiếu dưỡng khí tất phải chết...Chết vì máu bị đầu độc. Thở ở nơi thoáng khí, đem vô cơ thể một số dưỡng khí đủ để khử chất độc, lọc máu, kích thích bộ thần kinh và tăng thêm sinh lực. Tập thở: Muốn thở đúng phép, nét mặt phải tươi tỉnh, lạc quan và vui vẻ. Ngược lại, nếu anh thở trúng phép, anh sẽ được tươi tỉnh, lạc quan và vui vẻ. Sự hô hấp sẽ lọc máu bằng dưỡng khí, trục thán khí ra ngoài và đồng thời kích thích những hạch nội tiết, giữ gìn sức khỏe. Phổi có liên lạc với tất cả các cơ thể thuộc về sức khỏe, và mỗi lần anh kích thích phổi, anh kích thích tất cả các hạch làm cho hạch động tác đầy đủ hơn; sinh lực của anh tăng lên. Anh phải tập thở dài hơi và trục ra ngoài tất cả không khí trong phổi. Lúc ngủ phải mở cửa, thông gió vào phòng, và ở chỗ thoáng khí. Nếu vì công việc mà anh phải ở lâu trong phòng thì ngoài giờ làm việc nên chạy chân, bước mau và thở thật dài hơi bằng lỗ mũi. Nếu vì thở quá nhiều mà phải mệt nhọc đờ người đi càng tốt. Như vậy tỏ ra sự tập thở của anh có hiệu quả. Những đứa trẻ lười biếng thở không đúng phép. Những người bạc nhược thở không đúng phép. Những người bắp thịt yếu, ngực lép, mặt mày tiều tụy thở không đúng phép. Họ thở rất yếu. Vậy các anh hãy tập thở và các anh sẽ biến đổi được con người anh cả xác thịt lẫn tinh thần. Sự hô hấp tiêu trừ được bịnh bón, nó làm cho sự tiêu hóa được dễ dàng; nhờ cái hoành cách mạc (diaphragme) làm trung gian, nó cọ xát được những cơ thể ở bụng, gan, mật, ruột và thận. Nó tiêu trừ chất độc và những cặn bã. Hô hấp làm cho người gầy trở nên mập và người mập trở nên gầy. Luyện tập hô hấp: Luyện tập hô hấp là việc bắt buộc, không những bắt buộc đối với người thiếu máu, ngưỡng dưỡng bệnh và người bón, mà còn bắt buộc đối với mọi người. Các bà mẹ trong gia đình, các nhà giáo dục phải hết sức dạy con tập thở cũng như tập viết, tập đọc vậy; việc ấy còn quan trọng hơn là mở mang trí óc huống chi những kết quả tinh thần và vật chất thường tùy theo cách đứa trẻ thở và bài tiết phân trong dạ dày. Cách thở thường dùng: Đứng trước một tấm kiếng, mình trần, đầu thẳng, giữ thân thể trong một điệu bộ đúng đắn, anh từ từ hít vào bằng lỗ mũi, hai tay giăng chữ thập và cố hết sức kéo ra phía sau; anh giữ hơi thở vô một lúc, rồi từ từ thở ra bằng mũi, kéo hai tay tới trước hoặc xuôi xuống vế. Anh làm như vậy mươi lần. Cách thể thao hô hấp nầy nên làm mỗi buổi sáng hoặc tối khi anh tập thể thao. Trong các trò chơi thể thao, anh nên lựa trò chơi nào nở nang bắp thịt và làm cho thở dài hơi: bơi lội, trèo núi, đánh quần vợt, nhảy dây, v.v. Nếu thầy thuốc ra lệnh cho anh nghỉ thì nên nằm trong giường mà thở dài hơi, và co giãn bắp thịt. Lồng ngực của anh càng nở lên bao nhiêu thì sinh lực của anh cũng tăng lên và sự động tác cơ thể càng đầy đủ hơn bấy nhiêu. Phương pháp thở nhiều hơn mức thường: Làm thế nào để tập thở nhiều hơn mức thường. BẰNG KHÍ CỤ: Dùng máy thở (spiromètre) Pescher hay Blum, hay là dùng một cái bong bóng cao su thổi cho thật no tròn lên. Mỗi một hơi thở phải lâu chừng 15 giây, đừng ít hơn. Phải thở chừng trăm hơi trong một ngày chia ra làm hai ba lần. Hít hơi vào bằng mũi. BẰNG CÁCH ĐẾM: Hít hơi vô thật mạnh bằng mũi, làm cho đầy phổi, giữ mình thật thẳng, rồi vừa nín hơi vừa đếm đến mười, và từ từ thở ra cho sạch phổi. BẰNG CÁCH NÍN THỞ: Anh lấy một chiếc đồng hồ tính giây, anh hít hơi vô thật mạnh bằng mũi, rồi nhìn đồng hồ, anh để ý xem anh có thể giữ hơi thở được bao lâu; bình thường thì anh có thể giữ hơi thở trong 45 đến 50 giây, nhưng với sự luyện tập, anh sẽ giữ được một phút và hơn nữa. Cách thức ấy đồng thời là một phương pháp tự kiểm soát sức khỏe; đại thể, một người giữ được hơi thở càng lâu, sức khỏe của người ấy càng nhiều, sự tuần hoàn máu huyết càng tốt. BẰNG CÁCH THỞ CHẬM LẠI: Anh lấy một chiếc đồng hồ và anh cố gắng thở mỗi phút một hơi; khi đã tống thật hết hơi thở trong phổi ra, anh hít vào từ từ, vừa nhìn đồng hồ, vừa cho hơi vào thật nhiều trong hai mươi giây, rồi anh nín hơi lại trong hai mươi giây, và sau hết anh thở hơi ra trong hai mươi giây. Hơi thở ấy kéo dài trong sáu mươi giây. Nếu ban đầu anh không thể làm đúng theo thì giờ định thì nên tập cho đến lúc làm được. CHƯƠNG III KHÚC RUỘT GIẾT NGƯỜI Ruột già, chỗ sanh ra chất độc: Metchnikof đã chứng minh rằng sở dĩ đời người ta ngắn ngủi là tại khúc ruột già sanh chất độc. Thật vậy, con người đã chứa trong khúc ruột già hàng ngàn triệu vi trùng; ruột già bài tiết chất độc, chuyền sang máu và ngấm ngầm phá hoại cơ thể để đưa đến bịnh tật, già yếu và chết. Nhà bác học ấy kết luận rằng muốn sống lâu phải cắt bỏ khúc ruột già hoặc làm tiêu những chất độc chứa trong khúc ruột ấy. Từ đó, những ý nghĩ của Metchnikof đã được đem ra thực hành. Cách đây hai mươi năm, nhà ngoại khoa nước Anh tên là Arbuthnot Lane đã bỏ khúc ruột già để chữa những bệnh phạm độc do ruột già sinh ra và thu được nhiều kết quả rất khả quan. Nhiều lần tôi theo gương nhà ngoại khoa ấy, với một kỹ thuật khác mà vẫn cùng đến những kết quả như nhau. Nhưng không phải lúc nào cũng phải cắt bỏ ruột già, có những cách trị bệnh đơn giản hơn và nhẹ hơn. Tiêu độc trong ruột già: Cách tiêu độc thông thường hơn hết là bài tiết thật sạch ruột già trong những thời hạn nhất định. Ông Guelpa cho rằng thuốc xổ dùng đúng cách sẽ có hiệu quả rất tốt. Trong ngày xổ, người xổ phải uống thật nhiều nước nóng và hoàn toàn nhịn ăn. Thuốc nhuận thì có khoáng du (huile minérale) là thứ tốt hơn hết; nó không làm hại người, có thể uống nhiều mà không khó chịu; dầu khoáng chất để tự nhiên không gia thêm chất thuốc, chất thơm, hoặc chất màu gì; nên uống vào giữa bữa ăn, người lớn một muỗng xúp, trẻ con một muỗng cà phê. Những tai hại sinh ra bởi bịnh bón phía bên mặt: Ruột già chia ra ba đoạn nằm theo ba chiều. Một đoạn nằm phía bên mặt, một đoạn phía bên trái. Đoạn nầy dính với cuống ruột; sau hết, ruột già xuyên ngang qua giữa hai đoạn nói trên và làm thành chữ V mở ra ở phía trên. Ruột già chứa đựng hàng ngàn triệu vi trùng; khi các vi trùng ấy nằm trong phân cứng, và khi phân ấy được bài tiết đều, sau khi phân nằm trong ruột già ít lâu, thì sự nguy hiểm chưa có bao nhiêu. Nhưng nếu phân bài tiết không hết, nếu sự bài tiết chậm trễ khiến nó dồn về đoạn ruột bên mặt, chỗ mà phân còn là chất lỏng, thì vi trùng và chất độc dễ bị tẩm vào ruột; vi trùng và chất độc ấy chuyền sang cơ thể; gây ra vô số bịnh và nỗi bất an. Bởi vậy khi mà sự bài tiết chậm trễ và phân còn khô, thì nỗi bất an chưa xuất hiện; khi mà bịnh bón bên trái chuyền sang bên mặt thì nỗi bất an xuất hiện. Bịnh bón trở nên nguy hiểm và phải nhờ đến thầy ngoại khoa. Luyện ruột: Muốn phòng và trị bệnh bón, phải tiêu diệt nguyên nhân sinh ra nó. Nguyên nhân bệnh bón như thế nào?... Nguyên nhân thứ nhất là bộ ruột không đặng luyện tập. Đứa hài nhi bị hạn chế việc đi ngoài tức là nó đã bắt đầu mang bệnh bón; trẻ con phải được đi ngoài tùy theo ý muốn của nó tức là mỗi ngày ba lần. Khi mà người vú muốn cho trẻ con chỉ đi ngoài mỗi ngày một lần thì bịnh bón bắt đầu xuất hiện; bịnh bón ấy mỗi ngày nặng thêm trước khi đứa trẻ khởi sự đi học; người mẹ chỉ chú ý cho con ăn (ăn thật mau) bữa ăn sáng, mà không nghĩ đến điều quan trọng nhất tức là cho nó bài tiết sạch ruột. Ít nữa người mẹ cũng biết thay bữa cà phê sữa hoặc sô cô la bằng trái cây tươi, cháo bột. Như vậy người mẹ còn có thể nói được rằng mình lo trừ độc và bổ dưỡng con! Ở nội trú, nữ học sinh ghê tởm những nhà xí vừa không được sạch, vừa ít; bà giáo không cho phép học trò đi nhà xí bởi vì bài chính tả đương lỡ dở. Đó là một điều rất phi lý. Khi đến nhà lạ, trẻ con không chịu đi ngoài, dầu lòng muốn đi; nó chờ giờ nầy sang giờ kia, và như vậy dạ dày thêm lười biếng. Tưởng rằng đi ngoài mỗi ngày một lần mới hợp với sinh lý là tưởng sai; người Mọi đi ngoài mỗi ngày nhiều lần. Xong bữa ăn mà nghe chột dạ là đi ngay. Nó không bị ràng buộc vì những lối xã giao và có thể chồm hổm ngay giữa rừng. Sự cần thiết của sinh tố và tế bào tố: Sự dưỡng sinh của ta không được tự nhiên. Trẻ con và những người yếu thích ăn vật thực nghiền, không nhai, không cho thấm nước miếng; ăn nước rau hầm hoặc bánh bột sạch cám và thay vì ăn trái cây tươi nhai thật nhỏ cả vỏ rửa sạch thì họ lại ăn trái cây nấu chín, thứ không tốt. Họ ăn gạo sạch cám tức là một thức ăn đã chết, không có sinh tố và không có tế bào tố. Thịt, trứng, cá, sữa, đường không để lại trong ruột một cặn bã nào và không kích thích bắp thịt của ruột. Nếu ruột không được kích thích, nó sẽ teo lại như bao nhiêu bắp thịt khác, nó không dun lại được và như vậy mỗi ngày nó trở nên lười biếng. Trái lại, vật thực đủ chất, trái tươi thật chín, rau sống, hoặc rau hấp hơi, sẽ sanh ra cặn bã, bào sạch và kích thích ruột. Thể dục và thể thao: Các nhà giáo dục khinh thường sự luyện tập lá phổi cũng như sự luyện tập dạ dày. Ở trường học, thể dục giữ một địa vị không quan trọng trong chương trình vì nó làm mất thì giờ (!); người ta coi thường thể thao vì sự thực hành gặp nhiều trở lực; sự khinh thường cũng có hại cho phái phụ nữ, vì chính những lối thể thao ngoài chỗ thoáng khí thích hợp cho đàn bà cũng như cho đàn ông và có khi hơn nữa. Một người đàn bà khi làm việc nhà hoặc đi thăm viếng ngỡ rằng mình đã tập thể dục rồi. Không, thể dục cần phải tập theo phương pháp; người tập trung thành cũng như mọi sự hoạt động thể dục một cách thật trung thành cũng như mọi sự hoạt động trong gia đình, nghề nghiệp và xã hội. Lo cho thể thao và thể dục cũng ích lợi như lo nhà cửa và trò chơi vậy. Các anh hãy dành thì giờ đủ để tập đi bộ, đánh quần vợt, chạy bộ, nhảy dây, hoặc tự chùi lấy nền nhà bằng tay hay bằng chân của mình. Không nên dung dưỡng những cái bụng không thăng bằng:Các bà, nên tổ chức thể thao cho con gái mình. Các cô, nên hy sinh những cuộc khiêu vũ và giảm những bữa trà để thì giờ tập thể thao ngoài chỗ thoáng khí. Trong những ngày nghỉ hè thì nên đi đóng trại. Khi có chồng, làm chủ gia đình, nên săn sóc thân thể như các cô đã săn sóc khi còn thanh xuân; nếu không, các cô sẽ già rất mau và hạnh phúc gia đình sẽ tiêu tan. Nhờ sự luyện tập thân thể mà các cô tránh được vô số bệnh hoạn do đời sống thiếu hoạt động gây ra. Chính người sanh ra các cô đã coi thường phần quan trọng ấy của giáo dục nên mới có rất nhiều các bụng thiếu thăng bằng, có rất nhiều đàn bà quá mập, quá ốm, hoặc đau yếu. Bao nhiêu tật bệnh ấy đều do đời thiếu hoạt động ngoài thoáng khí mà ra cả. Luận về vi trùng: Sự bài tiết chậm, rất có hại cho cơ thể là vì kho vi trùng chứa đựng trong ruột từ đâu mà đến? Từ lỗ mũi, từ miệng. Tất cả các bệnh hoạn không phải nhất thiết vì vi trùng mà ra. Một bệnh có thể phát sinh ra được phải do: một là có chỗ thuận tiện; hai là có những vi trùng gây bệnh. Hai người uống nước có vi trùng thương hàn. Nếu có một người mạnh, thì người ấy không mắc bệnh; trái lại, nếu có một người yếu thì người ấy nhiễm phải bệnh thương hàn. Cơ thể có thuận tiện cho bệnh thì bệnh mới phát được, đó là kết quả của một phép vệ sinh không tốt. Chúng ta có người chống lại được vi trùng, nhưng không nên lạm dụng cái sức mạnh bề ngoài ấy; nếu người ta tiêm vào cho các anh vi trùng bệnh dịch, hoặc một thứ bệnh nào thật nặng thì chắc chắn rằng các anh nhiễm mắc những bệnh ấy không sót một người, vì sức phá hoại của nó mạnh vô cùng. Theo nguyên tắc thì không nên sợ vi trùng, mà cũng không nên khinh nó, đừng nên thử với vi trùng. Vệ sinh và sạch sẽ: Các anh nên nhớ rằng vi trùng vô cơ thể bằng mũi và miệng; chặn đường đi của chúng bằng cách rửa mặt rửa tay thật sạch trước khi thức dậy, và khi đi ngủ, ngoáy mũi bằng bông gòn nhúng dầu sát trùng, đánh răng bằng xà phòng. Trong bữa ăn, rửa sạch trái cây, và nếu các anh chưa rửa tay thì đừng ngồi lại bàn ăn; coi chừng cắt móng tay của trẻ con cho thật sát. Không nên để tay dơ cầm đồ ăn. Nên dùng rượu rửa đầu ngón tay; tốt hơn hết là đừng ăn lặt vặt ngoài bữa ăn. Dùng thì giờ ăn lặt vặt ấy để đi bộ, đánh quần vợt, tập thể thao, và cho dạ dày nghỉ. Tập cho trẻ con đừng ăn bánh ngọt để ngoài bụi bặm, và ruồi nhặng; ruồi nhặng là giống thú nguy hiểm nhất; nó đem vi trùng độc lên núm vú của trẻ con và lên vật thực. Vậy đừng nên để giống ruồi sinh sản ra nhiều và phải dùng phép vệ sinh trừ tuyệt chúng nó. Đàn ông cạo râu cằm, đàn bà hớt tóc ngắn, đó là sự tiến bộ trong phép vệ sinh. Tối lại nên rửa mặt và đánh răng sạch sẽ trước khi đi ngủ, thoa lỗ mũi bằng dầu sát trùng. Chưa rửa tay thì không nên ăn chi cả, móng tay của trẻ con và của người nấu ăn phải cắt thật sạch và nhờ đó, một số lớn vi trùng theo ống tiêu hóa vô cơ thể sẽ được giảm bớt. CHƯƠNG IV HIỆN TƯỢNG TRÚNG ĐỘC VÌ RUỘT Tai nạn thần kinh: Những người trúng độc vì ruột thường mệt mỏi, không hoạt bát; người thì lười biếng, suy liệt; người thì lại nóng nảy; người thì lờ đờ; người thì mất ngủ và trong giấc ngủ thường hay mộng mị. Về tinh thần và vật chất họ đều uể oải. Người hay phàn nàn lười biếng, nhức đầu, nhức mỏi xương sườn, xương hông, đau mặt, đau vú, thì phải để ý đến bịnh bón bên mặt. Máu huyết chứa chất độc nhiễm vào gân và làm rối sự động tác của bộ thần kinh. Nhiều người nhức đầu chỉ vì bịnh bón phía bên mặt. Chữa được bịnh bón ấy thì hết bịnh nhức đầu. Buồn bực và chán nản: Phần đông những người trúng độc vì ruột hay đâm ra buồn bực, khốn khổ. Họ ngủ dậy mệt mỏi, chán nản và không biết sinh thú. Phần đông thiếu nữ không thích lấy chồng và khi lấy chồng rồi thì không làm bổn phận người vợ, khiến chồng phải cực khổ vì tánh hay dàu nhàu, hoặc vì bịnh mệt mỏi thường xuyên. Các bà ơi, nếu con gái các bà mắc bịnh bón thì không nên cho đi lấy chồng, nếu không thì con các bà sẽ khốn khổ, và bị chồng bỏ. Các cô sẽ kêu van nhức đầu, mệt mỏi, sốt rét, mỗi tháng nằm dài luôn hai ba ngày, khiến chồng phải bực dọc. Cũng may mà các thiếu nữ mắc bịnh bón thường không thích lấy chồng, chính vì kẻ làm cha mẹ thúc giục họ lấy chồng; đó là một lỗi lớn của kẻ làm cha mẹ. Những người mắc bịnh bón bị liệt vào hạng người ưu uất, nóng nảy, đau thần kinh, đau óc và làm khổ cho cha mẹ, chồng con. Nếu đem rọi kiếng thì sẽ thấy rằng họ mắc bịnh bón. Chữa lành bịnh bón rồi, họ sẽ lành mạnh như thường. Vậy thì cũng nên vì hạnh phúc gia đình mà chịu tốn một lần rọi kiếng và mua một lít dầu xổ. Bịnh ngoài da: Người trúng độc vì ruột thường sẫm da, nhứt là những chỗ có lằn xếp của tứ chi, ở góc cổ, ở phía sau cánh tay. Bì phu bẩn thỉu, như tuồng không tắm rửa, mồ hôi có mùi khó chịu. Mụn nổi lên, lông mọc ở chỗ không đáng mọc, và không mọc ở chỗ đáng mọc. Tóc rụng rất sớm và trái lại lông men mọc rất nhiều ở má, ở phía sau cánh tay. Một số lớn bịnh ngoài da: bạch điển, ngứa không vì nguyên nhân nào khác hơn là bịnh bón. Mỡ trong thân thể tan ra, tứ chi ốm gầy, những nét cong của thân thể thành ra góc cạnh; da thành ra nhão và vàng héo rất sớm, con người do đó mà trở nên xấu và già. Bịnh về tiêu hóa: Những người trúng độc vì ruột không thích ăn, không thích sống và hoạt động, lưỡi trắng, hơi thở hôi hám, miệng đắng; rượu khai vị không kích thích được tì vị nữa; tiêu hóa rất chậm; ăn no thì mệt dạ dày. Thầy thuốc cho là mắc bịnh đau ruột, bịnh không tiêu, ruột dư, và chữa đủ cách, nhưng trước sau vẫn vô hiệu. Bịnh về tuần hoàn: Những người trúng độc hay lạnh; mũi, tai, tay, chưn đều lạnh. Da hay bị nẻ. Những người bịnh ấy thường ưa trời nóng, những chỗ cao và không chịu được khí hậu bờ biển, không chịu được mùa lạnh; họ thường bị bịnh đập tim, hơi thở ngắn trong lúc đi mau. Bắp thịt teo lại: Gân thịt của người trúng độc đều suy liệt; bắp thịt mềm và người bịnh thích nằm, lưng cong; con gái thì vẹo xương sống, con trai thì khuyềnh đầu gối. Bịnh sa ruột bắt buộc người bịnh phải mang áo chẽn hoặc dây nịt. Thương tích ở vú: Khi người đàn bà kêu đau ở gần vú thì nên cho rọi kiếng ống tiêu hóa. Phần nhiều thì thương tích gốc tại ruột. Ruột được tẩy sạch thì vú được bình thường. Tôi nhận thấy đàn bà đau ung thư ở vú, tám mười phần vì bịnh bón. Nếu người ta đề phòng bịnh bón 10 hoặc 15 năm về trước, họ khỏi sưng vú, hay mắc bịnh ung thư. Bịnh ở hạch: Chất độc từ trong máu tiết ra làm suy mòn tất cả các hạch, nhứt là hai vú, hạch dưới não (não đột khởi), buồng trứng, tất cả các hạch nội tiết, v.v. Một số đông đàn bà trong thời kỳ kinh nguyệt bị bắt buộc phải nằm vài ba ngày hay vài ba giờ. Một số lớn không có con; nhiều người bị mổ xẻ nhưng vẫn không lành bịnh. Bịnh đau khớp xương: Những kẻ trúng độc vì ruột thường mắc bịnh đau khớp xương rất nặng. Một số trẻ con nằm trong các bịnh viện ở bờ biển để chữa bịnh lao xương, hạch và khớp xương nguyên do vì bịnh bón bên mặt và nếu bịnh bón ấy được chữa trước thì những tật bịnh ấy không có nữa. Hô hấp không đủ : Bịnh trúng độc vì ruột làm mất sự cần thiết và năng lực thở dài hơi. Thở không đủ quay lại hại đến ruột. Phần đông những người trúng độc vì ruột có nước da xanh hay sạm, mặt dài, ngực lép, lưng cong, miệng há. Mỗi người đứng tuổi lành mạnh phải đủ sức đưa một hơi thở ra ít nữa được ba lít. Anh có thể đo sức hô hấp của mỗi người bằng bốn cách sau nầy: 1 Đổ nước đầy một cái chai ba lít, chúc họng chai vô một cái thau đầy nước, cổ chai phải chìm trong nước; thổi vào cổ chai với một ống cao su. Các anh phải dùng một hơi thở thổi sạch nước trong chai ra. 2 Hít hơi vô bằng mũi, rồi thở ra đếm đến 60. 3 Nhìn đồng hồ, hít hơi vô thật đầy và thở ra, không nghỉ, trong 45 giây. 4 Thổi tắt một cây đèn cầy cách 1 thước 25. Nếu người ta chịu khó tập cho những người bị độc biết cách thở, thì chắc chắn dưỡng khí nhập một phần lớn vào các cơ thể làm kích thích ruột và làm giảm bớt nhiều bịnh. CHƯƠNG V CHỮA BỆNH TRÚNG ĐỘC VÌ RUỘT Những cách chữa không công hiệu: Số người trúng độc vì ruột không được chữa đúng phép rất đông, Thầy thuốc cho là họ mắc chứng thống phong, đau thần kinh, thiếu huyết, đau ruột, sưng tù và, nóng tử cung, bịnh hiếm con, v.v. Thầy ngoại khoa mổ thận, cắt ruột dư, chữa tử cung, vẹo buồng trứng, bị gạo, nhưng vẫn không hiệu quả. Họ hết sức tìm sức khỏe, dùng đủ thầy, đủ thuốc, nằm dưỡng tháng nầy năm kia ở các nơi chữa bịnh danh tiếng. Rốt cuộc họ chết vì bịnh lao, bịnh động mạch (artério scléróe), bịnh ung thư (cancer). Trúng độc mà không biết: Làm sao biết rằng những người chán đời ấy mang mối đau khổ của họ tận trong ruột? Nhờ quang tuyến và thử vi trùng trong phân. Nhưng anh sẽ bảo rằng mỗi ngày anh đều đi ngoài thì cần gì phải rọi quang tuyến X để biết ruột có được sạch hay không… Anh lầm, sự đi ngoài thường đó chỉ là bề ngoài mà thôi. Thử đặt một cái gàu dưới một cái vòi nước chảy; gàu vẫn đầy mặc dầu nước tràn ra ngoài. Chỉ có quang tuyến X mới thấy được sự thật và phải rọi luôn bốn năm lần liền như thế (mỗi lần cách nhau 12 tiếng đồng hồ). Ăn uống đúng phép: Ăn cơm gạo lứt có đủ sinh tố, rau hấp hơi, nhai kỹ, ăn trái tươi thật chín, rau sống, v.v. Đó là những cách làm kích thích ruột, sanh ra phân và tống những cặn bã tiêu hóa ra khỏi ruột. Vệ sinh và dầu xổ: Ngừa bịnh tốt hơn là chữa bịnh. Làm sao tránh được sự trúng độc vì ruột? Trước hết phải theo vệ sinh. Khi mới sanh, không nên hạn chế hài nhi đi ngoài, mà để nó được đi tự nhiên. Về sau muốn hạn chế cũng được, nhưng đừng bắt buộc phải đi mỗi ngày một lần; tập cho nó đi mỗi ngày hai hay ba lần thì tốt hơn. Phải đánh răng sáng và chiều, tập đi ngoài hai lần sau hai bữa ăn. Nên làm nhiều nhà tiêu ở các nhà riêng, nhà công, trường học để tránh sự chờ đợi. Nếu thấy ruột bài tiết chậm thì nhờ khoáng du (paraffine), trẻ con uống một muỗng cà phê, người lớn một muỗng xúp. Phải uống dầu ấy giữa bữa ăn; uống luôn luôn không thời hạn. Muốn kích thích sự đi ngoài thì mỗi buổi sáng nên nhét vào hậu môn một ống chui (cône) bằng cao su đen trong hai mươi phút. Luyện tập thân bụng: Nhờ đến thể dục, xoa bóp, để luyện tập thân bụng. Có những lối tập rất hiệu quả. Nằm sấp xuống đất, chưn dở lên khỏi đất, tay xuôi hai bên hoặc để sau ót. Rồi nằm như thế, anh trườn tới quanh phòng bằng những bắp thịt bụng. Đối với trẻ con hoặc người yếu, nóng tánh thì thứ thể thao tốt nhứt là nhảy dây. Co duỗi và vặn mình: Năng luyện tập thân bụng theo cách dưới đây: nằm ngửa dưới đất, tay khoanh trên ngực, ngồi dậy từ từ, hai chưn không động đậy, sáng và chiều làm như vậy hai mươi lần, mới đầu anh nên mắc chưn dưới một vật nặng (chân giường, chân tủ…) để cho dễ làm. Luôn luôn nằm ngửa, dở hai bắp vế lên mà không xếp hai đầu gối, và đưa hai chưn về phía đầu; hai chưn phải duỗi thẳng. Hạ lần lần xuống sát đất, đầu gối không xếp. Đứng thẳng, hai tay để sau ót, hết sức rút cùi tay về phía sau, xoay quanh thân mình, rồi nghiêng về bên mặt, nghiêng về bên trái. Trườn như con lươn: Cử động nầy ích lợi hơn cả nhưng lại mệt hơn cả. Không những nó làm thành một lối thể thao bụng hoàn toàn nhứt, mà còn thực hiện được sự cọ xát bụng nữa. Nếu ở bờ biển thì ở trần truồng hay mặc quần áo tắm, ở nhà thì nằm trên sàn nhà ngớt đầu ra phía sau để khỏi hít bụi đất: muốn tránh bụi, người ta có thể đeo ở mũi và miệng một mảnh vải với một sợi dây thun quàng sau mang tai; không khí hít vô sẽ được lọc qua miếng vải. Tóm lại, nằm sát bụng, tay để sau ót hay quàng ra sau lưng, chưn dở lên không, đầu gối thẳng, thân hình như một vòng cung, đầu vòng cung sát đất, trườn tới bằng cách nghiêng mình bên mặt, nghiêng mình bên trái, như một chiếc tàu gặp trời xấu. Luyện tập như thế trong năm phút, sáng và chiều. Thể thao ngoài trời: Bắt một người ở thành thị tập thể thao và một việc khó. Bắt một người trí thức ở thành thị tập thể thao lại càng khó hơn. Bắt hơn một người đàn ông ở thành thị tập thể thao là việc khó; bắt một người đàn bà thành thị tập thể thao lại càng khó hơn. Người thành thị thích đọc sách, âm nhạc, chơi bi da, đánh bài, hát xướng, viếng thăm, đi mua hàng hơn là đi bộ, đi xe máy, đánh quần vợt, hoặc đánh cầu. Nhưng, người làm việc trí thức lại phải tổ chức sự nghỉ ngơi và vệ sinh một cách cẩn thận cũng như công việc làm hằng ngày của họ, phải tổ chức một cách cẩn thận bởi vì không có gì quan trọng hơn là sức khỏe; hơn nữa, đối với người trí thức tập thể thao cần phải gắng sức nhiều hơn là những trò giải trí tinh thần. Phép trị bịnh bằng tinh thần: Không nên bộc lộ nỗi khốn khổ của mình với ai cả, cũng không nên bộc lộ với mình nữa. Anh nên tự bảo và bảo với kẻ khác rằng: “Tôi mạnh giỏi luôn.” Càng tin mình mạnh giỏi, anh sẽ thấy anh mạnh giỏi. Anh sẽ hiểu được ảnh hưởng của tinh thần đối với thân thể. Tự kỷ ám thị rất cần để chữa những bịnh kinh niên. Lời khuyên các bà mẹ: Các bà hãy lo săn sóc hai bàn tay của con bà và của người bếp nấu ăn. Tổ chức sự tập thể dục và thể thao cho cả nhà. Nói với chồng bà rằng đi câu và đi bắn chưa đủ để làm cho con người trẻ và mạnh. Để sẵn trên bàn ăn một bình dầu xổ (paraffine) mà các bà rót vào ly của ông khách hay cau có. Các bà có thể tin rằng những người buồn là những người bị trúng độc vì ruột. Nếu sức khỏe các bà gặp sự bất thường, nếu sự bất thường ấy chứng tỏ rằng bà trúng độc vì ruột (nhức đầu, thiếu máu, mất ngủ, nóng tánh, thân thể suy liệt, gầy ốm, đau bụng, đau ruột, khó tiêu, đau bịnh ngoài da, kinh huyệt không đều), các bà phải làm sao? Phải rọi kiếng liên tiếp (bốn hay năm lần liền nhau cách 12 tiếng đồng hồ một lần). Nếu chỉ mắc bịnh bón bên trái, thì nên theo những phép vệ sinh vừa chỉ ra trên kia; với sự nhẫn nại và bền chí, kết quả sẽ thập phần mỹ mãn; nếu mắc phải bịnh bón bên mặt thì phải lo áp dụng phép vệ sinh và chữa bịnh bằng thể thao; nếu cách chữa ấy không kiến hiệu thì nhờ đến thầy ngoại khoa. Phòng ngừa bịnh bón cho con các bà bằng cách tập chúng nó đi ngoài rất thường, ăn uống hợp phép, chơi thể thao ngoài thoáng khí và luyện tập thân bụng. Khi bịnh bón còn bên trái thì có thể chữa bằng thể thao, thể dục, xoa bóp, dầu nhuận và phép dưỡng canh. Nếu bịnh bón ở bên mặt, và nếu các bà biết cách chữa thì chín phần mười có thể chữa được mà không cần đến phải mổ. Trong trăm người mắc bịnh bón chỉ có một người phải mổ mà thôi. Lời khuyên người trẻ tuổi: Khi nào anh đã đến lúc thành gia thất thì anh nên theo phương pháp khoa học mà chọn lựa bạn trăm năm. Anh đừng nên phó thác sự lựa chọn ấy cho người mối lái. Anh nên đòi cho được một bức hình chụp đúng dung nhan của người anh để ý, giao bức hình ấy cho một người xem tướng; kế đến anh đòi một trương chữ viết để giao cho người chiết tự; và sau rốt, anh đòi một mớ hình rọi kiếng để xem ruột có bài tiết sạch không, hoặc ruột có dài thêm ra không. Anh không nên cưới người thiếu nữ có ruột dài thêm vì anh sẽ khổ… Nếu anh đã quá yêu thì nên chữa cho người yêu thật lành bịnh. Phép vệ sinh dùng chung cho những khí chất khác nhau: Công dụng của sự luyện tập là làm cho tứ chi nẩy nở và khí chất điều hòa. Mỗi khí chất đi đôi với một số năng lực thần kinh mạnh hơn hết và mỗi nhóm năng lực ấy có ảnh hưởng đến sự hoạt động của bắp thịt. Tỉ dụ như năng lực chiến đấu làm nở bắp thịt tay và vai. Người có khí chất chiến đấu thường muốn phát triển bắp thịt tay và ngực. Khi người ấy không tập thể thao hoặc làm việc bằng tay thì cũng dùng hai cánh tay để khoanh lên ngực, (như Napoléon), hay để ra điệu bộ, v.v. Tánh cương quyết làm nở bắp thịt chưn. Tánh tự trọng làm nở các bắp thịt giữ cho đầu ngay, mình thẳng, ngực phưỡn lên. Lối hoạt động ôn hòa, dễ dàng, vui vẻ như những trò chơi trẻ con, làm tăng khí chất ham sống. Những người có khí chất ham sống thường thích những cuộc du ngoạn ở thôn quê trong khí trời mát dịu, ở những nơi thắng cảnh cùng bạn bè. Những trò thể thao, tức là những sự vận động mau lẹ, gắt gao, từng lúc, khi làm khi nghỉ, làm tăng khí chất phát động (tempérament moteur). Loài người có thể chia ra hạch tích cực (positif) và tiêu cực (négatif), hoặc chủ động (passionné) và thụ động (passif). Những người hăng hái, ham hoạt động thuộc về hạng chủ động (type passionné). Những người ấy phải theo một phép dưỡng sinh ôn thuần. Những người tiêu cực, thụ động, lãnh đạm, lờ đờ, suy liệt cần phải tập thể thao, phải luyện tập, mạnh bạo, và tắm nước lạnh. Phải tùy theo sức khỏe, lực lượng của mỗi người mà luyện tập. Hơn nữa, những trò thể thao mạnh bạo rất thích hợp với những trẻ, mạnh. Những trò thể thao ôn hòa thích hợp với những người đứng tuổi, sức lực trung bình; những trò thể thao nhẹ thích hợp với người già yếu. Các anh làm sao để biết một trò thể thao hợp với sức lực của anh? Các anh hãy nghe trái tim đập. Nếu sau khi nghỉ tập hai mươi phút rồi mà trái tim không đập theo nhịp thường thì sự tập đã quá mức. Nếu vậy thì anh nên nằm mà tập. CHƯƠNG VI VỆ SINH BUỔI SÁNG Ngủ dậy: Nên ngủ dậy sớm: 8 giờ ngủ - 8 giờ làm việc - 8 giờ dùng vào việc khác. Giờ ngủ tốt nhứt là chín, mười giờ tối; giờ thức dậy thì năm hoặc sáu giờ sáng. Giờ ngủ trước nửa giờ đêm có lợi bằng hai; giờ làm việc trước tám giờ sáng cũng lợi bằng hai. Tắm nước: Vệ sinh buộc mỗi người khi thức dậy phải tắm ba cách. Tắm nước thì lựa một trong những cách tắm nầy: tắm nhiều nước nóng, một chậu nước lạnh hay hâm hẩm; rửa mình, tắm với nước vòi hoặc áp một khăn ướt, áp bàn tay ướt lên da của từng bộ phận (một tô nước vừa đủ); điều cốt yếu là áp nước lên da. Thấm nước khắp thân thể, từ chưn tới đầu, rồi lau chùi chà xát thật mạnh, xong rồi thì xoa bóp. Tắm không khí: Nếu ở trần trong lúc tập và lúc tắm, cửa sổ mở bất cứ mùa nào. Nếu sợ người ngoài dòm ngó thì treo một tấm vải ở cửa. Nếu ở nhà quê thì nên tập ngoài thoáng khí. Tắm bên trong: Vừa ngủ dậy thì uống một ly nước lớn, hớp từng hớp nhỏ, và nằm nghỉ một lát. Rồi khởi sự tập thể thao ở bụng và ức. Xoa bóp: Xoa bóp cả thân thể là một điều cần ích không những cho người bịnh mà cho cả người mạnh. Người La Mã dùng xoa bóp để loại chất độc sinh ra vì ăn quá nhiều. Họ thích giữ thân hình xinh đẹp và sức khỏe cần thiết để tập thể thao và thể dục. Xoa bóp còn giữ sinh lực, tiêu trừ chất độc, giữ sức khỏe cho thớ thịt và bắp thịt: giúp động tác của thận, phổi, và tất cả các cơ quan bài tiết; làm cho máu tuần hoàn mạnh hơn. Đối với những người yếu, nếu được xoa bóp hằng ngày để nặn bắp thịt và thớ thịt mỗi ngày một giờ thì không gì tốt bằng; đối với người mạnh, xoa bóp là một xa xí phẩm có ích. Nhưng thứ xa xí phẩm ấy ít người dùng được nên tốt hơn thì mình phải biết tự xoa bóp lấy. Cách xoa bóp không khó lắm: véo và da khắp thân mình (như người ta nhồi bột) để kích thích các thớ thịt, để bài tiết chất độc. Tự mình xoa bóp cho mình là một lối luyện tập tốt nhứt, lúc ngủ dậy xoa bóp chừng năm phút vừa đủ. Vai trò không khí và ánh sáng (gói 5): Da là một cơ quan mà sự động tác (fonctionnement) cũng quan hệ như thận và gan. Khi đã tắm xong thì phải lau chùi cẩn thận từ chưn lên đầu, rồi xoa mình với một cái khăn lông hay một bao tay nhám cho đến khi da trở nên đỏ. Công việc nầy tốn chừng năm phút. Sự động tác của nó và sự tiếp xúc giữa nó cùng khí trời và ánh sáng thật là quan trọng cho nên phải hết sức tránh những quần áo không hút nước và quần áo đen. Chà xát vào mình: Khi chà xát vào mình, phải rửa tay thật sạch sẽ; không nên chà xát nếu chưa rửa tay bằng rượu thơm hoặc với nước và xà phòng; bàn tay khi xát qua da khô, làm rụng lông, khiến trùng độc nhập vào da. Mụn và nhọt nổi lên nếu gặp tay dơ. Có người thấy mụn nhọt nổi lên tưởng tượng đó là sự rút độc, sự bài tiết chất độc trong cơ thể ra ngoài da: họ lầm lạc rất lớn. Nguyên nhân chính là tại tay dơ bẩn. Có người xát mình bằng rượu hoặc nước hoa: chỉ nên dùng rượu để xoa tay mà thôi, bởi vì rượu hay lên hơi, và dễ nhập vào phổi. Xát mình bằng nước hoa cũng bằng uống nửa ly rượu. Trật tự phải theo: Khi ngủ dậy phải làm theo thứ tự những việc sau nầy: uống nước; trong lúc còn nằm tại giường, tập hô hấp, xoa bóp ở bụng; thể dục đứng, chà xát ngoài da, nằm nghỉ từ năm đến mười phút. Sự nghỉ thêm ấy tập cho ta tánh ung dung. Châm ngôn của sức khỏe và hạnh phúc là: “Không vội vàng, không bận trí.” Anh phải ung dung để khởi sự một ngày làm việc. Ăn điểm tâm: Khi tập xong rồi, và chỉ khi ấy mới được ăn điểm tâm. Hơn nữa, không đói thì không được ăn; người nào không đói thì nên nhịn ăn, chỉ uống một cốc nước rồi chờ cơm trưa. Người ta hay dùng bằng cà phê sữa hay sô cô la trong buổi ăn sáng. Đó là những món khó tiêu và ít bổ. Bữa ăn sáng tốt những là một bữa ăn gồm các thứ trái cây theo mùa. Ăn trái tươi, không nên thêm đường. Nên ăn cơm gạo lứt, gạo giã trắng đã mất nhiều chất bổ. Sức khỏe và khinh khoái: Thể dục làm cho ta có sức khỏe, khinh khoái và cảm thấy hạnh phúc. Nhờ thể dục mà ta làm việc được nhiều kết quả hơn và nhứt là phát triển được ý chí của ta. Mỗi lần phải dậy sớm, phải đưa da thịt tiếp xúc với khí trời, cử động bắp thịt bằng thể dục, và mặc dầu ta mệt mỏi, mỗi lần ta xoa bóp cho ta, tức là mỗi lần ta luyện ý chí. Sự gắng sức liên tiếp ấy còn phát triển khu vực phát lực (zone motrice) của óc não nữa. Thể dục và ý chí: Diện tích của óc não chia ra nhiều khu vực khác nhau; mỗi một khu vực não hồi (zone de circonvolution) tương quan với một thứ hành vi tinh thần nhứt định. Khu vực tinh thần thuộc về tư tưởng; khu vực phát lực thuộc về hành động. Chúng ta càng dùng đến quan năng thuộc về các khu vực ấy thì những não hồi ấy càng phát triển; anh càng nói nhiều, thì não hồi ngôn ngữ càng phát triển; anh càng tính toán thì não hồi tính toán càng mạnh lên; anh càng muốn, thì ý chí của anh càng mạnh, nhân phẩm càng tăng, và càng trở nên quan trọng. Làm sao để phát triển khu vực phát lực (zone motrice) của óc não. Anh phát triển nó bằng cách bắt buộc nó hành động luôn luôn. Tất cả những việc anh cố ý làm về mặt thể chất cũng phát triển khu vực phát lực ấy đồng cân với việc anh làm về mặt tâm đức và tinh thần. Vậy nếu anh biết tự bắt buộc mình thực hành ba cách tắm buổi sáng suốt trong bốn mùa, nhứt là trong lúc anh mệt, anh sẽ phát triển khu vực phát lực và anh sẽ luyện được ý chí của anh. Phải có hy sinh mới có hạnh phúc: nếu sự hy sinh ấy do mình muốn thì sự hy sinh ấy dễ làm và hạnh phúc được hưởng cũng to lớn hơn. Vậy thì thể dục phát triển con người cả mặt thể chất và mặt tâm đức; mình tập quen làm những việc mình đã trù liệu trước do ý mình muốn làm, thì mình luyện ý chí và nghị lực của mình: với thói quen ấy mình sẽ làm chủ được mình và làm chủ kẻ khác. Hãy tự tin: Những lời khuyên trên đây chỉ có thể thành tựu được với điều kiện sau nầy: tin tưởng nơi kết quả. Óc não của ta sai khiến một cách có ý thức hoặc vô ý thức tất cả cơ thể của ta: sự vận động của trái tim, sự động tác của lá phổi, của bộ tiêu hóa: sự dinh dưỡng chung cả toàn thân con người đều tùy thuộc tinh thần của ta. Bởi vậy, mỗi khi ta chán nản, ta không tin nơi sức khỏe của ta, ta phàn nàn đau yếu thì tinh thần của ta truyền xuống cho cơ thể của ta những mạnh lịnh tai hại làm cho ta đau yếu mãi. Vì vậy anh không nên nói rằng mình thiếu sức khỏe; không nên phàn nàn mình đau khổ. Phải tin chắc rằng khéo giữ vệ sanh, anh sẽ có sức khỏe. Nếu anh áp dụng những nguyên tắc ấy, anh đã tự tạo cho mình những điều kiện để chữa bịnh rồi; nhờ sự tin tưởng nơi thành công, óc của anh sẽ điều khiển sự động tác của các quan năng trong người anh được bình thường. PHẦN THỨ BA LUYỆN TINH THẦN VÀ TÂM ĐỨC “Nâng cao tinh thần của mình lên” V.P CHƯƠNG I NẾU MÌNH MUỐN CHINH PHỤC THIÊN HẠ HÃY KHỞI SỰ CHINH PHỤC MÌNH TRƯỚC Chinh phục thiên hạ: Chinh phục thiên hạ nghĩa là gì? Chinh phục thiên hạ nghĩa là tạo cho mình một danh vọng, một cuộc đời độc lập, một thế lực trong xã hội, một tài năng nghề nghiệp, và sau hết sự giàu có, sức khỏe và hạnh phúc. Tất cả những của cải ấy ai muốn cũng có thể được. Anh muốn gì?… Muốn hạnh phúc. Làm sao để được hạnh phúc?... Sức khỏe, thành công và sự vui sướng đã làm ích được cho kẻ khác. Làm sao để có được sức khỏe?... Giữ đúng phép vệ sinh cho thân thể và tinh thần bằng cách tập thể dục. Vì sao anh sẽ thành công ở đời?...Vì anh có đủ tư cách để thâu phục người ta tức là quyền lực hấp dẫn (pouvoir attractif). Tư cách hấp dẫn: Đó là những tư cách thuộc về trật tự và phương pháp; những tình cảm tích cực: lạc quan, tự tin, hào hiệp, nhiệt tâm; những tư cách thực tiễn: hiểu giá trị, óc hợp lý để làm việc được nhiều kết quả; những tư cách tâm đức: ưa điều thiện, cái đẹp, chuộng sự thật, tánh chiến đấu, tánh quả quyết, tinh thần đoàn thể, lòng nhơn từ; những tư cách nghề nghiệp: sự chuyên tâm và nhẫn nại. Tri thức nghề nghiệp: Những tri thức ấy không những được phát triển, mà còn phải cao hơn các tri thức khác. Những tri thức ấy có được là nhờ tánh trật tự, đứng đắn và hay tìm biết những điều hay hơn. Óc phán đoán, lương tâm, tinh thần đoàn kết, tinh thần chiến đấu, bền chí. Người nào có những tư cách ấy nhứt định sẽ thành công và chiếm đặng một địa vị xứng đáng trong xã hội. Tư cách ấy đã có nơi anh: Có thể tạo nên hoặc phát triển những tư cách ấy không?... Có! Nếu anh là người ngu đần, nếu anh thuộc về hạng người hư hèn hoặc điên ngốc, thì sự giáo dục lại con người đối với anh không có ích lợi gì. Nhưng nếu anh đọc được bài nầy, tức là những tư cách cần thiết để thực hiện lý tưởng của anh đã có sẵn trong người anh; anh là một tinh thần được lựa chọn và đáng được huấn luyện. Huấn luyện tinh thần: Đừng nên lầm lẫn sự huấn luyện tinh thần với sự huấn luyện theo nghĩa giáo hóa. Hai phương pháp ấy không cùng một mục đích: huấn luyện và học vấn không giống nhau. Anh nói: “Có người không thành công, và người ấy lại học giỏi, tri thức cao, anh ta là một cựu sinh viên trường bách khoa hay sư phạm. Anh ta có hai ba bằng cấp, nói năm sáuthứ tiếng : anh ta giỏi thật!” Đúng lắm, nhưng cái tri thức ấy không phải là thứ tri thức mà anh ham muốn. Những tri thức mà anh nêu ra đó đáng quý thật, nó tăng thêm may mắn cho sự thành công, nhưng chưa thật đầy đủ được. Có người mang những bằng cấp lớn mà suốt đời phải lang thang nghèo cực. Tại sao? Bởi vì họ không được huấn luyện theo tinh thần thực tiễn. Họ không được điều hòa, họ không huấn luyện một cách đứng đắn tất cả những năng lực của họ. Các nhà trí thức ấy không phải là những người thực tiễn; họ không biết áp dụng năng lực của họ để thâu hoạch những hiệu quả khá hơn. Tập trung tư tưởng của anh vào một ý chánh: Anh có một lý tưởng. Lý tưởng ấy làm cho anh trở thành một người tốt, hữu ích, được yêu chuộng, có một ảnh hưởng xã hội rộng rãi, có thể ăn nói giỏi, viết giỏi, suy nghĩ đúng, phán đoán và thực hành một sự quyết định, vì đó là tư cách cần thiết để trở thành hữu ích và thành công. Mục đích đời sống của anh là vậy phải không?... Anh có thể thực hiện được. Nếu anh ôm ấp hoài bão ấy, chắc chắn là anh đã có đủ tư cách tiềm tàng để thực hiện rồi; chỉ còn phát triển những tư cách ấy? Trước hết bằng cách tập trung tư tưởng. Làm sao để có được thói quen tập trung tư tưởng?... Bằng cách tự chủ (self control) tinh thần. Anh phải làm một bản chương trình để thực hiện nguyện vọng của anh. Chương trình ấy phải xem xét thật kỹ để nhận rõ những chi tiết và phương tiện thực hành. Anh phải tập “suy nghĩ” nghĩa là phải kiểm soát tư tưởng của anh để chú ý vào một ý tưởng nhứt định, để in trí vào ý tưởng ấy đến khi giải quyết được vấn đề. Ý tưởng xô đẩy đến hành động: Chương trình đặt ra phải được thực hiện cách chu đáo; anh sẽ thực hiện được khi nào anh kiểm soát được hành động của anh. Đó chính là điều mà anh gọi là ý chí. Anh suy nghĩ anh sẽ thấy rõ ý tưởng của anh. Ngày nào hoặc nhờ tự kỷ ám thị, anh thu hoạch được một ý tưởng mạnh, ý tưởng ấy sẽ gợi lên một tình cảm, một cảm xúc. Tình cảm và cảm xúc ấy sẽ biểu lộ bằng sự hăng hái, sự nhiệt thành. Trí thông minh bao giờ cũng ăn chặt với tình cảm. Anh sẽ bị xô đẩy đến hành động vì ý muốn mạnh, anh sẽ bị xô đẩy vì tư tưởng mạnh mà anh tưởng là “ý chí”. Thực ra, ý chí là một danh từ, chỉ là một danh từ thôi. Chính thực tình cảm nó điều khiển anh trong sự thực hiện ý tưởng chớ không phải ý chí, hay lý trí. Tư tưởng của con người tức là con người: Nếu những nỗi ưu tư, lo sợ, chán nản, ganh ghét phát hiện trong người anh, anh nên cố loại nó ngay và chú ý đến một vấn đề khác làm cho anh khuây lảng đi và ham thích; nhờ đó mà anh phát triển sự kiểm soát tư tưởng của anh; hãy ngăn cản những tư tưởng trống trơn và bất định vừa yếu đuối vừa bất lực được. Con người anh tức là tư tưởng và tình cảm của anh. Tình cảm đây có nghĩa là tình dục, thị hiếu, khát vọng. Thật vậy, con người vừa là một trí thông minh vừa là một sinh vật đa cảm, giàu ý chí. Ý chí nghĩa là năng lực thực hành, nhưng thực ra chính trí thông minh và tình cảm khiến ta hành động. Chính những ý lực (idées forces) và tình cảm phát sanh do ý lực ấy xô đẩy ta đến chỗ hành động. Vậy anh hãy tập xua đuổi những tư tưởng mệt nhọc (lo sợ, ghen ghét, ưu tư). Nếu anh gặp một sự buồn bã quá độ, hãy cố gắng giữ một thái độ vui vẻ, trạng thái tinh thần của anh sẽ thay đổi. Lựa lấy một quyển sách nhiều tư tưởng lạc quan và tinh thần kiên nghị mà đọc và chú ý đến nội dung quyển sách, dần dần tư tưởng của anh sẽ được thay đổi, tình cảm của anh cũng sẽ đổi theo tư tưởng của anh. Sự bình tĩnh sẽ trở lại xán lạn như vừng thái dương lộ ra giữa mây mù. Ý chí phụng sự tư tưởng: Tình cảm xô đẩy đến hành động. Muốn làm nẩy ra tình cảm phải gợi ra những tư tưởng và kiểm soát tư tưởng ấy bằng tự kỷ ám thị. Nhờ luyện tập dần dần, nhờ cố gắng nhiều lần, anh sẽ tạo nên những tình cảm đúng như ý muốn và anh sẽ hành động đúng theo lẽ phải hành động. Nhờ cách ấy, anh làm cho óc phán đoán của anh sáng suốt, anh sẽ tự chủ được anh, anh sẽ có thể tự kiểm soát được. Tinh thần đặng tập trung sẽ biết suy nghĩ một cách thông minh, và làm phát triển năng lực quyết định thực hành. Ý lực (idée force) sanh ra ý chí. Ý chí lại phụng sự tư tưởng. Tư tưởng gợi ra dục vọng, và dục vọng đưa đến hành động. Phải kiểm soát tình cảm và tư tưởng của anh. Nếu anh hay để ý và nhứt là nếu anh hay chỉ vạch những tật xấu của những người chung quanh anh, cái tật xấu ấy sẽ tạo ra chung quanh anh sự ác cảm. Nên chừa cái tật chỉ trích và bươi xấu kẻ khác đi. Tập tánh nhìn vào những chỗ tốt của kẻ khác. Nhờ cách ấy anh trở nên khoan hồng. Anh hãy tự giúp đỡ mình bằng tự kỷ ám thị. Phần sau đây sẽ giải thích tự kỷ ám thị huấn luyện ý chí như thế nào. CHƯƠNG II QUÂN BÌNH TINH THẦN Hai người chèo thuyền: Trên kia, ta đã so sánh đời sống như một con sông. Bây giờ ta xem hai người chèo thuyền xuôi theo con sông ấy; một người không chèo không lái, một người có đủ cả lái cả chèo. Một người điều khiển được con thuyền mình và ra đến cửa sông trong một thời gian ngắn. Người kia, trái lại, tiến tới từ từ theo sức nước sức gió làm cho nó lảo đảo trôi giạt vào bờ. Muốn được như người chèo thuyền giỏi kia, phái có một cặp chèo, và phải biết dùng ; phải biết tự kiểm soát; đừng sống lưng chừng vì chịu những ảnh hưởng bên ngoài và bên trong. Phải làm chủ cảm giác của anh: Đừng nên để cho tinh thần của anh xao động vì những nỗi hân hoan khoái lạc, sợ hãi, ghen ghét làm đình trệ và mất hiệu lực của hành động. Muốn đạt được một kết quả tốt anh phải làm chủ cảm giác của anh, anh phải giữ cho được bình tĩnh, quân bình. Lúc còn đi học, thầy giáo của anh có trách nhiệm phát triển trí thông minh và mở mang trí nhớ của anh; tốt lắm. Cha mẹ anh gắng sức đào tạo ý chí của anh, càng tốt hơn nữa. Nhưng thầy giáo và cha mẹ không ai để ý huấn luyện cảm giác của anh. Người không tự chủ: Cảm giác buông lỏng tức là nguyên nhân sanh ra bao nhiêu tai họa, ưu tư; nó dựng lên trên đường đi của anh những trở ngại khiến anh phải dừng bước luôn luôn; nhiều sức mạnh từ ngoài tới xô đẩy anh qua bên nầy bên kia, hoặc đẩy anh xuống hố. Muốn tránh những “tai họa” phải giữ lấy sự bình tĩnh; sự bình tĩnh ấy là những cái thắng và kim chỉ tốc độ của một chiếc xe hơi. Nhờ thắng mà anh tránh được những trở ngại và những khúc quanh nguy hiểm, những ngả tư, những gập ghềnh; nhờ kim chỉ tốc độ mà anh tính được sức mau trung bình mà không làm cho cái xe phải mệt. Những người không thắng, không kim chỉ tốc độ là những người bị “bị lột da”, vì họ là những người cảm xúc quá độ: vui, giận, ghen tuông, đố kỵ, tức bực, lo sợ, buồn rầu, nóng nảy, thất vọng là những ký sinh trùng hút hết nghị lực và đẩy họ xa con đường sức khỏe, thành công và hạnh phúc. Giữ cho khí chất được quân bìnhl Muốn phá các trở ngại, anh lo tiêu hủy những vật ký sinh trong tinh thần, giữ cho khí chất được quân bình; phát triển trong người anh sự bình tĩnh. Bắt đầu anh tập thói quen hành động tức thì; khi quyết định làm một việc gì, việc ấy phải được làm không chậm trễ. Muốn hành động tức thì, anh phải phát triển lòng hăng hái. Sự chừng mực: Người thăng bằng, có chừng mực, biết tiêu xài năng lực của mình một cách đều đặn, y không bao giờ có tánh hay thay đổi, không thái quá mà cũng không bất cập, không quá lạc quan và cũng không quá bi quan. Tính chừng mực giữ cho tinh thần y khỏi trồi sụt quá độ. Nhờ sự chừng mực ấy, anh dự trữ được một số năng lực mà anh có thể dùng được khi cần đến. Nếu một việc bất ngờ xảy ra cần phải có một số năng lực quan trọng, nhờ tính chừng mực của anh, nhờ sự dự trữ, anh sẽ sẵn sàng đem ra một sức mạnh dồi dào và làm được việc ấy một cách dễ dàng như không cần phải gắng sức. Làm chủ lấy mình: Với tính chừng mực, con người có thể làm chủ lấy mình, có thể đương đầu với mọi cảnh ngộ và tình thế nguy ngập một cách bình tĩnh, vững chắc. Người chừng mực không thương người hôm nay rồi ngày mai lại ghét, không khoan thai buổi sáng, tức bực buổi chiều, không bao giờ sợ hãi. Sự chừng mực không bị hoàn cảnh chi phối, trái lại y có thể điều khiển và chi phối lại hoàn cảnh. Lời khuyến dụ cần thiết: Anh hãy tập tánh chừng mực bằng cách lặp lại câu nầy: “Trong đời tôi, tôi có một mục đích duy nhất; mục đích ấy là sự cải thiện thân thể, trí thức, xã hội, tâm đức của tôi.” Lời khuyến dụ ấy là căn bản cho mọi hành động của anh. Anh không thể giữ tính chừng mực được nếu anh đeo đuổi hai mục đích. Mục đích đeo đuổi phải là sự cải thiện con người anh, chính nó đã tổng hợp tất cả quyền lợi của anh. Anh không thể nhắm đến sự phát triển cả ba mặt: thể xác, tinh thần và tâm đức, mà không là nô lệ cho lương tâm. Nếu lúc nào anh cũng theo lời chỉ giáo của lương tâm thì anh không bao giờ lo sợ, rối trí; nếu lúc nào anh cũng làm một bản chương trình trước khi hành động, anh sẽ không bao giờ bị chìm ngập dưới những sự bất ngờ. Đừng bao giờ để lộ sự buồn bực chán nản. Trước nghịch cảnh nên giữ sự lãnh đạm và bình tĩnh. Luôn luôn làm tròn phận sự của anh. Lời khuyến dụ khác nữa: Nếu có điều trở ngại xảy ra, anh nên lặp lại câu nầy: “Tai họa ấy không đáng kể” hoặc “Không có gì đáng lo.” Nếu gặp tình cảnh rắc rối thì nên nói: “Mọi sự rồi sẽ qua hết, rồi sẽ đâu vào đó hết.” Khi gặp một kẻ địch mạnh hơn, anh đừng nên hoảng hốt. Giữ vẻ mặt bình tĩnh và nụ cười, trong lúc kẻ địch mong thấy anh chán nản, thất vọng. Khi anh nói được rằng: “Rồi sẽ đến phiên tôi” thì anh đã thắng được kẻ địch phần nào rồi. Đừng nên tìm cách trả thù; nhưng sau khi thất bại rồi, tìm cách gượng lại mau lẹ và vững vàng. Nếu anh có một ý nghĩ nhứt định thì chắc chắn anh sẽ thành công. Nếu anh phải thối lui thì nên thối lui có trật tự. Kẻ địch của anh, dầu không nói ra, sẽ phải thán phục sự bình tĩnh và nghị lực của anh. Họ sẽ hiểu rằng ý chí của anh căn cứ vào pháp luật và lẽ phải. Anh nên lặp lại câu tự kỷ ám thị nầy: “Bất cứ trong trường hợp nào khó khăn nào, tôi cũng cố giành lấy những kết quả tốt đẹp” hoặc là “Tôi là người chừng mực: tôi lợi dụng tất cả mọi ảnh hưởng để phát triển nơi người tôi sự bình tĩnh và sự quân bình tinh thần; tôi hoàn toàn kiểm soát được con người tôi.” Tinh thần hạ ý thức (esprit subconscient) của anh hành động theo sự tin tưởng của nó. Anh hãy làm cho nó tin tưởng sự quyết định của anh và lợi dụng việc làm của nó. Trong vòng vài tuần lễ, anh sẽ nhận thấy rằng, nhờ cách ấy, anh sẽ chừng mực hơn trong tư tưởng, tình cảm, lời nói, việc làm của anh. Tánh chừng mực tổng hợp các năng lực: Có lẽ anh sẽ nói : “Nhưng trung tâm thần kinh tương quan với tánh chừng mực ở chỗ nào? Làm sao phát triển những năng lực ấy?” Tánh chừng mực không phải là một năng lực : tôi sẽ giúp các anh nhận riêng từng năng lực cần thiết để làm nẩy nở tánh chừng mực : như vậy anh có thể phát triển những năng lực ấy được. Sự tiếp tục: Năng lực đầu tiên làm thành tánh chừng mực tức là sự tiếp tục (la continuité). Vai trò của nó là làm cho các trung tâm thần kinh khác tiếp tục hoạt động không dừng. Nó ngăn ngừa những sự dừng lại quá ngặt, những sự phát đi thình lình, những sự biến đổi quá lẹ. Muốn phát triển năng lực ấy, anh phải tập thói quen đừng nên khởi sự một việc gì nếu anh không định tiếp tục việc ấy đến khi thành công. Tỉ dụ như anh định làm một bài toán, anh phải làm cho xong; anh khởi sự học bài, hãy định trước học bao lâu, tỉ dụ hai mươi phút, thì phải học xong đúng hai mươi phút. Nếu anh nói: “Tôi sẽ tập mười phút thể thao”, thì hãy tập đúng mười phút chớ đừng chín phút mà cũng đừng mười một. Sự chuyên tâm (La conscienciosité): Năng lực thứ hai làm thành tánh chừng mực là sự chuyên tâm. Năng lực nầy khiến trí óc phải chú ý đến những qui luật, phép tắc. Tỉ dụ như anh nói: “Trước khi đi ngủ, tôi phải sắp đặt trong phòng cho có trật tự.” Đó là một cái luật. Áp dụng thường ngày luật ấy, anh trở nên chuyên tâm. “Tôi phải dán con cò trên bì thơ đúng phía bên mặt trên cao. Ngồi lại bàn ăn, tôi ăn chậm. Tôi không nên uống rượu vang, rượu trắng, ăn tiêu, tương hột cải; những thứ gia vị ấy kích thích dạ dày và kích thích thần kinh. Buổi tối không nên uống ca phê, ăn thịt. Không nên ăn khuya.” Người chuyên tâm không phạm vào những qui tắc ấy khi họ đã nhận là đúng. Trật tự: Sau hết đến trật tự. Hãy giữ trật tự trong tinh thần, trong không gian và trong thời gian. Mỗi chỗ dành riêng cho một vật và mỗi vật chiếm cứ một chỗ; một thời giờ dành riêng cho một việc làm. Hãy lặp lại câu tự kỷ ám thị nầy: “Tôi không bao giờ làm việc gì mà không định rõ chương trình trước; tôi tổ chức từng giờ làm việc trong mỗi ngày. Tỉ dụ: tôi muốn sửa soạn đi du lịch ngày mai. Tôi ghi trên giấy: a) sắp đặt va li; b) mua vé xe; đánh điện cho một người bạn đến đón; d) giữ chỗ ngồi; e) ra lịnh cho người tài xế đến đón tôi tại nhà ga khi tôi về, v,v.” Anh theo đúng chương trình ấy và mỗi việc anh đều làm đúng như vậy. Kín miệng (La secrétivité): Sự kín miệng là năng lực khiến ta giữ kín tư tưởng, tình cảm, ý muốn của ta. Đó là cái thắng đặt trên lưỡi. Những điều muốn giữ kín không nên nói cho kẻ khác hay; phải quay lưỡi bảy lần trước khi nói. Chỉ nên nói những điều anh muốn nói, nhưng phải nói cạn những điều anh định nói. Tánh cẩn thận: Quá cẩn thận lắm khi có hại, vì nó là trung tâm điểm cho sự lo ngại, sợ hãi; tánh cẩn thận làm cho nhiều người rụt rè, hèn nhát, lo sợ, và khiến họ trốn tránh hành động. Nhưng nếu giữ mực trung thì nó lại khiến người ta thận trọng. Sự kín miệng giữ gìn lời nói, tánh cẩn thận giữ gìn việc làm. Nó bắt ta phải suy nghĩ trước khi hành động, nhưng nó không nên ngăn cản người ta làm việc mau lẹ và hăng hái. Người kín miệng không bao giờ nói mà không suy xét những điều mình nói; người cẩn thận suy nghĩ, đo lường những việc họ phải làm; họ chỉ làm những việc mà họ đã định làm mà thôi. Tánh tự tôn: Lắm người cẩn thận quá, do dự quá, rụt rè quá, thành ra không đủ tự tôn, chỉ biết sống theo dư luận. Anh không nên băng khoăng vì những điều người khác nghĩ về anh. Cần hơn hết là anh phải có tánh tự tôn. Tánh nhân nhượng: Tánh nhân nhượng là tánh dễ bị cảm xúc vì những lời khen và lời chê. Tánh nhân nhượng càng mạnh hơn tánh tự tôn bao nhiêu, anh càng dễ cảm xúc lời khen chê của kẻ khác bấy nhiêu. Sự cảm xúc quá độ ấy làm cho anh buồn rầu, rối trí. Người nhân nhượng là người không làm chủ được thần kinh. Óc phán đoán của họ mất sáng suốt. Đối lại tánh nhân nhượng là tánh tự tôn. Người hay nhân nhượng chỉ để ý đến lời xét định của kẻ khác; người có tánh tự tôn chỉ để ý đến sự phẩm bình của riêng mình. Phải hết sức phát triển tánh tự tôn. Đó là một năng lực kiểm soát được thần kinh. Chính năng lực ấy khiến ta cử động vững vàng, tránh được những sự thái quá. Nó giữ gìn sức mạnh thần kinh. Muốn phát triển tánh tự tôn, hãy lặp lại câu tự kỷ ám thị nầy: “Tôi luôn luôn hành động để được khá hơn; tôi hành động theo lương tâm của tôi và như thế tôi được bằng lòng và đắc ý lắm.” Đừng lầm lẫn tánh tự tôn và tánh kiêu căng, tức là tánh do tánh nhân nhượng mà có. Tánh cương quyết: Tánh cương quyết khiến anh chú ý đến những việc anh định làm và mục đích anh theo đuổi. Người thiếu tánh cương quyết và tánh tiếp tục thì hay thay đổi ý định luôn. Người có tánh quả quyết yếu và tánh tiếp tục mạnh thay đổi ít hơn. Người hay thay đổi ý định không làm việc gì thành tựu đặng. Sự tùng phục: Tùng phục tức là muốn thích ứng với những cảnh ngộ bất thường. Mỗi lần gặp cảnh ngộ bất thường anh có thể nhịn nhục mà nói rằng: “Lúc nầy, ta chiều theo để rồi một lúc khác ta sẽ rút lấy phần lợi nhiều hơn. Khi ta vượt qua nỗi khó khăn được rồi, ta sẽ làm theo ý ta muốn.” Người nào biết nhịn nhục sẽ tránh được những sự tức giận vô ích, con đường đi của họ bằng phẳng đều đặn. Nói tóm lại, anh hãy suy nghĩ; tìm biết những điểm yếu hèn của anh và nhứt định phát triển những điểm ấy mỗi ngày một mạnh thêm. CHƯƠNG III ĐIỀU HÒA Phải giữ điều hòa với mọi người và mọi vật: Anh thường phàn nàn: “Thời tiết xấu không thích hợp với ý muốn của tôi”. Phàn nàn như vậy phỏng có ích gì? Anh làm sao thay đổi được thời tiết? Anh nên giữ sự điều hòa với mọi người, mọi vật, anh đừng nên phàn nàn, đừng nói xấu ai, đừng nói nói xấu vật gì, việc gì và cũng đừng nói xấu anh nữa. Không nên buộc kẻ khác phải thích ứng theo anh, mà trái lại anh phải thích ứng theo kẻ khác. Muốn thực hiện sự thích ứng, phải gắng sức luôn luôn, đừng để lôi cuốn vì sự tức giận, mà phải tỏ ra bình tĩnh, kiên nhẫn. Đó là cách đạt đến sự bình tịnh, sự yên lặng, tức là những năng lực giúp ta chế ngự được tình thế, sự vật và người. Trên địa cầu nầy, anh chỉ là một phần tử của một toàn thể. Anh được sinh ra để đóng một vai trò trong sự điều hòa của toàn thể ấy; anh chỉ là một nhạc cụ trong cả giàn nhạc chung. Nếu anh muốn làm chủ và thống trị, trước hết anh phải điều hòa với mọi vật và mọi người. Anh phải thích ứng với hoàn cảnh: Nếu không thích ứng với hoàn cảnh thì không thể nào sống được. Một con thỏ chạy qua đồng hay một con chó bị bỏ ở miền tuyết đóng, nắng thiêu, tất nhiên không thể nào sống được. Tại sao? Vì nó không được điều hòa với điều kiện phí hậu. Những sinh vật nào thích ứng với hoàn cảnh, sinh vật ấy mới tồn tại được; loài người là sinh vật tất nhiên phải tùy theo luật ấy. Gặp mùa lạnh, thì dùng quần áo hay làm những công việc hợp với mùa lạnh. Gặp ngày mưa gió thì làm công việc hợp với ngày mưa gió. Đó là cách giữ sự điều hòa với mọi việc. Hãy chịu khó suy nghĩ: Nếu anh chiều theo bản năng của anh thì anh không thể nào sống điều hòa được. Anh phải suy xét, nghĩ ngợi, tính toán trước khi hành động. Nếu anh hành động theo bản năng mà không chịu suy xét thì anh sẽ gặp những tai nạn, phiền muộn làm mất sự yên tĩnh của anh. Trái lại, khi đứng trước sự khó khăn, nếu anh chịu khó suy nghĩ thì anh sẽ tìm ra nguyên nhân làm cho anh khốn đốn và anh có thể ngăn ngừa được. Mỗi ngày anh nên suy nghĩ năm phút, mặc dầu anh không gặp trở ngại gì, nên suy nghĩ nhứt là khi anh nhận thấy một nguyên nhân gây lo buồn cho anh; nhờ vậy, anh sẽ trừ được mọi sự đau khổ. Phải điều hòa với mọi người: Anh không có thiện cảm với những kẻ chung quanh; anh nói với người dưới anh bằng một giọng cộc cằn; đối với người trên, anh tỏ ra đê tiện; trong gia đình anh gieo sự buồn bã vào những người chung quanh anh. Đó là một tật xấu làm hại tánh điều hòa. Tật xấu ấy làm cho anh thành ra đáng ghét và có hại đến sự thành công và hạnh phúc của anh. Nếu trong nhà anh có người lầm lỗi thì anh nên nói riêng với người ấy và không nên làm nhục trước mặt kẻ khác. Anh nên ăn nói một cách từ tốn, bình tĩnh; anh làm cho họ thành ra người cộng sự của anh. Anh sẽ tạo ra sự điều hòa giữ anh và họ. Có ngàn cách giữ sự điều hòa: Anh nên lo kiến thiết mà không nên phá hoại. Đừng bới lỗi của kẻ khác, hãy nhìn vào tánh tốt của họ, tìm cách sửa đổi mà không nên nhắc lỗi xưa. Đừng nhìn lại sau lưng, đừng hối tiếc những việc đã làm. Có ngàn cách ăn ở điều hòa với kẻ khác. Phải biết gây thiện cảm bằng cách ăn mặc, lời nói; giọng nói, thái độ. Hãy săn sóc quần áo. Ăn mặc lôi thôi, anh làm cho người ta khi dể. Ăn mặc quá sang trọng, anh tỏ ra mình chuộng ăn mặc. Nên ăn mặc giản dị, nhưng thật phong nhã. Giữ gìn lời nói: Phải giữ gìn lời nói. Đừng nên khoe khoang và lừa phỉnh. Giữ gìn điệu bộ cử chỉ. Quần áo chỉnh đốn. Cắt sạch móng tay. Cử chỉ và điệu bộ phải phong nhã. Săn sóc giọng nói; nói chậm mà rõ. Âm điệu phải dễ nghe. Đừng nói xấu mình, nói xấu kẻ khác, đừng phàn nàn gì cả. Nên nói những lời thiện, lời an ủi. Muốn thành người đại độ, nhân từ, nên chú ý đến những tánh tốt của kẻ khác. Dầu ở những người hư hỏng, nếu anh tìm cũng sẽ thấy vài chỗ đáng khen. Anh càng thấy tánh tốt của kẻ khác, anh sẽ trở nên đại độ, và kẻ ấy sẽ sẵn sàng tùng phục anh, mến trọng anh, giúp đỡ anh. Anh sẽ thấy sự điều hòa xuất hiện trong người anh và chung quanh anh. Tìm nguyên nhân thất bại: Trong công việc hằng ngày, trong đời sống, anh nên tìm những nguyên nhân thất bại, những khuyết điểm. Trong nghề nghiệp, hãy tìm xem anh có thật đủ tài không, anh có thể làm khá hơn nữa không. Muốn rõ sự thất bại, anh đừng nên đổ thừa cho sự cạnh tranh, vật liệu mắt mỏ, thiếu vốn. Nên chú ý đến tài năng của anh. Cố gắng tạo thành những năng lực cần thiết, anh sẽ thành công dễ dàng. Khi ấy anh sẽ loại bỏ được những nguyên nhân thất bại từ người anh hay từ bên ngoài vào. Trong lúc suy nghĩ mỗi ngày, anh tìm thấy những nguyên nhân ấy; anh sẽ phân tích những việc làm của anh từng cái một; anh sẽ có cách điều hòa được những năng lực riêng của anh với những trí thức và tài năng mà anh đã thâu hoạch được từ trước. Săn sóc giọng nói: Hãy làm cho giọng nói của anh được điều hòa. Âm nhạc hay bao giờ cũng có sức lôi cuốn và ảnh hưởng lớn đến con người. Nó làm cho tâm hồn và tình cảm trở nên cao thượng và phát triển sự điều hòa trong thiên nhiên. Giọng nói của con người là một nhạc cụ. Anh có thể xét người nơi giọng nói của họ. Có những giọng la gào, giọng không rõ, giọng run, giọng mũi, giọng khan, giọng sai lạc. Có giọng nói thung dung quả quyết biểu lộ sức mạnh, tánh công bình, tình thân ái, sự dịu dàng, sự quân bình tinh thần và tâm đức, và ngàn đặc tánh khác đáng yêu. Cố gắng làm cho giọng nói của anh biểu lộ được những đức tánh ấy. Muốn biểu lộ những đức tánh ấy, anh phải có đức tánh ấy. Giọng nói của anh trong lúc bình tĩnh sẽ êm ái dịu dàng hơn. Anh hãy cải thiện giọng nói của anh và anh sẽ nhận thấy rằng vừa cải thiện giọng nói, anh cải thiện luôn cả tánh tình. Giọng nói cảm kích được người chung quanh anh cũng mạnh như lời nói. Bằng giọng nói, anh đào luyện và gieo rắc sự điều hòa. Đời sống điều hòa: Hãy giữ sự điều hòa trong việc làm. Mỗi ngày anh có một chương trình làm việc thì trong bài viết, câu chuyện, anh cũng phải có một chương trình. Tôi đã nói rằng mục đích tối cao của đời anh là sự cải thiện không ngừng con người anh về phương diện thể chất, tinh thần và tâm đức. Như vậy anh có một mục đích duy nhứt. Mục đích ấy, muốn đạt được, phải có sự điều hòa, có tiết điệu; đời sống điều hòa sẽ là một biểu hiện của nghê thuật. Khi nào anh cảm thấy sự điều hòa, anh hãy làm những việc quan trọng trong đời anh. Anh muốn quyết định điều gì, nghiên cứu một vấn đề gì, vận động một việc gì… anh phải giữ sự điều hòa trong người anh trước đã. Người xưa thường nói: “Ban đêm dạy ta.” Câu cách ngôn ấy có nghĩa là giấc ngủ sẽ làm dịu tâm hồn sau một ngày làm việc mệt nhọc. Ngủ dậy, trí não anh sẽ bình tĩnh, an ổn, điều hòa; nó có thể trù tính những vấn đề chưa giải quyết và giải quyết những vấn đề ấy một cách dễ dàng. Kiên tâm và bền chí: Anh nên nhớ rằng kiên tâm là nòng cốt cho sự thành công. Những người thiếu kiên tâm thường trốn tránh những nơi mà họ thấy họ không thể điều hòa được. Vào một nơi khác họ cũng chẳng được may mắn gì hơn. Họ luôn luôn đổi nghề, đổi chủ, đổi hoàn cảnh, chạy theo sự thành công mà không bao giờ họ đạt được. Anh không nên bắt chước những kẻ ấy. Không nên trốn tránh những hoàn cảnh mà trong đó anh không tìm thấy sự điều hòa với kẻ khác. Hãy luyện tập sự điều hòa trong người anh. Hoàn cảnh càng trặc trẹo, trách nhiệm của anh càng khó khăn thì sự điều hòa mà anh tạo được càng mạnh và càng lan rộng ra chung quanh. Nhờ ý chí, nhờ tự kỷ ám thị, anh sẽ hấp dẫn được nhiều người. Hoàn cảnh sẽ thay đổi và khu vực điều hòa sẽ mở rộng ra. Phải giữ sự điều hòa với mình: Chẳng những anh nên điều hòa với kẻ khác, mà anh còn nên điều hòa với mình nữa. Anh nên tổ chức cuộc đời của anh để cho việc làm, lời nói, tư tưởng được ăn rập với lẽ sống của anh và của kẻ khác. Vì mất sự điều hòa mà anh bị rối loạn, nóng nảy, tức giận buồn rầu, lo sợ, hối tiếc, ghen tuông, biên lận. Trạng thái tinh thần ấy là nguyên nhân khiến anh xung đột với người và vật chung quanh. Nếu anh giữ sự điều hòa với mình, anh sẽ làm chủ được tình thế. Tai họa, đau khổ, thất bại xảy ra chính tại vì anh không biết giữ sự điều hòa với mình. Sự cảm xúc làm tiêu tan nghị lực của anh một cách vô ích; làm cho sức làm việc của anh giảm bớt hiệu lực, ngăn cản không cho anh tự cải thiện và thành công trong việc làm. Một lần nữa, anh nên tạo sự điều hòa với mình. Mỗi lần anh lo sợ, không bằng lòng, rối trí, buồn bực, sự điều hòa ấy không còn trong người anh. Trong trường hợp ấy, anh không thể làm được việc gì. Hãy trầm tĩnh: Khi anh cảm thấy lo sợ, rối trí thì nên suy nghĩ. Anh lấy một mẩu giấy, một cây bút chì và liệt ra những “điểm đen” trong người anh, tìm xem tại sao anh lo sợ, rối trí. Phân tích các điểm đen từng cái một tìm cách bôi bỏ đi. Những trở ngại trên đường đời của anh sẽ tiêu tan hết. Nhờ vậy anh được bình tĩnh, yên ổn. Nhờ vậy mà anh tổ chức được sự thành công, giữ được sức khỏe và hạnh phúc. Sự bình tĩnh rất thuận tiện cho sức khỏe thể chất cũng như sức khỏe tinh thần. Nó giữ gìn và mở mang sức khỏe, làm cho con người được trẻ luôn. Điều hòa trong gia đình: Muốn giữ điều hòa với xã hội, hãy bắt đầu tập sự điều hòa với những kẻ gần anh, với gia đình anh. Kế đến, giữ điều hòa với chính mình anh. Sự điều hòa tạo trong người anh trạng thái vui sướng, trạng thái ấy tỏa ra chung quanh anh và ảnh hưởng đến hoàn cảnh. Maeter linck nói: “Không bao giờ có thảm kịch trong gia đình người quân tử.” Không những trong gia đình người quân tử không có việc buồn mà trong gia đình những người chung quanh người quân tử cũng không có việc buồn nữa. Tự huấn luyện lại mình: Anh ngồi lại bàn ăn, anh biết rằng nên uống nước lã, ăn ít và ăn chậm, nhưng anh không chịu làm; anh bằng lòng mắc bịnh đau ruột, đau xương hơn là theo nguyên tắc vệ sinh mà anh đã hiểu biết. Anh không bằng lòng kẻ giúp việc, anh biết rằng nên nhìn thẳng vào mặt y, dịu dàng, bình tĩnh nói chuyện với y để làm cho y thân thiện với anh. Nhưng anh lại tức giận, anh làm cho y trở nên một kẻ thù. Anh để cho bản thân lấn áp mình bởi vì anh không biết gắng sức để tự kiểm soát lấy mình. Như vậy anh là nạn nhơn của tật xấu. Anh không làm chủ được, anh là nô lệ. Muốn tự giải thoát, anh phải lo luyện tập không ngừng. Nếu anh muốn làm chủ, nếu anh muốn biểu lộ những tánh tốt thì bất cứ lúc nào anh cũng cố gắng làm cho mình khá hơn. Luyện tập tuần tự: Đừng nên tìm đến một kết quả hoàn toàn trong chốc lát. Anh không thể phá hủy trong 15 ngày những tật xấu mà anh đã tạo ra trong 10 hay 20 năm. Muốn làm chủ, anh phải lo luyện tập không ngừng, mỗi ngày từ vài phút đến vài giờ. Nếu anh có hay tức giận thì đừng nên cố giữ bình tĩnh suốt cả ngày. Anh cố giữ bình tĩnh vài ba giờ. Nhờ vậy mà anh tự biến đổi được;nhưng phải cố làm những việc anh đã định. Anh sẽ bằng lòng mình và sẽ đi vào đường cải thiện. Làm một bản chương trình hằng ngày dễ theo và thực hiện cho được bản chương trình ấy. Mỗi khi anh thực hiện được bản chương trình ấy, anh sẽ bằng lòng. Anh sẽ tự mến mình hơn; và sự an ủi ấy phát triển tánh tự tôn tức là điều kiện cần thiết để tạo ra sự điều hòa. Phải phát triển sự điều hòa tinh thần: Tinh thần ta gồm có nhiều năng lực khác nhau. Vì thế mà trong tinh thần ta có nhiều khuynh hướng xung đột nhau khiến ta gặp rất nhiều khó khăn lắm mới giữ cho con người của ta được nhứt trí. Tỉ dụ như người có năng lực xã giao kém, không khéo trong sự giao thiệp không giữ được sự điều hòa với kẻ khác, và vì thế khó thành công về phần tinh thần và vật chất. Làm cho các năng lực phát triển đều nhau thì mới tạo được sự điều hòa. Ý thức tâm đức (conscience morale): Những người hay e dè miệng tiếng thì hay rụt rè ra trước công chúng. Nếu người ấy phát triển tánh tự tôn thì dần dần sẽ thản nhiên được trước dư luận và sẽ tạo được sự điều hòa. Muốn tránh những sự xung đột giữa các năng lực trong người của anh, muốn làm cho con người của anh trở nên duy nhứt, anh phải đặt trên các năng lực ấy một vị chỉ huy. Vị chỉ huy ấy là ý thức tâm đức (conscience morale) của anh vậy. Những người phụ tá vị chỉ huy ấy là lý trí (raison) và ý chí (volonté) của anh. Phương tiện hoạt động là tự kỷ ám thị. Phải suy nghĩ mười lăm phút mỗi ngày: Anh hãy chịu khó suy nghĩ mười lăm phút mỗi ngày; làm chương trình hành động và củ sát con người anh. Đừng nên để ý đến những chỗ dở, trái lại chỉ nên nhìn vào những chỗ hay nhứt của anh, vì phải vịn vào những đức tính tốt để sửa đổi những tật xấu. Anh phải tự đãi mình như đãi một người bạn tốt, như người cha hiền đãi người con. Hãy tự tin lấy mình, nghĩ đến chỗ tốt của mình; đó là cái quyền của anh, vì người nào biết sửa mình thì ngay giờ phút ấy đã là một người cao đẳng rồi. CHƯƠNG IV SỰ BÌNH TĨNH Những người vô phước: Một viện thí nghiệm tâm lý Mỹ chứng tỏ rằng trong trăm người đeo đuổi một nghề chỉ có ba người thành công; còn bao nhiêu cuộc sống một đời khổ cực. Trong số người vô phước chỉ có một hay hai người thất bại vì không may, còn bao nhiêu người khác toàn do tật xấu của họ cả. Trong số tật xấu hại cho sức khỏe, hại sự thành công và hạnh phúc của họ, có bốn tật quan trọng hơn hết: cảm xúc, lo sợ, oán thù, và bi quan. Những người nóng tánh: Tánh nóng của mỗi người phần lớn sanh ra vì những món ăn quá kích thích. Kẹo, sô cô la, ca phê, trà, rượu mạnh là những món người ta dùng nhiều hơn hết mà lại có hại hơn hết. Không những nó làm tốn tiền mà còn gây ra đau khổ, chết, điên và tội ác. Tánh dễ cảm: Tánh dễ cảm có hại đủ ba mặt: thể chất, tinh thần, tâm đức. Về mặt thể chất, tánh dễ cảm sanh ra bịnh đau tim và làm trở ngại sự tuần hoàn. Nó gây ra bịnh động mạch (artériosclérose) vì nó làm mệt tim và mệt mạch máu; óc não cũng chịu kết quả không tốt nữa; về mặt tâm đức, những cơn vui, buồn, lo, sợ không chừng làm cho con người mệt mỏi rũ liệt rồi sanh ra rụt rè, mất ý chí, chán nản. Tánh lo sợ: Lo sợ, rụt rè đều do tánh dễ cảm mà ra. Bao nhiêu tật xấu ấy làm hao mòn ý chí và làm liệt bại những hành động hữu ích. Nhiều người lo sợ mà làm thất bát công ăn việc làm và sống mãi trong chỗ tầm thường. Đây là một nhà buôn đã kiếm đặng số lời, thay vì dùng tiền ấy để mở mang cửa hiệu, để bổ hàng, anh ta lo sợ: sợ mất lời. Trong lúc đó, một nhà buôn khác đến khếch trương gần anh một cửa hiệu to. Thế là anh phải suy. Sự lo sợ làm tê liệt các năng lực tinh thần của ta; làm tiêu mòn sức khỏe vì nó gây nhiều chất độc trong cơ thể. Lo sợ làm một chứng bịnh rất thông thường. Nhiều người mắc phải chứng bịnh ấy mà không còn sinh thú nữa. Tánh rụt rè: Tánh rụt rè là tánh hay sợ miệng tiếng và không tự tin. Nhiều người thông minh và thành thật, có đủ tài đức để thành công mà phải sống trong cảnh nghèo nàn vì không đủ tự tin. Không nên lầm lẫn tánh rụt rè và tánh khiên tốn. Người khiên tốn không phải là người rụt rè, vì người khiên tốn thành công mà người rụt rè lại thất bại. “Ta chỉ nên sợ một điều, ấy là cái tánh hay sợ”. Tánh thù ghét: Tánh thù ghét và những tánh do tánh thù ghét mà có như: ganh tị, ghen tuông, tức giận, v.v. sanh ra chất độc làm hại sức khỏe và làm hao mòn một phần lớn năng lực cần thiết để suy nghĩ và hành động. Sự ganh tị không đem lại được cái gì cho ta mà cũng không bớt cái gì ở kẻ khác. Trái lại, nó phá hoạisinh lực cần thiết để gây nên sự nghiệp mà anh mong ước; nó làm cho tánh tình anh trở nên gắt gỏng, buồn bực, lo sợ, và con người anh thành dễ ghét. Khi nào tánh ganh tị lẻn vào trí óc anh thì anh nên xua đuổi nó ra lập tức. Anh huấn luyện được ý chí thì anh muốn gì lại chẳng được. Anh nên tập tánh chia vui với kẻ khác; đó là cách tốt hơn hết để giữ cho tâm hồn anh yên tĩnh, giữ sức khỏe và tạo hạnh phúc. Người ganh tị không bao giờ gặp được may mắn và hạnh phúc, Tinh thần bi quan: Người bi quan chỉ nhìn vào phía xấu của mọi người và mọi vật. Người bi quan thường hay buồn bã, nhăn nhó, không độ lượng, tự tôn quá độ, hay khoe khoang, nhưng lại kém ý chí. Y luôn luôn xung đột với mọi người và mọi vật. Y không bao giờ giữ được sự điều hòa với kẻ chung quanh. Và vì thiếu sự điều hòa ấy mà đời sống của y trở nên khổ cực. Vệ sanh tinh thần: Muốn có sức khỏe vật chất thì bãi bỏ những tật trái thiên nhiên, giữ cơ thể theo điều kiện vệ sinh đầy đủ. Muốn được thành công và hạnh phúc phải theo đúng điều kiện vệ sinh tinh thần. Muốn giữ phép vệ sinh tinh thần phải làm sao? 1. Phải tập trầm tĩnh ; 2. Giữ thái độ lạc quan và khoan hồng ; 3. Huấn luyện ý chí ; 4. Làm việc có ích. Tập tánh trầm tĩnh: Nếu anh không trừ được tánh dễ cảm và hay nóng giận thì chắc chắn là anh không thể có sức khỏe và thành công được. Anh đừng để cho tai họa hay lo âu làm cho anh phải chán nản, đau đớn. Muốn được vậy phải làm thế nào? Tránh những món ăn kích thích: cÀ phê, rượu mạnh, nước trà, sô cô la. Đừng ăn nhiều đường, nhiều thịt, bớt tiệc yến, v.v. Tránh những nguyên nhân kích thích thân thể : ồn ào, tiệm nhảy, dâm dục quá độ. Tránh những cái gì kích thích: Đừng nên đọc sách hay xem những tuồng hay xúc cảm, đừng giao thiệp với bạn bè nóng tánh, lo âu, sợ hãi; trái lại nên gần gũi với những người trầm tính, mực thước. Đừng nên tỏ vẻ nóng nảy: giậm chơn, gõ bàn, dáng điệu hấp tấp; đừng ngồi tréo chưn, đừng nhai môi, đừng huýt gió, đừng hát. Những cử chỉ vô mục đích ấy làm mệt trí, Những đứa trẻ dễ cảm: Từ lúc mới sanh, người ta đã cố tình tập tánh dễ cảm cho trẻ con rồi. Người mẹ chọc con, làm cho nó cười đến làm nũng, hoặc ra nước mắt; người vú kể cho nó nghe những chuyện rùng rợn để nhìn bộ mặt sợ hãi của nó. Có khi người ta dọa nó để ngăn cản nó làm một việc gì. Vì đó mà tánh dễ xúc cảm phát triển nơi trẻ con. Lớn lên nó sẽ mang tánh ấy trong người và sẽ đau khổ mãi. Tự kỷ ám thị: Phải nhờ đến tự kỷ ám thị để chữa những tật xấu của anh. Khi anh muốn tập một đức tánh nào, anh lựa lúc tinh thần bình tĩnh viết lên giấy những dụng ngữ và học thuộc lòng. Tỉ dụ một nhà diễn thuyết hay có tánh rụt rè thì nên viết câu: “Tôi tự tin, vì trí thông minh của tôi phát triển đầy đủ mỗi ngày; tôi nói dễ dàng hơn.” Rồi thì sáng và chiều, một mình trong phòng, nằm dài thật yên tĩnh, hai mắt nhắm, đọc đi đọc lại cái câu dụng ngữ ấy mười lần, hai mươi lần; mặc dầu y không tin, tư tưởng ấy sẽ ăn sâu vào tiềm thức, và y sẽ hết tánh rụt rè. Lợi ích của tự kỷ ám thị: Làm theo những cách thức nói trên trong tám ngày, mười lăm ngày, một tháng ; anh sẽ trông thấy những kết quả bất ngờ; Mỗi ngày một ít, tích thiểu thành đa, anh sẽ đạt đến mục đích anh muốn. Tự kỷ ám thị không phải cần thiết để tạo nên những năng lực tinh thần mà thôi; nó còn là một điều kiện cần thiết để tạo nên sức khỏe nữa. Óc não vừa ảnh hưởng đến tinh thần, đến việc làm của ý chí và việc làm của cơ thể nữa. Chính óc não khiến dạ dày tiêu hóa, quả tim đập và phổi thở. Mỗi khi anh lặp lại những tự kỷ ám thị lạc quan và thuận tiện cho sức khỏe như là : “ Tôi mạnh giỏi”, sự tác động cơ thể sẽ điều hòa hơn và tật xấu sẽ giảm bớt. Như vậy anh sẽ tiến hóa: Phương pháp tạo nên sức khỏe cho thân thể và tinh thần là một phương pháp giản dị mà toàn thể nhân loại phải theo. Lắm người đã cố thử một lần nhưng không đủ kiên nhẫn để tiếp tục; họ nghĩ rằng người lớn tuổi không thể tự cải thiện được. Thật ra thì tuổi nào cũng có thể sửa đổi được những thói quen về mặt thể chất hay tâm đức, bởi vì óc não chứa đựng những khu vực mà ta có thể phát triển vào lúc nào cũng được. Chính óc não điều khiển sự tiến hóa của ta. Tư tưởng và thói quen bắt buộc óc não thực hiện chương trình tiến hóa. Ngày nay khoa nuôi súc vật và khoa trồng cây đã chứng tỏ rằng người ta có thể cải tạo giống thú và giống cây được thì đối với giống người, sự cải tạo càng dễ dàng hơn. Sự cải tạo ấy có thể thực hiện bằng đức tự tin và tập thành thói quen. Người nào muốn học một việc gì, phải tin chắc rằng mình thành công. Vậy thì muốn luyện tánh trầm tĩnh, quả quyết, chuyên tâm, anh phải bền chí, nhẫn nại như học âm nhạc hay ngoại ngữ vậy. Cần phải luyện tập luôn luôn và tạo nên những thói quen mới. Nếu anh muốn tập tánh trầm tĩnh phải cố giữ vẻ mặt trầm tĩnh và nhẫn nại; ba bốn lần một ngày, anh nên nằm dài thật yên tĩnh trong chỗ vắng vẻ, và nói lớn 50 lần câu: “Tôi trầm tĩnh”. CHƯƠNG V NHỮNG NGƯỜI CẢM XÚC THÁI QUÁ Người yếu tinh thần: Số người yếu tinh thần trên thế gian nầy rất đông. Những người ấy khổ cực không khác người bị lột da. Bất cứ một chuyện gì cũng làm cho họ cảm xúc một cách mãnh liệt đến nỗi họ phải đau khổ. Đời sống của họ không những là một mối khổ đối với họ mà là một mối khổ đối với người chung quanh họ. Họ phán đoán sai lầm, làm việc hư hỏng. Khí chất của họ không hợp với sức khỏe và hạnh phúc của họ. Sự cảm xúc quá độ làm trở ngại trong việc xã giao và công ăn việc làm của họ. Làm sao biết được người dễ cảm xúc: Người dễ cảm xúc là những người không bình tĩnh. Bất cứ việc gì xảy ra đều có thể làm cho họ cười, nhăn, khóc, chửi… Một cánh cửa đập mạnh cũng làm cho họ giựt mình, một việc nhỏ mọn làm cho họ phát run hay ứa nước mắt ; bàn tay họ rịn mồ hôi và lời nói không suôn. Anh có thể cải tạo được con người anh: Anh có thể sửa đổi được những người quá cảm xúc. Anh có thể tự sửa đổi nếu anh là người quá cảm xúc. Một con sư tử, một con cọp hay bất cứ một con hoang thú nào, người ta còn dạy được, huống gì là con người thông minh có ý chí. Tinh thần rối loạn cũng như thân thể suy liệt do những tật xấu mà có. Dùng vật thực xấu, ăn nhiều chất độc và chất kích thích như thuốc lá, chè, ca phê, đồ gia vị, rượu, thịt, đời sống vô tổ chức, trong việc làm hằng ngày thiếu phương pháp, thiếu trật tự, hay giao thiệp với người hư hỏng, bi quan, nóng nảy, đó là những nguyên nhân sanh ra bịnh thần kinh. Tránh những người đau thần kinh: Chung quanh ta có lắm người nguy hiểm ; đó là những người loạn óc, suy liệt, bi quan. Không nên giao du với hạng người ấy : những bà me vừa đánh con vừa la hét, những người chửi mắng kẻ làm công. Chỉ nên đi lại với những người bình tĩnh, khôn ngoan, đứng đắn. Tránh những sách báo hay những tuồng hát làm kích thích và suy nhược. Phải tự huấn luyện lấy mình: Phải huấn luyện lại tinh thần của anh; bịnh thần kinh không phải là kết quả của một lỗi mà của vô số lỗi tổng hợp lại. Tại sao mà sinh ra bịnh đau thần kinh? Tại vì có tánh muốn được khen, tại vì hay để ý đến dư luận nhiều quá. Người đau thần kinh cẩn thận quá; sợ mọi điều rồi đâm ra buồn bực; sợ làm sai, sợ thời cuộc, sợ bịnh hoạn. Phải phát triển tánh tự tôn, tinh thần chiến đấu để đánh ngã tánh cẩn thận thái quá và tánh ưa người ta khen. Làm sao phát triển tánh chiến đấu?...Nhờ thể dục và thể thao. Làm sao tập tánh tự tôn? Nhờ tự kỷ ám thị. Bịnh thần kinh: Những người thần kinh yếu thường than mệt mỏi luôn luôn. Họ không thể làm việc bằng tay chưn hay bằng trí óc; mặc quần áo, đi bộ, nói chuyện, khảo cứu, đọc sách đối với họ là những việc nặng nề làm hao sức khỏe rất chóng. Người yếu thần kinh hình như không có nghị lực, da tái, nét mặt tiều tụy, lưng khòm, tiếng nói không ngọng. Trái với những người nói trên, có những người thần kinh quá sung mãn, họ thường phí sức của mình một cách vô ích. Quá cảm xúc, hay nói, nhẹ tính, họ hay vui buồn quá độ. Họ hay bị chứng mất ngủ. Và thầy thuốc ít khi biết được họ là những người đau. Tư lự: Tư lự là một trạng thái rất thông thường. Người tư lự là người mắc chứng cảm xúc quá độ. Người tư lự hay lo lắng sợ hãi. Người khỏe mạnh cảm xúc có chừng. Trái lại người tư lự cảm xúc quá độ. Người tư lự hay lo sợ, do dự, nghi ngờ, không có chí quyết đoán. Nếu trạng thái ấy nặng thêm thì người tư lự trở thành một con bịnh luôn luôn sống trong hồi hộp, âu lo, ngực rang tức, cuống họng như bị thắt lại. Trên trán có vết nhăn, lông mày nhâu lại, tim đập, mồ hôi toát ra, con người hết muốn sống. Nặng hơn nữa, người tư lự cảm thấy mình bị ám ảnh vì một tư tưởng hay một việc gì. Tư lự có thể là một chứng bịnh. Khi còn nhẹ thì nó làm cho con người hoài nghi, băn khoăn, khi nặng rồi nó làm cho con người không thích hoạt động, không thích sanh sống nữa. CHƯƠNG VI NGƯỜI HẢO TÂM DỄ QUYẾN RŨ KẺ KHÁC Phải có một thái độ: Mỗi người phải có một thái độ cũng như họ chọn một kiểu nhà hay kiểu quần áo. Nếu anh muốn cải thiện con người anh thì anh nên nghĩ đến một con người lý tưởng mà anh ưa thích. Anh phải tập tánh lạc quan nghĩa là vui vẻ, bằng lòng, hào hiệp, hòa nhã, lễ phép. Anh sẽ làm cho kẻ khác có hạnh phúc và chính anh sẽ đặng hạnh phúc. Phải lạc quan: Người lạc quan thấy cái gì cũng đẹp, trái lại người bi quan thấy cái gì cũng xấu. Người bi quan xung đột với hoàn cảnh; người lạc quan luôn luôn sống thuận với hoàn cảnh. Người bi quan bắt buộc kẻ khác phải theo mình, trái lại người lạc quan thích ứng theo kẻ khác. Tinh thần lạc quan giúp cho cơ thể điều hòa, còn tinh thần bi quan gây chất độc trong cơ thể khiến sanh bịnh và làm mau già. Đừng nên để ý đến cái gì xấu ; đừng nên chê bai ; tránh những lời nói chua cay ; đừng làm cho kẻ khác phiền muộn, đừng giao du với những người hay rên siết, hay phàn nàn, cho đến khi nào anh tập được tánh lạc quan. Người hào hiệp dễ quyến rủ kẻ khác: Anh hãy tập cho mình trở nên dễ thương, lễ phép với gia đình mình và con cái mình, cũng như với người trên, kẻ dưới và người đồng hành. Anh sẽ làm cho họ vui sướng và anh thấy sự vui sướng phát ra trong người anh. Montaigne đã nói : " Lễ phép không mất tiền mua mà lại mua được tất cả, vì những cử chỉ lịch sự là những vật trang điểm cho việc làm. " Người hào hiệp quyến rủ kẻ khác và hấp dẫn mọi người theo mình. Con mắt, lời nói và cử chỉ đều phát lộ một hứng vị khiến kẻ khác say mê. Anh càng phát triển nơi người anh tánh hào hiệp và tinh thần lạc quan thì những ưu tư, sầu muộn, bịnh hoạn càng bị tiêu diệt, tư tưởng của anh càng mạnh mẽ và sáng suốt, hoài bão của anh càng dễ thực hiện bởi vì những người chung quanh anh sẵn sàng giúp đỡ anh. Tánh hào hiệp và tinh thần lạc quan đưa ta đến sự thành công. Ông Smiles nói : " Việc làm có hiệu quả hơn hết là việc làm do óc và tay của một người vui tính làm ra. Có ý chí thì làm gì cũng được: Trong tất cả các năng lực cần thiết đã cải tạo con người anh về mặt vật chất và tâm đức không có năng lực nào quan trọng hơn ý chí. Người có ý chí là người biết biến đổi một ý tưởng ra hành động ; nghị lực là sự gắng sức liên tiếp để theo đuổi đến một mục đích. Tôi nhứt định leo lên một đỉnh núi. Ngày mai, tôi dậy sớm và lên đường ; tôi đã hành động theo ý chí. Dọc đường tôi gặp vô số trở ngại khiến tôi lui bước, tôi vẫn cố gắng đi tới và đạt được mục đích ; tôi tỏ ra có nghị lực. Người có ý chí làm được tất cả những việc mình định làm. Người có nghị lực không bao giờ thay đổi ý định. Từ xưa, người ta đã nói rất nhiều về sức mạnh của ý chí : " Muốn là được ", " Với ý chí, người ta có thể làm được mọi sự ". Thomas Buxton nói : " Một người trẻ tuổi đạt đến địa vị mình muốn nếu y quyết tâm. " Trong quyển sách Gởi cho các con tôi, Paul Doumer viết : " Trong cuộc tranh đấu để sanh tồn, người có ý chí mạnh bao giờ cũng thành công hơn những kẻ khác, nhưng ý chí ấy phải được rèn tập không ngừng, không nghỉ, áp dụng vào sự cải thiện của mình và vào tất cả những việc làm trong đời mình. " Nhưng anh sẽ cãi lại rằng : "Muốn luyện ý chí, thì phải có ý chí trước đã. " Anh nói có lý, nhưng anh có một cách để đi bước đầu, ấy là TỰ KỶ ÁM THỊ. Làm việc đắc lực: Ý chí giúp ta thực hiện được mọi tư tưởng, nhưng tư tưởng ấy phải tốt và ích lợi, tức là phải được suy nghĩ kỹ. Ý chí phải được sáng suốt, và sự sáng suốt có được là nhờ sự tập trung. Sự tập trung là một đức tánh giúp ta tụ hết năng lực vào một việc, xua đuổi những tư tưởng lạ, làm đãng trí. Tinh thần đặng tập trung chỉ chú ý đến một tư tưởng, một tình cảm, một vấn đề, một đối tượng và do đó có một sức mạnh phi thường. Trí phán đoán, trí diễn dịch (déduction) và trí nhớ nhờ vậy mà phát triển. Nhiều nghề nghiệp bắt ta phải tập trung tư tưởng, tỉ dụ toán học. Ông Archimède mải lo giải quyết một bài toán mà bị một tên lính giết chết trong thành Syracuse khi thành nầy bị vây, vì ông không trả lời một câu hỏi của anh lính ấy. Một sinh viên làm việc có tinh thần tập trung mạnh. Người thực tiễn nghĩ đến việc làm có hiệu quả là người biết tập trung. Làm việc hữu ích: Muốn thành công mà chỉ có phẩm hạnh và sức khỏe không thì chưa đủ. Phải biết áp dụng phẩm hạnh và sức khỏe ấy vào những việc hữu ích. Việc làm càng ích lợi thì sự thành công càng nhiều. Nhưng muốn làm ích cho kẻ khác thì phải làm ích cho mình. Phải lựa một nghề gì đúng với nhu cầu của nhân loại. Mà nhu cầu của nhân loại vô cùng thì cơ hội thành công cũng vô cùng. Khi đã chọn một công việc làm hữu ích thì phải ưa thích nó và đem hết tâm lực mà làm. Mọi người sẽ đi tìm anh: Ngày nào anh làm được việc ích lợi và ngày nào anh có đủ tài năng thì anh chắc chắn sẽ thành công lớn, bởi vì không người nào có thể bỏ qua anh được ; điều ấy là một sự thực hiển nhiên. Nhà triết học Mỹ Emerson nói : “ Người nào làm được một bẫy chuột tốt, giảng được bài kinh hay, viết được một quyển sách có giá trị, người ấy có thể cất nhà tận trong rừng sâu; bạn hàng sẽ lo đắp đường để đến tận nhà người ấy”. CHƯƠNG VII TÌNH THƯƠNG VÀ LÒNG NHÂN Tình thương và lòng nhân dùng để làm gì? Một người học trò hỏi ông Paul Nyssens: “Thầy muốn dạy tôi tập tình thương và lòng nhân. Những đức tính ấy tôi dùng để làm gì?... Tôi theo học thầy để tạo hạnh phúc, sức khỏe và thành công; tôi rất mến cái gì phát triển tâm đức và nâng cao tâm hồn. Tôi không cần gì hơn là có những năng lực cao đẳng; nhưng khi đọc sách của thầy, tôi không đeo đuổi mục đích ấy. Tôi chỉ nhắm đến mục đích thuận lợi mà thôi. Tôi muốn thành công, tôi muốn có một địa vị xã hội cao. Tôi luyện mình chỉ vì mục đích ấy, tình thương và lòng nhân không phải là chủ đích của tôi.” Sức hấp dẫn trong tình thương và lòng nhân: Paul Nyssens giảng cho người học trò ấy biết rằng muốn thành công phải yêu thích việc mình làm, phải làm một cách vui vẻ và hăng hái; phải thương người đồng loại mới làm cho họ cảm mến và hấp dẫn được họ. Người có lòng nhân được người khác yêu mến và tín nhiệm. Lòng nhân phải thành thực và tự nhiên. Những cử chỉ tốt ban đầu có thể vì một mục đích trục lợi, nhưng cử chỉ ấy lặp lại nhiều lần sẽ thành thói quen. Và khi đã thành thói quen thì anh trở nên một người tốt. Tình thương, lòng nhân và khôn ngoan: Tình thương và lòng nhân không phải là những đức tính thông thường, mà là những năng lực, những sức mạnh làm thành tính tự chủ. Một của quý báu nhất của con người là tánh khôn ngoan. Trong đức khôn ngoan có cả tình thương, lòng nhân. Người khôn ngoan có cả những tính tốt. Ở đây tình thương xét theo nghĩa rộng, tức là sức xô đẩy người ta đến điều thiện; lòng nhân muốn gần thiện xa ác. Anh chỉ nên muốn điều lành cho kẻ khác và riêng cho mình. Nên thích những việc mình làm: Anh không thể tạo được hạnh phúc nếu anh không được tự do và độc lập. Anh muốn sống theo sở thích của anh. Muốn được vậy anh phải vừa yêu thích công việc làm hằng ngày, vừa yêu thích hoàn cảnh chung quanh. Muốn được tự do anh phải làm v iệc theo lương tâm; người nào làm trái lương tâm thường hay lo sợ, ấy là một người nô lệ. Làm một việc gì anh phải thấy khoan khoái trong lòng để mà làm. Như vậy anh sẽ được bình tĩnh, an nhàn. Mặc dầu việc làm ấy không hợp sở thích của anh: Tỉ dụ như anh làm một việc không hợp với sở thích của anh, nhưng anh không thể thay đổi được tình thế hiện tại. Tình thế ấy là một tình thế nô lệ, đời sống của anh khổ cực lắm. Anh hãy làm như tên thủy thủ kia muốn chèo thuyền đi từ Bắc về Nam mà gió thì lại thổi từ Nam về Bắc. Mặc dầy gió ngược tên thủy thủ khéo trương buồm bẻ lái khiến cho thuyền đi đúng hướng đã định. Anh hãy theo gương người thủy thủ ấy. Khi hoàn cảnh trái nghịch với ý muốn của anh, thì anh hãy đổi thái độ. Anh hãy suy nghĩ và thấy rằng việc làm của anh không đến nỗi khó chịu như anh nghĩ đâu. Anh phải điều khiển lấy nó và đừng để nó điều khiển anh. Việc làm ấy tuy thế cũng có lợi cho anh vì nó giúp anh phát triển năng lực làm chủ lấy mình. Nhờ ý chí và nhẫn nãi, anh sẽ tập tính vui vẻ, bình tĩnh, chừng mực, anh sẽ trở nên dễ thương và có sức điều khiển kẻ khác. Bao nhiêu điều kiện ấy có thể thực hiện được bất cứ trong nghề gì và việc gì. Không bao lâu anh sẽ ưu thích công việc mà trước kia anh chán ghét. Yêu nghề và Tự chủ: Mặc dầu nghề nghiệp của anh ra sao, anh phải gắng để trở nên một tài năng, anh phải dùng tất cả năng lực của anh vào nghề để làm hơn kẻ khác và mỗi ngày mỗi tiến. Phải nâng cao nghề nghiệp lên trình độ một nghệ thuật. Đó là kết quả mà anh sẽ thâu được nếu anh yêu nghề. Người nào không thích nghề người ấy không thể thành công được. Nếu việc làm hiện tại không làm cho anh vui. Anh cũng chú ý tập ham thích; nó sẽ mở đường cho anh đến chỗ ham thích. Ham thích và Biệt tài: Người ta thành công trong nghề nghiệp mình được là nhờ mình có biệt tài, nghĩa là người ta đã đến hạng ưu tú rồi; người ta có thể làm hơn kẻ khác và mỗi ngày một khá thêm. Biệt tài do thiên tư mà có, nhưng cũng nhờ luyện tập lâu ngày. Muốn có biệt tài, phải cố gắng làm cho thật thiện mỹ những cái gì anh định làm. Người nào ham thích làm nghề nghiệp người ấy sẽ có biệt tài, và chắc chắn sẽ được trọng dụng. Gây cảm tình: Muốn thành công anh phải biết hấp dẫn kẻ khác, phải giữ lòng tín nhiệm của kẻ khác. Muốn được vậy phải làm thế nào?... Phải chú ý đến cách ăn mặc, thái độ và cử chỉ. Phải tập quen làm việc mỗi ngày một thiện mỹ hơn. Nhờ đó mà người anh thêm nét phong lưu, đời sống tinh thần sẽ giản dị, và tánh tình sẽ hiền lành, quả quyết; thân thể tráng kiện, óc não tác động đầy đủ, tinh thần được điều hòa và mạnh mẽ. Anh sẽ hào hiệp và dễ thương đối với mọi người. Anh sẽ tùy sức và phương tiện mà làm vui lòng kẻ khác. Dầu lúc đầu anh chưa hẳn là người nhân từ, dần dần anh sẽ trở nên tốt. Lòng nhân là một điều kiện cốt yếu của tánh tự chủ. Người nhân từ sẽ được sự mến yêu của tất cả người lẫn vật chung quanh. Tánh quảng đại hào hiệp là một sức hấp dẫn rất mạnh. Mở rộng cửa lòng cho mọi người: Anh đừng nên lãnh đạm, cau có hay rụt rè. Trái lại, anh nên mở rộng cửa lòng cho mọi người. Nếu anh siết tay một người bạn thì nên siết thật chặt với tất cả tình thân ái. Anh hãy tỏ ra dễ thương với mọi người, cả những người hèn hạ nữa. Lòng nhân, tính hào hiệp, tính dễ thương chẳng những đem đến cho anh sự thành công mà còn đem đến cho anh sức khỏe. Tình cảm quảng đại giúp cho cơ thể tác động điều hòa. Trái lại, tình cảm hiểm ác gây chất độc trong cơ thể. Sự thù ghét, giận giữ làm hại sự tiêu hóa. Sắc mặt vui vẻ, tình thân thiện giữ được sức khỏe cho cơ thể. Tánh đố kỵ, ghen ghét, giận giữ làm cho trí não rối loạn. Dầu anh gần gũi với bạn bè hay với người lạ, với một bạn hàng hay một đứa tôi tới, anh phải tỏ ra hào hiệp và dễ thương. Trong lời chào, trong cái bắt tay, trong nét mặt, anh cố làm cho kẻ khác vừa lòng. Nhờ vậy mà ảnh hưởng của anh lan rộng và anh có thể tăng sinh lực của mình lên; anh sẽ làm cho sức khỏe vững bền, anh sẽ thành công dễ dàng; sự thành công được nhanh chóng và quan trọng. CHƯƠNG VIII ANH HÃY TƯƠI CƯỜI VỚI THIÊN HẠ THIÊN HẠ SẼ TƯƠI CƯỜI VỚI ANH Đi tìm hạnh phúc: Con người cần có hạnh phúc, nhưng nó lại không phân biệt được những phương tiện đạt đến hạnh phúc. Nếu mỗi người hành động theo sở thích thì bản năng sẽ đưa họ đến khoái lạc tức là điều nghịch lại với hạnh phúc. Người lao động thích rượu chè, bài bạc; trẻ con ham ăn bánh ngọt và sô cô la; bọn thanh niên ưu vui chơi trong tiệm nhảy; phần đông đều theo tiếng gọi của bản năng. Thói quen tật xấu sẽ làm cho họ mắc bệnh hoạn và mau già. Khoái lạc không phải là hạnh phúc; tìm khoái lạc tức là theo đuổi những sự thất vọng và khốn khổ. Tìm chân hạnh phúc ở đâu: Muốn có hạnh phúc thật, anh phải bằng lòng mọi sự, đừng nên nói xấu ai, tỏ ra hào hiệp với mọi người, đừng chỉ trích, đừng ghen ghét, phải bình tĩnh trước nghịch cảnh, phải tươi cười và gieo rắc sự vui vẻ khắp chung quanh. Mục đích của ta là gì? Là sức khỏe. Và do sức khỏe sẽ có thành công và vui sướng, Vậy những tình cảm xấu như: oán hờn, ghen ghét, lo sợ, rối trí, lo buồn làm hại sự điều hòa của cơ thể tức là làm hại sức khỏe. Thái độ tươi cười, hào hiệp sẽ gây tình thân thiện, sự giúp đỡ, sự cộng tác của những kẻ chung quanh và bảo đảm sự thành công. Thái độ ấy phát triển nơi lòng nhiệt thành, đức tin, lòng tín nhiệm, tức là những điều kiện cốt yếu để thành công. Nhiều người tự nhiên mà có được thái đọ ấy nhờ sức khỏe, giáo dục, nhờ ảnh hưởng chung quanh; đó là gia tài lớn mà cha mẹ để lại cho con cái. Những người không có thái độ ấy một cách tự nhiên thì nên cố gắng mà luyện tập lấy. Phải tập hưởng hạnh phúc: Phải luyện tập mới biết hạnh phúc và lạc quan, cũng như luyện tập thân thể và tinh thần. Nhà giáo dục và cha mẹ phải tập con mình vui vẻ, bằng lòng và sung sướng, tập cho chúng thấy phía tốt của sự vật; tập cho chúng chú ý đến các hiện tượng của tự nhiên, tập cho chúng quen với hạnh phúc, vui tươi để dự bị cho chúng hưởng hạnh phúc tương lai. Tấm gương soi của một tu sĩ: Hồi thế kỷ XV có một nhà quí tộc tên là Don Quirido. Chàng là một gã si tình, phải lòng một thiếu nữ, say mê nàng và hai người yêu nhau. Bỗng một ngày kia nàng đột nhiên bứt dây tình ái. Don Quirido buồn bực đến nỗi nghĩ đến tự tử. Một người bạn vừa đến kịp, can gián chàng. Chàng vào một nhà tu. Trong không khí tù hãm, lửa tình tắt dần, Quirino bớt đau khổ. Nhưng chàng cảm thấy buồn, vì chung quanh chàng cảnh vật đều buồn. Chàng chỉ gặp những bộ mặt nghiêm khắc. Một buổi chiều kia, chàng buồn quá đến nỗi thất vọng, một vị thiên thần hiện ra bảo chàng: - Don Quirido, ngươi hãy an lòng. Ngươi có thể tìm lại được sự vui sướng trên thế gian nầy và cả trên trời nữa. Thật không có gì dễ dàng hơn. Ta có thể cho ngươi một lá bùa. Ngươi hãy theo lời chỉ dẫn của ta trong sáu tháng mà thôi. - Tôi xin làm theo lời dạy của ngài. Tôi tin nơi tôi lắm, tôi sẽ gắng sức để thoát khỏi tình trạng hiện tại của tôi. Ngươi hãy tươi cười với thiên hạ: Vị thiên thần cho chàng một tấm gương, và nói: - Tấm gương nầy cũng như thiên hạ, sẽ phản chiếu hình ảnh của ta. Ngươi phàn nàn, thiên hạ tỏ vẻ mặt buồn rầy với ngươi. Ngươi hãy nhìn hình ảnh ngươi trong gương này: ngươi có vui vẻ và dễ thương không?... Ngươi hãy mỉm cười và thiên hạ sẽ mỉm cười với ngươi. Chàng mỉm cười. Vị thiên thần nói tiếp: - Ngươi hãy thề rằng mỗi buổi sáng ngươi mỉm cười trước tấm gương, rồi giữ nụ cười ấy suốt ngày để gây cái cười chung quanh ngươi. Don Quirido thề và ngủ rất yên giấc. Trời vừa hừng sáng, chàng tỉnh dậy, tâm hồn vui vẻ và reo hát theo chim chóc. Người đồng viện lấy làm lạ. Ai mà lại dám làm xao động sự yên lặng nghiêm khắc của nhà tu nầy. Tăng viện trưởng phải nhắc chàng giữ kỷ luật của nhà tu. Chàng nói: - Thưa cha, nỗi vui mừng thiêng liêng tràn ngập lòng tôi, tôi hát những bài thánh ca của Chúa, vì tôi sung sướng được Chúa sanh tôi ra. Từ giờ đó trở đi, chàng tươi cười và làm cho các tu sĩ chung quanh cũng tươi cười theo chàng. Chàng đem những mẩu chuyện, những bài học để vạch những chỗ đáng yêu của sự vật chung quanh. Cuộc sống trở nên êm đẹp. Một tháng sau, cả tăng viện rực rỡ trong ánh sáng, say sưa trong tiếng hát, tràn ngập trong một nguồn vui thanh khiết. Tăng viện trưởng định đuổi Don Quirido đi, nhưng không tìm được một duyên cớ nào cả. Một đức cha trong viện khuyên đổi chàng sang nhà tu Palencia, tức là một nhà tu nghiêm khắc không đâu bằng. Ở đó, chàng bắt buộc phải câm miệng. Đến Palencia, Don Quirido lại làm cho tăng viện nầy mất vẻ nghiêm khắc của nó. Tăng viện trưởng báo cáo việc nầy với vị đại phán quan. Vị phán quan này vốn tính người hung tợn và buồn bực, cho dời chàng đến và trách cứ thái độ bất chánh của chàng. Chàng trả lời rằng tôn giáo của Jesus Christ là một tôn giáo nhân ái, và thế gian tươi đẹp đến nỗi chỉ có người mù mới không nhận thấy sự tươi đẹp ấy. Vị đại phán quan cho là chàng lộng ngôn. Chàng bị kết án tà đạo và bị xử thiêu. Muốn cho các nhà tu hành kiêng sợ, họ được đưa đi dự kiến. Don Quirido vẫn cao giọng hát Sự vui vẻ ấy lây đến các tu sĩ và tất cả đều hát theo chàng. Khi lửa cháy, mười một tu sĩ nhảy vào lửa đỏ để cứu chàng song rồi cũng bị chết thiêu. Vị đại phán quan vì tức giận mà chết ngay lúc ấy. Linh hồn ông ta đến cửa thiên đường một lượt với linh hồn mười hai tu sĩ. Thánh Pierre mở rộng cửa đón. Nhưng vị đại phán quan ra lịnh cho các tu sĩ về địa ngục. Thánh Pierre chỉ hé cửa cho vị đại phán quan vào thiên đường. Mười hai vị tu sĩ đi vào địa ngục mà vẫn không ngừng ca hát. Bọn quỉ sứ nhìn họ với vẻ mặt tức giận và chực tra tấn. Nhưng sự hành phạt chỉ làm cho họ mỉm cười và hát nhiều hơn nữa. Bọn quỉ sứ nguôi giận và cũng vui theo. Không bao lâu, tiếng cười của lũ quỉ và bọn người bị đọa đầy thay cho tiếng khóc. Trong địa ngục, những lời chúc tụng thay cho lời nguyền rủa. Quỉ Sa tăng tức giận vô ngần, nhưng nó không còn biết làm gì khác hơn là ẩn mình sau những lò lửa của nó để khỏi thấy khỏi nghe gì cả. Từ trên thiên đường, các thánh thần lấy làm lạ tại sao nơi âm cung lại đầy những tiếng vui vẻ, nghiêng mình ra khỏi vòm trời nhìn xuống. Họ nghiêng mình quá đến nỗi một số đông bị chóng mặt rớt xuống địa ngục. Họ lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng ở chốn rùng rợn kia lại chỉ có tình thương, và tươi sáng! Họ cảm động lắm và bay trở về cầu xin Thượng đế cho những người bị đọa kia trở lại thiên đường. Hãy gieo sự vui vẻ chung quanh anh: Thượng đế phán: - Ta tha cho các tu sĩ, sự vui vẻ và tình thương đã rửa sạch linh hồn của họ rồi! Nhưng quay lại phía vị đại phán quan: - Còn ngươi, ta đày ngươi xuống ở với Sa tăng, với con quỉ đen không lòng không dạ ấy. Ngươi nên biết, lòng nhân bao giờ cũng dễ yêu và dễ gây tình yêu. Ngươi đã bỏ lòng nhân và theo tội lỗi thì ngươi phải chịu lấy sự buồn rầu và khốn khổ đã làm đen tối cái vẻ mặt tươi cười trong sáng của lòng nhân. CHƯƠNG IX NẾU ANH MUỐN KẺ KHÁC KÍNH NỂ ANH THÌ ANH PHẢI BIẾT KÍNH NỂ LẤY MÌNH Không nên có những tình cảm trầm trệ: Tâm hồn anh có thể bị xâm chiếm bởi những tình cảm tiêu cực và suy yếu: rụt rè, rối trí, nóng nảy, buồn bực, lo sợ, hối tiếc, băn khoăn, ganh tị, ham muốn, không nhẫn nại, v.v. Ngược lại, nó cũng có thể được soi sáng bởi những tình cảm tích cực: hăng hái, phấn khởi, tình thương, hào hiệp, lạc quan, vui vẻ, gìn giữ sức khỏe, tạo thành công và hạnh phúc. Anh đừng để cho trí não tiếp đón những tình cảm tiêu cực và chỉ tiếp nhận những tình cảm tích cực. Nếu anh muốn cải tạo con người của anh thì nên đọc những lời sau đây trong nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng. Không nên để sót một ngày nào và kết quả sẽ được mỹ mãn lắm. Nên chú ý rằng anh cũng là người quan trọng: Anh nên phát triển nhân phẩm của anh tức là tinh thần cao thượng, tiết độ, điều hòa, tự tôn; anh nên tập sai khiến kẻ khác và tuân giữ những nguyên tắc xử thế của anh. Nên chú ý rằng anh cũng là người quan trọng, anh là người có thiên tư và muốn phát triển thiên tư ấy, anh nên rèn luyện và biểu lộ nó ra. Anh phải tỏ cái thiên tư ấy bằng lời nói, bằng việc làm, và như vậy, anh phát triển ảnh hưởng của anh ra ngoài. Trong nghề nghiệp, anh nên lựa lấy địa vị chỉ huy. Nên nhận lấy trách nhiệm; nên giữ thái độ đúng đắn, mạnh dạn, uy quyền, trầm tính và tự tin. Giữ gìn cách ăn mặc, thái độ, cử chỉ lời nói. Nên làm những việc công bình, chân thật và lương thiện. Bởi vậy, tất cả những hành động, lời nói nhất thiết phải biểu lộ điều thiện và chân lý. Anh nên đem hết tin tưởng để mà nói, khiến cho người nghe anh có thể tin tưởng lời nói của anh. Như vậy anh sẽ có nhận điện tức là sức hấp dẫn và lối cuốn người khác. Kết quả: Làm theo những lời dặn trên đây, anh sẽ tập được tánh tự tin; bất cứ trường hợp nào, anh cũng có thể tự mình làm cố vấn cho mình được. Anh sẽ quyết định mọi sự mà không do dự. Anh không rụt rè, bối rối. Không bao giờ anh bị loạn trí vì những tư tưởng tai hại: hối tiếc, lo sợ, ganh tị. Anh không sợ trách nhiệm mà tìm lãnh trách nhiệm; như vậy, anh sẽ trở nên một người lãnh đạo. Tự luyện tập lấy mình: Muốn trở nên một người siêu phàm thì phải hành động, nói năng và giữ thái độ của một người siêu phàm. Hành động tức là biểu hiện của tư tưởng và bản ngã. Anh phải kính trọng cái gì thuộc về của anh: quần áo, đồ đạc phải được sắp đặt, gìn giữ có thứ lớp. Anh phải tôn trọng tính tình, trí thông minh và sức khỏe của anh. Anh tập làm việc cho chu đáo, mặc dầu không ai để ý đến việc anh làm. Hạnh kiểm của anh, dầu không ai biết, phải là hạnh kiểm của một người biết trọng danh dự. Anh phải kính trọng tất cả: bản thân của anh, người chung quanh anh, vợ con, gia đình, nghề nghiệp, xứ sở, địa vị, xã hội. Đừng nên có thái độ mỉa mai và chỉ trích cay đắng. Nên suy nghĩ kỹ về ý nghĩa của những danh từ: giá trị, sự quan trọng, đức chân thành, phẩm giá, công bình, chân lý. Hãy suy nghĩ về những đức tính ấy cho đến ngày tạo được những đức tính ấy. Không nên nói ra những lời nào làm cho mình suy yếu. như là: “Tôi yếu quá”, “Tôi không quan trọng gì”, “Tôi chỉ là người tầm thường”. Trái lại, nên nói như ý anh nghĩ: “Tôi khỏe mạnh”, “Tôi là người quan trọng”. Tin là mình hùng đại tức là mình đã hùng đại rồi: Người nào muốn hùng đại và tiến hóa tức là người biết tự đại. Phải nhận thấy mình là quan trọng thì kẻ khác mới tin mình là quan trọng. Tin mình hùng đại, tức đã hùng đại rồi. Anh hãy tin nơi mình, nơi sức mạnh của giọng nói, của trí phán đoán, của đức tin, của sự quyết đoán của anh. Anh hãy tự nói rằng mình là một siêu nhân và tất cả cái gì anh làm, tất cả những lời anh nói là của một siêu nhân. Đừng nên để ý đến dư luận của kẻ khác; phải coi thường lời khen cũng như lời chê của họ. Anh coi như phần đông người ta đều bất lực. Để chứng tỏ ra mình hơn người, anh nên hành động theo lý trí. Người nào ăn uống nhiều, y phục xộc xệch, lời nói việc làm thiếu từ tốn, hay nóng giận, hay chửi thề, người ấy không đủ sức tự kiềm chế. Người ấy thấp kém hơn anh vì anh kiểm soát được lời nói và việc làm của anh. Anh hành động theo một chương trình. Anh sống như một hiền nhân. Người hiền không bao giờ biết sợ giông tố, và sống bình tĩnh theo ý mình muốn. Anh hãy đeo đuổi mục đích ấy mà không do dự, không ngừng. Như vậy anh sẽ được bình tĩnh, dẻo dai, tin cậy nơi sự thành công. Anh nên nhớ rằng tự kỷ ám thị và căn bản cho sự tự cải tạo con người anh. Những tự kỷ ám thị có thể áp dụng được: Anh dùng những tự kỷ ám thị sau đây để tự cải thiện: “Tôi có một nhân phẩm gồm có những đức tính: trung chính, tiết độ, điều hòa. Tôi thấy tôi có đủ sức lãnh trách nhiệm chỉ huy nhờ tư tưởng rộng rãi và giá trị cá nhân của tôi. Tôi biết điều khiển việc làm của tôi và tự điều khiển lấy mình nữa. Tôi sanh ra để làm những việc quan trọng và tôi có những tư cách cao đẳng. Tư cách ấy tôi nhờ tạo hóa, cha mẹ tôi mà có. Trong người tôi đã có sẵn sức mạnh chi phối được hoàn cảnh. Tôi đủ sức điều khiển và tôi muốn điều khiển kẻ khác. Tôi muốn và có thể điều khiển con người tôi; khả năng của tôi rất lớn. Tôi hành động bình tĩnh, nói năng bình tĩnh, có thái độ bình tĩnh. Vì tình cảm của tôi cao thượng tôi hành động cao thượng. Tôi để ý bộ đi, dáng điệu cử chỉ, giọng nói của tôi. Tôi biết tự trọng và như vậy tôi được kính trọng. Tôi có sức khỏe. Tôi chịu đựng bền bỉ và giàu sinh lực. Tôi trọng cái gì thuộc quyền tôi; tôi ưa mến giọng nói, tính tình, thân thể, sức khỏe, tâm hồn tôi. Tôi trọng gia đình, cha mẹ, đồng bào, nhân loại, tôi tớ, người làm công, và đồ đạc của tôi. Tôi chỉ làm điều thiện. Cách cư xử, ăn mặc, thói quen, cách xử thế của tôi đều xứng đáng với con người tôi. Tôi là người có giá trị, bởi vì tôi có ý chí, nghị lực, tinh thần tiếp tục, trật tự, phán đoán. Tôi trọng quyền lợi của kẻ khác và không phạm đến quyền lợi kẻ khác. Tôi muốn mọi người trọng nể tôi nhưng tôi không để ý đến lời phẩm bình của kẻ khác. Không có lời xu nịnh, lời khen, lời chỉ trích nào ảnh hưởng đến tôi được. Tôi chỉ quan tâm đến ý kiến của tôi mà thôi. Tôi bằng lòng tôi bởi vì mỗi ngày tôi làm việc khá hơn và chỉ làm việc gì hợp lẽ phải và lẽ thiện. Ai là người chỉ trích tôi?... Ấy là những người yếu, hay cười to, nói lớn, chửi thề, nóng giận. Toàn là những người vô giá trị. Tôi không giống hạng người ấy; ý kiến của họ không có giá trị gì. Tôi là người khôn ngoan, và đã là người khôn ngoan, tôi không để tâm hồn bấn loạn. Tôi ưa lãnh trách nhiệm, vì tôi đủ sức lãnh trách nhiệm và làm được tất cả những việc tôi định làm. Không bao giờ tôi chạy đông chạy tây mà không tự kiểm soát lấy mình. Tôi luôn luôn đi thẳng đến mục đích. CHƯƠNG X ẢNH HƯỞNG CỦA THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI NGƯỜI VÀ VIỆC Thái độ và nhân phẩm: Giữa một người thợ và một nhà kỹ nghệ, giữa một ông giáo làng và một giáo sư đại học, lúc ban đầu chỉ có khác nhau ở chỗ nầy: người thứt nhất thì nói: “Tôi sẽ làm giáo sư trường đại học”. Trong các cấp xã hội, bước đầu của người nào cũng thế; về sau, tư tưởng của họ đưa họ lên cao hơn hoặc chặn họ lại giữa đường. Người thì giữ một thái độ khiêm tốn, tầm thường của một người thợ, một người làm công, một viên chức. Người thì theo thái độ của một vĩ nhân. Thái độ tạo nhân phẩm cho mỗi người. Anh hãy săn sóc thái độ vật chất và tinh thần của anh: chọn lấy thái độ nào hợp sở thích của anh; người và việc chung quanh anh sẽ hòa hợp với thái độ ấy. Đừng tỏ vẻ buồn bực: Nếu anh không bằng lòng số phận hiện tại của anh, anh hãy đổi thái độ; và chung quanh anh, mọi sự sẽ thay đổi theo thái độ ấy. Thiên hạ là một tấm kiếng mà anh soi mình vào đó. Nếu anh tươi cười, thiên hạ sẽ tươi cười theo anh; nếu anh tỏ ra vẻ mặt khó chịu, thiên hạ cũng khó chịu với anh. Trời sẫm thì anh đeo kính vàng và mọi vật sẽ vàng ửng. Anh ăn bận quần áo rách, trang phục lôi thôi, giày hư, nón xệch: anh nhận thấy như thế; tức nhiên anh có một thái độ khiêm tốn, thẹn thuồng đối với người ăn bận tử tế. Y phục rất có ảnh hưởng đến thái độ của mình đối với kẻ khác và của kẻ khác đối với mình. Phải ngó thẳng vào mặt người: Anh hãy ăn bận đúng đắn, chải tóc, cạo râu và săn sóc quần áo; hãy đứng thẳng mình, ngó thẳng vào mặt người; thái độ đúng đắn ấy làm cho người khác kính nể mình. Đối với người khác, phải giữ thái độ tích cực hoạt bát, và tự nhiên họ sẽ có thái độ tiêu cực, thụ động đối với anh. Tin rằng mình thắng: Thiên hạ thay đổi tùy theo thái độ của anh. Muốn thâu phục thiên hạ, mình phải là vị chủ tướng. Người chủ là người biết điều khiển hoặc thích ứng với thời cuộc; người làm chủ bao giờ cũng được tự do và độc lập. Anh muốn thời cuộc tùy theo ý muốn của anh?... a) Hãy tự chế ngự lấy mình; b) Làm cho mình hòa với thiên hạ. Trong người anh có sẵn những tính tốt và tật xấu, anh hãy làm cho tính tốt phát triển và tật xấu tiêu diệt. Có khi anh không biết rằng anh có những tính tốt. Anh hãy phân tích con người anh, để nhận thấy những đức tính ấy và biểu lộ ra. Khi anh đã nhận thấy mình có đức tính ấy rồi, anh phải lấy thái độ của một người nhiều đức tính. Với thái độ ấy, anh đã thắng được phân nửa những sự khó khăn trong đời anh. Và trong những trường hợp khốn đốn, anh vẫn có thái độ của người tự do. Thái độ do sự yêu nghề tạo ra: Muốn điều khiển đời sống của anh trước hết anh phải biết yêu công việc mình làm, vì chỉ có thái độ do sự yêu nghề tạo ra mới làm cho con người sống vui được. Thái độ ấy thêm hạnh phúc và sức khỏe của người lao động, giúp họ vượt đến một trình độ cao hơn. Có vui lòng làm thì công việc làm được dễ dàng hơn; dầu anh là thợ, chủ, người làm công, viên chức, hay nghệ sĩ, có vui lòng làm việc anh mới có thể để hết tâm tư vào việc làm và kết quả sẽ tăng bội. Lòng yêu nghề nâng cao nghề nghiệp thêm lên. Nếu anh gặp may mắn chọn được nghề hợp với sở thích và bản năng thì ý chí giúp anh thành công ngay. Công việc làm của anh sẽ dễ dàng. Nhưng nếu cảnh ngộ không cho anh chọn một nghề thích hợp, anh cũng có thể yêu nghề ấy được. Nếu anh đảm nhận một việc làm không thích ý, anh nên tự bảo luôn luôn rằng: “Tôi phải làm cho xong việc nầy bởi vì tôi sẽ rút được những kết quả ích lợi; tôi phải ưa thích nó và hoàn thành nó một cách thiện mỹ; như vậy nó sẽ đưa tôi qua một giai đoạn khác mà tôi có thể chọn một việc làm hợp với sở thích và năng lực của tôi hơn.” Anh hãy yêu mến công việc làm của anh bất cứ việc ấy như thế nào, và thái độ của anh sẽ giúp anh không thấy những chỗ bất như ý của việc anh làm nữa; nó sẽ làm mất những trở ngại khiến anh bực tức. Thái độ cương quyết: Anh phải có một thái độ vừa cương quyết vừa mềm dẻo. Cương quyết để mà đeo đuổi mục đích đến cùng; mềm dẻo để thích ứng với hoàn cảnh không thuận tiện. Khi anh dùng sức để chống lại một trở ngại thì anh phải cương quyết; khi anh đứng trược một cảnh ngộ không cưỡng được, anh phải mềm dẻo. Như vậy, gặp lúc nào anh cũng có thể tự luyện mình được. Muốn được cương quyết, anh nên tin cậy nơi sự thành công. Nhờ thái độ cương quyết mà người ta có thể bắt con sư tử nằm im trong góc chuồng. Những thú dữ biết kẻ thù của mình yếu nhưng vẫn e sợ thái độ cương quyết. Sức mạnh tinh thần cao hơn sức mạnh thể chất.