🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Con Đường Da Cam Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn «Dành tặng Sadie Vella» https://thuviensach.vn LỜI NÓI ĐẦU Cuốn sách này bắt đầu từ hành trình đi tìm một đề tài cho luận văn tiến sĩ của tôi tại đại học Temple (Mỹ). Vào thời điểm đó, tôi quan tâm đến giao điểm của hai chủ đề lớn: quan hệ quốc tế và các vấn đề môi trường. Đề tài Chất độc da cam là lựa chọn hoàn hảo, và điều đáng ngạc nhiên - cũng là lý do “bật đèn xanh” cho tôi bắt tay vào nghiên cứu - chính là việc có quá ít tài liệu viết về đề tài này. Cá nhân tôi thực sự biết rất ít về Chất độc da cam, vì thế tôi bắt đầu bằng việc đọc thật rộng về những gì đã được viết về đề tài này. Không lâu sau đó, tôi chọn được hướng tiếp cận đề tài khi được biết về sự kiện một nhóm các nhà khoa học hàn lâm Mỹ đã phản đối sử dụng chiến tranh chất độc trừ cỏ tại Việt Nam trong những năm 60, dựa trên những quan ngại về môi trường, nhân quyền và luật quốc tế. May mắn là tôi đã phỏng vấn được tất cả các thành viên trong nhóm này trừ tiến sĩ Bert Pfeiffer vì ông đã qua đời trước đó vài năm. Dù vậy, tôi đã phỏng vấn được vợ ông, và được tiếp cận trọn bộ văn bản của tiến sĩ Pfeiffer trong đó chứa rất nhiều thông tin quí giá. Trước khi sang Việt Nam thu thập tài liệu vào tháng 8.2007, tôi e ngại những nỗ lực của mình sẽ vấp phải những rào cản về ngôn ngữ và văn hóa, cộng thêm sự e dè có thể có trong việc thảo luận về một đề tài đã từng và vẫn đang là đề tài đau thương của Việt Nam. Khi sang đến nơi, tôi ngỡ ngàng và rất mừng khi nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của mọi người tôi có dịp tiếp xúc, từ những quan chức sẵn sàng trò chuyện “không chính thức”, đến những cán bộ quản lý những vùng đất bị rải Chất độc da cam nặng nề, đến nhiều học giả và nhà khoa học đến giờ vẫn kiên định trong việc tìm con đường hàn gắn điều mà nhiều người gọi là “vết thương cuối cùng” của cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam. Điều mà tôi từng lo sẽ là cản ngại lớn nhất lại trở thành giai đoạn trôi chảy và dễ chịu nhất của hành trình nghiên cứu của mình. Trong khi đó, thử thách lớn nhất lại là làm thế nào để sắp xếp https://thuviensach.vn lại toàn bộ lượng tài liệu và thông tin ngồn ngộn mà tôi thu thập được trong suốt một năm điền dã. … Cuối cùng, sau 5 năm làm việc, hàng chục ngàn trang tài liệu nghiên cứu, với tất cả những hy sinh mà vợ tôi đã dành cho tôi trong suốt hành trình, mọi thứ đã dồn lại trong cuốn sách nhỏ bé này… Với những bạn đọc bản dịch tiếng Việt, tôi muốn gửi gắm rằng việc chuyển ngữ và xuất bản cuốn sách này, với tôi, là thành tựu tối hậu của toàn bộ hành trình nghiên cứu của mình. Mặc dù cuốn sách tập trung nhiều vào chính sách và những nhân vật lịch sử, trên thực tế đây là câu chuyện về Việt Nam - về đất nước và con người Việt Nam. Trong nhiều năm qua, tôi đã nỗ lực hết mình để tìm hiểu, ghi nhận và tôn trọng góc nhìn của Việt Nam về đề tài khó khăn và đau lòng này. Tôi mong rằng, với bản dịch này, độc giả Việt Nam sẽ có thêm một góc nhìn về những gì đã diễn ra trong lòng nước Mỹ vào thời điểm đó, và biết thêm những thông tin lịch sử mà cho đến nay chưa được cung cấp rộng rãi. Nếu tôi có thể tặng lại dù chỉ là một phần nhỏ của những gì mà tôi đã học hỏi được từ con người Việt Nam và tài liệu của Việt Nam trong những năm qua, tôi coi như mình đã đóng góp được một phần hữu dụng. Tôi thực sự cảm kích vì được có cơ hội giới thiệu những gì mình đã nghiên cứu được với bạn đọc Việt Nam, và mong nhận được phản hồi từ phía bạn đọc khi cuốn sách được phát hành. David Zierler, tháng 11-2012 (Cam Ly chuyển ngữ) https://thuviensach.vn DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT • AAAS: Hiệp hội vì sự tiến bộ của khoa học Mỹ • ABA: Hiệp hội luật gia Mỹ • ACDA: Cơ quan giải trừ quân bị và quản lý vũ khí • AFB: Căn cứ không quân • AFSC: Ủy ban hỗ trợ những người bạn của Mỹ • ARPA: Cơ quan phụ trách các dự án nghiên cứu cao cấp • ARVN: Quân đội Việt Nam Cộng Hòa • BPI: Cục bảo vệ thực vật • BTI: Viện nghiên cứu Boyce Thompson • CBW: Vũ khí hóa sinh học • CDTC: Trung tâm phát triển và thử nghiệm tác chiến • CIA: Cơ quan tình báo Mỹ • CNI: Ủy ban thông tin hạt nhân • DDT: Dichlorodiphenyltrichloroethane • FAS: Hiệp hội Các nhà khoa học Mỹ • HAC: Ủy ban đánh giá thuốc diệt cỏ • IAA: Indole-3-acetic acid • ICC: Ủy ban kiểm soát quốc tế • ICI: Công ty kỹ nghệ hóa chất hoàng gia • ICJ: Tòa án công lý quốc tế • IWC: Tòa án tội ác chiến tranh quốc tế • MAAG: Đoàn cố vấn và trợ giúp quân sự Mỹ • NARMIC: Hiệp hội nghiên cứu về liên hợp quân sự – công nghiệp quốc gia • NAS: Viện Hàn Lâm Khoa học Quốc gia Mỹ • NCI: Viện ung thư quốc gia • NGO: Tổ chức phi chính phủ NLF: Mặt trận dân tộc giải phóng • NSC: Hội đồng an ninh quốc gia https://thuviensach.vn • RVN: Việt Nam Cộng Hòa • SALT: Các cuộc đàm phán hạn chế sử dụng vũ khí hạt nhân • SCFR: Ủy ban Thượng Viện về quan hệ quốc tế • SSRS: Hội trách nhiệm xã hội trong khoa học • TCDD: 2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-para-dioxin • TIBA: 2,3,5-triiodobenzoic acid • UNEP: Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc • USAF: Không quân Mỹ • USAID: Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ • USDA: Bộ Nông nghiệp Mỹ • VC: Việt Cộng • VNAF: Không quân Việt Nam Cộng Hòa • WBC: Ban cố vấn chiến tranh https://thuviensach.vn 1 GIỚI THIỆU ◄○► Trong bốn năm qua, tác giả đã tìm hiểu về lịch sử sử dụng chất 2,4- D (a xít 2,4-dichlorophenoxyacetic) và chất 2,4,5 -T (a xít 2,4,5 - trichlorophenxyacetic). Các nhà sinh lý học thực vật đã xếp những hóa chất tổng hợp này vào loại những chất kích thích thực vật chọn lọc trong họ thuốc diệt cỏ phenocyacetic. Đây là dòng hóa chất đầu tiên được các nhà khoa học tổng hợp nhằm diệt trừ “cỏ dại”, tức mọi loài thực vật vô ích hoặc làm giảm năng suất cây trồng của con người. Những khám phá tiền thân của thuốc diệt cỏ hiện đại xuất phát từ phòng thí nghiệm của Charles Darwin. Những năm cuối đời, Darwin phát hiện ra rằng có một cơ chế tự thân nào đó hướng cho thực vật vươn về phía ánh nắng mặt trời và nguồn nước. Sau này, các nhà khoa học châu Âu và Mỹ gọi cơ chế này là hệ hormone thực vật. Ngay trước thế chiến thứ II, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng một số hóa chất tổng hợp có thể đẩy nhanh sự phát triển của cây - và nếu dùng với nồng độ cao thì có thể làm cây chết. Các chất 2,4 - D và 2,4,5 -T được hấp thu qua lá cây và hủy hoại hormone thực vật. Vài ngày sau, những cây tiếp xúc với các chất này trở nên mất kiểm soát, phát triển cực nhanh cho đến khi lá cây khô héo, ngả màu nâu rồi rụng. Tác dụng hóa sinh của những chất diệt cỏ này không mang tính đặc hiệu: vì hiện chưa có quy chuẩn quốc tế nào phân biệt “cỏ dại” và các loại thực vật khác. Vai trò của chất này như thế nào tùy thuộc vào việc con người muốn khống chế thứ gì trên mảnh đất của họ. Ở các nông trường, chất 2,4 - D và 2,4,5 - T giúp trừ cỏ dại trên đất canh tác và đồng cỏ chăn nuôi. Sau https://thuviensach.vn thế chiến thứ II, thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu đã giúp tăng mạnh sản lượng nông nghiệp trên khắp thế giới trong thời kỳ Cách mạng Xanh. Ngày nay, thuốc diệt cỏ vẫn được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp, quản lý rừng và chăm sóc cỏ với lượng sử dụng tới hơn một tỷ ga-lông mỗi năm. Trọng tâm của cuốn sách này khắc họa một khía cạnh đã đi vào lịch sử của thuốc diệt cỏ. Trong suốt chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ đã trộn 2,4 -D và 2,4,5 -T, theo tỉ lệ 50:50 thành hợp chất có tên gọi Chất Độc Da Cam, chất này đã làm trụi lá khoảng năm triệu héc-ta rừng để làm lộ diện những người cộng sản (Việt Cộng) dưới ngọn cờ Mặt trận giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam. Từ năm 1961 tới 1971, chiến dịch phun chất khai quang Ranch Hand (Bàn tay nông dân) không chỉ nhắm tới một số loại cỏ nhất định mà cả toàn bộ hệ sinh thái. Ở Việt Nam, rừng cũng bị đánh đồng với cỏ (dại). Mục đích sử dụng thuốc diệt cỏ trong lĩnh vực nông nghiệp và quân sự hoàn toàn khác nhau: một bên là hướng tới việc tăng sản lượng nông nghiệp, một bên là để giành thắng lợi trong chiến tranh. Nhưng điểm chung là đều muốn dùng hóa chất để tiết kiệm sức người. Người nông dân muốn ngăn cỏ dại phá hoại mùa màng sử dụng thuốc diệt cỏ để tiết kiệm chi phí so với nhổ cỏ bằng tay. Đối với Tổng thống John F. Kennedy, người quyết tâm không để cộng sản tiếp quản chính phủ miền Nam, cuộc chiến thuốc diệt cỏ nghĩa là dùng tác nhân hóa học để chống lại Việt Cộng. Kennedy tìm kiếm những biện pháp tiên tiến để vô hiệu hóa chiến thuật phục kích của Việt Cộng như một phần trong kế hoạch đàn áp quy mô lớn. Chiến lược của ngài tổng thống hết sức giản đơn: không dùng bộ binh để đáp trả chiến thuật du kích, vốn được xem thế mạnh duy nhất của Việt Cộng, mà dùng các chất hóa học. Dưới thời tổng thống Lyndon B.Johnson, cuộc chiến thuốc diệt cỏ được mở rộng đáng kể: Trong chương trình kéo dài mười năm, chỉ từ 1966 đến 1969, lính Ranch Hand đã rải mười lăm trên tổng số hai mươi triệu ga-lông thuốc, tức là 75%. Sự leo thang này nói chung là do sự “Mỹ hóa” chiến tranh sau năm 1965, làm mở rộng tất cả các hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam, nhưng đặc biệt là vì Johnson không coi việc sử dụng thuốc diệt cỏ của người tiền nhiệm như một bài học, trái lại còn tiếp tay cho chiến tranh https://thuviensach.vn lan rộng. Hiệu ứng phá hủy hàng loại của cuộc chiến thuốc diệt cỏ bị gọi là “Diệt chủng môi trường”, cái tên được đặt bởi các nhà khoa học phản đối hình thức chiến tranh này từ năm 1964, đây cũng là những người giành được quyền tới kiểm tra những ảnh hưởng của thuốc đối với Việt Nam vào sáu năm sau. Họ phát hiện thấy không chỉ “cỏ” biến mất mà môi trường sống cũng bị tàn phá - và viễn cảnh rằng chính những chất hóa học ấy có thể làm hại con người và động vật đã lờ mờ hiện ra. Sự tranh cãi kéo dài về thuốc diệt cỏ đã đảo lộn một phần quan trọng chính sách hòa hoãn của Tổng thống Richard M.Nixon nhằm giảm bớt căng thẳng trong chiến tranh lạnh với các nước cộng sản trên thế giới. Một trong những sáng kiến giảm căng thẳng của Nixon là đưa nước Mỹ lên lãnh đạo chủ trương cấm phổ biến toàn cầu các vũ khí hóa sinh học. Cuối cùng, Nixon đã đơn phương chấm dứt chương trình vũ khí sinh học của quân đội Mỹ. Cuối năm 1969, Nixon thông báo kế hoạch tái đệ trình Nghị định Geneva 1925 để Thượng viện thông qua. Hiệp ước quốc tế này buộc các nước ký kết không được sử dụng vũ khí hóa học và sinh học trong chiến tranh. Thông cáo chỉ ra rằng việc sử dụng “các khí gây ngạt, khí độc hay các loại khác, và tất cả những chất lỏng, vật liệu và thiết bị tương tự đã bị dư luận thế giới văn minh lên án”. Sáng kiến của Nixon đã giúp những người phản đối chiến dịch Ranch Hand có một cơ sở lý tưởng để kết thúc chiến tranh diệt cỏ ở Việt Nam và ngăn chặn các cuộc chiến tương tự trong tương lai. Họ thuyết phục Ủy ban Thượng viện về Quan hệ đối ngoại (SCFR) lồng ghép việc từ bỏ chiến tranh diệt cỏ vào nghị định Geneva. Nixon bác bỏ đề nghị, viện dẫn cơ sở pháp lý đã từng được đưa ra lần đầu dưới thời Kennedy rằng: Hiệp ước Geneva chỉ cấm các loại vũ khí gây chết hay có hại cho người, chứ không phải thực vật. Điểm mấu chốt ở đây là trong suốt thời chiến, sự phá hủy sinh học đối với thực vật - nền tảng của hệ sinh thái - đã không được lưu lại để làm bằng chứng cho việc vi phạm điều ước quốc tế. Về phương diện sinh thái, lập luận mà họ đưa ra hầu như không thuyết phục chút nào vì thuốc diệt cỏ được rải với số lượng lớn rõ ràng sẽ không chỉ làm hại thực vật. Hơn nữa, các nhà khoa học cũng lập luận rằng những loại thuốc diệt cỏ này được sản xuất dễ https://thuviensach.vn dàng với chi phí không cao, nên được coi là “vũ khí hủy diệt hàng loạt” hoàn hảo, theo thuật ngữ hiện đại, bởi vì hầu như bất cứ nhà nước hoặc thủ lĩnh phong trào cách mạng nào cũng có thể thực hiện chiến tranh diệt cỏ, miễn là ở nơi đó, điều kiện hệ sinh thái và chiến thuật của đối phương khiến cho việc khai quang lãnh thổ trở thành lợi thế. Các nhà khoa học đã chiếm ưu thế, nhờ sự ủng hộ từ các thành viên quyền lực trong Quốc hội, như J.William Fulbright, Edward Kennedy, và những người phản đối sự phá hủy sinh học mà quân đội Mỹ đã thực hiện tại Việt Nam, lẫn bản thân cuộc chiến tranh. Trước khi Đạo luật về quyền chiến tranh được ban hành vào năm 1973, sự tranh cãi xung quanh thuốc diệt cỏ là một cơ hội lý tưởng để đấu tranh giành thắng lợi. Vào thời điểm đó, nhiều nhà lập pháp muốn kéo Mỹ khỏi Việt Nam và hạn chế quyền lực chiến tranh của quân đội. Sau một thời gian bế tắc kéo dài, vào năm 1975 Tổng thống Gerard R.Ford chấm dứt việc sử dụng thuốc diệt cỏ trong chiến tranh, đi ngược lại lời khuyên của các quan chức quân sự, những người vẫn tin tưởng rằng sử dụng thuốc diệt cỏ là chiến lược tốt cho các cuộc chiến trong tương lai. Bằng việc diễn đạt khẩu hiệu phản đối chiến tranh “Không để có Việt Nam nào nữa!” theo ý nghĩa sinh thái học, các nhà khoa học đã chính thức hóa khía cạnh đạo đức về vấn đề môi trường xuyên quốc gia thành luật quốc tế. Phong trào khoa học chống lại Chất độc da cam phát triển, vượt trên và góp phần chống sự phân chia lưỡng cực trong chiến tranh lạnh, vốn là căn nguyên làm phát sinh chiến tranh diệt cỏ. Cuốn sách này chủ yếu lý giải vì sao các nhà khoa học đã kết thúc được chiến tranh diệt cỏ. Họ đã đạt được thành tựu đặc biệt trong phong trào phản chiến đa dạng và rộng khắp, các thành viên phong trào đã yêu cầu chính phủ Mỹ phải thay đổi chính sách tại Việt Nam. Cá nhân tác giả cho rằng chiến dịch khoa học phản đối Chất độc da cam thành công là nhờ chiến dịch này rơi vào đúng thời điểm chuyển giao chính trị ở Mỹ cuối những năm 1960, đầu những năm 1970: (1) Sự sụp đổ của chủ nghĩa can thiệp chống Cộng vốn tiêu biểu cho chính sách đối ngoại của Mỹ; và (2) ngày càng có nhiều người quan ngại rằng những tác động vào môi trường sẽ lan ra quy mô toàn thế giới, mối đe dọa tới hòa bình và thậm chí cả sự sống còn của loài https://thuviensach.vn người. Tất nhiên, cả hai sự chuyển biến này đều vượt ra ngoài những tranh cãi xung quanh thuốc diệt cỏ. Nếu không có chiến dịch Ranch Hand, những vấn đề về chính trị, đạo đức và chiến lược của chiến tranh Việt Nam cuối những năm 1960 có thể đã khiến chính sách vây chặn khối cộng sản của Mỹ không nổi rõ đến vậy. Và nếu như thuốc diệt cỏ vẫn chỉ được dùng trong nông lâm nghiệp tại Mỹ, thì các nhà hoạt động môi trường và giới khoa học hẳn sẽ cảnh báo nguy cơ thảm họa sinh thái trong tương lai, như kiểu họ đã từng làm vào Ngày Trái Đất đầu tiên vào năm 1970. Chiến dịch của các nhà khoa học quan trọng không chỉ bởi nó giúp dự báo những sự thay đổi này mà còn bởi nó kết nối chúng lại với nhau, giúp mở rộng và tái định hình ý nghĩa của an ninh quốc tế, không chỉ bó hẹp trong mục đích chủ yếu trước đây của Mỹ là xóa bỏ mối đe dọa từ cộng sản. Thành tựu này là một dự báo chính trị xảy ra vào thời điểm ngẫu nhiên. Các nhà khoa học, đứng đầu là ngài Arthur Galson của Đại học Yale, đã trình bày về chất hủy diệt sinh thái ở Việt Nam như sản phẩm của một cuộc chiến tranh tàn phá vô nhân đạo và là điềm báo về hệ sinh thái lệch lạc xây dựng trên nền kỹ thuật công nghệ. Phần sau sẽ liên kết các xu hướng của cuộc chiến tranh lạnh trước sự chuyển mình của Việt Nam và ý thức về các vấn đề môi trường thời hậu chiến tranh vốn trước đây được phân tích hoàn toàn riêng rẽ trong các tài liệu lịch sử môi trường và ngoại giao. Tác giả bắt đầu tìm hiểu về Chất độc da cam và chiến tranh diệt cỏ để trả lời cho câu hỏi lịch sử lớn hơn: Mối liên quan giữa các vấn đề sinh thái và quan hệ quốc tế là gì? Từ góc nhìn của một nhà chép sử, tác giả thấy vấn đề này hầu như chưa được soi xét, bởi: rất ít các nhà nghiên cứu lịch sử môi trường viết về quyền lực chính trị, còn các nhà lịch sử ngoại giao thì hầu như không quan tâm tới mối tương quan giữa văn hóa và biến đổi khí hậu. Tác giả thực hiện dự án này với mục đích đáp ứng lời kêu gọi bức thiết từ cả hai ngành, là thúc đẩy việc nghiên cứu vượt khỏi giới hạn truyền thống. Trong những năm gần đây, các nhà sử học đã có nhiều đột phá để thu hẹp khoảng trống này, đặc biệt là trong lĩnh vực chiến tranh, ngoại giao và tác động môi trường. https://thuviensach.vn Tác phẩm này tìm hiểu về những tranh cãi xung quanh thuốc diệt cỏ và coi đó là cơ sở để nắm bắt ý nghĩa của an ninh toàn cầu trong bối cảnh Chiến tranh Việt Nam. Những nhà khoa học phản đối chiến tranh diệt cỏ đã tập trung vào việc tạo ra một tầm nhìn mới về an ninh môi trường, xuất phát từ việc chấm dứt chiến tranh lạnh và hệ tư tưởng lưỡng cực. Vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là, nếu không thể duy trì sức khỏe hệ sinh thái thì nhân loại có nguy cơ đối mặt với các thảm họa toàn cầu như chiến tranh tài nguyên, sự nóng lên của Trái Đất, hạn hán hay nhiều loại tuyệt chủng hàng loạt. Trên cơ sở lập luận rằng Chiến dịch Ranch Hand và những diễn biến trong tương lai có thể sẽ hủy hoại sự cân bằng sinh thái của hành tinh, các nhà khoa học đã giúp luật hóa những vấn đề môi trường toàn cầu để làm cơ sở chính cho chính sách quốc gia và ngoại giao quốc tế của Mỹ, mà điển hình là việc thành lập Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP) vào năm 1972. Tuy vậy, thành tựu của các nhà khoa học vẫn phần nào chưa trọn vẹn vì họ đã không thể ngăn chiến tranh diệt cỏ vào thời kỳ cực thịnh của nó, dù họ đã tập trung theo đuổi việc này từ sau năm 1964. Nếu chính phủ và các quan chức quân đội dừng chương trình tại thời điểm đó, thì chiến dịch Ranch Hand vẫn chỉ là một chương trình nhỏ, chủ yếu mang tính thử nghiệm. Chiến dịch sẽ chỉ tác động tới một diện tích đất khá nhỏ. Nhưng trên thực tế, chiến tranh diệt cỏ đã cùng leo thang với chiến tranh toàn diện. Lý do nhất quán về chiến tranh diệt cỏ mà quân đội Mỹ lặp đi lặp lại suốt cuộc chiến là: việc sử dụng thuốc diệt cỏ cải thiện tầm nhìn ngang và từ trên xuống ở địa hình rừng, gây khó khăn cho quân du kích khi tiếp tế cho lực lượng hay tấn công binh sĩ, các đoàn xe và căn cứ Mỹ. Theo lý lẽ đó, chiến dịch Ranch Hand mở rộng phạm vi lẫn cường độ phun thuốc trong thời kỳ cao điểm chiến tranh từ năm 1966 tới 1970. Quân đội cho rằng, chiến tranh diệt cỏ sẽ giúp chiến tranh kết thúc nhanh chóng và phục hồi vinh quang cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Chiến lược của các nhà hoạch định chính sách ở Mỹ, và niềm tin chắc chắn của quân đội vào vai trò chiến tranh diệt cỏ khiến Chất độc da cam và những hậu quả phức tạp của nó chắc chắn vẫn là vấn đề nóng bỏng vài chục năm sau khi chiến tranh Việt Nam đã kết thúc. https://thuviensach.vn Những hậu quả mà chất độc da cam gây ra cho sức khỏe của hệ sinh thái và con người vẫn luôn là một chủ đề được quan tâm nghiên cứu. Các chuyên gia y tế tiếp tục tranh luận rằng rất nhiều bệnh - bao gồm ung thư, tiểu đường và dị tật bẩm sinh ở những người dân Việt Nam, cựu chiến binh Mỹ và Việt Nam, thậm chí cả con cháu của họ - đều bắt nguồn từ việc tiếp xúc với Chất độc da cam. Mối quan tâm này không chỉ giới hạn trong những người trực tiếp tham gia chiến tranh. Các nhà sinh thái học của chính phủ Việt Nam cũng như các tổ chức phi chính phủ (NGO) phương Tây vẫn tiếp tục xác định và khắc phục những thiệt hại sinh thái do chiến tranh diệt cỏ. Từ năm 1976, chính phủ Việt Nam thống nhất bắt đầu công cuộc tái phủ màu xanh tại những khu vực nông thôn từng bị phun thuốc dày đặc. Chương trình đã đạt được những thành tựu đặc biệt. Khu vực rừng đầm lầy ven biển, hay còn gọi là rừng đước ngập mặn, mặc dù đã hứng chịu hậu quả chiến tranh lớn nhất trong khu vực, nhưng đã phục hồi gần như hoàn toàn. Một nhà khoa học của chính phủ Việt Nam, Phùng Tửu Bôi, đã có một phương pháp tài tình để bảo vệ rừng nhiệt đới bản địa trước sự xâm lấn của những giống cây ngoại, vốn cắm rễ tại đây khi những cây ưu trội chết do bị phun thuốc độc. Giáo sư Bôi đã cho trồng những giống cây ngoại có giá trị thương phẩm cao để che bóng cho đến khi cây con nội địa đủ sức hấp thụ trực tiếp ánh nắng mặt trời. Cư dân vùng lân cận có thể thu hoạch cây che bóng để bán. Chiến dịch Ranch Hand cũng đã tạo ra những “điểm nóng” ở những khu vực bị phun nhiều thuốc và những bãi kho từng chứa hàng ngàn container thuốc diệt cỏ. Dioxin, (viết tắt của chất 2,3,7,8 - tetrachlorodibenzo-para dioxin - hay TCDD, là một sản phẩm phụ độc hại của loại 2,4,5-T chuyên dụng trong quân sự - tồn tại dai dẳng trong những khu vực này. Hợp chất kỳ lạ và nguy hiểm này đã khiến Chất độc da cam trở nên nổi tiếng, trong khi ít người nghe về những thuốc diệt cỏ như Chất Xanh (một loại thuốc diệt lúa làm từ thạch tín) và Chất Trắng (chứa chủ yếu chất 2,4-D, vẫn được sử dụng rộng rãi để trừ cỏ dại cho các bãi cỏ trồng và trong nông nghiệp). Phần lớn các nhà khoa học Việt Nam tin rằng các “điểm nóng dioxin” là nguyên nhân gây dị tật bẩm sinh ở hàng nghìn người dân. “Làng Hòa Bình” Việt Nam, https://thuviensach.vn nơi chăm sóc người lớn trẻ em bị dị tật bẩm sinh, và hình ảnh trong những triển lãm lịch sử đã cho chúng ta thấy rằng những người không sống trong thời chiến lại trở thành nạn nhân của chiến tranh diệt cỏ (hình 1). Các nhà khoa học phương Tây tuy còn hoài nghi về mối liên hệ này nhưng vẫn kêu gọi nghiên cứu thêm, nhất là khi một số nghiên cứu phát hiện trong cơ thể người dân sống gần “điểm nóng da cam” có lượng TCDD tăng cao. Người ta cũng còn nghi ngờ về hậu quả của chiến tranh diệt cỏ đối với sức khỏe và những người lính Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam. Những người cho rằng một số bệnh ung thư hay rối loạn gen di truyền có liên quan https://thuviensach.vn tới việc tiếp xúc Chất độc da cam có thể truy ngược lại nhu cầu quân sự của Mỹ trong thời điểm chiến tranh leo thang. Từ giữa tới cuối những năm 1960, Lầu Năm Góc đặt hàng số lượng thuốc diệt cỏ vô cùng lớn, vắt kiệt năng lực sản xuất của Dow, Monsanto và các công ty hóa chất khác. Để đáp ứng được chỉ tiêu, những công ty này cố gắng sản xuất thật nhanh chóng và đôi khi bỏ qua một số quy trình sản xuất tiêu chuẩn. Điều quan trọng nhất là, những đơn đặt hàng của quân đội buộc các nhà sản xuất phải “chế biến” 2,4-D và 2,4,5-T ở nhiệt độ cao hơn bình thường. Theo như một nghiên cứu độc tính đã lưu ý, lượng dioxin sản sinh trong quá trình sản xuất 2,4,5-T “có thể được giảm thiểu nếu tuân thủ các quy tắc nhiệt độ, áp suất và điều kiện hòa tan, nhưng khi quá trình sản xuất vượt khỏi tầm kiểm soát, thì lượng TCDD sinh ra sẽ vô cùng lớn”. Theo một quan chức Mỹ, các sĩ quan quân đội biết tới dioxin vào thời kỳ cao điểm chiến tranh. James Clary, một nhà khoa học Không Quân Mỹ (USAF) đóng tại Việt Nam, đã viết thư gửi cựu thượng nghị sĩ Tom Daschle vào năm 1988 như sau:”Khi chúng tôi khởi xướng chương trình chiến tranh diệt cỏ vào những năm 1960, chúng tôi đã nhận thức được những thiệt hại tiềm tàng từ chất độc dioxin trong thuốc. Chúng tôi thậm chí còn biết khi sản xuất cho quân đội, thuốc diệt cỏ sẽ có nồng độ dioxin cao hơn để có chi phí thấp hơn và tốc độ sản xuất nhanh hơn. Tuy thế, thuốc sản xuất ra là để tiêu diệt kẻ thù nên không một ai trong chúng tôi thực sự quan tâm tới điều đó”. Xét về mặt thống kê, tiết lộ hiếm hoi duy nhất này đã không đủ để phản ánh những vấn đề tiềm ẩn mà Clary nhìn nhận. Các nghiên cứu dịch tễ học trên các quân nhân Mỹ từ hai mươi năm trở lại đây vẫn chưa thể tìm ra một mối liên hệ thuyết phục giữa Chất độc da cam và bệnh ung thư cũng như các loại bệnh khác mà binh sĩ cho là do thuốc diệt cỏ gây ra. Nhưng logic này cũng dễ dàng bị lật lại: Không ai có thể quả quyết rằng bệnh tật của những người lính Mỹ không phải do Chất độc da cam; Và vì thế, theo quan điểm của tác giả, chính phủ Mỹ và các nhà sản xuất cũng không thể tránh được tội cẩu thả trong việc mua bán và rải một lượng lớn hợp chất mà độc tính của nó chưa được nghiên cứu kỹ trong suốt thời kỳ https://thuviensach.vn chiến tranh hay thậm chí đến tận bây giờ. Đây chính là cơ sở chính cho ra đời Đạo luật về Chất độc da cam năm 1991, trong đó chính phủ Mỹ cam kết điều trị cho những binh lính Mỹ mang bệnh “được giả định là” do tiếp xúc với Chất độc da cam. Alvin L. Young, nguyên là nhà khoa học làm việc cho dự án của Không Quân Mỹ, đã nghiên cứu sâu về Chất độc da cam và di chứng của nó và tiến xa thêm một bước. Ông vận dụng chiến lược có thể coi là khôn ngoan nhất để tránh việc chứng minh hậu quả vốn đang gặp khó khăn: “Việt Nam và Chất độc da cam giờ không chỉ là vấn đề chính sách công mà còn liên quan tới y học và khoa học. Chúng ta đã có nhiều chính sách hỗ trợ binh lính của chúng ta, như thế là đúng đắn. Nhưng chính phủ Mỹ cũng nên nhìn nhận rằng nhiều quân nhân Việt Nam cũng có nguy cơ mắc một loạt bệnh tật do trận chiến ấy. Vậy tại sao chúng ta không điều trị và trợ cấp cho tất cả binh lính hai nước mà cứ phải tập trung vào Chất độc da cam?”. Điều đáng chú ý là, giải pháp này rất giống quan điểm chính sách của một nhà ngoại giao làm việc tại đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội. Ông đã đồng ý chia sẻ với tác giả với điều kiện không tiết lộ danh tính. Ông cũng là một chuyên gia về vấn đề ý tế công cộng và phát triển. Ông cho biết: “Cái nghèo vẫn tồn tại nhiều nơi tại Việt Nam, và vẫn còn biết bao khó khăn trong việc xác định chính xác ai là nạn nhân Chất độc da cam. Vậy tại sao chúng ta phải phí công sức lẫn tài nguyên chỉ để ngăn cản những người này không được nhận gói cứu trợ rộng rãi hơn từ Washington?” Đây là hướng đi tốt nhất để tiến tới bình thường hóa hoàn toàn quan hệ hai nước, một bước quan trọng để có được ngày nay. Chất độc da cam là một chủ đề lịch sử nhưng đáng ngạc nhiên là nó ít được các nhà sử học quan tâm. Tuy nhiên, các nhà sử học lại viết nhiều về các chất hóa học và chính sách quốc gia của Mỹ. Hai điển hình tiêu biểu là Thomas Dunlap với cuốn DDT: nhà khoa học, nhân dân và chính sách công (lời dịch giả: DDT là tên một loại thuốc diệt côn trùng được phát minh bởi một nhà hóa học Thụy Sĩ, Paul Miller vào năm 1938. DDT bị cấm sử dụng vào 30 năm sau đó bởi những hậu quả gây ra cho thiên nhiên, con người); Edmund Russell với cuốn Chiến tranh và thiên nhiên: Con người và côn https://thuviensach.vn trùng chiến đấu chống lại hóa chất từ chiến tranh thế giới thứ nhất và cuốn Mùa xuân im lặng. (Lời dịch giả: Mùa xuân im lặng là cuốn sách của tác giả Rachel Carson xuất bản lần đầu năm 1962. Cuốn sách được sử dụng rộng rãi trong các phong trào bảo vệ môi trường). Trong cuốn sách của mình, Dunlap nghiên cứu về mối tương quan phức tạp giữa kiến thức khoa học và mối lo ngại của người dân trước sự phơi nhiễm rộng rãi thuốc trừ sâu. Cũng như cuốn DDT, dự án này cực thịnh vào đầu những năm 1970, khi chính phủ và các nhà sản xuất giành được thắng lợi môi trường trước đám côn trùng và cỏ dại bằng chất hóa học. Khác với những thảo luận của Dunlap về sự tham gia của người dân, dự án này không điều tra sâu về phản ứng của công dân trước những tranh cãi về Chất độc da cam. Sự khác biệt này là do nhiều nguyên nhân. Quỹ Bảo Vệ Môi Trường gồm những nhà khoa học và dân thường đi đầu các cuộc thập tự chinh cấm thuốc DDT. Không có một lực lượng nào như vậy trong suốt thời kỳ tranh cãi về thuốc diệt cỏ. Và cũng không có một tác phẩm văn học nào có sức nặng như cuốn Mùa xuân im lặng để thu hút sự quan tâm của dân chúng. Các nhà khoa học đang nỗ lực chấm dứt chiến tranh thuốc diệt cỏ đã không hợp sức với người dân có cùng mối quan tâm với họ, mà cũng không dành nhiều công sức để tác động vào nhận thức công chúng trong suốt chiến dịch. Thay vào đó, họ tập trung tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức khoa học, bao gồm cả Hiệp hội vì sự tiến bộ của khoa học Mỹ (AAAS). Tiếp đến họ tạo mối quan hệ tốt với các cơ quan chính phủ và quân sự để đảm bảo việc đi lại ở những vùng có chiến sự tại Việt Nam được an toàn, tạo điều kiện cho việc nghiên cứu các tác động của chiến tranh diệt cỏ. Cuối cùng, các nhà khoa học tập trung tìm hiểu quy tắc quốc tế xung quanh Nghị định thư Geneva 1925. Họ cho rằng hiệp định này là con đường tốt nhất để đi đến chấm dứt hành động chiến tranh trên danh nghĩa đã lan ra phạm vi quốc tế. Với chiến lược như vậy, các nhà khoa học cho rằng việc tham gia các tổ chức với các chiến dịch môi trường “khua chiêng gióng trống” là hoàn toàn không quan trọng. Khác với DDT, vào đầu những năm 70, “Chất độc da cam” không phải là một thuật ngữ quen thuộc, mà chỉ là một mật danh trong chiến tranh, để chỉ https://thuviensach.vn một hợp chất hóa học dạng lỏng mà quân đội sử dụng ở bên kia bán cầu. Cuối những năm 1970, ngay trước khi Chất độc da cam trở thành tên gọi ngắn cho tất cả các loại thuốc diệt cỏ sử dụng trong chiến dịch Ranch Hand lẫn loại hợp chất 2,4,5-T có chứa dioxin, các phóng viên thường gọi các loại thuốc diệt cỏ này là “chất da cam, chất trắng và chất xanh”. Trong hoàn cảnh đó, chất độc da cam chưa có tên gọi riêng. Chẳng mấy người Mỹ biết về mức độ sử dụng thuốc diệt cỏ ở quê hương họ, chứ chưa nói gì tới Việt Nam. Những gì họ biết về chương trình rải thuốc ở Việt Nam là từ những bài báo nghiên cứu dựa trên những phát hiện của các nhà khoa học và sự vận động hành lang tiếp theo đó ở Washington khi chiến tranh lắng xuống. Mặc dù Rachel Carson nhắc đến mối nguy tiềm ẩn của thuốc diệt cỏ trong cuốn Mùa xuân im lặng, nhưng bà chủ yếu nói về DDT, hóa chất diệt muỗi (bà cáo buộc loại thuốc này giết chết các loài chim, khiến cho mùa xuân cũng trở nên im lặng). Hợp chất này đã gây chấn động hàng triệu người Mỹ, ngay cả tổng thống Kennedy cũng tỏ sự quan tâm tích cực đến vấn đề này. Chiến dịch Ranch Hand không được công chúng biết đến như những gì Carson đã làm với DDT. Chất độc da cam chỉ được chú ý nhiều từ cuối thập kỷ, khi các người lính Việt Nam bắt đầu phát nhiều bệnh có khả năng do phơi nhiễm thuốc diệt cỏ. Những nhà khoa học hoài nghi về sự cáo buộc này và tỏ ra bàng quan với vụ kiện. Vào thời điểm đó, các luật sư biện hộ lao vào một trong những vụ kiện phức tạp và kỳ lạ nhất trong lịch sử nước Mỹ. Trước khi Chất độc da cam”trở lại” nước Mỹ, khiến nhiều người lính trở về nước với bệnh tật và ám ảnh chiến tranh, khó có thể tin rằng các nhà khoa học chịu thay đổi chương trình mà lao vào chiến dịch tuyên truyền để tranh thủ sự ủng hộ của công chúng. Không phải là họ không nhìn thấy giá trị của việc đó. Nhưng tính cấp thiết của vấn đề buộc các nhà khoa học phải ưu tiên tập trung vận động những nhà hoạch định chính sách nào phản đối mạnh mẽ chiến tranh Việt Nam và nhận ra mối quan hệ giữa chiến tranh với tới các vấn đề sinh thái và an ninh quốc tế. Các nhà khoa học để các tổ chức khác làm thay việc vận động quần chúng, tiêu biểu là những người đã tổ chức https://thuviensach.vn ngày Trái Đất đầu tiên. Họ đã nhắc tới sự tàn phá mà chiến tranh diệt cỏ gây ra tại Việt Nam trong buổi diễn văn khai mạc năm 1970. Mặc dù trình tự thời gian của cuốn sách này đi song song với DDT của Dunlap, tác giả cũng tiếp tục phần việc Edmund Russel dừng lại trong cuốn Chiến tranh và thiên nhiên. Russel đã miêu tả sống động cách các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu trong quân đội vô tình cùng nhau tìm ra hóa chất có thể giết chết cả con người và côn trùng. Theo ông, sự tương đồng giữa thuốc diệt côn trùng và vũ khí hóa chất giết người đã làm mờ đi cái ranh giới giữa chiến tranh ở một đất nước xa xôi và nền hòa bình ở quê nhà. Russel đã kết thúc câu chuyện của mình vào đêm trước Chiến tranh Việt Nam, và chỉ có một đoạn ngắn nhắc tới Chất độc da cam. Trong công trình nghiên cứu này, các loại thuốc diệt cỏ 2,4 -D và 2,4,5 -T đi theo con đường gần giống như những gì Russel đã mô tả về DDT. Các nhà nghiên cứu trước tiên hiểu được tính chất và tiềm năng của thuốc diệt cỏ cũng như thuốc trừ sâu. Họ cho rằng hai loại thuốc này ra đời xuất phát từ nhu cầu bức thiết của thế chiến thứ II và nhu cầu tổng động viên chiến tranh tại châu Âu và Mỹ. Sau chiến tranh, hai loại thuốc này đều được thương mại hóa, và các tập đoàn hóa chất thì ca ngợi sản phẩm của mình như một kỳ tích giúp bảo vệ và nhân rộng sức mạnh của nước Mỹ thời kỳ hậu chiến. Russel đã mở rộng nghiên cứu biên độ tới tận thế chiến thứ I, khi khoa học hiện đại kết hợp cùng Cách mạng công nghiệp tạo ra nỗi kinh hoàng của chiến tranh hóa chất tại châu Âu. Mãi cho đến khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, các nhà khoa học phản đối chiến tranh mới đảm bảo được rằng Nghị định thư Geneva 1925 - nhằm ngăn chặn chiến tranh hóa học và sinh học trong tương lai - gồm những điều khoản không chỉ bảo vệ con người mà cả môi trường sống của họ. Có ba tác phẩm nổi bật thể hiện mối quan tâm rõ ràng về về Chất độc da cam. Tôi coi tác phẩm này là một trong số đó. Cuốn Chiến tranh thuốc diệt cỏ của Paul Predrick Cecil được viết dựa trên những trải nghiệm cá nhân của tác giả - ông từng là phi công trong chiến dịch Ranch Hand. Bên cạnh việc cung cấp những thông tin cực kỳ quý giá về các nhiệm vụ cụ thể và cơ cấu bộ chỉ huy chiến dịch, tác phẩm của Cecil cũng mang lại một cái nhìn sâu sắc về những người lính tại chiến trường đặc biệt và nguy hiểm nhất trong https://thuviensach.vn lịch sử chiến tranh hiện đại. Những vụ tử vong đầu tiên của Không quân Mỹ là lính Ranch Hand, và máy bay rải thuốc phải chịu hỏa lực mặt đất của quân đối phương mạnh hơn bất kỳ phi đội nào khác. Cecil đã tường thuật một cách sống động những gian nan và thử thách trong nhiệm vụ rải thuốc phát quang. Tác phẩm của ông cho người đọc thấy rằng, tuy chiến dịch rải thuốc diệt cỏ còn nhiều tranh cãi, nhưng những người lính tham gia chiến dịch đều rất giỏi và đoàn kết, họ tin tưởng rằng chiến dịch đó mang lại lợi ích tốt nhất cho đất nước mình. Cecil cũng chỉ ra rằng những người “lính Ranch Hand” không tham gia vào quá trình ra quyết định tiến hành chiến tranh thuốc diệt cỏ; nhiệm vụ của họ đơn thuần là tạo điều kiện chiến đấu tốt nhất cho binh lính Mỹ tại chiến trường Việt Nam, và họ thực thi nhiệm vụ đó. Cecil tỏ ra không đồng tình với quan điểm những người phản đối chiến tranh, là những người sẽ được nhắc tới nhiều trong phần tiếp theo đây. Họ nhìn nhận và đánh giá những người lính Ranch Hand theo chuẩn mực hoàn toàn khác, rằng không cần coi “hủy diệt sinh thái” và “sự cần thiết về mặt chiến thuật” là hai khái niệm tách bạch loại trừ nhau khi tìm hiểu sự thật. Bàn cãi về giá trị của chiến tranh thuốc diệt cỏ ở Việt Nam thực sự không giúp gì mấy để giải quyết mối quan ngại của những người phản đối chiến tranh về ảnh hưởng của thuốc lên hệ sinh thái và sức khỏe con người, cũng như khả năng thứ vũ khí giá rẻ dễ kiếm này sẽ được dùng ngày càng nhiều hơn trong các cuộc chiến trên khắp thế giới. Cuốn Chờ đợi một đạo quân dần chết (Waiting for an Army to die) của tác giả Fred Wilcox nói về những cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam mắc bệnh sau chiến tranh và cho rằng nguyên nhân là Chất độc da cam. Wilcox đã tái hiện lại hoàn cảnh khổ sở của họ khi chết dần chết mòn vì bệnh ung thư và các bệnh hiểm nghèo khác. Trong khi đó, phải tới năm 1984, Bộ cựu chiến binh Mỹ và các cơ quan liên bang khác với bộ máy quan liêu cồng kềnh và thiếu sâu sát mới bắt tay vào nghiên cứu ảnh hưởng của Chất độc da cam đối với sức khỏe. Nhưng Wilcox chưa quan tâm đúng mức đến kết luận thiếu chắc chắn của các nhà nghiên cứu y học về sự phơi nhiễm Chất độc da cam và số liệu thống kê một số bệnh có liên quan vào thời điểm cơ quan liên https://thuviensach.vn bang tiến hành nghiên cứu. Ví như một cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam đang chết dần chết mòn vì ung thư phổi, thì đó là hậu quả bất hạnh của thời gian làm nhiệm vụ tại Việt Nam, do gen di truyền, hay là hậu quả của thói quen hút thuốc trong suốt hai mươi năm qua? Việc xác định nạn nhân Chất độc da cam phức tạp hơn những điều Wilcox viết trong cuốn này rất nhiều. Tuy vậy, cuốn Chờ đợi một đạo quân dần chết đã đưa Chất độc da cam thành một biểu tượng mạnh mẽ nhắc nhớ những người lính Mỹ bị lãng quên sau chiến tranh Việt Nam. Cả tiêu đề và các trường hợp tiêu biểu sống động của Wilcox cho thấy rằng, việc thiếu những dữ liệu “có tính quyết định” chứng minh mối liên hệ giữa chất độc da cam với đa số các căn bệnh khác mà người lính và gia đình họ phải chịu chủ yếu phản ánh sự hạn chế của ngành dịch tễ học hơn là hậu quả sức khỏe thực tế mà chiến tranh diệt cỏ gây nên tại Việt Nam. Cuối cùng, cuốn Phiên tòa chất độc da cam (Agent Orange on Trial) của tác giả Peter H.Schuck đã phân tích vụ kiện có tính bước ngoặt, đặt những cựu chiến binh Mỹ tại chiến trường Việt Nam vào thế đối đầu với các nhà sản xuất chất độc này vào đầu những năm 1980. Là một học giả có nghiên cứu pháp lý, Schuck đã giải thích thêm được nhiều vấn đề mà tác phẩm của Wilcox chưa đào sâu. Tác phẩm của Schuck nói về vụ kiện dân sự lớn nhất (và có thể là phức tạp nhất) trong lịch sử nước Mỹ và lý giải vì sao những người cựu chiến binh không thể khởi kiện và giành được quyền đòi bồi thường. Đầu tiên, chính phủ Mỹ thực hành “quyền miễn tố tối cao”, nên các cựu thương binh không thể kiện các cơ quan liên bang. Thứ hai, các công ty hóa chất quả quyết rằng họ sản xuất theo thông số kỹ thuật chính phủ chỉ định, còn các luật sư cũng khéo léo phủ nhận tất cả mối liên hệ giữa những căn bệnh chết người và việc phơi nhiễm chất độc da cam. Trước khi phiên tòa diễn ra, nguyên đơn là các cựu chiến binh được đền bù 180 triệu Đô la Mỹ trong phiên hòa giải ngoài tòa án, mặc dù các luật sư biện hộ cho công ty Dow và Monsato khăng khăng rằng việc hòa giải này không đồng nghĩa với nhận tội, mà đơn giản là hành động thể hiện thiện chí. Và một phần lịch sử đã lặp lại khi thẩm phán Jack Weinstein trong vụ kiện đó lại là chủ tọa cho phiên tòa mà người Việt Nam kiện các công ty hóa học sản xuất Chất https://thuviensach.vn độc da cam vì hàng loạt bệnh và những thiệt hại đối với môi trường mà chiến tranh diệt cỏ đã gây ra. Vào năm 2005, Weinstein bác đơn kiện. Ông nhận định rằng chiến dịch Ranch Hand không vi phạm vào bất cứ điều luật quốc tế nào mà Mỹ bị ràng buộc (Nghị định Geneva là một ví dụ), và do đó, các công dân ngoại quốc không có cơ sở để kiện. Tháng 3 năm 2009, các nguyên đơn Việt Nam đệ đơn kháng cáo và bị bác bỏ, vụ kiện kết thúc. Có lẽ, đây là khía cạnh duy nhất trong hậu quả phức tạp của chất độc da cam đã kết thúc dứt khoát. Mỗi tác phẩm ấy đều giúp tôi hiểu thêm nhiều về sự phức tạp vô cùng và và những sự kiện xung quanh Chất độc da cam. Nhưng hãy còn một điều khác nữa, điều khiến cho Chất độc da cam thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, giới trí thức lẫn binh lính trong cuộc Chiến tranh lạnh và làm nảy sinh những ý niệm về an ninh quốc tế. Cuốn sách này sẽ lý giải những thăng trầm của chiến tranh diệt cỏ dưới góc nhìn lịch sử. Các chất 2,4 -D và 2,4,5 - T sẽ lần lượt xuất hiện trong phần về khám phá khoa học đến chiến lược an ninh quốc gia, rồi đến các cuộc biểu tình vì môi trường và phản đối chiến tranh trong thời chiến tranh Việt Nam. Tất cả những nhân vật được nhắc đến trong sách đều ít nhiều góp phần vào việc tạo ra chất hủy diệt sinh thái. https://thuviensach.vn 2 VỀ CHẤT HỦY DIỆT SINH THÁI ◄○► Từ chiến tranh giữa các thành bang thời cổ đại tới căng thẳng giữa Palestin và Israel ngày nay, binh lính luôn lên án sự hung bạo của đối phương. Đó là một hình thức tuyên truyền đặc biệt - kết tội đối phương đã vượt quá giới hạn “chuẩn”, khi mà sức mạnh vũ khí vượt quá mục tiêu cả hai bên khi tham chiến. Cụm từ này trong tiếng La Tinh là “jus in bello”, có nghĩa là công bằng trong chiến tranh. Vi phạm nguyên tắc công bằng này đồng nghĩa với gây ra hoặc bị cáo buộc là gây ra tội ác chiến tranh. Khái niệm “Chiến tranh công bằng” xuất hiện từ thế kỷ 18 tại châu Âu, là sản phẩm của hệ thống quốc tế hiện đại, và ngay sau thế chiến thứ II, các quy tắc của nó đã trở thành tiêu điểm tại các phiên tòa Nuremberg (một loạt các phiên tòa tại thành phố Nuremberg xét xử các cá nhân và tổ chức của chế độ Đức Quốc Xã bị cáo buộc phạm tội ác chiến tranh - chú thích của biên tập). Trong suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam, một nhóm các nhà khoa học đã đặt ra và truyền bá khái niệm “Chất hủy diệt sinh thái” (Ecocide) để phản đối tác động hủy diệt môi trường cũng như hiểm họa tiềm tàng với sức khỏe con người từ chương trình chiến tranh diệt cỏ mang tên chiến dịch Ranch Hand. Trong suốt chuỗi tranh biện kéo dài về tội ác chiến tranh, các nhà khoa học đã vận dụng trò “lá mặt lá trái” một cách độc đáo: Họ kết tội chính phủ của chính mình, sau đó đã gây sức ép buộc chính phủ luật hóa việc không sử dụng thuốc diệt cỏ trước các cuộc chiến tranh trong tương lai. Phong trào chống chất hủy diệt sinh thái làm bùng lên làn sóng quan tâm từ nhiều nhóm xã hội: các nhà nghiên cứu lý luận, nhóm đấu tranh cấp tiến, https://thuviensach.vn và các nhà hoạt động môi trường. Chất hủy diệt sinh thái là một trong nhiều khía cạnh cho thấy cuộc chiến tại Việt Nam vi phạm luật pháp quốc tế. Bất cứ ai cũng vận dụng được lý lẽ này; ví dụ, năm 1967, trong Tuyên ngôn độc lập từ chiến tranh ở Việt Nam, Martin Luther King Jr. đã đưa ra luận điểm rằng sự phân biệt chủng tộc ở quê hương ông và chiến tranh Đông Dương là hai điều phi pháp đi đôi với nhau. Cũng vào năm đó, John H Messing, một sinh viên luật của đại học Standford, trở thành một trong những người Mỹ đầu tiên tiến hành phân tích chính sách đối ngoại của Mỹ theo các tiêu chuẩn chặt chẽ của các điều ước quốc tế. Lần theo cuộc tranh luận gay gắt được truyền hình tại SCFR năm 1966 về tính pháp lý của chiến tranh, Messing cũng không thể tìm thấy cơ sở hợp pháp nào để bào chữa cho việc Mỹ tham chiến tại Việt Nam. Nhưng câu hỏi mà các nhóm phản chiến bận tâm nhất trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam không phải là “chiến tranh có bất hợp pháp hay không”, mà là “chiến tranh bất hợp pháp như thế nào”. Nghĩa là, để lật ngược toàn bộ hệ thống lý do Mỹ viện ra khi can thiệp vào Việt Nam, ta cần có cái nhìn lý trí, không bị cuốn theo thực tế hàng ngày của cuộc chiến. Cũng theo cách đó, việc lên án rộng rãi cuộc chiến này như một tội ác rõ ràng là bước đệm tạo điều kiện cho nhóm phản chiến lên án tính bất hợp pháp của các chiến thuật cụ thể. Mối quan hệ giữa hành động tàn bạo cụ thể và tính hợp pháp của toàn cuộc chiến tranh mới chỉ được ngầm hiểu, hoặc không được nhìn nhận đầy đủ. Nói cách khác, những người phản đối chiến tranh vẫn tin rằng chiến tranh là phi pháp, nhưng đó không phải là điều duy nhất thúc đẩy họ hành động. Nhưng để chính phủ một nước chịu bãi bỏ hành động của họ, thì những người phản đối phải có mối ác cảm sâu sắc và mãnh liệt hơn nữa với bất cứ chiến lược chiến tranh nào mà các quân đội Mỹ áp dụng ở Đông Dương. Cuối cùng, vào những năm cuối cuộc chiến tranh, phong trào phản đối đã trở nên thực tế hơn khi nhóm phản chiến lên án một loạt những hành động cụ thể của quân đội Mỹ tại Việt Nam là tội ác chiến tranh. Vào tháng Hai năm 1970, một hội thảo mang tên “Tội ác chiến tranh và lương tâm người Mỹ” đã thu hút sự tham gia của hàng chục học giả người Mỹ. Họ đã cùng nhau nghiên cứu về tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam https://thuviensach.vn một cách toàn diện. Trong số những người tham dự có Arthur W. Galston, một nhà thực vật học đồng thời là Trưởng khoa Thực vật học tại đại học Yale (hình 2). Chính trong hội thảo này, Galson đã sáng tạo ra thuật ngữ “chất hủy diệt sinh thái”, đây là kết tinh bốn năm trời nghiên cứu về thuốc diệt cỏ và nỗ lực chấm dứt chiến dịch Ranch Hand của ông. Năm 1966, Galson trở thành một trong những nhà khoa học đầu tiên lên tiếng về những tác hại tới môi trường và sức khỏe con người từ chương trình chiến tranh diệt cỏ tại Việt Nam. Chiến thuật khai quang và phá hủy mùa màng được thực hiện từ năm 1961 như một phần không thể thiếu trong hoạt động đàn áp của Mỹ trên khắp miền Nam Việt Nam cũng như vùng giáp ranh với Lào và Campuchia. Thuốc diệt cỏ được dùng với mục đích triệt nguồn thức ăn và cây cối che chắn, cho quân du kích bảo vệ lính Mỹ khỏi những cuộc đột kích và phá hủy bất cứ khu vực trồng trọt nào bị nghi ngờ nằm dưới sự kiểm soát của Việt Cộng. Năm 1966, chiến dịch Ranch Hand phát triển cuộc chiến tranh hóa học chưa từng thấy từ thế chiến thứ I. Tính đến cuối thập kỷ, lính Ranch Hand đã rải khoảng hai mươi triệu ga-lông Chất độc da cam và các thuốc diệt cỏ khác trên khắp khu vực có diện tích tương đương bang Massachusetts tại miền Nam Việt Nam. Vào đầu năm 1970, khi có dấu hiệu cho thấy chương https://thuviensach.vn trình diệt cỏ sắp kết thúc, thì các nhà khoa học mới bắt đầu tìm hiểu về thiệt hại sinh thái tại những đầm đước ven biển, ruộng lúa, đất trồng trọt hay rừng rậm ở khu vực chiến trường miền Nam. Cùng lúc đó, các báo cáo bước đầu cho thấy rằng chất 2,4, 5 -T, vốn chiếm 50% trong Chất độc da cam, được chứng minh là tác nhân gây đột biến và có khả năng gây ra ung thư ở chuột thí nghiệm. Nhưng Galson và các đồng nghiệp có chung quan điểm với ông không chỉ cảnh báo về sự tàn phá môi trường trên diện rộng và có chủ đích của quân đội Mỹ, cũng như khả năng Mỹ đã khiến hàng triệu người - bao gồm cả lính Mỹ - phơi nhiễm với hóa chất có khả năng gây ung thư. Các nhà khoa học còn hình dung về hệ sinh thái lệch lạc và bệnh dịch mà những cuộc chiến trong tương lai sẽ gây ra khi mà vũ khí hóa học phức tạp hơn và phương thức tiến hành chiến tranh sinh thái tiên tiến hơn. Theo như Galson hiểu thì từ đầu chương trình Ranch Hand, tất cả binh lính ở mọi cấp bậc có trải nghiệm thực địa về giá trị chiến thuật và chính trị của chiến tranh diệt cỏ đều có những bản báo cáo đánh giá từ chiến trường ca ngợi những ưu điểm của nó. Những bản báo cáo đó đã thuyết phục các quan chức ở Lầu Năm Góc thêm chiến tranh diệt cỏ vào kế hoạch dự phòng nhằm đối phó với những cuộc xung đột mà Mỹ có thể vấp phải sự chống trả. Trong suốt các nhiệm kỳ của tổng thống John F.Kennedy, Lyndon B Johnson và Richard M.Nixon, các nhà lãnh đạo chính quyền dân sự đã quả quyết với những người ủng hộ chiến dịch khai quang trong quân đội rằng Mỹ sẽ không bao giờ từ bỏ việc sử dụng chất diệt cỏ, bất chấp nó có thể gây ra chiến tranh hóa học và bị cấm theo Hiệp ước quốc tế Geneva 1925. Theo như lời biên tập viên của một tờ báo, ai có thể có thể lội ngược dòng để ngăn chặn quân đội Mỹ “khai quang cả thế giới”? Arthur Galson quyết tâm theo đuổi cả hai mục tiêu là đảm bảo quá trình tái tạo hệ sinh thái ở Việt Nam và cấm hủy diệt môi trường trong các cuộc chiến trong tương lai: Tranh luận về Chất độc da cam vẫn luôn là vụ việc đình đám gắn với Galson mãi cho đến khi ông mất năm 2008. Đồng nghiệp của Galson gọi sự quan tâm của ông với chiến tranh diệt cỏ như một “cơn cuồng”; bản thân Galson thì giải thích rằng có thể niềm đam mê của ông bắt https://thuviensach.vn nguồn từ cảm giác có lỗi khi vô tình góp tay vào việc phát triển chất diệt cỏ khi làm các nghiên cứu cho luận án tiến sĩ từ 1942 đến 1943. Các nhà khoa học tham gia vận động chấm dứt chiến tranh diệt cỏ cống hiến hết mình vì mục tiêu chặn đứng nạn hủy diệt sinh thái tại Việt Nam và trong các cuộc chiến trong tương lai, chứ không xem mình là một thành viên của phong trào vì môi trường theo lối hiểu của họ. Trên thực tế, chính việc phủ nhận cái mác “nhà môi trường học” lại là nền tảng tư tưởng để gắn kết những cá nhân thường khó lòng có chung tiếng nói. E.W. “Bert” Pfeiffer thuộc đại học Montana - một trong số những nhà khoa học đầu tiên yêu cầu hành động phản đối chiến dịch Ranch Hand, sẵn lòng tự nhận mình là một người theo xã hội chủ nghĩa. Matthew Meselson thuộc đại học Havard, ngươi đứng đầu phần lớn các cuộc nghiên cứu về thuốc diệt cỏ tại Việt Nam năm 1970, luôn nói rằng mình có bạn trong nhóm chóp bu xây dựng chính sách đối ngoại của Washington. Điều kết nối những nhà khoa học độc lập này với nhau, ngoài nỗ lực chấm dứt chiến tranh diệt cỏ, còn là sự kiên định trong lập trường rằng chiến dịch phản đối thuốc diệt cỏ không phải là một biểu hiện của chủ nghĩa bảo vệ môi trường đương thời. Arthur Galson đã vắn tắt thể hiện quan điểm của mình rất hay khi trả lời cuộc phỏng vấn của tác giả: “Tôi không quan tâm nhiều tới Ngày Trái Đất hay Câu lạc bộ Sierra (Sierra Club: tổ chức môi trường lớn, có tầm ảnh hưởng sâu rộng tại Mỹ - chú thích của biên tập), và tôi không coi việc bảo vệ môi trường theo kiểu “cần đâu làm đó”. Sức lực chúng ta có hạn, thời gian cũng thế… bạn lại muốn làm rối tung những thứ đang rất ổn lên làm gì. Lối tư duy của tôi không từ góc độ chủ nghĩa môi trường, mà là từ đạo đức sinh học. Nói cách khác, mỗi khi bạn tạo ra một sự tiến bộ khoa học, thì bạn đồng thời cũng có khả năng gây ra những vấn đề trong xã hội. Giả sử, bạn phát minh ra một loại kháng sinh mới, dĩ nhiên mặt tốt của nó là ngăn cản bệnh tật, nhưng cũng có khả năng người ta sẽ dùng nó sai cách, và tạo điều kiện sản sinh ra các tác nhân gây bệnh kháng thuốc… Đối với tôi, có những nhà môi trường học thật gàn dở… những tay mơ… những người muốn nhặt vỏ chai Cô-ca cô-la trên suối. Việc đó thì cũng tốt thôi… Những người đó gọi mình là nhà https://thuviensach.vn môi trường học, nhưng tôi không muốn làm những chuyện đó. Tôi muốn theo đuổi những thứ có tác động sinh học lớn hơn.” Galson tiếp tục chỉ trích phong trào kêu gọi bảo vệ môi trường. Ông lấy các hoạt động rầm rộ chống chất DDT để minh họa điều mà ông cho là hành động chống tri thức của Ma Ni giáo (Ma Ni Giáo: một giáo phái bắt nguồn từ Ba Tư; chủ nghĩa chống trí thức: Những người theo chủ nghĩa này không tin tưởng vào những người có học thức quá cao vì cho rằng ý kiến của họ gắn liền với lý thuyết, thiếu đi tính thực tiễn.), vốn đầy rẫy trong phong trào “ủng hộ môi trường” Ông thể hiện quan điểm của mình: “Không phải cái gì tự nhiên cũng có lợi. Hai khái niệm này không ngang bằng nhau. Nếu tôi có thể cơ hội diệt một con muỗi, chắc chắn tôi sẽ làm. Phải, chuyện đó giống như tôi đang hủy hoại tự nhiên, nhưng lại tốt cho con người”. Nói cách khác, Galson không cố gắng cứu một kiểu “vườn địa đàng” khỏi những công nghệ “ăn thịt” từ phương Tây. Nếu chiến dịch Ranch Hand chỉ là một hoạt động khai thác tài nguyên, thì đó không phải sự hủy diệt sinh thái. Công trình của Galson miêu tả sự khác biệt nền tảng (cũng là sự bất đồng chính) giữa các nhà môi trường học và những nhà lịch sử học nghiên cứu về môi trường. Nhóm đầu tiên có xu hướng nêu bật tính đối sánh giữa con người với tư cách là một thực thể chủ động và phá hoại môi trường, với một bên là thiên nhiên thụ động và dễ tổn thương. Hơn nữa, các nhà môi trường học hiện đại cũng thường đánh đồng thiên nhiên với sự tận hưởng - coi thiên nhiên là để thưởng thức chứ không phải khai thác. Trái lại, các nhà lịch sử môi trường học lại nhấn mạnh mối liên hệ giữa nền văn minh của loài người và những thay đổi của tự nhiên trong suốt chiều dài lịch sử. Các nhà khoa học quyết định tránh xa các phong trào vận động bảo vệ môi trường, cái mà họ cho là trò “ủng hộ môi trường” nông cạn. Tuy các nhà khoa học này không đặt họ cùng phe với chủ nghĩa môi trường, nhưng họ cũng không tách mình khỏi tập thể lớn với nhiều hệ tư tưởng khác nhau - cái tập thể mà Galson đã từng châm biếm khá cay. Các nhà khoa học hành động theo hệ tư tưởng của mình: họ không tìm cách bắt tay với những tổ chức môi trường lớn thời đó, cũng không cố gắng miêu tả chiến tranh diệt cỏ bằng những từ “mốt” thời đó như “cưỡng hiếp đất đai” để https://thuviensach.vn thu hút công luận. Hơn nữa, các nhà khoa học cũng đã tính đúng, khi nhấn mạnh “tính hủy diệt” đối với “hệ sinh thái” khi vận động hành lang, các nhà hoạch định chính sách và các luật gia sẽ dễ nhận ra rằng chiến dịch Ranch Hand là một tội ác chiến tranh sinh thái có thể ngăn chặn được. Dưới sự hậu thuẫn của luật quốc tế, các nhà khoa học khẳng định chất hủy diệt sinh thái có thể bị cấm hoàn toàn theo các hiệp ước về chiến tranh. Như vậy, kế hoạch này đã hướng tới hai mục đích gắn bó chặt chẽ: bảo vệ an ninh quốc tế trong một thế giới đang đối mặt với thảm họa hủy diệt sinh thái, cũng như bảo vệ những người đang sống ở những nơi có khả năng bị rải thuốc trong các cuộc chiến tương lai. Cuối cùng, chúng ta cũng không thể đánh giá thấp sự tự đại về trí tuệ của các nhà khoa học này khi xét tới động cơ của họ. Galson thậm chí không thèm che dấu sự coi thường đối với những nhà môi trường học “gàn dở” và thiển cận. Đối với ông và các đồng nghiệp, nhóm Hannah Arendt và Jean Paul Sartre tại hội thảo về tội ác chiến tranh châu Âu, cũng như ông J.William Fulbright của Thượng viện Mỹ “hay” hơn nhiều. Trong bài báo cáo “Công nghệ và sức mạnh người Mỹ” tại hội thảo “Tội ác chiến tranh và lương tâm người Mỹ”, Galson đã định nghĩa chất hủy diệt sinh thái như sau: “Sau khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ II, nhờ các phiên tòa Nuremberg, chúng ta đã lên án một cách đúng mức tội ác hủy hoại dân tộc và nền văn hóa có chủ đích, hay còn gọi là tội ác diệt chủng. Đối với tôi, việc hủy hoại môi trường sống có chủ đích trong một thời gian dài cũng là một tội ác đối với nhân loại, gọi là tội ác hủy diệt sinh thái. Tôi tin rằng hầu hết những quốc gia phát triển đều đã rải thuốc diệt cỏ ở nhiều nơi trên chính nước họ. Nhưng cho đến nay, chỉ có Mỹ rải chất hủy diệt sinh thái trên một quốc gia khác, chính là Việt Nam, thông qua việc sử dụng thuốc diệt cỏ và thuốc khai quang trên diện rộng. Liên Hiệp Quốc là tổ chức phù hợp nhất cho việc đưa ra đề nghị phản đối chất hủy diệt sinh thái. Tại thời điểm cuối năm 1970, bản cáo trạng của Galston vô cùng phù hợp với phong trào phản chiến mạnh mẽ ở châu Âu vốn tập trung lên án tội ác chiến tranh, nhưng ở Mỹ, dư âm từ Nuremberg lúc này mới dần hiện ra. Mới https://thuviensach.vn vài tháng trước đó, phóng viên điều tra Seymour Hersh đã khám phá ra câu chuyện về cuộc thảm sát Mỹ Lai mà quân đội cố gắng che giấu từ khi vụ việc xảy ra vào tháng Ba năm 1968. Bài viết của Hersh được lên trang đầu của các tờ báo khắp nước Mỹ, mang lại cho ông giải Pulitzer và cho hàng triệu người dân Mỹ biết sự thật lạnh lùng rằng quân đội Mỹ giết người dân thường không có khả năng tự vệ nếu làng của họ bị tình nghi có chứa chấp Việt Cộng. Trong một bức thư gửi ban biên tập thời báo “Life”, một độc giả đã cảm thán: “Nếu những quy tắc của phiên tòa chiến tranh Nuremberg có chút ý nghĩa, thì những người đàn ông giết phụ nữ, trẻ em và người già hẳn không thể nào trốn tránh với lý do “Tôi chỉ làm theo lệnh”. Ở Tây Âu, và đặc biệt là Thụy Điển, Pháp và Anh, các nhà trí thức chống chiến tranh đã nắm bắt tội ác chiến tranh của Mỹ sớm hơn các học giả ở Mỹ; đối với họ, cuộc thảm sát Mỹ Lai không phải là sự kiện kích khởi các hội thảo về lĩnh vực này, mà là hệ quả tất yếu khi sức mạnh công nghiệp tàn phá một đất nước thuần nông. Nhà triết học luân lý người Anh Bertrand Russell - một người kiên trì chống cộng sản, tác giả của bài luận “Lý thuyết và thực tiễn của chủ nghĩa Bôn-sê-vích” (1926) - đã lập ra Tòa án tội ác chiến tranh quốc tế (IWC) về chiến tranh Việt Nam vào tháng 11 năm 1966. Từ phiên tòa này, một cuốn sách mang tên Ngăn chặn tội ác của sự im lặng đã được xuất bản. Cuốn sách lập luận rằng tội ác chiến tranh nếu không bị trừng trị thì chắc chắn sẽ lặp lại. Chánh án chính Jean-Paul Sartre, đã giải thích nhiệm vụ của họ: “Một phiên tòa như Nuremberg là luôn cần thiết. Trước khi có tòa án Đức Quốc Xã, chiến tranh không theo quy tắc gì cả”. Satre cho biết thêm: “Để xét xử vụ Nuremberg, đòi hỏi phải có một tổ chức tìm hiểu về tội ác chiến tranh, và nếu cần thì cùng tham gia vào quá trình xét xử”. Phán quyết của phiên tòa chỉ mang tính kỹ thuật, tất nhiên hội đồng xét xử không có khả năng buộc thi hành án. Tuy vậy, họ cũng đã yêu cầu viện dẫn tiền lệ của phiên tòa Nuremberg: những bị đơn tại phiên tòa Đức Quốc Xã 1945 vẫn bị buộc tội thực hiện tội ác chiến tranh, chứ không phải “chỉ làm theo lệnh”. https://thuviensach.vn Đối với Tòa án IWC, cuộc đấu tranh nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh phi pháp là nhiệm vụ xuyên suốt của Nuremberg. Edgar Lederer, một giáo sư sinh học ở Paris, đã lần đầu tiên đưa ra vấn đề chiến tranh hóa học tại cuộc họp ở tòa án IWC. Lederer đã đưa ra một cái nhìn bao quát về sự hủy hoại môi trường và những gì con người phải hứng chịu từ chiến tranh diệt cỏ tại Việt Nam và chứng minh đầy thuyết phục rằng chiến dịch Ranch Hand tập trung hầu như tất cả các tội ác của cuộc chiến Mỹ tiến hành ở Việt Nam; cụ thể là sử dụng công nghệ tiên tiến một các bừa bãi để đánh bại kẻ thù không xác định được cụ thể; như vậy họ đã bỏ qua mọi biện pháp có thể áp dụng để phân biệt thường dân với kẻ thù. Ông cũng đóng góp vào nghị quyết tại “Cuộc họp quốc tế của các nhà khoa học về chiến tranh hóa học tại Việt Nam” tổ chức tại Orsay, Pháp vào tháng 12 năm 1970. Nghị quyết biểu dương “lập trường vững vàng” của các nhà khoa học Mỹ khi phản đối chương trình chiến tranh diệt cỏ của chính phủ. Lập trường của họ đã được thể hiện qua phát biểu: “Hệ sinh thái Việt Nam đang đối mặt với một sự tàn phá khủng khiếp và rộng khắp, vượt quá sức tưởng tượng của con người. Chính vì vậy, chúng tôi kêu gọi tất cả quý vị hãy giúp đỡ những người dân Việt Nam bằng cách tiếp tục mở rộng nghiên cứu các tác hại của các chất hóa học sử dụng trong chiến tranh, và tìm ra biện pháp chống lại những tác hại ấy”. Nghị quyết Orsay cũng đã làm nổi rõ hơn mối liên hệ giữa sự hủy diệt sinh thái và tội ác diệt chủng: “Những mất mát của con người và sự tàn phá những vùng tự nhiên rộng lớn dẫn đến một kết luận rằng chúng ta không chỉ đang đối mặt với nạn diệt chủng mà cả nạn hủy diệt sinh học”. Tuy nhiên, Galson và các nhà khoa học Mỹ có liên quan đến tranh luận xoay quanh chất diệt cỏ không mấy hài lòng với sự quy kết này. Theo họ, chất độc da cam, chỉ gây ra độc hại cho con người ở mức độ rằng con người sống gắn bó gắn với môi trường xung quanh về phương diện sinh thái. Sự tàn phá thiên nhiên và hủy hoại con người không tương đương nhau về phương diện đạo đức lẫn pháp lý. Galson đã đưa ra khái niệm “chất hủy diệt sinh thái” trong một cuộc đối thoại xuyên đại dương về tội ác chiến tranh của Mỹ, trong tinh thần học https://thuviensach.vn thuật, tôn trọng các căn cứ khoa học liên quan đến các vấn đề đạo đức và chính trị. Nhưng chính Mặt trận dân tộc giải phóng - mục tiêu của chiến tranh diệt cỏ - và đồng minh tại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền bắc Việt Nam) mới là những người nỗ lực mạnh mẽ nhất để thế giới phải chú ý về thảm họa mà họ đang phải hứng chịu. Mặc dù xét về mặt tuyên truyền, họ rõ ràng đã phơi bày được sự khủng khiếp của chiến tranh diệt cỏ, nhưng từ “tuyên truyền” có lẽ chưa đủ để miêu tả chính xác. Giọng điệu và mục đích của mặt trận dân tộc thống nhất trong các tài liệu, tờ rơi và các diễn văn phản đối chiến tranh diệt cỏ khá giống với các tài liệu cùng chủ đề của Mỹ và châu Âu. Nếu không tính đến mức độ cường điệu và chống Mỹ mạnh mẽ trong các tài liệu của Mặt trận dân tộc giải phóng thì các tài liệu của những người phản chiến ở Mỹ và châu Âu thật ra cũng cùng chung một mục đích: cho cả thế giới biết được sự thật về cách Mỹ tiến hành chiến tranh tại Việt Nam. Một trong những thông điệp đầu tiên phản đối chiến tranh diệt cỏ ở Việt Nam được phát đi vào tháng Tư năm 1963 từ đài phát thanh giải phóng của Mặt trận dân tộc giải phóng. Phủ sóng không chỉ trong phạm vi Hà Nội, bài phát thanh đã phản biện những khẳng định chắc chắn của các quan chức Mỹ về tính an toàn của thuốc diệt cỏ đối với những người bị phơi nhiễm và mức độ sử dụng thuốc trong các cuộc đàn áp: “Sự thật là Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã dùng những hóa chất này để thực hiện các cuộc trả đũa nhằm vào người dân, phá hủy mùa màng cây trái, đẩy người dân vào cảnh cùng cực và buộc họ phải sống trong các ấp chiến lược”. Tháng Chín năm 1965, trong bài phát biểu “Chúng ta quyết tâm đánh bại chiến tranh hủy diệt của Mỹ”, thượng tướng Văn Tiến Dũng thuộc Mặt trận dân tộc giải phóng đã miêu tả thuốc diệt cỏ như một cuộc “thử nghiệm mặt đất”, hay nói cách khác là một kiểu phòng thí nghiệm quân sự để chuẩn bị cho các trận chiến trong tương lai nhằm chống lại người Việt Nam, và đó cũng là một “chính sách khủng bố” chắc chắn sẽ thất bại. Trong những năm đầu chiến tranh, những người cộng sản Việt Nam đã nhận thức được giá trị của việc thiết lập một mục đích chung giữa những mục tiêu chính trị của họ và dư luận phản chiến ở Mỹ và các nước khác. https://thuviensach.vn Năm 1966, các nhà nghiên cứu ở Hà Nội đã biên soạn một bộ sưu tập ấn tượng về phản ứng của dư luận quốc tế đối với việc Mỹ sử dụng hóa chất tại Việt Nam. Với những bản tố cáo đổ về từ Nhật tới Ý; từ Lebanon tới Tanzania, chính quyền Hà Nội đã miêu tả sự cô lập mà Mỹ tự tạo ra bởi các hành động của mình tại Việt Nam. Đáng chú ý là, rõ ràng việc dư luận quốc tế chống lại Mỹ hoàn toàn không ứng với sự phân rẽ ý thức hệ trong chiến tranh lạnh. Nếu coi việc phản đối Mỹ sử dụng hóa học tại Việt Nam là một thước đo tình cảm đáng tin cậy của số đông dư luận thế giới, thì rõ ràng Mỹ đã bị cô lập bởi cả đồng minh lẫn kẻ thù ngay từ đầu. Năm 1967, Mặt trận dân tộc giải phóng tự lập ra ủy ban điều tra tội ác chiến tranh, dựa vào mô hình tòa án Russell, và ngay năm sau, Viện khoa học xã hội miền Bắc Việt Nam đã tiến hành một cuộc khảo sát trên quy mô lớn về tội ác chiến tranh của Mỹ. Trong bài kiến nghị năm 1966 mà Arthur Galson gửi Lyndon Johnson, ông đã kêu gọi tổng thống ngăn chặn việc sử dụng chiến tranh diệt cỏ. Nội dung bài khảo sát có đã nhắc lại sự kiện này như một bằng chứng rằng người Mỹ nhận thức rõ thảm họa xảy ra cho Việt Nam và phản đối quân đội vẫn đang tiếp tục những hành động đó. Trong suốt những năm chiến tranh, thông qua các tài liệu in và chương trình phát thanh, những người cộng sản Việt Nam luôn cố gắng thiết lập tình đoàn kết với đa số công chúng thế giới về vấn đề thuốc diệt cỏ. Nhưng mãi tới năm 1965, các bài báo về chiến dịch Ranch Hand mới thu hút sự chú ý của dư luận phương Tây, và phải tới một năm sau đó, các nhà hoạt động phản chiến, vốn khá ít ỏi vào những năm 1955, 1956, mới bắt đầu chú tâm đến vấn đề chất khai quang này. Với tình đoàn kết rộng khắp của các lực lượng phản đối chiến tranh diệt cỏ, nhân dân Hà Nội và Mặt trận dân tộc giải phóng tin rằng sự tàn khốc và mất nhân tính của chiến dịch Ranch Hand sẽ càng thúc đẩy sự liên kết giữa các nhóm phản chiến ở thế giới thứ nhất, thứ hai và các nước không liên kết. Sự kiên trì bền bỉ của những người cộng sản Việt Nam cho thấy rằng, không chỉ quân đội Mỹ mới đề ra chiến lược “chiếm lấy con tim và khối óc”. Khi chiến dịch diệt cỏ đạt tới đỉnh điểm vào những năm 1967 và 1968, Mặt trận dân tộc giải phóng cũng đã liên minh chặt chẽ với các phong trào phản chiến chống lại chính phủ Mỹ. (Chiến dịch https://thuviensach.vn con tim và khối óc: Chiến lược ngắn hạn của quân đội Mỹ, hòng chiếm được tình cảm và sự đồng thuận của đại đa số người dân Việt Nam - chú thích của dịch giả). Vào lúc đó, những tranh cãi về chiến tranh diệt cỏ đã làm lộ rõ một loạt các lý do vì sao và làm thế nào chiến tranh Mỹ gây ra lại trở thành một hành động tội ác. Khi hủy diệt môi trường có chủ đích, khiến người dân phải gánh chịu hậu quả to lớn của nó, chiến dịch Ranch Hand đã đoàn kết các nước phương Tây và những người cộng sản Việt Nam vốn ở thế đối đầu, bất kể những tranh cãi ban đầu về ý thức hệ liên quan đến chiến tranh tại Việt Nam. Giữa các tài liệu lên án tội ác chiến tranh và các bài tuyên truyền của phe cộng sản Việt Nam giống nhau nhất ở lời lên án phẫn nộ trước sự vô nhân tính của quân đội Mỹ khi dùng công nghệ cao để chống lại những người nông dân, và điểm thứ hai chính là việc cả hai đều không đề cập đến chiến tranh lạnh. Trong những tranh luận về chất diệt cỏ, những người đã thấy rõ bằng chứng không chối cãi được về tội ác chiến tranh tại Việt Nam hầu như không hề liên hệ nó với việc Mỹ phải ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản tại Đông Nam Á. Ở phương Tây, người ta lên án chiến dịch Ranch Hand mà không xét đến các nguyên lý cơ bản dẫn dắt chính sách đối ngoại của Mỹ từ năm 1947 hay thậm chí cả “đỉnh cao lý luận” của những nguyên lý này, chính là sự tham chiến của Mỹ tại Việt Nam. Những người phản đối chiến tranh diệt cỏ không bàn đến giá trị của chính sách ngăn chặn cộng sản, vì cho rằng rằng hãy còn những vấn đề khác cấp thiết hơn. Điều này đã được phản ánh rất rõ bởi Paul Ehrlich, một nhà sinh học nổi tiếng vào năm 1968 với cuốn sách Bom dân số theo thuyết “Tân Malthus”. (Học thuyết Malthus cho rằng dân số tăng theo cấp số nhân trong khi tư liệu sinh hoạt chỉ tăng theo cấp số cộng. Vì vậy, cần có chiến tranh, dịch bệnh, chết chóc để đảm bảo sự cân bằng. Sau này, có nhiều trường phái phát triển học thuyết này thành các học thuyết mới, gọi là thuyết Tân Malthus - chú thích của dịch giả). Ehrlich ước tính rằng hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên và sản xuất thực phẩm sớm muộn sẽ không thể bắt kịp được với nhu cầu của loài người. Năm 1971, ông quả quyết rằng hậu quả phá hủy mùa màng do chương trình chiến tranh https://thuviensach.vn diệt cỏ tiên báo thảm họa toàn cầu nghiêm trọng nhưng vẫn có khả năng ngăn chặn trong tương lai. Vào tuần trước khi diễn ra hội thảo “Tội ác chiến tranh và lương tâm người Mỹ”, nơi Galson giới thiệu khái niệm chất hủy diệt sinh thái, Hiệp hội luật gia Mỹ (ABA) đã tái khẳng định lập trường đối địch kéo dài hàng thập kỷ với Hiệp định về tội ác diệt chủng của Liên Hiệp Quốc năm 1948. Mặc dù Mỹ chỉ đóng vai trò là đại diện trình hiệp định trước Đại hội đồng Liên hiệp quốc, nhưng các nhóm lợi ích vẫn không ngừng cản trở việc phê chuẩn của Thượng viện Mỹ. Vào tháng Hai năm 1970, các quan chức ABA cho rằng đã đến lúc dùng tới sức mạnh vận động hành lang lần nữa. Theo một bài xã luận của thời báo New York (New York Times), ABA từng ra nghị định cho rằng sự phê chuẩn đó của Thượng viện sẽ “giúp các nước Cộng sản lôi kéo người dân Mỹ trước khi xuất hiện một phiên tòa nước ngoài về vấn đề chủng tộc tại Mỹ và hoạt động quân sự tại Việt Nam”. Tờ Thời Báo (Times) có ý kiến rất sắc bén về vấn đề này. Bài xã luận cho rằng Mỹ không vi phạm Điều ước Diệt chủng, và lập trường của ABA càng khiến người ta tin rằng Mỹ có thể phạm vào tội ác đó. Đồng thời, phần hai của bài xã luận tỏ ra tán thành đề nghị của Galson về chất hủy diệt sinh thái: “Một thế giới đang ngày càng quan tâm tới những mối đe dọa do con người tác động một cách thiếu ý thức đến môi trường sẽ không thể nào thờ ơ với hậu quả của hành động cố ý can thiệp vào cân bằng sinh thái”. Đó là một cách lập luận kỳ lạ. Trước hết, ban biên tập của Thời Báo rõ ràng đã không nhận ra mối liên hệ hợp lý giữa phong trào chống tội ác chiến tranh đang ngày càng gia tăng ở Mỹ và những nỗ lực nối tiếp đó, như hành động của Hiệp hội luật gia Mỹ (ABA) nhằm đảm bảo rằng Mỹ sẽ không tự “chui đầu” vào tội danh chiến tranh dưới sự xét xử của Tòa án công lý quốc tế (ICJ) hay bất cứ cơ quan chức năng nào khác. Theo ABA nhận định tình hình, các nhóm phi chính phủ như tòa án Russell chỉ khiến Mỹ xấu mặt một chút, nhưng phiên tòa của ICJ thì thực sự là mối bận tâm nghiêm trọng. Hơn nữa, bài xã luận có những luận điểm bất đồng với nhau: Thời Báo một mặt khẳng định rằng Mỹ không vi phạm Hiệp định Diệt chủng nhưng mặt khác lại ủng hộ đề nghị cấm chất hủy diệt sinh thái của Galson. Khác với quan https://thuviensach.vn điểm của thời báo New York, Galston không gàn dở tới mức cho rằng chất hủy diệt sinh thái chỉ tàn phá cây cỏ, như một hậu quả của việc phát triển quá đà. Đối với Galson, chiến dịch Ranch Hand là tội ác chống lại loài người. Theo như ABA nhận định, lực lượng cộng sản nước ngoài không phải là những người duy nhất tìm cách đưa Mỹ ra trước một “tòa án nước ngoài”. Là một nhà sinh học đồng thời là người tin vào chủ nghĩa nhân đạo. Galston đã đặt cược vào một điều vượt ra ngoài khả năng chuyên môn của mình; Ông chỉ quan tâm tới việc Mỹ khi tiến hành công cuộc tái thiết tại Việt Nam có bỏ quên những con người và những vùng đất bị phá hủy bởi Chất độc da cam hay không, và tất nhiên là cả việc làm sao để chính phủ của ông sẽ chấm dứt chiến tranh diệt cỏ mãi mãi. Nhưng chẳng có cơ sở nào cho thấy các quan chức Mỹ sẽ thực hiện những điều đó, mà việc thực hiện các cơ chế pháp lý để buộc tội chất hủy diệt sinh thái cần có những chuyên gia trong ngành luật quốc tế. Giáo sư Richard Falkthuộc khoa luật quốc tế của trường Woodrow Wilson thuộc đại học Princeton đã tập trung làm rõ vấn đề này. Năm 1968 Falk đăng bài viết có tựa đề “Chính sách Mỹ và chiến tranh Việt Nam: Một tình thế tiến thoái lưỡng nan thứ hai của Mỹ”. Tên của bài báo nhắc tới một cuốn sách xuất bản năm 1944 có tựa “Một tình thế tiến thoái lưỡng nan của Mỹ: Vấn đề người da đen và nền dân chủ hiện đại”, của một nhà kinh tế học Thụy Điển Gunnar Myrdal. Từ lập trường khách quan của một người nước ngoài, Myrdal cho rằng Mỹ đang kẹt giữa “hành động và tín điều”, tức những quy tắc nền tảng về tự do bình đẳng và thực tế phân biệt chủng tộc trong một xã hội chủ yếu là người da trắng. Falk cho cuộc chiến tại Việt Nam là thế lưỡng nan thứ hai của Mỹ vì Mỹ đã tạo ra một khoảng lệch trong chính sách đối ngoại, như từng để xảy ra trong chính sách đối nội. Falk cho rằng, ở Việt Nam, Mỹ đã hoàn toàn đi ngược lại với tín điều của mình trong quan hệ đối ngoại; cuộc chiến tranh là sự chứng minh thảm khốc rằng nước Mỹ nên “từ bỏ tham vọng về việc tạo dựng trật tự thế giới”. Nhận định về tình thoái lưỡng nan nói trên của Mỹ từ Falk mang tính phản bác mạnh mẽ, nhưng hãy còn khá rụt rè so với những bài viết của ông https://thuviensach.vn sau khi Arthur Galson xác định chất hủy diệt sinh thái. Vào đầu những năm 1970, Falk bắt đầu tin rằng Mỹ phạm tội ác chiến tranh với nhân dân Việt Nam, và tội ấy gần ngang với tội diệt chủng. Nhưng tại sao lại là hủy diệt sinh thái? Đối với Falk, chiến lược phá hủy môi trường vì mục đích quân sự thể hiện “cách lập luận hiểm ác của chiến tranh đàn áp”, một thứ logic dựa trên việc “tách con người ra khỏi đất đai”. Ý này của ông dựa theo câu ví von nổi tiếng của Mao Trạch Đông, ông này so sánh các chiến sĩ du kích như những con cá bơi trong biển nông dân, Falk mô tả sự đàn áp này như một “nỗ lực làm cạn biển dân thường”. Quá trình “làm cạn” này được quân đội diễn dịch là làm sao cho vùng nông thôn không còn là nơi người dân có thể sinh sống nữa. Nhưng vấn đề Falk chú tâm từ nhiều năm trước đó vượt xa những tranh luận nội bộ về chính sách đối ngoại của Mỹ. Theo những gì ông biết về sự hủy diệt sinh thái, cuộc chiến tranh này không chỉ là một hành động mạo hiểm thất bại, mà còn phát triển thành hành động diệt chủng. Khi coi chất hủy diệt sinh thái là trọng tâm trong kế hoạch hủy diệt lớn ở Miền Nam Việt Nam, Falk xem “Chất độc da cam như một trại tập trung Auschwitz đối với môi trường… Hiệp định về tội ác diệt chủng đã chính thức hóa một phần những gì đã bị lên án và trừng phạt tại phiên tòa Nuremberg, vậy một Hiệp định về sự hủy diệt sinh thái ra đời cũng sẽ có ý nghĩa như thế. Trong tương lai, nó sẽ là cơ sở để có thể kết tội chiến tranh diệt cỏ tại Đông Dương một cách hợp pháp.”(Trại tập trung Auschwitz là trại tập trung lớn nhất của Đức Quốc Xã - Chú thích của dịch giả) Falk tiếp tục tiến thêm một bước khi lên án chiến dịch Ranch Hand đã xâm phạm hiệp ước quốc tế cũng như luật chiến tranh trên bộ của chính quân đội Mỹ, mâu thuẫn với ý kiến của đại đa số thành viên, thể hiện trong trong một số nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, và đe dọa vô hiệu hóa các quyết định của phiên tòa Nuremberg. Về điểm cuối cùng, Falk không phải là học giả duy nhất cố gắp vận dụng tiền lệ tại Nuremberg vào chiến tranh Việt Nam. Giới luật sư cũng không phải là những người đầu tiên coi Nuremberg là con đường đi cho các hoạt động phản đối Mỹ: đầu năm 1965, những người có tư tưởng cấp tiến tại các trường đại học và những quân nhân phản chiến Mỹ thường xuyên lấy https://thuviensach.vn Nuremberg ra làm dẫn chứng để chống lại những chính sách của Mỹ ở Việt Nam. Những tuyên bố của phía Cộng sản Việt Nam thường khắc họa chiến tranh Mỹ nói chung và chiến tranh diệt cỏ nói riêng như một hành động diệt chủng đang thành hình. Tại “Hội nghị khoa học về chiến tranh hóa học tại Việt Nam” dưới sự chủ trì của Edgar Lederer, một thành viên thuộc ban chấp hành trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng, ông Nguyễn Văn Hiếu, đã phát biểu rằng với nguy cơ gây đột biến gien (khuyết tật bẩm sinh) của Chất độc da cam gây ra thảm họa còn đáng sợ hơn cả thảm họa diệt chủng trong chiến tranh thế giới lần thứ II. Những dự đoán của ông vẫn còn thiếu cơ sở: “Quan sát về các hiện tượng đột biến nhiễm sắc thể và dị tật bẩm sinh đã khẳng định những dự báo lý thuyết… Như vậy, quân đội Mỹ đang không chỉ tấn công vào thế hệ hiện tại mà cả thế hệ tương lai. Đây là một tội ác chưa từng có trong bất cứ cuộc chiến nào, kể cả những trận chiến của Đức quốc xã.” Chủ đề chiến tranh diệt chủng tác động đến di truyền đã trở thành tâm điểm vào cuối thập niên 60, đầu thập niên 1970. Năm 1968, Ủy ban các học giả quan tâm tới các vấn đề châu Á” (CCAS) đặt tại Boston đã có một bài luận với tiêu đề “Sự rụng lá: Cuộc chiến với mảnh đất và thế hệ chưa chào đời”. Trích dẫn lời của Arthur Galston và các nhà khoa học phương Tây khác, kênh “Tin tức Việt Nam” phát bằng tiếng Anh ở miền Bắc đã kể nhiều câu chuyện về những ảnh hưởng xấu về mặt di truyền ở Việt Nam. Trước đó, chưa có trận chiến nào có thể so sánh với chiến tranh diệt cỏ về mức độ ảnh hưởng tới môi trường. Quanh cảnh thiên nhiên trơ trụi sau những đợt rải thuốc của Ranch Hand là khung cảnh quái gở hoàn toàn chưa từng thấy trong thời bình. Theo như những nghiên cứu gần đây đã chứng minh, chiến tranh luôn phá hủy môi trường tự nhiên, nhưng hiếm có quan sát viên đương thời nào so sánh thế chiến thứ I hay bất kỳ trận nào khác với “chiến trường mặt trăng”. Những báo cáo trong và sau trận chiến cho thấy quang cảnh như sau vụ đánh bom nguyên tử đã biến Hiroshima và Nagasaki thành đống hoang tàn, mặc dù đó là khu vực thành phố chứ không phải nông thôn như Việt Nam. Noam Chomsky là một trong những quan sát viên https://thuviensach.vn phương Tây đầu tiên giải thích vì sau trận chiến ở Nhật Bản lại nhiều điểm tương đồng với Việt Nam hơn cả: “Chỉ trong quãng thời gian bằng một thế hệ, Mỹ đã sử dụng công nghệ tàn phá các nước châu Á yếu hơn đến ba lần. Năm 1945, hành động của Mỹ được cho là vì chính nghĩa, và lý do đó cho tới giờ vẫn vững chắc. Trong trận tại Hàn Quốc, họ bắt đầu day dứt. Cuối cùng, cuộc kháng chiến thần kỳ của người Việt đã buộc chúng ta phải tự hỏi: “chúng ta đã làm gì thế này?”. Cơ sở cho những lập luận của Chomsky có thể được hiểu theo phương diện chủng tộc, rằng nhóm da trắng “thượng đẳng” có vai trò nào đó tác động đến chiến lược chiến tranh hủy diệt của Mỹ nhằm chống lại những kẻ thù châu Á; và nói một cách tổng quát hơn, sự phân biệt chủng tộc đã can thiệp một cách quá mức, gây nguy hiểm cho các mối quan hệ quốc tế. Điều này rõ ràng là đúng. Tuy vậy, trong trường hợp chiến tranh diệt cỏ, lý do này tuy quan trọng nhưng không phải là lý do chính yếu. Chiến dịch Ranch Hand đã đồng hành cùng quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Các quan chức Việt Nam Cộng Hòa tỏ ra là các thành viên tích cực trong chiến dịch diệt cỏ. Họ tin rằng Ranch Hand sẽ giúp đẩy nhanh việc đánh bại quân giải phóng và do đó giúp tái thiết lại nông thôn miền Nam Việt Nam. Vì thế, yếu tố chủng tộc đóng vai trò thứ yếu trong việc biến chiến dịch Ranch Hand trở thành một hành động hủy diệt sinh thái hay diệt chủng. Thay vào đó, theo những phân tích của Chomsky, cơ sở cho sách lược của Mỹ trong chiến tranh diệt cỏ là sự kết hợp giữa khoa học và sức mạnh không quân để triển khai phun loại thuốc độc hại, không phân biệt nạn nhân là ai. Xét theo góc độ này vụ ném bom nguyên tử ở Hiroshima là tương đồng nhất, mặc dù những đầm đước ven biển và những cánh rừng mưa nhiệt đới vùng cao nguyên bị tàn phá làm người ta liên tưởng nhiều tới miền Nam nước Mỹ trong cuộc Nội Chiến hay nước Pháp trong thế chiến thứ I hơn. Hơn nữa, đối với những người tham gia phong trào chống tội ác chiến tranh, bản thân sự phá hủy môi trường không đủ cấu thành tội diệt chủng cho chiến dịch Ranch Hand, mà là chính việc sử dụng thuốc hủy diệt thực vật như con bài chính về mặt chiến lược nhằm tàn phá một cách có chủ đích một quốc gia. https://thuviensach.vn Trong những năm sau chiến tranh Việt Nam, cụm từ “chất hủy diệt sinh thái” đã được sử dụng rộng khắp mà không cần phải gắn với bối cảnh sinh ra nó. Đây là một cụm từ linh hoạt. Các nhà hoạt động môi trường đã nhanh chóng vận dụng nó. Năm 1971, một nhà văn đã tuyên bố: “Thông điệp dành cho chúng ta ngày nay chính là chất hủy diệt sinh thái, môi trường đang bị hủy hoại bởi loài người… Bầu không khí da cam đặc quánh là tác nhân nguy hiểm gây ra bệnh khí phế thũng; đối với nông nghiệp, chất này biến đất trồng trọt đã trở thành đất chết nhiễm độc; biến sông thành cống, biến hồ thành bể chứa rác và các đại dương đang chết dần”. Những công trình nghiên cứu mới hơn đã dùng khái niệm này để lên án việc người Âu Mỹ hủy hoại nền văn minh của thổ dân châu Mỹ; sự tàn phá rừng mưa nhiệt đới ở các khu vực xích đạo, sự bành trướng của các tập đoàn dẫn tới hệ lụy là sự hủy hoại một số đảo ở Thái Bình Dương, tình hình khủng hoảng nợ tân tự do ở những nước đang phát triển, mức độ tuyệt chủng đáng báo động của các loài động vật, sự tàn phá môi trường từ Âu sang Á trong quá trình theo đuổi một nền kinh tế mệnh lệnh chuyên chế. Có hai tác phẩm mô tả những hoạt động hủy diệt sinh thái của quân đội thời kỳ sau chiến tranh Việt Nam. Sụp đổ, một cuốn sách xuất bản gần đây được viết bởi nhà sinh học tiến hóa Jared Diamond, ông đưa chất hủy diệt sinh thái thành cơ sở chủ đạo trong nghiên cứu của mình. Diamond gọi chất hủy diệt sinh thái là “sự tự sát bằng vũ khí sinh học không được dự tính trước”, điều đã dẫn đến sự chấm dứt của nhiều nền văn minh lớn. Xét cho cùng, thứ thuốc độc này có thể đã dẫn tới hậu quả đáng lo ngại nhất về môi trường ngày nay: sự nóng lên của Trái Đất. Gần đây các nhà hoạt động đã dùng cụm từ “diệt chủng khí hậu” để tố cáo các tập đoàn thải nhiều khí carbonic ra môi trường và lên án các chính phủ chưa thực sự mạnh tay kiểm soát mức khí thải. Tuy vậy, những khái niệm đặc biệt này không thể làm lu mờ nguyên nghĩa và bối cảnh ra đời của từ “chất hủy diệt sinh thái”. Câu chuyện về sự tàn phá môi trường ở Việt Nam và các hoạt động phản đối nhằm chấm dứt chiến tranh diệt cỏ đã phản ánh mối liên hệ chặt chẽ giữa chiến tranh đàn áp của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, các phong trào phản đối chiến tranh và ý thức tuyên truyền môi trường vào những năm 1960, 1970. https://thuviensach.vn Hoạt động của các nhà khoa học phản đối chiến tranh, cũng như bối cảnh chính trị dẫn đến việc sử dụng chất hủy diệt sinh thái có thể lý giải trong tổng thể chung, khi xét phong trào đã bắt đầu như thế nào, và quan trọng hơn, tại sao nó lại đạt được mục đích đề ra. Mặc dù khái niệm chất hủy diệt sinh thái luôn là trọng tâm xuyên suốt hoạt động của các nhà khoa học trong suốt quá trình tranh luận về thuốc diệt cỏ - khi họ tập trung làm rõ các chính sách giải trừ vũ khí, xác định mối tương quan giữa luật quốc tế và khoa học, hay làm rõ sự xảo trá của chính quyền, thì chỉ mình chất hủy diệt sinh thái không đủ làm cơ sở để đưa ra những giải thích đầy đủ được. Những nhà khoa học tham gia tích cực nhất trong cuộc tranh luận về chiến tranh diệt cỏ nghiên cứu rộng hơn về thời kỳ lịch sử được coi là hậu quả của thảm họa chính trị, chiến lược và đạo đức của chiến tranh Việt Nam, một sự định hướng cơ bản về ý nghĩa an ninh quốc tế và sự sống còn của loài người. Bằng cách chỉ ra tội ác trong chiến thuật quân sự của Mỹ tại Việt Nam và những ảnh hưởng của chiến thuật đó tới mức độ toàn cầu, khái niệm thuốc hủy diệt sinh thái thực sự phù hợp với một biến đổi chính trị lớn hơn trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Không ai có thể nắm bắt sự thay đổi này sâu sắc hơn Geogre Kennan, người đã đưa ra chiến lược ngăn chặn Liên Xô sau thế chiến thứ II. Ông cũng tin rằng những ý tưởng của ông về chiến tranh lạnh đã bị cưỡng chiếm bởi một hệ tư tưởng quân đội cực đoan, dẫn đến bãi lầy ở Đông Nam Á. Năm 1966, ông tin rằng chiến tranh Việt Nam đe dọa khả năng trường tồn của nước Mỹ. Trong một bài diễn văn ủng hộ Eugene Mcarthy, thượng nghị sĩ đến từ Minnesota và là người ứng cử chức tổng thống theo phe phản chiến trong cuộc bầu cử năm 1968, Kennan đã phản đối chính sách mà tổng thống đương nhiệm Lyndon B.Johnson đã thực hiện ở Việt Nam: “Hỡi các bạn của tôi… Tôi không hiểu tại sao chúng ta có thể giương mắt nhìn những gì mà chính phủ đã làm trong quan hệ với Việt Nam. Đó thực sự là một sai lầm chính trị lớn, là sai lầm chưa từng thấy trong lịch sử. Và sai lầm đó càng nghiêm trọng và không thể tha thứ được bởi rất nhiều người đã cảnh báo sâu sắc chính phủ về nó.” https://thuviensach.vn Là một nhà lý luận chính sách đối ngoại, Kennan không quan tâm nhiều tới những chiến dịch đàn áp của Mỹ ở Việt Nam vốn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà hoạt động chống chiến tranh; theo góc nhìn toàn cầu của ông, những động thái ấy là triệu chứng của căn bệnh “thiếu tri thức cơ bản” ngay từ đầu đã đẩy Mỹ vào tình thế này. Nếu Việt Nam trở thành quốc gia tiêu biểu mà Mỹ phải “giải quyết” nhằm chặn đứng sự mở rộng trên toàn cầu của chủ nghĩa cộng sản, thì đã đến lúc phải xem lại mục đích của Mỹ trong các vấn đề quốc tế. Kennan còn đặt chiến tranh vào một tổng thể các vấn đề lớn hơn để dự báo rằng Mỹ đã lạc hướng. Kennan đã nhiều lần viết và phát biểu về việc gạt cộng đồng người da đen ra lề xã hội Mỹ, về quá trình tàn phá tài nguyên thiên nhiên không ngừng nghỉ và nạn ô nhiễm môi trường”, và cuối cùng là “nếp nghĩ của một bộ phận giới trẻ đang lạc hướng trong ma túy, các trò khiêu dâm hay cơn cuồng loạn chính trị.” Năm 1970, trong một bài báo xuất hiện trên tờ báo đã đăng “điều X,” (điều khoản mô tả các ý tưởng sau này trở thành nền tảng chiến lược chiến tranh lạnh của Mỹ - chú thích của biên tập), Kennan xác định rằng thảm họa hủy diệt sinh thái sắp diễn ra là một mối đe dọa an ninh lớn nhất đối với loài người. Theo ông, những vấn đề môi trường cần một cơ quan giám sát quốc tế như Liên Hiệp Quốc bởi cơ sở của việc bảo vệ môi trường toàn cầu là sự hợp tác quốc tế. Kennan hy vọng rằng một tổ chức như thế có thể tránh được cái mà nhà khoa học chính trị Robert Jervis đã coi là tình trạng lưỡng nan kinh điển trong an ninh quốc tế: “Khi thiếu vắng một tổ chức nắm quyền chung để buộc thực thi các thỏa thuận, nhiều biện pháp nhằm tăng cường an ninh mà một chính phủ thực hiện có thể khiến các nước khác kém an ninh hơn, dù hệ quả này thường không phải do cố ý và không lường trước được. Đối với Kennan, những mối đe dọa an ninh ấy là vô cùng lớn: “Thực vậy, hệ sinh thái toàn cầu không được phân chia theo địa giới quốc gia; và bất cứ ai xâm phạm nghiêm trọng tới thiên nhiên tại bất cứ nơi nào cũng sẽ gây bất an lớn trong cộng đồng thế giới.” Với Kennan, sự ám ảnh của một “thế giới hoang tàn” trong tương lai và hiện thực bi kịch mà Mỹ đã gây ra tại Việt Nam là không thể tách rời: cả hai vấn đề này xảy ra bởi cách đặt ưu tiên thiển cận và sai chỗ. Hoạt động đàn https://thuviensach.vn áp chủ nghĩa cộng sản, như được thực hiện ở Việt Nam, đã hủy hoại an ninh quốc gia của Mỹ và cùng lúc đặt ra câu hỏi liệu sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản có phải là sự đe dọa an ninh lớn nhất của Mỹ hay không. Kennan còn lo lắng hơn về một mối nguy mà Mỹ không để ý đến, rằng sau cả thập kỷ, chiến tranh Việt Nam sẽ trở thành cuộc đấu tranh vì sự sống còn của con người, xa rời mâu thuẫn về ý thức hệ vốn là nguồn gốc gây nên chiến tranh lạnh. Vì vậy, phong trào khoa học đã sản sinh khái niệm chất hủy diệt sinh thái - vốn giảm thiểu sự liên quan tới chiến tranh lạnh và đồng thời tìm cách ngăn chặn các thảm họa môi trường trong tương lai thông qua các cơ chế luật pháp - cần phải được lý giải trong bối cảnh biến đổi mà Kennan đã miêu tả. Để diễn tả tầm quan trọng của sự biến đổi này, chúng ta có thể xét những khái niệm phổ biến về sự phá hủy toàn cầu chỉ trong mười năm trước đó. Khi đó John F.Kennedy, tổng thống mới được bầu đã phát biểu trong bài diễn văn nhậm chức của ông rằng nước Mỹ nên “trả bất cứ giá nào, chịu bất cứ gánh nặng nào, chấp nhận bất cứ khó khăn nào, giúp đỡ bất cứ người bạn nào, chống lại bất cứ kẻ thù nào để đảm bảo sự tồn tại và thắng lợi của tự do”. Ngài tổng thống mới sẵn sàng trả giá nào trong cuộc chiến chống chủ nghĩa công sản? Sự chèo lái của Kennedy có thể duy trì kỷ lục tránh được chiến tranh hạt nhân với Liên Xô của tổng thống Dwight Eisenhower được không, trong khi ông đã hứa sẽ tạo ra một sự thay đổi cơ bản so với chiến lược chiến tranh lạnh của người tiền nhiệm? Nếu tình hình khủng hoảng bùng nổ thành chiến tranh hạt nhân liên lục địa, thì liệu sự sống con người trên Trái Đất có còn duy trì được hay không? Ít nhất, về điểm cuối cùng, John Kennedy và những cố vấn của mình dường như đã tìm ra một câu trả lời cụ thể cho những câu hỏi chưa được kiểm chứng này. Theo như Herman Kahn, một nhà nghiên cứu của Tập đoàn RAND, cả ý niệm về sự sống sót trong môi trường sau chiến tranh hạt nhân lẫn khả năng chiến thắng của Mỹ trong cuộc chiến đó đều là những điều hoàn toàn có thể hình dung ra được. https://thuviensach.vn Năm 1960, Kahn xuất bản cuốn Về chiến tranh nhiệt hạch để ca ngợi giới truyền thông và cơ sở chính sách đối ngoại của Washington. Những quan điểm của ông trong cuốn sách đã thu hút sự chú ý của nội các chính phủ Kennedy, nhiều người trong số đó là đồng nghiệp của Kahn ở RAND. Tựa đề cuốn sách rõ ràng nhắc nhớ tới cuốn Về chiến tranh, một luận thuyết lớn về chiến lược quân sự được viết bởi một nhà lý luận người Phổ Karl von Clausewitz vào đầu thế kỷ mười chín. Cuốn sách đó từng đặt ra một câu hỏi nổi tiếng khiến người ta rùng mình: sau cuộc tàn sát hạt nhân, “liệu người sống có ghen tị với người chết?”. Và Kahn đã dứt khoát trả lời không. Điều quan trọng không phải là cách Kahn đưa ra kết luận của mình - vốn dựa vào một chuỗi thuật toán di truyền khó hiểu để tính tỉ lệ sống sót của loài người - mà là sự thờ ơ của tác giả đối với những nền tảng tư tưởng có thể thúc đẩy một cuộc chiến tranh “lưỡng bại câu thương”. Đối với Kahn, điều quan trọng là phải có một chiến lược để Mỹ “chiến thắng” một cuộc chiến tranh hạt nhân. Đạo diễn Stanley Kubrick đã khắc họa nhân vật “Tiến sĩ Strangelove” với nguyên mẫu là Kahn trong một bộ phim hài rùng rợn cùng tên của mình năm 1964. Cuối phim, cảnh đám mây hình nấm đã miêu tả những gì Kubrick tưởng tượng về “chiến thắng” hạt nhân. Trong suốt một thập kỷ, có hai diễn biến chính khiến nghiên cứu của Kahn trở nên không còn phù hợp. Đầu tiên, năm 1963, Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân đã giúp giảm căng thẳng hạt nhân giữa các cường quốc; sau khi “Khủng hoảng tên lửa Cuba” đẩy Mỹ và Liên Xô tới bờ vực chiến tranh. Cùng năm đó, sự cam kết đa phương về khu vực Tây Đức không có vũ khí hạt nhân càng khiến nguy cơ nổ ra chiến tranh hạt nhân giữa Mỹ và Liên Xô càng thấp hơn. Thứ hai, vào cuối thập kỷ, cuộc chiến tranh Việt Nam đã khiến người ta không còn cho rằng chính sách chống cộng của quân đội đáng để mạo hiểm sinh mệnh của nước Mỹ hay thậm chí cả thế giới theo nghĩa đen. Cùng lúc đó, sự quan tâm ngày càng tăng tới môi trường dần cũng tái định hướng lại ý nghĩa cơ bản của sự sống sót - cả ở nước Mỹ lẫn toàn cầu. Lấy ý tưởng từ phong trào môi trường ngày càng mạnh mẽ sau khi Rachel Carson xuất bản cuốn Mùa xuân im lặng vào năm 1962, George Kennan là một trong những người đầu tiên chỉ ra mối tương quan giữa việc https://thuviensach.vn những lo ngại về chiến tranh lạnh giảm đi trong khi nỗi lo cho hệ sinh thái ngày một tăng lên. Vì thế, vào năm 1970, những viễn cảnh về thảm họa môi trường thế giới đã mang rất ít điểm tương đồng với cảnh hoang tàn sau chiến tranh hạt nhân mà Herman Kahn đã hình dung ra vào một thập kỷ trước đó. Điểm khác biệt không nằm ở mức độ tàn phá mà là nguồn gốc của nó. Thay cho sự hủy hoại tức thì trên diện rộng do chiến tranh hạt nhân là viễn cảnh về sự hủy diệt môi trường từ từ nhưng không kém màu sắc của ngày tận thế: đất canh tác bị sa mạc hóa, những khu rừng trơ trụi, không khí đầy khói và những bãi biển tràn dầu. Càng ngày càng nhiều người tin rằng con người đang khiến hệ sinh thái trở nên tồi tệ hơn và cần phải làm một cái gì đó - và đối với rất nhiều người, đây là vấn đề lớn và cấp bách hơn cả việc Mỹ theo đuổi chiến tranh lạnh. Nhà sử học John McNeill kết luận rằng loài người đang tạo ra “một cái gì đó mới dưới ánh nắng mặt trời” (tên cuốn sách John McNeill về lịch sử môi trường thế kỷ thứ XX - chú thích của người dịch) trong những năm 1960. Và điều này phụ thuộc vào một thực tế rằng “những điều sáng suốt và quyền hạn được thiết lập sẽ đến với sự tấn công mạnh mẽ” trong thập kỷ đầy biến động ấy. Nhưng đâu là bằng chứng rằng các vấn đề môi trường được nhiều người quan tâm vào cuối những năm 1960 dẫn tới viễn cảnh về một thế giới hoang tàn? Hay cái suy nghĩ tột cùng rằng loài người đang dần dần nhưng chắc chắn phá hủy thế giới chỉ là phản chiếu của những nỗi lo phi thực tế sản sinh từ môi trường hỗn độn của nền công nghiệp hóa thế kỷ mười chín? Hơn nữa, có phải quan điểm này đã tạo ra một sự phân chia lệch lạc giữa loài người tham lam và thiên nhiên thụ động, mà như vậy là đã xem nhẹ tính năng động của môi trường tự nhiên? Trong trường hợp Việt Nam, các nhà môi trường học đã tìm thấy bằng chứng thuyết phục rằng nỗi lo sợ về ngày tận thế không chỉ là giả thuyết. Dựa vào những câu mở đầu của cuốn Mùa xuân im lặng, bản tin Sierra Club đã xuất bản cái được coi là bài cáo phó môi trường của một quốc gia: “Ngày xửa ngày xưa, có một đất nước nhỏ bé, xinh đẹp, xanh tươi và duyên dáng được gọi là Việt Nam”. Bài báo nói đến sự tàn phá môi trường nặng nề của https://thuviensach.vn chiến dịch Ranch Hand “khủng khiếp” và “rùng rợn”, bao gồm: “Vào cái thời điểm mà thai nhi dị dạng và dấu hiệu cho thấy thiên nhiên bị tàn phá lâu dài, khó hồi phục xuất hiện ngày càng nhiều thì rõ ràng ta đã thành công. Việt Nam đã được cứu. Nhưng đất nước đó đã chết”. “Cái chết” của một quốc gia như một điềm báo cho viễn cảnh mà các nhà môi trường học thường xuyên đưa ra; một tác giả cũng cho rằng sự tàn phá ở Việt Nam chính là bản phác thảo cho kế hoạch hủy diệt toàn cầu. Các nhà khoa học đưa ra định nghĩa “chất hủy diệt sinh thái” không coi mình là các chuyên gia trong lĩnh vực an ninh hay nhà hoạt động môi trường. Tuy nhiên họ vẫn hoạt động giữa trung tâm sự chuyển đổi các ưu tiên đầy phức tạp trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Ở tầm mức rộng hơn, việc xem xét sự biến đổi này đẩy những tranh luận về thuốc diệt cỏ vượt khỏi thước đo chật hẹp mà các nhà khoa học và những người phản đối chất hủy diệt sinh thái dựng nên; trước hết đây là thảm họa sinh thái cần được nghiên cứu khoa học độc lập, và chẳng bao lâu sau đó nó trở thành một hình thức diệt chủng. Vì thế, hành động của các nhà khoa học giúp chúng ta hiểu thêm về sự tương hỗ giữ những sách lược đàn áp ở Việt Nam và những phong trào phản đối mà chúng kích khởi. https://thuviensach.vn 3 CHẤT ĐỘC DA CAM TRƯỚC KHI VÀO VIỆT NAM ◄○► Nguồn gốc của Chất độc da cam khá đa dạng. Lịch sử của các chất cấu thành 2,4-D và 2,4,5-T của nó bắt nguồn từ một trong những lý thuyết sinh học của Charles Darwin mà ít người biết đến. Lịch sử của loại vũ khí quân sự mang tên Chất độc da cam bắt đầu trước khi mở màn thế chiến thứ II, khi nhu cầu của cuộc tổng chiến tranh đã khiến một nhà khoa học nhận thấy rằng các loại thuốc diệt cỏ cũng có giá trị quân sự. Vào cuối những năm 70 của thế kỷ 19, Darwin bắt đầu nghiên cứu về các cơ chế điều chỉnh sự phát triển của thực vật; vào lúc đó, ông không tìm thấy câu trả lời thỏa đáng cho các câu hỏi tạo nên nền tảng của sinh lý học thực vật: tại sao các chồi cây lại mọc thẳng lên bất chấp lực hút của Trái Đất? Điều gì khiến cho cành cây uốn quanh những vật cản trở ánh nắng mặt trời? Liệu có tồn tại một bộ phận đặc biệt nào đó của cây giúp kiểm soát sự phát triển, hay có một quá trình phân cấp bên trong cơ thể thực vật không? Với sự giúp đỡ của con trai mình là Francis, Darwin đã tiến hành thí nghiệm 320 loài thực vật, đặc biệt chú ý tới chuyển động của các cây con khi tiếp xúc với những cường độ ánh sáng khác nhau. Từ đó, ông đã viết cuốn Sức mạnh chuyển động bên trong thực vật (1880). Cuốn sách dài gần 600 trang, khiến người ta tưởng như đang đọc một cuốn nhật ký khoa học dài vô tận. Tuy vậy, Darwin vẫn tổng hợp được giả thuyết chính của mình trong đoạn kết luận: “Sự xoay xoắn ốc vô cùng quan trọng trong vòng đời mỗi loài thực vật; nhờ đó mà chúng có được những chuyển động có ích và cần thiết. Khi ánh https://thuviensach.vn sáng chiếu vào một bên cây, hay ánh sáng chuyển thành bóng tối, hay khi lực hấp dẫn tác động vào một phần đã bị bỏ đi; bằng cách nào đó các tế bào sẽ phình ra rất khác nhau ở một bên; nhờ đó mà vận động xoắn ốc bình thường bị thay đổi; và thân cây uốn cong cũng vì lý do này; hoặc nó cũng có thể có một tư thế mới, như cái gọi là “quá trình lá ngủ”. Nói cách khác, Darwin đã tìm ra sự kích thích tăng trưởng sẽ được truyền từ một phần của cây (đầu chồi non) sang bộ phận khác (cành). Khi Darwin che đầu chồi bằng những chiếc cốc nhỏ hoặc cắt rời nó ra khỏi thân cây, cành cây sẽ không hướng về phía ánh sáng như trong điều kiện bình thường nữa, vì thế đã chứng minh được sự tồn tại của một “cơ chế truyền bí ẩn nào đó” điều khiển sự phát triển của thực vật phát triển từ ngọn xuống gốc. Đây là phát hiện khoa học lớn cuối cùng của Darwin; ông mất vào năm 1882. Giả thuyết truyền dẫn của Darwin đã tạo ra nền tảng cho các khám phá sau này về cơ chế phát triển của thực vật, ở hai cấp độ. Trước hết, những nghiên cứu của ông đã chứng minh sự tồn tại của một chất kích thích tăng trưởng có thể được tách riêng nghiên cứu. Thứ hai, các nhà khoa học khác nhờ đó biết rằng cần tập trung nghiên cứu phần ngọn thực vật. Trong suốt 30 năm sau đó, sự hiểu biết của các nhà khoa học về tăng trưởng thực vật đã tăng tiến đáng kể. E. H. Salkowski đã tìm ra axit indole3-acetic (IAA) vào năm 1885, là chất tăng trưởng mà Darwin đã đặt ra định đề từ 5 năm trước đó. Năm 1911, Peter Boysen-Jensen lặp lại những thao tác Darwin từng làm với đọt cây, thêm vào một bước là đặt đoạn gelatin giữa ngọn và cành. Boysen-Jensen quan sát thấy rằng đoạn gelatin phân cách không ảnh hưởng tới phản ứng phát triển của cành cây, và đưa ra giả thuyết rằng “trung gian truyền dẫn” của sự tăng trường tương tự như chuỗi phản ứng hóa học. Những thí nghiệm sau này của Arpad Paal (1918) và H.Soding (1925) với việc theo dõi quá trình cắt cây và thay đổi ánh sáng càng chứng minh giả thuyết “chuỗi phản ứng hóa học” của Boysen-Jensen. Sau đó vào năm 1926, một nghiên cứu sinh người Hà Lan, F. W. Went, đã tách riêng chất kích thích vào một vật trung gian “chết” chứ không cho phép nó tràn vào thân cây như những người đi trước đã làm. Went đã chọn agar, một loại thạch tảo biển có thể hút chất kích thích tăng trưởng từ những đầu cây bị tách riêng. Khi Went https://thuviensach.vn đặt lại agar lên đọt cây, cây con đó lại phát triển như thể nó chưa từng bị tách làm hai. Điều này chứng tỏ sự tồn tại của một chất tăng trưởng. Went gọi nó là auxin, bắt nguồn từ từ “auxein” trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “sinh trưởng”. Sự phát hiện và xác định những hormone thực vật độc đáo này xét về mặt phương pháp rất giống với quy trình thí nghiệm khoa học của Darwin. Darwin đã mở ra con đường còn đầy bí ẩn của việc dùng hormone tác động lên sinh lý của thực vật với nhận thức rằng sự phát triển của thực vật được kiểm soát bằng những phản ứng sinh hóa có thể được tách riêng và định lượng. Sau này các nhà khoa học ở Đức, Anh và Mỹ đã chạy đua tìm cách tạo ra hợp chất hóa học có thể tác động tới phản ứng điều tiết tăng trưởng tự nhiên. Năm 1933, tiềm năng của việc vận dụng hormone trở nên rõ ràng hơn khi Fritz Koegl, đối tác của phòng thí nghiệm của F. W. Went tại Viện Hóa học Hữu cơ ở Utrecht, đã thành công trong việc tách IAA khỏi một số loài cây, khiến việc mở rộng ứng dụng hormone tổng hợp trên thực vật là hoàn toàn có thể. Năm sau, Kenneth Thimann và F. W. Went (người đã làm với Thimann tại Viện Công nghệ California) đã tổng hợp thành công chất IAA, và quan trọng hơn nữa là khám phá ra rằng IAA tổng hợp có thể tác động vào sự phát triển của cây hệt như những hormone tự nhiên do cây sinh ra. Viễn cảnh tận dụng việc điều chỉnh hormone để kích thích tăng trưởng ở thực vật có vẻ đã hiển hiện trước mắt các nhà nghiên cứu đang tìm cách tạo ra những giống cây trồng năng suốt cao hơn và tăng trưởng nhanh hơn. Folke Skoog và Kenneth Thimann là những người đầu tiên sau đó đã có cách tiếp cận với việc vận dụng hormone theo hướng khá ngược so với những lợi ích tiềm năng của nó, họ nghiên cứu việc sử dụng hóa chất tổng hợp này như một thứ thuốc giết chết thực vật. Ngay sau nghiên cứu mang tính đột phá của Thimann về hormone tổng hợp, nhóm của ông đã chứng minh rằng IAA khi được chưng cất ở nồng độ cao hơn sẽ ức chế sự phát triển của thực vật một cách hiệu quả. Đây là phát hiện đầu tiên vượt ngoài các nỗ lực giúp cây cho năng suất cao hơn thông qua việc điều chỉnh hormone. Nghiên cứu này đã bắt đầu kỷ nguyên của thuốc diệt cỏ phenoxy và hai công thức nổi tiếng nhất của nó, 2,4-D và 2,4,5-T. https://thuviensach.vn Nhưng loại thuốc diệt cỏ bằng hóa chất đầu tiên đã xuất hiện trước phát hiện của Skoog và Thimann đến 35 năm. Năm 1900, các nhà khoa học làm việc trong ngành công nghiệp hóa chất khi đó đang bắt đầu phát triển đã giới thiệu Natri asenit là thuốc diệt cỏ đầu tiên được bán trên thị trường. Mặc dù hợp chất này diệt cỏ rất hiệu quả, nhưng từ góc độ nông nghiệp, Natri asenit vẫn có vấn đề. Nó hoạt động dựa trên nguyên tắc khử trùng đất, trong khi các loại hóa chất diệt cỏ bằng việc tác động vào quá trình phát triển của thực vật không gây hại cho đất và chỉ diệt những loại cây nhất định. Nhà sinh vật học James R. Troyer nhận thấy rằng việc tìm ra thuốc diệt cỏ dựa trên sự ức chế thực vật phát triển “sau này sẽ giúp con người có thể kiểm soát được sự phát triển của cây cỏ mà không cần bận tâm tới những hóa chất độc hại ăn mòn, khả năng thất bại hay phải sử dụng lao động chân tay vất vả”. Yêu cầu thay thế công việc vất vả của nhà nông bằng “phép màu” sinh hóa tiết kiệm nhân công trở thành một nhiệm vụ trọng tâm của Viện nghiên cứu Boyce Thompson (BTI), viện này bắt đầu hoạt động từ năm 1924 tại Yonkers, New York. Ông Thompson, người đã phát tài nhờ việc khai thác mỏ đồng, đã lập ra viện nghiên cứu mang tên mình bởi ông thấy lo lắng cho khoảng cách ngày càng rộng giữa sự phát triển dân số và khả năng cung cấp lương thực của ngành nông nghiệp Mỹ. Là bạn thân của Herbert Hoover và là người chỉ huy Tổ chức cứu trợ Mỹ (ARA) trong và sau thế chiến thứ I, Thompson đã chứng kiến tận mắt nạn chết đói hàng loạt ở Nga sau cuộc cách mạng 1917. Thompson coi thảm họa đó như một điềm báo cho những gì có thể xảy ra ở Mỹ. Năm 1919, trong buổi họp thăm dò tại Viện, Thompson đã tuyên bố: “Dân số ở đất nước này sẽ sớm lên tới 200 triệu người. Vấn đề về nguồn cung bánh mì và những thực phẩm thiết yếu sẽ đặt ra. Đó là chuyện nằm ngoài khả năng của những nhà chính trị hay xã hội học. Tôi sẽ thành lập một cơ quan để nghiên cứu chức năng sinh lý của thực vật, nhằm đảm bảo nhu cầu cơ bản của 200 triệu người. Đây không phải là tổ chức cải thiện đời sống, mà là một cơ quan khoa học nghiên cứu những vấn đề cụ thể như sự nảy mầm, ký sinh trùng, dịch bệnh và tiềm năng phát triển ở cây trồng.” https://thuviensach.vn Hòa vào sự phát triển nhanh chóng ở châu Âu, BTI bắt đầu nghiên cứu việc can thiệp vào hormone thực vật dưới sự chỉ huy của Percy Zimmerman. Vào thời điểm đó, những ứng dụng sinh hóa trong nông nghiệp hứa hẹn đưa lại sản lượng nông nghiệp cao hơn với chi phí lao động thấp hơn đáng kể. Năm 1935, các nhà khoa học BTI bắt đầu tổng hợp các loại axit như axit Naptalin Axetic, loại hợp chất điều hòa sinh trưởng thực vật tỏ ra mạnh hơn cả IAA ngay trong dạng điều chế ban đầu của nó. Suốt 4 năm sau đó, Zimmerman và những đồng nghiệp của mình đã tổng hợp hơn 50 loại hợp chất được chứng minh là kích thích sự phát triển của rễ, cành và lá qua ứng dụng bình phun. Nghiên cứu này đã mang lại thành công đáng kể về phương diện thương mại. Vào năm 1940, những hormone tổng hợp sáng chế bởi BTI với tác dụng đẩy mạnh phát triển rễ cây con và củng cố cành của các cây ăn quả (để quả có thể chín trên cây chứ không rơi xuống đất) đã được đưa ra thị trường Mỹ. Ngay trước khi thế chiến thứ II mở màn, các nhà nghiên cứu ở hai bên bờ Đại Tây Dương đã đưa ra kết luận về tiềm năng tuyệt vời của việc điều chỉnh hóa học đối với sự phát triển thực vật. Xét về phương diện lý thuyết, mọi cơ sở nền tảng đã sẵn sàng để có được đột phá lớn. Vào thời điểm đó, các nhà sinh lý học thực vật hiểu rằng sự kết hợp của các chất ở những nồng độ khác nhau có thể ảnh hưởng tới sự phát triển thực vật theo nhiều cách. Một trong số họ đã nói, “Mục đích cuối cùng của đông đảo các nhà nghiên cứu thực vật là kiểm soát sự phát triển. Chúng tôi luôn tâm niệm rằng “nếu có thể hiểu rõ hơn về cơ chế phát triển bình thường, ta hoàn toàn có thể kiểm soát sự phát triển bất bình thường”. Nhiệm vụ trước mắt là phải xác định được những hợp chất hóa học nào sẽ đưa lại hiệu quả mong muốn trên thực vật, cho dù đó là hiệu quả kích thích tăng trưởng, ức chế tăng trưởng hay diệt hoàn toàn cỏ dại. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều tiếp tục tập trung nghiên cứu kích thích tăng trưởng, cho tới khi các thí nghiệm khẳng định rằng kiểm soát cỏ dại mới là điều quan trọng nhất với mùa vụ. Việc khám phá ra thuốc diệt cỏ dựa vào hormone thực vật đầu tiên dường như đã được định trước là sẽ xảy ra đồng thời nhưng độc lập. Nhiều nhóm nghiên cứu độc lập ở hai bên bờ Đại Tây Dương đã tuyên bố họ là người https://thuviensach.vn “đầu tiên” phát hiện ra loại thuốc diệt cỏ hiện đại này, mặc dù sự phân biệt trước sau này hoàn toàn không quan trọng bằng sự thực là họ đã đạt được những mục tiêu giống nhau. Nhà khoa học đầu tiên đưa ra kết luận về tác dụng diệt cỏ của một loại hóa chất dựa vào ứng dụng can thiệp hormone là William Gladstone Templeman, một nhà sinh lý học thực vật làm việc cho Công ty kỹ nghệ hóa chất hoàng gia (ICI) ở Vương quốc Anh. Như hầu hết những đồng nghiệp của mình, ban đầu Templeman tập trung nghiên cứu những chất kích thích tăng trưởng ở thực vật. Tuy nhiên, sau bảy năm nghiên cứu, ông từ bỏ con đường này để chuyển sang nghiên cứu tác dụng diệt cỏ của những chất đó khi được sử dụng ở nồng độ cao hơn. Năm 1940, những thí nghiệm của Templeman cho thấy rằng IAA đã tiêu diệt những loại cỏ lá rộng mọc trên đồng ngũ cốc nhưng không ảnh hưởng tới cây trồng và không làm hại đất. Vô cùng phấn chấn với phát hiện này nhưng chưa thỏa mãn với tác dụng ngắn ngủi của IAA, Templeman đã hợp lực với những đồng nghiệp tại ICI để tìm ra những axit tồn tại được lâu hơn (nên rẻ hơn), và một trong số đó là 2,4 -D. Những thông tin đầu tiên về 2,4-D được mô tả lần đầu tiên bởi nhà hóa học R. Pokorny vào tháng 6 năm 1941. Năm sau, một nhà hóa học người Mỹ John Lontz, đã áp dụng và nhận bằng sáng chế về 2,4 -D thay mặt cho doanh nghiệp E. I. Du pont de Nemours and Company. Cũng năm đó, Zimmerman và đồng nghiệp tại BTI, sau khi thử nghiệm nhiều hợp chất hóa học khác nhau trong suốt sáu năm qua, đã trở thành những người đầu tiên công bố rõ ràng về tiềm năng của 2,4 -D với vai trò chất điều hòa phát triển thực vật nhân tạo. Năm 1943, Franklin D. Jones, thuộc Công ty sơn hóa chất Mỹ, đã phát hiện ra những đặc tính diệt cỏ của chất 2,4 -D sau một năm trời tìm loại hóa chất có thể trừ cây sơn độc. Jones cũng là nhà khoa học đầu tiên tiến hành thí nghiệm một cách tỉ mỉ với chất 2,4,5 -T, chất mà Pokorny cũng đã đề cập tới trong bài báo năm 1941 của mình. Trong khi đó, Arthur Galston, người về sau cực lực đả kích chiến tranh diệt cỏ, đã tình cờ phát hiện ra khả năng diệt cỏ của axit 2,3,5-triiodobenzoic (TIBA) đối với cây đậu nành khi ông đang tiến hành nghiên cứu bảo vệ luận án tại trường Đại học Illinois. Nghiên cứu của Galston giúp cây đậu nành đem lại lợi nhuận cao hơn tại https://thuviensach.vn Mỹ, còn những phát hiện về chất diệt cỏ cũng đã góp thêm một hóa chất tổng hợp vào lĩnh vực kiểm soát hormone cỏ dại còn khá non trẻ. Những phát hiện đồng thời và độc lập về thuốc diệt cỏ này ở Mỹ lại không hề đến tai William Templeman và những đồng nghiệp tại ICI ở Anh, dù họ là những người đầu tiên tổng hợp được chất 2,4-D và cũng là người đầu tiên nhận ra tiềm năng diệt cỏ của nó. Vào tháng 4 năm 1941, Templeman nộp đăng ký sáng chế cho Phòng sở hữu trí tuệ Anh, nhưng những quan chức ở đó đã đóng băng bằng sáng chế này mãi cho đến năm 1945 bởi chính phủ Anh quy định kiểm duyệt các thông tin khoa học mới trong thời gian chiến tranh để ngăn những tài liệu nhạy cảm rơi vào tay kẻ thù. Điều này lý giải vì sao Templeman không hề hay biết về những hoạt động nghiên cứu thực hiện tại một trung tâm nghiên cứu thực vật lớn khác tại Anh, Trạm thí nghiệm nông nghiệp Rothamsted, nơi mà Philip S. Nutman, H Gerard Thornton và John H. Quastel đã tìm ra những đặc tính diệt cỏ của 2,4 -D cùng một lúc. Trong những thập kỷ sau những khám phá đầu tiên của Darwin, lĩnh vực nghiên cứu phát triển thực vật phát triển bùng nổ. Những khám phá trùng lắp cùng về 2,4 -D và những hợp chất nhân tạo liên quan tới nó đã phản ánh hiệu quả của những lệnh cấm trong thời gian chiến tranh mà chính phủ đặt ra để ngăn các nhà khoa học học hỏi tiến bộ của nhau. Chất độc da cam đã mang lại một cái nhìn mới về nguồn gốc khoa học của các loại thuốc diệt cỏ dựa vào ứng dụng hormone thực vật. Ezra E. J. Kraus, chủ nhiệm Khoa thực vật học của trường đại học Chicago, là người đầu tiên nhận ra giá trị quân sự tiềm tàng của thuốc diệt cỏ khi Mỹ tham gia thế chiến thứ II. Mặc dù các nhà khoa học Anh ở ICI đã hai lần giới thiệu thuốc diệt cỏ dựa vào ứng dụng hormone với vai trò là một công cụ mới cho ngành nông nghiệp và là một vũ khí quân sự tân tiến, từ hai năm trước đó Kraus đã biết điều này. Trái ngược với những phát hiện đồng thời dẫn đến việc tạo ra hợp chất 2,4 -D và sự nhìn nhận về công dụng diệt cỏ của nó, ý kiến của Kraus có thể hiểu như một vấn đề chính trị chứ không phải là khám phá khoa học. Chúng ta sẽ tìm hiểu về tầm quan trọng của khám phá này trước khi bàn chi tiết về nghiên cứu của Kraus. https://thuviensach.vn Nếu những nghiên cứu trước đây về kiểm soát sự phát triển của thực vật đòi hỏi phải có sự thay đổi nhận thức để chuyển từ nghiên cứu kích thích phát triển sang lĩnh vực diệt cỏ, thì ý tưởng thuốc diệt cỏ có thể trở thành vũ khí quân sự cũng đòi hỏi người ta cũng phải thay đổi quan điểm về chức năng xã hội của ngành sinh lý học thực vật trong thời chiến. Chỉ riêng việc chú trọng nghiên cứu thuốc diệt cỏ hơn các loại thuốc kích thích tăng trưởng khác đã đặt ra yêu cầu về các phương thức mới nhằm bung mở tiềm năng của ngành sinh hóa. Tương tự như vậy, khi nghĩ tới chiến tranh diệt cỏ, người ta cũng cần có quan điểm đột phá về khía cạnh an ninh quốc gia và tác động tới môi trường của cuộc chiến. Việc diệt cỏ bằng hóa chất ban đầu đã phát triển như một khía cạnh của quá trình lâu dài của con người nhằm sử dụng đất hiệu quả nhất: cho dù chức năng cốt lõi của thuốc diệt cỏ chỉ là tiêu diệt một số loài cỏ nhất định, nhưng, mục tiêu tối hậu của các nhà khoa học là tạo ra những điều kiện phát triển thuận lợi nhất cho một khu rừng hay loại cây trồng nông nghiệp nào đó, mà nếu không có thuốc diệt cỏ thì chúng sẽ bị buộc phải cạnh tranh với một số cây không có lợi khác để hấp thu ánh mặt trời, nước và chất dinh dưỡng. Thuốc trừ sâu DDT, một loại hóa chất được phát minh trong chiến tranh thế giới thứ hai và sau đó trở nên khét tiếng vào những năm 60 của thế kỷ 20, đã vượt xa ranh giới chiến tranh-hòa bình, vì muỗi đã gây ra những căn bệnh nguy hiểm cho binh lính lẫn dân thường. Khi dùng ở nồng độ cao hơn, thuốc diệt cỏ trong quân sự sẽ hủy diệt luôn mọi loài thực vật khác nhằm giảm thiểu tối đa hiệu suất của những vùng đất thuộc quyền kiểm soát của đối phương. Trong bối cảnh chiến tranh, thuật ngữ “thuốc diệt cỏ” nếu không đi kèm từ “trong quân sự” sẽ không diễn tả đầy đủ mục đích sử dụng nó, mà cụ thể là tiêu diệt thực vật trên diện rộng, không hạn chế. Chính vì vậy, “năng suất” của việc sử dụng thuốc diệt cỏ trong quân sự (trong kế hoạch dự phòng thế chiến thứ II và trong thực tế chiến tranh Việt Nam) chỉ có thể được đo bằng những khái niệm mơ hồ mà người dân và các nhà lãnh đạo quốc gia đã dùng để biện minh cho những nỗ lực chiến tranh của mình. https://thuviensach.vn Erza Kraus có các điều kiện thuận lợi để tìm hiểu thấu đáo tiềm năng quân sự của chiến tranh diệt cỏ. Khoa thực vật học của Đại học Chicago luôn tự hào về những thiết bị phòng thí nghiệm tiên tiến nhất, một phần nhờ vào những khoản tài trợ lớn từ Quỹ Rockefeller. Kraus đã tận dụng quyền tiếp cận Cục công nghiệp thực vật (BPI) của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), tại Beltsville, Maryland, nơi ông từng tham gia sáng lập vào cuối những năm 1930. Năm 1940, Kraus giám sát vài dự án hợp tác nghiên cứu về điều chỉnh sự phát triển ở thực vật có liên quan tới bộ phận của ông và Bộ Nông nghiệp Mỹ; ông thậm chí còn đảm bảo việc làm cho một số nghiên cứu sinh của mình ở Chi cục công nghiệp thực vật. Kraus, giống như nhiều đồng nghiệp ở Mỹ và Anh, đã độc lập công nhận tiềm năng trở thành thuốc diệt cỏ của các chất tổng hợp kích thích tăng trưởng. Theo lời một trong những nghiên cứu sinh của ông, lần đầu Kraus bàn về khám phá này là vào tháng Tám năm 1941, mặc dù qua cuộc nghiên cứu, có thể thấy rằng ông đã có những khái niệm lờ mờ về vấn đề này từ năm 1940. Mùa thu năm 1941, Kraus và sinh viên John Mitchell tiến hành nghiên cứu về tiềm năng diệt cỏ của một số hợp chất tổng hợp kích thích tăng trưởng. Gần như ngay sau cuộc tấn công của Nhật Bản tại Trân Châu Cảng hôm mùng bảy tháng mười hai, Kraus đầu quân cho chính phủ. Một lần nữa, Kraus tự thấy rằng mình có điều kiện thuận lợi để dùng sinh lý học thực vật phục vụ con người; ông là thành viên sáng lập của một dự án bí mật mức độ cao về chiến tranh hóa chất và chiến tranh sinh học dưới sự bảo trợ của Viện Khoa học Quốc gia triệu tập bởi Bộ trưởng chiến tranh Henry L.Stimon và chủ trì bởi ông trùm ngành dược là Geogre W.Merck. Trong cuộc họp tối mật của Ủy ban Vũ khí sinh học và hóa học thuộc Ban cố vấn chiến tranh (WBC) vào ngày 17 tháng Hai năm 1942, Kraus đã trình ra một báo cáo có tựa đề “Chất điều khiển sự tăng trưởng thực vật: những ứng dụng khả thi”. Báo cáo được đề ngày 18 tháng Mười hai năm 1941; cuộc tấn công bất ngờ của Nhật Bản đã thúc đẩy Kraus vội vã hoàn thành nó. Điều mà ta chưa rõ là liệu trận tấn công Trân Châu Cảng là động lực mấu chốt khiến Kraus quyết định biến thuốc diệt cỏ thành vũ khí quân sự hay ông đã nghĩ tới điều này từ trước. Bất kể điều đó, việc Mỹ đột ngột tham gia vào thế chiến thứ II đã https://thuviensach.vn khiến Kraus được mục kích sự thiết lập chế độ phòng thủ quốc gia ở mức cao nhất. Các quan chức quân đội và chính trị gia nổi lên nhờ vực thẳm chiến tranh chào đón thế hệ vũ khí mới, hứa hẹn đem lại lợi thế trên chiến trường. Kraus đã vạch ra những lợi ích chiến thuật của thuốc diệt cỏ, thứ mà ông cho rằng hiệu quả hủy diệt tại các cánh rừng trên đảo quốc Nhật Bản tại Thái Bình Dương sẽ cao hơn là mặt trận Tây Âu. Ông kêu gọi chính phủ đầu tư nhiều hơn để đẩy mạnh lĩnh vực ứng dụng can thiệp tăng trưởng thực vật như một vấn đề an ninh quốc gia: Kế hoạch dự kiến: Cần tìm hiểu thêm để xác định những tác dụng khác của các hợp chất này ngoài những đặc tính đang được ứng dụng. Vẫn còn nhiều điều phải làm với những thứ đã được tìm hiểu một phần, như các mức hiệu ứng ứng với ở các nồng độ thuốc khác nhau phụ thuộc vào tính chất của đất hay môi trường khác mà thực vật sinh trưởng ở đó, thời kỳ phát triển của thực vật, ảnh hưởng của các tác nhân môi trường như độ ẩm, ánh sáng và nhiệt độ, và phương pháp tốt nhất để áp dụng trong từng trường hợp. Tầm quan trọng trong quốc phòng: Những hợp chất này đặc biệt quan trọng trong cuộc chiến hiện tại bởi chúng sẽ giúp chúng ta nhanh chóng đạt được những kết quả thực tế khi tấn công hay phòng thủ. Tầm quan trọng trong tấn công:Việc rải các hợp chất hủy diệt sự phát triển này ở trạng thái khô rắn lên các đồng lúa là một biện pháp khả thi và khá đơn giản để tàn phá thóc lúa, nguồn thực phẩm chủ yếu của người Nhật. Việc phun thuốc lên những khu rừng nơi kẻ địch đóng quân cũng giúp phát hiện ra những kho quân sự bí mật nhờ triệt hạ cây cối ở khu vực đó. Đây là một vài trong vô vàn những ứng dụng dễ nhận thấy của những hợp chất này. Có ba lý do khiến đề án này vô cùng quan trọng. Thứ nhất, Kraus có ý tưởng biến thuốc diệt cỏ thành vũ khí quân sự khi mà các nhà khoa học mới chỉ có những khám phá bước đầu về đặc tính của thuốc diệt cỏ và những tác dụng đối với thực vật. Thứ hai, xét chiến dịch Ranch Hand và sức hủy diệt đáng sợ của nó, việc Kraus khái niệm hóa giá trị quân sự của thuốc diệt cỏ đã vượt xa một cuộc nghiên cứu thông thường. Thứ ba, Kraus đã công nhận rằng việc đưa thuốc diệt cỏ vào danh sách vũ khí quân sự của Mỹ là vô cùng https://thuviensach.vn dễ dàng. Đây cũng đúng là mối lo ngại của các nhà khoa học đấu tranh yêu cầu cấm chiến tranh diệt cỏ vào cuối thập niên 60, - việc sử dụng Chất độc da cam dễ dàng có nghĩa là bất cứ quốc gia nào cũng dễ dàng dùng nó trong chiến tranh. Kraus là một trong hàng chục các nhà khoa học đưa ra ý kiến chuyên môn với tư cách đại diện trong lĩnh vực của mình; Ủy ban Cố vấn chiến tranh đã nhận được mười hai đề án với đủ các phương pháp hủy diệt mùa màng và rừng khác nhau. Những ý kiến về việc thả các vi khuẩn gây rụng lá khoai tây, thực phẩm chính của người Đức cũng giống như kế hoạch bỏ đói người dân trên những hòn đảo của Nhật trên Thái Bình Dương. Ủy ban Cố vấn chiến tranh có chấp thuận một vài báo cáo đệ trình, trong đó có bài của Kraus. Ngay sau đó, Kraus viết cho Percy Zimmerman ở Viện Boyce Thompson để lấy mẫu 2,4-D; Kraus đã biết đến nghiên cứu tiên phong của Zimmerman về hợp chất phenoxy axetic vào năm trước đó. Mặc dù trong không khí chống Nhật căng thẳng sau trận Trân Châu Cảng, Zimmerman sẽ khó mà thay đổi quyết định góp phần vào các phương pháp trả đũa của Mỹ đối với Nhật Bản tại Thái Bình Dương, nhưng Kraus vẫn không tiết lộ những kế hoạch về 2,4- D với Zimmerman. Arthur Galston, người làm việc cho một dự án cao su tổng hợp khẩn cấp của liên bang năm 1943, đã nhớ lại rằng rất ít nhà khoa học trong các kế hoạch chiến tranh sinh học và hóa học đặt vấn đề đạo đức - nếu họ có ít nhiều - về việc sử dụng kiến thức khoa học với mục đích tàn phá một quốc gia lên trên ý thức về nhiệm vụ giành chiến thắng cho đất nước của mình trong một “cuộc chiến tốt đẹp”. Chỉ có một vài nhà khoa học là ngoại lệ. Họ là những người đã cố gắng ngăn chặn cuộc tấn công nguyên tử vào Nhật Bản một cách tuyệt vọng. Đầu năm 1943, Kraus và John W. Mitchell tiến hành các dự án nghiên cứu quy mô lớn về tiềm năng phá hủy mùa màng của 2,4-D trong phòng thí nghiệm thực vật ở Đại học Chicago và trạm nghiên cứu Beltsville. Kraus đã rất ấn tượng với khả năng của 2,4-D trong việc tàn phá các loài cây lá rộng, đặc biệt là dưới dạng phun sương, nhưng ông cũng phát hiện ra rằng những chất độc vô cơ như thạch tín có hiệu quả cao nhất với gạo. Phát hiện này đã https://thuviensach.vn dẫn tới việc tạo ra Chất độc Màu Xanh, một loại thuốc tàn phá thóc lúa bằng thạch tín trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Bản miêu tả chính thức về nghiên cứu của Kraus đã thu hút sự chú ý của các quan chức quân sự, những người đã rất ấn tượng bởi các lợi thế chiến thuật tiềm năng mà thuốc diệt cỏ mang lại. Quân đội Mỹ đã coi nghiên cứu về thuốc diệt cỏ là nền tảng cho chương trình nghiên cứu hóa sinh học còn non trẻ tại trại Frederick, Maryland, sau khi Kraus mua lại 2,4,5-T từ Công ty hóa chất Sherwin-Williams mùa thu năm 1943 (2,4,5-T là chất mà sau này được kết hợp với 2,4-D tạo thành Chất độc da cam). Vào năm 1944, Kraus, Mitchell và Charles Hamner đã thiết lập các đặc tính diệt cỏ của hàng chục loại cây theo nhiều phương pháp ứng dụng khác nhau. Hamner là một sinh viên khác của Kraus, mới chuyển từ BTI sang đại học Cornell. Tính đến thời điểm đó, đây là nghiên cứu toàn diện nhất về việc điều hòa sự phát triển của thực vật - cho cả ứng dụng thời chiến và thời bình. Với sự cố vấn của Kraus, các nhà khoa học quân sự tại Fort Detrick, Maryland tiếp tục nghiên cứu về 2,4-D và 2,4,5-T trong chiến tranh mô phỏng, nói cách khác, bằng các đợt rải thuốc lên khu vực Florida Everglades. Họ chọn Everglades vì hệ sinh thái của nó có nhiều điểm tương đồng với khí hậu nhiệt đới Thái Bình Dương, nơi thuốc diệt cỏ sẽ được sử dụng nhất. Kraus trở thành trưởng ban kiểm duyệt các ấn phẩm khoa học của ban cố vấn chiến tranh bởi các ấn phẩm này có khả năng chứa nhiều thông tin nhạy cảm liên quan tới thuốc diệt cỏ. Ông cũng khá thành công trong việc này; các tài liệu trước năm 1945 về thuốc diệt cỏ ứng dụng hormone thực vật không có dấu vết nào cho thấy các nhà sinh vật học đã tham gia vào chiến tranh. Thuốc diệt cỏ là phần khả thi nhất trong chương trình hóa sinh học còn phôi thai ở Mỹ - nếu không kể đến khả năng thương mại của nó - và bí mật này càng minh chứng cho việc các quan chức quân sự Mỹ thực sự nghiêm túc trong việc tiến hành chiến tranh diệt cỏ. Mặc dù đã có những tiến bộ to lớn trong nghiên cứu thuốc diệt cỏ và người dân cũng như các quan chức quân sự liên quan tới chương trình đều đồng ý rằng thuốc diệt cỏ sẽ là một mảnh ghép hiệu quả giúp tăng cao sức mạnh quân sự ở mặt https://thuviensach.vn trận Thái Bình Dương, quân đội đã không sử dụng nó cho đến khi bắt đầu chiến dịch Ranch Hand năm 1961. Có hai lý do chính giải thích tại sao chương trình cấp tốc này chưa hoàn thành xong khi chiến tranh kết thúc vào tháng Tám năm 1945. Thứ nhất, rõ ràng là vụ nổ ở Hiroshima và Nagasaki đã kết thúc chiến tranh trước khi Geogre Merck và các đồng sự tại Fort Detrick đưa chiến dịch diệt cỏ vào tư thế sẵn sàng. Năm 1946, khi trả lời phóng viên, Merck đã nói, “Chỉ có kết thúc chiến tranh nhanh chóng mới ngăn cản được các cuộc thử nghiệm các chất tổng hợp, dù không gây hại cho sự sống của con người và động vật, nhưng sẽ ảnh hưởng tới mùa màng đang phát triển và biến chúng thành rơm rác vô ích”. Năm 1965, Charles Minarik, một nhà sinh vật học của Bộ Nông nghiệp Mỹ đã lặp lại những điều Merck nói: “Những chất hóa học này vẫn chưa được sử dụng ở nước ngoài, và chiến tranh kết thúc trước khi chúng ta có được những chất đó”. Ngay sau đó, Charles bắt đầu tập trung nghiên cứu về những ảnh hưởng sinh thái của chiến dịch Ranch Hand tại Việt Nam. Lý giải tiếp theo về việc thuốc diệt cỏ không xuất hiện trên chiến trường thế chiến thứ II ít liên quan trực tiếp tới nghiên cứu của Kraus và đồng sự tại Bộ Nông nghiệp Mỹ và Fort Detrick, nhưng lại là chìa khóa để ta hiểu được suy nghĩ của họ về vũ khí sinh hóa học trong suốt thời chiến. Mặc dù chương trình đó chưa bắt đầu vì thuốc diệt cỏ chưa hoàn chỉnh, nhưng nó không giải thích được quyết định của phe Đồng Minh khi họ ra sức ngăn chặn chiến tranh sinh hóa học trong suốt thời chiến. Vì những ký ức kinh hoàng về khí độc trong thế chiến thứ I vẫn còn đó, các phe vẫn cố gắng ngăn cản cuộc chiến kỳ lạ có thể nổ ra. Ngay cả Franklin Roosevelt, người nổi bật trong số các nhà lãnh đạo quốc gia bởi sự lên án mạnh mẽ đối với vũ khí hóa sinh học, cũng ngầm nói rằng Mỹ sẵn sàng đáp trả bất cứ cuộc tấn công nào như thế. Ngày 8 tháng 6 năm 1943, Roosevelt tuyên bố: “Việc sử dụng những vũ khí hóa sinh học bị cấm bởi toàn thể nhân loại. Đất nước ta sẽ không sử dụng chúng, và tôi hy vọng chúng ta sẽ không bao giờ bị buộc phải làm vậy. Tôi xin tuyên bố một cách dứt khoát rằng chúng ta sẽ không bao giờ sử dụng chúng trừ phi kẻ thù của chúng ta sử dụng trước”. https://thuviensach.vn Trong bối cảnh tranh cãi về chiến tranh diệt cỏ ở Việt Nam, tuyên bố của Roosevelt trở thành điểm mấu chốt của những giải thích trái chiều về tình trạng ký kết cũng như phạm vi cấm của Nghị định thư Geneva 1925, hiệp định đã cấm việc sử dụng chiến tranh hóa sinh học giữa các bên tham gia ký kết một cách hiệu quả. Mặc dù Mỹ không ký vào hiệp định này, nhưng tuyên bố của tổng thống lại làm dấy lên một cuộc tranh cãi liệu khẳng định của Roosevelt có đặt Mỹ vào khuôn khổ ràng buộc những điều luật đó như một điều khoản luật quốc tế thông thường hay không. Còn có những bàn luận xa hơn về việc liệu chiến dịch Ranch Hand có vi phạm luật quốc tế hay không, hay nói cách khác, liệu vũ khí diệt cỏ có nằm trong phạm vi những vũ khí cấm của Nghị định thư Geneva hay không? Không có dấu hiệu nào chỉ ra rằng các nhà hoạch định chiến tranh của Mỹ quan tâm tới những điều này trong suốt thế chiến thứ II. Ezra Kraus đã vận động và cuối cùng có được sự ủng hộ của quân đội Mỹ trong kế hoạch chiến tranh diệt cỏ bởi họ cho rằng việc có các vũ khí độc đáo là hoàn toàn cần thiết. Trong quá trình chuẩn bị cho tổng động viên thời chiến, quân đội không quan tâm tới việc Nghị định Geneva cấm những gì - mặc dù mục đích của nghị định là giới hạn các loại vũ khí được sử dụng trong chiến tranh. Cùng lúc đó, không có mối tương quan rõ ràng nào giữa ham muốn sở hữu thứ vũ khí mới đa dạng, độc đáo này của quân đội và sự miễn cưỡng của Roosevelt (sau này có cả tổng thống Harry Truman) khi chủ động sử dụng chúng trong chiến tranh. Trường hợp thuốc diệt cỏ thực sự phức tạp bởi Mỹ không hề khiến kẻ thù chạy đua phát triển chất diệt cỏ. Không giống như một cuộc tấn công bằng khí độc như một động thái trả đũa - điều mà có thể Roosevelt đã nghĩ tới trong tuyên bố tháng 6 năm 1943 của mình - thực chất việc sử dụng thuốc diệt cỏ là hoàn toàn chủ động. Một khi các kế hoạch diệt cỏ hoàn tất, đó thực sự là một hành động vi phạm Nghị định thư Geneva đồng thời thay đổi hoàn toàn tiếng tăm bao lâu của Roosevelt trong việc ủng hộ hiệp định. Những gì mà Merck và Minarik giải thích về việc chiến tranh diệt cỏ không được thực hiện ở mặt trận Thái Bình Dương do vấn đề thời gian đã che đậy một câu chuyện lớn hơn. Mặc dù câu hỏi đặt ra chỉ một giả định, nhưng chúng ta cũng không thể nói rằng nếu Kraus hoàn thành việc https://thuviensach.vn nghiên cứu sớm hơn thì những người cầm quyền sẽ chấp thuận thực hiện chiến dịch. Tuy vậy, nghiên cứu quân sự về việc vận dụng sự phát triển thực vật trong suốt thời kỳ thế chiến thứ II đã chứng tỏ được giá trị to lớn của nó. Nếu không có sự hậu thuẫn của chính phủ dành cho Kraus và đồng sự, những thành công ấy có lẽ phải mười năm sau mới xuất hiện. George Merck đã phát biểu trong một bản đánh giá có phần tư lợi, “Dường như không có kiểu “chiến tranh” nào có thể mang lại nhiều lợi ích như vậy: lợi thế kinh tế trong nông nghiệp, trong chăn nuôi gia súc, và trên hết là sự đóng góp to lớn đối với cuộc chiến chống lại bệnh tật và đau khổ của loài người”. Nếu đầu năm 1945, người dân Mỹ bắt đầu tin rằng cuộc chiến tranh với một nước ngoại quốc đang dần kết thúc, thì một cuộc chiến khác lại đang bắt đầu ở quê nhà - “cuộc chiến diệt cỏ”. Một câu chuyện trên tạp chí đã so sánh hai cuộc chiến đó mà không khỏi làm tăng tâm lý phân biệt trong thế giới thực vật: Tháng Hai năm 1945, cuốn sách Giúp nhà và vườn đẹp hơn đã ca ngợi khả năng tiêu diệt cây kim ngân Nhật Bản của chất 2, 4, 5 T, loài cây vô cùng khó chịu đối với người làm vườn ở Mỹ. Bài báo đã miêu tả cây kim ngân như một “Kẻ xâm lược đến từ Nhật Bản và cướp đi những miền đất rộng lớn ở Đông Mỹ”, và giờ người dân Mỹ đã có thể tiêu diệt chúng nhờ chất hóa học kỳ diệu. Nếu người dân biết về kế hoạch sử dụng “chất hóa học kỳ diệu” này trong cuộc chiến chống lại người Nhật thực sự, thì chương trình hẳn sẽ được ủng hộ nhiệt liệt. Viễn cảnh ấy không chỉ xuất hiện trong thời kỳ thế chiến thứ II; việc phục vụ cả nhu cầu quân sự ở nước ngoài lẫn nhu cầu trong nước của thuốc diệt cỏ đã được tiếp tục trong chiến tranh Việt Nam. Khi thế chiến thứ I kết thúc, Kraus cũng thành công trong việc kêu gọi các kiểm duyệt viên chính phủ dỡ bỏ lệnh cấm đối với các tài liệu về các nghiên cứu kiểm soát sự phát triển của cỏ trong chiến tranh. Những tài liệu ấy có rất nhiều thông tin quý giá về các chất hóa học đó, nên chính sách mới đã sớm tạo ra một thị trường chất kiểm soát sự phát triển của cỏ. Nhà thực vật học Alden Crafts đã nhớ lại: “Hầu như chỉ qua một đêm, câu chuyện về chất diệt cỏ kỳ diệu đã lan truyền khắp nơi, người người cung cấp, người https://thuviensach.vn người sử dụng trên diện tích lớn, và nó trở thành một lĩnh vực kinh doanh phát triển”. Crafts miêu tả thêm về sự bùng nổ sau chiến tranh của lĩnh vực nông lâm nghiệp, giải thích cái mà cái nhà khoa học gọi là “cơ chế hoạt động” của thuốc diệt cỏ chlorophenoxy và lý do tại sao nó lại thành công nhanh chóng như vậy: “Chất 2,4-D không chỉ tiêu diệt thực vật bằng sự tiếp xúc; nó truyền từ ngọn tới rễ các loài cỏ lưu niên; nó tiêu diệt được nhiều loại cỏ lá rộng trên các đồng lúa mạch và đồng cỏ; những cây con hấp thụ 2,4-D từ đất cũng sẽ chết và do đó chất này có thể sử dụng để phòng ngừa; nó không độc hại với con người và động vật; và chi phí dưới 1 Đô la cho mỗi mẫu Anh là quá rẻ cho việc diệt cỏ. Tại một hội nghị sinh lý học thực vật vào tháng Mười một năm 1945, Kraus đã có một bài phát biểu vô cùng hào hứng. Không đề cập tới công trình nghiên cứu thời kỳ chiến tranh của mình, có thể vì nhiều đồng sự của ông cảm thấy đau buồn vì đã tham gia nghiên cứu này, Kraus đã nói về cuộc cách mạng khi mà con người kiểm soát được đời sống mọi loài thực vật. So sánh kiến thức về thuốc diệt cỏ tác động vào hormone của các đồng sự như đứa trẻ chọc gậy vào tổ kiến, Kraus tuyên bố rằng những điều không tưởng trong nông nghiệp giờ đã được thực hiện: “Chúng ta sẽ khiến cho cây mọc cao hơn, nếu muốn, và thấp hơn, nếu muốn. Chúng ta sẽ khiến chúng mọc dày hơn, nếu muốn, và thưa hơn, nếu muốn. Khi tôi bắt đầu tiên đoán trước điều này thì giới hạn duy nhất là bầu trời… Nếu chúng ta có thể làm tăng sản lượng táo thành hai hay ba tấn trên mỗi mẫu Anh, mà không làm giảm chất lượng; nếu chúng ta có thể làm cho quả việt quất to hơn và không hạt; và nếu có thể có những quả cả chua lớn hơn; hay nếu chúng ta có một quá trình làm chín trái cây hoặc trì hoãn sự nảy mầm của khoai tây và cây ăn quả vào mùa xuân; và, nếu chúng ta có thể kiểm soát được cỏ, chúng ta sẽ có câu trả lời cho riêng mình”. Bài phát biểu đã nhắc tới nhiều khái niệm mà hầu hết các nhà khoa học đã phản đối thời kỳ trước thế chiến thứ II, khi họ mới chỉ tiếp cận các chất tổng hợp kích thích thực vật phát triển. Kraus giải thích: “Tất cả những gì mà ta phải làm là quay ống nhòm sang hướng khác”, nghĩa là hormone phát triển đã trở nên giá trị nhiều so với thuốc diệt cỏ đặc hiệu. Sau khi các hóa chất, https://thuviensach.vn nồng độ và cách điều chế được kết hợp một cách chuẩn xác, việc sản lượng nông nghiệp tăng một cách ổn định là một điều hiển nhiên. Tuy vậy Kraus vẫn coi sự phát triển này chỉ là bước đầu của một quá trình lớn hơn mà đích đến là khi con người có thể làm chủ được sự sống thực vật ở cấp độ tế bào. Đây là điểm duy nhất mà Kraus tỏ ra nhún nhường trong suốt bài phát biểu. Khi chiến tranh đã qua đi, mục tiêu của ông là thuyết phục những đồng nghiệp của mình tham gia vào nhiệm vụ này. Vài năm sau đó, diễn biến thị trường thuốc diệt cỏ đã chứng minh rằng điều người tiêu dùng quan tâm nhất là đặc tính diệt cỏ có chọn lọc của nó. Mặc dù có nhiều người quan tâm tới những ứng dụng mới mẻ của hormone thực vật tổng hợp, nhưng nghiên cứu của Kraus chỉ hướng tới việc diệt cỏ mà thôi. Trong khi đó, mong muốn rằng con người một ngày nào đó có thể kiểm soát chính xác các quá trình thực vật ở cấp tế bào bằng các phương pháp hóa học của ông vẫn còn trong tưởng tượng. Khoảng cuối năm 1961, các nhà sinh lý học thực vật vẫn có tham vọng kiểm soát thực vật ở cấp độ tế bào. Với khát khao chinh phục sức mạnh thiên nhiên, một nhà sinh vật học đã dự đoán “Ai có thể kiểm soát các hoạt động của tế bào sống mà không phá hủy nó có thể quyết định được số phận của loài thực vật đó”. Sự kết hợp giữa bí mật chính phủ, tuyên bố sở hữu trí tuệ, và trên hết là, những lợi ích kinh tế mà thuốc diệt cỏ mang lại cho các ngành chăm sóc cỏ, nông và lâm nghiệp đã tạo ra một thị trường thuốc diệt cỏ cạnh tranh khốc liệt. Công ty sơn hóa học Mỹ tại Ambler, Pennsylvania là đơn vị đầu tiên đưa ra thuốc diệt cỏ thành phần 2,4-D có nhãn hiệu Weedone nhờ nhân viên Franklin Jones. Jones đã đệ trình đơn cấp bằng sáng chế 2,4-D đầu tiên vào tháng ba năm 1944 và nhận được bằng vào tháng mười hai năm 1945. Ngay lập tức, công ty này vấp phải những tranh chấp pháp lý từ phía các đối thủ. Ví dụ, công ty hóa chất Dow và Sherwin-Williams đều tuyên bố đã hợp tác trong chiến tranh với Charles Hamner tại trường đại học Cornell, trong khi các luật sư ủy thác của Du Pont lại ra sức bảo vệ cho đơn xin cấp bằng sáng chế của John Lontz - ông đã nộp đơn trước Jones hai năm nhưng lại không chỉ ra đặc tính diệt cỏ đặc biệt của 2,4-D. Đổi lại, công ty sơn hóa học Mỹ đưa ra một giấy cấp phép chi tiết, từ đó, đã tạo ra một thị trưởng mở cho các https://thuviensach.vn tập đoàn nông nghiệp lớn, tung ra nhiều sản phẩm diệt cỏ vào mùa đông năm 1946-1947. Mức sản xuất tăng theo cấp số nhân. Theo như cơ quan thuế vụ Mỹ, năm 1945 các tập đoàn hóa chất đã sản xuất 917 000 pound chất 2,4-D (pound: đơn vị đo khối lượng, 1 pound = 0,454 kg); vào năm 1950 con số này lên tới 14 triệu. Đến năm 1964 - năm đầu tiên mà Bộ quốc phòng bắt đầu dồn lực cho kế hoạch leo thang nhanh chóng trong cuộc chiến diệt cỏ tại Việt Nam - mức sản xuất là 58 triệu pound, hầu hết được rải trên hàng triệu mẫu cỏ mới xuất hiện ở khu vực ngoại ô trên khắp đất nước. (1 mẫu = 0,4 héc ta). Năm 1949, Phòng Thương mại Mỹ ước tính rằng “cỏ gây thiệt hại khoảng 3 triệu Đô la mỗi năm” - một con số chắc chắn làm hài lòng các công ty hóa chất và cổ đông của họ. Con số này tăng theo thời gian; năm 1961, ngành công nghiệp diệt cỏ đã ước tính cỏ gây ra thiệt hại lên đến 5 triệu Đô la. Nếu đặc biệt xem xét tỉ lệ lạm phát thấp trong suốt thời kỳ đó, ta còn thấy sự tỉ lệ nghịch giữa mức độ sử dụng thuốc và con số thiệt hại này do cỏ dại gây ra. Thậm chí nếu những người trong ngành khoe khoang rằng họ đã khiến cho thiệt hại cỏ dại không tăng nữa, thì chỉ riêng điều đó đã làm ta nghi ngờ toàn bộ ngành kinh doanh này. Trong suốt giai đoạn những năm 1950, các ông chủ trong ngành công nghiệp hóa chất đầu tư những món tiền khổng lồ thu được từ thị trường thuốc diệt cỏ cho nghiên cứu và phát triển. Họ thu hút những nhà khoa học từng làm cho Bộ Nông nghiệp Mỹ và các cơ quan chính phủ khác trong thời kì thế chiến thứ II chuyển sang làm cho những tổ chức tư nhân, rồi lần lượt tạo ra hàng trăm sản phẩm thuốc diệt cỏ dưới những nhãn hiệu khác nhau. Nội san “Xuống Trái Đất” (Down to Earth) của hãng hóa chất Dow đã cho ta một cái nhìn rõ nhất về ảnh hưởng đáng kinh ngạc của ngành hóa chất. Ra đời từ năm 1945, “Xuống Trái Đất” gồm các bài viết về những hợp chất, ứng dụng và ảnh hưởng trên các khu thử nghiệm từ Hawaii tới Maine. Giống như những gì Ezra Kraus đã nói trước các đồng sự vào tháng Mười Một năm 1945, đề tài mà nội san này hướng tới là kiểm soát thế giới tự nhiên ngỗ ngược bằng hóa chất. Như chúng ta sẽ thấy ở những chương sau, thuốc diệt cỏ ở Mỹ có chất lượng không ổn định dù trong thời chiến hay thời https://thuviensach.vn bình. Sản sinh trong thế chiến thứ II như một phần của sự kết hợp vĩ đại giữa khoa học và quốc phòng, ngành công nghiệp diệt cỏ đã tới thời kỳ phát triển nhất nhờ các doanh nghiệp tư nhân vào thời hậu chiến. Trong lịch sử ngắn ngủi chúng, hai chất 2, 4-D và 2, 4, 5-T lần đầu tiên có mặt tại thị trường Mỹ năm 1945 với ứng dụng hòa bình, đã “suôn sẻ” chuyển sang ứng dụng quân sự tại miền Nam Việt Nam vào đầu những năm 60. https://thuviensach.vn 4 NHỮNG CỖ MÁY TỐI TÂN VÀ NGƯỜI LÍNH DU KÍCH ◄○► Quyết định tiến hành chiến dịch diệt cỏ ở Việt Nam tháng 11 năm 1961 là một phần quan trọng trong chiến lược lớn của tổng thống John F.Kennedy nhằm ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản và giảm sự tầm ảnh hưởng toàn cầu của Liên Xô. Ba năm trước khi Lyndon B. Johnson “chọn phương án chiến tranh” đối với miền Bắc Việt Nam, tiến hành đánh bom liên tục và đưa đến Việt Nam lực lượng đánh bộ đông đảo của Mỹ, Kennedy đã đưa ra một loạt các kế hoạch đàn áp để tiêu diệt quân của Mặt trận dân tộc giải phóng, hay còn gọi là Việt Cộng. Đây là một tổ chức cách mạng cộng sản, liên kết với chính phủ tại Hà Nội, có lực lượng du kích kiểm soát hầu hết các khu vực nông thôn miền Nam Việt Nam. Đến mùa thu năm 1961, Mặt trận dân tộc giải phóng dường như đã sẵn sàng để lật đổ chính quyền thân Mỹ ở Sài Gòn, đứng đầu là tổng thống Ngô Đình Diệm. Sau những thất bại quân sự và ngoại giao ở những nơi khác, đặc biệt là Cuba và Berlin, Kennedy và các cố vấn đối ngoại của mình đề xuất tiến hành các hoạt động quân sự với công nghệ tiên tiến để giải quyết xung đột tại Việt Nam. Kennedy coi đây là biểu tượng Mỹ thể hiện sự quyết tâm đối đầu với sự bành trướng của cộng sản. Thuốc diệt cỏ phát minh bởi Ezra Kraus trong suốt thế chiến thứ II trở thành vũ khí quan trọng bậc nhất trong chiến lược đàn áp, với mục đích phát hiện và triệt nguồn lương thực của quân du kích ở nông thôn miền Nam Việt Nam. Ngay từ đầu nhiệm kỳ của mình, Kennedy đã tìm cách thay đổi các phương pháp đàn áp, nếu không nói là cả mục tiêu mà người tiền nhiệm https://thuviensach.vn Dwight D.Eisenhower theo đuổi. Kennedy nhấn mạnh sự cần thiết của các phương pháp mới, với mục đích dò xét khả năng Mátxcơva sẽ thúc đẩy và hỗ trợ các phong trào cộng sản cách mạng ngoài châu Âu. Được tung ra theo lệnh của tổng thống vào ngày 25 tháng 5 năm 1961, chiến lược lớn mang tên “Đáp trả linh hoạt” kêu gọi tăng cường và đa dạng hóa khả năng tấn công của quân đội Mỹ, nhằm đánh bại các mầm mống cộng sản trên toàn cầu: “Tôi yêu cầu Bộ trưởng Bộ quốc phòng thực hiện tái cơ cấu và hiện đại hóa tổ chức quân đội, tăng sức mạnh hỏa lực phi hạt nhân, cải thiện tính cơ động chiến thuật trong mọi hoàn cảnh, đảm bảo sự linh hoạt khi ứng phó với các mối nguy trực tiếp hay gián tiếp, và tạo điều kiện tăng cường hợp tác với các đồng minh chính, cũng như bổ sung các sư đoàn có trang bị máy móc hiện đại tới châu Âu, và cung cấp thêm không quân tại chiến trường Thái Bình Dương và châu Âu”. Kennedy và các cố vấn chính sách đối ngoại của mình đã xây dựng chiến lược “Đáp trả linh loạt” với đối lại với chính sách “Tầm nhìn mới” của người tiền nhiệm Eisenhower. Theo như nhà sử học John Lewis Gaddis quan sát, “Tầm nhìn mới” tìm cách “ngăn chặn cộng sản hiệu quả nhất bằng chi phí thấp nhất có thể”, do đó chủ yếu dựa vào chiến lược răn đe bằng sức mạnh hạt nhân, thay vì dùng lực lượng quân đội hùng hậu. Theo nghiên cứu gần đây của Richard H. Immerman và Robert R. Bowie thì Tầm Nhìn Mới của Eisenhower có nhiều mục đích hơn là chỉ răn đe hạt nhân - đây thực chất là một “chiến lược nền tảng của quốc gia” mà ngài tổng thống cùng các cố vấn tìm cách đánh giá và hành động trước theo những mối đe dọa thực tế lẫn tiềm tàng từ Liên Xô. Tuy vậy để tạo khác biệt với chính sách của Eisenhower, Kennedy tập trung chủ yếu vào cải cách những chính sách hạt nhân của người tiền nhiệm. Ý tưởng đằng sau chiến lược Đáp Trả Linh Hoạt là: thời đại mới cần có những chiến lược đề phòng mới. Ví dụ, trong diễn văn nhậm chức của mình, Kennedy đã tuyên bố, “ngọn đuốc đã được truyền tới tay một thế hệ người Mỹ mới”, nhấn mạnh rằng đã tới lúc Mỹ cần có sự thay đổi trong chiến lược chiến tranh lạnh. Cho dù tuyên bố về “cách biệt về sức mạnh tên lửa” (“Missile gap”, là thuật ngữ được Mỹ sử dụng, nói về sự chênh lệch giữa số lượng và sức https://thuviensach.vn mạnh của vũ khí tại Liên Xô và các kho vũ khí tên lửa đạn đạo của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh - chú thích của dịch giả) đã giúp Kennedy có một “tấm vé” an toàn vào Nhà Trắng năm 1960; vị tổng thống mới chỉ trích chính sách an ninh quốc gia của Eisehnhower chủ yếu vì bởi nó không thể làm giảm các mối đe dọa trong một thế giới đang thay đổi từng ngày. Trong suốt chiến dịch tranh cử tổng thống của mình, Kennedy ít xoáy vào những gì chiếc lược Tầm Nhìn Mới đã làm được trong quá khứ, bởi nó quá rõ ràng. Chính sách đối ngoại của Eisenhower tỏ ra đặc biệt hiệu quả trong việc đạt cùng những mục tiêu mà Kennedy đặt ra cho vấn đề an ninh Mỹ trong tương lai. Vào cuối nhiệm kỳ của mình, Eisenhower và Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles (mất năm 1959) hoàn toàn có thể kiêu hãnh vì kết thúc được chiến tranh Hàn Quốc, đảm bảo sự ổn định lâu dài ở Tây Âu, làm chậm sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản ở các nước thứ ba, và quan trọng nhất là, tránh chiến tranh hạt nhân bất chấp mối đe dọa từ sự “báo thù lớn”. Hoặc cũng có thể chính sự đe dọa ấy là nguyên nhân khiến Eisenhower muốn tránh chiến tranh hạt nhân. Hơn nữa, Kennedy đã đánh giá thấp một thực tế khó khăn mà Eisenhower vấp phải, đó là Eisenhower đã tự buộc mình và quá phụ thuộc vào hàng loạt sách lược chống cộng sản quá xa rời “kế hoạch bên miệng hố chiến tranh hạt nhân”. Nhà lý luận quân sự, người đã đặt ra thuật ngữ “Đáp Trả Linh Hoạt”, và là người tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược này tại Việt Nam là Maxwell D. Taylor, Tham mưu trưởng của quân đội Mỹ từ năm 1955 tới 1959. Taylor cho rằng sự ổn định tạm thời của hệ thống quốc tế những năm 1950 không phải là kết cục tốt đẹp mà những chính sách của Eisenhower mang lại; ông cho rằng nước Mỹ vào khoảng năm 1960 là một dân tộc bên bờ vực thảm họa bởi những chính sách kia đã bỏ qua hay thậm chí làm cho những mối đe dọa an ninh xuất hiện sớm hơn. Khác với Kennedy, Taylor không cần phải cân nhắc khi đưa ra các phát ngôn chính trị về những vấn đề đó. Chính vì vậy, ngay sau khi nghỉ hưu, Taylor bắt đầu công kích chiến lược Tầm Nhìn Mới. Nhờ những ý kiến giá trị đó mà chẳng bao lâu Taylor đã trở lại vai trò quan trọng là cố vấn quân sự đặc biệt của Kennedy trong Nhà Trắng. https://thuviensach.vn Taylor đã xuất bản cuốn sách với tựa đề Tiếng trompet - ngập ngừng năm 1959 để vạch trần “những sai lầm to lớn” trong chiến lược chiến tranh lạnh của Eisenhower. Ông cho rằng chiến lược đó đã dựa trên nền tảng cơ bản sai lầm khi cho rằng“từ nay trở đi việc sử dụng hay chỉ đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân có mức tàn phá lớn cũng đủ để đảm bảo an ninh của Mỹ và đồng minh”. Đối với Taylor, vấn đề tựu trung lại là lòng tin: giả sử chính quyền Eisenhower trông cậy nhiều đến vậy vào vũ khí hạt nhân để đảm bảo an ninh quốc phòng cho Mỹ và đồng minh, thế thì khi nào các nhà lãnh đạo phải sử dụng đến chiến tranh hạt nhân? Tình trạng được ăn cả ngã về không mà chính sách ngoại giao hạt nhân đưa lại, theo quan điểm của Taylor: “Chỉ có hai lựa chọn, hoặc bắt đầu chiến tranh hạt nhân hoặc thỏa hiệp và rút lui”. Có hai diễn tiến khiến Taylor tin rằng các nhà cầm quyền ở Mỹ rồi sẽ chọn phương án thứ hai. Thứ nhất, đe dọa hạt nhân không thể ngăn được chiến tranh du kích hay nổi loạn ở nhiều nơi khác nhau như Mỹ Latinh hay Đông Á. Taylor cho rằng những xung đột địa phương, thậm chí cả những xung đột đe dọa làm nghiêng cán cân quyền lực về phía Khối Cộng Sản, cũng không phải là quá lớn đến nỗi Mỹ phải mạo hiểm sử dụng chính sách đối đầu hạt nhân. Thứ hai, theo quan điểm của Taylor, Liên Xô không chỉ nhận ra được sự bất lực trong chính sách đe dọa hạt nhân của Mỹ mà còn bắt kịp, thậm chí vượt qua Mỹ về trình độ công nghệ hạt nhân và những vũ khí quân sự thông thường khác. Taylor đã mô tả rất rõ về hậu quả mà những điều này có thể mang lại: “Nhiều năm nay người ta đã tiên đoán rằng trong giai đoạn nào đó khi hai bên áp dụng chính sách răn đe lẫn nhau, Xô Viết sẽ bắt đầu gia tăng mức độ khiêu khích. Năm 1959, chúng ta đã ở trong tình trạng đó và thực tế đã chứng minh phỏng đoán trên là đúng. Các phong trào cộng sản ở Đài Loan, Trung Đông, Berlin và Lào là những ví dụ về việc các nước này gia tăng sử dụng sức mạnh quân sự để đáp trả trong thời kỳ chiến tranh lạnh hay chiến tranh giới hạn. Khi Xô Viết chắc chắn hơn về ưu thế vũ khí chiến tranh thông thường của mình, đặc biệt là tên lửa liên lục địa, và một khi cảm thấy sự rụt rè từ phía Mỹ, thì có thể đối phương sẽ lợi dụng điểm yếu đó và ngày càng gia tăng sức ép để buộc ta quy phục. Đối phương và cả đồng minh của https://thuviensach.vn ta không tin rằng chúng ta sẽ sử dụng các hoạt động trả đũa ồ ạt nếu không phải vì sự sống còn của đất nước. Thế thì ta phải làm gì khi vấp phải những sự khiêu khích của quân Cộng Sản trong tương lai?”. Theo các nhà lý luận khác nhận xét, chiến lược Đáp Trả Linh Hoạt cũng rất phù hợp áp dụng cho hoạt động quân sự ở phạm vi rộng hơn, mở rộng sự răn đe hạt nhân của Mỹ với một thế hệ vũ khí hóa sinh học mới. Thiếu Tướng Marshall Stubbs, một quan chức của Quân đoàn hóa chất thuộc quân đội Mỹ đã phát biểu: “Vì ngại xảy ra chiến tranh hạt nhân nên Xô Viết sẽ không sử dụng vũ khí nguyên tử nếu những phương tiện khác cũng giúp họ đạt được mục đích. Nếu điều này là đúng, chúng ta giờ đang chính trong giai đoạn phát triển những vũ khí khác, những vũ khí không có sức mạnh hủy diệt toàn bộ. Vì chúng ta cũng phải chịu áp lực như họ, thậm chí là nhiều hơn, vì ta quan tâm hơn đến việc bảo vệ người dân lẫn các nước đồng minh. Nếu Cộng sản đạt được ưu thế với những thứ vũ khí sinh hóa học mới này mà chúng ta không thể đuổi kịp hoặc tự vệ được, thì sức mạnh hạt nhân của ta sẽ chỉ là lý thuyết suông mà thôi”. Cách chính quyền Kennedy diễn dịch những phát biểu và hành động của Xô Viết đã chứng minh cả hai điều trong phân tích của Maxwell Taylor đều đúng. Vào mùng 6 tháng Một năm 1961, hai tuần trước lễ nhậm chức của Kennedy, thủ tướng Xô Viết Nikita Khrushchev tuyên bố: “Chiến tranh giải phóng sẽ còn tồn tại đến khi nào chủ nghĩa đế quốc còn, chủ nghĩa thực dân còn. Đây là những cuộc chiến tranh cách mạng. Những cuộc chiến này không chỉ chính đáng mà còn tất yếu, vì thực dân không tự nguyện dâng cho ta độc lập”. Tuyên bố hậu thuẫn có vẻ chắc chắn của Khrushchev đối với các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, cũng như việc Mátxcơva ngày càng lớn giọng trước cuộc khủng hoảng ngày càng lớn hơn tại Berlin trở thành mối quan tâm chủ yếu trong chính sách ngoại giao của Kennedy. Một bản ghi nhớ về vấn đề an ninh quốc gia cho thấy chính quyền mới đánh giá thông báo của Khrushchev rất nghiêm trọng: “Khối Cộng sản đã tuyên bố về dự định thay đổi Thế Giới Tự Do (Trong thời kỳ chiến tranh https://thuviensach.vn lạnh, Thế Giới Tự Do chỉ các quốc gia không nằm trong tầm ảnh hưởng hoặc là đồng minh của Xô Viết hay Trung Quốc - chú thích của biên tập) bằng một loạt các động thái lật đổ hay chiến tranh “giải phóng”. Nếu thành công, họ sẽ làm giảm sức mạnh lẫn ý chí phản kháng của Thế Giới Tự Do. Mỹ và đồng minh vì vậy cần ngăn cản, hoặc nếu cần thiết, sẵn sàng ứng chiến trước bất kỳ sự gây hấn nào dù xảy ra ở bất kỳ đâu, dưới bất kỳ hình thức nào. Mấu chốt của chiến lược Đáp Trả Linh Hoạt là sự đa dạng hóa. Nếu như Tầm Nhìn Mới phụ thuộc quá nhiều vào hình thức chiến tranh tối hậu, và nếu như kẻ thù của Mỹ yên tâm rằng một loạt các “hành động khiêu khích” cũng không thể dẫn tới đối đầu hạt nhân, thì nhiệm vụ căn bản trong những năm 1960 là phát triển các hình thức mới thích ứng với mọi tình huống chiến tranh có thể xảy ra. Bằng cách tập trung vào các chiến lược cường độ thấp để đối phó với quân du kích, kế hoạch Đáp Trả Linh Hoạt giúp Mỹ khéo léo tránh được cái bẫy hạt nhân, mà theo lý thuyết, là đã làm giảm đi sức mạnh mà vũ khí hạt nhân hứa hẹn. Theo như nhà sử học William Duiker quan sát, chiến lược mới đã tìm cách “giúp Mỹ tăng cường các thế lực đồng minh để chống thù trong giặc ngoài mà không lo ngại về một sự leo thang dẫn tới đối đầu hạt nhân giữa các cường quốc”. Nguồn lực Nhà Trắng đổ ra để để củng cố quốc phòng khá lớn: mùa hè năm 1961, ngân sách đệ trình quốc hội của chính quyền Kennedy yêu cầu tăng chi phí quân sự phi hạt nhân lên năm tỉ Đô la và thêm 250 000 lính tại ngũ với lý do đụng độ Mỹ-Xô có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Bầu không khí khủng hoảng, hay cái mà nhà sử học George Herring gọi là “tâm lý bị vây hãm”, trùm lên các nhà cầm quyền ở đầu nhiệm kỳ của Kennedy đã đặt ra hai câu hỏi do những ai vẫn băn khoăn về việc làm thế nào mà kế hoạch quân sự hóa khoa trương của vị tổng thống mới sẽ thành sự thật: Quân đội Mỹ sẽ thêm những cải tiến nào về kế hoạch dự phòng khẩn cấp của mình? Quân đội Mỹ sẽ thử nghiệm các phần của kế hoạch Đáp Trả Linh Hoạt với kẻ thù nào và Mátxcơva sẽ đáp trả ra sao? Tình hình ngày càng tồi tệ ở miền Nam Việt Nam đã nhanh chóng đưa ra đáp án cho cả hai câu hỏi. https://thuviensach.vn Việc Kennedy có thẩm quyền cá nhân ra lệnh tiến hành chiến tranh diệt cỏ chống lại quân của Mặt trận dân tộc giải phóng là một biểu hiện ưu việt của chiến lược Đáp Trả Linh Hoạt, vì những nhà chiến lược khi soạn thảo dự kiến chiến lược này dùng để ngăn chặn ảnh hưởng của Xô Viết trên phạm vi toàn cầu. Chiếc lược phải được thử nghiệm vì ba lý do. Thứ nhất, nếu không có các cuộc diễn tập thử nghiệm, chiến lược Đáp Trả Linh Hoạt sẽ chỉ là lý thuyết. Vào giữa năm 1961, miền Nam Việt Nam là nơi duy nhất thích hợp cho việc kiểm chứng tính hiệu quả của chiến lược mới. Thứ hai, các quan chức cầm quyền nhận thấy nguy cơ miền Nam Việt Nam sẽ rơi vào quỹ đạo Cộng sản, và chỉ điều đó thôi là đủ để Mỹ có lý do áp dụng Đáp Trả Linh Hoạt trên diện rộng trong thời gian dài. Thứ ba, hoàn cảnh chính trị và địa lý của miền Nam Việt Nam khiến nơi đây trở thành một “phòng thí nghiệm” lý tưởng để thử nghiệm các học thuyết đàn áp nổi dậy xây dựng bởi ngài tổng thống và em trai mình, Tổng tư pháp Robert F.Kennedy. Theo như nhà sử học Lawrence Freedman quan sát, “Kennedy muốn”đáp trả linh hoạt” không phải ở mức độ chiến tranh hạt nhân hay chiến tranh thông thường, mà ở mức đàn áp các phong trào nổi dậy”. Năm 1963, các nhà lý luận và cố vấn quân sự gần gũi với Kennedy đã lập ra một thư viện đúng nghĩa gồm các sách báo thuộc thể loại “đàn áp nổi dậy”, một thể loại xuất hiện chủ yếu nhằm đối kháng với các tác phẩm của các nhà cách mạng cộng sản như Mao Trạch Đông hay Che Guevara. Những cố vấn chính sách đối ngoại hàng đầu của Kennedy đã nghiên cứu kỹ những bài viết này bởi họ tin rằng để có được các phương pháp đàn áp hiệu quả, cần có được sự hiểu biết sâu sắc về tư tưởng cách mạng cộng sản. Mặc dù cơ sở của toàn bộ chiến lược Đáp Trả Linh Hoạt đặt trên giả thuyết chiến lược rằng Mỹ phải đối đầu với các phong trào cách mạng cộng sản ở bất cứ nơi nào phong trào bùng nổ, nhưng tình hình quốc tế xem ra không thuận lợi như viễn cảnh Kennedy vẽ ra lúc đầu. Ở Cu Ba, khi giới cầm quyền lần đầu định thực hiện những kế hoạch công phu và bí mật hòng lật đổ chế độ Fidel Castro, thì chiến lược Đáp Trả Linh Hoạt thực sự là một thảm họa: cuộc tấn công chiếm đóng Vịnh Con Lợn vào tháng 4 năm 1961 thất bại đã xóa bỏ hoàn toàn cơ hội cho nhóm người Cu Ba chống đối thân https://thuviensach.vn Mỹ nắm được quyền kiểm soát Havana; nỗ lực mưu sát Castro của Cơ quan Tình Báo Mỹ (CIA) cũng không hiệu quả; quyết định can thiệp vào Cu Ba của Mỹ cùng với quyết định đặt đầu đạn hạt nhân tại đất nước này của Khrushchev đã dẫn tới Khủng hoảng tên lửa Cuba vào tháng Mười năm 1962. Trớ trêu thay, cuộc khủng hoảng này chính là con bài cuối cùng mà Kennedy không muốn ngửa ra khi chọn con đường tập trung đầu tư vào vũ khí và các chiến lược phi hạt nhân. Trong khi đó, cuộc đối đầu tại Berlin - nơi mà đặc điểm đàn áp cách mạng của chiến lược Đáp Trả Linh Hoạt về cơ bản là không áp dụng được - có chiều hướng xấu đi khi Khrushchev ra lệnh xây dựng bức tường Berlin ngay sau cuộc đối đầu với Kennedy tại cuộc họp thượng đỉnh tại Vienna vào tháng 6 năm 1961. Sau hội nghị thượng đỉnh và trước Bức Tường Berlin, một thành viên của Hội đồng an ninh quốc gia (NSC) đã khéo léo tóm tắt lập luận tất yếu của một chính phủ đang gặp khó tứ bề: “Sau Lào, và sắp tới là Berlin, chúng ta không thể nào không dốc toàn lực để quét sạch miền Nam Việt Nam”. Lý do thứ hai gắn với tình hình chính trị đặc thù ở Việt Nam và sự liên quan của nó tới cao trào quá trình bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Bài diễn văn của Khrushchev vào đầu tháng 1 năm 1961 đã được chính phủ mới coi là một lời thề dốc toàn lực hỗ trợ Quân Giải Phóng. Ngoại trưởng Mỹ William Bundy mô tả quan điểm chung của những “người chủ mới” ở Nhà Trắng: “Những điều đang diễn ra ở Việt Nam dường như là điển hình rõ ràng nhất đại diện cho điều mà hồi tháng Một Khrushchev đã gọi là “chiến tranh giải phóng dân tộc”. Vị tổng thống mới vốn đã dựng cho mình tiếng tăm là một trong những hậu thuẫn vững chắc nhất ở Washington đối với sự độc lập của miền Nam Việt Nam; nên dù cho ý định thực sự của Khrushchev là gì thì bài phát biểu của ông và sự liên quan rõ ràng với tình hình Việt Nam cũng khiến Việt Nam trở thành nơi Mỹ “vạch đường chiến tuyến” với Mátxcơva. Khi còn là thượng nghị sĩ bang Massachusetts, những tuyên bố mạnh miệng nhất của Kennedy đối với chính sách đối ngoại là về tầm quan trọng tột bậc của việc đảm bảo sự ổn định lâu dài ở miền Nam Việt Nam: Năm https://thuviensach.vn 1954, Kennedy ủng hộ Ngô Đình Diệm lên chức tổng thống miền Nam Việt Nam; hai năm sau, Kennedy ra mặt chỉ trích Nghị định thư Geneva 1954 đã chia cắt Việt Nam từ vĩ tuyến 17, chính thức kết thúc những nỗ lực thất bại của Pháp nhằm tái lập chế độ thực dân tại Việt Nam. Hiệp định tạo cơ sở để tiến tới thống nhất hai miền Nam Bắc dưới một chính phủ được bầu chọn một cách dân chủ (có khả năng là chính phủ Cộng Sản). Nhận thấy rằng miền Nam Việt Nam chẳng khác gì một sản phẩm chính trị do Mỹ tạo ra - và luôn có nguy cơ rơi vào phạm vi kiểm soát của Cộng Sản - tháng 6 năm 1956, Kennedy đã phát biểu hùng hồn thể hiện sự quyết tâm bảo vệ chính phủ tại Sài Gòn nếu được bầu: “Nếu chúng ta không phải cha mẹ của nước Việt Nam nhỏ bé này thì ít ra cũng là người đỡ đầu… Đây là con của chúng ta”. Vào mùa hè năm 1961, Kennedy quyết định phải tăng cường đáng kể những hoạt động quân sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Áp lực từ Bộ tổng tham mưu liên quân Mỹ (JCS) và những báo cáo với mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng từ Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn đã khiến ngài tổng thống thấy cần có những hành động trực tiếp. Tuy trong vài tháng đầu nhậm chức, tình hình ở Việt Nam vẫn kém ưu tiên hơn nhiều so với vấn đề ở Lào, nhưng, Kennedy lo sợ hiệu ứng “Đô mi nô” sẽ xảy ra khắp Đông Nam Á nếu quân của Mặt trận dân tộc giải phóng đạt được mục tiêu họ đặt ra là “lật đổ chế độ thực dân ngụy trang của Đế quốc Mỹ và sự cai trị độc tài của Ngô Đình Diệm”. Một cuộc họp của Ủy ban an ninh quốc gia Mỹ vào tháng 5 năm 1961 đã vạch ra chính sách cai trị miền Nam Việt Nam, kêu gọi Mỹ “ngăn chặn sự thống trị của Cộng Sản ở miền Nam Việt Nam, tạo ra một xã hội có thể phát triển và ngày càng dân chủ hóa; để khởi động và triển khai nhanh một loạt chính sách quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lý hỗ trợ lẫn nhau cùng với vỏ bọc phù hợp để đạt được mục tiêu này”. Kế hoạch này được triển khai trực tiếp tại miền Nam Việt Nam, đồng thời những người lập chiến lược cũng nhằm gây tiếng vang chính trị, cho cả thế giới thấy được dấu hiệu quyết tâm chống Cộng của Mỹ. Phó Cố vấn an ninh quốc gia Walt W. Rostow, nguyên là nhà kinh tế học tại học viện công nghệ Massachusetts (MIT) và là một trong những người hăng hái nhất ủng hộ cam https://thuviensach.vn kết của Mỹ tại Việt Nam, từ trước đó hai tháng đã khuyên ngài tổng thống rằng Cộng sản trên toàn thế giới sẽ nhìn vào cái gương Việt Nam mà nhụt chí; “Chúng ta sẽ chứng minh rằng những chiến thuật chiến tranh du kích của Cộng sản hoàn toàn có thể bị đánh bại”. Những quyết định dẫn đến thông cáo của Kennedy vào tháng 5 năm 1961 hình thành từ nhiều tuần trước lễ nhậm chức của ngài tổng thống. Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn đã hoàn thành bản báo cáo chi tiết về tình hình đàn áp cách mạng vào mùng 4 tháng 1 năm 1961, sẵn sàng cho Kennedy đọc vào cuối tháng đó. Bản báo cáo miêu tả quan điểm của các quan chức quân sự và ngoại giao đóng tại Sài Gòn, ủy ban soạn thảo báo cáo được chủ trì bởi Joseph Mendenhall, một thành viên Bộ Ngoại giao Mỹ. Bản báo cáo mô tả tình hình ở mức độ nghiêm trọng: Chính phủ Sài Gòn có thể sẽ sụp đổ chỉ trong vài tháng nếu Tổng thống Diệm không có những hành động phối hợp tức thời để đàn áp Mặt trận dân tộc giải phóng. Nhìn chung, đại sứ quán cho rằng sự sống còn của chính phủ Sài Gòn là trách nhiệm của một mình ông Diệm: với sự hỗ trợ đầy đủ từ phía Mỹ, chính phủ của ông ta phải có trách nhiệm dập tắt sự nổi dậy của Cộng Sản. Thông điệp cơ bản từ phía họ là Mỹ nên triển khai những hoạt động đàn áp lập tức, hoặc chuẩn bị lật đổ chính quyền thân Mỹ tại Sài Gòn. Vào thời gian chuyển tiếp ban đầu đó, đại sứ quán Mỹ có khá ít ảnh hưởng đến chính sách về Việt Nam của Kennedy. Ngài tổng thống quan tâm hơn tới những đánh giá của Chuẩn tướng Edward G. Lansdale sau khi ông ta tới thăm Việt Nam vào đầu tháng Một năm 1961 và tiếp sau đó là cuộc trò chuyện với Kennedy trong suốt thời gian họp của Ủy ban An ninh Quốc gia vào cuối tháng đó. Tại cuộc họp, Lansdale đã nhấn mạnh tình hình nghiêm trọng tại miền Nam Việt Nam. Nhiều người đã nghe danh ông ta từ trước. Những năm trước, ông ta nổi tiếng là người “không theo quy tắc”trong quân sự, và được nhiều quan chức thuộc chính phủ Kennedy ngưỡng mộ, bao gồm cả Rostow, người đã nhận xét rằng Lansdale “biết nhiều về chiến tranh du kích ở châu Á hơn bất cứ người Mỹ nào”. Lansdale ưa nói về những hoạt động bí mật chống quân nổi dậy ở Phillipines sau thế chiến thứ II; đến cuối những năm 50, ông có thời gian dài https://thuviensach.vn lưu lại miền Nam Việt Nam, có mối quan hệ khăng khít với ông Diệm và đứng ra hậu thuẫn cho ông này ở Washington. Những đóng góp chủ yếu của Lansdale trong chiến lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam gồm ba phần: (1) ông ta tin rằng các quan chức đại sứ quán đã không nhận ra rằng Diệm là người lãnh đạo duy nhất có thể duy trì miền Nam Việt Nam là khu vực sạch bóng Cộng Sản; (2) Ông ta cũng chỉ trích quan điểm quân sự của nhiều người cho rằng mối đe dọa lớn nhất với chính quyền Sài Gòn là miền Bắc Việt Nam; Nghĩa là phải để tấn công Mặt trận dân tộc giải phóng bằng những kỹ thuật đàn áp mới thay vì chỉ lập kế hoạch dự phòng dựa trên giả thuyết là miền Bắc Việt Nam có thể tấn công. (3) Ông ta cũng cho rằng các chiến thuật tấn công quân sự sẽ chỉ thành công nếu phối hợp thực hiện với nhiều chương trình phát triển và hỗ trợ dành cho người nông dân miền Nam Việt Nam. Việc Lansdale nhấn mạnh vào các hoạt động đàn áp như một hành động táo bạo đã hấp dẫn Kennedy về lợi ích kép của việc “xây dựng đất nước”, và cùng lúc tạo nên cái phông thực tế để có thể áp dụng chiến lược Đáp Trả Linh Hoạt. Sau bài báo cáo với tổng thống tại cuộc họp của NSC, Lanscale đảm bảo vai trò làm cầu nối giữa chính quyền và Đoàn cố vấn và trợ giúp quân sự Mỹ (MAAG), dưới sự lãnh đạo của Đại Tướng Paul D. Harkins. Vào thời kỳ bắt đầu đưa ra một chính sách chính trị - quân sự tại miền Nam Việt Nam, vấn đề gây tranh cãi giữa phe tin tưởng vào một chiến thắng nhanh chóng và phe bi quan dự báo cảnh “sa lầy” còn nằm ở cấp độ chiến thuật chứ không phải chiến lược. Trong số các thành viên NSC và các quan chức quân sự, hầu như không ai nghi ngờ giá trị chiến lược của Đông Nam Á với vai trò là mặt trận chủ chốt trong cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu. Vấn đề là làm thế nào để hoàn thành được nhiệm vụ đó. Liệu ông Diệm - người mà các quan chức Mỹ nhận định là tham ô và độc ác- có phải là nhà lãnh đạo duy nhất mà Mỹ nên đặt cược danh tiếng của mình vào như Lansdale đã khăng khăng khẳng định hay không? Hơn nữa, làm sao Mỹ có thể tiến hành chiến tranh đàn áp tại một nơi có địa hình bất lợi còn kẻ thù thì khó phát hiện? Phó tổng thống Lyndon B. Johnson, trở lại vào tháng 5 năm 1961 sau một chuyến tới miền Nam Việt Nam, nơi ông đã gặp Diệm, tỏ ra ít lạc quan https://thuviensach.vn hơn về viễn cảnh thắng lợi so với nhiều đồng nghiệp của mình, đặc biệt là những người luôn ca tụng giá trị của các hoạt động đàn áp. “Trước khi chúng ta có bất cứ hành động nào”, Johnson cảnh báo, “nên biết rằng chắc chắn ta sẽ sa vào việc đuổi bắt dân quân và du kích trên các đồng ruộng và khu rừng ở Đông Nam Á trong khi kẻ thù chính của ta là Trung Quốc và Xô Viết thì đừng ngoài xung đột và tiết kiệm được sức lực”. Nhận xét này cho thấy được sự chênh lệch rành rành giữa điều Johnson thật sự băn khoăn và cái ông phô bày ra trước công chúng: bài phát biểu nổi tiếng của ông trong chuyến viễn du Sài Gòn vào tháng 5 năm 1961 ca ngợi ông Diệm là “Winston Churchill của châu Á” rõ ràng chỉ là màn kịch chính trị. Việc có thể “sa lầy” trong địa hình rừng ở miền Nam Việt Nam, cùng với viễn cảnh phải chiến đấu với những kẻ thù giấu mặt đã trở thành mối quan tâm chính và là mục tiêu của các nhà nghiên cứu sách lược đàn áp; đây cũng là điều khiến các tướng lĩnh quân sự phản đối việc can thiệp vào Việt Nam. Maxwell Taylor đã miêu tả chiến thuật du kích của quân Mặt trận dân tộc giải phóng: “Họ tấn công đội quân chính phủ trơ trọi, sau đó biến mất vào trong rừng”. Theo như nhà khoa học chính trị Samuel P. Huntington ghi chép lúc đó, nhờ rừng xanh che chở mà quân nổi dậy biến điểm yếu thành điểm mạnh: “Chiến tranh du kích là một hình thức chiến tranh mà bên yếu hơn về mặt chiến lược sẽ tấn công chiến thuật với hình thức, thời gian, địa điểm do họ chọn”. Trên cái nền rừng xanh đó, một đại tá cũng miêu tả về quân du kích như người chiến binh “bí mật và bền bỉ trong hành động, di chuyển như một con hổ trong đêm với sự khôn ngoan của một con cáo khi tấn công… Một người du kích, với chiến thuật đánh rồi rút, gieo rắc sự khiếp sợ và kỹ thuật ám sát không cần theo bài bản quân sự”. Đại Tướng Curtis LeMay, người ủng hộ việc Không quân Mỹ tiến hành các hoạt động thăm dò trên không để tiêu diệt Quân giải phóng đã nói “Một điểm rất đặc trưng của quân du kích là khả năng thoát khỏi các hoạt động theo dõi tình báo chính quy””. Tổng tham mưu liên quân Mỹ Lionel McGarr cho rằng rừng là trở ngại lớn nhất cho an ninh của quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam: “Quân Cộng Sản đã chọn được một trận địa tốt. Khu vực rừng và bìa rừng rộng lớn với cây cối chen https://thuviensach.vn chúc là điều kiện hoàn hảo cho việc đột nhập. Có thể ưu thế lớn nhất của chiến thuật này là bóng cây. Về mặt chiến thuật, điều này tạo ra sự khác biệt tức thì giữa quân du kích và quân đội bất lực vì vốn chỉ được huấn luyện để phát hiện kẻ thù trong hoàn cảnh chiến tranh thông thường (hình 3). Củ cà rốt “kiến thiết quốc gia” song song với hoạt động đàn áp mà Kennedy đã nhắc đến trong bài phát biểu ngày 11 tháng 5- cũng là mục tiêu chiến thắng “con tim và khối óc” Việt Nam mà mà tổng thống Lyndon B. Johnson đề ra năm 1965 - không thể tiến hành nếu thiếu nỗ lực phối hợp nhằm đương đầu và tiêu diệt Quân giải phóng ở những vùng xa tại miền Nam Việt nam. Theo như David G. Marr, một sĩ quan tình báo thuộc lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ, người sau này trở thành một sử gia có tiếng tăm về Việt Nam thế kỷ XX, hồi tưởng lại: “Ngay từ đầu, chiên dịch đàn áp ở Việt Nam đã đặt nặng quân sự hơn chính trị, buộc thi hành “nền an ninh bằng bạo lực” thay vì quan tâm tới các vấn đề nhạy cảm như sự chuyển dịch xã hội hay những lề thói tâm lý cũ. Nói tóm lại, đó là hành động đàn áp cách mạng trắng trợn chứ không phải là giải phóng, mặc dù rất ít người Mỹ trong cuộc sẵn lòng thừa nhận điều này vào thời gian đó”. Quan điểm chú trọng dùng bạo lực để duy trì trật tự hơn là các hoạt động hữu ích mang tính hỗ trợ khác của chiến dịch là nguyên nhân khiến chính quyền Mỹ tại Việt Nam quyết định tiến hành các hoạt động rải thuốc diệt cỏ https://thuviensach.vn