🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cõi Người: Chân dung Trần Huy Liệu - Trần Chiến full prc pdf epub azw3 [Tập Truyện ngắn] Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Lời Người Viết Trận Đòn Báo Thư Cừu Học Chữ Đứt Gánh Giữa Đàng Cánh Hồng Leo Trên Tường Chó Cắn Áo Rách Nổi Loạn Phương Nam Vẫy Gọi Thợ Nửa Mùa Gặp May Nổi Danh Và Nổi Chìm Giết Báo Đảng Thanh Niên Mới Thật Đi Tù Người Tù Chăm Học Cú Nhẩy Người Tù Đa Cảm Hai Cụ Phan Sổ Lồng Grandjean Thư Giả Tình Thật Yêu Và Không Thể Lấy Và. Mồng 1 Tháng 5 Năm 1938 Đứt Gánh Tình Sơn La Hầm Tối Suối Reo Nghĩa Lộ Tân Trào - Hà Nội Huế Đa Mang Nên Phải Đèo Bòng Năm 1946: Ông "Tả Khuynh" Tri Thiên Mệnh Chỉnh Huấn Thi "Đỗ"! "Quốc Sử Quán" Dự Cảm Cơn Lũ Chộn Rộn Hòa Bình Lịch Sử 80 Năm Chống Pháp Uống Cạn Chén Đắng Ý Kiến "Già", Điều Kiện "Non" Làm Người Là Khổ Lão Nông Tri Điền Trở Lại Với Thơ Cảo Xưa Giở Lại Tướng Sĩ Một Đi. Vĩ Thanh CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Lời Người Viết Trần Huy Liệu là một con người “đa hệ”. Về mặt văn hóa, bắt đầu từ Nho giáo, ông chuyển dần sang tân học. Về “nhân thân xã hội”, trước sau ông là người dân tộc trong căn cốt, dù là trong phong trào Thanh niên, Quốc Dân đảng hay là người Cộng sản. Nghề nghiệp thì chuyển từ làm báo sang nhà tuyên truyền, gần cuối đời đi viết sử, tức là chỉ có thể dính đến chữ nghĩa. Sinh năm 1901, ông thường nói (nửa) đùa mình là con người của thế kỉ XX. Dầu sao, đời ông gắn với những trào lưu chính yếu nhất của nước Việt trong 100 năm đó: Nho tàn, Tây học, chủ nghĩa Tam dân, hệ tư tưởng Cộng sản… Đây là những điều tôi muốn phản ánh trong sách này. Tất nhiên chúng chưa đầy đủ, càng chưa đầy đủ khi muốn nói đến nguyên cớ những hành xử, chọn lựa của ông. Do đó, có thể nó bắt đầu cho một quá trình khác, phải bổ sung, tranh luận... Trần Huy Liệu viết nhiều. Nhưng do tù đầy, chiến tranh và nhiều biến cố khác, sách vở, các bài báo in trước năm 1954 của ông không còn. Trong tay người viết chỉ còn lại những tác phẩm sau, in sau năm 1954: “Lịch sử tám mươi năm chống Pháp”, “Nguyễn Trãi”, “Lịch sử Thủ đô Hà Nội” (chủ biên), “Thơ”, “Hồi kí”. Những lai cảo, ghi chép, bài báo… không còn bao nhiêu, và cũng không quy về một chỗ. Trong tay tôi hiện còn một phần nhật kí, chủ yếu ghi trong kháng chiến chống Pháp, bản tổng kiểm thảo năm 1952, vài bức thư, ghi chép vụn vặt… Và sách “Những ngày xa xưa ấy” của bà Thu Tâm in ở Mỹ năm 1996. Những phần trích (in nghiêng) trong sách này sẽ chú văn bản gốc. Trần Chiến Tháng 9/2006 - tháng 10/2007 CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Trận Đòn Nhà ông đồ Trình đang có việc. Từ sáng sớm, bà đồ đã lục đục dưới bếp đồ xôi, làm thịt gà. Mọi người lặng lẽ, trang nghiêm hơn lệ thường. Hình như trời không có gió, cả đến tàu chuối sau vườn cũng im phắc, không ưỡn lên reo mừng khi cu Liệu lò dò từ giường ra, mắt nhắm mắt mở tè vào gốc như mọi khi. Thường nhà có cỗ thì con trẻ phải mừng. Nhưng Liệu ta lại buồn rười rượi. Hôm nay cụ đồ làm lễ khai tâm (1) cho cậu út vừa tròn sáu tuổi. Sau bữa ăn, Liệu phải lên Hạnh Lâm trọ học. Xa anh Đích, anh Hích, lấy ai khăng đáo cùng. Và nhất là tối đến không còn được rúc vào tí mẹ hít hà mùi mồ hôi nồng nàn, ngầy ngậy. Bà đồ yêu cậu út nhất nhà. Ra ý phải xa con, bà cứ tần ngần, lẩm bẩm những câu chỉ mình nghe. Lúc xóc gạo, bà quên bỏ cả mấy hạt muối. Chõ xôi nhạt hoét. ----- (1) Cho đi học vỡ lòng. Khác với vợ con, ông đồ giữ vẻ nghiêm nghị. Những lời sai bảo phát ra uy nghi hơn lệ thường. Việc trọng, nghĩa cả, sang vai thằng bé sáu tuổi thì không thể nhu mì để nó quen thói con trẻ. Dứt khoát nó phải gánh cái sứ mạng mà ông mang vác cả đời chả xong: thành người đỗ đạt. Vậy nên mọi thứ cứ phải răm rắp. Cấm bàn lui. Ông căn dặn vợ nghiêm hơn mọi ngày, đừng để nước mắt làm mềm lòng thằng bé. Mâm cỗ đã dọn lên. Ông đồ thắp hương, thành kính khấn. Đoạn, nhỏ nhẹ nhưng đủ nghiêm khắc, bảo Liệu: “Con khấn tiên sư, tổ sư đi!”. - Tiên sư, tổ sư là gì ạ? - Cậu bé ngơ ngác. Ông đồ chỉ vào bức tranh vẽ cụ già lùn tịt, răng vổ, mũ áo giống các cụ mặc khi tế ngoài đình làng. Tiên sư, tổ sư đấy. Nhưng Liệu lại hỏi: - Con khấn gì ạ? - Con quên rồi à? - Ông đồ gằn giọng, nhưng đã kịp dịu lại - Con xin cụ cho học giỏi, đỗ đạt, sau ra làm quan. Liệu “đọc” lầm rầm khiến ông đồ phải nhắc “to lên”. Đến lượt anh cả Chước thì không phải nhắc nhở gì cả. Người thanh niên nổi tiếng thông minh ấy đi thi hương từ năm mười ba tuổi, đã quá quen với nghi lễ. Lúc lâu sau, các thủ tục cũng xong, cả nhà ngồi vào mâm: ông đồ, bà đồ, anh Chước, chị Riệu, chị Tự. Liệu được ưu tiên gặm đùi gà. Rồi anh Chước lại gắp đầu cánh bỏ vào bát cậu út, nhỏ nhẹ: “Ăn đi rồi còn bay xa”. Ông đồ cũng xẻ sang bát con cái đầu gà, thứ cậu út rất thích nhưng không mấy khi được ăn. Đang cắm cúi gặm sồn sột, Liệu nhận thấy mọi người lặng lẽ quá. Mọi hôm ăn độn, lát khoai cõng dăm bảy hột cơm, mà chuyện rào rào. Mà bà đồ chỉ đưa đẩy vài đũa rồi chạy đâu đâu. Liệu mò xuống bếp, thấy mẹ đang ngồi cạnh ông đầu rau lạnh ngắt. - Mẹ không ăn à? Con ăn hết thịt gà bây giờ. - Con ăn hết đi. - Giọng bà đồ nghèn nghẹn. - Mẹ sao thế? Sao mắt mẹ ướt? - Rơm ẩm nên lắm khói, mẹ cay mắt. - Đun gì mà cay... - Lên nhà kẻo bố mắng. Mẹ lên ngay đây. Liệu ngồi vào mâm, rấm rứt ăn hết bát xôi dưới sự soi xét im lìm của bố. Giường bên, bà đồ ngồi gói tay nải, đút vào con khăng cho đứa trẻ đi xa. - Mẹ để cái này vào. Nhưng chơi ít thôi. Con trai lớn rồi phải học chăm nhá. Bà nói vậy rồi chạy vội ra đầu ngõ, giả bộ đi thăm người ốm. Giờ khắc thằng bé đi nặng nề lắm, đối với bà. - Nào! Đi! Đến Hạnh Lâm rảo hết một buổi, đi giờ là vừa. Liệu sợ hãi nhìn quanh rồi co cẳng phóng ra cổng, bị anh Chước túm lại. Ông đồ Trình đã khoác tay nải, dứ dứ chiếc roi mây: “Mày có đi không thì bảo!”. - Con không đi Hạnh Lâm. Con không đi học. - Không đi này! Không ăn chữ Thánh hiền thì ăn roi này!... Mỗi lần “không đi này” là một lần sợi mây vút lẳn vào đít. Chị Tự, chị Riệu cũng chạy đâu cả, chỉ còn anh Chước đứng ngó ra chỗ khác. Cuối cùng ông đồ cũng rong được Liệu ra ngõ. Trông thấy anh Hích, anh Đích và mấy đứa bạn ẵm em đứng nhìn, cậu bé đu chặt lên cánh cổng, lằn roi lại vút xuống. Cơn mưa đòn kéo dài qua mỗi lần níu kéo, mỗi roi là thúc thêm mươi bước xa nhà. Hết búi tre, bụi duối là cánh đồng, cuộc phản kháng tạm thời ngưng lại. Đã trông thấy cây gạo, mái cong cong phủ Dầy thờ bà Chúa Liễu, những chỗ mọi ngày Liệu được rong chơi xa nhất. Ta còn có thể nhởn nhơ trốn tìm ở đây không? Có còn được rúc vào bệ thờ ẩm mốc đầy mạng nhện không? Không còn được cụ từ hiền từ gọi ra cho lộc Thánh Mẫu nữa a? Và không có mẹ để nắn chân, nắn lưng cho ta nữa... Liệu ngồi phệt xuống bờ đầm không nói không rằng. Ông đồ cũng chẳng thèm thúc giục ra roi, bao nhiêu cáu giận dồn cả vào đôi tay nhấc bổng thằng bé lên. “Ùm!” Liệu luống cuống giữa bùn nước, cuống cuồng vì bị sặc. Cũng may là biết bơi nên không đến nỗi no bụng nước. Lóp ngóp vào được bờ, thì hào khí làm loạn tắt hẳn. Liệu cum cúp đi trên con đường thiên lý. Xung quanh, những bụi cứt lợn trăng trắng toả mùi ngai ngái. Đồng lúa đang vào đòng thơm ngào ngạt. Gần đến Hạnh Lâm thì cậu út đã quên hẳn, lại chuyện trò ríu ran. Không biết rằng đi sau, ông đồ đang thở phào, đút cây roi vào đẫy. Thằng bé bướng nữa, chắc ông không còn lòng nào ra gan, đận về cũng chả thể kể hết với mẹ nó. Và cậu út cũng không thể ngờ từ đây đến cuối cuộc đời, sứ mạng của cậu là đèn sách. Đã có lúc tới tột đỉnh của danh vọng, làm bộ trưởng, phó chủ tịch Uỷ ban Dân tộc giải phóng năm 1945, thì trước sau, chỉ có chữ nghĩa mới là trường đắc địa của cậu. Năm 1907, lên sáu, cậu bé không thể ngờ mình sẽ là chứng nhân, can dự vào những sự kiện lớn nhất của đất nước trong bẩy mươi năm nữa. Để sau này, khi kể lại và đánh giá chúng, Trần Huy Liệu có thể nói vui, nhưng lại đầy tự hào: “Tôi là con người của thế kỉ đây... ” CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Báo Thư Cừu Ở tỉnh Nam Định, Vụ Bản là một huyện nghèo, bởi thuần nông. Trên cánh đồng đất pha cát, lúa, ngô, khoai, kê, đậu, lạc quanh năm gối vụ. Chen giữa cánh đồng có mấy ngọn đồi Gôi, Tiên Hương, gọi là “núi”. Những con sông máng chảy chậm chạp. Đói nghèo, có lẽ là một cái cớ để người ta trọng sự học và tin vào cõi siêu nhiên. Có lẽ Vụ Bản đứng đầu tỉnh về số các vị khoa bảng và về lượng đình, đền chùa cổ kính. Ấy là ngày xưa. Còn bây giờ, riêng một xã Liên Minh, xưa gọi tổng Hào Kiệt, đã sản sinh ra các nhà văn Vũ Cao, Vũ Tú Nam, nhạc sĩ Văn Ký, Văn Cao... , hàng chục hội viên các hội văn học nghệ thuật. Xửa xừa xưa, thời vua Hùng, Vụ Bản là huyện Bình Chương, sang thời Lý Trần thành huyện Hiển Khánh. Có câu “Côi sơn hải khẩu”, tức núi Côi (Gôi) hồi đó đã là cửa biển, trong lòng đất hiện thời còn nhiều vỏ hào, trai. Xa xa, giữa sóng mặn nhô lên một vùng phù sa, càng ngày càng dầy dần lên. Khi cồn đất ấy nhập hẳn vào đất liền, đã có người ra khẩn hoang, người ta gọi luôn tên nó là Kẻ Dầy. Ngày nay, có thể tưởng tượng ra sự hình thành lâu dài và thú vị này khi ra cửa Ba Lạt đằng Giao Thủy, nơi sông Hồng đổ ra biển. Cách độ nửa tiếng chèo thuyền tay, ta sang đến cồn Xanh, nơi đã được trồng phi lao chi chít. Xa hơn, thẳm trong tầm nhìn là cồn Mờ, cư dân nông nghiệp chưa kiếm lợi nhờ được chút nào. Thiên Bản - tên cũ của Vụ Bản - có sáu nhân vật lạ lùng, gọi “Thiên Bản lục kì”. Đó là Tam Danh (còn gọi Tam Ranh hay Tam Bành) đại tướng cô hồn Sừng Sỏ Sắt ở làng Bảo Ngũ, xã Quang Trung ngày nay, Cường Bạo đại vương ở làng Bối La, xã Cộng Hòa, trạng Lường Lương Thế Vinh ở làng Cao Hương, xã Liên Bảo, bà chúa Thông Khê Trịnh thái phi Trần Thị Ngọc Đài ở làng Thông Khê, xã Cộng Hòa, quận công Ngô Đình Điền ở làng Bảo Ngũ, xã Trung Thành, và Bà Chúa Liễu Hạnh. “Thiên Bản lục kì” người thì giỏi giang thông minh, làm nên việc lớn cho đời, người có phép lạ tung hoành khắp đó đây. Hơn người thì lạ, đã đành, họ lại chả giống mấy với những thành hoàng kì nhân hằng được thờ phụng trong thiên hạ. Mang những đặc tính của người bình thường, họ hiển thánh với đầy đủ “ưu khuyết điểm”, vừa lớn lao, bao dung, vừa tị hiềm chấp nhặt. Cường Bạo đại vương thương mẹ rất mực, nhưng đi ăn cắp nuôi bà, sau này “quên” cả cúng giỗ gia tiên lẫn bố mẹ. Thánh Tam Bành trừng phạt các thành hoàng có lỗi (thành hoàng mà cũng có lỗi!) quá tay khiến các vị kêu cứu lên thiên đình, rồi Phật Tổ Như Lai và Quỷ Cốc tiên sinh phải ra tay kiềm chế. Còn Bà Chúa Liễu Hạnh ra oai với tất thẩy, cả những ai không biết đến danh tiếng của mình, để muôn chúng sinh phải nể sợ mới thôi. Chừng như là, có một chút cái “máu” của những kì nhân ấy, Trần Huy Liệu phải vào người cái tính độc lập, bướng bỉnh không chịu khép mình vào những trật tự, khuôn khổ bình thường một khi ông không thấy nó là hợp nhẽ. Nhưng đó là chuyện mãi sau này… Ông sinh ở thôn Vân Cát, xã Kim Thái, không trù phú bằng Liên Bảo, Liên Minh trong nghiệp “trồng” nhân tài, nhưng lại là quê Bà Chúa Liễu Hạnh, một trong Tứ Bất Tử của thần thoại Việt. Làng Vân Cát giáng sinh thần nữ Cõi trời Nam bất tử hòa thân Vốn xưa Đệ nhị cung tiên Phong lưu công chúa ở trên thiên đình (Văn chầu Thánh Mẫu) Bà chúa nguyên là Đệ nhị tiên chúa Quỳnh Nương trên trời, làm vỡ chén ngọc nên bị giáng xuống trần làm con gái họ Lê ở Vân Cát. Lớn lên tài sắc vẹn toàn, ham thích bút nghiên, nàng lấy người họ Đào bên Tiên Hương, đã đẻ con, sống với nhau rất tương hợp. Hết hạn lưu đầy, nàng về trời nhưng vẫn thương nhớ trần gian, lại xin cho xuống, bắt đầu một cuộc đời phiêu bồng nghịch ngược. Với phép thuật trong tay, bà phù trợ cho bao kẻ khốn khó, trừng trị loài ác nhân. Cạnh đó, lại là những hành trạng khôn lường: đi mây về gió, hay hiện lên trêu ghẹo khách qua đường trên quãng đèo núi vắng vẻ. Những lúc giận dữ, Bà làm dịch bệnh trâu bò, đốt chợ búa, trang ấp, làm cả một vùng tan hoang. Nhưng nói chung Bà Chúa là vị thần hào phóng. Từ Tam Điệp trong Ninh Bình ra Tây Hồ ngoài Thăng Long... đều có đền phủ thờ Mẫu Liễu, nhưng không đâu nguy nga bằng hai ngôi ở Vân Cát, Tiên Hương. Những cầu đá, cột đá, ngôi thủy đình thanh thoát bên hồ bán nguyệt kè đá xanh chắc nịch, dập dờn mấy tàu súng. Ngày hội, con công đệ tử từ cả vùng đồng bằng sông Hồng kéo về, tận Tuyên Quang, Thái Nguyên đổ xuống, trong Thanh Nghệ ra. Nườm nượp, vì Bà Chúa rất rộng tay độ trì, từ kẻ khó đến những bà buôn mong một vốn bốn lời. Đó là những ngày vui của cả tổng, cả vùng. Hàng quán lều rạp mọc lên khắp nơi. Những trò đu bay, xóc đĩa, xiên lình, câu chầu văn, ba mươi sáu giá đồng mê mải người xem. Người ăn mày qua mươi ngày hội không lo đói được nửa năm. Là người làng Bà Chúa, nhưng Liệu sớm không được chòng ghẹo, trêu đùa ai, ngay cả làm nũng mẹ cũng không. Tuổi thơ của cậu chấm dứt từ năm lên sáu để mang sứ mạng Báo Thư Cừu, tức là trả mối hận đèn sách cho cha và anh. Trọ học ở Hạnh Lâm, Công Luận, dù nhọc nhằn với Tam Tự Kinh, Liệu vẫn được phép thảng hoặc chơi trận giả bằng gươm giáo gỗ bên chiếc lò gạch. Nhưng ông đồ Trần Huy Trình muốn con sớm hay chữ, sau đó đã bắt học tắt ngay những Đại học, Ngũ kinh, Tứ thư và Bắc Sử. Sớm xa rời những nghịch ngợm hồn nhiên, Liệu phải sống theo kiểu con cháu Thánh Hiền. Năm mười lăm tuổi, cảnh nhà bí quẫn, cậu bắt đầu bán chữ, nghĩa là dạy chữ Nho cho bạn cùng trang lứa, thậm chí “gà bài” cho mấy hương sinh lớn tuổi còn theo nghiệp lều chõng. Mùa đông năm ấy rét cắt da cắt thịt, nhưng trong lòng Liệu thì ấm bừng ngọn lửa. Hân hoan không tả được. Áp Tết, bố cho về nhà để dỏn dòn don với mẹ, được anh Chước, chị Riệu, chị Tự cho quà, gặp lại anh Hích, anh Đích cùng chúng bạn. Đôi chân nhỏ hồng hào của cậu bé bước thoăn thoắt trên ngọn cỏ táp đi vì lạnh, chẳng kể đến nhịp thở đằng sau của ông bố. Mồng một chơi cửa chơi nhà Mồng hai chơi điếm, mồng ba chơi đình Mồng bốn đi chợ Qua Ninh Mồng năm chợ Trình, mồng sáu non Gôi Nghỉ ngày mồng bảy mà thôi Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng Cứ nghĩ đến mấy câu ca ấy là cả tỉnh, từ trai thanh gái lịch đến các vị hương xã, cống nghè đều nao cả người. Đối với Liệu, niềm vui đơn giản lắm, chỉ là con cón theo váy mẹ, lúc được con tò he, lúc chiếc kẹo bột nhuộm ngũ sắc mút nhoem mồm. Vậy mà năm nay, sáng mồng một, Liệu bị khua sớm. Ông đồ lệnh “Dậy ăn rồi mà học”. Nằm rốn không xong, cậu bé đành bò dậy, cậu chả muốn cả năm ăn roi tẹo nào. Té ra là cả nhà đã tươm tất. Mâm cơm cúng đang bốc hơi nghi ngút trên ban thờ, các anh chị ăn vận tề chỉnh. Liệu đứng khấn tổ tiên, trời đất, cụ tổ đạo Thánh Hiền, rồi được ngồi vào mâm. Không khí sum vầy thật vui. Bà đồ gắp cho con, bảo từ ngày đi học biết mời chào, như ông đồ non ấy nhỉ. Trên ban thờ, mùi bưởi chín, khói nhang đen và hoa huệ ngan ngát làm lòng Liệu bâng khuâng. Trong túi cậu, cỗ tam cúc ngọ nguậy, thể nào téo nữa cũng sang anh Hích, anh Đích chơi bôi râu. Cho bõ những ngày nhồi chữ như con vịt tọng bánh đúc. Ăn xong, định tót ra cổng, ông đồ đã giật lại: “Sách vở đâu? Lại quên rồi à?” - Cha, hôm nay Tết mà, Liệu nhăn nhó. - Tết càng phải học! - Năm ngoái mồng bảy cha mới bảo học... Ông đồ giở quyển vở, chỉ vào hai chữ “Trúc khai”: “Năm ngoái khác, năm nay ngày khai bút là mồng một”. Xung quanh, mẹ, hai chị ngoảnh ra chỗ khác, anh Chước đứng nghiêm chỉnh sau bàn, Liệu đành phụng phịu chui vào gầm án thư. Đấy là cái xó mà cậu ghét nhất. Tối tăm vì xung quanh đóng kín ván, cậu phải học nằm lòng cả bồ chữ. Ngoài kia có làn gió đấy, nó làm con chim hót, làm quả bưởi thơm. Nhưng trong gầm án thư kín như buồng tằm chỉ mồn một ba chữ “Báo Thư Cừu”, năn nắn cỗ bài trong túi mà nẫu ruột. Một lát, quyển sách rơi phịch. Đầu va vào ván gỗ đau điếng mà mắt vẫn nhắm nghiền. Khi bà đồ bế ra, tay chân cậu bé còn dăm nốt muỗi đốt, dãi chảy ướt cả sách. Bà xin chồng cho cậu út canh nốt giấc say sưa. Được cái ông đồ, vừa cho chữ hàng xóm (1)khá là cao hứng, chỉ truyền: “Ờ, mồng một thế thôi. Cứ việc chăm học, thi đỗ là cái gì cũng có hết!”. ----- (1) Tục đi xin những chữ tốt lành về treo trong nhà Mấy cô chị ngắm cậu em ngủ không vẫy tai, khúc khích: - Thi đỗ rồi về làng có võng, em nhá. - Một mai rồi làm quan, lấy vợ con quan, tha hồ các chị được nhờ. Cười nói thế thôi, nhưng thấy cha nghiêm nét mặt, đập thước xuống “Chửa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng à?” thì đố dám hó hé tiếp. “Cứ phải đe nẹt, cho roi cho vọt thì nó mới khá, các con chưa biết cái nhục gia đình đâu”. Đối với ông đồ Trần Huy Trình, quả là chả có gì đau bằng nỗi hận tam trường. Được học hành sớm, thông làu kinh sách, đối đáp, giảng giải thay cho cả làng, mà thi hương dăm bảy lần ông chả được lấy mảnh cử nhân tú tài. Học tài thi phận, ông nghĩ thế và hết mực thờ cúng, kiêng khem. Năm Quý Mão lụt to, nước ngập cả Văn Chỉ (2). Đến kì nước rút, ông giục anh trưởng cõng cậu út ra lau chùi từng bệ đá, viên gạch, nghiêm trang như đang phục dịch ở nước Lỗ (3)xưa. Ba năm một kì thi hương, trượt vỏ dưa càng khát nước. Canh bạc càng “về sáng”, tức lúc đã có tuổi, ông càng cay. Mỗi lần yết bảng không thấy tên mình trong hàng cử nhân hay tú tài, ông lại đốt lều chiếu, quăng tủ sách, giãy đùng đùng rồi ngất đi. Ba năm lại một kì gia đình phải sống những ngày ảm đạm, mộ tổ xoay hướng cũng không đậu được. Đến lúc mỏi mệt, ông đành phận gõ đầu trẻ, chữ nghĩa sang vai những anh còn đang mong vinh hiển. ----- (2) Nơi thờ Khổng Tử của mỗi làng (3) Nơi dậy học của Khổng Tử Nhưng bao nhiêu hận nhục do mong ước không thành, con trai phải gánh cả. Anh cả Chước mười ba tuổi đã thi hương, nức tiếng thông minh, mà ba mươi mới được mảnh tú tài. Rủi thay, Tú Chước ngã bệnh mất sớm, có lẽ cũng là kết quả của hai mươi năm lao tâm đèn sách. Bố đã vậy, anh đã vậy, thì Liệu càng phải vậy chứ sao. Vùng vằng, nũng nịu, giọt vắn giọt dài nỗi gì nữa. CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Học Chữ “Tiền làm quan, đạt làm thầy” “Với mục đích học để đi thi, người dậy cũng như người học đương thời có cần gì phải nghiên cứu ý nghĩa của những quyển sách, mà chỉ cần thuộc lòng từng câu, từng chữ, từng điển tích để làm bài. Nhận xét người hay một việc khác đều không được phép ra ngoài ý kiến phê phán của Tống nho và Hán nho”. Nghĩ về sự lố bịch, vô tích sự của việc học hành cử tử thời đầu thế kỉ XX, Trần Huy Liệu nhận xét vậy. Nhưng đó là vào mãi sau này, khi ông năm mươi tuổi. Chứ còn bây giờ, hễ mó tay vào việc gì trong nhà, cậu út đều nhận những lời ngăn cản: - Cứ để đấy, đã có các chị. - Học đi con. Có nghe câu “chẳng tham ruộng cả ao liền, chỉ tham cái bút cái nghiên anh đồ” chửa? Con phải đỗ đạt rồi ra làm quan cho cả làng, cả tổng biết tiếng chứ. Làm anh đồ, ông quan, cậu bé vắt mũi chửa sạch chưa đến đoạn thích thú. Nhưng những lời dạy bảo thấm vào cậu như giọt nước ngày đêm nhỏ vào đất cát, cằn cỗi mấy cũng có ngày sũng sịu. Đến nỗi mà trên đường từ Vân Cát đi Hạnh Lâm, qua cửa huyện nha Vụ Bản, Liệu giở ra cái trò làm ông bố vừa sợ vừa buồn cười. Đứng trước mặt anh lính gác, cậu ưỡn ngực ra, trỏ vào công đường: “Ngày sau ông lớn lên thi đỗ làm quan to gấp mấy cái ông huyện ngồi trong kia ấy chứ”. Chú lệ tròn xoe mắt vì ngạc nhiên. Ông đồ vội vàng kéo con đi, trong lòng không phải không thích thú. Mỗi việc hàng ngày đều được dẫn ra một câu Thánh Hiền làm mẫu mực. Sách “Luận ngữ”, thiên “Hương đẳng” chép những cử chỉ thường ngày của Khổng Tử, Liệu thuộc nằm lòng. - Con biết không, ông đồ bảo, trước kia có người chuyên đi nhặt giấy bẩn có chữ Thánh đem đốt đi, đến lúc đẻ con, sau lưng có bốn chữ bằng dấu chàm “Kính tích chỉ tự”, người con sau này thi đậu tiến sĩ. Những lời răn ấy ngày một thấm, khiến mảnh giấy có chữ trở nên thiêng liêng, không dùng vào việc bẩn thỉu, để rơi xuống đất cũng không dám. Thông thường, trẻ mới học đều phải qua “Tam tự kinh”, cuốn sách vỡ lòng. “Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn” (1), tiếng trẻ khao khao trong lớp học dưới luỹ tre. Sau “Tam tự kinh” là hai quyển Sử thượng, Sử hạ và Hán sử, nghĩa là toàn sử nước người. Nhưng Liệu, giống cái cây bị nhấc lên cho mau lớn, phải bắc ngay sang các sách “Đại học”, “Ngũ kinh”, “Tứ thư” và “Bắc sử” trứ danh. Nhai nhải, nhồi nhét, nhồm nhoàm, thật chẳng khác con vẹt mấy tý. Nó làm cậu bé ra ông cụ non, khác hẳn chúng bạn cùng trang lứa. Mà thế thì đâu có gì phải xấu hổ, còn làm tấm gương, làm chỗ để trẻ khác học theo ấy chứ. ----- (1) Ý nói con người ta sinh ra có tính tốt lành, do hoàn cảnh mới đổi khác đi. Trong vùng, ông đồ Trình nổi tiếng về cách dậy nghiêm khắc và hiệu quả. “Thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn”, có thế mới nên thân, cái lũ chỉ xếp sau “quỷ” và “ma” ạ. Sáng ra các trò đến trường, thầy chỉ đích danh anh nào ngủ sớm hay chịu thức khuya nhá chữ. Đêm mưa to gió lớn, ông xắn quần, bận áo tơi đi “tuần thú” những nhà có trò trọ học, bắt quả tang anh nào lười, anh nào lẩn. Đấy là việc dạy chữ, gọi như bây giờ là truyền bá kiến thức đại trà. Chứ khi dạy phép tắc đi thi, ông lại có những “món tủ” riêng cho trò yêu, nhất là hai con trai. Tỷ như những bài văn sách quá hay, thường đem ra bình phẩm ở tỉnh, huyện thì nên tránh đi kẻo dễ trùng lặp, mà hãy chăm rèn những bài loại nhì, loại ba thôi. Tỷ như, cha “giải” sẵn những đầu đề trong sách học đi thi rồi cho học thuộc, vào hạch khảo không quán quân cũng trúng tuyển. Đây là món gia truyền, “tử công phu”. Bao nhiêu cay cú, kinh nghiệm một đời thi hỏng, ông truyền cho con cả. Nhồi lắm thì chữ phải đầy. Liệu, giống anh Chước, sớm nổi tiếng thông minh hơn người. Rất khổ là mỗi khi có bạn bè đến, ông bố cứ gọi con ra đối lại những câu người ta ra. Đối đáp trôi chảy nhưng đúng là cực hình, dù nó kích thích tính háo thắng, đợi chờ lời khen. “Thằng Di nhà tôi đi sau mót lấy những chữ cậu Liệu nhà bác bỏ rơi, có mà cũng nhất tổng rồi”. “Sau này đỗ đạt nên ông, đi võng che lọng đừng quên chúng tôi, cậu Liệu nhá”. Những lời làm Liệu ta phổng mũi, giá ðứng ngoài giọt gianh, trời mua nuớc chui cả vào mũi cũng nên. Nguời ta mời cậu về học cùng, bảo học cho con. Muời lãm tuổi, cảnh nhà túng quẫn, Liệu ðã ði dạy học riêng, tuy không thành cua hái ra tiền nhu các thầy giáo dạy thêm bây giờ, nhung khi nải chuối, lúc dãm quả trứng gà, lộc ðã lỗ chỗ. Chua biết sợ, tự tin và liều lĩnh quá, bất chấp luật ðịnh, có lần Liệu ðội tên nguời khác ði thi các kì tuyển sinh và khóa sinh. Bấy giờ chua có thẻ thi dán ảnh, nguời thi hộ chỉ nộp quyển, khai họ tên, quê quán, kí tên, ðiểm chỉ là lọt vào ðuợc truờng thi. Việc làm bài càng dễ, vì bấy nhiêu ðòi hỏi của ðề chả ðáng là bao so với bồ chữ cậu tích cóp nên. Xong việc, nếu trúng tuyển sinh, Liệu ðuợc nãm ðồng bạc Ðông Duong, trúng khóa sinh ðuợc hai muoi ðồng, cả một gia tài so với công sức dạy học của bố, làm ruộng của mẹ và các chị. Nhung mà lo, mà hãi lắm. Mỗi lần xong lại hú vía. Bị phát giác ra, cả nguời thi hộ lẫn nguời thuê thi ðều tù cả. CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Đứt Gánh Giữa Đàng Đang tập chữ cho mấy người sắp thi, Liệu giả cách ông đồ Trình, đi đi lại lại gườm gườm. Chiếc roi mây thỉnh thoảng vút vào không khí. - Anh Sắc, không thuộc quyển của tôi thì tôi không cho anh gặp cô Thắm nữa. - Cả Chương đoảng quá. Chữ “trung” này không phải là quả chuông. Phí công tôi nhận lời với thầy mẹ anh. - Anh cu Từ, như có con gà nhảy lên bới chữ trong vở ý. Tý nữa nhẩy lò cò anh có chấp tôi một bàn không thì bảo... Vun vút! Vun vút! Học trò lấy làm vui, cười khinh khích. Ông thầy mặt non búng còn thích thú hơn, vắng chúa nhà tha hồ vọc niêu tôm. Tập viết xong ra đình khăng đáo, dễ trò bắt nạt lại thầy lắm. Những phút nô nghịch, ăn trộm giờ học, bỏ tiết ngày càng hiếm hoi, Liệu phải “trộn” chúng vào buổi dạy. Thầy được là đứa trẻ, đã đành, mà đám trẻ cùng trang lứa - có anh lớn hơn - cũng được thư nhàn. Bỗng “chúa nhà” về. Vẻ vui nhộn tắt phụt. Cả lớp trở lại nem nép. Ông đồ không thèm liếc qua đám trẻ, lầm lầm phịch xuống chõng. Liệu mang bát chè tươi lại, hỏi bố đi nắng về có mệt không, được một tiếng “ờ”. Mặt ông đỏ gay, lúc thì tái dại, phất lấy phất để cái quạt, bình sinh có thể thay ngọn roi mây, học trò rất sợ. Liệu đứng cạnh bố, mắt chăm chăm vào củ khoai đuôi chuột bu đầy ruồi, một lúc quay về “lớp”. Cả bọn ê a: Đêm thanh thánh thót đồng hồ Tiếng ai như tiếng anh đồ nhà ta Chừng trưa thì rã đám. Liệu khoắng vại dưa vét mấy tầu thái nhỏ nghiến, cho vào cơm nguội rang lên. Không có mỡ, những hột cơm săn ngay lại, khô khốc, chẳng thấy mùi thơm. Liệu bê mâm lên, thấy ông đồ nằm quay vào tường, bèn chắp tay kính cẩn: “Con rang cơm rồi ạ. Hay cha mệt, để con luộc quả trứng. Nhà Chắt thiếu tiền học, sáng nay đưa chục trứng thế”. Ông đồ phẩy tay, ra ý cứ làm. Bữa cơm im lìm, chỉ con ăn, ông bố cứ chống đũa thở dài thườn thượt. Có chuyện rồi. Không biết mắc lỗi gì. Rất lo mà chả dám hó hé. Rồi thật bất ngờ nghe dịu giọng: “Con ăn trứng đi. Xong rồi bố nói chuyện”. Tức thị không có lỗi. Khỏi bị đòn! Cho nên “có chuyện” mà quả trứng vẫn trôi tuột từ họng xuống bụng ngay tắp lự. - Con nghe đây... Thời thế thay đổi rồi con ạ. Bây giờ cả nhà chỉ còn trông vào con. Chậm rãi. Những lời đã sắp xếp rất kĩ. Liệu lùa nốt bát cơm, cứ lạ sao bố chưa ăn mà đã xỉa răng chèm chẹp... Nhưng rồi cậu phải nín thin thít. - Cha vừa lên huyện. Bảng yết rằng nay là năm thi hương cuối cùng. Không còn kỳ nào khác. Vậy nên con phải chuẩn bị chữ nghĩa, rèn tập chu đáo. Thi đỗ là đạo nhà đấy con ạ. Anh Chước giỏi nức tiếng vậy mà mới chỉ được cái tú tài. Trông vào con... Chỉ còn trông vào con thôi... “Ô hô... Ô hô... hời ơi ời” Ông đồ nức lên, nước mắt nước mũi ướt chèm chẹp, chòm râu thưa giần giật. Để mặc bộ dạng chẳng chỉn chu, ông nghẹn ngào: - Quân Tây Dương chó má! Đồ cẩu trệ! Giống Di dịch lông lá! Chúng ép vua ta bỏ Vương đạo, hành theo bá đạo của chúng. Bỏ khoa cử, bỏ chữ Thánh Hiền là đâu khôn cùng, khôn cùng con ạ. Chúng bỏ thi là để bắt dân ta rập theo chữ tây, văn tây, tôn thờ tổ bố chúng nó chứ không được thờ Đức Khổng Khâu nữa. Đạo Nho khốn cùng rồi. Văn hiến đứt rồi. Không có luân thường đạo lý nữa. Chúng bắt ta sống theo lối cầm thú được là vì có tầu đồng tầu sắt. Nhục ơi là nhục! “Cha thì hỏng hẳn rồi, ông đồ đã kìm được tiếng nấc. Anh con năm ngoái đỗ nhưng lại sớm bỏ cả nhà mà đi. Chỉ còn con, còn con thôi. Lần cuối cùng, con không đỗ thì sẽ ra sao. Hả con? Hả con?” - Thì hết đường làm quan ạ. - Sao nữa? - Không tỏ mặt được ạ. - Sao nữa? - Nhà nghèo túng, người ta coi thường ạ. - Hết rồi a? - Dạ, không “báo thư cừu” được. - Đúng rồi. Đấy là mối hận tận xương tuỷ. Nhỡ con có sao, cha chết không nhắm mắt. Chả hiểu ông đồ còn truyền những gì, nhưng Liệu đã nín thin thít. Đi thi ngay, có khác nào phải lấy vợ tắp lự. “Chẳng may” đỗ, sớm làm “ông” thì đứa nào nó khăng đáo cùng mình. Nhưng được gọi “cậu tú” thì oách chứ nhỉ. Đậu hội nguyên, đình nguyên càng “chúa”, “võng anh đi trước... ”. A, mà làm gì có “nàng” mà “võng nàng đi sau”. Nhưng cứ thi đỗ đã tỏ lắm rồi, bố đỡ đòn vọt, mà có khi không phải học nữa cũng nên. Những ngày sau, Liệu được tẩm bổ, ăn uống sướng tệ. Những chuối trứng cuốc, cốm đầu mùa, trứng gà tươi ai ai trả chữ, ông đồ dành cả cho con. Nhưng phải thức khuya ra rả như cuốc, những chữ đã mòn lỳ cứ phải “luộc” lại kỹ, đánh cho nhẵn bóng. Ấy là năm 1915, Trần Huy Liệu mười bốn tuổi, cũng chả phải người bé nhất trong kỳ vượt Vũ Môn cuối cùng. Chế độ khoa cử Nho giáo hạn chế cách tuyển những ông thông ông phán nên nhà nước thực dân bỏ thi, đưa vào trường học các môn khoa học tự nhiên và lối đọc a bê xê lợn xề bánh đúc, u xê úc là cục mắm tôm. Điều ấy làm các nhà nho nước ta tức phát điên, càng thêm thâm thù bọn mũi lõ mắt xanh. Tiến thân vào đâu? Lên quan ngả nào? Và nhất là đạo nhà đạo nước, rường cột đã qua dăm bẩy trăm năm nay, phải chịu nhìn chúng gác qua một bên. Theo thể lệ, muốn thi Hương phải qua mấy kỳ hạch trước. Kỳ đầu, thi tuyển sinh bằng một bài luận quốc ngữ, Liệu vượt ngon lành. Kỳ khóa sinh làm luận bằng cả chữ nho lẫn quốc ngữ, cậu nhá dễ còn hơn thia lia được hòn đáo vào lỗ. Sức vóc ấy, bồ chữ ấy, quà thi khóa sinh để vào trường thi Hương, có gì mà phải ngại. Nhưng có chuyện trớ trêu làm chậm con đường đến Mỹ Trọng (1) của Liệu. Kỳ thi hạch đã qua, bảng yết lên cổng phủ. Trông thấy tên mình, Liệu nhẩy lên, chả kể những kẻ nước mắt ngắn nước mắt dài xung quanh. Nhưng đám chức trách lại phát giác ra đề thi đã bị lộ từ trước. Kẻ trộm đề bị bắt, xử phạt rất nghiêm. ----- (1) Nơi thi Hương của trường Nam (Nam Định) Lộ thì thi lại, có gì mà ngại. Bất quá mất buổi chơi và tốn thêm hào quà của mẹ. Sáng ấy, tay ôm quyển, tay cầm bút mực, Liệu qua cánh đồng phủ Vân Cát đến điểm thi. Gót chân dẫm lên vệ cỏ, bờ mương sao ngăn ngắt, ơn ớn lạnh. Trận gió nhẹ thổi qua không đủ thổi rụng mấy bông hoa gạo đỏ thắm trên cao, mà cậu nổi gai ốc. Đến cổng phủ, Liệu dừng lại, theo lời cha lầm rầm khấn Bà Chúa. Tới nơi thì đã mệt lắm rồi. Mắt đỏ lên, sưng húp, da nóng hầm hập, mà người lại run như dẽ. Những bạn thi chạy lại hồ hởi đón, người nọ gạt người kia, tranh nhau nói: - Liệu ơi, tớ có con quay cho ấy. Gỗ thị hẳn hoi, không phải ổi đâu. - Đừng có làm bài một mình. Phải cho anh em liếc với. - Trời đã cho ta kỳ thi lại. Liệu ạ, chỉ còn cậu là cho tớ chữ được, không bị trượt như lần vừa rồi. Yết bảng có tên là tớ trả công cậu ngay. Nghe nhờ vả, mơn trớn, khoái chí thật. Nhưng chỉ một lúc, cơn rét run người lại đến. Cậu bé ừ ào rồi đi tìm chỗ tránh gió, làm mấy cậu tú tương lai nản quá. Xướng danh. “Dạ có!”. Vào hàng. Lại xướng danh, xếp hàng vào nhận chỗ. Nghe những lời dặn dò không được ăn cắp chữ, không được gà bài, tai Liệu cứ ù lên. Dặn lắm khéo ta ngã mất. Đề thi xướng lên. Liệu cắm cúi chép. Yên tâm lớn. Gì chứ mình đã thuộc nằm lòng cả, trước, sau phải thế nào, chỉ việc viết ra. Xong, nộp bài cho sớm, kẻo ốm nặng mất. Nhưng sao mắt cứ mờ đi. Tay run bắn, cố ghì chặt lấy bút mà chữ vẫn xiêu. Cơn rét từ trong ruột đâm ra, tòi qua xương, qua thịt, làm bần bật cả bàn với ghế. Đầu nặng như ai lấy cái đỉnh úp lên, mắt không thể mở. Liệu đổ vật xuống đất, co quắp, không còn biết đến người ta đang khiêng ra, đổ nước gừng vào miệng. - Thật khổ, thằng bé học giỏi mà đâm hỏng. Tiếng ai lào xào bên tai. Không lẽ mình không làm được hết bài. Liệu vùng dậy xin thi tiếp, nhưng cơn sốt lại vật cậu xuống, càng lúc càng ác liệt. Mê man. Rừng rực như hòn than. Bệnh từ anh bạn cùng trọ học lây sang, người ấy bỏ cuộc ngay từ đầu, còn Liệu làm được nửa bài. Người ta mang cậu về nhà để mẹ trông nom. - Học tài thi phận con ơi! Ông đồ Trình uất tím tái cả người, mãi đến cuối ngày mới hộc ra mấy tiếng. Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm oẹ quan trường miệng thét loa Cờ kéo rợp trời quan sứ đến Váy lê quét đất mụ đầm ra Đấy là những câu chua chát nhà thơ thành Nam Trần Tế Xương (Tú Xương) tả lại trường thi Hương lúc Nho tàn. Kỳ thi Hương cuối cùng năm Ất Mão 1915 diễn ra trên cánh đồng làng Mỹ Trọng gần cổng tỉnh không có cậu khóa Liệu, tuy đã khoẻ lại sau trận ốm. Không muốn nhìn con nhà người lều chõng gánh đi, ông đồ Trình đắp chiếu nằm rên hừ hừ. Mọi hy vọng đều tiêu tan cả sau những gắng gượng cuối cùng, cha con dâng đơn hết cửa nọ đến cửa kia trình bày lý do, xin đặc ơn dự kỳ thi rốt, đều bị từ chối. Rủi ro của người này là may mắn cho người khác mà. Thật ra, vẫn còn một cơ hội nữa. Trường thi Hương ở Thanh Hóa đến hai năm sau (1917) còn tổ chức, Liệu có thể “mượn quê” trong đó đi thi, gọi là “ngụ thí”. Nhưng tiền bạc đâu ra mà ở trọ, chạy giấy tờ, đành bỏ. Khối người cùng trang lứa thất cơ đã xoay sang học trường Pháp - Việt, nhưng đấy lại chỉ là cửa may mắn cho anh có tiền. Cái tiền đồ hoạn lộ ông đồ nhắm cho cậu út phải đứt hẳn, giống như cánh đồng Mỹ Trọng không làm trường thi nữa thì biến thành sân bay. CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Cánh Hồng Leo Trên Tường Biển cả bắt đầu từ đâu? “Từ những dòng sông. Như sông Hồng, sông Ninh Cơ, sông Đào... , bao nhiêu nước đều đổ ra cửa Ba Lạt dưới Giao Thủy ấy con ạ. Thế nên chả trông thấy bờ bao giờ”. Sao lại sinh ra dòng sông? “Đấy là do muôn vạn khe suối nhỏ suối to róc rách trên nguồn. Những suối ấy lại có từ ức triệu những nguồn mạch rỉ ra từ lòng đất, từ áo rừng nguyên sinh, những rễ cây, thảm lá mục ẩm ướt che phủ núi đồi”. Thế “đất nước” là gì, màu hồng hay xanh, hình tròn hay chữ nhật? “Cứ tạm hiểu đấy là bờ tre, chùm khế, bóng đa che mát mái đình làng. Là làn khói bếp chiều hôm, củ khoai mẹ dành cho sau mỗi lúc nô nghịch. Từ những gì rất nhỏ bé, thân thuộc mà ai cũng có”. “Đối với người đi học, đó còn là con chữ, tiếng nói của người mình, những dáng tượng, câu chầu văn, nếp ăn nếp mặc của quê hương”. Đó còn là nỗi hận bọn người mũi lõ mắt xanh làm đứt mạch văn của giống nòi, chặn đứng mọi ngả đường tiến thân. Nhưng ông Trần Huy Trình chưa thể nhủ cho Liệu thấm hết điều sâu xa ấy. Còn lũn cũn, cậu bé chỉ nhớ đã bị mắng nên thân vì tội dám sang làng Báng Già bên cạnh chơi. - May cho con tôi! - Bà Trần Thị Nhự, tức bà đồ Trình, vừa thở vừa lau mồ hôi cho con. - Người bên ấy ghét người làng mình lắm. Họ đánh cho thì khốn. - Sao lại ghét ạ? - Người Tây dạy Báng Già, Báng Trại theo đạo. Các cụ nghĩa quân Văn Thân nhà ta ghét Tây, đã bắt giam mấy người làng ấy bỏ cho chết đói. Ông nội con đã giấu giếm, mang cơm cho họ. - Văn thân là gì ạ? - Giời ơi, có mỗi cái mồm mà hỏi lắm thế. Nói con cũng chả biết. Nhưng nhiều cụ cử, cụ nghè đến nhà ta chơi bàn chuyện bênh vua đánh Tây là Văn Thân. - Con cũng đánh Tây! Liệu nói rất cao hứng làm bà đồ phì cười: “Cha nhà anh, đánh bằng váy đụp à? Để rồi nó lại đốt cả làng. Có lần quân Pháp theo chân giáo dân đến cướp làng Vân Cát, đứng từ quán đầu làng bắn vào. Sau một hồi thì thụp mà không qua được cánh cổng làng toàn tre đực nguyên cây, chúng núng thế. Dân làng hăng lên, mỗi người cầm một cây gậy tầy xông ra đánh. Một thứ áo giáp ai cũng khoác lên người để đạn phải tránh xa là chiếc váy đụp tẩm nước đái. Cuộc phản công thắng lợi, giặc rút lui, làng chỉ hai người bị thương. Nhưng rồi giặc quay lại đốt cả làng. Cụ Trần Huy Làn, ông nội Liệu - bị bắt đi, mãi mới chuộc ra được. - Có đúng là váy đụp tẩm nước đái thì tránh được đạn không ạ?- Liệu lại hỏi. - Mẹ cũng không biết. Các cụ tin thế, nên đánh hăng lắm. Còn nhà mình thành tro. Bà đồ trả lời con ngọn ngành, nhưng không quên mách chồng chuyện Liệu sang Báng Già. May được ngày bố dễ tính, cậu chỉ bị mắng mỏ chứ không phải đòn. Bèn được thể thắc mắc tiếp: - Thưa cha, sao ta lại ghét đạo? Con thấy bên Báng họ cũng làm ruộng, chạy chợ như bên đây thôi... - Vì người Tây núp sau bóng Chúa vào đánh nước ta. - Nước ta rộng đến đâu? - Ô, rộng lắm. - Ông đồ phì cười nhưng sầm ngay mặt - Đi hết tỉnh ta, tỉnh Thái là đến quả núi rất dài, gọi là Trường Sơn. Hết núi đến sông Cửu Long, cá tôm nhiều vô kể, lấy rổ xúc cũng nặng tay. Nhưng những đất nhiều cá ấy cũng bị Tây chiếm cả rồi. “Xúc xuống nước mà cũng được rổ cá nặng tay, thế nào mình cũng phải vào cái “làng” ấy”. Liệu lơ mơ nghĩ, hỏi tiếp: “Thế vua có đánh Tây không?”. - Vị đánh vị không, đều không lại. Đức Hàm Nghi trốn lên rừng lập đồn trại, chúng nó bắt được đầy ra bể. Khổ cho ngài. Các quan cũng đánh, mấy chục năm ròng rã cũng vẫn thua. - Lớn lên con cũng đánh Tây! Liệu đứng vụt dậy nói lớn làm bà đồ phì cười. Kéo con vào lòng, bà âu yếm: “Cha nhà anh. Đánh Tây như bố anh, làm thơ chửi chúng nó chứ gì... ” - Bà thì biết cái gì! - Ông đồ gằn giọng. - Thì tôi thấy ông với bác Tú Cương, bác Cử Kiểm, cậu Khóa Nhàn cứ ngồi ngâm thơ, Tây nó có nghe, có hiểu đâu. Bình thường bà đồ rất hiền, hôm nay nói mấy câu đúng cả, mà sao Liệu thấy thầy đỏ lựng cả mặt. Ông đồ nhỏm dậy ngồi thừ một lúc, quay lại, rất khẽ: - Thế mình có biết bác cả đi đâu không? Bác theo đề đốc Tạ Quang Hiện khởi nghĩa bên Thái Bình. Tôi vướng nhà, chứ không cũng theo rồi. Tây nó biết nên mới đốt nhà mình. - Ra thế. Không nói nên tôi chả hay, bà đồ ra chiều biết lỗi. Nhưng súng ống, tàu đồng tàu sắt nó thế, sao đánh nổi. - Quả có thế. Đánh mãi, mất người, cháy cả nhà mà nó cứ trơ ra. Này mình, nhân thể tôi nói chuyện này... Ông đồ bảo Liệu đi ngủ, rồi thì thầm rất lâu với vợ. Có tiếng thở dài của bà, tiếng giải thích của ông, rồi bà lại tấm tức. Sáng ra bảo con: - Thầy bảo định cho anh Chước đi học xa, sang Nhật. Chả là các cụ các bác bàn nhau đánh Tây mãi không xong, thì phải đi học cho giỏi hơn nó, đè lại nó. Người Nhật cùng da vàng, đồng chủng đồng văn, họ sẽ giúp mình việc học trước, sau cho súng về đánh Tây. - Mẹ cho anh Chước đi không? - Liệu hỏi. - Đấy là thầy mới ý định. Nhưng anh Chước đã ho ra máu mấy lần. Mà đi thì để vợ con ai trông... - Hay là con đi! Liệu hăng hái quá làm bà đồ tức cười, vuốt tóc con: “Nhưng thầy đang định lấy vợ cho anh, lấy con ông lang Oanh bên Thái La”. - Con chả thích lấy vợ xa, Liệu nguẩy ra. - Làm gì mẹ chả biết con thích ai trong làng, bà đồ buồn buồn. Nhưng bên cô Lọc người ta chê mình nghèo. Không lấy được cô Lọc đâu con ạ. Thôi, cứ nghe thầy bu đi... Liệu buồn bã, ủ rũ, càng cám cảnh nghèo. Khoai chuột, cám rang thì cất mình sao nổi. Tưởng là đi học sẽ lên quan, đeo thẻ ngà, thì đường ấy đã tuyệt. Nghĩ đến ánh mắt đắm đuối, bước chân con cón của ai bên kia bờ ao mà đành chịu. Phận nghèo thì phải hèn thôi. Đấy là ngày trước, khi Liệu còn hay sà vào lòng mẹ, phải trốn cha để đi khăng đi đáo. Chứ mấy năm sau, gia cảnh càng khốn khó, nỗi bí bức hóa thành bi phẫn, thì cậu ra ông cụ non. Đêm đêm Liệu nằm ngâm những câu thơ ví mình như Bàng Thống ở đất Lôi Dương, chức tri huyện không thể phỉ chí. Những bài thơ đầu tiên cậu gửi đăng Nam Phong tạp chí kí bút hiệu “Đẩu Nam”, sánh mình với Địch Nhân Kiệt triều Đường bên Trung Hoa, tài năng lỗi lạc mà không được dùng. Ông đồ Trình ốm nặng. Ngôi nhà tấp nập thoắt lặng lẽ. Sinh đồ ra vào rón rén, âm thầm nén lo âu. Trong buồng bà đồ ngồi lặng, không thể khóc nổi. Đôi mắt bà đã lòa hẳn từ khi người con cả ra đi, lá xanh sao rụng trước lá vàng. Như ngọn đèn cạn dầu thì bừng lên, trước lúc hấp hối, ông đồ gọi con út vào, dặn trông nom mẹ, đàn cháu con anh Chước. “Đời người ai cũng đến lúc này. Thầy đi trước là có phúc hơn mẹ con... Con phải chững chạc, cứng rắn hơn. Đang đi đừng nhẩy lên như thế. - Vâng ạ. - Thầy buồn là đến giờ chưa lo được bến đỗ cho con. Anh Chước đã vậy. Nhà ta chỉ còn trông vào con. Không biết thầy có lầm khi cho là chỉ có học thì các con mới cất đầu lên được không. Nhưng nhà ta không học thì còn làm gì... - Không cần nghĩ nhiều nữa đâu, thầy ơi... Ông đồ hổn hển cố chống lại cơn ho, rồi dịu hẳn: - Con là người trai ngoan nhưng đa sự. Con sẽ vất vả mất... Cậu thiếu niên mười lăm tuổi không thể ngờ rằng mình, nhiều năm về sau, cho đến cả lúc đã tột bậc vinh hiển, lắm lúc sẽ còn phải nghĩ về linh nghiệm của câu trăng trối ấy. CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Chó Cắn Áo Rách Liệu lấy vợ sớm, ở cái tuổi non “anh” già “thằng”, nghĩa là chơi nhởi nghịch ngợm vài ba năm nữa không chán, mà khăn xếp áo the ra đình đàng hoàng một suất cỗ cũng đã đủ “chuẩn”. Tục quê xưa, nhà neo đơn hay lấy vợ cho con sớm để có người làm lụng. Nguyễn Thị Tý, cô gái khoẻ mạnh, sớm xốc vác là con ông lang ở làng Thái La, một trong mấy nơi hai bố con ông đồ đi bảo học. Đối với cô, Liệu là chỗ cha mẹ thuận gả, đã đành, còn bởi là người lắm chữ để “tham vì cái bút cái nghiên anh đồ”. Đang còn trẻ con thoắt cái thành đàn bà, Tý như không cần cái đoạn chuyển tiếp thiếu nữ mơ mơ màng màng, luôn mong một cái gì mà không rõ. Đêm tân hôn chắc lắm cảnh cười nôn ruột, chú rể nói năng như ông cụ nhưng “sự đời” chả biết quái gì cả. Còn cô dâu, như người nhà đã lâu, sáng ra gánh ngay nồi hông đựng nước giải ra ruộng rau. Khi lứa lợn, lúc luống lạc, cô làm cho cái gia đình tiếng cả nhà thanh ở Vân Cát đỡ khốn cùng. Thời chữ Nho không còn đắt, bố con ông đồ dù đứt bữa vẫn phải ngậm tăm đủng đỉnh ngõ xóm, ra điều vừa được ấm chân răng. Giờ thêm người nhưng cũng chả thấm vào đâu. Cái nghèo như tấm lưới đen xì, chắc chắn và nhớp nhúa bủa lấy ngôi nhà nhỏ. Liệu đi dạy ở Hạnh Lâm, Công Luận, Ngọc Ba... , góp được ít hào, quầy quả đi như chạy về làng. Đợi cậu có bà mẹ đau mắt, các cháu con anh Chước - vừa mất vì ho lao - để lại. Và người vợ trẻ vừa bén hơi. Cảnh nhà xum họp, dù rách rưới, vẫn vẫy gọi người “bán cháo phổi” xa quê. Nhưng vừa bước vào ngõ, Liệu đã phải sợ đến thót tim. Mùi thuốc phiện bay ra ngầy ngậy. Ai mà lại hút ở nhà ta? Chắc không phải người nhà mình, tiền đâu mà rước cái ấy... Gian giữa, ngay dưới bàn thờ, chềnh ềnh gương mặt lạ. Hai gã đàn ông ngả ngốn, chân cẳng chìa cả vào tranh tiên sư, đang móp má rít. Một đứa loẻo khoẻo, rõ là nghiện đã lâu, khoái chí nhìn thằng bạn vạm vỡ đang lên tiên, mắt đờ đẫn, chân tay thả thõng thượt. Liệu quắc mắt nhìn hai “vị khách” rồi quay sang Tý, lúc này đã ríu cả chân vì chồng về. “Chết thật. Thế này là thế nào?”. Tý kéo gầu nước cho chồng rửa mặt, thì thào: - Anh đừng nói to mà khốn. Họ đến đòi nợ... Liệu dập tắt ánh mắt phẫn nộ, qua cửa ngách vào buồng mẹ. Bà đồ gầy võ, đeo mảnh vải màn che đôi mắt mù dở, luôn chảy nước. Bà nắn chân tay, vuốt lưng cậu út rồi đẩy ra, ý chừng vì Liệu lớn rồi, đã “thành gia thất”. - Hai bác đây là người nhà ông chánh, bà giải thích. Ông chánh cử sang nhà ta nằm, bao giờ trả được thóc nợ mới về. Từ hai hôm nay nhà phải cơm rượu mời, con ạ. - Nhưng sao họ nằm chướng thế? - Ấy, khẽ mồm chứ. Chúng nó nghe lại ậm oẹ. - Giọng bà lại cao lên - Con phải từ tốn với hai bác, đừng để bụng những chuyện nhỏ. Ông chánh nhà đông đầy tớ lắm. Đang chuyện, bên ngoài gọi giật: - Cho nước nhá! Nước sôi đâu? Tý “vâng” rõ to rồi chạy vội từ dưới bếp lên. Thằng loẻo khoẻo ghé vành môi thâm xì vào vòi ấm. Nước nóng bỏng mà nó uống không ghê mồm. Thằng vạm vỡ chân vẫn còn giật, đập tay xuống chiếu ầm ĩ: - Cậu Liệu đã về rồi hả. Ra làm một bi với chúng tôi nào... - Chào hai bác! - Liệu đứng chắp tay trước cửa buồng, giọng rất lễ độ. - Tôi không biết hút. Các bác cứ tự nhiên. - Ôi dào, vẽ!... Không biết thì tập mới hút được chứ. - Quả là tôi cũng tập rồi, nhưng không hút nổi. - Cậu chê thuốc hả. Thế thôi. Ta ngồi nói chuyện. “Loẻo khoẻo” với chiếc thước lim nặng chịch dựa vách, nhìn anh đồ rất xấc láo, nhưng giọng lại bẻo lẻo, ngọt ngào: “Chuyện là thế này... Các cụ nhà ta vay ba thúng thóc của ông chánh, từ giáp hạt. Nay đến hạn mà nhà chưa trả, chúng tôi sang trọ lại ít ngày. - Chúng tôi cũng chả thích xa nhà đâu. Từ Bình Lục vào đấy. - Thằng vạm vỡ đế theo - Nhưng ông chánh đã nhờ, thì cũng coi như việc nhà mình cả. Cụ nhà và các cô các cậu chắc cũng chả thích. Thì cứ sòng phẳng mà trả cho xong. “Được cả đôi bên cậu ạ”. Hắn đặt bàn tay nặng chịch lên vai Liệu làm cậu suýt ngã xuống. Mặt chuyển từ đỏ sang tái, vừa tức vừa sợ, Liệu lắp bắp: - Nhưng... , nhưng... - Thôi “nhưng” sau. Cậu vừa đi dạy xa về, có đồng rượu cho bọn này bữa chiều chứ! Phải thịt thủ đấy nhá. Mấy hôm nay toàn nhắm với lạc, nhạt mồm nhạt miệng tệ. Ngoài ngõ chị Riệu đã về, gánh rau má lèn chặt oằn cả vai. Thằng loẻo khoẻo nghển lên, “tưởng gì... ” rồi lại ngả xuống. Chị Riệu mệt lắm, gánh rau đặt bịch từ ngoài cổng, không thể tha vào sân nữa. Phải vượt sông sang Bến Đá bên Thái Bình mới có rau, đi về bốn ngày vừa cắt vừa lôi tha, làm gì chả phát ốm. Liệu bê từng quang rau vào sân, sức nam nhi mà thấy nặng quá thể. “Ấy chớ... Nhẹ tay thôi kẻo giập rau, mai nó héo hết”, chị Riệu đang ngồi thở đã nhắc. - Nhà đâu, hết người rồi a? Cho ấm chè nào! Trong nhà thằng loẻo khoẻo dài giọng. Trông hai ngón tay khô đét của nó vuốt dòng nước dãi chảy xuống cằm đến là ghê. Liệu cố nén, nhưng giọng đã toát ra vẻ giận dữ: - Các bác xem, nhà còn ai đâu. Mẹ tôi mắt kém, chị tôi mới về đang nhọc. Thằng vạm vỡ xồng xộc ra sân dứ dứ tay thước vào cái chum hãm nước phèn. “Cái này dễ vỡ lắm đây, phải không cậu?”. Liệu nén nhịn xuống bếp gây lửa, tức nổ đom đóm mắt mà không dám nói gì. Ông chánh Cam thâm thật, mượn tận Hà Nam mấy thằng cẩu trệ. Quân nặc nô xa làng xóm dòng tộc còn biết nể sợ ai. Buổi tối, cả nhà ngồi quanh nồi cám trộn rau má. Trên trời, trăng giáp rằm tròn vành vạnh tỏa xuống thứ ánh sáng trong trẻo. Ngoài vườn tre chuối xào xạc, cây khế rụng quả lộp bộp. Cảnh đẹp thế mà Liệu nuốt không trôi, chị Riệu giục mãi mới lùa nổi hai bát. Trong nhà, đám khách không mời vừa tì tì nhắm rượu vừa cằn nhằn chửi đổng. Không có thịt, chị Riệu phải mua mấy bìa đậu nướng, dẫn vào buồng chỉ thúng cám và chum gạo nhẵn thín, chúng mới tha cho. “Ăn” xong, Liệu đóng áo the, dận đôi guốc mộc, bỏ chục trứng vào rá sang nhà chánh Cam. Ra đến cổng còn quay lại mò que tăm vừa đi vừa xỉa chèm chẹp. Không ra điều có ăn, ai người ta mượn dạy chữ cho con... Nào nhà ngói chữ môn, nào cầu ao lát đá. Những vựa thóc ngần ngật chấm mái, những đỉnh đồng, vạc đồng sáng choang. Nhà chánh Cam là một thế giới giầu sang, quyền quý, làm anh đồ nghèo lo ngại. Lại con chó dữ như hổ chực đớp áo lương mủn, và mấy đứa con gái váy nái khuyên vàng khủng khỉnh không thể tưởng. Liệu đứng ngoài bờ ao đến lúc muỗi cắn sưng chân mới được gọi vào, ấp úng: - Bẩm, nhà cháu có con gà nhảy ổ, chẳng có gì, gọi là đem biếu bà... - Đem về đi. Nhận của cậu chả bõ. -Mắt bà chánh liếc lem lém vào rá trứng - Đến vụ gặt rồi bà đồ không giả thóc là thế nào, hả? - Dạ, bà biết đấy, hai năm qua lụt có cấy hái được gì. Năm nay đê lại vỡ. Văn Chỉ cao thế còn ngập, ruộng không bỏ thì làm thế nào. Xin bà thư thư, cháu mới lo được từng này... Liệu móc túi lấy mấy đồng bạc gói sẵn, để lên bàn. Mắt bà chánh lại quét nhằng nhằng. “Ngần này mới chỉ đủ vốn. Ba thúng thóc cơ mà. Phải thúng rưỡi nữa mới có lãi chứ. Tôi không lấy lãi, làm phúc cho làng để chết đói à?”. - Dạ, nhưng thóc mùa rồi bị mủn do ngâm nước lụt, bà tính lãi hạ cho, nhà cháu phải trả gấp rưỡi thì thiệt quá. - A, nhà anh đi cả huyện gieo chữ, gặt về bao nhiêu bạc, mà còn bài bây, hả? Người ta tôn sư trọng đạo lắm kia mà. - Nhưng mấy năm đê vỡ liền liền, công cho thầy hạ lắm rồi. Mà chữ Nho mất giá... Bà cho cháu thư thư dăm bữa rồi xin trả lãi đủ. Hứa hẹn mãi, rã họng, mỏi mồm, bà chánh mới cho “y hẹn”, bảo người nhà cùng về gọi đám nặc nô Hà Nam rút. Đêm ấy gia đình được yên thân, khỏi nghe thằng loẻo khoẻo khạc nhổ, thằng vạm vỡ tồ tồ trước cửa sổ gian bà đồ ngủ. Nhưng Liệu, sau hồi chầm bập vợ, không thể ngủ nổi như mọi lần. - Sao vậy? -Tý xoay cái bụng đã thây lẩy sang hỏi. - Tức quá. Con mẹ chánh Cam cho khất nợ tạm nhưng riếc đến nhục. - Bảo sao? - Thà là nó cứ phũ mồm thô kệch, thì còn đỡ. Đằng này lúc về lại nói chữ, bảo “quân tử nhất ngôn đấy nhá”. - Ôi dào, tưởng gì... Thế mà cũng tức! Tý cười khì rúc vào lòng chồng, một tẹo đã ngáy khò. Anh đồ không thể ngủ. Cơn tức đã phải nhường chỗ cho cái đói đang cồn lên, quặn cả ruột. Mà ngoài sân trăng lại sáng quá. Những câu thơ chợt đến làm anh nhổm dậy, tiếng ngâm bật ra trong đêm... Trời chưa sáng chừ! Lốm đốm những sao Thời chưa gặp chừ! Vùi lấp anh hào Cỏ chi trong hang tối chừ! Ai biết mà hái Hoa lan trong rừng rậm chừ! Ai ngửi thấy hương Thơ, nhất là thơ cảm khái thậm vô tích sự. Vì một đêm đang trầm tư u tịch như thế, nhà Liệu bén lửa, cái tàn tro từ hàng xóm bay sang. “Của cải” cháy tiệt, trừ cái nồi hông đựng nước giải. May là bà lão mù giở và vợ chửa được dắt chạy ra ngoài kịp. CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Nổi Loạn Bà Hai Cảo làm đồng về, vứt thịch mớ rau lợn cạnh cối đâm bèo, mặt mũi đỏ gay. Lên nhà trên, bà thấy ông khóa đang nhâm nhi, đùi rung tít. “Phải nghèo, phải sạch mới chân nho... ”, ông cao hứng ngâm. Bà khóa rít lên: - Sạch với sẽ gì. Có ra ngoài kia mà xem, đứa nào nó viết gì lên tường nhà ông kia kìa... Cầm sách Thánh Hiền Mồm liền lẩm nhẩm Đi ra ngoài ngõ Giẫm phải cứt trâu Trên bức tường gạch mủn lỗ chỗ nhà ông khóa có mấy dòng nguệch ngoạc bằng vôi, có lẽ viết đêm qua. Giận run lên, nhưng nếp ứng xử của người quân tử không cho phép ông khóa mở mồm chửi đứa thối miệng. Tốt đẹp phô ra, chứ xấu xa bới tung lên để cả làng biết càng thẹn chứ ích gì. Nên chi ông quay vào sai người nhà đi xin vôi quét dấp đi. Khốn thay, người nhà còn có ai. Đã gọi là bần nho mà lỵ! Ông khóa Cảo bèn lấy dao rựa cùn ra cạo. Cả đời đi học, chừng nay bốn chục còn đi học, cạo mất sức lắm. Mồ hôi toát ra, vừa đẩy con dao trên tường mủn, ông vừa lầm bầm chửi đứa phá thối. Nó chê ông học nhiều mà ăn hại đây mà. Thằng nào nhà có đỗ đạt mới hoắng thế... Trong khu vườn bên kia ngõ, mấy chú choai vắt vẻo trên cây ổi đào ríu ran. Khoái nhất dĩ nhiên là Liệu, tác giả mấy câu vè nghệch ngoạc. - Tao giẫm con bọ nẹt rát quá chúng mày ơi. Liệu đứng trên cành rung rùng rùng như có bão, reo đắc thắng. Mấy đứa khác nắc nỏm: - Thằng Liệu giỏi, nghĩ tợn thật. - Kể thì vè chưa chỉnh nhưng nghĩ thế đã sướng chán. - Này, ông tướng có vợ rồi đấy nhá! Câu nói sau làm Liệu cụt hứng. Tụt xuống gốc, cậu lững thững về nhà, bắt đầu thấy hối. Thì ông khóa Cảo dốt nát, học nhiều mà chữ nghĩa tối mò mò, giã cối gạo, chẻ cành củi không xong. Nhưng thế thì có tội gì mà bêu? Vả lại ông còn là bạn anh Chước, là sinh đồ của thầy mình. Nhưng ai bảo ông ấy gạo, gạo quá, ngày đêm lẩm nhẩm mà có hiểu ý nghĩa gì đâu. Những ý nghĩ nửa ân hận nửa hả hê theo Liệu về nhà, nơi Tý đang đợi cơm. Từ ngày anh Chước, rồi thầy mẹ theo nhau về chín suối, gánh nặng gia đình đặt cả lên vai vợ chồng Liệu. Con gái Xuân, gọi là cái Mẹt, và cu Chiểu, tức thằng Mo ra đời, lại thêm các cháu con anh Chước, gia đình bị đẩy vào chỗ không ngóc đầu lên được. Lúc nào cũng lo ăn. Cả nhà là một đoàn tầu luôn luôn hối thúc như cảnh tượng ngoài ga Gôi, bắt phải ngược xuôi bươn chải. Bình sinh Tý đã như người đàn bà ra đời để làm lụng. Quần quật với mấy sào ruộng, tối ngày về lại chăm vườn tược, gà lợn, Tý không thấy nhọc, chỉ thỉnh thoảng eo xèo vì mồm ăn lắm quá. Nhưng Liệu thì khác. Ngược xuôi Thái La, Công Luận, Hạnh Lâm gõ đầu trẻ, ngày chạy ba bốn lớp, cậu không thể trốn được tuổi ngựa non. Ông thầy đôi tám không chững chạc hơn trò là mấy, thi thoảng còn xà vào đám chọc phá của mấy sinh đồ đã lộc ngộc vỡ tiếng. Phải giữ lễ trước các bậc nho cựu trào, làm bộ trịnh trọng trước học trò là một cực hình. Lắm lúc Liệu phải ra vườn đá bình bịch vào bụi chuối hay nhẩy cỡn lên. Chí ít, là ngâm mấy vần thơ đầy hào khí nhưng bi phẫn của kẻ không gặp thời, những câu Tý chỉ cho là “dớ dẩn”. Không còn người kiềm toả trong nhà, Liệu thấy như mình đã hư thân hơn. Cho nên, trêu xong ông khóa Cảo, hả hê chút ít rồi lại thấy mình không phải. Nhưng ác hại nhất, là Liệu thấy mình như đã hư tâm hơn. Những câu ghi xương khắc cốt của ông đồ Trình dần bợt bạt, phôi pha. Đạo Thánh Hiền đã không cứu nổi cả nhà. Học tài thi phận, chí cao mà có ai dụng? Bao giờ mới gặp người tri kỉ, để thờ phụng, để dốc sức như Bàng Thống, Khổng Minh gặp Lưu Bị xưa? Chữ Thánh còn đáng để ta nhai nhải, ghi tâm, trích dẫn, ví von hàng ngày, khi mà độ nhật toát mồ hôi không xong? Cho nên, hàng ngày bán chữ kiếm ăn, dạy lại những “chi hồ giả dã” nằm lòng, Liệu thấy mình như trâu nhai rơm. Mà mình là con người, đang độ lớn, chứ có như con trâu cày ruộng ngoài kia, tối về được nằm chân đống rơm là đủ. Không lo thân, xoay chuyển được hướng đi, khéo lại như con trâu về già, người ta chọc tiết ồng ộc xong pha ra cho vào nồi ninh, là hết. Còn không được phong lưu bằng ông khóa Cảo... Càng bức bối khi đọc tân thư. Từ trước, chỉ biết chữ cụ Khổng, nhai nhải những điều người trước đã biết cả vài trăm năm. Xung quanh, những túc nho, học giả yêu nước bề bề, một lòng cho Tây Dương là giống lang thú, vì người nó lắm lông lá, không biết đến cái Đạo của ta. Nhưng sao nó cứ đánh đâu được đấy, “ăn” xong trong Nam thanh toán nốt Bắc Kỳ, coi quan quân ta chả ra gì. “Sang ta chỉ là cặn bã của Đạo Nho thôi. Có thấy cũng theo trung nguyên, nhưng phong kiến ta có bao giờ được Trung Hoa coi trọng bằng các triều ở Cao Ly, Nhật Bản đâu”. Có lần Liệu nghe được câu ấy trong buổi anh Chước gặp mặt mấy người bạn, bèn nằm lòng. Cái ý phê phán vật cũ, nhận biết cái mới nảy mầm, ngọ ngoạy trong đầu. Mấy quyển sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu như mũi tên bắn vào hệ thống Nho học cụ đồ để lại, làm những mảng miếng chữ nghĩa rụng xuống lả tả. Ở làng thì bụng đói chân tay bí, ra đến ga Gôi, đến tỉnh Nam Định, thấy những việc người Tây họ làm, thì đức tin phải lung lay thôi. Những trung tâm lớn như Hà Nội, Sài Gòn thì sự kính tín càng dễ suy sụp. Không suy làm sao, khi mà ở chính Trung Hoa, nơi đẻ ra đạo Nho, người ta theo cả mấy nghìn năm, mà đám cách tân còn mọc sủi ầm ầm. Dù nhà Mãn Thanh còn trị vì, nhưng trí thức, thanh niên tiến bộ bên ấy đã trông sang phương Tây. Lương Khải Siêu lấy hiệu Ẩm Băng, ý nói trong lòng nóng quá phải uống băng cho hàn bớt. Cuốn Ẩm Băng thất của ông khiến lòng Liệu ngổn ngang, rã rời. Đả kích lối thi cử hủ bại, gọi bốn trăm triệu đồng bào mình là bốn trăm triệu cầm thú, họ Lương tự nhận mình là cái đích cho muôn mũi tên của bọn hủ nho bắn vào. Sĩ phu náo loạn vì những phát đạn tiên sinh bắn ra. Ai lại đang dầy dầy quốc đạo, đường đường trung tâm vũ trụ, mà ông ta rước về những tư tưởng của Mông - tét - ski - ơ, Rút - xô, Von - te. Bá đạo chứ còn gì. Tà đạo ấy chứ lị. Mấy cái lão những lông đầy người ấy là ai. Cần gì những thứ của bọn Tây Dương mũi lõ! Những mầm nghịch thấm vào Liệu mỗi lúc một tẹo, cựa quậy, lớn lên trong sự chèn ép của chân Nho. Ít ai, kể cả ông đồ Trình, lại ngờ được người đầu tiên rước “bá đạo” về nhà là anh Chước. Một hôm Liệu bị anh lôi ra đám rau ngót cuối vườn, thì thào: - Hôm nay thi hạch, quan trường ra đề luận Tử Lộ và Quản Trọng ai giỏi hơn ai... - Hỏi gì mà hỏi lạ thế? - Liệu ngạc nhiên. - Lạ chỗ nào, chú nói anh nghe! - Tất nhiên là Tử Lộ hơn. Ông ta môn đồ cụ Khổng, chính đạo rành rành. Quản Trọng có giỏi đến mấy cũng chỉ là phường bá đạo thôi. - Thế mà anh Cung ở Nho Quan lên, học trò cụ đồ Huyến, lại luận Quản Trọng hơn. Kể thì dũng cảm thật, dám nói ngược các cụ. Mà anh thấy Quản Trọng có nhiều cái mới lắm. - Dũng cảm nhưng thi trượt đầu nước cho mà xem... - Anh cũng chán sự thi cử lắm rồi. Nhả chữ phun châu như con vẹt, mà nhà vẫn chả đủ ăn. Có khi anh đi buôn... Liệu tròn mắt, như thể không nhận ra người anh hàng ngày. Tú Chước nói rất hăng về những biến pháp, tân pháp trong lịch sử, bọn Thương Ưởng, Quản Trọng nghịch ngợm, phá cách thế nào. Anh khuyên Liệu đọc Công ước (1), Vạn pháp tinh lý (2),những Nam sử, Địa dư, Toán pháp... - Cả mấy tờ Đông Dương tạp chí, Đại Việt quan báo, Đại Việt công báo nữa. Nhất là Đăng Cổ tùng báo rất lạ, không như trong trường ốc mình đâu. Đang hăng thì trong nhà ới ra. Hai anh em quay vào, tú Chước không quên dặn em: - Đừng nói gì với thầy nhá. “Thủ tử thiên đạo” (3)mà. ----- (1) Contrat social của J. Rousseau, nay dịch “Khế ước xã hội”. (2) Esprit des lois của Montesquieu, nay dịch “Tinh thần pháp luật”. (3) Giữ đạo trời cho đến chết. Từ hôm ấy, luống rau ngót sau nhà thành chỗ Liệu vểnh tai ra nghe anh nói về “Mưa Âu gió Mỹ”, sách “Trung Quốc hồn” của Lương Khải Siêu. Cả một chân trời mới mở ra. Liệu bắt đầu lần mò sang những sách về Lu- i Kốt - suýt, nhà cách mạng Hung - ga - ri, quyển “Ba người anh kiệt nước Ý” của Man - di - ni. Chúng như có thuốc kích thích, đọc xong muốn bắt chước nhân vật để tang nước mất, đi làm cách mạng để ở tù. Cứ quay cuồng vậy mà ông đồ không biết, phần bị giấu, phần nhà lắm việc, vắt mũi chả đủ đút miệng, lấy đâu thì giờ hỏi han con. Anh Chước mất, để lại một hòm sách. Rất lâu sau đám tang, ông đồ mới mở hòm, lấy ra cuốn vở xem kĩ rồi thở dài: “Anh con không sang Nhật được, phí quá!”. Cuốn vở có tên “Phương châm cứu nước”, ghi chữ Nho, đặc những điều trần mà đám sĩ phu mới ở Trung Hoa đang sùng sục đòi áp dụng: mở trường kiểu mới, bỏ lối thi truyền thống, cưỡng bách học tập, lập hội buôn, áp dụng kĩ thuật của người Âu, cải lương phong tục ta... Những điều anh Chước viết là một đòn giáng nặng vào người ở lại. Liệu vừa sợ vừa xa bố, cảm thấy nghiêm cẩn cũ kĩ quá, trong khi ông đồ đêm ngày lo con út đi xa dần những nguyên tắc của mình. Liệu mất người bày tỏ những “cái gì” với “tại sao”, mà ông bố cũng hoang mang lắm, không biết có nên gò thằng bé đi mãi con đường cũ... Năm 1917, bố và anh đi cả, Liệu chả còn ai để kiềm toả. Dù đã vợ con, cậu vẫn là chú nghé ngứa sừng. Cái mần tân học lớn dần khiến Liệu cứ phải chọc ngoáy, quấy phá những bậc tiên nho trong vùng. Thoả chí đấy, hả hê đấy, nhưng chỉ được chốc lát. Ông khóa Cảo ù lỳ cũ kĩ, chẳng có tội gì nữa mà hành thêm. Thi hỏng rồi, muốn thi tiếp không được, mà việc mở trường bán chữ ngày càng khó, càng rẻ. Mà chữ chỉ là chữ thì để làm gì, mình không trọng chữ nữa lại cứ dậy mãi được a... CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Phương Nam Vẫy Gọi Trượng phu chống kiếm đi thì đi Đừng như nhi nữ lúc phân ly... Liệu cứ tưởng mình lẫm lẫm ra đi được ngay, nếu vợ níu lại thì rút gươm cắt phăng ngay vạt áo mà tiến vào sương gió. Dễ như bỡn. Nhưng đâu có thế. Anh thấy mình cũng yếu mềm, lâm ly thổn thức như thói thường. Để tang chồng hơn một năm, bà đồ cũng đi theo, tới cái chốn có cả con trai cả, để lại trên đời mớ cháu cho cậu út. Không phải chăm mẹ lòa, Liệu lại sớm gánh lấy vai bố. Hĩm Mẹt và cu Mo lọt lòng quặt quẹo, thiếu sữa mẹ dù Tý rất khoẻ mạnh. Có cách nào để vẫn vào với nhau mà không có con nhỉ? Đêm đêm, ngay khi hổn hển với nhau, vợ chồng trẻ ngay ngáy lo, sướng thế nhưng thêm mồm thêm miệng thì khổ lắm. Ông giời thế mà ác! Bỏ đấy mà đi tức là để nợ cho vợ, rất là không nỡ... Nhưng không đi thì sao? Sinh nhai, dù cố cách nào không thể có cửa gỡ ra. Luôn luôn là cái gánh nặng lo ăn, cả đời không bỏ xuống được. Và cái làng quê thì quá lắm tục lệ, sống quanh quẩn không chịu được. Như anh Đích, tầm tuổi mình, nhìn cây cột ghi một năm ba chục cái giỗ mà mặt mũi bạc cả. Không trốn giỗ được nhà ai, mà ai trốn giỗ nhà mình thì cũng nằm lòng, sao luỹ tre làng nó thắt con người ta chặt vậy. Lên Hà Nội gửi bài cho tạp chí Nam Phong, Liệu thấy sao đời người đàn ông ở tỉnh nó nhẹ nhõm. Độc lập, không phải ra kính vào bẩm, thích chào ai thì chào; mình cũng có thể sống như bọn nhà báo tự do được lắm chứ. Khối thằng danh nổi mà thực lực đâu so nổi với mình, chỉ được cái cô đầu thổ đĩ là thành thần. Thế thì đi đâu, thế nào, với ai, và nhất là lấy gì để đi? Liệu thiên về phía Nam, nơi cuộc sống thoáng đãng, ít “mùi” Nho học hơn Hà Nội. Sài Gòn, với những lề luật của xứ thuộc địa, nhất định là mở chứ không khép hờ hờ như đất lề quê thói. Và kiếm ăn hẳn là cũng dễ, “xúc cái rổ xuống nước cũng được mớ cá to” kia mà. Và về phần chí hướng, Liệu cũng thấy khuôn khổ tự do trong Nam thích hợp với mình hơn. Dù những bài báo, kí nhiều tên khác nhau, đem lại chút vinh danh cho anh ở làng, nhưng Hà Nội vẫn cứ chật hẹp thế nào. Những tộc người từ một làng quê lên sống bằng một nghề thủ công, dựng đình đền, đem cả thành hoàng lên thờ, nó tạo ra cái bí bức. Liệu cũng đã bớt phớn phở với những tư tưởng của Lương Khải Siêu, thấy nó “nửa vời”, không đến nơi. Mà anh thì quá ghét thằng Pháp, thấy nó đứng đâu chỉ muốn đem đất chỗ ấy xúc đổ đi. Đi Nam, vào chỗ “mùi Tây” nặng hơn, tức là phải ngửi hít, chịu đựng những thói thực dân của chúng nó nhiều hơn rồi. Mà mình phải sống được chứ không thể thành cái xác bón cây cao su như đám phu mộ đang kìn kìn vào trong ấy... Liệu thấy như bị bó chân. Lắm lúc mặt đần thối, đi đường làng dẫm cứt trâu, chả khác ông khóa Cảo. Cứ miên man chả rứt ra được. Cô vợ trẻ tất nhiên chả thích chồng lang bạt. Nghèo thì cũng có nhà có cửa rồi, ở nhà rau cháo có nhau chả hơn à... Cú hích để anh rời khỏi quê nhà là từ ông Bùi Trình Khiêm, bạn thân anh Chước, một thời dạy Liệu học. Là nhà Nho có danh vọng nhất nhì vùng Vụ Bản, ông Bùi lại thấm thía con đường cụt của đạo Thánh Hiền, nhất quyết đoạn tuyệt với khoa cử ngay từ khi bỏ thi Hương. Học trò ông nhiều người đã chuyển theo Quốc ngữ, vào trường Pháp - Việt hay sang ngạch kĩ nghệ, buôn bán. Ít năm sau, ở Hà Nội, thông Vôi (Nguyễn Hữu Thu), ký Bưởi (Bạch Thái Bưởi) đã được coi là vĩ nhân khi rời bỏ đám nho sinh ưa bạo động, trở thành nhà tư sản hàng đầu Bắc Kỳ. Ông Bùi yêu mến chú hậu sinh vừa là trò vừa là đàn em, bàn rằng: Nam Kỳ là đất thuộc địa, chính sách nới rộng, tư tưởng mở mang hơn. Ta vào đấy kiếm ăn dễ, lại đoạn tuyệt thói thủ cựu, có khi cậu như cá gặp nước. * Tháng chín năm 1923, tàu Caravellas, thường gọi là chiếc “Năm - sao - cụt” rời cảng Hải Phòng vào Sài Gòn. Lộ trình thường mất ba bốn ngày, gặp bão lốc sống được là may. Tàu chở bò xuất khẩu, khai thối không thể tả. Khách, là đám “đi thêm”, có vợ chồng ông Bùi, hai con, Liệu và vài anh bạn. Năm người trong “phái đoàn ông Bùi” được ngủ trong phòng chủ tầu có độc chiếc giường, giá thuê mỗi ngày một đồng bạc Đông Dương. Nhưng sự chật chội, nhớp nhúa và mùi nước đái bò không làm Liệu ngán mấy. Ngổn ngang trong lòng chàng trai hai mươi hai tuổi là bao nhiêu hi vọng. Caravellas không phải tàu khách nên chả có ai tiễn. Hú lên hồi còi dài, nó đủng đỉnh rời bến. Đứng trên boong, nhìn cầu cảng xa dần, Liệu chợt cồn lên nỗi rưng rưng. Phía đuôi tàu là phố xá, chả nhìn thấy đâu cái làng Vân Cát bé tẹo nghèo khó, ngôi mộ của thầy mẹ, anh trai đã sang cát. Tý liệu có chạy gạo đủ cho các con cùng cháu, hay sẽ sang Thái Bình cắt rau má như chị Riệu. Và ngôi nhà, đã đôi ba phen cháy rụi... Khỏi Đồ Sơn thì mọi tâm trạng bay biến. Chỉ còn nôn oẹ, choáng váng, sây sẩm. Có cái gì như lưỡi câu móc vào ruột kéo ra, rút tuột mẩu bánh mỳ hồi sáng. Một lúc, mật xanh trong bụng cũng không còn, nhưng cơn nôn khan cũng chả buông tha. Căn phòng nhỏ tanh tưởi, ai nấy nằm như lũ gián chết. Liệu ra ngoài đứng ụ tầu. Sóng đâu mà lớn thế. Như núi chờm qua. Cả cây nước từ trên trời trút xuống. Thấy người khách trẻ hãi, vào buồng tránh rồi lại chạy ra, anh mạch lô bảo từ đây là chỗ lắc mạnh rồi. Chẳng có núi nào cản nên sóng từ xa cứ nhè tầu mà bổ. “Phái đòan” bảo nhau cố chịu, bốn ngày đến nơi sẽ thư sướng, tha hồ ăn mặc gấp nghìn lần ở quê. Nhưng sao đám thủy thủ đều hối hả vậy, hết ca không ăn cơm mà chỉ nhá bánh mỳ, tiếp tục làm việc. Ai cũng thất sắc, vẻ khẩn cấp hiện rõ là thế nào. Nghe đâu máy hỏng, tàu bị thủng, phải hàn. Anh mạch lô trẻ, từ đầu lúc nào cũng nghêu ngao hát, chui từ buồng chỉ huy ra hét chõ vào buồng máy: - Quan tư ra lệnh lúc nào kéo còi mới được cắt phao đấy! Thôi. Thế là chết rồi! Bất đắc kì tử giữa biển khơi, đến nấm mồ cũng không có. Bà Bùi oẹ khan, cố cầu giời khấn Phật. Bất giác Liệu cũng “Nam mô A Di Phật... ”, “Lạy Bà Chúa Liễu, con là người làng Vân Cát đây, bà đừng vật chết chúng con ạ” (1). Trong cơn cồn cào là hình ảnh vợ con, những con người yêu mến ta và ta hằng yêu mến. Sự nghiệp ngắn quá thế. Ta mới có mấy bài thơ tỏ chí trên Nam Phong... Đời ngắn thế ư? Tình đoạn thế ư? Không được chết vì tay những kẻ ta hận thù thế này thì uổng quá. ----- (1) Bà Chúa Liễu Hạnh quê Vân Cát, tương truyền hay làm dịch bệnh, thiên tai, hoả hoạn phạt kẻ bà không ưa. Chừng như trời phật nghe thấy, nên sóng bớt to, bể êm hơn. Tàu đã chữa xong, bơm được nước ra, còn máy lúc chạy lúc hỏng. Lênh đênh, ngắc ngoải mãi ngoài khơi, thế nào mà cũng vào được tới Đà Nẵng sau bẩy ngày. Ngày thứ mười sáu thì cặp Sài Gòn. Năm thầy trò lên bờ xanh xao, tanh tưởi. Nhưng chỉ sau bữa cơm no, Liệu đã có thể ngâm rống lên “Mãi mãi phồn hoa kim thế giới, Lịch triều khai thác cổ phong cương” (Thế giới ngày nay đầy mắt phồn hoa, bờ cõi ngày xưa đã từng khai thác từ triều vua này đến triều vua khác). CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Thợ Nửa Mùa Ông Bùi Trình Khiêm có người bạn là Lê Đức, chủ trương tờ Nam Kỳ kinh tế. Ông Đức có hơn mẫu vườn ở ngoại ô Sài Gòn -Chợ Lớn, đang thiếu nhân công. Vậy là thầy trò có thể tha hồ múa bút hay đánh cây, làm cỏ. Bằng không, ra buôn bán nhì nhằng ngoài phố đợi thời phất lên cũng được chứ gì. Chuyển sang thương mại là một xu hướng của đám nhà Nho thất thế. Nghĩ đến nghiệp lớn đang chờ, thì hùng tâm tráng trí lại lên ầm ầm. Nhưng trước hết phải làm chầu hủ tiếu. Sau đó, chải sạch quần áo để hết những tanh tưởi hôi hám trên tàu. Đi kiếm sống cũng phải bề bề thể diện, vừa giữ cho mình vừa giữ cho người mình sẽ nhờ cậy. Rồi cả đoàn đóng xe kéo đến địa chỉ đã được cho. Căn nhà hoang tàn, như vừa có trận bão cuốn qua. Ông chủ, thiểu não hơn cả khách, cho biết do làm chính trị, ông bị mật thám khám nhà, phủ Thống sứ Nam Kỳ gọi lên bắt ký vào nghị định trục xuất về Bắc. Bơ vơ giữa Sài Gòn đắt đỏ, “phái đoàn nho sĩ Nam Định” giạt về Mỹ Tho rồi sang Sa Đéc. Sa Đéc có cụ Võ Hoành, cũng là một chính trị phạm bị an trí, sống bằng nghề thuốc. Cụ Võ rộng nhà rộng bụng, có thể cho họ dung thân ít lâu. Hàng ngày Liệu tán thuốc, thái đỗ trọng, xay tam thất, rầu ruột ngâm những câu thơ cảm khái. Thơ cảm khái thì sẵn vô cùng. Áp Tết rồi. Xung quanh rậm rịch mổ lợn gói bánh tét. Ngoài sông vắng hẳn những con thuyền khẳm trái cây. Thầy trò ông Bùi đi dạo phố, ngắm những cửa hàng của người Hoa đỏ ối lạp xường, đàn trẻ nhấm kẹo bông mồm nhoe nhoét mà cám cảnh vô cùng. - Xẩy nhà ra thất nghiệp là đây, Liệu ạ. Ông Bùi rầu rĩ thở ra trong khi Liệu để tâm vào bàn thờ thiên trong góc chợ. Khói hương nghi ngút, mầu giấy phong bao thật tươi mắt. “Hay là chúng ta viết câu đối... ”, anh reo lên. - Nhưng cậu vẫn thương hại bọn bần nho bán chữ kia mà. - Thưa thầy, đến nước này thì mình phải thương lấy thân mình thôi. Miệng nói, chân hăm hở rẽ vào hàng tạp hóa. Ông Bùi cũng hăng lên dốc túi mua mấy băng hồng điều, cây bút lông lớn và thỏi mực tầu. Ngần ngừ trước cái nghiên, hai thầy trò quyết định chẳng xa xỉ làm gì, ra mé chợ nhặt mảnh bát vỡ còn hơn. Cái góc phố họ chọn đông người qua lại, trước một gian hàng đã đóng cửa ăn Tết. Giải chiếc chiếu lem nhem, Liệu sắn tay mài mực. Cũng may thầy trò mang cả áo lương theo nên trông ra dáng ông đồ. Ông Bùi ngồi bằng tròn lấy tờ báo ra thử bút. Nhưng sao tay cứ run bắn, mặt hết tái dồn sang đỏ. Được một lúc thì gác bút, chìa ngón cái tay phải nhăn nhó: “Dập đã mấy tháng rồi mà không hồi nổi. Liệu viết đi. Ấy, khoan đã... ” Lại phải chạy đi mua thẻ hương. Bắt đầu một “nghề” mới, cách kiếm ăn mới, không cầu khấn mấy câu thì thần thánh nào ban cho cái may. Đoạn mào đầu không thiêng liêng lắm nhưng không đến nỗi báng bổ, vì Liệu chợt nghĩ đến đền Ngọc Sơn ngoài Hà Nội. Cụ Nguyễn Siêu viết “Tả Thanh Thiên” lên Tháp Bút là muốn tỏ ước vọng vòi vọi “viết lên trời xanh” của kẻ sĩ, mình cũng có ước vọng đấy chứ. - Viết chữ gì bây giờ, thầy ơi. - Liệu cất tiếng. - Thì cứ những câu thông thường ấy thôi. Không cần cao thâm làm gì. Tống cựu tà ma ra khỏi cửa Nghênh thân phúc lộc rước vào nhà Liệu nhoay nhoáy thảo vào đôi băng giấy điều, chữ nhỏ và bay bướm, nét đậm nét thanh rất điệu, đoạn treo lên. Đang soạn một đôi câu đối khác thì có tiếng trầm trồ “Hảo a! Hảo a!”. Ông Tầu mặt tròn trĩnh đứng gác một chân lên hè ngắm nghía, miệng khen không ngớt. - Tiên sinh viết đẹp hà. Phết phẩy rất có hồn hà. - Dạ, không dám... Liệu nhún mình đúng kiểu chân Nho không coi lời tâng bốc hay đàm tiếu vào đâu, phóng bút tiếp. Tết đến nhà nhà vui con trẻ Xuân về thôn xóm chúc ông bà Đấy chỉ là những câu sáo mòn, đối không hẳn đã chỉnh, ngoài kia Liệu và đám bạn vẫn chỉ trỏ cười chê, nay cóp lại mà được khen nắc nỏm. Những là sâu xa, những là hàm súc, nhiều ý tứ bên trong lắm. Dân “ở trỏng” dễ tính thật. Vài người nữa xúm lại, kẻ không biết thì tò mò, người có chút chữ thì tán tụng. Ông người Tàu đợi cho câu đối ráo mực, cuộn lại, bảo “Tôi lấy đôi này dán cửa bếp. Nhưng hơi nhỏ. Phiền tiên sinh viết cho đôi đại tự dán cột nhà”. Thấy Liệu nhăn nhó, ông vỗ túi xường xám: - Tiên sinh khỏi lo. Tôi có tiền. Tôi mua giấy lớn, bút to, tiên sinh phóng tay đại tự mới hả. Ông ta cứ nhì nhèo, rằng bấy lâu ở Sa Đéc không ai biết viết câu đối đẹp, rằng được chữ tiên sinh là có phúc lớn cả năm. Có biết đâu rằng “tiên sinh” đang bí. Từ nhỏ đến giờ toàn tập trong vở, có viết đại tự bao giờ. Đó là một thử thách rất lớn, ai không rành thư pháp hở cơ ngay, như đô vật lấm lưng trắng bụng trên sới. Cũng may ông Bùi đứng ngoài đỡ hộ: “Xin ông thông cảm. Thư pháp không phải không biết. Nhưng gia đình chúng tôi có một lời nguyền từ tổ tiên để lại là không viết đại tự bán, chỉ làm từng đôi nhỏ thế này, chơi cho vui. Các vị cho bao nhiêu cũng được... ”. - Thế thì tôi đành chịu. - Ông khách trả tiền đôi câu đối nhỏ rồi bỏ đi. Từ sáng đến trưa không bán thêm được đôi nào. Người người cứ tụ rồi lại tán, có khi chê gàn, có khi khen chân Nho giữ đạo nhà. Rồi cuốn chiếu thu “nghiên”, rửa bút lủi thủi về. Đau nhất là ông Bùi, rất thạo đại tự mà không múa bút được vì cái ngón tay chết tiệt. Liệu đau xót nghĩ đến cha, anh, giận mình chê cánh bần Nho bán chữ giờ mất cơ kiếm ăn. Mấy xu đôi câu đối chả đủ tiền giấy mực, đúng là chó cắn áo rách. Về đến nhà, thì những miệng đang chờ. Cụ Võ Hoành nghỉ hàng, Tết không ai bốc thuốc. Liệu tần ngần rồi dứt khoát bảo ông Bùi: - Thầy ơi, em phải đi thôi! Tầu thủy Sa Đéc - Mỹ Tho trống hoác như dạ dầy người khách ngồi gần buồng máy cho ấm. Người bán vé đến, Liệu phải vật nài mãi mới bán lại được chiếc đồng hồ ông Bùi cho làm kỉ vật được ba đồng bạc, đủ tiền về Mỹ Tho rồi bắt xe lửa về Sài Gòn. Tiếc lắm. Nhưng phải độ thân trước đã. Sài Gòn sáng rực. Pháo nổ đì đẹt, người đi lại sao mà diện, mà đẹp, trong khi mình chỉ cốt ấm. May ông chủ nhà 80 đường Bonard rất tốt, đón khách vào nhà. Không gian có mùi nhang, cành mai trong lục bình làm vợi nỗi cám cảnh trong lòng người xa nhà. Nhưng lại ốm mới chết. Tê phù, chân tay liệt như không phải của mình. Phong tê thấp, cái chứng quái ác người Bắc hay mắc khi vô Nam đã hỏi thăm đến Liệu. Anh không thể ngồi dậy, người múp míp như túi nước, ấn tay vào nhũn nhùn nhùn. Và hôi thối vì không thể ngồi dậy đi vệ sinh. Cũng may hàng ngày có người dọn dẹp, lau chùi hộ, chứ không thì căn gác bị lầm tưởng là cái nhà cầu không ai quét. Thật ra thì Liệu không cám cảnh nhiều lắm, niềm vui ra giêng có việc làm anh khấp khởi. Đó là tập sự nghề khắc dấu đồng, theo học những thợ đàn anh trong nhà. Cầm dùi sắt, chạm đồng, xước sát, chảy máu luôn tay, Liệu chẳng quản. Khốn thay anh không phải người khéo. Thế nên, phần vì thương mến, ông chủ cứ phân thêm những việc nhà cho nhẹ nhàng hơn. Thỉnh thoảng ông rủ Liệu đi ăn hủ tiếu, xem hát bội. Với một người Nam Bộ bình thường, những nhận xét của Liệu được xem là rất sắc sảo. Được tôn trọng, coi là nửa tập việc, nửa là chú em, mà Liệu không thấy thoải mái. Người ta tốt. Nhưng cứ thế này anh sẽ không học được nghề mà vẫn mang ơn nuôi ăn. May là thuê chung ngôi nhà có ông phó may. Liệu bèn xin sang học nghề mới với cái cớ chân tay lóng ngóng, e tốn công dậy dỗ của thầy. Bây giờ là đốt bàn là, đơm khuy, thùa khuyết, dọn vải vụn, chạy đi mua chỉ... Tuy lặt vặt, anh có tâm trạng đỡ là người ăn theo, kiếm tiền một cách sòng phẳng hơn. Có lẽ Liệu sẽ thành một thợ may khéo? Không chừng sẽ thành ông chủ tiệm lớn, hàng ngày tươi cười đứng đón các bà các cô tới đo ướm, cũng nên... Tối đến, còn chút thì giờ, Liệu sẽ ngâm thơ cho mấy ma - nơ - canh nghe. Những cô nàng ngực nở bụng thon bằng nhựa, bằng gỗ sẽ vui lòng thưởng thức tâm sự của “anh hùng mạt lộ” suốt đêm... Nhưng chứng tê phù giã bẹp mọi mong ước. Các khớp ngón tay đau đớn. Đầu gối to tướng, đỏ bóng. Chỉ cần ra Bắc, nơi khí hậu kém ẩm thấp hơn là ta sẽ khỏi. Nhưng tiền đâu mà ra. Nằm lại thì thuốc ai bố thí? Được người cơm cháo, dọn rửa thế này, là phúc đã lớn tày ngôi phủ thờ Bà Chúa Liễu ở quê rồi. Tráng sĩ đau lòng thân ỷ lại Anh hùng thẹn mặt cảnh vô nhan Mặc dầu ai biết, ai không biết Mắt thiết nào trông thấy ruột gan Trong căn gác tối om, hôi hám, tiếng ngâm của kẻ cuồng sầu thảm như vọng từ cõi âm lên. CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Gặp May Tư Trinh, ông bạn già đã lênh đênh nửa đời trên bể cả, mở mồm ra là “dân chủ” với “cộng hoà” lại chẳng biết lấy một mảnh i tờ nào. Dù không có chữ, ông vẫn là cứu nhân độ thế cho Liệu trong cơn khốn quẫn. Không hiểu hết nỗi niềm nhưng trân trọng, ông sẵn sàng nghe những lời tiêu cực của kẻ sĩ bị hãm vào bĩ cực. Thỉnh thoảng ông giở mình, đấm lưng cho anh, đổ cái bô nặng mùi dưới gậm giường. Bẵng mấy hôm, làm Liệu khắc khoải trông. Rồi Tư Trinh đến với chiếc bánh ngọt. Đút cho anh ăn từng mẩu, ông lại bắt đầu “hầu chuyện”. Nghe Liệu ư ử những “anh hùng mạt lộ” với “tráng sĩ lỡ thời”, ông khoái chí lắm. - Khẩu khí! Khẩu khí quá! Tư Trinh vỗ đùi đánh đét và bắt Liệu chép lại. Mai ông qua Sài Gòn - Bến Thành, sẽ gửi hai bài thơ “đầy cảm khái” cho tòa báo “Nam Kỳ kinh tế”. Báo hại “tráng sĩ” phải ngồi dậy run rẩy múa bút, mỗi cử động là một cực nhọc đau đớn. - Kí vào đi! Cậu phải kí chữ gì ác liệt vào chứ... Ông giục toáy lúc Liệu đương choáng váng. Chẳng nghĩ được cái tên oai hùng hay bi thảm hơn, Liệu điền hai chữ “Đẩu Nam” xuống dưới thư. Ngoài Bắc, qua những “Nam phong” với “Thực nghiệp dân báo”, người ta đã biết đến “Đẩu Nam” rồi. Gửi thư đi và mong kết quả là một cái thú. Nhưng căn bệnh hành làm sự thú vị giảm đi nhiều. Thêm nữa là nỗi thắc thỏm. Từ dạo học nghề, Liệu giấu biệt cái đuôi thi sĩ, sợ làm trò cười cho người xung quanh. Cũng may bệnh lui dần. Có ai ngờ giống tỏi, thứ tỏi Bắc nhỏ củ mà cay sực lại có tác dụng vậy. Cứ cơm và tỏi, Liệu đã nhúc nhắc được những việc riêng cho mình. Đang tập tễnh xuống gác, anh giật mình nghe chú học việc gióng to: “Nhà mình có ai là Đẩu Nam đâu nhỉ... Thế mà lại có người hỏi, đúng địa chỉ này... ”. Mừng rỡ nhưng không thể hấp tấp, Liệu bước ra, làm bộ rất từ tốn. Ông khách còn trẻ, vẻ mặt cứng cỏi, thưa rành rẽ: “Tôi xin gặp Đẩu Nam tiên sinh”. - Ông ấy vừa đi vắng. - Liệu nói thác - Nhưng dặn tôi có điều gì cứ nói lại. Ông quen ông Đẩu Nam ạ? - Tôi cũng không quen. Nhưng đọc Nam Kỳ kinh tế thấy hai bài thơ của tiên sinh, thấy thích bèn đến tòa soạn hỏi địa chỉ. Đây đúng là số 80 đường Bonard chứ ạ? - Đúng thế. - Tiếc quá. Thế thôi, tôi cảm ơn ông và xin phép vậy... - Nhưng ông đã đến đây thì cứ lên gác đã. Có chuyện gì tôi sẽ thưa lại ông Đẩu Nam. Đưa khách lên gác, Liệu khấp khởi mừng. Thơ đăng có hào nhuận bút đã đành, lại còn được người đọc để ý đến. Là tri kỉ hay là kẻ đến để phản bác đây? Trong phòng chỉ có mỗi chiếc ghế vải, mời khách ngồi mà Liệu cuống lên. Chiếc bô dưới giường may đã dọn, nhưng hẳn còn lưu cữu lại hương khăn khẳn, thứ mũi anh đã rất quen. - Thưa, xin lỗi, tôi chính là Đẩu Nam. Ban nẫy phải giấu bạn thợ vì không tiện nói... Ông khách trẻ ngớ người. Ai ngờ Đẩu Nam tiên sinh còn trẻ và khốn khó thế này. Anh ta xưng là H. T, đang dịch sách tại nhà ông Trần Quang Nghiêm, hội trưởng hội Khuyến học Nam Kỳ. - Tôi rất cảm kích cái khẩu khí của anh, H. T nói. Thú thật, người Nam Kỳ đơn giản, tôi ít tri kỉ lắm. Đã lâu mới gặp giọng “anh hùng tráng sĩ”, bèn lập tâm đi tìm cho được. H. T người Quảng Ngãi, một vùng quê nghèo kiệt “có chút chữ nghĩa chẳng thi thố vào đâu”, bổ vào Sài Gòn, nơi không khí báo chí, học thuật thông thoáng, mới mẻ hơn. Thấy khách cám cảnh với những khốn khó của mình, Liệu bỏ thói hàn nho, cũng bộc bạch những tâm sự bí bức đã lâu. Nào chông gai trong thi cử. Nào những “tác phẩm” đã được in hay còn đang “thai nghén”. Nào những kiến văn về phận nước nhà đang tìm đường, ảnh hưởng của hai chí sĩ Trung Hoa Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Tất cả làm H. T trầm trồ. - Đúng là con hổ đang bị nhốt trong cũi, khách quả quyết. Tôi phải tiến cử anh với ông Trần Quang Nghiêm mới được. Hai “tiên sinh” tiễn nhau bịn rịn mà không thể hồ hởi ra mặt. Trước những con mắt của bạn nghề, Liệu không thể lộ gốc gác, thân phận. Phải giữ đường lui chứ. Hai hôm sau, cánh thiếp may mắn bay đến. Đơn giản, đó chỉ là tấm bìa ghi danh, ông Trần mời Đẩu Nam tiên sinh ăn cơm, nói chuyện tại khách sạn Cửu Long Giang. Mừng rỡ nhưng cũng e ngại và phiền phức quá. Bộ dạng tiều tuỵ, không che được thì đành vậy. Nhưng quần áo tề chỉnh thì lấy đâu. Liệu lôi dưới gầm giường đôi giầy da đem từ Bắc vào, lau hết bụi. Chiếc áo the thâm bạc phếch trên mắc, khi lôi xuống mới hay thiếu ba khuy nách. Và đi tắm cho hết cái mùi thằng tê phù. Trời không rét mà Liệu run rẩy, run nhất vì chẳng còn chiếc áo nào mặc lót bên trong. Khởi hành sớm. Không thể trễ trong cuộc gặp này. Đi bộ, mà không thể bước rảo, vì tay phải khép chặt vào sườn kẻo rơi vạt áo. Đôi chân lâu ngày không đút vào giầy bị da cứa, chả mấy chốc phồng đỏ. Đau đấy nhưng mặt mũi, bộ điệu vẫn cứ phải đàng hoàng, đáng bậc “tiên sinh”. Cửu Long Giang là khách sạn sang nhất Sài Thành hoa lệ. Trước cánh cửa gương lộng lẫy, mấy chú canh cửa mặc đồ trắng, đội mũ đỏ, chân quấn xà cạp đỏ đứng lừng lững nghiêm nghị. Không hỏi han lời nào nhưng các chú “củ soát” ông khách khác giai cấp từ đầu đến chân. Qua khỏi cánh cửa, Liệu cẩn trọng đưa mắt quan sát, tiến đến cô lễ tân thơm nức hỏi chỗ. Phòng dành cho khách đặc biệt cũng quá lộng lẫy. Những đèn chùm, xô pha, trần nhà chạm trổ chim chóc hoa lá như đè chụp lấy kẻ nghèo. Tường nhà ốp kính nên quay đi đâu cũng không trốn khỏi bộ dạng của mình. Dưới ngọn đèn sáng trưng, H. T đứng cạnh người đàn ông thấp bé đeo kính gọng vàng. Liệu tiến lại, cúi mình chào và nghe lời giới thiệu của H. T. - Tôi rất sung sướng được gặp ông. Me xừ Trần Quang Nghiêm trịnh trọng nói và giơ tay ra. Liệu vừa động tay đáp lễ thì vạt áo không khuy thõng xuống, cái bụng ủng phớ ra. Cửu Long Giang sang trọng thế mà thiếu tiện nghi, chả có cái lỗ nẻ nào để ta chui xuống. Thôi thì cứ đành điềm nhiên, đằng nào người ta cũng đã biết thân phận mình. Ông Nghiêm là người lịch lãm, lơ đi như không biết sự “xí hổ” của Liệu. Chủ khách yên vị. Cái bàn che đi sự hở hang làm Liệu tự tin hơn. Anh cảm ơn sự lưu ý của “quý ông”, lưu loát tự bộc lộ mình, trả lời những câu hỏi của ông Nghiêm và cũng bầy tỏ lại những quan tâm khác. Đã biết cả hai bên, H. T ở giữa, là cây cầu tuyệt vời nối lại những lúc bị hụt nhịp. Tự giới thiệu hoàn cảnh, công việc, chuyện nở ran lên khi chuyển sang “mục” thời thế, xã hội. Qua tuần rượu thứ nhất, Trần Quang Nghiêm tin rằng anh hàn sĩ trước mặt chính là người mà ông, hội đoàn của ông đang rất cần. - Sài Gòn thiếu những người như ông. Còn ông đang cần Sài Gòn. Hãy đừng nghĩ đến chuyện ra Bắc... “Me xừ” nói thế khi chia tay “tiên sinh”. CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Nổi Danh Và Nổi Chìm Quan hệ mới với Trần Quang Nghiêm và hội Nam Kỳ khuyến học giúp Liệu thoát khỏi cảnh cá mắc cạn. Rời bỏ những bàn là, kim khâu, dùi sắt dùi đồng, anh được cầm cây bút, tận dụng hết sở học, tài năng, ý chí. Tình yêu của anh hướng vào dân tộc đang bị đô hộ cần được canh tân, còn lòng căm thù dành cho thực dân thuộc địa, lũ quan lại, phú hào. Tháng 6 năm 1924, tức là chừng chín tháng xa quê, Liệu được Quốc Biểu giới thiệu vào làm ở “Nông Cổ mín đàm”, tờ báo có dư hai chục tuổi, vào loại già dặn ở Nam Kỳ. Chủ báo là Lê Thành Trường bổ Lâm Hiệp Châu làm chủ nhiệm, Trần Huy Liệu làm chủ bút. Hai tiên sinh làm thuê tương đắc nhau về quan điểm chính trị, xác định một xu hướng tranh đấu. Nghĩa là, chí hướng chả đồng hành quái gì với tên tờ báo uống chè nói chuyện làm ruộng, đi buôn. Họ công kích chính sách thuế, những thủ đoạn bóp nặn, bóc lột, những lề thói khinh rẻ người bản xứ, sự hèn hạ trong đám quan liêu. Lệ thường, báo ra phải đưa bản đầu tiên đến Ty Kiểm duyệt, bị gạch bài nào thì đưa bài khác lấp, đến khi thấy “an toàn cả” mới in hàng loạt và phát hành. Ngay số thứ nhất tiếp quản báo, anh chủ bút hăng máu đã viết một bài nẩy lửa về tiếng bom của liệt sĩ Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Merlin ở Quảng Châu, Trung Quốc. Kiểm duyệt bỏ ngay làm Liệu phải lấp bằng một bài vô thưởng vô phạt. Liền mấy số, cứ thấy bút danh “Đẩu Nam” là bị đục. Liệu thay tên kí là “Côi Vị”, tức non Côi sông Vị ở quê nhà Nam Định, nhưng ty Kiểm duyệt cũng chẳng để xổng. - Cứ để trống những chỗ bị đục bỏ, không lấp nữa. Ta phản đối mà lại phân bua được luôn với thế gian. - Liệu bàn với Lâm Hiệp Châu. “Bài cùn” ấy có hiệu quả. Người đọc càng thương, càng mua báo nhiều. Dù sao lúc ấy trên trường báo Nam Kỳ chưa mấy tờ nói chuyện chính trị, tranh đấu cho kẻ nghèo, quyền lợi dân tộc. Thuê phải “lũ” chủ nhiệm, chủ bút thứ dữ như thế, Lê Thành Trường cứ phát sốt phát rét. Quá bằng rước hổ về ngồi trong nhà. Dù số phát hành tăng, có lãi, ảnh hưởng báo lớn, nhưng chả bõ bèn với chuyện phải đương đầu với các thế lực chính trị và đám phú hào. Đã bao lần Liệu, Châu được chủ báo nhắc chỉ nên mon men gãi ngứa thôi, chớ nên gây sự đánh lớn. Nhưng hầu như Nông Cổ mín đàm số nào cũng bị đục bỏ vài ô. Giọt nước tràn cốc là bài kiểm duyệt để lọt, tố cáo địa chủ Trần Trình Huy cậy của giết người, lấp liếm tội. Dư luận ầm cả lên làm gã công tử Bạc Liêu ức lắm. Bên ngoài đâm đơn kiện báo, bên trong nhắn nhe đe doạ, Huy làm Lê Thành Trường mất hết kiên nhẫn với hai thằng làm loạn. Báo bị đòi lại, người ra khỏi tòa soạn ở phố Pellerin. Lại sểnh nhà ra thất nghiệp, Liệu theo Lâm Hiệp Châu đến tá túc phố La Reyniere. Ăn ở nhờ bạn, còn bạn lại nương vào vợ rơi vợ hờ của một Hoa kiều ở Chợ Lớn, tức là ba miệng ăn bám vào một cái trôn đàn bà. Thế mà hai cái mồm mới vẫn rất to tiếng đấu lý đấu luật với kẻ có quyền. Đám công chức quản lý báo chí cứ phải nghe liên tù tì những câu kiểu: “Sao bảo tự do ngôn luận, bình quyền bình đẳng mà các ông bịt mồm người ta nói sự thật?” “Những tư tưởng lớn của cách mạng Pháp chỉ áp dụng bên chính quốc, còn ở đây các ông cấm ngặt chứ gì?” Báo bị đòi nửa tháng, thì Liệu “lách” được quyển “Ngòi bút sắt”. Theo luật thuộc địa, sách không bị kiểm duyệt như báo, chỉ phải nộp sáu quyển cho sở Mật thám, ty Kiểm duyệt và tòa án. 24 giờ sau khi nộp, những sở, ty, tòa này không ra lệnh cấm hay tịch thu, sách được phát hành rộng rãi. Dựa vào điều này, Liệu ra báo dưới dạng sách để khỏi bị kiểm duyệt. “Sách” “Ngòi bút sắt” lọt lưới, ra số đầu vạn bản, không nằm trên giá mà đến từng hang cùng ngõ hẻm trên tay trẻ bán báo. Đầy những tin tức nóng, giọng điệu công kích mạnh mẽ, bán chạy như tôm tươi. Nằm ở phố La Reyniere, Liệu đã có tiền đưa người đàn bà cho nương nhờ, tối tối có thịt quay ăn và cười rinh rích chuyện xỏ mũi được nhà cầm quyền. Mỗi tuần là một sự chờ đợi hiệu quả, nỗi vui sướng hả hê, rồi lại lao vào chuẩn bị số sau, những cú đòn mới. Dĩ nhiên là động đất rồi. Ra tới vạn bản, “Ngòi bút sắt” ngập tràn cả Sài Gòn - Chợ Lớn chứ ít gì. Danh tiếng “tác giả” “sách” nổi như cồn. Miếng ăn thường nhật không còn là mối lo cho kẻ sĩ nữa. Nhưng mà nhấp nhổm. Thấp thỏm đợi đòn. Được tuần nào ngày nào hay chừng đó, thế nào nhà chức trách cũng xuống tay. Chẳng phải đợi lâu. “Ngòi bút sắt” tập 2 đang in dở ở nhà Testelin thì ông chủ hủy hợp đồng. Đem chỗ khác, họ nhận, nhưng hôm sau lại gọi hủy, mấy nơi đều thế. Và có cái thư mời, kính gửi mơ - xi - ơ Trần. Sở mật thám ở phố Catinat có cái cầu thang xoáy trôn ốc lên tầng thượng, leo chóng mặt. Trong kí ức các chính trị phạm, đây là một sản phẩm thật thông minh của trí óc mật thám: lên đến nơi thì đầu óc và chân tay đều bủn rủn, trí “tranh đấu” dễ nhụt vài phần. Liệu không thể ngờ mình còn phải leo lên cái chỗ chó đẻ ấy nhiều lần nữa. Trong căn phòng rộng có bàn giấy, bộ xô pha, người Tây có tấm lưng tròn trĩnh, ngắn ngủn chừng như không biết có khách, đang quay mặt ra cửa sổ. Sự chờ đợi gây ra tâm lý mình bị bỏ rơi, thậm chí là khinh rẻ. Mấy phút trôi qua, chừng như đòn cân não đã ngấm, “cái lưng” mới quay lại. - A, chàng thanh niên, mời anh ngồi. Đấy là chánh mật thám Arnoux, nụ cười tủm tỉm, có nét hồn hậu không hợp chút nào với nghề nghiệp. Giọng Bắc rất sõi: “Anh ở ngoài Bắc phải không? Tỉnh nào?”. - Tôi ở Nam Định. - Liệu trả lời, nghĩ “các anh còn lạ gì nữa... ”. - Ừ, tôi ở ngoài ấy cũng đã lâu, rất có cảm tình với người ngoài ấy. Năm nay anh bao nhiêu rồi ấy nhỉ? - Hai bốn tuổi. Câu trả lời cộc lốc làm Arnoux bỏ ngay vẻ hồn hậu. -Tôi đã nhận thư anh rồi. Tôi là một người già cả mà anh ăn nói, viết lách không có lễ phép gì hết. Anh tưởng người Tây thì không cần lễ phép ư? Người Tây cũng lễ phép lắm. À mà tôi rất thích người Bắc vì người Bắc rất lễ độ. Đâu có như anh! “Hay anh định doạ tôi? - Arnoux gầm ghè, giọng đàn áp. - Anh phải biết rằng trước kia làm đại lý Hải Ninh tôi đã một mình sang trại giặc khách buộc chúng phải trả lại bà đầm chúng bắt cóc đấy. Hãy thận trọng, chàng trai ạ. “Chàng trai”, xuất thân Nho giáo, chả hề muốn nghe bài học về phép lịch sự tí nào, bèn tranh thủ lúc Arnoux ngưng lời, nói luôn: - Vâng, nhưng mà hôm nay tôi được ngài gọi đến đây, điều mà tôi muốn viết, như đã viết trong thư, là có phải ngài đã ra lệnh cấm các nhà in cho in tập Ngòi bút sắt của chúng tôi không? Chúng tôi đã làm rất đúng luật nhà nước. Ngòi bút sắt in ra, đưa nạp bản. Hai mươi bốn giờ sau các ông không ra lệnh tịch thu, chúng tôi mới phát hành kia mà. Nghĩa là như mọi quyển sách khác, Ngòi bút sắt không hề phạm luật. Vẻ hòa dịu trở lại trên gương mặt béo tròn. Arnoux nháy mắt cười khanh khách: - Tôi biết thừa Ngòi bút sắt của các anh ra sao rồi. Nó là một tờ báo trá hình. Quyển sách quái gì mà ngoài bìa lại đề giá bán hàng tháng, hàng năm, tên chủ nhiệm, chủ bút? Sách gì mà lại có các bài theo chuyên mục? - Nhưng có ai quy định sách không được phép có các mục như ông nói đâu. - Cứng cỏi nhỉ. Lại còn giở lý nữa đấy. Nếu các anh nói gì phạm luật thì sách sẽ bị tịch thu và người ra sẽ vào tù. - Chúng tôi chỉ nói sự thật. - Thì các anh cứ nói sự thật. - Viên chánh mật thám đủng đỉnh rất đểu - Muốn in thì in, tôi có cấm đâu. - Nhưng nhà Testelin đang in Ngòi bút sắt 2 thì họ nói ông có lệnh cấm in. Nhà Jules Việt ở Sài Gòn, nhà Á Đông ở Chợ Lớn đều bảo sở Mật thám gọi dây nói đến. Hôm nay các ông đã nói rõ là không cấm in, thì xin cho tôi mấy chữ để nhà in họ khỏi sợ, kiếm cớ không in báo... , à, in sách cho chúng tôi. Arnoux im lặng, rồi dứt khoát: - Không! Tôi không cấm và cũng không phải viết gì! Hắn khoát tay, ra điều chấm dứt câu chuyện. Quân chó đểu! Thủ đoạn hèn hạ! Từ phố Catinat đi ra, Liệu tím bầm người vì căm cái lệnh mồm đê mạt của Arnoux. Ngòi bút sắt không thể chết. Anh và bạn bè đi tới những nhà in nhỏ đang thiếu việc. Đâu cũng nhận lời trước, từ chối sau. Người của sở đã theo họ từng bước. Vài ngày sau, hai tờ la Cloche félée ( Cái chuông rạn) và lEssor Indochinois (Ðông Duong ðột khởi) ở Sài Gòn loan tin Ngòi bút sắt bị giết. Cái chết không do ðao kiếm, không có máu chẩy, do một thế lực vô hình quyết ðịnh. Rồi ðồng nghiệp Việt Nam hồn, tờ báo có xu huớng dân chủ bên Pháp cũng ðãng lại vụ này, chậm hon. CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Giết Báo Lại “nghỉ phép” bất đắc dĩ. Lang thang chõ mũi vào các sạp báo. Thấy có sự kiện gì chực đưa tin với bình luận, rồi sực tỉnh ra là mình chả có quái gì trong tay. Và mồm miệng thì đậy lại, treo lên. Không thể kéo dài được. Và cũng không thể quay về phố Bonard cầm kim khâu nữa. Liệu không phải là một người “cần mẫn”, dù là để nuôi gia đình. Chỉ có làm nghề chữ nghĩa anh mới có chỗ “thả” chí hướng của mình ra. Vả, tiền nong nó đem lại, dù chả dư dật, vẫn đỡ hẻo hơn phần anh thợ tập việc. Mà Liệu đang cần tiền ghê gớm. Tý đã vào Sài Gòn với chồng, để lại ở quê hai nấm mộ Mo, Mẹt. Cu Goòng, sau này đặt là Trần Huy Diễm - sắp ra đời, phải đón cháu Ái vào trông. Nhà mấy miệng ăn trông cả vào những bài báo gửi lay lắt, bị đục bỏ nhiều hơn được đăng. Liệu về đầu quân lại cho ông Trần Quang Nghiêm, cầm tờ Pháp - Việt nhất gia. Nghiêm không có chủ trương chính trị hay xã hội gì rõ rệt. Công việc làm ăn, chăm lo cho đồn điền cao su chiếm nhiều thì giờ, ông phó mặc tòa soạn cho “mấy thằng có nghề”. Liệu và cộng sự được tự do lựa chọn, bố trí bài vở. Tờ báo tiếp tục giọng cũ của những “Đẩu Nam”, “Côi Vị”, “Nam Kiều”, đương đầu với cánh Lập hiến có xu hướng thoả hiệp với thực dân. Sau số kỉ niệm một năm ngày cụ Phan Chu Trinh mất, Pháp - Việt nhất gia lại làm làng báo thuộc địa loạn xà ngầu. Những viên quan nhũng, những tây đầm khinh khi người ta, những sắc thuế vô lý bị chỉ trích. Trong xa lông, những đôi mông tròn trịa nẩy tưng lên, điện qua lại tới tấp. Phải có ai đó chịu trách nhiệm! Cuối tháng tư năm 1926, quản lý Lê Thành Lư hộc tốc về tòa soạn. “Ông Nghiêm đòi lại báo để làm cơ quan ngôn luận cho đạo Cao Đài”. Tin quá sét đánh làm Liệu bàng hoàng. Bọn Lập hiến, bọn tham quan không bị chửi nữa, tha hồ vỗ tay đây. Anh trầm ngâm rồi bật thốt lên: “Hay mình giết tờ báo đi. Đừng để nó sống nhục. Với lại cái tên “Pháp - Việt nhất gia” cũng nên chôn nó đi”. Kể thì việc định đoạt có đôi chút ngần ngừ. Trần Quang Nghiêm là chỗ Liệu mang ơn, đổi phận học việc cho anh sang chỗ đắc địa là trường văn trận bút. Kiếm được tiền, có chút danh phận, là phải nhớ đến ông ta rồi. Nhưng còn những yêu ghét của mình, vì cái ân ấy mà tháo đổ đi đâu được. Làm báo mà không đem cái lý tưởng xã hội của mình vào thì hóa ra công chức ăn lương a, chưa kể làm bồi bút... Đêm cuối tháng tư, đương giao mùa, là lúc Liệu viết như chưa bao giờ được viết. Những bài “đinh” trên bốn trang báo đều của anh, chỉ chèn vào vài chuyên mục nhỏ. Hoàn toàn tự do. Nói thẳng, nói hết, không phải tìm câu chữ để nguỵ trang cho ý tưởng nữa. Nghĩ đến những trang báo bị kiểm duyệt gạch xanh đỏ chằng chịt, Liệu trút hết hận ra. Đầu tiên, là chửi chính cái chủ trương Pháp - Việt nhất gia mà tờ báo mang tên. Những bài sau vạch tội nhà băng Đông Dương và chế độ thuộc địa. Thứ tự do ngôn luận trá hình, thực chất là bóp nghẹt báo chí, mị dân, bị vạch trần ở loạt bài khác. “Mài óc” suốt đêm, cho Lê Thành Lư chép lại, xong đốt hết bản thảo. Tảng sáng thì xong, mệt và đói đến bã người. May có tiếng rao ngoài đường, Liệu và Lư vừa ăn vừa nói chuyện “giết báo” làm ông sực tắc khó hiểu quá. Pháp - Việt nhất gia số cuối ra một vạn số, in luôn một lúc chứ không chạy thử máy nữa. Sáng ra, khi sở Kiểm duyệt dòm ngó đến thì từng chồng báo từ nhà in đã ra đến ngoại thành để tràn về Lục tỉnh. Nhân viên sở đang cặm cụi gạch xanh đỏ lên tờ báo duyệt thì ngoài phố đã như có đám cháy. Khắp Sài Gòn - Chợ Lớn, sen đầm, cảnh sát được huy động đến tận các xóm nghèo. “Pháp - Việt nhất gia đơi ơi ơi... Báo đơi ơi ơi... ”. Trẻ bán báo vừa cất giọng đã bị xô lại bắt. Các hàng sách báo bị lục tung. Không lúc nào nhà cầm quyền lại sợ Pháp - Việt nhất gia như bây giờ. Nhưng phố Sabourain, nơi đặt tòa soạn thì vắng lặng. Hai đầu phố, cảnh sát, sen đầm đứng cấm người qua lại. Từ trụ sở đi ra, ai cũng bị khám xem có đem báo ra ngoài không. Trên ban công gác hai nhà 37, kẻ vừa giết báo nhìn xuống con phố vắng, không nhịn được cười khi thấy ông quản lý đi nghênh ngang đợi người đến bắt. Thiêng liêng, hiên ngang thay là những người cùng chí hướng... Trần Quang Nghiêm từ Biên Hòa đâm bổ về, loạng choạng lên cầu thang. Không buồn bắt tay “tên” chủ bút, ông chỉ xấp Pháp - Việt nhất gia còn lại trên bàn, thất thanh: - Các ông giết tôi rồi. Nó còn dữ gấp mấy tờ Việt Nam hồn bên Pháp nữa kia. Liệu bần thần. Đấy là giây phút thử thách nghiệt ngã hơn cả lúc anh bị lôi về sở cẩm. Cơn bão sau “trận đột kích Pháp - Việt nhất gia” cuối cùng cũng lắng xuống. Hậu quả không đến nỗi nặng nề như những kẻ gây náo loạn dự tính, nghĩa là chẳng phải nằm bót. Chế độ thuộc địa, do ảnh hưởng của những đạo luật ngôn luận bên Pháp, cho phép các nhà báo được hưởng những quyền tự do nhất định. Thế là Liệu được nhởn nhơ, để mà toàn tâm toàn ý cho Đông Pháp thời báo của chủ nhiệm Nguyễn Kim Đính, con người đang khốn quẫn nhưng còn đầy tham vọng và nghị lực. Cuối năm 1924, Đông Pháp thời báo ra tuần ba kì, mỗi số có 1300 bản, bị đè nghít dưới hệ thống báo chí thân thực dân. Căn nhà hai tầng phố Mạc Má Hồng (Mac Mahon) kín mít như chuồng bò, vừa là tòa soạn, trị sự, lại đặt luôn máy in báo. Hàng ngày Liệu ngồi thu mình trước cái bàn viết ngay cửa, “nhả ngọc phun châu” trong tiếng máy rầm rập. Thỉnh thoảng, lại đứng lên lễ phép tiếp những anh Chà Và, sét ty được chủ phái đến đòi nợ, kí biên nhận vào sổ, nói rằng Nguyễn Kim Đính đi vắng. Ông chủ báo trốn trên gác cũng cặm cụi cày. Buổi trưa hai quan báo đánh chung hào phở, múa bút sang chiều thì đầu trống rỗng, chân tay rã, cảm giác đói cũng bay đâu. Nhưng tối đến thì rất sênh sang. Liệu và Đính được xe hơi đón về ngôi nhà to đoành của ông B. H. ở Gia Định, ngủ nghỉ phòng riêng, tán gẫu nơi phòng khách và đi dạo trong vườn hoa được chăm sóc cẩn thận. Đông Pháp thời báo bị kiện. Tòa kết tội “phỉ báng cá nhân”, phải bồi thường danh dự mười vạn đồng. Viết đúng sự thực cả, có điều “cá nhân” đó có cả tiền lẫn thế lực để làm lệch cán cân công lý. Những chủ nợ khác nghe phán quyết lao đến tòa đưa đơn kiện theo kẻo mất phần nếu báo bị tịch thu tài sản. Nguy cơ trắng tay khiến Nguyễn Kim Đính sụp đổ. Còn Liệu, ăn lương chủ bút, tiếp tục bao thầu bài vở, lo cho đến ngày sập tiệm hẳn. Có ai ngờ lối thoát lại đến từ một cuộc cãi vã trên phố Catinat. Cô giáo nọ vào hiệu Bom - bay mua vải, xảy chuyện to tiếng rồi xô xát với chủ hiệu người Ấn. Báo chí Sài Gòn bắt được thổi to lên, có bình luận và biếm hoạ đi kèm. Phong trào tẩy chay hàng Bom - bay nổi lên trong toàn thành phố, nhất là đám thanh niên. Người ta quay lại với bông, đũi nội hóa làm khách thương Ấn Độ mếu dở. Cái thủ thuật của Đông Pháp thời báo dựa trên sự tinh quái nghề nghiệp hơn là chính kiến xã hội. Khi các báo nói xuôi mà mình nói ngược một tý - hơi hơi thôi, chứ ngược hẳn đâm vô lý - thì dễ được độc giả để ý. Cũng cổ động tẩy chay Bom - bay, khuyến khích lòng căm phẫn của đồng bào, Đông Pháp thời báo đưa ra lập luận khác: không chấn hưng sản xuất trong nước thì hàng nội sao thay thế được hàng ngoại. Cuộc tẩy chay như lửa rơm, mấy ngày đã tàn, người ta mới để ý đến cái sự hơi hơi ngược trên. Ừ nhỉ, nếu bông cứ sùi, đũi cứ rút chỉ, lại bán đắt, thì cạnh tranh hàng Bom - bay thế quái nào được. Đông Pháp thời báo thế mà tỉnh táo, cao kiến. Đội ngũ kí giả của họ chắc phải lọc lõi lắm mới dám “nói nghiêng” thế chứ. Đồng nghiệp cười trừ, độc giả ủng hộ, số phát hành lại tăng vọt. Qua khỏi cửa tử, nhưng làm thế nào để sống mạnh mẽ mới thật khó. Tính mãi, tòa soạn quyết định leo dây, “chơi” đồng nghiệp. Nước cờ oái oăm này bắt đầu từ nhận xét về sự khập khiễng, quê mùa trong giọng điệu những tờ Lục tỉnh tân văn, Trung lập... Tuy là cái nôi của báo chí Việt Nam, được hưởng quy chế nghề nghiệp của thuộc địa, nghĩa là thông thoáng hơn hẳn ngoài Bắc, nhưng Nam Kỳ lại có mặt bằng báo chí lộn xộn kinh khủng. Những vị “chánh chủ bút” cỡ Lương Khắc Ninh, Trương Duy Toản, Lê Hoằng Mưu của các tờ trên đều xuất thân thầy tuồng, thầy cải lương, học hành rất không hệ thống. Tính thời sự rất ít, báo của họ có những mục buồn cười: tóm lược tiểu thuyết tình ái, trinh thám, tường thuật đưa đón “quý quan”, các cuộc thi xe đạp, thi sắc đẹp. Lổn nhổn nhất là những bài giải thích Tam Quốc Chí, Tây Du hay “Càn Long du Giang Nam”, nó cũ kĩ, ngô nghê không thể tả. Trí thức Tây học, những kẻ sĩ từ xứ Bắc, đàng Trung vô đều coi thường, ít khi đọc loại báo này. Đông Pháp thời báo mọc ra mục “Phê bình văn chương các báo”. Lời mào đầu rất khiêm nhường. Rằng mục đích chỉ nhằm nhặt cỏ trong vườn đồng nghiệp. Rằng, đã của đồng nghiệp thì thái độ nhặt sẽ rất xây dựng, thân ái. Nhưng mới được có mấy số, thiên hạ biết ngay những ông chủ bút Trung lập với Lục tỉnh tân văn ngồi phải tổ kiến lửa rồi. Phát hiện rất nhanh những sai quấy ngô nghê, Liệu châm thêm những lời bình, câu văn vần thâm thuý. Thầy tuồng, thầy cải lương bị chơi tìm cách chửi lại, càng phô ra sự kém cỏi. Làng báo rộn rạo, anh này vui vẻ tán thưởng, anh kia hậm hực ngậm bồ hòn, chỉ làm số phát hành của Đông Pháp thời báo tăng nhanh hơn, còn Liệu thì như gặp lại ông khóa Cảo ở quê dạo nào. Nhưng sức mạnh của một tờ báo căn bản phải dựa trên ý kiến chính trị - xã hội của nó. Trong hai năm 1925 - 1926, có bao nhiêu sự kiện động trời để mà tường thuật, bình luận, kêu gọi: cụ Phan Chu Trinh từ Pháp về nước, cụ Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải giải về Hà Nội, dân chúng biểu tình đòi thả, toàn quyền Varènne sang Đông Dương... Đỉnh cao sôi nổi là đám tang Phan Chu Trinh, mười bốn vạn lượt người đi đưa. Đông Pháp thời báo vọt lên mười một nghìn bản in. Chủ báo không còn là con nợ mà có tiền tậu đồn điền, lập nhà in. Về mặt chính trị, ông ta vào đảng Lập hiến, có chân trong hội đồng Thuộc địa. Báo ngả hẳn sang chủ trương bắt tay thực dân, điều anh chủ bút chả hề thú vị. Liệu phải đi, với nỗi cám cảnh phải rời tòa báo mình vừa đưa lên tột đỉnh phát hành. Ngày 15 - 8 - 1926, đăng xong bài cáo biệt bạn đọc trên Đông Pháp thời báo, anh rời khỏi trụ sở tòa soạn lộng lẫy ở 200 đường Espagne (Tây Ban Nha). Chỗ đến là nhà một người bạn ở làng Hương Điểm, Bến Tre. Được vài ngày, chức dịch địa phương gọi người nhà lên cảnh cáo vì chứa chấp một kẻ mà chính quyền không ưa. Lại tha vợ con đi... CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Đảng Thanh Niên ... Qua các cuộc đấu tranh, động lực chính vẫn là thanh niên. Họ là những học sinh ở nhà trường, công nhân ở xí nghiệp, công chức ở công sở, trí thức làm các nghề tự do, nông dân ở miền xung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn. Họ thuộc các tầng lớp tiểu tư sản, dân nghèo, tư sản, địa chủ, vô sản mà chủ yếu là tiểu tư sản trí thức ở thành thị. Có điều là, họ sẵn lòng yêu nước, đầy nhiệt tình, nhưng không có ai lãnh đạo, chẳng biết đi theo đường lối nào. Họ ủng hộ đảng Lập hiến vì thấy đảng này cũng đòi tự do dân chủ. Họ hoan hô Monin, chỉ biết Monin là người Tây tốt với nhân dân thuộc địa. Họ rất yêu mến Nguyễn An Ninh, nhưng cũng không biết Nguyễn An Ninh sẽ dẫn đi tới đâu. (Hồi ký Trần Huy Liệu 1991. NXB Khoa học xã hội). Trong bối cảnh ấy, “họ”, tức đám thanh niên đầy nhiệt huyết - thấy vô cùng cần phải có một chính đảng riêng của mình. Thật ra nên coi đây là cái “sân chơi” của lứa tuổi, chứ chưa đến thì, hay đã quá thời, trở nên thực dụng rồi, con người ta lại cần những thứ khác. Tóm lại, thanh niên yêu nước chúng mình nên xúm lại “lập” một cái gì... Phải đẻ ra một cái gì chứ không thì không thể chịu được! Ngoài ảnh hưởng của Nguyễn An Ninh - từ Pháp về, các tờ Việt Nam hồn (cũng ra bên Pháp), Đông Pháp thời báo, các bậc yêu nước nòi Nho như hai cụ Phan, phải kể đến những người Pháp có tư tưởng chống thực dân. Chủ tờ La Voix libre (Tiếng nói tự do) là Ganosky, người chuyên chủ trương đâm chích vào tập đòan thống trị Pháp ở Nam Kỳ. Anh người Corse này rất mạnh, trong cuộc tỉ thí bảo vệ danh dự, từng đâm bị thương võ quan thị vệ của thống đốc Cognac. Nhưng “lắm võ” hơn, “mọc sừng mọc bướu” phải là luật sư Monin, cầm tờ L’Indochine (Đông Dương). Monin xin phép khai hội ở rạp chiếu bóng Đa Cao, thực chất là mít tinh nói về nỗi nhục mất nước. Trong khuôn khổ cuộc họp không thể nói hết, ông Tây này bèn biến nó thành biểu tình, nói thác với sở Cẩm là mời mọi người về nhà mình ăn tiệc. “Tiệc” là bài diễn thuyết về quyền tự do, dân chủ, “ăn” xong rồi thì mời quý vị về nhà... Những vụ việc ấy làm điên đầu nhà cầm quyền, trong khi đám thanh niên thấy thú vị và phấn khích lắm. Tóm lại, là phải có “nhân cốt” để đẩy “phong trào” đi xa nữa. Nhóm phái thôi ư? Phải là “Đảng” nó mới hả! Một ban Sáng lập được chọn ra, kêu gọi tự do ghi tên vào đảng. Liệu nhớ mang máng lúc đăng trên Đông Pháp thời báo, tên đảng là Thanh niên, nhưng trong đám tang Phan Chu Trinh lại trương lên tấm băng dài “Đảng Thanh niên Việt Nam”. Tối khai hội, một đảng viên Lập Hiến hỏi “đảng chúng ta” đã đệ đơn xin phép chính phủ chưa, liền bị Bùi Công Trừng “sạc”, rằng hỏi gì mà ngớ ngẩn, ra chiều nịnh Tây; việc gì phải xin phép. Đại diện đảng Phục Việt ngoài Bắc phát biểu chào mừng được vỗ tay như sấm - đông có mây, tây có sao, anh em nhà cả mà. Ban Trị sự (ban chấp hành) do Nguyễn Trọng Hy làm chủ tịch, Trần Huy Liệu phó. “Ban bệ” cử xong đâu đấy, lại có người nêu câu hóc búa thế chúng ta theo chủ nghĩa gì đây nhỉ? Đang nhăn nhó, uỷ viên Phan Trường Mạnh nói bằng tiếng Tây: “Chủ nghĩa lập hiến chứ còn gì nữa!”. Chả ai vỗ tay hay phản đối gì, tuy đều có động cơ lập đảng để làm đối trọng với đám Lập hiến. Hồn nhiên đến nỗi khi Monin bảo các anh là đám theo chủ nghĩa dân tộc, Liệu phấn khởi đi phô với bạn: “A chúng mình theo chủ nghĩa dân tộc chúng mày ạ”. Thực ra, với ai không biết, Liệu là một người theo cái chủ nghĩa ấy từ trong căn cốt, dù sau này có trở thành Quốc dân đảng hay Cộng sản. Ngày 24 - 3 - 1926, các yếu nhân Thanh niên nhao lên vì ba sự kiện lớn: Phan Chu Trinh mất, Nguyễn An Ninh bị bắt, biểu tình đón Bùi Quang Chiêu - lãnh tụ Lập hiến ở Pháp về. Thanh niên có lực lượng, huy động tới 6 vạn người đón Chiêu, nhưng nghe “xừ” này diễn thuyết có câu “Pháp Việt đề huề” thì tổ chức ngay một cuộc mít tinh khác chửi lại, mà chỉ sau đó có ba tiếng đồng hồ. Cuộc đối kháng bắt đầu, nhưng đến ngày đưa đám cụ Tây Hồ, Thanh niên và Lập hiến vẫn đứng chung tên tổ chức sự kiện quy tụ đến 14 vạn người này. Thanh niên tập hợp nhanh, bốc lên mạnh, thì làm xong vài vụ động trời tất dẫn đến phân hóa. Có đảng viên tham ô tiền quyên góp xây mộ cụ Phan. Dự định làm chuyện gì, Tây nắm rất dễ, có ai giữ bí mật đâu. Dễ đến nỗi chúng chả thèm bắt “tên” nào. Sau những tổn thất vì ngây thơ trong tổ chức, đảng quyết định rút vào bí mật. Nhưng cũng chả được lâu, chính quyền mò ngay ra được, đem kết án với tội tụ tập quá 19 người. Tại tòa, được luật sư Monin cãi cho, những người đầu têu chỉ bị phạt 200 quan tiền Tây, chống lên đến Thượng thẩm thì trắng án. Ðảng Thanh niên, thực chất là một phong trào yêu nuớc nhu vô vàn phong trào lúc ðó, ðến lúc tan cuộc. Hon 20 nãm sau, trong khói lửa kháng chiến, trong hồi kí, Trần Huy Liệu xác ðịnh vị trí của nó: Trong khi ở bên Pháp, anh Bùi Công Trừng ðã có dịp thay mặt cho ðảng Thanh niên kí vào bản tuyên bố của tổ chức Việt Nam ðộc lập. Bản tuyên bố này, mặc dù về mặt quan ðiểm hồi ðó có những chỗ phải xét lại, nhung với hệ thống và ý thức của nó, chủ nghĩa dân tộc ðã ðuợc hình thành trong tu tuởng của thế hệ thanh niên ðuong thời. (Hồi kí trên) CÕI NGƯỜI Trần Chiến www.dtv-ebook.com Mới Thật Đi Tù Xe bịt bùng tiến vào cầu cảng Lang Tó, không hụ còi. Thật ra chẳng cần hụ còi, vì lính kín đã xua hết mọi người trên lối xuống. Rồi cánh cửa kín mít mở, nhả ra lốc nhốc đám tù. Ai cũng tập tễnh, thâm tím, người nọ dựa người kia, đầu phủ khăn mặt trắng che chiếc sọ bị cạo nham nhở từ hôm ở khám Lớn. - Đả đảo chủ nghĩa đế quốc Pháp! - Cách mạng thành công muôn năm! Những tiếng hô bất ngờ dội ra từ cánh áo xám. Dù bị bịt kín tin tức, ai đó kịp loan tin tàu hôm nay chở tù đi Côn Đảo. Người nhà vẫn ra kịp để tiếp tế, trao đổi một cái nhìn. Liệu có còn đường mà về... Đứng trong bạn tù, mồm hô, Liệu nhận ra vợ trong đám đông. Dù đã quen với “thú” đi nằm khám của chồng, Tý cũng phải bật khóc khi trông thấy mái đầu lởm chởm. Đám người nhà, như bầy gà dạn dĩ, bị xua đi lại xông vào “đống thóc”, tức là những người sắp lên tầu Armant Rousseau ra đảo. Hai người một xích tay, họ bị dồn xuống hầm hôi hám, ẩm thấp. Phía trên là thành tầu, có những lỗ tròn hắt sáng, với tới được. Nhưng với làm sao khi chân còn thêm cái cùm. Đã bao lần Liệu xác định cho mình một thân phận tù đày. Anh đã “quậy” đến thế, thì lãnh đủ là đương nhiên. Chứ còn gì. Làm báo, anh đã công kích chế độ, hô hào độc lập, chơi chính quyền những đòn đau. Lập đảng Thanh niên, làm tổng bí thư, anh chủ trương chống Pháp và chống luôn đảng Lập hiến của đám đại địa chủ. Đất Nam Kỳ kể ra còn rất “độ lượng” với Liệu. Bao lần ra bót Catinat đối mặt với chánh cẩm Arnoux, năm 1927 bị thống đốc Bros kí nghị định trục xuất, đã vào khám Lớn rồi lại thoát. Cái giọt nước tràn đầy cốc là các vụ khởi nghĩa Yên Bái, Phú Thọ của bạn đồng chí Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu. Đảng Thanh niên tan rã, tất nhiên chẳng ai tuyên bố - vì cứ đánh trống ghi tên là vào được, bộ ba thân thiết li tán. Nguyễn Trọng Hy quay lại nghề dạy học. Bùi Công Trừng đi Pháp, trở thành cộng sản rồi sang Liên Xô. Chơi thân với các bạn ở Nam Đồng thư xã ngoài Hà Nội, Liệu vào Quốc dân đảng, làm đại diện của tổng bộ Nam Kỳ. Việt Nam Quốc dân đảng thành lập chính thức tối Noel 25 - 12 - 1927 tại ngôi nhà bên hồ Bẩy Mẫu ở Hà Nội, đa phần là thanh niên trí thức. Ngay hôm đó, mục đích hoạt động của đảng đã thành đề tài tranh luận gay gắt. Nhóm Nhượng Tống, Nguyễn Khắc Nhu chủ trương chế độ quân chủ lập hiến. Nguyễn Thái Học (đảng trưởng), Phó Đức Chính nhấn mạnh nền dân chủ đại nghị, còn Lê Văn Phúc, Nguyễn Hồng Sơn lại muốn đưa thêm vào khái niệm cách mạng xã hội, cách mạng thế giới. Ý tưởng của nhóm thứ nhất nhanh chóng bị gạt đi, hai ý sau được thống nhất rằng trước làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng thế giới. Trần Huy Liệu ở xa, không can dự vào những tranh luận đó, cũng chả cùng đồng chí chuẩn bị cho một cuộc “không thành công cũng thành nhân”. Năm 1930, bạo động Yên Bái thất bại. Nguyễn Thái Học và các đồng chí lên máy chém. Nguyễn Khắc Nhu nổi dậy ở Phú Thọ không thành, tự tử đến lần thứ ba mới chết được. Trong Sài Gòn, Liệu uất ức vì không được hy sinh cùng, hay chí ít là chia xẻ những nguy nan. Nhưng anh chả phải đợi lâu. Tòa án Nam Kỳ, do tình thế cấp bách, “tặng” anh cái án 5 năm cấm cố ra Côn Đảo. Căn ngục lắc lư. Làm quen xong với bộ cùm, Liệu bắt đầu nghĩ lung. Tý cùng hai con Diễm, Vân chắc phải xé lòng khi nghe tiếng còi tầu rời bến. Đất Nam Kỳ cưu mang anh liệu có tiếp tục cưu mang vợ con anh? Liệu không hề hối đã đi theo thầy Bùi Trình Khiêm ngày ấy. Ở lại quê nhà, dẫu bây giờ có thể không bị tra chân vào cùm, phỏng có ích gì nếu không lập được thân trai, không giúp được ai... Dòng suy nghĩ vừa hùng tráng vừa lo âu bị cắt đứt khi một anh nôn thốc vào người cùng cặp cùm với mình. Như điện truyền, cả hầm tầu đầy tiếng nôn mửa. Mật vàng mật xanh ra nhơn nhớt rồi cũng hết, cứ oẹ khan từng cơn. Mùi hắc ín trộn với mùi tanh tưởi thành một thứ xú tạp không thể tưởng. Mà sao ngoài kia trời xanh thế... Trống trận khua vang khắp địa cầu Riêng ai nằm xó bãi Hòn Cau Sa cơ vẫn thẹn mình thua sức Vì nước thêm thương bạn mất đầu. Chưa chút công lao trong dịp trước Còn nhiều cơ hội với mai sau Ai về nhắn hỏi người trong ấy Gánh nặng đường xa đã đến đâu... Tâm trạng bí bức lao tù, căm thù đế quốc bên ngoài dai dẳng áp vào Liệu. Suốt năm năm trời, anh làm bao nhiêu bài thơ kiểu như thế, những vần thơ sau này rơi vãi khá nhiều. Nhưng đấy chỉ là tâm trạng. Liệu không thể ngờ ra Côn Lôn, anh được hưởng một cuộc sống vật chất không đến nỗi nào. Thịt cá có lúc ê hề, gông cùm chả phải lúc nào cũng xủng xoảng. Việc đi lại trong từng khám khá thông thoáng. Nhưng dù sao cũng là đời thằng tù, cấm cố, khác hẳn những lúc “nếm náp” vị khám Lớn trong đất. Sau này ra tù về Hà Nội, Liệu “kể” lại cho công chúng đời sống ngoài đảo trong thiên hồi kí “Côn Lôn kí sự”, đăng báo rất ăn khách. Không căm hờn chứa chất quá, cũng chả thi vị hóa, “Côn Lôn kí sự” có giọng điệu bình thản, tỉ mẫn những chi tiết nhân bản. Nụ cười ở trong nhà tù nhiều khi rất có ý nghĩa. Trong đầu óc chứa muôn vàn những nỗi đau đớn cùng muôn vàn những điều căm tức do một cuộc thất bại gây nên, gặp nhau muốn ôm nhau mà khóc nhưng lại thay cho trận khóc bằng một nụ cười. Người nhận nụ cười ấy thấy như bị một luồng điện truyền khắp mình, cũng trả lời bằng một nụ cười khác. Những người ở xã hội ngoài thường được tiếp xúc với nhau một cách dễ dãi nên trong khi gặp nhau ít gây cho nhau được cái cảm giác sâu xa, chớ những người ở trong nhà tù, năm chừng mười hoạ nhờ cái khe cửa hay cái kẽ vách mà xa nhau có dịp gần nhau, thì cái giờ khắc ấy không thể lấy tiền bạc mà đánh giá được. Lắm lúc gặp nhau ở tận xa xa, chỉ được trông thoáng nhau coi vóc người gầy hay béo, sắc mặt buồn hay vui để đoán sức khoẻ cùng tinh thần của nhau. Lắm lúc mình trông thấy bạn mà bạn không trông thấy mình, cũng cứ việc nhìn cho tới khi không còn tăm bóng. Năm năm trời ấy, Liệu đã chuyển từ lập trường Quốc dân đảng sang Cộng sản, dù trong xương tuỷ anh vẫn là người “Dân tộc chủ nghĩa” như luật sư Monin đã “định danh” hồi còn ở Sài Gòn. Anh có khối rắc rối sau này vì sự thay đổi ấy. Âm mưu vượt biển, tìm tri âm mới, so đo lại tư tưởng, tình cảm là sinh hoạt thường ngày. Nó còn sôi nổi, bận tâm trí hơn nỗi lo đối phó với đám cai