🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cô Nàng Sư Tử - Julie Garwood full prc pdf epub [Lãng Mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
BÚA THIÊN LÔI
:::The Hammer of Eden:::
Tác giả: Ken Follett
Dịch giả: Vũ Hồng
haian14_5@ convert *prc Đôi nét về tác g iả Ken Follett:
Tác giả Ken Follett sinh tại Cardiff- Wales (Anh). Ông sinhnăm 05/6/1949 trong một gia đình có Bố làm thanh tra viên. Ông viết không thường xuyên, các sáng tác đầu tập trung viết vào những năm 1970, ban đầu viết báo sau mới viết văn. Sự nghiệp sáng tác văn chương của ông trải qua bốn giai đoạn rõ rệt.
Ở giai đoạn đầu, người ta nhận thấy trong các sáng tác điển hình của ông là sự khám phá không theo quy tắc thông thường.
Giai đoạn thứ hai, tiếp diễn các hiện tượng trong sáng tác của giai đoạn 1, thời kỳ này kéo dài từ cuối những năm 1980 đến đầu thập niên 90.
Follett thay đổi hướng sáng tác lần thứ ba vào cuối những năm 1990, hai cuốn sách thể hiện rõ sự thay đổi này là The Hammer of Eden và The third Twin, hai cuốn tiểu thuyết này, dù đã cố gắng xây dựng những điển hình nhân vật hư cấu nhưng đều không đạt đến thành công.
Giai đoạn thứ tư, ông trở về theo logic truyền thống, một loạt những truyện về hoạt động trinh thám trong cuộc chiến Cộng hoà (Nga) với Mỹ đã giúp ông khẳng định vị trí cho sáng tác sau này.
Nhà văn Follett đã nhận đ ược Giải Edgar award.
“Mỗi ngày của Follett trôi qua bình lặng giống như cuộc sống của một tu sĩ. Ông ngồi vào bàn lúc 7 giờ sáng và viết ít nhất trong tám giờ. Ông có một quy tắc vàng: không kéo dài quá ba năm khi viết một tác phẩm. “Tôi phải tự tạo áp lực cho mình để truyền nó lại cho độc giả!”. (theo Figaro Magazine)
BÚA THIÊN LÔI
Chương 1
Bốn Tuần
Priest kéo mũ cao bồi của hắn xuống trán rồi đảo mắt nhìn quanh bãi sa mạc bằng phẳng, lầy bụi của miền nam Texas. Những bụi cây lùn mầu xanh trải ra bạt ngàn tứ phía. Trước mặt hắn hai dấu bánh xe in sâu xuống bụi đất, cách nhau ba mét, làm thành một con đường chạy xuyên qua các đám cây. Trên một bên của con đường, cách quãng mỗi năm chục mét, một ngọn cờ nhỏ xíu bằng giấy nhựa đỏ chói phất phơ trên đầu một khúc dây kẽm. Một chiếc xe tải đang di chuyển
chậm chậm trên con đường này.
Priest phải đánh cắp cho được chiếc xe này. Hắn đã một lần ăn cắp xe lúc hắn mới mười một tuổi, một chiếc Lincoln Continental mới, đời 1961, đậu bên ngoài rạp hát Roxy, ở Los Angeles, chìa khóa còn cắm trong ổ. Priest, hồi đó được người ta gọi là Ricky, khó lòng mà nhìn qua được vành trên của bánh tay lái, nhưng hắn cũng đã lái được chiếc xe ấy qua mười ngã tư đường phố, và hãnh diện trao chìa khóa cho thằng Mặt Heo Jimmy Riley. Từ đó Ricky trở thànhmột thành viên của băng Mặt Heo.
Nhưng chiếc xe này không hẳn là một xe tải. Trong lúc hắn dõi mắt quan sát, máy ở sau buồng lái hạ một tấm thép nặng, vuông mỗi chiều một mét tám, xuống đất. Sau một phút im lặng, hắn nghe thấy một thứ tiếng rền vang như tiếng sấm. Một đám mây bụi nổi lên chung quanh xe trong khi tấm bảng bắt đầu đập một loạt xuống đất theo một nhịp đều đặn. Priest thấy mặt đất rung chuyển dưới chân hắn. Ðó là một địa chấn động cơ, một thứ máy làm ra những rung động mạnh, những chấn động. Những chấn động này sẽ lan truyền như những đợt sóng qua vỏ quả đất. Khi gặp đá hay chất lỏng trong lòng đất thì những làn sóng này dội ngược lại lên mặt đất, nơi đây chúng được ghi nhận bởi những máy nghe gọi là máy địa âm.
Priest là một công nhân trong toán địa âm. Họ đã đặt một ngàn máy địa âm thật đúng khoảng cách trong một mạng lưới rộng hai cây số vuông. Mỗi lần máy rung làm việc, các làn sóng phản hồi được tiếp nhận bởi tất cả các máy địa âm, và được ghi trên giấy bởi một viên giám thị ngồi trong toa xe phụ mà mọi người trong toán gọi là chuồng chó. Những dữ kiện này sẽ được đưa vào một máy siêu vi tính tại Houston để làm ra một bản đồ ba chiều về những gì đã được thấy ở dưới mặt đất. Bản đồ này sẽ được bán cho một công ty dầu hỏa.
Máy rung chợt rú cao rồi im bặt. Priest chạy đến chỗ xe tải, mở
cửa xe và leo vào phòng lái. Một gã tóc đen, phục phịch, khoảng ba mươi tuổi, ngồi sau tay lái.
Priest vừa trượt người ngồi vào chỗ bên cạnh vừa nói: - Chào anh Mario.
- Chào anh Ricky.
Richard Granger là tên của Priest ghi trên bằng lái xe thươngmại (hạng B) của hắn. Bằng lái xe là giả, nhưng tên là thật. Hắn cầm một tút Marlboros, loại thuốc mà Mario ưa hút, liệnglên trên bàn máy và nói:
- Cái này cho anh.
- Ê, bạn đâu cần phải mua thuốc lá cho tôi.
- Tôi chỉ thích hút ké thuốc của người ta thôi.
Priest cầm lấy tút thuốc đã được mở sẵn trên bàn máy, lấy ra một điếu để vào miệng.
Mario cười:
- Sao cậu không mua lấy thuốc mà hút?
- Tôi không có tiền mua.
Mario cười lớn:
- Cậu thật là một thằng khùng.
Priest đốt điếu thuốc của hắn. Hắn có biệt tài làm cho người ta ưa thích hắn. Hắn sinh sống và lớn lên nơi đầu đường xó chợ. Ở nơi đó người nào không được ưa thích thường hay bị ăn đòn, nên hắn tự tạo ra một bản tánh bén nhậy đối với những gì người ta đòi hỏi nơi hắn, sự nể vì, mến mộ, hay tính hài hước. Trong đám người làm công tác kiếm mỏ dầu này thì hắn thấy những câu nói hài hước là dễ gây cảm tình nhất.
Mặc dù hắn mới ở đây có hai tuần, Priest đã chiếm được lòng tín nhiệm của các người đồng sự, nhưng hắn chưa nghĩ ra được phương sách nào để lấy được chiếc địa-chấn-xa. Hắn cần phải hoàn tất việc này trong vòng vài giờ tới đây, bởi vì ngày mai là chiếc xe ấy phải
được điều đi nơi khác cách đây cả ngàn cây số, gần Clovis, New Mexico. Một kế hoạch lờ mờ hiện ra trong đầu hắn là phải gạ Mario cho đi cùng một chuyến. Tới một nơi nào đó hắn phải chuốc rượu cho Mario say mềm, hay làm một cách gì khác, rồi cướp chiếc xe đi.
Priest nói:
- Xe của tôi bị trục trặc. Ngày mai anh có thể cho tôi quá giang đến San Antonio được không?
Mario ngạc nhiên:
- Cậu không tới Clovis à?
- Không. Texas đẹp quá. Tôi không muốn đi đâu nữa. Theo nội quy của công ty thì tài xế không được phép chở thêmmột hành khách nào. Nhưng có tài xế nào theo đúng nội quy đâu. Mario nhún vai:
- Ðược. Tôi cho cậu quá giang. Cậu chờ tôi ở chỗ bãi rác, lúc sáu giờ.
Priest gật đầu. Bãi rác là một vũng đất hoang vắng ở ngoại ô Shiloh, thành phố gần đó.
Priest rất cần chiếc xe này. Hắn muốn tóm lấy cổ Mario ngay bây giờ, liệng nó ra ngoài và lái xe đi ngay, nhưng như thế không ổn. Vụ trộm xe này cần phải được giữ kín trong vài ngày nữa. Priest sẽ phải lái xe ấy tới California và cất giấu nó trước khi cảnh sát quốc gia được báo động để sục tìm chiếc địa-chấn-xa.
Radio kêu một tiếng bíp, cho biết rằng viên giám thị trong chuồng chó đã rà xét các dữ kiện của vụ rung chuyển vừa qua và đã không thấy có vấn đề gì. Mario nâng tấm bửng lên, gài số xe và cho xe chạy tới lá cờ đỏ kế tiếp. Rồi hắn lại hạ tấm bửng xuống và làmdấu hiệu đã sẵn sàng. Priest theo dõi kỹ từng động tác của Mario để ghi nhớ trong đầu tuần tự tiến triển của việc kéo các cần điều khiển máy và bấm các nút điện. Nếu sau này hắn quên chi tiết nào thì không có ai để cho hắn hỏi được.
Chúng đợi chuồng chó ra hiệu bắt đầu cho máy rung. Tài xế trong xe tải có thể tự làm việc này, nhưng thường thì các viên giám thị đích thân ra lệnh cho máy làm việc bằng máy viễn khiển.
Mario hất đầu về phía xe hơi của Priest đậu cách đó chừng ba trăm mét, trên đường nhựa:
- Người đàn bà của cậu đấy hả?
Priest nhìn theo. Star đã ra khỏi chiếc Honda Civic bụi đất bámnham nhở, mầu xanh dương nhạt, và đứng tựa vào đầu xe. - Phải.
- Ðể tôi cho cậu xem cái này.
Mario lấy từ trong ví ra một tấm hình và đưa cho Priest. - Ðây là Isabella.
Priest thấy một cô gái người Mễ, khoảng 24, 25 tuổi, bồng một em bé trên hông, và một bé trai tóc đen đứng cạnh.
- Các con của anh hả?
Mario gật đầu.
- Mấy đứa nhỏ kháu khỉnh quá. Chúng hiện ở đâu?
- El Paso.
Một ý kiến lóe trong đầu Priest.
- Anh có đi thăm chúng thường không?
Mario lắc đầu:
- Tôi phải làm việc tối ngày để dành tiền mua cho chúng một căn nhà tươm tất.
Radio lại bíp một tiếng nữa, và xe bắt đầu rung chuyển. Tiếng ồn nghe như tiếng sấm rền. Nó bắt đầu bằng một âm thanh thật trầm, rồi lên cao dần. Sau đúng 14 giây nó tắt. Trong lúc vắng lặng sau đó Priest nói:
- Này, tôi có một ý kiến.
- Ý kiến gì?
- Tôi nghĩ thế này: vợ anh thật là đẹp, và các con anh thật là
xinh. Thật là một sự đáng tiếc nếu anh không đi thăm họ. Tôi có thể lái xe này đi New Mexico trong khi anh đi thăm vợ con anh. - Không thể được.
- Thế này nhá. Ngày mai, nếu chúng mình đi thật sớm, và cùng lái xe đi Antonio, tôi có thể thả anh xuống phi trường ở đấy. Tới buổi trưa là anh đã có thể ở El Paso rồi. Anh sẽ chơi với hai đứa nhỏ, ăn cơm tối với vợ anh, ngủ một đêm ở nhà, rồi lên máy bay ngày hômsau. Tôi sẽ đón anh ở phi trườngLubbock. Từ Lubbock đếnClovis bao xa?
- Chừng 150 cây số.
- Chúng ta có thể đếnClovis đêm hôm đó, hay trễ nhất là sáng hôm sau. Không ai có thể biết là anh đã không lái xe suốt con đường. - Nhưng cậu muốn đi San Antonio mà.
- Tôi chưa bao giờ đến Lubbock. Tôi muốn đến đấy để được biết thêm một thành phố.
- Thế cậu lái xe suốt con đường ấy chỉ là để giúp tôi à? - Chắc chắn là như vậy, chừng nào anh còn để tôi hút thuốc Marlboros của anh.
Mario lắc đầu:
- Cậu là một thằng bạn tốt. Nhưng tôi chưa dám quyết định. Tôi không muốn mất chỗ làm.
- Anh cứ nghĩ kỹ đi. Tối nay anh có đến quán rượu không? - Ðó là cái chắc.
- Vậy thì lúc đó anh sẽ cho tôi biết quyết định của anh. - Ðược.
- Bây giờ tôi phải về chỗ làm việc.
Priest trả tấm hình lại cho Mario và nói:
- Tôi nói thật cho anh biết, nếu tôi có người vợ đẹp như thế này thì không bao giờ tôi bỏ nhà đi đâu hết.
Priest cười, rồi nhẩy xuống đất và đóng sập cửa xe. Hắn đi về
phía Star đang đứng.
Star đã có một thời kỳ nổi tiếng, ngắn ngủi thôi. Trong thời Híp pi nàng sống ở xóm Haight Ashbury, San Francisco. Lúc đó Priest chưa quen nàng, nhưng hắn đã biết rõ về nàng. Hồi đó Star là một kiều nữ, cao, tóc đen, với một thân hình tròn trịa, thắt đáy lưng ong. Nàng đã đọc thơ thâu vào đĩa trên một nền nhạc kích động của một ban nhạc tên là Raining Fresh Daisies. Ðĩa thơ nhạc của nàng đãđược tiếp đón khá nồng nhiệt, và Star đã được nổi danh ít lâu.
Thời oanh liệt ấy đã qua lâu rồi. Bây giờ Star sắp ăn sinh nhật thứ 50 của nàng, và tóc nàng đã điểm hoa râm rồi. Thân hình của nàng không còn thắt đáy lưng ong nữa. Trọng lượng của nàng là 67 ký, nhưng nàng vẫn còn sức hấp dẫn mạnh. Ngay lúc này, tuy nàng đang lo lắng và nóng nực, khi nàng đi tới đi lui cạnh chiếc xe hơi cũ, dáng đi của nàng vẫn còn uyển chuyển khêu gợi lắm.
- Thế nào, có tin gì mới? Nàng hỏi trước khi Priest tới gần. - Tình hình lạc quan.
Priest kể cho nàng những gì hắn đã đề nghị với Mario. Và hắnnói tiếp:
- Cái hay là Mario sẽ bị khiển trách.
- Tại sao?
- Em thử nghĩ xem. Nó đến Lubbock. Nó kiếm không thấy anh, nó không thấy cả xe tải của nó nữa. Liệu nó có đếnClovis thưa với chủ là nó đã để mất xe của công ty không? May lắm thì nó sẽ bị đuổi. Rủi thì nó sẽ bị tố là chính nó đã ăn cắp xe. Anh dám chắc là nó sẽ không tới Clovis. Nó sẽ bay trở về El Paso và lặn luôn. Rồi thì cảnh sát sẽ tin chắc là nó đã ăn cắp xe, và Richard Granger sẽ không bị nghi ngờ gì hết.
- Ðó là một kế thật hay, nhưng nó có cắn câu không?
- Anh nghĩ là nó sẽ cắn.
Star ngả người tựa lại vào xe:
- Em cầu mong là em đã nghĩ đúng.
Priest vỗ má nàng:
- Có muốn đi một cuốc xe không, thưa bà?
- Dạ, muốn. Xin ông đưa tôi về phòng khách sạn có máy lạnh của tôi.
- Vậy là bà phải trả giá đấy.
Star tròn mắt làm bộ ngây thơ:
- Tôi có phải làm cái gì ác ôn không, thưa ông?
Priest luồn tay vào bên trong ngực áo của nàng:
- Hẳn là phải có chứ.
- Á, đồ quỷ!
oOo
Mối lo sợ của họ đã tới chỗ tuyệt vọng từ ba tuần trước. Họ đang ngồi quanh bàn ăn trong nhà bếp, ăn bữa ăn trưa, thì Paul Beale bước vào, tay cầm một phong bì. Paul là người phụ trách đóng rượu nho vào chai, sản phẩm của nhóm Priest, và cũng là sợi dây liên lạc của nhóm với bên ngoài. Hắn là bạn của Priest từ khi hai người còn là hai đứa bụi đời mười bốn tuổi.
Priest đã đoán được trong thư nói gì rồi, nhưng hắn đợi Paul giải thích.
- Ðây là của Phòng Quản Lý Ðiền Ðịa. Gởi cho Stella Higgins. Nói xong Paul trao bì thư cho Star. Stella Higgins là tên thật củaStar. Nàng đã dùng tên này khi thuê miếng đất này lần đầu với Bộ Nội Vụ, năm 1969.
Chung quanh bàn ăn, mọi người đều im lặng. Ngay cả những đứa trẻ nhỏ cũng im bặt.
Star xé mở phong bì và lấy ra một tờ giấy. Nàng lướt mắt nhanh trên tờ giấy và nói:
- Ngày bẩy tháng sáu.
Priest nói:
- Năm tuần và hai ngày, tính từ hôm nay.
Nhiều người rên rỉ vì thất vọng. Một người đàn bà tên Song khóc thút thít.
Priest bắt gặp ánh mắt của Melanie, người mới gia nhập nhóm. Nàng có thân hình cao, 28 tuổi, tóc đỏ, dài, khổ người của một người mẫu. Ðứa con trai năm tuổi của nàng, Dusty, ngồi cạnh nàng. Melanie hỏi:
- Chuyện gì thế?
Mọi người đều biết là chuyện gì rồi, trừ Melanie.
Priest nói:
- Tụi mình phải rời khỏi chỗ này. Tôi xin lỗi Melanie. Star đọc thư:
- Lô đất nói trên sẽ trở nên nguy hiểm cho các người cư ngụ trên đó sau ngày bẩy tháng sáu. Bởi vậy nên sự thuê mướn của bà sẽ được chấm dứt vào ngày đó.
Melanie đứng bật dậy, gương mặt xinh đẹp của nàng trở nên dữ tợn vì tức giận. Nàng hét lên:
- Không, không, họ không thể đối xử như thế với tôi được. Tôi chỉ mới được gặp các người thôi mà. Tôi không tin đó là sự thật. Ðứa con của nàng bật khóc. Mọi người la ó. Priest bước nhanhhai bước dài đến bên Melanie, quàng một tay quanh lưng nàng và êmgiọng nói:
- Em đang làm cho Dusty sợ kìa.
Melanie nói:
- Anh hãy nói đó không phải là sự thật đi.
Priest dịu dàng đẩy nàng ngồi xuống ghế:
- Ðó là sự thật, không phải chuyện đùa đâu.
Khi mọi người đã nguôi cơn giận, Priest nói:
- Nào, bà con, chúng mình hãy đi rửa chén đĩa, rồi trở lại làmviệc.
Dale, người phụ trách làm rượu nho, nói:
- Tại sao? Lúc hái được nho, mình còn ở đây nữa đâu. Mình phải rời khỏi nơi đây trong vòng năm tuần. Tại sao còn phải làm việc? Sau Priest và Star, Dale là một nhân vật quan trong nhất trongnhóm. Priest trừng mắt nhìn hắn. Ánh mắt của Priest có một mãnh lực làm cho người ta phải nể. Hắn chờ cho mọi người lắng yên rồi mới nói:
- Bởi vì sẽ có phép lạ xảy ra.
oOo
Priest đi một mình đến tiệm rượu Doodlebug. Ở đấy có bia hơi rẻ tiền, một ban nhạc đồng quê viễn tây, và những cô hầu bàn mặc quần jeans xanh chật căng, đi ủng cao-bồi. Hắn không cho Star đến đấy, sợ người ta sẽ nhớ được mặt nàng sau này. Hắn cũng không muốn để Star đi Texas, nhưng hắn cần có người giúp để lái chiếc địa-chấn-xa về nhà. Hắn đã thay đổi bề ngoài của hắn trước khi đến Shiloh. Hắn đã để một chòm râu rậm dưới cằm, tóc dài kết đuôi samquấn trong mũ.
Khi hắn đến Doodlebug, Mario đã ở đấy rồi, ngồi ở một bàncùng với năm hay sáu người nữa trong toán địa âm, và ông trưởng toán, Lenny Petersen. Ông này là xếp của toàn thể nhân viên dò thámđịa chấn. Priest lấy một chai bia và nhập bọn Mario.
Lenny hói đầu, có một cái mũi đỏ. Ông đã nhận Priest vào làmviệc hai tuần trước. Sau khi Priest ngồi vào bàn, ông chậm rãi nói: - Ricky, vậy là anh không thích đi Clovis với chúng tôi? - Dạ, không đi. Tôi thích khí hậu ở đây lắm.
- Tôi phải nói thật với anh rằng tôi rất lấy làm hãnh diện và sung sướng được biết anh, dù là chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. Mọi người đều cười vì câu nói đùa của ông chủ. Priest cũng làmmặt nghiêm chỉnh nói:
- Thưa xếp, ông là một người dễ mến. Tôi muốn được ở kế cận
ông suốt đời.
Mọi người cười đùa vui vẻ. Câu chuyện xoay quanh những trận baseball. Priest không hứng thú về thể thao nên hắn nán đợi, thỉnh thoảng chêm vào vài câu phê bình chung chung.
Sau một tiếng đồng hồ, Mario đi vào phòng vê sinh. Priest theo sau. Hắn đến gần Mario và nói:
- Này, tôi phải đi bây giờ. Nàng đang chờ tôi ở phòng trọ. Mario cười:
- Tôi có trông thấy cậu và cô ấy chiều nay.
Priest lắc đầu ra vẻ ân hận:
- Nàng là yếu điểm của tôi. Thật tình, tôi không thể nói không với một người đẹp.
Mario nói:
- Bây giờ nói chuyện ngày mai... - Priest nín thở nghe - nếu cậu muốn thì chúng ta cứ làm như thế. Cậu còn muốn không? - Chắc chắn là còn muốn chứ. Có bạn để làm gì?
Priest quàng tay qua vai Mario và cùng Mario rời phòng vệ sinh. Mario nói:
- Cảm ơn cậu. Thật là ít có người như cậu, Ricky à.
oOo
Trời hãy còn tối khi Priest và Star thức dậy buổi sáng Thứ Bảytại Shiloh. Priest mua cà phê ở tiệm bên cạnh và đem về phòng ngủ. Lúc hắn trở về, Star đang chăm chú nhìn vào một bản đồ chỉ dẫn đường đi. Star nói:
- Anh sẽ cho Mario xuống phi trường San Antonio vào khoảng 9g30 sáng nay. Rồi anh sẽ lấy đường liên bang số 10. Priest không thèm nhìn bản đồ, vì hắn không biết coi bản đồ. Hắn có thể theo những bảng chỉ dẫn ở dọc đường để vào I-10. Priest nói: - Chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu?
Star tính toán:
- Em sẽ đi trước anh chừng một tiếng đồng hồ. Có một nơi gọi là Leon Springs trên I-10, cách phi trường khoảng 20 cây số. Em sẽ đậu xe ở một chỗ nào đó, nơi mà anh dễ trông thấy.
- Tốt.
- Chúng mình sẽ làm gì với cái Honda?
Priest đã mua chiếc Honda này ba tuần trước với giá một ngàn Ðôla, trả tiền mặt. Hắn nói:
- Mình sẽ kiếm một chỗ nào có nhiều cây cối gần xa-lộ rồi vứt xe ở đó.
- Mình có thể phí phạm thế sao?
- Tiền làm cho người ta nghèo.
Priest nhắc lại một trong năm câu nghịch lý của một ông thầy Ấn Ðộ sống gần nơi bọn Priest ở.
Priest biết rõ bọn hắn có bao nhiêu tiền, rõ đến từng xu, nhưng hắn giấu không cho ai biết. Hầu hết các nguời trong nhóm không biết ngay cả đến cái trương mục ngân hàng mà họ đã có. Và không một ai biết được số tiền sinh tử của Priest, mười ngàn đôla, toàn giấy 20 đồng, giấu trong một chiếc ghi-ta cũ để trong phòng của hắn.
Star nhún vai:
- Em đã không còn lo đến tiền trong 25 năm nay, nên bây giờ emđâu có lo.
Nàng gỡ cặp kính đeo mắt xuống và nhìn xéo Priest:
- Anh có tính đi gặp Melanie không?
Priest và Melanie đã là một cặp tình nhân. Hắn cầm tay của Star và nói:
- Có. Em không buồn vì Melanie chứ?
Star nhắc lại một câu nghịch lý khác:
- Hôn nhân là một sự phản bội tệ hại nhất.
Priest gật đầu. Cả hai không ai đòi hỏi đối phương phải thủy chung, nhưng trong vòng mấy năm nay, tuy họ vẫn thỏa thuận chính
sách tự do luyến ái, chưa ai phản bội ai. Vậy nên Melanie đã như một đòn đánh vào tim Star, nhưng nàng ráng chịu.
Nàng nói:
- Em không biết rồi con Flower sẽ nghĩ sao về vụ này. Flower là con gái của hai người, 13 tuổi, đứa trẻ lớn nhất trong đám trẻ con của nhóm.
Priest nói:
- Nó đã không lớn lên trong một gia đình thuần túy chỉ có cha mẹ và con cái. Nó là cái đinh của cả nhóm.
Star gật đầu:
- Phải rồi. Nhưng em không muốn con nó mất anh.
Priest đập đập vào tay Star:
- Không có chuyện đó đâu.
Star nắm mấy ngón tay của Priest nói:
- Cám ơn.
Priest nói:
- Ta đi thôi. Mấy vật dụng cần thiết của hai người đã để trong ba cái bao giấy nhựa trước đây đã dùng để đựng thực phẩm mua ở chợ. Priest đem các bao ấy ra để vào trong xe Honda. Star theo sau. Họđã trả tiền phòng đêm hôm trước. Giờ này văn phòng còn đóng cửa, và không có ai trông thấy hai người. Star lái xe. Priest ngồi cạnh.
Họ đến chỗ đổ rác vài phút trước sáu giờ. Không thấy có Mario hay chiếc địa-chấn-xa ở đấy.
Priest hôn Star và nói:
- Mario sẽ tới đây trong vài giây nữa. Em sẽ ở xa ba bốn cây số khi hắn tới đây.
Priest xuống xe. Star vòng xe quay lại và vọt đi thật lẹ. Priest nhìn quanh. Hắn ngạc nhiên thấy rằng sao một thành phố nhỏ thế này lại có nhiều rác đến thế. Thôi thì ngổn ngang đủ thứ: xe đạp cong queo, xe đẩy trẻ nhỏ, tủ lạnh, thùng giấy cứng, giấy nhôm, bao giấy
nhựa. Tại Silver River Valley không bao giờ có nhiều rác như vậy. Dân ở đó không có xe đẩy trẻ con hay tủ lạnh, và ít khi họ mua cái gì phải đựng bằng thùng hay bao. Một vật bằng kim khí lấp lánh dưới chân hắn. Hắn lượm vật ấy lên. Ðó là một cái lắc-lê lớn, thật nặng.
Priest nghe tiếng xe tới. Hắn buông cái lắc-lê xuống. Một chiếc Pickup mầu nâu nhạt đang chạy tới, mũi xe nhẩy lên chồm chồm vì đường xóc. Xe của Mario. Thế là thế nào? Ðáng lẽ Mario phải đếnvới chiếc địa-chấn-xa cơ mà.
Xe chạy tới, dừng lại, và Mario xuống xe. Hắn buồn rầu lắc đầunói:
- Ricky à, tôi không thể làm như vậy. Tôi phải nói không. Priest nghiến răng, nhưng cố làm cho giọng nói được bình thường:
- Cái gì đã xẩy ra khiến anh phải thay đổi ý kiến hả, anh bạn? - Sau khi rời khỏi quán rượu tối qua, xếp Lenny đã nói rất nhiều với tôi. Ông nói rằng chiếc xe tải đó mắc tiền lắm, rằng tôi không được chở ai, không được cho ai quá giang, rằng ông hết lòng tin tưởng nơi tôi và tài năng của tôi. Việc làm này tốt quá, tôi không muốn mất nó.
Priest cố giữ vẻ bình thản nói:
- Vậy thì cũng được. Tôi còn đi với anh được tới San Antonio mà.
- Không được đâu, cậu ơi. Tôi không thể làm trái lời ông chủ. Bởi vậy nên tôi mới phải đem chiếc xe riêng của tôi tới đây để đưa cậu về thành phố. Vậy cậu có muốn đi không?
Priest đã qua hai tuần ở nơi sa-mạc nóng nực, bụi bậm này, làmmột việc tồi tàn, không xứng đáng gì, và đã tiêu phí mất mấy trămđôla vào tiền máy bay và thuê phòng trọ. Hắn không thể làm như thế được nữa. Hắn chỉ còn có hai tuần và một ngày nữa để lo cho xong việc của nhóm thôi.
Mario nhăn mặt:
- Cậu có nghe tôi nói không? Nào, lại đây, chúng ta đi thôi. Cậu không muốn đi xe trở về thành à?
Priest nói:
- Có, có, có. Phải đi xe trở về chứ.
Mario quay đi, và cặp mắt của Priest lại bắt gặp cái lắc-lê hắn đã bỏ xuống đất mấy phút trước. Một ý nghĩ mới lóe trong đầu hắn. Trong lúc Mario đi về phía xe, Priest cúi xuống lượm cái lắc-lê lên. Hắn nhìn qua Mario dọc theo con đường đất dẫn ra đường cái. Không một bóng người.
Priest bước về phía trước một bước trong khi Mario thò tay mở cửa xe. Trong một thoáng trong đầu Priest hiện ra hình một người đàn bà trẻ đẹp với một em bé trên tay và một đứa nhỏ nữa bên cạnh, và lòng hắn chùng xuống. Nhưng một quang cảnh khác đồng thời cũng hiện ra trong đầu hắn: một hồ nước đen ngòm từ từ dâng lên tràn ngập ruộng nho, và làm chết đuối đám người đàn ông, đàn bà, và trẻ con đang chăm sóc những luống nho. Priest chạy về phía Mario, tay giơ cao cái lắc-lê. Hình như Mario đã nhìn thấy cái gì qua khóe mắt của hắn, vì bất chợt hắn thốt lên một tiếng sợ hãi, và bung mở cửa xe ra. Priest đâm xầm vào cửa xe, và cánh cửa xe lại bật trở lại vào người Mario, đánh vào sườn hắn. Cả hai cùng bị hụt chân. Mario khụyuchân xuống. Mũ hắn bay xuống đất. Priest ngã bật trở lại, lắc-lê rời khỏi tay, rơi vào một vỏ chai Coca bằng nhựa hai lít, và nẩy ra xa chừng một mét.
Mario thở hồng hộc:
- Mày điên rồi...
Hắn chống một đầu gối lên và vươn tay kiếm một chỗ nắm để tự kéo mình lên. Bàn tay hắn nắm được một cạnh của khuôn cửa xe. Priest lúc đó đang ngồi bệt trên mặt đất, co một chân đạp mạnh vào cánh cửa. Cửa xe đập mạnh vào các ngón tay của Mario rồi bật
ngược trở ra. Mario gào lên một tiếng đau đớn, và ngã gục xuống cạnh chiếc pickup.
Priest đứng bật lên, lượm cái lắc-lê, bước tới gần Mario và giơ cao lắc-lê.
Mario quay nửa người về phía Priest. Vẻ mặt của hắn bộc lộ một sự sợ hãi tột độ. Trong lúc Priest đánh lắc-lê xuống, Mario kêu: - Ricky? Ðầu lắc-lê đánh một tiếng phụp vào đầu Mario. Priest cứ thế đánh mãi. Da đầu Mario rách nát, xương sọ vỡ tung. ThânMario từ từ sụm nghiêng xuống cho đến khi đầu hắn chạm đất. Priest qùy hai gối và nhắm mắt nói:
- Lậy Chúa tối cao, xin Ngài tha tội cho con.
Rồi hắn cứ qùy như thế, người run lập cập. Ðể cho tâm hồn được lắng yên, hắn lẩm bẩm cầu kinh. Sau một lúc hắn lấy lại được bình tĩnh và đứng lên. Hắn không còn thấy ân hận gì nữa. Hắn lượm mũ cao bồi của hắn lên, phủi sạch bụi và đội lên đầu.
Hắn lấy một cái vặn đinh vít từ thùng đồ nghề của xe pickup, và dùng nó để tháo hai cái bảng số xe. Hắn đi băng qua bãi rác và chôn chúng vào trong một đống rác lớn. Rồi hắn cúi xuống xác chết. Với bàn tay phải, hắn nắm lấy dây lưng của Mario. Với bàn tay trái hắn túm lấy áo sơ mi kẻ ô vuông của Mario, và nghiến răng nhấc cái xác nặng lên khỏi mặt đất. Cửa xe pickup vẫn mở rộng. Priest lấy đà liệng xác Mario vào trong buồng lái, rồi hắn ném cái lắc-lê vào theo. Hắn giật cái ống nhựa dẻo dùng để phun nước vào tấm kính chắn gió. Với ống nhựa ấy, hắn hút xăng từ bầu chứa xăng vào đầy chai nhựa Cola hai lít, rồi tưới xăng vào xác chết. Hắn lại hút một chai xăng nữa và tưới khắp bên trong buồng lái.
Priest trông thấy mũ của Mario nằm trên mặt đất. Hắn lượm nó lên và liệng nó vào trong xe cùng với xác chết. Hắn lấy từ trong túi quần ra một hộp diêm, rút một que, quẹt lửa, rồi dùng ngọn lửa ấy để đốt tất cả các que diêm khác. Hắn ném tất cả que diêm đang cháy vào
trong buồng lái của chiếc pickup, rồi chạy vội ra xa. Một đám lửa lớn phừng cháy, và chỉ trong một giây tất cả bên trong buồng lái đã biến thành một lò lửa. Rồi có một tiếng nổ lớn khi lửa bén tới bầu chứa xăng.
Priest quay lưng rảo bước đi về thành phố.
oOo
Nơi cư ngụ của nhóm Priest gọi là Silver River Valley. Trong mùa đông 1972-73 một trận bão tuyết lớn kéo dài làm cho nhómPriest bị đứt liên lạc với bên ngoài trong suốt ba tuần lễ. Thực phẩmbị thiếu hụt nên mọi người không còn gì để ăn ngoại trừ một thứ gạo mầu nâu nấu với nước tuyết tan. Nhiều người đã bị chết trong đợt bão tuyết này. Chỉ có bẩy người sống sót còn lại.
Ngày bức thư tới. Bọn Priest thức khuya, ngồi trong nhà ăn. Song, một cô gái lìa bỏ gia đình năm 1972, đánh đàn ghi-ta. Star hát theo với một giọng trầm nhừa nhựa. Nàng có một giọng ca gợi tình nhất thế giới.
Melanie, người mới nhập bọn, còn khóc thút thít. Nàng nói: - Tôi mới tới đây mà.
Priest nói:
- Chúng ta chưa chịu đầu hàng đâu. Phải có một cách nào để buộc ông Thống-Ðốc tiểu bang California thay đổi ý kiến. Oaktree, thợ mộc, một gã da đen lực lưỡng, cùng tuổi với Priest, nói:
- Làm một quả bom nguyên tử không khó lắm đâu. Mình sẽ hămông Thống-Ðốc. Nếu họ không làm theo ý chúng ta, chúng ta dọa sẽ cho nổ Sacramento.
Oaktree trước là một lính hải quân. Hắn đã đào ngũ sau khi giết một sĩ quan trong một buổi tập, và đến nhập bọn Priest từ khi đó. Aneth, một phụ nữ bốn mươi tuổi ngoài, vẻ người hiền hậu, nói: - Không, anh không thể cứu nhân loại bằng một quả bom được.
Star ngưng hát, nói:
- Tôi đã không còn nghĩ đến việc cứu nhân loại từ năm 1969. Cái tôi muốn cứu bây giờ là chỗ này, những gì mà chúng ta đang có ở đây, đời sống của chúng ta, để cho con cái chúng ta có thể lớn lên trong sự yên bình và tình thương.
Aneth nói:
- Ta có thể bắt cóc một nhân vật nào đó.
Priest gật đầu. Ý kiến này có thể dùng được, nhưng hắn vẫn thấy có cái gì bất ổn. Hắn nói:
- Thí dụ có một ông to đầu nào bị bắt cóc. Rồi sao? Nếu chúng ta làm cho người ta sợ, chúng ta sẽ không còn được tự nhiên đi tới đi lui.
Melanie nói:
- Các người có biết không? Ở California có tới mươi mười lămchỗ mà những vết nứt trong vỏ quả đất đang chịu một sức ép rất mạnh, mạnh đến nỗi chỉ khẽ đụng một cái là các địa tầng đã nhúc nhích, và rồi thì “bùm”!
Oaktree nói:
- Này, nhỏ Melanie, cô nói cái gì thế?
Melanie nói:
- Tôi nói về động đất. Bỏ bắt cóc đi. Bỏ bom nguyên tử đi. Tại sao ta không hăm dọa ông Thống-Ðốc bằng một vụ động đất? Priest nói:
- Không ai có thể tạo nên một vụ động đất, Phải có một năng lượng ghê gớm lắm mới có thể làm cho đất chuyển động được. - Anh lầm rồi. Chỉ cần một chút xíu năng lực thôi, nếu lực ấy được đặt vào đúng chỗ cần thiết.
Oaktree nói:
- Làm sao cô biết được như vậy?
- Tôi đã học về khoa này. Tôi đã có bằng cao học về địa-chấn-
học. Ðáng lẽ bây giờ tôi phải là giáo sư dậy ở một trường đại học, nhưng vì tôi đã lấy ông giáo sư dậy tôi thành ra sự nghiệp của tôi bị hỏng. Tôi đã không đậu được bằng Tiến-Sĩ.
Giọng nàng trở nên chua chát. Priest đã nói với nàng về vấn đề này. Và hắn biết rằng nàng đang ôm một mối hận sâu xa. Chồng nàng là một thành viên trong ủy ban đã đánh hỏng nàng. Priest đoán là nàng học chưa đủ tốt để lấy được bằng tiến sĩ, nhưng hắn lại nói rằng các ông trong ủy ban đã ghen ghét nàng vì sắc đẹp và khối óc thông minh của nàng nên họ đã rắp tâm đánh hỏng nàng. Melanie tin là Priest nói đúng nên đã yêu hắn.
Melanie nói tiếp:
Ông chồng cũ của tôi đã triển khai lý thuyết “Sự đột phát động đất vì ngoại lực”. Trên suốt chiều dài của vết nứt, áp lực ở hai bên vết nứt cứ tăng dần lên đều đều trong nhiều chục năm rồi. Nay chỉ cần một sự rung động nhẹ trong vỏ quả đất là đủ làm cho các địa tầng phải xê dịch, phát xuất năng lượng, và gây nên động đất.
Chương 2
Priest nói:
- Nếu dễ dàng như thế thì tại sao chưa ai làm nên chuyện ấy? - Tôi không nói đó là một việc dễ làm. Phải là một chuyên gia về địa-chấn-học thì mới biết được vết nứt bị yếu ở chỗ nào. ... - Làm thế nào gây nên được một rung động trong vỏ quả đất? - Cái đó thì tôi chưa biết.
oOo
Ði bộ trở về thành phố Shiloh, Priest suy nghĩ và thấy rằng giết chết Mario là phần dễ dàng. Cái khó là làm sao gạt được LennyPetersen đây.
Trong khi đang suy tính về việc làm trong tương lai thì tâm trí
Priest bị kéo giật về thực tế hiện tại bởi tiếng động của một chiếc xe hơi chạy từ đàng sau tới, hướng về thành phố.
Ở chỗ này không bao giờ có ai đi bộ hết. Priest cố tìm ra một lý lẽ để giải thích tại sao hắn lại phải đi bộ về thành phố vào lúc 6g30 sáng Thứ Bảy này.
Chiếc xe chạy chậm chậm qua Priest. Hắn thấy rõ người lái xe đang quan sát hắn trong kính chiếu hậu. Priest tự nhiên muốn chạy trốn.
Xe ngưng và chạy lui. Người lái xe hạ kính xuống. Ðó là một người đàn ông Á châu trong một bộ đồ thương gia. Người này nói: - Này ông bạn, có muốn quá giang không?
Priest nhìn xuống quần jeans dơ bẩn của mình, nói:
- Quần áo tôi bụi bặm quá.
- Ai mà không bị bụi bám ở cái xó này?
Priest ngồi vào trong xe. Hai tay hắn còn run. Hắn khóa dây antoàn là chỉ cốt làm một cái gì để che giấu sự bối rối của hắn. Trong lúc xe chạy, người lái xe hỏi:
- Anh làm cái gì mà phải đi bộ trên đường trường thế này? Priest đã nghĩ ra được một câu chuyện:
- Tôi đã đánh nhau với bà xã. Tôi ngưng xe, ra khỏi xe và vờ bỏ đi. Tôi đâu có ngờ bà ấy lại lái xe chạy luôn.
- Có phải một bà có gương mặt đẹp, tóc đen, trong một chiếc Honda mầu xanh dương tôi đã gặp cách đây ba chục cây số? - Không phải người ấy. Bà xã của tôi lái xe pickup. Còn ông thì sao? Sao hôm nay là Thứ Bảy mà ông lại dậy sớm thế? - Tôi không có đánh nhau với vợ. Tôi đi về với bà ấy đây. Tôi ở Laredo. Tôi đi làm quảng cáo cho một hãng đồ gốm tân tạo. Tôi muốn ghé Shiloh để ăn sáng. Ông có biết một tiệm ăn nào tốt không? Priest mong rằng ông thương gia này sẽ đi qua thành phố mà không ghé đâu cả. Như vậy thì ông ta sẽ không có dịp kể với ai là đã
gặp một gã râu xồm ở gần bãi rác, và đã cho gã quá giang. Dù sao Priest cũng phải nói:
- Có tiệm Lazy Susan ở đường Maine.
- Thức ăn có ngon không?
- Có món bắp nấu ăn được lắm. Qua đèn đỏ là tới.
Khi xe đã đậu vào bãi đậu xe của tiệm Susan, Priest cám ơn chủxe và xuống xe. Hắn vừa đi vừa nói với lại:
- Chúc ông ăn ngon.
Từ tiệm Susan đi qua một ngã tư nữa là đến văn phòng địa phương của hãng dò tìm địa chấn Priest đang làm việc. Văn phòng là một toa xe lớn đậu trong một thửa đất trống. Chiếc địa-chấn-xa của Mario đang đậu trong bãi đậu xe, bên cạnh chiếc Pontiac Grand Amđỏ của Lenny.
Priest dừng lại và nhìn vào chiếc xe tải hồi lâu. Ðó là một chiếc xe 10 bánh, những bánh xe thật lớn, với vỏ dầy và cứng như da khủng long. Dưới lớp bụi của Texas còn thấp thoáng mầu sơn xanh dương. Priest muốn nhẩy vào xe và lái đi ngay, nhưng làm vậy thì chỉ trong thoáng chốc là sẽ có một đoàn xe cảnh sát chạy theo hắn ngay.
Hắn đi vào toa xe. Văn phòng đang bận rộn. Một viên giám thị đang nói vào máy điện thoại, và cô thơ ký của Lenny, Diana, đang rà một danh sách.
Priest bước qua một cửa vẫn để ngỏ vào văn phòng phía trong. Lenny đang uống cà phê, một máy điện thoại đang áp vào tai. Sau một phút ông gác máy và nói:
- Ê, Ricky, anh có thấy thằng Mario ở đâu không? Ðáng lẽ nó đã phải lên đường nửa giờ trước đây rồi.
- Có, tôi có thấy nó. Nó đã cho ông leo cây rồi. Nó nhớ vợ connó quá nên nó đã lái xe pickup của nó đi rồi.
- Giỏi thiệt. Sao anh biết rõ thế?
- Xe nó chạy qua mặt tôi hồi sáng nay, hướng về phía El Paso.
- Tốt. Tôi mong là nó sẽ vượt biên và không ngừng xe cho đến khi nó lao xe xuống biển.
- Nó có một gia đình rất trẻ. Xin ông đừng cứng rắn với nó quá. - Không cứng rắn với nó? Anh có rỡn không? Tôi sa thải nó ngay bây giờ.
- Nó rất cần việc làm này.
- Nhưng tôi lại cần một người lái xe tải của nó đi New Mexico. Priest cố giữ cho giọng nói được tự nhiên:
- Tôi sẽ lái xe tải ấy đến Clovis nếu ông hứa sẽ để cho Mario làm việc trở lại.
- Anh có bằng lái xe thương mại, hạng B, không?
- Tôi có bằng lái xe ấy từ hồi tôi mới 21 tuổi.
Priest móc ví lấy bằng lái xe ra, để nó lên bàn giấy. Ðó là bằng giả.
Ông Lenny xem xét bằng lái xe một lúc rồi nói:
- Trước anh nói là anh không muốn đi New Mexico mà. - Ðược trả công 500 Ðô thì tôi ngu gì mà không đi.
- 200 được không?
Priest ngần ngừ:
- 200 thì có vẻ quá ít cho 3 ngày làm việc.
- Chỉ mất hai ngày thôi, có thể là hai ngày rưỡi. Tôi trả anh 250. - Thôi được. Mario là một người tốt. Tôi muốn giúp nó. Xin ôngcứ trả tôi tùy theo sự xét đóan của ông về khả năng của tôi. - Tốt. Vậy thì 300.
- Dạ được.
Ông Lenny mở một ngăn kéo, lấy ra một tờ giấy, nói:
- Anh hãy điền vào giấy này, thủ tục bảo hiểm.
Priest không biết đọc, cũng không biết viết. Hắn nhìn chăm chămvào tờ giấy, tâm thần bối rối.
Lenny nói:
- Cầm lấy đi chứ, nó có phải là con rắn độc đâu.
Priest từ từ giơ tay ra cầm lấy cái mẫu đơn, nói:
- Ðể tôi điền nó ở ngoài kia.
Hắn đi trở ra, vào văn phòng chính, mắt nhìn vào tờ mẫu. Không thấy có những chữ X to để chỉ chỗ cho hắn ký tên. Priest có thể nguệch ngoạc viết được tên hắn, ngoài ra không viết được chữ nào khác nữa.
Hồi nhỏ Priest là đứa trẻ rất thông minh nên hắn không cần học đọc và viết. Hắn có thể làm tính nhẩm nhanh hơn ai hết, và trí nhớ của hắn thì không bao giờ bị sai lệch. Trong lớp học, hắn tìm đủ mọi cách để khỏi phải đọc lớn tiếng. Nếu được lệnh phải viết cái gì thì hắn nhờ một đứa bạn viết dùm cho.
Sau này hắn xoay xở làm được chủ một tiệm bán buôn rượu. Hắn không bao giờ viết thư. Mọi việc giao dịch hắn đều làm bằng điện thoại, hay đích thân đi. Hắn nhớ được hàng tá số điện thoại trong đầu. Hắn biết được đúng số tiền hắn có trong ngân hàng. Hắn đã có được một triệu đôla hồi hắn 21 tuổi. Hắn đã mất hết số tiền này lúc hắn gặp Star, không phải vì hắn mù chữ, nhưng là vì hắn đã lường gạt khách hàng, gian lận tiền thuế, và vay nợ của băng đảng.
Priest ngồi xuống trước bàn giấy của Diana, thơ ký của Lenny, mỉm cười với nàng, nói:
- Cô có vẻ mệt sáng nay?
Diana thở dài. Nàng có thân hình mụ mẫm, tóc vàng, khoảng 35 tuổi, chồng làm lao công cùng hãng. Nàng nói:
- Công việc bề bộn quá. Ước sao tôi có được hai cái đầu. Priest tỏ vẻ thất vọng:
- Thật là xui xẻo. Tôi định nhờ cô giúp cho một việc. Diana ngần ngừ, rồi miễn cưỡng mỉm cười:
- Việc gì vậy?
- Chữ tôi viết xấu quá. Tôi muốn nhờ cô điền hộ tôi tờ mẫu này.
Tôi thật không muốn làm rộn cô trong lúc cô đang bận. Nàng cười, chỏ tay về phía một đống thùng giấy cứng chất sát tường, nói:
- Không sao. Tôi giúp anh điền mẫu đơn này nếu anh giúp tôi chất những thùng hồ sơ kia vào trong xe van Chevy Astro mầu xanh đậu ngoài kia.
- Sẵn sàng.
Priest hể hả nói và trao mẫu đơn cho nàng. Diana cầm bút lên nói:
- Bây giờ anh cho tôi biết tên họ, ngày và nơi sanh của anh. Priest khai cho nàng đầy đủ mọi chi tiết, và nàng điền vào chỗ trống trên tờ mẫu, rồi nàng vẽ một chữ X to cạnh chỗ có một hàng dấu chấm, và nói:
- Anh ký vào đây.
Priest cầm lấy bút của Diana, viết một cách chật vật. Chữ R choRichard, rồi chữ G cho Granger. Sau R G hắn kéo dài một nét ngoằnngoèo như con rắn. Trông không đẹp, nhưng người ta cũng chấp nhận được.
Hắn trao lại tờ mẫu cho Diana và nói:
- Cảm ơn cô đã giúp đỡ.
- Tôi sẽ lấy cho anh chìa khóa xe ở phòng ông Lenny khi nào ổng điện thoại xong.
Sau khi Priest đã chất tất cả đám thùng giấy vào xe Chevy, Diana cầm tờ mẫu đi vào văn phòng trong.
Khi trở ra, tay nàng cầm vòng chìa khóa xe địa chấn, và nàng trao nó cho Priest.
Giây phút này hắn đã mong ước từ lâu. Hắn nói:
- Cảm ơn cô. Chào mọi người. Hẹn gặp lại ở New Mexico. Diana nói:
- Lái xe cẩn thận đấy, nghe không?
- Tôi sẽ rất cẩn thận. Cô cứ tin tôi đi.
Ra tới ngoài, hắn leo lên xe tải, bật công tắc máy. Hắn soát lại đồng hồ xăng. Chắc là Mario đã đổ đầy xăng tối hôm qua. Priest cho xe chạy về phương bắc, theo con đường Star đã đi trong chiếc Honda. Khi xe chạy gần tới bãi rác, hắn thấy hồi hộp. Nhưng rồi hắn trấn tĩnh được ngay. Mario đâu phải là người đầu tiên hắn đã giết.
Jack Kassner là một cảnh sát viên. Nó đã ăn cắp tiền của mẹ Priest. Lúc Ricky được 15 tuổi, mẹ hắn là một gái điếm, cùng với ba người đàn bà khác thuê một căn phòng ở Los Angeles để làm ăn. Jack Kassner, hồi đó là phó trưởng toán trinh sát, mỗi tháng đến một lần để thu tiền hối lộ. Ngày hôm đó hắn trông thấy mẹ của Priest lấy tiền ở phòng trong. Ðêm đến hắn ập tới xét nhà, và hắn quơ một ngàn rưỡi đôla của mẹ Priest. Kassner nghĩ ba con điếm và một thằng nhỏ mười lăm tuổi thì làm gì được nó. Nhưng tối hôm sau, trong phòng vệ sinh của một quán rượu tại Broadway, thằng nhỏ Richard Granger đã lụi một con dao lưỡi dài mười lăm phân vào lưng Kassner.
Priest lạnh lùng lái xe qua bãi rác và tiếp tục chạy về hướng bắc. Trong lúc xe chạy bon bon trên đường trường, Priest miên man nhớ lại thôn xóm nhỏ mà hắn và Star đã tạo nên.
Khung cảnh nơi đó không bao giờ hắn quên được. Một rừng thông bao phủ lên mấy ngọn đồi, dầy như trên lưng con gấu. Qua làn không khí trong vắt của núi rừng, bầu trời xanh ngắt làm cho người ta chói mắt khi ngước nhìn lên. Cách đường cái mươi cây số, một con sông nước trong xanh chảy ngoằn ngoèo trong một thung lũng, giữa hai vách núi cao. Khách qua đường không ai biết được là đã có một nhóm người tới sinh sống ở nơi đây, và làm đất thành ra những nương nho.
Priest thấy xóm làng của hắn mới đẹp làm sao, và tim hắn như thắt lại.
Ðàn ông, đàn bà, trẻ con, di chuyển chậm chạp trong rừng nho, chăm sóc từng cây nho. Ðó là những người bạn của Priest, những người mà hắn yêu thương, là gia đình của hắn. Một người trong đámđàn bà cười khanh khách. Nàng có một thân hình cao, mập mạp, tóc đen dài, và Priest thấy rào rạt tình yêu đối với nàng. Trong lúc họ đang làm việc, vài người đàn ông qùy gối cầu xin các thần linh của thung lũng phù hộ cho họ có một mùa gặt nho tốt đẹp. Cạnh chân họ, mấy gốc cây to còn sót lại như nhắc họ nhớ đến những nỗi nhọc nhằn họ đã trải qua khi họ tới đây khai phá để lập nên thôn ấp này hai mươi lăm năm trước. Bên rìa nương nho có mấy căn nhà gỗ, mộc mạc nhưng chắc chắn. Khói lam uốn khúc bay trên một mái nhà.
Chỗ đó là thiên đường của nhóm Priest. Priest có giữ lại được thiên đường này không?
Rồi Priest lại nhớ đến đêm hôm lá thư tới. Ðêm hôm ấy hắn đã nói với mọi người:
- Chúng ta phải làm việc ấy ngay đêm nay. Chúng ta sẽ nói cho ông thống đốc biết là sẽ có một trận động đất xẩy ra trong bốn tuần nữa, kể từ hôm nay.
Star còn phân vân, nói:
- Chúng ta chưa chắc là việc ấy có thể làm được hay không. Có lẽ mình phải làm cái gì khác đã, rồi sau mới gởi tối hậu thư. Priest nói:
- Tình thế cấp bách rồi. Ta phải làm ngay.
Aneth nói:
- Nhưng một trận động đất sẽ làm chết nhiều người.
Priest nói:
- Chúng ta sẽ làm một trận động đất nhỏ, không gây thiệt hại gì, trên sa mạc, đủ để chứng tỏ cho họ thấy là chúng ta có khả năng làmnhững gì chúng ta nói. Rồi khi ta dọa một trận động đất thứ hai thì lão thống đốc sẽ phải điều đình.
Oaktree nói:
- Mình hăm họ bằng cách nào?
Priest nói:
- Một lá thư hay một cú điện thoại nặc danh là được chứ gì? Melanie nói:
- Chúng ta có thể chưng nó lên bảng thông tin của mạng lưới Internet. Nếu chúng ta dùng máy điện toán xách tay và điện thoại di động của tôi thì không ai truy lùng tung tích của nó được.
Priest chưa hề thấy một máy điện toán cho đến khi Melanie tới nhập bọn. Hắn nói:
- Ðược lắm.
Star nói:
- Mình ký bức thông điệp thế nào? Mình phải có một tên chứ. Song nói:
- Cái gì có thể tượng trưng cho một nhóm người yêu thái bình đang bị dồn vào đường cùng?
Priest nói:
- Tôi biết. Chúng ta sẽ tự xưng là “Búa Thiên Lôi”.
Lúc đó là gần nửa đêm ngày Một tháng Năm.
Tinh thần Priest trở nên căng thẳng khi hắn tới ngoại ô thành phố San Antonio. Theo kế hoạch nguyên thủy thì Mario đã phải lái xe tải tới tận phi trường, nhưng nay Priest chỉ có một mình lái xe vào mạng nhện xa lộ vây quanh thành phố. Hắn bắt đầu toát mồ hôi lạnh. Hắn không thể đọc được bản đồ, ngay cả các bảng chỉ đường cũng làmkhó cho hắn.
Rốt cuộc, sau khi hỏi thăm đường, hắn cũng tìm được lối ra khỏi San Antonio. Vài phút sau, khi chạy qua một thành phố nhỏ, hắn thấy nhẹ người khi trông thấy chiếc Honda xanh đậu trước một tiệm Mc Donald.
Priest sung sướng ôm lấy Star. Nàng lo lắng hỏi:
- Việc gì đã xẩy ra vậy? Em đã chờ anh cả hai tiếng đồng hồ rồi. Priest không muốn cho nàng biết hắn đã giết Mario, nên hắn nói: - Anh đã bị lạc đường ở San Antonio.
- Em cũng nghĩ như vậy. Nhưng bây giờ anh đã đến đây rồi thì ta đi.
Hai người lại lên đường. Star lái xe tải. Họ dự định đi thẳng đếnCalifornia, không ngừng ở đâu hết. Như vậy là sẽ mất hai ngày hai đêm. Một người ngủ trong khi người kia lái xe.
Họ bỏ lại chiếc Honda ở bãi đậu xe của Mc Donald. Khi xe chạy trên xa lộ, Star đưa cho Priest một túi giấy đựng một cái kéo và một con dao cạo chạy bằng pin, và nói:
- Bây giờ anh hãy cạo râu đi.
Priest quay kính chiếu hậu về phía mình và bắt đầu cắt bằng kéo. Mặt thật của hắn lộ ra khi hắn dùng dao cạo để kết thúc công việc. Sau rốt hắn bỏ mũ cao bồi ra và gỡ tung bím tóc.
Hắn nhìn vào gương. Tóc hắn xõa xuống quanh một khuôn mặt rắn rỏi. Sống mũi cao và nhọn như một lưỡi dao, hai má hóp, nhưng hắn có một cái miệng thật khêu gợi. Nhiều đàn bà đã nói với hắn như vậy. Nhưng đôi mắt của hắn mới thật đặc biệt, mầu nâu sẫm, gần như đen, đôi mắt có một thị lực mãnh liệt, nó nhìn xoáy vào tâm hồn người ta, nó sai khiến được người ta, nó muốn thôi miên người ta.
Star bật cười:
- Một con quỷ đẹp trai.
- Giỏi nữa chứ.
- Ðúng, vì anh đã lấy được chiếc xe này.
Tại tòa Nhà Liên Bang, số 450 đường Golden Gate, San Franciscosáng sớm Thứ Hai, Judy Maddox, phái viên FBI, ngồi đợi tronphòng xử án ở tầng lầu 15. Nàng thấy hơi lo. Phá một án đòi hỏi
nhiều tháng, có khi nhiều năm làm việc. Nhưng người ta không thể nói chắc được kết quả ra làm sao khi vụ đó được đưa ra trước toà án. Hôm nay có bốn người được đưa ra xử: anh em nhà Phống và hai đồng lõa.
Bọn chúng liên tay với ba người nữa bên Hồng-Kông lập nênmột mạng lưới để bí mật chuyển tiền của giới kỹ nghệ ma túy tại Bắc California. Judy đã phải mất một năm trời để biết được cách thức làm ăn của bọn chúng, và một năm nữa để chứng minh tội trạng của chúng.
Nàng có một điểm lợi khi theo dõi bọn lưu manh Á-châu. Cha của nàng là người Ái Nhĩ Lan, mắt xanh, nhưng nàng có nhiều nét giống người mẹ đã quá cố của nàng. Mẹ nàng là một người Việt Nam. Judy có thân hình nhỏ nhắn, tóc đen, cặp mắt xếch. Bọn người trong băng đảng Tàu mà nàng hỏi chuyện trong những lúc nàng làm công tác điều tra, không ai ngờ cô gái nhỏ xinh đẹp lai Á này lại xuất thân từ trường đại học luật khoa Stanford, và là một nhân viên ưu tú của FBI.
Nàng đang làm việc cùng với một viên phó biện lý tên Don Riley. Nàng đã sống chung với anh này một thời gian. Hai người mới chia tay nhau một năm trước. Anh ta cùng tuổi với nàng. Anh ta có nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp, khôn lanh, và rất hăng say trong công việc. Nàng nghĩ rằng bọn nàng đã nắm chắc phần thắng trong vụ này, nhưng các bị cáo đã thuê được tổ hợp luật sư bậc nhất trong thành phố, và họ đã đưa ra những luận cứ chạy tội thật khéo léo và mạnh mẽ.
Judy có một lý do đặc biệt để phải lo ngại về vụ án này. Ông xếp trực tiếp của nàng, trưởng toán “Trọng Tội Á Châu”, sắp sửa về hưu. Nàng đã đệ đơn xin được thay thế ông. Giám Ðốc FBI, văn phòngSan Francisco, ủng hộ nàng. Nhưng nàng có một đối thủ: Marvin Hayes, một nhân viên có nhiều thâm niên cùng trong nhóm của nàng.
Marvin lại là bạn rất thân của ông phó giám đốc. Ngay bây giờ cuộc đua tranh giữa Judy và Marvin Hayes đã đến hồi gay go. Judy là một nhân viên giỏi. Nàng sẽ là một trưởng tổ ưu tú, và một ngày kia nàng sẽ có thể là một giám đốc bậc nhất của FBI SanFrancisco. Ông giám đốc đã tỏ ý là Judy xứng đáng hơn Marvin đểgiữ chức trưởng tổ, nếu nàng thắng vụ án ngày hôm nay. Tại phiên tòa, hầu hết những người cộng tác với Judy trong vụ Phống đều có mặt. Nhưng nàng không hiểu tại sao cả ông giám đốc và ông phó giám đốc đều không đến. Vụ này là một vụ quan trọng. Nàng đoán là trong sở đã xẩy ra việc gì. Nàng toan bước ra ngoài phòng xử để gọi điện thoại về sở, nhưng viên thừa phát lại đã bước vào, và thông báo rằng bồi thẩm đoàn đang trở lại phiên tòa. Nàng ngồi xuống. Don bóp nhẹ vai nàng để khuyến khích nàng. Bồi thẩm đoàn vào phòng xử. Vị thẩm phán từ trong phòng nghị án bước ra và ngồi xuống ghế chánh án. Judy bắt đầu làm dấu chữ thập bằng hai ngón tay của nàng ở dưới gầm bàn.
Chánh Án hỏi:
- Quý vị bồi thẩm, quý vị đã có kết quả chưa?
Ðại diện bồi thẩm đoàn đứng dậy nói:
- Thưa đã có.
- Vậy các bị cáo có tội hay không có tội?
- Có tội.
Judy quay nhìn Don. Don toét miệng cười với nàng.
Chánh Án cảm ơn bồi thẩm đoàn, đình hoãn phiên tòa, và bước ra.
Thắng rồi, mình đã thắng rồi, Judy thầm nghĩ. Mình đã bỏ được bọn gian vào tù, và sự thăng chức của mình đã ở trong giỏ rồi. Trưởng Toán Judy Maddox, mới ba mươi sáu tuổi, một ngôi sao đang lên.
Nàng nói với Don:
- Công của anh lớn lắm đấy, anh Don. Cảm ơn anh.
Don ôm nàng:
- Em đã cho anh một vụ án thật lớn.
Judy quay qua các cộng sự viên, bắt tay từng người một để cảmơn họ. Rồi hai luật sư bên bị tới. Người lớn tuổi nhất, ông David Fielding của tổ hợp luật sư Brooks Fielding, nói:
- Chúc mừng cô Maddox. Cô đã thắng được vụ kiện này. Xin bội phục.
Judy nói:
- Cảm ơn hai ông. Tôi đã mất hy vọng từ khi các ông nhận bênh vực cho các bị cáo.
David nghiêng đầu nhận lời nói nhún mình của Judy:
- Cô Judy, nếu bao giờ cô chán FBI thì xin cô gia nhập nhómchúng tôi. Hồ sơ kiện của cô thật là tuyệt diệu. Trong tổ hợp của chúng tôi, lương của cô sẽ nhiều gấp ba lương hiện tại của cô.
- Lời đề nghị của ông thật đáng quý. Nhưng tôi thích bỏ những tên bất lương vào tù hơn là giữ chúng ở ngoài.
- Tôi ngưỡng mộ lý tưởng của cô.
David nói rồi quay qua nói chuyện với Don.
Judy xách cặp hồ sơ đi ra. Trụ sở FBI ở trong cùng một tòa nhàvới tòa án, hai tầng thấp hơn.
Khi bước vào hành lang của văn phòng FBI, nàng vẫn còn thắcmắc về lý do vắng mặt của hai ông giám đốc và phó giám đốc tại phiên xử. Nàng tiến tới phòng ông giám đốc. Giám Ðốc MiltonLestrange bao giờ cũng có cảm tình với nàng. Ông thường bênh vực nhân viên phái nữ. Ngay từ bước chân đầu tiên vào phòng ngoài của ông, nàng đã thấy có việc không hay xẩy ra rồi. Cô thư ký của ông đang khóc. Judy đến an ủi cô, nhưng cô xua tay và chỉ vào phòng trong.
Judy bước vào. Ngồi phía sau bàn giấy của ông giám đốc là ông
phó giám đốc Brian Kincaid, áo vét treo trên mắc, cà vạt nới lỏng. Ông là một người to lớn, tóc trắng. Ông ngước mắt nhìn lên và nói: - Vào đi, cô Judy.
Nàng nói:
- Việc gì đã xẩy ra vậy? Ông Giám Ðốc đâu?
- Ổng ở trong nhà thương. Bịnh ung thư lá lách. Ông sẽ bị mổ để làm cái gì như là một vụ nối ruột, và ông phải vắng mặt ở đây một thời gian dài.
Judy ngồi xuống ghế:
- Thật tội nghiệp cho ông Giám Ðốc.
- Tôi được ủy thác làm giám đốc trong khi ổng vắng mặt. Judy nghĩ thế này là mình bị xui rồi, nhưng nàng cũng nói: - Xin chúc mừng ông.
- Tôi chuyển cô sang toán “Khủng Bố Quốc Nội”.
Ông nhấc máy điện thoại, nói với cô thơ ký:
- Cô bảo Matt Peters sang gặp tôi ngay.
Peters là trưởng toán KBQN. Judy tức giận nói:
- Nhưng tôi mới thắng vụ án mà.
- Làm tốt lắm. Nhưng cái đó không thể thay đổi quyết định của tôi được.
- Khoan đã, thưa ông. Ông đã biết là tôi đã đệ đơn xin làmtrưởng toán “Trọng Tội Á Châu” rồi mà.
- Tôi muốn để cô thu thập nhiều kinh nghiệm hơn nữa. - Và ông cũng muốn để Marvin ngồi ở bàn giấy “Á Châu”? - Ðúng. Tôi tin rằng Marvin là người xứng đáng nhất để giữ chỗ đó.
Thật là một thằng khốn, Judy tức giận nghĩ thầm. Nó tự xoay xở để giật chức giám đốc. Nay nó lại ỷ vào chức giám đốc để thăng chức cho thằng bồ của nó.
Nàng nói:
- Ông không thể làm thế được. Tài sức chúng tôi ngang nhau. Tôi không thua kém gì Marvin hết.
- Marvin xứng đáng hơn cô.
- Tôi đã bỏ tù nhiều tội phạm hơn hắn.
Kincaid mỉm cười, lật con bài tẩy của ông:
- Nhưng hắn đã làm việc hai năm ở trung ương FBI tại HoaThịnh Ðốn.
Thằng cha này nói đúng, Judy thất vọng nghĩ thầm. Nàng chưa bao giờ làm việc ở trung ương FBI, và kinh nghiệm thâu thập được ở trung ương là cần thiết cho một trưởng toán. Judy cố kìm cho nước mắt khỏi trào ra.
Matt Peters bước vào. Ông là một người to, tròn, đầu hói. Cũnggiống như Marvin Hayes, ông là nhân viên thân tín của Kincaid. Judycảm thấy là nàng đang bị bao vây tứ bề.
Peters nói với Judy:
- Chúc mừng cô đã thắng kiện. Tôi rất vui lòng có được cô trong toán của tôi.
- Cảm ơn ông.
Kincaid nói:
- Matt có một công tác mới cho cô.
Peters cắp một hồ sơ dưới cánh tay, và bây giờ ông trao cho Judy.
- Ông thống đốc có nhận được một lời hăm dọa của một bọn tự xưng là “Búa Thiên Lôi”.
Judy mở hồ sơ nói:
- Chúng muốn gì?
- Ngưng việc xây một nhà máy điện mới ở California. Chúng cho ta bốn tuần lễ để trả lời.
- Thế chúng dọa cái gì?
- Một trận động đất.
Từ xấp hồ sơ Judy ngước mắt nhìn lên:
- Vậy là ông trao cho tôi việc này. Không ai có thể làm được một trận động đất. Lời dọa này được truyền thông bằng cách nào? - Nó xuất hiện trên bảng thông tin Internet ngày Một tháng Năm. Judy nhìn Matt Peters:
- Hôm nay là ngày hai mươi lăm. Ông đã không nói gì về thông điệp ấy trong ba tuần rưỡi. Nay chỉ còn bốn ngày nữa là đến kỳ hạn thì ông mới lo?
- John Truth đã xem bảng thông tin. Nó nói về vụ hăm dọa này trong buổi phát thanh tối Thứ Sáu. Sau đó dân chúng tới tấp gọi điệnthoại hỏi nó.
John Truth là người điều khiển chương trình radio đối thoại. Các buổi phát thanh của John đều được tất cả các đài radio khác tiếp vận trên toàn California.
- Tôi hiểu rồi. John Truth ép ông thống đốc phải có thái độ gì với lời dọa của bọn khủng bố, cho nên FBI phải điều tra về vụ này. Matt nói:
- Ðại khái là như vậy.
Judy nói với Kincaid:
- Các ông đã cố gắng rình bắt anh em nhà Phống trong suốt hai mươi năm qua. Nay tôi đã bỏ được bọn chúng vào tù. Bây giờ ông lại trao cho tôi một vụ vớ vẩn thế này à?
Với vẻ tự mãn Kincaid nói:
- Nếu cô muốn làm việc ở đây thì cô phải học chấp nhận cả cái khó lẫn cái dễ.
- Tôi đã học rồi, thưa ông. Mười năm trước đây, khi tôi mới vào làm, tôi đã nhận những vụ vớ vẩn như vụ này. Tôi đã vui vẻ làm tròn nhiệm vụ, và đã tỏ ra xứng đáng để được nhận những vụ thật sự quan trọng.
- Mười năm có là bao! Tôi đã ở đây hai chục năm rồi.
- Tại sao vậy? Ông vừa mới được giao trọng trách điều hành phòng này, mà công việc đầu tiên của ông lại là trao cho một nhân viên giỏi một vụ đáng lẽ chỉ để cho một lính mới làm.
- Phải. Tôi mới nhận chức vụ này mà cô đã muốn dậy tôi phải làm việc thế nào hả? Thôi, cô Maddox, đi làm việc đi. Cuộc họp đếnđây là chấm rứt.
Giận sôi máu, Judy không chịu được nữa:
- Phải, chấm dứt. Chấm dứt cả công việc nữa. Tôi bỏ, không làmnữa.
Rồi nàng bước ra.
oOo
- Thật con đã nói thế hả? Cha của Judy hỏi.
- Vâng, con đã nói như thế, và con biết là bố không bằng lòng. - Con làm như thế cũng đúng đấy chứ. Nhưng bố thấy hơi quá đấy. Bây giờ con có thấy ân hận không?
Hai cha con ngồi uống trà trong bếp. Cha của Judy là một điềutra viên của sở cảnh sát San Francisco. Ông hay mặc thường phục đi điều tra. Ông có sức mạnh, mắt xanh và tóc hoa râm bím đuôi ngựa. Ông đã gần đến tuổi hưu trí, nhưng ông rất sợ phải về hưu. Hỗ trợ luật pháp là đời sống của ông. Ông kinh ngạc thấy con gái nói tới giã từ công việc khi cô chưa đến lúc phải bỏ việc.
Cha mẹ của Judy đã gặp nhau ở Saigon, trong thời gian quân đội Mỹ ở đó được gọi là cố vấn quân sự. Mẹ nàng xuất thân từ một gia đình trung lưu Việt Nam. Cha của Judy đưa vợ về Mỹ, và Judy ra đời ở San Francisco. Lúc còn nhỏ Judy gọi cha mẹ bằng tiếng Việt: Bố và Mẹ. Các cảnh sát viên trong sở thấy ngồ ngộ, cũng gọi cha của Judy là Bố Maddox.
Judy thương cha lắm. Mẹ nàng bị chết trong một tai nạn xe hơi lúc nàng được 13 tuổi. Sau khi chia tay với Don Riley năm trước, nàng dọn về ở với cha.
Judy thở dài:
- Con không hối tiếc chút nào cả. Con đã nói với Kincaid là conthôi việc thì con phải thôi việc. Thằng cha thật là ngu xuẩn. - Nó ngu thật, vì nó đã để mất một nhân viên giỏi.
Ông nhấp một ngụm trà, rồi thủng thẳng nói tiếp:
- Nhưng con còn ngu hơn, vì con đã để mất một chỗ làm tốt. - Người ta đã hứa cho con một chỗ làm tốt hơn ở tổ hợp luật sư Brooks Fielding. Họ sẽ trả con lương cao gấp ba lương của FBI. Ông bực tức nói:
- Con muốn giúp cho bọn bất lương khỏi vào tù hả? Tại sao con không lấy thằng Don Riley rồi sanh con đẻ cái đi? Bố muốn có cháubế lúc bố về hưu.
Judy thấy nhói trong tim. Nàng chưa cho bố biết là mối tình của nàng với Don đã tan vỡ. Lý do chỉ là vì Don có một bồ nhí khác. Don đã thú tội với nàng và xin lỗi. Nàng đã cố gắng tha thứ Don, nhưng cảm tình của nàng đối với Don không được như trước nữa. Bố không biết gì về chuyện này. Ông nghĩ rằng Don Riley sẽ là một người chồng hoàn mỹ: đẹp trai, thông minh, thành đạt trong công việc, và làm việc trong ngành bảo vệ luật pháp.
Ông đứng dậy:
- Bố phải đi đây. Toán của bố có một trận đánh đêm nay. Ông mặc áo, hôn má con gái, rồi ra khỏi nhà. Judy mở tủ lạnh, tính tìm thức gì ăn, nhưng nàng không thấy đói. Nàng quyết định viết bản kê khai lý lịch. Nàng phải đến sở để viết bằng máy điện toán. Nàng cầm súng lên, rồi lưỡng lự. Phái viên FBI đều coi như phải làm việc hai mươi bốn tiếng một ngày, và lúc nào cũng phải đeo súng, ngoại trừ những lúc ở tòa án, trong nhà tù hay trong phòng làmviệc. Nhưng nếu mình không còn là phái viên nữa thì mình khỏi phải mang súng. Rồi nàng lại đổi ý. Nếu mình bắt gặp một vụ cướp mà mình lại phải lái xe chạy đi bởi vì mình không có súng, có lẽ lúc bấy
giờ mình tự thấy mình là cù lần lắm nhỉ.
Ðó là một khẩu súng thường được phát cho các phái viên FBI, khẩu súng ngắn SIG-Sauer P228. Judy còn có một khẩu súng trườngRemington 870 nữa. Cũng như mọi phái viên khác, nàng phải tập bắn súng mỗi tháng một lần, và phải thi bắn bốn lần mỗi năm. Cũng như hầu hết các phái viên khác, nàng chưa thực sự dùng súng của mình bắn ai, ngoài những lúc bắn tập. Các phái viên FBI là những điều traviên. Bởi vậy nên không có gì là lạ nếu có những phái viên làm việc suốt đời với cơ quan mà chưa bao giờ phải dùng đến súng.
Judy bỏ súng vào trong túi đeo vai. Nàng mặc áo dài Việt Nam. Nàng thích mặc áo dài những lúc nhàn rỗi, không làm việc ở sở, vì nàng thấy nàng mặc áo dài coi đẹp lắm.
Tối nay nàng mặc áo dài và quần dài bằng lụa trắng. Màu trắng của áo làm nổi bật làn tóc đen xõa chấm vai của nàng, và cái áo bó sát người làm lộ những đường cong của đôi vai và thân thể nàng.
Judy ra khỏi nhà. Xe Chevrolet Monte Carlo của nàng đậu sátvỉa hè. Ðó là xe của sở.
Lúc đó là khoảng 8g30 tối. Xe cộ ngoài đường đã bớt nhiều nên chỉ trong mấy phút là nàng đã tới tòa Nhà Liên Bang. Nàng vào vănphòng Trọng tội Á châu. Không có ai trong phòng. Nàng bật đèn, ngồi vào bàn giấy của nàng, bật máy điện toán để viết bản kê khai lý lịch.
Nhưng trước hết nàng phải viết tờ đơn xin thôi việc đã. Nàng bấm ngày, tháng, rồi đánh chữ. Trên màn hình hiện ra những giòng chữ:
“Kính gởi Ông Giám Ðốc. Tôi viết đơn này để xác nhận lời xinthôi việc của tôi.”
Nàng thấy lòng quặn đau. Nàng đã cho FBI mười năm son trẻ củanàng. Bao nhiêu người đàn bà khác đã có chồng rồi, sanh con rồi, hay đã có cơ sở làm ăn riêng rồi. Còn nàng, nàng đã tự nguyện phải
trở nên một phái viên giỏi. Nay nàng đang vứt đi tất cả. Nghĩ đến đây tự nhiên nước mắt nàng trào ra.
Rồi Simon Sparrow bước vào. Cũng như Judy, chàng mặcthường phục. Chàng đã đậu bằng tiến sĩ ngữ học, và đã làm việc 5 năm trong khối khoa học tâm lý của trường FBI tạiQuantico, Virginia. Công việc chuyên môn của chàng là phân tích các lời hămdọa. Chàng có một hồ sơ trên tay. Chàng nói:
- Lời dọa động đất của cô thật là hấp dẫn. Tôi định để hồ sơ này lên bàn của cô, nhưng thật là may cho tôi đã gặp cô ở đây. Xin chúc mừng cô đã thắng kiện ngày hôm nay. Chắc cô hài lòng lắm.
- Ðáng lẽ thì tôi rất hài lòng. Nhưng sau đó tôi đã cãi nhau với ông Kincaid một trận.
- Ồ, ông ấy hả? - Simon phẩy tay như xua ông chủ đi - Nếu cô xin lỗi ổng một câu thì ổng sẽ phải tha lỗi cho cô. Ổng không thể để mất cô đâu. Cô làm việc giỏi quá mà.
Hình như Simon đã biết hết mọi việc, nhưng nếu hắn biết là nàng đã xin thôi việc thì tại sao hắn lại đưa tờ báo cáo cho nàng. Tò mò, nàng nói:
- Anh ngồi xuống đây và nói cho tôi biết việc phân tích của anh về lời hăm dọa này.
- Nó làm tôi muốn điên cái đầu, cô ơi.
Simon đưa cho nàng một bản in của tờ thông điệp như đã xuất hiện trên bảng thông tin Internet.
Judy đã xem thông điệp rồi. Nó ở trong hồ sơ Matt Peters đã trao cho nàng sáng nay.
Nàng đọc lại một lần nữa.
1/5
Gởi ông Thống Ðốc tiểu bang
Chào ông!
Ông nói rằng ông ngăn cấm ô nhiễm và giữ gìn môi trường,
nhưng ông đã không làm gì cho mục tiêu ấy; vậy nên chúng tôi buộc ông phải làm. Cái xã hội tiêu thụ này đang đầu độc trái đất bởi vì các ông tham lam quá, và các ông phải ngưng ngay bây giờ! Chúng tôi là “Búa Thiên Lôi”, một chi nhánh chính thống của tổ chức tranh đấucho môi trường Green California. Chúng tôi buộc ông phải tuyên bố ngưng ngay việc xây các nhà máy phát điện. Không có nhà máy phát điện mới. Rõ chưa? Nếu không! Nếu không thì sao? Nếu không thì chúng tôi sẽ làm một trận động đất trong đúng bốn tuần nữa, kể từ ngày hôm nay, Một tháng Năm. Ông nên chú ý! Chúng tôi đã nói thì chúng tôi sẽ làm!
Búa Thiên Lôi
Simon nói:
- Cô nghĩ thế nào?
Judy suy nghĩ một phút:
- Tôi thấy một thằng sinh viên khùng ngồi trước máy điện toán hoang tưởng ra cách làm cho thiên hạ phải tuân theo ý mình. Simon cười:
- Sai bét. Nó là một thằng thất học nghèo, từ bốn đến năm mươi tuổi.
- Sao anh biết?
- Người giầu và có học thường bắt đầu bức thư bằng “Thưa Ông” chứ không “Chào ông”.
Judy gật đầu:
- Rồi. Anh đang kiếm một thằng công nhân, bốn mươi lăm tuổi. Có vẻ đúng đấy. Anh còn thắc mắc gì nữa?
- Tôi thấy nhiều điểm trái ngược. Mấy yếu tố khác trong thông điệp làm tôi nghĩ tới một người đàn bà trẻ, bậc trung lưu. Trong câu đầu có một dấu chấm phẩy. Biết dùng dấu chấm phẩy phải là người có chút học vấn. Rồi còn nhiều dấu chấm than nữa. Chứng tỏ là một phái nữ.
- Sao anh biết là người trẻ tuổi?
- Biết dùng máy điện toán và Internet phải là một người trẻ và có học.
Judy chăm chú nhìn Simon. Có phải hắn đang muốn dụ nàng ở lại làm việc, đừng xin thôi nữa.
Nàng hỏi:
- Theo như anh nói thì tờ thông điệp này được viết bởi một người lưỡng thể?
- Không phải như vậy. Kết luận rất giản dị: Nó đã được viết bởi hai người, thằng đàn ông đọc, và con đàn bà gõ máy điện toán. Simon nói tiếp:
- Tôi thắc mắc là tại sao nó lại đọc. Việc này thật bình thường đối với một vị giám đốc và một cô thư ký, nhưng thằng này là một thường dân. Không lẽ nó là một thằng mù chữ?
- Có thể nó chỉ là một thằng lười. Vậy là anh có một cô sinh viên xinh đẹp đang ở dưới quyền sai khiến của một thằng ma cà bông. Nhưng tôi thấy lời hăm dọa một trận động đất không thể tin đuợc. Simon lắc đầu:
- Chúng ta không nên coi nhẹ vụ này.
- Tại sao?
- Bây giờ chúng ta thử nghĩ xem chúng muốn gì? Chúng đang mặc cả với mình hay chúng muốn được nổi tiếng? Tôi nói là chúng đang mặc cả. Nếu chúng muốn được nổi tiếng thì chúng đã bố cáo thông điệp của chúng trên tivi hay trên báo chí, chứ không trên bảng thông tin tối tăm của Internet. Tôi cho là chúng chỉ muốn liên lạc với ông Thống Ðốc.
- Chúng thật ngây thơ nếu chúng tin chắc là ông Thống Ðốc sẽ đọc thông điệp của chúng.
- Ðồng ý. Bọn này cho ta thấy chúng có lẫn lộn cả sự hiểu biết tân kỳ với sự ngu đần, nhưng chúng không nói quàng xiên đâu.
Chương 3
- Vậy thì chúng là ai?
- Không biết. Bọn này lạ lắm. Chúng dùng phương pháp đe dọa thật mới mẻ, chưa hề xẩy ra từ trước tới nay.
- Vậy là chúng ta chẳng biết gì về chúng sao?
- Cũng biết ít nhiều. Chúng sống ở California.
- Tại sao anh biết?
- Thông điệp viết gởi cho “Ông Thống Ðốc tiểu bang”. Nếuchúng ở một tiểu bang khác thì chúng sẽ viết gởi cho “Ông Thống Ðốc tiểu bang California”.
- Còn gì nữa?
- Chúng là người Mỹ. Trong ngôn ngữ của chúng không có gì chứng tỏ chúng là một nhóm thuộc dân tộc nào khác.
- Anh đã bỏ sót một điều: chúng là một bọn khùng.
Simon lắc đầu:
- Chúng tỉnh táo, nghiêm chỉnh, và có chủ đích. Như vậy có nghĩa là chúng rất nguy hiểm.
Chàng đứng dậy, nói tiếp:
- Tôi mệt quá rồi. Cô có muốn ra ngoài uống ly bia không? - Không. Cảm ơn anh về tờ báo cáo. Anh là số dách.
- Chào cô.
Bây giờ Judy đã thấy rõ là Simon muốn thuyết phục nàng bỏ ý định từ chức. Kincaid có thể nghĩ là vụ này nhỏ nhoi, không đáng quan tâm, nhưng Simon đã cho nàng biết rằng Búa Thiên Lôi có thểlà một bọn đáng sợ, nàng phải tìm cách chặn chúng lại, không cho chúng hành động. Nếu nàng thành công trong vụ này thì bọn Kincaid hết khinh thường nàng.
Judy nhìn vào màn hình của máy điện toán. Nàng đã viết: “Kínhgởi ông Giám Ðốc. Tôi viết đơn này để xác nhận lời xin thôi việc của tôi.” Sau khi đã xóa giòng chữ ấy đi, Judy viết lại: “Tôi thànhthực xin lỗi ông vì sự lỗ mãng của tôi.....”
oOo
Mặt trời sáng Thứ Ba đang chiếu xuống xa lộ I-80. ChiếcPlymouth Cuda 1971 của Priest đang chạy về hướng Berkeley. Hắn đã mua xe này, mới toanh, hồi hắn ở nấc thang cao nhất trong đời làm ăn của hắn. Ngồi lái chiếc xe mầu vàng chói, Priest trông giống như một anh chủ gái điếm, theo như lời Star vẫn thường nói với hắn. Bởi vậy nên họ sơn thêm vào xe những hình vẽ cho có vẻ độc đáo: mấy hành tinh trên nóc xe, mấy đóa hoa ở cốp xe, và đầu một vị nữ thần của dân da đỏ trên mũi xe, với những mầu tím, hồng và xanh lam. Trong hai mươi lăm năm các mầu ấy đã phai lợt, biến ra một mầu nâu loang lổ.
Họ lên đường từ ba giờ sáng. Priest lái xe, Melanie nằm ngủ, đầu gối lên đùi Priest, hai chân co quắp trên nệm da đen. Thằng nhỏ, con của Melanie, ngủ trên ghế sau. Con chó berger của Priest, tênSpirit, nằm cạnh thằng bé.
Trong thâm tâm Priest lo lắm. Hắn đã hứa cho mọi người một trận động đất. Nếu hắn thất bại, hắn sẽ mất hết những gì hắn yêu quý nhất. Và nếu hắn bị bắt, hắn sẽ ở tù cho đến già.
Nhưng Priest là một người khác thường, không giống ai. Hắnkhông theo luật lệ nào hết. Hắn làm những việc không ai nghĩ tới. Hắn đã đi được một nửa đường tới đích rồi. Hắn đã đánh cắp được chiếc địa chấn xa. Xe ấy nay đã được giấu kỹ trong một thung lũng hẻo lánh, sau mấy cái đồi dưới dẫy núi Sierra Nevada. Hôm nay Priest đi kiếm chỗ đúng để đặt chấn động xa ngõ hầu gây nên động đất. Và chồng của Melanie là người chỉ điểm cho hắn.
Theo như Melanie nói thì Michael Quercus là người biết rõ hơn
ai hết về đường nứt San Andreas. Mọi dữ kiện thu thập được ông đều giữ trong máy điện toán của ông. Priest muốn lấy cắp cái đĩa lưu trữ những dữ kiện ấy một cách thật êm thấm, khiến cho Michael không nghi ngờ gì thì mới được.
Muốn vậy Priest phải cần đến Melanie. Tuy nhiên hắn vẫn khôngyên bụng về nàng. Hắn sợ nàng còn yêu Michael. Hắn còn lo nàng sợ sự nguy hiểm của việc làm bất hợp pháp này, rồi nàng không tiếp tục giúp hắn nữa.
Trên băng sau, đứa con năm tuổi của nàng đã thức dậy. Dusty bị bịnh dị ứng. Nó hắt hơi luôn luôn. Mắt nó sưng húp, và da nó bị mẩn ngứa. Melanie đem theo nhiều thứ thuốc mạnh, nhưng chỉ trị bịnh được phần nào thôi.
Dusty bắt đầu nhõng nhẽo:
- Mẹ ơi, con khát nước.
Melanie tỉnh giấc. Nàng ngồi dậy, quay ra sau, nói:
- Con uống nước đi. Chai nước ở bên con đấy.
- Con không uống nước. Con muốn nước cam cơ.
Melanie gắt:
- Mẹ đâu có nước cam cho con uống bây giờ.
Dusty oà khóc.
Priest nghĩ cách để dỗ thàng bé. Hắn làm ra vẻ sợ hãi nói: - Trời ơi, cái gì đang đuổi theo chúng ta kìa.
Melanie nhìn phía sau:
- Ðó là một xe tải.
- Em tưởng thế thôi. Nó hoá trang thành cái xe tải đấy. Sự thực nó là một phi thuyền không gian của bọn Mã Nhân với nhiều hỏa tiễn quang tử. Khi nào đèn vàng bên trái nó chớp là nó bắn hỏa tiễn đấy. Dusty, cháu phải canh chừng đấy nhá.
Chiếc xe sau tiến gần rất nhanh, và một phút sau đèn bên trái của nó chớp, và nó lách qua để vượt xe của Priest.
Dusty la:
- Nó bắn, nó bắn!
- Ðược rồi, chú kéo tấm giáp từ trường lên để cháu bắn lại nó. Dusty kêu:
- Tạch, tạch, tạch, chíu, chíu, chíu.....
Con chó Spirit cũng họa theo, sủa inh ỏi về phía xe tải khi nó vượt qua.
Melanie bật cười khanh khách. Khi xe tải chạy trở lại vào lằn đường phía trước xe Priest, hắn nói:
- Hú vía. Mình gặp may đấy. Chúng nó đã đầu hàng rồi. Dusty sung sướng hỏi:
- Còn bọn mã nhân nào nữa không?
- Cháu canh chừng phía sau, thấy đứa nào thì gọi chú. - Ô kê.
Melanie khẽ nói:
- Cảm ơn anh. Anh tốt với nó quá.
Priest thật cùng hung cực ác đối với người nào làm hại hắn. Nhưng đối với bạn bè thì hắn rất hiền, rất tốt: chó, mèo, trẻ con, đàn ông, đàn bà. Vì hắn đẹp trai, biết chiều đàn bà nên Melanie mới bỏ chồng mà đi theo hắn. Ðó là sức hấp dẫn trời cho của Priest.
Mấy phút sau họ rời xa lộ vào thành phố. Melanie chỉ đường cho Priest lái xe đến đường Euclid.
Dusty reo lên:
- A, nhà ba đây mà!
Melanie nói:
- Ðúng rồi, nhà ba đấy, cưng!
Nàng trỏ tay về phía một tòa nhà thấp. Priest đậu xe ở ngoài. Priest nói:
- Ðể thằng cu ở lại trong xe.
Melanie nói:
- Nó có sợ gì không?
Priest quay người nói với Dusty:
- Này, Trung Úy. Ta muốn Trung Úy và thầy Ðội Spirit canh chừng phi thuyền của chúng ta. Trung Úy có thể làm tròn nhiệm vụ được không?
- Sẵn sàng!
- Tốt.
Priest xuống xe, Melanie cầm lấy túi xách rồi cũng xuống. Hai người đi theo con đường dẫn tới cửa tòa nhà. Melanie bấmchuông. Chồng nàng làm việc ban đêm, gần sáng mới đi ngủ. Vì thế nên họ mới tính đến đây vào lúc trước bẩy giờ sáng. Priest nghĩ rằng lúc đó Michael sẽ díp mắt vì buồn ngủ, tinh thần sẽ không đủ sáng suốt để thắc mắc về việc họ đến nhà mình để làm gì.
Melanie nói Michael là người mê làm việc. Ban ngày ôngthường lái xe đi khắp California, kiểm tra các máy móc dụng cụ đã được đặt tại chỗ trước để đo mọi nhúc nhích của đường nứt San Andreas, rồi ban đêm ông về nhà ghi mọi dữ kiện đã thu thập được vào máy điện toán. Còn về lý do nàng phải bỏ chồng là vì một biến cố nhỏ xẩy ra với Dusty. Nàng và Dusty đã ăn chay trường ròng rã suốt hai năm. Nàng tin rằng sự ăn kiêng triệt để có thể làm giảm thiểu được những cơn dị ứng của Dusty. Rồi một hôm nàng khám phá ra là Michael đã cho Dusty ăn hamburger. Ðối với nàng như vậy có khác gì đầu độc thằng nhỏ. Nàng bỏ đi tức thì đêm hôm đó, đem theo Dusty.
Priest cho rằng Melanie đã suy nghĩ đúng về vấn đề dị ứng. Các người trong làng của Priest đều đã ăn chay từ đầu năm 1970. Sức khỏe của họ đặc biệt tốt. Nhưng hắn không kiêng cữ quá quắt như Melanie. Hắn vẫn còn thích ăn cá, và thỉnh thoảng cũng ăn thịt trong súp hay kẹp với bánh mì.
Một giọng nói gay gắt thoát ra từ máy intercom:
- Ai đó?
- Melanie.
Một tiếng rè-rè, rồi cửa tự động mở. Priest theo Melanie đi vào nhà và lên lầu. Michael Quercus đang đứng giữa cửa. Phong độ của ông làm cho Priest phải ngạc nhiên. Hắn vẫn tưởng sẽ gặp một nhà học giả gầy gò, yếu đuối. Trái lại Quercus khoảng ba mươi lăm tuổi, cao ráo và khỏe mạnh, tóc đen cắt ngắn uốn quăn trên đầu, và mặc một áo choàng dài mầu xanh thẫm.
Khi Melanie lên tới đầu cầu thang, Michael nói:
- Anh đã rất lo lắng về em và con. Em đã đi đâu và ở đâu vậy? Priest thấy rõ là Michael đang cố ghìm cơn giận. Melanie nói: - Em về để nói cho anh rõ mọi việc. Ðây là Priest, bạn của em. Chúng em có vào được không?
- Mời.
Michael quay lưng đi vào trong. Melanie và Priest theo ông đi vào phòng khách.
Rõ ràng đây là phòng làm việc của Michael. Ngoài cái sofa và cái tivi, còn có một máy điện toán trên một bàn, và một giàn máy điện tử với nhiều chấm sáng nhấp nháy trên một kệ sâu. Một tấm bản đồ lớn che phủ nguyên một bức tường.
Priest nói:
- Cái này là cái gì?
Michael trừng mắt nhìn hắn như muốn hỏi “Mày là cái thá gì mà ở đây hạch hỏi”, nhưng ông làm thinh.
Melanie nói:
- Ðó là vết nứt San Andreas. Nó bắt đầu từ 150 cây số cách đâyvề phía bắc, ở thành phố Mendocino, đi dài xuống phía nam và phía đông, qua Los Angeles và phần nội địa tới San Bernardino. Một vết nứt trong vỏ quả đất dài hơn một ngàn cây số.
Melanie đã cho Priest biết là chuyên môn của Michael là việc
tính toán áp lực ở mỗi nơi khác nhau dọc theo chiều dài của vết nứt. Ðó là sự tổng kết của việc đo lường mọi nhúc nhích của vỏ quả đất cùng với việc tính toán năng lượng tồn trữ lại, căn cứ theo khoảng thời gian đã qua từ trận động đất trước. Công trình của Michael đã giúp ông lãnh được nhiều giải thưởng khoa học. Nhưng năm trước đây ông đã từ giã trường đại học để ra lập nghiệp riêng, một phòng cố vấn chuyên cung cấp những dữ kiện về địa chấn cho các hãng thầu xây cất và các công ty bảo hiểm.
Melanie rất giỏi về máy điện toán. Nàng đã giúp Michael lập chương trình cho máy để lưu trữ các dữ kiện ông đã thâu thập được mỗi ngày, từ bốn giờ sáng đến sáu giờ sáng, khi ông ngủ. Tất cả các dữ kiện trong máy điện toán của ông đều được sao chép vào đĩa. Khi ông bật máy buổi sáng, ông sẽ lấy cái đĩa ra khỏi máy, và cất nó vào một cái hộp không bắt lửa. Với cách này, nếu máy điện toán của ông bị đập nát hay nhà bị cháy rụi thì các dữ kiện quý giá của ông vẫn còn được giữ nguyên. Bây giờ Melanie và Priest chỉ còn phải làmthế nào cho Michael ra ngoài một lát để Melanie lấy cái đĩa ra khỏi máy là xong.
Michael nói với Melanie:
- Bây giờ em hãy nói cho anh biết tại sao em lại bỏ đi như vậy? Nàng nói:
- Giản dị lắm, anh. Một người bạn cho em và Dusty xử dụng cái chòi của chị ấy ở trên núi. Em và con chưa được đi chơi xa bao giờ, nên em chộp ngay lấy dịp này.
Ðó là lúc Priest gặp Melanie. Nàng và Dusty đi chơi trong rừngvà bị lạc. Priest đang ngồi câu cá bên một con suối thì nghe tiếng một đứa trẻ khóc. Lần theo tiếng khóc, hắn gặp Dusty và Melanie. Lúcnày nàng cũng sắp khóc. Khi trông thấy Priest, nàng nói:
- Cảm ơn trời đất. Tôi đã tưởng chúng tôi sẽ phải chết ở nơi đây! Priest nhìn nàng một lúc lâu. Nàng có vẻ ma quái, với làn tóc đỏ
xõa dài và cặp mắt xanh. Nhưng trong cái quần jeans cắt ngắn và cái áo nịt chỉ đủ che kín bộ ngực thì nàng trông thật ngon lành. Priest hỏi nàng có phải từ hỏa tinh xuống không. Nàng đáp:
- Không. Từ Oakland.
Priest biết có mấy cái chòi nghỉ mát ở gần đây. Hắn lấy cần câu lên, và dẫn nàng đi trong rừng. Dọc đường hắn hỏi chuyện nàng và biết rõ tất cả về nàng. Nàng là một người đàn bà đang gặp chuyện khó khăn.
Nàng đã bỏ chồng, đi theo một gã đánh đàn ghi-ta trầm trong một ban nhạc rock. Nhưng nó đã bỏ nàng sau vài tuần lễ ở chung. Nàng không còn chỗ nào nương tựa. Nàng làm việc trong một siêu thị, gởi Dusty cho một người láng giềng suốt cả ngày. Nàng ở trong một xómdơ bẩn nên Dusty lại bị ho và xổ mũi nặng. Nàng cần kiếm một chỗ ở có không khí trong lành, nhưng nàng không xin được việc làm ở ngoài thành phố. Nàng đang lâm vào cảnh tuyệt vọng thì một người bạn gái cho nàng dịp nghỉ hè này.
Priest thích những người bị khó khăn. Bạn chỉ cần cho họ những gì họ đang cần thì họ sẽ trở nên nô lệ của bạn ngay.
Lúc tới cái chòi thì đã đến giờ ăn bữa tối. Melanie nấu mì và trộn sà-lách. Khi ăn xong nàng cho Dusty đi ngủ. Sau khi đứa nhỏ đã ngủ say, Priest dụ Melanie và hai người quấn lấy nhau ngay trên sàn nhà.
Ông chồng giáo sư cao ngạo của Melanie than phiền: - Ðã năm tuần rồi đấy. Em không thể đem con anh đi biệt như thế mà không gọi anh một cú điện thoại nào!
- Anh có thể gọi em chứ. Em có máy cầm tay mà.
- Anh có gọi, nhưng không có trả lời.
- Vậy là tổng đài nó cúp rồi, bởi vì anh đã không thanh toán tiền tháng. Anh là người trả tiền mà. Anh đã thỏa thuận như vậy. - Có vài ngày trễ thôi mà nó đã cúp. Nhưng em cũng phải gọi anh
trước khi em đưa bé Dusty đi xa chứ.
- Có ít điều em chưa nói với anh.
Michael thở dài, ngồi xuống ghế sau bàn giấy, và nói: - Em ngồi xuống đi.
Melanie ngồi sâu vào trong một góc sofa. Priest ngồi vắt vẻo trên chỗ tay dựa.
Melanie nói:
- Em sắp lên ở trên núi với Priest và nhiều người nữa. - Ở đâu?
Không muốn cho Michael biết chỗ ở thật sự, Priest trả lời: - Ở quận Del Norte.
Chỗ này ở đầu chót bắc California. Sự thật ấp của Priest ở quậnSierra, gần biên giới đông của tiểu bang. Cả hai nơi đều xa Berkely. Michael nổi giận:
- Em không thể đem Dusty đi xa bố nó cả ngàn cây số được! Melanie năn nỉ:
- Có một lý do. Trong năm tuần vừa qua Dusty không bị một cơn dị ứng nào. Nó hợp với không khí trên núi lắm.
Michael không tin:
- Thường thì không khí sa mạc, chứ không phải không khí trên núi, mới hợp cho người bị dị ứng.
- Anh đừng nói thông thường với em. Em không thể đến chỗ sa mạc được. Em không có tiền. Chỗ này mới là chỗ em ở được mà con nó không bị đau yếu. Ðó là một thôn, một ấp.
- Melanie, sao em cứ thích ở với người lạ vậy? Ðầu tiên là ở với một thằng đánh ghi-ta nghiền sì-ke, bây giờ lại ở với một bọn híp-pi trong thâm sơn cùng cốc....
Priest xen vào:
- Ông Michael, sao ông không hỏi ngay cháu Dusty xem cháuthấy thế nào. Cháu đang ở trong xe của tôi, ngoài kia.
Michael mặt đỏ gay vì tức giận:
- Ông để con tôi ở trong xe?
- Nó không sao đâu. Nó chơi với con chó của tôi.
Michael trợn mắt nhìn Melanie, quát:
- Em mắc chứng gì vậy?
Rồi ông lao ra ngoài. Melanie trách Priest:
- Tại sao anh lại nói cho hắn biết là Dusty ở ngoài kia? - Ðể tống hắn ra khỏi phòng. Bây giờ em lấy cái đĩa đi. Melanie bước đến hàng máy ở trên kệ. Nàng bấm một nút, và
một miếng nhựa vuông, dẹp, bật ra khỏi máy. Nàng mở sắc tay, lấy ra một miếng nhựa khác, và kêu lên:
- Trời!
Priest lo lắng hỏi:
- Cái gì vậy? Không xong hả?
- Hắn đã đổi nhãn. Của em nhãn Sony, của Michael nhãn Philips. - Hắn có nhận biết được không?
- Có thể lắm. Hắn sẽ bắt đầu làm việc khi chúng ta đi khỏi. Hắnsẽ bật lấy cái đĩa ra, rồi đổi cái khác vào. Lúc đó hắn sẽ thấy sự khác biệt.
Priest sợ toát mồ hôi, hỏi:
- Thế nào hắn cũng nghi bọn mình. Hắn có giữ nhiều đĩa dự phòng không?
Nàng nhìn quanh:
- Chắc là phải có chứ. Em không biết hắn để đâu.
Priest nói:
- Em bỏ cả hai cái đĩa ấy vào sắc tay đi.
Nàng làm theo.
Priest nghe tiếng dập cửa trước. Michael đang đi trở vào. - Này, Michael có tủ đựng giấy bút không?
- Có. Một ngăn kéo.
Nàng trỏ tay về phía một cái tủ nhỏ, nhiều ngăn, mầu trắng. Priest mở mạnh ngăn kéo trên cùng. Hắn thấy một xấp giấy nhỏ mầu vàng, một hộp bút bi, và một hộp đĩa đã mở sẵn. Hắn nghe tiếng Dusty vọng tới từ phòng ngoài. Hắn vội lấy đại một đĩa, đưa cho Melanie.
- Cái này có được không?
- Ðược. Ðây là một cái Philips.
Priest đóng ngăn kéo lại.
Michael bước vào, bồng Dusty trên tay. Melanie đứng như trời trồng với cái đĩa cầm trong tay.
Dusty đang nói:
- Ba biết không? Ở trên núi con không hắt hơi.
Michael đang chú ý tới Dusty. Melanie hoàn hồn. Trong lúc Michael khom người đặt Dusty xuống sofa, nàng lùa cái đĩa vào khe máy.
Michael nói với Dusty:
- Con không hắt hơi một lần nào cả à?
- Không.
Melanie tỉnh người. Michael không trông thấy những gì nàng đã làm. Priest nhắm mắt. Thật sung sướng. Họ đã có các dữ kiện của Michael, và Michael sẽ không bao giờ biết được.
Michael hỏi:
- Con chó không làm con hắt hơi chứ?
- Không. Spirit là con chó sạch lắm. Chú Priest tắm nó ở dưới suối, xong rồi nó chạy lên bờ, rũ người thật mạnh, nước bắn ra như mưa rào vậy, ha ha ha!
- Thật vậy hả?
Melanie nói:
- Em đã nói rồi mà.
Michael thở dài nói:
- Thôi được. Nếu nó tốt cho sức khỏe của Dusty như vậy thì ta phải đi theo chiều ấy vậy.
Melanie hết lo:
- Cảm ơn anh.
Priest tủm tỉm cười. Bây giờ họ chỉ phải cầu trời sao cho máy điện toán của Michael đừng có bị trục trặc. Nếu nó bị trục trặc thì Michael sẽ phải lấy dữ kiện ra từ cái đĩa, và ông sẽ thấy là cái đĩa này vẫn còn trắng nguyên. Nhưng Melanie đã nói rằng máy điện toán ít khi bị trục trặc lắm. Và tối nay các dữ kiện mới sẽ được sao chép vào cái đĩa trắng này.
Michael nói:
- Tốt. Ít ra là em đã trở về nói với anh về chuyện này. Như thế là tốt lắm.
Melanie nói:
- Thỉnh thoảng em sẽ đưa Dusty về thăm anh.
Bây giờ Priest đã hiểu rõ Melanie. Nàng tỏ ra tốt với Michael, nhưng nàng không còn yêu chàng nữa.
oOo
Judy thức dậy sáng sơm ngày Thứ Ba, lòng băn khoăn không biết nàng có được trở lại làm việc không.
Sau khi tới sở nàng đi thẳng đến phòng giám đốc. Kincaid đang ngồi sau bàn giấy rộng lớn. Ông ngước mắt nhìn nàng. Và lạnh lùng nói:
- Chào cô.
Trong lòng phập phồng, nàng nói:
- Chào ông Giám Ðốc. Ông đã xem tờ đơn của tôi chưa? - Có, tôi đã xem và chấp nhận lời xin lỗi của cô.
Judy thấy như vừa cất đi được một gánh nặng.
- Cảm ơn ông.
- Cô dọn đồ đạc của cô đến phòng Khủng Bố Nội Ðịa, và bắt tay
ngay vào vụ Búa Thiên Lôi. Chúng ta cần có một cái gì để nói với ông Thống Ðốc.
Sửng sốt, Judy nói:
- Ông đã gặp ông Thống Ðốc?
- Ðã gặp ông bí thư của ông Thống Ðốc, ông Albert Honeymoon. Honeymoon là cánh tay phải của ông thống đốc. Judy nghĩ là vụ này đã trở nên quan trọng rồi.
- Tôi đã nghe nói đến ông ấy.
- Tôi muốn có tờ phúc trình vào tối mai.
Nàng lo lắng không biết có làm kịp không. Mai là Thứ Tư rồi. - Nhưng kỳ hạn là Thứ Sáu.
- Thứ Năm là phải họp với Honeymoon rồi.
- Tôi sẽ trình ông cái gì cụ thể để cho ông ấy biết.
- Cô sẽ trình thẳng với ổng. Honeymoon muốn gặp đích thân người phụ trách vụ này. Chúng ta phải có mặt ở văn phòng ông Thống Ðốc tại Sacramento vào lúc 12 giờ trưa.
- Dạ, đã nghe rõ.
Judy đem đồ lề của nàng vào phòng Khủng Bố Nội Ðịa. Ông xếpmới của nàng, Matt Peters, dẫn nàng đến bàn giấy của nàng. Ông cắt cho nàng một phái viên trẻ để phụ tá nàng trong vụ Búa Thiên Lôi. Raja Khan là một người Ấn, nói nhanh, có bằng Tiến Sĩ Chính Trị Kinh Doanh. Chưa có kinh nghiệm, nhưng hắn thông minh và có tài trí.
Judy bảo hắn đi dò xét tổ chức Môi Trường California. Nàngnói:
- Anh hãy đối xử tử tế với họ. Anh nói với họ rằng chúng ta không tin là họ có dính líu gì tới vụ này, nhưng chúng ta phải tìm hiểu kỹ trước khi đặt họ ra ngoài vụ.
- Tôi sẽ phải tìm cái gì?
- Hai người: một công nhân khoảng 45 tuổi, có thể mù chữ, và
một người đàn bà có học vấn khoảng 30 tuổi, có thể là đang bị người đàn ông kia uy hiếp. Thu thập hết tên của các người trong tổ chức, và sàng lọc họ qua máy điện toán để xem có ai trong bọn họ đã có án tích nào về trọng tội hay hoạt động khủng bố.
Raja nói:
- Ðã rõ. Còn cô, cô sẽ làm gì?
- Tôi đi tìm hiểu về động đất.
oOo
Khi Judy về đến nhà tối hôm đó, Bố đang coi truyền hình. Ông tắt máy và nói:
- Bữa nay bố đã thanh toán một vụ án mạng.
- Vụ nào vậy Bố?
- Vụ hiếp dâm giết người Telegraph Hill.
- Thủ phạm là ai?
- Thằng này đã ở trong tù rồi. Trước đây nó đã bị bắt vì tội quấy nhiễu các cô gái ở trong công viên. Bố nghi thằng này, nên bố xét nhà nó. Nó có một cặp còng của cảnh sát giống cặp còng trên xác chết, nhưng nó chối không nhận tội giết người. Bố đã lấy được bản xét nghiệm DNA của nó từ phòng giảo nghiệm. Nó giống hệt DNA củatinh khí dính trên mình nạn nhân. Bố cho nó xem, và nó phải thú nhận tội.
Nàng hôn lên đầu bố:
- Bố giỏi quá.
- Còn con thì sao?
- Con vẫn giữ chỗ làm cũ, nhưng không chắc chuyến này con có thành công không. Con chưa tấn tới được nhiều trong vụ của con. - Tối qua con nói là một vụ vớ vẩn mà.
- Bây giờ con không chắc là như vậy. Cuộc phân tích ngôn ngữ cho thấy là bọn này thực sự nguy hiểm.
- Nhưng chúng không thể làm được một trận động đất.
- Con không biết.
Bố nhướng cặp lông mày:
- Con cho là có thể à?
- Con đã gặp ba chuyên viên địa chấn. Một nói là không thể được, một nói sự khả dĩ rất mong manh, và người thứ ba nói có thể làm động đất với một quả bom nguyên tử.
- Có thể nào bọn này có một quả bom không?
- Có thể lắm. Nhưng tại sao chúng không dọa ta bằng quả bomcủa chúng?
Bố suy tư nói:
- Vụ này có thể là dễ sợ đây,mà lại có thể tin được.Bước tới của con là thế nào?
- Con còn phải gặp một chuyên viên điạ chấn nữa. Y tên là Michael Quercus. Vị này là người tài ba nhất về những nguyên nhângây nên động đất.
Xẩm tối hôm nay Judy đã đến bấm chuông nhà Quercus. Nhưnghắn nói qua máy điện thoại gắn nơi cửa là nàng phải gọi hắn trước để lấy hẹn.
Giận lắm, nhưng không làm sao được, nàng đành phải lái xe về sở, nhấc điện thoại gọi hắn, và được hắn hẹn gặp ngày hôm sau. Bố nói:
- Con đã biết tung tích của bọn Búa Thiên Lôi chưa? Nàng lắc đầu:
- Con đã cho người đi phỏng vấn từng người một trong tổ chức Green California. Không có ai giống như những người chúng con dự đoán. Không ai có tiền án về trọng tội hay khủng bố.
- Ðừng nản con ạ. Con mới bắt tay vào vụ này có một ngày thôi mà.
- Ðúng vậy. Nhưng con sốt ruột vì chỉ còn hai ngày nữa là đến kỳ hạn của chúng.
- Vậy thì con phải bắt đầu làm việc ngay sớm mai.
Nói rồi ông đứng dậy. Hai bố con cùng đi lên lầu. Judy dừng lại nơi cửa phòng ngủ của nàng:
- Chúc bố ngủ ngon.
- Ngủ ngon, bé.
Trong lúc lái xe qua Bay Bridge sáng Thứ Tư, tiến về hướngBerkeley, Judy thử tưởng tượng xem Michael Quercus là người như thế nào. Cung cách nói qua điện thoại của y làm cho người ta liên tưởng đến một ông giáo sư khó tính, hay một học giả lớn trong bộ y phục đen có sọc.
Judy đậu xe trên đườngEuclid. Nàng bấm chuông, và sau khi nàng báo tên, có một tiếng rè-rè, và cửa mở ra. Nàng leo hai dẫy cầu thang lên đến căn nhà của Michael. Cửa đã mở sẵn. Nàng bước ngayvào phòng khách kiêm phòng làm việc của Michael.
Ông đang ngồi tại bàn giấy, mặc quần kaki và áo polo mầu xanh nước biển. Michael Quercus không phải là nhà giáo khó tính, cũng không phải là học giả đạo mạo. Ông là một người to lớn, đẹp trai, tóc quăn đen.
Ông cũng ngạc nhiên. Ông mở to mắt và nói:
- Cô mà là phái viên FBI?
Judy bắt tay ông thật chặt:
- Tôi làm việc với FBI đã mười năm rồi.
Ông cười:
- Thật sao?
Nàng nhập đề ngay:
- Tôi cần biết một bọn khủng bố có thể làm ra một trận động đất không?
- Chúng hăm làm thế à?
- Ông không nghe thấy gì sao? Radio đã nói nhiều về lời đe dọa của chúng. Ông không nghe John Truth à?
Michael lắc đầu:
- Có nghiêm trọng không?
- Tôi đang cần biết xem nó có nghiêm trọng không.
- Vậy thì câu trả lời ngắn gọn là có thể.
Judy đâm hoảng:
- Làm sao mà chúng có thể làm được?
- Lấy một quả bom nguyên tử, bỏ nó xuống đưới đáy của một hầm mỏ, rồi cho nó nổ. Nhưng có lẽ cô cần nhiều chi tiết tỉ mỉ hơn. - Vâng. Cứ tưởng tượng như ông muốn làm một trận động đất. - Ðược, tôi làm được chứ!
Judy cho là ông nói khoác:
- Ông làm ơn nói rõ bằng cách nào.
Michael cúi xuống sau bàn giấy, cầm lên một tấm ván bằng gỗ và một hòn gạch. Rõ ràng ông đã để những vật này ở đấy từ trước để dùng trong câu chuyện này. Ông để tấm ván lên mặt bàn giấy và cục gạch lên trên tấm ván. Rồi ông nâng một đầu tấm ván lên từ từ cho đến khi cục gạch trượt theo chiều dốc xuống mặt bàn. Ông nói:
- Cục gạch trượt xuống khi dẫn lực trở nên mạnh hơn sức trì kéo lại. Cô hiểu tới đây rồi chứ?
- Hiểu.
- Một lằn nứt như lằn San Andreas là một chỗ mà hai tầng vỏ quả đất đang di chuyển khác chiều nhau. Chúng không di chuyển êm xuôi đâu. Chúng có thể bị kẹt. Khi chúng bị kẹt không di chuyển được nữa
thì sức ép cứ từ từ dồn chất lên chỗ đó từ năm này qua năm khác, có thể ròng rã suốt mấy chục năm.
- Vậy thì cái gì làm cho động đất xẩy ra?
- Một lúc nào đó chợt nẩy ra cái gì có đủ sức làm cho bật tung cái năng lượng tồn trữ ấy ra.
Ông lại nâng một đầu tấm ván lên. Lần này ông ngưng lại trước khi cục gạch bắt đầu trượt xuống, rồi nói:
- Nhiều khúc của lằn nứt San Andreas đều giống như thế này, lúc nào cũng sẵn sàng trôi truợt trong bao nhiêu năm nay rồi. Cô cầm lấy cái này.
Ông đưa cho Judy một cái thước kẻ:
- Cô lấy đầu thước kẻ gõ xuống tấm ván phía trước cục gạch đi. Nàng làm theo lời, và cục gạch bắt đầu trượt xuống. Michael nắm lấy cục gạch, nói:
- Khi tấm ván đã nghiêng, chỉ một cái đập nhẹ cũng đủ làm cho cục gạch xê dịch rồi. Khi lằn nứt San Andreas đang bị ép dưới một sức ép thật nặng thì chỉ một va đụng nhẹ cũng đủ làm cho các tầng đất phá tung chỗ kẹt, rồi thì bao nhiêu năng lượng đã bị giam hãm bao nhiêu chục năm được xổng ra và làm thành động đất.
Michael quả là thông minh. Chàng giảng giải thật dễ hiểu. Judythích thú nói chuyện với chàng, không phải chỉ là vì chàng đẹp trai. Nàng nói:
- Cơn động đất nào cũng xẩy ra như vậy sao?
- Tôi tin là như vậy. Thường có những rung động tự nhiên đi xuyên qua vỏ trái đất. Phần đông các vụ động đất đều bột phát bởi một rung động đúng cường độ, tại một chỗ đúng vị trí, trong một lúc đúng thời gian.
- Vậy thì các tay khủng bố của chúng ta làm thế nào mà lợi dụng được các yếu tố ấy?
- Chúng cần phải có một cái thước kẻ, và chúng cần phải biết gõ
vào chỗ nào.
- Trong thực thế thì cái gì tương đương với cái thước kẻ của ông? Một quả bom nguyên tử?
- Chúng không cần phải có một cái gì mạnh như thế. Nếu chúng biết đúng chỗ yếu của đường nứt thì một trái cốt mìn cũng đủ cho chúng rồi.
- Cốt mìn thì ai cũng có thể có được.
- Vụ nổ phải được thực hiện sâu dưới mặt đất. Bọn khủng bố cần phải có máy móc để đào đất, phải biết kỹ thuật, và phải có lý do để xin phép đào.
- Những khó khăn này không phải là khó vượt qua. Cái khó nhất trong vấn đề này là làm sao biết được chỗ đúng để chôn quả mìn. Ai có được sự hiểu biết này?
- Các viện đại học, chuyên viên địa chất của tiểu bang...., tôi. Chúng tôi đều chia sẻ tin tức cho nhau. Không có gì bí mật hết. Tuy nhiên cô cần phải có chút kiến thức khoa học để hiểu được các dữ kiện.
- Vậy thì trong bọn khủng bố nhất định là phải có một địa chấn gia.
- Phải. Có thể là một sinh viên.
Judy nghĩ đến người đàn bà có học thức ba mươi tuổi đã gõ máy điện toán. Người này có thể là một sinh viên đã có bằng cấp. Michael tiếp tục:
- Và còn thủy triều nữa. Các đại dương di chuyển lúc thì phía này lúc thì phía kia, tùy theo sức hút của mặt trăng, và các phần đất rắn chắc cũng bị ảnh hưởng bởi sức hút ấy. Mỗi ngày hai lần có một thời điểm đường nứt bị căng thẳng thêm do sức giằng co của thủy triều. Lúc đó là lúc dễ xẩy ra động đất nhất. Tính thời điểm này là chuyên môn của tôi. Tôi là người độc nhất chuyên tính toán các thời điểm địa chấn cho đường nứt California.
- Có người nào đã lấy được các dữ kiện này của ông không? - Nghề của tôi là bán các dữ kiện ấy.
Michael mỉm cuời ngượng nghịu:
- Nhưng tôi chỉ có một hợp đồng thôi, với một hãng bảo hiểmlớn.
- Có khi người ta lấy mà ông không biết. Ông có bao giờ bị mất trộm không?
- Không bao giờ.
- Có người bạn nào hay họ hàng thân thuộc nào của ông đã sao chép những dữ kiện không?
- Không ai ở trong phòng này mà không có tôi.
Judy cầm lên từ trên bàn giấy của Michael một tấm hình của một phụ nữ xinh đẹp tóc đỏ với một đứa nhỏ. Nàng nói:
- Vợ ông hay bạn gái?
Với vẻ buồn phiền, Michael cầm lấy tấm hình từ tay nàng: - Tôi đã ly thân với vợ tôi, và tôi không có bạn gái.
Judy thấy đã thu thập được đủ các thông tin nàng cần. Nàng nói: - Tôi xin cảm ơn ông đã dành thì giờ qúy báu của ông cho tôi, thưa giáo sư.
- Cô cứ gọi tôi là Michael. Tôi rất thích nói chuyện với cô. Chàng tiễn nàng ra tới cửa ngoài, bắt tay nàng và nói: - Cô còn muốn biết thêm điều gì nữa, tôi xin vui lòng giúp. Nàng nói đùa:
- Tôi vẫn phải xin hẹn trước chứ?
Chàng nghiêm nét mặt:
- Vâng.
Trên đường về, Judy cảm thấy rõ là mối nguy quả có thật rồi. Bọn khủng bố thật sự có khả năng gây nên một vụ động đất. Chúng cần có sự hiểu biết chính xác về những điểm yếu của đường nứt. Chúng cần một người có khả năng hiểu được các dữ kiện ấy, và
chúng cần có một phương tiện khả dĩ làm nên những làn sóng chấn động chạy xuyên qua vỏ quả đất, một việc khó khăn, nhưng không phải là không làm được.
Nàng còn một việc gai góc là phải trình với ông Honeymoon, phụ tá của ông thống đốc, rằng tất cả vụ này đều có thể xẩy ra được. oOo
Priest thức dậy tảng sáng ngày Thứ Năm. Còn một ngày nữa. Từvăn phòng thống đốc không có động tĩnh gì. Họ làm như không có sự đe dọa nào hết. Các nơi khác cũng thế. Búa Thiên Lôi ít khi được nói đến trong những buổi phát thanh mà Priest nghe qua máy radio trong xe của hắn.
Chỉ có John Truth là quan tâm đến vụ này. Y nhắc nhở Thống Ðốc Mike Robson mỗi ngày trong các giờ phát thanh của y. Cho đếnngày hôm qua, ông thống đốc chỉ nói rằng FBI đang điều tra, ngoài ra không nói gì thêm. Nhưng đêm hôm qua Truth đã loan báo rằng ông thống đốc hứa sẽ có lời tuyên bố trong ngày hôm nay.
Nếu lời tuyên bố có vẻ hoà giải, và tỏ ý là ông thống đốc sẽ tôn trọng những gì được đòi hỏi, thì Priest sẽ hài lòng. Còn nếu tuyên bố không nhượng bộ thì hắn sẽ làm động đất.
Priest lo không biết hắn có làm được không. Melanie có vẻ tin tưởng khi nàng nói đến đường nứt, và cách làm thế nào cho nó chuyển động, nhưng chưa có ai đã thử làm bao giờ.
Hắn lăn mình đổi bên. Melanie đang ngủ, đầu đặt trên cái gối bên cạnh hắn. Hắn ngắm gương mặt bình thản của nàng. Một lọn tóc dài mầu gừng che má nàng. Hắn ngồi dậy. Hắn đang ở trong cái nhà một phòng mà hắn làm chủ trong 25 năm nay. Trong nhà có một giường, một ghế sofa cũ trước lò sưởi, và một bàn trong góc nhà với một cây nến cắm trên cái đế. Không có đèn điện.
Trong buổi ban đầu, hầu hết mọi người đều ở trong các lều như cái này. Bọn trẻ ngủ trong nhà trẻ, trên những cái giường hai tầng.
Dần dần theo năm tháng, người ta sống thành từng đôi từng cặp, rồi người ta làm những cái nhà lớn hơn với phòng ngủ riêng cho trẻ nhỏ. Bây giờ đã có sáu căn nhà mới, cùng với mười lăm cái lều cũ. Làng của Priest bây giờ gồm có 25 người lớn và 10 trẻ con, thêm Melanie và Dusty. Một lều để trống.
Priest lấy một khăn lông và đi ra ngoài. Con chó Spirit vẫy đuôi chạy đến hít chân chủ. Mặt trời còn khuất sau dẫy núi. Chung quanh đấy không một bóng người.
Priest đi băng qua làng, đường thoai thoải dốc xuống. Spirit theo sau. Hắn biết là nơi này trông không đẹp đối với những người khác. Ðường đi thì bùn lầy, nhà cửa thì thô kệch, nhưng cái gì ở đây cũng làm cho tim hắn ấm áp. Và khi hắn nhìn ra xa, hắn thấy rừng thông bao phủ sườn đồi giăng giăng khắp nơi, từ hai bên bờ con sông lấp lánh ánh mặt trời lên tới đỉnh những ngọn núi Sierra Nevada, phong cảnh mới đẹp biết bao.
Bên sông, trên một tảng đá, có một hộp gỗ đựng xà bông, mấy con dao cạo rẻ tiền, và một cái gương nhỏ.
Chương 4
Priest cạo râu, rồi lội xuống dòng nước lạnh tắm. Xong hắn lau khô mình, rồi leo dốc trở về làng. Sau khi mặc quần Jeans và áo sơ mi lao động, hắn đi vào nhà bếp,...nhóm lửa với mấy que củi, đặt một xoong nước lên bếp để pha cà phê, rồi đi ra. Priest thích đi dạo quanh trong làng trong khi mọi người còn ngủ. Hắn thì thầm gọi tên từng người khi đi qua nhà của người đó. “Moon, Dale, Poem, Giggle...” Hắn hình dung mỗi người đang nằm ngủ. Apple, con bé mập, nằm ngửa, miệng há hốc, ngáy khò khò; những đứa nhỏ trong nhà trẻ, con Flower và thằng Ringo, con của hắn, bé Dusty, con của
Melanie; bé Bubble và bé Chip, cặp song sanh, đầu bù, má đỏ hồng.... Dân của tôi. Cầu trời cho họ được sống mãi mãi. Hắn qua nhà kho, trong đó rượu vang từ mùa gặt năm ngoái được đựng đầy trong các thùng gỗ lớn, sẵn sàng để được pha trộn và đóng chai.
Hắn dừng bước bên ngoài đền thờ. Ðền này đã được dựng lên từ 5 năm trước. Priest trân qúy cái đền này lắm. Ðền này là thành quả của sự tu tỉnh của nhóm Priest. Họ không còn là một đám híp-pi vô trách nhiệm nữa. Họ nay đã có thể làm việc để tự nuôi lấy mình, và lại còn có thì giờ và tiền bạc lập nên một chỗ để thờ phụng.
Priest bước vào trong đền. Ðó chỉ là một công trình xây bằng gỗ, trống trơn, với độc một cửa kính dưới mái. Mọi người đều ngồi xếp bằng tròn trên sàn gỗ để cầu nguyện. Ðó cũng là trường học và phòng họp của làng. Chỉ có một vật trang trí là cái biểu ngữ do Star làm. Priest không đọc được biểu ngữ ấy, nhưng hắn biết rõ biểu ngữ nói gì:
Suy tư là lẽ sống, ngoài ra chỉ là cuồng loạn.
Tiền bạc làm người ta nghèo đi.
Hôn nhân là một sự đại bất trung.
Khi không ai có gì thì ta có tất cả.
Làm cái gì mình thích, đó là điều luật duy nhất.
Ðó là 5 điều nghịch lý của Baghram, một trưởng giáo Ấn Ðộ. Priest nói như vậy. Sự thực là của chính hắn nghĩ ra, không phải của ai khác.
Hắn đứng ở giữa đền, mắt nhắm, hai tay buông thõng, tập trung ý trí. Hắn cầu xin cho ông thống đốc Mike Robson sẽ bố cáo ngưngviệc xây nhà máy điện ở California. Hắn tưởng tượng ông thống đốc sẽ nói: “Tôi quyết định cho các người ấy cái mà họ muốn, không phải để tránh một vụ động đất, mà là vì như thế là đúng với lẽ phải.”
Sau vài phút, Priest thấy tinh thần phấn khởi lên. Hắn thấy tự tin
hơn.
Khi trở ra ngoài, hắn làm một vòng đi thăm cánh đồng nho. Trước kia không có một cây nho nào ở chỗ này. Khi Star tới, ở trong sơn cốc này không có cái gì hết, ngoại trừ một cái lều mục nát của thợ săn bỏ lại. Suốt ba năm ròng, nhóm dân của nàng phải chịu hết thất bại này đến thất bại khác. Rồi thì Priest tới. Trong vòng chưa đầy một năm Priest đã trở nên người ngang hàng với Star để lãnh đạo nhóm dân. Dưới quyền điều khiển của Priest họ cầy đất trên sườn đồi, đào mương dẫn nước, và trồng nho. Bây giờ rượu vang Chardonnay của họ đã được các người sành rượu hỏi mua.
Priest đi dọc theo những luống cây. Giây nho đang trổ mầm. Lúc này là cuối tháng Năm. Mùa lạnh làm chết mầm non đã qua rồi. Côngviệc cần thiết bây giờ là cột những dây non vào lưới đỡ để dẫn đường cho dây nho mọc, và cũng để giữ cho đây nho không bị gió làm hư hại. Priest đã học được nhiều về rượu vang trong những nămhắn làm đại lý bán rượu, còn Star thì học trong sách vở. Nhưng dù sao họ cũng không thể thành công được nếu không có sự giúp đỡ của ông già Raymond Delavalle, một chuyên viên trồng nho.
Ðồn điền nho của Priest đã cứu vãn làng này, nhưng làng này cũng đã cứu Priest. Trên đường đi trốn hắn đã tới đây. Hắn trốn băng đảng, trốn cảnh sát Los Angeles, và trốn sở thuế. Hắn nghiện rượu và bạch phiến, cô đơn, thất bại, và đã có ý tưởng tự vẫn trong đầu. Hắn lái xe theo con đường đất tới làng, theo lời chỉ dẫn mơ hồ của một người đi nhờ xe, và hắn đã tìm thấy sự yên lành, một tôn giáo mới, việc làm, bạn hữu, và tình yêu. Từ nay hắn không muốn sống đời sống nào khác nữa. Chỗ này là tất cả những gì hắn có, và hắn phải tranh đấu để gìn giữ chỗ này, dù cho có phải chết.
Ðêm nay hắn sẽ nghe buổi phát thanh của John Truth. Nếu ôngthống đốc muốn điều đình thì chắc chắn sẽ cho bố cáo vào phần cuối buổi phát thanh.
Khi Priest bước tới một góc xa của cánh đồng nho, hắn nghĩ tới cái chấn động cơ. Hắn leo lên đồi. Chỗ ấy có một con đường mòn. Cách xa xóm làng chừng bốn trăm mét, hắn tới một khoảng đất trống bùn lầy. Ðậu dưới tàng cây là chiếc xe Cuda cũ của hắn, một chiếc Volkswagen 12 chỗ ngồi, chiếc Subaru mầu vàng của Melanie, và chiếc pickup Ford Ranger chung của dân làng. Từ chỗ này một conđường đất đi ngoằn ngoèo ba cây số qua cánh rừng, tới một vùng sình, rồi qua một con suối, và sau rốt tới đường cái.
Mỗi năm một lần, tám tháng sau vụ gặt, tất cả mọi người trong làng phải lăn các thùng rượu nho len lỏi qua các cây cối tới chỗ đất trống, xếp chúng lên xe tải của Paul Beale để được chở tới xưởng đóng chai tại Napa. Ðể bù lại cho tiền rượu nho, Paul Beale mua thức ăn về cho nhà bếp công cộng của làng, và mua các hàng hoá vật dụng chất đầy kho của làng: áo quần, kẹo bánh, thuốc lá, sách vở, kem đánh răng, tất cả những thứ gì mà người trong làng cần có. Cần thức gì, xã viên cứ việc lấy, khỏi phải trả tiền. Tuy nhiên Paul vẫn tính toán phân minh, và đến cuối năm hắn bỏ số tiền thặng dư vào một trương mục ngân hàng mà chỉ có Star và Priest biết thôi.
Từ chỗ đất trống đi theo đường mòn khoảng một cây số rồi rẽ vào rừng. Len lỏi qua đám cây một lúc hắn tới một khoảng trống nhỏ và dừng lại bên một đống cành lá chất cao chừng ba bốn mét, trông như một đống cành lá để đốt lửa trại. Hắn đẩy mấy cành lá qua một bên để lộ ra một phần của chiếc chấn-động-xa.
Con chó Spirit chợt hộc lên một tiếng, như nó đã nghe thấy tiếng gì. Priest vội kéo mấy cành lá lại, che kín cái xe, rồi len lỏi qua các cây rừng ra đường mòn, và đi trở về xóm làng.
Khi hắn tới chỗ có thể trông thấy nơi đậu mấy chiếc xe thì hắn biết tại sao con Spirit mất bình tĩnh. Trong khoảng rừng thưa, cạnh chiếc Cuda, có một xe cảnh sát đậu. Tim Priest muốn ngưng đập khi hắn trông thấy một viên cảnh sát đang đi vòng quanh một thân cây.
Spirit sủa dữ dội. “Im!” Priest nói, và con chó ngưng sủa. Viên cảnhsát trông thấy Priest và giơ tay vẫy.
Priest vẫy lại, rồi ngần ngại tiến tới gần chiếc xe. Hắn cố trấn tĩnh, mỉm cười, nói:
- Chào ông.
Viên cảnh sát hỏi:
- Có xóm nhà nào gần đây không?
Priest định nói dối, nhưng sực nghĩ anh cảnh sát này chỉ đi chừng nửa cây số là gặp xóm nhà ngay, nên hắn phải nói thật: - Gần đây có một khu nhà làm rượu nho gọi là Silver River Winery.
- Tôi chưa hề nghe thấy tên này.
Dĩ nhiên là phải như vậy. Trong quyển điện thoại niên giám, địa chỉ và số điện thoại của nơi này được ghi dưới tên của Paul Beale. Không có xã viên nào ghi danh để đi bầu, không ai đóng thuế, và không ai có lợi tức nào cả.
Priest nói:
- Xưởng rượu nho này nhỏ lắm.
- Ông là chủ hả?
- Không. Tôi là một người làm công.
- Vậy ông làm gì ở đấy, làm rượu nho hả?
- Phải. Mới sáng sớm ông đã tới đây làm gì vậy?
- Tôi kiếm cha mẹ của một cô gái tên là Flower.
Priest thấy lạnh xương sống.
- Cái gì xẩy ra vậy?
- Cô bé đã bị bắt giam.
- Nó có sao không?
- Nó không bị thương tích gì hết.
- Cảm ơn trời đất. Tôi chỉ sợ ông nói là nó đã bị tai nạn gì. Priest cảm thấy như cất được một gánh nặng.
- Tại sao nó bị bắt giam? Ðáng lẽ là nó phải ở đây, đang ngủ mới phải chứ!
- Ông có liên hệ gì với cô bé không?
- Tôi là cha của nó.
- Vậy thì ông phải tới Silver City.
- Silver City? Nó ở đó bao lâu rồi?
- Mới đây thôi. Chúng tôi không muốn giữ nó lâu đâu, nhưng nó đã không cho chúng tôi biết địa chỉ của nó. Nó chỉ cho chúng tôi biết một giờ trước đây thôi. Tuy vậy kiếm được ông đâu có dễ. Tôi gặp một bọn mang súng trong sơn cốc, cách đây 7 cây số. Họ chỉ đường cho tôi tới đây.
Priest gật đầu:
- Bọn Los Alamos.
- Ðúng rồi. Họ có một tấm biểu ngữ lớn nói “Chúng tôi khôngchấp nhận thẩm quyền của chính phủ Hiệp-Chúng-Quốc Hoa-Kỳ”. - Tôi biết bọn chúng. Chúng là nhóm thuộc cánh hữu của đảng phản nghịch Vigilante. Chúng đã chiếm cứ một trang trại và canh giữ nghiêm ngặt với nhiều súng lớn. Tại sao con Flower đã bị bắt giữ? Nó đã làm gì?
- Nó đã bị bắt quả tang ăn cắp đồ của một tiệm buôn. - Của một tiệm? Tại sao nó làm như vậy khi nó có quyền lấy mọi thứ tại một cửa hàng mà không phải trả tiền? Nó đã ăn cắp cái gì? - Một tấm hình mầu lớn của Leonardo DiCaprio.
Priest cảm ơn viên cảnh sát, và hứa hắn sẽ cùng đi với mẹ của Flower đến trụ sở cảnh sát Silver City trong vòng một giờ nữa. Hài lòng, viên cảnh sát lái xe đi.
Priest vào phòng của Star. Ðây cũng là bệnh xá của xã. Star không học về thuốc nhưng nàng đã học lỏm được cách chữa bịnh và săn sóc bịnh nhân của cha và mẹ nàng, cha nàng là bác sĩ và mẹ nàng là y tá. Phòng của nàng chứa đầy bông băng, dầu thoa bóp, aspirin,
và thuốc ho.
Priest đánh thức nàng dậy và cho nàng biết chuyện. Nàng nhẩy ra khỏi giường và la lên:
- Chúng ta phải đi lãnh nó về ngay bây giờ!
Star rất ghét cảnh sát. Priest nói:
- Ðúng. Nhưng em phải mặc quần áo đã chứ. Em sẽ không giúp được gì cho con Flower nếu em tới đó la hét, và làm cho em cũng bị bắt giam luôn.
Star trấn tĩnh lại và mặc vội quần áo. Nghĩ rằng đến trước mặt mấy thầy cảnh sát thì mình phải ăn mặc chỉnh tề mới được, nên Priest mặc bộ đồ xanh thẫm bên ngoài chiếc sơ-mi lao động của hắn. Rồi hắn và Star ngồi vào trong xe Cuda.
Khi ra đến đường cái, Priest nói:
- Tại sao chúng ta không biết được là nó không ở nhà đêm qua? - Em đã định đi kiếm nó để giục nó đi ngủ, nhưng con Pearl nói nó đã đi họp với mấy đứa bạn thân. Em đâu có ngờ.
Pearl là con gái của Dale và Poem, 12 tuổi, và là bạn thân nhất của Flower.
Họ lái xe đến Silver City. Sở cảnh sát ở bên cạnh toà án. Họbước vào một hành lang mờ tối. Một cảnh sát viên mặc sơmi kaki và đeo cà-vạt xanh nói:
- Ông bà cần gì?
Star nói:
- Tôi tên là Stella Higgins. Các ông đang giữ con gái tôi ở đây. - Xin ông bà chờ một chút.
Nói rồi viên cảnh sát đi vào phía trong.
Priest khẽ nói với Star:
- Mình phải tỏ ra là những công dân có lễ độ, biết tôn trọng luật pháp, và đang lo sợ vì có đứa con bị rắc rối với cảnh sát. - Ðược rồi.
Một cánh cửa mở ra, và viên cảnh sát bước ra nói:
- Ông bà Higgins, xin theo tôi.
Ông ta dẫn hai người vào trong phòng họp.
Flower đang ngồi chờ ở đó. Một ngày kia nó sẽ trở nên nẩy nở và đầy đặn như mẹ nó, nhưng nay mới 13 tuổi, nó chỉ là một cô gái cao, gầy, và vụng về. Nó ngồi mặt mày bí xị và còn ướt nước mắt. Star lặng lẽ ôm con, rồi Priest cũng làm như vậy.
Star nói:
- Ðêm qua con ngủ trong nhà giam phải không?
Flower lắc đầu nói:
- Ở trong cái nhà nào đó.
Viên cảnh sát giải thích:
- Luật lệ California nghiêm ngặt lắm. Trẻ vị thành niên không được giam cùng với những tội phạm lớn tuổi. Bởi vậy nên cháu Flower đã ngủ tại nhà của người em gái ông cảnh sát trưởng. Priest thấy hơi yên tâm. Viên cảnh sát nói:
- Mời ông bà ngồi. Cháu Flower phạm tội ăn cắp một tấm bíchchương đáng giá 10 đôla.
Star quay về phía con gái nói:
- Mẹ không hiểu tại sao con lại đi ăn cắp tấm bích chương của một kép xinê?
- Tại con thích nó thì con lấy.
Priest nói với viên cảnh sát:
- Chúng tôi muốn lãnh con chúng tôi về ngay. Chúng tôi phải làmgì?
- Hình phạt tối đa mà cháu Flower phải chịu về vụ này là bị giam cho đến tuổi 21. Tuy nhiên đây mới là lần đầu phạm tội nên có lẽ sẽ không bị phạt nặng như vậy. Trước đây cháu có bị rắc rối với luật pháp bao giờ chưa?
- Chưa bao giờ.
Viên cảnh sát hỏi cặn kẽ về đời sống của Flower trong gia đình để xem nó có được chăm sóc cẩn thận không. Priest trả lời thỏa đáng mọi câu hỏi, làm như họ chỉ là những nông dân bình thường.
Viên cảnh sát dường như được thỏa mãn với các câu trả lời. Flower phải ký một giấy cam đoan sẽ đi hầu tòa trong bốn tuần nữa. Viên cảnh sát yêu cầu một trong hai người cha mẹ ký tên bảo đảm. Star ký.
Ra đến ngoài đường Priest nói:
- Flower, con đã làm một việc điên rồ, nhưng ba mẹ vẫn yêu con như bao giờ, con hãy nhớ như vậy. Chúng ta sẽ nói về chuyện này khi chúng ta về nhà.
Trong khi lái xe về làng, Priest nghĩ đến hậu quả của việc Flower bị bắt. Làng này chưa bao giờ bị cảnh sát lưu ý tới. Nhưngbây giờ họ đã biết tới chỗ này rồi, và lúc này là lúc không thuận tiện nhất để cho họ để ý tới.
Hắn bật máy radio trên xe. Có một tin mới được loan báo: “Thống đốc Mike Robson gặp nhân viên FBI hồi sáng nay để bàn vềvụ bọn khủng bố Búa Thiên Lôi đe dọa làm một vụ động đất.”
Khi họ về tới nhà, xe của Melanie không có ở bãi đậu xe. Nàngđã đưa Dusty về thăm bố nó trong dịp cuối tuần.
Hầu hết mọi người đang làm cỏ ngoài đồng nho. Khi họ thấy Priest và Star trở về với Flower, tất cả đều đi về đền thờ. Khi có việc quan trọng họ đều họp để bàn luận.
Trên đường đi đến đền thờ, gia đình Priest gặp Dale và Poemvới đứa con gái của họ, Pearl.
Dale nói:
- Có cái này quý vị cần phải xem.
Flower phóng cho Pearl một tia nhìn trách móc. Pearl đang sợ rúm người.
Dale, người nhỏ thó, tóc cắt ngắn, gọn gàng, là người đứng đắn
nhất và quan trọng nhất trong làng, vì hắn là chuyên viên pha chộn rượu nho.
Dale dẫn mọi người đến một phòng trống. Trên trần có một cửa vuông nhỏ mở lên. Có một cái thang dựng gần lỗ cửa ấy. Dale châmlửa vào một cây nến và leo lên thang. Priest và Star theo sau.
Trong khoảng hẹp giữa trần và mái nhà, họ trông thấy kho tàng bí mật của mấy cô gái: một thùng đầy những đồ trang sức rẻ tiền, phấn son, y phục thời trang, và báo chí của giới trẻ.
Priest bình tĩnh nói:
- Tất cả những thứ mà chúng ta vẫn dậy chúng phải coi là đồ vô giá trị.
Dale nói:
- Chúng nó đi nhờ xe đến Silver City. Trong bốn tuần qua chúng đã đi ba lần như vậy. Sau khi tới đó chúng cởi bỏ quần jeans và sơmi lao động, và mặc đồ đẹp vào.
Star nói:
- Chúng làm gì ở đó?
- Ði lang thang trong đường phố, bắt chuyện với con trai, và ăn cắp đồ trong các tiệm.
Priest thọc tay vào trong thùng và lôi ra một chiếc áo thun hẹp mình, mầu xanh dương với một sọc ngang to bản mầu vàng cam. Chiếc áo thật mỏng và bèo nhèo. Cầm cái áo trong tay Priest đi xuống thang. Star và Dale xuống theo. Hai cô gái có vẻ bẽn lẽn.
Priest nói:
- Ta vào đền bàn chuyện này.
Lúc họ tới đền thờ, mọi người đã tề tựu đông đủ, ngồi xếp chân bằng tròn đợi trên sàn đền. Priest vào ngồi chính giữa như mọi khi. Priest nói:
- Vị nào muốn nói trước tiên?
Aneth nói:
- Có lẽ trước hết Flower và Pearl phải nói cho chúng ta biết tại sao hai cô muốn đến Silver City.
Flower nói, giọng thách thức:
- Ðể gặp người ta.
Aneth mỉm cười:
- Cô muốn nói gặp con trai?
Flower nhún vai. Aneth nói:
- Ðược, tôi cho là cái đó có thể hiểu được. Nhưng tại sao các cô phải ăn cắp?
- Ðể làm đẹp.
Star hỏi:
- Quần áo thường dùng của con có gì là không tốt?
Flower nói, giọng khinh bỉ:
- Còn phải hỏi.
Star nhoài người về phía trước, tát vào mặt Flower, và nói: - Mày nói với mẹ mày như thế hả? Mẹ đã lãnh mày từ trong tù ra về tội trộm mà. Mày đừng có nghĩ rằng mẹ mày là một người ngu đần.
Pearl bật khóc. Priest thở dài. Ðáng lẽ hắn đã phải biết trước việc này sẽ xẩy ra. Áo quần trong tiệm miễn phí của làng đều tốt cả. Mọi người trong làng đều có quần jeans, áo sơmi vải xanh để làmviệc, áo thung, áo len dầy cho mùa đông, áo mưa để làm việc ngoài đồng khi trời mưa. Nhưng người nào cũng mặc những thứ ấy. Mà bọn trẻ lại muốn có cái gì khác người ta. Ba mươi lăm năm trước Priest đã ăn cắp một chiếc áo Beatle ở một tiệm tên là Rave.
Poem nói với con gái:
- Pearl, con không thích quần áo của con à?
Pearl vừa sụt sịt khóc vừa nói:
- Chúng con muốn giống như dì Melanie.
Priest thốt lên:
- A, chú hiểu rồi!
Melanie vẫn còn mặc quần áo cũ của nàng: áo nịt ngắn hở hang, váy ngắn, quần soọc cũng thật ngắn, giầy kiểu khác thường, và mũ đẹp. Nàng trông đẹp và khêu gợi. Chẳng trách mấy cô gái đã coi nàng như một người mẫu để bắt chước.
Dale nói:
- Chúng ta cần phải bàn về cô Melanie.
Priest chột dạ. Hắn đã đem Melanie về đây. Hai người đã yêunhau, và nàng là người rất quan trọng trong kế hoạch của hắn. Nàng là người duy nhất hiểu được những dữ kiện trong cái đĩa của Michael. Priest không thể để họ làm khó nàng. Hắn nói:
- Chúng ta không bao giờ buộc người nào phải đổi áo quần khi họ tới nhập bọn ta. Chừng nào quần áo cũ của họ còn dùng được thì họ cứ dùng.
Alaska, trước kia là một thầy giáo, nói:
- Không phải chỉ có quần áo mà thôi. Cô ấy không làm gì hết. Priest cãi:
- Tôi đã trông thấy cô ấy rửa bát và làm bánh.
Alaska tiếp tục:
- Mấy việc lặt vặt ấy thì ăn thua gì. Cô ấy không làm việc ngoài đồng. Cô ấy chỉ là một người khách mà thôi.
Ðến lượt Garden nói. Trước đây Garden là một dân ghiền sì-ke. Mới 25 tuổi nhưng nàng trông như đã bốn chục.
- Melanie có ảnh hưởng xấu cho bọn trẻ. Cô ấy hay nói với chúng về những đĩa nhạc kích động, những chương trình tivi, và những rác rưởi khác.
Priest nói:
- Chúng mình sẽ phải bàn với Melanie về vấn đề này khi nào cổ rời San Francisco trở về đây.
Dale nói thêm:
- Nhiều người chúng tôi còn bị làm phiền bởi cái gì anh có biết không?
Priest cau mày:
- Cái gì làm phiền nhiều người?
- Cái điện thoại và cái máy điện toán di động của cô ấy. Trong sơn cốc này chưa bao giờ có điện. Người dân trong này đã quen sống không có tivi và băng nhạc băng hình. Mấy cái máy của Melanie, mà nàng thỉnh thoảng phải sạc điện tại thư viện Silver City, đã được người ta nhìn bằng những con mắt không mấy thiện cảm. Priest không thể nói cho Dale biết lý do tại sao Melanie phải giữ cái điện thoại và máy điện toán di động của nàng. Priest nghĩ Dale là người nhát gan sẽ ngăn cản hắn không cho thi hành việc hắn đã hoạch định. Priest thấy là phải chấm dứt vụ bàn cãi này. Hắn nói: - Tôi nghĩ là chúng ta đang bàn luận vụ này trong một thời gian không thuận tiện.
Hầu hết mọi người gật đầu tán thành. Priest nhìn thằng con trai 10 tuổi của hắn, một đứa nhỏ nghiêm trang có cặp mắt đen, và nói: - Chúng ta phải làm gì đối với vấn đề này hả, Ringo? Con hãynói đi.
Ringo nói:
- Chúng ta hãy cùng nhau ngồi thiền.
Thấy không ai phản đối, Priest nói:
- Vậy thì xin qúy vị dọn mình để cùng tham thiền.
Mỗi người ngồi với tư thế riêng của mình. Priest và mấy người khác ngồi xếp chân bằng tròn, tay để trên đầu gối, mắt nhắm. Một không khí lắng dịu tràn ngập phòng họp, và Priest cất giọng thật trầm nói một tiếng “Ồm”.
Tất cả mọi người đồng thanh nói theo “Ồmm.... Dân của tôi. Cầucho mọi người được sống ở nơi đây đời đời”.
oOo
Buổi họp tại văn phòng thống đốc được định vào lúc 12 giờ trưa. Sacramento, thủ đô của tiểu bang, cách San Francisco khoảng hai giờ lái xe. Judy Maddox khởi hành vào lúc 9g30, để phòng hờ những lúc kẹt xe.
Trên giấy tờ thì người mà nàng sẽ gặp, AL Honeymoon, là một viên bí thư. Sự thật, trong việc làm, thì y là tay sát thủ của ông thống đốc. Khi nào Thống Ðốc Robson cần phóng một xa lộ mới qua một nơi có phong cảnh đẹp, xây một nhà máy điện hạch-nhân, hay sa thải một ngàn công chức, thì ông sai Honeymoon làm để y hứng mũi chịu sào. Honeymoon được chọn để đóng vai “Ông Ác” vì y là một người da đen. Ông thống đốc đã khôn khéo tính toán rằng báo chí sẽ ngần ngại khi phải đụng chạm đến một người da đen. Honeymoon là một chính trị gia rất khéo léo và rất ác độc. Không ai ưa ông, nhưng người nào cũng sợ ông.
Vì danh tiếng của sở, Judy muốn gây một ấn tượng tốt. FBI thíchtỏ ra là một cơ quan toàn năng, nhưng trong vụ này Judy còn dò dẫm, chưa tiến được nhiều, nên nàng chưa có thể tỏ ra nàng là người làmviệc hữu hiệu và đáng tin cậy.
Không biết chỗ đậu xe ở nơi đó có thuận tiện không, nàng bấm số điện thoại của văn phòng thống đốc. Thư ký của ông thống đốc trả lời, giọng một người đàn ông trẻ.
Judy nói:
- Tôi phải đến họp với ông Honeymoon vào lúc 12 giờ. Tôi có thể đậu xe tại bãi đậu xe của Capitol Building được không? - Chúng tôi không có bãi đậu xe dành cho khách, nhưng có một bãi đậu xe công cộng ở khu bên cạnh, trên đường số 10. Tuy nhiên buổi họp là vào lúc 11g30, chứ không phải 12 giờ.
- Sao, mới đổi lại à?
- Thưa bà không. Từ trước vẫn định là 11g30.
Judy bấn người. Buổi họp quan trọng mà đến trễ thì còn mặt mũi
nào nữa. Nàng nghĩ là đã có ai bị nhầm lẫn. Nàng xem đồng hồ. Nếunàng lái xe như điên thì cũng phải mất chín mươi phút mới tới nơi. Nàng nói liều:
- Không sao. Tôi sẽ tới trước giờ.
- Tốt lắm.
Nàng ấn bàn chân xuống và nhìn đồng hồ tốc độ leo lên tới số 100. Cũng may, trên đường không có nhiều xe lắm.
Kincaid nói cho nàng biết giờ họp, có nghĩa là ông ấy cũng sẽ bị trễ. Judy bấm số điện thoại của văn phòng San Francisco, và nói với cô thư ký của ông ta.
- Linda, cô cho ông Brian Kincaid biết là ông phụ tá thống đốc sẽ gặp ổng vào lúc 11g30, chứ không phải 12 giờ đâu. Linda nói:
- Hình như ổng biết rồi.
- Không, ổng không biết đâu. Chính ổng nói với tôi là 12 giờ. Cô thử gọi ổng xem.
- Ðược, tôi sẽ gọi.
- Cảm ơn.
Judy cúp máy và chú tâm vào việc lái xe.
Mấy phút sau nàng nghe tiếng còi hụ của xe cảnh sát. Nhìn vào kính chiếu hậu, nàng thấy một xe tuần cảnh xa lộ California, và lẩmbẩm:
- Thật là phiền.
Rồi nàng tạt xe vào lề đường và thắng mạnh. Xe tuần cảnh đậu sau xe nàng. Nàng mở cửa xe.
Một tiếng loa nói: “Ngồi yên trong xe.”
Judy cầm huy hiệu FBI trong tay, giơ thẳng ra ngoài cho người cảnh sát trông thấy. Viên cảnh sát tiến đến gần:
- Cô lái xe tới 90 dặm (miles) một giờ.
Nàng vẫy vẫy tấm huy hiệu và nói:
- Tôi là một phái viên FBI đang làm một việc khẩn cấp. Ông đãlàm trễ giờ của tôi.
- Biết rồi. Trông cô không giống người của FBI.
- Vậy thế nào mới giống người FBI?
- Cô làm ơn cho xem bằng lái xe của cô.
- Không. Tôi phải đi ngay bây giờ, và tôi sẽ chạy xe tới Sacramento với tốc độ 90 miles một giờ. Ông hiểu chưa? - Cô không làm như thế được.
- Ông cứ phúc trình mọi nơi đi.
Nói rồi nàng đóng mạnh cửa xe và phóng đi luôn.
Judy đã mất bình tĩnh với viên tuần cảnh. Hắn sẽ trình lên thượng cấp của hắn. Vị này sẽ than phiền với FBI. Rồi nàng sẽ bị khiểntrách. Nhưng nếu nàng phải giữ thái độ lịch sự thì nàng hãy còn bị giữ ở chỗ đó. Khi nàng rẽ vào con đường nhỏ ra khỏi xa lộ để vào trung tâm thành phố Sacramento thì đã 11g20 rồi. Lúc 11g25 nàng đậu xe trong bãi đậu trên đường số 10, rồi nàng chạy băng qua đường.
Tòa nhà Capitol Building là một dinh thự bằng đá giống như một cái bánh đám cưới. Judy bước nhanh dọc theo phòng lớn lát đá hoa cương tới một hành lang rộng với chữ THỐNG ÐỐC khắc phía trên.Nàng dừng lại và nhìn xuống đồng hồ của nàng. Ðúng 11g30.
Bên trong cũng lại một phòng rộng nữa với một viên thư ký ngồi sau một bàn giấy thật lớn. Cạnh đấy có một hàng ghế. Trên một ghế Judy ngạc nhiên thấy Brian Kincaid ngồi chễm chệ từ lúc nào, mặt mũi tươi tắn, thảnh thơi, không có vẻ gì là một người mới hối hả tới. Khi Kincaid trông thấy nàng, Judy thấy một thoáng ngạc nhiên trongánh mắt của y.
Nàng nói:
- Chào ông Giám Ðốc.
- Chào cô.