🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Có Một Mầm Hoa Đã Nhú Dưới Tro Tàn Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn CÓ MỘT MẦM HOA ĐÃ NHÚ DƯỚI TRO TÀN Tác giả: Lê Minh Quốc Thể loại: Tạp văn, Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn Ebook: Cuibap Nguồn text: Waka.vn https://thuviensach.vn LỜI TỰA Lê Minh Quốc không phải là người xa lạ với tôi và có lẽ cũng với nhiều bạn đọc khác nữa vì anh là một nhà báo, một nhà văn, và trước hết, một nhà thơ, bởi vì ngay từ thuở trẻ, anh đã chọn thi ca làm nghiệp dĩ: Tôi chạy theo thơ (2003) và cũng đã có nhiều tác phẩm thơ, tùy bút được xuất bản: Thơ tình Lê Minh Quốc, Thơ tình của Quốc, Gái đẹp trong tôi, Tôi và đàn bà... Tôi được quen biết anh khá lâu, có khi là dịp anh phỏng vấn tôi, có khi anh làm MC cho một buổi trò chuyện, một buổi ra mắt sách của tôi..., và tôi vẫn luôn nhìn anh với đôi mắt quý mến lẫn một chút... ái ngại bởi sự cháy bỏng, tràn đầy năng lượng của anh khác với tôi, già nua tuổi tác. Nhưng, một hôm, anh bỗng gọi tôi: “Anh Đỗ Hồng Ngọc ơi, anh viết cho Quốc một bài giới thiệu tập sách sắp in này nhé. Phải là anh viết mới được...”. Tôi ngạc nhiên lắm. Tôi biết gì về tình yêu, về gái đẹp, về đàn bà... mà viết cho Quốc đây! Nhưng anh không cho tôi kịp từ chối, gởi ngay bản thảo Có một mầm hoa đã nhú dưới tro tàn! Có gì vậy hả Quốc? Sao một người lẫm liệt oai phong, hừng hực năng lượng như nhà thơ Lê Minh Quốc mà bỗng thấy “có một mầm hoa đã nhú dưới tro tàn” vậy? Cửa đã khép thì khác gì cửa mở Anh đứng ngoài khép mở của thời gian Dẫu mở mắt cũng là đang nhắm mắt Anh thấy mầm hoa đã nhú dưới tro tàn... (LMQ) Thì ra... tập sách này của anh cho thấy một Lê Minh Quốc khác. Tưởng rất ngổ ngáo, rạo rực, sôi nổi trong tình yêu; sâu sắc, chặt chẽ trong https://thuviensach.vn văn chương nghệ thuật, bỗng trầm lắng xuống, thấy mình “dẫu mở mắt cũng là đang nhắm mắt”... Và anh quay nhìn lại chính mình. Lắng nghe chính mình. Thứ tiếng nói từ sâu thẳm tự bên trong. Anh viết về quê hương, về mẹ, về người xưa, về cái đẹp, về nếp sống hạnh phúc... Những lời ân cần như vừa tâm tình với chính mình, lại như vừa khuyên nhủ người bạn trẻ vào đời...: Học lại người xưa, Đi là sống một đời sống khác, Sống vui từng ngày, Vui trong hiện tại, Niềm tin tâm linh... Anh viết về mẹ với tất cả tấm lòng, đọc không thể không rưng rưng: “Còn với tôi, một khuya đẹp trời là lúc mở cửa rón rén vào nhà. Đã quen hơi người, con chó mực không sủa, chỉ quẫy đuôi mừng rỡ. Chân bước rất khẽ, thế mà vẫn nghe một giọng ngái ngủ vang lên trong tĩnh mịch: “Q về đó hả con?”, chỉ trả lời một tiếng: “Dạ”. Không gian lại im ắng lạ thường. Đâu đó đã có tiếng gà gáy. Đêm vẫn tối đen. Bình yên”. (Một ngày rất đẹp). Rất đẹp vì có mẹ. Bởi vì rồi đây, một khi “Mẹ thành mây trắng đã lâu/ Con về thăm mẹ ngồi đâu cũng buồn”... Anh viết về chữ hiếu: “Dù đứng ở góc độ nào, ta thấy chữ hiếu đã nhập vào tâm thức người Việt như một lẽ sống vĩnh hằng. Kinh Phật có dạy: “Điều thiện tối cao không gì hơn hiếu, điều ác cùng cực không gì hơn bất hiếu” (kinh Nhẫn Nhục), “Gặp thời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật” (kinh Đại Tập)... Anh nhìn “cái đẹp” cũng đã khác: “Cái đẹp là gì nhỉ? Khó có thể có câu định nghĩa hợp ý với cả thảy mọi người, nhưng chỉ trong lĩnh vực thời trang, tôi nghĩ rằng, một khi ăn mặc thế nào mà cảm thấy mình ý tứ hơn, dịu dàng hơn và cũng dễ tạo ra thiện cảm, đó chính là đẹp. Với phụ nữ, sự trở lại của chiếc áo dài truyền thống, dù bây giờ đã ít nhiều có cách điệu đi nữa, là một lựa chọn của nhiều người. Sự lựa chọn ấy cho thấy rằng khi xuất hiện trước đám đông, tự nó đã nói lên các đức tính cần thiết của nữ giới” (Gói mây trong áo). Đã đến lúc “về thu xếp lại” của một người vừa chớm nghe “gió heo may đã về” chăng, đã đến lúc phải “dọn lòng” chăng? ““Về thu xếp lại” https://thuviensach.vn cũng là lúc “dọn lòng” của chính mình, loại bỏ đi những tị hiềm ganh ghét nhỏ nhoi đã giăng tơ nhện từ ngày này qua tháng nọ. Sự u ám ấy, sao không gạt bỏ đi cho nhẹ lòng? Mà trong lòng mỗi chúng ta sự ngổn ngang ấy... ” (Về thu xếp lại). Đọc Lê Minh Quốc bây giờ, tôi thấy anh đã thực sự chuyển hóa, khác đi với một Lê Minh Quốc tôi quen biết trước đây. Anh thành thực kể rằng khi viết chuyên mục “Sức khỏe cho tâm hồn” ở một tờ báo, anh luôn tự hỏi mình: “Tâm hồn mình có đủ trong sáng, hướng thiện để bàn luận về sự yêu thương trong đối nhân xử thế?”...Và rồi anh nhận ra, xưa, là con người hành động, anh nghĩ“muốn thay đổi phải có sự tác động giáo dục từ gia đình, nhà trường và môi trường xã hội”, nay thì anh đã nhìn ra hạt giống hướng thiện ở trong ta: “Hạt giống hướng thiện ấy mình gieo ngay trong tâm hồn chính mình. Ta sống với với nó, nuôi dưỡng nó...”. Đúng vậy. Chỉ có cách quay về nương tựa chính mình. Cõi Phật không ở đâu xa! Tâm thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Trả lời người bạn đồng nghiệp đặt câu hỏi, anh nói: “Tôi luôn ý thức rằng, những gì viết là điều hằng tâm niệm; hoặc mục tiêu đang hướng tới. Viết cũng là một cách tự giáo dục lấy chính mình”. Đoản văn, tùy bút của Lê Minh Quốc có lẽ là chỗ tâm đắc của anh, chỗ anh gởi gắm nhiều nhất. Có thể nhiều điều chưa nói ra và nhiều điều chưa nói hết, nhưng nó chân tình và sâu lắng. Thơ, ca dao, tục ngữ... được chọn, câu nào cũng đắt. Và dĩ nhiên, không thiếu chút dí dỏm đáng yêu kiểu Lê Minh Quốc. Và như thế, hôm nay ta có trong tay tập Có một mầm hoa đã nhú dưới tro tàn. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (Sài Gòn 11.2015) https://thuviensach.vn VỀ QUÊ ĂN TẾT Tôi đi giang hồ từ năm mười sáu Còn quay đầu nhìn lại Ngũ Hành Sơn Trong những ngày cuối năm, gió rét tràn về, lá vàng bắt đầu lãng du trên mặt phố Sài Gòn thì tôi lại nhớ đến câu thơ đã viết. Nhớ, vì đó là lúc tôi chuẩn bị quay về quê nhà Đà Nẵng. Ngày Tết, ai cũng có một quê nhà để về, không về được thì bứt rứt không nguôi. “Về quê ăn Tết” chỉ bốn từ bình dị như sắn, như khoai nhưng gợi trong tâm tưởng của bao người một âm vang da diết. Ăn Tết còn là dịp để bày tỏ lòng biết ơn. Thật lạ, ông bà ta luôn dạy con cháu phải biết ơn những gì, những ai đã giúp mình, dù ít, dù nhiều trong quá khứ. Giã ơn cái cối, cái chày Nửa khuya giã gạo có mày có tao Cứ nghe như một lời thủ thỉ tâm sự. Cái chày, cái cối kia không còn là vật vô tri vô giác, nó đã là người bạn của những lúc “tối lửa tắt đèn” có nhau. Xã hội Việt Nam thuở xưa sống bằng nghề nông, thường ngày “Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” thì ngày Tết “con trâu là đầu cơ nghiệp” cũng... ăn Tết. Bà ngoại tôi kể ngày xưa ở Quảng Nam, chiều ba mươi Tết chuồng trâu, bò được dọn sạch sẽ và chúng được nghỉ xả hơi. Qua ngày mồng bốn, chúng được đưa ra đồng với cái lễ vui vẻ có cả bánh tét, bánh chưng hẳn hòi. Sau khi khấn vái, người ta dán giấy vàng mã lên sừng trâu bò, con nghé thì được dán giữa trán - như lời cầu chúc cho chúng luôn khỏe mạnh, không ốm đau, không trở chứng xao nhãng công việc. Cúng xong, bánh trái ấy được phân phát cho trẻ mục đồng. Ấy cũng là một https://thuviensach.vn cách bày tỏ lòng biết ơn với gia súc đã quanh năm cùng gắn bó “trên đồng cạn dưới đồng sâu”. Ít ai ngờ rằng, ngay cả giếng trong nhà cũng... ăn Tết. Tuổi thơ của tôi có những vạt mây trắng. Mây bay trên trời xanh lồng lộng bây giờ đã chìm khuất đâu đó trong trí nhớ, nhưng vạt mây từng soi bóng dưới giếng chắc vẫn còn. Giếng nhà ông ngoại. Cái giếng cũ kỹ ấy là một thời kỷ niệm khó quên. Nước trong vắt. Mỗi chiều, bà con láng giềng thường đến múc nước. Tình làng nghĩa xóm thân mật và gần gũi lắm. Trong tôi vẫn còn nghe vọng lên âm thanh của những chiếc gàu va vào thành giếng. Âm thanh của tuổi thơ nhiều mộng mị xa vời. Lớn lên, có lần đọc một khúc dân ca của người Campuchia, tôi nghĩ, đã có những cuộc tình bên cạnh giếng. Tại sao? Vì biết đâu trong đám trai làng ngày ấy, chắc rằng đã có lúc, có người tần ngần nhìn xuống giếng sâu và thì thầm trong tâm tưởng: “Anh đi ra giếng một mình/ Chiếc bóng dưới nước long lanh đâu rồi?/ Chỉ nhìn thấy bóng em thôi/ Lúc em tắm để quên nơi giếng này”. Tôi tạm dịch như thế. Và thích tứ thơ này. Khi người con trai thất tình, không thấy bóng mình dưới giếng, chỉ thấy hình bóng người yêu năm xưa. Diệu vợi đến ngậm ngùi đau đớn. Ấy là do tôi tưởng tượng, chứ cái giếng ngay trước nhà, làm gì có ai dám đứng tắm. Lớn lên, đi xa nhưng mỗi lần nhớ về tuổi nhỏ, trong tôi vẫn luôn hiện lên hình ảnh cái giếng đó. Nếu biết nói, chắc nó sẽ kể cho tôi nghe nhiều thăng trầm năm tháng đã đi qua. Nó sẽ kể rằng, một ngày nọ, đã xa lắc xa lơ, khi trong nhà không còn một hạt gạo, bỗng nhiên sáng mồng một Tết có người đến thật sớm. Đến “đạp đất” mừng tuổi ông bà ngoại tôi chăng? Không, họ đến để mượn chiếc đòn gánh. Mượn trong ngày đầu năm là điều tối kỵ. Mà lại mượn cái đòn gánh đã mòn trên vai mẹ tôi từng ngày kiếm sống. Lạ quá đi chứ? Nào ngờ đó là một phép lạ. Ra Giêng ngày rộng tháng dài, bỗng gia đình ông bà ngoại tôi làm ăn phát đạt. Các cậu, dì mua may bán đắt đến diệu kỳ. Những tiệm vàng mang chữ “Vĩnh” như Vĩnh Châu, Vĩnh Thái, Vĩnh Phát, Vĩnh Thuận... lần lượt được khai trương - một thời lừng lẫy ở chợ Cồn. Chuyện này, mẹ tôi đã kể tôi nghe trong một ngày đứng bên thành giếng nhà ông ngoại. https://thuviensach.vn Khi tôi đi bộ đội về, việc làm đầu tiên của tôi là lên nhà ông ngoại tìm lại ngày tháng tuổi thơ. Kỷ niệm tốt tươi nhất trong đời tôi vẫn là ngày mồng một Tết, anh em tôi mặc quần áo mới chúc ông bà sống lâu muôn tuổi, để rồi được dì, cậu, ba mẹ “lì xì” những đồng tiền mới đựng trong phong bì đỏ chói. Nhưng rồi, tôi bàng hoàng nhận ra cái giếng ngày cũ đã không còn. Ngày tháng cũ đã mất. Chính vì thế, trong tập thơ Yêu em, Đà Nẵngcó một đoạn tôi viết “Em đi qua vườn bàn chân bước vội/ Nén nhang thơm trên bàn thờ ông ngoại/ Thơm hoài nỗi buồn về khuya... Quay về tuổi thơ không còn ai/ Chỉ gặp trên mái ngói tiếng chim lăn dài”.Vì nhiều lý do, các dì, cậu đã bán một phần căn nhà cũ của ông bà ngoại và người mua đã lấp cái giếng ấy, lấy thêm đất dựng nhà. Kỷ niệm cũ của tôi đã chìm sâu dưới đất. Đã chìm sâu cả trò chơi của tuổi thơ “Nào oẳn tù tì! Cái gì? Cái kéo/ Cùng kéo co nhau ngày Tết đến rồi/Nồi bánh chưng xanh con chim lè lưỡi/ Chơi trò chơi nhỏ em gọi Tết ơi!”. Bây giờ cũng gọi Tết ơi! Nhưng lại thấy xa xăm quá đỗi... Nay, tôi đã bước vào lứa tuổi biết “sợ Tết”. Bởi sợ thời gian lướt qua nhanh. Dù vậy, giếng nước nhà ông ngoại vẫn còn trong văn vắt trong tâm tưởng. Tôi lại nhớ đến Tết xưa, chiều ba mươi mỗi năm, bà ngoại tôi dán tờ vàng mã màu son rực rỡ bên thành giếng, trên giếng có đặt mâm ngũ quả, nén nhang, đèn sáp thắp đỏ rồi khấn vái bà Thủy Long. Xong lễ, bà thả gàu xuống múc một gàu nước trong vắt để dành cúng đầu năm. Mỗi lần Tết đến, nhiều người lại nhớ những món ăn mẹ nấu cho ăn thuở ấu thơ, nó luôn ám ảnh trong trí nhớ, ngọt bùi trong ký ức. Có thể sau này, khi lớn lên ta được ăn biết bao “món ngon vật lạ” trên đời nhưng cũng không thể sánh nổi... Bởi món ăn của ngày xa xưa ấy không chỉ có ý nghĩa vật chất mà còn chứa cả tấm lòng, tình yêu thương vô bờ bến của mẹ. Món ăn ngày Tết, tôi thích nhất là thịt heo ngâm nước mắm. Không rõ, trong Nam ngoài Bắc có món này không? Là những miếng thịt heo thật ngon, đem luộc chín (nhưng chín đến mức độ nào là một “bí quyết” của người nội trợ tài hoa). Sau đó, vớt ra chờ ráo nước, rồi đặt vào trong thẩu và đổ nước mắm vào. Điều khó nhất là phải pha chế nước mắm như thế nào mới “đúng https://thuviensach.vn điệu”? Cũng là một... “bí mật”! Dù thế nào đi nữa, nhưng chắc chắn phải là loại thượng hạng, phải là nước mắm Nam Ô thì mới... đúng “bài bản”! Nay tôi đã lớn. Mẹ tôi đã già. Trong ngày Tết, tôi không còn được ai làm cho món ăn ấy nữa. Nghĩ lại, thấy bùi ngùi và thương tiếc năm tháng đã xa... Hàng ngàn hàng triệu năm nữa, tôi nghĩ, phong vị Tết trong tâm thế của người Việt vẫn thiêng liêng như thuở nào. Dù siêu thị mọc lên ngày càng nhiều, hàng hóa đa dạng hơn, nhịp sống có hối hả hơn, tất bật hơn... nhưng trong ngày Tết, tất cả những thứ ấy lại mang một ý nghĩa khác hẳn. Món ăn của ngày Tết còn có hương vị của sự sum họp, đoàn tụ; trong bộ quần áo mới còn có cả niềm vui trong trẻo của ngày Nguyên đán; trong giọng nói tiếng cười không chỉ mang ý nghĩa thông tin mà còn là nỗi niềm tâm sự và chia sẻ... Ngày Tết của Hôm Nay, tôi vẫn đón nó bằng tâm thế náo nức, chờ đợi, hân hoan của Hôm Qua. Nói đến Tết, ta không thể quên được tiếng gọi thầm vọng lại tự lòng mình: “Về quê ăn Tết”. Thật hạnh phúc cho những ai còn có nơi chốn để về đoàn tụ, sum họp cùng gia đình. Cũng như mọi năm, năm nào tôi cũng về quê trên chuyến bay vào ngày cuối cùng của một năm. Mở rộng lồng ngực để đón gió mới. Mở to mắt để nhìn nắng mới. Và hy vọng những niềm vui mới của ba ngày Tết. Vâng, làm sao có thể quên được câu thành ngữ: “Mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồng ba Tết thầy”. Nhìn rộng ra, bao đời nay, người ta dành ngày thiêng liêng nhất cho bên nội (cha), bên ngoại (mẹ) và thầy dạy nhằm thể hiện đạo lý “tôn sư trọng đạo”. Năm nay, tôi sẽ khai bút đầu xuân như thế nào? Chưa rõ. Nhưng chắc chắn, tâm trí tôi nhớ đến mấy câu thơ còn ghi trong gia phả: Cây có gốc mới sinh ra ngọn Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu Người ta nguồn gốc từ đâu? Có Tổ tiên trước rồi sau có mình. (Tết năm Kỷ Sửu) https://thuviensach.vn MÙA XANH CỦA ĐỜI Khi bước vào bất cứ ngôi nhà nào, dễ dàng bắt gặp một hình ảnh quen thuộc được chủ nhân treo ở vị trí dễ nhìn thấy nhất: quyển lịch. Nơi ấy, thời gian lặng lẽ đi qua. Thời gian gõ nhịp mỗi ngày. Như một lẽ tự nhiên. Tự nhiên như mỗi ngày xé đi một tờ lịch. Có khác chăng, ngày Chủ nhật, tờ lịch được in màu đỏ. Vậy thôi. Chẳng có gì phải bận tâm. Từ lúc lần đầu tiên biết xé tờ lịch mỗi ngày đến khi sắp từ giã cõi trần, có một lần, dù cũng lặp lại thói quen ấy nhưng trong lòng cảm xúc đã khác. Tự nhiên, ta nhìn thấy ngoài kia trời xanh hơn, nắng tươi hơn. Tự nhiên, ta sờ tay lên ngực thấy nhịp đập trái tim khỏe khoắn hơn. Khoảnh khắc nào diệu kỳ đến thế? Tôi dám quả quyết rằng, bất kỳ ai cũng có chung cảm giác ấy, đó là lúc đưa tay chạm vào tờ lịch cuối cùng. Chần chừ một chốc, ngẫm nghĩ một lúc, thời gian năm cũ lướt nhanh qua óc. Đã hết một năm rồi ư? Nhanh quá. Chỉ một chớp mắt. Nghĩ thế, rồi nhẹ nhàng xé đi tờ lịch cuối cùng. Ngày đầu tiên trong 365 ngày của năm mới hiện ra. Mùa xanh của đời mở ra. Một chặng đường dài mở ra. Tất cả lại bắt đầu. Bắt đầu một hành trình của kiếp người đang vẫy gọi. Ngày đầu tiên trong một năm, lúc ấy nghĩ gì? Cầu trời khấn Phật, năm mới mọi việc mới hơn, hanh thông hơn, thuận lợi hơn. Đã ngoài 50, mà vẫn còn suy nghĩ trong trẻo thế ư? Vẫn thế. Mỗi ngày, đi giữa dòng đời tấp nập, có lúc gặp những gương mặt xa lạ, dù họ tỏ ra thân thiện, hiền từ nhưng tôi vẫn e ngại, nghi ngờ; không dám vồn vập tay bắt mặt mừng, sẻ chia những cảm nghĩ thầm kín, dù lúc ấy https://thuviensach.vn rất cần một lời dỗ dành, an ủi. Biết đâu gai nhọn đang ẩn giấu trong cái bắt tay thân thiện? Biết đâu những Lý Thông, Bùi Kiệm, Sở Khanh... đang đeo mặt nạ của Lục Vân Tiên, Thạch Sanh? Sự nghi ngại ấy cũng là lẽ thường tình, bởi cuộc sống có quá nhiều bi kịch do lòng tin đặt nhầm chỗ. Mà thật lạ, với gương mặt trẻ thơ dù chỉ gặp lần thứ nhất trong đời, ngay lập tức trong lòng tôi đã dậy lên một niềm tin cậy. Mọi điều nghi ngại đều tan biến đi, chỉ còn lại tình người từ ánh mắt nhìn trong veo, từ tiếng cười vô tư, từ giọng nói hồn nhiên như mưa nguồn đầu mùa gió mới... Cảm giác thân thiện ấy, chắc chắn trong đời, ai cũng đã gặp. Khi nhìn đứa trẻ, ai không nghĩ đến mầm xanh mới nhú? Với tình cảm tự nhiên, ai lại không muốn mở rộng vòng tay bảo bọc, vỗ về? Có đôi lúc nửa đêm bàng hoàng thức dậy, trong lòng sực nhớ và âu lo điều gì, nếu lúc ấy nhìn gương mặt trẻ em, tự nhiên nhiều người cảm thấy chính mình như đang được che chở. Trẻ thơ kỳ lạ lắm, khi nhắm mắt ngủ, gương mặt ấy đẹp tựa thiên thần. Gương mặt thanh thản ấy khiến ta xấu hổ nếu buông tiếng thở dài mỏi mệt, bỏ cuộc trên chặng đường gian nan sắp tới. Có những lúc chính trẻ em đã hướng thiện người lớn. Ta sẽ cảm thấy ngại ngùng nếu phải đối thoại, trò chuyện với trẻ em bằng những ngôn từ phù phép, xảo trá. Do đó, giữ cho mầm non thánh thiện ấy không phải bầm dập trước cuồng phong bão táp của đời sống, chính là trách nhiệm của người lớn. Tuy nhiên, mỗi ngày đi qua có phải lúc nào cũng nghe vọng về tiếng hát cười đùa hồn nhiên vô tư của trẻ nhỏ? Không. Nhưng than ôi, các em khản giọng cầu cứu nhưng nàng Tiên, ông Bụt có xuất hiện kịp thời? Những tiếng kêu thương ấy, chỉ hằn vết căm thù trong trí óc non nớt khó phai. Thử hỏi, đứa trẻ ấy sau này lớn lên sẽ lấy gì làm hành trang tu dưỡng tâm hồn? Khi người lớn chúng ta thể hiện sự khát vọng về một ngày mai tươi đẹp, về một thế giới các màu da chung sống hòa bình thì có lẽ, việc làm trước nhất vẫn chính là chăm lo, bảo vệ trẻ em. Mà nói đến trẻ em, không thể quên những nhu cầu rất đỗi “tầm thường” như chúng phải được ăn no, được ngủ ngon, được đến trường... Nhưng vì sao có đứa trẻ từ lúc lọt lòng https://thuviensach.vn mẹ đã bị tước đoạt những nhu cầu ấy? Đừng nhìn đâu xa, có lúc nào trong tất bật công việc kiếm sống mỗi ngày, chúng ta nhín lại một ít thời gian cho con em mình? Vui chơi, lắng nghe lời tâm sự, san sẻ buồn vui mỗi ngày với chúng có phải là điều quá khó khăn? Tôi nghĩ, ngay từ thuở lọt lòng, mỗi đứa trẻ là một biểu tượng sống động nhất về hình ảnh Thiên đàng dưới trần thế. Thiên đàng ấy, mỗi người có một ước mơ. Ngày xửa ngày xưa, đọc một truyện ngắn của nhà văn Võ Hồng, đến nay, mỗi lần nhớ, lại cảm động. Ngày đầu năm, người cha đã cho treo trên tường một kỷ niệm của gia đình: “Đó là bức ảnh chụp mộ má. Ba ngày sau khi chôn cất má xong, ba đặt thợ xây mộ. Khi mộ hoàn thành, ba đưa chị em ra thăm... Ba chị em đều mặc áo tang. Màu trắng của áo quần tang nổi lên nền đen của ngọn núi đàng sau”. Với phong tục Á Đông, ngày đầu năm nhắc đến tang ma là điều xúi quẩy. Chẳng phải đâu, người cha trầm ngâm bảo, bức ảnh ấy nhằm nhắc nhở các con “khi có điều gì đáng giận nhau thì hãy nhìn vào trước khi giận”, để nhớ lại các con “đều chịu chung cảnh mồ côi má từ thuở thơ ngây đó cho đến suốt đời. Cả ba đều khổ. Hãy thương yêu nhau”. Hãy thương yêu nhau, “thông điệp” ấy nào của riêng ai. Chưa bao giờ, lòng yêu thương đang dần trở thành một thứ xa xỉ như hiện nay. Có quá nhiều thông tin cho thấy cái ác đang lấn lướt, như sóng dữ vồ ập lên đời sống khốn khổ, quá nhiều bất trắc... Trên đường phố, chỉ cần một cú va quẹt, một cái nhìn thiếu thiện cảm, một câu nói nghe không lọt tai, là có thể giết nhau dễ dàng như lật bàn tay. Đâu rồi lời dạy của mẹ từ mỗi nếp nhà: “Lên xe nhường chỗ bạn ngồi/ Nhường nơi bạn dựa, nhường lời bạn trao”? Đâu rồi, “Thương người như thể thương thân”? Có những câu hỏi, ai cũng hỏi mà chẳng thể trả lời. Chà, sao lẩn thẩn thế? Ai đời, ngày đầu năm không ước mơ điều gì to tát hơn mà chỉ quanh quẩn trong vài câu tục ngữ, ca dao xưa như trái đất. Sao không ước mơ “hiện đại” hơn? Chẳng hạn, năm mới sẽ giàu hơn, “sành điệu” hơn, “đẳng cấp” hơn? Đúng quá. Hãy tự chúc trong ngày đầu năm niềm ước mơ ấy. https://thuviensach.vn Vừa vụt miệng nói xong, bỗng từ trong trí nhớ, di ngôn của cụ Nguyễn Hiến Lê vọng đến: “Khi nghèo phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được sự độc lập tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh vì lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như thế hay không”. Có thể, lấy câu nói này làm lời chúc mừng năm mới, được không? https://thuviensach.vn HỌC LẠI NGƯỜI XƯA Có một tâm lý đã trở nên phổ biến, hễ cái gì của nước ngoài, thuộc loại “hàng hiệu” thì người ta tin sái cổ, mặc nhiên thừa nhận giá trị của nó. Điều này tùy vào lựa chọn mỗi người, chẳng ai có thể “phê phán” ai. Không chỉ những mẫu mã cụ thể, ngay cả vấn đề tư tưởng cũng thế thôi. Đã có lần, thi sĩ Bùi Giáng kêu toáng lên: “Chúng ta quen thói ngong ngóng chạy đuổi theo mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào để thể hội rằng lục bát Việt Nam là một cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba sông bảy hồ” (Tạp chí Văn số ra ngày 18.5.1973)”. Lục bát Việt Nam, ca dao, đình làng, cái chày cái cối, con nghê đầu làng, lũy tre, bến nước... vẫn tồn tại theo năm tháng. Một khi nhìn nhận, phát huy với giá trị văn hóa đích thực của dân tộc Việt, tôi tin rằng nội lực đó còn đủ sức soi đường cho chúng ta đi tới. Vì lẽ đó, khi bắt tay vào làm bộ Hào khí Đông A, trước hết tôi chọn lấy đời nhà Trần bởi đó là một giai đoạn hùng mạnh, vẻ vang nhất thế kỷ XIV mà cha ông ta đã không đầu hàng kẻ thù hùng mạnh nhất của một thời đại: “Không một dòng suối, một con sông nào không tràn đầy nước mắt. Không một ngọn núi, một cánh đồng nào không bị quân giặc giày xéo!”. Cuối cùng, dân tộc Việt đã chiến thắng. Bài học xuyên suốt của cha ông ta trong hơn 4.000 năm dựng nước và giữ nước là gì? Với câu hỏi này, các nhà sử học tha hồ bình luận. Riêng tôi, chỉ xin mạo muội nghĩ rằng, tất cả kinh nghiệm, bài học ấy chỉ gói gọn trong bốn từ chiến lược mà nhà văn hóa, nhà chính trị thiên tài Nguyễn Trãi đã đề ra: “Mưu phạt tâm công”. Tức “đánh vào lòng người”, nếu thắng được lòng người, tự khắc thành quách dù kiên cố đến đâu tự nó sẽ sụp; binh mã dù https://thuviensach.vn hùng hổ đến đâu cũng quỵ... Có sức mạnh nào vĩ đại hơn khi lòng người đã gắn kết làm một? Có sự tan rã, thất bại nào nhanh chóng khi lòng người đã chia năm xẻ bảy? Lâu nay, sử sách đã ghi nhận chiến công oanh liệt của Phó đô tướng quân Trần Khánh Dư lúc được vua Trần giao trấn giữ mặt trận Vân Đồn. Chính ông đã tổ chức đánh đắm thuyền vận tải lương thực lớn nhất của giặc Nguyên. Sử chép: “Quân ta thu được chiến lợi phẩm nhiều không kể xiết, bắt nhiều tù binh, làm phá sản kế hoạch tiếp tế lương thực của chúng”. Lúc ấy, dân quân nhà Trần lập tức “thừa thắng xông lên” giao chiến với kẻ thù? Không cần vội. Vua Trần Nhân Tông bảo: “Quân Nguyên cốt trông chờ có lương thực, khí giới nhưng nay bị ta cướp cả rồi, thế nào chúng cũng thua thôi. Tuy nhiên, nếu chưa biết tin này ắt chúng còn đắc chí, hung hăng. Chi bằng cho người báo tin, chúng tất ngã lòng, bấy giờ ta đánh mới dễ”. Nói xong, ngài cho thả tù binh để chúng tự tìm đến doanh trại Thoát Hoan báo lại sự tình. Quả nhiên, khi hay tin, quân Nguyên hoang mang tột cùng, không còn tâm trí chiến đấu nữa, vũ khí dẫu có trang bị tận răng cũng chẳng là gì. Tự nó, chưa đánh đã bại. Ấy cũng là một biện pháp tài tình “đánh vào lòng người” đấy chứ? Học sử, nếu không liên hệ hiện thực thời đang sống phỏng có ích lợi gì? Một doanh nhân không cần biết đến sử nước nhà vẫn thành đạt chăng? Đã có những doanh nhân lấy bằng tiến sĩ trường đại học danh giá cỡ như Havard, họ chẳng biết gì về sử nhưng vẫn thành công ào ào đấy thôi. Thì vẫn biết thế, tuy nhiên, trong cuộc sống này, không có thơ người ta vẫn sống, nhưng nếu cóthơ, lúc ấy ăn bánh mì sẽ ngon hơn. Nếu biết sử, ắt có thể tự suy ngẫm và rút ra những bài học xác đáng trong kinh doanh. Một đời chỉ sống bằng nghề báo, tôi đã gặp nhiều hạng người. Trong số đó, có người đã để lại cho tôi ấn tượng khi tâm sự rằng, nhờ đọc sử, hiểu sử và biết áp dụng trong đối nhân xử thế nên mới “có được ngày hôm nay”. Với một chủ doanh nghiệp, có phải mối quan tâm của họ hầu hết dành cho phía đối tác? Nhờ cậy những người của cơ quan chức năng thuộc vai vế “có sừng có mỏ” chăng? Anh bạn tôi gật gù: “Dẫu thế nào đi nữa nhưng không thể không quan tâm đến hạng người giữ cương vị thấp nhất trong công ty”. https://thuviensach.vn Tại sao như thế? Câu chuyện của anh ngược dòng lịch sử vào năm 1390. Lúc ấy, Chế Bồng Nga chỉ huy hơn 100 chiến thuyền đến sông Hải Triều (tức sông Luộc ngày nay). Đối đầu lại là cuộc bày binh bố trận của chiến tướng Trần Khát Chân. Không ai có thể biết trước chiến sự sẽ kết thúc thế nào. Lúc ấy, tên tiểu thần của Chế Bồng Nga là Ba Lậu Kê vì bị Chế vương quở mắng, sợ bị giết nên chạy sang doanh trại quân Đại Việt đầu hàng. Trần Khát Chân dò hỏi Chế Bồng Nga đang đi trên thuyền nào, Ba Lậu Kê liền trỏ cho biết quốc vương Chiêm Thành đang ngự trên chiến thuyền màu xanh. Trần Khát Chân ra lệnh cho các hỏa pháo tập trung nã đạn vào chiến thuyền đó. Nghe tin Bồng Nga chết tại trận, quân Chiêm Thành thất thần sợ hãi, tháo chạy tan tác. Không đánh mà thắng. Chỉ từ một gia nhân tầm thường nhất mà Chế vương phải trả một giá đắt bằng chính sinh mạng của mình. Sực nhớ có một triết gia bảo rằng, “lỗ nhỏ đắm thuyền”. Há chẳng phải là bài học đối nhân xử thế đó sao? Đọc sử đời nhà Trần, thú thật, tôi rất thích với chi tiết này: “Trước kia, người Nguyên vào cướp, vương hầu, quan lại nhiều người đến doanh trại giặc xin hàng. Đến khi giặc thua bắt được cả một hòm biểu xin hàng. Thượng hoàng sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản trắc” (Đại Việt sử ký toàn thư). Thượng hoàng Trần Thái Tông đã có một tầm nhìn lớn lao, khoan dung sau chiến tranh cũng không ngoài mục đích gắn kết lòng người. Mới đây thôi, từ thời còn chia cắt đất nước, bằng linh cảm của một người nghệ sĩ, Trịnh Công Sơn đã nhìn ra vấn đề mấu chốt sau ngày thống nhất là “dựng lại người” - “dựng người mới như cây sang mùa” trước cả chuyện nhân sinh, cơm áo “dựng lại nhà”. Hiểu thế nào đây? Tôi nghĩ “dựng lại người” còn là sự thay đổi tư duy. Suốt một chiều dài lịch sử, quan niệm “trọng nông khinh thương” đã hằn vết lâu dài trong tâm trí người Việt. Ai là người trước nhất đã thoát ra ngoài tư duy cũ kỹ ấy? Khi đặt vấn đề, tôi không nghĩ đến một cuộc tranh luận. Ở đây với kiến văn hạn hẹp, cho phép tôi được dừng lại với nhân vật Trần Khánh Dư. Sau chiến thắng, đánh dẹp xong giặc Nguyên - Mông, Trần Khánh Dư vẫn giữ chốt ở Vân Đồn. Vùng đất này, xưa nay người dân https://thuviensach.vn vẫn sinh sống bằng nghề buôn bán trên biển. Khách buôn từ phương Bắc đến giao thương nhiều nên dân quân đều mặc quần áo, đồ dùng rập theo cách của họ. Khi duyệt quân ở các trang hộ, Trần Khánh Dư thấy vậy liền ra lệnh: “Quân trấn giữ Vân Đồn là để ngăn phòng giặc phương Bắc tràn sang. Quân ta không nên đội nón của người phương Bắc, vì sợ khi có sự vội vàng khó lòng phân biệt, vậy phải đội nón Ma Lôi, ai làm trái tất phải phạt”. Xin nói rõ, gọi nón Ma Lôi vì Ma Lôi là tên làng ở Hồng Lộ. Người ở đây có tài khéo đan nón bằng trúc thanh bì nên lấy tên làng để gọi tên nón. Trước đó, ông đã sai người nhà mua nón Ma Lôi chứa đầy thuyền, đậu ở cửa sông. Sau khi hạ lệnh, ông sai thuộc hạ lẻn đi mách cho dân ở trang hộ biết nơi có thuyền bán nón. Thiên hạ tranh nhau mua. Ban đầu giá chưa tới một tiền, sau bán giá cao hơn, mỗi cái nón trị giá bằng một tấm vải. Nhờ vậy, Trần Khánh Dư thu về được hàng ngàn tấm vải! Theo quan niệm truyền thống ngày trước, thứ tự trong xã hội được xếp “sĩ, nông, công, thương”, nghề buôn bán xếp sau cùng nhưng qua vụ bán nón Ma Lôi, Trần Khánh Dư đã đi trước thời đại. Chuyện này, đáng lưu ý ở chỗ Trần Khánh Dư “sai thuộc hạ lẻn đi mách cho dân”. Cách “rỉ tai” ấy, bây giờ vẫn chưa lạc hậu trong kinh doanh. Chưa hết, trước đó, khi sa cơ thất chí, ông đã dũng cảm chọn nghề kiếm sống mà thiên hạ cho hèn mọn: bán than. Chỉ có người hèn, chứ chẳng có nghề nào hèn. Bài học của cha ông ta từ hàng ngàn năm trước vẫn sáng ngời. Cần giữ lại và phát huy những gì đã có trong tư duy của cha ông? Một câu hỏi không chỉ dành cho những người trẻ đang khởi nghiệp, có đúng vậy không? https://thuviensach.vn MỘT NGÀY RẤT ĐẸP (Tặng Tẹo, em út) Thế nào là một ngày đẹp khiến lòng vui tươi như đứa trẻ lên mười? Mỗi người có một cách lựa chọn. Một buổi sáng đẹp, với tôi, lúc thức dậy, từ trên nhà bước xuống đã thấy cửa mở, có tiếng quét sân, có tiếng bơm nước... Nghĩa là mẹ tôi còn khỏe, bà cụ đã làm mọi việc hằng ngày. Điều này khiến tôi yên tâm. Lo lắng nhất vẫn là lúc mỗi sáng thức dậy, bà cụ vẫn còn nằm trên giường. Như thế, chỉ có thể là ốm đau. Hình dung gương mặt người mẹ, có lẽ ít ai nhớ lúc mẹ mình cười. Từ hàng ngàn năm nay, người phụ nữ ngay từ lúc sinh ra, không sống cho mình mà sống cho người khác, ngay từ lúc thò lò mũi xanh đã phải biết chăm sóc em, bếp núc đỡ đần cho mẹ phần nào. Ngày vui nhất, ngày lên xe hoa về nhà chồng lẽ ra phải rạng rỡ, reo vui, nhưng không, nhìn kỹ, dù miệng đang cười nhưng từ sâu thẳm của ánh mắt kia đã gợn lên sự âu lo, thắc thỏm. Dù theo chồng, nhưng trong lòng vẫn còn nghĩ đến trách nhiệm làm chị, làm em, làm con. Nhà văn Thạch Lam viết không nhiều, nhưng truyện ngắn của ông, mỗi lần đọc lại nhiều người rưng rưng bởi hình ảnh người mẹ đã trở thành biểu tượng của sự nhẫn nại, chịu thương chịu khó vô bờ bến. “Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà. Đó là những ngày sung sướng” (Nhà mẹ Lê). Nỗi sung sướng ấy giản dị mà cao thượng quá. Với người mẹ, con cái là tất cả, là niềm hy vọng, niềm vui lớn nhất. Nếu người chồng léng https://thuviensach.vn phéng với ai khác, năm thê bảy thiếp, họ có thể “dứt áo” ngay, nhưng với con, dù có hư hèn bao nhiêu, vẫn là con của mẹ. Dù con lớn khôn, vợ con đùm đề, có là “ông này bà nọ” ngoài xã hội đi nữa nhưng trong mắt người mẹ, con vẫn chỉ là đứa trẻ bé bỏng, khờ khạo cần phải “ghé mắt” đến. Khi đớn đau, tuyệt vọng nhất trong đời, ai lại không buột miệng gọi “mẹ ơi” bởi tin rằng, lúc ấy chỉ có mẹ mới có thể sẵn sàng hy sinh vì mình. Vâng, vì lẽ đó, tôi rất thích câu: “Thượng đế không có mặt ở khắp mọi nơi nên Ngài đã sinh ra các bà mẹ”. Đọc lại những câu thơ đã viết, tự dưng cảm động đến nao lòng: “Đêm mẹ nằm co - ta nhớ cái cò gầy/ Lặn lội bờ sông, đầu ghềnh, cuối bãi/ Đêm mẹ nằm nghiêng - ta nhớ dòng suối chảy/ Lặng lẽ trôi qua giữa náo động ồn ào.../ Bất chợt ta nhìn hai hố mắt mẹ sâu/ Đã thấy sự lo toan, buồn phiền, mệt mỏi/ Mẹ chỉ âm thầm và suốt đời lặng lẽ/ Gương mặt đăm chiêu ngay lúc thảnh thơi nằm”. Một buổi sáng đẹp, với tôi, lúc thức dậy, đã thấy mẹ đi chợ về. Mỗi ngày, mẹ tôi vẫn còn khỏe, minh mẫn. Vẫn đi chợ. Chợ nhỏ nhưng bày bán không thiếu một thứ gì. Có những bài thơ được viết do đã có nhiều lần quan sát mẹ đã mua những gì. Thật lạ, người đàn bà từ bé cho đến lúc gần đất xa trời vẫn không rời xa cái chợ. Ra chợ chỉ vì chồng, vì con, vì tấm lòng thương yêu vô bờ bến: Mẹ đã đi chợ về Hồng tươi con cá quẫy Như câu thơ ngũ ngôn Nhịp nhàng và mềm mại Kìa bài thơ thất ngôn Là chùm đào trĩu trái Tôi cầm đưa môi hôn Nhớ quê nhà xa ngái Kìa thơ tình cỏ dại Là những bó rau xanh Nằm trên bàn tay mẹ Lem luốc bụi thị thành Kìa vần thơ lục bát https://thuviensach.vn Là những ký gạo ngon Hạt ngọc từ xứ Quảng Phiêu lạc đến Sài Gòn Kìa bài thơ tứ tuyệt Là nước mắm đậm đà Từng giọt thơm điếc mũi Sực nhớ lắm quê nhà Mỗi ngày mẹ đi chợ Đem về vô số thơ Qua bàn tay nội trợ Cưu mang con từng giờ Từng ngày trôi mải miết Sống trọn vẹn với thơ Nhưng thơ con bất lực Dù nuôi mẹ trong mơ Trăm năm như chớp mắt Mẹ đã đi chợ về. Sống chung với mẹ nhiều năm, tôi nhận ra rằng, dù ở bất kỳ nơi nào, trong ẩm thực của người đàn bà Quảng Nam không bao giờ bỏ được thói quen uống chè tươi. Mỗi sáng nấu một nồi, nước sôi sùng sục, để dành uống dần trong ngày. Trong nhà, thiếu gì cũng được nhưng không thể thiếu cái bánh tráng nướng. Dù răng không còn, nhưng thỉnh thoảng bà cụ lại nướng cái bánh tráng trên bếp gas, nhai cho đỡ thèm. Cái bánh tráng ấy ăn nhiều chiều mới hết. Thật ra không riêng gì Quảng Nam, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên... cũng đều ưa thích cái bánh tráng. Trong nhà, thiếu gì cũng được nhưng không thể thiếu nước mắm Nam Ô từ ngoài quê gửi vào. Phải nước mắm không pha chế, chỉ cần dằm trái ớt xanh là ngon tuyệt. Nước mắm ngon, mắm nhỉ thường sánh, màu trong. Chạm vào lưỡi đã thấy vị mặn đậm. Mùi thơm khiến trong lòng nghe cả nhịp sóng vỗ và cá quẫy đuôi lấp lóe dưới nắng mặt trời... Thật lạ, tôi luôn tưởng tượng ra rằng, ngày còn nhỏ, lúc ông ngoại đi làm, bao giờ mẹ tôi cũng là người theo ra cổng và nói: “Trưa/ chiều về ba https://thuviensach.vn nhớ mua quà về cho con”. Thì bây giờ, tình cảm trìu mến ấy lại dành hết cho con. Mỗi sáng, tôi đi làm, bao giờ mẹ tôi cũng là người khóa cổng. Dù đang lục đục sau bếp, nhưng nghe tiếng dắt xe, bà cụ đã lật đật bước ra, chờ con ra khỏi nhà là khóa cổng. Không nói gì, chỉ nhìn vào ánh mắt, biết rằng mẹ tôi đang nhủ thầm: “Trưa/ chiều về nhà ăn cơm nghe con”. Lúc mẹ còn thơ ấu, ông ngoại ngồi ăn cơm, chỉ một mâm, một cõi riêng. Cưng lắm mới cho ngồi chung. Bằng không, chẳng bao giờ dám léng phéng lại gần. Ăn xong, không cần gọi, con cái đứng lấp ló phía sau liền lên dọn. Bây giờ, tôi cũng không khác gì. Trở về đến nhà đã cơm nước đầy đủ, ngồi ăn một mình. Xong, mẹ lại dọn. Thì ra, với người đàn bà Á Đông: “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Thuở nhỏ, cha là ông trời. Về già, con là ông trời. Ông trời này, không bao giờ mất vai trò vị trí, uy quyền cho dù có hư đốn, đổ đốn đến đâu. Có những người con ở xa về, sau những lúc hàn huyên, người mẹ lại hỏi: “Con thích ăn gì, mẹ nấu”. Trong tâm trí của người mẹ nào cũng lo lắng miếng ăn giấc ngủ cho con, dù rằng sự lo lắng ấy không cần thiết. Thế nhưng, như một sự gắn kết thiêng liêng, tự trong lòng người mẹ vẫn đau đáu nghĩ đến. Đã đọc đâu đó câu chuyện thật cảm động: Đêm nọ cậu con trai đi nhậu về say “quắc cần câu”, người ngợm ướt như chuột lột vì phải đội mưa, về đến nhà bỗng thèm một bát chè, bảo vợ đi nấu. Vợ bực mình, mắng cho vài câu. Ngay lúc ấy, ở phòng bên bà mẹ già vẫn chưa ngủ, bà cụ lẳng lặng dậy, lục tìm đường đậu, nhóm lửa. Lúc ấy, bà mẹ chỉ nghĩ đến con, miễn nó hài lòng, sung sướng là vui. Thế nào là một đêm khuya đẹp khiến lòng vui tươi như đứa trẻ lên mười? Mỗi người có một cách lựa chọn. Có thể, lúc ấy đã khuya khoắt, chuông đồng hồ gõ gọn lỏn một tiếng, vừa bước vào nhà đã nghe tiếng vợ tru tréo: “Gớm thật! Giỏi thật! Sao không giỏi đi luôn mà còn vác cái mặt say xỉn tèm nhem vào cái nhà này?”, nghe thế bèn im lặng. Im lặng mà được à? Lập tức một cái ly ném vèo qua mặt, may quá, còn né được, có tiếng kêu loảng xoảng dưới nền nhà. https://thuviensach.vn Có người bước vào nhà, ngã bịch luôn xuống sàn nhà, vợ hoảng quá bèn lấy khăn nóng ra ướp mặt cho mau tỉnh, dù biết là vợ nhưng vẫn xua tay như đuổi tà, đã thế còn hét toáng: “Cô là ai? Cô đừng có tưởng cô đẹp, cô trẻ, cô duyên dáng, cô đoan trang, cô thùy mị, cô giỏi giang mà quyến rũ, mà dụ dỗ tôi nhá. Hãy buông ra để tôi về nhà. Tôi có vợ rồi!”. Bốn tiếng “Tôi có vợ rồi” cứ gào lên một cách thảm thiết, hoành tráng như trong đời chỉ biết duy nhất là “cơm”. Vợ cảm động quá, sáng hôm sau dậy sớm, lo chu đáo thức ăn cho chồng mà không một lời oán trách về vụ nhậu quắc cần câu đêm qua, nôn ọe đầy nhà. Còn với tôi, một khuya đẹp trời là lúc mở cửa rón rén vào nhà. Đã quen hơi người, con chó mực không sủa, chỉ quẫy đuôi mừng rỡ. Chân bước rất khẽ, thế mà vẫn nghe một giọng ngái ngủ vang lên trong tĩnh mịch: “Q về đó hả con?”, chỉ trả lời một tiếng: “Dạ”. Không gian lại im ắng lạ thường. Đâu đó đã có tiếng gà gáy. Đêm vẫn tối đen. Bình yên. Một ngày rất đẹp. https://thuviensach.vn MẸ THÀNH MÂY TRẮNG ĐÃ LÂU “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Tâm lý của phụ nữ Á Đông, một trong những lý do kết hôn là vậy. Tưởng là thế, nhưng rồi con cái lớn lên lại chạy rượt theo bóng hình xa lạ nào đó. Có thể khiến nó mất ăn mất ngủ, “chết đi được”, trong khi đó, người mẹ bên cạnh có bao giờ nó quan tâm đến mức đó đâu. Rồi lúc nó có vợ có chồng có con có cái, mối quan tâm về cha về mẹ thế nào? Những ngày này, tôi đang ở với mẹ. Sẽ quan tâm, lo lắng nhiều đến bà cụ chăng? Không hề. Mỗi một ngày, mẹ vẫn lo toan cho bữa cơm trưa, chắt chiu từng cọng rau, củ hành, con cá, miếng cơm dẻo bùi... Nhưng rồi có những lúc, đũa bát trên mâm lạnh tanh. Trưa ấy, không về nhà. Mải mê theo nhưng cuộc vui vớ vẩn sa đà chân dài váy ngắn. Mẹ nấu cơm mỗi ngày là mừng. Mừng bởi biết mẹ còn khỏe, còn tỉnh táo, còn có thể đi đứng quán xuyến cửa nhà. Ngày tháng này còn kéo dài bao lâu nữa? Khó có thể đoán biết. Nhưng chắc chắn ngày ấy sẽ đến. Sống với mẹ già, tưởng rằng con nuôi mẹ nhưng thật ra không phải. Mẹ vẫn tiếp tục nuôi con. Sự tồn tại của mẹ già trong ngôi nhà, tự hình ảnh đó, đã gợi lên một sức sống để người con tự ý thức phải sống thế nào cho có trách nhiệm hơn. Vừa rồi đọc trên Facebook của anh bạn nhà văn Ngọc trong đá, Vĩnh biệt mùa hè: Mẹ thành mây trắng đã lâu Con về thăm mẹ, ngồi đâu cũng buồn Về ngồi lại trong căn nhà mẹ đã ở, lập tức bao nhiêu kỷ niệm buồn vui, hình bóng, dáng đi, giọng nói của mẹ ùa về như thác lũ. Ngập ngừng chân bước. Lẻ loi. Cô độc. Lúc ấy, con người ta mới thật sự cảm thấybơ vơ biết chừng nào. Viết những dòng này, khi hay tin mẹ của những đứa em dòng họ Lương - con cậu ruột vừa qua đời đêm qua tại Quảng Ngãi. Chắc https://thuviensach.vn chắn rằng mọi tin nhắn, mọi ngôn từ chia sẻ gì trong lúc này cũng nhẹ hều. Đành thôi. Im lặng. Và lặng lẽ chia buồn. Khi mất mẹ, nỗi buồn ấy có gì sánh bằng? Nhớ đến người đã mất - bà mợ Nguyễn Thị Lý (1933 - 2015), người Huế. Thời nhóc tì, mỗi dịp hè, đều được ba mẹ dẫn vào thăm cậu mợ. Ngôi nhà này ở ngay trong Nhà máy đèn Quảng Ngãi. Nhớ nhất mỗi sáng thức dậy, cả nhà ngồi quanh chiếc bàn tròn dưới tàng cây trứng cá. Ăn bánh tráng nướng, đã nhúng nước và chấm với xì dầu có những mảnh ớt xanh cay lè. Món ăn của tuổi thơ luôn ghi đậm trong ký ức đời người. Khó quên. Quảng Ngãi, nơi ấy, hầu như không có một nỗi nhớ nhung vời vợi nào, vì thuở ấy còn quá nhỏ để nhớ, để ghi nhận trong tiềm thức. Thật khó có thể tưởng tượng một đứa trẻ vô gia cư, mồ côi, lớn lên không hề có bóng dáng của ông bà, các cô, dì, cậu, mợ thì đời sống tình cảm sẽ thế nào? Đó cũng là một nỗi bất hạnh. Không rõ, những đứa trẻ hôm nay, nếu đọc Chim hót trong lồng của nhà văn Nhật Tiến sẽ có cảm tưởng gì? Trong trí nhớ của nhiều người vẫn còn nhớ đến nhân vật bé Hạnh. Một đứa trẻ ở cô nhi viện, niềm vui lớn nhất mỗi tuần, vào ngày Chủ nhật được mẹ đến thăm. Cô bé Hạnh viết thư cho mẹ: “Chủ Nhật ở đây hiu quạnh và buồn lắm. Ngoài vườn thì chỉ có sỏi trắng với lá vàng. Trên hành lang tất cả các dãy thì có những miếng đá hoa trắng, lạnh. Còn trong phòng lại càng chán. Giường nào của chúng nó cũng xếp gọn gàng. Đứa nào cũng háo hức được đi. Thế mà má lại bắt một mình con ở lại. Sao thế má? Sao thế má? Con van má, con lạy má, cho con được ra với má một tuần một lần. Con không đòi ngủ với má nữa, con sẽ về trường vào tối Chủ nhật. Má bảo gì con cũng nghe, nhưng má phải cho con đi chơi với má, hay nằm với má buổi trưa, để được ôm lấy cổ má, được gãi lưng cho má, con thích thế, và chỉ cầu mong được như thế. Má có nghe con không, má có bằng lòng không, má có biết con khổ thế nào không, nếu con đợi mà không thấy má. Con sắp sửa khóc cho má xem đây này. Cứ nghĩ đến cái hôm phải đứng một mình ở sân sỏi, đỏ mắt lên chờ má, nhìn ai cũng không phải là má, trông ai cũng muốn người ấy là má, mà cuối cùng phải lủi thủi một mình https://thuviensach.vn ngồi ở ghế đá, con lại muốn phát khóc. Như thế thì má biết con gái má mong má như thế nào”. Càng lớn lên, càng hiểu thêm một điều giản dị, bất kỳ ai, dù còn bé hay đã lớn cũng có ước mơ đó. Khi đi xa, ngày trở về nhà, trong đầu mỗi người luôn nghĩ đến người đầu tiên gặp ngay cánh cửa vẫn là mẹ. Mẹ thành mây trắng đã lâu Con về thăm mẹ, ngồi đâu cũng buồn Nghĩ đến ngày đó, tự dưng ứa nước mắt. Văn hóa của người Việt có tiếp thu và chọn lọc những tinh hoa của nhân loại. Đó là lẽ hiển nhiên trong sự giao thoa của các giá trị văn hóa. Dù đứng ở góc độ nào, ta thấy chữ hiếu đã nhập vào tâm thức người Việt như một lẽ sống vĩnh hằng. Kinh Phật có dạy: “Điều thiện tối cao không gì hơn hiếu, điều ác cùng cực không gì hơn bất hiếu” (Kinh Nhẫn Nhục), “Gặp thời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật” (Kinh Đại Tập)... Sống trên đời dễ hay khó? Khó, rất khó. Dứt khoát là khó. Khó nhất vì thừa biết có lúc chính mình phải vĩnh viễn chia tay, không bao giờ gặp lại nữa, dù đó là mẹ của mình. Nhưng phải chấp nhận. Chấp nhận một sự thật, một vết cắt vô hình nhói buốt theo năm tháng. Nhà văn Võ Hồng có viết truyện ngắn Trận đòn hòa giải. Ba chị em mất mẹ ở với ba. Ba cưng chiều yêu thương lắm. Chị em có lúc hờn giận, giận dỗi nhau rất trẻ con, người cha mệt cả đầu. Rồi mọi việc sau đó thay đổi hẳn. Vì nguyên cớ gì? Người cha cho các con xem tấm ảnh cũ, ngày ba chị em chụp chung lúc mất mẹ: “Trong ảnh, ba đứng một bên mộ, ông đứng một bên. Hào đứng cạnh ông, tôi đứng cạnh ba. Thủy nhỏ quá, ba phải bế đứng lên thành mộ, gần bên ba. Ba chị em đều mặc áo tang. Màu trắng của áo quần tang nổi lên nền đen của ngọn núi đàng sau. Mặc áo tang vào, trông đứa nào cũng lụng thụng, thật đáng thương hại. Nhất là khi quen mắt với quần áo mặc hàng ngày là kỹ, thẳng nếp. Ðã thế, mặt đứa nào cũng đờ ra. Hào đứng thẫn thờ buông xuôi hai tay như người chán đời. Thủy cúi nghiêng mặt để tránh nắng chói. Còn tôi thì tóc bay phờ phạc trước trán như một đứa trẻ ốm dậy. Thấm thoát mà thời gian qua mau làm sao. Tưởng chừng má mới mất khoảng mấy tháng nay thôi, sự đau xót còn thấm thía như một https://thuviensach.vn vết thương chưa lành kịp. Ấy thế mà bốn năm đã trôi qua. Nhìn lại bức ảnh mới thấy ba chị em bé bỏng đến tội nghiệp, đến buồn cười. Giá mà nhìn thấy ảnh này, chắc má ôm chầm lấy ba chị em mà òa ra khóc”. Mẹ thành mây trắng đã lâu Con về thăm mẹ, ngồi đâu cũng buồn Nghĩ đến đó, đọc đến đó, lòng đã rười rượi buồn như chạm đến một cơn gió mới vừa đi qua đìu hiu vọng lại tiếng lòng cô quạnh. Thờ Phật, thờ Thượng đế nào phải tìm kiếm đâu cho xa xôi - hiện thân của đức tin vĩnh hằng đó là đấng sinh thành của mình. Ngó lên nuộc lạt mái nhà, Bao nhiêu nuộc lạt, em thương mẹ già bấy nhiêu Không riêng gì tôi, nhiều người vẫn thầm nghĩ về một điều thiêng liêng sâu kín tận đáy lòng: Nếu có kiếp sau, kiếp sau nữa vẫn là con của mẹ, chẳng có gì phải sợ hãi khi phải tái sinh một lần nữa... Những ngày này, tôi vẫn còn có mẹ. (15.5.2015) https://thuviensach.vn RÉT TỰ TRONG LÒNG “Sài Gòn mùa xuân còn thoáng lá vàng bay? Có mùa thu nào đang ở lại...” (Trịnh Công Sơn). Vào những chiều cuối năm khi lá vàng nô giỡn trên mặt đường, gió rét lùa trong tóc, bỗng nhiên tôi lại có một niềm vui nho nhỏ: “Sắp Tết rồi”. Lạ chưa, khi ấy trong gió rét chập chờn vẫn còn sót lại những nắng vàng tơ lụa. Nắng mơn trớn. Vỗ về. Và thiên hạ tung tăng xuống phố. Khác mọi ngày, họ choàng thêm trên vai chiếc áo ấm, dù mỏng. Mỏng, dày không quan trọng vì chỉ cốt để làm duyên. Sài Gòn quanh năm nắng ấm, nắng chói chang, nếu không, làm gì có dịp chưng diện? Nhờ vậy, Sài Gòn lãng mạn, đa dạng hơn, có nhiều sắc màu chuyển động trên mặt đường của một thành phố công nghiệp. Thật lạ lùng, khi thời tiết Sài Gòn lãng đãng một chút gió, một chút rét để tạo ra không gian phiêu bồng như nhịp Đường thi, y như rằng, nơi nào đó trên dải đất hình chữ S này đang phải gánh chịu một tiết trời khắc nghiệt. Ở ngoài Trung đã ngập lụt, bão bùng giông gió, Sài Gòn chỉ lơ phơ lất phất vài giọt mưa như giọt lệ nũng nịu của thiếu nữ mới chớm dậy thì. Lúc Hà Nội rét đến độ “bà già chết cóng”, Sài Gòn cũng rét nhưng chỉ khiến ta vụt nhớ đến câu thơ tình tứ của Hồ Dzếnh: “Trời không nắng cũng không mưa/ Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung”. Gợi nhớ đến không gian tơ lụa của Hà Nội vào thu. Run rẩy lá biếc. Hắt hiu nắng nhạt. Tê tái bóng chiều. Từ nhiều năm qua, những ngày cuối năm, người Sài Gòn hào hứng chờ đón cái rét thơ mộng ấy. Nhưng rồi, có những sáng thức dậy, tôi bần thần khi chạm vào da thịt là cái lạnh đến ngỡ ngàng. Không mơn man, không ve vuốt mà như cắt da cắt thịt. Mới vừa thời tiết oi bức. Máy lạnh mở hết công suất. Vẫn nóng. https://thuviensach.vn Nắng hanh khô tưởng chừng như vạt nắng ấy, nếu cầm trên tay, sẽ có thể bóp vụn. Rồi đột nhiên, trời đổ mưa. Thác lũ từ trời cao trút xuống. Mưa trắng trời. Những con đường vẫn nghìn nghịt người và xe. Đường phố hóa thành sông lênh láng nước. Tội nghiệp cho người nghèo - những người lao động chân tay, kiếm sống tất tả trong cái lạnh. Tôi đã thấy ở ngả đường Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Quý Đôn... vẫn những người công nhân đêm đêm quét rác. Chậm rãi. Nhẫn nại. Vẫn chiếc áo mỏng quen thuộc mỗi ngày. Trên góc đường Trương Định, ông cụ cụt hai chân bán vé số, từ nhiều năm nay ngồi trên xe lăn, nay co ro trùm thêm cái áo mưa như chống lại cái lạnh đang vồ vập tới, che gió lạnh được phần nào hay phần đó. Cuộc mưu sinh đã trở nên khó khăn hơn. Rồi những người lâu nay chỗ ngả lưng hằng đêm trong góc chợ, mái hiên đường phố sẽ chống chọi với lạnh ra sao? Sự đời cũng trái khoáy, bất hạnh của người này đôi khi lại tạo ra niềm vui kẻ khác. Mới đây thôi, khi Sa Pa tuyết trắng xóa như ở châu Âu, lập tức thiên hạ đổ xô lên đó nhìn, ngắm, chụp ảnh, tận hưởng cái lạnh “ngàn năm có một” vừa hả hê, vừa sung sướng. Một cậu nhóc viết thư gửi mẹ: “Họ trong những trang phục không thể ấm hơn, cười nói rôm rả, hạnh phúc bất tận khi chứng kiến những bông tuyết vô tình đang phủ trắng lên căn nhà của mẹ; họ chụp ảnh và họ thỏa mãn. Nhưng chừng ấy là chưa đủ đâu mẹ ạ, họ muốn nhiều hơn thế, thậm chí họ muốn tuyết phủ quanh năm trên chuồng bò của mẹ cơ; họ muốn biến ngôi làng của mẹ thành “thiên đường tuyết”, thành nơi mà họ có thể thoải mái đi đến - xem - cười và chụp ảnh”. Đọc mà buốt. Với cái lạnh thấu xương đó, người dân nghèo sợ chết khiếp, bởi thời tiết khắc nghiệt đã cướp đi trâu, bò vốn là tài sản quý giá nhất. Thế nhưng sự đón nhận lại tréo ngoe, cách biệt, vẫn còn có người thầm mong trời lạnh hơn nữa, dài ngày hơn nữa để có thể chưng diện thêm nhiều bộ áo ấm lộng lẫy. Vui mừng đón nhận sự thay đổi đột ngột của thời tiết, chẳng có gì đáng trách. Chỉ tự hỏi lòng mình. Mỗi ngày đi trên đường phố, tự nhiên buồn https://thuviensach.vn buồn. Đêm đêm tiếng rao hột vịt lộn, mì gõ... vốn quen thuộc lâu nay đã nghe thấy khác. Giọng rao nhỏ hơn, hiu hắt hơn, run rẩy hơn trong gió lạnh. Sực nhớ, mùa đông năm 1056, rét lắm, vua Lý Thánh Tôn bảo cận thần: “Trẫm ở thâm cung, đốt than, mặc hồ cừu mà còn rét khổ đến thế này, nghĩ đến tù nhân ở trong ngục thất, bị gió rét thế nào. Vậy phải nên cung cấp cho họ đủ chăn chiếu và đồ ăn uống”. Lòng nhân ấy, không xa lạ với cốt cách của người Việt. Kể cũng lạ, khi đứng trước một “tai ương” chung, dường như con người ta lại tỏ ra thân thiện hơn trước. Bằng chứng, dọc đường đi đã có người tắt máy xe, phải hì hục đẩy bộ, đâu đó có tiếng kêu lớn: “Đẩy xe vào đây”. Mừng húm, đẩy xe vào mái hiên, nơi có nhiều người đang trú mưa. Lập tức người thợ già thao tác nhanh, “có nghề” đã chỉnh sửa cho tiếng máy lại nổ vang giòn. “Bao nhiêu tiền vậy chú?”. Câu hỏi ngần ngừ. Cảnh giác. Mưa vẫn như trút. Bỗng nghe tiếng cười, có những giọt nước mưa lăn qua giọng nói vui vẻ: “Sá gì ba chuyện lẻ tẻ. Cứ đi đi. Hôm nào có sửa gì đi ngang qua đây trả cũng được”. Mà đâu phải riêng tôi, lại còn những xe khác đang tắt máy nữa. Tự nhiên thấy ấm lòng. Trở về nhà và ướt nhem. Nhìn lên trần nhà, đã thấy những giọt nước mưa tong tả. Chà, ướt hết sách rồi còn gì? Không một chút chần chừ, lại đánh vật với đống sách đang ướt. Những quyển sách cầm trên tay, thấy thân mật. Lâu nay, có những quyển sách mua về, bạn bè tặng do chưa có thời gian đọc nên chất đầy một góc nhà. Nay lật ra từng trang, từng trang nhìn thấy nét mực bạn ghi tặng đã nhòe nước mưa. Xốn xang lạ lùng. Những trang sách ấy dù mỏng, dù dày nhưng đã ngốn hết biết bao thời gian của một người ngồi gõ từng mẫu tự trên bàn phím. Nhìn trang sách, tưởng tượng đến bước chân lẻ loi của người đi qua sa mạc. Đi từng bước. Đi từng ngày. Và khi khép lại trang viết cuối cùng là đã về đến đích. Mỗi nhà văn đều gửi gắm một nỗi niềm sâu kín nào đó. Nhưng rồi, đã có tri âm nào chia sẻ? Hay cuối cùng chỉ là những con chữ lãng quên theo năm tháng? Dù có thế đi nữa, nhưng nhà văn, người cầm bút cũng phải viết như một lẽ thôi thúc tự nhiên từ đáy lòng. Cũng như mưa, tự nó đến mùa lại hội ngộ cùng cõi nhân sinh. Chẳng cần phải có sự nhắc nhở nào. Ngoài trời https://thuviensach.vn vẫn đang mưa. Âm thanh ấy vọng lên một điều gì? Tùy tâm trạng của từng người. “Mưa không cần phiên dịch” - câu thơ của Phùng Quán nghe ra “triết lý” ghê gớm. Mà lại đúng. Xếp cẩn thận lại từng chồng sách, mở quạt hong khô từng trang, cảm thấy hài lòng, bởi ít ra đã không phụ lòng người viết từng trang sách ấy. Trong giấc ngủ, vẫn còn nghe tiếng mưa vọng về. Vẫn còn nghe từ Hà Nội, người bạn gái thì thầm: “Anh à, rét buốt xương, em đang thèm một chút nắng”. Bèn hỏi: “Sao không là môi hôn nồng nàn như lửa ấm?”. Nàng khúc khích cười: “Rét xuống vài độ âm, chứ chẳng đùa đâu. Rét như kim châm vào da thịt. Tê buốt. Môi tím tái. Học trò phải nghỉ học và không ít người nhập viện. Ra phố, em phải áo len, áo nỉ, áo ấm, găng tay... cứ như nhân vật trong tiểu thuyết kiếm hiệp đi trong vùng băng tuyết. Anh thấy ghê chưa?”. Trời đất ơi! Với cái rét này, đành xin chào thua, không thể gửi những vần thơ cho nàng sưởi ấm. Làm sao có thể gửi chút nắng từ phương Nam? Nghe thế, nàng cười: “Anh à, đã có lòng nghĩ về nhau, em đã thấy ấm áp lên một chút”. https://thuviensach.vn ĐI LÀ SỐNG MỘT ĐỜI SỐNG KHÁC Lạc thú ở trên đời, có nhiều thứ cho ta được lựa chọn. Đọc sách cũng là một, với tôi đó là khoảng thời gian “du lịch tại gia”, ít tốn kém mà không kém phần hào hứng thú vị, bởi sự lịch lãm, từng trải, kiến thức của người viết khiến ta phải “ngất ngây con gà tây”! Nhưng cho tôi hỏi, nếu bạn nhìn người ta ăn con gà tây rồi kể lại cái ngon lành ấy, bạn có... nuốt nước bọt cái ực xuống cổ họng một cách khoái trá không? Chưa chắc. Nếu cho bạn ăn trực tiếp, tôi tin rằng, bạn sẽ thấy sướng miệng, “đã mắt” hơn và có thể dễ dàng miêu tả lại cảm giác ấy. Du lịch cũng vậy thôi. Thế thì, tự mình sắp xếp mọi vật dụng cần thiết, đặt cái ba lô ấy lên vai và sải chân bước đi, tôi tin rằng bạn sẽ hào hứng hơn gấp bội phần. Trước hết lúc đi, hãy thử lẩn thẩn như cụ Vương Hồng Sển khi săm soi một cổ vật, chẳng hạn với cái bình vừa được vớt lên tại cửa biển Hội An, ta hỏi: Người ta chế tạo ra nó với công dụng gì? Từ đời nào? Nước nào sản xuất? Loại bình cổ này có tương đồng với loại bình khác? Tại sao? Tương tự, với những câu hỏi đặt ra trước lúc viễn du, ta thấy thấy chuyến đi của mình sẽ có ý nghĩa hơn. Nghe vầy, ắt bạn đọc nheo mắt cười mà rằng: “Tôi du lịch là mua sắm cho thỏa chí đam mê “hàng hiệu”, chứ không vì gì khác”. Điều này không sai. Lại có ý kiến: “Tôi du lịch đặng mở mang tầm mắt, xem người đã làm được gì, đã văn minh, tiến bộ hơn ta thế nào?”. Cũng đúng luôn. Thế thì, khi du lịch mỗi người có những mục đích riêng. Với tôi, đến một vùng đất mới phải cố gắng tận hưởng cho được ba thứ: tham quan danh lam thắng https://thuviensach.vn cảnh, di tích văn hóa; ăn những món ăn đặc trưng và cuối cùng (nói thật nhá, đừng cười) là... yêu một người nơi đó. Du lịch lúc người ta còn trẻ, tôi nghĩ nên tập cho mình một thói quen: quan sát và ghi chép. Nếu đi chỉ mà đi, nhìn chỉ mà nhìn thì các hình ảnh ấy sẽ lướt qua rất nhanh. Và quên. Tập bút ký Du lịch của người câm, tôi đã viết sau chuyến đi công tác tại Hà Lan, sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có phần trong đó, tôi đã phát hiện ra cái sự “tầm thường” bởi ai cũng nghĩ tầm thường! Đó là một văn bản tiếng Việt khi tham quan quần thể du lịch Zaanse Schans ở Amsterdam. Trời, ở một nơi hiếm có thể “bói” đâu ra người Việt mà tìm thấy được tiếng Việt thì lòng ta sẽ tự hào và sung sướng như trẻ thơ gặp Tết. Tôi nghĩ đó cũng là “hàng độc” bên cạnh những đặc sản tiêu biểu của Hà Lan. Họ viết như sau: “Chào mừng quý khách đến quạt gió làm bằng màu sơn “De Kat”. Sự tham quan quạt gió hoàn toàn chịu trách nhiệm khi tai nạn xảy ra. Ông bà giúp đỡ chúng tôi trong quạt gió này không hút thuốc, không bước qua những nơi đã chặn lại, hoặc kéo cờ - tông...”. Đến thế kỷ XXI, mà tiếng Việt còn sử dụng ngô nghê đến vậy, tôi không chua xót cũng không buồn cười, vì ít ra tiếng Việt yêu dấu cũng đã đến được xứ sở của những danh tài như Van Gogh; của những đặc trưng văn hóa như hoa tulip, guốc gỗ, cối xay gió... Khi đến nước Mỹ, trở về, tôi viết Một ngày ở Mỹ cũng là cách để trình bày những gì mình đã quan sát và ghi chép. Điều khiến tôi kinh ngạc mà đến nay vẫn chưa ai lý giải giúp tôi cái sự thắc mắc rất trẻ con này: Tại sao trong các khu vui chơi, đường phố của họ lại sạch đến thế. Họ quét rác lúc nào vậy? Tại sao trong các khu vui chơi ấy, khi ăn xong, lúc đứng lên, họ lại tự giác dọn sạch sẽ bàn ăn của mình? Tại sao họ lại tự giác xếp hàng một cách bình thản và nhẫn nại đến thế? Đó là do văn hóa hay là nền tảng của giáo dục? Đi cũng có nghĩa là học. Học từ trong thực tế mà hai con mắt ta đã nhìn, đã quan sát và trí óc ta vừa nhận thức được. Nói thật, tôi rất khoái nhìn hình ảnh các Tây ba lô, những cô gái Nhật... lang thang trên đường phố Sài Gòn. Chỉ dăm ba người, với vật dụng cần thiết, họ có thể đi đến nước ta và vui sống như người bản xứ. Những https://thuviensach.vn ngóc ngách, phố xá, họ cũng lê la, tò mò, tìm hiểu... Nhìn hình ảnh đó, ta thấy họ rất đỗi tự tin. Tuổi trẻ Việt có được sự tự tin ấy khi “Ra khơi, thấy lòng phơi phới, thấy tình thế giới; thấy mộng ngày mai, thấy niềm tin mới” (Phạm Duy)? Du lịch theo đám đông cũng có cái thú riêng, nhưng nếu chỉ mỗi mình hoặc chỉ thêm vài “tri âm tri kỷ” tự thiết kế một chuyến đi, tôi nghĩ vẫn thú vị hơn. Bởi lúc ấy, ta đi theo mách bảo của sự hăm hở về điều mình muốn khám phá riêng chứ không phải “cỡi ngựa xem hoa” theo chương trình của đám đông “chín người mười ý”. Thời gian gần đây, tôi được đọc nhiều tập sách của những người viết trẻ kể lại những chuyến du lịch của họ. Tôi thật sự khoái những nam thanh nữ tú luôn ném thời gian còn lại sau những ngày làm việc tích cực và mệt nhọc vào những chuyến đi xa. Họ cúi xuống và thắt chặt dây giày; đứng dậy và ưỡn ngực “khoác ba lô lên và đi”, họ bảo: “Đi để thấy mình còn quá hạnh phúc trong cuộc đời này, đi để sống nhân ái hơn, đi để run rẩy chìa bàn tay ra với đồng đội, đi để qua những khoảnh khắc cận kề với cái sự sinh ly tử biệt mới thấy cuộc sống này đẹp đến nhường nào”. Còn tôi? Tôi nghĩ, đi là lúc ta sống với một đời sống khác - khác với đời sống đã mòn, đã cũ, đã thói quen trên ghế công chức mỗi ngày - điều đó khiến tâm hồn ta khoáng đạt hơn, được mở rộng tầm nhìn và tận hưởng lấy thế giới này. https://thuviensach.vn GIANG HỒ TA CHỈ GIANG HỒ VẶT Trong một tập tùy bút của Nguyễn Tuân, ông có lấy câu văn của nhà văn Paul Morand làm đề từ, đại khái: “Ước gì sau khi chết đi, người ta lấy da mình thuộc làm va li”. Để làm gì vậy? Để chiếc va li ấy tiếp tục được theo khách viễn du đến những chân trời mới. Với ý tưởng ấy, Nguyễn Tuân đã triển khai thêm một ý mới hẳn: “Cái va li đẹp nhất ở cuộc đời này vẫn là một cái va li chứa toàn bản thảo của những năm, những tháng đi làm việc thui thủi ở phương xa trở về”. Đó là quan niệm “đi để viết”. Phóng tầm mắt đến những chân mây cuối trời để đem về những câu văn tươi rói. Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu cho “lý thuyết” ấy. Lúc vợ mới sinh con trai đầu lòng được hai tháng, Nguyễn Tuân cùng bạn bè rủ nhau trốn đi Thái Lan, vừa chân ướt chân ráo đến Bangkok thì bị bắt và giải về Hà Nội. Được thả về, ông làm chân giữ kho ở Nhà máy đèn Thanh Hóa. “Một hôm chủ sở bắt gặp tôi đang đánh máy - đây không phải là công việc của tôi - nó hỏi tôi đánh máy cái gì, bạn bè chung quanh nói anh ấy đang làm thơ, thằng chủ sở tức mình, xách cả cái máy định ném vào đầu tôi, may mà tôi tránh được, thế là tôi bỏ việc”. Vợ ông kể lại: “Không được bao lâu, nhà tôi lại xách va ly ra đi. Tôi không hề ngăn cản nhà tôi trong những chuyến đi. Rất yêu quý và phục ông ấy, tôi không muốn làm phiền ông mặc dù xa ông, tôi buồn biết bao nhiêu”. Biết làm sao được, khi mà Nguyễn Tuân là người tôn thờ “chủ nghĩa” xê dịch và thèm đi “giữa buổi Tây Tàu nhố nhăng làm lạc mất cả quan niệm cũ, làm tiêu mất bao giá trị tinh thần” (Vang bóng một thời). Chính trong thời đi giang hồ, ông có gửi về cho vợ... bài thơ! Ấy là lúc ông theo đoàn làm phim của Nguyễn Doãn Vượng sang Hồng Kông đóng phim https://thuviensach.vn Cánh đồng ma. Bài thơ viết vào dịp cuối năm nơi đất khách quê người mới não ruột làm sao! Bốn bể cũng là nhà Tết này lại ở xa Hồn quê theo lá rụng Đất khách đóng trò ma Gió bụi quên ngày tháng Biển hồ gặp xông pha Đừng cho đàn trẻ biết Rối ruột khách thiên nha Thời đó, với các văn nghệ sĩ Việt Nam có thể “đi để viết”, nhưng cũng lắm khi đi chỉ để mà... đi! Vậy thôi. Nhà thơ Nguyễn Bính vào chơi Huế, gặp tiết mưa dầm sụt sùi ông đã ngao ngán ngẫm nghĩ đến thân phận mà viết được tuyệt bút Giời mưa ở Huế: “...Chúng tôi hai đứa xa Hà Nội/ Bốn tháng hình như kém mấy ngày/ Lăn lóc có dư mười mấy tỉnh/ Để rồi nằm mốc ở nơi đây/ Thuốc lào hút mãi người ra khói...”. Nhưng đã “thèm đi” thì không thể chôn chân mãi ở một xó đời. Năm 1943, ông cùng nhà văn Tô Hoài, Vũ Trọng Can vào Sài Gòn. Trong hồi ký, tác giả Dế mèn phiêu lưu ký có kể lại những chi tiết khá cảm động những ngày của “Những lang thang, những thất vọng, vô vọng bất đắc dĩ” rằng: “Ở trên tàu bước xuống ga xe lửa giữa thành phố, chẳng có người quen đến mức phải ra ga đón và trong túi không ai còn một xu. Chợ Bến Thành với cái bãi bùng binh trước mặt, người ta ăn uống rào rào như tằm ăn rỗi. Làm thế nào bây giờ?”. Điều khá bất ngờ với thế hệ chúng ta là lúc ấy, ba chàng trai trẻ trong cảnh “Quê nhà xa lắc, xa lơ đó” đã thuê rạp Thành Xương để “diễn thuyết” kiếm sống! Nhưng chẳng bao lâu, họ chia tay nhau, trong khi hai người kia khăn gói về Hà Nội thì Nguyễn Bính tiếp tục trôi nổi gió bụi giang hồ, ông đi xuống tận Hà Tiên thăm thi sĩ Đông Hồ và Mộng Tuyết. Một chuyện tình tuyệt đẹp đã diễn ra trong những ngày ngắn ngủi này. Nữ sĩ Mộng Tuyết có kể lại: “Dưới ngọn đèn dầu lửa lù mù, một cô cháu tôi, cô Tú Ngọc, đọc truyện Tam Quốc Chí của Phan Kế Bính dịch cho má tôi https://thuviensach.vn nghe. Có khi Bính vào trễ, cửa đã cài then thì Bính ngồi ngoài hiên cho tới khuya mới về mà không dám gọi cửa. Bính nói:“Ngồi trong đêm sương khuya, nghe trộm tiếng người ngọc đọc sách cách một lần cửa đóng kín, cũng có một thú vị riêng”. Nhưng rồi, Nguyễn Bính lại tiếp tục viễn du, chia tay với Tú Ngọc: Nàng ra bờ sông đứng khóc mãi Tàu đi xa mấy dặm sông dài Ngoảnh lại vẫn còn tay Ngọc vẫy Người ở những mong ngày gặp nhau Kẻ đi biết khó kỳ quay lại Đúng vậy, Nguyễn Bính không còn gặp lại người con gái mà ông từng ký bút danh “Người Yêu Ngọc”. Nhưng có lẽ “ầm ĩ” nhất vẫn là chuyến đi của họa sĩ Hoàng Lập Ngôn. Trong một phút cao hứng, chàng họa sĩ tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã đưa cả bầu đoàn thê tử, rủ thêm hai người bạn nữa lên nhà xe Mê Ly đi khắp Đông Dương để vẽ tranh, triển lãm, kể chuyện, ngâm thơ, diễn kịch... Chuyến đi này được văn nghệ sĩ tiễn đưa khá đông, Nguyễn Bính có tặng mấy câu thơ, họ xuất phát từ Hà Nội năm 1941 nhưng đến năm 1944 thì “quy cố hương” bởi chiến tranh thế giới đang nổ ra... Có nhà thơ nổi tiếng với “say” và “tiên nâu” những tưởng sẽ rất yếu đuối, thế mà chàng cũng làm một chuyến “giang hồ vặt” hay ra phết. Khoảng năm 1942, Vũ Hoàng Chương, Tô Hoài và Nguyễn Bính “viễn du” lên Bắc Giang để thăm nhà thơ Bàng Bá Lân. Trong chuyến đi này ông “Say” với ông “Lỡ bước sang ngang” đã có được bài thơ liên hoàn: Tô Hoài, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Còi thét vào ga Phủ Lạng Thương. Sở tại bàng quan chầu xuống xóm, Thi nhân bá ngọ chuyến lên đường. Dòng trong dòng đục thêm ngao ngán, Chùm chín chùm xanh uổng vấn vương. Nằm muỗi qua đêm chờ sáng dậy, Còi xe phong hỏa xé màn sương. https://thuviensach.vn Thật thú vị cho cái sự “đi”, nếu nhạc sĩ tài hoa Đặng Thế Phong không đi giang hồ sang tận xứ Cao Mên, làm sao có được tuyệt tác Con thuyền không bến? Những ngày đói khổ này, chàng phải bán brillantine giả làm thuốc cao để có tiền hồi hương. Với Quảng Nam, cụ thể là Hội An thì cũng là một trong những “địa chỉ” hấp dẫn văn nghệ sĩ tìm đến. Năm 1946, văn, thi sĩ kiêm đạo diễn kịch Thế Lữ cùng nhóm nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Văn Chung... trong đoàn ca vũ nhạc Anh Vũ của Thế Lữ đến Hội An trình diễn. Qua giao lưu với anh em văn nghệ nơi này, “kiện tướng của phong trào Thơ mới” rất yêu thích giai điệu của bài Xuân và tuổi trẻ của nhạc sĩ tài hoa La Hối. Ca khúc này, lúc bấy giờ gọi theo tiếng Pháp là Printemps et jeunesse và chưa có lời ca. Tìm hiểu cuộc đời tài hoa của người nhạc sĩ sớm hy sinh vì đại nghĩa, Thế Lữ rất xúc động nên đã xin phép gia đình nhạc sĩ viết lời cho nhạc phẩm giá trị này. Sau đó, Nguyễn Xuân Khoát soạn hòa âm, Văn Chung soạn vũ điệu và khi trình diễn đã làm nức lòng người dân phố Hội. Cho đến nay vẫn là ca khúc không thể thiếu trong mỗi độ xuân về. Mà người đi chơi xa, dù không thong thả tiền bạc thì ít ra cũng không nặng nợ gia đình, vợ con. Quả thật, tôi chưa đọc được một tài liệu nào nói đến ông vua hoạt kê Số đỏ Vũ Trọng Phụng đã đi giang hồ những nơi đâu. Chỉ bằng ngòi bút vừa nuôi mẹ, nuôi vợ và con để đến nỗi phải thổ huyết ho lao trên trang bản thảo thì làm sao có thể “dứt áo” ra đi một cách nhẹ nhàng? Vì thế nghĩ cho cùng, trong đời được đi chơi xa nhiều lần, há cũng là một lạc thú. Ngày nay, những người cầm bút vẫn tiếp tục “đi để viết”. Tất nhiên, về mọi phương diện thì họ hơn hẳn các đàn anh thuở trước. Nhưng về tác phẩm “thu hoạch” sau mỗi chuyến đi thì sao? Đó là một chuyện khác nữa. Thôi thì, cứ ngâm ư ử mấy câu thơ của anh bạn Phạm Hữu Quang: Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà. https://thuviensach.vn TẢN MẠN CHUYỆN DU LỊCH Mưa mãi mưa hoài Lòng biết thương ai Trăng lạnh về non không trở lại Mưa chi mưa mãi Lòng nhớ nhung hoài Nào biết nhớ nhung ai Mưa chi mưa mãi Buồn hết nửa đời xuân Mộng vàng không kịp hái... (Lưu Trọng Lư) Những cơn mưa thúi trời thúi đất của xứ Huế chính là nguồn cảm hứng vô tận để nhiều nhà thơ “gặt hái” được những bài thơ buồn não ruột. Không riêng gì Lưu Trọng Lư, tác giả Tiếng thu, mà Nguyễn Bính, trong một chuyến đi giang hồ, rồi “nằm mốc ở nơi đây” đã thốt lên não nùng: “Giời mưa ở Huế sao buồn thế/ Cứ kéo dài ra đến mấy ngày.../ Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả/ Chén ứa men lành lạnh ngón tay...” Và ngay cả nhà thơ Tố Hữu, khi cảm nhận về mưa của quê mình đã tự hỏi: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên?”. Ừ thì mưa! Nơi nào cũng có mưa. Nhưng có lần trao đổi thân mật với chúng tôi, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã “tiết lộ” một thông tin đáng để những người làm du lịch suy nghĩ. Ấy là tại sông Hương núi Ngự sẽ hình thành tour du lịch... mưa Huế! A! Nghe ra thấy cũng ngồ ngộ. Lâu nay, người ta vẫn thích đi chơi lúc trời trong nắng mát, để ngắm cảnh, chụp hình, để nghe chim kêu vượn hót... chứ mấy ai thích đi trong mưa dầm dề, ướt át, lạnh đến buốt xương! https://thuviensach.vn Nhưng nghĩ như thế là... nhầm. Vấn đề đặt ra là cách tổ chức như thế nào cho hợp lý, phù hợp tâm lý của những người muốn được tận hưởng những cơn mưa bất tận ở Huế! Chứ không như cái thời thi sĩ Lỡ bước sang ngang chỉ nằm khoèo“Thuốc lào hút mãi người ra khói”, “Để rồi nằm mốc ở nơi đây”. Mà phải được “hỗ trợ” thêm nhiều thứ nữa, chẳng hạn được ăn, được nghe cái gì cho “đã”, cho đúng “điệu nghệ” lúc chìm đắm trong mưa Huế nữa chứ! Năm kia, tôi có được đọc một truyện ngắn của nhà văn Nhật Bản, trong đó có hai nhân vật, họ có thú vui lạ lùng là đôi lúc đi bộ vài trăm cây số đến một ngôi chùa, đến nơi cả hai ngồi im lặng, đối diện nhau, cùng ngắm nhìn cây bonsai suốt một ngày rồi lặng lẽ... đi về! Thế thì, làm du lịch không phải “thấy người ta ăn khoai mình cũng vác mai đi đào”. Mà phải tìm cho mình một hướng đi riêng, tận dụng thế mạnh vốn có của địa phương mình, tất nhiên, nó cũng nằm trong quy hoạch tổng thể du lịch cả nước, như phát triển du lịch Đà Nẵng trong thế liên kết chặt chẽ với du lịch miền Trung - Tây Nguyên, đặc biệt là du lịch Huế và Hội An - Mỹ Sơn. Vậy ở Đà Nẵng có gì? Câu hỏi này, tôi tin chắc rằng Sở Du lịch Đà Nẵng cũng từng “nung nấu tâm can vò võ trán” để tìm câu trả lời. Vẫn biết Đà Nẵng có tiềm năng, lợi thế là nằm trong vùng tài nguyên du lịch phong phú, vị trí trung tâm của những di sản văn hóa thế giới; có bờ biển đẹp dài hơn 60km và nhiều danh lam thắng cảnh... Có lần qua trò chuyện với giám đốc Sở Du lịch Đà Nẵng, tôi biết, các anh đang xúc tiến mở tour du lịch sinh thái, làng quê. Chẳng hạn, đó là các khu du lịch làng quê Hòa Xuân, làng văn hóa dân tộc Katu Hòa Phú, khu vực sông Trường Giang... Thoáng nghe qua đã thấy hấp dẫn rồi. Thử nghĩ, tại sao một làng quê Đường Lâm ở Bắc Bộ, như nơi hiện đang thờ danh tướng Ngô Quyền lại hấp dẫn du khách đến thế? Tại sao làng quê Bát Tràng lại gợi hứng cho cảm xúc đến thế. Tôi đã tìm đến, và tưởng chừng như không ghi nhận ngay thì đêm ấy sẽ không sao ngủ yên trước vẻ đẹp dân dã đã chín dần trong tâm tưởng: Con đường quê cỏ mượt Khói chiều lên biếc xanh https://thuviensach.vn Gạch Bát Tràng mát lạnh Mang giày đi sao đành? Dưới ao sâu con cá Quẫy đuôi cũng hiền lành Gái men lam óng ả Rơm vàng mượt bước chân Một tiếng chim ngọt lịm Tan trong chiều nhẹ tênh Trong làn gió cổ kính Ru lòng yên tĩnh hơn Ngói âm dương lăng miếu Rêu xám ướt và mềm Một chiều qua vội vã Nỗi nhớ lại lâu quên... Thì ra nhà thơ khi du lịch vẫn là kẻ “có lợi” nhất, vì ít ra ngoài những sản vật, khiến thức đem về, anh ta còn có dịp tiếp cận với một nguồn năng lượng mới để làm giàu cho cảm hứng sáng tạo. Lại nghĩ, làm du lịch mà không “móc túi” được du khách thì đâu phải làm du lịch. Với tôi, có hai trường hợp đáng nhớ: Năm kia khi đặt chân lên Mỹ Sơn, ngay giữa trời nắng chói chang, chúng tôi phải lội ngược về Đà Nẵng, vì nơi ấy không có gì để... ăn cho khoái khẩu! Và năm nọ, nhân dịp 30.4, chúng tôi ra Vũng Tàu chơi, cứ tưởng tiền thuê khách sạn cũng “ngày như mọi ngày”, nhưng không ngờ do đón số lượng khách nhiều nên các khách sạn lập tức... tăng giá đồng loạt gấp đôi! Bực mình quá, chúng tôi phải bấm bụng. Lúc về, tôi viết bài phản ánh đăng trên báo Vũng Tàu. Nhưng sau đó, dăm lần tôi gọi điện thoại cho anh Phạm Quốc Toàn - Tổng biên tập báo, hỏi Sở Du lịch có trả lời gì không, anh cho biết là... không! Thế là mỗi lần nghĩ đến nơi ấy, muốn đi chơi lần nữa, cũng ngại chạm phải kiểu “cứa cổ” trên nên đành chuyển đi chơi ở Mũi Né vậy. Trong khi đó, tại Thái Lan, họ nghĩ ra nhiều “độc chiêu” để “moi” tiền của du khách một cách hợp lý. Mà thôi, kể lại làm gì, ai cũng biết cả rồi, lại không khéo có người cho rằng “đi xa về nhà nói khoác”, vì sự so sánh nơi https://thuviensach.vn này với nơi kia bao giờ cũng làm người chưa đi xa bực mình. Thế nhưng, cho tôi được tâm đắc với một chuyện khá thú vị, là lâu nay ta đã và đang báo động về việc một số làng nghề Việt Nam có nguy cơ bế tắc, sản phẩm làm ra không có người mua... Sao ta không thử làm như Thái Lan, ví dụ như đem tranh dân gian Đông Hồ in vào vải lụa thật đẹp theo đủ kích cỡ để bán cho du khách? Tôi đã thấy trong các siêu thị, trên hè phố Bangkok bày bán rất nhiều tranh dân gian Thái - in trên lụa với giá rất rẻ, chỉ khoảng 25 - 30 “baht” (tương đương 10.000 - 12.000 đồng Việt Nam) mà thôi. Nếu đến Huế - chỉ đến Thành Nội là ta mới có thể mua được loại tranh in các phiên bản cảnh trên đỉnh đồng triều Nguyễn bằng giấy dó. Sao không phát triển rộng rãi loại tranh độc đáo đó như ở Thái Lan. Họ cũng cho in các điêu khắc văn hóa của họ bằng phương pháp thủ công, nhưng đường nét thật sắc sảo, sắc nét trên vải lụa. Có thể treo trên tường cho mọi người cùng chiêm ngưỡng. Mà này, có thể gắn du lịch với tín ngưỡng tôn giáo không? Có chứ,bà chị tôi vào chơi núi Bà Đen (Tây Ninh), không biết người ta nhỏ to thế nào mà vay tiền của Bà. Tất nhiên là tiền âm phủ, không xài được trên trần thế, nhưng lại là “lộc” để mua may bán đắt. Vậy là mỗi năm sau Tết, chị Ái tôi từ Đà Nẵng lại vào Sài Gòn, lên Tây Ninh viếng Bà, chưa có tiền trả thì khấn nguyện, rồi bao giờ trả đủ thì thôi! Khoan bình luận gì cả, mà rõ ràng, nơi ấy có thể giữ chân được một số lượng du khách nhất định, người ta quay lại nhiều lần là vì ý thức tín ngưỡng trong tâm linh, tự nguyện chứ nào ai bắt buộc gì đâu! Danh lam thắng cảnh là nơi luôn quyến rũ những bước chân “đi cho biết đó biết đây”. Nhưng thiết tưởng phải có thêm “cái gì đó” để họ còn quay lại. Tôi nhớ mãi ấn tượng, lần nọ đi chơi Angkor Wat, leo lên tháp lại gặp ngay... bà thầy bói! Bói trúng trật như thế nào không rõ, nhưng cũng tạo cho mình cảm giác khó quên. Vì cứ nghĩ nơi thiêng liêng mà có người biết xem “tương lai quá khứ” ắt không phải... người trần mắt thịt(!) Trở lại với tour độc đáo “mưa Huế”, đôi lúc tôi nghĩ sao Đà Nẵng không thử mở thêm tour... “đi bộ”? Theo thiển ý, du lịch Bà Nà có một sắc thái riêng không giống như những nơi khác có thể “cỡi ngựa xem hoa” https://thuviensach.vn trong một tour ngắn ngày. Vì muốn tận hưởng sự thú vị hơn cả khi đến Đà Lạt, Sa Pa hoặc tận hưởng mùa xuân của nước Pháp như nhiều người từng ca ngợi thì du khách phải “sống”, thật sự đắm mình trong không gian Bà Nà thì mới có thể cảm nhận được hết sự độ lượng của thiên nhiên từ chân tơ đến kẽ tóc, mới cảm nhận hết được thời tiết lạ lùng: sáng, mùa xuân; trưa, mùa hạ; chiều, mùa thu và tối, mùa đông. Vậy vấn đề đặt ra, là phải thường xuyên có nhiều hoạt động khác nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu của du khách. Nếu chỉ đưa du khách “đi cho biết” Bà Nà bằng cách lên núi buổi sáng, xuống núi buổi chiều mà chỉ có mỗi một... thiên nhiên cũng khó lôi cuốn họ lên lại lần thứ hai. Trong khi các nhà làm du lịch chuyên nghiệp đang suy nghĩ, sao không thử làm tour... đi bộ lên núi Bà Nà? Không phải đi bằng đường trải nhựa rộng thênh thang, an toàn mà đi đường rừng để tạo cho du khách cảm giác phiêu lưu, mạo hiểm, khám phá và chinh phục. Đi để chiêm nghiệm với phương ngữ địa phương “Nói dóc như dốc Bà Nà” và tôi cũng từng cảm nhận: Khúc khuỷu dốc với đèo Vực sâu run mắt ngó Suối thét gầm đầu non Thác từ trên trời đổ Vượn hú cõi càn khôn Âm với Dương tri ngộ Ta bay lên trời chơi Thấy trần gian cũng nhỏ... Thêm chuyện “tầm thường” nhưng đối với du khách rất có ý nghĩa, là khi họ đã đến tận đỉnh Bà Nà nên cấp cho họ... một giấy chứng nhận là đã có mặt tại chốn này! Cũng là điều vinh dự, một kỷ niệm đấy chứ! Nhất là lúc ấy, chỉ tại Bà Nà, họ mới có thể: Vọc xuống hai bàn tay Vốc lên chùm mây trắng... Đã có lần, được ngồi trên xe để người ta đưa lên tận đỉnh Lang Biang, tôi thấy sung sướng vô cùng. Nhưng lần khác, lại cùng dăm ba người bạn... https://thuviensach.vn đi bộ lên lại thì quả thật, nỗi sung sướng ấy tăng thêm bội phần. Bởi lẽ, du lịch không chỉ là tận hưởng những gì người đem lại cho mình mà còn là dịp “kiểm chứng” lại sức khỏe, tình yêu thiên nhiên của chính mình nữa chứ! Trong đời được đi chơi xa nhiều lần, há cũng là một lạc thú. Nhưng du lịch “ngon” nhất, nếu chọn lấy một người, tôi vẫn chọn thi sĩ Tản Đà - người đã nâng “chủ nghĩa xê dịch” thành một triết lý: “Chơi cho biết mặt sơn hà/ Cho sơn hà biết ai là mặt chơi”thì quả đáng cho đám hậu sinh phải ngưỡng mộ. Qua thơ của ông, ta thấy “thi sĩ trích tiên” đã từng lên chơi trên... trời! Nếu đó là một sự tưởng tượng phong phú thì trong đời thường, Tản Đà đã từng có một khát vọng... mở công ty du lịch! Số là năm 1938, lúc nghèo túng nhất, phải mở cửa hàng xem lá số Hà Lạc, dịch thơ Đường cho báo Ngày Nay, thi sĩ đã tuyên bố với báo giới: “Tôi đang tổ chức một đoàn du lịch lấy tên là “Hồng Bàng dân tộc, Tản Đà du lịch đoàn”. Trong đoàn ấy chỉ chọn lấy mười người thôi. Mười người thật xuất sắc về mọi phương diện, trong đó phải có đủ cả thầy thuốc, võ sĩ, kịch sĩ, thợ thuyền, đi đến đâu làm lấy mà ăn và đi toàn máy bay cả”. Nghe thế, nhà báo hỏi: “Hình như thi sĩ quên mất phi hành gia thì phải?”. Tản Đà nói nhanh: “Có chứ! Phải có hai phi hành gia trong bọn mình để nhỡ một người say rượu hay nhức đầu sổ mũi đã có người thứ hai thay ngay. Nhưng theo ý tôi thì cần nhất là võ sĩ. Võ sĩ cũng phải có hai: một chánh du côn, một phó du côn tuyệt bướng. Đến đâu có người sinh sự là giở võ choang liền, để cho người ngoại quốc biết dân Việt Nam không phải là hèn kém gì” (Ngày Nay số 147 - 1939). “Phương án” du lịch của thi sĩ “Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly” đã khiến ta phải... phì cười một cách hết sức thú vị. https://thuviensach.vn MÌNH ƠI! TÔI GỌI LÀ NHÀ Mình ơi! Tôi gọi là nhà Nhà ơi! Tôi gọi mình là nhà tôi Câu thơ ngẫu hứng giang hồ của trung niên thi sĩ Bùi Giáng đã nói về cái nhà theo nghĩa bóng hay nghĩa đen? Có lẽ cả hai. Nhà tôi? Sao không là người đầu ấp tay gối, đêm thương ngày nhớ, ngày đũa chung đôi, đêm nằm chung chiếu? Nhà tôi? Sao không là nơi “Tôi như trẻ nhỏ ngồi bên hiên nhà chờ xem thế kỷ tàn phai” mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong vô vọng rã rời đã từng thốt lên? Nhà tôi? Vâng ạ, nhà của tôi. Một cái nhà có thật trong đời sống xô bồ và bất trắc này. Sao lại cái nhà mà không là gì khác? Mẹ tôi bảo, đời người khó nhất vẫn là làm nhà và cưới vợ. Tục ngữ ca dao lại bảo, “đàn ông làm nhà, đàn bà nuôi lợn”. Còn tôi, tôi nghĩ gì? Thưa, Cùng tất cả đàn ông trên trái đất này Xin nâng cốc rượu Chúc mừng sự vĩnh cửu viết hoa: Phụ nữ chở che ta độ lượng tựa ngôi nhà Nói cách khác, chức năng của cái nhà đối với người đàn ông, cũng phải tiện ích như đến với... một người phụ nữ (!?). Buồn cười nhỉ? Sao lại buồn cười? Trước hết, phải là sự riêng biệt, không chung chạ. Sự chung chạ, chật chội, xô bồ của các thành viên sống trong một căn nhà không chóng thì chầy cũng mệt. Cũng éo le. Cũng “oải trời đậu”. Cũng như nỗi khổ tột cùng của đôi uyên ương trong phim Chìa khóa vàng mà đạo diễn Lê Hoàng dựng từ kịch bản Đi tìm chỗ ngủ của Đoàn Tuấn: Ngày mai chàng ra trận, nhưng cả hai không thể tìm ra một chỗ để “nhỏ to tâm sự”. Trăm sự phiền toái, oái oăm cũng do không có cái nhà cho riêng mình. Khổ thế đấy. https://thuviensach.vn Cũng chưa khổ bằng nhân vật của Y Ban, cũng do nhà chật chội, tù túng rồi trong giây phút chau mày nghiến răng không thể “kìm hãm lại cái sự sung sướng” thì đột ngột, bỗng nhiên, bất ngờ người nhà... mở tung cửa bước vào! Hoặc nhân vật Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu cũng thế thôi. Rặt những chuyện cười ra nước mắt. Cười ra tiếng thở dài. Gì nữa? Mà thôi. Hãy trở lại với cái nhà của riêng mình. Thử hỏi, trong cái nhà nơi nào quan trọng nhất? Phòng khách? Đúng rồi. Khách bước vào nhà, trước hết ngồi đó chớ ở đâu nữa? Vì thế, chủ nhà đã phải trang hoàng thật “oách”, thật hoành tráng. Mấy chục năm trước, bước vào phòng khách của những “trưởng giả học làm sang”, nhà văn Vũ Trọng Phụng cáu tiết, đại khái, lẽ ra chỗ này phải chưng cái tủ sách nhưng chủ nhân lại đặt cái “búp-phê” khoe mẽ nào rượu Tây, nào “mề đay” ngậu xị! Bây giờ cũng thế thôi. Thật ra, phòng khách dù có trang hoàng đến cỡ nào đi nữa cũng không vừa lòng khách, bởi lẽ họ phải e dè, thận trọng chứ không thoải mái nếu như được chủ nhà tiếp trong... quán nhậu! Đi đứng ngả ngớn tự nhiên chứ không phải nhất nhất gò bó tuân thủ “nhập gia tùy tục”. Vậy trong nhà, nơi nào quan trọng nhất? Theo tôi, nếu sắp xếp thứ tự phải là phòng ngủ, nhà bếp và toilet. Trong đời sống hiện đại này, suốt ngày chạy như cờ lông công ở ngoài đường, ai không mong được ngả lưng trên chiếc giường của mình. Nơi ấy, dù nhỏ như hộp diêm nhưng là của mình. Họ được trở về với bản năng sống một cách tự nhiên nhất, không phải cảnh giác bất cứ một điều gì. Cái phòng ngủ kỳ diệu đến nỗi tôi nghĩ nó chính là nơi hòa giải tình cảm của vợ chồng lúc trúc trắc, trục trặc hữu hiệu nhất. Không hữu hiệu sao được khi mà ca dao có câu: Mù u bảy lá mù u Vợ chồng hờn giận... giảng hòa Nghe ra thô, nhưng nó rất đời và cũng rất người. Theo phong thủy, trong phòng ngủ đừng bao giờ đặt tấm gương lớn đối diện với giường nằm. Tại sao? Sự phản chiếu ấy sẽ tạo thêm nhân vật ảo thứ hai, thứ ba... điều đó không có lợi cho hạnh phúc lứa đôi. Ngẫm lại cũng có lý. https://thuviensach.vn Nhà bếp? Tất nhiên là quan trọng rồi. Thi sĩ Tản Đà đã “triết lý” một cách thành thật rằng, với người sành ăn, sành điệu thì trước hết món ăn phải ngon, người ngồi chung phải tri kỷ, đồng điệu và nhất là chỗ ngồi cũng phải “ngon”. Chỗ ngồi “ngon” nhất trong căn nhà vẫn là nơi phòng ăn, nơi cái bếp ngày ngày chứng kiến tấm lòng thơm thảo của vợ dành cho chồng con, qua những món ăn nàng đã nấu. Râu tôm nấu với ruột bầu Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon Bỗng hiện lên trong mắt tôi cái hình ảnh giản dị mà sao diệu vợi thủy chung đáng yêu đến thế. Phong thủy lại bảo, dưới bếp lò không nên thiết kế đường ống thoát nước đi qua, ngầm phía dưới. Có lẽ người ta nhắc nhở đến sự kỵ nhau giữa “thủy” và “hỏa” chăng? Nhưng nói gì thì nói, không thể không nói đến cái khoảng sân trước nhà. Nếu không có, tôi đố Trần Đăng Khoa thuở lên năm lên mười có thể viết được câu thơ thật gợi, thật cảm: Ngoài thềm rơi chiếc lá đa Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng Những ngôi nhà trong phố thị, nếu có được một khoảng sân trước hoặc sau nhà hẳn chủ nhân hả hê lắm. Không hả hê sao được, đêm trăng sáng, chồng ngồi bên vợ nghe nàng khe khẽ hát lại bài đồng dao “Ông trăng xuống chơi cây cau thì cau sẽ cho mo. Ông trăng xuống chơi học trò, học trò cho bút...”. Chồng con hứng chí vỗ tay theo. Kìa, trăng đang sáng đấy chứ và trải dài những ánh vàng trên sân cỏ... Đôi lúc trong đời sống chỉ cần những giây phút thư giãn nhẹ nhàng như thế cũng là đủ. Tôi ước mơ căn nhà của mình cũng vậy. Chỉ cần một khoảng sân nhỏ có trồng vài cây cau, có nơi hòn non bộ để thả vào đó vài con cá bảy màu bơi lội tung tăng... Quái lạ, ông bà mình nói có những điều mà ngẫm lại thấy đúng. Chẳng hạn, “sống cái nhà, chết cái mồ” thế mới biết cái nhà cần thiết cho mỗi đời người như thế nào. Phải là nhà của mình. Ở nhà vợ có được không? Tất nhiên là được, nhưng ông bà lại bảo “ở chuồng heo còn hơn ở theo nhà vợ”. Chà! Gay nhỉ? Thế này thì phải tự lực “ra riêng” thôi. Dù gì đi nữa, dù nhỏ ta cũng có quyền ưỡn ngực, nghếch mặt lên trời, bảo: “Cái nhà là nhà của ta”. Nhà của ta cũng giống như... vợ của ta vậy. Dù vợ người https://thuviensach.vn có sắc nước hương trời, có “chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường” ắt cũng không thể sánh với vợ mình. Không thể sánh thật ư? Vì chỉ nàng mới có thể hiểu được nết tốt lẫn tính xấu của ta mà thông cảm, chia sẻ. Cái nhà cũng thế. Phải là nhà của ta, vì nghĩ cho cùng mỗi căn nhà được xây dựng cũng không ngoài mục đích phục vụ cho sở thích của chủ nhân. Tôi tin rằng, dù được sống trong ngôi nhà của Bill Gates - chủ nhân của Microsoft thì ta cũng không có cảm giác thoải mái, sung sướng như được ở trong căn nhà của riêng mình. Tôi lại tin rằng, căn nhà không phải là vật vô tri vô giác, nó cũng có linh hồn đấy chứ! Nếu không, làm sao khi xa nhà đi công tác, ta lại có cảm giác lạ lùng: Xa nhà lại nhớ cái nhà Chiếu chăn êm ấm như là lứa đôi Xa nhà, ta vẫn lẻ loi Xa ta, nhà cũng đơn côi một mình Xa nhà hay xa vợ mà tôi viết thống thiết quá vậy? Xin thưa, có lẽ cả hai. https://thuviensach.vn NGẪU HỨNG PHỞ https://thuviensach.vn 1. Nhắm mắt vẫn còn mơ Hà Nội Như một tình nhân ám ảnh hoài Hương thơm trinh nữ? Ồ không phải Hương phở thơm đầy những sớm mai Thi sĩ Tản Đà là người sành ăn vào bậc nhất. Có lẽ, ông là người đầu tiên đã “phát hiện” ra... chân lý: Thức ăn ngon nhưng chỗ ngồi không ngon thì ăn không ngon, thức ăn ngon nhưng không có bạn đồng điệu thì ăn không ngon, thức ăn ngon nhưng bát đũa không sạch sẽ thì ăn cũng không ngon... Biết đại khái như thế thì mới thấy nghệ thuật về ăn quả là không dễ. Phở là món quà “căn bản” của miền Bắc, nhưng ai là người đầu tiên đưa vào Sài Gòn? Tôi vẫn nghĩ là Tản Đà. Những năm tháng cùng Ngô Tất Tố lang thang vào Nam Kỳ cộng tác với Diệp Văn Kỳ làm báo Đông Pháp thời báo, có lần “ông thần ngông” này đã cao hứng cạy gạch bông trên nền nhà, cuốc đất để trồng các loại rau húng, quế... Rồi một buổi chiều rét mướt hiếm hoi của vùng đất phương Nam, ông đã làm món phở để đãi những người đồng hương và các bạn Nam Kỳ. Ai ăn cũng khen ngon. Từ đó, món phở dần dần... phổ biến công khai một cách rộng rãi! Tất nhiên, đây chỉ là tưởng tượng của tôi vì yêu Tản Đà quá đấy thôi. Thật ra, phở chỉ mới có mặt ở Sài Gòn từ thập niên 40 của thế kỷ XX. Trong những ngày trong lòng buồn vui không rõ rệt, tự nhiên tôi lại thèm một bát phở với lòng dạ nôn nao, với cảm giác như nhớ người yêu đã hẹn mà nàng không đến, tôi bèn thả bước chân lang thang mọi ngóc ngách Sài Gòn. Nhờ thế, qua anh Nguyễn Hạnh - tạp chí Xưa và Nay của Hội Khoa học lịch sử phía Nam, tôi tìm ra một nhân chứng của... phở. https://thuviensach.vn Đó là căn nhà trong hẻm Pasteur, số 63/5 - sau rạp hát Vinh Quang. Bà cụ Trần Thị Năm, nay 80 xuân, lưng còng, tóc bạc trắng, cụ điềm đạm kể: “Từ năm 1942, ông bác của tôi là ông Kỉnh từ làng Vân Đình (Hà Đông) vào Sài Gòn lập nghiệp. Ông bán gánh phở Bắc trên đường Lagrandière (nay là đường Lý Tự Trọng). Mãi đến năm 1949 mới chuyển về đây mở xe phở, tôi còn nhớ lúc đó mỗi tô chỉ có 2 xu, tô đặc biệt 3 xu. Sau ông Kỉnh truyền nghề cho cụ Minh - là anh ruột tôi. Thuở ấy, phở Bắc không có giá và lỉnh kỉnh các loại rau như bây giờ, nhưng vì khẩu vị của người Sài Gòn nên chúng tôi phải chiều theo”. Ăn một tô phở có mặt xưa nhất ở phương Nam nay còn sót lại, tôi nhận thấy, dù có thêm các loại rau khác nhau, nhưng hương vị Bắc còn nồng nàn, đằm thắm ở chỗ nước lèo thơm mùi bò mà ta vẫn tưởng không phải mùi bò và nhất là nước trong, không gây béo dù loáng thoáng mỡ. Tô kiểu nhỏ. Đũa là loại đũa “sóng lá” màu đen làm bằng cây dừa nước nên không “bắt” mỡ. Đang trầm ngâm như một triết gia “nghiên cứu” về sức hấp dẫn của phở thì ông An - con của cụ Minh - nay là chủ nhân phở Minh ân cần đến tiếp chuyện với tôi. Ông cho biết, ngày xưa ở trong hẻm này là một loạt quán phở mọc lên nhưng nay chỉ còn mỗi một gia đình ông “trụ” lại được. Thuở ấy, khoảng thập niên 1950, các văn nghệ sĩ, chính khách... nườm nượp đến đây bất kể ngày đêm. Hỏi thêm những người cao niên ở Sài Gòn, họ xác nhận là đúng, thuở ấy ai mà không mê phở trong hẻm Pasteur này! Chao ôi! Trong số những thực khách ấy, có lẽ ông Trần Rắc - chủ hiệu giày trên đường Espagne (nay là đường Lê Thánh Tôn) mới thật sự là người có tâm hồn... thi sĩ nhất. Vì khoái phở Minh mà ông đã sáng tác mấy câu thơ tặng chủ quán treo trong quán chơi. Thơ rằng: Nô nức đồn vang khắp thị thành Trần Minh phở Bắc đã lừng danh Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu, sụn Gia vị: tương, rau, ớt, mắm, chanh. Những vần thơ chân thành và đáng yêu ấy đã khiến tôi nhớ đến Tản Đà. Bấy giờ, Tản Đà phụ trách trang thơ. Nhưng do say sưa suốt ngày nên https://thuviensach.vn nhiều lần bài vở không đưa kịp quy trình nhà in, ông chủ bút sai người đến giục. Tản Đà nổi cáu và nói một câu nổi tiếng: “Làm thơ có phải bổ củi đâu mà lúc nào cũng có thơ!”. Từ thơ, bỗng dưng tôi liên tưởng đến... phở. Bởi lẽ, không phải lúc nào ăn phở cũng ngon mà phải có “thời điểm” cần thiết. Nhưng trước hết thử hỏi phở là cái gì? Thôi thì, ta thử nghe những người sành ăn giải thích bằng sự cảm nhận riêng và đầy ngẫu hứng: “Nước dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng rẫy lên, nhưng ăn phở như thế mới ngon. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay của gừng, cay cái cay của hạt tiêu, cay cái cay của ớt; thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu cái thơm của thịt bò tươi và mềm... rồi thì hòa hợp tất cả những vị đó lại, nước dùng cứ ngọt lừ đi, ngọt một cách hiền lành êm dịu, ngọt một cách thành thực...” (Vũ Bằng). “Mùa nắng ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt thắm tươi lại...” (Nguyễn Tuân). “Nếu là gánh phở ngon thì nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gàu dòn chứ không dai, chanh, ớt với hành tây đủ cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa” (Thạch Lam). Vậy phở đã ngon thì ăn vào “thời điểm” nào mới tuyệt ngon? Ăn vào lúc sớm mai thì ngon đã đành rồi. Nhưng ấn tượng khó quên nhất vẫn là lúc khuya khoắt thả bước chân lang thang trên phố, bụng đói, ngật ngà trong men say lẫn đang buồn ngủ và lơ mơ nhớ lại bao phiền muộn trong ngày, làm một tô phở thì ta như thấy tỉnh hẳn. Tỉnh như sáo. Lại yêu đời lạ thường! https://thuviensach.vn 2. Em dẫn tôi đi trong nắng mới Lơ đễnh bàn tay níu dịu dàng Còn tôi rét cóng mơ về phở Từng cọng hành thơm... gió tơ vàng. Cũng giống như sự phát minh nào đó về mẫu mã thời trang, phải có thời gian để hoàn thiện dần, phở cũng vậy. Từ trước những năm 1930, có lẽ phở chưa định hình như bây giờ mà còn phải mày mò cải tiến để ngày càng phù hợp với khẩu vị của người sành ăn. Giống như thơ vậy. Từ bài Tình già của Phan Khôi thoạt đầu gây tiếng vang dữ dội trong dư luận, nhưng phải đợi đến sự xuất hiện của những “kiện tướng” như Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Bích Khê... thì phong trào Thơ Mới mới thật sự chiếm lĩnh trên thi đàn. Theo một tài liệu đáng tin cậy thì vào những năm 1928, người ta còn thêm vào trong bát phở cả dầu vừng, đậu phụ và gọi là “phở cải lương”. Sự “thể nghiệm” như thế không phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nên đột nhiên một ngày kia nó lặng lẽ rút lui khỏi bát phở mà không cần có một lời giải thích nào cả. Những người sành điệu nhất thiết phải ăn phở bò. Nhưng rồi phở gà lại xuất hiện. Thử hỏi một cách nghiêm túc rằng, nó ra đời trong ngày tháng năm nào? Này nhé, thời “tiền chiến”, ở Hà Nội trong những ngày thứ sáu và thứ hai không có thịt bò, tất nhiên những người mê phở đau khổ lắm vì những gánh phở đành phải “treo gánh”. Thế là, trong “cái khó ló cái khôn”, nhiều người bèn xoay ra lấy thịt gà thay cho thịt bò. Tất nhiên, những chuyên gia https://thuviensach.vn về phở cực lực phản đối, chì chiết bằng những lời cay độc như con dâu gặp phải bà mẹ chồng khó tính. Giống con dâu thảo nhịn nhục, nhẫn nại qua bao thăng trầm rồi một ngày kia bà mẹ chồng mới nguôi giận mà chấp nhận! Giống như Thơ Mới thuở bình minh của nó, phe thơ Đường luật thất ngôn bát cú cũng mạt sát không tiếc lời. Phở gà cũng có số phận như vậy. Cho đến bây giờ, người yêu phở “cổ điển” cũng đã chấp nhận nó. Để được như thế, phở gà không thể thiếu những cọng hành thơm... gió tơ vàng (!). Một màu xanh nõn nà đến phơi phới trinh nguyên làm bát phở thêm đẹp mắt lẫn ngon miệng. https://thuviensach.vn 3. Phở ạ! Sao mà trân trọng vậy Thưởng thức quán nào cũng thấy ngon Nước trong. Khói biếc. Tương cay đậm Tuyệt lắm. Trời ơi! Tái nạm giòn. Một cao thủ võ lâm trong làng văn Nam Bộ là Trang Thế Hy, người quan niệm nhà văn là “người bào chế thuốc giảm đau” cho đồng loại, từng đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, ông cũng là một người sành ăn. Trong những phút ngẫu hứng, ông nói chơi chơi: “Tao là dân Nam Bộ gốc, nhưng vào quán phở, thấy họ bày phở khá đẹp, hấp dẫn, vậy mà có cha nện vào cục tương đen, nhìn hết muốn ăn”. Ngẫm ra, chí lý thay. Nhưng người thủy chung với phở bao giờ cũng muốn nhìn bát phở nước trong, chỉ gợn chút xíu mỡ. Giống như người đàn ông trung thành với vợ, chỉ muốn nhìn ngắm nàng trong nét đẹp chính chuyên không son phấn. Phở cũng vậy. Chẳng ai nỡ tàn nhẫn đến độ vừa cho tương đen lẫn tương đỏ vào trong bát phở của mình cả. Màu sắc ấy không phải là sắc màu “cổ điển” của bát phở đã định hình từ mấy thập kỷ nay. Có những người mê phở quá nên có lúc lẩn thẩn tự hỏi lòng mình một cách suy tư và đầy... tính nghiêm túc: “Ấy thế, khi dịch ra tiếng nước ngoài thì thiên hạ dịch như thế nào nhỉ?”. Chẳng rõ. Nhưng người Pháp gọi phở là “Soupe Chinoise” (súp Trung Quốc). Thế là sai đứt đuôi con nòng nọc rồi chứ gì nữa! Có người cho rằng, phở bắt đầu từ mấy chữ “Ngưu nhục phấn” nữa chứ. Nghe sao mà khó lọt lỗ tai đến thế. https://thuviensach.vn 4. Thêm một chút tiêu. Thêm chút ớt Cong cớn môi hồng cứ xuýt xoa Yêu em có lẽ vì mê phở Vị ngọt trên môi cũng đậm đà. Giống như thơ - có thời hoàng kim “người người làm thơ, nhà nhà làm thơ”, nhưng cũng có lúc mỗi tập thơ in ra chỉ có thể khiêm tốn với số lượng... 1.000 bản mà có người còn hào hứng khoe: “Thơ của tôi... biếu rất chạy!” - phở cũng vậy.Phở đã trải qua cái thời mà những người “tôn sùng” phở bàn tán nhiều nhất, nhiều hơn cả chuyện tranh luận Đội tuyển bóng đá Việt Nam có giành đươc Huy chương vàng trong Tiger Cúp hay không. Đó là chuyện trong bánh phở có cái gọi là “phoocmôn”! Sự kiện này rất quan trọng, quan trọng đến nỗi nhiều người đề nghị ghi vào trang đầu tiên của lịch sử thăng trầm về phở. Ấy là chiều ngày 5.1.2000, tại trụ sở Ủy ban nhân dân Hà Nội đã diễn ra buổi họp cấp bách có đủ đại diện các ban ngành lên quan để công bố và bàn biện pháp “vệ sinh an toàn thực phẩm”. Sợ “phoocmôn” nhiều người cương quyết nuốt nước bọt, nhịn ăn chứ không dám bén mảng đến quán phở. Các quán phở Hà Nội đìu hiu như chợ chiều Ba Mươi Tết thì ở Sài Gòn, các quán phở cũng vắng vẻ không kém. Chao ơi! Trời vẫn nắng, gió vẫn xanh, em vẫn ngoan và môi vẫn thơm mà không được làm một tô phở thì quả là một cực hình! Còn có chịu đựng nào “thê thảm” hơn chăng? Giống như thơ - sau những ngày tháng thiên hạ xa rời thơ để chạy theo các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại khác, có lúc cũng quay về với nàng thơ ỏn ẻn, yểu điệu nhan sắc - thì phở https://thuviensach.vn cũng vậy. Làn sóng “phoocmôn” lại lắng xuống dần dần và phở dần dần trở về thời hoàng kim của mình. https://thuviensach.vn 5. Phở Bắc nóng, nồng như gái Bắc Quán xá nhường nhau chật chội ngồi Tôi nâng tô phở như... thành khẩn Mơ thấy nắng vàng lững thững rơi. Cho dù từ phương Bắc vào đây, phở đã nghiêm túc thực hiện nhuần nhuyễn câu tục ngữ “nhập gia tùy tục” như thêm giá, rau các loại... Nhưng cho đến nay, vẫn còn một quán phở giữ đúng hương vị Bắc. Ấy là phở bà Dậu, quê ở Nam Định, ở cuối hẻm 288, khu phố 4 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Giới sành ăn gọi là phở Cây Trứng Cá, vì từ năm 1950 ở trước quán có trồng cây này. Thời gian trôi qua, cây không còn, bà Dậu cũng mất, con của bà là ông Bình lên thay thế, cho nên dù quán không có bảng hiệu, ta cũng có thể gọi là quán phở ông Bình hoặc phở Lâm cũng không sao vì anh chàng Lâm là người thu tiền! Ở quán phở này tôi đã gặp khá nhiều người nổi tiếng từ nghệ sĩ, ca sĩ đến nhà báo... đến ăn. Phở ấy có gì lạ? Này nhé! Bánh phở sợi nhỏ mềm nhưng không nát. Nước lèo đậm đà cái vị ngọt thanh dịu của xương, tủy bò hầm rục chứ không phải của bột ngọt. Các thứ nạm, gầu, sụn, gân... đâu ra đó. Không có bất cứ loại rau gì kèm theo, chỉ có hành tây hoặc những cọng hành chần. Ăn xong mồ hôi vã ra như tắm. Sướng nhé! Điều hấp dẫn của phở Bắc, tôi nghĩ không chỉ là cách pha chế mà còn là cung cách phục vụ “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Ở quán phở Minh và phở bà Dậu đã cho tôi một nhận xét: Khách đến quán chỉ một hai lần là chủ quán biết ngay “gu”. Giữ xe không mất tiền, có người trông coi chu đáo. Khách lững thững bước vào. Ngồi thong thả xuống ghế. Không https://thuviensach.vn cần lên tiếng gọi. Lập tức một tô phở đúng ý được bưng ra ân cần, đặt nhẹ nhàng ngay trước mặt, khói nghi ngút, thơm điếc mũi. Người đến ăn tưởng mình không phải đến quán mà cảm giác như ăn ở nhà người bạn thân vậy. Ngoài ra, các thứ tiêu, ớt, hành... thì ta cứ “vô tư”. Ngày xưa, từ Bắc chỉ có cái nghề ẩm thực truyền thống đặt trên vai, họ tự tin đi vào Nam lập nghiệp. Một gánh phở dựng lên. Rồi truyền nghề lại cho con. Con biết giữ lấy nghề cũng là một cách trả ơn bố mẹ. Và cũng chính nghề ấy đã tạo cho con cháu họ có cơ ngơi như ngày nay, học lên đại học, đi nước ngoài đến năm châu bốn biển cũng chỉ bắt đầu từ một gánh phở. Ông Minh, ông An đã tự hào tâm sự với tôi. Chắc chắn còn có nhiều người bán phở cũng tự hào như thế. Đang nghĩ lan man, bỗng tôi sực nhớ có một nhà văn từng viết, đại khái: có những món ăn không đủ ngon để lan rộng ra các nơi và cũng không đủ... dở để mất đi. Ta có thể ưỡn ngực lên mà tự hào rằng, phở đủ ngon để đến các nơi trên thế giới - miễn sao nơi ấy có cộng đồng người Việt. Này nhé! Những bát phở nổi tiếng như phở “quân khu”, phở “tàu bay”, phở “xe lửa”... cũng đã có mặt ở Cali (Mỹ), ở Paris (Pháp), ở Mạc Tư Khoa (Nga)... Chắc hẳn những người xa xứ trong một sớm tuyết mờ mịt, ngồi trong quán, nhìn ra ô cửa kính trắng đục mà lòng nhớ quê nhà da diết. Khi ấy, vừa nâng tô phở lên, chao ơi đã thấy lục phủ ngũ tạng của mình được chia sẻ, vỗ về với cái hương vị đằm thắm, quyến rũ không nguôi. Phở ạ! Sao mà thân thiết, thân mật đến thế. Nước nóng bỏng. Khói biếc xanh. Lòng bỗng ấm áp lạ thường như được tận hưởng cái nắng chói chang của quê nhà đang lững thững đến gần... Không chỉ đi xa ngàn dặm như thế mà phở còn được bỏ vào trong gói, chỉ cần một ít nước sôi là có thể... ăn liền. Xem ra một gói phở này có vài món gia vị: bột nêm, dầu sa tế, hành lá, ngò gai sấy khô. Thôi thì, đêm khuya sực nhớ đến phở thì ta cũng có thể tạm hài lòng với nó vậy. Sức quyến rũ của phở thật dữ dội quá. Nhưng xin hỏi ông anh, bà chị vậy phở là cái gì mới được chứ? Thì là... phở chứ còn gì nữa! https://thuviensach.vn HẠT GẠO CHIẾN TRƯỜNG https://thuviensach.vn 1. "Hết gạo rồi”. Tiếng kêu thảng thốt của đồng chí anh nuôi nén lại trong ngực, nhưng vẫn bật qua kẽ răng. Răng nghiến lại và tưởng chừng như cái vị ngọt, bùi quen thuộc lại thấm tê đầu lưỡi. Nhưng không, gạo đã hết nhẵn. Nửa đêm, đại đội trưởng quyết định mở một con đường tìm về hậu cứ. Để tải gạo. Không thể bám chốt trên đồi Con Cá ở Anlungveng với cái bụng đói meo, đói xé lòng mà từng ngày qua chỉ là cháo loãng độn với rau rừng. Chúng tôi đi trong đêm. Lính trinh sát cầm bản đồ, la bàn đi trước, tiểu đội tôi vác súng đi sau và cùng mơ về hạt gạo. Cái hạt gạo ấy, bình thường, chẳng mấy ai để tâm quan sát nó, nhưng khi đói mới thấy hết tự thân nó là một sức mạnh vĩ đại. Nó lớn lao đến nỗi, khi đó, trong giấc mơ tôi đều mơ về hình thù của nó. Mơ trong sự thèm thuồng và ước gì được nhai ngấu nghiến. Mơ ấy thật đẹp, đẹp nhất trong cuộc đời chiến binh, cũng như lúc khát đến cong lưỡi, lưỡi khô rang như một chiếc lá khộp, như cái bánh tráng tôi thường mơ chết đuối dưới sông dài... “Đi tải gạo”. Phập phồng trong lồng ngực là một niềm hân hoan như ngày xưa được mẹ dẫn đi chợ. Hân hoan vì sẽ còn thấy được hình ảnh: “Chờ bình minh cuộn tròn trong giấc ngủ/ Anh nuôi vo gạo bước qua sân”. Đó là những đêm ngủ yên giấc sau một ngày mệt nhọc chết chóc, không bị đánh thức bởi tiếng gầm đại bác từ nơi xa vọng đến. Bấy giờ, trong đêm đen, chúng tôi lại lầm lũi bước đi. “Vai hằn quai súng sau lưng/ Gấu quần rách toạc luồn rừng AnLung”, luôn nhắc nhở đến ngày tháng tươi trẻ này. Cho dù có cắt rừng bởi những tay trinh sát thiện chiến nhất, thì có lúc chúng tôi cũng https://thuviensach.vn vấp mìn. Tiếng mìn KP.2 nổ chát chúa như tiếng thét của tử thần xé ngang người. Người ngã nhào xuống đất như thân chuối bị nhát dao sắc lẹm bất thần vụt ngang. Thật lạ, trăm lần như một, trước lúc trở về hư vô lạ lẫm, bao giờ đồng đội tôi, ai cũng như ai đều há miệng gọi lần chót trong đời, chỉ hai từ: “Mẹ ơi!”. Hai tiếng gọi “Mẹ ơi” buồn rầu như tiếng kinh cầu của ngày tận thế. Có phải, đó là lúc bạn tôi nhớ nhất đến những hạt gạo được sàng, sẩy dưới bàn tay mẹ? Hình ảnh ấy thơ mộng biết bao nhiêu. Biết bao giờ mới được ăn lại hạt ngọc thơm thảo ấy như ngày thơ bé? Không bao giờ được nữa rồi. Không bao giờ bạn tôi còn có thể thấy lại một hình ảnh đã đi vào thơ của một thi sĩ miền Nam nước Việt: Nghiêng nghiêng bóng xế sau lưng mẹ Gạo trắng như màu tóc trắng phau. (Kiên Giang) https://thuviensach.vn 2. Cái hình ảnh hạt lúa có một sức mạnh khủng khiếp, thúc giục từng bước chân “đi tải gạo” nhanh hơn, nhưng cũng thận trọng hơn. Khi trở về đến hậu cứ thì trời cũng rạng sáng. Tiếng gà rừng gáy le te phía chân đồi như thúc giục bình minh đến sớm hơn. Vén màn sương, chúng tôi vào kho quân nhu nhận gạo. Trong lúc gạo được đổ đầy ba lô, đổ đầy vào ruột tượng, chúng tôi thường tranh thủ bốc từng nhúm gạo bỏ vào mồm nhai trệu trạo. Nhai như như một đứa trẻ nhai bầu sữa mẹ sau lâu ngày đói sữa. Chao ơi! Có đói, có thèm, có mơ, có nhớ thì mới cảm hết cái vị bùi bùi, cái hương ngòn ngọt tan dần, tan dần trên lưỡi. Nước bọt ứa ra chân răng. Tôi nhủ tôi, đừng vội nuốt, hãy ngậm miệng lại để từng phút cảm nhận trên từng centimet của cảm giác cái hương vị nhà quê. Vâng, gạo là quê nhà chứ còn gì nữa. Có những ngày bám chốt, chúng tôi phải ăn gạo sấy. Trời! Bẽ bàng làm sao, vô duyên làm sao cái hạt gạo đã được chuyển qua công nghệ sấy khô, đựng trong bịch nylon. Nước sôi đổ vào, cột túm lại giữ hơi nóng. Lát sau, gạo nở ra từng hạt vàng hoe. Từng hạt rời rạc. Nửa mềm nửa cứng. Nửa nam nửa nữ. Nửa đêm nửa ngày. Chẳng ra làm sao. Nhưng rồi cũng phải cố mà nhai, cố mà nuốt và cố mà sống cho qua những ngày tàn khốc của cuộc chiến. Lúc ấy mới thấy ông cha mình tài tình thật. Nói về cái ma lực ngàn đời quyến rũ của hạt gạo, chỉ với bốn từ “dẻo thơm muôn hạt” là đủ sức khái quát hết giá trị nhân văn của nó. Bốn từ ấy, thuyết phục ta hơn cả hàng trăm trang luận văn phân tích về phẩm hạnh hạt gạo của những vị tiến sĩ chưa một ngày cầm trên tay hạt gạo, chưa một lần được thấy cây lúa. https://thuviensach.vn 3. Phẩm hạnh của hạt gạo là gì? Tôi không dám lý sự dài dòng. Chỉ xin kể lại một kiểu làm bánh chỉ có thể có ở chiến trường Tây Nam. Đến bây giờ, nhớ lại, tôi vẫn thấy cái vị “dẻo thơm muôn hạt” còn ấm trong lưỡi, thơm trong răng. Khi có gạo, nhất là vào những dịp Tết, để có thức ăn mừng năm mới, mừng thêm một tuổi được sống sót sau những lần bị phục kích. Không biết ai nghĩ ra cái từ nghe là lạ, ngồ ngộ - nghĩa là hôm nào có cái gì ăn khác hơn, ngon hơn hằng ngày đều gọi tuốt là “cải thiện”! Anh nuôi của chúng tôi đã “cải thiện” như sau: Trước hết là sàng, sẩy để lựa ra những hạt gạo ngon, vo sạch rồi đổ vào xoong quân dụng. Mọi ngày chỉ bằng nước suối, nay có thêm cả nước thốt nốt nữa. Khi cơm sôi, mở nắp vung ra ta sẽ thấy dậy lên trong không gian một mùi thơm man mác, như hương trinh nữ lần thứ nhất hẹn hò bẽn lẽn. Cái thơm như rụt rè, thấp thoáng khiến ta vừa muốn vồ vập, nhưng lại ngần ngại... Ngần ngại cũng đúng thôi, vì lúc ấy chúng tôi đói, đang rất đói nên những muốn ăn ngay nhưng phải nén lòng chờ phút Giao thừa thiêng liêng đang đến gần. Lúc cơm đã chín, anh nuôi đổ ra cái rổ lớn, đặng mau nguội và chúng tôi được phân công nén lại thành từng chiếc bánh dẻo, hình tròn. Bánh chỉ ngon khi khoảng một chén cơm nóng được bỏ vào khăn tay rồi nhồi đi, nhồi lại nhiều lần. Hạt cơm vỡ ra, quyện vào nhau bền chặt. Chặt chẽ như vần thơ song thất lục bát không bao giờ chệch vần! Đến lúc thấy bánh cơm dẻo đã đạt yêu cầu của “hàng Việt Nam chất lượng cao”, chúng tôi ấn ở giữa một lõm sâu vào và đặt vào đó một cục đường thốt nốt chỉ bằng ngón https://thuviensach.vn tay út. Cái “nhưn” ấy rất quan trọng, khi đói người ta luôn có cảm giác thèm ngọt! Đơn giản vậy thôi sao? Vâng, chỉ có thế. Các chiếc bánh cơm dẻo này được đặt trang trọng ở bàn thờ Tổ quốc trong căn hầm của đại đội trưởng. Ai canh gác, ai cảnh giới thì cứ làm nhiệm vụ. Ai ngồi tụ năm tụ ba tán phét, kể chuyện ngày Tết thì cứ việc. “Giao thừa là để người câm/ Ngồi yên không nói nghe trầm hương bay”. Ấy là lúc sắp chạm đến thời khắc thiêng liêng. Không ai nói với ai một lời. Trầm ngâm và chụm tai nghe lời chúc Tết từ quê nhà qua làn sóng truyền thanh từ chiếc radio mà chỉ riêng đại đội trưởng mới có. Sau đó, chúng tôi chia nhau thưởng thức những cái bánh cơm dẻo do chính tay mình đã làm ra từ lúc trời vừa chập chững xế bóng. Đó là bữa ăn được “cải thiện” bởi đường thốt nốt, bởi phần quà quý báu mà thường ngày không thể có... Cầm trên tay chiếc bánh cơm dẻo, tôi nghĩ về hạt gạo. Nghĩ về mệnh lệnh ngắn gọn nhưng dứt khoát: “Đi tải gạo” trong lúc nửa đêm. Nghĩ về đồng đội tôi, có người “bỏ cuộc chơi” khi trên vai cõng ba lô đầy gạo, nhưng lại trở về cát bụi với bụng đói meo. Cái bánh cơm dẻo “nhưn” đường thốt nốt luôn luôn sống trong tôi như một niềm ân sủng mà tôi đã tìm được từ hạt gạo trong những ngày tháng sống ở chiến trường. https://thuviensach.vn GÓI MÂY TRONG ÁO... Có lẽ ấn tượng mạnh mẽ, khó quên nhất trong ký ức tuổi thơ tôi là năm tháng hoa niên, có lần đi cắm trại ở Huế. Ngày đó, trên đường lên chùa Từ Hiếu, bất ngờ nghe vọng lại lanh lảnh tiếng rao bán chè. Từ con đường làng vi vút thông reo, tôi nhìn thấy một phụ nữ mặc áo dài màu lam, đi chân đất, trên vai là đôi quang gánh. Chè ngọt và ngon. Khi bà bước đi, từ phía sau, tà áo phất phới reo vui, thoảng nhẹ theo gió. Hình ảnh như thật như mơ ấy đã đi vào tâm thức của cậu trò mới lớn. Và sau này, tôi còn bắt gặp áo dài trên xuôi ngược đường phố. Có lẽ xốn xang lòng người nhất vẫn là mùa hè, hoa phượng đỏ ngập sân trường, tiếng ve kêu râm ran, giữa trưa nắng lại thấy dập dìu nữ sinh khoác áo dài trắng. Ông thi sĩ Hoàng Trúc Ly, có lần đứng trước trường Nữ Trung học Hồng Đức ở Đà Nẵng, nhìn thấy hình ảnh đó, thốt lên: “Ô hay, con gái bay nhiều quá/ Hai cánh tay mềm như cánh chim”. Tà áo trắng ấy, như cánh chim ư? Tại sao không? Tùy theo tâm trạng lúc vui hoặc buồn, ngậm ngùi hay hào hứng khi bắt gặp tà áo dài, mỗi người có sự liên tưởng khác nhau. Ông Paris có gì lạ không em Nguyên Sa bằng tâm thức rất mơ mộng đã băn khoăn tự hỏi: “Có phải em mang trên áo bay/ Hai phần gió thổi, một phần mây/ Hay là em gói mây trong áo/ Rồi thở cho làn áo trắng bay?”. Ngay cả người Việt Nam “chính hiệu con nai vàng” cũng chưa thể lý giải hết ma lực quyến rũ, nền nã của tà áo dài thì người ngoại quốc còn ngắc ngứ đến dường nào? Nói như nhà văn Võ Phiến, có thể họ chỉ trầm trồ thốt lên ngạc nhiên: “Chời ơi! Áo dzài”. Nghe mà thương quá! Tà áo dài từ bao đời nay đã “hớp hồn” biết bao tao nhân mặc khách. Mỗi người có một sự liên tưởng khác nhau và có cảm giác ai cũng “choáng https://thuviensach.vn ngợp” trước vẻ đẹp đơn sơ, trong trắng ấy. Nói đầy đủ về lịch sử áo dài, phải là một công trình nghiên cứu công phu. Tôi dám quả quyết rằng, áo dài chính là sự cách tân từ kiểu áo dài năm thân truyền thống. Ngày 11.2.1934, trên báo Phong Hóa có bài viết Vẻ đẹp riêng tặng các bà các cô, tung ra kiểu “áo dài Le Mur” của họa sĩ Cát Tường. À, lạ chưa? Nhìn hình ảnh tư liệu, tôi nhận ra áo dài của thuở mới phôi thai là “cổ bánh bẻ”, “cổ viền” và phần tay áo là kiểu “đuôi tôm”, “quả tim”... Chắc chắn nhà văn Nhất Linh cũng góp phần không nhỏ tạo bởi các tranh minh họa do ông vẽ. Bấy giờ, tờ Phong Hóa rồi sau đó Ngày Nay do nhóm Tự Lực Văn Đoàn chủ trương in số lượng lớn nên áo dài “tân thời” được quảng bá rộng rãi. Ngay từ khi ra đời, áo dài mặc nhiên đã trở thành trang phục đặc trưng của con cháu Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Nét đẹp ấy đã trở thành biểu tượng của Việt Nam và mãi mãi trường tồn cùng Đất nước. Sau này, suốt một thời gian dài, do đời sống khó khăn, như một lẽ tự nhiên, tà áo dài biến mất trong sinh hoạt đời thường. Nếu có ai cắc cớ hỏi, vậy áo dài “sống” lại tự lúc nào? Không riêng gì tôi, cả thảy đều có một “đáp án” chung: Từ khi đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới. Sự trở lại này đã tạo một tiếng vang lớn trong dư luận thời ấy và đến nay vẫn còn âm vang. Sự hấp dẫn kỳ lạ của trang phục đã tôn vinh vẻ đẹp nữ tính của phụ nữ Việt khó có thể có câu trả lời chính xác, “trầm trọng” cỡ như: “Tại sao? Vì lý do gì?”. Mà đôi khi, cũng chẳng nên tìm hiểu bằng lý trí rạch ròi như cộng trừ nhân chia, cứ để cảm nhận ấy đến tự nhiên, như đã gió thì bay, và rõ ràng trong áo dài tự nó đã có... gió. Bằng chứng, khi nhìn một người phụ nữ bước đi, nhìn những đường nét gợi cảm của hình thể, ta chỉ thấy thấp thoáng mờ mờ ảo ảo bởi tà áo đã chuyển động che khuất. Chuyển động theo gió. Chuyển động theo mỗi bước đi nhịp nhàng. Có lẽ cô bé Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp nếu mặc quần jeans, áo thun, đi giày thể thao thì khó có thể hớp hồn các chàng trai qua nhiều thế hệ. Tại sao như thế? Với cách ăn mặc tân thời, dù có thuận tiện cho việc đi chùa đông đúc, phải đi qua“đường vách đá cheo veo” thì cũng làm sao có thể sống trong tâm trạng nhí nhảnh, thổn thức, đáng yêu đến lạ https://thuviensach.vn thường: “Làn gió thổi hây hây/ Em nghe tà áo bay/ Em tìm hơi chàng thở/ Chàng ôi, chàng có hay?”. Mẹ tôi đã già rồi nhưng bà vẫn nhớ như in ngày về quê chồng. Thuở cưới nhau trong kháng chiến, chỉ là quần đen, áo cộc tay như mọi thiếu nữ ngày đó. Rồi đất nước chia cắt, mãi đến lúc ngoài bảy mươi xuân, mẹ mới có dịp về quê chồng. Về lúc chồng đã mất, về với cảm giác cô dâu về nhà chồng nên không thể không mặc chiếc áo dài. Nhìn hình ảnh: “Mẹ bần thần đứng lại/ Vân vê vạt áo dài/ Nhìn xuống đôi guốc mộc/ Mòn vẹt gót chân chai”, tôi như nhìn thấy ở đấy chân dung của người thiếu nữ thuở vẫn còn xuân sắc. Kỳ lạ chưa, tự bản thân chiếc áo dài có thể “trẻ hóa” lại diện mạo, dù người đó đã bước sang tuổi “xưa nay hiếm”. Tôi không phải là nhà điều tra xã hội học nhưng tôi biết rằng, có những nữ sinh thời tiểu học nghịch ngợm như “con yêu bánh nậm” nhưng lên trung học lại dịu dàng hẳn. Hỏi tại cớ làm sao? Nhiều cô thỏ thẻ “niêm hoa vi tiếu” mà rằng: “Mặc áo dài thì không thể đi đứng nghênh ngang như trước”. Thì ra thế, hai vạt áo uyển chuyển nhẹ nhàng đã khiến tự người ta phải ý thức hơn trong hành xử. Đó không phải “quyền lực” của áo dài là gì? Cần nói thêm rằng, mặc áo dài là một sinh hoạt bình thường trong đời sống. Ai cũng có thể mặc, dù vóc dáng “như cánh vạc bay” hoặc “quá khổ” cũng thấy phù hợp bởi áo dài “hóa giải” một cách hợp lý. Không phải ngẫu nhiên trong ký ức của nhiều người vẫn còn nhớ như in hình ảnh phụ nữ mặc áo dài ra phố. Có thể đó là cô bán cá, bán rau, bà bán tạp hóa ngoài chợ, chị bán chè gánh hàng bán rong... chứ nào phải áo dài là riêng của những hội hè, hội nghị. Điều này có nghĩa, trang phục ấy phù hợp cho mọi hoàn cảnh, cho mỗi “giai tầng” giàu nghèo khác nhau. Hình ảnh thân thiện đó đã từng có, rồi một thời lại mất đi. Chẳng hề gì, “ăn theo thuở, ở theo thời”. Giờ đây, tà áo dài đã bắt đầu xuất hiện trở lại như một lẽ tự nhiên trong việc làm đẹp. Cái đẹp là gì nhỉ? Khó có thể có câu định nghĩa hợp ý với cả thảy mọi người, nhưng chỉ trong lĩnh vực thời trang, tôi nghĩ rằng, một khi ăn mặc thế nào mà cảm thấy mình ý tứ hơn, dịu dàng hơn và cũng dễ tạo ra thiện cảm, đó chính là đẹp. Với phụ nữ, sự trở lại của chiếc áo dài truyền thống, https://thuviensach.vn dù bây giờ đã ít nhiều có cách điệu đi nữa, là một lựa chọn của nhiều người. Sự lựa chọn ấy cho thấy rằng khi xuất hiện trước đám đông, tự nó đã nói lên các đức tính cần thiết của nữ giới. https://thuviensach.vn LẨN THẨN TỪ CHUYỆN XIN LỬA Thuở còn nhỏ, có những ngày rét mướt, gió chạy ù ù trên ngọn cây sầu đông, bà ngoại tôi bảo sang hàng xóm xin lửa. Chẳng nhiều nhặn gì, chỉ vài cục than hồng bỏ trên cái dĩa sành, phía dưới lót tro để khỏi nóng tay cầm. Chạy vù về nhà, chỉ lát sau bếp nhà tôi đã riu riu ngọn lửa ấm. Ngày xưa, láng giềng “tắt lửa tối đèn có nhau” là chuyện thường tình. Hình ảnh ấy có thể tìm trong thơ Nguyễn Bao, chắc ít người còn nhớ: “Dậy từ mờ tối/ Gọi nhau xin lửa qua rào...”. Còn nhớ một mẩu chuyện nhỏ, có một đứa trẻ - chắc cũng bằng tuổi hoa niên thơ mộng của tôi ngày trước, sang nhà văn hào Lev Tolstoi xin tí lửa. Nhận xong, cậu quay lưng bước đi, bỗng nghe tiếng nói hiền từ gọi lại: “Ta vừa nghe cháu nói gì phải không?”. Cậu bé ngạc nhiên quay lại: “Thưa, cháu nào có nói gì đâu ạ”. Nhà văn thở dài: “Ấy mà ta cứ tưởng cháu vừa thốt ra hai tiếng cám ơn”. Một bài học nhẹ nhàng về lòng biết ơn. Dễ nhớ nhưng khó quên. Có phải bi quan hay không khi nghĩ rằng từ “cám ơn” hầu như đã thất lạc đâu đó trên đường đời xuôi ngược này. Đã nhiều lần, tôi được chứng kiến cái cảnh khá phổ biến trên phố xá. Chỉ cần phóng xe nhưng quên gạt chống xe, sẽ lập tức có tiếng người đi sau hoặc ngược chiều nhắc nhở: “Kìa, cái chống xe”. Nhưng mấy ai đáp trả lại bằng tiếng: “Cám ơn”? Hay chỉ phản xạ gạt chống xe lên rồi rú ga chạy luôn? Thậm chí, tôi thấy có kẻ còn quay lại nhìn soi mói vào người vừa nhắc nhở với con mắt đầy cảnh giác. Tưởng chỉ là chuyện nhỏ, nhưng thật ra nó phản ánh cái tâm lý không dám tin nhau. Biết ai đó là ai mà tin? https://thuviensach.vn Đã có quá nhiều chuyện lừa đảo ngoài phố cũng từ những chuyện “làm ơn” như thế. “Kìa! Chị vừa đánh rơi cái gì phía sau xe đấy!”. Tưởng thật, ta vừa ngoái lui, dáo dác nhìn thì sợi dây chuyền trên cổ đã bị giật phắt! Nhanh như chớp. Riết, người ta đâm ra nghi ngờ chẳng dám tin ai, lúc nào cũng e dè, cảnh giác lẫn nhau. Mà cũng không trách được. Đôi khi chỉ là cái cớ hỏi đường, nhưng thoắt một cái người hỏi đường đã giật lấy cái túi xách của người vừa chỉ đường cho mình. Những màn kịch như thế đã diễn ra khá hoàn hảo. Thế thì, lần sau gặp một người hỏi thật, người ngu ngơ không biết phố xá và cần một lời hướng dẫn thì anh có dám dừng xe lại tận tình giúp đỡ không? Đời sống cũng buồn. Đã không biết “cám ơn”, liệu cái lòng “biết ơn” có còn sâu nặng? Trở lại với chuyện xin lửa. Ngày nay, hầu như nhà nào cũng dùng bếp gas. Chẳng cần phải “Gọi nhau xin lửa qua rào...” nữa. Nhà nào cũng kín cổng cao tường. Đèn nhà ai nấy sáng. Không riêng gì đời sống đô thị, ngay cả nông thôn cũng thế thôi. Có phải khi xã hội ngày càng hiện đại, con người càng ít quan tâm đến nhau? Người ta có thể biết chuyện đông tây ta bà thế giới chỉ bằng một cú click chuột. Nhưng chuyện buồn vui của nhà sát bên cạnh, chỉ cách một vách tường lại mù tịt. Sự quan hệ, giao tiếp với người chung quanh dường như càng thu hẹp lại. Chúng ta ngày càng ít có điều kiện giúp đỡ nhau để được nghe tiếng cám ơn trìu mến của nhau. Nói như thế chưa hẳn đúng, nhưng có lẽ lời cám ơn, sự bày tỏ lòng biết ơn cũng khác trước, đòi hỏi phải có cách biểu hiện khác. Bạn tôi vừa ra Hà Nội nhận công tác mới. Anh kể, dịp Tết vừa qua, anh dẫn vợ con đến nhà riêng của sếp để nói lời biết ơn tận đáy lòng mình, bởi nếu không có sếp “đỡ đầu” thì bạn tôi khó có thể “chăn êm nệm ấm” ở công việc mới. Anh thật tâm làm như thế, một phần cũng vì thuở nhỏ đã đọc mẩu chuyện về cụ Lev Tolstoi đã nhắc nhở cậu bé nọ lúc xin lửa. Trời ạ! Tưởng sao, nghe xong lời thổ lộ chân thành của anh, sếp bèn hỏi sỗ sàng: “Chỉ là nước bọt suông thôi sao? Anh bày tỏ lời cám ơn hay đang nhổ bọt vào mặt tôi đấy?”. https://thuviensach.vn LÀM SAO ĐỂ VUI SỐNG? Sống trên đời khó hay dễ? Trả lời thế nào là tùy vào nhận thức, quan niệm sống và góc nhìn của mỗi người. Tuy nhiên, có đôi lúc cảm thấy khó sống quá, chẳng phải vì đời sống kinh tế khó khăn, do vợ/ chồng “mèo mỡ” lăng nhăng, công việc không ổn định... mà lý do lại cực kỳ lãng nhách. Bỗng dưng một ngày thức dậy, nghe thiên hạ kháo nhau về mình với những lời thị phi ác ý, gán ghép cho bao nhiêu thứ mà mình không hề có. Nhiều người đã từng trải qua tâm trạng trái khoáy, éo le ấy mà chẳng biết làm sao có thể cải chính, “thanh minh thanh nga”. Ngày kia, anh bạn tôi nghe phong thanh thiên hạ đồn nhảm là anh muốn leo lên ghế giám đốc. Do đó, không chỉ viết thư nặc danh tố cáo người đương nhiệm mà anh còn kết bè kết bạn, “dây mơ rễ má” với phần tử xấu nhằm thực hiện âm mưu “đảo chính”! Đại loại những chuyện nhảm nhí này được rỉ tai, bỏ nhỏ khiến ai ai cũng cảnh giác, dè chừng anh mà trong khi đó, chính “đương sự” lại... không hề hay biết gì. Khi các thông tin này lọt vào tai, anh bàng hoàng, sửng sốt, nổi giận bởi không ngờ tại sao lại có chuyện kỳ quặc này? Những lời thị phi, đàm tiếu bôi nhọ người khác có muôn vàn động cơ khác nhau. Chỉ những người trong cuộc mới biết rõ sự thật nằm ở đâu. Trường hợp của anh bạn tôi, sau khi tìm hiểu kỹ mới thấy chỉ đơn giản như “đang giỡn”. Vậy mà cũng không tránh khỏi “búa rìu dư luận”. Lâu nay, làm việc tại cơ quan hầu như anh không “bà tám”, “buôn dưa lê”, chỉ chú trọng vào chuyên môn, tích cực hoàn thành nhiệm vụ. Đâu phải ai cũng nhìn nhận đó là sự tích cực? Có người suy luận anh khéo “đóng kịch”, tạo ra một hình ảnh “năm bờ oan” để “lấy điểm” đồng nghiệp, chứ nào tốt lành https://thuviensach.vn gì. Rồi đến lúc bầu bán, sắp xếp nhân sự, nhiều người cảm thấy anh có thể đạt phiếu tín nhiệm cao nên tung tin “lập lờ đánh lận con đen” cho bõ ghét! Sự đời đôi lúc thật éo le, nếu cứ nghĩ ngợi rồi tâm tư bực dọc với những thứ u ám, xấu xa tự dưng trút xuống đầu, thử hỏi, làm sao vui sống? Tôi xin kể câu chuyện mà chính anh bạn tôi đã tâm tình, nhờ đó, đã bình tâm trở lại. Chuyện rằng, ngày nọ một vị giám đốc gọi cô nhân viên lên phòng làm việc. Sau khi trừng mắt nhìn, ném một xấp thư tố cáo trước mặt, ông ta mời cô ngồi xuống ghế và nói rành rọt từng câu, từng chữ nghe nổi da gà: “Tôi biết trong công việc, cô là người tích cực, năng suất tốt nhưng tại sao vẫn nghe anh em xì xào, đàm tiếu chuyện này chuyện nọ không hay ho gì về cô?”. Với người khác, ắt sẽ gân cổ lên bù lu bù loa: “Chuyện gì? Bằng chứng đâu? Tại sao lại gắp lửa bỏ tay người?” rồi đùng đùng nổi giận. Thế là cuộc trò chuyện có nguy cơ trở thành cuộc đối thoại, đấu khẩu rất ác liệt. Nhưng không. Sau khi nghe sếp hỏi, cô vẫn bình tĩnh, nhỏ nhẹ: “Thưa sếp, sếp có nghĩ thế này không? Suốt cả mấy tháng trời hạn hán, nắng gắt bỗng dưng có trận mưa rào, phải chăng ai cũng vui mừng? Vâng, có người vui mừng vì ruộng đất hoa màu tươi tốt, trời đất mát mẻ nhưng cũng có người bực bội, cáu gắt vì đường bẩn, mưa ướt người”. Thấy giám đốc chăm chú lắng nghe, cô mạnh dạn nói tiếp: “Mùa xuân, hoa nở. Mùa hè, trời nóng. Mùa thu, gió mát. Mùa đông, lạnh lẽo. Ấy là lẽ thường tình nhưng vẫn có người thích, kẻ không. Trời đất vốn “tự nhiên như nhiên” không thiên vị mà vẫn bị thế gian trách hận ghét thương. Sinh ra đời, chẳng có ai vẹn toàn cả, vì thế, tôi làm sao tránh được lời chê bai, chỉ trích? Có điều trước những lời thị phi, xin sếp cần bình tâm xét lại. Nếu cấp trên nghe lời thị phi, ắt nhân viên bị hại. Cha mẹ nghe lời thị phi, con bị ruồng bỏ. Vợ chồng nghe lời thị phi, gia đình ly tán...”. Cô vừa nói đến đó, vị giám đốc gật gù: “Cô nói đúng. Tôi đang suy nghĩ lại. Cô hãy trở về phân xưởng và làm tốt công việc của mình”. Trong trường hợp này, có hai điều đáng quý: thứ nhất, người đứng đầu cơ quan đã biết nghe lời phải, không vội tin những lời xàm bậy, đồn đãi hại https://thuviensach.vn đến danh dự một người; thứ hai, dù bị chế giễu, nói xấu nhưng cô nhân viên vẫn bình tâm xử lý những đồn thổi không tốt về mình. Điều này, tưởng đơn giản nhưng rồi trong xử thế, không phải ai cũng có thể làm được. Đọc Chiến quốc sách, có lẽ ai cũng rùng mình cho câu chuyện của vua Sở. Ngày kia, vua Ngụy tặng cho vua Sở một giai nhân sắc nước hương trời. Nhà vua cưng chiều nhất trong đám cung tần mỹ nữ. Dù vậy, bà Trịnh Dữu vẫn lẳng lặng cấp thêm cho nàng nhiều lụa là, châu báu. Vua Sở tin bà không ganh ghét, ghen tuông. Tuy nhiên, lần nọ bà bảo mỹ nữ kia: “Vua yêu vẻ đẹp, nhưng ghét cái mũi của em. Khi gặp vua, em hãy che cái mũi đi nhé”. Cô này tin thật và làm theo. Vua ngạc nhiên hỏi Trịnh Dữu: “Vì sao hễ gặp ta, cô ấy lại che mũi?”. Trịnh Dữu đáp: “Cơ hồ như nó không ưa cái hơi thối của đại vương”. Chỉ câu nói đó, nghe mà không suy xét nên vua Sở nổi giận: “Hỗn láo thật”. Rồi ra lệnh... cắt mũi của mỹ nữ! Làm sao có thể dò xét hết tâm địa của con người, một khi họ muốn ám hại ai khác? Nghe ai đó rỉ tai rằng, anh A, cô B đã nói về mình thế này, thế nọ, lập tức có người nhảy dựng lên như đỉa phải vôi, đỏ mặt tía tai quyết “ăn thua đủ”. Cái nguy hại nhất, chưa kiểm chứng thông tin chính xác đến mức độ nào mà đã bày tỏ chính kiến. Thái độ và hành động đó khôn ngoan hay ngốc dại? Trong khi đó, những kẻ tung tin, rỉ tai nhằm “hạ bệ”, bôi nhọ người khác có lúc nào tự nghĩ, lời lẽ ác ý của mình cũng có thể “giết chết” một con người theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thái độ và hành động đó quân tử hay tiểu nhân? https://thuviensach.vn SỐNG VUI TỪNG NGÀY Ngày đầu năm, nắng ngoài đường mơn mởn như thiếu nữ dậy thì. Lòng dạt dào cảm xúc. Nếu tĩnh tâm, ngồi một mình và nghĩ về năm tháng đã qua, lúc ấy, con người ta thường nghĩ về điều gì? Chẳng biết người khác ra sao, còn tôi, lại nghĩ đến một “nghịch lý” mà bất kỳ ai cũng có lúc ngồi thừ người, tặc lưỡi: “Thời trẻ, cái gì cũng có. Có từ nhan sắc, thời gian, sức khỏe đến khát vọng đội đá vá trời nhưng than ôi, điều quan trọng nhất là tiền thì trong túi không một xu teng nào. Ngược lại khi đã về già, có tất tần tật mọi thứ, tất nhiên có tiền, thậm chí có nhiều tiền, có từ vợ đẹp con ngoan, nhà cao cửa rộng đến địa vị xã hội, chỉ oái oăm nhất là không có nhiều sức khỏe”. Giữa tiền và sức khỏe, cái nào quan trọng hơn? Thật khó trả lời. Chỉ biết rằng, khi cơ thể “trục trặc” gì đó, dù chỉ là cảm cúm nhức đầu sổ mũi, con người ta mới thấy sức khỏe là cái quý nhất. Nằm trên đống tiền, nhưng nói không ra hơi, đi đứng không nổi phải chờ người khác dìu từng bước quả là một cực hình. Những đồng tiền khi ấy chỉ có ý nghĩa nếu nó đem lại sức khỏe. Rồi lúc ấy, người ta chợt “ngộ” ra có tiền chưa chắc đã “mua” được sức khỏe. Thế thì, có được thân thể cường tráng, mạnh khỏe là mong muốn của nhiều người, kể cả ông Bành Tổ trong huyền thoại phương Đông trường thọ đến ngàn tuổi. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có ca từ: “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui. Chọn những bông hoa và những nụ cười”. Theo tôi, ấy là người biết tận hưởng cuộc đời này. Để tâm trí thư thái, phơi phới yêu thương ắt không thể chọn những tiếng cãi vã, đôi co tục tằn, ganh ghét, tị hiềm... Nhìn thấy một bông hoa tươi tắn, trong lòng vẫn gợi lên nhiều cảm https://thuviensach.vn xúc thẩm mỹ hơn là nhìn gương mặt yêu thương, dẫu là vợ mình nhưng lúc nào cũng nhăn nhó, cáu gắt. Ông bà ta thường “ăn cục nói hòn” không văn vẻ, cầu kỳ nhưng chuẩn xác: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Ấy cũng là điều mà Phật dạy. Hãy mở rộng cánh cửa tâm hồn mình bằng sự từ bi hỉ xả, có như thế, con người ta mới có thể cười vui với cuộc đời này. Sống trong đời, ai lại không có lúc thất bại, gặp những điều không như ý? Nhưng tôi nghĩ rằng, hơn nhau ở chỗ mỗi người đón nhận như thế nào. Có người u sầu, chìm đắm vào ảo não đó; có người mạnh dạn chấp nhận để tìm cách thay đổi. Hãy nhìn vòm xanh kia, bông hoa nọ thì sẽ thấy cuộc đời mình cũng thế. Lá xanh rồi đến lúc vàng úa, rụng xuống. Rồi thời gian sau mầm xanh lại nhú lên. An nhiên ấy cũng là phẩm chất của người tự tin và chấp nhận quy luật thay đổi trong cuộc sống. Không riêng gì dân tộc Việt, mọi dân tộc trên thế giới đều tự “quy ước” ngày năm mới không ai được giận dữ, mắng nhiếc, cãi cọ... mà dành cho nhau nụ cười, trao cho nhau niềm vui. Nếu một năm, lúc nào, ngày nào con người ta cũng ứng xử với nhau như thế, có lẽ tuổi thọ sẽ tăng thêm nhiều lần. Sở dĩ câu thơ của Kahlil Gibran được yêu thích bởi nó đã nói đúng khát vọng thẳm sâu trong tâm hồn con người: Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy Ta được thêm ngày nữa để yêu thương. Câu thơ này trích trong tập thơ Nhà tiên tri (The Prophet) xuất bản năm 1923, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh dịch. Ai lại không ý thức, tin tưởng để vui sống mỗi ngày? Nhưng rồi trong bộn bề công việc, có lúc không thể tránh khỏi va chạm, tranh cãi chí chóe đã khiến lòng chùng lại. Trời đang xanh bỗng chuyển gió mây mù. Kỳ cục cho tâm lý mỗi chúng ta, có nhiều mối quan hệ đã là ruột thịt, bạn bè thân tri kỷ, nhưng rồi, lúc không hài lòng lập tức trong lòng dậy sóng u ám. Bao nhiêu tính tốt của họ, ta quên béng hết; phần “chơi được” ở họ tan biến đi, chỉ còn lại hình ảnh “không ra gì”, chỉ thấy sự xấu xa, đáng ghét. Mà một khi oán ghét ai đó, chính là lúc tự làm khổ mình vì phải canh cánh gánh lấy sự bực bội, nhìn đâu cũng thấy ngao ngán, mỏi mệt. Nghĩ về https://thuviensach.vn điều tốt, hướng thiện thì trong lòng nhẹ nhàng, có thể vui vẻ huýt sáo thong dong, ngước nhìn trời xanh mây trắng. Thi hào Nguyễn Du đã nói được một điều hiển nhiên, ai cũng thừa nhận là đúng: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Hết thảy các sự việc dù bi quan, lạc quan nghĩ cho cùng cũng tự lòng mình mà ra. Vậy làm thế nào để giữ được sự nhẹ nhàng tâm hồn, luôn có cái nhìn thân thiện với anh em, bầu bạn? Thời hoa niên, ngày ấy, nhà tôi sống gần chùa Tỉnh Hội. Có một điều khó lý giải là vì sao các chú tiểu trạc tuổi bọn tôi, lại điềm tĩnh, chững chạc và “người lớn” chứ không hề “tâm viên ý mã”? Tại sao thế? Nghe tôi hỏi, bà ngoại tôi bảo, do các tiểu sống trong không gian thanh tịnh và ăn chay nên tính tình đằm lại. Có đúng vậy không? Mãi đến lúc đã “ngũ thập” tôi mới nhận ra bà tôi nói đúng. Ích lợi của việc ăn chay, không gian sống tác động đến sức khỏe, tâm tính như thế nào, các bác sĩ đã giải thích, tôi xin phép không lạm bàn. Tuy nhiên, chỉ như thế có lẽ vẫn chưa đủ. Thêm một điều quan trọng vẫn là sự “định hướng” của chính mình. Đọc tập sách Cõng nhau trong một cõi người (NXB Trẻ) của Hoàng Công Danh, tôi chú ý đến chi tiết: Chú tiểu Sanh (còn gọi là “điệu”) chỉ mới chừng lên mười, do nặng nghiệp Tam bảo nên được cha mẹ gửi vào chùa sống với sư thầy. Ngày nọ, dọc con đường lên chùa, bỗng dưng mọc lên la liệt... quán nhậu! Từ đó, điệu Sanh và đạo hữu: “Đi quá một đoạn rồi nhưng vì mùi hành mỡ khiến điệu chững lại, đi chậm hơn. Cho đến khi nghe tiếng chuông chùa điệu mới rảo bước đi cho dứt được”. Thậm chí có lúc: “Đến ngang quán nhậu, mùi thịt hầm đã xốc ngay vào mũi. Nước bọt cứ ứa ra chèn lấy cổ họng khiến điệu không thể niệm chú được nữa. Bước chân cũng nhấc chậm lại, nặng nề hơn”. Một ngày kia, điệu Sanh buồn buồn mếu miệng thưa với thầy: “Thầy ơi, con không đi đường đó nữa”. Có phải đó là giải pháp hữu hiệu nhất? Nếu khu phố mình đang sống không hề “văn hóa” chút nào, này nhà nọ có thói xấu đổ bừa rác ra ngoài đường, thú nuôi phóng uế bừa bãi, nọ nhà kia thường chửi vợ mắng chồng..., mình phải dọn đi nơi khác chăng? Do cãi cọ với đồng nghiệp, không được sếp cất nhắc, mình tìm cách “giải thoát” bằng cách nghỉ để qua một công sở khác chăng? https://thuviensach.vn Trước khi tìm câu trả lời, ta hãy trở lại với câu hỏi của điệu Sanh, sư thầy đã trả lời thế nào? Thế này: “Có một con đường ấy thôi con, chẳng thể còn lối nào khác. Đi cho khéo là được”. Ta hiểu rằng, “Đường đạo đường đời chung nhau, dẫu có chỉ dẫn hay không thì điều quan trọng là do người đi mà thôi”. Đúng quá, cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề cuối cùng vẫn do nhận thức của chính mình. Trên đời, không có một ai hoàn toàn xấu và ngược lại. “Nhân vô thập toàn” kia mà. Ngay cả tử tù vẫn còn có điểm sáng cuối cùng, ít ra đó là giây phút ăn năn, hối hận vì tội ác đã gây ra. Nhìn thấy “điểm sáng” của người khác tưởng dễ nhưng thật ra lại khó, nếu cái tâm không khoáng đạt, khoan dung, hỷ xả. Đứng trước công chúng, vị giáo sư nọ cầm tờ giấy trắng và quẹt lên một dấu chấm đen. Ông ta đưa lên và hỏi người đứng gần nhất: “Anh thấy gì?”. Người này trả lời: “Một dấu chấm đen”. Ông lại tiếp tục hỏi những người khác và cũng đều nghe câu trả lời tương tự. Cuối cùng, ông nói: “Vâng, có một dấu chấm đen nhưng không ai nhìn thấy tờ giấy trắng”. Bài học này nhẹ nhàng nhưng gợi lên nhiều suy nghĩ. https://thuviensach.vn KHÔNG VIỆC GÌ PHẢI VỘI Sau một giấc ngủ dài, ngay lúc vừa thức dậy, việc đầu tiên là bật dậy khỏi giường. Rời khỏi phòng ngủ. Không chần chừ. Không nấn ná. Công việc của một ngày đã bắt đầu. Ai nấy cũng đều có cảm giác thời gian trôi qua rất nhanh. Vừa điểm tâm vừa thắt cà vạt; vừa ủi quần áo vừa thắt dây giày; vừa trang điểm vừa dỗ con ăn sáng; vừa phóng xe đến công sở vừa tranh thủ đưa con đến trường... Thời gian quay nhanh như chong chóng. Mà mọi việc đâu đã thu xếp xong. Buổi sáng nào cũng thế. Bận rộn quá thể. Bận lắm. Vì thế, lúc mở mắt dậy, chẳng ai đủ kiên nhẫn nấn ná nằm lại trên giường chỉ một phút, một giây dù đang muốn. Chẳng ai cho phép mình mơn trớn thêm một chút nào nữa với chăn êm nệm ấm. Phải vùng dậy thôi. Lịch làm việc dài dằng dặc đã hiện ra trong óc với biết bao công việc phải làm trong ngày. Thế mà, kỳ cục chưa, khi đọc tập sách nổi tiếng Sống đẹp của nhà văn Lâm Ngữ Đường qua bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, ta lại thấy có một quan niệm khác. Theo ông, mỗi sáng thức dậy, không việc gì phải vội đến thế:“Lý Lạp Ông trong thiên “Dương liễu” khuyên ta nên nằm trên giường nghe tiếng chim hót lúc bình minh. Sáng sớm tỉnh dậy nghe chim hót thì cảnh giới nào đẹp bằng nữa”. Chà, buổi sáng nằm nán trên giường nghe tiếng chim hót kể ra không phải điều gì mới lạ. Nhưng rồi, đã mấy ai tận hưởng được lạc thú đó? Có phải đó cũng là một trong những nghệ thuật sống chậm trong đời sống của văn minh cơ giới đấy không? Hơn nữa, mấy ai đã nhìn ra một điều hiển nhiên như Lâm Ngữ Đường: “Khi nằm ở giường bắp thịt ta được nghỉ ngơi, mạch chạy chậm hơn, đều hơn, các dây thần kinh thị giác, thính giác bình tĩnh hơn, nên ta thấy thoải mái, gần như có thể tập trung tinh thần một https://thuviensach.vn cách tuyệt đối vào các ý tưởng, các cảm giác. Vả lại chính lúc đó những giác quan của ta như khứu giác, thính giác mẫn tuệ nhất, cho nên phải nằm mà nghe âm nhạc thì mới thưởng hết được cái hay”. Chính nhờ thế, đôi khi chỉ một khoảnh khắc thư giãn nhẹ nhàng trong buổi sáng, người ta phát hiện ra nhiều điều thú vị chung quanh. Nhà văn Lâm Ngữ Đường hào hứng “khoe”: “Tôi còn nhớ cái vui lớn nhất của tôi suốt mùa xuân năm nọ là được nghe tiếng chim hót của một loài chim giá cô (perdrix)”. Rồi ông phân tích âm giai của khúc giao duyên đã được nghe trong một sáng yên lành. Tự dưng, tôi thoáng nghĩ, đôi khi lạc thú trên đời chẳng phải tìm kiếm xa xôi nơi đâu, nó hiện diện đâu đó rất gần gũi mà tại sao lâu nay không biết đến? Không biết đến, chẳng qua ta không dành lấy một khoảng thời gian tĩnh mịch, trầm tư cho riêng mình. Thời gian vội vã cuốn người ta trôi theo dòng chảy mỗi ngày. Rồi sẽ đến lúc: “Mệt quá đôi chân này. Tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi” (T.C.S). Có điều đơn giản như sống thì phải thở, đói thì ăn, mệt thì nghỉ. Nhưng mấy khi ta dám nghỉ ngơi giữa một ngày tất bật, ồn ào, đua chen, náo nhiệt đang giăng lưới vây bủa trong từng khoảnh khắc? Có những lúc đã mỏi mệt đứ đừ với công việc, phải tính toán căng mắt với từng con số, phải tranh cãi chí chóe về kế hoạch này nọ, vậy mà ta có dám nghỉ ngơi, xả hơi một chút hay cứ tiếp tục gắng thêm, cố gắng thêm một chút nữa? Than ôi, cái sự bận rộn ấy cũng có thể do chính ta tự tạo ra đấy thôi. Không có gì phải vội. Nếu vội làm sao có thể tìm thấy lạc thú ở trên đời? Để có một tình yêu, tôi trồng một cây xanh Để có một cây xanh, tôi gieo vào lòng tôi một hạt mầm hy vọng. Hình ảnh tốt tươi nhất của nhiều người, có lẽ là những lúc ngay tại mảnh đất nho nhỏ trước nhà, họ gieo một hạt giống, ngày ngày tưới nước và mong ngóng, chờ đợi hạt mầm sẽ nhú lên. Chờ đợi ấy đem lại niềm vui nho nhỏ trong sự nhẫn nại, niềm hy vọng và mở ra nhiều điều kỳ diệu của trí tưởng tượng. Rằng ngày mai, từ khoảnh sân nhà mình sẽ mọc lên một https://thuviensach.vn cây xanh, bóng mát rợp một khoảng trời. Chỉ nghĩ đến thế, đã thấy rạo rực một niềm vui. Trong cái đời sống của một công chức mẫn cán, đôi lúc tôi đã quên hẳn đi một góc vườn nhỏ nhoi đã từng hằn vết trong trí nhớ. Sung sướng nhất của ngày tuổi nhỏ, với tôi là những buổi trưa trốn ngủ, lấm lét nhìn trước ngó sau rồi chạy vụt ra ngoài vườn. Vườn nhà ông ngoại tôi có cây ổi, cây đào, hồ cá, những chậu hoa hồng và những vạt cỏ non. Một góc vườn nhỏ nhoi, tôi đã ngồi làm thơ trong tháng ngày hoa niên. Tuổi thơ tôi là cả một vòm thiên nhiên ùa vào mắt trong mỗi ngày. Thức dậy sớm, đi học bao giờ tôi cũng nghe tiếng chim ríu ran trên vòm xanh. Cây cối đã trở nên thân thiện, đã là những “người bạn”. Mỗi chiều đi học về, tưới cây, và ngắm nhìn từng búp nõn biếc xanh, từng nụ hồng khoe sắc. Rồi một ngày kia, ông ngoại tôi mất. Biết ông yêu quý cây, lũ nhóc chúng tôi lấy vải trắng quấn quanh mỗi thân cây. Cây để tang cho người. Có một điều kỳ lạ, sau đó, dần dần các cây hồng, cúc, thược dược, huệ... đều héo úa. Lá rụng dần. Hoa rũ cánh. Người đi, hoa cũng đi theo. Giữa người và hoa có chung một nỗi niềm gì chăng? Từ đó, tôi nghĩ vu vơ rằng, cây cối quanh ta cũng có linh hồn, có những buồn vui như con người đấy thôi. Có điều ta đủ tinh tế để nhận ra từng “tiếng nói” xào xạc, thầm thì mỗi ngày? Góc vườn quạnh hiu ấy, luôn gợi trong tôi một dĩ vãng êm đềm. Vào lúc tuổi đã sắp già mới thấy yêu, thấy thấm thía câu thơ của Hồ Dzếnh: Đừng mong ước cả thiên đường Hãy xin lấy nửa tấc vườn vắng hoa Bây giờ, sống giữa Sài Gòn tấp nập. Sợ nhất là lô cốt chắn ngang đường. Có đôi lúc, tôi nhẫn nhục nhích từng vòng bánh xe lăn. Rã rời, mệt mỏi đến vô cảm. Thần xác như vô hồn. Không một buồn vui gì, chỉ chăm chú nhích từng bước giữa tiếng động cơ gầm rú, bụi khói mịt mù. Mỗi một ngày tôi lại ra đi Lô cốt lô cốt lô cốt Kèn xe cấp cứu rú nghiêng trời Tôi bất lực đứng yên như tượng đá Cỏ dại cũng mồ côi... https://thuviensach.vn