🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cô Gái Người Anh Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn CÔ GÁI NGƯỜI ANH ———★——— Nguyên tác THE ENGLISH GIRL - 2013 Tác giả DANIEL SILVA Người dịch HOÀI NGỌC Nhà xuất bản TRẺ ebook©vctvegroup 29-05-2020 https://thuviensach.vn Như thường lệ, tặng vợ tôi, Jamie, và các con của tôi, Lily và Nicholas https://thuviensach.vn Ai sống đồi bại thì chết cũng đồi bại. • Tục ngữ đảo Corse https://thuviensach.vn PHẦN MỘT CON TIN https://thuviensach.vn 1 LÀNG PIANA, ĐẢO CORSE BỌN CHÚNG ĐẾN tìm cô cuối tháng Tám trên đảo Corse*. Thời gian chính xác sẽ không bao giờ xác định: dù đã cố hết sức, bất cứ người bạn nào ở chung nhà với cô cũng chỉ biết là thời điểm nào đó từ lúc mặt trời lặn đến giữa trưa ngày hôm sau. Mặt trời lặn là lúc họ nhìn thấy cô lần cuối, đang phóng nhanh trên chiếc xe máy scooter* màu đỏ ra khỏi lối vào biệt thự, một chiếc váy bằng vải bông mỏng tang phấp phới trên cặp đùi rám nắng. Đến giữa trưa là lúc họ nhận thấy giường cô trống không, chẳng có gì ngoài một cuốn tiểu thuyết bìa giấy rẻ tiền đang đọc dở dang thơm mùi dầu dừa và thoang thoảng mùi rượu rum. Hai mươi bốn giờ nữa trôi qua rồi họ mới quyết định đi gọi hiến binh* Pháp tới. Đã có một mùa hè như thế, và Madeline là một cô nàng như thế. Họ đã tới đảo Corse nửa tháng trước, bốn cô nàng xinh đẹp và hai anh chàng đứng đắn, tất cả đều là công chức mẫn cán của chính phủ Vương quốc Anh, hoặc là đảng viên đảng cầm quyền dạo ấy. Họ có một chiếc xe hơi đơn sơ, một chiếc hatchback hiệu Renault của cơ quan vừa đủ lớn để sắp xếp cho năm người ngồi không được thoải mái, và một chiếc scooter màu đỏ là độc quyền của riêng Madeline mà cô vốn cứ cưỡi nó rồi phóng đi bạt mạng gần như là tự sát. Biệt thự màu đất son của họ tọa lạc ở rìa phía Tây ngôi làng trên một mỏm đá nhìn ra biển cả. Nó ngăn nắp gọn gàng và vững chắc, một kiểu cơ ngơi mà các nhân viên môi giới bất động sản vẫn luôn mô tả là “quyến rũ”. Còn có một hồ bơi và một khu vườn có tường rào đấy những bụi hoa hương thảo và những cây mát tít; và trong hàng giờ đồng hồ đổ bộ lên đảo, họ đắm mình trong một tình trạng bán khỏa thân https://thuviensach.vn cháy nắng thật sung sướng, điều mà các du khách Anh luôn khát khao mong mỏi, bất kể chuyến lữ hành đưa họ đến đâu. Mặc dù Madeline trẻ nhất trong nhóm, nhưng lại là người chỉ huy không chính thức của họ, một gánh nặng mà cô chấp nhận chẳng hề phản đối. Chính Madeline đã lo thuê biệt thự, và Madeline đã sắp xếp các bữa ăn trưa kéo dài, các bữa ăn tối muộn màng và chuyến đi một ngày vào nội địa hoang dã của đảo Corse, lúc nào cô cũng dẫn đầu dọc theo con đường đầy bất trắc trên chiếc scooter của cô. Không chỉ một lần cô bực bội vì phải dừng xe tham khảo bản đồ. Kiến thức thuộc hàng bách khoa toàn thư của cô về hòn đảo này trên các phương diện địa lý, lịch sử, văn hóa và ẩm thực được tích lũy trong suốt quá trình nghiên cứu và chuẩn bị kỳ công trong những tuần lễ trước ngày lên đường. Dường như Madeline chẳng hề phó mặc cho may rủi bất cứ việc gì. Nhưng rồi hiếm khi cô làm những việc đã chuẩn bị kỹ. Cô đã đến làm tại trụ sở của đảng tại tòa phức hợp Millbank hai năm trước, sau khi tốt nghiệp Đại học Edinburgh với tấm bằng cử nhân kinh tế và các chính sách xã hội. Mặc dù cô thụ hưởng một nền giáo dục hạng hai - hầu hết đồng nghiệp của cô đều được đào tạo từ các trường công dành cho giới thượng lưu và Oxbridge - cô thăng tiến nhanh chóng qua một loạt chức vụ ở văn phòng trước khi được thăng chức Giám đốc Bộ phận Hỗ trợ cộng đồng. Công việc của cô, như cô thường mô tả, là sục sạo tìm kiếm phiếu bầu trong các tầng lớp người dân Đảo quốc Anh chưa từng làm gì để ủng hộ đảng, cương lĩnh hay các ứng cử viên của đảng. Tất cả đều đồng ý chức vụ đó chẳng qua chỉ là một trạm dừng chân trên hành trình tiến tới những công việc tốt hơn. Tương lai của Madeline thật sáng chói - “rực sáng như mặt trời,” theo lời của Pauline, cô gái từng theo dõi sự thăng tiến của đồng nghiệp trẻ hơn mình với không ít ghen tỵ. Theo lời đồn đại lan truyền, Madeline đã được một nhân vật cao cấp trong đảng bảo bọc che chở. Ai đó thân cận với Thủ tướng. Thậm chí có lẽ chính Thủ tướng. Với ngoại hình ăn ảnh truyền hình, khả năng lập luận sắc bén và tiềm năng vô hạn, Madeline đang được chuẩn bị để ngồi vào một ghế an toàn trong Nghị viện https://thuviensach.vn và một bộ của riêng cô. Chỉ là vấn đề thời gian. Hay là người ta đã nói như vậy. Điều càng kỳ quặc hơn nữa là đã hai mươi bảy tuổi mà Madeline Hart, vẫn chưa bị tình cảm lãng mạn ràng buộc. Khi được yêu cầu giải thích về đời sống tình ái khô khan của mình, cô thường tuyên bố vì quá bận rộn nên không thể cặp đôi với đàn ông. Fiona, một người đẹp tóc đen hơi ác mồm ác miệng ở Văn phòng Nội Các, thấy lời giải thích đó thật đáng ngờ. Hơn nữa về điểm này, cô tin rằng Madeline vẫn hay lừa dối - tính hay lừa dối là một trong những tính cách mà Fiona cho là dễ chấp nhận nhất, vì vậy cô mới ưa thích các quan điểm chính trị của đảng. Để chứng minh lập luận của mình, cô thường chỉ ra rằng Madeline, trong khi vẫn nói huyên thuyên về hầu như mọi đề tài có thể nghĩ ra, lại đề phòng thủ thế một cách bất thường khi đề cập tới cuộc sống riêng tư. Đúng thế, Fiona nói, nó sẵn lòng tung ra những chuyện vặt vãnh vô hại thỉnh thoảng xảy ra trong thời thơ ấu không yên lành của mình - ngôi nhà hội đồng* buồn thảm ở Essex, ông bố mà khuôn mặt nó hoàn toàn không thể nào nhớ lại, người anh nghiện rượu cả đời chưa bao giờ làm việc một ngày nào - nhưng mọi chuyện khác nó vẫn giấu kín sau một con hào sâu và những bức tường bằng đá. “Có thể Madeline của chúng ta từng là sát thủ trên tình trường hoặc là gái hạng sang,” Fiona nói, “và bọn mình chả có đứa nào khôn hơn nó.” Nhưng Alison, một nhân viên cấp dưới ở Bộ Nội vụ đã có nhiều đổ vỡ, từng có một lập luận khác. “Con cừu non đáng thương đang yêu,” cô tuyên bố vào một buổi chiều khi ngắm Madeline như một nữ thần hiện lên từ biển cả trong một cái vũng nhỏ xíu bên dưới biệt thự. “Rắc rối là người đàn ông có liên quan không đáp lại ân tình ấy.” “Sao lại không nhỉ?” Fiona hỏi một cách đờ đẫn từ bên dưới cái vành mũ che nắng to tướng. “Có lẽ hắn ở một vị thế không thích hợp.” “Có vợ rồi ư?” “Lẽ đương nhiên là thế.” https://thuviensach.vn “Đồ khốn nạn.” “Cô chưa bao giờ sao?” “Từng có quan hệ với đàn ông có vợ ư?” “Phải.” “Chỉ có hai lần thôi. Nhưng tôi đang dự tính làm tiếp tập ba đấy.” “Cô sắp bị hỏa thiêu dưới địa ngục, Fi ạ.” “Tôi thực sự mong như thế đấy.” Chính là lúc đó, vào buổi chiều ngày thứ bảy, và dựa trên chứng cứ mong manh nhất, ba cô gái và hai chàng trai đang lưu trú với Madeline Hart trong biệt thự được thuê ở ven làng Piana đã tự đảm nhiệm việc tìm cho cô ấy một bạn tình. Pauline nói không phải chỉ là bất cứ tình nhân nào. Chàng ta phải phù hợp về tuổi tác, có ngoại hình đẹp và xuất thân thật tốt, tài chính và sức khỏe tâm thần phải ổn định, không có chuyện xấu xa nào phải giấu giếm và không có ả đàn bà nào khác trên giường chàng ta. Fiona vốn giàu kinh nghiệm nhất khi đề cập đến vấn đề của con tim, tuyên bố đấy là một sứ mệnh bất khả. “Hắn không tồn tại,” cô giải thích với nỗi chán chường mệt mỏi của một người đàn bà từng bỏ nhiều thời gian đi tìm tình nhân. “Còn nếu hắn tồn tại thì hoặc là đã có vợ, hoặc quá say mê công việc đến nỗi chả có thời gian trong ngày dành cho Madeline đáng thương.” Mặc cho những nghi ngại của mình, Fiona vẫn cứ đâm đầu vào thách thức, chẳng vì lý do nào khác ngoài việc thêm vào một chút mưu đồ cho kỳ nghỉ hè. May mắn là cô ta không hề thiếu các mục tiêu tiềm tàng, vì dường như một nửa dân số vùng Đông Nam nước Anh đã rời bỏ hòn đảo ẩm thấp của họ để đến với ánh nắng trên đảo Corse. Có một đoàn các nhà tài phiệt ở Khu Trung tâm thành phố London đã thuê một khu vực sang trọng ở đầu phía Bắc của Vịnh Porto. Và một đám họa sĩ đang sống như dân Gypsy trong một thị trấn trên đồi ở Castagniccia. Một đoàn làm phim tiếp tục lưu trú trên bãi biển Campomoro. Và một phái đoàn các chính khách đối lập đang mưu toan trở lại nắm lấy quyền lực trong một biệt thự trên đỉnh các mỏm đá ở thị trấn Bonifacio. Dùng danh nghĩa của Văn phòng Nội Các, https://thuviensach.vn Fiona đã nhanh chóng sắp xếp một loạt các cuộc gặp gỡ xã giao ngẫu hứng. Và trong mỗi dịp như thế - dù là một bữa tiệc tối, một cuộc đi bộ đường trường trên vùng rừng núi hoặc một buổi chiều say sưa túy lúy trên bãi biển - cô đều gài bẫy một anh chàng hiện diện đủ tư cách nhất và xếp đặt chàng ta bên cạnh Madeline. Tuy nhiên chả có ai vượt qua nổi cửa ải của cô nàng, ngay cả anh chàng diễn viên trẻ tuổi vừa mới hoàn thành thắng lợi cuộc đua vào vị trí dẫn đầu làng âm nhạc của khu Tây London với những bài hát được ưa thích nhất mùa hè này. “Rõ là cô ấy cho rằng việc này không hay,” Fiona thừa nhận khi họ quay đầu xe trở về biệt thự vào một đêm muộn nọ, với Madeline dẫn đường xuyên qua bóng tối trên chiếc scooter màu đỏ của cô. “Cô đoán xem anh ta là ai?” Alison hỏi. “Chả biết,” Fiona đáp, kéo dài ra với vẻ ghen tỵ. “Nhưng hắn ta chắc hẳn là ai đấy hoàn toàn đặc biệt.” Chính vào thời điểm này, khi chỉ còn khoảng chưa đấy một tuần trước khi họ trở về London như dự định, Madeline bắt đầu dành khá nhiều thời gian cho riêng mình. Mỗi buổi sáng cô ra khỏi biệt thự rất sớm, thường trước khi những người khác thức giấc, và trở về lúc đã xế chiều. Khi được hỏi đã đi những nơi nào, rõ là cô chỉ đáp mập mờ, và vào bữa ăn tối cô thường buồn rầu hay lo lắng. Alison lẽ tự nhiên đã lo sợ điều tệ hại nhất, rằng tình nhân của Madeline, dù là ai cũng vậy thôi, đã gửi tới cô ấy lời nhắn rằng sự quan tâm của cô là điều không cần thiết nữa. Nhưng ngày hôm sau, lúc trở về biệt thự sau một chuyến tham quan mua sắm, Fiona và Pauline vui vẻ tuyên bố rằng Alison đã nhầm. Dường như tình nhân của Madeline đã đến đảo Corse. Và Fiona còn có hình ảnh làm bằng chứng. Chuyện họ trông thấy đã xảy đến lúc hai giờ mười phút trong nhà hàng Les Palmiers, trên Bến cảng Adolphe Landry ở thị trấn Calvi. Madeline ngồi ở một cái bàn kê dọc theo mép bến tàu, đầu hơi quay về phía biển như thể không biết đến người đàn ông ngồi ở ghế đối diện. Cặp kính đen to lớn giấu https://thuviensach.vn kín đôi mắt. Một cái mũ rơm rộng vành thắt nơ con bướm màu đen thật khéo phủ bóng mát xuống khuôn mặt hoàn mỹ của cô. Pauline đã cố tiến sát lại gần cái bàn đó, nhưng Fiona cảm thấy có chuyện riêng tư căng thẳng trong khung cảnh ấy nên đã đề nghị một cuộc rút lui vội vã thay vào đó. Cô đã tạm dừng một thời gian vừa đủ để lén chụp thật nhanh tấm ảnh đầu tiên nhằm buộc tội bằng chiếc điện thoại di động của cô. Madeline có vẻ chẳng biết gì về vụ xâm phạm đời tư này, nhưng người đàn ông thì không. Ngay giây phút Fiona bấm nút chụp hình, đầu anh ta quay ngoắt đi, như thể cảnh giác bởi một bản năng động vật nào đó khi hình ảnh của mình bị bắt giữ trong một thiết bị điện tử. Sau khi tạm lánh sang một quán bia ngoài trời gần đó, Fiona và Pauline xem xét kỹ người đàn ông trong ảnh chụp. Mái tóc màu vàng khói, phất phơ trong gió và đầy nam tính. Nó xõa xuống trước trán, chỉnh lại một khuôn mặt góc cạnh bị chi phối bởi một cái miệng nhỏ trông có vẻ khá tàn bạo. Trang phục tựa như người miền biển: quần dài trắng, một cái áo sơ mi bằng vài oxford sọc xanh, một đồng hồ đeo tay to của thợ lặn, một đôi giày vải đế bằng phẳng không để lại dấu vết nào trên boong tàu. Hắn ta là hạng đàn ông kiểu ấy đấy, họ quả quyết. Một người đàn ông không bao giờ để lại dấu vết. Họ đoán hắn là thần dân Vương quốc Anh, mặc dù vẫn có thể là người Đức hay Bắc Âu, hoặc có lẽ như Pauline nghĩ, là hậu duệ của quý tộc Ba Lan. Tiền tài rõ ràng chẳng phải là vấn đề, minh chứng bởi chai rượu champagne đắt tiền đang đọng những giọt sương trong cái xô đá bằng bạc neo chặt vào cạnh bàn. Tài sản do hắn kiếm được chứ chẳng phải nhờ thừa kế, họ quả quyết, và không hoàn toàn trong sạch. Hắn là một con bạc. Có tài khoản ngân hàng ở Thụy Sĩ. Hắn thường du hành đến những nơi nguy hiểm. Chủ yếu là người biết suy xét cẩn trọng. Các công việc của hắn cũng giống như đôi giày vải đi trên tàu bè chẳng để lại một dấu vết nào. Nhưng chính hình ảnh của Madeline khiến họ bận tâm suy nghĩ nhiều nhất. Cô ấy chẳng còn là cô gái họ từng quen biết từ lúc còn ở London, hay thậm chí cô gái hai tuần qua từng ở chung trong một biệt thự. Dường như https://thuviensach.vn cô nàng đã xử sự theo một cách hoàn toàn khác hẳn. Một nữ diễn viên trong một cuốn phim khác. Người phụ nữ khác. Giờ đây, Fiona và Pauline đang suy đoán trên điện thoại di động như một cặp nữ sinh trung học, hai người tự viết lời thoại rồi thêm thắt phần xương thịt vào để dựng nên các nhân vật. Trong phiên bản câu chuyện này của họ, vụ việc đã bắt đầu một cách vô tội vạ với cuộc gặp gỡ tình cờ trong một cửa hàng dành riêng cho giới thượng lưu ở Phố New Bond. Cuộc tán tỉnh đã kéo dài, việc đạt mục đích mỹ mãn được hoạch định thật chu đáo. Nhưng đoạn kết của truyện tạm thời họ không nắm bắt được, vì trong đời sống thực nó vẫn chưa được viết ra. Cả hai cô đều đồng ý kết cục sẽ bi thảm. “Đấy là cách những truyện như thế này vẫn luôn kết thúc,” Fiona nói từ kinh nghiệm bản thân. “Con gái gặp con trai. Con gái phải lòng con trai. Con gái bị tổn thương và làm hết sức mình để hủy hoại con trai.” Fiona nhanh tay chụp thêm hai tấm hình của Madeline và tình nhân chiều hôm đó. Một tấm cho thấy họ đang dạo bước dọc theo bến cảng dưới bầu trời rực nắng, những khớp ngón tay len lén chạm vào nhau. Tấm hình thứ nhì chụp cành họ chia tay chẳng có một nụ hôn nào. Người đàn ông sau đó leo xuống một cái xuồng nhỏ hiệu Zodiac và bơi ra bến cảng. Madeline lên chiếc scooter màu đỏ của mình và nổ máy trở về biệt thự. Lúc về tới nơi cô không còn sở hữu cái mũ rộng vành thắt nơ con bướm màu đen thật khéo. Đêm hôm ấy khi điểm lại những sự việc vào buổi chiều của mình, cô chẳng hề đề cập đến một chuyến viếng thăm thị trấn Calvi, hoặc một bữa tiệc trưa với một người đàn ông có vẻ sung túc ở nhà hàng Les Palmiers. Fiona nghĩ đó là một màn trình diễn khá ấn tượng. “Madeline của chúng ta là một đứa nói dối tài giỏi phi thường,” cô nói với Pauline. “Có lẽ tương lai của nó xán lạn như người ta bảo. Ai biết được chứ? Thậm chí một ngày nào đấy nó có thể làm Thủ tướng ấy chứ.” Đêm hôm ấy bốn cô nàng xinh đẹp và hai anh chàng đứng đắn dự định ăn tối ở thị trấn Porto gần đó. Madeline đặt chỗ trước bằng thứ tiếng Pháp của https://thuviensach.vn các nữ sinh trung học và thậm chí còn bắt chủ nhà hàng giữ lại bàn tuyệt vời nhất của ông ta, đặt trên sân thượng có thể nhìn thấy toàn cảnh con đường đầy sỏi đá vòng quanh vịnh. Họ cứ tưởng sẽ tới nhà hàng theo như dự định của đoàn, nhưng trước bảy giờ một chút, Madeline lại thông báo sẽ đến thị trấn Calvi để uống rượu với một người bạn cũ từ thành phố Edinburgh tới. “Tôi sẽ gặp các bạn ở nhà hàng,” cô ngoái đầu lại la lớn rồi phóng nhanh ra khỏi lối vào biệt thự. “Trời đất ơi, cố gắng để đến đúng giờ là điều không thể.” Rồi sau đó cô đi mất. Chẳng ai nghĩ là kỳ quái khi cô không thể xuất hiện để dùng bữa đêm hôm đó. Họ cũng chẳng hề hốt hoảng khi thức giấc và thấy giường cô trống không. Đã có một mùa hè như thế, và Madeline là một cô nàng như thế. https://thuviensach.vn 2 ĐẢO CORSE - LONDON CẢNH SÁT QUỐC GIA Pháp chính thức tuyên bố Madeline Hart đã mất tích lúc 2:00 chiều ngày thứ Sáu cuối cùng của tháng Tám. Sau ba ngày tìm kiếm, họ chẳng tìm thấy dấu vết nào của cô ngoài chiếc scooter màu đỏ đã được phát hiện, đèn trước bị vỡ nát, trong một hẻm núi quạnh hiu gần Monte Cinto. Đến cuối tuần cảnh sát đành phải từ bỏ hy vọng tìm thấy cô còn sống sót. Đối với công chúng họ luôn khẳng định vụ án này là ưu tiên số một, vẫn duy trì việc tìm kiếm du khách mất tích đến từ Vương quốc Anh. Tuy nhiên, theo nguồn tin không chính thức, họ đã cho tiến hành truy tìm kẻ giết cô ta. Chẳng ai có khả năng là nghi can hay kẻ đáng lưu ý ngoài người đàn ông cùng ăn trưa với cô ở nhà hàng Les Palmiers vào buổi chiều trước khi cô biến mất. Nhưng cũng như Madeline, dường như hắn đã biệt tăm khỏi bề mặt trái đất. Phải chăng hắn là một tình nhân bí mật, như Fiona và những người khác tình nghi, hay hai người ấy vừa mới quen nhau trên đảo Corse? Có phải hắn là người Vương quốc Anh? Là người Pháp? Hay như một thám tử thường thất bại đã nêu lên, phải chăng hắn là người ngoài hành tinh từ một thiên hà khác tới, đã biến thành những hạt nhỏ li ti và trở về tàu mẹ? Cô tiếp viên ở nhà hàng Les Palmiers giúp được rất ít. Cô nhớ lại hắn đã nói với cô gái đội mũ rộng vành bằng tiếng Anh, nhưng khi gọi món lại nói tiếng Pháp rất lưu loát. Hóa đơn được trả bằng tiền mặt - những tờ giấy bạc sạch sẽ, quăn queo được hắn rải lên mặt bàn như một con bạc thường đặt nhiều tiền - và hắn boa cho cô rất nhiều, chuyện thời nay rất hiếm ở châu Âu, do khủng hoảng kinh tế và đủ điều đủ chuyện nữa. Điều cô nhớ https://thuviensach.vn nhiều nhất về hắn là hai bàn tay. Lông tay rất ít, không có vết nám hay vết sẹo, móng tay sạch sẽ. Hiển nhiên hắn chăm sóc móng tay rất kỹ. Cô thích điều ấy nơi một người đàn ông. Hình chụp hắn ta đã được cẩn thận truyền xem khắp các hố ngâm mình hạng trung và những cơ sở ăn uống trên đảo, điều này đã gợi nên ít nhiều gì đó hơn là một cái nhún vai hờ hững. Dường như chẳng ai từng để mắt đến hắn. Và nếu từng trông thấy cũng chẳng thể nào nhớ mặt. Hắn giống hệt mọi gã đỏm dáng điệu đàng khác từng tấp vào bờ đảo Corse mỗi mùa hè: màu da rám nắng đẹp đẽ, một cặp kính mát đắt tiền, một đồng hồ bằng vàng đặt riêng theo phong cách cá nhân làm tại Thụy Sĩ đeo trên cổ tay. Hắn là một kẻ chả ra gì có một thẻ tín dụng và một cô gái xinh đẹp ngồi bên kia bàn ăn. Hắn là người đàn ông bị lãng quên. Đối với các chủ cửa hiệu và nhà hàng ở đảo Corse có lẽ như vậy, nhưng với cảnh sát Pháp thì không. Họ chuyển hình ảnh của hắn tới mọi cơ sở lưu trữ dữ liệu hình sự trong phạm vi của mình để điều tra, rồi sau đó tiếp tục chuyển đến vài nơi nữa. Và mỗi khi cuộc truy tìm chẳng đem lại kết quả gì, ngay cả một tia hy vọng mong manh lóe lên như một que diêm cũng không, họ lại tranh luận với nhau liệu có nên đưa một tấm hình cho báo chí hay không. Có một số người, đặc biệt ở cấp cao hơn, đưa ra lý lẽ chống lại động thái đó. Họ nói rốt cuộc có khả năng anh chàng đáng thương ấy chẳng qua chỉ phạm tội ngoại tình, mà ở nước Pháp hầu như đó không phải là một tội hình sự. Nhưng khi bảy mươi hai giờ nữa trôi qua mà chẳng có tiến triển nào để nói tới, họ đi đến kết luận chẳng có chọn lựa nào khác ngoài việc yêu cầu công chúng giúp đỡ. Hai tấm hình đã cắt xén cẩn thận được đưa ra cho báo chí: một tấm chụp người đàn ông ngồi trong nhà hàng Les Palmiers, trong tấm kia hắn đang đi dọc theo bến tàu - và khi đêm xuống, các điều tra viên ngập chìm trong hàng trăm lời chỉ dẫn. Họ mau chóng loại bỏ những lời khoác lác và kỳ quặc, chỉ tập trung các nguồn lực của mình vào các manh mối hơi có vẻ hợp lý. Nhưng không một manh mối nào đâm hoa kết quả. Một tuần sau khi Madeline Hart biến mất, nghi can https://thuviensach.vn duy nhất của họ vẫn là một người đàn ông không tên, thậm chí chẳng rõ là người nước nào. Mặc dù chẳng có manh mối nào đầy hứa hẹn, nhưng cảnh sát chẳng thiếu các lập luận. Một nhóm thám tử nghĩ người đàn ông từ nhà hàng Les Palmiers là một tên săn gái loạn trí đã dụ Madeline vào bẫy. Một nhóm khác lại cho hắn không đáng quan tâm, xem như một kẻ đơn giản chỉ đến không đúng nơi đúng lúc. Theo lập luận này, hắn đã có vợ, vì vậy ở vào vị thế không thể nào bước ra ánh sáng để hợp tác với cảnh sát. Về số phận của Madeline, họ lập luận có lẽ đây là hậu quả của một vụ cướp sai lầm: một phụ nữ trẻ lái mô tô đi một mình hẳn đã là một mục tiêu gây thèm muốn. Cuối cùng rồi cái xác sẽ xuất hiện. Biển cả sẽ nhả nó ra, một người đi bộ đường trường sẽ vấp ngã lên nó trên một ngọn đồi, một chủ trang trại sẽ khai quật nó lên khi cày xới cánh đồng của mình. Đó là cách nó sẽ xuất hiện trên hòn đảo này. Đảo Corse vẫn luôn hắt hủi những kẻ đã chết đi. Ở Đảo quốc Anh, thất bại của cảnh sát là một dịp để đả kích người Pháp. Nhưng với đa số người Anh, thậm chí những nhật báo có cảm tình với phe đối lập cũng xem chuyện Madeline bị mất tích như thể đó là một tấn thảm kịch của quốc gia. Sự thăng tiến đáng lưu ý của cô từ một căn nhà hội đồng ở Essex được điểm lại từng chi tiết, và nhiều nhân vật có uy tín lớn trong đảng đã đưa ra những lời phát biểu về một sự nghiệp đầy hứa hẹn bị đứt đoạn. Bà mẹ tuôn trào nước mắt và người anh lười thối thây của cô từng người một đã nhận lời phỏng vấn trên đài truyền hình, rồi sau đó biến mất khỏi tầm nhìn của công chúng. Cũng đúng hệt như thế với các bạn cùng đi nghỉ hè với cô. Khi từ đảo Corse về tới Đảo quốc Anh, họ đã cùng nhau xuất hiện tại một cuộc họp báo ở sân bay Heathrow, có một đội ngũ trợ lý báo chí của đảng giám sát. Sau đó họ từ chối tất cả các cuộc phỏng vấn được yêu cầu khác, kể cả những kẻ tìm đến với các khoản thù lao sinh lợi. Vắng bóng trong hoạt động của giới truyền thông bất cứ việc mua bán một vụ bê bối nào. Chẳng hề có chuyện kể nào về các cuộc chè chén say sưa nhân kỳ nghỉ hè, những trò hề tình dục hay hành động quậy phá nơi công cộng, chỉ là lời nói ngớ ngẩn như thường lệ về những hiểm nguy mà https://thuviensach.vn các phụ nữ trẻ phải đương đầu khi đi du lịch ở nước ngoài. Tại tổng hành dinh của đảng, đội ngũ báo chí lẳng lặng tự chúc mừng vì đã xử lý vụ việc thật khôn khéo, trong khi ban tham mưu chính trị thông báo số người ủng hộ Thủ tướng đột ngột tăng lên rõ rệt trong một thời gian ngắn. Đằng sau những cánh cửa khép kín, họ gọi đó là “hiệu ứng Madeline.” Dần dà những câu chuyện về số phận của cô chuyển từ trang đầu vào các mục bên trong, và tới cuối tháng Chín cô hoàn toàn rời khỏi mặt báo. Lúc đó là mùa thu, do đó đã tới lúc quay trở lại với công việc của chính phủ. Các thách thức mà Đảo quốc Anh phải đương đầu thật lớn lao: một nền kinh tế đang suy thoái, một khu vực sử dụng đồng tiền chung euro đang ngắc ngoải, và một danh sách dài các tệ nạn xã hội cần phải được xóa bỏ nhưng vẫn chưa có giải pháp thỏa đáng đang tiếp tục giằng xé đời sống ở Vương quốc Anh. Viễn cảnh của cuộc bầu cử đang treo lơ lửng trên tất cả. Thủ tướng đã buông ra nhiều lời ám chỉ mình dự tính sẽ ấn định một ngày trước cuối năm. Ông nhận thức rất rõ hiểm họa chính trị giờ đây đang quay trở lại; Jonathan Lancaster là người đứng đầu chính phủ đương nhiệm của Đảo quốc Anh vì người tiền nhiệm của ông đã thất bại, không thể kêu gọi tổ chức một cuộc bầu cử sau hàng tháng trời ve vãn công chúng. Lancaster, lúc đó lãnh đạo phe đối lập đã gọi ông ta là “Hamlet từ số Mười,”* và đã đánh một đòn chí tử. Điều đó giải thích vì sao Simon Hewitt là Trưởng phòng Thông tin của Phủ Thủ tướng thời gian gần đây ngủ không yên giấc. Kiểu mất ngủ của ông ta chẳng hề biến đổi. Kiệt sức vì bị công việc cực nhọc hằng ngày giày vò, ông nhanh chóng ngủ thiếp đi, thường trong tư thế một xấp tài liệu trên ngực, rồi chỉ hai hay ba giờ sau đã thức giấc. Một khi đã tỉnh táo, đầu óc ông ta bắt đầu chạy đua. Sau bốn năm làm việc trong chính phù, dường như ông không có khả năng tập trung vào bất cứ điều gì ngoài những chuyện tiêu cực. Số phận một trợ lý báo chí của Phố Downing là thế. Trong thế giới của Simon Hewitt chẳng hề có đại thắng, chỉ toàn là tai họa và gần như là tai họa. Như những trận động đất, chúng cũng được xếp hạng theo mức độ nghiêm trọng từ những rung động nhẹ nhất mà hầu như người ta không https://thuviensach.vn cảm nhận được đến những biến động do địa chấn có khả năng làm sụp đổ các cao ốc và làm cuộc sống bị đảo lộn. Người ta mong đợi Hewitt sẽ tiên đoán thảm họa sắp xảy đến, và nếu có thể thì ngăn chặn để giảm thiểu thiệt hại. Gần đây ông đã bắt đầu nhận thức công việc của mình chẳng thể nào làm nổi. Trong những giờ phút đen tối nhất của đời mình, vụ này khiến ông được an ủi đôi chút. Ông từng là một người có thế lực trong lĩnh vực của mình. Làm chủ bút chính trị cho tờ báo Times, ông từng là một trong những người có ảnh hưởng nhất ở Whitehall*. Chỉ cần vài dòng văn xuôi sắc như lưỡi dao đã có thương hiệu của mình, ông có thể phán xét một chính sách của chính phủ và ban cho nó một số phận thảm thương, cùng với sự nghiệp chính trị của bộ trưởng đã tạo ra nó. Quyền lực của ông đã có ảnh hưởng rộng lớn tới nỗi không chính phủ nào từng đưa ra một sáng kiến quan trọng mà chưa được ông duyệt qua trước tiên, và không chính khách nào mơ tưởng một tương lai tươi sáng hơn, đã từng nghĩ tới chuyện ứng cử vào một chức vụ lãnh đạo đảng mà không được ông hậu thuẫn trước tiên. Một trong số chính khách như thế là Jonathan Lancaster, một cựu luật sư ở Khu Trung tâm, từng có một địa vị vững chắc ở ngoại ô London. Ban đầu Hewitt không quan tâm đến Lancaster lắm; ông này quá thanh lịch, quá đẹp mã và có quá nhiều đặc quyền nên không thể đánh giá một cách nghiêm túc. Nhưng theo thời gian, Hewitt đã đi đến việc xem Lancaster như một tài năng thiên phú với nhiều ý kiến táo bạo. Ông muốn tái lập đảng chính trị đang thập tử nhất sinh của mình rồi sau đó tái thiết lại đất nước. Còn đáng ngạc nhiên hơn, Hewitt phát hiện mình thật sự thích Lancaster, điều chẳng bao giờ là một dấu hiệu tốt. Khi quan hệ của họ tiến triển, họ dành ít thời gian hơn để tán gẫu về những mưu đồ chính trị ở Whitehall và dành nhiều thời gian hơn để thảo luận làm sao sửa đổi xã hội đã tan vỡ ở Đảo quốc Anh. Vào đêm sau cuộc bầu cử, khi Lancaster được đẩy tới thắng lợi nhờ tuyệt đại đa số tại nghị viện trong vòng ba mươi năm qua, Hewitt là một trong những người ông gọi điện thoại đầu tiên. “Simon này,” ông đã nói với cái giọng quyến rũ của mình. “Tôi cần ông, Simon ạ. Tôi chẳng thể làm việc này một mình.” https://thuviensach.vn Hewitt sau đó đã viết một bài báo xuất sắc về triển vọng thành công của Lancaster, và ông hoàn toàn biết rõ vài ngày nữa mình sẽ bắt đầu làm việc cho ông ấy ở Phố Downing. Giờ đây ông từ từ mở mắt ra và đăm đăm nhìn một cách khinh miệt chiếc đồng hồ trên bàn ngủ cạnh giường. Hai cây kim phát sáng chỉ 3:42, như thể giễu cợt ông. Kế bên nó là ba thiết bị điện tử di động của ông, tất cả đã được sạc điện đầy đủ cho cuộc công kích ngày sắp tới đây qua các phương tiện truyền thông. Ông ước mong chính mình cũng được nạp lại năng lượng dễ dàng như thế, nhưng vào thời điểm này chẳng thời lượng ngủ nghê hay ánh nắng nhiệt đới nào có thể sửa chữa tổn hại mà ông đã gây ra cho cơ thể trung niên của mình, ông nhìn Emma. Như thường lệ, bà đang ngủ thật say. Một lần nọ, có thể ông đã tính dùng cách kích thích nào đó để đánh thức bà, nhưng không phải bây giờ; cái giường vợ chồng cùng chung chăn gối đã trở thành một tổ ấm đóng băng. Trong một thời gian ngắn, bà đã bị ánh hào quang của ông ở Phố Downing quyến rũ, nhưng bà đã dần dần không hài lòng khi thấy chồng mình sùng bái Lancaster một cách mù quáng. Bà xem Thủ tướng gần như là một tình địch và lòng căm ghét của bà với ông ta đã lên đến mức độ sôi sục một cách phi lý. “Ông là một người đàn ông bằng hai ông ta đấy chứ, Simon ạ,” bà bảo cho chồng biết đêm hôm qua trước khi ban cho ông một nụ hôn hờ hững trên gò má đang hóp lại. “Thế mà vì lý do nào đấy ông lại thấy cần phải đóng vai cô hầu gái của ông ấy. Có lẽ một ngày nào đấy ông sẽ cho tôi biết vì sao.” Ông biết giấc ngủ sẽ không đến nữa, không phải bây giờ, vì vậy ông cứ tỉnh táo nằm trên giường mà lắng nghe những âm thanh nối tiếp nhau báo hiệu một ngày mới của ông đang bắt đầu. Tiếng rơi phịch của tờ nhật báo buổi sáng trên bậc thềm trước cửa. Tiếng ùng ục của máy pha cà phê tự động. Tiếng xe sedan của chính phủ kêu rù rù bên dưới cửa sổ. Thận trọng nhổm dậy để đừng làm vợ thức giấc, ông vội khoác lên mình cái áo khoác mỏng mặc trong nhà rồi nhè nhẹ bước xuống thang lầu vào nhà bếp. Cái máy pha cà phê đang rít lên giận dữ. Ông pha một tách cà phê đen vì vòng eo đang phình ra của mình, rồi mang ra tiền sảnh. Một luồng gió ẩm ướt https://thuviensach.vn đón chào khi ông mở cửa. Đống báo bọc trong bao nhựa dẻo nằm trên tấm thảm chào mừng, kế bên một cái chậu sành với những bông hoa phong lữ đã héo tàn. Cúi xuống thì thấy còn cái gì khác nữa: một phong bì bằng giấy manila*, khổ chừng 20x25cm, chẳng có dấu hiệu gì để biết do ai gửi và được đóng dấu khằn thật kỹ. Ông biết ngay tức thì chẳng phải do Phố Downing gửi tới, chẳng một ai trong ban tham mưu của ông dám bỏ ngay cả một tài liệu tầm thường nhất bên ngoài cửa nhà ông. Bởi thế, đây là cái gì đấy không được yêu cầu. Chẳng có gì bất thường cả; các cựu đồng nghiệp của ông trong giới báo chí biết địa chỉ của ông ở Hampstead và cứ bỏ lại gói này gói nọ cho ông mãi. Những món quà nhỏ đáp lại một thông tin đã được rò rỉ đúng lúc. Những bài phát biểu huênh hoang giận dữ khi nhận thấy bị coi khinh. Những tin đồn hư đốn quá nhạy cảm không thể truyền đi bằng thư điện tử. Ông cho là cần thiết việc nắm bắt kịp thời những chuyện ngồi lê đôi mách gần đây nhất ở Whitehall. Vốn trước đây là phóng viên nên ông biết rõ những điều nói sau lưng ai đó thường quan trọng gấp bội so với những gì viết về hắn ta trên các trang báo đầu tiên. Ông huých ngón chân vào phong bì để biết chắc trong đó không có dây điện và pin kích nổ, sau đó đặt nó lên trên xấp báo rồi trở vào nhà bếp. Sau khi bật ti vi lên và hạ âm lượng tới mức thì thầm, ông lôi mấy tờ báo ra khỏi bọc nhựa dẻo và đọc lướt thật nhanh các trang đầu tiên. Chủ đề nổi trội nhất là lời đề nghị của Lancaster về việc nâng cao tính cạnh tranh của nền công nghiệp Anh bằng cách hạ thuế suất. Có thể đoán biết các tờ Guardian và Independent đã thất kinh hoảng vía, nhưng nhờ cố gắng của ông nên hầu hết việc đưa tin đều tích cực. Những tin tức khác từ Whitehall đều khoan dung vô hại. Không có trận động đất nào. Thậm chí một chấn động nhỏ cũng không. Sau khi xem qua những thứ gọi là báo khổ rộng có chất lượng, Hewitt đọc nhanh các báo khổ nhỏ đăng các tin vắn mà ông xem như một khí áp kế của công luận Anh, tốt hơn bất cứ cuộc thăm dò ý kiến cử tri nào. Rồi sau khi lại rót đầy tách cà phê của mình, ông mở bì thư vô danh. Bên trong có ba món: một đĩa DVD, một tờ giấy khổ A4 đơn và một tấm hình. https://thuviensach.vn “Chết tiệt,” ông khẽ thốt lên. “Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt.” Điều xảy ra kế tiếp là nguồn gốc của những suy đoán quá mức về sau và đối với Simon Hewitt, một cựu ký giả chính trị chắc hẳn phải biết rõ hơn, đã có không ít vụ tố cáo lẫn nhau. Bởi thay vì liên lạc với Cảnh sát Thủ đô London theo yêu cầu của luật pháp Vương quốc Anh, ông lại đem phong bì và những món trong đó vào văn phòng của mình ở số 12 Phố Downing, xuôi theo đường phố ấy cách Phủ Thủ tướng ở số Mười chỉ có hai căn. Sau khi chủ trì cuộc họp thường lệ của ban tham mưu lúc tám giờ, suốt cả buổi chẳng hề đề cập đến các món đồ nọ, ông đưa chúng cho Jeremy Fallon là trưởng ban tham mưu và cố vấn chính trị của Thủ tướng xem. Fallon là trưởng ban tham mưu có quyền lực mạnh nhất trong lịch sử Vương quốc Anh. Trách nhiệm của chức vụ này bao gồm việc hoạch định các chiến lược và điều phối các chính sách khắp các bộ khác nhau của chính phủ, điều này cho ông có quyền chõ mũi vào bất cứ vấn đề nào mình ưa thích. Trong giới báo chí ông thường được nhắc tới như là “bộ óc của Lancaster”, điều này khiến ông khá thích thú, còn về cá nhân Lancaster thì hẳn là không được hài lòng. Phản ứng của Fallon chỉ khác nhau tùy theo ông ấy chọn câu chửi rủa nào. Theo bản năng trước tiên ông đem tài liệu đến cho Thủ tướng ngay lập tức, nhưng vì đó là ngày Thứ Tư nên ông đợi tới lúc Thủ tướng ‘sống sót’ vượt qua trận đấu sinh tử như các đấu sĩ hàng tuần, chính là Phiên chất vấn Thủ tướng. Không có lúc nào trong cuộc họp Lancaster, Hewitt hoặc Jeremy Fallon đã đề nghị giao tài liệu cho giới chức có thẩm quyền thích hợp. Họ đồng ý rằng, bắt buộc phải giao cho một nhân vật biết suy xét thận trọng và có tài, và hơn hết là người trên tất cả mọi vấn đề khác có thể tin cậy để bảo vệ lợi ích của Thủ tướng. Fallon và Hewitt hỏi Thủ tướng tên các ứng viên tiềm năng, ông này chỉ nêu tên một người. Có quan hệ họ hàng và quan trọng hơn nữa, có một món nợ chưa trả. Sự trung thành cá https://thuviensach.vn nhân có giá trị rất cao vào thời buổi như thế này, Thủ tướng nói, nhưng tác dụng đòn bẩy có giá trị thiết thực hơn rất nhiều. Và vì thế, Graham Seymour, Phó Giám đốc kỳ cựu của Cơ quan An ninh Vương quốc Anh, còn gọi là MI5* đã được triệu tập thầm lặng đến Phủ Thủ tướng. Rất lâu về sau này, Seymour thường mô tả cuộc gặp mặt - được tổ chức trong Phòng Nghiên cứu bên dưới bức chân dung bà Nam tước Thatcher đang tức giận - như là một việc khó khăn nhất trong sự nghiệp của mình. Ông đồng ý giúp Thủ tướng không hề ngần ngại, vì đó là điều mà một người như Graham Seymour vẫn làm trong những hoàn cảnh như thế này. Dù vậy ông vẫn nói rõ ràng nếu như việc ông dính líu vào vấn đề này lúc nào đó bị công bố, ông sẽ tiêu diệt những kẻ có trách nhiệm. Như thế chỉ còn lại việc xác định danh tính viên chức đặc vụ sẽ chỉ huy việc truy tìm. Cũng như Thủ tướng trong tình huống trước đó, ông chỉ có một ứng viên, ông không cho Thủ tướng biết tên người này. Thay vào đó, dùng ngân quỹ từ một trong rất nhiều tài khoản hoạt động bí mật của MI5, ông đặt một vé trên chuyến bay của hãng hàng không British Airways đi Tel Aviv vào chiều tối hôm ấy. Khi máy bay từ từ rời khỏi cổng, ông suy xét cách nào tốt nhất để tiếp cận. Sự trung thành cá nhân có giá trị rất cao vào thời buổi như thế này, ông nghĩ, nhưng tác dụng đòn bẩy có giá trị thiết thực hơn rất nhiều. https://thuviensach.vn 3 THÀNH PHỐ JERUSALEM GIỮA LÒNG THÀNH PHỐ Jerusalem, cách không xa trung tâm mua sắm Ben Yehuda có một đường phố nhỏ yên tĩnh với nhiều tán lá râm mát gọi là Phố Narkiss. Tòa nhà chung cư ở số Mười sáu tương đối nhỏ, chỉ vỏn vẹn ba tầng và bị khuất một phần đằng sau bức tường đá vôi vững chắc và một cây bạch đàn cao ngất ngưởng trồng trong khu vườn phía trước. Căn hộ trên tầng cao nhất khác biệt với những căn hộ còn lại trong tòa nhà, chỉ vì một dạo nó từng thuộc quyền sở hữu của Cơ quan Tình báo Israel. Căn hộ có một phòng khách rộng rãi, một nhà bếp ngăn nắp đầy những thiết bị hiện đại, một phòng trước đây là phòng ăn, và hai phòng ngủ. Phòng ngủ nhỏ hơn dành cho em bé đã được chuyển đổi thật công phu thành xưởng vẽ của họa sĩ chuyên nghiệp. Nhưng Gabriel vẫn thích làm việc ngoài phòng khách hơn, ở đó làn gió mát rượi từ các cánh cửa kiểu Pháp rộng mở mang đi mùi hăng hắc của các dung môi. Lúc đó, ông ấy đang dùng một dung dịch được cân đong cẩn thận gồm có acetone, cồn và nước cất, đã được bậc thầy trong làng phục chế tranh là Umberto Conti truyền dạy đầu tiên cho ông ở Venice. Hỗn hợp đó đủ mạnh để hòa tan các chất bẩn ngoài bề mặt và lớp sơn dầu cũ nhưng không hề làm tổn hại nét cọ nguyên bản của họa sĩ. Bây giờ ông nhúng miếng gạc bông được làm thủ công vào dung dịch rồi nhẹ nhàng xoa nó vòng quanh nhũ hoa bị lật ngược của Susanna. Ánh nhìn đăm đắm của nàng chếch sang một bên và dường như chỉ mơ hồ nhận biết hai gã lớn tuổi dâm đãng trong làng đang ngắm nghía cảnh nàng tắm từ bên kia tường rào vườn nhà nàng. Vốn là người hiếm khi bảo vệ phụ nữ, Gabriel ước gì mình có thể can thiệp https://thuviensach.vn và giúp nàng xoa dịu những tổn thương về những điều sắp xảy đến - việc cáo buộc sai, phiên xét xử và tội danh tử hình. Thay vì vậy, ông xoa miếng gạc bông trên bề mặt nhũ hoa của nàng và quan sát khi màu da vàng chuyển sang trắng sáng. Khi miếng gạc trở nên lấm lem, Gabriel bỏ nó vào một cái bình cổ nhỏ kín khí để giữ hơi thuốc không bay ra ngoài. Khi chuẩn bị một miếng gạc khác, mắt ông từ từ di chuyển trên bề mặt của bức tranh. Hiện giờ người ta cho nó chỉ là tranh của một môn đệ Titian mà thôi. Nhưng chủ nhân hiện thời của bức tranh là nhà buôn tranh Julian Isherwood nổi tiếng ở London lại tin nó đã đến từ xưởng vẽ của Jacopo Bassano.* Ông tán thành với nhận định này - thật vậy, giờ đây khi đã làm lộ ra phần nào nét cọ, ông đã thấy chứng cứ của chính Bậc thầy, nhất là trong hình dáng của Susanna. Gabriel biết rõ bút pháp của Bassano; đã nghiên cứu rất nhiều bức họa của Bassano trong thời gian tập sự và đã có lần trải qua nhiều tháng ở Zurich để phục chế một tác phẩm quan trọng của Bassano cho một nhà sưu tập tư nhân. Trong đêm lưu trú cuối cùng, Gabriel đã giết một gã đàn ông tên là All Abdel Hamidi trong một lối đi ẩm ướt gần bờ sông. Hamidi là một tên trùm khủng bố người Palestine với bàn tay từng nhuốm nhiều máu của dân Israel. Hắn đang giả làm một nhà biên kịch; và Gabriel đã cho hắn một cái chết xứng với sự nghiệp văn chương giả vờ của hắn. Ông nhúng một miếng gạc mới vào hỗn hợp dung môi, nhưng chưa kịp làm tiếp công việc của mình đã nghe tiếng nổ ầm ầm quen thuộc của động cơ xe hơi hạng nặng ngoài đường, ông bước ra khoảnh sân trước căn hộ để xác định lại điều mình nghi ngờ, rồi mở hé cánh cửa ra. Một lát sau Ari Shamron đã ngồi vắt vẻo trên một cái ghế gỗ cao bên cạnh Gabriel. Ông ta mặc một cái quần kaki, một áo sơ mi trắng bằng vải oxford và một áo khoác bằng da có một chỗ rách chưa may vá lại bên vai trái. Cặp mắt kính xấu xí của ông ngời lên ánh sáng từ những chiếc đèn halogen ở chỗ Gabriel đang làm việc. Mặt ông ta có những lằn và vết hằn sâu lộ vẻ hết sức ghê tởm. https://thuviensach.vn “Tôi có thể ngửi thấy mùi hóa chất ấy khi vừa mới xuống xe,” Shamron nói. “Tôi chỉ có thể hình dung ra những tai hại mà chúng đã gây ra cho cơ thể của anh sau những năm tháng như thế này.” “Cứ yên tâm đi, chẳng có gì sánh được với tai hại mà ông đã gây ra đâu,” Gabriel đáp. “Tôi rất ngạc nhiên vì mình vẫn còn cầm cọ vẽ được.” Gabriel đặt miếng gạc đã hút ẩm lên da thịt của Susanna rồi nhẹ nhàng xoay vòng, Shamron nhăn nhó với cái đồng hồ đeo tay bằng thép không rỉ của mình như thể nó không còn chỉ đúng giờ nữa. “Có gì không ổn à?” Gabriel hỏi. “Tôi chỉ đang tự hỏi phải mất thời gian bao lâu nữa anh mới mời tôi một tách cà phê.” “Ông biết mọi thứ ở đâu rồi. Thực tế, bây giờ ông đang sinh sống ở đây mà.” Shamron làu bàu gì đó bằng tiếng Ba Lan về sự vô ơn của con cháu. Ông ta đẩy người tụt xuống cái ghế cao rồi nặng nề chống gậy lần mò đi vào nhà bếp. Ông cố mở vòi xả nước vào đầy ấm trà, nhưng lại có vẻ rối trí vì nhiều nút bấm và mặt đồng hồ khác nhau trên bếp lò. Ari Shamron từng hai lần giữ chức Giám đốc cơ quan Tình báo Israel, và trước đó từng là một trong những sĩ quan cấp tá có nhiều huân chương nhất của cơ quan ấy. Nhưng giờ đây, khi tuổi đã già, dường như ông không có khả năng làm những việc nhà đơn giản nhất. Các máy pha cà phê, máy xay, lò nướng: những thứ này đều bí ẩn đối với ông. Bà vợ Gilah từng phải chịu đựng ông rất lâu, thường nói đùa rằng Ari Shamron vĩ đại nếu bị bỏ quên với các dụng cụ của bà sẽ lần mò tới chỗ chết đói trong nhà bếp đầy ắp thức ăn. Gabriel bật lửa bếp lò rồi trở lại với công việc của mình, Shamron đứng ở các cánh cửa kiểu Pháp để hút thuốc. Mùi thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ hôi hám chẳng mấy chốc đã lấn át hẳn mùi dung môi hăng hắc. “Ông phải hút thuốc sao?” Gabriel hỏi. “Tôi phải hút,” Ông già đáp. “Ông đang làm gì ở Jerusalem này vậy?” https://thuviensach.vn “Thủ tướng đã muốn nói đôi lời.” “Thật vậy sao?” Shamron trừng mắt nhìn Gabriel qua một đám khói thuốc màu xanh xám. “Sao anh lại ngạc nhiên vì Thủ tướng muốn gặp tôi chứ?” “Tại vì...” “Tôi đã già và không thích hợp hay sao?” ông già hỏi, ngắt ngang lời Gabriel. “Ông không biết lý luận, thiếu kiên nhẫn, đôi lúc còn vô lý nữa, nhưng chưa bao giờ không thích hợp.” Shamron gật đầu đồng ý. Tuổi tác cho ông khả năng ít ra cũng thấy được các nhược điểm của mình, dù cần phải mất nhiều thời gian để sửa chữa. “Ông ấy có khỏe không?” Gabriel hỏi. “Vẫn khỏe như anh có thể hình dung.” “Các ông đã bàn chuyện gì? “Cuộc nói chuyện của chúng tôi có phạm vi rộng và thẳng thắn.” “Có phải như vậy nghĩa là các ông đã lớn tiếng với nhau hay không?” “Tôi chỉ lớn tiếng với một Thủ tướng mà thôi.” “Ai vậy?” Gabriel hỏi, thực sự hiếu kỳ. “Bà Golda,” Shamron đáp. “Đó là cái ngày sau vụ Munich. Tôi đã nói với bà ấy về việc chúng ta phải thay đổi sách lược của mình, chúng ta phải khủng bố lại bọn khủng bố. Tôi đưa cho bà một danh sách những kẻ phải chết. Bà ta không muốn giết ai trong đó.” “Vì vậy ông đã lớn tiếng với bà ta?” “Lúc đó không thể làm gì hay ho hơn vậy.” “Bà ta đã làm gì?” “Bà ấy đã hét trả lại, tất nhiên rồi. Nhưng cuối cùng bà đổi ý theo cách nghĩ của tôi. Sau đó tôi tập hợp một danh sách khác gồm tên các thanh niên https://thuviensach.vn tôi cần để tiến hành điệp vụ đó. Hết thảy đều đồng ý không hề do dự.” Ông già ngừng lại một lát rồi nói tiếp, “Hết thảy trừ một người.” Gabriel lẳng lặng bỏ miếng gạc bẩn vào cái bình cổ nhỏ kín khí. Nó giữ cho hơi độc của dung môi không bị thoát ra ngoài, nhưng không giữ được hồi ức về cuộc gặp đầu tiên của ông với người đàn ông mà người ta gọi là Memuneh, được biết đến như là người phụ trách. Nó đã xảy ra chỉ cách nơi ông đang đứng vài trăm mét trong khu nhà và sân bãi của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Thiết kế Bezalel. Gabriel vừa rời buổi thuyết giảng về tranh của Viktor Frankel, họa sĩ thuộc trường phái Biểu hiện người Đức nổi tiếng, và cũng chính là ông ngoại của Gabriel. Khi đó Shamron đang đợi chàng trai ở ven một cái sân tắm nắng, một người đàn ông như một thanh sắt nhỏ đeo cặp kính thật gớm ghiếc, có hàm răng y hệt một cái bẫy bằng thép. Như thường lệ, ông ta đã chuẩn bị kỹ lưỡng, ông biết rằng Gabriel đã được nuôi dưỡng ở một khu định cư nông nghiệp heo hút trong thung lũng Jezreel và có một mối căm ghét nhiệt thành đối với công việc đồng áng. Ông biết mẹ Gabriel, một họa sĩ thiên tài trong lĩnh vực của bà, người đã sống sót thoát khỏi trại tử thần Birkenau nhưng lại không thể là đối thủ của căn bệnh ung thư đã hành hạ thể xác của bà. Ông cũng biết ngôn ngữ thứ nhất của Gabriel là tiếng Đức và đó vẫn là ngôn ngữ hằn sâu trong những giấc mơ của anh ta. Tất cả đều ở trong xấp tài liệu ông đang cầm trong những ngón tay dính nicotine của mình. “Điệp vụ này sẽ được gọi là Cơn Thịnh nộ của Thượng Đế (Wrath of God),” ông đã nói ngày hôm đó. “Không phải vì công lý. Vì để trả thù - thuần túy và đơn giản là để trả thù cho mười một sinh mạng vô tội đã mất đi ở Munich.” Gabriel đã bảo Shamron hãy tìm người khác. “Tôi không muốn ai khác,” ông ta đã phản ứng lại. “Tôi muốn cậu.” Ba năm sau đó, Gabriel và các đặc vụ khác tham gia điệp vụ Cơn Thịnh nộ của Thượng Đế đã lén theo đuổi các con mồi của mình khắp châu Âu và vùng Trung Đông. Trang bị một khẩu Beretta cỡ 22 li, đây là một khẩu súng hãm thanh thích hợp để giết người ở tầm đạn gần, Gabriel đã đích thân ám sát sáu thành viên của nhóm Tháng chín Đen. Bất cứ khi nào https://thuviensach.vn có thể được, chàng bắn liền mười một phát súng, mỗi viên đạn trả thù cho một người dân Israel bị thảm sát ở Munich. Cuối cùng khi trở về nhà, tóc mai hai bên thái dương đã ngả màu sương và gương mặt chàng già đi thêm hai mươi năm. Không còn có khả năng sáng tác các tác phẩm nguyên bản nữa, chàng đi Venice để học nghề phục chế tranh. Sau đó khi thư thả, chàng trở lại làm cho Shamron. Những năm tiếp theo, chàng đã tiến hành một số điệp vụ có vẻ hoang đường nhất trong lịch sử ngành tình báo Israel. Giờ đây sau nhiều năm lang thang không ngừng nghỉ, cuối cùng chàng đã trở về Jerusalem, chẳng ai hài lòng vì chuyện này hơn Shamron, ông thương Gabriel như con trai của mình và xem căn hộ ở Phố Narkiss như nhà mình. Có lần Gabriel cảm thấy bức bách bởi sự hiện diện liên tục của Shamron, nhưng cũng chẳng hành động gì hơn. Ari Shamron vĩ đại sống hoài sống mãi, nhưng thân thể nơi linh hồn ông trú ngụ lại không mãi mãi tồn tại lâu dài. Chẳng có gì làm tổn hại sức khỏe của Shamron hơn việc ông hút thuốc không ngừng, ông đã nhiễm thói quen này khi còn là một thanh niên ở miền Đông Ba Lan, và nó trở nên tệ hại hơn sau khi ông tới Palestine, nơi ông đã tham gia cuộc chiến tranh dẫn đến nền độc lập của Israel. Giờ đây, khi diễn tả lại cuộc họp với Thủ tướng, ông bật nắp hộp quẹt Zippo, mồi lửa đốt thêm một điếu thuốc bốc mùi hôi hám. “Thủ tướng bực mình lắm, bực hơn thường lệ. Tôi nghĩ rằng ông có quyền như vậy. Cuộc Thức tỉnh Ả Rập vĩ đại đã nhấn chìm toàn khu vực này trong cảnh hỗn mang. Còn Iran thì càng lúc càng tiến tới gần việc hiện thực hóa giấc mơ hạt nhân của mình. Vào thời điểm nào đó, sớm thôi, chúng sẽ bắt đầu đưa ra một khu vực được miễn trừ khiến chúng ta không thể có hành động quân sự nếu không có sự giúp đỡ của người Mỹ.” Ông ta đóng nắp hộp quẹt kêu một tiếng tách rồi nhìn Gabriel đang tiếp tục thực hiện công việc xử lý bức tranh. “Anh đang nghe tôi nói đó chứ?” “Tôi vẫn theo sát từng lời ông nói đây.” “Chứng minh đi.” https://thuviensach.vn Gabriel lặp lại đúng nguyên văn câu ông vừa nói. Ông ta mỉm cười, ông xem trí nhớ hoàn hảo của Gabriel như một trong những tài vặt hay ho nhất, ông xoay vòng cái hộp quẹt Zippo trong những đầu ngón tay. Xoay sang phải. Xoay sang trái. “Vấn đề là Tổng thống Mỹ từ chối thiết lập bất cứ một đường dây nóng vững chắc và nhanh chóng nào. Ông ta nói sẽ không để cho Iran chế tạo vũ khí hạt nhân. Nhưng lời tuyên bố đó vô nghĩa nếu như Iran có khả năng chế tạo chúng trong một thời gian ngắn.” “Cũng như Nhật Bản.” “Nhật không bị bọn Shia mullah chuyên tàn phá và hủy diệt cai trị,” Shamron nói. “Nếu Tổng thống Mỹ không cẩn thận, hai thành tựu quan trọng nhất về chính sách ngoại giao của ông ta sẽ là một nước Iran có vũ khí hạt nhân và sự phục hồi của Vương triều Hồi giáo.” “Chào mừng ông đến với thế giới hậu Mỹ Quốc, Ari.” “Vì vậy tôi mới nghĩ chúng ta đã dại dột khi trao nền an ninh của mình vào tay họ. Nhưng đó không phải là vấn đề nan giải duy nhất của Thủ tướng,” Shamron nói thêm. “Các tướng lĩnh không chắc chắn họ có thể phá hủy hoàn toàn chương trình để tạo nên một đòn tấn công quân sự hữu hiệu. Và Đại lộ King Saul dưới sự giám hộ của Uzi Navot - bạn anh, đang cho Thủ tướng biết về một cuộc chiến tranh đơn phương với người Ba Tư sẽ là một trong những thảm họa khủng khiếp như trong Kinh Thánh.” Đại lộ King Saul là địa chỉ của cơ quan Tình báo bí mật Israel. Nó có một tên dài nhằm cố tình đánh lạc hướng và đảm nhiệm những công việc không mảy may dính líu đến bản chất hoạt động. Ngay cả các điệp viên đã về hưu như Gabriel và Shamron cũng xem đó như là “Văn phòng”, không hơn không kém. “Uzi là người mỗi ngày vẫn gặp những người làm tình báo chưa có kinh nghiệm,” Gabriel nói. “Tôi cũng thường gặp. Không phải tất cả,” Shamron hấp tấp chêm vào, “nhưng đủ để khiến tôi tin những tính toán của Uzi về việc chúng ta có https://thuviensach.vn bao nhiêu thời gian có thể không hoàn toàn đúng.” “Tính toán chưa bao giờ là sở trường của Uzi, nhưng trên chiến trường anh ta chưa bao giờ lầm lỗi.” “Đó là vì anh ta hiếm khi... đặt mình vào vị thế có thể phạm lỗi.” Shamron chợt im lặng ngắm nhìn gió lùa vào tán lá cây bạch đàn bên ngoài lan can sân trước nhà Gabriel. “Tôi vẫn luôn nói một sự nghiệp không cần bàn cãi hoàn toàn không phải là một sự nghiệp đúng nghĩa. Tôi có phần của tôi, và anh cũng có phần của anh.” “Còn tôi thì có một vết sẹo để chứng minh điều đó.” “Còn có những cái ôm hôn nữa,” Shamron nói. “Thủ tướng băn khoăn lo Văn phòng quá cảnh giác khi đụng tới Iran. Đúng, chúng ta đã gài vi rút vào máy tính của chúng và trừ khử một loạt nhà khoa học của chúng, nhưng gần đây chẳng có chuyện gì nổi đình nổi đám cả. Thủ tướng muốn Uzi mở một điệp vụ tuyệt tác khác.” Tuyệt Tác (Masterpiece) là mật danh để chỉ điệp vụ hỗn hợp của Israel với Mỹ và Vương quốc Anh, mà kết quả đã phá hủy bốn cơ sở bí mật của Iran giúp việc làm giàu nguyên liệu hạt nhân dễ dàng hơn. Nó đã diễn ra dưới sự giám sát của Uzi Navot, nhưng bên trong các hành lang của Đại lộ King Saul nó lại được xem như một trong những giờ phút tuyệt vời nhất của Gabriel. “Các cơ hội như Tuyệt Tác không đến hằng ngày đâu, Ari à.” “Đúng vậy,” Shamron thừa nhận. “Nhưng tôi vẫn luôn tin hầu hết cơ hội đều do mình giành lấy chứ không phải được ban phát. Và Thủ tướng cũng vậy.” “Có phải ông ta đã mất niềm tin với Uzi hay không?” “Chưa đâu. Nhưng ông ta muốn biết liệu rằng tôi có mất niềm tin hay không.” “Ông đã nói gì?” https://thuviensach.vn “Tôi có lựa chọn nào hay sao? Tôi là người đã khuyên ông ta làm việc ấy mà.” “Vậy ông đã chúc phúc cho ông ta?” “Đã có điều kiện đó.” “Sao lại vậy?” “Tôi đã nhắc Thủ tướng người mà tôi thực sự muốn để làm việc đó lại không hề quan tâm.” Ông già lắc đầu chầm chậm. “Anh là người duy nhất trong lịch sử của Văn phòng đã gạt bỏ cơ hội trở thành người quản lý.” “Mọi sự đều có khởi đầu cả, Ari.” “Vậy có nghĩa là anh có thể xem xét lại?” “Đó là lý do ông đã tới đây?” “Tôi tưởng anh có thể vui thích khi cùng làm việc với tôi,” ông già nói khích. “Thủ tướng và tôi đã thắc mắc không biết anh có thể sẵn lòng làm một chút việc bao đồng giúp cho đồng minh thân cận nhất của chúng ta hay không.” “Việc gì vậy?” “Graham Seymour vừa ghé thăm thành phố mà không báo trước. Anh ta muốn nói vài lời.” Nhà phục chế tranh quay lại đối diện với Shamron. “Vài lời về chuyện gì?” một lát sau ông hỏi. “Anh ta không nói, nhưng có vẻ khẩn cấp,” Shamron bước tới giá vẽ, nheo mắt nhìn khung vải cổ xưa, nơi nhà phục chế đang làm việc. “Trông nó lại có vẻ mới toanh rồi.” “Chính là điểm này.” “Liệu có cơ hội nào để anh cũng làm như vậy với tôi hay không?” “Xin lỗi ông, Ari,” Gabriel sờ gò má có vết hằn sâu của Shamron, “nhưng tôi e rằng ông không còn sửa chữa gì được nữa.” https://thuviensach.vn 4 KHÁCH SẠN KING DAVID, JERUSALEM CHIỀU NGÀY 22 tháng Bảy năm 1946, nhóm phục quốc Do Thái cực đoan được biết dưới cái tên Irgun đã cho nổ một quả bom có tầm sát thương rộng lớn ở Khách sạn King David, tổng hành dinh của tất cả các lực lượng quân sự và dân sự Anh ở Palestine. Cuộc tấn công nhằm trả thù cho hàng trăm chiến binh Do Thái bị bắt giữ, đã giết chết chín mươi mốt người, gồm cả hai mươi tám thần dân Vương quốc Anh đã phớt lờ cú điện thoại cảnh báo phải sơ tán khỏi khách sạn. Mặc dù bị lên án khắp thế giới, vụ đánh bom này nhanh chóng tỏ ra là một trong những hành động bạo lực chính trị hữu hiệu nhất từng được tiến hành. Trong vòng hai năm, người Anh đã rút quân khỏi Palestine, và Nhà nước Israel hiện đại từng là một giấc mơ không tưởng nay đã thành hiện thực. Trong số những người may mắn thoát chết trong vụ đánh bom ấy có một sĩ quan tình báo Anh trẻ tuổi tên là Arthur Seymour, một cựu chiến binh từng tham gia chương trình Song Thập (Double Cross - mật danh của một điệp vụ trong Thế chiến thứ Hai) vừa mới được thuyên chuyển tới Palestine để theo dõi hoạt động bí mật của người Do Thái. Đúng ra Seymour đã có mặt ở văn phòng lúc xảy ra cuộc tấn công, nhưng ông đã chạy đi vài phút sau khi gặp một mật báo viên ở Thành Cổ (Old City). Ông nghe tiếng bom nổ khi đang đi ngang qua cổng Jaffa và kinh hoàng khi trông thấy một phần của khách sạn đang sụp đổ. Cảnh tượng ấy cứ ám ảnh Seymour mãi suốt quãng đời còn lại và định hướng cả quá trình công tác của ông. Cay cú chống Israel và nói tiếng Ả Rập lưu loát, ông phát triển những mối liên kết mật thiết nhưng không được thoải mái với nhiều kẻ thù https://thuviensach.vn của Israel. Ông là một vị khách thường xuyên của Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser và là người sớm ngưỡng mộ một nhà cách mạng trẻ tuổi người Palestine tên là Yasir Arafat* Mặc dù ông có cảm tình với người Ả Rập, Văn phòng vẫn xem Arthur Seymour là một trong những sĩ quan có năng lực nhất của cơ quan Tình báo mật (MI6)* ở Trung Đông. Và vì thế một vấn đề đã xảy đến như chuyện đáng ngạc nhiên khi con trai duy nhất của ông là Graham đã chọn hành nghề ở MI5 chứ không phải MI6 oai phong hơn. Được biết khi mới vào nghề, Seymour thời còn trẻ đã phục vụ trước tiên trong ngành phản gián, làm công tác chống KGB* ở London. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ và phái Hồi giáo cuồng tín trỗi dậy, ông được thăng chức làm Trưởng ban chống khủng bố. Giờ đây, với chức vụ Phó Giám đốc MI5, ông buộc phải dựa vào kinh nghiệm tinh thông của mình về cả hai chuyên ngành. Dạo này có nhiều gián điệp Nga tung hoành khắp London hơn cả thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Và do những sai lầm liên tiếp của chính phủ, Vương quốc Anh giờ đây là nhà của hàng ngàn chiến binh Hồi giáo đến từ thế giới Ả Rập và châu Á. Seymour từng gọi London là “Kandahar* trên bờ sông Thames.” Theo quan điểm cá nhân, ông lo đất nước mình đang trượt tới gần hơn bờ vực thẳm của nền văn minh. Tuy Graham Seymour đã được thừa hưởng từ cha mình niềm đam mê với công tác điệp báo thuần túy, nhưng ông không hề chia sẻ thái độ khinh miệt của ông cụ đối với Nhà nước Israel. Thật vậy, dưới sự chỉ đạo của ông, MI5 đã rèn đúc nên những mối liên kết mật thiết với Văn phòng, đặc biệt với Gabriel Allon. Hai người đàn ông xem nhau như là hội viên của một hội huynh đệ bí mật chuyên chạy những việc vặt vãnh chẳng vui vẻ gì mà người khác chả ai chịu làm, và luôn lo lắng vì những hậu quả về sau. Họ chiến đấu vì nhau, đổ máu vì nhau và trong một số trường hợp giết người vì nhau. Họ thân với nhau như hai điệp viên của hai cơ quan tình báo đối nghịch có thể thân thiết, điều đó có nghĩa là họ chỉ dành cho nhau một chút sự nghi ngờ cần thiết. https://thuviensach.vn “Liệu có ai trong khách sạn này không biết anh là ai hay không?” Seymour hỏi, lắc bàn tay Gabriel giơ ra như thể đây là lần đầu tiên hai người gặp nhau. “Cô gái ở quầy tiếp tân hỏi có phải tôi tới đây để học giáo luật Do Thái Greenberg hay không.” Seymour mỉm cười dè dặt. Với những lọn tóc màu thiếc và hàm răng cứng chắc, trông ông như nguyên mẫu của một Nam tước ở thuộc địa của Vương quốc Anh, một người quyết định những vấn đề quan trọng và không bao giờ tự rót trà cho mình. “Bên trong hay ra ngoài?” Gabriel hỏi. “Ra ngoài,” Seymour đáp. Họ ngồi ở một cái bàn bên ngoài trên nền cao, Gabriel đối diện với khách sạn, Seymour đối diện với bức tường của Thành Cổ. Quá mười một giờ khoảng vài phút, thời gian êm đềm thư thái giữa bữa điểm tâm và bữa ăn trưa. Gabriel chỉ uống cà phê, nhưng Seymour lại gọi quá nhiều món. Vợ ông là một bà bếp nhiệt tình nhưng nấu ăn rất dở. Đối với ông, thức ăn trên máy bay là một bữa tiệc được chiêu đãi, còn bữa lỡ buổi sáng ở khách sạn, ngay cả từ nhà bếp của Khách sạn King David, lại là một dịp để ông được thưởng thức. Và còn được ngắm quang cảnh Thành Cổ nữa, dường như là thế. “Có thể anh thấy chuyện này khó tin,” ông nói giữa hai lần nhai món trứng rán, “nhưng đây là lần đầu tiên tôi từng đặt chân lên đất nước của anh.” “Tôi biết,” Gabriel đáp lại. “Tất cả đều ở trong hồ sơ của ông.” “Đọc thấy thú vị chứ?” “Tôi chắc chắn nó không là gì hết so với những gì mà cơ quan của ông đã nắm được về tôi.” “Sao có thể như thế chứ? Tôi chỉ là một nhân viên tầm thường của Cơ quan An ninh phụng sự Nữ hoàng Bệ hạ. Còn anh lại là một huyền thoại. https://thuviensach.vn Rốt cuộc,” Seymour hạ giọng nói thêm, “có bao nhiêu sĩ quan tình báo có thể nói mình đã cứu thế giới thoát khỏi họa diệt vong chứ?” Gabriel ngoái đầu đăm đăm liếc nhìn cái vòm thếp vàng của Đền thờ Mái vòm Vàng (Dome of the Rock), nơi thờ Thánh cốt thiêng liêng thứ ba của đạo Hồi, lấp lánh dưới ánh nắng trong như pha lê của Jerusalem. Năm tháng trước, trong một gian phòng bí mật cách 51 mét dưới mặt đất ở Núi Đền thờ, ông đã phát hiện một quả bom khủng, nếu bị kích nổ hẳn đã phá sập toàn bộ vùng cao nguyên, ông còn phát hiện hai mươi hai cây cột ở Đền thờ Solomon của Jerusalem, như thế đã chứng minh rất rõ, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, thánh địa của đạo Do Thái thời xưa được mô tả trong sách Các Vua và Biên niên sử (Kings and Chronicles) thực sự đã tồn tại. Mặc dù tên của Gabriel không hề xuất hiện khi báo chí đưa tin về phát hiện quan trọng đó, nhưng sự liên can của ông với vụ việc được biết rõ trong một số nhóm của cộng đồng tình báo phương Tây. Còn được biết người bạn thân thiết nhất của ông là nhà khảo cổ thời Kinh Thánh cựu ước có danh tiếng, đồng thời là đặc vụ của Văn phòng tên là Eli Lavon, người suýt chút nữa đã bỏ mạng khi cố cứu mấy cây cột khỏi bị hủy hoại. “Anh cực kỳ may mắn vì quả bom đã không phát nổ,” Seymour nói. “Nếu nó nổ, hẳn hàng triệu tín đồ Hồi giáo đã bao vây anh trong vòng vài giờ. Sau đấy...” giọng ông ta lạc hẳn đi. “Hẳn đó sẽ là ánh sáng soi đường cho cái dự án mang tên Nhà nước Israel,” Gabriel ngắt luôn dòng suy tưởng của Seymour về mình. “Đúng là điều mà Iran và đồng minh trong nhóm Hezbollah muốn xảy ra.” “Tôi không hình dung ra anh đã phải như thế nào khi lần đầu tiên trông thấy những cột trụ ấy.” “Thành thật mà nói, Graham à, tôi không có thời gian để tận hưởng những giây phút đó. Tôi quá bận rộn vì phải cố duy trì sự sống cho Eli.” “Ông ấy thế nào rồi?” “Ông ta đã nằm viện hai tháng, nhưng trông vẫn khỏe mạnh gần như bình thường. Hiện giờ đã đi làm lại rồi.” https://thuviensach.vn “Làm cho Văn phòng?” Gabriel lắc đầu. “Ông ta lại đang đào bới dưới Đường hầm Bức tường phía Tây. Tôi có thể sắp xếp một chuyến đi bí mật nếu ông thích. Thật vậy, nếu ông thấy thích thú, tôi sẽ hướng dẫn ông tham quan lối đi bí mật trực tiếp dẫn vào Núi Đền thờ.” “Tôi không chắc chắn chính phủ của tôi có chấp thuận hay không nữa.” Seymour im bặt khi một tiếp viên lại rót đầy hai tách cà phê. Sau đó, khi chỉ còn lại hai người, ông nói: “Tin đồn rốt cuộc đúng sự thật rồi.” “Tin đồn gì vậy?” “Là tin thằng con hoang đàng cuối cùng đã trở về nhà. Thật buồn cười,” ông nói thêm, vừa mỉm cười buồn bã, “nhưng tôi cho rằng anh sẽ dành cả quãng đời còn lại để dạo bước trên những mỏm đá ở Cornwall.” “Ở đó đẹp lắm, Graham à. Nhưng nước Anh là quê nhà của ông chứ không phải của tôi.” “Đôi khi ngay chính tôi cũng chẳng còn có cảm giác đang ở quê nhà của mình nữa,” Seymour nói. “Bà Helen và tôi vừa mới tậu được một biệt thự ở Bồ Đào Nha. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ sống tha hương như cậu trước đây.” “Chẳng bao lâu nữa là thế nào?” “Chẳng có chuyện gì sắp xảy đến đâu,” Seymour đáp. “Nhưng cuối cùng rồi mọi chuyện tốt lành phải kết thúc thôi.” “Ông đã có một sự nghiệp vĩ đại, Graham à.” “Thế sao? Thật khó đo lường thành quả trong công tác tình báo, phải không nào? Chúng ta bị phán xét vì những chuyện không hề xảy ra: các bí mật không hề bị đánh cắp, các cao ốc không hề nổ tung. Đấy có thể là một cách kiếm sống hoàn toàn không thỏa mãn.” “Ông định làm gì ở Bồ Đào Nha?” “Bà Helen sẽ cố đầu độc tôi với cái tài nấu ăn kỳ khôi của bà ấy, còn tôi thì sẽ vẽ những bức tranh phong cảnh bằng màu nước tồi tệ của mình.” https://thuviensach.vn “Tôi chưa từng biết ông vẽ tranh.” “Vì lý do tốt đẹp,” Seymour nhăn mặt nhíu mày với cảnh vật xung quanh như thể còn lâu mới đạt yêu cầu để ông cầm cọ vẽ và bảng màu. “Bố tôi hẳn đang xoay trở không yên dưới mồ nếu như ông biết tôi... ở đây.” “Vậy ông tới đây để làm gì?” “Tôi đang tự hỏi liệu anh có thể sẵn lòng tìm giúp một thứ gì đấy cho một người bạn của tôi hay không.” “Người bạn đó có tên không?” Seymour không đáp lại. Thay vào đó, ông mở cái cặp giấy tờ và lôi ra một tấm hình khổ chừng 20x25cm rồi trao cho Gabriel. Đó là ảnh chụp một phụ nữ trẻ hấp dẫn đang đăm đăm nhìn thẳng vào máy ảnh, tay cầm một ấn bản ba ngày trước của tờ International Herald Tribune. “Madeline Hart?” Ông Phó Giám đốc người Anh gật đầu. Sau đó ông đưa cho Gabriel một tờ giấy khổ A4. Trên đó chỉ có một câu soạn bằng kiểu chữ đơn giản không có nét hoa mỹ: Chúng mày có bảy ngày, hay con này phải chết. “Khốn kiếp,” Gabriel nói thật nhẹ nhàng. “Tôi e rằng... sẽ tốt hơn.” Thật trùng hợp, ban quản trị Khách sạn King David đã đặt Graham Seymour, con trai độc nhất của Arthur Seymour, ở cùng một cánh của khách sạn đã bị phá hủy vào năm 1946. Thật vậy, phòng của ông ở gần cuối cái sảnh mà ở đầu là phòng bố ông đã dùng làm văn phòng suốt những ngày tháng suy tàn của chế độ ủy trị của Vương quốc Anh ở Palestine (British Mandate). Khi tới đó hai người bạn thấy bảng XIN ĐỪNG QUẤY RẦY vẫn còn treo nơi chốt cửa cùng với một cái bao đựng tờ Jerusalem Post và tờ Haaretz. Seymour dẫn Gabriel vào bên trong. Hài lòng vì không có ai vào phòng khi mình vắng mặt, ông đưa một đĩa DVD vào máy tính https://thuviensach.vn xách tay của ông rồi nhấp vào biểu tượng PHÁT. Vài giây sau Madeline Hart, thần dân Vương quốc Anh và công chức thuộc đảng cầm quyền đã mất tích, xuất hiện trên màn hình. “Tôi đã làm tình với Thủ Tướng Jonathan Lancaster lần đầu tiên tại Hội nghị ở Manchester vào tháng Mười năm 2012...” https://thuviensach.vn 5 KHÁCH SẠN KING DAVID, JERUSALEM ĐOẠN PHIM DÀI bảy phút mười hai giây. Suốt từ đầu đến cuối Madeline vẫn cứ đăm đăm nhìn một điểm cố định hơi chếch về bên trái máy quay, như thể đang trả lời những câu hỏi do một người phỏng vấn của đài truyền hình đặt ra. Cô có vẻ khiếp sợ và mệt mỏi khi miễn cưỡng tả lại mình đã gặp Thủ tướng như thế nào trong một lần ông viếng thăm trụ sở của đảng tại tòa phức hợp Millbank, ông ta đã tỏ lòng ngưỡng mộ công việc của cô và có hai lần mời cô tới Phố Downing để hỏi thăm vắn tắt về chuyện riêng tư. Chính vào cuối cuộc gặp lần thứ hai, ông thừa nhận mình quan tâm đến cô không chỉ vì nghề nghiệp. Lần quan hệ tình dục đầu tiên của họ chỉ là vội vàng ân ái trong một căn phòng khách sạn ở Manchester. Sau đó Madeline được một người bạn lâu năm của Thủ tướng nhanh chóng thuyên chuyển vào Phủ Thủ tướng, hầu như ngay lúc Diana Lancaster vừa rời khỏi London. “Và giờ đây,” Seymour rầu rĩ nói khi màn hình máy vi tính đã tối đen, “Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đã bị trừng phạt vì tội lỗi của mình với một vụ cố ý tống tiền thô bạo.” “Vụ này đâu có gì thô bạo, Graham. Bất cứ ai đứng sau vụ này đều biết Thủ tướng có dính líu vào một vụ ngoại tình. Rồi sau đó chúng đã làm cho tình nhân của ông ta biến mất chẳng để lại dấu vết nào trên đảo Corse. Hiển nhiên, mưu mô của chúng vô cùng tinh vi.” Seymour lấy cái đĩa ra khỏi máy vi tính nhưng chẳng nói gì cả. “Còn ai biết nữa không?” https://thuviensach.vn Seymour giải thích ba món đó - tấm hình, lá thư ngắn và đĩa DVD - sáng hôm trước đó đã được bỏ lại trên bậc thềm trước cửa nhà Simon Hewitt như thế nào. Và ông này đã chuyển chúng tới Phủ Thủ tướng, ở đó ông ta đã đưa cho Jeremy Fallon xem như thế nào. Rồi cả hai sau đó đã diện kiến Thủ tướng trong văn phòng của ông ấy ở Số Mười như thế nào. Gabriel gần đây cư trú ở Vương quốc Anh nên biết rõ vai trò của các nhân vật đó. Hewitt, Fallon, Lancaster: bộ ba thần thánh của nền chính trị Vương quốc Anh. Hewitt là bác sĩ trị bệnh ngoài da, Fallon là quân sư và nhà chiến lược, còn Lancaster là một tài năng chính trị chưa có kinh nghiệm. “Tại sao Lancaster lại chọn ông?” Gabriel hỏi. “Bố chúng tôi cùng làm việc trong ngành tình báo.” “Chắc chắn có những lý do còn hơn như vậy nữa.” “Có đấy,” Seymour thừa nhận. “Tên hắn là Siddiq Hussein.” “Tôi e rằng cái tên này khá lạ lẫm.” “Chẳng đáng ngạc nhiên gì,” ông bạn người Anh nói. “Bởi vì nhờ tôi mà Siddiq đã biến mất dưới một cái hố đen cách đây rất nhiều năm và chả bao giờ còn thấy hay nghe nhắc đến hắn nữa.” “Hắn là ai?” “Là một người gốc Pakistan cư trú tại Tower Hamlets phía Đông London. Hắn xuất hiện trên màn hình ra đa của chúng tôi sau vụ đánh bom năm 2007 khi chúng tôi cuối cùng đã định vị lại và bắt đầu lôi những người theo chủ nghĩa Hồi giáo cấp tiến ra khỏi các đường phố. Anh còn nhớ những ngày ấy mà,” Seymour nói một cách cay đắng. “Những tháng ngày mà cánh tả và giới truyền thông khăng khăng đòi làm gì đấy với bọn khủng bố đang nằm vùng ở đất nước tôi.” “Nói tiếp đi, Graham.” “Siddiq thường xuyên lui tới với bọn được cho là cực đoan ở Thánh đường Hồi giáo khu Đông London, và số điện thoại di động của hắn cứ xuất hiện ở toàn những nơi sai lệch. Tôi đã cho Scotland Yard (tức Sở Cảnh sát Thủ đô London) một bản sao hồ sơ của hắn nhưng Bộ chỉ huy Chống https://thuviensach.vn khủng bố lại bảo không có đủ chứng cứ để hành động chống lại hắn. Sau đấy hắn đã thực hiện một việc để cho tôi có cơ hội tự mình giải quyết vấn đề.” “Là việc gì vậy?” “Hắn đã đặt mua một vé máy bay đi Pakistan.” “Đúng là sai lầm lớn.” “Sai lầm tai hại, thật thế,” Seymour nói một cách cay cú. “Chuyện gì đã xảy ra?” “Chúng tôi theo hắn đến sân bay Heathrow và kiểm tra chắc chắn hắn đã lên máy bay đi Karachi. Sau đó tôi lẳng lặng gọi cho một người bạn cũ ở Langley, bang Virginia. Tôi tin chắc anh biết rõ ông ấy.” “Là Adrian Carter.” Seymour gật đầu. Adrian Carter là Giám đốc Sở Mật vụ Quốc gia của CIA*. Ông ta giám sát cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu của cơ quan tình báo, bao gồm chương trình trước đây từng là bí mật để ngăn cản và thẩm vấn các đặc vụ giá trị cao. Seymour nói tiếp: “Nhóm điệp viên của Carter đã theo dõi Siddiq ở Karachi trong ba ngày. Sau đấy họ trùm một cái bao lên đầu hắn rồi đưa hắn lên chuyến bay bí mật đầu tiên rời khỏi đất nước ấy.” “Họ đưa hắn đi đâu?” “Kabul.” “Tới Salt Pit?” Seymour chậm rãi gật đầu. “Hắn sống được bao lâu?” “Còn tùy anh hỏi ai. Theo tính toán của CIA về vụ này, họ thấy hắn đã chết trong xà lim mười ngày sau khi đến Kabul. Gia đình hắn lại khẳng định trong một vụ kiện cáo rằng hắn đã chết trong khi bị tra tấn.” “Vậy thì có liên quan gì tới Thủ tướng?” https://thuviensach.vn “Khi các luật sư đại diện cho gia đình Siddiq yêu cầu xem tất cả tài liệu của MI5 liên quan đến vụ án này, chính phủ của Lancaster đã từ chối không đưa ra, viện cớ sẽ gây nguy hại cho nền an ninh của Vương quốc Anh. Ông ấy đã cứu vớt sự nghiệp của tôi.” “Và bây giờ anh định trả lại món nợ đó bằng cách giúp ông ta thoát chết?” Vì ông bạn không đáp lại nên Gabriel nói tiếp, “Chuyện này sẽ kết thúc thật tệ hại, Graham à. Và khi đó, một điều không thể tránh khỏi là tên của ông sẽ được đặc biệt chú ý trong cuộc điều tra chính thức.” “Tôi đã nói rõ, nếu điều ấy xảy đến tôi sẽ lôi mọi người xuống theo, kể cả Thủ tướng.” “Tôi chưa bao giờ hình dung ông là hạng người ngây thơ, Graham à.” “Tôi là hạng người nào đấy chứ chẳng phải ngây thơ đâu.” “Vậy ông rời khỏi đây đi. Hãy trở về London và bảo Thủ tướng của ông tới trước ống kính truyền hình cùng với vợ ông ta bên cạnh, và công khai kêu gọi bọn bắt cóc thả cô gái.” “Chuyện ấy đã quá muộn rồi. Vả lại,” Seymour nói thêm, “có lẽ tôi hơi cổ hủ một chút, nhưng tôi chẳng ưa chuyện người ta cố tống tiền lãnh đạo của nước mình.” “Liệu lãnh đạo có biết ông đang ở Jerusalem hay không?” “Chắc hẳn anh chỉ nói đùa.” “Tại sao lại là tôi chứ?” “Bởi vì nếu MI5 hay cơ quan tình báo cố tìm cho ra cô ấy, họ sẽ tiết lộ theo kiểu cách Siddiq Hussein đã làm. Anh tìm kiếm món đồ này vật dụng nọ cũng cực kỳ tài giỏi,” Seymour khẽ nói tiếp. “Những chiếc cột cổ xưa, những bức tranh của Rembrandt bị đánh cắp, những cơ sở làm giàu nhiên liệu hạt nhân bí mật của Iran.” “Xin lỗi Graham, nhưng mà...” “Và bởi vì anh cũng chịu ơn Lancaster đấy,” Seymour ngắt lời ông. “Tôi sao?” https://thuviensach.vn “Anh nghĩ ai đã cho anh nương náu ở Cornwall dưới một cái tên giả khi mà không có nước nào khác chịu nhận? Và anh nghĩ ai đã để cho mình tuyển mộ một nhà báo Anh khi cần xâm nhập vào dây chuyền cung cấp nhiên liệu hạt nhân của Iran?” “Tôi đã không nhận thấy chúng ta vẫn còn đang mắc nợ, Graham à.” “Chẳng phải thế đâu,” Seymour nói. “Nhưng giá như thế thật, chắc chắn anh sẽ cứ thua kém mãi trong trận đấu.” Hai người đàn ông im bặt đi trong một bầu không khí không thoải mái, như thể ngượng ngùng vì giọng điệu của cuộc đấu khẩu. Seymour nhìn lên trần nhà, còn Gabriel thì ngó tờ giấy. Chúng mày có bảy ngày, hay con này phải chết... “Khá mơ hồ, ông không nghĩ vậy sao?” “Nhưng mà hiệu quả rất cao,” Seymour nói. “Chắc chắn đã làm cho Lancaster phải chú ý.” “Không có đòi hỏi gì sao?” Seymour lắc đầu. “Hiển nhiên chúng muốn nêu cái giá vào phút chót. Và chúng còn muốn Lancaster tuyệt vọng đến mức không màng sinh mệnh chính trị của mình, ông ta sẽ đồng ý trả tiền.” “Dạo này Thủ tướng của ông đáng giá bao nhiêu?” “Lần cuối tôi lén xem tài khoản ngân hàng của ông ấy,” Seymour nói một cách hài hước, “ông ấy có trên một trăm triệu.” “Bảng Anh?” Seymour gật đầu. “Jonathan Lancaster làm ra hàng triệu ở Khu Trung tâm London, thừa kế hàng triệu từ gia đình mình, và cưới được hàng triệu dưới hình dạng của quý cô danh giá Diana Baldwin. Ông là một mục tiêu hoàn hảo, một người có nhiều tiền hơn mức nhu cầu có được, và lẽ dĩ nhiên có không ít tiền hơn mức có thể mất đi. Bà Diana và các con của họ được bảo hộ an ninh nghiêm ngặt tại nhà số Mười. Điều này có nghĩa là hầu như bọn bắt cóc sẽ không thể nào đụng đến họ. Nhưng tình nhân của Lancaster https://thuviensach.vn ...” Giọng Seymour lạc hẳn đi. Rồi ông nói tiếp, “Tình nhân lại là một vấn đề hoàn toàn khác.” “Tôi không nghĩ ông ta đã đề cập tới bất cứ điều gì về vụ này với vợ của mình, đúng không?” Seymour ra dấu hiệu bằng tay ngụ ý không rõ nội tình cuộc hôn nhân của họ. “Ông có bao giờ điều tra một vụ bắt cóc hay chưa, Graham?” “Chưa bao giờ từ lúc ở Bắc Ireland. Và các vụ bắt cóc ở đấy đều liên quan đến IRA*.” “Bắt cóc chính trị khác với bắt cóc hình sự,” Gabriel nhận xét. “Kẻ bắt cóc chính trị thường là một gã có lý trí. Hắn muốn đồng bọn được thả ra khỏi nhà tù, hoặc muốn có một thay đổi chính sách, vì vậy hắn chộp một chính khách quan trọng hay bắt cả một xe buýt chở học sinh và giữ họ làm con tin cho tới khi các yêu sách của hắn được đáp ứng. Nhưng một tên tội phạm hình sự chỉ muốn có tiền, và nếu ông trả tiền sẽ làm cho hắn muốn có thêm nhiều tiền. Vậy thế là hắn cứ đòi cho tới khi nghĩ ông không còn tiền nữa.” “Bởi thế tôi cho rằng chúng ta chỉ còn lại một lựa chọn mà thôi.” “Đó là gì?” “Tìm thấy cô gái.” Gabriel bước tới cửa sổ, đăm đăm nhìn qua thung lũng về phía Núi Đền thờ; và trong phút chốc ông trở lại trong một cái hang bí mật cách mặt đất 51 mét, đang ôm lấy Eli Lavon trong lúc máu của ông ta thấm vào lòng núi thiêng. Suốt một đêm dài đằng đẵng, Gabriel đã túc trực bên giường của nhà khảo cổ trong bệnh viện, và ông ấy đã thể sẽ không bao giờ đặt chân tới chiến trường bí mật nữa. Nhưng giờ đây, một người bạn cũ đã làm sống lại cả một miền ký ức đầy hoảng loạn để yêu cầu một ân huệ. Lại một lần nữa, Gabriel cố hết sức tìm lời lẽ để khiến ông ta trở về tay không. Là con trai duy nhất của hai người sống sót sau Cuộc Đại Thảm sát https://thuviensach.vn Holocaust*, bản tính của Gabriel không muốn làm người khác phải thất vọng, ông cố tìm cách giúp họ chứ hiếm khi từ chối. “Dù cho tôi có thể tìm thấy cô ta,” một lát sau ông nói, “bọn bắt cóc vẫn còn đoạn phim ghi lại hình ảnh cô ta thú nhận đã có quan hệ yêu đương với ông Thủ tướng.” “Nhưng đoạn phim ấy sẽ có tác động khá khác biệt nếu đóa hoa hồng nước Anh lại an toàn trở về trên đất Anh.” “Trừ khi hoa hồng nước Anh quyết định nói sự thật.” “Cô ấy là một người trung thành, chẳng dám đâu.” “Ông đâu biết chúng đã làm gì cô ta,” Gabriel phản ứng lại. “Có thể giờ đây cô ta đã trở thành một con người hoàn toàn khác rồi.” “Đúng,” Seymour nói. “Nhưng chúng ta quá lo xa rồi đấy. Cuộc trò chuyện này vô nghĩa nếu như anh và cục tình báo của anh không cam kết sẽ mở một điệp vụ truy tìm Madeline Hart nhân danh cá nhân tôi.” “Tôi không có quyền hạn sắp đặt mọi chuyện ở cơ quan tình báo theo ý muốn của ông, Graham à. chính Uzi mới có quyền quyết định, không phải tôi.” “Uzi đã đồng ý rồi,” Seymour nói một cách thẳng thừng. “Shamron cũng thế.” Gabriel nhìn Seymour trừng trừng có vẻ không bằng lòng nhưng chẳng nói gì. “Anh thực sự nghĩ Ari Shamron đồng ý để tôi tiếp cận anh khi ông ấy chưa làm rõ câu chuyện vì sao tôi đến thành phố này sao?” Seymour hỏi. “Ông ấy luôn bảo vệ anh thật cẩn mật.” “Ông ta có một cách biểu lộ điều đó thật kỳ cục. Nhưng tôi e rằng có một người ở Israel còn có nhiều quyền hạn hơn Shamron, ít ra là khi có chuyện xảy tới với tôi.” “Vợ anh à?” Gabriel gật đầu. https://thuviensach.vn “Chúng ta có bảy ngày, hoặc là cô gái phải chết.” “Sáu ngày,” Gabriel nói. “Cô gái có thể ở bất cứ nơi nào trên thế giới, và chỉ một manh mối thôi chúng ta cũng không có.” “Không hoàn toàn đúng như thế.” Seymour thò tay vào trong cặp đựng giấy tờ của mình, đưa ra hai tấm hình của Interpol* chụp người đàn ông đã cùng ăn trưa với cô gái vào buổi chiều cô ta mất tích. Người đàn ông mang đôi giày không để lại vết tích. Người đàn ông bị lãng quên. “Hắn là ai?” Gabriel hỏi. “Câu hỏi hay đấy,” Seymour đáp. “Nhưng nếu tìm ra hắn, biết đâu chừng anh sẽ tìm thấy Madeline Hart. https://thuviensach.vn 6 VIỆN BẢO TÀNG ISRAEL, JERUSALEM GABRIEL CHỈ LẤY duy nhất một món Graham Seymour đưa, tấm hình chụp cô gái bị bắt giữ Madeline Hart, mang nó theo khi ông đi về hướng Tây, băng qua Jerusalem và tới tận Viện Bảo tàng Israel. Sau khi bỏ lại chiếc xe hơi của mình ở bãi đậu xe dành cho nhân viên, một đặc quyền mới vừa được trao gần đây; Gabriel đi qua tiền sảnh có vách kính rất cao dẫn tới căn phòng cất giữ bộ sưu tập mỹ thuật châu Âu. Ở một góc phòng có treo chín bức tranh thuộc trường phái Ấn tượng trước đây từng thuộc sở hữu của một chủ ngân hàng Thụy Sĩ tên là Augustus Rolfe. Một tấm áp phích mô tả hành trình dài của các bức tranh từ Paris tới nơi này - chúng đã bị Đức Quốc xã cướp bóc vào năm 1940 như thế nào, và về sau đã được chuyển tới cho chủ ngân hàng để đổi lại việc ông ta phục vụ cho tình báo Đức. Tấm áp phích chẳng hề đề cập đến sự kiện Gabriel và con gái của Rolfe, một nhạc sĩ vĩ cầm lừng danh - Anna Rolfe, đã phát hiện các bức tranh này trong nhà kho bí mật của một ngân hàng ở Zurich - hay chuyện tập đoàn thuộc sở hữu của một doanh nhân Thụy Sĩ đã thuê sát thủ chuyên nghiệp từ đảo Corse tới để giết cả hai người. Trong phòng trưng bày tranh liền kề có treo tác phẩm của các họa sĩ Israel. Có ba bức tranh sơn dầu do mẹ Gabriel vẽ, trong đó có một bức miêu tả khung cảnh ảm đạm của cuộc dẫn giải tử thần từ trại Auschwitz vào tháng Giêng năm 1945, được bà vẽ bằng màu của ký ức xa xôi. Ông chiêm ngưỡng một lúc khá lâu tài nghệ và nét cọ của bà trước khi đi ra ngoài và vào trong khu vườn trưng bày các tác phẩm điêu khắc. Xa xa, ở cuối vườn, đứng sừng sững Điện thờ Thánh thư có hình dáng của một tổ https://thuviensach.vn ong, là nơi cất giữ Các Cuộn sách Biển Chết*. Kế đó là công trình kiến trúc mới nhất của viện bảo tàng, một tòa nhà hiện đại bằng kính và thép, có chiều dài sáu mươi cupit*, rộng hai mươi cupit và cao ba mươi cupit. Hiện giờ nó được phủ kín dưới lớp vải dầu xây dựng mờ đục, khiến hai mươi hai cây cột của Đền thờ Solomon ở bên trong mà thế giới bên ngoài không thể nào trông thấy . Những nhân viên an ninh trang bị vũ khí đầy đủ đứng dọc theo cả hai bên tòa nhà và lối ra vào ở hướng Đông, cùng một hướng với Đền thờ Solomon nguyên gốc. Đó chỉ là một bộ phận của cuộc triển lãm gây tranh cãi nhiều chưa từng thấy trên thế giới do Ban Giám đốc viện bảo tàng tổ chức. Nhóm haredim (một nhóm trong Do Thái giáo) chính thống cực đoan của Israel đã tố cáo cuộc triển lãm là hành vi báng bổ Thượng Đế và sẽ dẫn đến kết quả là một nhà nước Do Thái diệt vong, trong khi ở Đông Jerusalem của người Ả Rập, những người giữ Đền thờ Mái vòm Vàng lại xem những cây cột như một trò lừa bịp tinh vi. “Chưa bao giờ từng có một đền thờ thực sự trên Núi Đền thờ,” đại giáo sĩ Hồi giáo của Jerusalem đã viết trong một mục op-ed* đăng trên tờ New York Times, “và chẳng cuộc triển lãm của viện bảo tàng nào từng làm thay đổi sự kiện ấy.” Mục này dành để đăng các bài viết phản hồi ý kiến công luận; của một chuyên gia hay ký giả có tiếng nhưng không thuộc ban biên tập (nghĩa là quan điểm của người này không đại diện cho quan điểm của tờ báo); có thể tạm hiểu là “bình luận viên độc lập”. Mặc cho những trận chiến chính trị và tôn giáo khốc liệt nổi lên quanh cuộc triển lãm, sức ảnh hưởng của nó lan tỏa với một tốc độ đáng kể. Trong vòng vài tuần lễ từ khi Gabriel phát hiện mấy cây cột, các kế hoạch kiến trúc đã được chấp thuận, các ngân quỹ được thiết lập và mặt đất được đào đắp. Nhiều khoản tín dụng thuộc về giám đốc kiêm thiết kế trưởng của dự án là người gốc Ý. Với công chúng, người ta quen nhắc đến nàng với cái tên thời thiếu nữ là Chiara Zolli. Nhưng tất cả những người cộng tác trong dự án đó đều biết tên nàng là Chiara Allon. https://thuviensach.vn Những cây cột được sắp xếp cùng một cách thức như khi Gabriel tìm thấy chúng, thành hai dãy thẳng hàng cách nhau chừng hơn 6 mét. Một cây cao nhất nhuốm đen vì khói lửa - người Babylon đã phóng hỏa vào cái đêm họ triệt hạ ngôi đền mà người Do Thái cổ đại xem là nơi trú ngụ của Thượng Đế trên cõi trần gian. Đó là cây cột mà Eli Lavon đã đeo bám khi ông gần chết, và cũng là nơi giờ đây Gabriel tìm thấy Chiara. Một tay nàng đang cầm tập ghi chép, còn tay kia thì đang vung lên ra hiệu về phía trần nhà bằng kính. Nàng mặc quần jean bạc phếch, mang một đôi giày xăng đan đế bằng và tròng một chiếc áo len chui đầu sát nách màu trắng bó chặt những đường cong trên thân thể. Hai cánh tay trần của nàng sạm đen nhiều vì ánh nắng của Jerusalem; mái tóc dài phong trần đầy những vệt sáng lóng lánh ánh vàng. Trông nàng đẹp lạ lùng, Gabriel nghĩ bụng, và còn quá trẻ để làm vợ một kẻ bị vùi dập trải đời như ông. Phía trên cao, hai kỹ thuật viên đang điều chỉnh hệ thống chiếu sáng khu triển lãm, còn nàng thì giám sát từ bên dưới. Nàng nói với họ bằng thứ tiếng Do Thái lơ lớ giọng Ý rất rõ rệt. Là con gái giáo trưởng đạo Do Thái tại Venice, nàng đã sống quãng đời thơ ấu trong thế giới cô lập ở một khu ổ chuột của người Do Thái có từ xa xưa, chỉ rời xa đủ lâu để hoàn thành cho được tấm bằng thạc sĩ về lịch sử La Mã tại Đại học Padua. Chiara trở về Venice sau khi tốt nghiệp, có được một công việc tại một viện bảo tàng Do Thái nhỏ ở Campo del Ghetto Nuovo, nơi mà đáng ra nàng vẫn còn ở lại mãi mãi nếu như một người chuyên phát hiện tài năng của Văn phòng không để ý đến nàng trong một chuyến về thăm Israel. Người phát hiện tài năng đó tự giới thiệu về bản thân trong một quán cà phê ở Tel Aviv, rồi hỏi nàng có quan tâm đến việc phục vụ dân Do Thái được nhiều hơn, hay vẫn thích thú với công việc trong một viện bảo tàng ở một khu ổ chuột đang suy tàn. Sau khi trải qua một năm theo chương trình huấn luyện mật vụ của Văn phòng, Chiara trở về Venice, lần này làm một điệp viên nằm vùng của tình báo Israel. Trong những nhiệm vụ nàng được phân công đầu tiên, có việc ngấm ngầm canh chừng sau lưng một sát thủ tính khí thất thường của https://thuviensach.vn Văn phòng tên là Gabriel Allon, đã tới Venice để phục chế bức tranh trang trí bàn thờ San Zaccaria của Bellini. Nàng tự bộc lộ thân phận với ông một thời gian ngắn sau đó ở Rome, sau khi xảy ra sự cố liên quan đến việc sử dụng súng và cảnh sát Ý. Bị mắc kẹt một mình với Chiara trong một nhà an toàn, Gabriel đã muốn vuốt ve nàng trong vô vọng, ông đã đợi đến khi vụ án được giải quyết và họ đã trở về Venice. Tại nơi đó, trong một căn nhà trên kênh đào ở Cannaregio, họ ân ái lần đầu tiên trên một cái giường trải vải lanh mới toanh. Khung cảnh này hệt như cảnh ân ái với một dáng hình do bàn tay họa sĩ Veronese* vẽ nên. Giờ đây dáng hình ấy đang quay đầu lại và lần đầu tiên chú ý đến sự hiện diện của Gabriel, nàng mỉm cười. Đôi mắt to với dáng vẻ của người phương Đông có màu nâu nhạt và lóng lánh ánh vàng, một phối hợp màu sắc mà Gabriel chưa bao giờ có khả năng tái tạo một cách chính xác trên khung vải. Đã nhiều tháng trời từ khi nàng chịu ngồi cho ông vẽ; cuộc triển lãm chỉ cho nàng ít thời gian để làm bất cứ điều gì khác. Đó là một thay đổi rõ rệt trong kiểu mẫu hôn nhân của họ. Thông thường, chính Gabriel là người bị hao mòn vì một dự án, dù đó là một bức tranh hay một điệp vụ, nhưng bây giờ vai trò đã đảo ngược. Chiara vốn có tài tổ chức bẩm sinh, làm việc gì cũng rất chi ly tỉ mỉ, đã thành thạo công việc dưới áp lực dữ dội của cuộc triển lãm. Nhưng trong thâm tâm Gabriel vẫn đang trông mong cái ngày ông có thể khiến nàng trở lại như xưa. Nàng bước tới chiếc cột kế tiếp và xem xét cách ánh sáng rọi xuống ngang qua nó. “Cách đây vài phút em có gọi về căn hộ, nhưng không có ai trả lời hết.” “Anh đang ăn bữa lỡ buổi sáng với Graham Seymour ở Khách sạn King David.” “Thật vui thích quá,” nàng nói mỉa. Rồi vẫn nghiên cứu chiếc cột, nàng hỏi, “Cái gì trong bì thư vậy anh?” “Một lời mời làm việc.” “Họa sĩ là ai vậy anh?” https://thuviensach.vn “Không biết.” “Và đề tài gì?” “Một cô gái tên là Madeline Hart.” Gabriel quay trở lại khu vườn điêu khắc và ngồi trên băng ghế nhìn xuống ngọn đồi màu nâu vàng của miền Tây Jerusalem, vài phút sau, Chiara đến với ông. Cơn gió mùa thu nhè nhẹ len vào mái tóc nàng. Nàng quệt một sợi tóc xoăn lạc lõng ra khỏi khuôn mặt, rồi bắt chéo chân khiến một chiếc xăng đan đeo lủng lẳng trên mấy ngón chân rám nắng. Đột nhiên, việc cuối cùng Gabriel muốn làm là rời khỏi Jerusalem để đi tìm một cô gái ông không hề quen biết. “Bọn mình thử xem lại lần nữa đi,” sau cùng nàng cất tiếng. “Cái gì ở trong bì thư vậy?” “Một tấm hình.” “Thứ hình ảnh gì vậy?” “Bằng chứng của sự sống.” Chiara chìa tay ra. Gabriel lưỡng lự. “Em có chắc chắn không?” Khi Chiara gật đầu, Gabriel mới chịu đưa phong bì cho nàng, theo dõi cách nàng mở nắp bì thư và lôi tấm hình ra. Trong khi săm soi ảnh chụp, nét mặt nàng sa sầm vì một bóng hình. Đó là bóng ma của một gã buôn vũ khí người Nga tên là Ivan Kharkov. Gabriel đã lấy đi mọi thứ của hắn: việc kinh doanh, tiền bạc và vợ con hắn. Sau đó hắn đã trả thù bằng cách bắt Chiara đi. Điệp vụ giải cứu nàng là điệp vụ đẫm máu nhất trong cả sự nghiệp lâu dài của Gabriel. Sau đó, ông đã giết mười một đặc vụ của hắn để trả đũa. Rồi trên một đường phố vắng lặng của Saint-Tropez, ông còn giết cả Ivan. Mặc dù đã chết, hắn vẫn là một phần của cuộc đời họ. Người của hắn đã chích ketamine cho Chiara khiến nàng bị sẩy mất cái thai đang mang trong bụng. Không được điều trị, vụ sẩy thai đã hủy hoại khả năng https://thuviensach.vn thụ thai của nàng. Và tự mình, nàng đành phải mãi mãi từ bỏ hy vọng làm mẹ thêm bất kỳ một lần nào nữa. Chiara bỏ tấm hình trở vào phong bì rồi trả lại cho Gabriel. Sau đó nàng chăm chú nghe Gabriel diễn tả lại vụ việc cuối cùng đã vào tay Graham Seymour rồi vào tay ông như thế nào. “Như vậy Thủ tướng Anh đang bắt ông Graham Seymour phải làm việc bẩn thỉu thay cho ông ta,” Chiara nói khi Gabriel đã kết thúc, “và Graham cũng làm y như vậy với anh.” “Ông ta từng là bạn tốt mà em.” Mặt Chiara không để lộ cảm xúc. Đôi mắt thường là cửa sổ hé lộ suy nghĩ chân thật nhất của nàng, giờ đây đang bị che giấu đằng sau cặp kính mát. “Anh nghĩ bọn nó muốn điều gì?” một lát sau nàng hỏi. “Tiền,” Gabriel đáp. “Lúc nào chúng cũng đòi tiền.” “Gần như lúc nào cũng vậy,” nàng phản ứng lại. “Nhưng đôi khi bọn nó lại đòi những thứ không thể nào nhân nhượng.” Nàng gỡ cặp kính mát, móc vào đằng trước ngực áo sơ mi rồi hỏi. “Anh còn bao lâu nữa trước khi bọn nó giết cô ta?” Khi Gabriel trả lời, nàng khẽ lắc đầu. “Không làm nổi đâu. Anh không thể nào tìm ra cô ta chỉ trong chừng đó thời gian.” “Em nhìn tòa nhà sau lưng em đi, rồi cho anh biết có còn cảm nghĩ y hệt như vậy hay không.” Chiara chẳng nhìn gì khác ngoài gương mặt của Gabriel. “Cảnh sát Pháp tìm kiếm Madeline Hart đã hơn một tháng rồi. Điều gì làm cho anh nghĩ mình sẽ tìm ra cô ta? “Có lẽ họ đã tìm không đúng chỗ... hoặc hỏi không đúng người.” “Anh định bắt đầu từ đâu?” “Anh vẫn luôn tin nơi tốt nhất để bắt đầu điều tra chính là hiện trường tội ác.” https://thuviensach.vn Chiara gỡ cặp kính mát trước ngực áo ra, lơ đãng chà tròng kính lên quần jean của mình. Gabriel biết là chuyện chẳng lành. Nàng vẫn luôn chùi đồ này vật nọ khi bực bội. “Em sẽ làm trầy kính nếu không dừng lại,” ông nói. “Nó bẩn quá,” nàng đáp thật rõ ràng rành mạch. “Có lẽ em nên bỏ nó vào một cái hộp thay vì nhét đại vào cái ví của em.” Nàng chẳng có phản ứng gì. “Em làm anh ngạc nhiên đó, Chiara à.” “Tại sao?” “Vì em biết rõ hơn ai hết Madeline Hart đang ở dưới địa ngục, và cô ta sẽ ở mãi dưới địa ngục cho tới khi có ai đó đưa cô ta ra ngoài.” “Em chỉ mong có thể là người nào khác.” “Chẳng có ai khác cả.” “Không ai giống như anh hết.” Nàng xem xét hai tròng kính mát rồi nhăn mặt. “Có gì không ổn hay sao?” “Nó bị trầy rồi.” “Thì anh đã nói em sẽ làm trầy nó rồi mà.” “Anh lúc nào cũng đúng, anh yêu.” Nàng đeo vội cặp kính và nhìn ngang qua thành phố. “Em đoán Shamron và Uzi đã ban phước lành rồi, phải không?” “Graham đã tới chỗ họ trước khi gặp anh.” “Ông ta khôn quá.” Nàng gỡ hai chân bắt chéo rồi đứng dậy. “Em phải quay trở lại thôi. Bọn em không còn nhiều thời gian trước khi khai mạc.” “Em đã làm một việc thật tuyệt vời, Chiara à.” “Nịnh bợ không ích lợi gì đâu anh.” “Thì cứ thử một lần cũng đáng mà.” https://thuviensach.vn “Bao giờ em sẽ gặp lại anh?” “Anh chỉ có bảy ngày để tìm ra cô ta.” “Sáu ngày,” nàng chỉnh Gabriel. “Sáu ngày, hoặc là cô gái phải chết.” Nàng cúi xuống hôn nhẹ lên môi Gabriel. Rồi nàng xoay người bước đi ngang qua khu vườn rực sáng lên dưới ánh nắng, hai bên hông nhẹ nhàng lắc qua lắc lại như thể theo tiếng nhạc mà chỉ một mình nàng nghe được. Gabriel dõi mắt nhìn theo cho tới khi nàng đi vào tòa nhà phủ vải dầu rồi mất dạng. Đột nhiên việc cuối cùng ông muốn làm là rời khỏi Jerusalem để đi tìm một cô gái ông không hề quen biết. Gabriel quay trở lại Khách sạn King David để lấy phần còn lại của hồ sơ từ Graham Seymour: lá thư ngắn để đòi hỏi lại không có đòi hỏi nào, cái đĩa DVD ghi lời thú tội của Madeline và hai tấm hình của người đàn ông từ nhà hàng Les Palmiers ở thị trấn Calvi. Thêm vào đó, ông còn yêu cầu bản sao hồ sơ chính trị của cô ta, và cẩn thận hỏi một địa chỉ ở Nice. “Chuyện với Chiara thế nào rồi?” Seymour hỏi. “Thời điểm này, hôn nhân của tôi có lẽ còn tệ hơn Lancaster nữa.” “Có chuyện gì tôi có thể làm hay không?” “Hãy rời khỏi thành phố càng nhanh càng tốt. Và đừng nhắc đến tên tôi với Thủ tướng của ông hay bất cứ ai khác ở Phố Downing “ “Liên lạc với anh thế nào?” “Tôi sẽ bắn pháo sáng báo hiệu khi có tin tức. Từ đây tới đó coi như tôi không tồn tại.” Nói hết lời, Gabriel rời đi. Trở về Phố Narkiss, ông thấy trên cái bàn cà phê ở chỗ dễ nhìn thấy, một dây thắt lưng có ví tiền đựng hai trăm ngàn đô la. Cạnh đó là vé máy bay đi Paris lúc 4:00 chiều. Nó được đăng ký dưới cái tên Johannes Klemp, một trong những bí danh được ưa thích nhất của ông. Đi vào phòng ngủ, Gabriel xếp vào một cái túi ngủ nhỏ bộ quần áo hợp mốt nhất ở Đức của nhãn hàng Herr Klemp, kế bên là một bộ com lê https://thuviensach.vn đen và một cái áo len chui đầu màu đen để mặc trên máy bay. Sau đó, đứng trước tấm gương trong phòng tắm, ông làm vài việc để thay hình đổi dạng một cách tinh vi: làm tóc bạc đi một chút, đeo một cặp mắt kính không vành của Đức, gắn một cặp kính sát tròng màu nâu để che giấu đôi mắt màu xanh lục riêng biệt của mình. Trong vòng vài phút, chính ông cũng không nhận ra chính mình. Ông ấy không còn là Gabriel Allon, thiên thần báo thù của Israel nữa. Ông ấy là Johannes Klemp của thành phố Munich, một người đàn ông rất dễ mích lòng, một con người nhỏ mọn thất thường, rất dễ nổi nóng vì những chuyện không đâu. Sau khi khoác lên mình bộ com lê đen của Herr Klemp và đắm mình trong mùi nước hoa nồng nàn của Herr Klemp, ông ngồi vào bàn trang điểm của vợ, mở hộp nữ trang của nàng ra. Thật kỳ lạ, có một món đồ dường như đã đặt nhầm chỗ. Đó là một sợi dây da đeo một miếng san hô màu đỏ tạo hình y hệt một bàn tay. Ông lấy nó ra và nhét vào túi. Sau đó cũng chẳng hiểu vì sao, ông lại tròng nó lên cổ rồi giấu kín dưới cái áo len của Herr Klemp. Dưới lầu một chiếc xe sedan của Văn phòng đang để máy chạy không trên đường phố. Gabriel quăng cái túi lên băng ghế đằng sau rồi leo lên theo nó. Sau đó, ông liếc nhìn đồng hồ đeo tay, không phải xem giờ mà là ngày tháng. Đó là ngày 27 tháng chín. Từng là ngày ông ưa thích nhất trong năm. “Cậu tên gì vậy?” ông hỏi thăm tài xế. “Dạ, Lior ạ.” “Cậu từ đâu tới, Lior?” “Dạ, từ Beersheba.” “Lúc còn nhỏ ở đó có thích không?” “Có những nơi còn tồi tệ hơn mà ông.” “Cậu bao nhiêu tuổi rồi?” “Dạ, tôi hai mươi lăm.” https://thuviensach.vn Hai mươi lăm, ông suy nghĩ. Sao lại phải là hai mươi lăm? Ông lại nhìn đồng hồ đeo tay. Không phải xem giờ mà là ngày tháng. “Cậu đã nhận được chỉ thị gì?” ông hỏi thăm tài xế chỉ tình cờ hai mươi lăm tuổi. “Họ đề nghị tôi chở ông tới Sân bay Ben Gurion.” “Còn gì nữa không?” “Họ nói có thể ông muốn dừng lại ở dọc đường.” “Ai nói vậy? Có phải Uzi không?” “Dạ không phải,” tài xế lắc đầu đáp lại. “Là Ông Già.” À ra là vậy, ông nghĩ. Ông ta còn nhớ. Gabriel lại liếc đồng hồ đeo tay. Ngày tháng... “Sao hả ông?” tài xế hỏi. “Đưa tôi tới sân bay đi,” Gabriel đáp lại. “Không dừng lại ạ?” “Một lần thôi.” Tài xế nhanh tay sang số rồi từ từ rời khỏi lề đường như thể đang đi đưa một đám tang. Cậu ta chẳng buồn hỏi đi về đâu. Đó là ngày 27 tháng Chín và Shamron còn nhớ. Họ đi xe tới vườn Gethsemane và sau đó theo lối mòn ngoằn ngoèo chật hẹp leo lên sườn dốc của Núi Ô Liu (Mount of Olives). Gabriel vào nghĩa trang một mình và đi qua cả một biển đầy bia đá tới tận phần mộ của Daniel Allon, sinh ngày 27 tháng chín năm 1988, mất ngày 13 tháng Giêng năm 1991. Đã chết vào một đêm có tuyết rơi ở quận Nhất của thành phố Vienna, trong một chiếc xe hơi hiệu Mercedes màu xanh lơ bị nổ tung thành muôn mảnh nhỏ bởi một quả bom. Quả bom đó do một trùm khủng bố người Palestine cài đặt; hắn tên là Tariq al-Hourani, làm theo mệnh lệnh trực tiếp của Yasir Arafat. Gabriel không phải là mục tiêu tấn công; như thế hẳn đã quá nhân từ. Tariq và Arafat đã muốn trừng phạt ông bằng cách buộc ông phải chứng kiến cái chết của vợ và con, để ông sống cả quãng đời https://thuviensach.vn còn lại trong đau buồn như người Palestine. Chỉ một phần của âm mưu đã thất bại. Leah vẫn sống sót thoát khỏi cái nơi ghê rợn đó. Hiện giờ, bà sống trong một bệnh viện tâm thần trên đỉnh núi Herzl, bị mắc kẹt trong sự dằn vặt của những hồi ức xưa cũ và một thân thể bị lửa tàn phá. Rơi vào trạng thái phiền muộn do sự kết hợp của hội chứng stress sau chấn thương và chứng suy nhược thần kinh, bà luôn tưởng mình vẫn còn trong lúc đánh bom. Tuy nhiên, thỉnh thoảng bà cũng thoáng chốc tỉnh táo. Trong một khoảnh khắc giữa chừng như thế, bà đã đồng thuận cho chồng mình cưới Chiara. Hãy nhìn em đi, Gabriel. Em có còn gì nữa đâu. Chẳng có gì ngoài hồi ức. Gabriel lại liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Không phải xem ngày tháng, mà là giờ giấc. Còn thời gian để nói một lời tạm biệt cuối cùng. Dòng nước mắt cuối cùng tuôn trào như thác đổ. Lời xin lỗi cuối cùng vì đã thất bại với việc tìm thấy quả bom trong xe hơi trước khi để cho Leah khởi động máy. Sau đó, ông loạng choạng bước ra khỏi khu vườn đầy đá, vào cái ngày mà trước đây vẫn thường là ngày ông yêu thích nhất, rồi trèo lên đằng sau chiếc xe sedan của Văn phòng do một cậu trai hai mươi lăm tuổi lái. Cậu này rất biết điều, chẳng nói chẳng rằng suốt hành trình tới sân bay. Gabriel vào ga hàng không như một du khách bình thường, nhưng sau đó vào một phòng dành cho nhân viên của Văn phòng, nơi ông đợi người ta gọi chuyến bay của mình. Khi đã yên vị trong ghế ngồi hạng nhất, dẫu biết điều này rất không thích hợp với nghề nghiệp của mình, nhưng ông cảm thấy một sự thúc giục thiêng liêng phải gọi điện cho Chiara. Thay vì làm như vậy, sử dụng kỹ thuật mà Shamron đã dạy cho ông hồi còn trẻ, ông gạt bỏ nàng ấy ra khỏi tâm tưởng của mình. Bây giờ, nơi đây chẳng có Chiara. Cũng chẳng có bé Daniel. Leah cũng không, chỉ có Madeline Hart, nhân tình bị bắt cóc của Thủ tướng vương quốc Anh - Jonathan Lancaster. Khi máy bay cất cánh lên bầu trời đang sập tối, dường như với ông ấy, cô ta đang ở trên một bức tranh sơn dầu, như nàng Susanna đang tắm trong vườn nhà. Và đang lén nhìn cô qua bức tường là một gã đàn ông có gương mặt gầy gò và cái miệng nhỏ tàn bạo. Người đàn ông không tên, cũng chẳng biết từ xứ nào tới. Người đàn ông bị lãng quên. https://thuviensach.vn 7 ĐẢO CORSE NGƯỜI DÂN TRÊN đảo Corse truyền rằng khi tới gần hòn đảo của mình bằng tàu thuyền, họ có thể ngửi thấy loại mùi độc nhất vô nhị của thảm thực vật chỉ toàn những cây thấp lè tè và bụi rậm, thật lâu trước khi thoáng thấy cái bờ lởm chởm đá của nó nổi lên trên mặt biển. Gabriel không có cơ hội được trải nghiệm điều này về đảo Corse vì hành trình của ông tới hòn đảo bằng máy bay, trên chuyến bay sáng sớm nhất từ sân bay Orly. Chỉ khi ngồi vào sau tay lái của một chiếc Peugeot thuê được, hướng từ sân bay về phía Nam thị trấn Ajaccio, lần đầu tiên ông có thể ngửi được hương thơm của kim tước, thạch thảo, hồng leo và hương thảo từ những ngọn đồi phía xa. Người đảo Corse gọi đó là macchia*. Họ nấu ăn với nó, sưởi ấm nhà cửa với nó và ẩn náu trong đó vào thời chiến hay những khi xảy ra vendetta*. Theo truyền thuyết của đảo Corse, một người bị săn lùng có thể tìm đến macchia và nếu muốn, có thể ở lại mãi mãi trong đó mà không hề bị phát hiện. Gabriel quả có biết một người như thế. Đây là lý do vì sao ông đeo một bàn tay bằng san hô đỏ trên một sợi dây da lên cổ. Sau nửa giờ lái xe, ông đã rời khỏi con đường ven biển và tiến vào nội địa. Mùi hương của macchia càng nồng nàn hơn, và cũng bền lâu như tường thành bao quanh thị trấn nhỏ trên đồi. Đảo Corse cũng như miền đất xa xưa của Israel đã nhiều lần bị xâm lăng: thật vậy, từ khi Đế chế La Mã sụp đổ, người Vandal đã cướp phá đảo Corse quá tàn ác tới nỗi hầu hết dân cư của đảo trốn khỏi bờ biển và rút lui lên vùng rừng núi an toàn. Ngay cả bây giờ, họ vẫn còn sợ người nơi khác đến vô cùng. Trong một ngôi làng https://thuviensach.vn hẻo lánh, một bà già đã chỉ tay vào Gabriel bằng ngón trỏ và ngón út để phòng tránh ảnh hưởng của tà thuật, occhju. Bên kia làng, con đường chỉ hơi lớn hơn đường hẻm một làn xe một chút, hai bên được bao bọc bởi bức tường thành phủ đầy macchia. Sau một dặm đường trường, ông đã tới lối vào của một đồn điền tư nhân. Cánh cổng mở toang, nhưng lại có một chiếc xe địa hình chở hai nhân viên bảo vệ đứng chắn ngang. Gabriel tắt máy rồi đặt hai bàn tay trên tay lái, chờ hai gã ấy tới gần. Sau cùng một gã trèo ra khỏi xe và từ từ đi tới. Gã lăm lăm trong tay một khẩu súng, còn một khẩu nữa giắt vào dây thắt lưng quần dài. Chỉ với một cái nhíu hàng lông mày rậm rạp, gã gặng hỏi mục đích của chuyến viếng thăm. “Tôi muốn gặp ông trùm,” Gabriel nói tiếng Pháp. “Ông trùm rất bận,” gã đáp lại với giọng địa phương đảo Corse. Gabriel cởi cái bùa ra khỏi cổ rồi trao cho gã. Người đảo Corse mỉm cười. “Để xem thử tôi có thể làm gì với nó.” Chưa bao giờ phải mất nhiều thời gian để châm ngòi cho một cuộc trả thù truyền kiếp đẫm máu trên đảo Corse. Một lời nhục mạ. Một lời buộc tội lừa đảo ngoài chợ. Một hôn ước bị hủy bỏ. Một phụ nữ chưa chồng mang thai. Sau khi tia lửa đầu tiên nảy ra, tiếp theo đó là bất ổn không tránh khỏi. Một con bò sẽ bị giết, một cây ô liu quý giá sẽ đổ ngã, một nhà tranh sẽ bốc cháy. Rồi các cuộc tàn sát sẽ bắt đầu. Chúng cứ tiếp diễn mãi, có khi cả một thế hệ hay hơn nữa, cho tới khi các băng nhóm đã dàn xếp các bất đồng hay từ bỏ cuộc đấu đá vì kiệt sức. Hầu hết đàn ông đảo Corse đều rất muốn tự ra tay giết người. Nhưng có một số lại cần kẻ khác làm thay việc gây đổ máu cho họ: những người có danh vọng địa vị rất cẩn thận để đảm bảo không làm bẩn tay mình, hay chẳng dám liều lĩnh để rồi bị bắt hay bị lưu đày; những phụ nữ không thể tự https://thuviensach.vn tay giết người hay không có họ hàng là đàn ông để thay họ làm việc đó. Những kẻ như thế dựa vào bọn giết người chuyên nghiệp, bọn taddunaghiu. Thường họ quay sang nhờ băng đảng Orsati. Dòng họ Orsati này có đất đai màu mỡ, rất thuận lợi để trồng nhiều cây ô liu, và dầu của bọn chúng được xem là ngon nhất trên toàn đảo Corse. Nhưng chúng còn làm nhiều việc khác ngoài sản xuất dầu ô liu. Chẳng ai biết có bao nhiêu người đảo Corse đã chết bởi bàn tay bọn sát thủ trong băng đảng ác ôn ấy qua các thời đại, chính bọn chúng còn không rõ, nhưng theo thông tin mà mọi người truyền nhau thì con số đã lên đến hàng ngàn người. Con số đó có thể cao hơn một cách đáng kể nếu như gia tộc này không có quy trình xét duyệt một cách nghiêm ngặt. Bọn chúng hoạt động theo những quy tắc khắt khe. Chúng từ chối hành vi giết người trừ khi xác minh rõ băng nhóm trước mặt chúng quả thật đã sai trái và cần phải trả thù đẫm máu. Tuy nhiên điều đó đã thay đổi với ông trùm Anton Orsati. Lúc nắm được quyền điều hành dòng họ, kẻ cầm quyền người Pháp đã xóa bỏ được mối hận thù truyền kiếp trên đảo ngoại trừ các hang ổ biệt lập nhất, và chỉ còn lại vài người dân đảo Corse cần thuê bọn taddunaghiu của hắn. Do nhu cầu địa phương tuột dốc thê thảm, hắn chẳng còn chọn lựa nào ngoài việc tìm kiếm cơ hội ở nơi khác, tức là vượt biển để đến với lục địa châu Âu. Giờ đây, hắn chấp nhận hầu như mọi lời đề nghị được gửi đến mình, bất kể yêu cầu đó có ghê tởm đến mức nào, và các sát thủ của hắn được xem là đáng tin cậy nhất và chuyên nghiệp nhất trên đất liền. Thật vậy, Gabriel là một trong chỉ hai người còn sống sót, thoát khỏi hợp đồng của dòng họ Orsati. Mặc dù Orsati xuất thân từ một danh gia vọng tộc trên đảo Corse, nhưng vẻ ngoài của hắn chẳng có gì có thể phân biệt với một paesano - người canh gác lối vào đồn điền của hắn. Bước vào văn phòng rộng lớn của tên trùm, Gabriel thấy hắn đang ngồi ở bàn giấy, mặc một cái áo Sơ mi trắng đã ngả màu, một quần dài rộng thùng thình bằng vải cotton màu xanh xám, và mang một đôi xăng đan dính đầy bụi bẩn trông như thể vừa tậu https://thuviensach.vn được từ một cái chợ trời nào đó. Hắn đang chăm chú nhìn xuống một sổ cái kế toán kiểu cũ, khuôn mặt nặng nề đang nhăn nhó. Gabriel thắc mắc không rõ nguyên do nào khiến tên trùm băng đảng không vừa lòng. Cách đây đã lâu, Orsati từng sáp nhập hai thương vụ của hắn để thành lập một doanh nghiệp duy nhất. Các taddunaghiu của hắn, ngày nay đều làm công cho Công ty Dầu ô liu Orsati, và các án mạng chúng tiến hành đều được ghi sổ như đặt mua sản phẩm. Hắn đứng dậy, chìa bàn tay cứng như đá hoa cương về phía khách không một chút sợ sệt. “Hân hạnh được gặp, ông Allon,” hắn nói tiếng Pháp. “Thật tình tôi mong được gặp ông đã lâu lắm rồi. Ông nổi tiếng là đối xử với kẻ thù rất tàn nhẫn.” “Kẻ thù của tôi là các chủ ngân hàng Thụy Sĩ đã thuê ông giết tôi, Ông trùm Orsati à. Ngoài ra,” Gabriel nói thêm, “thay vì cho tôi một viên đạn vào đầu, sát thủ của ông đã đưa tôi cái đó.” Gabriel hất hàm nhìn về phía cái bùa đang nằm trên mặt bàn giấy của Orsati kế bên quyển sổ cái. Tên trùm nhăn mặt. Rồi hắn cầm sợi dây da làm bùa hộ mạng lên, cho bàn tay san hô đỏ lắc qua lắc lại y như quả lắc của một chiếc đồng hồ. “Đó là một việc làm thiếu cân nhắc,” cuối cùng tên trùm nói. “Quên cái bùa đi, hay để cho tôi sống?” Orsati mỉm cười không rõ ý tứ thế nào. “Ở đây trên đảo Corse chúng tôi có một tục ngữ cổ xưa. I solda un vènini micca cantendu: Tiền không đến nhờ ca hát. Nó đến nhờ công việc. Và ở đây, công việc tức là hoàn thành các hợp đồng, ngay cả khi đó là hợp đồng trả thù nhạc sĩ vĩ cầm lừng danh và sĩ quan tình báo Israel.” “Như vậy ông đã trả tiền lại cho những kẻ thuê mướn ông?” “Họ là những chủ ngân hàng Thụy Sĩ. Tiền là thứ cuối cùng họ cần.” Tên trùm gấp quyển sổ cái lại rồi đặt cái bùa lên trên bìa sổ. “Như ông có thể mong đợi, tôi đã luôn để mắt đến ông thật sát sao suốt nhiều năm qua. Ông đã là một người rất bận rộn từ khi đường chúng ta đi giao nhau. Quả https://thuviensach.vn thật một số công việc tốt nhất của ông đã được hoàn thành trên địa bàn của tôi.” “Đây là lần đầu tôi đến đảo Corse,” Gabriel do dự. “Ý tôi nhắc đến miền Nam nước Pháp,” Orsati đáp lại. “Ông đã giết tên khủng bố người Ả Rập Saudi tên là Zizi al-Bakari ở bến cảng Old Cannes. Và rồi đã có một chút chuyện không vui với Ivan Kharkov ở Saint Tropez cách đây vài năm.” “Theo hiểu biết của tôi thì Ivan đã bị nhóm người Nga nào đó giết,” Gabriel lảng tránh đi. “Ông đã giết Ivan, Allon ạ. và ông giết hắn vì hắn đã bắt vợ ông đi.” Gabriel nín lặng. Người đảo Corse lại mỉm cười, lần này với sự quả quyết của một kẻ biết mình nói đúng. “Macchia không có mắt,” hắn nói, “nhưng nó có thể nhìn thấy tất cả.” “Chính vì vậy tôi mới tới đây.” “Tôi đoán là vụ án ấy. Dù sao một người như ông chắc chắn chẳng cần đến một kẻ giết người chuyên nghiệp. Ông chỉ có một mình nhưng cũng tự làm việc ấy rất giỏi.” Gabriel rút một xấp tiền mặt từ túi áo khoác của mình ra rồi đặt lên trên quyển sổ tử thần của Orsati kế bên cái bùa. Tên trùm làm bộ ngó lơ đi. “Tôi có thể giúp ông như thế nào, Allon?” “Tôi cần một số thông tin.” “Về chuyện gì?” Chẳng nói chẳng rằng, Gabriel đặt tấm hình chụp Madeline Hart kế bên xấp tiền. “Cô gái người Anh sao?” “Dường như ông không ngạc nhiên, ông trùm Orsati.” Gã người đảo Corse không nói gì. “Ông có biết cô ta ở đâu không?” https://thuviensach.vn “Không,” Orsati đáp. “Nhưng tôi biết rõ ai bắt cô ấy” Gabriel giơ lên tấm hình chụp người đàn ông ở nhà hàng Les Palmiers. Tên trùm gật đầu một cái. “Hắn là ai vậy?” Gabriel hỏi. “Tôi không biết, chỉ gặp hắn một lần thôi.” “Ở đâu?” “Chính là trong văn phòng này, một tuần trước khi cô gái người Anh mất tích. Hắn đã ngồi cũng trên chính chiếc ghế bây giờ ông đang ngồi,” Orsati nói tiếp. “Nhưng hắn có nhiều tiền hơn ông, Allon ạ. Hơn rất nhiều. 8 ĐẢO CORSE ĐÓ LÀ GIỜ ăn trưa, thời gian ông trùm Orsati ưa thích nhất trong ngày. Họ dời ra khoảng không gian bên ngoài văn phòng của hắn và ngồi vào một cái bàn đã bày biện sẵn bánh mì, phô mai, rau củ và xúc xích của đảo Corse. Mặt trời sáng chói, và xuyên qua một khe trống của hàng cây thông laricio, Gabriel có thể thoáng thấy biển đang lóe lên ánh xanh lơ hòa với xanh lục lờ mờ ở xa xa. Hương vị của macchia ở khắp mọi nơi. Nó phảng phất trong không khí mát mẻ và dậy lên từ thức ăn; ngay cả Orsati dường như cũng tỏa ra mùi hương ấy. Hắn đổ ào ào rất nhiều rượu vang màu đỏ máu vào ly của khách rồi sau đó bắt tay vào việc cắt ra thành rất nhiều khúc thứ xúc xích dồn thật chặt của đảo Corse. Gabriel không gặng hỏi về nguồn cung cấp thịt. Như Shamron ưa nói, đôi khi không hỏi thì tốt hơn. “Rất vui vì bọn tôi đã không giết ông,” chủ nhà nâng ly, nhấp môi một ít, rồi nói. https://thuviensach.vn “Tôi có thể cam đoan với ông, ông trùm Orsati à, tôi cũng có cảm tưởng tương tự như ông.” “Thêm xúc xích nữa nhé?” “Cho tôi xin.” Chủ nhà đẽo thêm hai khúc xúc xích dày rồi đặt vào đĩa bàn của khách. Sau đó hắn nhanh tay đeo cặp kính đọc sách hình bán nguyệt và săm soi bức ảnh người đàn ông ở nhà hàng Les Palmiers. “Trông hắn ta có khác trong bức ảnh này” một lát sau hắn nói, “nhưng chính xác là hắn.” “Khác điều gì?” “Cách hắn chải tóc. Khi đến gặp tôi, tóc hắn được bôi dầu và chải sát da đầu. Nó rất mượt mà,” Orsati nói thêm, “nhưng rất có hiệu quả.” “Hắn có xưng tên hay không?” “Hắn tự xưng là Paul.” “Là họ của hắn?” “Theo chỗ tôi được biết thì đấy là họ của hắn.” “Ông bạn Paul của chúng ta nói tiếng gì?” “Tiếng Pháp.” “Là tiếng địa phương này sao?” “Không phải, hắn nói giọng lơ lớ.” “Kiểu gì vậy?” “Tôi không thể xác định,” tên trùm nhíu cặp lông mày rậm. “Như thể hắn học tiếng Pháp từ một cái máy thu băng. Nghe thật hoàn hảo, nhưng lại không hoàn toàn đúng.” “Tôi đoán hắn không tìm thấy tên ông trong danh bạ điện thoại.” “Không phải, Allon ạ, hắn đã tham chiếu.” “Tham chiếu cách nào vậy?” “Một cái tên.” “Là ai đó đã thuê anh trong quá khứ.” https://thuviensach.vn “Đấy là cách thông thường.” “Kiểu gì vậy?” “Cái kiểu có hai thằng đàn ông cùng vào một phòng, và chỉ có một người đi ra. Đừng mất công hỏi tôi tên người hắn tham khảo,” chủ nhà nói thêm thật nhanh. “Ta đang lạm bàn việc làm ăn của tôi rồi.” Gabriel hơi cúi đầu để tỏ rõ mình không muốn theo đuổi đề tài đó nữa, ít ra là ngay lúc này. Rồi ông hỏi tên trùm gã đàn ông tới gặp hắn để làm gì. “Tìm lời khuyên,” tên trùm đáp. “Về chuyện gì vậy?” “Hắn nói với tôi rằng có hàng hóa cần vận chuyển nên cần ai đấy có một chiếc thuyền chạy nhanh. Ai đấy rành đường trên biển ở khu vực này và có thể chở hàng ban đêm. Ai đấy biết giữ mồm giữ miệng.” “Hàng hóa sao?” “Điều này có lẽ khiến ông ngạc nhiên, nhưng hắn không nói rõ.” “Ông đoán hắn là một tên buôn lậu,” Gabriel khẳng định, không phải câu hỏi. “Đảo Corse là một điểm trung chuyển chính yếu để chở heroin từ Trung Đông vào châu Âu. Từ trước đến nay,” tên trùm nói thêm thật nhanh, “dòng họ Orsati chẳng hề dính líu đến ma túy, dù có lần bọn tôi đã khử một lái buôn nổi tiếng.” “Để nhận thù lao chứ gì.” “Dân chơi càng nặng ký, phí càng cao.” “Ông có khả năng lo việc ấy giúp hắn không?” “Dĩ nhiên rồi,” tên trùm hạ giọng nói tiếp, “Đôi khi chính bọn tôi cũng phải chở hàng ban đêm.” “Những thứ như là xác chết?” Tên trùm nhún vai. “Chúng là những phế phẩm kém may mắn trong việc làm ăn của bọn tôi,” hắn nói y hệt một triết gia. “Thông thường chúng https://thuviensach.vn ngã xuống ở đâu, bọn tôi cứ để chúng ở đấy. Nhưng đôi khi khách hàng trả thêm chút ít để làm cho bọn chúng mãi mãi biến mất. Phương pháp bọn tôi ưa thích nhất là bỏ chúng vào hòm bê tông rồi thả chúng xuống đáy biển. Họa chăng có trời mới biết bao nhiêu đứa đã xuống đấy.” “Paul đã trả bao nhiêu?” “Một trăm nghìn.” “Ăn chia ra sao?” “Một nửa cho tôi, một nửa cho chủ thuyền.” “Chỉ một nửa thôi à?” “Gã nọ gặp may vì tôi cho hắn nhiều tiền.” “Và khi nghe tin cô gái người Anh bị mất tích, ông đã nghĩ gì?” “Hiển nhiên, tôi đã nghi ngờ. Và khi thấy ảnh của Paul trên các báo...” Giọng tên trùm lạc hẳn đi. “Phải nói là tôi không vui. Việc tôi vừa làm để kiếm tiền khiến tôi bực tức.” “Vì ông đã tiếp tay cho chúng bắt cóc một phụ nữ trẻ?” “Chắc ông cũng thế thôi.” Gabriel chẳng nói gì. “Tôi không có ý làm mất lòng ông đâu,” tên trùm nói một cách thành thật. “Không có gì hết, ông trùm Orsati ạ.” Tên trùm bỏ vào đầy đĩa bàn của mình tiêu rang và cà rồi rưới dầu ô liu Orsati lên trên. Gabriel uống ít rượu vang và nói vài lời khen ngợi tên trùm, rồi hỏi tên gã có chiếc thuyền chạy nhanh và rành đường trên biển ở khu vực này. Ông nói như thể điều ấy vọng lại từ nơi xa xôi nhất trong tâm tưởng của mình. “Ta đang đi vào một lĩnh vực nhạy cảm,” tên trùm đáp. “Tôi làm ăn lâu dài với bọn này. Nếu lúc nào đấy chúng phát hiện tôi phản bội chúng khi giúp cho một người như ông, sự việc sẽ trở nên rắc rối đấy, Allon ạ.” https://thuviensach.vn “Tôi xin cam đoan với ông, ông trùm Orsati, chúng sẽ không bao giờ biết làm sao tôi có được thông tin đó.” Orsati có vẻ không bị thuyết phục. “Vì sao cô gái này lại quan trọng đến mức ngài Gabriel Allon phải đi tìm cô ấy chứ?” “Phải nói là cô ta có những người bạn quyền lực.” “Bạn bè ư?” tên trùm lắc đầu tỏ vẻ hoài nghi. “Nếu ông đã dính líu vào vụ này, chắc phải hơn thế chứ.” “Ông là người rất khôn ngoan, ông trùm Orsati ạ.” “Macchia không có mắt,” tên trùm nói một cách bí hiểm. “Tôi cần biết tên hắn,” Gabriel nói thật nhanh. “Hắn sẽ không biết tôi nắm được điều đó từ đâu.” Orsati cầm ly rượu vang đỏ như máu của hắn nâng lên về phía mặt trời. Một lát sau hắn nói, “Nếu tôi là ông, tôi sẽ nói chuyện với một gã đàn ông tên là Marcel Lacroix. Hắn có thể biết điều gì đấy về nơi cô gái ấy đã đi sau khi rời đảo Corse.” “Tôi có thể tìm hắn ở đâu?” “Marseilles,” chủ nhà đáp. “Hắn đang canh giữ con tàu của mình ở bến cảng Old Port.” “Phía nào?” “Phía Nam. Đối diện với phòng tranh.” “Con thuyền đó tên gọi là gì?” “VŨ Điệu Ánh Trăng.” “Hay lắm,” Gabriel nói. “Tôi có thể bảo đảm với ông gã Marcel Lacroix và bọn người hắn giúp việc chả có gì tốt lành cả. Ông cần phải cảnh giác từng bước chân ở Marseilles đấy.” “Điều này có thể khiến ông thấy bất ngờ, ông trùm Orsati à, nhưng trước đây tôi từng làm việc này một hay hai lần rồi.” https://thuviensach.vn “Đúng thế. Nhưng lẽ ra ông đã chết cách đây lâu lắm rồi.” Orsati đưa cho Gabriel cái bùa. “Đeo nó vào cổ đi. Không chỉ xua tà ma đi thôi đâu.” “Thật tình,” Gabriel đáp, “Tôi đang tự hỏi liệu ông còn thứ gì có quyền phép mạnh hơn một chút hay không.” “Như thứ gì?” “Một khẩu súng.” Trùm băng đảng mỉm cười. “Tôi có một thứ còn lợi hại hơn súng đạn nữa.” Gabriel đi theo con đường cho tới khi nó rẽ sang đường đất, rồi theo đó đi tiếp xa hơn một chút. Con dê già đang đợi đúng chỗ Ông trùm Orsati đã nói cho biết, ngay trước chỗ rẽ ngoặt bên tay trái, dưới bóng mát của ba cây ô liu cổ thụ. Khi Gabriel tới gần, nó nhổm dậy từ chỗ nghỉ ngơi và đứng ngay chính giữa lối mòn chật hẹp, cái cằm hất lên ngang ngạnh như thể thách thức ông cứ thử vượt qua. Nó có bộ lông giống kiểu mẫu của một con ngựa palomino và một chòm râu đỏ. Cũng như Gabriel, mình nó đầy sẹo vì các trận đánh trước đây. Gabriel nhích xe hơi tới trước, hy vọng con dê sẽ chịu rời bỏ vị trí không cần đánh nhau nữa, nhưng con vật cứ đứng ì ra đó. Ông nhìn khẩu súng chủ đồn điền đưa cho. Một khẩu Beretta 9mm đang nằm trên ghế dành cho khách ở đằng trước, đã nạp đầy đạn. Một phát bắn vào giữa cặp sửng đã bị mòn của con dê là tất cả những gì cần làm để kết thúc tình trạng ách tắc này, nhưng không thể được; con dê cũng như ba cây ô liu cổ thụ đều thuộc quyền sở hữu của Ông trùm Casabianca. Và Gabriel chỉ cần đụng tới một sợi lông trên cái đầu thảm hại của nó cũng đủ gây ra một mối thù truyền kiếp, và máu sẽ tuôn tràn. Gabriel nhấn còi xe hai lần nhưng con dê vẫn không thèm nhúc nhích. Thở dài thườn thượt, ông leo ra khỏi xe, thử lý sự với con vật - mở đầu bằng tiếng Pháp rồi tiếng Ý, và sau đó ông bực tức tuôn ra tiếng Do Thái. https://thuviensach.vn Con dê phản ứng lại bằng cách hạ thấp cái đầu như một dụng cụ phá cửa nhắm vào ngay giữa bụng ông. Nhưng Gabriel vốn tin cách phòng thủ tốt nhất là tấn công thật tốt, nên đã hạ thủ trước. Ông khua tay múa chân, la hét như điên. Thật đáng ngạc nhiên, con dê rút lui ngay tức thì và biến mất qua một khoảng trống của macchia. Gabriel lanh lẹ quay trở lại cửa xe đang mở nhưng ngừng lại khi nghe xa xa có một âm thanh như tiếng khúc khích của một con chim nhại. Xoay người lại, ông ngước nhìn về phía biệt thự màu đỏ son nương chặt vào sườn ngọn đồi kế bên. Đứng trên nền cao là một người đàn ông tóc vàng hoe mặc đồ toàn màu trắng. Và mặc dù Gabriel không thể chắc chắn, dường như y đang cười ngặt nghẽo không tài nào nín được. https://thuviensach.vn 9 ĐẢO CORSE NGƯỜI ĐÀN ÔNG chờ đợi Gabriel ở ngôi biệt thự không phải là dân đảo Corse: ít ra y không phải sinh ra ở đó. Tên thật của y là Christopher Keller, đã được nuôi nấng trong một gia đình thượng trung lưu ở quận Kensington sang trọng của London. Tuy vậy trên đảo Corse chỉ có ông trùm Orsati và một toán thuộc hạ của hắn biết đến chuyện này. Với những người còn lại trên đảo, Keller đơn giản chỉ được biết đến là ông người Anh. Câu chuyện Christopher Keller đi từ Kensington tới đảo Corse là một trong những chuyện khá lý thú mà Gabriel chưa từng nghe, được kể rằng y là con trai độc nhất của hai y sĩ ở Phố Harley, ngay từ khi còn nhỏ Keller đã nói rõ mình không có ý định nối nghiệp cha mẹ. Bị lịch sử ám ảnh, nhất là lịch sử quân sự, y muốn trở thành một người lính. Cha mẹ cấm y theo nghiệp quân sự, và trong một thời gian y đồng ý làm theo mong ước của họ. Y ghi danh vào Đại học Cambridge rồi bắt đầu đọc sách về lịch sử và các ngôn ngữ phương Đông. Y là một sinh viên ưu tú, nhưng vào năm thứ hai y trở nên bồn chồn đứng ngồi không yên và một đêm đã biến mất tăm. Vài hôm sau y lại xuất hiện ở nhà cha mẹ mình tại Kensington, tóc cắt sát da đầu, mặc một bộ quân phục màu ô liu. Y đã đăng ký gia nhập Quân đội Vương quốc Anh. Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện căn bản, Keller gia nhập một đơn vị bộ binh, nhưng với trí tuệ, thể chất đặc biệt cường tráng và dáng vẻ như một con sói đơn độc của y đã nhanh chóng thu hút sự chú ý của Đặc nhiệm Không quân (Special Air Service - ‘SAS’). Trong những ngày mới đến Sở chỉ huy Trung đoàn ở Hereford, rõ ràng y đã tìm đúng ngành nghề. Các https://thuviensach.vn điểm số của y ở “nhà sát thương,” một cơ sở huấn luyện khét tiếng, nơi các tân binh thực hành cận chiến và giải cứu con tin, là thành tích cao nhất từ trước đến nay, trong khi các huấn luyện viên của khóa học về chiến đấu không khí giới lại ghi nhận họ chưa từng thấy ai có một sở trường bẩm sinh đặc sắc trong việc tước đoạt sinh mạng của con người như thế. Chương trình huấn luyện lên đến đỉnh điểm với một cuộc hành quân bốn mươi dặm, băng qua vùng đất hoang lộng gió mang tên Brecon Beacons, một cuộc khảo nghiệm về sức chịu đựng từng làm chết người. Đeo một chiếc ba lô nặng hai mươi lăm kilogram và vác một khẩu súng trường tấn công nặng gần năm kilogram, Keller đã phá kỷ lục của khóa học với ba mươi phút, một điểm số ngày nay vẫn cao nhất. Mới đầu, y được phân công về một đội Kỵ binh chuyên tiến hành chiến tranh lưu động trong sa mạc, nhưng sự nghiệp của y sớm rẽ sang một bước ngoặt khác khi một người từ Cục tình báo quân đội tới tuyển mộ. Người này đang tìm kiếm một kiểu chiến sĩ đặc biệt độc đáo có khả năng thi hành việc bí mật theo dõi và các nhiệm vụ đặc biệt khác ở Bắc Ireland. Ông ta nói có ấn tượng tốt về kỹ năng ngôn ngữ của Keller cùng với khả năng ứng biến và khả năng đưa ra quyết định nhanh chóng của y. Quan trọng là Keller có thích hay không? Ngay đêm hôm ấy y gói ghém hành trang và di chuyển từ Hereford tới một căn cứ bí mật trên Cao nguyên Scotland. Suốt khóa huấn luyện y còn bộc lộ một tài năng xuất chúng khác. Trong nhiều năm, các lực lượng tình báo và an ninh Anh đã đấu tranh với vô số giọng điệu đối lập ở Bắc Ireland, ở Ulster*, cộng đồng đối lập có thể nhận diện nhau qua âm thanh của giọng nói, và cái cách một người thốt ra vài cụm từ đơn giản, nghĩa là anh ta đang ở ranh giới giữa sự sống và một cái chết kinh hoàng. Keller đã phát triển khả năng bắt chước giọng điệu một cách hoàn hảo. Thậm chí, y còn có thể đổi giọng ngay tức khắc: lúc này là một người Công giáo từ Armagh, kế tiếp là một người Tin lành từ Phố Shankill ở Belfast, sau đó là một người Công giáo từ khu dân cư Ballymurphy. Y làm đặc vụ ở Belfast hơn một năm, theo dõi những kẻ https://thuviensach.vn được biết là thành viên của đội quân IRA, thu thập những mẩu chuyện ngồi lê đôi mách vặt vãnh hữu ích từ cộng đồng xung quanh mình. Tính chất của công việc cho phép y đôi khi đi đây đi đó rất nhiều tuần mà không cần liên lạc với sĩ quan chỉ huy của mình. Việc y được phân công tới Bắc Ireland đi đến một kết thúc đột ngột khi y bị bắt cóc ở khu Tây Belfast và dẫn giải tới một ngôi nhà trong trang trại xa xôi hẻo lánh ở hạt Armagh, ở đó y bị buộc tội làm gián điệp cho Vương quốc Anh. Keller biết tình thế là vô vọng, nên quyết định phải chiến đấu để tìm cách thoát thân. Lúc y rời khỏi trang trại, bốn tên khủng bố ác ôn của Quân đội Lâm thời Cộng hòa Ireland đã chết. Hai tên thực sự đã bị băm vằm thành muôn mảnh. Keller trở về Hereford, cứ tưởng mình sẽ được nghỉ ngơi lâu dài và chỉ làm phần nào công việc của một huấn luyện viên. Nhưng y chỉ lưu lại đó tới tháng Tám năm 1990, khi Saddam Hussein xâm chiếm Kuwait. Keller nhanh chóng gia nhập lại đơn vị Kỵ binh của mình trước đây, và vào tháng Giêng năm 1991, y đã tới sa mạc ở miền Tây Iraq, săn tìm bọn phóng tên lửa Scud từng gieo rắc kinh hoàng ở Tel Aviv. Đêm 28 tháng Giêng, y và toán lính của mình định vị một bệ phóng tên lửa cách Baghdad chừng một trăm dặm về phía Bắc và đã truyền tín hiệu tọa độ ấy cho chỉ huy của mình ở Ả Rập Saudi. Chín mươi phút sau, một đội hình các máy bay chiến đấu kiêm đánh bom của Liên quân đã nhanh như chớp lao xuống sa mạc. Nhưng vì một sự nhầm lẫn thảm khốc, phi đội ấy đã tấn công đội kỵ binh của SAS thay vì địa điểm có tên lửa. Giới chức Anh kết luận toàn đơn vị đã mất tích, kể cả Keller. Trong điếu văn không hề đề cập đến công tác tình báo của y ở Bắc Ireland, cũng như bốn chiến binh IRA mà y đã làm thịt ở trang trại tại hạt Armagh. Tuy vậy, điều mà giới chức quân sự Anh không hề hay biết, đó là Keller vẫn sống sót qua sự cố, và chẳng bị một vết trầy xước nào. Đáng lý theo bản năng, trước tiên y phải truyền tin về căn cứ của mình và yêu cầu thu quân. Thay vào đó, điên tiết vì trình độ kém cỏi của cấp trên, y bắt đầu dấn bước. Che kín dưới lớp áo và đầu tóc của một người Ả Rập vùng sa https://thuviensach.vn mạc, đã được huấn luyện rất kỹ về nghệ thuật bí mật di chuyển, Keller tìm đường đi qua các lực lượng của Liên quân, lanh lẹ lẻn sang Syria không hề bị phát hiện. Từ đó, y lặn lội đường xa đi về hướng Tây băng qua Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp và Ý rồi sau cùng trôi dạt lên bờ đảo Corse, nơi y rơi vào vòng tay đang trông đợi của Ông trùm Orsati. Tên trùm cấp cho y một biệt thự và một người đàn bà để giúp chữa lành những vết thương của y. Và khi Keller đã nghỉ ngơi đầy đủ, tên trùm cho y việc làm. Nhờ dáng vẻ của người Bắc Âu và được huấn luyện ở SAS, y có thể hoàn thành các hợp đồng vượt ra xa ngoài khả năng của bọn taddunaghiu sinh trưởng trên đảo Corse trong băng đảng Orsati. Một trong những hợp đồng như thế từng ghi tên Anna Rolfe và Gabriel Allon. Vì lương tâm không cho phép, Keller đã không thể thi hành việc đó, nhưng niềm kiêu hãnh nghề nghiệp đã thúc đẩy y bỏ lại sau lưng cái bùa: chính là cái bùa bây giờ Gabriel đang nắm trong lòng bàn tay. Thật đáng chú ý, hai người đàn ông đã từng gặp nhau một lần trước đó, nhiều năm về trước, khi Keller và rất nhiều sĩ quan SAS khác đã đến Israel để huấn luyện kỹ thuật chống khủng bố. Vào ngày lưu trú cuối cùng của họ, Gabriel đã miễn cưỡng đồng ý diễn giảng một bài được xem là tài liệu mật về một trong những điệp vụ táo bạo nhất của ông: vụ ám sát lãnh đạo thứ nhì của PLO là Abu JThad tại biệt thự của ông ta ở Tunis vào năm 1988. Keller đã ngồi ở hàng ghế đầu, say sưa lắng nghe từng lời nói của diễn giả; và sau đó, khi chụp hình lưu niệm theo từng nhóm, y đã tự xếp chỗ bên cạnh Gabriel. Gabriel đã đeo kính mát và đội một cái mũ để che giấu lai lịch của mình, nhưng Keller lại đăm đăm nhìn thẳng vào ống kính máy ảnh. Đó là một trong những tấm hình cuối cùng y từng được chụp. Giờ đây, khi Gabriel bước xuống chiếc xe hơi được thuê, gã đàn ông từng một lần tha mạng cho ông đang đứng trên ngưỡng cửa mở rộng của nơi y ẩn náu trên đảo Corse. Y cao hơn Gabriel một cái đầu, vòng ngực và vai dày dạn hơn nhiều. Hai mươi năm dưới ánh nắng của đảo Corse đã làm y thay hình đổi dạng nhiều. Da y giờ đây có màu da yên ngựa, còn mái tóc cắt ngắn thì bạc trắng vì biển cả. Dường như chỉ có đôi mắt xanh vẫn https://thuviensach.vn không hề thay đổi. Cũng là đôi mắt từng theo dõi Gabriel hết sức chăm chú khi ông thuật lại thật tỉ mỉ cái chết của Abu JThad. Và cũng chính đôi mắt ấy đã từng ban cho ông sự khoan dung vào một đêm mưa ở Venice, trong một quãng đời khác. “Tôi định mời ông ăn trưa,” Keller nói theo giọng điệu nuốt âm của tiếng Anh, “nhưng nghe nói ông đã dùng bữa tại nhà Orsati rồi.” Khi Keller đưa tay về phía Gabriel, các bắp thịt săn chắc trên cánh tay của y cuồn cuộn dưới lớp áo len tròng đầu màu trắng. Gabriel chần chừ một lát và cuối cùng cũng nắm chặt bàn tay ấy. Mọi thứ về Christopher Keller, từ hai bàn tay giống như hai lưỡi rìu nhỏ đến đôi chân mạnh khỏe như có gắn lò xo, dường như đều được cố ý thiết kế vì mục đích giết người. “Ông trùm đã nói với anh bao nhiêu rồi?” Gabriel hỏi. “Đủ để biết ông không thể tiếp cận một gã như Marcel Lacroix nếu không được hỗ trợ.” “Tôi đoán anh quen biết hắn ta?” “Hắn có chở tôi một lần.” “Trước đây hay sau này?” “Cả hai,” Keller đáp. “Lacroix đã phạm một tội ác trong quân đội Pháp. Hắn cũng từng trải qua một số nhà tù khắc nghiệt nhất ở nước này.” “Chắc tôi sẽ có ấn tượng với hắn, phải không?” “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng đấy.” “Là lời Tôn Tử,” Gabriel nói. “Thì ông đã trích dẫn đoạn ấy khi diễn giảng ở Tel Aviv mà.” “Vậy là rốt cuộc, anh đã lắng nghe đầy đủ.” Gabriel đi lướt nhanh ngang qua Keller, bước vào gian phòng rộng mênh mông của biệt thự. Đồ đạc bày biện kiểu thôn quê, cũng phủ vải trắng như chủ nhà. Hàng đống sách chất đầy khắp các mặt bằng phẳng, và trên tường treo rất nhiều bức tranh có giá trị, và cũng gồm cả các tác phẩm kém nổi tiếng hơn của Cezanne, Matisse và Monet. https://thuviensach.vn “Không có hệ thống bảo mật à?” Gabriel đảo mắt nhìn quanh phòng rồi hỏi. “Chẳng cần đâu.” Gabriel bước tới chỗ bức tranh của Cezanne vẽ một phong cảnh vùng đồi gần Aix-en-Provence, và lướt nhẹ đầu ngón tay trên bề mặt. “Anh chăm sóc bản thân tốt lắm, Keller à.” “Phải mất nhiều tiền đấy.” Gabriel chẳng nói gì. “Ông không đồng tình với cách tôi kiếm sống ư?” “Anh giết người vì tiền.” “Thì ông cũng thế thôi.” “Tôi giết vì đất nước của mình,” Gabriel đáp. “Và chỉ như một giải pháp cuối cùng mà thôi.” “Có phải vì thế mà ông đã bắn cho não của Ivan Kharkov văng tung tóe khắp mặt đường ở Saint-Tropez hay không? Vì đất nước của ông ư?” Gabriel xoay người khỏi bức tranh của Cezanne và chằm chằm nhìn thẳng vào mắt Keller. Bất cứ ai khác hẳn đã yếu lòng chột dạ vì ánh nhìn quá ghê gớm của Gabriel, nhưng Keller thì không. Bất chợt hai cánh tay mạnh khỏe của y khoanh lại trước ngực, và một bên mép nhếch lên cười nửa miệng. “Dù sao đây có lẽ không phải là ý kiến hay ho gì,” Gabriel nói. “Tôi biết bọn dân chơi và rành rẽ địa bàn. Ông thật ngốc khi không dùng tôi.” Gabriel không đáp lại. Keller nói đúng. Y là hướng dẫn viên hoàn hảo để tìm gặp bọn tội phạm hoạt động ngầm ở Pháp. Thể chất và kỹ năng vạch kế sách của y chắc chắn sẽ tỏ ra có giá trị trước khi vụ việc này kết thúc. “Tôi không thể trả tiền cho anh,” Gabriel nói. https://thuviensach.vn “Tôi chẳng cần tiền,” Keller vừa đáp vừa nhìn quanh ngôi biệt thự xinh đẹp. “Nhưng tôi cần ông trả lời vài câu hỏi trước khi chúng ta rời đi.” “Chúng tôi có năm ngày để tìm ra cô gái, bằng không cô ta sẽ chết.” “Năm ngày dài vô tận với những người như chúng ta.” “Tôi đang nghe đây” “Ông đang làm việc cho ai thế?” “Cho Thủ tướng Anh.” “Tôi đã không nhận ra hai người có thể trò chuyện với nhau đấy.” “Một người bên trong tình báo Anh đã thuê tôi.” “Nhân danh Thủ tướng ư?” Gabriel gật đầu. “Thủ tướng có quan hệ gì với cô gái này?” “Anh cứ dùng trí tưởng tượng của mình đi.” “Lạy Chúa tôi.” “Chúa có rất ít liên can tới chuyện này.” “Bạn của Thủ tướng bên trong tình báo Anh là ai thế?” Gabriel do dự, rồi cũng thành thật trả lời câu hỏi ấy. Keller mỉm cười. “Anh cũng biết ông ta à?” Gabriel hỏi. “Tôi đã làm việc với Graham ở Bắc Ireland. Ông ấy chuyên nghiệp nhất trong đám chuyên nghiệp. Nhưng cũng như những người khác ở nước Anh,” y nói thêm rất nhanh, “Graham Seymour tưởng tôi đã chết. Nghĩa là ông ấy chẳng bao giờ biết được tôi đang làm việc với ông “ “Anh có lời nói của tôi bảo đảm mà.” “Tôi còn muốn một thứ nữa.” Y thò tay tới. Gabriel để cho y lấy đi cái bùa. “Tôi ngạc nhiên vì ông vẫn còn giữ nó đấy,” Keller nói. “Nó có một giá trị tình cảm.” https://thuviensach.vn Keller nhanh tay đeo cái bùa quanh cổ. “Ta đi nào,” y mỉm cười nói. “Tôi biết chỗ có thể lấy cho ông một cái khác.” Mụ signadora sống trong một căn nhà xiêu vẹo ở trung tâm của ngôi làng, cách không xa nhà thờ. Keller tới không hẹn trước nhưng mụ ta không có vẻ ngạc nhiên khi trông thấy y. Mụ mặc một váy áo dài màu đen và quấn khăn đen quanh mái tóc khô y như bùi nhùi. Với một nụ cười lo âu, mụ dịu dàng sờ má Keller. Rồi mấy ngón tay đặt lên thánh giá nặng đeo quanh cổ, mụ quay sang nhìn chằm chằm Gabriel. Mụ có nhiệm vụ săn sóc những kẻ đau khổ vì tà thuật. Hiển nhiên mụ ta sợ Keller mang tới nhà mình hiện thân của quỷ. “Người đàn ông này là ai?” mụ hỏi. “Một người bạn,” Keller đáp. “Ông ta có phải là tín đồ không?” “Không như chúng ta đâu.” “Nói cho tôi biết tên ông ta đi, Christopher... tên thật của ông ta!” “Tên ông ấy là Gabriel.” “Giống tên tổng lãnh thiên thần* nhỉ?” “Phải đấy,” Keller đáp. Mụ ngó mặt Gabriel thật kỹ. “Anh ta là người Israel, đúng không?” Khi Keller gật đầu, mụ hơi nhíu mày tỏ vẻ không hài lòng. Theo giáo lý mụ xem người Do Thái là tà giáo nhưng cá nhân mụ chưa hề cãi cọ với họ. Mụ cởi nút áo sơ mi và sờ cái bùa đeo quanh cổ Keller. “Đây không phải là cái bùa anh đã để mất cách đây rất nhiều năm rồi hay sao?” “Phải đấy.” “Anh đã tìm thấy nó ở đâu?” “Ở dưới đáy cái hộc tủ để quá nhiều đồ.” https://thuviensach.vn Mụ signadora lắc đầu trách móc. “Anh nói dối tôi, Christopher. Khi nào anh mới chịu hiểu là tôi có thể biết khi nào anh nói dối vậy?” Keller mỉm cười nhưng chẳng nói gì. Mụ signadora buông cái bùa ra và lại sờ má y. “Anh sắp rời đảo à Christopher?” “Đêm nay.” Mụ không hỏi tại sao; mụ đã biết rõ là y làm gì để kiếm sống. Thật vậy, dạo nọ mụ đã thuê một taddunaghiu trẻ tên Anton Orsati để báo thù cho chồng mụ bị sát hại. Mụ khoát tay mời hai người đàn ông ngồi vào một cái bàn gỗ nhỏ trong chỗ mụ tiếp khách. Trước mặt họ mụ đặt một đĩa đựng đầy nước và một chậu dầu ô liu. Keller nhúng ngón tay trỏ vào dầu rồi để nó phía trên cái đĩa cho ba giọt nhỏ xuống mặt nước. Theo các định luật vật lý, đáng lẽ dầu phải gom lại thành một mảng duy nhất. Thay vì vậy, nó lại tan tác thành hàng ngàn giọt nhỏ và chẳng bao lâu không có một dấu vết nào. “Tà khí đã quay trở lại rồi, Christopher à.” “Tôi e rằng đây là một chuyện ngẫu nhiên thỉnh thoảng vẫn xảy ra.” “Đừng có nói đùa, cưng ơi! chuyện nguy hiểm là có thật.” “Bà thấy cái gì thế?” Mụ ta chằm chặp ngó vào chất lỏng như thể đang mê đắm xuất thần. Một lát sau mụ khẽ hỏi, “Có phải các anh đang đi tìm cô gái người Anh hay không?” Keller gật đầu, rồi hỏi lại, “Cô ấy còn sống không?” “Còn,” mụ trả lời. “Cô ấy còn sống.” “Cô ấy đang ở đâu thế?” “Tôi không đủ quyền phép để cho anh biết chuyện đó.” “Chúng tôi sẽ tìm ra cô ấy chứ?” “Khi cô ấy đã chết,” mụ phán. “Lúc đó các anh mới biết được sự thật.” https://thuviensach.vn “Bà thấy được gì thế?” Mụ nhắm mắt lại. “Nước... núi non... một kẻ thù cũ...” “Của tôi?” “Không phải,” mụ mở mắt ra và nhìn thẳng vào mặt Gabriel. “Của anh ta.” Chẳng nói thêm một lời nào nữa, mụ nắm lấy bàn tay gã người Anh và cầu nguyện. Một lúc sau mụ bắt đầu tuôn trào nước mắt, một dấu hiệu chứng tỏ tà khí đã từ cơ thể y chuyển sang cơ thể mụ. Sau đó mụ nhắm mắt và có vẻ như đang ngủ. Khi thức giấc mụ chỉ dẫn cho y lặp lại thử nghiệm của dầu và nước. Lần này dầu hợp lại thành một giọt duy nhất. “Tà khí đã ra khỏi linh hồn anh rồi, Christopher.” Rồi quay sang Gabriel mụ nói, “Bây giờ tới lượt anh ta.” “Tôi không phải là tín đồ,” Gabriel nói. “Làm ơn đi,” mụ nói. “Không phải vì anh đâu, mà vì Christopher.” Gabriel miễn cưỡng nhúng ngón trỏ vào dầu rồi để cho ba giọt nhỏ xuống mặt nước. Khi dầu tan tác thành muôn mảnh, mụ nhắm mắt lại và bắt đầu run rẩy. “Bà thấy gì thế?” Keller hỏi. “Lửa,” mụ dịu dàng đáp. “Tôi thấy lửa.” Có một chuyến phà lúc 5 giờ từ thị trấn Ajaccio. Gabriel lái chiếc Peugeot nhẹ nhàng vào boong dành cho xe hơi lúc bốn giờ rưỡi, rồi mười phút sau đó quan sát khi Keller lên phà đằng sau tay lái của một chiếc xe hatchback hiệu Renault đã tàn tạ. Hai gian của họ cùng ở trên một boong, trực tiếp đối diện ngang qua hành lang. Gian của Gabriel có kích thước của một xà lim nhà tù và cũng mời mọc hấp dẫn y như thế. Ông để lại túi của mình trên chiếc giường nhỏ hẹp rồi leo cầu thang lên quán rượu. Lúc ông tới nơi, Keller đang yên vị ở một cái bàn cạnh cửa sổ, một ly bia đang nâng lên môi, một điếu thuốc đang âm ỉ cháy trong gạt tàn. Gabriel lắc đầu chầm https://thuviensach.vn chậm. Bốn mươi tám giờ trước ông vẫn còn đứng trước một bức tranh sơn dầu ở Jerusalem. Bây giờ ông đang sục sạo tìm một phụ nữ mình không hề quen biết, cùng đi với một gã đàn ông từng nhận một hợp đồng giết chết mình. Ông gặp chủ quán, gọi cà phê đen rồi bước ra ngoài boong ở cuối phà. Chiếc phà đang ở phần ngoài cùng của bến tàu, và khí trời buổi tối đột nhiên lạnh giá. Gabriel lật cổ áo khoác lên rồi bao phủ bàn tay quanh cái tách cà phê bằng giấy bìa cứng cho ấm. Những vì sao đằng đông sáng rực trên bầu trời không có mây, và biển trước đó một lúc còn màu lam ngọc, đã đổi thành màu đen như mực tàu. Ông nghĩ mình có thể ngửi thấy mùi của macchia trong gió. Rồi một lát sau ông nghe thấy giọng nói của mụ signadora. Khi cô ấy đã chết, mụ già vẫn đang nói. Lúc đó các anh mới biết được sự thật. https://thuviensach.vn