🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cô Gái Đan Mạch - David Ebershoff full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Phần I - Copenhagen 1925 - Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Phần Ii - Paris 1929 - Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Phần Iii - Dresden 1930 - Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Phần 4 - Copenhagen, 1931 - Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 CÔ GÁI ĐAN MẠCH David Ebershoff www.dtv-ebook.com Phần I - Copenhagen 1925 - Chương 1 Vợ anh là người đầu tiên biết chuyện. "Làm cho em việc này được không?" Greta gọi với ra từ phòng ngủ vào một buổi chiều. "Em muốn nhờ anh một chuyện." "Dĩ nhiên rồi," Einar trả lời, đôi mắt vẫn chăm chú trên khung vẽ. "Bất cứ điều gì." Thời tiết hôm ấy thoáng mát, từng cơn gió lùa thổi vào từ biển Baltic. Họ đang ở trong căn hộ của mình, Widow House, Einar, cao gầy và chưa đầy 35, đang vẽ lại phong cảnh biển Kattegat vào mùa đông theo trí nhớ của anh. Dòng nước đen trắng dữ tợn, nấm mồ của hàng trăm dân đánh cá trở về Copenhagen cùng với những lưới cá muối. Người hàng xóm với cái đầu hình viên đạn tầng dưới là một tên lính thủy, hắn luôn chửi rủa vợ mình. Khi Einar sơn đến cơn sóng cuồn cuộn, anh hình dung tên lính ấy đang chết đuối, dơ lên bàn tay đầy tuyệt vọng, vẫn cố cất chất giọng sặc mùi rượu của mình lên mà hét rằng vợ gã là con khốn. Đó là cách để Einar pha màu vẽ một cách chính xác: đủ xám và trồi lên để nuốt trọn, nhấn chìm tiếng hét của gã thủy thủ. "Em sẽ xong ngay trong vài phút nữa," Greta nói, cô trẻ hơn chồng của mình, khuôn mặt sáng sủa xinh đẹp. "Sau đó chúng ta có thể bắt đầu." Einar khác xa so với vợ mình. Anh vẽ phong cảnh đất liền và biển cả với cái nắng chói chang của tháng Sáu, hay ánh mặt trời đục mờ của tháng Một. Còn Greta thì chỉ luôn vẽ chân dung của những nhân vật nổi tiếng với đôi môi hồng và những lọn tóc được tô sáng. Ngài I. Glückstadt, chuyên gia tài chính của bến cảng Copenhagen. Christian Dahlgaard, người buôn bán da thú cho nhà vua. Ivar Knudsen, thành viên của công ty sản xuất tàu thuyền Burmeister và Wain. Hôm nay là Anna Fonsmark, một giọng nữ của rạp hát Đan Mạch Hoàng Gia . Các giám đốc quản lý và doanh nhân xây dựng công nghiệp từng thuê Greta vẽ tranh để treo trong văn phòng, bên trên tủ tài liệu hay dọc theo hành lang. Greta xuất hiện trước cửa. "Anh chắc là không ngại dừng tay để giúp em chứ?", cô nói, mái tóc buộc cao về phía sau. "Em sẽ không nhờ anh nếu chuyện đó không quan trọng, Anna lại hủy hẹn rồi. Anh có thể đi đôi tất dài của cô ấy vào không?" Greta hỏi, "Và cả đôi giày nữa." Ánh mặt trời tháng Tư rọi sáng sau lưng Greta, chiếu qua miếng vải lụa mà cô cầm trên tay. Từ cửa sổ, Einar có thể thấy tòa tháp Rundetårn, như một cái ống khói khổng lồ bằng gạch, phía trên nó là chiếc máy bay Aero-Lloyd Đức đang bận rộn trở về Berlin. "Greta," Einar nói. "Ý em là sao?" Một giọt sơn dầu trên cọ vẽ chảy xuống giày anh. Edvard IV bắt đầu sủa, quay cái đầu trắng của nó từ phía Einar sang Greta rồi ngược lại. "Anna lại hủy hẹn rồi," Greta nói. "Cô ấy phải đi diễn tập vở Carmen. Em cần một ngừơi mẫu chân để có thể hoàn thiện bức tranh, hoặc nó sẽ không bao giờ xong được mất. Rồi em nghĩ là nếu nhờ anh cũng được." Greta tiến về phía Einar, tay cầm một đôi giày vàng đậm với chiếc khóa mơ tuya bằng bạc. Cô đang mặc một chiếc áo sơ-mi dài với khuy bấm cùng túi áo to đằng trước, nơi cô vẫn thường giấu những thứ không muốn Einar nhìn thấy. "Nhưng anh không thể đi giày của Anna được." Einar nói. Nhìn chằm chằm vào chúng, Einar tưởng tượng đôi giày có thể vừa với bàn chân nhỏ và gót chân cong mềm của anh. Những ngón chân mảnh khảnh với vài sợi lông đen. Anh hình dung chiếc tất nhầu nhĩ, lướt xuống phần xương trắng của mắt cá. Qua miếng lót ở bắp chân. Chạm vào cái móc của nịt bít-tất. Einar phải nhắm chặt mắt lại. Đôi giày giống hệt với chiếc họ nhìn thấy qua cửa số tiệm Fonnesbench tuần trước, dưới chân của con ma-nơ-canh cùng chiếc váy xanh thẫm. Einar và Greta phải dừng lại một lúc để ngắm nó, qua khung cửa được trang trí bằng vòng cây trường thọ. Greta nói, "Đẹp đúng không?" Einar không trả lời, mắt vẫn chăm chú nhìn về tấm kính, Greta phải lôi anh ra khỏi cửa sổ của Fonnesbench. Cô kéo anh xuống phố qua cửa hàng thuốc lá, nói, "Einar, không sao chứ?" Căn phòng phía trước căn hộ là xưởng vẽ của họ. Trần nhà được chống đỡ bằng những thanh xà và vòm mái có hình của một con cá dây gương chổng ngược. Biển sương mù khiến cho các cửa sổ mái và sàn nhà nghiêng về phía tây một chút không đáng kể. Vào buổi chiều, khi mặt trời hướng về phía Widow House, trên tường sẽ tỏa ra mùi cá trích nhè nhẹ. Mùa đông, cửa sổ mái nhà bị rỉ và khi cơn mưa phùn lạnh thổi vào, những bọt nước sẽ nổi lên tường. Einar và Greta để giá vẽ của họ bên dưới cửa sổ trần đôi, cạnh các kệ vẽ và đống hộp sơn dầu được đặt hàng qua ngài Salatho từ Munich. Những lúc Greta và Einar không vẽ, họ sẽ trông chừng tất cả mọi thứ dưới những chiếc bạt xanh mà tên lính thủy tầng dưới bỏ lại trên đất liền. "Sao em lại muốn anh đi giày của cô ấy?" Einar hỏi, ngồi trên chiếc ghế đan bằng ghỗ mang từ trang trại của bà anh. Edvard IV nhảy lên trên vạt áo của Einar, nó đang run sợ trước tiếng hét của gã lính dưới tầng. "Cho bức chân dung của Anna," Greta nói. Và rồi, "Em cũng sẽ làm thế nếu là anh." Trên một bên má của cô là vết sẹo từ hồi bị bệnh thủy đậu. Cô đang chạm nhẹ vào nó, điều mà cô thường làm - Einar biết rõ - khi cô cảm thấy lo lắng. Greta quỳ gối tháo dây giày cho Einar. Mái tóc của cô dài và vàng óng, đúng chất đan mạch hơn so với anh, cô luôn vén nó qua sau tai khi chuẩn bị bắt đầu bận rộn với công việc gì đó. Giờ thì nó đang trườn xuống khuôn mặt trong khi cô tháo nút giày cho Einar. Greta có mùi của dầu cam, thứ mà mẹ cô gửi sang từ năm trước đề phòng những chai màu nâu nhãn hiệu Pure Pasadena Extract. Mẹ cô nghĩ Greta sẽ sử dụng nó để nướng bánh, nhưng cô lại dùng để chấm lên sau hai tai. Greta bắt đầu rửa chân cho Einar trong chậu. Cô chỉ rửa nhẹ, nhanh nhẹn đưa miếng bọt biển qua các kẽ chân. Einar xắn ống quần lên cao hơn. Bắp chân của anh, Einar chợt nghĩ, thật cân đối. Anh chỉ vào chân của mình với vẻ khoái trí, rồi Edvard IV chạy tới liếm vệt nước trên ngón chân anh, ngón cái tròn và không có móng. "Chúng ta sẽ giữ bí mật này nhé, Greta," Einar khẽ nói. "Em sẽ không kể với ai đấy chứ?" Anh vừa sợ sệt vừa thích thú, tim đập tới tận cuống họng. "Em có thế kể với ai được chứ?" "Anna." "Anna không cần phải biết chuyện này." Greta trả lời. Kể cả như vậy, Anna vẫn là một ca sĩ của rạp hát, Einar nghĩ. Cô từng cải trang thành đàn ông trong trang phục của phụ nữ, và cả phụ nữ trong bộ đồ của đàn ông, Hosenrolle*. Nó đã là trò lừa xưa nhất quả đất. Mà trên sân khấu nó cũng chẳng là chuyện gì to tát cả, ngoài sự bối rối xấu hổ. Kéo dài tới tận màn kịch cuối cùng. "Không ai cần phải biết bất cứ điều gì cả," Greta nói, và Einar, vừa cảm giác như có một ánh đèn sân khấu đang chiếu lên mình, trở nên bớt căng thẳng và mang đôi tất lên người. "Anh đang đi mặt sau của nó đấy," Greta nói, đưa tay chỉnh lại. "Đeo từ từ thôi." Chiếc tất thứ hai rách toạc. "Còn cái nào khác không?" Einar hỏi. Gương mặt Greta đông lại, như thể vừa nhớ ra điều gì, cô chạy tới phía ngăn kéo tủ quần áo. Nó có một ngăn ở phía trên cùng và trước cửa đính một cái gương hình ô-van, ba ngăn kéo với tay nắm tủ hình tròn; tủ trên cùng đã bị Greta khóa lại bằng chìa. "Đôi này dầy hơn," Greta nói, đưa cho Einar chiếc thứ hai. Chiếc tất được gấp lại thành hình vuông, nó khiến Einar nghĩ tới một thớ thịt - một miếng da của Greta, nâu đi kể từ kì nghỉ hè ở Menton. "Cẩn thận đấy," cô nói. "Em định mặc chúng vào ngày mai." Một phần trên mái tóc của Greta để lộ phần da trắng, Einar bỗng tự hỏi cô đang nghĩ gì. Với cặp mắt xiên lên và đôi môi chúm lại, cô trông có vẻ như đang tập trung vào điều gì đó. Einar không thể hỏi thẳng; môi anh gần như cảm thấy bị gắn chặt lại, với một miếng giẻ sơn cũ thắt trên miệng. Vì vậy anh tự suy nghĩ về điều đó một cách lặng lẽ, với sự bực bội trên khuôn mặt nhợt nhạt và mịn, gần giống với vỏ của một trái đào trắng. "Anh là một chàng trai xinh đẹp." Greta nói từ lâu trước đây, khi hai người lần đầu ở riêng với nhau. Greta chắc hẳn phải để ý đến sự khó chịu của Einar, cô đưa tay véo một bên má của anh rồi nói, "Nó đâu là gì cả," và rồi, "Khi nào thì anh mới ngừng qua tâm những người khác nói gì?" Einar đặc biệt yêu cái cách Greta tuyên bố điều gì đó - cách cô đập hai tay lên không trung rồi khẳng định niềm tin của mình như tất cả những lòng tin khác trên thế giới. Anh nghĩ đó là nét phương Mỹ nhất của cô, nó và cả khiếu thẩm mỹ về trang sức bằng bạc nữa. "May là anh không có nhiều lông chân," Greta nói, như thể đây là lần đầu cô nhận thấy điều đó. Cô pha lẫn màu vẽ của mình trong chiếc bát caramel. Greta đã hoàn thành xong nửa trên của bức chân dung. Einar bị ấn tượng với cách cô vẽ Anna, tay ôm lấy bó hoa loa kèn. Các ngón tay được tô một cách cẩn thận, đốt tay nhăn nheo và móng tay rõ nét, mờ ảo. Bó hoa trắng như mặt trăng với những vết phấn loan ra. Greta là một họa sĩ đầy mâu thuẫn, nhưng Einar chưa bao giờ nói vậy, thay vào đó anh thường khen ngợi cô nhiều nhất có thế, và có lẽ là quá nhiều. Nhưng Einar luôn giúp đỡ cô trong khả năng của mình, chỉ cô các kỹ xảo mà anh nghĩ rằng cô không biết, nhất là về ánh sáng và khoảng cách. Nếu Greta sửa được chính xác lỗi sai của mình, Einar chắc chắn rằng cô sẽ trở thành một họa sĩ giỏi. Ngoài Widow House những đám mây trôi nổi, ánh nắng chiếu sáng trên nửa bức chân dung của Anna. Nền cảnh mà Greta sử dụng là một cái hòm sơn mài được mua từ nữ thợ giặt Quảng Đông, cô ta không bao giờ đi rao giữa phố, mà thay vào đó dùng một miếng chuông vàng đeo vào hai ngón tay, tạo nên tiếng Ping! * Đứng trên cái hòm, Einar bắt đầu cảm thấy chóng mặt và nóng lên. Anh nhìn xuống cẳng chân của mình và vải lụa trơn, ngoại trừ những sợi lông như đám tơ trên cây đậu. Đôi giày vàng trông quá thanh nhã so với anh, nhưng bàn chân thì cong lên tự nhiên, như thể anh đang duỗi dài cơ bắp lâu không hoạt động. Thứ gì đó nảy lên trong đầu Einar làm anh chợt nghĩ tới hình ảnh một con cáo đuổi theo con chuột đồng: cái mũi đỏ và dài của nó đào qua bãi rào của ruộng đỗ đậu. "Đứng yên nào," Greta nói. Einar hướng ra phía cửa sổ và nhìn về tòa mái vòm của Rạp Hát Hoang Gia, nơi mà anh vẫn vẽ phông nền cho công ty Opera. Ngay lúc này, bên trong rạp, Anna đang tập lại vở Carmen, cánh tay mềm mại của cô dơ lên cao, trước tấm màn mà anh đã sơn lên đấu trường bò Sevilla. Thỉnh thoảng khi đang vẽ trong rạp, anh có thể nghe thấy giọng hát của Anna lan tới tận đại sảnh. Nó khiến anh run lên tới nỗi cọ vẽ nhòe ra khỏi viền nền, và anh phải đưa tay lên dụi mắt. Anna không hẳn là có một giọng ca trong trẻo, nó thô, vẻ buồn phiền, có chút hơi giống với những người khác, bằng cách nào đó pha giữa cả giọng nam và nữ cùng lúc. Giờ thì nó khỏe hơn nhiều so với hầu hết chất giọng Đan Mạch mỏng manh, quá trong để làm rung một thứ gì đó. Giọng của Anna chứa sức nóng của miền Nam. Nó khiến anh cảm thấy ấm lên, như thể cổ họng cô nung đỏ với than vậy. Einar thường đi xuống bậc thang sau sân khấu rồi tiến về phía cánh gà: Anh quan sát cô trong chiếc áo len tunic màu trắng, mở to khung miệng hình vuông mỗi khi luyện tập cùng Conductor Dyvik. Cô luôn nghiêng người về phía trước mỗi khi cất tiếng hát; Anna cho rằng có một lực nào đó hút mình về phía dàn nhạc. "Tôi nghĩ là do một dây thần kinh nào đó nối với dàn nhạc chỉ huy, ở ngay đây này," Anna nói, chỉ vào cái nốt ruồi nhỏ như vụn bánh mì dưới cằm cô, "Không có nó, tôi hầu như không biết phải làm gì cả. Tôi sẽ không thể là chính mình được mất." Khi Greta vẽ, cô sẽ chải mái tóc của mình bằng chiếc lược hình đồi mồi, buộc ra đằng sau gáy; khuôn mặt của cô trở nên rộng hơn, khiến Einar cảm tưởng mình đang nhìn qua một bát nước. Greta là cô gái cao nhất mà anh từng gặp, đủ cao để có thể lướt qua tấm rèm cửa của các cư dân dưới tầng trệt trên hè phố. Đứng cạnh Greta khiến anh cảm thấy thật nhỏ bé, như thể anh là con trai cô vậy, ngước nhìn lên cằm và đôi mắt rồi nắm lấy tay cô. Chiếc sơ mi dài với hai túi áo to đằng trước của cô là hàng đặc biệt đặt làm từ người thợ may ở góc phố. Mỗi khi lấy số đo ngực và tay cho Greta bằng một dải băng màu vàng, cô ta luôn tỏ ra ngạc nhiên, khó thể tin được một cô gái to cao và khỏe mạnh như thế này không phải người Đan Mạch. Greta vẽ tranh với sự tập trung linh động tới nỗi Einar phải thán phục. Cô sơn một chấm trắng bên trái con mắt, mở cửa để nhận hàng vận chuyển từ Công Ty Cung Cấp Sữa rồi lại tiếp tục tô một chút sáng mờ phía bên phải. Khi vẽ, Greta hát những bài mà cô tự gọi là bài ca lửa trại. Cô kể về tuổi thơ của mình hồi còn ở California cho người mẫu cô vẽ, nơi những con công làm tổ trong vườn cam của cha cô; nói với những người mẫu nữ - như Einar đã từng tình cờ nghe trộm được khi lên tới bậc thang ngay gần cửa phòng căn hộ - về khoảng thời gian dài dằng dẵng giữa sự thân mật của họ, "Anh ấy luôn xem mọi thứ như vấn đề cá nhân. Nhưng tôi không bao giờ đổ lỗi cho việc đó cả," cô nói, và Einar có thể dễ dàng hình dung được cách cô vén tóc ra sau tai. "Nó đang tuột kìa," Greta nói, chỉ chiếc cọ vẽ về phía đôi tất, "Kéo chúng lên đi." "Việc này có thực sự cần thiết không?" Gã thủ thủ tầng dưới đóng sầm cửa, sau đó mọi thứ lại trở về im lặng, ngoại trừ tiếng cười khúc khích của cô vợ. "Chúa ơi, Einar," Greta nói. "Anh có thể thoải mái một chút được không?" Nụ cười của cô trùng xuống và biến mất trên khuôn mặt. Edward IV chạy lon ton và phòng ngủ, bắt đầu đào bới đống chăn màn; rồi rên lên như một đứa bé. Nó là một con chó già từ trang trại ở bán đảo Jutland, sinh ra trong đầm lầy; mẹ và đám chó con khác của nó đã chết chìm trong vũng than bùn ẩm ướt. Căn hộ là gác mái của một tòa nhà thuộc chính phủ, được xây dựng từ thế kỷ trước cho những góa phụ của dân đánh cá. Cửa sổ hướng về phía Bắc, Nam, phía Tây và hoàn toàn khác so với các căn hộ liền kề ở Copenhagen, nó có đủ ánh sáng chiếu vào để Einar và Greta có thể vẽ. Họ từng định chuyển tới khu nhà trong thị trấn Christianshavn phía bên kia Inderhavn, nơi những nghệ sĩ khác cư ngụ cùng gái mại dâm hay những kẻ nghiện rượu đánh bạc, dọc theo các công ty trộn xi măng và xuất nhập khẩu. Greta nói cô có thể ở bất cứ đâu cũng được, không nơi nào khiến cô cảm thấy khó chịu; nhưng Einar, anh đã sống dưới mái nhà làm từ lá rợp trong 15 năm, lại không nghĩ như vậy, và quyết định chọn Widow House. Bề ngoài của nó được sơn màu đỏ, nằm cách Nyhavn Kanals một dãy phố. Cửa sổ trần nhà nhô ra từ phần dốc của lớp mái ngói với màn rêu đen. Các tòa nhà khác trong khu được quét vôi trắng cùng chiếc cửa ra vào màu tảo bẹ. Phía đối diện bên đường nhà của bác sĩ Møller, ông thường nhận được điện thoại khẩn của những người phụ nữ chuẩn bị sinh con vào giữa đêm. Một vài chiếc xe mô-tô chạy vù xuống phố về phía ngõ cụt của Iderhavn, tíêng ồn đủ to để khiến một bé gái nhút nhát phải òa khóc. "Anh phải quay lại với công việc của mình nữa," Einar nói, mệt mỏi vì phải đứng quá lâu trong đôi giày với chiếc khóa bạc bó chặt. "Vậy là anh không muốn thử luôn chiếc váy à?" Khi cô nói từ "váy", có gì đó dội vào dạ dày của anh cùng sự xấu hổ. "Không, anh không nghĩ vậy," Einar trả lời. "Vài phút thôi cũng không được sao?" cô nài nỉ. "Em còn phải vẽ cả phần viền váy chỗ đầu gối nữa." Greta ngồi trên chiếc ghế dây đan bên cạnh anh, vuốt dọc qua vải lụa phần bắp chân của Einar. Đôi tay cô như đang thôi miên, một linh cảm nói với anh phải nhắm mắt lại. Anh không còn nghe thấy gì khác ngoài tiếng móng tay của cô trên lớp lụa. Nhưng rồi Greta dừng lại. "Xin lỗi," cô nói. "Lẽ ra em không nên hỏi." Giờ, Einar nhìn thấy cửa tủ gỗ đang được mở, bên trong treo chiếc váy của Anna. Nó màu trắng, được đính những dải hạt trên viền gối và cổ tay áo. Một cửa sổ bị nứt, và gió luồn vào khiến chiếc váy lắc lư trên móc áo. Có gì đó về chiếc váy - về sự lấp lánh của chất lụa, phần ren trước vạt áo, về nút khuy trên cổ tay, mở và nứt ra từng phần - khiến Einar muốn chạm vào nó. "Anh thích chứ?" Greta hỏi. Anh định phủ nhận, nhưng đó sẽ là lời nói dối. Einar thực sự thích nó, anh có thể cảm thấy thứ gì đó đang rạo rực dưới lớp da của mình. "Chỉ cần giữ nó trên người trong vài phút thôi." Greta mang nó tới chỗ Einar và yếm nó trước ngực anh. "Greta," anh nói. "Nếu như a-" "Cứ cởi áo ra đi," cô nói. "Nếu như-" "Cứ nhắm mắt lại," Và anh nhắm mắt. Kể cả với đôi mắt nhắm nghiền, nghĩ về việc đứng trần trước vợ mình vẫn khiến anh cảm thấy thô tục. Như thể bị cô bắt gặp đang làm điều gì đó mà hứa anh hứa tránh xa - không phải ngoại tình, mà là một thói xấu thề sẽ bỏ, ví dụ như uống rượu Aquavit trong quán bar ở Christianshaivn, ăn Frikadeller* trên giường hoặc tráo lật mặt lá bài, thứ mà anh đã mua trong một buổi chiều buồn chán. "Cả quần nữa," Greta nói. Cô đưa tay ra, lịch sự quay mặt đi. Cửa sổ để mở, những cơn gió lạnh thổi vào khiến anh nổi da gà. Einar nhanh chóng kéo chiếc váy qua đầu rồi chỉnh lại vạt váy. Anh đang đổ mồ hôi ở cánh tay và phần trên lưng mình. Cái nóng khiến anh ước được trở lại thời chỉ là một cậu bé và thứ lủng lẳng giữa hai chân anh nhỏ bé, vô dụng như một cây củ cải đỏ. Greta chỉ nói, "Được rồi." Sau đó cô lại đưa chiếc cọ của mình về phía khung vẽ. Đôi mắt xanh của cô khẽ nhíu lại, như thể đang nhìn vào một điểm nào đó giữa mũi. Một cảm giác kì lạ bao trùm lấy Einar khi đứng trên thân chiếc hòm, ánh mắt trời chiếu vào người anh, trong không khí vẫn phảng phất mùi cá trích. Toàn bộ phần váy đều mềm và xốp ngoại trừ cổ tay, và anh cảm thấy ấm nóng, ngập chìm dưới nước, như thể đang bơi trong biển hè vậy. Con cáo vẫn đang săn đuổi chuột, rồi bỗng nhiên xuất hiện một giọng nói vang vọng trong đầu anh: tiếng khóc yếu đuối của một bé gái sợ sệt. Einar bắt đầu cảm thấy khó để có thể mở mắt, tiếp tục quan sát những chuyển động nhanh nhẹn uyển chuyển của Greta khi cô đưa tay lên khung vẽ, sau đó rụt lại, chiếc vòng cổ bạc và nhẫn liên tục di chuyển theo cơ thể như đàn cá bống. Khó để có thể tiếp tục nghĩ về Anna đang cất giọng hát phía bên kia Rạp Royal, cằm cô hất về phía dàn chỉ huy. Einar chỉ còn có thể tập trung vào chiếc váy bó trên người anh, như thể nó là một dải băng cứu thương. Phải, đó là cảm xúc đầu tiên về nó: vải lụa mềm và thoáng mát như băng gạc - miếng gạc bông thơm ẩm ướt được đắp nhẹ trên làn da được chữa lành của anh. Ngay cả sự bối rối trong việc đứng khỏa thân trước vợ mình cũng không còn là vấn đề nữa, cô vẫn đang mải mê vẽ tranh một cách lạ thường. Còn Einar thì dần chìm vào một thế giới mơ mộng mà chiếc váy của Anna có thể thuộc về bất cứ ai, kể cả anh. Ngay lúc mí mắt anh dần nặng trĩu, xưởng vẽ trở nên mờ ảo, ngay khi anh có thể thả lỏng vai, Edvard IV đang ngáy trong phòng ngủ, ngay khoảnh khắc ấy, giọng nói của Anna thốt lên, "Nhìn Einar kìa!" Mắt anh choàng tỉnh. Anna và Greta đang chỉ trỏ, khuôn mặt họ bừng sáng lên, và đôi môi thì hơi tróc da. Edvard bắt đầu sủa phía trước Einar. Còn Einar Wegener chợt không thể cử động. Greta lấy một bó hoa loa kèn từ Anna, một món quà của người hâm mộ, rồi ép chúng vào cánh tay Einar. Đầu anh khẽ ngẩng lên như một nghệ sĩ Trumpet, Edvard IV bắt đầu chạy vòng quanh anh như để bảo vệ. Trong khi hai người vẫn tiếp tục cười lớn, Einar dần trở nên tỉnh táo, mắt rớm nước. Anh thấy nhói lên bởi tiếng cười của họ, cùng với hương thơm từ bó hoa, nhụy của nó phủ phấn lên vạt váy, phần vải sặc sỡ phía trước đùi anh, cả đôi tất dài và toàn bộ lòng bàn tay đang xòe ra. "Cô là con khốn," gã thủy thủ cất giọng dịu dàng. "Con khốn chết tiệt và xinh đẹp nhất." Từ tầng dưới, một phút im lặng kéo dài, có lẽ là cho một nụ hôn tha thứ. Sau đó thì tiếng cười của Anna và Greta càng lúc một to hơn, và khi Einar đang định cầu xin họ ra khỏi xưởng vẽ để anh có thể thay đồ trong yên lặng, Greta chợt nói với giọng nhẹ nhàng khác lạ, "Sao chúng ta không gọi cô là Lili nhỉ?" *Chú thích: Hosenrolle: một vai trong nhà hát, khi nhân vật là đàn ông nhưng được diễn viên nữ cải trang thành và ngược lại. Ping : Ping ở đây được chỉ tiếng động của một chiếc chuông nhỏ treo ở hai ngón tay, thường dùng khi múa, được sử dụng phổ biến ở Ấn Độ hoặc Trung Quốc. Frikadeller : một loại thịt viên nổi tiếng ở Đan Mạch. CÔ GÁI ĐAN MẠCH David Ebershoff www.dtv-ebook.com Chương 2 Greta 29 tuổi, là họa sĩ người California. Cô là con nhà Waud, ông của cô, Apsley Haven Waud, giàu có nhờ những mảnh đất màu mỡ; cha cô, Apsley Jr., còn trở nên giàu hơn nhờ những khu vườn cam. Trước khi cô chuyển tới Đan Mạch vào năm 10 tuổi, việc mạo hiểm nhất mà cô từng làm từ Pasadena là ở San Francisco, nơi cô đang lăn vòng trước nhà dì Lizzie trên đồi Nob Hill, rồi lỡ xô ngã người em trai song sinh của mình xuống đường xe ngựa. Carlisle sống sót cùng với vết sẹo lõm sáng bóng trên cẳng chân; một vài người nói chân anh sẽ vĩnh viễn không trở về như cũ được nữa. Khi lớn hơn, Greta nói rằng Carlisle không bao giờ có thể trở thành người phương Tây thực thụ. "Nhà Waud được sinh ra với nó," cô nhận thấy khi chỉ mới 10 tuổi, cao lớn và vẫn đang học tiếng Đan Mạch trên sàn gỗ boong tàu trong chuyến du lịch đường biển, "Nhưng một số thì không." Người Đan Mạch chắc chắc không có nét của phương Tây; và tại sao phải có chứ? Vậy nên Greta bỏ qua cho họ - ít nhất là hầu như mọi lúc. Cô đặc biệt bỏ qua cho Einar, giáo sư dạy vẽ đầu tiên của cô và cũng là người chồng thứ hai. Vào mùa Xuân năm 1925, họ đã kết hôn được hơn sáu năm: hầu hết buổi sáng thức dậy, Greta cảm thấy như nó chỉ mới kéo dài được sáu tuần, và có lúc là 6 cuộc đời sung túc. Einar và Greta gặp nhau lần đầu tại Học Viện Nghệ Thuật Hoàng Gia vào đầu tháng Chín, 1914, chỉ một vài tuần sau khi Đức Vua nổ súng trên ngọn đồi giữa Bỉ và Luxemburg. Khi đó Greta đã 17. Einar trong độ tuổi 20, là một giảng viên trong ngành hội họa, luôn tỏ ra nhút nhát và e thẹn trước những thanh thiếu niên khác, đã đậu được bằng cử nhân. Dù vậy cô vẫn duỗi thẳng vai hệt điệu bộ hồi nhỏ, chễm trệ trên lưng ngựa. Cô để tóc dài tới lưng, đung đưa với vẻ khiêu khích khi đi trên những con phố của Copenhagen. Người Đan Mạch luôn tỏ vẻ nhún nhường vì cô tới từ California, nơi mà không ai trong số họ từng đặt chân đến, nhưng luôn hình dung về những người như Greta, sống trong một ngôi nhà thoáng mát rộng lớn, dưới bóng râm của ánh sáng ban mai, nơi họ bước chân bên hàng sỏi đá vàng trên lối đi trong vườn. Có lần Greta thử nhổ lông mày của mình, và chúng không bao giờ mọc lại nữa, điều mà cô cho là thuận tiện hơn bất cứ thứ gì khác. Mỗi sáng cô vẽ lên chúng với chiếc bút chì sáp mua ở gian hàng trên tầng thứ ba tòa nhà Magasin du Nord, nơi những người phụ nữ thích làm đẹp thường mua sắm. Greta có một thói quen không thể kìm nén mỗi khi mở một quyển sách, cô sẽ cạy những vết mụn đầu đen trên mũi, nó đã để lại vài vết sẹo nhỏ trên da cô, thứ mà cô rất chú ý tới. Cô nghĩ mình là cô gái cao nhất Copenhagen, nhưng có lẽ điều đó không đúng. Grethe Janssen, một cô gái với vẻ đẹp mềm mỏng và cũng là tình nhân của ngài thị trưởng, luôn ra vào cửa hàng trong tiền sảnh của khách sạn Hôtel d 'Angleterre, ngay cả trong những ngày giữa trưa. Trong mọi trường hợp, Greta luôn nghĩ rằng cô không có khả năng lấy chồng. Khi một chàng trai trẻ - một gã người Đan Mạch với khuôn mặt tròn từ nhà quý tộc hoặc con trai của ông trùm tư bản du lịch tới Châu Âu trong vòng một năm - mời cô tới dự lễ hội hay đi du ngoạn bằng thuyền buồm qua những kênh rạch ở Christianshaivn, điều đầu tiên cô nghĩ tới là: Anh sẽ không thể có được tôi đâu. Cô chỉ muốn trở thành một nữ tu sĩ*: một người phụ nữ được tự do vẽ vời cả ngày dưới ánh mặt trời chiếu từ cửa sổ và là thành viên của một công ty xã hội chỉ hoạt động lúc nửa đêm khi nhóm 8 người tập trung tại Sebastian, quán rượu yêu thích của cô, gọi hai ly anh đào với hương vị Peter Heering trước khi vị cảnh sát có khuôn mặt dài sẽ quay lại vào lúc một giờ đêm và yêu cầu đóng cửa. Nhưng Greta biết rõ điều đó không chỉ ngớ ngẩn, mà còn không thể trở thành hiện thực. Tại sao, một cô gái trẻ như Greta Waud không được phép sống theo ý mình. Khi còn bé, Greta từng viết vào cuốn sổ tay của cô, "Greta, Greta, Greta," cố tình tách khỏi họ Waud, như để thử xem mọi chuyện sẽ thế nào nếu cô chỉ đơn thuần là Greta - cái tên mà không ai từng gọi. Cô không muốn mọi người biết mình thuộc về gia đình nào. Kể cả khi chỉ là một đứa trẻ, cô không bao giờ muốn đi du lịch đường biển nhờ các mối quan hệ. Cô khinh thường những kẻ luôn nhìn vào lai lịch của người khác. Nó thì sao chứ? Greta buộc phải tới Đan Mạch khi cha cô, người đàn ông với cánh tay dài và bộ râu quai nón, lấy điện từ tòa đại sứ. "Sao cha lại làm thế?" cô hỏi khi nghe ông kể về công việc mới của mình. "Nào, Greta," mẹ cô trả lời, "Đừng hỗn như vậy, đó là cha con đấy." Lúc ấy, cô hoàn toàn quên rằng mẹ của ông, cũng như bà nội cô, Gerda Calsen, người đã đặt tên cho Greta, cũng đến từ Đan Mạch, với mái tóc vàng màu gỗ sồi. Lớn lên ở Bornholm, Gerda được biết tới với bông anh túc đỏ bà đeo bên tai - và là người đầu tiên trong gia đình rời khỏi bán đảo Baltic, nhưng không phải để căng buồm tới Copenhagen như hầu hết các thanh niên khác khi quyết định xa quê nhà, mà tới miền Nam California, nơi mà thời ấy điều đó cũng tương đương với việc di cứ đến mặt trăng. Sau vài năm làm việc quản lý trong trang trại, bà lọt được vào mắt xanh của Apsley Waud, Sr., và chỉ một thời gian sau, cô gái cao lớn từ Bornholm, người có mái tóc dài ngang hông và bông anh túc đỏ cài sau tai đã trở thành bà chúa California. Khi cha Greta nói sẽ đưa gia đình trở về Đan Mạch, điều này khiến cô biểu cảm dữ dội - và Greta thừa nhận rằng - ông đã thất bại trong mối quan hệ với các quý tộc ở đây, chứ không phải là cách để tưởng nhớ người mẹ của mình, Gerda Carlsen Waud với đôi mắt xanh đã mất khi con trai bà, Apsley Jr., một chàng trai trẻ, dẫn bà tới dãy Arroyo Seco Pasadena để chụp ảnh ngay trước khung cảnh phía xa rồi chứng kiến trong ghê sợ khi mặt đất chợt vỡ vụn, kéo theo người mẹ của ông xuống hẻm núi, dưới cành cây sung dâu mọc thành hình chữ Y. Mùa Thu năm 1914 tại Học Viện Hoàng Gia, Greta cho rằng hầu hết mọi người, nhất là những nhà quản lý chỉ bàn tán về hai việc: chiến tranh và cô. Không cần biết Greta đi tới đâu, cô luôn là nguyên nhân gây nên xôn xao, như thể đuôi tóc vàng của cô khuấy động tất cả mọi thứ phía sau mỗi khi đi qua đâu đó. Nhất là ở Nam California. Tại sao ư, vào năm trước, khi cô quay trở về Pasadena cho khóa học Tennis và cưỡi ngựa mùa hè, một ngày chàng trai đi chiếc xe chở thịt vô tình lọt vào mắt cô. Mái tóc anh xoăn đen, bàn tay ấm nóng bế cô ngồi trên chiếc ghế gỗ dài, rồi họ cùng nhau lái xe tới Wilshire Boulevard và ngược lại. Cô nhìn anh vặn chiếc kìm sắt như khi tách miếng sườn từ phần thịt nướng và chắt thịt cừu ở công viên Hancock. Trên đường về nhà, cậu ta không định hôn cô dù chỉ một lần, điều đó khiến Greta thất vọng, lần đầu tiên cô nghi ngờ có phải do mái tóc của mình quá dài không. Tới cuối đường, anh chỉ nói, "Lâu thật đấy." Và thế là Greta nhún vai rồi về phòng. Nhưng tới sáng ngày hôm sau, trên bàn ăn, mẹ cô nói với đôi môi mỏng "Greta, con yêu, con có thể giải thích chuyện này được không?" Mẹ cô mở một tập giấy từ văn phòng Thời Báo Mỹ. Bên trên là tờ báo với dòng chữ: "Tiểu thư Greta Waud đang lập kế hoạch theo nghề bán thịt?" Những lời vu khống đe dọa bao trùm căn biệt thự trong vài tuần. Mỗi sáng, tiếng còi của cậu bé rao báo khiến mọi người giật mình, đông người lại. Câu chuyện cuối cùng cũng kết thúc, nhưng đương nhiên là các tin đồn khác vẫn tiếp tục. Trong hai ngày, chiếc điện thoại bàn trên tầng liên tục reo và reo. Cha của Greta không còn có thể ăn trưa ở câu lạc bộ California dưới phố, còn mẹ cô có một khoảng thời gian kinh khủng để đảm bảo một nguồn thịt thứ hai. Bố mẹ cô nhanh chóng hủy bỏ kì nghỉ hè ở California và Greta phải trở về Copenhagen, kịp với ngày cực quang tháng tám và lễ bắn pháo hoa trên Tivoli. Tháng chín năm cuối tuổi xuân của cô, khi chiến tranh được nhắc tới khắp mọi nơi, Greta bắt đầu theo học Học Viện Hoàng Gia. Ngày đầu tiên trên lớp, Greta ngạc nhiên khi Einar, đứng bên chiếc bảng đen vẫn còn bụi phấn từ tiết học trước, hỏi cô, "Còn em, tên em là gì?" Khi Greta trả lời, Einar - hay giáo sư Wegener, đánh dấu vào sổ lớp rồi lại tiếp tục. Đôi mắt nâu của anh mở to như một con búp bê, hướng về phía cô rồi quay đi. Qua sự nhút nhát của anh, Greta cho rằng anh chưa tiếp xúc với người California trong đời bao giờ. Cô hất mái tóc của mình qua vai, như thể một lá cờ phấp phới. Rồi, vào đầu năm học, chắc hẳn ai đó đã nói cho Einar về cha của Greta, công việc ở đại sứ quán và có lẽ cả câu chuyện chiếc xe chở thịt - phải, những lời bàn tán lan qua cả biển Atlantic, sau đó, Einar còn trở nên bối rối hơn khi ở cạnh cô. Nó khiến cô thất vọng khi anh đang dần hành động giống như những gã đàn ông khác, những kẻ cho rằng việc ở bên một cô gái giàu có là điều không thể. Chuyện này thực sự đáng tức giận , vì cô chưa bao giờ đòi hỏi được giàu có; không phải là cô luôn có suy nghĩ như vậy, nhưng cho dù là thế. Einar không thể chọn được một bức tranh trưng bày tại phòng triển lãm mỹ thuật, và không có khả năng chỉ ra con đường ngắn nhất tới cửa hàng bán dụng cụ vẽ gần Kommunehospitalet. Cô mời anh tới dự buổi tiệc của đại sứ quán Mỹ, tổ chức chúc mừng công ty sản xuất thuyền buồm ghé thăm từ Connecticut, nhưng Einar từ chối. Anh cũng không nhận lời đi cùng cô tới rạp hát. Anh thậm chí còn không thể nhìn thẳng vào cô khi họ nói chuyện. Nhưng cô luôn nhìn về phía anh, khi họ gặp nhau hay từ xa, qua khung cửa sổ khi anh đi trên sân học viện, những bước chân ngắn và nhanh. Thân hình Einar nhỏ con với khuôn mặt nhọn, làn da tái mét và đôi mắt đen láy tới nỗi Greta không thể hình dung được điều gì chứa đựng đằng sau nó. Chỉ bằng cách nói chuyện, Greta có thể khiến gương mặt anh ửng hồng từ cổ họng cho tới hai bên thái dương. Anh rất ngây thơ, và Greta bị mê hoặc bởi điểm này, một phần vì cô trưởng thành quá nhanh và luôn thẳng thắn kể từ khi cô còn nhỏ, gần như một người lớn thực thụ. Cô đã từng hỏi anh, "Giáo sư đã kết hôn chưa?", và mi mắt của anh không ngừng run lên. Đôi môi cố mở như thể gắng nói lên điều gì đó lạ lẫm "Chưa." Những học viên khác cũng bàn tán về giáo sư Wegener. "Tới từ tộc của thần lùn," một nữ sinh nói. "Bị mù cho tới khi 15 tuổi." một cô gái khác nói. "Được sinh ra trong vũng bùn," một nam sinh nói, cố gắng có được sự chú ý của Greta. Cậu ta vẽ những bức tượng Hy Lạp, và Greta không thể tìm được thứ gì, hay bất cứ ai nhàm chán hơn thế nữa. Khi anh mời cô cùng lái chiếc Farris quanh Tivoli, cô chỉ đảo mắt. "Được thôi, dù sao thì giáo sư Wegener cũng sẽ không chở cậu đi đâu, nếu đó là những gì cậu mong đợi," anh ta đáp, đá giày về phía thân cây đu. Ở nhà, mẹ cô vẫn bận tâm về tai nạn với chiếc xe chở thịt, thận trọng canh trừng cho tới khi Greta trở về, ánh lửa lò sưởi lập lòe, nhưng không có gì hiện lên trong đôi mắt của Greta. Một tối, mẹ cô nói, "Greta, con yêu, nếu như vẫn không tìm được bạn nhảy cho buổi tiệc sinh nhật, mẹ sẽ hỏi cho con một vài người." Bà đang xâu kim trước lò sưởi trong phòng khách, và Greta có thể nghe được tiếng Carlisle đập bóng tennis từ tầng trên. "Mẹ chắc là con trai của Countess von der Recke sẽ muốn đi cùng con," Bà Waud nói. "Đúng là cậu ta không biết nhảy, nhưng cậu ta cũng khá đẹp trai đấy chứ, nếu con không chú ý đến cái bướu kinh khủng đó. Con có đồng ý không? Greta?" Mẹ cô ngẩng đầu. Ánh lửa đỏ trong lò vút lên yếu ớt, và tiếng tap-tap-tap bóng của Carlise rung lên khắp phòng, làm cho chiếc đèn treo trên trần khẽ đung đưa. "Khi nào thì nó mới dừng lại chứ?" Bà Waud ngắt lời. "Quả bóng chết tiệt." Bà gập miếng vải thêu lại, đứng dậy trong tư thế cứng ngắc, như thể một mũi tên buộc tội chĩa về phía trên phòng của Carlisle. "Luôn là Carlise," bà nói với tiếng thở dài. Sau đó, khi ngọn lửa trong lò đột nhiên bùng lên cao và sáng hơn, Bà Waud nói, "Phải, đúng rồi, chúng ta đã có Carlisle ở đây. Sao con không đi với nó? Carlise cũng chưa tìm được cô gái nào cả. Hai con có thể đi cùng nhau, một buổi sinh nhật đôi." Nhưng Greta, vẫn đứng trong khung cửa phòng khách, đưa tay phản đối, "Carlisle? Con sẽ không bao giờ đi cùng với nó. Như vậy sẽ không vui chút nào. Với lại, con sắp tìm được người rồi." Hàng lông mày của mẹ cô, xám như lông chim bồ câu, cong lên. Bà nói, "Ồ, thật vậy sao? Là ai vậy?" Greta cảm thấy móng tay cô bấm chặt vào lòng bàn tay, "Mẹ cứ đợi đi rồi sẽ thấy. Con sẽ đi với người con thích, chứ không phải là cùng đứa em ruột." Cô nghịch mái tóc của mình, nhìn về phía mẹ cô, và trên tầng vẫn vang lên tiếng tap-tap-tap. "Cứ chờ xem," Greta nói. "Dù sao thì đó cũng là sinh nhật thứ 18 mà." Tuần tiếp theo, Greta bắt gặp Einar trên cầu thang học viện. Anh đang bám vào lan can màu trắng khi cô tóm lấy cổ tay anh rồi nói, "Chúng ta có thể nói chuyện được không?" Lúc ấy đã muộn, không còn ai khác ở quanh đó và mọi thứ đều yên lặng. Giáo sư Wegener đang mặc một bộ vét màu nâu, bên trong là chiếc sơ-mi trắng. Anh đang cầm một cái khung vẽ nhỏ, cỡ một quyển sổ tay. "Nhà em đang tổ chức một bữa tiệc ăn tối mừng sinh nhật," Greta nói. "Em sẽ tròn 18 tuổi. Và cả đứa em sinh đôi nữa." Và rồi, "Em tự hỏi giáo sư có muốn ghé qua không?" Einar trông như thể lỡ nuốt phải cái gì đó khủng khiếp, nét mặt anh đổi màu. "Cô Waud, làm ơn," cuối cùng anh cũng có thể trả lời. "Có lẽ tốt nhất cô nên mời những hội thảo khác thì hơn." Anh chạm lên cổ họng của mình, như thế có thứ gì mỏng manh mà anh yêu quý đang được treo trên đó. Bằng cách nào đó Greta bỗng có cảm giác giáo sư Wegener còn trẻ hơn mình. Anh có khuôn mặt của một cậu bé, với cái miệng nhỏ và đôi tai lúc nào cũng đỏ lên, và mái tóc nâu sáng của anh trông có vẻ tinh quái. Ngay lúc ấy, điều gì đó đã khiến Greta ôm chặt khuôn mặt của Einar. Anh giật nảy lên khi ngón tay cô áp trên má mình, nhưng vẫn đứng yên. Cô giữ chặt khuôn mặt dài của anh, sức nóng tỏa ra giữa lòng bàn tay. Greta vẫn tiếp tục ôm lấy Einar, và anh cũng để mặc cô. Và sau đó cô hôn anh, chiếc khung vẽ vẫn kẹp giữa hai người họ. Ngay lúc ấy cô nhận ra rằng Einar Wegener không chỉ là người cô muốn đi dự tiệc cùng, mà còn là người mà cô muốn kết hôn. "Anh đúng là một chàng trai xinh xắn," cô nói. "Tôi có thể đi chứ?" Einar lùi lại, hỏi. "Ý giáo sư là buổi tiệc ư?" "Well, không phải là-" "Đương nhiên là giáo sư có thể tới rồi. Đó là lý do em hỏi mà." Rồi, trong sự ngạc nhiên của hai người, Einar tiến về phía Greta cho nụ hôn thứ hai. Nhưng ngay trước buổi tiệc, trước khi Greta tròn 18, cha Greta cảm thấy Châu Âu không còn là nơi an toàn nữa. Không lâu sau khi Đức tấn công Pháp, ông gửi gia đình mình về từ Đan Mạch. "Nếu đức vua đã tới Bỉ, điều gì sẽ ngăn ông ta không qua đây chứ?" ông nói bên chiếc bàn gỗ vàng trong nhà ăn. "Phải đấy," mẹ Greta trả lời, bà đi quanh phòng với bó rơm vừa chuyển tới. Greta, cảm thấy như thể mình là một kẻ tị nạn đang chạy trốn, lên chiếc tàu Công Chúa Dagmar, không mang theo thứ gì trong người ngoại trừ mảnh giấy ngắn từ Einar với dòng chữ: "Tốt hơn hết hãy quên tôi đi." Bây giờ, hơn 10 năm sau, vào mùa xuân ẩm ướt năm 1925, Greta cảm thấy như đang nắm giữ một bí mật của chồng cô. Một vài tuần sau vụ chiếc váy của Anna, Greta và Einar không còn nhắc lại về việc đó nữa. Họ bận rộn trước giá vẽ, mỗi người chăm chú làm việc của mình. Bức chân dung của Anna đã được hoàn tất, và giờ thì Greta đang tìm kiếm một công việc khác. Khoảng một hay hai lần ngẫu nhiên, bên bàn ăn hoặc khi họ đang đọc sách báo vào tối muộn, điều gì đó khiến Greta nghĩ tới chiếc váy, và cô gần như đã gọi Einar bằng Lili. Nhưng cô kiềm chế bản thân mình. Chỉ đúng một lần Greta lỡ trả lời câu hỏi của anh bằng cách nói lại, "Chuyện gì vậy, Lili?" Ngay lập tức cô xin lỗi. Cả hai người họ cùng cười lớn và cô hôn lên trán anh. Cô không còn nghĩ về điều đó nữa, như thể Lili không là gì khác ngoài một nhân vật trong vở kịch mà họ từng xem ở Folketeatret. Rồi một hôm, khi Greta đang đọc về Xã Hội Tự Do và Chính Trị, chiếc đèn chiếu xuống xung quanh ghế. Einar tiến về phía Greta và ngồi dưới chân, dựa đầu vào vạt áo cô. Sức nặng và độ ấm của nó tựa vào đùi khi cô đang đọc báo. Cô vuốt ve mái tóc của anh, cứ mỗi phút hoặc lâu hơn lại đưa tay lật sang trang khác. Khi đọc xong, cô gập nó lại, lấy ra một chiếc bút chì từ trong túi áo sơ-mi dài của mình để bắt đầu giải mã trò chơi ô chữ. "Anh đang nghĩ về cô ấy," Einar nói. "Ai cơ?" "Lili nhỏ bé của chúng ta." Greta có thể nói những điều mà cô không thực sự nghĩ như vậy, cô cố cãi lại để có thể chứng tỏ được suy nghĩ của mình, luôn sôi sục trong lòng. Trong suốt hôn nhân, cô luôn đề suất những điều vô lý: Sao chúng ta không chuyển về Pasadena để thu hoạch vườn cam? Sao chúng ta không mở một buồng khám bệnh nhỏ cho gái mại dâm ở Istedgade? Sao chúng ta không chuyển tới những nước trung lập, như Nevada chẳng hạn, nơi không một ai quen biết? Khi kết hôn, nhiều thứ luôn nảy ra, nhưng may mắn nó chỉ là những lời nói thoáng qua. Ít nhất thì Greta cho là như vậy; những điều Einar nói, cô không thể đoán chắc. Greta từng thử vẽ một con dơi đang ngủ - với hai lớp da đen bọc trên cơ thể của một con chuột - nhưng lại vẽ hỏng. Cô thiếu các kĩ thuật chuyên môn để điều khiển những ngón tay thon dài và những ngón nhỏ, ngón cái có móng; về độ mờ xám của đôi cánh căng dãn. Cô chưa từng được học cách vẽ cấu trúc của một con vật. Nhiều năm trước, Einar đã vẽ một con lợn nái, chim sẻ và thậm chí cả Edvard IV trong bức tranh phong cảnh, anh hứa sẽ dạy cho cô. Nhưng bất cứ lúc nào họ bắt đầu bài học, luôn có chuyện gì đó xảy ra: chiếc dây cáp được chuyển hàng tới từ California; người thợ giặt sẽ ping! chũm chuông phát ra từ tay cô ta; chuông điện thoại reo lên, cuộc gọi từ khách hàng thân quen của Einar, thường có mái tóc bạc và tước hiệu, sống sau những cánh cửa chớp xanh hẹp với then cài và một cái móc khóa. Vài ngày sau, Greta trở về Widow House từ buổi hẹn với một người chủ phòng trưng bày, cuối cùng cũng khước bỏ những bức họa của cô. Tên bán buôn, một gã đẹp trai với đống tàn nhang như vết sô-cô-la trên cổ họng, không thực sự từ chối Greta; nhưng cái cách hắn đưa tay lên cằm và nói rằng nó không ấn tượng lắm. "Tất cả đều là chân dung à?" Hắn ta, cũng như những người khác ở Copenhagen đều biết cô là vợ của Einar Wegener. Greta có thể nhận thấy điều đó vì mọi đại lý đều mong chờ những bức phong cảnh cổ xưa từ cô. "Cô có bao giờ nghĩ rằng tranh của mình có chút hơi-" gã cố gắng tìm một từ ngữ thích hợp. "-cuồng nhiệt không?" Điều này khiến Greta tức sôi lên, cô cảm thấy sự nóng giận trong người qua chiếc váy ve áo Tuxedo. Quá cuồng nhiệt à? Làm sao có thể quá cuồng nhiệt chứ? Cô giật lấy tập tranh từ gã bán buôn rồi quay gót đi. Khuôn mặt vẫn còn nóng khi đặt chân tới bậc thang trên cùng của Widow House. Mở cửa, cô thấy một cô gái đang ngồi trên chiếc ghế gỗ đan, và lúc đầu Greta không thể nghĩ ra đó là ai. Cô ta quay mặt về phía cửa sổ, với quyển sách trong tay và Edvard IV nằm trong lòng. Cô mặc một chiếc váy xanh với cổ áo màu trắng, và sau gáy là chiếc dây chuyền vàng của Greta. Cô gái ấy - mà Greta có quen không? - tỏa ra mùi của bạc hà và sữa. Tên thủy thủ tầng dưới đang gào lên với vợ gã, và mỗi khi từ "con khốn" vọng lên qua sàn nhà, gáy cô sẽ đỏ lên. Rồi sau đó lại biết mất. "Đồ chết tiệt," hắn hét đi hét lại, và cổ họng cô gái lại ửng hồng. "Lili?" Greta cuối cùng cũng lên tiếng. "Nó là một quyển sách tuyệt vời," Lili dơ lên cuốn sách về lịch sử của California mà cha Greta đã gửi sang trong một chiếc thùng thiếc đựng tranh và đường, đồ tiếp tế từ Pure Pasadena Extract, và một túi bao tải bằng vải kèm theo lá cây bạch đàn để xông mặt. "Chị không có ý định làm phiền em," Greta nói. Lili khẽ thì thầm gì đó. Edvard IV ngáp một cách biếng nhác, tai nó chổng lên. Cửa căn hộ vẫn mở, và Greta chưa kịp cởi bỏ áo khoác. Lili quay trở lại với quyển sách của mình, Greta nhìn vào cái cổ tái nhợt của Lili trên chiếc áo cánh hoa. Greta không chắc chồng cô muốn mình làm gì tiếp theo. Cô tự nhủ việc này quan trọng với Einar, và cô nên theo chỉ đạo của anh - chứ không phải là việc làm tự nhiên đối với Greta. Cô đứng giữa lối đi vào của căn hộ, một tay phía sau vẫn cầm lấy nắm cửa còn Lili ngồi yên lặng trên ghế, cạnh ô cửa sổ trong ánh nắng mặt trời. Cô lờ Greta đi, người đang hy vọng Lili sẽ đứng dậy và nắm lấy tay cô. Nhưng chuyện đó không xảy ra, và cuối cùng Greta cũng nhận ra rằng tốt nhất nên để Lili một mình, rồi cô đóng chiếc cửa căn hộ phía sau lưng lại, chạy xuống bậc thang tối mờ và xuống phố, nơi cô gặp nữ thợ giặt người Quảng Đông. Một lúc sau, Greta quay trở về Widow House khi Einar đang vẽ. Anh mặt một chiếc quần nhung và áo vest, cổ tay xắn tới khuỷu. Khuôn mặt trông nhỏ hơn trong cổ áo và cái thắt nơ của cà-vạt. Má anh đỏ hồng và cái miệng chúm lại, ngậm lấy đuôi của chiếc cọ vẽ làm từ cây phỉ. "Nó sắp xong rồi," anh nói vẻ phấn khởi. "Cuối cùng thì anh cũng trộn được đúng màu phù hợp cho lớp tuyết dưới mặt đất. Muốn xem không?" Einar vẽ những cảnh vật quá nhỏ tới nỗi bạn có thể đo được khung vẽ trong tay. Bức tranh này đặc biệt tối, một vũng đầm lầy trong buổi tối mùa đông; đường tuyết mỏng cáu bẩn là nét để phân biệt được nền đất rỗ và chân trời phía sau. "Là cái đầm ở Bluetooth đúng không?" Greta nói. Giờ cô cảm thấy phát ngán với những bức phong cảnh của Einar. Cô không thể hiểu được sao anh có thể vẽ đi vẽ lại như vậy. Anh sẽ hoàn thiện nó tối nay và bắt tay vào bức mới vào sáng hôm sau. Trên bàn là một ổ bánh mỳ lúa mạch. Einar đã xong với buổi quảng bá, thứ không hề giống anh chút nào. Còn có cả một hộp tôm ngâm đá, đĩa thịt bò băm. Và một bát hành tây được dầm hạt, nó làm Greta nhớ tới chuỗi hạt của cô và Carlise hay xâu khi họ còn nhỏ và chân của Carlise vẫn còn quá khập khiễng để có thể chơi ngoài sân. "Lili đã ở đây à?"Cô cảm thấy cần phải nhắc tới nó, vì Greta biết Einar sẽ không nói gì cả. "Khoảng một tiếng, cũng có thể là ít hơn. Em không ngửi thấy mùi của cô ấy à? Nước hoa ấy?" Anh nhúng chiếc cọ vào một cái lọ, màu trắng nhạt của nó giống như chai sữa mà cô mua khi trở lại Đan Mạch sau chiến tranh. Greta không biết phải nói gì. Cô không biết chồng mình muốn cô làm gì tiếp theo, "Cô ấy sẽ trở lại chứ?" "Chỉ nếu như em muốn thôi," Einar trả lời, quay lưng về phía cô. Bờ vai anh không rộng hơn của một cậu bé là mấy. Nó mảnh khảnh tới nỗi đôi khi cô cảm tưởng có thể ôm vòng qua anh hai lần. Cô quan sát bả vai phải của anh run lên khi chấm chiếc cọ, và điều gì đó thôi thúc cô tiến tới bên cạnh, nắm lấy cánh tay anh rồi khẽ thì thầm mong anh đứng yên. Tất cả những gì cô muốn làm là giúp anh thực hiện khao khát của mình. Nhưng cùng lúc, điều gì đó không kìm nén được đã thôi đẩy cô ôm lấy anh và nói về việc phải làm với Lili. Và giờ họ đang ở đây, trên căn hộ gác mái của Widow House, dưới hoàng hôn trên khung cửa sổ, Greta vẫn ôm chặt lấy Einar, cánh tay anh cứng đơ phía bên mình. Cuối cùng cô nói - như thể ý nghĩ ấy chỉ vừa nảy đến - "Nó hoàn toàn phụ thuộc vào Lili. Bất cứ điều gì mà cô ấy muốn làm." Vào tháng Sáu thành phố mở một buổi tiệc lễ cho các họa sĩ tại Rådhuset. Greta giữ tấm thiệp mời trong túi cô khoảng một tuần, không biết phải làm gì với nó. Einar đã nói từ trước đó anh không muốn tham dự buổi tiệc nào nữa. Nhưng Greta có cách khác; cô nhận ra từ đôi mắt của Einar niềm ao ước mà chính anh cũng chưa kịp chuẩn bị để thừa nhận. Một buổi tối trong rạp hát, cô nhẹ nhàng hỏi, "Anh có thích để Lili đi không?" Greta hỏi điều đó vì cô nghĩ đó là thứ mà Einar muốn. Anh sẽ không bao giờ thú nhận những điều như vậy; rất hiếm khi anh thừa nhận với cô về bất cứ điều gì, trừ khi cô thúc giục, trong trường hợp đó cảm xúc thật của anh mới có thể bộc lộ ra ngoài, và cô sẽ kiên nhẫn lắng nghe, chống tay lên cằm. Họ đang ở trong rạp hát Hoàng Gia, ngay trên phòng trưng bày. Hàng ghế nhung đỏ trống không và phía trên sân khấu được khắc dòng chữ EJ BLOT TIL LYST. Sàn gỗ sồi màu đen đã được đánh bóng sáp vào trưa hôm đó, hương thơm của thuốc vẫn còn phảng phất trong không khí khiến Greta nghĩ về mùi của căn hộ sau khi đã được Einar lau chùi sạch sẽ. Einar khẽ run lên, cổ họng ửng hồng. Greta và Einar gần như cao tới chiếc đèn treo bằng điện, với những quả bóng đèn thủy tinh của nó. Ánh sáng rọi lên hai bên má Einar, ngay dưới đôi tai, chỗ mà hầu hết những người đàn ông khác để tóc mai dài xuống. Râu của anh nhạt màu, thường chỉ cần cạo mỗi lần một tuần; môi trên ít ria tới nỗi Greta có thể đếm từng cọng nếu cô muốn. Má anh ửng lên, như màu của một loại trà hồng khiến Greta có lúc cũng phải liếc nhìn ghen tị. Dàn nhạc đã được bật lên, chuẩn bị sự hạ màn của vở Tristan und Isolde. Cặp đôi bên cạnh Greta và Einar đã lặng lẽ rời đi. "Anh tưởng chúng ta đã bàn sẽ không đi dự tiệc vào năm nay nữa," Einar nói. "Chúng ta không cần phải đi, nhưng em chỉ nghĩ là-" Ánh đèn mờ sáng, và người chỉ huy tiến về ghế đầu khu hạng nhì. Nhiều giờ sau đó, Einar ngồi một cách cứng ngắc, hai chân khép lại, chương trình biểu diễn vẫn ghì chặt trên ngực. Greta biết anh đang nghĩ tới Lili, như thể đó là một người em gái xa nhà lâu năm giờ mới trở lại. Tối nay Anna vào vai Brangäne, hầu gái của Isolde. Giọng ca của cô khiến Greta liên tưởng tới những cục than trong lò bếp, mặc dù nó không trong trẻo như giọng nữ cao, nhưng nó ấm và khá chuẩn; một hầu gái thì còn có thể cất giọng nào khác nữa chứ? "Hầu hết phụ nữ trong số mà em quen không hề có vẻ xinh đẹp đặc biệt," Greta sẽ bình luận như vậy với Einar khi họ nằm trên giường, tay để dưới hông anh, khi cô vẫn đang trong giấc ngủ và mơ hồ không còn nhận thức được mình đang ở đâu, Copenhagen hay California. Ngày tiếp theo, Greta trở về sau cuộc hẹn với một tên bán buôn khác, hắn ta nhút nhát và tầm thường tới nỗi luôn hết lời ca ngợi rồi lại từ chối cô, cô tiến tới và hôn lấy Einar. Ngay chỗ đó, trên má và mái tóc của anh, vẫn còn vương lại mùi hương bạc hà và sữa của Lili. "Lili lại tới đây à?" "Phải, cả buổi trưa." "Cô ấy đã làm những gì vậy?" "Chỉ xuống tiệm Fonnesbech và mua vài thứ đồ." "Một mình ư?" Greta hỏi. Einar gật đầu. Anh đã hoàn thiện bức vẽ trong ngày và đang đọc cuốn sách về truyền bá chính trị trong tay, Edward IV cuộn trò dưới chân. "Cô ấy gửi lời nhắn sẽ đi dự tiệc cùng em." Greta không trả lời. Cô có cảm giác như đang được giải thích luật lệ của một trò chơi parlor* mới: cô lắng nghe rồi gật đầu nhưng thực tế lại đang tự nhủ, tốt hơn hết là mình phải hiểu luật chơi của nó một khi đã bắt đầu. "Em muốn cô ấy đi cùng phải không?" Einar nói. "Em ổn với việc cô ấy tới dự thay cho anh chứ?" Greta, cô xoắn đuôi tóc lại khiến nó rối lên, nói "Em không hề bận tâm đâu." Đêm đến Greta thường nằm trên giường, gối đầu lên ngực Einar. Khi họ kết hôn, bà nội Einar đã gửi tặng một cái giường xe trượt tuyết bằng gỗ sồi. Nó có hơi nhỏ, vừa vặn với người nhà Wegener ngoại trừ cha của Einar. Trong nhiều năm, Greta đã quen với việc ngủ theo một đường tréo, chân cô xếp chồng lên Einar. Đôi lúc cô ngờ vực đây có phải là cuộc sống mà cô luôn mong muốn ở Đan Mạch, cảm giác như mình vẫn là một cô bé, còn Einar với khuôn mặt búp bê và bàn chân nhỏ nhắn, là món đồ chơi yêu thích của cô. Khi ngủ, cái miệng của anh sẽ chúm lại, hơi óng ánh. Mái tóc của anh trông như một vòng hoa đắp trên đầu xung quanh khuôn mặt. Greta không thể nhớ nổi đã có bao nhiêu đêm cô choàng tỉnh dậy, ngắm nhìn hàng lông mi dài của anh khi đang ngủ. Nửa đêm căn phòng của họ trở nên yên tĩnh, trừ chiếc phà ngoài bến cảng đang trên đường đến Bornholm, bán đảo Baltic, nơi bà ngoại cô lớn lên. Greta bắt đầu nằm thâu đêm và nghĩ tới Lili, về gương mặt nông thôn, đôi môi run rẩy và cặp mắt nâu long lanh đến nỗi Greta không thể chắc rằng nó có đang chuẩn bị chảy nước mắt hay không. Về sống mũi nhỏ của Lili, như thế nó vẫn đang phát triển trong khi cơ thể cô đã hoàn toàn là một phụ nữ trưởng thành. Lili thậm chí còn e thẹn hơn cả Einar. Ít ra là vào lần đầu tiên họ gặp nhau. Môi cô luôn trùng xuống khi nói chuyện, và đôi khi trở nên quá lo lắng để có thể mở miệng. Với những câu hỏi đơn giản như "Em có nghe qua vụ bến cảng Công Ty Thương Mại Hoàng Gia Greenland bị cháy chưa?" cô sẽ nhìn chằm chằm vào Greta rồi quay đi. Lili thích viết ghi chú và tóm tắt lại những chuyện thường ngày trong căn hộ, cất nhưng tấm bưu thiếp mua từ người phụ nữ mù phía ngoài cánh cổng sắt Tivoli vào tủ quần áo hay trên giá vẽ nhỏ của Greta. Nhưng em không quen ai ở buổi tiệc cả, chịcó nghĩ là em nên tham dự không? Nếu để Einar lại một mình thì có công bằng không? Anh ấy sẽ không bận tâm chứ? Với lại: em không nghĩ là mình đủ xinh đẹp. Làm ơn hãy cho em lời khuyên. Greta đặt cuốn sổ ghi chép lại về chỗ cũ, dựng nó dựa vào bát lê rồi rời khỏi căn hộ: Đã quá muộn rồi. Chị đã nói với mọi người là em sẽ tới. Đừng lo, họ đều nghĩ Lili là em họ của EInar từ Bluetooth. Một vài người hỏi em có cần người hộ tống không, nhưng chị trả lời việc đó sẽ không cần thiết. Đúng không? Chị không nghĩ là em - nói theo cách này có đúng không nhỉ? - đã hoàn toàn sẵn sàng . Vào buổi chiều, Einar và Greta ăn tối cùng bạn trong quán cafe yêu thích dọc phố Nyhavns Kanal. Đôi khi anh bắt đầu ngà say rồi khoe khoang về những thành công trong triển lãm của mình một cách trẻ con. "Tất cả các bức tranh đều được bán!" anh nói, và Greta nhớ tới Carlise, luôn không ngừng tự hào về số điểm tốt của mình trong môn hình học, hoặc một người bạn đẹp trai mới. Nhưng cách Einar nói khiến Greta cảm thấy xấu hổ, cô vờ như không nghe khi họ bắt đầu đề cập tới chuyện tiền bạc; dù sao thì có gì để kể chứ? Họ không thể ra vẻ không quan tâm được sao? Cô liếc về phía Einar đối diện bên bàn, qua đống xương cá hồi và đĩa dầu. Cô chưa từng kể cho Einar về sự kỳ vọng của cha Greta khi cô tới Đan Mạch, về khoản thu nhập ông gửi vào tài khoản ngân hàng ở Landmandsbanken sau mỗi mùa thu hoạch cam - không phải do ích kỉ, mà vì cô lo sợ rằng số tiền đó sẽ biến cô thành một người khác. Vào một ngày đáng ân hận, cô đã mua cả tòa nhà căn hộ Widow House, nhưng cô chưa bao giờ có thể nói với Einar điều đó, trong khi mỗi tháng anh đều chuyển một khoản tiền thuê nhà cho tên thư ký Landmandsbanken một cách miễn cưỡng. Đương nhiên Greta biết đây là sai lầm, nhưng cô có thể sửa chữa nó bằng cách nào chứ? Khi Einar trở nên phấn khích hơn, anh sẽ đập nắm tay lên bàn, mái tóc rủ xuống khuôn mặt; cổ áo anh mở ra, để lộ phần ngực nhẵn mịn, nhỏ như chiếc bánh bao hấp. Greta sẽ vỗ nhẹ cổ tay, cố thuyết phục anh ngừng uống thêm - theo cách mà mẹ Greta từng làm khi cô vẫn còn là một cô gái đang uống say mèm trong buổi tiệc ở Valley Hunt Club. Nhưng có vẻ như Einar không hiểu được tín hiệu của cô, thay vào đó anh đưa chiếc ly lên miệng, mỉm cười rồi lại nâng nó lên như thể đang tán thành điều gì đó. Thể chất của Einar không giống như những người đàn ông khác; Greta biết rõ. Cô nghĩ như vậy khi chiếc khuy áo bung xuống nhiều hơn, và tất cả mọi người bên bàn đều có thể hé nhìn được phần ngực trần, thô tục như bộ ngực của một cô gái mới tuổi dậy thì. Với mái tóc xinh xắn và chiếc cằm nhẵn bóng như chiếc tách trà, vẻ đẹp của anh có thể tạo nên một cảnh tượng mơ hồ. Anh trông xinh đẹp tới nỗi những người phụ nữ ở Kongens Have* có thể phá hoại môi trường và tặng cho anh những bông tulip được ngắt từ dưới đất. Đôi môi của anh hồng hơn hết thảy tất cả màu son Greta mua ở tầng ba trung tâm Magasin du Nord. "Kể họ nghe lý do anh không tham dự buổi tiệc đi," Greta nói vào một bữa tối. Trong thời tiết ấm áp, họ đang ăn ngoài trời dưới ánh đèn của một ngọn đuốc. Ngay trước đó, hai chiếc tàu trên kênh sông va vào nhau, và giờ bến cảng sặc mùi dầu hỏa và gỗ xẻ. "Buổi tiệc ư?" Einar nghiêng đầu hỏi lại. "Greta nói em họ cậu tới từ Jutland," Helene Albeck nói, nữ kế toán của Công Ty Thương MạiRoyal Greenland. Cô ta mặc một chiếc váy màu xanh, bó xuống phần hông; một lần khi đang say, cô nắm lấy tay Einar rồi ép nó vào trong lòng mình. Einar lập tức kháng cự, điều đó làm Greta thỏa mãn khi tình cờ chứng kiến qua thanh gỗ trong phòng bếp. "Em họ của tôi?" Einar hỏi với vẻ mơ hồ. Môi trên trở nên ẩm ướt, rồi đột nhiên yên lặng, như thể anh đã quên cách nói chuyện. Những chuyện như vậy xảy ra không chỉ một lần. Khi Greta kể về Lili với một người bạn, ngay cả Anna, khuôn mặt của Einar sẽ biến dạng, như thể anh không hề biết Lili là ai. Anh và Greta cũng không bao giờ nhắc lại sau đó, về sự giả ngây không hiểu của anh: Lili? Ai cơ? À, đúng rồi, Lili. Em họ nào? Phải, Lili, em họ tôi. Rồi ngày hôm sau chuyện tương tụ sẽ lặp lại. Như thể bí mật nhỏ của họ chỉ là của riêng Greta, như thể cô đang âm mưu điều gì đó sau lưng Einar. Cô đã nghĩ sẽ phải bàn lại với anh việc này, nhưng rồi lại thôi. Có lẽ là do cô sợ sẽ khiến anh cảm thấy bị ép buộc. Hay anh sẽ tức giận vì sự xâm phạm riêng tư của cô. Hoặc có thể điều cô sợ hãi nhất là Lili sẽ biến mất mãi mãi, chiếc cổ áo tung bay bung ra khi cô biến mất, để lại Greta một mình trong căn Widow House. *Chú thích: Nữ tu sĩ - Bluestocking: những người phụ nữ có học vấn cao, đam mê văn học Polar Games : trò chơi trong nhà Kongens Have : khu vườn trong lâu đài Rosenborg của đức vua trong trung tâm Copenhagen CÔ GÁI ĐAN MẠCH David Ebershoff www.dtv-ebook.com Chương 3 Cha Einar - một dân trồng ngũ cốc đã phá sản, là thành viên bị trục xuất khỏi Hội Nông Nghiệp. Đêm đầu tiên ông rời khỏi trang trại của mẹ ở Bluetooth và tới Skagen, nơi đầu ngón tay của Đan Mạch* để đón cô dâu của mình từ cửa hàng khâu lưới đánh cá. Ông ngủ trong căn lều bên bờ vịnh với mái nhà làm từ rong biển, rồi thức dậy vào lúc bình minh để kết hôn. Đêm thứ hai và cũng là đêm cuối cùng rời khỏi Bluetooth, ông trở về Skagen với thi thể người vợ và một đứa trẻ sơ sinh, Einar, bọc trong tấm chăn kẻ sọc. Vì mặt đất quanh Skagen dày đặc sương muối và khó có thể đào mộ, nên họ quấn mẹ anh vào một chiếc lưới đã được nhặt sạch đám cá vướng, rồi thả bà xuống mặt biển băng giá như một cái neo. Tuần trước đó, một cơn sóng đã cuốn trôi căn nhà lều với mái rong biển tới Kattegat*, và giờ thì cha Einar ngủ trong cửa hàng lưới giữa đống kim móc, dây thừng và cả mùi hoa anh thảo thơm dịu vẫn còn vương lại từ mẹ Einar. Cha của anh cao và yếu, một nạn nhân của bệnh loãng xương. Ông đi lại với một cây gậy gỗ và phải bám vào các đồ vật trong nhà. Khi Einar còn nhỏ, cha anh đã nằm liệt giường với một chứng bệnh mà bác sĩ cho là hiếm. Mỗi ngày, Einar đều lẻn vào phòng của cha khi ông đang ngủ. Einar luôn thấy nước dãi chảy ra từ miệng ông, sủi bọt theo nhịp thở. Anh nhón chân về phía trước, đưa tay với lấy mớ tóc quăn vàng của ông. Einar đã luôn muốn có một mái tóc như vậy, dày tới nỗi chiếc lược bạc có thể bị mắc vào như dải kim tuyến được trang trí trên cây thông Giáng Sinh. Nhưng điều thân thương hơn mái tóc chính là sự ốm yếu của ông, căn bệnh bí ẩn đã thổi bay mọi năng lượng và khiến đôi mắt ông trở nên mềm, trắng đục; ngón tay thì vàng khè. Einar lại thấy cha mình thật đẹp đẽ - một gã đàn ông vô dụng, luôn thở khò khè với vẻ ngoài yếu đuối, cơ thể không còn hoạt động theo ý mình được nữa. Thỉnh thoảng Einar trèo lên chiếc giường gỗ sồi nhỏ, rồi trườn xuống bên dưới tấm chăn lông vịt. Bà nội anh vá những lỗ thủng trên chiếc chăn bằng vỏ kẹo bạc hà được vo viên lại, giờ thì chiếc giường tỏa ra mùi hương thơm mát và xanh tươi. Einar dựa đầu sâu vào trong gối, Edvard IV cuộn người thu mình lại giữa anh và cha, cái đuôi trắng vẫy đập lên đống chăn màn. Nó ngáp rồi thở dài khoan khoái, sau đó lại hắt hơi. Cả Einar cũng thế. Anh cố tình làm vậy vì biết cha mình rất quý Edvard, và Einar cũng muốn được cha yêu thương hệt như thế. Einar nằm dài trên đó và cảm nhận nhiệt độ yếu ớt phả ra từ cha anht. Xương sườn ông nhô lên qua chiếc áo ngủ dài. Những đường tĩnh mạch xanh xao vẫn đập trên cổ họng một cách mệt mỏi. Einar nắm lấy tay ông cho tới khi bà nội anh, với ngoại hình nhỏ và thô, xuất hiện trước cửa rồi đuổi Einar đi, "Con chỉ làm nó tệ hơn thôi." Bà luôn bận rộn với cánh đồng, còn những người hàng xóm thì tỏ vẻ thông cảm trông nom Einar. Giờ ngoài sự ngưỡng mộ, Einar cũng oán giận cha anh, đôi khi còn thầm rủa ông khi đang đào hố bên đầm lầy, cái thuổng đâm sâu xuống đống than bùn. Trên chiếc bàn cạnh giường bệnh là khung ảnh trắng đen hình trái xoan của mẹ Einar, mái tóc bà xoăn như một đám mây trên đầu với đôi mắt xám. Bất cứ khi nào Einar cầm nó lên, cha anh sẽ lấy nó đi và nói, "Con đang làm phiền mẹ đấy." Đối diện chiếc giường là tủ gỗ đựng quần áo, bà đã bỏ lại nó vào ngày sinh Einar. Một cái ngăn kéo để váy dạ được khâu với đá cuội trên viền, giúp chúng không bị gió thổi tốc; ngăn kéo đựng đồ lót bằng len, xám như bầu trời; trên móc treo là những trang phục bằng vải gabaddin với tay áo phồng; và bộ váy cưới của bà, giờ đã ngả màu vàng, được bọc trong chiếc giấy lụa có thể rách thành từng dải chỉ với một cái chạm. Còn cả chiếc cặp dây rút bằng chuỗi hạt hổ phách luôn kêu lách cách, dây chuyền đá chạm và chiếc nhẫn kim cương đôi. Thỉnh thoảng khi sức khỏe đột ngột khoẻ lại, cha anh sẽ rời khỏi trang trại. Một ngày ông trở về sau khi tán gẫu khoảng một tiếng đồng hồ bên bàn ăn nhà hàng xóm, ông bắt gặp Einar, mới bảy tuổi, bên ngăn kéo phòng ngủ, chuỗi hổ phách quấn quanh cổ và chiếc khăn quàng vàng đắp trên đầu như mái tóc dài xinh đẹp. Sắc mặt cha anh đỏ bừng, đôi mắt dường như hõm vào hộp sọ. Einar có thể nghe thấy tiếng thở giận dữ từ cổ họng ông. "Con không được phép làm thế!" cha anh nói. "Một thằng nhóc thì không được làm vậy!" Và Einar trả lời, "Nhưng tại sao chứ?" Cha anh mất khi Einar 14 tuổi. Những thợ đào mộ tính phí thêm 10 krone* để xúc hố đủ dài cho chiếc quan tài của ông. Trong nghĩa địa, bà nội anh, người đã mai táng cho tất cả những đứa con của mình, đưa cho Einar một cuốn sổ tay với bìa ngoài bằng thiếc. "Con có thể viết những suy nghĩ của mình vào đây," bà hướng dẫn, khuôn mặt phẳng và tròn như một cái đĩa; nó hiện lên sự nhẹ nhõm rằng đứa con khó ở, vô dụng cuối cùng cũng ra đi. Quyển sổ tay chỉ nhỏ bằng một cái thẻ bài với chiếc bút chì làm bằng đá ngọc lưu ly được móc trên mặt da. Bà trộm nó từ tên lính Phổ khi Liên Minh Quốc Gia Đức chiếm đóng Jutland trong chiến tranh năm 1864. "Chỉ lấy cuốn sổ rồi bắn chết hắn ta" bà từng nói khi đang khuấy phô mai. Bluetooth được đặt tên bởi một trong những vị vua đầu tiên của Đan Mạch. Không ai biết nó được phát hiện lúc nào, hay người ở đây đến từ đâu, mặc dù những câu chuyện thần thoại kể rằng người dân Greenland đã từ bỏ mảnh đất khô cằn của họ rồi căng buồm để tới đây. Nó không khác gì một ngôi làng bị bao vây bởi bùn lầy là mấy. Mọi thứ ở Bluetooth đều ẩm ướt: bàn chân, những con chó, và đôi lúc vào mùa xuân, cả những tấm thảm và tường nhà. Có một lối đi lót ván ngang qua mặt đất xốp dẫn tới đường chính và phía xa cánh đồng lúa. Năm nào lối đi đó cũng trùng xuống sâu ngang với độ dài cánh tay của một bé gái, và vào tháng Năm, khi sương muối tan thành từng mảnh không lớn hơn chiếc vảy cá là mấy, cánh đàn ông ở Bluetooth sẽ nện búa những tấm ván cong vào nền đất rắn vàng. Như mọi đứa trẻ khác, Einar cũng có một cậu bạn tên Hans, sống ngoài ngoại ô của ngôi làng, trong một căn biệt thự làm bằng gạch, là gia đình đầu tiên trong thị trấn sở hữu máy điện thoại bàn. Một ngày, trước khi hai người trở thành bạn thân, Hans thu 1 øre* từ Einar để nhấc ống nghe của nó. Anh không thấy gì ngoại trừ sự im lặng trống rỗng. "Nếu có ai để gọi điện thì cứ nói," Hans khoác tay qua vai Einar rồi lắc nhẹ. Cha của Hans là một nam tước. Mẹ anh, với mái tóc bạc xoăn tít chỉ nói chuyện với anh bằng tiếng Pháp. Hans có những đốm tàn nhang trên nửa dưới khuôn mặt và, cũng như Einar, thấp hơn hầu hết những cậu bé khác. Nhưng khác với Einar, Hans có giọng nói nhanh và khàn. Anh có thể chìm vào giấc ngủ ngay lập tức, mệt mỏi và vui sướng, rồi đột nhiên im lặng như một vũng đầm lầy. Einar biết vì mỗi khi anh ngủ trong căn biệt thự, anh sẽ nằm thao thức tới sáng, quá phấn khích để có thể nhắm mắt lại. Hans lớn hơn Einar 2 tuổi, nhưng điều đó không quan trọng. Ở tuổi 14, Hans tuy nhỏ con nhưng vẫn cao hơn Einar. Với khuôn mặt điển trai, to hơn tỷ lệ cơ thể, Hans có vẻ trưởng thành hơn so với những cậu bé cùng lứa, và khi đó Einar chỉ mới 12. Hans hiểu được những người lớn từng trải khác: anh biết họ không đánh giá cao những lời nói miệng. "Không, không - đừng nói gì nữa," anh đề nghị cha của Einar, người gần như lúc nào cũng than thở về tình trạng liệt giường của mình, ném chiếc chăn lông vịt về phía ấm trà mỗi khi bà Bohr và Lange dừng chân để tám chuyện. Hay khi Hans khuyên Einar - dơ bàn tay khum lại thành mái chèo - đừng nói gì với cha về việc muốn trở thành họa sĩ. "Em sẽ nhanh chóng thay đổi ý định thôi. Sao phải lo về ông ta chứ?" Hans nói, ngón tay anh chạm vào cánh tay Einar khiến những sợi lông dựng đứng, nổi lên. Và vì Hans biết quá nhiều thứ, Einar nghĩ chắc cậu ta nói đúng. "Không nên chia sẻ mơ ước của mình với người khác," Hans nói khi đang dạy Einar cách trèo lên cây sồi bên bờ vũng đầm. Rễ của nó mọc rối rắm xung quanh tảng đá mica trắng lốm đốm, tới nỗi bạn không thể nhìn thẳng vào nó vào những ngày nắng chói chang. "Anh muốn tới Paris, nhưng anh sẽ không nói cho ai cả mà giữ cho riêng mình. Rồi một ngày nào đó anh sẽ biến mất, đó cũng chính là lúc bọn họ biết anh không còn ở đây nữa," Hans nói, đu lộn ngược từ một cành cây, áo anh hở ra để lộ phần lông giữa hai bên ngực. Khi gần rơi ngã, anh sẽ nhẹ nhàng trượt xuống đống bùn đang sủi bọt. Nhưng Hans chưa bao giờ chìm xuống vũng bùn lầy ấy. Khi Einar lên 13, anh và Hans trở thành bạn thân. Điều này làm Einar ngạc nhiên, anh không chờ đợi gì nhiều ngoài sự khinh rẻ từ những cậu bé như Hans. Giờ thì thay vào đó Hans luôn rủ Einar chơi bóng tennis trên sân cỏ Lolium được đánh dấu vạch bằng bột đường gần khu biệt thự. Khi anh phát hiện Einar không thể tung vợt một cách chính xác, Hans chỉ cho Einar về luật chơi và trọng tài, nói rằng đó là điều quan trọng nhất. Một buổi chiều Hans và một trong số anh em - tất thảy có 4 người - quyết định chơi tennis trần chuồng để quấy phiền mẹ của họ. Einar mặc một chiếc áo len, ngồi trên tảng đá bên dưới cây dù đứng mà Hans đã kê để tránh ánh nắng mặt trời. Einar cố theo dõi trận đấu một cách khách quan, mặc dù anh chỉ muốn giúp Hans thắng cuộc. Vậy là Einar ngồi trên tảng đá, gọi to: "40 điểm cho Hans . . . một cú giao bóng ăn điểm trực tiếp cho Hans" - mỗi khi Hans và em trai anh lướt qua sân cỏ để đánh bóng, dương vật hồng hào của họ lắc lư xung quanh như đuôi của loài chó Schnauzer, khiến Einar nóng bừng bên dưới chiếc ô cho tới khi Hans ghi điểm. Sau đó cả ba lau khô người, cánh tay trần ấm nóng của Hans chạm vào lưng Einar. Hans có một chiếc diều làm từ giấy gỗ balsa, được mang về từ Berlin bởi các nam tước phu nhân. Nó có hình dáng của một chiếc tàu ngầm, và Hans luôn thích thú thả nó trên bầu trời. Anh nằm dài bên bờ cỏ linh lăng và dõi theo chiếc diều trôi cao trên vũng đầm, ống dây kẹp giữa hai đầu gối. "Đức Vua cũng có một con diều giống hệt cái này đấy," Hans nói, ngậm lá cỏ giữa hai bờ môi. Hans cố dạy Einar cách dăng nó lên cao, nhưng anh vẫn không thể tìm được luồng gió đúng hướng trong không khí. Chiếc diều giấy cứ mãi cuốn dọc theo chiều gió nhẹ rồi lại rơi xuống mặt đất; và mỗi lần Einar đều nhìn cách Hans nhăn mặt khi nó rơi trở lại đất liền. Họ chạy về phía con diều đang chổng ngược dưới mặt đất. Einar liên tục nói, "Em không điều khiển nó được, Hans. Xin lỗi, Hans." Và Hans lại nhặt nó lên rồi rũ đám hoa bồ công anh bị vướng vào, "Mới chơi như vậy là tốt rồi." Nhưng Einar vẫn chưa bao giờ có thể học cách thả diều; và một ngày, khi họ đang ngả lưng trên bờ cỏ linh lăng, Hans nói, "Đây, em điều khiển nó đi." Anh đặt ống dây thả giữa hai đầu gối của Einar rồi trở lại cánh đồng. Einar có thể cảm thấy cái hố quân sự* bên dưới anh. Mỗi khi chiếc diều lên cao, ống dây sẽ quay theo hình bánh xe, và lưng của Einar lại gồng lên. "Đúng rồi," Hans nói. "Điều khiển nó bằng đầu gối ấy." Einar tập trung xoay ống dây và con diều bắt đầu bay trôi nổi cùng đàn chim hồng tước. Họ cười to, hai cái mũi đỏ gay dưới ánh nắng mặt trời. Hans cù vào bụng Einar bằng một cái sậy. Khuôn mặt anh gần với Hans tới nỗi có thể cảm nhận được hơi thở qua làn cỏ từ phía bên cạnh. Einar muốn nằm sát về phía Hans để hai đầu gối của họ chạm vào nhau, vào khoảnh khắc ấy, Hans có vẻ như sẽ cởi mở với tất cả mọi thứ. Einar nhích người sang cậu bạn thân, đám mây duy nhất trên bầu trời tan ra thành từng mảng, và ánh mặt trời chiếu xuống gương mặt họ. Ngay lúc đó, khi Einar di chuyển đầy gối về phía Hans, một cơn gió hung dữ giật mạnh con diều, chiếc ống dây bay lên khỏi đầu gối Einar. Họ nhìn theo chiếc diều hình tàu ngầm thả trôi bên trên hàng cây đu, bay cao, rồi sau đó rơi ngay xuống giữa đầm lầy đen đục, nuốt chửng như thể nó nặng ngang với một hòn đá. "Hans", Einar nói. "Không sao đâu," Hans thì thầm với vẻ mơ hồ, "Đừng nói với mẹ anh là được." Vào mùa hè trước khi cha Einar mất, Hans và anh đang chơi đùa trên ruộng rêu nước của bà nội, vết bùn bắn lên giày của họ. Trời nóng, và họ đã ở trong cánh đồng cả buổi sáng, rồi đột nhiên Hans nắm lấy cổ tay Einar, nói, "Einar, em yêu, bữa tối có gì vậy?" Đó đã là giữa trưa, và Hans biết không có ai ở nhà ngoài cha Einar, đang ngủ say trên chiếc giường bệnh. Lúc đó Hans trông lớn hơn. Anh đã 15 và cơ thể bắt đầu phát triển vừa với tỷ lệ của khuôn mặt. Cổ họng xuất hiện yết hầu, và giờ anh cũng cao hơn Einar rất nhiều, trong khi Einar đã 13 nhưng chưa lớn hơn được tí nào. Hans đẩy Einar về phía trang trại. Trong bếp, Hans ngồi ghế đầu rồi lót một cái khăn ăn vào cổ áo. Einar chưa từng phải nấu ăn, anh đứng ngây ra bên lò bếp. Hans nói khẽ "Đốt lửa lên. Đun ít nước. Đổ khoai tây và thịt cừu vào." Và rồi, một cách mơ hồ, giọng nói của anh đột nhiên dịu lại, "Einar, cứ giả vờ đi." Hans tìm thấy cái tạp dề của bà nội Einar với dây cotton treo cạnh ống khói lò, anh đưa nó cho Einar rồi cẩn thận buộc quanh hông. Hans chạm vào gáy Einar như để vén tóc sang một bên. "Em chưa bao giờ chơi trò này à?" Hans thì thầm, giọng anh nóng bỏng và trơn tru bên tai Einar, những móng tay cụt lủn chạm lên cổ anh. Hans thắt chặt dây tạp dề cho tới khi Einar phải hóp ngực lại, thở ra, phổi của anh thả lỏng ngay khi cha Einar bước vào phòng bếp, mắt ông mở to và miệng há hốc thành hình chữ O. Chiếc tạp dề rơi xuống chân Einar. "Để thằng bé yên!" Cây gậy của cha dơ cao về phía Hans. Cánh cửa đóng sầm lại, căn bếp trở nên tối tăm và nhỏ bé. Einar có thể nghe tiếng giầy của Hans chạy qua vũng bùn, tiến thẳng tới đầm lầy. Anh có thể cảm thấy tiếng thở dốc của cha và nắm đấm thụi trên má mình. Rồi sau đó, phía bên kia vũng đầm và hồ nòng nọc, qua ruộng rêu nước, buổi trưa vẫn trải dài, đâu đó vọng lên tiếng hát của Hans: Ngày xưa có một lão già, sống trong vũng đầm lầy cùng đứa con trai xinh đẹp của ông ta, và cả con chó lười nhác. Chú thích: Đầu ngón tay của Đan Mạch: Skagen nằm ở phía trên đầu của Đan Mạch, được gọi là đầu ngón tay Kattegat : vùng biển gần Skagen, bán đảo Jutland Krone : đơn vị tiền øre : 1 krone bằng 100 øre Foxhole : hố để nằm ẩn nấp trên mặt trận chiến tranh CÔ GÁI ĐAN MẠCH David Ebershoff www.dtv-ebook.com Chương 4 Greta tổ chức tiệc sinh nhật trên thuyền Pricess Dagmar. Cô vẫn chưa quay trở về California kể từ mùa hè với tai nạn xe chở thịt. Cô nhớ về ngôi nhà lát gạch trắng trên ngọn đồi, phong cảnh ở Arroyo Seco nơi chim đại bàng làm tổ, màu đỏ tía của dãy núi San Gabriel dưới hoàng hôn khiến cô cảm thấy nuối tiếc. Greta biết mẹ mình muốn cô kết thân với con gái của những người bạn của bà - Henrietta, tiểu thư gia đình điều hành khu khai thác dầu mỏ ở El Segundo; Margaret, gia đình sở hữu tòa soạn báo; Dottie Anne, với trại chăn nuôi lớn nhất California, ở mảnh đất phía nam Los Angeles, không nhỏ hơn toàn bộ Đan Mạch là mấy. Cha mẹ Greta mong đợi cô lớn lên như bọn họ, người mà cô không bao giờ có thể trở thành, một tiểu thư trẻ tuổi ở California: thông minh, có học vấn, được huấn luyện cưỡi ngựa, và ít nói. Valley Hunt Club tổ chức một bữa tiệc Giáng Sinh, nơi những cô gái bước xuống từ cầu thang trong bộ váy trắng vải ocganđi, lá cây bạch tạng gài trên mái tóc. "Thật tuyệt khi chúng ta quay về Pasadena cùng lúc lễ ra mắt* của con," mẹ Greta mừng rỡ cả ngày trên đường trở về từ chuyến du lịch đường biển. "Chúa phù hộ người Đức!" Phòng của Greta trên ngọn đồi có một cửa sổ mái vòm hướng về phía sau bãi hoa hồng, mép cánh của nó quăn nâu vì sức nóng mùa thu. Ngoại trừ ánh sáng tốt, căn phòng quá nhỏ để có thể bày bạc đồ vẽ. Chỉ sau hai ngày, cô bắt đầu cảm thấy tù túng, như thể ngôi nhà, với ba tầng ngủ và tiếng dép xăng đan của người hầu gái Nhật Bản mỗi khi lên xuống cầu thang, đang bóp nghẹn trí tưởng tượng của cô. "Mẹ, con phải trở về Đan Mạch ngay lập tức - ngay ngày mai! Ở đây như thể bị giam giữ vậy." cô kêu ca, "Có thể nó ổn với mẹ và Carlisle. Nhưng con có cảm giác như không thể làm được việc gì. Như thể con sẽ quên hết cách vẽ tranh mất." "Nhưng Greta, điều đó là không thể," mẹ cô trả lời, bận rộn xây lại chuồng ngựa thành gara. "Sao California có thể giam giữ ai được? Chứ đừng nói là Đan Mạch nhỏ bé." Greta cho rằng nó chẳng có nghĩa lý gì cả, nhưng đó là điều cô nghĩ. Cha cô gửi một tập điều tra thống kê về Đan Mạch được công bố bởi ban Kiểm Tra Khoa Học Xã Hội Hoàng Gia. Greta dành một tuần để nghiên cứu các bảng xếp hạng với sự than phiền và mong mỏi: năm ngoái gồm 1,467,000 con lợn ở Đan Mạch, và 726,000 con cừu. Tổng số gà mái: 12,000,000. Cô đọc những con số rồi sau đó lại quay đầu về phía khung cửa sổ mái vòm. Cô ghi nhớ chúng, sẽ phải cần học đến nó trong thời gian ngắn, nhưng cho việc gì thì cô không đoán chắc được. Một lần nữa cô cố gắng thuyết phục mẹ mình: "Con có thể quay lại được không? Con cóc quan tâm đến đám người Đức!" Greta đi bộ xuống phố Arroyo Seco trong sự cô đơn, dọc theo dòng sông khô cạn nơi những con chim giết nai đang săn đuổi sóng nước. Ở Arroyo vào mùa thu, mọi thứ như bị đốt cháy. Cỏ xô thơm và cây mù tạc, sa mạc oải hương và mùi hôi thối từ hoa loa kèn đã ngả màu nâu và héo úa; cây cà phê, bụi cơm cháy, cây chanh muối, tất cả cành lá đều xơ xác. Không khí ở California khô nóng tới mức làn da của Greta trở nên nứt nẻ. Khi đi dọc con sông đầy đất cát, cô có cảm tưởng như mũi mình đang dần nứt ra rồi chảy máu. Một con chuột túi chạy hấp tấp phía trước cô, nhận ra con diều hâu đang liệng bên trên. Những tán lá sồi rung ring trong gió. Cô nhớ lại con phố hẹp ở Copenhagen, nơi những tòa nhà nghiêng ngả bên lề đường như một ông già sợ hãi tham gia giao thông. Cô nghĩ về Einar Wegener, mơ hồ như một cơn mơ. Ở Copenhagen, tất cả mọi người đều biết tới Greta, nhưng không một ai mong đợi bất cứ điều gì từ cô; cô là người ngoại lai hơn tất cả những nữ thợ giặt tóc đen đã từng du ngoạn qua nửa trái đất từ Quảng Đông, và giờ làm việc trong cửa hàng ở Istedgade. Tại Copenhagen, cô luôn được tôn trọng cho dù có cư xử thế nào, như cách người Đan Mạch cố gắng chịu đựng vị phu nhân lập dị của bá tước, người luôn thêu thùa trong trang viên phủ đầy rêu của họ. Ở California, một lần nữa cô lại là tiểu thư Greta Waud, chị em sinh đôi của Carlisle, người thừa kế vườn cam. Những cặp mắt luôn hướng về phía cô. Chỉ có khoảng ít hơn mười gã đàn ông ở Los Angeles đủ phù hợp để kết hôn với Greta. Mọi người đều nghĩ cô sẽ chuyển tới một trong khu nhà kiến trúc kiểu Ý phía bên kia Arroyo Seco. Nơi cô sống cùng những đứa con trong căn phòng bày đầy đồ chơi dành riêng cho trẻ. "Không còn lý do gì để chờ đợi nữa," mẹ cô nói ngay tuần đầu trở về. "Đừng quên là con đã 18 rồi đấy." Và đương nhiên câu chuyện về chiếc xe hàng thịt vẫn chưa hề bị lãng quên. Một chàng trai chở hàng khác đã được thay thế, nhưng mỗi khi cỗ xe tải rồ lên, một khoảnh khắc xấu hổ sẽ lại bao trùm lấy ngôi nhà sơn trắng. Carlisle què quặt với cái chân đau nhức khi còn ở trên ngọn đồi Đan Mạch, đang chuẩn bị vào trường đại học Stanfort; đó là lần đầu tiên cô cảm thấy ghen tị với em trai mình - về việc anh được phép đi tập tễnh qua sân học viện để tới lớp, dưới ánh mặt trời ở Palo Alto trong khi cô phải ngồi trong nhà kính với cuốn sổ vẽ. Greta bắt đầu mặc một chiếc áo bờ lu dành cho họa sĩ, và phía trước túi áo để mảnh giấy của Einar. Cô ngồi trong phòng kính viết thư cho anh, mặc dù không có thứ gì cô có thể kể. Cô không muốn nói rằng mình chưa thể vẽ gì từ ngày rời khỏi Đan Mạch. Cô không muốn viết về thời tiết ở đây; điều mà mẹ cô vẫn thường làm. Thay vào đó cô gửi những bức thư về những việc muốn làm khi trở về Copenhagen: đăng ký lại vào Học Viện Hoàng Gia; chuẩn bị một phòng triển lãm nhỏ cho những bức họa của cô ở Den Frie Udstilling; thuyết phục Einar tới dự buổi tiệc sinh nhật lần thứ 19. Vào tháng đầu tiên ở California, cô luôn đi bộ tới bưu điện trên phố Colorado để gửi thư. "Có thể sẽ hơi lâu đấy," tên nhân viên nói qua chấn song cửa sổ. Và Greta trả lời, "Đừng nói với tôi là đám người Đức còn phá hỏng cả đường bưu điện nữa đấy!" "Tôi không thể sống như thế này được," cô từng nói với một trong những hầu gái Nhật Bản, Akiko, cô gái luôn chảy nước mũi. Người hầu gái cúi đầu rồi đưa cho Greta một bát hoa trà bằng bạc. Điều gì đó sẽ phải thay đổi, cô tự nhủ với bản thân khi đang bừng bừng tức giận, mặc dù cô không đặc biệt bực bội với ai cả, ngoại trừ đức vua. Greta từng là cô gái tự do nhất ở Copenhagen, không dám nói là cả thế giới, giờ thì đám người Đức xấu xa đã hủy hoại cuộc đời cô. Một kẻ bị đày ải - đó là thứ mà cô đang dần trở thành. Bị trục xuất đến California, nơi mà đám bụi hoa hồng mọc cao lên tận 10 phân và những đàn chó sói đồng cỏ hú lên mỗi tối trên hẻm núi. Khó mà có thể tin được mình đang trở thành một trong những cô gái thức dậy mỗi sáng và không còn mong chờ gì hơn ngoài những bức thư được gửi đến, không lá nào trong số chúng là từ Einar. Cô đánh điện cho cha, cầu xin sự cho phép được trở về Đan Mạch. "Các tuyến đường biển không còn an toàn nữa," ông trả lời. Cô thỉnh cầu mẹ được tới Stanford cùng Carlise, nhưng bà nói chỉ những trường học ở Seven Sister sau phía Đông mới thích hợp cho Greta. "Con cảm thấy như đang bị nghiền nát vậy," cô nói với mẹ. "Đừng bi thảm thế", bà Waud trả lời, bận rộn quản lý công việc reo trồng những hạt cỏ mùa đông và luống cây thuốc phiện. Một ngày Akiko gõ nhẹ cửa phòng Greta, cúi đầu xuống, mang cho Greta một tập tờ rơi. "Xin lỗi," Akiko nói. Rồi cô vội vã ra ngoài, đôi dép geta* vang lên lạch cạch. Chiếc tờ rơi thông báo về cuộc họp tiếp theo của hội Nghệ Thuật & Thủ Công Mỹ Thuật Pasadena. Greta nghĩ tới những tay nghiệp dư với phong cách phối màu Paris rồi ném tờ quảng cáo đi. Cô quay trở về với việc phác họa nhưng lại không thể nghĩ ra gì để vẽ. Một tuần sau, Akiko lại gõ cửa phòng, đưa cho Greta tập tờ rơi thứ hai. "Xin lỗi," Akiko nói, tay ôm miệng, "Nhưng tôi nghĩ cô sẽ thích nó." Chỉ sau tờ quảng cáo thứ ba, Greta mới quyết định tham gia buổi gặp gỡ. Đoàn hội sở hữu một căn nhà gỗ dưới chân đồi phía trên Pasadena. Tuần trước, một con sư tử núi với bộ lông vàng như hoa hướng dương đã chạy xuống bụi cây thông cuối đường và vồ lấy đứa trẻ ở nhà lân cận. Những thành viên của hội không hề bàn tán gì khác ngoài chuyện đó. Chương trình nghị sự đã hoàn toàn bị bác bỏ, rồi sau đó cùng thảo luận sẽ vẽ một bức tranh treo tường về cảnh ấy. "Nó sẽ được gọi là Sư Tử Xuống Núi," ai đó lên tiếng. "Tại sao chúng ta không khảm nó?" một thành viên khác đề nghị. Đoàn hội hầu như chỉ bao gồm phụ nữ, số ít là đàn ông, hầu như ai cũng đội nón beret. Khi cuộc họp tiến gần hơn với sự nhất trí trình lên những bức họa của tập thể cho thư viện thành phố vào đầu năm mới, Greta lẩn xuống phía sau căn phòng. Cô đã đúng. "Cô cũng không đồng tình sao?" một người đàn ông hỏi. Đó là Teddy Cross, với vầng trán trắng và cái cổ dài hơi nghiêng về bên trái. Teddy Cross, người đề nghị rời khỏi buổi họp để tới xưởng gốm của anh trên phố Colarado, nơi chiếc lò nung gỗ cây óc chó cả ngày lẫn đêm; người đàn ông với mắt cá chân phải nổi cơ bắp vì luôn đạp pê đan bàn xoay. Teddy Cross, người chồng đầu tiên của Greta kể từ sau buổi tiệc Giáng Sinh ở Hunt Club Valley; người mà trước khi chiến tranh kết thúc, sẽ chết dưới ánh nhìn chăm chú của cô. Anh là người đàn ông thứ hai mà cô yêu thương. Cô yêu Teddy vì cái dáng bình cổ mỏng manh mà anh nặn bằng bột sét trắng và cả cặp kính mờ. Cô yêu sự yên tĩnh, khuôn mặt lởm chởm và cách anh mở miệng mỗi khi tráng men đống đồ gốm của mình. Anh tới từ Bakersfield, con trai của một nông dân trồng dâu tây; tật nheo mắt từ nhỏ đã khiến vùng da quanh mắt anh nhăn lại. Anh luôn hỏi cô về Copenhagen, về các kênh sông và vị vua của nó, nhưng không bao giờ bình luận những gì cô kể, hai hàng mi mắt là thứ duy nhất chuyển động trên khuôn mặt anh. Cô nói rằng có một họa sĩ tranh phong cảnh mà cô từng yêu, nhưng Teddy vẫn chỉ nhìn chăm chăm. Anh chưa bao giờ tới phía đông Mojave, và lần duy nhất anh từng đặt chân đến các căn biệt thự dọc vườn cam Boulevard là khi được thuê làm lò sưởi bằng gạch và sàn ngủ, hiên nhà. Greta yêu những buổi hẹn hò với anh, đưa anh đi vòng quanh những gian đình bên sân tennis, nơi những người dự tiệc chiêu đãi của Pasadena đang khiêu vũ được tổ chức vào mùa thu năm đó; khoe khoang anh với những cô gái khác ở Valley Hunt Club, như thể chứng minh cô không phải là một trong số họ, không còn nữa - dù sao thì cô cũng sống ở Châu Âu. Cô sẽ lại trèo lên chiếc xe chở thịt nếu muốn, hoặc sẽ đi dự tiệc cùng một thợ làm gốm. Như dự đoán, mẹ của Greta khước từ Teddy. Nhưng điều đó không ngăn cản Greta đưa anh đi khắp Pasadena, đến thăm Henrietta nhàm chán, cả Margaret và Dottie Anne trong khu vườn đầy bóng râm của họ. Những cô gái không thèm để tâm tới Teddy, điều mà Greta nghĩ là họ đang cố tình phớt lờ anh. Thuật làm đồ gốm của anh được nhiều người ưa chuộng, Greta nhận thấy, có một sự quyến rũ tỏa ra mỗi khi anh tới dự tiệc với một chút đất sét xám dính trên kẽ móng tay. Mẹ Greta luôn vỗ nhẹ tay Teddy mỗi khi họ gặp nhau ở nơi công cộng, một cử chỉ khiến Greta tức điên. Bà biết rằng nếu cô công khai chia tay Teddy, thì cuộc tranh luận trên Thời Báo Mỹ sẽ kết thúc. "Họ đang nhìn về phía anh," Greta nói vào một trong những buổi tiệc. "Chỉ một trong số họ thôi," anh trả lời với vẻ hạnh phúc khi được ngồi cùng cô trên chiếc sofa ngoài bể bơi, trong khi luồng gió Santa Anas thổi những chiếc lá cọ dưới mặt đất và tiếng ồn từ bữa tiệc vọng ra từ cửa sổ biệt thự. Nếu anh ấy cũng hiểu! Greta nghĩ, và chuẩn bị để đấu tranh - với ai hay bất cứ cái gì, cô không biết chắc, nhưng cô đã hoàn toàn sẵn sàng. Một ngày bức thư được gửi tới, bó trong hai cái bọc, Akiko mang chiếc phong bì màu xanh đến trước cửa phòng Greta. Cô nhìn vào nó một lúc lâu, cầm lá thư mỏng trên lòng bàn tay. Cô không thể tin được Einar đã hồi âm, và cô bắt đầu lo nghĩ tới những thứ anh viết cho cô: Có vẻ như chiến tranh đã gần kết thúc và chúng ta sẽ gặp lại nhau vào dịp Giáng Sinh. Hay: Anh đang trên đường đến California. Hoặc cũng có thể: Những bức thư của em quan trọng với anh tới nỗi khó có thể diễn tả được. Chắc chắn là như vậy, Greta tự nhủ, bức thư vẫn nằm trong lòng. Có lẽ anh ấy đã đổi ý. Mọi thứ đều có thể xảy ra. Và rồi Greta xé dấu niêm phong. Đầu lá thư được gửi tới "Cô Waud thân mến," và chỉ nói: "Ngoài các sự kiện đặc biệt ra, còn nếu không tôi mong rằng chúng ta sẽ không bao giờ gặp nhau nữa. Đó có lẽ là điều tốt nhất." Greta gấp mảnh giấy lại rồi cất nó vào trong túi áo. Tại sao Einar lại nghĩ như vậy? Cô tự hỏi, lau nước mắt bằng viền áo. Sao anh lại không hy vọng gì cơ chứ? Một cách hối hận, cô không còn biết mình nên làm gì nữa. Sau đó Akiko trở lại phòng Greta, nói, "Ngài Cross đang gọi điện." Và sau đấy bên chiếc điện thoại bàn ở hành lang tầng trên, ra khỏi tầm nghe của mẹ cô, Greta mời Teddy tham dự tiệc ra mắt. Anh đồng ý với một điều kiện - rằng Greta không cần lo về quan hệ giữa anh và mẹ. "Anh sẽ mời bà ấy khiêu vũ rồi sau đó em sẽ thấy," anh nói. Nhưng Greta chỉ đảo mắt, nghĩ rằng Teddy thực sự không biết mình đang đối mặt với ai. Khi cô cụp máy, bà Waud chỉ nói, "Ừ thì, giờ thì mọi việc đã xong xuôi rồi, hãy đảm bảo cậu ta có một bộ vest bảnh bao." Có khoảng bảy cô gái cùng ra mắt trong bữa tiệc. Người hộ tống của họ đều là những chàng trai trẻ trở về nhà sau kì nghỉ ở Havard và Princeton hoặc các căn cứ quân đội từ Tennessee và San Francisco. Một cô gái với căn bệnh hen suyễn đã hỏi Carlisle làm bạn nhảy của mình, mặc dù phổi của cô quá yếu để có thể khiêu vũ. Và Greta, lần đầu tiên bắt đầu nghĩ rằng cô phải cố gắng quên tất cả về Einar Wegener, đã bắt đầu tập cách nhún đầu gối cúi chào. Chiếc váy trắng với vòng eo bó lại theo kiểu từ thời đế chế không hề vừa vặn với Greta. Nó có đường viền ren ở phần vai và còn quá ngắn, để lộ đôi chân của cô. Hoặc ít nhất đó là cách Greta nghĩ; cô chỉ có thể hình dung tới đôi chân dài của mình lộ ra khi bước xuống cầu thang ở Valley Hunt Club từ đại sảnh. Lan can của nó cũng được trang trí bằng vòng hoa xanh và hoa loa kèn đỏ. Các khách mời trong bộ cà vạt màu trắng tản ra khắp căn phòng, nhấp một ly rượu mạnh trên tay và lịch sự theo dõi bảy cô gái chuẩn bị ra mắt bước xuống cầu thang. Có bốn cái cây thông đã được trang hoàng, và ngọn lửa đen trong lò sưởi đang thiêu đốt những khúc gỗ đỏ. Một trong số những cô gái cầm theo chai Whiskey dẹt màu bạc với chiếc nắp được làm từ đá xà cừ. Cô ta và những cô gái ra mắt khác chuyền nó qua tay nhau khi họ đang chỉnh lại trang phục và cài những chiếc lá cây trạng nguyên lên mái tóc. Ánh bạc của nó làm màn đêm sáng hơn, như thể quản lý trụ sở đã bật điện áp của những cây đèn bên tường lên hết cỡ. Nó khiến ngọn lửa đen trong màn sưởi gần giống như một con thú đang nhảy ra khỏi khung cửa lò. Khi Greta đặt chân trên cầu thang, cô nhún thấp người, cái cằm hướng về phía chiếc thảm với họa tiết phương Đông. Các thành viên khác vỗ tay tán hưởng, chạm ly. Rồi cô đi xuống phòng tiệc, và ở đó, Teddy Cross đang chờ cô. Trong bộ vest trắng, anh trông có vẻ cao hơn bình thường. Mái tóc của anh sáng bóng vì vuốt keo, và còn có nét gì đó khác lạ: anh gần giống với người Đan Mạch, với mái tóc vàng đậm, đôi mắt nheo lại và làn da rám nắng; phần yết hầu nổi lên rồi hạ xuống một cách lo lắng. Đêm đến, sau điệu nhảy van xơ, khi những đĩa thịt bò nướng, dâu tây và ly champagne đã được bưng lên, Teddy và Greta lẻn ra khỏi phòng tiệc rồi đi bộ tới sân tennis. Màn đêm mát lạnh và trong lành, cô phải nhấc vạt váy khỏi làn sương ướt trên vạch cỏ. Greta đã bắt đầu say, cô biết, vì trước đó cô đã lỡ đùa cợt về ruộng dâu tây và bố mẹ của Teddy. Cô lập tức xin lỗi, nhưng cái cách anh gấp chiếc khăn của mình trên bàn lại, có vẻ như đã chạm đến lòng tự ái của anh. Việc đi bộ trên sân tennis là đề nghị của cô, như thể để khiến Teddy vui trở lại, tất cả những thứ này, cuộc sống xa hoa ở Pasadena mà cô đã kéo anh vào. Nhưng cô không hề có kế hoạch gì cả, vẫn chưa thực sự nghĩ về tương lai của cô và anh. Họ đi về phía gian đình đằng xa sân cỏ, nơi có những ly nước mát lạnh và chiếc ghế đan trường kỷ màu xanh lá. Trên chiếc sofa có mùi khô của mối gỗ, rồi họ bắt đầu hôn nhau. Cô không thể nói được sự khác biệt giữa nụ hôn của Teddy và Einar. Trên thuyền Princess Dagmar, cô đã đứng trước gương trong phòng và tự hôn mình. Bờ mặt phẳng khiến cô nhớ đến nụ hôn với Einar, rồi cô bắt đầu nhớ tới cái hôn đầu của hai người trên bậc thang Học Viện Hoàng Gia như thể một thứ gì đó thân quen khi tự hôn chính mình. Nhưng nụ hôn với Teddy thì lại không như vậy. Bờ môi của anh thô ráp và ria mép cọ vào miệng cô. Cổ của anh rúc về phía người cô, mạnh mẽ và thô bạo. Bên tiếng bóng vọng trong phòng tiệc, Greta cho rằng cô nên đẩy nhanh tiến độ hơn. Cô biết rõ nên làm gì tiếp theo, nhung phải mất mất một vài phút để có thể lấy can đảm. Để tay lên . . . Ôi, có lẽ hơi khó để nghĩ về nó, chứ đừng nói là thực hiện! Nhưng cô muốn làm điều đó, hay ít nhất cô nghĩ rằng mình muốn, và càng chắc chắn Teddy cũng muốn như vậy. Greta đếm đến ba, nín thở rồi với tay tới đũng quần của Teddy. Anh ngăn cô lại. "Không, đừng," Teddy nói, giữ lấy cổ tay cô. Greta chưa bao giờ nghĩ rằng anh sẽ từ chối. Ánh trăng đủ sáng để nếu nhìn thẳng vào khuôn mặt anh, cô có thể thấy sự đứng đắn tới nỗi cô phải xấu hổ. Greta nhớ lại về người đàn ông trước đó đã cố từ chối cô: giờ cô và Einar bị chia cách cả một lục địa và đại dương, chưa kể đến chiến tranh bạo động. Bên chiếc ghế trường kỷ ngoài khuôn viên Valley Hunt Club, Greta Waud và Teddy Cross ngồi trên đó một lúc lâu, cổ tay cô vẫn bị anh nắm chặt. Một lần nữa cô tự hỏi nên làm gì tiếp theo, nhưng giờ, như thể có điều gì đó thôi thúc mà cô chưa từng nghĩ tới, Greta áp mặt mình vào trong lòng Teddy. Greta bắt đầu dùng đủ mọi chiêu trò cô từng đọc trong quyển tiểu thuyết nhảm nhí mua ở trung tâm nhà ga Copenhagen, và từ những cô hầu gái hay buôn chuyện trong nhà mẹ cô. Teddy vẫn cố phản đối, nhưng mỗi từ "không" được nói ra của anh ngày càng gượng ép hơn. Cuối cùng, anh cũng thả tay cô. Trong khi họ cởi bỏ bộ váy nhăn nhúm và bó lại trên eo cô, bằng cách nào đó vạt áo đuôi tôm của anh đã bị rách. Và Greta, chưa bao giờ tiến xa tới một mối quan hệ như thế này, đang nằm dưới cơ thể của anh, vẫn cảm nhận được tiếng tim đập thình thịch trong ngực, mùi chua mặn ẩm ướt giữa hai chân. Cô đã biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo, và Greta ôm lấy bờ lưng của Teddy với sự từ bỏ tất cả mọi thứ, cô tự nhủ, chỉ cần anh đưa cô chạy xa khỏi nơi này thì sao cũng được. Họ kết hôn vào cuối tháng hai trong sân vườn cam Boulevard. Những cô hầu gái rải đầy cánh hoa trà lên sân cỏ, còn Teddy đã mặc một chiếc vest đuôi tôm mới. Nó chỉ là một đám cưới nhỏ, các khách mời đều là anh em họ tới từ San Marino, Hancock Park và biển Newport. Hàng xóm của họ, người thừa kế công ty sản xuất kẹo cao su từ Chicago cũng tham dự, vì khi bà Waud đã đồng ý cho họ kết hôn, cũng có nghĩa là bà đã không còn quan tâm đến chuyện về con gái mình nữa. Cha mẹ của Teddy cũng được mời, cho dù không ai mong đợi họ sẽ tới cả; đi qua đường Ridge từ Bakersfield vào tháng hai là một điều khó có thể thực hiện. Ngay sau đám cưới và tuần trăng mật ở khách sạn de Coronado tại San Diego, nơi Greta đã khóc suốt ngày đêm - không phải do cô đã cưới Teddy Cross, mà bởi vì giờ cô còn cách Đan Mạch yêu dấu xa hơn nữa, và cả cuộc dời mà cô muốn tự làm chủ - Bố mẹ Greta gửi cô tới sống ở Bakersfield. Bà Waud mua cho họ một căn nhà được thiết kế kiểu Tây Ban Nha với mái nhà đỏ, cửa sổ song sắt Seville và một cái gara được bao phủ bởi dàn hoa giấy. Bà Waud gửi Akiko tới sống với họ. Lan can ở Bakersfield được rèn bằng sắt, và hành lang giữa các phòng bị uốn cong. Còn có cả bể bơi hình bầu dục và phòng khách thiết kế bậc thang đi xuống, trang bị thêm những giá sách. Ngôi nhà nằm giữa khu vườn dừa, bên trong mát lạnh nhiều bóng râm. Bố mẹ của Teddy từng tới thăm một lần; lưng họ cong và bàn tay vẫn còn vương lại màu hồng từ những quả dâu tây. Họ sống bên ngoài trên cánh đồng đất sét, trong một căn phòng hai người được xây từ ván bạch đàn. Đôi mắt hõm lại vì ánh mặt trời, và họ gần như im lặng khi ở trong phòng khách của Greta, ngồi cạnh nhau một cách bồn chồn, cùng chiêm ngưỡng sự giàu có trước mặt họ: căn nhà Tây Ban Nha, bức tranh phong cảnh được treo phía trên lò sưởi, tiếng dép xăng đan của Akiko khi mang khay thức ăn tới. Greta rót cho ông Cross và bà Cross mỗi người một tách trà đá dâm bụt, rồi cùng nhau ngồi trên chiếc sofa mà bà Waud đã mua từ cửa hàng Gump. Mọi người đều cảm thấy không thoải mái và hối hận vì mọi chuyện đã dẫn đến việc này. Greta đưa ông bà Cross trở về nhà họ trong chiếc Mercer Raceabout, ghế hai chỗ ngồi khiến bà Cross phải ngả người vào lòng chồng. Màn đêm dần buông xuống khi chiếc xe vẫn đang chạy nhanh trên đường, và cái lạnh của mùa xuân bao trùm khắp cánh đồng. Một cơn gió thổi huýt qua luống ruộng khiến bụi mù tung lên. Greta phải sử dụng cái gạt nước trên mặt kính xe để lau sạch đám bùn dính bẩn. Từ phía xa, căn nhà bạch đàn hiện lên với ánh sáng đèn mờ, và có vẻ như ông bà Cross đều đang nghĩ về cùng một thứ, vì ngay sau khi bà Cross nói, "đây là nơi Teddy được sinh ra." rồi ông Cross ôm lấy vợ mình, tiếp lời, "nó từng luôn nói là sẽ quay trở lại." Những ngày còn lại của mùa xuân, Greta chỉ nằm chợp giấc trên chiếc sofa trắng trong phòng khách. Cô căm ghét Bakersfield, cô ghét ngôi nhà này, đôi lúc cô còn ghét cả đứa bé đang dần lớn lên trong bụng mình. Không phải chỉ một lần, mà cô còn ghét cả Teddy Cross nữa. Mỗi trưa khi đang đọc sách, anh lại đắp một chiếc khăn mặt nóng lên trán cô. Greta nhanh chóng trở nên ốm yếu, cô nhận thấy mình ngày càng bệnh nặng hơn. Trước tháng năm, cô vẫn ngủ hàng đêm trong phòng khách, quá yếu để có thể trèo lên cầu thang. Còn Teddy ngủ trên chiếc giường cót bên cạnh cô. Vào đầu tháng sáu, Bakersfield trở nên nóng nực trong hè; trước chín giờ sáng có thể lên tới 100°F. Akiko sẽ gấp quạt giấy cho Greta; Teddy mang gạc nước lạnh thay vì nóng. Và khi Greta trở nên ốm nặng, Akiko sẽ mang trà xanh đá trong chiếc cốc sơn mài, còn Teddy thì đọc thơ cho cô nghe. Rồi một ngày, khi Teddy tới Pasadena để lấy máy quay nặn ở xưởng gốm cũ đã đóng cửa của anh, sự nóng nực và đau yếu cuối cùng cũng kết thúc. Cùng nhau, Greta và Akiko, với mái tóc đen như đôi cánh của con quạ, đã sinh ra một cậu bé xanh xao, với dây rốn quanh cổ như một chiếc cà vạt. Greta đặt tên nó là Carlisle. Một ngày sau đó, cô và Teddy chôn cậu bé trong sân nhà bạch đàn của ông bà Cross, dưới đống đất bùn, bên mép cánh đồng dâu tây. *Chú thích: Geta : guốc gỗ Nhật Bản Lễ ra mắt - debutante: những cô gái trẻ trong tần lớp quý tộc khi đến độ tuổi trưởng thành, có thể lấy chồng sẽ được làm lễ ra mắt, giới thiệu với mọi người. Độ F : 1°C xấp xỉ 33,8°F CÔ GÁI ĐAN MẠCH David Ebershoff www.dtv-ebook.com Chương 5 Con ngõ hẹp rải đá sỏi băng qua Copenhagen là nơi tối tăm và an toàn cho bí mật này, Lili nghĩ. Dãy phố quá chật để xây cột điện, cửa sổ phía bên kia thì gần như mở sang cửa sổ đối diện. Người dân ở đây luôn hà tiện ánh đèn trước gian nhà của họ, và mọi thứ đều tối đen ngoại trừ lác đác những tòa công ty vẫn còn làm việc. Có một cửa hàng cà phê Thổ Nhĩ Kì, nơi các khách hàng ngồi bên bàn cạnh cửa sổ trên đệm gối nhung. Đằng xa là nhà chứa, nấp kín đáo sau cánh cửa chớp, cái chuông đồng có hình như đầu vú. Xa hơn nữa là một căn hầm, nơi mà mỗi khi Greta và Lili đi ngang qua, một người đàn ông gầy với bộ ria mép đã được wax* lại vội vã chạy xuống cầu thang để gặp những người như anh ta. Lili đang mặc một chiếc váy xếp dài với chất vải cổ và tay áo thủy thủ. Chiếc váy luôn phát ra tiếng sột soạt khi cô di chuyển, và cô cố giữ tâm trí mình thật thoải mái, không quan tâm tới những điều phải đối diện phía trước. Greta đã cho cô mượn chuỗi dây chuyền ngọc trai được quấn ba lần trên cổ, che đi làn da. Lili còn đội một chiếc mũ nhung mua từ cửa hàng Fonnesbech ngay sáng hôm ấy, cô cài một chiếc kim châm hình con bướm chúa lên nó. "Em thật xinh đẹp tới nỗi ngay cả chị cũng muốn hôn nữa," Greta nói khi cô đang thay đồ. Greta phấn khích ôm lấy Lili, rồi hai người nhảy một điệu van-xơ khắp phòng căn hộ trong khi Edvard IV không ngừng sủa. Lili nhắm mắt lại. Cô cảm thấy nặng nề và không tự nhiên bên dưới lớp phấn dày!, hình dung Copenhagen chính là nơi mà cả cô và Einar có thể cùng lúc chung sống. Con phố dẫn tới Rådhuspladsen, quảng trường ngay gần công viên Tivoli. Ở đó có đài phu nước hình con rồng, và đối diện khách sạn Palace là một cột trụ, phía trên tượng hai người Viking bằng đồng thiếc đang thổi một cái kèn đôi. Quảng trường luôn đông đúc, gồm toàn những người tới tham dự tiệc lúc nửa đêm. Dân du lịch từ Na-uy phấn khởi về cuộc đua xe đạp từ Copenhagen đến Oslo vào sáng mai. Greta không hề giục Lili. Cô mặc cho Lili đứng bên góc quảng trường Rådhuspladsen và đợi cho tới khi cô có thể nhìn ngắm mọi thứ bằng cơ thể của Einar, như một bàn tay điều khiển con rối. Cạnh hội trường thành phố Radhuset, từ bên dưới trụ vuông màu đồng đỏ , chiếc đồng hồ bốn mặt cao tới 300 phân ngay phía trên cô, Lili có cảm giác như đang nắm giữ một bí mật quan trọng trên thế giới - cô đang đánh lừa cả thành phố Copenhagen này. Nhưng đồng thời một phần trong cô cũng biết rằng đây sẽ là trò khó nhất mà mình từng chơi. Nó khiến cô nhớ lại mùa hè ở Bluetooth, về con diều tàu ngầm rơi xuống mặt đất. Einar Wegener, với khuôn mặt tròn nhỏ như thể bị trượt chân xuống một căn tầng hầm. Lili nhìn sang phía Greta trong bộ váy đen, cảm thấy biết ơn tất cả những gì đã giúp đỡ cô. Bỗng nhiên một Lili xuất hiện từ hư không. Phải, là nhờ Greta. Mọi người trong hội trường đều có vẻ thông minh và vui thú, trên má họ vẫn còn ửng màu bởi những cốc bia lagerøl. Các cô gái trẻ trong những bộ váy hở ngực đủ màu sắc bàn luận với nhau về các họa sĩ nổi tiếng. "Ai trong số họ là Ejnar Nielsen?" một người phụ nữ hỏi. "Đó là Erik Henningsen phải không?" Còn cả các quý ông trẻ tuổi với bộ ria mép đã được wax và tẩu thuốc Sumatra trên miệng. Những nhà công nghiệp đã dùng tiền của họ để sản xuất một số lượng bát đĩa sành và xoong chảo từ các nhà máy, họ tới dự tiệc để có thể giao lưu, ra mắt mình với xã hội. "Chị sẽ không bỏ rơi em đấy chứ?" Lili hỏi. "Đương nhiên là không." Ngay lúc đó cô đã bắt đầu lo lắng. Bên trong Rådhuset là một khoảng sân bao quanh, trang trí theo phong cách từ thời kỳ Phục Hưng Ý. ở ba phía đường khác là phòng trưng bày được chống đỡ bởi các cột trụ. Mái che phía trên bằng dàn gỗ. Trên sân khấu là một dàn nhạc, và còn cả những chiếc bàn dài với đĩa hàu. Hàng trăm người đang khiêu vũ, bàn tay của các quý ông bảnh bao đặt lên eo những người phụ nữ với mi mắt được chuốt màu xanh. Hai cô gái ngồi trên chiếc ghế dài đang viết ghi chú cho ai đó, cười rúc rích. Những chàng trai trẻ trong bộ vest Tuxedo đút, không thể bình tĩnh lại. Cô cảm nhận được sự hỗn loạn trong từng nhịp đập trên ngực, biết rõ mình không thuộc về nơi này. Cô có ý định rời đi, nhưng đã quá muộn. Lili đang ở trong bữa tiệc, khói thuốc và tiếng nhạc xoay quanh tai và mắt cô. Nếu nói là mình muốn về, Greta sẽ chỉ trả lời rằng cô nên ngồi xuống một lúc; Greta sẽ lại khuyên cô không cần phải lo lắng, không có gì phải bận tâm trên thế giới này cả. Và rồi lại đập hai tay cười lớn. Bên cạnh Lili là một cô gái cao trong chiếc váy lụa, đang hút một điếu thuốc bạc và nói chuyện cùng một người đàn ông với khuôn mặt tối màu, có lẽ anh ta đến từ miền Nam. Người phụ nữ có thân hình mảnh khảnh, bờ lưng thon gọn với một chút cơ bắp, còn người đàn ông có vẻ đã phải lòng cô ta tới nỗi chỉ có thể gật đầu tán thành, và rồi, chợt làm cô phải ngậm miệng lại bằng một nụ hôn. "Kia là Helene," Greta nói. Đối diện phòng tiệc là Helene Albeck, với mái tóc đen ngắn Greta từng nói đó là mốt hiện giờ ở Paris. "Chị cứ ra với cô ấy đi," Lili nói. "Và để em lại ư?" "Dù sao em cũng không nghĩ rằng mình muốn trò chuyện với ai lúc này cả." Greta đi qua những cặp đôi đang khiêu vũ, mái tóc cô buông xõa xuống lưng. Cô hôn má Helene, có vẻ như đang lo lắng chuẩn bị kể lại cho Greta chuyện gì đó. Ở Công Ty Thương Mại Hoàng Gia Greenlang, Helene là người quản lý cho các bức họa, kèn hát máy, đĩa ăn vàng tròn và các đồ xa xỉ khác được đưa vào qua lô hàng vào mùa hè mỗi thứ ba từ cảng Copenhagen. Hai năm nay Helene đều chuẩn bị cho các bức tranh của Einar được đóng thùng và chuyển tới Godthåb, nơi các đại lý khác sẽ bán đấu giá chúng. Số tiền thường được gửi về một cách chậm trễ, nhưng mỗi khi chúng được hoàn lại, Einar sẽ tự hào khoe với Greta trong chiếc ví da. Các cặp nhảy bắt đầu chuyển động, Helene và Greta đã ra khỏi tầm nhìn. Lili ngồi trên chiếc ghế gỗ dài được chạm khắc hình nàng tiên cá. Ngoài sân vườn nóng bức khiến cô phải cởi bỏ khăn choàng. Khi cô đang gập nó lại, một người đàn ông trẻ tiến về phía cái ghế và nói, "Tôi mạn phép ngồi đây được chứ?" Đó là một anh chàng cao to, mái tóc xoăn nâu vàng, dài tới quá cằm. Lili liếc nhìn anh đang kiểm tra giờ qua chiếc đồng hồ quả quýt, bắt chéo chân rồi lại hạ xuống. Trên người phảng phất mùi thóc lúa, và hai bên tai đỏ ửng vì nóng, hoặc cũng có thể vì đang bồn chồn. Từ chiếc túi xách tay, Lili lôi ra một cuốn sổ bạc của Einar mà bà nội đã tặng anh, cô bắt đầu ghi chép lại về người đàn ông bên cạnh mình. Trông có vẻ giống với cha của Einar khi còn trẻ, cô viết. Cha anh khi ông vẫn khỏe mạnh và làm việc ngoài ruộng rêu nước. Có lẽ bởi vậy mình mới chú ý tới anh ta, Lili ghi lại trên quyển sổ nhỏ. Còn lý do nào khác khiến mình cứ nhìn chằm chằm như vậy chứ? Tại sao mình không thể ngừng ngước lên những sợi râu cứng bên dưới má và đôi chân dài kia? Chiếc mũi gồ và đôi môi đầy đặn. Rồi cả mái tóc xoăn dày nữa. Người đàn ông quay sang hỏi. "Cô là phóng viên sao?" Lili ngẩng đầu lên. "Hay là thi sĩ?" "Không phải." "Vậy thì cô đang viết gì thế?" "À, cái này hả?" cô nói, vẫn giật mình vì anh đã bắt chuyện với cô. Giờ cô càng trở nên nóng hơn, và bỗng muốn cởi bỏ quần áo để nhảy xuống biển. Cô ra khỏi đại sảnh, đi qua một cánh cổng dẫn tới công viên phía sau. Bên ngoài, những cơn gió thổi nhẹ. Các tán lá sồi già che vòm cho khuôn viên nhỏ, như để che chắn khỏi ai đó trèo lên cao Rådhuset rồi do thám xuống dưới. Có mùi hoa hồng và đất đai. Một phần đám cỏ đã ngả màu xám bạc, như vẩy của một con cá bay. Lili tiến thêm vài bước và nhìn thấy cặp đôi trước đó, cô gái trong chiếc váy lụa và người đang say mê cô, hôn nhau đằng sau bụi cây sồi. Gã đàn ông ôm lấy đùi cô gái, kéo chiếc váy lên tới hông, cái móc nịt bít tất sáng lên trong màn đêm. Giật mình, Lili quay lại chiếc ghế dài mà người đàn ông kia đang ngồi. "Cô có biết họ nói gì về cây sồi già này không?" anh hỏi. "Không." "Họ nói nếu ai ăn quả sồi của nó thì sẽ được một điều ước và có thể trở thành bất cứ ai trong một ngày." "Dựa vào đâu mà họ nói vậy?" "Vì nó chính là sự thật." Anh với lấy tay Lili, kéo cô ngồi xuống ghế. Anh tự giới thiệu mình là họa sĩ Henrik Sandahl. Gần đây anh đã cho trưng bầy một loạt tác phẩm Biển Cá Phương Bắc: bức tranh vuông sơn dầu của cá chim, được tô nhẹ; cá bơn, mang một ý nghĩa nào đó với khung mặt gần giống một mụ phù thủy. Greta đã từng chiêm ngưỡng chúng. Một ngày, khi cô quay trở về căn hộ, nhanh chóng ném túi xách và chiếc chìa khóa xuống, mắt cô mở to: "Em chưa từng trông thấy thứ gì như thế này," cô kể với Einar. "Anh phải tự xem chúng bằng chính mắt mình. Ai biết được anh có thể yêu say đắm gương mặt của một con cá tuyết chứ?" "Cô có tới đây cùng ai không?" Henrik hỏi. "Vợ của anh họ tôi." "Đó là ai vậy?" Lili kể cho anh. "Einar Wegener ư?" Henril trả lời. "Tôi hiểu rồi." "Anh quen anh ấy sao?" "Không hẳn. Nhưng cậu ta là một họa sĩ giỏi. Hơn cả những gì mọi người thường nghĩ." Anh dừng lại. "Tôi chắc chắn cô cũng biết điều đó, nhưng nhiều người thời nay thường nói cậu ta thật cổ hủ." Đó là lần đầu tiên Einar nhận thấy chỗ đứng của mìn trên thế giới qua việc cải trang thành Lili. Anh có thể loại bỏ chính mình bằng cách mang một chiếc áo cooc-xê* với viền ren vỏ sò. Einar có thể thoát khỏi đời sống xã hội của anh chỉ bằng cách kéo áo tới khủyu tay và đeo lên cổ sợi dây chuyền ngọc trai từ Tây Ban Nha, chải mái tóc mềm mượt của mình phủ xuống gương mặt, rồi nghiêng đầu một cách háo hức như một cô gái ở tuổi vị thành niên. Và sau đó Henrik nắm lấy tay Lili. Những sợi lông trên cổ tay cứng rắn của anh khiến cô giật mình, vì Greta là người duy nhất anh từng nắm tay. "Kể anh nghe về em đi, Lili," Henrik nói. "Em được đặt tên theo một loài hoa." "Tại sao các cô gái đều nói những điều ngớ ngẩn như vậy?" "Vì đó là sự thật." "Anh không tin tưởng những cô gái khi họ nói mình như một bông hoa." "Em không chắc mình có thể nói về điều gì khác nữa." "Bắt đầu bằng việc em tới từ đâu đi." "Jutland. Một ngôi làng nhỏ gọi là Bluetooth, trong một đầm lầy." Cô kể cho Henrik về bãi cỏ linh lăng, về cơn mưa đá có thể làm thủng cả mái trang trại. "Nếu anh đưa cho em một quả sồi để ăn," Henrik nói, "khi ấy em sẽ muốn trở thành ai?" "Em không biết," cô đáp. "Vậy thì cứ ước đi." "Em không thể." "Được rồi, vậy thì không cần ước nữa." Rồi Henrik bắt đầu kể chuyện về chàng hoàng tử Ba Lan đã thả tự do cho tất cả phụ nữ trong đất nước của mình khỏi những công việc lao động; đó là người mà Henrik muốn trở thành. Trước khi cô kịp để ý thì đã quá muộn, vào khoảng nửa đêm. Gió bắt đầu thổi mạnh hơn, và cây sồi già với những chiếc lá hình đôi tai khẽ rung rinh, uốn cong xuống như để nghe lỏm câu chuyện của Henrik và Lili. Mặt trăng đã trôi đi, và khung cảnh trở nên tối tăm ngoại trừ ánh đèn vàng từ cổng chính của tòa Rådhuset. Henrik vẫn nắm tay Lili, đan xen ngón tay vào nhau, nhưng Lili có cảm giác những ngón tay của mình thuộc về một người nào khác. Như thể ai đó đang tới để đòi lại từ cô. "Không phải chúng ta nên gặp nhau sớm hơn sao?" Henrik nói, các ngón tay run lên, bồn chồn với đường ren chỉ trên cổ tay áo khoác. Lili nghe thấy tiếng cười của Einar khúc khích trên không trung, bên trong nó là hơi thở xa xăm của Einar. Einar cảm thấy khoái trá về sự tán tỉnh vụng về của người đàn ông. Anh đã bao giờ nói điều gì đó nực cười như thế này với Greta chưa nhỉ? Có vẻ như là không; chắc chắn Greta sẽ bảo anh bỏ mấy thứ vô nghĩa đó đi. Cô sẽ lắc nhẹ vòng tay bạc của mình và nói, "Ôi chúa ơi," mắt cô đảo lên phía trên. Greta sẽ đáp lại rằng cô sẽ rời khỏi nhà hàng ngay lập tức nếu như Einar không ngừng đối xử với cô như một đứa trẻ. Hoặc sẽ quay trở lại với món cá chấm đen trên đĩa một cách cộc cằn và không nói gì cho tới khi nằm nghỉ trên giường với một cái đầu trống rỗng. Rồi cô sẽ hôn Einar và cùng anh đi bộ về nhà. "Em cần phải đi tìm Greta," Lili nói. Những lớp sương mù đã đổ vào từ bến cảng, và giờ cô cảm thấy lạnh. Các ý nghĩ bắt đầu kéo đến: Lili với cánh tay trần đang cảm nhận làn gió, chứ không phải Einar; cô cảm thấy không khí ẩm ướt trên đỉnh đầu xuống tận gáy. Sâu hơn nữa, dưới lớp lụa mỏng và áo cooc-xê và cuối cùng là bộ đồ lót len, Einar cũng bắt đầu lạnh- nhưng đó là cảm giác khi bạn rùng mình trong lúc quan sát một ai nào đó không có áo khoác phải chống trọi giữa những cơn gió. Anh nhận ra Lili và mình cùng chia sẻ một thứ: cặp phổi xanh, quả tim đập thình thịch; đôi mắt của họ, ửng hồng vì mệt mỏi. Nhưng trong hộp sọ thì gần như có hai não bộ, hai nửa quả óc chó: anh và cô. "Cứ nói với Greta anh sẽ đưa em về nhà." Henrik đề nghị. Lili trả lời, "Chỉ khi anh hứa sẽ để em ở quanh góc nhà Widow House. Có thể Einar vẫn đang đợi, và chắc chắn anh ấy sẽ không muốn nhìn thấy em đi một mình cùng người lạ. Rồi họ sẽ lo lắng liệu em đã đủ tuổi để sống tự lập ở Copenhagen hay không. Họ là như vậy đấy, luôn tự hỏi phải làm gì với em, liệu em có dính vào rắc rối gì không." Henrik, với đôi môi phẳng, tím và hơi nứt ở phần giữa, bỗng hôn Lili. Đầu anh nhào về phía cô, miệng anh đáp xuống môi rồi thả ra. Anh làm điều đó một lần nữa, rồi lại thêm lần nữa, trong khi bàn tay vẫn nắm chặt lấy khuỷu tay cô, và phần lưng phía sau. Điều khiến cô ngạc nhiên nhất về nụ hôn với một người đàn ông là bộ ria, và cả sức nặng ấm nóng từ cánh tay anh. Đầu lưỡi đặc biệt trơn, như thể cốc trà bỏng đã thiêu trụi những phần mấp mô. Lili muốn đẩy anh ra và nói cô không thể làm điều này, nhưng đột nhiên cô không cử động được. Như thể đôi tay của cô không bao giờ có thể xô Henrik ra khỏi mình, với mái tóc xoăn tít lại như sợi dây quanh cổ họng cô. Henrik kéo cô dậy khỏi chiếc ghế sắt dài. Lili đã lo sợ rằng anh sẽ ôm lấy cô, cảm nhận cơ thể cân đối qua lớp váy, xương sườn và bộ ngực phẳng với sự thất vọng, cơn đau sưng lên giữa hai đùi. Anh dẫn cô tới hành lang bên trong Rådhuset, bàn tay đưa ra như để dìu dắt. Đầu của anh trông như một con rối đang nhấp nhô một cách vui vẻ; hộp sọ của nó hình tròn, có nét người Mông Cổ trên trán. Và có lẽ đây là lý do tại sao Einar cảm thấy tự do khi nắm lấy tay Henrik rồi bám theo anh: nó chỉ là một trò đùa, một phần chơi với Lili, và đã là trò chơi thì cũng không có ý nghĩa gì cả. Đó không phải là nghệ thuật, họ không phải là đang vẽ tranh; và chắc chắn là nó cũng không liên quan gì tới cuộc sống thật sự. Trước đó cũng không - và cả tối nay với bàn tay đổ mồ hôi của Henrik cũng vậy - nếu Einar cảm thấy mình khác người, hoặc có dấu hiệu kỳ lạ. Bác sĩ của anh, khi anh tới gặp ông vào tuần trước và đề cập về việc vẫn chưa có con, ông hỏi lại, "Cậu đã bao giờ mong muốn ai khác ngoài vợ mình chưa? Một chàng trai khác chẳng hạn?" "Không, không bao giờ," anh trả lời. "Nghi ngờ của ông hoàn toàn sai rồi." Einar đã kể với bác sĩ của mình rằng anh từng cảm thấy bối rối khi nhìn thấy một người đàn ông với đôi mắt nhanh nhẹn, khiếp sợ với làn da hồng đang thơ thẩn gần nhà vệ sinh công cộng ở Ørstedsparken. Đồng tính luyến ái! Thật không thể tin được. Và, một lần nữa, đây là lý do Einar nắm lấy tay Henrik và chạy xuống lối đi bên dưới những lá cờ Đan Mạch treo trên xà gỗ đã được đánh bóng. Tại sao anh lại mang đôi giày vàng mà Greta đưa vào buổi chiều tháng Tư khi cô cần một đôi chân mẫu để vẽ. Tại sao anh lại mặc chiếc váy liền trên bước chân trải dài của mình: Einar chỉ đơn giản là đang chơi một trò chơi. Anh biết điều đó. Nhưng đồng thời cũng không biết gì cả, anh chưa thực sự hiểu được chính mình. Bên ngoài quảng trường Rådhuspladsen, chiếc xe tàu điện vang lên, tiếng chuông của nó buồn tẻ và thân thiện. Ba người Na-uy đang ngồi trên mép đài phun nước, say rượu cười nói. "Đường nào vậy?" Henrick hỏi. Trông anh có vẻ thấp hơn khi đứng trên phố với mùi hương của bánh quy, cà phê và gia vị từ các gian hàng bên đường. Có gì đó nóng bừng lên trong dạ dày của Einar, và tất cả những gì anh có thể làm là nhìn quanh đài phun nước, tượng thổi kèn đôi bằng đồng và mái dốc của các tòa nhà xung quanh quảng trường. "Tới đâu đây?" Henrik lặp lại. Anh ngước nhìn bầu trời, hai lỗ mũi run lên. Rồi Einar chợt nảy ra một ý nghĩ; Lili nảy ra một ý nghĩ. Và một cách lạ lùng, nó có vẻ như: Einar đang trôi nổi đâu đó phía trên quảng trường và theo dõi Lili, với đôi môi đầy quyết tâm thì thầm với Henrik, "Đi nào." Anh nghe thấy suy nghĩ của cô: Greta sẽ không thể biết được. Điều mà Lili sẽ làm - Greta sẽ không biết gì cơ? - Einar cũng sẽ không phát hiện ra. Khi anh, Einar, chủ nhân thực sự của cơ thể đang được cho mượn này, định hỏi Lili cô đang muốn thực hiện điều gì; Einar, trôi nổi như bóng ma luẩn quẩn định xía vào và thắc mắc - không phải cái cách mà người lái xe bên lê hỏi về nơi muốn tới, mà là - Greta sẽ không biết gì kia? Và rồi Lili, cánh tay cô đỏ lên vì nóng, lớp lụa mỏng trong nắm tay, phân nửa phần quả óc chó hiện lên một luồng suy nghĩ. Cuối cùng, cô cảm nhận được dòng nước ấm chảy từ mũi xuống môi. "Chúa ơi, em đang chảy máu kìa!" Henrik khóc thét. Cô đưa tay lên mũi. Máu chảy dài qua miệng. Tiếng nhạc từ tòa thị chính vang lên trong cô. Mỗi giọt máu rơi xuống, cô cảm thấy mình trong sạch hơn, trống rỗng, nhưng trong sạch. "Chuyện gì vậy?" Henrik hỏi, "Tại sao lại như thế này?" Anh hét lên, và máu càng chảy xối ra như tỏ vẻ biết ơn với sự quan tâm của anh. "Để anh gọi người giúp em." Trước khi cô có thể ngăn lại, anh đã chạy thẳng tới quảng trường về phía ai đó đang chuẩn bị lên xe. Anh chạm nhẹ lên vai người phụ nữ vẫn đang nắm lấy cửa. Lili dõi theo ngón tay chậm rãi của Henrik đưa lên. Rồi cô chợt nhận ra. Lili cố gắng gọi lên, "Đừng!" - nhưng cô không thể mở miệng. Henrik vỗ nhẹ đằng sau bờ lưng cứng cáp của Greta, đang tiễn Helene vào trong chiếc xe của Công Ty Thương Mại Greenland trên phố. Như thể Greta không hề để ý đến Henrik. Cô chỉ nhìn thấy Lili, vệt máu tươi trên quảng trường Rådhuspladsen. Gương mặt của Greta căng ra, và Lili nghĩ cô đã nghe thấy Greta khẽ kêu lên, "Ôi không, vì chúa, không thể nào." Điều tiếp theo mà Lili có thể nhớ được là chiếc khăn quàng xanh cô mượn từ Greta đã được bịt chặt vào mũi, và cô ngã xuống trong vòng tay của Greta, lắng nghe giọng nói êm dịu như tiếng hát ru, "Lili, ổn chứ? Làm ơn, Lili." Và rồi, "Anh ta đã làm gì em sao?" Lili lắc đầu. "Chuyện gì xảy ra vậy?" Greta hỏi, ngón cái xoa hai bên thái dương của Lili. Lili không thể mở miệng, chỉ có thể dõi theo Henrik sợ hãi chạy dọc quảng trường, đôi chân dài sải nhanh và đuôi tóc xoăn tít, tiếng chân của anh trên đường có cảm giác quen thuộc một cách kỳ lạ, như cú đấm của cha Einar trên má, khi ông phát hiện ra Einar, trong chiếc tạp dề của bà nội và đôi môi Hans ghì chặt trên cổ. *Chú thích: Cooc-xê: tiếng Pháp, áo nịt ngực (xu-chiêng) Wax : phương pháp giật tẩy lông CÔ GÁI ĐAN MẠCH David Ebershoff www.dtv-ebook.com Chương 6 Mùa hè ấy, người đại lý thân quen với Einar đã đồng ý cho trưng bày mười bức tranh của Greta trong vòng hai tuần. Einar đã sắp xếp điều đó, thỉnh cầu một đặc ân - Vợ tôi đang trở nên thất vọng, anh mở đầu bức thư gửi tới Ngài Rasmussen, ngay trên bìa phong bì, cho rằng Greta không cần phải biết điều này. Tiếc thương thay, Greta đã bóc dấu niêm phong khi Einar nhờ cô mang nó tới bưu điện, chỉ bằng một cái ấm trà và đầu móng tay - không vì lý do đặc biệt nào cả, chỉ là thỉnh thoảng Greta trở nên tò mò về người chồng của mình và những gì anh làm khi không ở cùng cô: những thứ mà anh đọc, nơi anh đã dùng bữa trưa, nói chuyện với ai và về cái gì. Không phải là mình đang ghen, cô tự nhủ, nhẹ nhàng tách mở phong bì thư. Không, nó đơn giản là vì cô đang yêu. Rasmussen bị hói, đôi mắt của ông giống với người Trung Quốc, là một kẻ góa vợ. Ông sống với hai đứa con trong một căn hộ gần Amalienborg. Khi ông nói sẽ treo những bức tranh gần đây nhất của cô, Greta đã định trả lời rằng không muốn nhận giúp đỡ từ ai cả. Rồi cô nghĩ lại và nhận ra mình thực sự cần nó. Cô khẽ xấu hổ nói với Einar, "Em không chắc anh có nhờ Rasmussen từ trước rồi không, nhưng dù sao thì cũng thật may mắn vì ông ta đã ký kết với em." Trong cửa hàng nội thất trên phố Ravnsborggade, cô đã mua mười cái ghế và cả gối lót đệm màu đỏ tươi. Những chiếc ghế được đặt trước mỗi bức tranh trong phòng trưng bày. "Để họ có thế suy ngẫm về chúng," cô gợi ý Rasmussen sắp xếp như vậy. Sau đó cô viết lại tên các tờ báo biên tập Châu Âu vào một danh sách mà Einar đã gom chúng lại với nhau hàng năm. Giấy mời là sự ấn tượng đầu quan trọng - những từ ngữ mà Greta gặp khó khăn trong việc diễn tả dường như hơi phô trương và có vẻ mang tính chất kinh doanh nhiều hơn, nhưng cô vẫn tiếp tục viết trong sự thúc giục của Einar, "Cứ viết đúng những điều cần thiết vậy," cô nói. Greta tự tay chuyển giấy mời tới văn phòng tờ báo Berlingske Tidende, Politiken và Nationaltidende, nơi tên nhân viên đội chiếc mũ màu xám ngoảnh mặt đi với một nụ cười mỉa mai. Những bức họa của Greta đều quá khổ và sáng loáng qua quá trình đánh bóng bằng dầu. Nó bóng và cứng tới nỗi bạn có thể lau chùi như thể cửa sổ. Một vài nhà phê bình đã ghé qua phòng trưng bày rồi ngồi xuống ghế, ăn những miếng bánh quy mật ong mà cô đã bày ra trên chiếc đĩa bạc. Cô dẫn đường cho bọn họ, trên tay là một quyển sổ đang mở và trang giấy vẫn còn trống không. "Đây là Anna Fonsmark. Ông biết đấy, một giọng nữ trung trong rạp hát," Greta nói. "Tôi đã gặp khó khăn với tư thế mẫu của cô ấy!" Hoặc, "Đó là người buôn lông thú cho đứa vua. Ông có để ý bộ lông chồn vizon bên góc kia không? Biểu tượng cho nghề nghiệp của anh ta đấy." Sau khi kể về những thứ như vậy, ngay lập tức cô cảm thấy hối hận; sự thô lỗ trong câu nói của cô vang lên rồi vọng lại trong không gian. Cô nghĩ tới mẹ mình và chợt đỏ mặt. Nhưng thỉnh thoảng Greta trở nên tích cực thái quá để có thể dừng lại suy nghĩ mình nên nói gì. Sự hăng hái ấy như một chất lỏng chạy dọc khắp cơ thể phương Tây của cô. Greta phải thừa nhận rằng một vài nhà phê bình tới chỉ vì cô là vợ của Einar Wegener. "Công việc của Einar tiến triển thế nào rồi?" họ hỏi thăm. "Bao giờ thì anh ấy mới ra cuộc triển lãm tiếp theo?" Một nhà phê bình đến dự vì cô là người California và anh ta muốn hỏi về những bức tranh phong cảnh pháp ở đó - như thể Greta biết mọi thứ về những người đàn ông để râu đang trộn màu vẽ dưới ánh mặt trời oi bức tại Laguna Niguel vậy. Phòng trưng bày ở Krystalgade có hơi chật chội, và buổi triển lãm diễn ra đúng vào ngày nóng nực, còn có cả mùi phô mai tỏa ra từ cửa hàng bên cạnh. Greta đã lo rằng mùi thơm của Fotina* sẽ vương lại trên các bức tranh sơn dầu của mình, nhưng Einar nói với cô chuyện đó là điều không thể, vì chúng đã qua quá trình đánh bóng. "Nó không dễ để có thể thấu hiểu," anh nhận xét về các bức họa của cô, có vẻ không phải là điều tốt - như đã từng nói, lơ lửng giữa hai người họ như một con dơi. Ngày hôm sau, khi Greta trở về căn hộ, cô bắt gặp Lili đang đan mũ len, chiếc kim móc nằm trong lòng. Cả Greta lẫn Einar đều không tìm được nguyên nhân khiến cô chảy máu cam tại buổi tiệc khiêu vũ. Nhưng khoảng một tháng sau, mũi cô lại bắt đầu chảy, những giọt máu đỏ rỉ ra trong suốt ba ngày tháng bảy. Einar nói nó chẳng sao cả, nhưng Greta vẫn lo lắng, như một bà mẹ chứng kiến những cơn ho của con trai mình. Gần đây vào nửa đêm, Greta bắt đầu tỉnh dậy, trèo ra khỏi giường và vẽ lại gương mặt tái mét của Lili, ngã trong lòng tay Henrik. Bức tranh khá rộng, kích cỡ gần với tỷ lệ thực tế, sống động với màu sắc sáng hơn, hình ảnh Lili chảy máu tại bữa tiệc theo trí nhớ của Greta. Khung cảnh đằng sau là đài phun nước hình con rồng, và cả tượng hai người Viking thổi kèn đôi. Lili yếu đuối trong bức tranh, vòng tay của người đàn ông ôm lấy cô, tóc anh rủ xuống gương mặt. Cô sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng đó, Greta tự nhủ khi đang pha màu một cách rùng mình, và sự bối rối, giận dữ vẫn còn run lên trong đốt tay cô. Cô biết điều gì đó đã thay đổi. "Em đã ở đây lâu chưa?" Greta hỏi Lili. "Chưa tới một tiếng." Cô vẫn tiếp tục đan kim. "Em đã ra ngoài và đi bộ qua quảng trường Kongens Have, rồi ngồi ở đó một lúc. Chị đã nhìn thấy bụi hoa hồng chưa?" "Như vậy có ổn không? Việc ra ngoài một mình ấy?" "Em không đi một mình," Lili đáp. "Henrik và em tình cờ gặp nhau, ngay trên ghế dài của công viên." "Henrik," Greta nói. "Chị hiểu rồi." Qua hai khóe mắt, Greta chăm chú quan sát chồng mình. Cô không thể hiểu nổi anh mong muốn điều gì từ việc này, từ Lili, và giờ anh ở đây, mặc một chiếc váy nâu và áo cánh trắng cộc tay, cả đôi giày quê mùa với chiếc khóa bạc mà cô đã đưa anh vào buổi đầu tiên. Phải, đó chính là anh. Một sự hối hận dâng lên trong Greta: Cô vừa ước rằng Lili sẽ ra đi và đồng thời cũng mong muốn sự xuất hiện của cô. Greta nhận ra cô không biết lựa chọn nào mới là đúng. "Vậy tên họa sĩ vẽ cá sao rồi?" Greta hỏi. Lili ngồi trước chiếc ghế và thuật lại chuyến đi vừa rồi của Henrik ở New York, nơi anh đã ăn tối cùng bà Rockerfeller. "Anh ấy là một trong những họa sĩ nổi tiếng," Lili tiếp tục, tả lại những lời nhận xét của mọi người dành cho Henrik. "Chị có biết anh ấy là trẻ mồ côi không?" Lili hỏi, rồi kể về tuổi thơ của anh khi còn là một thủy thủ học việc trên thuyền đánh cá ở biển Bắc. Lili nói Henrik đã phải công nhận trên băng ghế ở Kongen Haves, rằng anh chưa từng gặp cô gái nào như Lili. "Rõ ràng là anh ta đã phải lòng em rồi." Greta có thể nhìn thấy khuôn mặt Lili đỏ lên. Greta chỉ vừa trở về sau một ngày buồn chán ở triển lãm, mười bức tranh của cô vẫn treo trên tường, chưa được bán. Và giờ tất cả những thứ này - chồng cô trong chiếc váy nâu mộc mạc; câu chuyện Henrik được mời dùng bữa tối với bà Rockefeller trong Câu Lạc Bộ Nghệ Thuật Quốc Gia tại Gramercy Park; cảnh tượng lạ lẫm về Lili và Henrik trên chiếc ghế dài công cộng, dưới bóng râm của tòa tháp ở công viên Rosenborg Slot - đuổi theo cô. Bỗng nhiên Greta hỏi, "Lili, em đã bao giờ hôn người đàn ông nào chưa?" Lili chợt dừng lại, cuộn len nhũn trong lòng. Câu hỏi gần như chỉ bất thình lình được thốt lên khỏi miệng. Cô chưa từng nghi ngờ về điều này, vì Einar luôn là người vụng về và không hề sáng tạo trong tình dục. Greta luôn cho rằng việc anh có mong muốn nào về chuyện đó là điều không thể. Tại sao chứ, nếu không có cô, thì Einar cũng sẽ không có Lili. "Henrik có phải người đầu tiên không?" Cô hỏi. "Người đầu tiên hôn em ấy." Lili suy nghĩ một lúc, lông mày cô nhướn lên. Tiếng nói khản đặc chất rượu vodka của tên thủy thủ vọng lên từ dưới sàn, "Đừng nói dối nữa," hắn hét. "Tao có thể nhận ra khi mày dối trá." "Hồi ở Bluetooth," Lili bắt đầu, "Có một chàng trai tên Hans." Đó là lần điều tiên Greta nghe nói tới Hans. Lili say sưa kể về Hans, các ngón tay khép lại và đưa lên không trung. Như thể cô đang trong cơn mê khi kể về cách Hans trèo lên cây sồi cổ đại, giọng nói tinh ranh của anh và cả con diều tàu ngầm lún sâu xuống vũng lầy. "Em còn gặp lại anh ta kể từ đó không?" Greta hỏi. "Anh ấy chuyển tới Paris," Lili trả lời, tiếp tục đan len. "Hans là một đại lý bán đồ mỹ thuật, đó là tất cả những gì em biết." Rồi cô đứng dậy, đi về phía phòng ngủ, nơi Edvard IV đang gầm gừ trong giấc mộng và đóng cửa lại. Khoảng một tiếng sau Einar xuất hiện, như thể Lili chưa từng ở đây. Ngoại trừ mùi bạc hà và sữa, nó như thể cô thậm chí còn chưa từng tồn tại. Đến cuối tuần thứ hai, vẫn không có bức tranh nào của Greta được bán. Cô không còn có thể đổ lỗi sự nghiệp không thành của mình cho nền kinh tế Đan Mạch, những gì xảy ra trong quá khứ về cuộc chiến tranh kéo dài bảy năm và sự đầu tư tăng trưởng. Nhưng buổi triển lãm không thành công cũng không làm cô ngạc nhiên. Từ khi họ kết hôn, danh tiếng của Einar đã làm cô lu mờ. Những bức tranh đồng hoang và cơn bão với tông màu tối - thực sự thì một vài cái chẳng có gì khác ngoài màu xám và đen, mỗi năm càng thu nhập được nhiều tiền hơn. Trong khi Greta không thể bán được gì ngoại trừ những công việc nhàm chán được giao từ các giám đốc công ty không bao giờ nở một nụ cười. Còn những bức họa mà cô đã vẽ - Anna, người phụ nữ mù trước cổng thành Tivoli, và giờ là Lili, đều không được chú ý tới. Dù sao thì ai sẽ mua tranh của Greta thay vì Einar, với tông màu tươi sáng theo kiểu Mỹ thay vì sự huyền ảo và ấm cúng của người Đan Mạch chứ? Nhà phê bình nào ở Đan Mạch, nơi phong cách nghệ thuật từ thế kỷ 19 vẫn đang thịnh hành, có thể đánh giá phong cách của cô hơn anh? Đó là những gì Greta cảm thấy lúc này; ngay cả Einar khi bị thúc giục cũng phải công nhận đó là sự thật. "Em ghét cái cảm giác này," thỉnh thoảng cô vẫn nói, hai bên má phụng phịu với sự ghen tị không thể chỉ coi là chuyện vặt. Tuy nhiên có một bức tranh đã thu hút được sự chú ý. Đó là họa tranh bộ ba. Greta đã vẽ nó ngay sau buổi tiệc ở Rådhuset. Ba cảnh gương mặt của một cô gái với tỷ lệ bằng nhau: gương mặt trầm tư suy nghĩ, đôi mắt đỏ lên vì mệt mỏi; cô gái với nỗi sợ hãi, hai bên má trắng bệch; và hình ảnh hồi hộp thích thú, chiếc kẹp tóc bung ra còn đôi môi thì ướt đẫm. Greta đã sử dụng một chiếc cọ mỏng từ lông thỏ và màu keo khiến làn da mờ đi, và màn đêm với ánh đèn. Riêng bức họa này, cô quyết định không đánh bóng nó. Đứng trước bức tranh, một hoặc hai nhà phê bình đã rút chiếc bút chì từ trong túi áo ngực. Nhịp tim của Greta bắt đầu đập mạnh khi cô nghe thấy tiếng ngòi bút trên trang giấy của cuốn sổ tay. Một nhà phê bình chỉ hắng giọng; người thứ hai, có vẻ như đến từ Pháp với chiếc nốt ruồi dưới vành mắt, nói với Greta, "Cái này cũng là của cô sao?" Nhưng bức vẽ, với cái tên Ba Lần Lili cũng không thể cứu vớt buổi triển lãm. Rasmussen, người đàn ông bé nhỏ vừa tới New York để trao đổi các bức tranh của Hammershøi và Krøyer cho cổ phiếu công ty thép sắt Pennsylvania, đã cho đóng thùng những bức họa của Greta. "Tôi sẽ giữ bức tranh của cô gái kia trong một lô hàng," ông nói, ghi lại vào danh sách của mình. Khoảng vài tuần sau, tạp chí Nghệ Thuật Paris mới gửi thư cho Rasmussen. Bài viết là một bản tóm tắt về chiều hướng nghệ thuật hiện đại ở Scandinavian; trong một đoạn văn đề cập tới những tài năng lớn của Đan Mạch - hầu hết mọi người sẽ không chú ý đến nó - bao gồm cả Greta "Với lối sáng tạo hoang dã và khoa trương" nó nhận xét. "Bức vẽ của cô dựa trên Lili có thể trở nên đáng sợ nếu không nói là tuyệt đẹp như vậy." Bài phê bình không còn nói gì khác. Nó luôn là một cái nhìn nhanh gọn và tổng quát. Rasmussen đã gửi chuyển tiếp bài báo được cắt ra cho Greta, cô đọc nó với một cảm xúc lẫn lộn không thể giải thích: với cô, điều này còn sửng sốt hơn là việc cái tên Einar không được nhắc đến. Nghệ Thuật Đan Mạch được bao quát tổng kết, và Einar không có một vị trí nào ở đây. Cô cất mảnh báo vào trong ngăn kéo tủ quần áo. Nó nằm dưới bài in bằng mực xêpia của Teddy và những bức thư từ cha cô ở Pasadena, thuật lại về vườn cam, các buổi đi săn sói, và nhóm hội họa gồm các quý bà ở Santa Monica mà cô có thể tham gia một khi quyết định rời khỏi Đan Mạch. Greta sẽ không đưa bài viết kia cho Einar. Nó thuộc về cô; những ngôn từ khen ngợi là dành cho cô. Một lần nữa, cô không thấy chia sẻ là cần thiết vào lúc này. Nhưng Greta không thể chỉ đọc bài viết rồi gấp nó lại trong ngăn kéo. Không, cô cần phải hồi âm. "Cám ơn về bài phê bình đầy sâu sắc," cô bắt đầu. "Nó sẽ có một chỗ đặc biệt trong tệp tài liệu của tôi. Những ngôn từ ông dùng để miêu tả thật tốt bụng. Mong ông sẽ ghé thăm vào lần tới khi đến Copenhagen. Nó chỉ là một thành phố nhỏ, nhưng rất tinh tế. Điều gì đó đã nói với tôi rằng ông chưa từng đặt chân tới nơi này. Ngoài ra tôi vẫn còn muốn hỏi nhờ một việc. Chồng tôi, Einar Wegener, một họa sĩ tranh phong cảnh, đã mất liên lạc với một người bạn thân thiết. Chúng tôi chỉ biết anh ta sống ở Paris, là một đại lý buôn bán tranh. Có thể nào ông cũng quen anh ta không, Hans Axgil, con của nam tước? Anh ta đến từ Bluetooth, Jutland. Einar rất muốn gặp lại anh ấy. Rõ ràng là họ khá thân với nhau khi còn bé. Chồng tôi trở nên khá hoài cổ - như cách mà những người đàn ông khác nhớ lại về tuổi xuân của mình - khi anh nói về Hans và tuổi thơ ở Bluetooth, nơi thực sự nằm trong đầm lầy. Nhưng tôi nghĩ có khả năng ông cũng biết về Hans, nếu ngành nghệ thuật trên thế giới bé nhỏ hơn chúng ta vẫn nghĩ. Nếu ông có địa chỉ của anh ta thì thật tuyệt. Làm ơn hãy gửi nó cho tôi, tôi đảm bảo sẽ chuyển lời tới Einar. Anh ấy sẽ rất biết ơn." *Chú thích: Fotina: tên một loại phô mai CÔ GÁI ĐAN MẠCH David Ebershoff www.dtv-ebook.com Chương 7 Một tuần sau khi bữa tiệc kết thúc, Lili gặp Henrik ba lần vào buổi tối trên hàng ghế ở Kongens Have. Vẫn không thực sự chắc chắn, cô chỉ đồng ý đến gặp anh lúc hoàng hôn, mà vào cuối tháng Sáu mặt trời chỉ lặn sau giờ ăn tối. Mỗi khi thay quần áo, lấy chiếc váy ra từ tủ để chuẩn bị cho buổi hẹn hò, cô lại cảm thấy tội lỗi. Greta vẫn đọc báo trong phòng khách, nhưng Lili có thể cảm nhận được ánh mắt của Greta khi cô đắp phấn, tô son và cuộn nhét những chiếc tất vào trong áo lót. Lili nhón chân quanh Edvard IV, đang nằm dài trên chiếc thảm hình bầu dục trước gương. Lili nhìn chằm chằm vào cái gương, nghiêng mặt về bên trái, rồi lại bên phải. Cô cảm thấy có lỗi vì bỏ lại Greta với tờ báo cùng cái đèn đọc sách hình nón - nhưng điều đó vẫn không đủ để hủy bỏ cuộc hẹn với Henrik bên ánh đèn đường. "Em định ra ngoài à?" Greta hỏi vào đêm đầu tiên khi Lili định ra khỏi cửa, ngay khi chiếc tù và trên bến phà Bornholm vang lên. "Chỉ đi bộ một chút thôi," Lili trả lời. "Một chút khí trời thoáng mát sẽ tốt hơn." "Nhưng vào giờ này sao?" "Miễn là chị không bận tâm." "Không sao đâu," Greta nói, chỉ về phía đống báo dưới chân mà cô muốn đọc hết trước khi lên giường. "Em đi một mình à?" "Không hẳn." Lili không thể nhìn thẳng vào Greta khi trả lời, mắt cô cúi xuống sàn nhà. "Em có hẹn với Henrik. Nhưng chỉ là đi dạo thôi." Lili theo dõi gương mặt của Greta. Hai má hơi giật và có vẻ như đang nghiến răng lại. Greta ngồi trên ghế đọc báo. Cô khẽ nhăn nó lại trong lòng. "Đừng về muộn quá đấy," cuối cùng cô nói. Henrik để Lili đợi gần 20 phút dưới chiếc cột điện bên đường. Cô lo rằng có lẽ anh đã đổi ý, hoặc có thể anh đã nhận ra điều gì đó về cô. Điều ấy làm cô sợ khi ngồi một mình trên phố. Nhưng cô cũng vui thích với cảm giác tự do, điều gì đó thôi thúc cô có thể làm tất cả những gì mình muốn. Khi Henrik xuất hiện, anh thở hổn hển và bờ môi ướt đẫm, vội vàng xin lỗi. "Anh đang vẽ dở nên quên mất thời gian. Em đã bao giờ như vậy chưa, Lili? Gần như quên hết mọi thứ xung quanh, mình là ai và đang ở đâu." Hai người đi dạo khoảng một tiếng đồng hồ trong màn đêm ấm áp. Họ không nói gì nhiều, và Lili hầu như cũng không có gì để nhắc tới. Henrik nắm tay cô. Khi con đường hoàn toàn vắng vẻ chỉ còn một chú chó đi lạc, anh tiến tới hôn cô. Họ tiếp tục hẹn nhau hai đêm tiếp theo. Lili rời khỏi nhà trong cái liếc nhìn của Greta sau tờ báo. Và mỗi lần Henrik đều đến trễ, chạy hồng hộc, màu vẽ dính vào móng tay và những lọn tóc của anh. "Anh muốn gặp Greta vào một lúc nào đó," Henrik nói. "Để chứng tỏ rằng anh thật sự không phải loại đàn ông bỏ chạy khi gặp một cô gái đang ngất xỉu." Họ ở lại khá muộn vào đêm thứ ba, khi tiếng gọi của trạm xe điện cuối cùng vang lên, sau một giờ sáng, các ngôi nhà ven đường đều đã đóng cửa. Lili vẫn nắm lấy tay Henrik rồi đi bộ dọc qua phố, nhìn vào hình ảnh phản chiếu trên mặt kính phẳng của các cửa hàng, hôn nhau dưới bóng tối gần cửa ra vào. Cô biết rõ mình nên quay về Widow House, nhưng đồng thời cô cũng muốn ở lại đây mãi mãi. Lili biết chắc Greta đang đợi cô, đôi mắt dán vào cửa trước. Nhưng căn hộ đã tối đen khi cô trở về nhà, cô rửa mặt thay quần áo rồi leo lên giường với thân phận Einar. Ngày hôm sau Greta nói với Lili rằng cô không nên gặp Henrik nữa. "Em có nghĩ như vậy công bằng không?" cô hỏi. "Khi lừa dối anh ta như vậy? Em nghĩ anh ta sẽ cảm thấy thế nào chứ?" Nhưng Lili không hiểu ý của Greta. Henrik sẽ nghĩ về cái gì cơ? Trừ khi Greta nói rõ lại với Lili, nếu không cô sẽ hoàn toàn quên mất mình thật sự là ai. "Nhưng em không muốn ngưng gặp anh ấy," cô nói. "Vậy hãy làm điều đó vì chị đi." Lili trả lời rằng cô sẽ cố thử, nhưng dù vậy cô biết đó là điều không thể. Khi cô đứng trong phòng, trước giá vẽ trống trơn của Einar, cô biết mình đang lừa dối Greta. Nhưng Lili không biết phải làm gì khác nữa. Và thế là Lili và Henrik bí mật hẹn gặp nhau vào cuối trưa, trước khi cô phải về nhà kịp giờ ăn tối. Ban đầu Lili cảm thấy khó khăn khi phải gặp Henrik vào buổi sáng, dưới ánh mặt trời chiếu xuống gương mặt cô. Cô sợ rằng anh sẽ nhận ra cô không hề xinh đẹp, hoặc điều gì đó tệ hơn nữa. Cô choàng chiếc khăn quàng lên đầu, thắt nút lại dưới cằm. Lili chỉ có thể cảm thấy thoải mái khi ngồi cùng anh trong bóng tối của rạp phim Rialto, tay trong tay, hoặc ở thư viện yên tĩnh của Học Viện Hoàng Gia, trong căn phòng đọc sách với ánh đèn mờ bởi lớp vải xanh. Đêm cuối cùng Lili hẹn Henrik bên hồ Ørstedsparken vào chín giờ tối. Hai con thiên nga lướt trên mặt nước, và tán cây liễu nghiêng xuống bãi cỏ. Henrik lại tới muộn, khi đến nơi anh hôn lên trán cô. "Anh biết chúng ta chỉ có ít thời gian," anh nói, rúc đầu vào cổ cô. Nhưng Greta phải có mặt tại buổi tiếp đón ở đại sứ quán Mỹ đêm đó. Cô sẽ phải ra ngoài trong vài tiếng đồng hồ, và Lili định nói với Henrik rằng họ có thể thoải mái ăn tối ở nhà hàng với các bức tường bọc ván tại Gråbrødre Torv. Có thể đi dạo dọc Langelinie như các cặp đôi khác trong một buổi tối mùa hè mát mẻ. Ngay cả cô cũng chưa thể tin vào điều mà cô chuẩn bị nói với Henrik, người luôn chỉ gặp mặt Lili trong khoảng hơn 20 phút. "Em có chuyện muốn nói với anh," cô nói. Henrik với lấy tay cô, hôn lên nó rồi áp vào ngực. "Ôi, Lili - đừng nói gì cả," anh nói. "Anh đã biết rồi. Không cần lo đâu, vì anh đã biết cả rồi." Gương mặt anh giãn ra, hàng lông mày nhướn cao lên. Lili rụt tay lại khỏi Henrik. Công viên trở nên yên lặng. Những người làm công ở đây đã trên đường trở về nhà với bữa tối trên bàn, còn người đàn ông lang thang gần toa lét công cộng đang đốt lửa từng que diêm. Một người đàn ông khác đi qua và nhìn về phía ông ta. Henrik đã biết chuyện gì kia? Lili tự hỏi, nhưng rồi cô nhanh chóng hiểu ra. Hàng lông mày của Henrik vẫn nhướn lên, còn Lili không ngừng run rẩy, và như thể Einar là người thứ ba bỗng nhiên xuất hiện, chứng kiến sự thân mật của Lili và Henrik. Giờ anh ở đây, Einar trong bộ váy của một cô gái, tán tỉnh một chàng trai kém tuổi. Đó thực sự là một cảnh tượng kinh khủng. Lili vẫn tiếp tục rùng mình. Người đàn ông kia bước vào toa lét, và sau đó là tiếng đổ rầm của thứ gì đó được ném vào thùng rác. "Em nghĩ mình không thể gặp lại anh nữa," cuối cùng Lili lên tiếng. "Hôm nay em tới để nói lời tạm biệt." "Em đang nói gì vậy? Tại sao em lại nói thế?" "Chỉ là bây giờ em không thể gặp anh nữa." Anh với lấy tay Lili nhưng cô rụt lại. "Nhưng điều đó không thay đổi tình cảm của anh với em. Có phải nó là vấn đề không? Đó cũng là điều anh muốn nói với em. Có phải vì em nghĩ anh sẽ không-" "Không phải bây giờ," Lili lặp lại, rồi cô đi mất. Cô rẽ ngang qua bãi cỏ khô héo vào mùa hè, gần như gẫy làm đôi dưới chân, tiến thẳng ra phố và rời khỏi công viên. "Lili," Henrik khóc thét dưới gốc cây liễu. Phải mất vài tiếng Lili mới có thể treo lại chiếc váy về chỗ cũ, tắm rửa và bắt tay vào một bức vẽ mới. Einar sẽ đợi Greta trở về nhà, cởi bỏ mũ và hỏi, "Anh đã có một buổi tối tuyệt vời chứ?" rồi hôn lên trán anh một cách rõ ràng rằng Greta đã đúng ngay từ đầu. CÔ GÁI ĐAN MẠCH David Ebershoff www.dtv-ebook.com Chương 8 Vào kỳ nghỉ hè tháng tám như mọi lần, Greta và Einar lại tới Menton, một thành phố bến cảng gần biên giới Ý. Sau những ngày hè dằng dẵng, Greta nói lời tạm với Copenhagen một cách nhẹ nhõm. Khi đoàn tàu bắt đầu khởi hành về phía Nam, qua dạy núi Maritime Alps, cô có cảm giác như bỏ lại một thứ gì đó. Năm nay, nhờ sự gợi ý của Anna đã biểu diễn trong rạp hát ở Monte Carlo vào tháng năm, Greta và Einar đã thuê một căn hộ trên đại lộ Boyer, đối diện con phố của sòng bạc Menton. Chủ căn hộ là một người Mỹ, đã vội vã tới Pháp sau chiến tranh để mua sạch toàn bộ các nhà máy quần áo từ Provence. Anh ta trở nên giàu có và giờ sống ở New York, các bức thư đều viết về những lợi nhuận từ lô hàng quần áo mặc trong nhà được bán cho các bà nội trợ phía nam Lyon. Sàn nhà của nó màu cam nhạt với hoa văn đá cẩm thạch, phòng ngủ thứ hai được sơn đỏ, và phòng khách có một chiếc cửa gấp vỏ bào ngư kiểu Trung Quốc. Cửa sổ phía trước mở ra một sân hiên nhỏ, nhưng vẫn đủ rộng cho một hàng chậu cây phong lữ và hai chiếc ghế lưới sắt. Nơi Greta và Einar thường ngồi mỗi buổi tối nóng bức, bắt chân lên tay vịn, thỉnh thoảng lại có một làn gió thổi qua những tán cây chanh và cam từ công viên bên dưới. Greta trở nên mệt mỏi, cô và Einar chỉ ngồi đó hàng giờ và cho tới cuối ngày không nói gì khác ngoài "Ngủ ngon." Vào ngày thứ năm của kì nghỉ, thời tiết bắt đầu thay đổi. Đợt gió Sirocco từ Bắc Châu Phi thổi qua những làn sóng Địa Trung Hải, bãi đá trên bờ biển và qua chiếc cửa sân hiên đang mở, khiến màn cửa gấp Trung Quốc thổi va lạch cạch. Greta và Einar đang ngủ trên chiếc giường đỏ khi nghe thấy tiếng động từ chiếc cửa gấp. Họ tìm thấy nó rơi trên sàn nhà, đối diện bộ sofa màu be. Nằm trên nó là mẫu giá quần áo được sản xuất bởi chủ căn hộ trong nhà máy của anh ta. Những chiếc váy trắng tinh với họa tiết hình hoa rung lên trên giá, như thể đứa trẻ nào đó đang kéo giật đống quần áo được treo. Chúng trông khá đơn giản, Greta nghĩ, với tay áo xắn lên một cách xấu xí và hàng khuy trước ngực để thuận tiện cho con bú - quá đơn giản và thực tế tới nỗi cô tự động cảm thấy không ưa cả những người phụ nữ mặc nó. Greta cố dựng cánh cửa gấp lên. "Giúp em với," cô nói. Einar đang đứng cạnh giá móc quần áo, những chiếc váy đung đưa về phía chân anh. Khuôn mặt Einar nín lặng. Greta có thể nhìn thấy các đường tĩnh mạch trên thái dương anh vẫn đang đập. Và những ngón tay của anh đang run rẩy, thứ mà cô luôn liên tưởng đến bàn tay của một người đánh dương cầm chứ không phải là họa sĩ. "Anh đang nghĩ rằng chúng ta nên mơi Lili tới thăm," Einar nói. "Cô ấy chưa từng được tới Pháp." Greta chưa bao giờ xua đuổi Lili. Có những lần sau khóa học hè, khi Einar báo trước Lili sẽ tới ăn tối cùng, và Greta vẫn kiệt sức sau buổi triển lãm thất bại, nghĩ rằng, Ôi chúa ơi, điều cuối cùng mình muốn làm ngay lúc này là ăn tối với chồng trong chiếc váy với bộ dạng của một đứa con gái. Nhưng Greta chỉ nghĩ nó trong đầu, cắn chặt môi cho tới khi cô có thể cảm nhận vị máu của mình. Cô biết không thể ngăn cản Einar. Cô nhận ra điều đó sau chuyện về Henrik, rằng Lili cũng có một nguyện vọng và ý chí riêng. Vào những tuần đầu trước khi họ tới Menton, Lili bắt đầu xuất hiện đột ngột vào buổi trưa. Greta phải rời nhà vì có hẹn. Khi quay lại, cô thấy Lili bên cửa sổ trong bộ váy mỏng, những chiếc cúc vẫn còn mở. Greta giúp cô