🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cô Dâu Áo Đen - Cornell Woolrich & Trang An (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo Giết chóc là điều tự nhiên đã gắn vào trong tim những gì tồn tại! Chẳng có gì đẹp đẽ hơn và vinh dự hơn là giết chóc! — de Maupassant Phần Một: BLISS Mặt trăng kia… mi thấy ta đứng một mình, tâm trí không mộng tưởng, trái tim không tình yêu. Mặt trăng kia… mi hẳn biết ta ở đây làm gì… — Rodgers và Hart NGƯỜI PHỤ NỮ “Julie, Julie.” Tiếng gọi bám theo người phụ nữ suốt bốn đợt cầu thang. Tiếng gọi đó là âm thanh mềm mại nhất nhưng cũng mạnh mẽ nhất mà đôi môi có thể phát ra được. Nhưng nó không khiến cô do dự, không ngập ngừng một bước. Khuôn mặt cô trắng bệch khi bước ra đón ánh mặt trời – chỉ thế thôi. Có một thiếu nữ đứng cạnh va ly ở cửa đợi cô, dường như không tin vào mắt mình khi thấy cô bước tới, lòng phân vân không biết cô lấy đâu ra sức mạnh để vượt qua chuyện đó. Người phụ nữ như đọc được suy nghĩ này, liền trả lời câu hỏi chưa nói ra. “Chị từ biệt họ chẳng dễ dàng gì, họ cũng vậy. Có điều chị đã quen rồi, còn họ thì chưa. Chị đã có nhiều đêm dài khiến mình cứng rắn, còn họ mới chỉ một lần. Chị đã trải qua cả nghìn lần rồi.” Không hề đổi ngữ điệu, cô nói tiếp, “Bắt taxi thôi, có một chiếc đằng kia.” Người thiếu nữ nhìn cô dò hỏi khi chiếc xe chạy tới. “Ừ, em muốn thì tiễn chị cũng được. Bác tài, tới ga trung tâm nhé.” Cô không ngoái nhìn ngôi nhà, không ngoái nhìn con phố đang lùi dần đằng sau. Cô cũng chẳng nhìn ra những con phố thân quen kế tiếp vốn là biểu trưng cho thành phố này, nơi cô lớn lên và trưởng thành. Ở quầy vé, họ phải chờ vì có người đã đến trước. Người thiếu nữ đứng vô vọng ở bên. “Chị định đi đâu?” “Cũng chưa biết nữa, lúc này thì chưa. Chị chưa tính toán được gì cả.” Cô mở túi xách tay, chia cuộn tiền nhỏ làm hai phần không đều nhau, cầm lấy phần nhỏ hơn. Cô bước tới cửa bán vé, đẩy tiền vào. “Chỗ này đủ cho tôi đi bao xa, đi trong ngày?” “Đến Chicago – còn thừa chín mươi xu.” “Thế cho tôi vé một chiều.” Cô quay lại với người thiếu nữ. “Giờ em về nói với họ như vậy nhé.” “Nếu chị không muốn thì em không nói đâu, Julie.” “Có sao đâu. Tên của một nơi nào đó có quan trọng gì khi mình còn đi không ai nhớ nổi?” Hai người ngồi trong phòng chờ một lúc, rồi đi xuống phía đường tàu, đứng ở cửa ra chờ tiếp. “Hôn tạm biệt nào, giống bạn bè tuổi thơ nhé.” Môi họ chạm nhẹ. “Đúng rồi.” “Julie, em biết nói gì bây giờ?” “Cứ nói ‘vĩnh biệt’. Trong cuộc đời này – người ta còn gì để nói với nhau chứ?” “Julie, em hy vọng sẽ gặp lại chị sớm.” “Không gặp lại đâu.” Sân ga lướt về phía sau. Con tàu lao qua một hầm dài rồi lại ngoi lên trong ánh nắng, lăn bánh trên những trụ cầu cao ngang với tầng trên của những tòa chung cư, những con phố lướt qua như những khe hẹp trên hàng rào. Khi tàu chuẩn bị chạy nhanh nhất thì nó lại giảm tốc độ, “Phố Hai Nhăm,” tiếng người soát vé vang trong toa. Người phụ nữ quyết tâm ra đi này với lấy chiếc va ly, đứng lên, bước giữa hai hàng ghế như thể đây là ga cuối rồi chứ không phải khởi đầu. Cô đứng sẵn sàng ở cửa khi tàu dừng. Cô bước ra ngoài, đi dọc sân ga tới cửa, men theo cầu thang ra phố. Cô mua một tờ báo ở quầy tại phòng chờ, chọn một cái ghế ngồi xuống, lật trang cuối ra xem phần rao vặt. Cô cuộn tờ báo lại cho vừa rồi lấy ngón tay dò theo cột có tựa ‘Phòng đủ tiện nghi’. Ngón tay cô dừng lại ở mục mà cô cũng không để ý cụ thể chi tiết là gì. Cô lấy móng tay bấm vào giấy để đánh dấu vị trí. Cô kẹp tờ báo vào nách, nhặt va ly rồi ra ngoài gọi taxi. “Đưa tôi tới chỗ này. Đây.” Cô đưa tờ báo cho lái xe. Bà chủ nhà lặng lẽ đứng chờ cô quyết định, cửa phòng vẫn mở. Cô quay lại nói với bà. “Tôi thấy chỗ này phù hợp rồi. Tôi sẽ trả tiền ngay cho hai tuần đầu.” Bà chủ nhà đếm tiền xong mới viết biên nhận. “Tên gì?” Bà ta nhìn lên khi hỏi. Cô liếc về phía chiếc va ly, nơi có chữ ‘J.B.’ mạ vàng bóng loáng một thời, giờ chỉ còn là vết mờ mờ giữa hai khóa. “Josephine Bailey.” “Tôi gửi cô giấy biên nhận, cô Bailey. Hy vọng cô ở đây thoải mái. Phòng tắm ở tầng sảnh, đi qua hai cánh cửa phía bên…” “Cám ơn bà, cám ơn. Tôi sẽ tìm được.” Cô đóng cửa, khóa từ bên trong. Cô cởi mũ, bỏ áo choàng, mở chiếc va ly mới vừa được chuẩn bị cho một chuyến đi cách năm mươi dãy phố – hay cả một cuộc đời. Phía trên bồn rửa mặt có một tủ thuốc mờ bụi phủ. Cô đến đó, mở ra, kiễng chân tìm kiếm gì đó. Đúng như cô nghĩ, ở cái đợt trên cùng có một lưỡi dao cạo râu han rỉ, do một khách nam nào đó đã bỏ lại đây từ lâu. Cô cầm lưỡi dao quay lại chiếc va ly, cắt lượn quanh vết chữ mờ ở nắp, lột lớp giấy bồi trên cùng để không còn dấu vết gì cả. Rồi cô rạch những đồ bên trong, cắt chỉ quần áo lót, áo ngủ, áo khoác; gỡ bỏ tiếp hai chữ cái một thời đại diện cho cô khi cô nhìn thấy. Quá khứ đã bị gạt bỏ, cô vứt lưỡi dao vào sọt rác, mạnh mẽ lau chùi đầu ngón tay. Cô nhìn trong ngăn ảnh ở nắp va ly, thấy có một bức hình nam giới. Cô lấy ra, giơ ra trước mặt, chăm chú nhìn rất lâu. Chỉ là một người bình thường, không có gì đặc sắc: không quá đẹp trai; mắt, miệng hay mũi đều cũng như mọi người. Cô nhìn bức ảnh rất lâu. Cô tìm được một hộp diêm trong túi xách tay, liền cầm bức ảnh ra chậu rửa. Cô châm lửa, đốt bức ảnh từ góc, cứ giữ nó trên tay cho đến khi cháy hết. “Vĩnh biệt,” cô thì thầm. Xả hết nước trong chậu, cô quay trở lại với chiếc va ly. Những gì còn lại trong cái ngăn nhỏ dưới nắp là một mẩu giấy có viết tên bằng bút chì. Cô phải khá vất vả mới lấy nó ra được. Tìm kỹ hơn, cô lấy ra được bốn mẩu giấy tương tự. Cô gom hết cả một chỗ, nhưng không đốt ngay, mà nghịch nghịch chúng một lúc với vẻ thờ ơ nhàn nhã. Cô đặt chúng lên mặt bàn trang điểm, mặt trống lật lên trên. Lấy ngón tay di qua di lại, cô nhặt một tờ lên, liếc mắt nhìn nội dung trong đó. Tiếp đến, cô lại gom cả lại, đốt toàn bộ năm mẩu giấy tại bồn rửa. Cuối cùng, cô bước tới bên cửa sổ, nhìn ra ngoài, hai tay tỳ vào gờ tường rắn chắc, bám chặt lấy. Dường như cô muốn nhoài người về phía thành phố bên dưới như thể nơi đó sắp có chuyện gì lớn xảy ra. BLISS Chiếc taxi phanh gấp trước cổng chung cư của Bliss, khiến gã chúi người về phía trước. Rượu trong dạ dày gã như cuộn lên sau cú này, không phải vì quá nhiều rượu trong đó mà vì gã mới uống xong. Gã ra khỏi xe, chạm đầu vào khung cửa khiến mũ bị lệch. Gã chỉnh lại cho ngay ngắn, tìm kiếm tiền lẻ, rơi một đồng xu xuống vỉa hè. Gã không say bê bết – gã chưa bao giờ bị như thế cả. Ai nói gì với gã, gã đều biết, mà gã nói gì với ai, gã cũng nhớ cả; gã cảm thấy thoải mái. Không quá nhiều, cũng không quá ít. Trong đầu lúc nào cũng có ý nghĩ về Marge – có vẻ như gã sắp thực sự đạt được điều gì đó với cô. Chẳng ai dại gì nhấn chìm suy nghĩ đó vào trong rượu cả. Charlie, đang ca trực đêm, xuất hiện sau lưng gã khi gã trả tiền cho tài xế. Hôm nay Charlie có vẻ đón khách hơi trễ so với thường ngày vì cố ngồi trên ghế đọc nốt đoạn cuối cùng phần bình luận thể thao xong thì mới ra. Nhưng lúc này đã là hai giờ rưỡi đêm rồi. Có ai hoàn hảo đâu chứ. Bliss quay người lại. “Chào Charlie.” “Chào ông Bliss.” Charlie giữ cửa mở cho gã, Bliss liền đi vào. Charlie đi sau, hoàn thành nhiệm vụ ở mức độ đáng hài lòng. Anh ta ngáp, Bliss cũng ngáp theo cho dù không nhìn thấy – vấn đề này hẳn sẽ khiến chuyên gia siêu hình phải quan tâm. Tường trên sảnh có treo một cái gương. Bliss bước lại đó, soi mình như mọi ngày. Thông thường có hai hình ảnh phản chiếu lại. Một là ‘mình ổn đấy, tối nay thế nào nhỉ’ – đó là hình ảnh gã chuẩn bị ra ngoài. Hai là ‘mệt vãi ra, leo lên giường được là may’ – đó là hình ảnh khi gã trở về. Lúc này Bliss thấy một tay hai mươi bảy tuổi, tóc cắt trụi lụi đang nhìn mình. Tóc gã cắt ngắn đến nỗi hai bên trông sáng bóng. Mắt nâu, người vuông vức, cao nhưng không đến như cái sào. Tay này biết hết mọi điều về gã – Bliss. Không đẹp trai, nhưng làm gì có ai muốn đẹp trai chứ nhỉ? Đến cả Marge Elliott còn không quan tâm xem gã có đẹp trai hay không mà. ‘Thế nào thì anh cũng là Ken,’ cô đã nói như thế. Gã thở dài, lấy tay gỡ bông hoa trắng đã héo úa đang lủng lẳng trên khuyết áo, xé nó thành những mảnh vụn. Bliss moi ra một bao thuốc nhăn nhúm, lấy một điếu cho mình rồi nhòm qua cái lỗ nhỏ ở góc bao bên phải, thấy còn một điếu nên mời Charlie. “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn*,” gã nhận xét Charlie nhận điếu thuốc, đoán chừng giờ này chắc chẳng còn ai khác vào nữa. Phần bụng Charlie to tròn. Anh ta khó mà lau chùi sạch sẽ từ trên xuống dưới toàn bộ thân cột đỡ bằng đồng đang chống mái che cửa, nhưng từ giữa trở lên thì luôn sáng như nữ trang. Anh ta cũng đủ sức giúp đỡ những gã say xỉn có trọng lượng nặng gấp đôi mình. Anh ta làm gác đêm ở đây từ khi Bliss dọn đến ở. Bliss thích anh ta, anh ta cũng ưa Bliss. Gã từng cho Charlie hai đô-la vào dịp Giáng sinh, thêm hai đô-la nữa chia làm bốn lần trong cả năm. Nhưng đó không phải là lý do; Charlie thích gã, thế thôi. Bliss châm lửa cho cả hai người, trước khi quay người bước tới thang máy. Charlie nói, “À, mà tôi suýt quyên chuyện này, ông Bliss. Tối nay có một cô đến tìm ông đấy.” “Thế á? Tên gì thế?” Bliss đáp lại khá thờ ơ. Chắc không phải Marge rồi, thế nên có gì đáng bàn nữa đâu. Gã dừng bước nhưng chỉ hơi ngoảnh mặt lại đón câu trả lời. “Không biết,” Charlie đáp. “Tôi không moi được tên, dù đã hỏi hai ba lần rồi ấy.” Anh ta nhún vai. “Cô ta không muốn nói thì phải.” “Chẳng sao,” Bliss nói. Đúng là chẳng sao thật. “Cô ta muốn lên đợi ông trong nhà,” Charlie nói thêm. “Ấy ấy, đừng có làm như thế nhé,” Bliss nói nhanh. “Thời đấy qua rồi.” “Tôi biết chứ. Tôi đâu làm thế, ông Bliss, đừng lo…” Charlie nhấn mạnh đủ để thể hiện sự chân thành, sau đó nói thêm kèm theo một cái lắc đầu kín đáo, “Nhưng cô ta có vẻ rất muốn thế.” Có điều gì đó trong cách nói của Charlie đã gợi trí tò mò của Bliss. “Anh nói cụ thể xem nào.” Gã bước trở lại một bước, quay hẳn người lại về phía Charlie. “À, cô ta đứng ngay chỗ này với tôi, chếch ra một chút, chỗ kia, cạnh cái gương, sau khi tôi gọi ông mà không thấy trả lời. Cô ấy bảo, ‘Hay tôi lên đó đợi nhé?’ Tôi bảo, ‘Không biết đâu, thưa cô. Tôi không được phép…’ Ông biết đấy, tôi cố cản cô ta. Cô ta liền mở túi ra, cái túi to bằng quyển sách cô ta cứ giữ khư khư cả buổi, rồi ra vẻ tìm cái gì đó như son môi chẳng hạn. Tôi thấy ở trên cùng là một tờ một trăm đô-la, đang nhìn tôi chằm chằm ấy. Ông chắc không tin đâu, nhưng tôi nhìn thấy tận mắt…” Bliss cười khinh khỉnh có kiềm chế. “Anh nghĩ là cô ta định dâng anh tờ đó để anh đưa cô ta lên à, Charlie thân mến?” Gã ra vẻ nhạo báng. Chẳng có gì có thể làm lụi vẻ nhiệt thành trong đôi mắt của Charlie. “Tôi biết rõ mà, ông Bliss, sao mà nhầm được. Từ cách thức của cô ta là chắc luôn. Cô ta để miệng túi mở toang, ngón tay mò mò bên trong nhưng không gây xáo trộn gì hết. Tờ tiền nằm phẳng lỳ, ở trên cùng. Cô ta nhìn tiền rồi lại nhìn tôi, thẳng vào mắt tôi này – còn hơi dứ cái túi ra nữa. Không dí thẳng vào tôi, ông hiểu rồi đấy, nhưng có dứ ra ngoài để tôi hiểu ý. Tôi làm nghề này bao năm, tôi còn lạ gì nữa.” Bliss gãi gãi khóe miệng bằng cạnh móng tay như thể xem nó còn ở đó không. “Anh không nhìn nhầm tờ mười đô chứ, Charlie?” Charlie hơi cao giọng nhấn mạnh, “Ông Bliss này, tôi nhìn thấy hai số 0 ở trên hai góc đấy.” Bliss lấy lưỡi đá vào giữa hai hàm răng rồi lại thụt vào. “Thôi được rồi.” Gã xoay hẳn về phía Charlie như định nói tiếp cho đến khi hiểu và hài lòng về câu chuyện này. Charlie nắm bắt được là cần phải tiếp tục với gã. Anh ta nói, “Chờ tôi một chút, ông Bliss,” khi có tiếng chuông báo có một chiếc taxi khác vừa tới. Anh ta tới làm nhiệm vụ ở cửa, quay trở lại cùng một cụ ông và một cụ bà mặc trang phục buổi tối, chắc họ đã trưng diện cho một dịp gì đó từ tám rưỡi tối. Đi qua Bliss, họ khẽ gật đầu chào nên gã cũng gật đầu chào họ một cách cứng nhắc như những người hàng xóm ở đô thị lớn. Họ vào thang máy và đi lên. Ngay khi cái lỗ tròn bằng thủy tinh ở cửa thang máy bị che khuất, Charlie và gã liền tiếp tục câu chuyện dang dở. “Cô ta trông thế nào? Anh đã thấy cô ta bao giờ chưa? Anh biết rõ những người tôi hay qua lại mà.” “Có, tôi có biết,” Charlie xác nhận. “Tôi không nhận ra cô ta. Chắc là chưa gặp bao giờ, ông Bliss ạ. Có điều phải nói là cô ta trông được đấy. Trông được đấy.” “Rồi. Trông được,” Bliss nói, “nhưng được thế nào?” “À, tóc vàng.” Charlie khua tay như họa sĩ vẽ hình, cố tạo trong không khí hình ảnh, chắc là vậy, một mái tóc đẹp. “Tóc vàng xịn ấy nhé, không phải loại bạc phếch giả tạo đâu. Tóc vàng thật.” “Tóc vàng thật,” Bliss nhẫn nại. “Mắt xanh nữa. Kiểu mắt biết cười ngay cả khi miệng chả cười ấy. Cao chừng này… cằm cô ta cao tới vạch thêu thứ hai trên vai áo tôi đây, thấy chưa? Không béo lắm, nhưng không gầy đâu. Đủ vòng tay ôm.” Mắt Bliss lúc này đang nhìn phía góc trần đối diện, tưởng tượng theo lời mô tả. “Không,” gã nói, “không,” như đang lật hồ sơ người quen. “Người có vẻ giống nhất là Helen Raymond, nhưng mà…” “Không phải. Tôi có nhớ cô Raymond,” Charlie nói chắc nịch. “Không phải cô ấy. Tôi gọi taxi cho cô ấy mấy lần rồi mà.” Anh ta nói tiếp, “Với lại tôi chắc là ông cũng không biết cô ta. Bởi vì cô ta cũng không biết ông.” “Sao cơ?” Bliss ngạc nhiên. “Thế cô ta đến đây tìm tôi làm quái gì chứ, lại còn định vào nhà tôi nữa?” Trong cuộc đua này Charlie vẫn đang thua một vòng. “Cô ta chẳng biết tí gì về ông cả,” anh ta vẫn khẳng định hùng hồn. “Tôi có thử rồi, lúc đi lên…” “Vậy là anh đã để cô ta lên. Thế đúng là tờ một trăm thật rồi.” Charlie hắng giọng đầy chủ ý khi nhận ra mình nhỡ lời. “Không phải đâu, ông Bliss,” anh ta cố gắng thanh minh. “Ông lạ gì tôi nữa chứ, tôi đâu có thế. Tôi có cho chạy thang máy để lên cùng, ra bộ như tôi để cô ta lên ấy. Tôi nghĩ như thế là cách đuổi cô ta đi nhanh nhất – giả vờ là đồng ý, đến phút cuối thì…” “Cái đó tôi biết,” Bliss đáp khô khan. “Chúng tôi đi thang máy lên cùng nhau, tới tầng bốn. Lúc đi lên tôi còn nhớ vụ cướp năm ngoái ở đây, nên tôi nghĩ nên cẩn thận là hơn. Tôi bắt đầu mô tả ông – tức là mô tả ngược hẳn ông thật ấy – để thử. Tôi bảo, ‘Ông ta tóc đỏ nhỉ, cao lắm, tầm mét tám nhỉ? Tôi mới làm ở đây nên hỏi lại cho đúng người. Ở đây có nhiều người thuê nhà lắm.’ Cô ta tin ngay. ‘Đúng rồi đấy,’ cô ta bảo, ‘ông ấy đấy.’ Trả lời nhanh lắm, để tôi không biết đó là lần đầu tiên cô ta nghe lời mô tả về ông.” “Thế…” Bliss nói. Gã đồng ý rằng đó là điều gã cũng sẽ làm. “Với tôi tất nhiên thế là đủ rồi,” Charlie trấn an gã. “Khi tôi nghe thấy thế là tôi thầm nhủ, ‘Không lừa được rồi. Ca tôi trực thì đừng hòng nhé.’ Nhưng tôi không nói gì với cô ta vì… à cô ta ăn mặc đẹp, lịch sự từ trên xuống dưới theo kiểu loại người không thể ăn nói vớ vẩn với họ được. Thế nên tôi phải tìm cách nhẹ nhàng. Tôi cố tình dùng nhầm chìa, giả bộ không mở được, mà cũng không có chìa khác nên không cho cô ta vào được. Chúng tôi xuống nhà, cô ta cũng coi như bỏ qua, hình như là không có nhiều thời gian, nhưng kiểu gì cô ta cũng quay lại, đại loại thế. Cô ta cười, nói với tôi, ‘Để lúc khác vậy,’ rồi đi ra phố y như lúc đi vào. Tôi thấy rất có gì đó không ổn, so với cách ăn mặc đó. Tôi nhìn cô ta đi tới tận góc phố mà không thấy gọi xe taxi, cứ thế đi thôi như thể lúc đó là mười giờ sáng. Cô ta rẽ vào góc phố rồi đi mất. O’Connor, tay cảnh sát ấy, có đi qua cô ta khi đến đây. Tôi còn thấy anh ta quay người nhìn cô ta mà. Cô ta rất bắt mắt.” “Người dưng nước lã thôi mà,” Bliss nhận xét. “Chỉ còn một điều khúc mắc này. Nếu tôi không biết cô ta – và theo cách anh mô tả thì cô ta cũng chẳng biết tôi – thì chuyện này là chuyện khỉ gì đây nhỉ? Có khi cô ta nhầm tôi với người khác.” “Không đâu. Cô ta nói tên ông đúng luôn, cả họ lẫn tên. ‘Ông Ken Bliss,’ cô ta hỏi khi vào đây.” “Lúc đến cũng không đi xe à?” “Không, từ đâu không biết đi bộ đến, rồi lúc đi cũng vẫn cuốc bộ. Trông không hợp chút nào.” Họ tiếp tục nói về chuyện đó một lúc nữa, rất thẳng thắn và thoải mái, nhờ không bị quấy rầy vào lúc hai rưỡi sáng. “Sống ở thành phố lớn thế này thì lúc nào chẳng có dịp gặp mấy chuyện lạ lùng như thế. Chắc chắn đấy ông Bliss. Làm nghề này tôi thấy nhiều lắm rồi. Có người thì cho rằng họ biết tôi, có người thì rằng họ yêu tôi, lại có người lại nghĩ rằng tôi đã từng làm gì cho họ. Ông chắc sẽ ngạc nhiên khi biết có bao nhiêu kẻ tâm thần đang lởn vởn xung quanh …” “Có thể là giờ thì có một kẻ như thế dính vào tôi rồi đấy. Giờ đi ngủ với ý nghĩ đó cũng hay,” Bliss cau có. Gã quay người đi, bấm nút gọi thang máy. Gã cười với Charlie ngay trước khi cửa thang máy đóng lại. ‘Thế này thì thanh niên trai tráng sống một mình chẳng còn an toàn nữa rồi. Mình phải lấy vợ để có người bảo vệ thôi.’ Suy nghĩ đó của gã là về Marjorie – không về ai khác cả. Corey xuất hiện ở cửa vào lúc tám rưỡi, khi gã còn khướt mới bắt đầu chuẩn bị. Tối nay là tiệc đính hôn của Marjorie. “Quái gì thế này,” Bliss nói, vờ giọng gầm gừ vốn chỉ dành cho bạn thân. “Tôi mới ăn về xong, còn chưa cạo râu.” “Tôi gọi điện đến văn phòng anh lúc bốn rưỡi. Biến đi đâu thế hả?” Corey vặc lại với sự hùng hổ không kém. Anh ta đi vào, chiếm cái ghế đẹp nhất, gác một chân lên thành ghế. Anh ta cởi mũ, nhằm khung cửa sổ ném. Trượt, nhưng mũ hạ xuống kệ sách bên dưới. Corey không phải người có ngoại hình xấu, kể cả khi không có trang trí thêm. Cao hơn Bliss, săn chắc hơn một chút – có thể là vì anh ta cao hơn nên trông như vậy – tóc màu nâu sẫm, lông mày rậm. Anh ta luôn cố tỏ ra là người thành phố lịch sự, nhưng chỉ là bề ngoài; ta có thể nhận thấy bản chất nguyên thủy dưới lớp vỏ đó. Thỉnh thoảng lớp vỏ lại nứt ra và ta có thể thấy cánh rừng nguyên sinh. Bề ngoài hay không cũng vậy, anh ta đang cố hắng hết sức để duy trì. Đến bữa tiệc nào thì cũng sẽ gặp anh ta ở đó, đứng ở cửa, giơ cốc rượu, tay vươn ra bắt nồng ấm. Nói với cô gái nào đó về anh ta thì thể nào cô ta cũng đã biết anh ta rồi – hoặc có cô bạn biết anh ta. Kiểu của anh ta là đối đầu trực diện, tấn công vũ bão, và đã thành công ở những trường hợp vô vọng nhất. Đã có vài tay đầu gấu, sừng sỏ bị cho nằm sàn, nếu như người ta chịu nói ra chuyện đó. Anh ta xoa xoa tay, nở nụ cười ác độc. “Tối nay thôi là anh dính câu rồi. Tối nay thôi là anh vào chuồng rồi. Còn muốn chạy nhảy không? Chắc muốn chứ. Mặt cắt không còn hột máu rồi kìa…” “Tưởng tôi cũng giống anh chắc?” Corey xỉa ngón tay cái vào ngực mình. “Nên được như tôi anh bạn. Thằng này không bao giờ bị người ta bắt thề nguyền bao giờ.” “Nếu anh tắm thường xuyên hơn thì thể nào cũng có người yêu cầu đấy,” Bliss miệt thị. “Thế khi đèn tắt thì sẽ tìm tôi hơi khó đấy nhỉ? Không tiện chút nào. Thế chiều nay anh biến đi đâu thế? Tôi định rủ anh đi ăn.” “Tôi có việc ra ngoài một chút.” Gã mở ngăn kéo, lấy ra một chiếc hộp vuông xinh xắn, lật nắp mở ra. “Anh thấy thế nào?” Corey gỡ nó ra khỏi đế nhung, tỏ vẻ ngưỡng mộ. “Đúng là đá xịn đấy!” “Chắc thế. Tốn một mớ đấy.” Bliss nhét chiếc hộp trở lại ngăn kéo với vẻ thờ ơ có chủ động, rồi gỡ đai quần. “Tôi đi tắm một cái. Anh tự lấy rượu uống nhé.” Khoảng hai mươi phút sau gã trở ra, quần áo chỉnh tề. “Cô ta là ai thế?” Corey hỏi mà không rời mắt khỏi tờ báo đang đọc. “Cô nào cơ?” “Anh tắm thì điện thoại reo, có cô nàng tìm anh đấy. Theo cách cô nàng nói thì không phải bạn cũ đâu. ‘Có phải nhà ông Kenneth Bliss đó không?’ Tôi bảo là anh đang bận, có cần tôi giúp gì không thì cô nàng cúp máy luôn.” “Quái thật.” Corey xoay xoay chiếc cốc trên tay. “Hay là cô nhà báo nào đang tìm cách viết bài về buổi đính hôn của anh tối nay.” “Không đâu. Thường thì họ hay hỏi bên đằng nhà gái. Bên nhà Marjorie đã tung đủ thông tin rồi còn gì. Không hiểu có phải là cô ta không nữa?” gã nói sau một hồi suy nghĩ. “‘Cô ta’ nào?” Bliss cười. “Tôi chưa kể với anh là tôi có người hâm mộ bí ẩn nhỉ. Chuyện này cũng chưa lâu lắm. Có một hôm tôi đi ra ngoài thì có một cô gái đẹp tìm mọi cách để vào nhà này. Tay gác cửa có kể lại mà. Cô ta không chịu nói tên gì cả. Tay gác cửa thì biết rõ bạn bè tôi – mà anh lạ gì mấy tay gác cửa nữa – nên nói là chưa bao giờ gặp cô ta. Cô ta mặc quần áo buổi tối, trông lịch sự – theo anh ta nhận xét. Có điều cô ta không đi ô tô tới cửa – điều đó là lạ lùng nhất – mà tự dưng xuất hiện. “Anh ta bảo là cô nàng mở túi ra, vờ vịt là tìm son môi hay gì đó nhưng thực tình là để chưng ra tờ một trăm đô-la nằm trên cùng. Cách cô ta thể hiện là để anh ta hiểu rằng tiền đó sẽ thuộc về anh ta nếu như anh ta mở mở cửa cho cô ta vào.” Corey có vẻ không tin lắm. “Anh nghĩ là tay gác cổng lại chịu bỏ qua cơ hội kiếm một trăm đô-la dễ dàng đó à? Bịp anh đó thôi.” “Cái đó thì không rõ. Số tiền đó lớn, nên tôi thấy nó có vẻ là thật. Nếu anh ta chỉ bịa chuyện thì có lẽ chỉ bịa là tờ mười hay hai mươi là cùng.” “Thế anh ta làm gì – cho cô ta vào?” “Theo như anh ta kể thì tờ một trăm đó gần hạ được anh ta, anh ta đã đưa cô ta lên, gần như cho cô ta vào rồi. Nhưng anh ta cho rằng nên có bài thử thì tốt hơn, xem cô ta có biết tôi thật không trước khi mở cửa. Thế là anh ta tả tôi lung tung, hoàn toàn không giống thật. Cô ta tin thế và xác nhận – nghĩa là cô ta chưa bao giờ gặp tôi ngoài đời. “Dĩ nhiên thế là xong rồi. Anh ta sợ, không dám tiến tiếp. Lấy cớ không có chìa hay sao đó để từ chối khéo. Trang phục của cô ta đủ để anh ta không dám nặng lời. Thấy không ăn thua gì, cô ta cười, nhún vai, rồi quay ra phố.” Corey chồm ra phía trước với vẻ quan tâm. “Thật là không nhận ra được cô ta từ lời mô tả ư?” “Không nhận được. Tôi cũng nói với anh rồi, chính cô ta cũng không nhận ra tôi.” “Không hiểu cô ta định làm gì nhỉ?” “Chắc chắn là cô ta không phải lên khoắng gì trong phòng rồi, vì dám bỏ một trăm ra để mua vé vào nhà mà. Ai mà moi được một trăm đô-la từ đâu đó trong nhà này thì là ảo thuật gia chứ chẳng chơi.” Corey gật gù đồng tình ở điểm này. Bliss đứng lên. “Đi thôi.” Anh ta cười, lo lắng. “Đám cưới thì tôi cũng chẳng ngại gì, ghét là mấy cái thủ tục trước đám cưới… như tối nay chẳng hạn.” “Điều tôi thích nhất,” Corey nói, “là không phải để nó diễn ra.” Họ đi ra hành lang, đợi thang máy thì nghe thấy tiếng chuông kêu kính koong đâu đó ở sau mấy cánh cửa đóng kín. Bliss vểnh tai nghe. “Nốt sol giáng. Chuông nhà tôi đấy. Để tôi quay vào một lúc, có khi là Marge gọi.” Gã quay lại cửa nhà, lục túi tìm chìa khóa nhưng đánh rơi nên phải cúi xuống nhặt. Corey thò chân vào thang máy để giữ cửa mở. “Nhanh lên, kẻo người ta gọi thang mất bây giờ,” anh ta giục. Bliss mở cửa. Căn phòng đầy tràn tiếng chuông điện thoại rồi bất ngờ tắt, không thấy kêu trở lại. Gã quay trở ra, đóng cửa lại. “Không kịp, bên kia cúp máy rồi.” Trên đường đi xuống, Corey gợi ý, “Chắc vẫn là cô nàng kỳ bí đó rồi.” “Nếu đúng thế,” Bliss làu bàu, “tôi không biết cô ta muốn gì, nhưng hẳn là muốn lắm đấy.” Còn lại một mình với Marge, đứng tách khỏi những người đang tham dự bữa tiệc, gã gãi gãi sau gáy, ra chiều lúng túng giả bộ. “Giờ thì thế nào nhỉ? Anh xem cũng nhiều phim rồi nên cũng biết qua mấy chiêu. À, thử kiểu nhắm tịt mắt nhé, thế là an toàn nhất. Em nhắm mắt lại, đưa ngón tay ra.” Cô ngay lập tức dựng ngón tay cái, đẩy về phía gã. Gã gạt ra. “Không phải ngón đó. Giúp anh chút đi nào. Anh mà cuống quá thì…” “Ối, nhầm ngón à? Anh phải nói rõ chứ. Nhỡ anh muốn cắn ngón tay thì sao?” Đến phần chiếc nhẫn. Hai cái đầu chụm vào nhau cùng nhìn xuống; hai bàn tay đan chặt. Họ tạo ra những tiếng rầm rì, rúc rích có ý nghĩa là ngôn ngữ đối với họ. Đột nhiên họ chợt ý thức được có người đang nhìn chằm chằm, liền đồng thời quay đầu lại phía cửa. Một cô gái đứng ở đó, không hề nhúc nhích, như thể đã bắt rễ vào sàn nhà. Trang phục của cô ta là nhiều lớp đen chồng lên nhau, phía trên là đôi vai trắng ngần nhô cao mà không có dây đeo nào cả. Một chiếc khăn voan mỏng có trang trí kim tuyến phủ qua mái tóc màu vàng ruộm như người ta mới phủ bằng bột ngô. Sự đồng cảm thoáng qua – hay đó là sự nhạo báng – nơi khóe miệng biến mất trước khi người ta có thể xác định rõ ràng. “Xin lỗi,” cô ta nói khẽ rồi bước đi. “Cô này thật lạ lùng!” Marjorie thốt lên không chủ định, mắt vẫn đăm đăm nhìn vào khuôn cửa rỗng không như bị thôi miên. “Cô ta là ai?” “Em không biết. Hình như có lần em thấy cô ta đi cùng Fred Sterling dự tiệc thì phải, nhưng nếu có được giới thiệu thì em cũng không nhập tâm.” Họ lại cùng nhìn xuống chiếc nhẫn. Nhưng bùa phép đã hết mầu nhiệm, tâm trạng đã không còn như cũ, không lấy lại được. Cả căn phòng cũng không còn ấm cúng như trước. Phải chăng đôi mắt nhìn từ khuôn cửa đó đã làm nó lạnh đi? Cô rùng mình. “Vào với mọi người đi.” Tiệc đã gần tàn. Mọi người đang nhảy, cả gã và vợ chưa cưới. Mấy động tác xoay vòng, nhún chân chẳng qua chỉ là cái cớ để che đậy những lời riêng tư. Gã nói, “Mình lấy căn hộ ở đường Tám Tư nhé. Nếu tay đó bớt cho mình được năm đô mỗi tháng như hứa… Với số đồ đạc họ bố trí thì ta có thể…” Cô nói, “Cái cô mặc đồ đen không rời mắt khỏi anh tí nào. Em để ý thấy là cô ta cứ nhìn anh chằm chằm cả buổi. Nếu hôm nay là hôm khác thì em có điều để lo rồi đấy.” Gã quay đầu lại nhìn. “Cô ta đâu có nhìn anh đâu.” “Lúc nãy có nhìn, em nhắc xong cái là thôi.” “Mà cô này là ai nhỉ?” Cô nhún vai. “Em cứ tưởng cô ta đến cùng Fred Sterling hay bạn bè của anh ấy. Anh ấy đi đâu chẳng cùng đi cả hội. Nhưng anh ấy về một lúc rồi mà cô này vẫn ở đây. Hay cô ta muốn ở lại một mình nhỉ. Em thì em thấy thích cách cô này cư xử đấy, không phải dạng rẻ tiền đâu. Em để ý mà, cả tối nay cô ta cũng bị làm phiền nhiều, tội nghiệp. Cứ mỗi khi định lỉnh ra ban công một mình thì có đến ba, bốn ông nghĩ đấy là lời mời gọi rồi bám theo. Chưa đầy một phút sau là cô ta lại quay vào, thường là từ cửa bên, đi một mình. Cô ta làm thế nào để thoát ra được nhanh thế thì em không biết, nhưng cực kỳ giỏi mới làm thế được. Mấy ông thì cũng lần lượt quay lại kèm theo một bộ mặt ngố khi đàn ông bị đá. Màn đấy diễn mấy lần rồi.” Cô chạm nhẹ vào ve áo gã để ra hiệu; họ dừng nhảy giữa chừng. “Lại có thêm mấy người sắp về. Em phải ra tiễn khách đây, em sẽ quay lại ngay, anh yêu. Cố mà nhớ nhung khi em đi đấy.” Gã dõi theo bước chân cô, đứng đó như cột cờ nhìn lá cờ mới hạ xuống bị mang đi mất. Đến khi không còn nhìn thấy tà váy xanh nhạt của cô nơi góc phòng, gã mới quay người đi ra ban công, tìm chút không khí. Gã thấy dinh dính dưới cổ áo; khiêu vũ lúc nào cũng khiến hắn thấy nóng mà. Ánh đèn từ thành phố bên dưới trông như những chiếc nan hoa phát sáng từ một bánh xe khổng lồ bị méo. Mặt trăng mờ nhạt, ẩn khuất sau đám mây mỏng như một tấm chắn trên bầu trời đêm. Gã châm một điếu thuốc như thường lệ sau khi khiêu vũ và khi đợi cô trở về. Tâm trạng thư thái, gã nhìn xuống bên dưới, nơi có thời từng suýt hại chết gã. ‘Giờ mình ổn rồi,’ gã nghĩ. ‘Mình còn trẻ, lại có tình yêu, tiền đồ rõ ràng. Phần còn lại thì đơn giản.’ Ban công chạy suốt toàn bộ khu căn hộ. Một đầu ban công có nối sang khu nhà cao cấp, nơi mặt trăng cũng không đi theo được. Chỗ đó tối. Không có những chiếc cửa sổ chạy suốt cả tầng, mà chỉ có một cửa ngách ít người sử dụng, thường xuyên chìm trong bóng tối. Gã di chuyển tới chỗ rẽ vì có một cặp khác trên lối đi, mà gã thì không muốn làm phiền họ. Gã đứng vào đúng chỗ góc vuông nơi hai nhánh ban công gặp nhau. Giờ thì gã có hai góc nhìn thay vì một như trước. Và rồi đột nhiên – chắc hẳn là cô ta đã đi qua lối cửa ngách mà không ai biết đi tới chỗ hắn – cái cô gái kỳ bí mặc đồ đen chỉ đứng cách gã một, hai bước chân, mắt chăm chăm nhìn vào khoảng không trước mặt, cũng như gã vậy. Cô ta như tượng cẩm thạch lướt trong không trung mà không có chân đế bên dưới vì bộ váy đen hoàn toàn lẫn với không gian tối sẫm nơi họ đang đứng. “Tuyệt vời, nhỉ?” gã bắt chuyện. Gì thì gì, họ cũng đang dự cùng một bữa tiệc. Cô ta lại chẳng có ý gì định nói về chuyện đó, hoặc có lẽ cô ta thấy quang cảnh chẳng có gì hấp dẫn cả. Đúng lúc này thì Corey xuất hiện với dáng vẻ hăm hở của kẻ chinh phạt. Hẳn là anh ta đã để mắt đến cô nàng từ trước rồi và phải chờ đến lúc này thì vận may mới mỉm cười. Bliss có mặt ở đó cũng chẳng làm anh ta bận tâm. “Anh vào trong đi,” anh ta trịnh thượng. “Đừng có vớ vẩn, đính hôn rồi đấy nhé.” Cô gái lập tức chen ngang, “Anh giúp tôi một chuyện nhé?” “Tất nhiên rồi.” “Lấy cho tôi một ly đầy.” Anh ta đánh tay về phía Bliss. “Anh chàng này giỏi việc đó hơn tôi đấy.” “Rượu từ tay anh đưa thì ngon hơn.” Chiêu thức nguyên thủy, nhưng hiệu quả. Corey mang rượu quay lại. Cô ta chận rồi đưa cao lên đầu, chầm chậm nghiêng miệng cốc cho đến khi rượu trong đó đổ hết ra ngoài. Sau đó cô ta đẩy ly trở lại. “Giờ đi lấy thêm ly nữa.” Corey hiểu ra. Khó mà không hiểu được ý nghĩa đó. Lớp vỏ ngọt ngào, văn minh lập tức vỡ vụn và một trong những cánh rừng bên trong bung ra ngoài. Không phải một cánh rừng hiền hòa. Khuôn mặt anh ta đột nhiên trắng bệch, khóe miệng rung rung như một con thú săn mồi máu lạnh. Anh ta bước tới, hai tay hướng thẳng cổ họng cô gái. “A… a… bình tĩnh,” Bliss nhanh chóng sấn vào, chặn hai cánh tay trước khi chúng chạm tới cô gái, đẩy chúng lên phía trên cao. Đến khi hai cánh tay được hạ xuống thì Corey cũng đã kiểm soát được. Anh ta nhét tay vào túi áo để đảm bảo chúng nằm yên trong đó. Hành động đã bị kiềm chế, sự phẫn nộ lúc này chỉ còn ở ngôn từ. “Con nào tưởng là bỡn cợt được với tao…!” Anh ta quay người bỏ đi theo lối cũ. Bliss cũng theo bước anh ta. Cô ta, rốt cuộc, thì có ý nghĩa gì đâu chứ nhỉ? Tay cô gái chạm vào sườn gã. “Đừng đi. Tôi có chuyện muốn nói với anh.” Cánh tay lập tức rút lại rất nhanh khi cô gái thấy đã đạt được mục đích. Gã chờ, lắng nghe. “Anh không biết tôi, đúng không?” “Cả tối nay tôi vẫn băn khoăn cô là ai.” Gã không băn khoăn. Gã chẳng quan tâm tới cô như mấy tay đàn ông khác ở đây. Lời đó chỉ là để tỏ ra lịch sự mà thôi. “Anh đã từng nhìn thấy tôi một lần mà không nhớ đấy thôi. Còn tôi thì nhớ. Anh lúc đó ở trong ô tô, với bốn người khác…” “Tôi ở trong ô tô với bốn người khác nhiều lần lắm, không nhớ được đâu…” “Biển số xe là D3827.” “Tôi kém nhớ số má lắm.” “Xe này để ở ga-ra trên đường vành đai, khu Bronx. Từ đó đến nay chưa có ai ghé thăm. Lại nhỉ? Chắc nó vẫn ở đó, rỉ sét hết cả rồi…” “Thực tình tôi không nhớ chuyện đó,” gã ngạc nhiên. “Tóm lại cô là ai nhỉ? Cô xuất hiện cứ như điện xoẹt ấy…” “Nhiều điện quá là gây chập mạch đấy.” Cô bước tránh ra một, hai bước như muốn thể hiện rằng không còn hứng thú với gã nữa, cũng thình lình như cô gợi lên vậy. Cô gỡ chiếc khăn mỏng ra khỏi đầu, hai tay giang nó thẳng trước mặt để cho gió thổi nó rung rung. Bất chợt cô khẽ kêu lên. Khăn không còn ở đó. Hai tay cô vẫn nguyên vị trí bằng đúng chiều dài khăn. Một sợi dây điện lẫn vào màn đêm nối chéo từ nơi cô đứng tới nơi nó bấu vào bờ tường bên dưới bới một mẩu sứ cách điện nhỏ. Cô ngoảnh mặt nhìn gã, nửa như ngạc nhiên, rồi vươn mình, cúi đầu nhìn xuống “Kia, ngay kia. Ngay chỗ cái gì tròn tròn, trắng trắng kia…” Cô cố với tay dò dẫm. Một lúc sau, cô thẳng người lại, cười khó chịu. “Chỉ còn một chút nữa là ngón tay tôi chạm được. Anh giúp tôi được không, tầm với của anh dài hơn.” Gã leo lên lan can, ngồi xổm, một tay bám vào mép trong để đảm bảo gã không rướn người đi quá xa. Gã quay đầu tìm kiếm chiếc khăn. Cô gái bước tới phía sau lưng gã, đẩy lòng bàn tay ra rồi nhanh chóng rút lại ngay. Tác động nhẹ nhàng đó khiến cô phải thở hắt ra, một âm thanh kết hợp cho lời giải thích, lời nguyền rủa và sự kết án. “Bà Nick Killeen!” Gã hẳn đã nghe thấy. Âm thanh đó hẳn đã bật một tia sáng trong tâm trí gã khi nó tắt đi khi gã rơi ra ngoài. Trên bờ tường chẳng còn gì. Chỉ có cô và màn đêm biết. Phía bên kia cửa sổ hành lang, ở khúc quanh, chiếc đài đang vang lên điệu nhạc rumba và tiếng cười. Một người nói to hơn cả, “Cố lên lên nữa. Giờ đến lúc rồi.” Một lúc sau, cô đi vào thì thấy Marjorie bước đến. “Tôi đang tìm chồng chưa cưới.” Marjorie sử dụng từ đó để thể hiện sự sở hữu, tay còn sờ chiếc nhẫn với sự phô trương mà cô không để ý. “Anh ấy có ngoài kia không?” Cô gái mặc đồ đen cười lịch sự đáp lại. “Lúc trước tôi có thấy anh ấy ở đó.” Cô đi tiếp tục đi, bước đi dài nhưng không quá vội vã, đủ để thu hút vài cặp mắt nam giới dõi theo. Mấy cô giúp việc, quản gia đã không còn phục vụ ở phòng chứa áo khoác cạnh cửa, nhanh chóng quay trở lại khi được gọi. Lúc cửa trước đóng lại từ từ phía sau, không có cản trở gì, thì chiếc điện thoại nối trực tiếp với cửa lễ tân đổ chuông. Một hồi sau mới có người nghe máy. Marjorie trở vào từ ban công, nói với người đứng gần nhất, “Lạ thật, không thấy anh ấy ở ngoài đó nữa.” Mẹ cô, là người buộc phải ra trả lời điện thoại lúc trước, hét lên từ đâu đó gần cửa tòa nhà, chỉ có một tiếng. Bữa tiệc đã kết thúc. CẢNH SÁT ĐIỀU TRA Lew Wanger chẳng buồn đóng cửa xe taxi, lập tức chen qua nhóm người hiếu kỳ tụ tập ở đó. “Có chuyện gì thế?” ông ta vừa hỏi viên cảnh sát vừa chìa cái gì đó trong túi áo vest ra. “Hạ cánh.” Viên cảnh sát tuần tra chỉ lên trên trời. “Từ trên kia xuống đây.” Nhân vật chính trong bản tin sớm mai đã được xác định, tứ chi duỗi thẳng, bẹp dí trên mặt đất. Một chân giày da bóng loáng thò ra góc đường. “Theo tôi biết thì trên kia có tiệc tùng. Chắc là do quá chén, nhoài người ra quá đà mới nên nỗi này.” Anh ta đưa tờ biên bản cho Wanger xem. Một tay hiếu kỳ, tò mò tiến sát vào hiện trường, trông thấy cảnh đó liền quay mặt đi, bụm miệng thoái lui một cách vội vã. “Tưởng hoa hay sao mà vào xem?” viên cảnh sát bực bội nói với theo. Wanger ngồi xổm xuống cạnh nạn nhân, tìm cách nạy bàn tay đang nắm chặt vật gì đó. Một lúc sau, ông ta cũng lấy ra được một miếng vải đen mỏng manh như sương khói. “Khăn tay nữ,” viên cảnh sát góp lời. “Khăn choàng,” Wanger chỉnh lại. “Khăn tay thì không to thế này.” Ông ta đứng nhìn thân thể bẹp dúm trên nền gạch. “Tôi có biết mặt người này,” ông bảo vệ tòa nhà cung cấp thông tin. “Hình như có bữa tiệc đính hôn anh ta với cô con gái nhà Elliott. Căn hộ hạng sang trên kia.” “Để tôi lên đó làm nốt thủ tục cho xong,” Wanger thở dài. “Chắc chỉ khoảng mười, mười lăm phút là xuống thôi.” Trời đã sáng mà ông ta vẫn còn bận bịu dày vò đám khách khứa mệt mỏi, xấu hổ đang dàn hàng trước mặt. “Ý quý vị là không một ai ở đây biết tên cô ta, cũng chưa từng gặp cô ta trước đây?” Lắc đầu chán nản, ông ta hỏi tiếp. “Chẳng nhẽ không ai hỏi sao? Các vị là kiểu người gì vậy?” “Chúng tôi thực tình là có hỏi lúc này, lúc khác chứ,” một ông phân trần. “Nhưng cô ta đâu chịu nói. Động đến là lại gạt đi, kiểu ‘Tên tuổi thì quan trọng gì đâu.’” “Cứ cho cô ta là dân ăn chực chuyên nghiệp đi. Tôi vẫn phải làm rõ xem là ‘tại sao’ hay nói cách khác là ‘động cơ’ của cô ta là gì.” Thấy mẹ của Marjorie trở lại phòng, ông ta quay sang hỏi. “Bà có thấy đồ đạc quý giá gì bị mất không?” “Không,” bà ta thổn thức, “không mất mát gì cả. Tôi vừa kiểm tra lại xong.” “Vậy thì loại trừ được khả năng trộm cắp. Cô ta đã tránh hoặc làm nản lòng tất cả các quý ông có ý đồ làm thân với mình, theo lời của quý vị, nhưng khi thấy Bliss một mình thì lập tức tiếp cận.” Ông ta quay sang Corey. “Nhưng theo lời anh nói thì Bliss không nhận ra cô ta khi được người gác cổng khu nhà anh ta sống mô tả lại. Đến khi gặp trực tiếp thì anh ta cũng cư xử như thể cô ta hoàn toàn xa lạ. Cứ giả sử đó là cùng một cô gái nhé. “Cho đến giờ thì tạm như vậy đã. Có ai muốn bổ sung gì vào phần mô tả đã nói với tôi không?” Không ai cung cấp thêm thông tin gì. Rất nhiều người nhìn thấy cô ta, như vậy là đủ rồi. Khi lần lượt từng vị khách buồn buồn ký biên bản lời khai, để lại tên và địa chỉ phòng khi cảnh sát cần hỏi gì thêm, Corey chen đến cạnh Wanger. Anh ta lúc này nửa say, nửa tỉnh. “Tôi là bạn thân nhất của anh ấy. Ông thấy thế nào? Rút ra được điều gì rồi?” Wanger vừa sửa soạn ra về vừa nói. “Tôi có thể nói với anh được, không phải vì anh có được ưu tiên gì hơn những người khác đâu. Không có dấu hiệu nào cho thấy đó không phải là tai nạn cả – trừ một điều: Việc cô ta đi ngay lập tức sau khi chuyện đó xảy ra chứ không ở lại đối diện với vấn đề như tất cả mọi người. Một điều đáng chú ý nữa là cô ta có gặp cô Elliott tại cửa, khi được hỏi là có thấy Bliss đâu không thì cô ta bình tĩnh trả lời là Bliss ở ngoài ban công chứ không hét ầm lên là anh ta bị ngã – bình thường thì ai cũng vậy, đúng không nào. Tất nhiên là có khả năng là khi cô ta đã đi vào nhà rồi thì Bliss mới ngã. Nhưng điều nói ngược lại là anh ta cầm một cái khăn đen khi ngã, có nghĩa là rất có thể cô ta vẫn ở cùng Bliss khi anh ta ngã. Nhưng cũng có thể nói là cô ta bị rơi khăn, hoặc tặng khăn cho Bliss trước đó. “Tóm lại cho đến giờ thì mọi thứ đều là năm mươi – năm mươi. Giả thuyết nghiêng về bên nào thì cũng có lý lẽ phù hợp nói điều ngược lại. Duy nhất có một điều khiến cán cân lệch một chút là thái độ của cô ta mà thôi. Nếu một hai ngày tới cô ta đến trình diện, làm rõ vấn đề khi nghe thông báo của cảnh sát thì rất có thể đó chỉ là tai nạn, rồi việc cô ta bỏ đi cũng chỉ là hoảng sợ hay muốn tránh tai tiếng mà thôi, vì cô ta biết mình không được mời. Nếu như cô ta tiếp tục lẩn tránh khiến cảnh sát phải tìm kiếm thì kết luận đây là án mạng cũng không phải là không có cơ sở.” Ông ta cho biên bản ghi lời mô tả vào trong túi. “Dù thế nào thì chúng tôi cũng sẽ tìm được cô ta. Đừng lo gì cả.” Nhưng họ không tìm được. Mười lăm ngày sau, tại cửa hàng bách hóa Bonwit Teller. “Đúng rồi, đây là cái khăn giá mười hai đô-la của chúng tôi. Chỉ có chúng tôi bán loại khăn này thôi – hàng độc đấy.” “Tốt lắm. Gọi nhân viên bán hàng qua đây, tôi muốn biết có ai nhớ đã bán khăn này cho một người phụ nữ có đặc điểm là…” Khi họ đã tề tụ đầy đủ, ông ta nhắc lại đặc điểm nhận dạng tới hơn ba lần, lúc đó một cô nhân viên dáng người nhỏ nhắn, đeo kính bước lên. “Tôi… tôi nhớ có bán một cái khăn màu đen như vậy cho một cô gái trẻ giống như ông mô tả, khoảng hơn hai tuần trước.” “Tốt. Tìm hóa đơn bán hàng. Tôi cần địa chỉ nhận hàng.” Mười lăm phút sau. “Khách hàng trả tiền mặt, tự đến lấy hàng đi. Không để lại tên hay địa chỉ.” “Chỗ này các vị hay bán hàng kiểu đấy hay sao?” “Không, đây là hàng cao cấp. Thông thường thì sẽ giao hàng tận nơi. Nhưng trường hợp này khách hàng nhất quyết đòi tự đến lấy, tôi có nhớ như vậy.” Wanger lầm bầm, “Để xóa dấu vết đây mà.” Ba tuần sau, Wanger báo cáo với cấp trên: “… cho đến giờ vẫn không có dấu hiệu gì của cô ta. Vẫn không biết cô ta là ai, đến từ đâu và đã đi đâu. Không rõ lý do cô ta làm thế – nếu đúng là cô ta làm thế. Tôi đã điều tra kỹ lưỡng quá khứ của Bliss, lần tới gần như là cô gái đầu tiên anh ta hôn mà vẫn không thấy bóng dáng cô gái này. Lời khai của người bảo vệ chỗ anh ta ở, và của bạn anh ta là Corey, cho thấy là anh ta có vẻ như không biết cô gái này là ai. Thế nhưng cô ta đã chủ động từ chối tất cả mọi người ở bữa tiệc đó, chờ đợi cơ hội tiếp cận anh ta một mình ở ban công. Thế nên khả năng cô ta nhận nhầm là không có. “Nói tóm lại dấu hiệu duy nhất cho thấy đó không phải là tai nạn là thái độ lạ lùng của cô gái bí ẩn này và việc cô ta biến mất ngay sau đó, không chịu tới trình diện để làm rõ sự tình. Ngược lại thì cũng không có bằng chứng rõ ràng cho thấy đó là án mạng.” Báo cáo của Wanger về Ken Bliss Chết vì rơi từ ban công tầng 27, lúc 4 giờ 30 sáng, ngày 20 tháng 5. Trước khi chết có nói chuyện mới một người phụ nữ khoảng 26 tuổi, da trắng, tóc vàng, mắt xanh, cao khoảng 1m65. Danh tính chưa xác định. Cần thẩm vấn. Động cơ: Chưa chắc chắn là án mạng, nhưng nếu đúng thì khả năng là quan hệ luyến ái hoặc ghen tuông. Không có đầu mối cho thấy từng có quan hệ với nạn nhân. Nhân chứng: Không. Bằng chứng: Khăn choàng đen, mua tại Bonwit Teller, ngày 19 tháng 5. Vụ án vẫn mở. Phần Hai: MITCHELL Kẻ vào rừng tìm nai để săn, lại thấy trước mắt là báo đen chờ sẵn. — de Maupassant NGƯỜI PHỤ NỮ Miriam – đó là tên, còn họ thì chẳng còn ai trong khách sạn Helena còn nhớ rõ – có dáng người thấp, tính hay càu nhàu. Bà ta có ba điều cố chấp: thứ nhất là quốc tịch Anh – vốn tình cờ mà bà ta có được khi bà ta tình cờ được sinh ra trên đảo Jamaica; thứ hai là đôi khuyên tai vàng, và thứ ba là ‘cách’ bà ta dọn phòng. Chưa có ai từng can thiệp vào hai điều đầu tiên bao giờ, nhưng điều thứ ba thì cũng có vài người thất bại thảm hại khi có ý định thay đổi gì đó. Số phòng được đánh liên tiếp, nhưng chẳng có liên quan gì cả. Vị trí của các phòng trong hành lang mờ mờ, ọp ẹp, mấp mô cũng chẳng phải lý do. Thực tế cho thấy cách bà ta suy nghĩ và tính toán là theo một công thức số học bí ẩn nào đó. Không ai can thiệp được – ít nhất là nếu không phải miễn cưỡng hoặc là phải nghe hàng tràng lời cằn nhằn vô tận dọc hành lang như mê cung hàng giờ liền sau đó, và còn lâu sau khi nguyên nhân thực sự đã trôi qua trong bực bội. “Số mười bốn sẽ làm sau số mười bảy. Phải đợi tôi làm xong số mười bảy đã. Tôi chẳng làm số mười bốn trước bao giờ.” Việc đó cũng chẳng có liên hệ gì với tiền boa – vốn cũng hiếm khi xuất hiện ở khách sạn Helena. Thói quen, có lẽ là vậy, là điều người ta có thể đoán theo cách suy nghĩ đầy cảm tính của Miriam. ‘Cách’ làm việc này chỉ định giờ này hôm nay Miriam sẽ bận rộn ở ‘số mười chín’. Bà ta một tay cầm xô, một tay cầm cây lau nhà đi đến đầu kia hành lang mốc meo, mỗi bước đi lại khiến những sợi vải te tua lắc qua lắc lại. Bà ta dừng trước ‘số mười chín’, lấy chìa khóa phòng, rồi gõ hai lần lên cánh cửa. Đây đơn thuần chỉ là thủ tục do có thể bà ta sẽ tức giận khi thấy ‘số mười chín’ vẫn có trong phòng tại thời điểm ‘cách’ làm việc của bà ta đưa đẩy đến. ‘Số mười chín’ chưa bao giờ có trong phòng vào giờ này. ‘Số mười chín’ không có quyền ở trong phòng vào giờ này. Đấy không phải là thủ tục theo quy định của khách sạn là phải gõ cửa phòng. Đó chỉ là phản xạ. Bà ta chẳng thể bước qua cái cửa nào mà không gõ lên đó trước, đến nỗi khi về đến chính phòng của mình vào cuối ngày mà bà ta vẫn phải qua cái động tác gõ cạch cạch lên cánh cửa rồi mới cắm chìa khóa vào ổ. Bà ta khó nhọc đẩy cánh cửa ra rồi bước vào trong căn phòng nhỏ, bài trí sơ sài. Hình trang trí trên thảm đã mòn không còn nhận ra hình thù gì nữa, trên sàn chỉ còn lại mảng màu xanh giống như của nấm mốc mà thôi. Cách ngoài cửa sổ vài bước là một bức tường trắng tinh chắn ngang tầm mắt, nhưng ánh sáng vẫn tìm cách chui được qua góc hở giữa tường và cửa sổ. Giá mà không có ánh sáng đó thì căn phòng này sẽ ổn hơn vì còn có thể duy trì được cái ảo giác về sự sạch sẽ vì lúc này trong tia nắng chiếu toàn là những hạt phấn hay hạt bụi bay lơ lửng. Bức tường ngay phía trên giường là nơi một dãy ảnh đủ cỡ về các cô gái được treo lên, có đóng khung kính. Miriam thậm chí không liếc mắt nhìn mấy bức ảnh này. Phần lớn đã ở đó vài năm rồi. Cô gái mà ‘số mười chín’ hiện đang quan hệ chẳng có mặt trên đó, cô ta từng nói thế, là vì cô ta không có đủ tiền chụp ảnh và anh ta thì chẳng có tiền mua đinh, khung và kính để treo nó lên. Với lại cũng chẳng còn chỗ nào ở đó để treo thêm. Ở tuổi anh ta mà bắt đầu treo ảnh ở một bức tường mới thì hơi khó. Nếu không phải đã lớn tuổi thì hẳn đã bắt đầu rồi. Như thế thì chuyện đã khác. Giường đã dọn xong, đẩy đám bụi xoay vòng vòng trong chùm sáng chiếu từ cửa sổ. Miriam khép cửa lại, nhưng không đóng hẳn với thái độ không phải là lén lút mà gần như là thách thức thì đúng hơn. Thậm chí bà ta còn nói ra thành lời, khá to, “Dấu giếm, dấu giếm luôn thôi. Anh ta nghĩ ai sẽ ăn trộm chứ hả? Ai muốn chứ hả?” Bà ta lấy tay chùi miệng cho khô – cũng có thể là để mài cho sắc, rồi mở cửa tủ, cúi xuống, lục trong đống quần áo nhàu nhĩ ở đáy, trong góc, lôi ra một chai rượu gin như thể người ta tóm được thỏ trong hang vậy. Bà ta chẳng hề tỏ vẻ hài lòng khi thấy cái chai mà chỉ có sự phẫn nộ. “Anh ta nghĩ ai sẽ vào đây chứ, ngoài mình ra? Anh ta biết thừa là chẳng có ai vào đây ngoài mình cả. Sao lại nghi ngờ người khác như thế chứ!” Bà ta khẽ nghiêng cái chai rồi lại hạ xuống. Cầm chai bước tới chậu rửa, kề miệng chai vào vòi nước. Sự khéo léo nhờ đã thực hành nhiều lần giúp bà ta chẳng khó khăn gì mấy khi đẩy miệng chai vào ra dòng nước từ vòi, sao cho đủ để bù lại đúng lượng rượu đã mất lúc nãy. Việc này không phức tạp lắm vì trên vỏ chai có mấy vết chì đánh dấu mờ mờ rồi. Giờ thì bà ta đã khỏa lấp được tội lỗi vừa mới gây ra bằng mồm với cái chai. Cảm giác khó chịu lúc này đã bùng lên. “Đồ hà tiện. Đồ keo kiệt,” bà ta gầm gừ. “Anh phải biết là tôi rất bực nếu người ta không tin tưởng tôi!” Bà ta đặt cái chai về chỗ cũ, đóng cửa tủ lại, ra cửa mở to ra như cũ để sẵn sàng cho giai đoạn hai công cuộc dọn vệ sinh phòng cho khách với những động tác chọc cái khăn lau nhà ở chỗ này chỗ kia không nhất quán ở dưới chân tường, như người ta đâm cá hồi ở suối. Trong lúc bà ta bận bịu với những động tác khó hiểu đó thì chợt nhận thấy có người đang nhìn mình. Bà ta xoay người lại thì thấy một người phụ nữ đang đứng ở hành lang, nhìn vào trong phòng. Mariam nhìn qua một cái là biết cô ta không sống trong khách sạn này, ở vị trí cao trên thước đánh giá của Miriam. Đối với bà ta thì chỉ có hai dạng người là dạng người kém cỏi luôn bị bà ta coi thường, và ở phía đối lập là dạng người đáng được kính trọng và đối xử mềm mỏng. Thế thôi. “Gì vậy, thưa bà?” bà ta nói, thể hiện sự thân mật rõ rệt. “Bà tìm ông Mitchell à?” Người phụ nữ cũng đáp lại bằng giọng thân mật và nhẹ nhàng. “Không,” cô ta cười. “Tôi qua thăm bạn tôi ở đây, cô ấy không có nhà. Tôi ra thang máy xuống nhưng thấy hình như lạc lối…” Miriam thu cán lau nhà lại, như người chèo đò nghỉ ngơi, thầm hy vọng người phụ nữ không vội đi ngay. Cô ta không đi. Cô ta thậm chí bước lại gần hơn nhưng vẫn đứng ngoài khuôn khổ căn phòng. Cô tạo cho Miriam ấn tượng bị lấn át, kể cả trong đối thoại. Miriam cố gắng tạo dáng phù hợp trong khối không khí được chút ánh sáng chiếu sang từ cửa sổ, rung rinh quanh cán cây lau nhà. Người phụ nữ nói như tâm sự giữa hai chị em thân thuộc. “Tôi lúc nào cũng nghĩ là người ta có thể đánh giá người khác khá nhiều chỉ cần xem phòng của họ sống thế nào thôi.” “Phải đấy, cô nói đúng đấy,” Miriam nhiệt tình hưởng ứng. “Lấy ngay phòng này làm ví dụ… Khi chị còn đang bận dọn dẹp thì tôi tình cờ đi qua cửa. Tôi không biết gì về người sống trong phòng này…” “Ông Mitchell?” Miriam lúc này cứ như bị thôi miên. Cằm bà ta tì xuống đỉnh cán cây lau nhà. Người phụ nữ khẽ phẩy tay. “Mitchell hay tên gì cũng thế… Tôi không biết ông ta, cũng chưa bao giờ gặp. Nhưng để tôi nói xem căn phòng này cho tôi biết điều gì về ông ta nhé… Chị chỉnh lại nếu thấy tôi sai cũng được.” Miriam vặn vẹo đôi vai với sự vui thích khó dấu. “Hay lắm,” bà ta nói không ra hơi. Việc này cũng thú vị chẳng kém đi xem chỉ tay, mà lại miễn phí nữa cơ mà. “Ông ta không ngăn nắp. Cà-vạt để bừa bãi…” “Ông ta bừa bãi lắm,” Miriam xác nhận. “Ông ta cũng không khá giả gì. Nhưng tất nhiên bản thân khách sạn này cũng nói lên điều đó rồi. Không đắt lắm…” “Ông ta luôn thiếu tháng rưỡi tiền nhà tám năm liên tiếp rồi!” Miriam hậm hực đáp. Người phụ nữ tạm ngừng lời – không phải như kiểu người ta định gây áp lực gì đâu mà giống như kiểu người ta muốn tìm từ chính xác trước khi nói ra. “Ông ta không làm việc,” cối cùng cô cũng nói. “Có một tờ báo sớm ngày hôm nay vứt trong sọt rác kia. Đứng đây tôi cũng thấy. Rõ ràng là ông ta ngủ đến tận trưa, đọc một chút rồi đi ra ngoài cả ngày…” Miriam gật gù tán tưởng, mắt không thể rời được người phụ nữ thông minh, đáng mến này. Cán cây lau nhà hẳn đã trượt đi dưới sức nặng cơ thể bà ta nhưng bà ta vẫn duy trì được tư thế hơi nghiêng về phía trước mà không hề hay biết. “Đúng là ông ta thất nghiệp. Ông ta sống nhờ khoản tiền trợ cấp gì đó, mỗi tháng một lần, chả biết cụ thể là gì.” Bà ta lắc đầu như không tin nổi. “Trời ơi, cô giỏi thật đấy.” “Ông ta là người cô độc, không có nhiều bạn bè.” Mắt cô lướt trên bức tường. “Tất cả những bức ảnh kia… chúng là dấu hiệu của sự cô độc, chứ không phải là có nhiều bạn bè. Nếu có bạn bè thì ông ta cần ảnh đó làm gì cơ chứ.” Miriam chưa từng nghĩ theo hướng này trước đây. Mà thực ra nếu như mấy bức ảnh này có ý nghĩa gì đó với bà ta – bao nhiêu năm nay chẳng có ý nghĩa gì cả – thì hẳn đó là sự hư hỏng trong suy nghĩ của ông chủ, là sự ham muốn bậy bạ của ông ta. Lúc đầu thì thực ra bà ta cũng phải nói tướng lên một hai lần gì đó khi nhìn thấy chúng. ‘Đúng là mấy hình bậy bạ mà.’ “Kể cả như,” người phụ nữ nói tiếp, “nếu ông ta có thực sự biết tất cả mấy cô đấy đi nữa thì… à mà chắc không biết cùng lúc… ông ta chỉ biết lần lượt các cô thôi, không nhiều cô một lúc được. Có mấy chiếc bịt tai có từ thời sau chiến tranh, búp bê Nhật Bản đừ thập kỷ trước, kiểu tóc phẳng dài tới vai vài năm trước…” Miriam phải ngoái đầu lại nhìn lên nhìn xuống bức tường phía sau; đỉnh cán cây lau nhà lúc này tỳ vào một bên tai. Bà ta còn di di cái cán nhẹ nhàng để gãi đầu ở tư thế này. “Ông ta chưa thực sự tìm được người con gái trong mộng. Nếu tìm được rồi thì chắc không có nhiều ảnh thế kia trên tường. Nhưng mà…” Cô gõ gõ nhẹ vào một chiếc răng ở hàm dưới ra chiều suy nghĩ. “Kết hợp mấy bức ảnh này với nhau thành một bức ảnh lớn thì ta biết là ông ta đang tìm kiểu người thế nào.” “Quỷ thần ơi!” Miriam thốt lên. Hiển nhiên bà ta còn chẳng biết là ông ta đang tìm kiếm gì đó. Hay ít nhất là không phải cái gì đó người ta nhắc đến một cách lịch thiệp. “Ông ta đang tìm kiếm điều gì đó bí ẩn. Ảo giác. Một cô gái chẳng bao giờ có trên đời này mà chỉ tồn tại trong chính trí tưởng tượng của ông ta. Một sinh vật trôi nổi, không phải dính vào thế giới hàng ngày ta đang sống, không có điểm tiếp xúc nào. Một tiên nữ.” “Gì cơ?” Miriam ngoảnh mặt lại hỏi. “Cứ nhìn những cô gái trên kia mà xem. Không cô nào giống bản chất thực sự của họ cả. Tất cả đều không đúng tiêu điểm khi chụp, không bị che đi thì cũng chỉ nhìn qua khe quạt, hay nhìn máy ảnh qua gương, hay cắn bông hoa…” Cô hơi mỉm cười, nụ cười không hiền dịu cho lắm. “Một người đàn ông và những giấc mơ.” “Tôi nghĩ là ông ta sẽ chẳng bao giờ có được người giống như mong ước,” Miriam ướm lời. “Cái đó cũng khó nói lắm,” người phụ nữ đứng ở khung cửa cười cười. “Khó nói lắm.” Rồi đột nhiên cô nghiêng đầu về phía Miriam hỏi. “Nói thật cho tôi biết, từ nãy tới giờ tôi toàn sai cả đúng không?” “Cô nói đúng tất cả các điều,” Miriam sung sướng đáp. “Đấy, đấy. Đó chính là điều tôi muốn nói. Tôi có thể cho bà thấy một căn phòng trống không nói lên điều gì nữa cơ.” “Giờ tôi phải làm việc, không tiện rồi.” “À, phải, tôi không làm phiền bà nữa.” Cô khẽ vẫy vẫy ngón tay kèm theo một nụ cười nồng ấm báo hiệu chia tay rồi quay bước. Miriam thở dài nuối tiếc nhìn khuôn cửa trống. Bà ta dựa cán cây lau nhà vào tường, bước ra cửa nhìn theo cô đi hết hành lang rồi rẽ, đến khi hàng lang cũng trống trải. Bà ta lại thở dài, não nuột hơn bao giờ hết. Cuộc đối thoại vừa rồi thật thú vị, thật thoải mái. Tiếc là nó kết thúc nhanh quá, nhẽ ra phải kéo dài thêm một chút nữa, đến khi làm xong một phòng nữa chẳng hạn. Tiếng cửa thang máy khẽ vọng lại từ đằng xa, từ góc khuất hành lang. Giờ cô gái đã đi hẳn rồi. Miriam nặng nề quay trở vào phòng làm nốt công việc dở dang. “Cô gái này hay thật,” bà ta lầm bầm một mình. “Nhưng chắc là cô ấy sẽ chẳng quay lại đây nữa đâu.” MITCHELL Mitchell bước vào sảnh khách sạn nơi gã sống, đúng giờ như hàng ngày, nách kẹp tờ báo. Gã dừng ở bàn lễ tân xem có thư từ gì không thì nhận được cái nhìn của người phụ nữ ở đó – cái nhìn dành riêng cho người luôn nợ một tháng rưỡi tiền nhà như bệnh kinh niên. Gã có ba lá thư. Thư đầu tiên là lời nhắn từ Maybelle, cô bạn gái tóc vàng làm ở nhà hàng. Thư thứ hai bị nhầm, nhẽ ra phải để ở ô bên trên. Thư thứ ba là giấy thông báo hay hóa đơn gì đó, gã nhìn thoáng qua là biết ngay. Địa chỉ thì là gõ từ máy chữ, phong bì không có địa chỉ hồi đáp. Gã không mở phong bì ngay cũng vì lẽ đó. Hóa đơn, thư quảng cáo thì gã đánh hơi được cách đó cả dặm ấy chứ. Gã đi lên gác, đóng cửa lại rồi nhìn quanh phòng. Gã đã sống ở đây mười hai năm rồi. Căn phòng này đã thấm đượm các mặt tính cách của gã trong thời gian đó. Trên tường treo đầy tranh các cô gái được đóng khung. Một khu trưng bày thông thường. Không phải là gã là kẻ có tà ý, thực ra gã ưa sự lãng mạn. Từ lâu gã vẫn tìm kiếm ý trung nhân. Gã mong muốn cô vừa xinh đẹp vừa bí ẩn. Mặt nạ, quạt, những địa điểm hẹn hò bí mật, đại loại như vậy. Thế mà gã chỉ có được mấy cô bồi bàn ở quán Childs hay mấy cô bán hàng ở công ty Heam. Chẳng mấy chốc mà gã chẳng còn đủ thời gian tìm Nàng nữa. Chẳng mấy nữa thì mọi việc chẳng còn ý nghĩa gì cả. Gã treo áo khoác, bức thư thứ ba tạo thành một vệt sẹo trắng dài ở túi bên. Gã mở tủ lấy chai rượu gin ra từ đống quần áo bẩn chất đống dưới đáy tủ, nơi bà dọn phòng chẳng bao giờ sờ tới. Mỗi tối, gã uống khoảng hai ngụm thôi, phân đều sao cho chai đó đủ cho hai tuần. Gã đổ thẳng rượu vào họng, không cần chạm môi vào cạnh thủy tinh. Lại một đêm nữa, chẳng có gì tuyệt vời, chẳng có gì xán lạn sẽ đến với gã. Tất cả toàn là những thứ rẻ rúm. Phòng thuê khách sạn rẻ rúm, một gã đàn ông rẻ rúm mặc áo rẻ rúm, rượu rẻ rúm và những tiếc nuối cũng rẻ rúm. Gã định bụng sẽ gọi Maybelle đến bây giờ hoặc lát nữa để cho khuây khỏa. Gã biết như thế thì gã sẽ khuây khỏa. Hoặc là Maybelle hoặc chẳng có gì khác. Nhưng gã lại cũng biết rõ là cô sẽ nói gì, sẽ mặc gì và thậm chí sẽ nghĩ gì nữa. Bia và pa-tê gan. Gã nhấc điện thoại lên, quay số nhà nơi cô thuê phòng. Rồi gã lại phải chờ để bà chủ nhà hét tướng lên gọi cô từ chân cầu thang tới tầng bốn, rồi chờ cô đi xuống. Gã trải qua chuyện này nhiều lần rồi nên tính được cả thời gian từ đầu tới cuối. Gã cứ để điện thoại đó rồi đi ra chỗ áo khoác lấy một điếu thuốc. Gã thấy bức thư thứ ba vẫn nguyên xi, đang thò ra từ mép túi. Gã lấy thư, xé phong bì. Một tấm vé mời rơi ra ngoài. Bên trong phong bì không còn gì khác. “Nhà hát Elgin. Lô A-1. Dành cho tối Thứ Ba.” Đó là tối hôm nay. 3,30 đô la được in ở góc. Sao có thể thế được chứ. Chắc là vé giả rồi. Gã lật chiếc vé đi rồi lật lại, xem xét rất kỹ mà không thấy chỗ nào rởm cả, mà cũng không có cần trả thêm khoản chi phí nào khác. Vé thật rồi. Ai lại gửi cho gã thứ này nhỉ? Chiếc điện thoại có tiếng léo nhéo, kéo gã trở về. “Cô ấy xuống ngay đấy,” bà chủ nhà của Maybelle nói, xen lẫn là tiếng lẹp bẹp xung quanh. Cô ấy lúc nào cũng đi xuống cầu thang với tiếng dép kêu lẹp bẹp như thế. “Xin lỗi,” gã nói cứng, “tôi nhầm số thôi,” rồi cúp máy. Gã đang chuẩn bị để đi thì điện thoại réo, đúng lúc đang vuốt tóc cho gọn trước gương. Là Maybelle. “Mitch, anh vừa gọi em đấy à?” “Đâu,” gã nói dối không ngượng mồm. “Thế tối nay mình có gặp nhau không anh?” “Ấy, thôi,” gã vờ rên rỉ. “Anh phải nằm bẹp, bị cúm rồi.” “Thế em qua đó chơi với anh nhé?” “Đừng, đừng,” gã vội nói. “Em bị lây cúm từ anh thì mất một tuần lương đấy.” Gã cụp máy trước khi cô làm phiền gã bằng những ý định tử tế nào khác. Gã đã chắc mẩm là khi đến nhà hát Elgin, chìa vé ra ở cửa thì thế nào cũng bị đuổi. Thế nhưng người soát vé lại chấp nhận, thậm chí còn dẫn gã vào trong với vẻ trân trọng vì đó là vé lô riêng. Thế có nghĩa là thật rồi. Chẳng còn điểm nào mà nghi ngờ nữa cả. Nhưng ai gửi tặng gã mới được chứ nhỉ? Liệu người đó có chờ gã trong lô đó không nhỉ? Nếu có mấy người ở đó thì làm sao gã biết ai vào ai? Trong lô chẳng có ai cả, gã thấy thật thất vọng khi hướng dẫn viên đưa gã tới. Lô nào cũng có bốn ghế, ngăn với lô kế bên và lối đi phía sau bằng một bức vách. Ở đây kín đáo hơn bất kỳ chỗ nào khác trong nhà hát. Gã thấy hơi buồn cười khi ngồi một mình với ba cái ghế trống xung quanh nên cứ nhớn nhác nhìn xem có ai vào nữa không. Thậm chí gã nghĩ có lúc hướng dẫn viên sẽ gõ nhẹ vào vai gã để báo là có nhầm lẫn và gã phải đi ra vì có người dưới gác đang đòi vé. Nhưng mấy chuyện đó không xảy ra. Trong khi các lô khác đã dần kín chỗ cả, mà chẳng ai đến lô chính giữa – lô đắt nhất – này cả. Đến phần mở màn, người ta giảm ánh sáng, khiến khu khán giả chỉ còn mờ mờ, mà ba chiếc ghế kia vẫn vô chủ, như thể người ta mua vé đó với mục đích là để không ai ngồi đó. Vở kịch bắt đầu, nội dung và tình tiết dần dần hé mở, và gã cũng dần quên đi tình hình xung quanh, bắt đầu nhập tâm với câu chuyện trên sân khấu. Thế rồi đột nhiên – gã chẳng biết chính xác cô vào lúc nào trong màn một nữa – gã nhận ra có người ngồi đó, bên cạnh gã. Trước đó không hề có ánh đèn pin của hướng dẫn viên chỉ ghế cho khách, đến tấm rèm cũng không sột soạt báo động cho gã. Nếu có thì gã hẳn không để ý. Chẳng hề có ai khác đến ngồi vào hai chiếc ghế còn lại sau lưng họ. Còn gã thì ngoài nửa màn kịch đầu đã xem, gã không còm chú ý đến sân khấu nữa, vì từ lúc đó gã không rời mắt khỏi cô được. Cô ấy đẹp; trời ơi, cô ấy đẹp quá. Cô có mái tóc đỏ, khuôn mặt cứ như diễn viên. Cô khoác một chiếc áo nhung sẫm màu, lớp vải phía trong sáng màu hơn, khiến cô trông càng nổi bật trên những nếp gấp xếp ly – như một bông hoa nở trên vỏ sò. Dĩ nhiên gã đời nào dám bắt chuyện với cô, nhưng đột nhiên chính cô lại là người chủ động quay sang gã, cầm một điếu thuốc đưa lên miệng, chờ châm lửa. “Không phiền anh chứ?” Giọng cô pha chút âm ngoại quốc. “Trong này được phép hút thuốc thì phải.” Đó là mốc khởi đầu mối quan hệ giữa họ. Gã đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ từ lâu trước khi đến giờ cô tới. Đến tận lúc này gã vẫn không tin được là cô thực lòng muốn vậy, rằng cô muốn đến chỗ gã. Chính cô chủ động đề nghị như thế, chứ gã nào dám mơ… Gã đã hướng dẫn cô cách vào chỗ gã mà không làm kinh động tới khu vực sảnh, thay vào đó là đi bằng cầu thang phụ đằng sau nhà vốn chỉ có những người sống lâu ở đó như gã biết tới. Tuy nhiên, bất chấp bao nhiêu điều như thế, cô vẫn khéo léo, nhẹ nhàng làm cho gã hiểu đây không phải yêu đương gì. Dĩ nhiên không phải; chẳng ai lại yêu con người lý tưởng của mình mà phải tôn thờ mới đúng. Gã lùi lại, đứng xem lại căn phòng đến lần thứ mười mất. Ảnh mấy cô gái trên tường đã được gỡ xuống, để lại những hình chữ nhật ố vàng do đã ngự trị trên đó quá lâu. Gã cần mấy thứ đồ giả đó làm gì cơ chứ, khi mà giờ gã đã có người thật ở đây rồi? Gã kéo tấm ri-đô che quanh chiếc giường. Cố nữa cũng không làm căn phòng khá hơn được, trông vẫn như cái thùng thuê với giá tám đô-la mỗi tuần. Gã xoa xoa tay lo lắng, rồi lại nhìn vào gương xem cái nơ cổ trông có hợp với gã không. Điện thoại đổ chuông. Gã vội vàng lao tới nhấc máy trả lời. Cô ấy sẽ không đến ư? Đổi ý rồi chăng? Nhưng rồi gã thất vọng, xị cả mặt. Hóa ra đó là Maybelle. “Anh hết cúm chưa. Em lo cho anh cả ngày đó, Mitch. Này, em nhảy được ít thịt gà nấu chung trong mấy món đặc sản đấy, em cho vào cặp lồng mang qua chỗ anh. Cái này ăn vào để lại sức…” Gã nghiến răng đau đớn. Sao lại là tối nay cơ chứ? “Anh tưởng thứ Tư thì em phải làm ca tối cơ mà,” gã đáp chẳng hề xởi lởi chút nào. “Em đổi ca với người chỗ làm để đến chăm sóc anh đấy.” “Để lần khác đi. Tối nay không gặp em được…” Đầu dây bên kia đã bắt đầu giận dỗi. “Anh muốn thế cũng được. Rồi anh sẽ hối tiếc.” Gã chẳng bận tâm, cúp máy đúng lúc tiếng gõ cửa gã mong chờ vang lên. Gã mở cửa, nữ thần lãng mạn bước vào, như trong giấc mơ ngày của gã, ở một nơi nào đó, một lúc nào đó. Cô vẫn khoác chiếc áo nhung như ở nhà hát. Gã lúng túng, không biết nên làm gì, cũng không biết nói gì cho phải. Cũng vì gã đã bao giờ được ở gần nàng tiên lý tưởng đâu. “Em tìm cầu thang có dễ không? Nhẽ ra… tôi nên xuống đón em ở góc phố.” Gã bật đài lên, nhưng lúc đó là giờ bình luận thể thao nên gã tắt luôn. Cô có mang tới một chai gì đó, giờ xuất hiện từ bên trong áo choàng. Với cô động tác đó – nếu mà xuất phát từ người khác như Maybelle chẳng hạn thì vô cùng xấu xí – trông thật duyên dáng và kích thích. “Chúng ta sẽ uống cái này,” cô nói. “Rượu arak. Tôi mua để góp phần cho tối nay.” Chai rượu vẫn còn chưa mở, lớp giấy nhôm mỏng vẫn bám kín quanh cổ chai. Gã phải lấy dụng cụ mới nạy được nút ra. Loại rượu này khá bốc, khiến người ta nhìn cuộc sống theo lăng kính màu hồng. Nó cũng giúp gã trút bỏ được những gì đang khiến gã cứng lưỡi, cho gã nói không hề khó khăn, nói ra những gì gã giữ trong đầu trước đó. “Em đúng như trong giấc mơ của tôi, cứ như từ trong tâm trí của tôi bước ra ấy.” “Phụ nữ thông minh là mọi điều đối với đàn ông. Giống như tắc kè hoa ấy, cô ấy có thể khoác lên mình những màu sắc anh chàng kia mong muốn nơi cô. Cô ấy chỉ cần tìm hiểu xem cụ thể mong muốn đó là gì thôi. Mấy bức ảnh trên tường cho thấy rất rõ anh tìm kiếm điều gì ở phụ nữ…” Gã suýt nữa thì đánh rơi cả chiếc cốc trên tay, tròn mắt nhìn cô. “Làm sao em biết là trên tường có ảnh? Em đã từng vào phòng này rồi à?” Cô nhấp một ngụm rượu, khẽ ho một tiếng. “Chưa hề,” cô nói. “Nhưng trên tường có nhiều vết ố, cho thấy đó là nơi từng treo ảnh. Ai làm như vậy thường là người lãng mạn và lãng mạn hóa phụ nữ.” “Ồ, ra vậy,” gã nói, lại nâng ly rượu lên. Nhận thức của gã đã bắt đầu hơi chếnh choáng. Gã rất vui, cảm thấy không cần câu nệ nữa. “Thú vị thật…” “Gì cơ?” “Em ở đây là đủ để biến căn phòng rách rưới này thành cái gì đó ấm cúng và xinh xắn. Em khiến tôi trẻ lại hai chục tuổi, khiến tôi cảm thấy… thấy như ngày xưa có thời đội mũ sắt đi ra góc phố tìm kiếm…” “Gì cơ?” “Chẳng biết nữa, điều gì đó tuyệt vời. Có tìm được đâu, nhưng cũng chẳng quan trọng, vì còn có góc phố khác sau đó. Cái cảm giác tìm kiếm đó mới quan trọng, bước đi cứ lâng lâng. Từ lâu tôi đã không còn cảm giác đó nữa. Em đúng là có phép thuật.” “Chánh hay tà vậy?” Gã cười bâng quơ. Rõ ràng là gã không nắm được hàm ý sau câu hỏi đó. “Tôi phải đi rồi.” Cô đứng dậy, bước tới bàn trước gương. “Uống thêm một ly nữa rồi tôi phải về. Vẫn còn đủ rượu cho một ly nữa.” Cô cầm cái chai, đưa lên soi dưới ánh sáng đèn. Tới giờ họ vẫn dùng bàn trước gương làm nơi rót rượu. Cô rót đầy hai cốc rồi dừng lại, để hai cốc ở đó một lúc, khoảng cách giữa hai cốc khá xa. “Tôi phải trang điểm lại một chút… cho anh nhìn lần cuối,” cô khẽ mỉm cười. Một chiếc hộp sắt nhỏ xuất hiện trên tay. Cô cúi người, ngả về chiếc gương. Động tác của cô chỉ là hành vi chứ không nhằm đạt mục đích vì phần lớn không hề chạm vào không gian gần mũi cô. Có thể nói là cô đang trang điểm cho không gian giữa cô và chiếc gương. Gã ngồi đó, nhìn cô cười như đứa trẻ ngoan. Mũi cô chẳng hề trắng hơn là mấy – cũng có thể nghệ thuật trang điểm là phải thế, nghĩa là làm cho không lộ liễu. Một hai hạt màu trắng vãi ra bề mặt gỗ sẫm đen. Cô lại cúi người xuống, vô cùng khéo léo, đủ để hơi thở đẩy chúng rơi vào quên lãng. Cô cầm hai chiếc cốc lên, quay lại chỗ gã đang ngồi. Gã nhìn cô như chú cún con trung thành nhìn chủ. “Tôi thật không tin hôm nay lại có dịp thế này. Em thực sự ở đây. Em thực sự cúi xuống đưa rượu cho tôi. Hơi thở của em chạm vào tóc tôi. Thật là ngọt ngào, như có một bông hoa cẩm chướng trong phòng, không khí xung quanh tôi…” Gã đặt cốc xuống, cô cũng làm theo, như thể có một sự đồng điệu chắc nịch. “Khi em ra khỏi cánh cửa kia, tôi biết rằng mọi điều không phải là thực nữa. Tôi sẽ mơ về em khi ngủ, rồi đến sáng tôi sẽ không biết đâu là mơ, đâu là thực nữa. Ngay lúc này tôi cũng không phân biệt được rồi.” “Uống đi.” Thấy gã đưa tay với nhầm cốc, cô nói, “Không phải, cốc của anh kia cơ mà. Anh quên rồi à?” Giọng cô đanh thép không ngờ. “Uống vì điều gì?” “Vì giấc mơ sắp tới. Có thể là giấc mơ dài đấy.” Gã nâng cốc. “Vì giấc mơ sắp tới.” Cô quan sát gã đặt chiếc cốc đã vơi một nửa xuống. “Đây chẳng phải lần đầu tôi và anh gặp nhau,” cô nói. “Đúng rồi. Tối hôm qua, tại nhà hát…” “Ở đó cũng không phải lần đầu. Anh đã từng nhìn thấy tôi một lần trước đó. Trên bậc thềm nhà thờ. Anh có nhớ không?” “Bậc thềm nhà thờ ư?” Gã lắc lắc đầu một cách ngớ ngẩn, rồi cố gắng giữ cho nó thẳng. “Lúc đó em đang làm gì?” “Đang làm lễ cưới. Giờ thì anh đã nhớ ra chưa?” Lơ đãng nhưng cố gắng theo những gì cô nói, gã uống nốt chỗ rượu trong cốc. “Tôi có ở chỗ đám cưới đó à?” “Đúng đấy, anh có ở chỗ đám cưới – không sai chút nào.” Cô đứng phắt dậy, ấn nút trên chiếc đài nhỏ. “Đến giờ thưởng thức âm nhạc rồi.” Tiếng kèn ồn ào lấp đầy không khí quanh họ. Cô bắt đầu xoay xung quanh gã, mỗi lúc một nhanh, tà váy mở rộng trên đầu gối. Chẳng còn là cô gái đáng yêu của ai nữa. Và có chuyện gì đó không ổn… Gã đặt tay lên trán. “Tôi không nhìn rõ được em nữa… có chuyện gì thế… đèn nhấp nháy à?” Cô vẫn tiếp tục khiêu vũ một mình, mỗi lúc một nhanh, vũ điệu chiến thắng và vũ điệu đưa ma. “Đèn vẫn bình thường. Em đang nhấp nháy.” Gã đánh rơi chiếc cốc, nó vỡ tan khi chạm sàn. Gã bắt đầu bứt rứt, tự cào xé. “Ngực tôi… như bị rách. Gọi bác sĩ, bác sĩ…” “Bác sĩ đến cũng không kịp đâu.” Cô đang xoay hết tốc lực thì phải, tít ở chỗ tường. Thị giác đang giảm dần của gã chỉ còn thấy cô là cái bóng mờ mờ, rồi như nhiệt độ giảm dần trên kim loại, bóng cô từng chút từng chút lẫn vào bóng tối. Gã lúc này đã nằm trên sàn, thều thào những lời cuối cùng trên tấm thảm, “… chỉ muốn em hạnh phúc…” Từ đâu đó xa lắm, một giọng nói châm biếm đáp lại, “Anh đã làm được rồi… làm được rồi…” Sau đó mọi thứ chỉ còn là im lặng. Cô kéo cánh cửa phòng đóng lại, rồi đột nhiên khựng lại, đủ để cho cánh cửa cách khung chỉ một chút, đảm bảo rằng nếu muốn thì cô có thể quay vào trong một cách dễ dàng. Họ nhìn nhau, cách nhau chỉ có một bước. Maybelle tóc vàng, thấp và đậm người, tay cầm một chiếc cặp lồng, gói ghém tạm bợ bằng giấy màu nâu. Người phụ nữ khoác áo nhung có vẻ gì đó ngang tàng, tách thức, mắt nhìn cô chăm chú, tính toán. Maybelle mở lời trước, mấp máy đôi môi dày tô son quá đậm. “Tôi mang cái này tới cho Mitch. Nếu anh ấy không muốn gặp tôi thì cũng không sao. Giờ tôi hiểu rồi. Cứ nói với anh ấy…” “Sao cơ?” “Bảo anh ấy nên uống cái này khi còn nóng.” Người phụ nữ mặc áo khoác nhung ngoái nhìn khe cửa hẹp vốn không đủ để quan sát phía bên trong nhà. “Người ta có nhìn thấy cô vào đây không, mấy người dưới nhà ấy?” “Có chứ.” “Họ có thấy cô mang cặp lồng súp không?” “Có chứ.” Lừa cô gái này vào phòng chẳng có gì khó cả. Cô đã lấy ri-đô che xác gã lại rồi, ngay khi có tiếng gõ cửa đầu tiên báo hiệu. Chẳng khó khăn gì – trước khi cô gái này phát hiện ra gã – nếu cô cần cho cô gái này im lặng mãi mãi bằng chính cốc rượu gã đã cầm. Hoặc chỉ cần bỏ cô ta lại đó chịu trận, cô gái này chắc chẳng đủ thông minh để thanh minh cho mình. Cô xoay người lại, kéo cửa sập hẳn. “Cô đến đây từ đâu thì hãy quay lại đó thật nhanh.” Lời cô nói không mang âm hưởng đe dọa mà là cảnh báo thầm. Maybelle thì cứ tròn mắt nhìn cô một cách ngu ngốc. “Nhanh lên. Cô đứng đây thêm phút nào thì có hại cho cô thêm phút đó mà thôi. Nhớ mang cả cái cặp lồng kia về, không mở ra. Bảo với người ta là cô không vào được – tạo đám đông quanh cô, khi đó cô sẽ an toàn.” Cô khẽ đẩy Maybelle buộc cô gái chậm suy nghĩ này đi xuống cầu thang ra khỏi khách sạn. Nếu chỗ rẽ ở hành lang, Maybelle nhìn lại hỏi, “Nhưng… có chuyện gì? Có chuyện gì?” “Anh bạn của cô nằm chết trong đó. Tôi giết anh ta. Tôi đang muốn giúp cô khỏi bị liên lụy đấy, đồ ngốc ạ. Tôi chẳng có thù hằn gì với… những phụ nữ khác.” Nhưng lúc đó Maybelle đã không còn ở đó để nghe lời cuối cùng. Cô ta ré lên âm thanh như thủy tinh bị chà xát rồi chạy đi mất. Người phụ nữ áo nhung cũng đi nhanh, nhưng bước đi uyển chuyển không hề có vẻ gì hoảng loạn, về phía cánh cửa thoát hiểm ở đầu kia hành lang, ra cầu thang phụ vắng người trông coi. CẢNH SÁT ĐIỀU TRA Phải đến gần một tuần sau khi xảy ra vụ việc thì Wanger mới được sếp giao làm. Trước đó có người tên là Cleary nào đó phụ trách, rốt cuộc cũng không đi đến đâu. “Wanger này, có một vụ khá kỳ quặc ở khách sạn Helena. Tôi vừa đọc báo cáo gửi về xong, thấy có vài nét trùng khớp với vụ Bliss… tôi nhớ là sáu tháng trước thì phải? Nếu chỉ nhìn qua thì chẳng có gì giống nhau giữa hai vụ này cả. Vụ này thì rất rõ rệt, chắc chắn là án mạng. Nhưng có một điểm khiến tôi chú ý là cả hai vụ đều có hình bóng một người phụ nữ đã biến mất tăm mất tích ngay sau đó, cho dù người của ta đã nỗ lực tìm kiếm khắp nơi. Cả hai vụ cũng không xác định được động cơ cụ thể nào. Hai sự kiện đó phải lúc nào cũng xuất hiện trong ngành này. Thế nên tôi mới cho rằng tốt hơn là để Cleary chuyển sang cho anh, bàn giao lại những gì anh ta phát hiện được, để anh thẩm vấn những người anh ta đã tập hợp trong hồ sơ. Nói cho cùng thì anh cũng đã nắm vụ Bliss, còn anh ta thì không, nên anh đánh giá sẽ tốt hơn. Nếu anh tìm được điểm liên hệ giữa hai vụ, cho dù nhỏ nhặt đến đâu, thì báo cho tôi ngay. Tôi giao anh toàn tâm làm vụ này.” Cleary nói, “Đây là những gì tôi thu thập được về vụ này sau bảy ngày. Tất cả đều khá rõ ràng, nhưng không có ý nghĩa gì cả. Bề ngoài thì nó trông như một vụ một người đàn bà tâm thần đi giết người, nhưng tôi lại có bằng chứng rõ ràng là người đó chẳng hề tâm thần như thế – rồi anh sẽ tự rút ra kết luận đó như tôi sau khi tìm hiểu thêm. Nạn nhân chết vì một lượng nhỏ kali xyanua pha lẫn trong rượu arak…” “Phải, tôi có đọc trong báo cáo khám nghiệm như vậy.” “Đây là biên bản lời khai nhân chứng. Anh đọc cụ thể sau, giờ để tôi tổng hợp trước. Thứ nhất, tôi tìm được một cuống vé nhà hát màu đỏ – phần khách được giữ lại sau khi xé vé ở cửa ấy – trong túi áo nạn nhân. Tôi đã tìm hiểu, kết quả là thế này: trước ôm anh ta chết hai hôm, vào buổi tối, có một bụ nữ tóc đỏ rất xinh đẹp tới phòng vé nhà hát Elgin hỏi mua toàn bộ một lô. Nhân viên quầy vé hỏi muốn xem vở nào thì khách nói là không quan trọng, vở nào cũng được, miễn là cần toàn bộ lô đó. Điều đó thật là lạ, vì hai lý do: phần lớn khách chọn ngày khá kỹ, họ muốn bố trí xem vào một ngày cụ thể nào đó; thứ hai là số lượng ghế trong lô không phải là vấn đề với bà khách này – bà ta không yêu cầu mua lô ba ghế, bốn ghế hay năm ghế, miễn là riêng một lô. Nhân viên quầy vé bố trí một lô bốn ghế vào đêm gần nhất bố trí được, tức là ngay đêm diễn hôm sau. Sự kiện này khá ấn tượng với ông ta. “Hai vé không được sử dụng. Mitchell đến rạp hát một mình vào đêm diễn đó, cầm theo một vé. Người phụ nữ mua vé cũng đến rạp một mình, nhưng muộn hơn nhiều, khá lâu sau khi đã mở màn.” “Chỉ có một người mới có thể xác nhận là người phụ nữ đến rạp cũng là người phụ nữ mua vé,” Wanger nhắc. “Nhân viên quầy vé. Lời khai của ông ta đang ở trong tay anh đó. Ông ta đóng cửa quầy sau giờ bán và tình cờ lại đứng xem kịch từ cầu thang nên thấy bà ta đi qua, lên gác, đi một mình. Ông ta nhận ra người phụ nữ này ngay lập tức. “Giờ đến chỗ quan trọng đây. Tôi đã thẩm vấn nhân viên phụ trách khu vực lô. Anh ta khẳng định với tôi rằng hai người bọn họ hoàn toàn không biết nhau chút nào. Anh ta đã rất chú ý tới việc bà ta vào chỗ ngồi vì nhiều lý do. Khu vực anh ta phụ trách có ít khách hơn khu vực ở ban công hay khu vực ngồi đại trà. Bà ta đến cũng rất muộn, thế nên thành nổi bật. Bà ta rất đẹp mà lại đi một mình, đấy cũng là điểm lạ lùng với anh ta. “Anh ta quan sát kỹ, nếu không nói là cố tình tọc mạch, vì những lý do vừa rồi, khi bà ta ngồi vào ghế. Hai người bọn họ không hề chào nhau gì cả. Anh ta nấn ná ở lại đủ gần nên đoan chắc chuyện đó. Theo kinh nghiệm làm nghề hướng dẫn khách vào rạp nhiều năm, anh ta khẳng định là họ không biết nhau. “Bản thân tôi thấy nhận định của anh ta cũng đúng. Nếu họ có quen nhau thật thì Mitchell hẳn đã đứng đợi bà ta ở sảnh chứ sẽ không lên ngồi trước như vậy. Đàn ông ai chẳng thế, kể cả loại thô lỗ nhất. “Phải đến giờ nghỉ giữa màn thì người hướng dẫn viên mới thấy hai người họ nói chuyện với nhau, nhưng đó là cách nói chuyện của hai người vừa mới làm quen. “Nói cách khác đây là trường hợp đón lõng.” “Nếu hai người họ không biết nhau, làm sao mà người phụ nữ đó đưa vé cho anh ta được? Cô ta mua vé, anh ta đến rạp với một trong số vé đó.” “Gửi nặc danh, qua đường bưu điện. Tôi đã tìm thấy phong bì, cũng trong túi áo. Vé màu đỏ sặc sỡ, có vết phai màu nhàn nhạt phía bên trong phong bì; ai đó tay mồ hôi ở bưu điện hoặc ở lễ tân khách sạn – hoặc có khi là chính Mitchell – đã cầm vào, làm nó ẩm, nhạt màu một chút. Đây, anh xem đi. “Người ta chỉ nhìn thấy người phụ nữ này một lần nữa sau đó. Rồi bà ta biến mất luôn. Tôi vẫn chưa tìm hiểu được thêm gì về con người này. Vào tối xảy ra án mạng, không ai thấy bà ta vào hay ra khỏi khách sạn cả. Tuy nhiên điều đó cũng chẳng có gì là phức tạp vì khách sạn có một cầu thang phụ ở đằng sau, nối trực tiếp lên tầng mà không qua sảnh. Cửa ra cầu thang có chốt, không mở được từ bên ngoài, nhưng nếu có người bố trí thì việc cô ta vào sẽ không khó khăn gì. Sự cẩn trọng này có lẽ là ý của bà ta vì bà ta đã có ý định hạ sát Mitchell.” “Anh nói có người nhìn thấy cô này một lần cuối cùng sau lần ở rạp hát, người đó là ai?” “Là một cô gái đang qua lại với nạn nhân, làm nghề bồi bàn, tên là Maybelle Hodges. Cô ta đến chỗ đó khoảng một lúc sau thời điểm bên khám nghiệm xác định là nạn nhân chết. Khi cô ta gõ cửa thì một người phu nữ đi ra. Bà ta đã ở trong phòng.” “Người phụ nữ này nói gì?” “Bà ta thú nhận là đã giết Mitchell và khuyên cô gái trẻ quay xuống gác, tránh xa để khỏi bị liên lụy.” Wanger gãi gãi cằm. “Lời khai này có đáng tin không đây?” “Đáng tin, dựa theo lời mô tả của cô gái về người phụ nữ kia, cả hình dáng bên ngoài, quần áo mặc trên người, đều khớp với mô tả của nhân viên rạp hát. Thế nên chắc không phải là cô ta bịa ra đâu. “Điều đó dẫn tới nhận định tôi nói lúc nãy. Người phụ nữ này không hề điên khùng chút nào. Bà ta có cơ hội rất tốt để sát hại cô gái trẻ kia ngay lúc đó. Bà ta chỉ cần cho cô ta vào phòng – xác thì đã bị ri-đô che rồi. Bà ta có nhiều thời gian. Thế nhưng bà ta lại bảo cô gái đi chỗ khác, vì lợi ích của chính cô ta. “Toàn bộ câu chuyện là thế. Có vẻ như có nhiều thông tin hơn chúng ta cần nhưng điểm mấu chốt để mọi việc có ý nghĩa thì lại thiếu: không có động cơ.” “Không xác định được động cơ, thủ phạm và nạn nhân không biết nhau, thủ phạm là nữ, biến mất ngay sau khi gây án,” Wanger tổng kết lại. “Tôi được cử sang đây để xem có thể rút ra được gì thêm không. Tôi chỉ chắc chắn một điểm duy nhất: vụ này dính với vụ Bliss, là một bản sao hoàn chỉnh.” Tại khách sạn Helena, tầng 4, bà dọn phòng nói, “Trước đó tôi chưa bao giờ gặp cô ta nên tôi chắc cô ta đâu có sống trong khách sạn này. Tôi tưởng cô ta đến đây thăm ai cơ. Cô ta đi qua hành lang – hôm đó là hai tuần hay khoảng đó trước sự kiện kinh khủng đó. Cô ta đứng nhìn qua cửa, tôi lúc đó đang dọn phòng cho ông ta. Tôi nói, ‘Bà tìm ông Mitchell à?’, bà ta bảo, ‘Không, nhưng tôi luôn nghĩ là ta có thể biết về tính cách con người ta, biết về thói quen nếu quan sát nơi người đó sống.’ Bà ta ăn nói lịch sự lắm, rất dễ nghe. Bà ta nhìn mấy bức ảnh treo trên tường rồi nói, ‘Ông ta thích phụ nữ phải bí ẩn, tôi nhìn ảnh là tôi biết. Những cô gái này không hề giống thực tế chút nào, mà họ đang cố diễn giống một cái gì đó khác, vì ông ta. Cắn hoa, nhìn qua khe quạt. Nếu ai trong số đó mà tỏ rõ con người thật với ông ta thì chắc ông ta chẳng treo lên đó đâu.’ “Thế thôi. Sau đó thì bà ta đi mất. Từ đó tôi không gặp lại lần nào nữa cả.” Nhân viên cửa hàng rượu Globe nói, “Có, tôi nhớ có bán chai này. Loại rượu đặc biệt như arak thì cả năm có khi bán được một, hai chai thôi. Không, không phải là bà ta gợi ý. Tôi thấy chai đó trên giá và nghĩ là đây là cơ hội đẩy nó đi được, vì bà ta muốn mua loại rượu vừa lạ, vừa mạnh. Bà ta nói muốn mua làm quà tặng cho một người bạn, rượu càng nặng thì ông ta càng thích. Tôi có giới thiệu vodka và aquavit rồi, nhưng bà ta quyết định chọn arak. Bà ta cũng thú nhận rằng chưa bao giờ nếm thử loại đó. Có một điều lạ là khi ra về, bà ta cười bảo tôi, ‘Gần đây tôi thấy mình làm rất nhiều điều trước đây chưa bao giờ làm.’ “Bà ta không hề tỏ ra lo lắng hay bồn chồn gì cả. Thật ra bà ta còn có lúc bảo tôi cứ ra phục vụ một ông khách khác đang vội ấy, còn bà ta thì cân nhắc tiếp. Bà ta bảo là cần có thời gian để lựa chọn cho đúng.” Một tuần sau, sếp của Wanger nói, “Vậy là anh cho rằng hai vụ đó có liên quan tới nhau ư?” “Đúng vậy.” “Liên quan thế nào?” “Chỉ có một điểm liên quan: cùng một người phụ nữ vô danh xuất hiện trong hai vụ này.” “Ồ, không. Chỗ này thì anh nhầm rồi, không thể nào có chuyện đó,” sếp cẩm gạt đi, thậm chí dùng hai tay minh họa. “Đúng là tôi có thấy một vài nét mờ nhạt ở những điểm đó khi tôi trao đổi với anh tuần trước. Nhưng điều đó không có cơ sở vững chắc, sẽ sụp đổ ngay. Tôi có dành thời gian đọc tài liệu mô tả cô ta do Cleary gửi tới. Kết quả là nhầm lẫn hoàn toàn. Lấy hồ sơ vụ Bliss ra đây, mang qua đây… Giờ để hai hồ sơ cạnh nhau để tiện so sánh nhé.” Hồ sơ vụ Bliss — Hồ sơ vụ Mitchell tóc vàng — tóc đỏ cao 1m65 — cao 1m70 màu da sáng — màu da hơi sẫm mắt xanh — mắt xanh sẫm khoảng hai mươi sáu tuổi — khoảng ba mươi hai tuổi ăn nói có học thức, lịch sự — có ngữ điệu ngoại quốc “Phương thức gây án tương đồng cũng không có. Một người đẩy anh thư ký khỏi ban công. Một người bỏ xyanua vào rượu trong một khách sạn tồi tàn. Kết quả điều tra cũng cho thấy hai nạn nhân đều không quen biết với người phụ nữ khiến họ phải chết, mà cũng chẳng biết về nhau nữa. Không đâu Wanger, tôi cho rằng đây là hai vụ hoàn toàn khác nhau…” “Do cùng một nữ sát thủ ra tay,” Wanger vẫn quyết bảo vệ quan điểm. “Nếu nhìn vào hai cột thông tin đối lập nhau thế này thì tôi đảm bảo với sếp là tranh cãi sẽ rất khó khăn đấy. Có thể thấy điểm khác biệt về bề ngoài đó chẳng có ý nghĩa gì mấy. Hãy chia nhỏ từng nội dung ra nhé để xem có rút ra được điểm chung nào không, dù nhỏ nhặt. “Tóc vàng với tóc đỏ: bé gái nào cũng có thể nói với sếp là sự khác biệt đó không đáng kể đến mức nào. “Cao một mét sáu với cao một mét bảy: chỉ cần thêm một đôi giày cao gót hay đi một đôi đế bằng thì một cô gái cũng có độ cao như vậy. “Màu da sáng với sẫm: chỉ một chút phấn trang điểm là xong. “Khác về màu mắt thì có thể chỉ là ảo giác do trang điểm vùng mắt mang lại thôi. “Khác biệt về tuổi tác cũng thế thôi, phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài như trang phục hay thái độ, hành vi. “Còn lại là gì nào? Ngữ điệu à? Tôi có thể nói giọng vùng nào đó ngay nếu tôi muốn. “Có một điểm cần lưu ý là không có ai từng thấy nữ nghi phạm ở vụ án này có dịp thấy nữ nghi phạm ở vụ kia. Chúng ta có hai nhóm nhân chứng hoàn toàn riêng rẽ. Không có nhân chứng đồng thời liên quan tới cả hai vụ, do đó không có cơ sở để tiến hành so sánh. Sếp nói là không có điểm tương đồng về phương thức gây án, nhưng thực tế là có nhiều. Cách ra tay cụ thể thì đúng là khác, cái này khiến sếp bị lạc đường rồi. Hãy tập trung vào ‘hai’ nữ nghi phạm này. Cả hai đều thông minh, phải nói là cáo già mới đúng, đủ để biến mất ngay sau khi gây án. Tài năng hiếm có đấy. Cả hai đều rình rập nạn nhân từ trước, nhằm tìm kiếm thông tin về thói quen, hoạt động của nạn nhân. Một người thì đến căn hộ của Bliss khi anh ta đi vắng, một người thì cũng ghé qua phòng của Mitchell – cũng lúc anh ta không có nhà. Nếu đó không phải là tương đồng về phương thức thì sếp gọi là gì? Tôi thì chắc chắn hai nghi phạm đó thực ra là một người.” “Thế động cơ của cô ta là gì?” sếp cẩm tranh luận. “Không phải là trộm cắp gì rồi. Mitchell còn đang nợ một tháng rưỡi tiền nhà, còn cô ta thì mua cả một lô bốn vé giá 3,30 đô-la, còn vứt đi hai vé, chỉ để chắc chắn là gặp được anh ta trong hoàn cảnh phù hợp. Trả thù thì nghe cũng hợp lý, nhưng… anh ta lại không hề biết cô ta, mà cô ta cũng không biết anh ta nữa. Ta vừa không ghép được một động cơ khả dĩ nào mà cũng không đưa ra được lời giải thích nào giống như các trường hợp thiếu động cơ khác. Cô ta cũng chẳng phải kẻ sát nhân tâm thần nào hết. Cô ta có cơ hội rất rõ để giết cô bồi bàn Hodges – trong khi cô Hodges thì ngây thơ, yếu đuối, chậm chạp, đúng loại mồi ngon khó cưỡng lại của những kẻ sát nhân bẩm sinh. Thay vào đó cô ta bỏ qua, lại còn bảo cô gái kia đi chỗ khác để khỏi liên lụy nữa.” “Động cơ ở trong quá khứ, rất xa trong quá khứ,” Wanger vẫn cứng đầu với giả thuyết của mình. “Chính anh đã lục tung quá khứ của Bliss rồi còn gì – xem xét từng ngày rồi còn gì – mà có tìm được gì đâu.” “Chắc hẳn tôi đã bỏ qua điều gì đó rồi. Đáng trách là tôi chứ không phải là không có. Động cơ ở đó, có điều tôi chưa thấy thôi.” “Chúng ta đang gặp trở ngại lớn đấy. Anh có thấy là kể cả khi hai nạn nhân này còn sống thì họ cũng chẳng giúp ta biết được thêm điều gì về việc tìm xem cô ta là ai, tại sao lại ra tay như thế… đơn giản là vì bản thân họ cũng không biết cô ta, và cũng chưa từng nhìn thấy cô ta bao giờ?” “Cách suy nghĩ đó làm tôi vui hơn đấy,” Wanger càu nhàu. “Tôi không hứa trước được là sẽ phá được vụ này đâu, dù sếp đã cố đùn sang cho tôi. Tôi chỉ có hứa là trước khi đầu hàng thì tôi sẽ cố hết sức.” Báo cáo của Wanger về vụ Mitchell (năm tháng sau): Bằng chứng: 1 phong bì, chữ đánh máy từ máy trưng bày tại cửa hàng, người bán không cung cấp được thông tin gì thêm. 1 chai rượu arak, mua tại cửa hàng Globe Liquor. 1 cuống vé, lô A-1, nhà hát Elgin. Vụ án vẫn mở. Phần Ba: MORAN Giống như tiếng trống tưng tưng khi đêm rừng già đổ xuống bốn phương Giống như tiếng đồng hồ tích tích khi nó đếm thời gian trên tường — Cole Porter NGƯỜI PHỤ NỮ Nó biết ngay là người lớn hay hỏi những câu linh tinh mà. Nhiều lúc nó thấy có câu dễ nó chẳng muốn trả lời là đúng hay sai cơ. Thế nhưng người lớn bao giờ cũng muốn nó trả lời. Cứ như là nó không muốn làm gì khác ấy, không có cái gì hay hơn ấy. Ví dụ như chơi đập bóng chẳng hạn, hay vẽ trên vỉa hè. Nhưng cái cô ấy không chịu để nó đi. Cô cúi xuống tận mặt nó mà hỏi, không cho nó chơi. “Ái chà, cháu bé thế này mà chơi quả bóng to nhỉ!” À, thì ra cô ấy thấy quả bóng to. Bóng to thì sao nhỉ? Sao cô ấy không về nhà đi? “Cháu mấy tuổi rồi” Sao cô ấy lại muốn biết nó mấy tuổi? “Năm tuổi rưỡi. Cháu sắp sáu tuổi rồi.” “Thế nhà cháu có những ai?” Tại sao cô ấy lại muốn biết nó sống với ai chứ? “Có bố mẹ.” Nó bực bội rồi. Không phải là bố mẹ thì là nó con ai chứ? “Thế bố cháu tên là gì thế?” Làm như nó không biết bố tên là gì. “Là Moran,” nó đáp. Cô nói gì đó về cánh cửa. “Đẹp thật đấy.” Rồi cô nói, “Cháu có anh hay chị nào không?” “Không.” “A, tiếc nhỉ! Cháu có nhớ họ không?” Làm sao mà nhớ được khi không có chứ nhỉ? Thế nhưng thằng bé vẫn mơ hồ hiểu được ý nghĩa nào đó của việc không có anh hay chị, thế nên nó lập tức bù đắp bằng cái gì đó khác. “Nhưng cháu có bà.” “Thế thì tuyệt lắm nhỉ? Bà cháu có sống ở đây với cháu không?” Bà thì có bao giờ sống cùng chứ, sao cô ấy lại không biết nhỉ? “Bà sống tận Garrison.” Lại một sự thay thế nữa cần có xuất hiện trong tâm trí thằng bé, thế nên nó lại tiếp tục bù đắp. “Cả dì Ada nữa.” Sao cô ấy không chịu cho nó đi chơi đập bóng tiếp cơ chứ? “Sống xa tít thế cơ á?” cô nhận xét. “Cháu có hay đi thăm bà không?” “Có ạ. Hồi cháu còn bé ấy. Nhưng bác sĩ Bixby bảo là cháu hay gây ồn nên mẹ lại đưa cháu về nhà luôn.” “Bác sĩ Bixby chữa bệnh cho bà cháu à?” “Vâng ạ. Bác sĩ hay đến.” “Thế cháu đã đi học chưa?” Sao lại hỏi thế chứ! Cô ấy tưởng nó là trẻ con chắc. Năm tuổi rồi mà. “Cháu đi học mẫu giáo,” nó trịnh trọng nói. “Thế ở lớp cháu hay làm gì?” “Bọn cháu vẽ vịt này, thỏ này, cả bò nữa. Cô Baker cho cháu sao vàng vì vẽ bò đẹp.” Sao cô ấy không đi đi để nó chơi chứ? Cứ thế này thì biết đến bao giờ? Suốt nãy giờ thì nó đập bóng được mấy vòng rồi ấy, phí cả thời gian. Thằng bé nhích sang một bên, cuối cùng thì cô cũng hiểu ý nó. “Cháu yêu, chạy đi chơi đi, cô không giữ cháu ở đây nữa.” Cô vỗ nhẹ hai cái vào sau cái đầu hình viên đạn của thằng bé rồi đi xuống chỗ vỉa hè, ngoái lại cười với nó lần nữa. Tiếng gọi của mẹ thằng bé đột nhiên xuyên qua cái mành che cửa sổ tầng một. Chắc mẹ thằng bé hẳn đã ngồi đó từ nãy rồi. Từ trong màn nhìn ra thì được, chứ đứng ngoài thì không nhìn vào được bên trong bao giờ. Thằng bé đã nhận ra điều đó từ lâu rồi. “Cái cô lúc nãy nói gì với con thế, Cookie?” mẹ nó nhẹ nhàng hỏi. Nếu là người lớn thì hẳn đã nhận ra sự tự hào của người mẹ đối với đứa con đáng yêu đến nỗi nó thu hút được cả sự quan tâm của người qua đường. “Hỏi con bao nhiêu tuổi,” nó trả lời cụt lủn. Nó lại để tâm tới vấn đề quan trọng hơn nhiều. “Mẹ, xem con ném cái này này.” “Con đừng ném cao quá, nó lăn vào rãnh nước là mất đấy.” Mộtphútsauthằngbéđãquênchuyệnlúcnãy. Haiphútsauthìmẹnó cũngquên. MORAN Vợ của Moran gọi điện tới văn phòng lúc gã ra ngoài ăn trưa, có tin nhắn để lại bảo gã gọi về nhà sau khi đi ăn trưa về. Chuyện đó chẳng làm gã thấy ngạc nhiên chút nào, mà thực ra xảy ra khá nhiều lần rồi, trung bình cứ ba ngày một lần như thế. Lúc thì là cô ấy nhớ ra là cô ấy cần mua gì đó ở dưới phố, bảo gã đi qua thì ghé mua cho cô trên đường về nhà. Chắc là lại như thế thôi, gã nhủ thầm. Nhưng nghĩ lại thì gã thấy cũng không hẳn là như thế, vì nếu không gặp được gã thì cô ấy chỉ cần đơn giản là nhắn lại cho tổng đài viên là xong. Trừ phi là có chuyện gì đó quan trọng hơn mà cô cần nói cụ thể chứ không nhờ người khác nói hộ được. Gã tận dụng khoảng thời gian ngắn ngủi sau bữa trưa vốn dành cho việc tiêu hóa để gọi điện. “Vợ ông đấy, ông Moran,” tổng đài viên nói. “Frank…” giọng Margaret có gì đó rất xúc động khiến gã hiểu ngay có chuyện không hay vì trước đây cô chẳng mấy khi nhắc tên gã mà chỉ nói thẳng vào mấy việc cần gã làm. “Có chuyện gì thế em?” “Ôi Fr...ank, sao giờ anh mới gọi lại. Em đang lo quá. Vừa có điện do dì Ada gửi cách đây nửa giờ…” Ada là cô em gái chưa chồng của vợ gã, sống ở xa. “Điện tín à?” gã hỏi. “Sao lại đánh điện?” “Điện tín mà. Đây, để em đọc anh nghe.” Gã phải đợi mấy giây, vì chắc cô nhét bức điện vào trong túi tạp dề và đang cố gắng mở ra bằng một tay. “Điện thế này: ‘Mẹ ốm nặng. Không định làm chị lo lắng quá nhưng chị nên về nhà ngay. Bác sĩ Bixby cũng nghĩ thế. Đừng chần chừ. Ada.’” “Chắc lại do tim rồi,” gã nói không thương cảm cho lắm. Sao vợ gã lại phải gọi cho gã vào giữa ngày làm việc vì những chuyện như thế này cơ chứ nhỉ? Vợ gã đã bắt đầu rấm rứt nho nhỏ ở đầu bên kia, cố kìm không khóc thành tiếng – đó là kiểu cô nói khi hoảng sợ. “Frank, em phải làm gì bây giờ? Anh nghĩ em có nên gọi đường dài về nhà không?” “Nếu dì ấy muốn em về thì em nên về nhà xem sao,” gã đáp cụt lủn. Có vẻ như cô đang chờ nghe lời khuyên này vì nó đồng điệu với dự định của cô. “Em nghĩ thế thì tốt hơn,” cô đồng tình trong nước mắt. “Anh biết dì Ada rồi đấy, dì ấy chẳng bao giờ muốn làm ai kinh động hết, từ trước đến nay lúc nào cũng tìm cách đơn giản hóa mọi chuyện. Lần trước mẹ đổ bệnh mà đến khi khỏi rồi dì ấy mới báo, nói là để em không phải lo gì cả.” “Em đừng lo lắng quá. Mẹ em trước cũng từng bị thế rồi, rốt cuộc cũng qua khỏi thôi mà,” gã đi thẳng vào vấn đề. Nhưng mối lo của cô đã chuyển sang hướng khác. “Nhưng còn Cookie thì làm thế nào?” Việc gã không biết làm gì khi ở một mình với thằng con trai năm tuổi nghe mới chướng tai làm sao. “Anh trông con được,” gã gắt. “Anh có tàn phế đâu. Em có muốn anh tìm xe cho em đi không?” “Em tự tìm lúc nãy rồi, có chuyến lúc năm giờ. Nếu đi chuyến muộn hơn thì phải ngồi cả đêm. Ngồi như thế thì mệt mỏi lắm.” “Ừ, em nên đi chuyến sớm thì hơn,” gã đồng ý. Cô bắt đầu nói nhanh hơn, dài hơn trước. “Em gói ghém hết rồi – chỉ một cái túi thôi là đủ. Frank, anh sẽ ra tiễn em ở bến xe chứ?” “Có, có.” Gã đã bắt đầu hơi mất kiên nhẫn với màn hội thoại đằng đẵng này. Phụ nữ hình như chẳng biết làm cách nào gọi điện nói chuyện ngắn gọn, vào đúng đề tài thì phải. Thư ký của gã đang đứng ở ngưỡng cửa, đợi để hỏi gã điều gì đó. “Frank, anh phải nhớ đến đúng giờ đấy. Anh sẽ phải đưa Cookie về, em sẽ đưa nó ra bến cùng em. Khi ra bến, em sẽ qua trường đón nó luôn.” Gã đến đúng giờ như đã hứa, nhưng khi vào tới bến xe thì gã thấy Margaret đã ở đó trước rồi, bên cạnh là cái bóng dáng nhỏ nhắn của Cookie đang đứng. Thấy bố, nó liền nhún nhảy liên tục, ra hiệu nó có chuyện quan trọng muốn nói. “Bố ơi, mẹ phải đi xa! Mẹ phải đi xa.” Bố mẹ nó không để ý đến nó. Đây là một trong những lần hiếm hoi nó không chiếm hữu độc quyền việc khơi mào nói chuyện với bố mẹ. “Em làm gì thế này, khóc à?” Moran trách móc. “Đúng là em khóc rồi, nhìn mắt em là anh thấy hết. Không cần phải làm bộ với anh đâu.” Một tràng những lời khuyên, nhắn nhủ của một bà mẹ mẫu mực bắt đầu tuôn ra. “Em đã làm sẵn đồ ăn tối cho con rồi, đặt trên bàn trong bếp ấy, anh chỉ cần hâm nóng lên cho con thôi là được. À, mà anh đừng cho con ăn muộn quá, không tốt cho nó đâu đấy. Điều này nữa, tối nay anh không cần tắm cho con đâu. Anh chẳng biết tắm bao lâu là đủ, với lại em sợ nhỡ có chuyện gì nếu nó ở trong bồn tắm một mình.” “Một tối không tắm chắc nó cũng không chết đâu,” Moran gầm gừ bực bội. “Frank, mà anh có biết cách thay đồ cho con không?” “Biết chứ. Cởi cúc ra là được chứ gì. Xem em kìa, anh chẳng phải biết tự thay đồ cho anh sao, có khác gì? Chỉ là cỡ nhỏ hơn thôi.” Nhưng sự lo lắng vẫn tiếp tục, không ngừng lại. “Frank, nếu sau đó anh cần ra ngoài thì cũng đừng để con ở nhà một mình. Em nghĩ anh nên sang mấy nhà hàng xóm nhờ họ sang để mắt tới thằng bé cho tới lúc anh về…” Tiếng loa rè rè từ đâu đó vọng tới nhắc những người trong phòng chờ. “Hobbs Landing, Allenville, Greendale…” “Xe của em đấy, ra lên xe đi.” Họ chầm chậm di chuyển trên lối đi dốc xuống khu vực khởi hành. Những lời nhắn nhủ lúc này cũng đã giảm bớt, chỉ còn là những đợt nhỏ và ngắn, trực tiếp tới vấn đề của chính gã. “Frank, anh biết chỗ em để quần áo sạch của anh ở đâu rồi…” “Lên xe nào,” tiếng giục giã của tài xế. Cô choàng tay qua cổ gã, ôm chặt không ngờ, cứ như chưa phải là đang làm mẹ một trăm phần trăm rồi. “Tạm biệt, Frank. Em về được là em về ngay.” “Đến nơi thì gọi cho anh ngay, để anh biết là em đi đường an toàn.” “Em hy vọng mẹ sẽ ổn.” “Tất nhiên là sẽ ổn. Mẹ em sẽ lại dậy, khỏe mạnh như bình thường trước cuối tuần ấy chứ…” Cô ngồi xuống bên Cookie, chỉnh lại mũ cho thằng bé, cả cổ áo nữa, cả mép quần của nó nữa, trước khi cô thơm nó ba cái vào đầu. “Cookie nghe mẹ dặn này. Con phải ngoan đấy. Nghe lời bố nữa, nhớ chưa.” Điều cuối cùng cô nói khi đã đi hết bậc xe là, “Frank, dạo này nó bắt đầu biết nói dối rồi đấy. Em đang cố sửa cho nó. Anh đừng khuyến khích nó…” Cuối cùng thì cô cũng phải quay người vào trong vì những hành khách khác cũng phải lên xe mà cô thì lại chắn mất cửa vào. Lái xe quay đầu hẳn lại, nhìn theo cô đi xuống tận chỗ ngồi. Ông ta lẩm bẩm, “Chúa ơn, tôi chỉ chạy xe có vài giờ thôi mà, có phải đi đến tận biên giới Mexico đâu.” Hai bố con đi tới chỗ có thể đứng đối diện với chỗ cô ngồi. Cô không kéo được cửa sổ lên, nếu không thì cô sẽ lại tiếp tục bao lời dặn dò như trước. Cô buộc phải tự bằng lòng với việc ra dấu hôn gió, kèm theo những động tác hướng dẫn cho hai bố con qua khung cửa kính. Moran thì không hiểu được phần lớn những động tác đó của cô, nhưng vẫn giả vờ là hiểu bằng cách gật đầu ngoan ngoãn để cô được an tâm. Chiếc xe buýt xì xì rồi bắt đầu lăn bánh trên nền bê tông. Moran cúi xuống thằng bé đang đứng bên cạnh, nâng một cánh tay bỏ như cái tăm của nó lên. “Vẫy chào mẹ đi con,” gã hướng dẫn. Gã cứ đung đưa thằng bé khi nó vẫy tay chào mẹ, như nó là một món đồ chơi. Đây là lần thứ mười gã nghĩ tới Margaret với sự nể trọng, không phải là nể phục mới đúng, vì có thể giải quyết ổn thỏa, tốt đẹp được cái mớ hỗn độn thế này – không chỉ một lần mà hết ngày này tới ngày khác – thì chợt có tiếng chuông cửa. Gã rên rỉ thành lời. “Tay chân đã bận túi bụi thế này rồi mà lại còn có khách đến chơi. Chắc lại cười mình mất thôi.” Gã đã cởi áo khoác, cởi cà vạt, tay áo xắn cao, giờ còn quấn cả một cái tạp dề của Margaret vào hông rồi. Gã đã hâm nóng được đồ ăn cho Cookie – thực ra Margaret đã làm hết rồi, chỉ việc châm lửa rồi nhét vào lò là xong; gã cũng đã gom được cả Cookie và đồ ăn vào bàn ăn rồi, sau một hồi chạy vòng vòng phát mệt. Nhưng thành tựu chỉ đến đó là chấm dứt. Người ta làm thế nào để ngăn một thằng bé vừa cầm thìa vừa vung vẩy tay, làm bắn đồ ăn trên đó ra khắp mọi nơi nhỉ? Lúc Margaret có ở đây thì Cookie nó ăn bình thường. Giờ thì với gã thì thằng bé đang tạo ra một bãi chiến trường với những phát đạn bắn tít ra tận bức tường đối diện. Moran ở phía sau lưng thằng bé, hết chạy sang bên này lại chuyển về bên kia để ngăn những động tác gây thiệt hại nặng nề của thằng bé. Khuyên nhủ nó chẳng có ý nghĩa gì hết; Cookie đã biến gã thành kẻ vô dụng và nó biết điều đó. Lại có tiếng chuông cửa lần thứ hai. Nãy giờ Moran bận chân bận tay nên quên cả việc chuông cửa đã reo lúc trước. Gã cào mấy ngón tay tuyệt vọng lên đầu, hết nhìn Cookie rồi lại nhìn cánh cửa, rồi nhìn cánh cửa xong lại chuyển sang Cookie. Rốt cuộc gã thấy rằng chẳng có gì còn làm tình hình tồi tệ hơn được nữa nên gã ra mở cửa, vừa đi vừa chùi một mẩu rau dính trên lông mày. Khách là một phụ nữ, gã chưa hề gặp mặt bao giờ. Người khách có dáng dấp lịch sự, quý phái. Cô ta cẩn trọng, làm ra vẻ không nhìn thấy chiếc tạp dề có bông hoa ly ly thêu ở góc đã đang mang trên người mà cứ cư xử như thể gã trông hoàn toàn bình thường. Cô còn trẻ, khá đẹp nữa, nhưng trang phục của cô hình như cố tình làm giảm đi vẻ đẹp của mình: một chiếc áo khoác màu xanh nhạt đơn giản, kèm theo chân váy. Tóc cô vàng ngả đỏ, có dùng kẹp tóc hay mấy cái gì đó tương tự. Khuôn mặt cô không hề biết đến những đồ trang điểm nào khác ngoài xà phòng và nước. Trên hai má có một vài nốt tàn nhang nho nhỏ màu hồng, chỉ tập trung ở chỗ xương gò má, không thấy ở những chỗ khác. Cô tạo ra một không khí thân thiện và tự nhiên khá mạnh mẽ. “Đây có phải nhà cháu Cookie Moran không ạ?” cô hỏi với một nụ cười thân thiện trên môi. “Đúng rồi… nhưng vợ tôi lúc này không có nhà…” Moran đáp, thầm hỏi không biết cô gái này cần gì. “Tôi biết mà, ông Moran.” Cách cô nói làm gã thấy như có sự thấu hiểu, thậm chí là cảm thông trong lời cô nói ra. Nhưng cũng có điều gì đó ngược hẳn lại xuất hiện rất nhanh ở khóe miệng, nhưng đã bị kiềm chế kịp thời. “Bà nhà có nói về chuyện đó khi qua đón Cookie. Thế nên tôi đến đây. Tôi là giáo viên của Cookie ở trường mẫu giáo, cô Baker.” “À, vâng,” gã đáp nhanh, nhận ra cái tên này. “Tôi có nghe vợ tôi kể về cô nhiều.” Họ bắt tay; cô bắt tay khá chặt, như thể cô sẽ níu lại nếu gã có ý định bảo cô đi. “Thực ra thì bà Moran không nhờ tôi qua đây, nhưng tôi nói chuyện thì thấy bà nhà rất lo, không biết hai bố con sẽ xoay xở thế nào, thế nên tôi tự tiện qua xem sao. Tôi biết là bà nhà đi khá gấp gáp, nên nếu tôi giúp được gì thì…” Gã thậm chí không có chút nỗ lực nào che dấu sự sung sướng và biết ơn. “Ôi thật quý hóa quá,” gã nói nhiệt tình. “Cô đúng là phao cứu mạng. Cô Baker, mời cô vào…” Đến lúc này gã cũng nhận ra được là mình đang đeo chiếc tạp dề thêu hoa ly ly nên vội giật ra, giấu đằng sau lưng, vo lại bằng một tay. “Làm sao cô cho bọn trẻ con này ăn được thế?” gã thật lòng hỏi khi đóng cửa, theo cô đi vào trong nhà. “Tôi thì chỉ muốn tống đầy thức ăn vào mồm nó, nhưng sợ nó nghẹn mất…” “Tôi biết việc đó, ông Moran. Tôi biết phải làm gì,” cô an ủi gã. Đến cửa phòng ăn, cô dừng lại, đứng quan sát một vòng để đánh giá toàn diện tình hình, kết quả là một tiếng cười khúc khích trong cổ họng. “Tôi thấy là tôi đến cũng đúng lúc rồi đây.” Gã nghĩ phòng này cho đến giờ thì vẫn là rất ổn, nếu so với hoàn cảnh cái bếp hiện tại. Trong đó cứ như vừa có trận bão đánh vào. “Anh bạn nhỏ thế nào rồi?” cô hỏi. “Cookie, xem ai đến này,” giọng Moran vẫn còn vẻ sung sướng vì có người giúp đỡ bất ngờ này, có khác gì cô Tấm từ thị chui ra đâu. “Cô Baker, cô giáo của con ở trường. Con ra đây chào cô đi chứ.” Cookie nhìn cô chăm chú theo kiểu nhìn không chớp mắt của con trẻ. “Không phải!” cuối cùng nó nói vẻ thất vọng. “Sao thế, Cookie?” cô Baker nhẹ nhàng hỏi lại. Cô ngồi xổm xuống bênh cạnh chiếc ghế đẩu, sao cho đầu cô ngang tầm với đầu cậu bé. Cô đặt một tay lên cằm nó, day day nhẹ. “Nhìn lại nào, nhìn cô cho kỹ nhé.” Cô gửi cho Moran một nụ cười rộng lượng phía trên đầu thằng bé. “Con không còn nhận ra cô Baker nữa à?” Moran thì rất xấu hổ với cách cư xử của cậu con trai, có khác gì nó biến gã thành ông bố của một đứa con hư hỏng, tâm thần đâu. “Cookie, con sao thế hả, không còn nhận ra cô giáo trong trường là sao?” “Không phải,” Cookie nói mà mắt vẫn không rời cô. Cô Baker nhìn ông bố, hoàn toàn thất vọng. “Sao lại thế này được chứ?” cô hỏi giọng trách móc. “Trước đến giờ thằng bé lúc nào cũng quý tôi lắm mà.” “Tôi cũng không biết, trừ phi… trừ phi…” Lời nhận xét của vợ gã làm gã tỉnh ra. “Margaret có bảo tôi trước lúc đi là thằng bé dạo này bắt đầu học nói dối rồi. Chắc lúc này cu cậu lên cơn.” Gã quay sang thằng bé, dùng một giọng quyền uy hơn. “Con trai, nghe bố nói này…” Cô làm một điệu bộ bí mật, quyến rũ nhỏ bằng mi mắt, gần như một cái nháy mắt cầu xin. “Để tôi quản thằng bé cho,” cô nói khẽ. “Tôi quen với chúng rồi.” Có thể thấy cô là mẫu người có khả năng kiên nhẫn vô hạn với trẻ nhỏ, dù trong tình huống nào thì cũng không mất kiểm soát mà nổi nóng. Cô hướng về phía thằng bé, nói nhẹ nhàng với nó. “Có chuyện gì thế, Cookie, con không còn nhận ra cô nữa sao? Cô biết con đấy.” Cookie vẫn không nói gì. “À, đây, cô có cái này.” Cô mở túi, lấy ra một tờ giấy gấp đôi. Khi vuốt phẳng tờ giấy ra thì thấy trên đó có hình in sẵn, tô bằng màu sáp. Nét màu tô không thật khít với đường hướng dẫn lắm, nhưng cũng đủ thấy là có nỗ lực. Cookie nhìn bức tranh, không thể hiện dấu hiệu nào cho thấy nó hãnh diện về kết quả đạt được. “Con không nhớ là sáng nay tô bức này cho cô à… cô còn khen con tô đẹp mà? Con không nhớ cô cho con sao vàng vì tô đẹp à?” Cookie có nhớ không thì không rõ, nhưng điều này Moran nghe quen quen. Đã khá nhiều lần khi gã về đến nhà là thằng bé nhảy cẫng lên khoe với gã, ‘Hôm nay con có sao vàng, bố ơi!’ “Cô là cô Baker ạ?” Cookie mỏi mệt đầu hàng. “Hô…” Cô khẽ xoa tai thằng bé. “Tất nhiên rồi. Con biết thế mà.” “Thế sao con trông cô không giống.” Cô quay lại mỉm cười thú vị với Moran. “Tôi cho rằng thằng bé nhắc đến kính của tôi. Chắc nó quen nhìn thấy tôi đeo kính trong lớp rồi, buổi tối ra ngoài tôi không đeo. Còn một điều nữa liên quan tới tâm lý trẻ con. Nó chỉ quen nhìn thấy tôi ở trường, ở nhà thì không. Đây không phải là chỗ của tôi. Thế nên với thằng bé…” cô nhún vai, xòe tay, “… tôi là người khác.” Moran từ nãy tới giờ đã thầm ngưỡng mộ cách làm việc khoa học của cô với con trẻ, dựa trên nền tảng kiến thức vững vàng, hoàn hảo khác với cách chăm con cảm tính, bột phát của Margaret. Cô đứng lên, hiển nhiên chẳng tin rằng dồn ép một đứa trẻ quá mức cho dù là vào thời điểm nào thì sẽ có hiệu quả, mà nên tiến tới chậm mà chắc thì mới được việc. Gã có nghe Margaret nói về phương pháp giáo dục trẻ em ở trường là như vậy. “Chỉ năm phút nữa là nó cũng chẳng nhớ là đã không nhận ra tôi ấy. Rồi anh sẽ thấy,” cô hạ giọng hứa với gã. “Chắc cô chẳng lạ gì cách xử lý bọn trẻ nhỉ.” Gã thực sự bị ấn tượng. “Chúng là những cá thể nhỏ nhắn độc lập theo kiểu của chúng, chứ không phải là những cá thể chưa trưởng thành. Người lớn chúng ta phải tránh coi chúng như vậy.” Cô bỏ mũ, cởi áo khoác, bước về phía đống bừa bộn trong bếp. “Giờ xem tôi giúp được gì ở đây nào. Ông cần gì không, ông Moran?” “Ôi, đừng để ý đến tôi làm gì,” gã thật lòng khước từ. “Lát nữa tôi ra ngoài làm cốc cà phê là được…” “Sao lại phải ra ngoài tìm cà phê chứ nhỉ. Tôi làm một loáng là xong ấy mà. Ông cứ đọc báo buổi tối đi… Tôi thấy tờ báo còn gấp nguyên thế kia nghĩa là ông chưa có thời gian mở nó ra. Ông không cần để ý gì cả, cứ coi như vợ ông vẫn đang làm việc nhà như mọi ngày nhé.” Người phụ nữ này, gã nghĩ kèm một tiếng thở dài, là một trong những người vừa đẹp, vừa đảm đang, vừa tốt tính mà gã từng có cơ hội gặp trong đời. Gã vòng qua phòng khách, vuốt thẳng tay áo, ngồi ngả lưng trên ghế, đúng cái góc ưa thích mỗi tối của gã. Chuyến đi dường như lâu hơn lần cô đi vào mùa hè năm ngoái – đó là lần gần đây nhất cô và Frank về thăm mẹ – cho dù thị trấn Garrison chẳng di chuyển dù chỉ một ly. Lần này lâu hơn là vì cô đi một mình, đó là một lẽ. Lý do thứ hai là vì cái tin chẳng tốt lành gì cô nhận được. Frank đã mua vé cạnh cửa sổ cho cô, hàng ghế của cô cũng không thấy có khách nào khác, thế nên cô không phải hứng thêm sự khó chịu hẳn phải có khi phải tiếp chuyện với một bạn đồng hành nhiều lời; hình phạt cho sự khước từ trò chuyện – cô đã nhiều lần biết rõ – là sự bức bối hơn nữa khi phải chịu đựng lẫn nhau trong không khí lạnh nhạt nếu không phải là thù địch suốt cả chặng đường. Quang cảnh vùng quê nông thôn phía ngoài cửa sổ từ từ trôi qua, xen lẫn vào đó là những ụ đất nhấp nhô – dường như chiếc xe khách này đang tạo ta một đường cày thẳng tắp trên cánh đồng, nhưng lại kéo theo cây cối, nhà cửa, hàng rào không hề sứt mẻ. Những gì cô nhìn thấy rốt cuộc chỉ dừng lại ở đôi mắt cô mà không được giác quan đón nhận. Cứ đều đặn mười hai phút, cô lại nhớ ra là cô quên dặn dò Frank một điều gì đó về Cookie, về ngôi nhà, về người đưa sữa, về đồ phải giặt. Nhưng rồi cô cũng tự nhủ với mình là dù cô có thớ ngay từ đầu và dặn dò Frank cẩn thận đến thế nào đi nữa thì chắc bây giờ Frank cũng đã quên sạch rồi. Anh ấy gật gật đồng ý ở bến xe lúc đứng ngoài cửa sổ cũng không phỉnh phờ được cô – thái độ đó quá dễ dãi, cô biết. Trong khoảng thời gian mười hai phút đó, cô lại lo lắng về người mẹ đang lâm bệnh. Mọi người ai mà chẳng lo lắng như thế. Nhưng cô lại rút ra một điều là cứ như thế thì cô càng lo lắng thêm mà thôi, tự mình gọi những khó khăn trong tương lai tới, như ngồi viết cáo phó chẳng hạn, trước khi có lý do thực tế phải làm như vậy. Frank đã bảo cô là mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Sẽ phải thế thôi. Và nếu như – xin Chúa nhân từ tha thứ – mọi chuyện cuối cùng lại không tốt đẹp như mong muốn thì kết thúc cho nhanh hơn cũng chẳng được. Cô cố gắng làm chuyến đi trôi qua nhanh hơn, không nghĩ đến mục đích của chuyến đi này, bằng cách nghĩ đến những vấn đề khác. Chẳng hề dễ dàng chút nào. Cô không thuộc mẫu người có thiên hướng thích quan sát; những khung cảnh tĩnh ngoài kia chẳng có nhiều ý nghĩa với cô. Và vì cô cũng chưa bao giờ quá quan tâm tới nghiên cứu bản chất con người trong bối cảnh trừu tượng nên một chuyến xe như hôm nay còn lại điều gì cho cô nhỉ? Cô tự nhủ liệu có tốt hơn không nếu cô mua một cuốn sách hay một cuốn tạp chí ở bến xe mang đi đọc? Chắc cũng không. Cuốn sách hẳn sẽ nằm trên đùi cô, trang sách đọc dở chẳng được lật suốt chuyến đi. Cô đã bao giờ là người thích đọc sách đâu. Trong nỗi lo lắng gần như cùng quẫn, cô quay ra nhẩm tính các khoản chi tiêu gia đình tuần trước, rồi cả hai tuần trước. Những con số cứ nhảy nhót trong tâm trí cô, rốt cuộc lại chẳng đâu vào đâu. Những cố gắng vừa rồi hóa ra chẳng hề làm vơi đi chút nào cái điều ngày càng chồng chất, trĩu nặng trong lòng. Trời đã tối, những gì cô nhìn thấy giờ chỉ là thế giới con con, thuôn dài bao quanh cô lúc này. Những người khác trong xe quanh cô là… những người ta hay thấy khi đi xe đường dài như vậy. Không có bất cứ điều gì đặc biệt hay nổi trội. Chỉ là phần sau đầu của ai đó. Cô thở dài, thầm ước mình là người dân Anh-điêng bản xứ, hay dân tộc nào khác cũng được, miễn là có thể tạm thời rời bỏ thân xác, bay đến đích trước. Hay cách nào khác tương tự như vậy cũng được vì cô không nắm rõ cách thức hay thông tin cụ thể về những hoạt động như vậy. Đến khoảng tám giờ tối thì xe dừng ở Greendale mười phút nên cô có thể tranh thủ uống một tách cà phê ở bến xe. Nghĩ về Cookie ở nhà, chắc phần tồi tệ nhất trong ngày đối với nó đã qua rồi. Hoặc là nó ăn gì đó bị đau bụng hay Frank tìm cách cho nó ăn được đúng cách đi nữa thì giờ cũng chẳng có gì phải lo lắng nữa. Gọi điện từ đây đến Garrison cũng không cần thiết nữa, đã qua hai phần ba chặng đường rồi còn gì. Với lại cô nghĩ là nếu như cô gọi điện mà lại nhận được tin xấu hơn cả tin trong điện báo thì phần cuối chặng đường sẽ vượt quá sức chịu đựng của cô. Tốt hơn cả là đợi đến tận nơi hẵng hay. Họ đến nơi đúng giờ. Mười rưỡi, không sai một phút. Cô là người đầu tiên xuống xe, phải chen qua mấy người hành khách khác. Cô không thất vọng khi không thấy ai ra bến xe đón vì lúc này Ada chắc đang bận bù đầu ở nhà rồi. Những lúc thế này thì không cần khách sáo quá. Hoạt động ban đêm ngắn ngủi ở Garrison cũng chưa đi ngủ ở khu vực ngay bên ngoài bến xe. Nhà hát, rạp phim vẫn còn bật đèn, phía bên kia đường là hiệu thuốc cũng vẫn đang phục vụ khách. Cô đi qua một nhóm các cô gái tầm trên dưới hai mươi tuổi đang trò chuyện rúc rích, chiếm cả một đoạn hè phố ngay ngoài cửa hiệu thuốc tây. Một đứa còn ngoái đầu nhìn theo cô, cô nghe thấy có tiếng nói, “Hình như là Margaret Peabody… giờ này…?” Cô vội tăng nhịp bước, đầu cúi thấp hơn, lẩn vào trong bóng tối xung quanh. May mà bọn nó không ùa theo cô để xem có đúng là cô hay không. Cô không muốn phải dừng lại, nói chuyện ở gần người lạ. Nhỡ bọn nó có tin tức gì đó thì sao. Cô không muốn nghe tin từ bọn nó. Cô muốn đi thẳng về nhà, đón nhận trực tiếp – dù là tin xấu hay tin tốt. Nhưng cái ‘giờ này’ cứ lẩn quẩn, run rẩy bên tai cô khi cô bước đi. Ý nó là gì nhỉ? Hay là đã…? Cô lại tăng nhịp bước hơn nữa trên phố Burgoyne tối như hũ nút, dưới những tán cây, rẽ trái, tiếp tục đi hết hai căn nhà nữa (mà ở chỗ này thì hai căn nhà là tương đương hai dãy phố, hoặc cũng gần như thế), rẽ vào con đường đá mà cô chẳng còn lạ gì nữa với độ gồ ghề, mấp mô của nó. Có chỗ độ chênh với chỗ bên cạnh có khi là vài xăng ti mét. Hồi nhỏ cô đã bao lần vấp ngã ở đây. Cô hít một hơi ngắn khi ngôi nhà của mẹ cô hiện ra ngay trước mặt. Đúng rồi, đúng rồi, có nhiều đèn còn bật quá. Nhiều quá. Cô vội đè nén cơn hoảng loạn đang dâng cao, cố bình tĩnh. Mà… kể cả… kể cả như mẹ cô bị đau tim nhẹ rồi phải nằm nghỉ thì Ada chắc cũng bật đèn sáng trưng. Chắc là sẽ thế thôi, để tiện chăm sóc mà. Thế nhưng khi cô bước lên bậc thềm cửa sơn trắng tinh thì con sóng sợ hãi lại ào đến tấn công. Phía sau cái rèm vải đã buông kín có nhiều, quá nhiều, bóng người qua lại; cô có thể nghe tiếng rầm rì của nhiều giọng nói khác nhau từ bên trong vọng ra, giống như gia đình có việc gấp phải gọi hàng xóm sang giúp đỡ. Trong đó có chuyện gì đó rồi, không khí yên ả không phải là thứ phía sau cánh cửa đó. Cô nhấn một hồi chuông dài trên cái nút nơi cánh cửa. Lập tức sự ồn ào bên trong còn như lớn hơn, rồi có tiếng ai đó nói to, “Ra ngay đây,” rồi lại có người khác nói, “Ra ngay đây.” Đứng chỗ cô lúc này cô nghe thấy họ nói rất rõ ràng. Có phải tiếng vừa rồi là của Ada, giọng bị đẩy cao không còn nhận ra được khi mất kiểm soát, đau buồn? Cô nghĩ đúng là vậy. Em gái cô chắc đang đau khổ lắm, tất cả mọi người đều đang như thế. Nhưng trước khi trái tim cô có thể loạn mất nhịp, trở nên trĩu nặng trong lòng như một tảng đá thì có tiếng bước chân gấp gáp đến bên cửa, nghe như có ai đó đang ngăn ai đó lại. Cánh cửa bật mở, ánh sáng vàng rực rỡ từ bên trong tỏa sáng cả người cô. Tại ngưỡng cửa đúng là có hai bóng người đang đứng, cả hai đều đang đội cái gì đó rất lạ lùng trên đầu. “Để đó!” cái bóng nhỏ nhắn vui vẻ nói. “Ta đã mở cánh cửa này mấy chục năm nay rồi…” Tiếng nhạc xập xình và tiếng cười đùa vui vẻ từ bên trong ùa ra, phá vỡ không gian yên tĩnh của đêm vùng quê. Trái tim cô không rơi xuống như cục đá, nhưng cái túi của cô thì rơi phịch xuống đất. “Mẹ,” cô nói không thành tiếng. Cái bóng người còn lại, đầu đội mũ giấy người ta hay dùng khi có tiệc vui là Ada. “Ôi chị Margaret. Chị vẫn nhớ hôm nay là ngày sinh nhật em á? Ngạc nhiên quá thôi, vui quá thôi. Đừng nói với em là còn có cả quà nữa nhé…” Cả ba người cứ đứng nói chuyện cùng với nhau. “Nhưng mà Ada…” Margaret Moran rầy la em gái bằng một giọng run rẩy, bực bội, rõ ràng vẫn chưa trấn tĩnh lại được từ cú sốc không ngờ tới vừa rồi. “Sao em lại có thể xử sự theo cách đó chứ! Em có biết là chị thế nào suốt chặng đường từ nhà về đây không??! Đừng… chị không bằng lòng với việc em mang sức khỏe của mẹ ra để đùa như thế. Anh Frank mà biết được thì chẳng ra gì đâu!” Không khí im lặng, băn khoăn phủ xung quanh hai mẹ con ngay tại khung cửa. Hai người quay sang nhìn nhau, rồi nhìn theo cô. Giờ thì cô đã vào hẳn trong lối đi được dán giấy sáng màu rồi. Người mẹ già nua của cô phân vân, hất đầu hỏi Ada, “Chị con nói thế nghĩa là sao?” Lúc đó cũng là lúc Ada cất tiếng hỏi, gần như đồng thời, “Chị này đang nói lung tung cái gì thế?” “Chiều nay chị nhận được điện em gửi lên. Em bảo chị mẹ lại bị đau tim, phải về ngay. Em còn nhắc cả tên bác sĩ Bixby trong đấy nữa còn gì…” Margaret Moran bắt đầu khóc vì bức xúc, một phản ứng tự nhiên xuất phát từ những gì cô đã trải qua mấy giờ liên tục trước khi đến đây. Mẹ cô nói, “Bác sĩ Bixby cũng ở trong kia. Mẹ vừa khiêu vũ với ông ấy một điệu xong, đúng không Ada?” Em gái cô mặt trắng bệch, bao sự phấn kích, hân hoan trong bữa tiệc đã trôi đâu hết. Ada lùi một bước, hoảng hốt nói, “Em có bao giờ đánh điện gửi chị đâu.” Moran kín đáo gài một ngón cái vào đai quần để giữ cho nó chắc thêm một chút. “Margaret cũng chẳng thể làm tốt hơn thế này,” gã nói thật lòng. “Tôi nói thật đấy, tôi không còn lời nào khen cô hơn thế cả. Tôi mà kể với cô ấy hôm nay cô đến giúp thế nào thì chắc cô ấy sẽ coi cô như bạn thân ngay. Sau này cô phải bố trí thời gian đến ăn tối với chúng tôi đấy… đến ăn chứ không phải làm đâu… khi cô ấy về ấy.” Cô Baker nhìn mấy chiếc đĩa chẳng còn chút đồ ăn với con mắt đánh giá của một đầu bếp, thấy hài lòng vì những nỗ lực của mình không bị coi nhẹ. “Cám ơn ông,” cô nói. “Tôi sẽ tới. Ở nhà tôi thực ra không phải nấu nướng nhiều đâu. Tôi thuê phòng ở khu trọ Câu lạc bộ Phụ nữ từ khi nhận việc dạy học này. Ở đó không có chỗ nấu ăn. Trước kia thì ở nhà, lúc đó thì mọi người lần lượt phải làm bếp.” Cô từ từ đứng lên, thu xếp đĩa thành chồng. “Ông cứ ngồi yên đó đi, ông Moran, không phải lo đâu. Hoặc sang phòng bên cũng được. Tôi dọn chỗ này nhanh thôi.” “Cô cứ để bát đĩa ở đó,” gã nói. “Margaret có thuê người dọn dẹp ngày mai rồi, cô ấy sẽ rửa hết.” Cô nhún vai gạt đi. “Cũng chẳng mất nhiều thời gian đâu. Thấy bát đĩa bẩn bừa bãi thế này thì tôi chẳng chịu được bao giờ, ở nhà hay ở đâu cũng thế. Quay ra quay vào là tôi rửa xong rồi mà.” Cô này ngày sau làm vợ thì khéo lắm đây, Moran nghĩ, nhìn cô đi lại như con thoi. Điều lạ lùng ở đây là cô gái này lại chưa có chồng. Mấy tay đàn ông ở khu vực này có vấn đề gì hết rồi nhỉ, hay là trên mặt không ông nào có mắt? Gã chuyển qua phòng khách, bật chiếc đèn đọc sách hai bóng lên, cầm tờ báo ngồi xuống, thư thái đọc báo lần thứ hai cho thấm kỹ hơn. Gã cảm giác như Margaret vẫn đang ở nhà vậy, chẳng có gì khác là mấy. Ngoại trừ Margaret không nói ‘Đừng’ với Cookie thường xuyên như vậy. Hình như nói như thế nhiều quá với trẻ con là không tốt cho chúng thì phải. Cô gái này là giáo viên thì phải biết chứ. Cô Baker lại một lần nữa xuất hiện ở cửa phòng ăn, tay cầm một chiếc khăn, lau lau cái đĩa lớn. Cô nói với gã, “Sắp xong rồi.” Giọng cô rất vui. “Ông với cháu trong đó ổn cả chứ?” “Ổn lắm,” Moran nói, khẽ ngoái đầu nhìn cô, vẫn không rời trên chiếc ghế hơi ngả ra sau. “Tôi đang chờ điện thoại bà xã gọi về. Bà xã tôi hứa là đến nơi thì sẽ gọi điện về ngay báo xem tình hình bên đó thế nào cho tôi biết.” “Chắc cũng sắp rồi phải không?” Gã liếc chiếc đồng hồ treo trên tường đối diện. “Chắc khoảng từ mười rưỡi đến mười một giờ, tôi nghĩ thế.” Cô nói, “Tôi đi vắt ít cam cho ông và cháu sáng mai uống nhé, chờ tôi cất cái đĩa này đi đã, còn cái này là xong hết. Tôi sẽ để trong cốc cạnh tủ lạnh.” “Ấy, thật là tôi không dám phiền cô chuyện đó…” “Mất thời gian gì đâu. Cookie nên uống nước cam mỗi ngày, như thế mới tốt cho nó.” Cô quay trở vào trong bếp. Moran lắc đầu chào thua. Đúng là người hiếm có. Cookie lúc này đã vào phòng với gã, chơi xung quanh. Được một hồi, nó đứng lên đi ra chỗ hành lang nhìn ra ngoài, nói chuyện với cô giáo. Hình như cô đã đi ra ngoài đó thì phải, đi bằng cửa bếp nối ra ngoài, trong khi lau chùi mấy món bát đĩa cuối cùng. Margaret cũng có thói quen đó, vừa lau đĩa vừa đi tha thẩn bên ngoài nhà. Cookie đứng im như tượng, nhìn cô giáo. Gã nghe thấy nó nói, “Cô làm thế để làm gì ạ?” “Để cho nó khô, con,” cô trả lời rõ ràng, vui vẻ. Moran nghe cũng không vào tai, thực ra là vậy, những lời cô giáo và con trai nói với nhau vì gã đang mải đọc báo. Lát sau, cô đi vào, tay còn đang lau một con dao nhỏ hay dùng để cắt hoa quả, chắc là cô vừa dùng để cắt cam xong. Đôi mắt của Cookie lúc này dõi theo những cử động thành thạo của hai bàn tay cô bằng sự tập trung như thôi miên của lũ trẻ thỉnh thoảng có, kể cả đối với những điều nhỏ nhặt nhất. Rồi nó lại quay đầu nhìn ra khoảng gần ngưỡng cửa nơi cô vừa đứng lúc nãy, cũng chăm chú y như thế. Rồi nó lại nhìn cô. “Xong rồi,” cô nói giọng đùa vui, vẫy vẫy chiếc khăn về phía nó. “Giờ thì cô sẽ chơi với con khoảng năm, mười phút, sau đó thì sẽ cho con lên giường đi ngủ nhé.” Moran lúc này ngước lên nhìn, muốn tỏ ra có trách nhiệm. “Thực là cô không muốn tôi giúp gì à?” gã hỏi, hy vọng thực sự là cô không cần gì cả từ gã lúc này. Đúng như vậy. “Ông cứ đọc báo tiếp đi,” cô đáp thân mật nhưng cũng rất uy quyền. “Tôi sẽ chơi trốn tìm một lúc với thanh niên này.” Cô đúng là người tuyệt vời. Khi nói đến việc đọc báo mà không bị làm phiền hay quấy rầy thì có cô ở đây giúp tốt hơn là khi có Margaret. Margaret hình như nghĩ là gã vừa có thể đọc báo vừa có thể trò chuyện với cô được hay sao ấy. Thế nên nếu không phải người cực kỳ linh mẫn thì đương nhiên sẽ phải đọc lại mỗi đoạn báo đến hai lần, đọc chậm, một lần là để nắm được đại ý, một lần là để hiểu được toàn bộ ý nghĩa. Nói thế không có nghĩa là gã thiếu chung thủy. Gã vẫn muốn có Margaret ở bên cạnh, cho dù cô có khiến gã bị ngắt quãng bằng cuộc trò chuyện hay gì đi nữa. Ada cố gắng bảo những vị khách tham dự bữa tiệc giữ yên lặng. “Xuỵt. Mọi người yên lặng một chút nhé, nào, nào. Chị Margaret đang cố gọi điện về nhà cho chồng trong thành phố ngay ngoài này để thông báo tình hình ở đây.” Rồi Ada còn tăng mức cẩn thận thêm bằng cách đóng lại cánh cửa nối thông hai phòng lại. “Gọi từ đây á?” một cô gái đâu đó rên rỉ với vẻ không tin được. “Gọi đường dài như thế là tốn kém lắm!” “Ừ, tốn chứ, nhưng chị ấy đang lo lắng quá. Chẳng trách chị ấy được. Ai lại làm cái việc như thế nhỉ? Đùa cái kiểu quỷ quái như thế thì thật là vô tâm quá.” Một trong những vị khách nói bằng với niềm tự hào không lẫn vào đâu được. “Tôi thấy những người ở khu này đều không phải hạng người gây ra chuyện đó đâu. Ở đây ai chẳng quan tâm, quý mến Delia Peabody và mấy cô con gái của bà ấy chứ.” Niềm tự hào có một chút giảm sút khi nói tiếp, “Kể cả Cora Hopkins thì cũng không…” “Đã thế lại ký bằng tên cháu lên đấy chứ!” Ada uất ức thanh minh. “Như vậy thì người đó chắc chắn là có quen với gia đình cháu rồi.” “Quen cả tôi nữa, đúng không nhỉ?” bác sĩ Bixby nói thêm. “Nếu không thì sao biết được tên tôi chứ?” Những cái liếc mắt có phần sợ hãi xuất hiện giữa những vị khách trong phòng, như ai đó vừa kể truyện ma khiến mọi người dựng tóc gáy. Một cô gái còn ngoái nhìn ra khung cửa sổ, săm soi khoảng không đen sẫm bên ngoài, rồi vội vàng bước sâu vào hơn căn phòng. “Như thế là loại điện tín lừa đảo rồi,” có ai đó thầm thì nho nhỏ. Ada lúc đó đã hé mở cánh cửa thông phòng, tò mò hỏi với vào trong. “Có gọi được anh ấy chưa? Anh ấy nói thế nào?” Margaret Moran xuất hiện ở cánh cửa, mở hẳn ra, rồi đứng đó ra chiều phân vân, lưỡng lự. “Tổng đài báo là không nối được máy đến nhà, không có ai trả lời. Có khi anh ấy đi ra ngoài rồi, nhưng… giờ này thì muộn quá. Nếu anh ấy đi chơi bên ngoài thì Cookie thế nào? Anh ấy không đời nào cho nó đi ra ngoài cùng vào giờ này đâu. Với lại anh ấy cũng có nói là tối nay anh ấy sẽ không đi đâu cả. Phải có người ở nà trông Cookie…” Cô nhìn như khẩn cầu, nhưng vô ích, từ Ada rồi lại sang mẹ cô, rồi lại sang ông bác sĩ là người đang đứng gần cô nhất. “Sợ có chuyện gì rồi. Mọi người có nghĩ là con nên về luôn…” Mọi người gần như đồng thanh phản đối rầm rì. “Bây giờ ư?” “Vừa mới xuống xe xong mà, đi như thế có mà mệt chết.” “Margaret, đợi đến sáng mai hãy tính sau, có được không?” “Không phải là… thực ra là vì cái bức điện. Không biết nữa, con thấy sờ sợ thế nào ấy, không dứt ra được. Con không thấy chuyện này có gì buồn cười… mà phải là ác độc ấy. Con có cảm giác không lành. Sao lại có người làm chuyện như thế mà không…” “Cháu thử gọi điện về nhà lần nữa đi,” ông bác sĩ già tìm cách an ủi cô. “Có lẽ giờ chồng cháu đã về nhà rồi đấy. Gọi về mà vẫn không gặp được thì nếu cháu nhất quyết đi, bác sẽ chở cháu ra bến xe. Bác có xe ngay ngoài kia.” Lần này chẳng ai buồn đóng cửa lại như trước, cũng chẳng ai phải yêu cầu họ giữ yên lặng như trước. Họ đồng lòng đi theo cô sang phòng ngoài, đứng tản ra thành một hình bán nguyệt với tâm là cô và chiếc điện thoại, nín thở lắng nghe cô bấm số trong yên lặng. Cứ như cô đang ở một buổi trình diễn công khai khả năng thể hiện sự lo lắng sâu thẳm nhất của một người vợ. Giọng cô hơi run run. “Tổng đài, làm ơn lại nối máy về thành phố cho tôi, vẫn số lúc nãy… Seville 76262.” Cứ được một lúc gã lại nghe thấy tiếng chân chạy thình thịch đâu đó gần gã, rồi lại có tiếng cười ré lên của Cookie, rồi tiếng ‘Cô thấy con rồi’ của cô giáo. Phần lớn là ở nhà ngoài. Đang chơi trốn tìm đây mà, gã thầm nghĩ. Người ta nói là có hai thứ chẳng bao giờ thay đổi, đó là cái chết và thuế. Nhẽ ra phải thêm một điều nữa, đó là trò chơi con trẻ. Ngay cả trò này thì cô giáo cũng chơi được một cách nhẹ nhàng, khá là yên ả, không để cho thằng bé trở nên quá ồn ào. Chắc là dân chuyên nghiệp thì như thế, chắc rồi. Gã lại thầm hỏi không hiểu giáo viên mầm non như cô thì thu nhập thế nào. Cô là người rất có năng lực. Có một lần, hai cô trò có vẻ rì rầm, bí ẩn hơi lâu hơn mấy lần khác, gã ngước mắt nhìn lên xem thì thấy cô đang nấp ở khung cửa, lưng quay về phía gã, hơi thò đầu nhìn ra phòng ngoài. “Xong chưa?” cô gọi to. Tiếng trả lời của Cookie vang lại khá nhỏ. “Chưa ạ… một tí nữa.” Cô giáo có vẻ chơi cũng vui chẳng kém gì cậu trò nhỏ. Chơi với trẻ con thì phải như thế mới đúng kiểu, gã nghĩ, phải toàn tâm toàn ý mới được. Chỉ thiếu nhiệt tình dù một chút thôi là lũ trẻ cũng phát hiện ra ngay. Đến giờ thì Cookie, nhìn vào cách nó chơi đùa, đã khoái cô ra mặt. Nó đang coi cô là người khác chứ không phải cô giáo ở trường nơi cô phải duy trì hình thức kỷ luật ở mức độ nào đó. Cô quay lại, thấy gã đang nhìn cô tán thưởng, liền nói, “Thằng bé chui vào cái tủ chứa đồ dưới gầm cầu thang rồi.” Mắt cô lấp lánh như cười. Nhưng chợt cô hỏi, giọng nghiêm trọng, “Nó ở trong đó thì có nguy hiểm gì không? Có an toàn không?” “An toàn?” Moran lặp lại một cách vô nghĩa. “Không sao đâu. Trong đó làm gì có gì, có mấy cái áo mưa cũ thôi.” “Xong rồi,” tiếng trẻ con xa xăm vọng tới. Cô quay lại với trò chơi. “Cô đến đây.” Cô lại biến mất khỏi khung cửa, cũng nhanh như lúc trước cô thình lình xuất hiện vậy. Gã nghe thấy cô giả vờ hỏi, giả vờ tìm kiếm thằng bé ở chỗ này, rồi lại ở chỗ kia một lúc, cốt là để trò chơi được kéo dài. Rồi gã nghe tiếng gỗ lạch cạch, rồi một ú ớ xác nhận một cách vui vẻ. Bất ngờ gã thấy tên mình được gọi lên, với âm sắc cao không ngờ tới. “Ông Moran!” Gã lập tức bật dậy, chạy về phía hai cô trò, chắc là do cái âm điệu từ tiếng gọi đó: nhanh lên. Cô đã gọi gã thêm hai lần nữa trước khi gã tới nơi, dù khoảng cách khá ngắn. Cô đang chật vật với cái chốt cửa kiểu cổ bằng sắt bắt vít vào cánh cửa. Mặt cô trắng bệch, cả cằm lẫn miệng. “Tôi không mở ra được… Lúc nãy tôi hỏi ông là về cái này…” “Từ từ, đừng hoảng lên như thế,” gã cố giữ cô bình tĩnh. “Không việc gì cả đâu.” Gã tóm lấy ngạnh của cái chốt sắt, kéo nó lên khoảng một xăng ti mét, song song với cánh cửa, cái ngàm lập tức tự nhả, rồi gã kéo bản gỗ sồi nặng nề ra. Nó được thiết kế ăn thẳng vào bên dưới gầm cầu thang, tầm nửa chiều cao của cửa, nhưng rộng hơn. Nó cũng không chạm vào sàn, bên dưới còn có cả một khung gỗ dày. Cookie khúc khích chui ra ngoài. “Cô thấy chưa? Lúc nãy cô cứ kéo nó về phía cô thì mở làm sao được. Cái chốt này có lò xo, cô phải nhấc cái cần sắt lên trước, rồi mới kéo nó ra được chứ.” “Giờ thì tôi thấy rồi. Tôi đúng là ngốc nghếch quá,” cô xấu hổ nhận xét. Tay cô làm dấu gì đó ở vị trí tim, rồi lại quạt quạt trước mặt. “Tôi không định gọi ông, nhưng tôi sợ quá. Phù. Tôi sợ cái cửa bị kẹt sao đó, rồi thằng bé bị ngạt bên trong trước khi kịp…” “Ồ, tôi xin lỗi. Tôi vô ý quá…” Gã lúng túng, như thể chính gã là người có lỗi khi bố trí một cánh cửa như thế trong nhà. Có vẻ như cô vẫn muốn tìm hiểu các khả năng khác có thể xảy ra vì trong lòng vẫn còn chất chứa suy nghĩ nào đó. “Giả như chuyện tệ hại nhất xảy ra thì liệu ông có phá cửa kịp không, phá nhanh ấy?” “Tôi sẽ kiếm được cái gì đó để phá cửa, nên có thể nói là đúng vậy,” gã đáp. Cô có vẻ ngạc nhiên. Gã thấy cô kín đáo quan sát, đánh giá phần thân trên vạm vỡ của gã. “Nếu chỉ bằng tay không, hoặc huých bằng vai, thì liệu ông có phá được không?” Gã chỉ mép cửa, kéo nó ra cho cô xem thật rõ. “Ôi không. Gỗ sồi nguyên bản đấy, dày năm phân. Cô nhìn xem. Nhà này xây cất kỹ lắm. Với lại chỗ này không tiện. Từ trong hay từ bên ngoài đều không đủ chỗ để lấy đà mà phá. Chỗ tường chắn này chỉ chừa lại có cài chục phân thôi mà. Ở bên trong thì còn bị dốc chéo xuống theo mặt nền cầu thang, đứng thẳng lên còn không đủ chỗ vì trong đó là hình tam giác, như cái nêm ấy. Đưa tay về sau lấy đà thì thể nào cũng bị chạm vào sàn cầu thang thôi, hoặc là chạm vào tường.” Chợt, gã quả thật bị bất ngờ về điều này, cô cúi đầu, chui qua cái khung cửa nho nhỏ, vào trong khoảng tối bên trong. Gã còn nghe thấy cô dùng bàn tay gõ nghe thử độ dày của tường, của ván. Một lúc sau cô mới quay ra ngoài. “Đúng là chắc chắn thật đấy,” cô khâm phục. “Nhưng trong đó ngột ngạt lắm, kể cả khi cửa vẫn mở. Ông nghĩ là nếu chẳng may bị nhốt trong đó thì người ta trụ được bao lâu?” Lúc nãy gã có phần thất thố về kiến thức tổng quát vì quá bất ngờ. Gã chưa bao giờ nghĩ đến điều gì như thế này. “Ồ, chuyện này thì…” gã nói lấp lửng, “tôi cho rằng khoảng một tiếng rưỡi hoặc hai tiếng là cùng.” Gã cũng nhìn lên, nhìn xuống không gian chật hẹp với vẻ quan tâm hờ hững. “Trong này kín lắm, rất kín,” gã thú nhận. Cô nhăn mặt bực bội với chính mình vì ý nghĩ của cô như vừa rồi, nên lập tức thay đổi chủ đề. Nói chung ai chẳng có lúc từng tiên đoán về những điều bất hạnh cơ chứ. Cô cúi xuống, từ đằng sau tóm vào dưới nách Cookie, khẽ khàng điều khiển nó như một chú lính chì duyệt binh. Cô nói với Moran, “Ông thấy đã đến giờ cho Cookie đi ngủ chưa?” Cookie nghe thấy thế liền ưỡn người phản đối. “Chơi thêm một lần nữa. Một lần nữa cơ.” “Thôi được rồi, một lần nữa thôi là phải đi ngủ đấy nhé,” cô dễ dãi với nó. Về phần mình, Moran quay lại chiếc ghế trong phòng khách. Gã đã đọc xong tờ báo. Đọc kỹ là đằng khác, kể cả về mấy loại cổ phiếu gã không sở hữu, nhưng cũng có ý định đầu tư. Đọc cả mấy lá thư độc giả gửi tới mấy chuyên mục gã không hề quan tâm. Gã lấy ra điếu xì gà được cho trưa nay lúc ăn với bạn, đưa lên mũi ngửi để đánh giá, thấy hài lòng, hút được. Gã bấm đầu thuốc rồi châm lửa. Gã nhả ra một làn khói xanh mỏng manh quanh đầu với vẻ thư thái khó tả bằng lời. Gã ngồi đó tận hưởng một lúc cái cảm giác mãn nguyện. Đó là một điều xa xỉ hiếm hoi, đến nỗi gã còn chẳng biết nên làm gì với điều đó. Gã bắt đầu gật gù. Đây là lần đầu tiên gã có cảm giác này. Gã đặt điếu xì gà lên cái gạt tàn trên bàn kế bên để nó không vãi ra hay làm cháy thảm của Margaret. Cookie đi đến chỗ gã, nó đi nhón chân, có vẻ cẩn thận quá mức nên trông như tập tễnh, chắc là vì nó đã được dặn dò trước từ bên ngoài là phải vậy. Một tay nó đang cầm đôi dép đế mềm đi trên thảm của Moran. Mũi mềm và đế mềm. “Cô Baker bảo bố đi đôi này vào, sẽ cảm thấy tốt hơn,” nó rúc rích, thầm thì. “Bảo cô giáo là bố không sao,” Moran nói với nó. Gã cúi xuống đi dép. “Bảo cô giáo là cô đang làm bố hư đấy.” Cookie lại nhón chân đi ra cùng đôi giày bố nó mới cởi – đế nặng, mũi cứng – cẩn trọng chẳng khác gì lúc nó đi vào cả, cứ như thứ nó đang giữ trên tay là một cái gì đó đang ngủ say, không được đánh thức. Moran lại ngả ra sau và, khi cái gật gù thứ hai rồi thứ ba liên tiếp đến, gã kệ hai cô trò ở với nhau. Cô gái thế này nên ở… nên ở trên cửa kính cửa hàng bán đồ trang sức… mmmmmm… Ông ấy có ý tốt, nhưng Chúa ơi, phải ngồi cạnh ông ấy, nghe ông ấy nói suốt thì cũng giống như bị tra tấn vậy. “Chính ta đã đón cả ba đứa con gái các cháu vào thế giới này. Ta vẫn còn nhớ như in cái đêm cháu ra đời, như mới vừa hôm qua đây thôi. Giờ thì nhìn cháu xem kìa, ngồi cạnh ta đây, cháu đã trưởng thành rồi, có gia đình, lại còn có cả con rồi đấy…” Khủng khiếp quá, ôi, khủng khiếp quá, cô đau lòng nghĩ, mắt vẫn dò tìm chiếc xe khách có vẻ như sẽ chẳng bao giờ xuất hiện. “Sao lại có thể như thế được chứ. Chúa ơi, hẳn là cháu lớn nhanh quá hoặc là ta lại không thấy già đi là mấy. Chỉ một trong hai lời giải thích đó là hợp lý.” Tiếng cười đáp lại của cô đi kèm với sự mệt mỏi dưới ánh sáng mờ mờ từ bảng hiệu. “Ta biết chứ,” bác sĩ nói tiếp. Ông đưa thay nắm lấy vai của cô, lắc lắc an ủi thật lòng. “Ta biết là cháu đang lo lắng, đang bực tức, đang ước là có thể ở nhà ngay lúc này. Nhưng cháu phải nghe ta, đừng có như vậy. Mọi chuyện sẽ ổn cả thôi, chắc chắn sẽ ổn. Làm gì có chuyện gì xảy ra chứ. Chỉ vì chồng cháu không nghe điện thoại hay sao? Vớ vẩn, có khi giờ nó đang ở nhà hàng xóm nốc bia ấy…” “Cháu hiểu, bác sĩ Bixby, nhưng cháu vẫn không yên tâm. Cái chính là do bức điện đó. Cháu thấy rờn rợn thế nào ấy, nhưng không gạt đi được. Người gửi bức điện đó…” “Nào, nào, nào, nào,” ông bác sĩ bật cười khùng khục, “đương nhiên là không có chuyện tự điện tín gửi đi được. Có khi có tay dở người nào đó ở chỗ làm chồng cháu muốn quấy phá một chút…” Nhưng chính ông bác sĩ cũng để suy nghĩ đó trôi qua, nghe không hợp lý chút nào cả. Cô vẫn dõi mắt về phía trước, hướng về con đường nối vào cổng bên kia của bến xe, đối diện nơi bác sĩ đỗ chiếc xe Ford. “Chắc muộn quá rồi, cháu sợ tối nay sẽ không còn chuyến xe nào khác nữa…” Cô liên tục đưa tay lên miệng cắn, hết ngón ngày lại tới ngón khác. Bác sĩ Bixby hiền từ kéo tay cô xuống, giữ nó ở trước bụng cô. “Ta đã khiến cháu bỏ được thói quen đó khi cháu bảy tuổi, giờ thì cháu đừng có bắt ta lại phải làm điều đó một lần nữa đấy nhé.” Ông nhìn xuyên qua chiếc kính chắn gió sạch sẽ. “Xe đến rồi kìa. Cháu thấy hai đốm sáng đằng kia không. Chắc là xe đang đến đấy. Ổn rồi.” Cái gì đó mềm mềm đang cọ vào chân gã sát sàn nhà khiến gã giật mình tỉnh giấc. Gã tì cằm vào hàng cúc thứ hai trên cùng chiếc áo sơ mi, lơ mơ nhìn xuống xem là gì. Cookie đang bò lổm ngổm dưới đó nhu chú cún nhỏ, đầu còn thấp hơn cả chân nó. “Vẫn đang tìm chỗ trốn à?” Moran hài lòng hỏi con trai. Thằng bé ngước mắt nhìn lên, đính chính lại ngay nhận định sai lầm, thiếu cập nhật thực tế của bố nó. “Bây giờ không chơi nữa ạ. Cô Baker bị rơi mất nhẫn, con đang đi tìm cho cô Baker.” Giọng của cô khe khẽ vọng tới từ đâu đó bên ngoài. “Con có thấy ở đó không?” Moran tỉnh hẳn, đứng lên đi ra chỗ cô. Gã có nhớ là thấy cô đeo nhẫn khi cô vào nhà. Cánh cửa tủ giữ đồ gầm cầu thang đang mở toang, hình như cô vừa chui vào trong đó. Giờ thì cô đang tìm trên nền nhà bên ngoài, trên lối đi, gần chỗ tường đối diện, người hơi cúi xuống, tay chống vào đầu gối. “Tôi vô ý quá, nhẫn tuột ra lúc nào mà tôi cũng không biết,” cô nói. “Chắc chỉ quanh quẩn đâu đây thôi. Tôi không muốn mất nhẫn này vì đây là nhẫn mẹ tôi tặng khi tôi tốt nghiệp…” “Tìm trong kia chưa?” gã nói. “Cô tìm trong kia chưa? Lúc nãy cô có vào trong đó, nhớ không, cô còn đập đập xung quanh mà.” Cô hơi ngoái lại nhìn nhưng rồi vẫn tiếp tục tìm kiếm. “Tôi có xem trong đó rồi, nhưng không có diêm để đốt soi cho sáng nên tôi cũng không chắc lắm.” “Chờ một chút, tôi có diêm đây. Để tôi tìm lại cho cô…” Gã chui qua khung cửa, tạo một đốm lửa vàng vàng nho nhỏ, khom người, lưng xoay ra cửa. Tiếng cửa sập vào như tiếng súng bắn vang dội trong khoảng không đóng kín dưới gầm cầu thang. CẢNH SÁT ĐIỀU TRA Sếp cẩm nói với Wanger, “Có tìm được manh mối gì không? Dạo này anh có vẻ trở thành chuyên gia trong ‘những vụ án vừa có vẻ như án mạng lại vừa có vẻ như không’ ấy nhỉ.” “Án mạng chứ. Đương nhiên là án mạng. Lại còn có ai nghi ngờ được điều đó nữa ư, sếp?” “Bình tĩnh, cơn bức xúc của anh làm bay hết giấy tờ trên bàn của tôi bây giờ. Thực ra thì Kling có nói với tôi là người ông ta giao đi làm vụ đó thì không có cảm giác chắc chắn theo hướng đó như anh đâu. Thế nên tôi cũng khiến ông ta đồng ý là anh sẽ có tham gia cùng. Ông ta cũng dễ tính về chuyện đó…” “Gì cơ?” Wanger thấy mình như sắp phát ốm. “Mấy tay đó đang định làm gì thế? Định dựng vụ này theo hướng nạn nhân chẳng may tự nhốt…” Sếp cẩm bình tĩnh, nhưng lập tức giơ tay ra dấu cho Wanger. “Chờ nghe cho hết đã, không phải bức xúc. Tôi sẽ nói rõ ý của ông ta, thực ra tôi thấy ông ta cũng có lý. Đúng là bà Moran có nhận, bà ấy nói là có nhận, được một bức điện tín không rõ ai gửi nhưng có tên của em gái bà ấy trong đó. Không may cho ta là không có dấu vết gì về bức điện đó ở quanh căn nhà đó – nó biến mất rồi – thế nên cũng chẳng có cách nào dò ngược lại là xem nó được gửi từ đâu tới. Cũng có thể là nó được gửi đi ngay từ thành phố này, nhưng trong lúc bối rối bà Moran đã không để ý đến thời điểm gửi. Thực tế là thằng bé nhà đó cứ nói là có một ‘cô’ chơi với nó. Có hai điều chỉ ra là rõ ràng có một người lớn có liên quan, đó là việc cắt dây điện thoại và lời nhắn để lại trên chăn của thằng bé…” Wanger đáp lại bằng cái môi dưới trề ra cau có. “Thế cái chốt cửa thì là thế nào?” “Ý là thằng bé không với được tới đỉnh cái cửa, chỗ cái chốt, đúng