🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyển Đổi Lớn
 Ebooks
Nhóm Zalo
Một số bình luận về cuốn  
Chuyển Đổi Lớn 
Carr là một trong những người viết rất thuyết phục về những tác động kinh tế và xã  hội của những thay đổi đang diễn ra qua các trung tâm dữ liệu. 
— Richard Waters, Financial Times 
Dễ hiểu và dễ tiếp nhận… quan điểm của Carr là quan điểm của một nhà báo uy tín,  thay vì của một nhà xã hội học hay một nhà tin học. Bất cứ ai quan tâm tới Mạng Toàn  Cầu (World Wide Web) và những tác động của nó tới công nghiệp, việc làm và môi  trường thông tin, đều nên đọc cuốn sách của ông. 
— Times Higher Education 
Carr luôn là tác giả hấp dẫn. 
— James V. Delong, Washington Times 
Trong khi sáng kiến công nghệ đa phần được xem là sản phẩm của các bậc thiên tài  với những tầm nhìn lý tưởng đến độ không tưởng, Carr cho thấy nhiều khi nó lại nảy  sinh do chính những người đang làm phận sự muốn thay đổi mục đích… Công nghệ  có thể là phương tiện cuối cùng hoặc thậm chí là chất men đích thực, nhưng liệu ta có  thật sự muốn lệ thuộc hoàn toàn vào những gì mà thực chất ta không làm chủ được?  Và liệu ta có chia sẻ với những tầm nhìn không tưởng như vậy?” 
— Mary Eisenhard, San Francisco Chronicle 
Đáng suy ngẫm và uyên bác. 
— Julian Dibbell, The Telegraph
Thông tin sinh ra là tự do, nhưng lại được tìm thấy ở mọi nơi trong chuỗi tiếp nối.’ Do  vậy với cuốn sách mới nhất của mình, Nicholas Carrđã đưa ra thách thức đầy thú vị  đối với cách nghĩ truyền thống về công nghệ, và có thể đã diễn giải được cho Rouseau. — Reed Hundt, Democracy 
Nick Carr đã viết lên những trầm tư về sự mất mát cái cũ khi tiếp cận cái mới, sự mất  mát ưu thế của kẻ đương nhiệm khi lịch sử chuyển dịch bên dưới họ, sự mất khả năng  kiểm soát dữ liệu, và sự mất chủ quyền vào tay các công ty và đối tác mà ta không  điều khiển được. 
— Paul W. Taylor, Public CIO 
Carr gợi mở, thách thức và chiêu đãi chúng ta một cách tuyệt vời. — Information Age 
Chuyển Đổi Lớn… chắc chắn sẽ tác động tới một số đông đọc giả. Carr đã lý giải một  cách thuyết phục rằng chúng ta đang chuyển từ kỷ nguyên máy tính cá nhân sang kỷ  nguyên của tiện ích điện toán… Và ông dẫn dắt một cách khéo léo những tương đồng  lịch sử, giải thích chi tiết việc điện cung cấp qua mạng lưới đã thay thế các nguồn  năng lượng khác nhau được dùng gần suốt thế kỷ XIX ra sao… Tôi cũng có cảm giác  ông đúng khi cho rằng trong khoảng một thập kỷ nữa, nhiều thứ chúng ta hiện nghĩ  là vĩnh hằng sẽ biến mất. 
— Mark Williams, Technology Review 
Một cuốn sách thú vị và kích thích suy nghĩ. 
— GigaOm
Chủ biên 
Phạm văn Thiều 
Vũ Công Lập 
Nguyễn văn Liễn
THE BIG SWITCH: REWIRING THE WORLD, FROM EDISON TO GOOGLE Copyright © 2009, 2008 by Nicholas Carr 
All rights reserved. 
Copyright arranged with: The Sagalyn Agency through 4922 Fairmont Ave., Suite 200, Bethesda,  MD 20814, USA, through Tuttle – Mori Agency Co., Ltd. 
Bản tiếng Việt © Nhà xuất bản Trẻ, 2010 
Mục lục 
Nhập đề Một hành lang ở Boston 7 
Phần I 
Một Máy 
Chương 1 Bánh xe của Burden 15 Chương 2 Nhà phát minh và viên thư ký 32 Chương 3 Nhà máy số 54 Chương 4 Xin tạm biệt, ông Gates 72 Chương 5 Thành phố trắng 95 
Phần II 
Sống trong Đám Mây 
Chương 6 Máy tính toàn cầu 117 Chương 7 Từ nhiều tới ít 138 Chương 8 Sự tách rời kỳ vĩ 161 Chương 9 Cuộc chiến Mạng 182 Chương 10 Một tấm mạng nhện 199 Chương 11 iGod 226 
Phần kết Ngọn lửa và dây tóc bóng đèn 248 Phụ lục Đám Mây 20 251 
Tài liệu tham khảo 261 Lời cảm tạ 273
Ta chiêm ngưỡng những con người năng động sáng tạo,  bởi họ là lực lượng mới,  
và mang đến cho lịch sử một thời đại mới. 
Henry Adams
6 
chuyển đổi lớn 
Nhập đề 
Một hành lang ở Boston  
Đó là MỘT ngày gió mẠnh tháng MưỜi mỘt, trời lạnh  nhưng quang mây, và tôi bị lạc. Bản chỉ đường in ra từ Internet đã không  giúp ích gì hơn được cho tôi. Bản đồ đường phố trông thật đơn giản trên  màn hình máy tính lại trở nên rắc rối và gây nhầm lẫn trong thế giới thực,  bởi những con đường nhỏ cùng những bảng hiệu chỉ đường ngoằn ngoèo  tệ hại. Khi chữ số của đồng hồ trên xe nhảy quá giờ hẹn gặp ăn trưa, tôi  quyết định tìm kiếm may mắn bằng cách hỏi đường. Dừng lại ở một bãi  đỗ đối diện với những bức tường cao xanh của công viên Fenway, bước  ra khỏi xe, tôi hỏi một khách bộ hành. Ông chỉ cho tôi một phố kề bên,  rồi cuối cùng, theo những con đường và lối rẽ trên tấm bản đồ in từ  MapQuest, tôi cũng tới được đúng nơi hẹn: một tòa nhà màu ghi nặng  nề ở cuối một phố phụ trải đầy rác. 
Tối thiểu, tôi nghĩ, nơi đây là đúng chỗ. Tôi tìm công ty tên VeriCenter,  nhưng chẳng có tên nào trên tòa nhà, chỉ thấy độc một tấm bảng nhỏ với  số nhà treo ở trụ phía trên tấm cửa thép nặng nề. Tôi kiểm tra lại địa chỉ:  rõ ràng đúng. Vậy nên tôi đẩy cửa mở ra, rồi bước vào cái lối đi kém mời  chào nhất thế giới: không đồ đạc, không cửa sổ, không giám đốc công  ty, không có gì cả. Chỉ thấy một điện thoại đen ngòm, không phím bấm  trên tường bên cạnh một tấm cửa thép nặng nề khác. 
7 
Nhập đề 
Tôi nhấc điện thoại và nghe thấy giọng một người đàn ông. Tôi cho  ông biết tên tôi và tên của người mà tôi đến để gặp, và ông ta bấm nút  mở cửa cho tôi đi qua, bước vào một lối đi thứ hai, cũng hoang vắng gần  giống như lối đi thứ nhất. Người đàn ông, nhân viên bảo vệ, ngồi sau  một chiếc bàn sắt. Ông đưa bằng lái xe của tôi vào một chiếc máy quét  nhỏ, in ra bức ảnh mờ khuôn mặt của tôi trên một tấm thẻ dành cho  khách, rồi bảo tôi ngồi đợi ở chiếc ghế ngay cạnh thang máy. Một phút  nữa sẽ có người xuống đón, ông ta nói. Lúc đó, tôi đã bắt đầu ước đáng  ra mình phải quyết định từ chối buổi gặp gỡ này. Một cậu thuộc bộ phận  quan hệ công chúng của VeriCenter đã gửi nhiều e-mail cho tôi, và tôi  đã chăm chỉ tống chúng vào thùng rác điện tử. Nhưng khi cậu ta mày  mò gọi được điện thoại cho tôi, tôi đã đầu hàng và đồng ý tới một cuộc  gặp mặt. Bây giờ thì tôi đang ở đây, ngồi trên chiếc ghế chẳng mấy thoải  mái ở nơi chốn trông giống như một công xưởng xác xơ vào ngày thứ  Sáu trước Lễ Tạ Ơn năm 2004.  
Thành thật mà nói, tôi thấy hơi lạ là dân VeriCenter lại hăm hở gặp gỡ  tôi. Tôi chẳng biết gì mấy về VeriCenter – ra đời vào giai đoạn cuối thời  kỳ bùng nổ của trào lưu các công ty mạng dotcom, có trụ sở ở Houston  – ngoài việc nó hoạt động trong lĩnh vực IT, và hầu hết dân IT đều giữ  khoảng cách với tôi. Tôi bị xem là người “IT-không-mấy-có-ý-nghĩa”.  Đó là tiêu đề một bài báo tôi viết một năm rưỡi trước đây – tháng Năm  năm 2003 – cho tạp chí Harvard Business Review. Tôi đã lý giải rằng  mặc dù có nhiều ý kiến về sức mạnh của các hệ thống máy tính doanh  nghiệp, thực chất chúng chẳng hề quan trọng mấy đối với sự thành công  của công ty. Chúng là cần thiết – doanh nghiệp không thể hoạt động mà  thiếu chúng – nhưng hầu hết các hệ thống đó đã trở nên rất phổ thông,  không còn khả năng làm cho công ty có lợi thế hơn so với các đối thủ. 
8 
chuyển đổi lớn 
Mỗi khi một nơi nào đó làm một điều gì mới mẻ với máy tính, thì lập  tức mọi nơi khác cũng làm được theo ngay. Về mặt chiến lược mà nói,  công nghệ thông tin đã trở thành trì trệ. Nó đúng chỉ là một thứ chi phí  thêm nữa để doanh nghiệp hoạt động. 
Một phóng viên đã gọi bài báo của tôi là “sự cường điệu tương đương  một trái bom thông minh 50 triệu tấn”. Hàng tháng sau đó, những bậc  cao lão trong làng công nghệ đã lên tiếng tấn công ý tưởng dị giáo của  tôi. Steve Ballmer, giám đốc điều hành của Microsoft, tuyên bố đó là thứ  “nước rửa bát vo gạo”. Carly Fiorina, lúc đó là giám đốc Hewlett-Parkard,  nói tôi đã “sai lầm chết người”. Phát biểu trong một hội nghị công nghệ  lớn, giám đốc điều hành của Intel, Craig Barrett, đã nói oang oang với  cử tọa: “IT vô cùng có ý nghĩa!”. Cuộc luận chiến thậm chí đã bước cả  vào làng báo đại chúng. Tuần báo Newsweek gán cho tôi cái tên “Kẻ thù  chung số 1 của thế giới công nghệ”. Khi Harvard Business School Press  xuất bản phiên bản mở rộng của bài báo thành sách, giới công nghiệp  lại tiến hành một đợt công kích mới. 
Vậy nên, như bạn có thể hình dung, thật sự tôi không thường được  các công ty máy tính mời đi ăn trưa. 
Cửa thang máy mở và Jennifer Lozier, giám đốc tiếp thị trong trang  phục rất hợp mắt, bước ra. Cô đưa tôi lên phòng họp và giới thiệu tôi  với các đồng nghiệp, trong đó có một trong số những người sáng lập  VeriCenter, Mike Sullivan. Là một doanh nhân bẩm sinh, Sullivan khó  có thể kiềm chế được nhiệt tình của mình. Anh cầm cuốn sách của tôi  với vài chục mẩu giấy đánh dấu thòi ra ngoài. “Khi đọc nó”, anh nói, “tôi  biết tôi sẽ phải gặp ông. Chúng tôi đang làm đúng những gì mà ông viết”.  Anh gõ ngón tay lên bìa sách. “Đó là công việc của chúng tôi”.
9 
Nhập đề 
Tôi thật sự ngạc nhiên. Tại sao một công ty IT lại hồ hởi với ý tưởng  rằng IT là không mấy có ý nghĩa? 
Sullivan giải thích anh đã làm quản lý trưởng cho Microsoft, nhưng  năm 1999 anh bỏ Microsoft để giúp lập ra VeriCenter bởi muốn đi tiên  phong trên con đường hoàn toàn mới mẻ trong việc cung cấp công nghệ  thông tin cho các doanh nghiệp. Anh bị thuyết phục rằng thay vì phải  mua và vận hành các máy tính và phần mềm của riêng mình, trong  tương lai, các doanh nghiệp chỉ cần nối vào Internet và sẽ nhận được  tất cả các xử lý dữ liệu cần thiết, cung cấp bởi các dịch vụ bên ngoài với  khoản tiền phí hàng tháng. Trong cuốn sách của mình, tôi đã so sánh  công nghệ thông tin với điện. VeriCenter, Sullivan nói, đã thực hiện  bước logic kế tiếp để thực sự cung cấp công nghệ thông tin giống như  điện, thông qua một ổ cắm trên tường. 
Sau bữa ăn trưa nhanh và phần giới thiệu thông lệ bằng PowerPoint  về công ty, Sullivan nói anh muốn đưa tôi đi thăm “trung tâm dữ liệu”.  Anh dẫn tôi ngược xuống thang máy, dọc hành lang, tới một cửa khác –  cánh cửa này làm bằng lưới thép. Nhân viên bảo vệ kiên nhẫn kiểm tra  thẻ của chúng tôi trước khi mở cửa với một tấm thẻ từ, móc ở thắt lưng.  Anh ta dẫn chúng tôi vào bên trong. 
Qua cánh cửa này cũng giống như bước vào một thế giới mới. Bên  ngoài, tòa nhà có thể trông như một nhà máy cũ, nhưng bên trong ẩn  giấu những thứ hoàn toàn khác – những thứ không phải của thời đại  công nghiệp quá khứ mà là của kỷ nguyên số tương lai. Trải ra trước mắt  tôi là một phòng rộng chứa đầy máy tính, có kích thước bằng vài dãy  phố, được thắp sáng rất tinh khiết với hàng ngàn bóng đèn huỳnh quang.  Máy tính xếp thành những hàng dài bên trong các buồng khóa kín, mang  nhãn hiệu quen thuộc của các công ty như IBM, Sun Microsystems, Dell, 
10 
chuyển đổi lớn 
và HP. Hầu như chẳng có ai khác trong phòng, chỉ có máy, những chiếc  quạt của chúng chạy ro ro và những diot phát quang màu đỏ và xanh  nhấp nháy bền bỉ trong khi hàng tỉ bit dữ liệu được chuyển qua các bộ vi  xử lý. Phía trên đầu, những chiếc quạt lớn hút hơi nóng từ các vi mạch ra,  trong khi những chiếc quạt khác bơm khí lạnh được lọc từ bên ngoài vào.  
Sullivan dẫn tôi đi qua những chiếc máy tính để tới hai phòng phụ,  mỗi phòng có một máy phát điện chạy bằng dầu diesel khổng lồ của  hãng Caterpillar với công suất hai triệu watt. Với dầu trữ ngay cạnh, anh  giải thích, các máy phát có thể giữ cho trung tâm hoạt động được hơn  ba ngày khi có sự cố mất điện. Anh chỉ cho tôi xem một phòng khác với  những chiếc ắc-quy kích thước công nghiệp chất từ sàn lên đến trần,  đó là nguồn dự trữ thứ hai cho những lúc mất điện ngắn. Rồi chúng tôi  bước đến một góc phòng, nơi có một ống lớn xuyên qua tường. Đó là  đường truyền Internet, gồm nhiều cáp sợi quang, nối những chiếc máy  tính trong phòng với hàng chục doanh nghiệp có sử dụng trung tâm  dữ liệu để chạy các ứng dụng và lưu trữ dữ liệu của họ. Những công ty  này không còn phải chứa và bảo hành máy tính hoặc cài đặt và gỡ lỗi  các phần mềm của riêng họ nữa. Họ chỉ cần nối văn phòng của họ, qua  Internet, với các máy tính trong căn phòng này, và VeriCenter sẽ làm nốt  những phần còn lại. 
Khi đứng đây quan sát trung tâm dữ liệu, tôi có thể trông giống như  một nhân vật hoạt hình với một bóng đèn khổng lồ nhấp nháy ở trên đầu.  Tôi nhận ra nơi mình đang đứng là nguyên mẫu của một kiểu nhà máy  phát năng lượng mới – một nhà máy điện toán sẽ cung cấp năng lượng  trong thời đại thông tin của chúng ta theo cách thức mà những nhà máy  điện vĩ đại đã cung cấp năng lượng trong thời đại công nghiệp. Kết nối  với Mạng, chiếc máy phát hiện đại này sẽ cung cấp cho các doanh nghiệp 
11 
Nhập đề 
và các ngôi nhà của chúng ta những lượng lớn thông tin số hóa và năng  lực xử lý dữ liệu. Nó sẽ chạy tất cả các chương trình phần mềm phức tạp  mà trước đây vẫn phải cài đặt trên những chiếc máy tính nhỏ riêng của  chúng ta. Và cũng giống như các máy phát điện trước đây, nó sẽ hoạt  động với một hiệu quả chưa từng thấy. Nó sẽ biến điện toán thành một  loại hàng hóa rẻ tiền và phổ dụng. 
“Đó quả thật là một dịch vụ tiện ích”, tôi nói với Sullivan. Anh gật đầu, cười lớn. “Đó là tương lai”.
12 
chuyển đổi lớn 
PHẦN I 
Một  
Máy 
… và tương tự tất cả các bộ phận của hệ thống  phải được xây dựng trong tương quan tới tất cả  các bộ phận khác, bởi, theo một nghĩa nào đó,  tất cả các bộ phận sẽ cấu thành một máy. 
— Thomas Edison
13 
Nhập đề 
14 
chuyển đổi lớn
CHƯƠNG 1 
Bánh xe của Burden  
Năm 1851, trên cánh đỒng cẠnh mỘt xưỞng rèn ở vùng  bắc New York, Henry Burden đã chế tạo ra một cỗ máy rất đẹp. Giống  như một chiếc bánh xe đạp khổng lồ, với hàng chục nan hoa sắt dày  gióng từ trục giữa, chiếc máy của Burden là bánh xe nước công nghiệp  lớn nhất trong thế kỷ và có công suất lớn nhất thời đó. Được cấp nước  từ dòng chảy mạnh của sông Wynantskill gần đó, chiếc máy kếch xù cao  khoảng 18m, nặng 250 tấn có thể phát ra công suất tới 500 mã lực khi  quay ở tốc độ tối đa hai vòng rưỡi một phút. Năng lượng được khai thác  và cung cấp cho các máy khoan ép, máy mài, búa rèn, và máy tiện do các  công nhân của Burden sử dụng thông qua một hệ thống các bánh răng,  dây curoa và ròng rọc. 
Henry Burden là thiên tài phát minh công nghiệp. Là một kỹ sư người  Scotland, ông nhập cư vào Mỹ năm 1819 ở tuổi hai mươi tám, để nhận  việc tại một xưởng chế tạo nông cụ ở Albany. Chỉ trong vòng vài tháng,  ông đã sáng chế ra chiếc máy xới đầu tiên của Mỹ để làm luống gieo hạt  và thiết kế một dạng cải tiến của chiếc cày. Ba năm sau, ông chuyển tới  thị trấn Troy gần đó để quản lý Nhà máy Sắt và Đinh Troy, cuối cùng mua 
15 
Bánh xe của Burden 
nó và đổi tên thành Nhà máy Sắt Burden. Chẳng bao lâu sau, ông đã nhìn  thấy lợi ích của nhà máy tại ngay vùng giao của sông Hudson và kênh  Erie vừa đào. Nếu tăng được năng suất của nhà máy, ông có thể chuyên  chở sản phẩm tới các thị trường mới ở khắp vùng Đông Bắc và Trung  Tây. Ông bắt tay vào việc cơ giới hóa những gì hàng thế kỷ nay vẫn được  làm bằng tay bởi những người thợ rèn và thợ thủ công. Trong vòng mười  hai năm, ông đã chế tạo những chiếc máy để tự động hóa việc sản xuất  đinh và chốt đóng đường ray. Năm 1855, ông phát minh ra Máy Móng  Ngựa Burden, một thiết bị tài tình biến các thỏi sắt thành các bàn móng  ngựa hoàn chỉnh với tốc độ một chiếc mỗi phút. Trong những khoảng  thời gian rảnh rỗi, Burden còn thiết kế được một chiếc tàu hơi nước đi  biển lớn, trở thành hình mẫu cho những chiếc phà và tàu biển sau này.  
Nhưng sáng tạo lớn nhất của Burden, thứ làm cho ông giàu và nổi  tiếng, là cỗ bánh xe của ông. Được một thi sĩ địa phương phong cho cái  tên “Thác của những Bánh xe Nước”, với kích thước và công suất lớn  chưa từng có, cỗ máy đã tạo cho Nhà máy Sắt Burden lợi thế quyết định  so với các nhà sản xuất khác. Nhà máy có thể tăng sản lượng và hiệu  suất, sản xuất được nhiều hơn móng ngựa, đinh, và các hàng hóa khác,  với ít công nhân hơn và tốn ít thời gian hơn so với các đối thủ. Nhà máy  của ông đã giành được hợp đồng cung cấp hầu như toàn bộ móng ngựa  dùng cho quân đội Liên quân trong suốt cuộc Nội chiến, đồng thời trở  thành một trong những nhà cung cấp đinh đóng đường ray chính cho  đường sắt Hoa Kỳ khi hệ thống được mở rộng khắp đất nước. 
Với Burden, việc sản xuất một cách hiệu quả năng lượng cơ học đã  trở thành vô cùng quan trọng đối với sự thành công của công ty, giống  như tay nghề của những người công nhân và thậm chí như chất lượng  sản phẩm. Như những chủ doanh nghiệp khác cùng thời, ông chú tâm 
16 
chuyển đổi lớn 
tới việc sản xuất năng lượng cũng giống như chú tâm tới việc sản xuất  hàng hóa. 
Nhưng nếu ai đến thăm Nhà máy Sắt Burden trong những năm đầu  của thế kỷ XX sẽ phải thấy ngạc nhiên. Cỗ bánh xe nước lớn đứng nhàn  rỗi ở cánh đồng, như được trùm khăn tang và đang lặng lẽ dần mòn rỉ.  Sau khi quay không mệt mỏi ròng rã năm mươi năm, bánh xe nước giờ  đã bị lãng quên. Các nhà sản xuất không còn phải kiêm nhiệm thêm  chức năng sản xuất ra năng lượng nữa. Họ có thể chạy máy bằng điện  sinh ra từ các nhà máy năng lượng ở xa của các công ty dịch vụ tiện ích  lớn, được dẫn tới xí nghiệp của họ qua một hệ thống đường dây. Với tốc  độ đáng khâm phục, các công ty dịch vụ tiện ích mới đã đảm nhận việc  cung cấp năng lượng công nghiệp. Bánh xe của Burden cũng như hàng  ngàn bánh xe nước, động cơ hơi nước và máy phát điện tư nhân khác  đã trở thành lỗi thời. 
Những gì đã làm nên các công ty dịch vụ tiện ích điện quy mô lớn là  một loạt các phát minh đột phá – trong sản xuất và truyền tải điện cũng  như trong thiết kế các động cơ điện – nhưng thứ đảm bảo cho chiến  thắng của chúng lại không phải công nghệ mà là tính kinh tế. Bằng việc  cung cấp điện cho nhiều người mua từ các trạm phát trung tâm, các dịch  vụ tiện ích đã đạt được ưu thế của hiệu quả kinh tế nhờ quy mô trong  việc sản xuất năng lượng mà không một nhà máy riêng lẻ nào có thể  sánh được. Việc các nhà sản xuất phải kết nối các xí nghiệp của họ vào  lưới điện mới để nhận được nguồn năng lượng rẻ tiền hơn đã trở thành  một sự cần thiết. Bản thân sự thành công của các dịch vụ tiện ích đã tiếp  tục giúp họ duy trì thành công. Ngay khi bắt đầu cung cấp điện cho các  xí nghiệp, các dịch vụ tiện ích đã có thể tiếp tục mở rộng hơn nữa khả  năng sản xuất và quy mô kinh tế. Giá điện đã giảm nhanh tới mức hầu 
17 
Bánh xe của Burden 
hết các doanh nghiệp và gia đình trong cả nước đều có thể sử dụng được  nguồn năng lượng điện. 
Thật khó tách biệt tính thương mại và xã hội của hiện tượng dân chủ  hóa do điện mang lại. Ánh sáng điện đã làm thay đổi nhịp điệu cuộc  sống, các dây chuyền lắp ráp chạy điện đã xác định lại công nghiệp và  lao động, và các thiết bị điện đã mang cuộc Cách mạng Công nghiệp đến  từng ngôi nhà. Đó là một thế giới chưa hề tồn tại một trăm năm trước.  Chỉ trong một vài thế hệ, nó đã mang lại những biến đổi vô cùng vĩ đại  và đầy đủ, tới mức khó có thể hình dung cuộc sống của chúng ta đã ra  sao trước khi có điện qua những ổ cắm trên tường. 
Hôm nay, chúng ta lại đang ở giữa một cuộc chuyển đổi lịch sử khác,  và nó cũng đang diễn ra theo quy trình tương tự. Những gì xảy ra cho  việc sản xuất năng lượng một thế kỷ trước đây, nay lại đang tái diễn cho  việc xử lý thông tin. Những hệ thống máy tính tư nhân, được xây dựng  và vận hành bởi các công ty riêng lẻ, đang bị hất cẳng bởi các dịch vụ  được các trung tâm xử lý dữ liệu cung cấp qua một mạng lưới chung  là Internet. Điện toán trở thành một thứ dịch vụ tiện ích, và một lần  nữa các phương trình kinh tế xác định phương thức chúng ta làm việc  và sống đang được viết lại.  
Nửa thế kỷ qua, từ khi chiếc máy mainframe (máy chủ với kích thước  lớn) đầu tiên được cài đặt trong trung tâm dữ liệu của công ty, các doanh  nghiệp đã đầu tư nhiều ngàn tỉ đôla cho công nghệ thông tin. Họ đã lắp  ráp các phần cứng và phần mềm thành những hệ thống ngày càng phức  tạp để tự động hóa hầu như mọi hoạt động, từ mua vật liệu tới dự trữ,  từ quản lý nhân viên tới cung cấp sản phẩm cho khách hàng. Họ giữ  những hệ thống này tại chỗ, ngay trong các xí nghiệp và văn phòng của 
18 
chuyển đổi lớn 
họ, và bảo trì chúng nhờ các kỹ thuật viên của chính họ. Cũng giống như  Henry Burden và các nhà sản xuất khác cạnh tranh một phần bằng sự  phức tạp của các hệ thống nguồn năng lượng, các công ty hiện đại cạnh  tranh nhau trên sự phức tạp của các hệ thống máy tính. Dù hoạt động  trong lĩnh vực nào đi nữa, các doanh nghiệp không có lựa chọn nào khác  và đều phải tiến hành công việc xử lý dữ liệu. 
Cho tới bây giờ. 
Tận dụng những tiến bộ về sức mạnh của các bộ vi xử lý và dung lượng  của các hệ thống lưu trữ dữ liệu, các dịch vụ tiện ích non trẻ đang bắt đầu  thiết lập ồ ạt các trung tâm xử lý thông tin, và họ sử dụng mạng Internet  băng rộng với hàng triệu dặm cáp sợi quang như mạng lưới toàn cầu để  chuyển giao các dịch vụ của họ tới khách hàng. Giống như các dịch vụ  tiện ích điện trước đây, các dịch vụ tiện tích điện toán mới đang đạt tới  hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, cao hơn nhiều so với những gì các công ty  có thể đạt được với các hệ thống điện toán riêng của họ. 
Thấy được lợi thế kinh tế của mô hình dịch vụ tiện ích, các doanh  nghiệp đang xem xét lại cách thức họ mua và sử dụng công nghệ thông  tin. Thay vì dành một khoản tiền lớn để mua máy tính và các chương  trình phần mềm, họ đang bắt đầu kết nối vào mạng lưới mới. Bước  chuyển đổi này hứa hẹn không chỉ làm thay đổi bản sắc bộ phận công nghệ  thông tin của doanh nghiệp mà còn cải tổ toàn bộ công nghiệp máy tính.  Các hãng công nghệ lớn – Micrsoft, Dell, Oracle, IBM, và tất cả các công  ty còn lại – đã kiếm được bộn tiền bằng việc bán cùng các hệ thống cho  hàng ngàn công ty khác nhau. Khi điện toán trở nên tập trung hóa cao độ  hơn, nhiều khoản doanh thu như vậy sẽ biến mất. Bởi các doanh nghiệp  đã chi hơn một ngàn tỉ đôla cho phần cứng và phần mềm mỗi năm, nên  những tác động lan tỏa sẽ dễ thấy qua kinh tế toàn cầu.
19 
Bánh xe của Burden 
Nhưng đó không hẳn chỉ là một hiện tượng về thương mại. Nhiều  trong số những thí dụ phát triển nhất về điện toán tiện ích lại không  nhắm tới các công ty mà lại nhắm vào những người như bạn và tôi. Thí  dụ tốt nhất trong tất cả, có lẽ là công cụ tìm kiếm của Google. Hãy nghĩ  về công cụ này: Google là gì nếu không phải là một tiện ích thông tin  khổng lồ? Khi cần tìm kiếm trên Internet, bạn dùng trình duyệt Web  để kết nối với các trung tâm dữ liệu bao la mà Google đã lập nên ở các  điểm bí mật khắp thế giới.  
Bạn gõ vào một từ khóa, và mạng lưới Google, với hàng trăm ngàn  máy tính liên kết với nhau, sẽ lựa chọn trong ngân hàng dữ liệu của hàng  tỉ trang Web, rút ra vài ngàn trang khớp nhất với từ khóa, sắp xếp chúng  theo thứ tự xác đáng, và trả các kết quả qua Internet tới màn hình của  bạn – thông thường trong thời gian ngắn hơn một giây. Kỳ công điện  toán đáng kinh ngạc này mà Google lặp đi lặp lại hàng trăm triệu lần một  ngày không xảy ra bên trong chiếc máy tính cá nhân của bạn. Nó không  thể ở bên trong máy tính cá nhân của bạn được. Thay vào đó, nó xảy ra  ở nơi cách xa hàng dặm, có thể ở phần bên kia của đất nước, thậm chí  có thể ở bên kia quả địa cầu. Vậy chiếc máy tính ở đâu đã xử lý thao tác  tìm kiếm lần cuối trên Google của bạn? Bạn không biết, và cũng không  quan tâm – cũng giống như bạn không biết và không quan tâm là trạm  phát điện nào đã sản xuất ra những kilowatt điện thắp sáng ngọn đèn  trên bàn của mình. 
Tất cả các mô hình và sự tương đồng lịch sử tất nhiên đều có giới hạn  của chúng, và công nghệ thông tin khác biệt với điện lực về nhiều phương  diện quan trọng. Nhưng ẩn dưới các khác biệt kỹ thuật, điện và điện toán  chia sẻ những tương đồng sâu sắc – những tương đồng mà chúng ta hôm  nay dễ dàng bỏ qua. Chúng ta xem điện là một tiện ích “đơn giản”, một 
20 
chuyển đổi lớn 
dòng điện chuẩn và không ai thấy, tới một cách an toàn và có thể đoán  trước được, qua các ổ cắm gắn trên các bức tường của chúng ta. Vô số  các máy móc và thiết bị điện, từ tivi và máy giặt tới máy công cụ và dây  chuyền lắp ráp, đã trở thành quá phổ biến tới mức ta không còn xem  chúng là các phần tử của công nghệ nền tảng nữa – chúng có đời sống  tách biệt của riêng mình. 
Nhưng mọi thứ đã không luôn là như vậy. Khi điện khí hóa mới bắt  đầu, nó là một lực lượng không chế ngự được và không lường trước được,  đã làm thay đổi mọi thứ nó chạm tới. Các máy móc và thiết bị là một bộ  phận của công nghệ, giống như máy phát, đường dây tải, và chính dòng  điện. Cũng như với các hệ thống máy tính ngày nay, các công ty đã phải  hình dung sử dụng điện như thế nào cho doanh nghiệp của họ, và phải  thực hiện những thay đổi lớn về tổ chức và quy trình sản xuất. Khi công  nghệ phát triển, họ phải vật lộn với các thiết bị cũ và thường không tương  thích – những “hệ thống di sản”, theo cách dùng thuật ngữ máy tính hiện  đại, buộc chặt các doanh nghiệp với quá khứ, đồng thời ngăn cản tiến  bộ – và họ phải thích nghi với những nhu cầu và kỳ vọng đang thay đổi  của khách hàng. Điện khí hóa cũng như tin học hóa đã dẫn tới những  thay đổi phức hợp, sâu rộng và thường khốc liệt cho các công ty riêng  biệt cũng như toàn bộ các ngành công nghiệp; và cả cho xã hội, khi các  gia đình bắt đầu kết nối với mạng. 
Ở mức độ kinh tế thuần túy, sự tương đồng giữa điện và công nghệ  thông tin thậm chí còn sâu sắc hơn. Cả hai đều là thứ mà các nhà kinh  tế gọi là các công nghệ phổ dụng. Được sử dụng bởi đủ loại người để  làm đủ mọi thứ, chúng thực hiện nhiều chứ không phải chỉ một hoặc  vài chức năng. Các công nghệ phổ dụng (GPT), tốt nhất nên được hiểu  không phải là các công cụ rời rạc mà là các nền tảng để trên đó nhiều 
21 
Bánh xe của Burden 
công cụ hoặc ứng dụng khác nhau có thể phát triển được. Hãy thử so  sánh hệ thống điện với hệ thống đường sắt. Một khi hệ thống đường sắt  được thiết lập, hầu như ta chỉ có thể làm được một việc với nó: cho các  đoàn tàu chạy qua lại chuyên chở hàng hóa hoặc hành khách. Nhưng một  khi đã thiết lập được lưới điện, ta có thể sử dụng nó để cấp nguồn năng  lượng cho mọi thứ từ các robot trong nhà máy tới các máy nướng bánh  mì trên bàn bếp và những chiếc bóng đèn trong lớp học. Bởi được áp  dụng một cách rộng rãi như vậy, GPT mang đến tiềm năng cho hiệu quả  kinh tế theo quy mô rất to lớn nếu như khâu cung cấp có thể hợp nhất.  
Điều này không phải lúc nào cũng có thể làm được. Các động cơ hơi  nước và bánh xe nước đã là những công nghệ phổ dụng không thích  ứng với sự tập trung hóa. Chúng phải ở kề ngay nơi mà năng lượng của  chúng được sử dụng. Do vậy Henry Burden đã phải làm bánh xe nước  ngay cạnh nhà máy của ông. Nếu xây cất bánh xe nước cách xa chỉ vài  trăm thước, năng lượng do bánh xe sản sinh ra sẽ bị hao tổn vào việc  quay các dây curoa dài để chuyển năng lượng tới nhà máy. Và sẽ không  còn lại mấy năng lượng để chạy những chiếc máy của công nhân. 
Nhưng điện và điện toán có chung một điểm làm chúng trở nên đặc  biệt ngay cả trong số ít các công nghệ phổ dụng: cả hai đều có thể được  chuyển giao hiệu quả từ khoảng cách rất xa qua một mạng lưới. Bởi  chúng không cần phải được sản xuất ngay tại chỗ, chúng có thể đạt được  quy mô hiệu quả kinh tế của cung cấp tập trung. Những hiệu quả kinh  tế này phải cần thời gian mới thấy được hết, và cần nhiều thời gian hơn  nữa mới khai thác được hết. Trong giai đoạn đầu sự phát triển của một  GPT, khi chỉ có ít chuẩn mực kỹ thuật và không có mạng lưới phân phối  rộng lớn, công nghệ không có khả năng cung cấp tập trung. Việc cung  cấp cần thiết phải bị phân đoạn. Khi một công ty muốn khai thác sức 
22 
chuyển đổi lớn 
mạnh của công nghệ, nó phải mua những thành phần khác nhau, lắp  đặt chúng tại chỗ, kết nối chúng thành một hệ thống làm việc, và thuê  người để vận hành hệ thống. Trong thời kỳ đầu của điện khí hóa, các nhà  máy phải lắp đặt các máy phát riêng nếu họ muốn sử dụng năng lượng  điện. – cũng như các công ty ngày nay phải lắp đặt các hệ thống thông  tin riêng để sử dụng năng lực điện toán. 
Sự phân đoạn như vậy là rất lãng phí. Nó đòi hỏi đầu tư lớn và chi phí  cố định cao đối với các doanh nghiệp, dẫn tới chi tiêu dư thừa và hiệu  quả sử dụng thấp, cả về công nghệ lẫn nhân lực vận hành. Tình trạng  này là lý tưởng đối với các nhà cung cấp các phần hợp thành của công  nghệ – họ thu được lợi từ đầu tư dư thừa – nhưng không bền vững. Khi  có thể cung cấp công nghệ một cách tập trung, các nhà cung cấp tiện ích  quy mô lớn sẽ nổi lên thay thế các nhà cung cấp riêng lẻ. Có thể phải cần  hàng thập kỷ để các công ty từ bỏ các hoạt động cung cấp riêng lẻ cùng  tất cả các khoản đầu tư cho chúng. Nhưng cuối cùng các khoản tiết kiệm  do các dịch vụ tiện ích mang lại là quá hấp dẫn để có thể từ chối, kể cả  đối với các công ty lớn nhất. Và mạng lưới thắng thế. 
Tại một hội nghị ở Paris vào mùa hè năm 2004, Apple giới thiệu mẫu  cải tiến của chiếc máy tính iMac rất được ưa chuộng. Ngay từ lúc ra đời  vào năm 1998, iMac đã rất đặc biệt bởi thiết kế độc đáo của nó, nhưng  mẫu mới lại vô cùng nổi bật. Nó trông như một tivi dẹt, một màn hình  chữ nhật đóng khung trong một hộp nhựa trắng mỏng và đứng trên một  chân đỡ nhôm. Tất cả các bộ phận của máy tính – các vi mạch, cáp dẫn,  ổ nối – đều được giấu sau màn hình. Dòng chữ quảng cáo thông minh  và hóm hỉnh đoán trước phản ứng của khách hàng tiềm năng: “Máy tính  đã đi tới đâu?”
23 
Bánh xe của Burden 
Nhưng câu hỏi này còn hơn cả một cách quảng cáo tinh khôn. Nó là  sự thú nhận khôn khéo rằng ý tưởng lâu nay của chúng ta về máy tính đã  lỗi thời. Trong khi đa số chúng ta vẫn tiếp tục lệ thuộc vào những chiếc  máy tính cá nhân ở nhà và ở công sở, chúng ta đang sử dụng chúng theo  một cách thức rất khác so với trước đây. Thay vì dựa vào dữ liệu và phần  mềm bên trong máy tính, lưu giữ trên những ổ đĩa cứng riêng, chúng ta  ngày càng dựa nhiều hơn vào dữ liệu và phần mềm chảy tới qua mạng  Internet công cộng. Những chiếc máy tính cá nhân của chúng ta đang  trở thành các thiết bị đầu cuối, phát huy sức mạnh và tính hữu ích không  phải từ những gì có bên trong chúng mà từ mạng lưới chúng kết nối tới  – và, đặc biệt, từ những máy tính khác cũng kết nối tới mạng lưới này. 
Sự thay đổi cách thức chúng ta sử dụng máy tính đã không xảy ra qua  một đêm. Những hình thái sơ khai của điện toán tập trung hóa đã có  từ một thời gian dài trước đây. Giữa những năm 1980, nhiều chủ máy  tính cá nhân đã mua các modem để nối máy tính của họ qua đường  điện thoại tới các cơ sở dữ liệu trung tâm như CompuServe, Prodigy, và  Well – thường được biết tới như những “diễn đàn chuyên đề” (bulletin  boards) – nơi họ trao đổi thông tin với các thành viên khác. America  Online đã phổ thông hóa dạng cộng đồng trực tuyến này, phát triển sự  thu hút của nó với việc bổ sung đồ họa màu sắc cũng như các chat room,  trò chơi, thông báo thời tiết, các bài báo và tạp chí, cùng nhiều dịch vụ  khác. Thêm nữa, nhiều cơ sở dữ liệu đặc thù đã được thiết lập cho người  sử dụng là các học giả, kỹ sư, thủ thư, nhà kế hoạch quân sự, và nhà phân  tích kinh doanh. Năm 1991, khi Tim Berners-Lee phát minh ra Mạng  Toàn Cầu (World Wide Web,) ông đã đặt nền tảng cho việc thay thế tất  cả các kho dữ liệu cá nhân trực tuyến bằng một kho công cộng khổng  lồ. Web đã phổ thông hóa mạng Internet, biến nó thành một cửa hàng 
24 
chuyển đổi lớn 
toàn cầu để chia sẻ thông tin số. Và khi các trình duyệt dễ sử dụng như  Netscape Navigator và Internet Explorer được cấp miễn phí vào giữa thập  kỷ 1990, tất cả chúng ta đều đổ lên trực tuyến. 
Tuy nhiên, trong thập kỷ đầu tồn tại, World Wide Web chỉ là một  không gian khá buồn tẻ đối với hầu hết chúng ta. Chúng ta đã dùng nó  chủ yếu như một mục lục khổng lồ, một bộ sưu tập của các “trang” được  gắn với nhau bằng các siêu liên kết. Chúng ta “đọc” Web, lướt các nội  dung của nó theo cách không khác mấy cách chúng ta lật giở qua một  đống tạp chí. Khi muốn làm việc thật sự, hoặc thực sự chơi một trò chơi,  chúng ta đóng trình duyệt Web lại và chạy một trong những chương trình  đã được cài đặt trong đĩa cứng của mình: Microsoft Word, hay Aldus  Pagemaker, hay Encarta, hay Myst chẳng hạn. 
Nhưng bên dưới bề mặt các trang Web là một tập hợp các công nghệ  mạnh, bao gồm các thủ tục tinh vi để mô tả và truyền dữ liệu, chúng  hứa hẹn không chỉ khuếch đại ích lợi của Internet mà còn làm thay đổi  chính quá trình tính toán. Những công nghệ này sẽ cho phép tất cả máy  tính kết nối với Mạng để hoạt động thực sự như một máy xử lý thông tin  đơn nhất, dễ dàng chia sẻ các bit dữ liệu và các xâu mã phần mềm. Một  khi những công nghệ này được khai thác đầy đủ, bạn sẽ có thể sử dụng  Internet không chỉ để xem các trang Web riêng lẻ mà còn để chạy các  chương trình phần mềm phức hợp, đồng thời lấy thông tin từ nhiều trang  và nhiều cơ sở dữ liệu. Bạn sẽ không chỉ có khả năng “đọc” từ Internet  mà còn “viết” lên đó nữa – cũng giống như bạn vẫn luôn có thể đọc ra  và viết vào đĩa cứng máy tính của bạn. World Wide Web sẽ trở thành  chiếc Máy tính Toàn cầu. 
Chiều kích này của Internet đã được nhìn thấy ngay từ ban đầu, nhưng  chỉ rất lờ mờ. Khi thực hiện một phép tìm kiếm dùng công cụ cũ như 
25 
Bánh xe của Burden 
AltaVista, bạn chạy một phần mềm qua trình duyệt của bạn. Mã của  phần mềm nằm chủ yếu ở máy tính chủ của AltaVista. Khi thực hiện giao  dịch ngân hàng trực tuyến, chuyển tiền giữa tài khoản séc và tài khoản  tiết kiệm, bạn cũng dùng một dịch vụ tiện ích, nó chạy trên máy tính của  ngân hàng chứ không phải trên máy tính của bạn. Khi dùng trình duyệt  để kiểm tra email với Yahoo hoặc Hotmail, hoặc kiểm tra việc chuyển  kiện hàng với FedEx, bạn dùng một ứng dụng phức tạp chạy trên một  máy chủ ở xa. Ngay khi dùng Amazon.com để đặt sách – hoặc để sau đó  ghi phản hồi về cuốn sách trên trang Amazon – bạn đã khai thác tiềm  năng ngầm ẩn của Internet. 
Phần lớn các dịch vụ tiện ích trước kia là sơ đẳng, chỉ liên quan tới  việc trao đổi một lượng nhỏ dữ liệu. Nguyên nhân thật đơn giản: các  dịch vụ phức tạp hơn, loại có thể thay thế phần mềm trên đĩa cứng của  bạn, đòi hỏi khả năng truyền nhanh những khối lượng dữ liệu rất lớn, và  đó là điều không thực tế với các liên kết bằng đường điện thoại truyền  thống tốc độ chậm. Việc chạy những dịch vụ như vậy sẽ nhanh chóng  làm quá tải đường điện thoại hoặc làm tràn modem. Máy tính cá nhân  của bạn sẽ phải làm việc cật lực rồi dừng. Trước khi có thể phổ biến các  dịch vụ phức hợp, một lượng lớn người sử dụng phải được trang bị kết  nối băng rộng tốc độ cao. Điều này chỉ bắt đầu xảy ra vào cuối thập niên  1990 trong thời kỳ bùng nổ đầu tư với các công ty dotcom, khi các công  ty điện thoại và cáp vội vàng thay thế hệ thống dây dẫn bằng đồng của  họ với sợi quang – những bện sợi thủy tinh mỏng như tóc, tải thông tin  dưới dạng các xung ánh sáng thay vì dòng điện – và cập nhật mạng lưới  của họ để có thể xử lý những lượng dữ liệu gần như vô hạn. 
Dấu hiệu rõ ràng đầu tiên cho làn sóng thứ hai của Internet – thứ được  đặt tên là Web 2.0 – đột nhiên xuất hiện vào mùa hè năm 1999. Nó đến 
26 
chuyển đổi lớn 
dưới dạng một chương trình phần mềm nhỏ, miễn phí gọi là Napster.  Được viết trong vài tháng bởi một sinh viên bỏ học mười tám tuổi tên là  Shawn Fanning, Napster cho phép người dùng chia sẻ với nhau các bản  nhạc qua Internet theo một cách thức hoàn toàn mới mẻ. Nó quét đĩa  cứng của bất kỳ ai đã cài đặt chương trình, và sau đó thiết lập trên một  máy chủ trung tâm do Fanning vận hành một danh mục thông tin về tất  cả các tập tin bài hát tìm thấy, lập mục lục tên bài hát, ban nhạc chơi bài  hát, đĩa chứa bài hát, và chất lượng âm thanh của chúng. Người dùng  Napster duyệt trên danh mục trung tâm này để tìm bài hát họ muốn, rồi  tải bài hát trực tiếp từ máy tính của người dùng khác. Nó dễ dàng, và  nhanh nữa, nếu bạn có kết nối băng rộng. Trong vòng vài giờ, bạn có thể  tải hàng trăm bài hát. Thật không thậm xưng để nói rằng vào thời kỳ cao  điểm của Napster, hầu như mọi tác phẩm âm nhạc thịnh hành từng được  số hóa trên CD – và nhiều tác phẩm chưa hề xuất hiện trên CD – đều có  thể được tìm và tải miễn phí qua dịch vụ này. 
Chẳng có gì ngạc nhiên khi Napster trở thành vô cùng nổi tiếng và  được ưa thích, đặc biệt trong các khuôn viên đại học, nơi kết nối mạng  băng rộng là phổ biến. Tới đầu năm 2001, theo ước tính của hãng nghiên  cứu thị trường Media Metrix, hơn 26 triệu người đã sử dụng dịch vụ  Napster, và họ dùng hơn 100 triệu giờ một tháng để trao đổi các tập tin  nhạc. Phát minh của Shawn Fanning lần đầu tiên đã chỉ cho thế giới biết  Internet có thể cho phép nhiều máy tính hoạt động như một máy tính  chung đơn nhất như thế nào. Hàng ngàn, thậm chí hàng triệu người có  thể truy nhập tới các nội dung tích hợp của các cơ sở dữ liệu mà trước  kia là hoàn toàn riêng lẻ. Mặc dù từng người sử dụng vẫn phải cài đặt  một chương trình phần mềm nhỏ trên máy tính cá nhân của họ, sức  mạnh thật sự của Napster nằm chính ở mạng lưới – theo cách nó thiết 
27 
Bánh xe của Burden 
lập ra một hệ thống trung tâm quản lý tập tin và cách nó cho phép dữ  liệu được truyền dễ dàng giữa các máy tính, kể cả khi chúng chạy ở hai  nửa địa cầu khác nhau. 
Chỉ có một vấn đề. Việc này là bất hợp pháp. Phần rất lớn các bài hát  được tải qua Napster thuộc sở hữu của các nghệ sĩ và các công ty đĩa hát  sản xuất ra chúng. Trao đổi các bài hát mà không được phép hoặc không  trả tiền là phạm luật. Sự xuất hiện của Napster đã biến hàng triệu công  dân, thường vẫn tôn trọng pháp luật, trở thành những người ăn cắp, tạo  ra cuộc hôi của lớn nhất, hoặc tối thiểu là rộng rãi nhất, say sưa nhất  trong lịch sử. Các nhạc sĩ và các công ty đĩa hát đã chống lại, đệ đơn kiện  công ty của Fanning vi phạm bản quyền. Kết quả là dịch vụ này đã phải  đóng cửa vào mùa hè 2001, chỉ hai năm sau khi nó ra đời. 
Napster chết, nhưng việc kinh doanh cung cấp các dịch vụ điện toán  qua mạng Internet đã bùng nổ từ đó. Nhiều người trong chúng ta nay  đã dành nhiều thời gian hơn để dùng các dịch vụ Web mới, so với để  chạy các phần mềm ứng dụng truyền thống từ đĩa cứng máy tính của  mình. Chúng ta dựa vào lưới tiện ích mới để kết nối với bạn bè trong  các mạng xã hội như MySpace và Facebook, để làm các bộ sưu tập ảnh  trên các trang như Flickr và Photobucket, để tạo những cái tôi trong các  thế giới ảo như trò chơi World of Warcraft và Câu lạc bộ Chim cánh cụt  của Disney (Disney’s Club Penguin), để xem phim qua các dịch vụ như  YouTube và Joost, để viết blog với WordPress hoặc viết sổ ghi nhớ với  Google Docs, để theo dõi tin thời sự qua các trang tổng hợp tin như Rojo  và Bloglines, và để lưu trữ các tập tin của chúng ta trên các ổ đĩa cứng  ảo như Omnidrive và Box. 
Tất cả những dịch vụ này đều ám chỉ tới tiềm năng cách mạng của dịch  vụ tiện ích thông tin. Trong những năm kế tiếp, càng ngày càng nhiều 
28 
chuyển đổi lớn 
các công việc xử lý thông tin mà chúng ta cần đến, ở nhà và ở sở, sẽ được  thực hiện bởi các trung tâm dữ liệu lớn thiết lập ở xa trên Internet. Bản  chất hiệu quả kinh tế của điện toán sẽ thay đổi sâu sắc, giống như bản  chất hiệu quả kinh tế của năng lượng cơ học đã thay đổi trong những  năm đầu của thiên niên kỷ trước. Những hệ quả xã hội – cho cách chúng  ta sống, làm việc, học tập, giao tiếp, giải trí, và ngay cả suy nghĩ – cũng  hứa hẹn sẽ sâu sắc như vậy. Nếu máy phát điện đã là chiếc máy tạo thời  trang cho xã hội thế kỷ XX – thứ biến chúng ta trở thành như chúng ta  hôm nay – thì “máy phát” thông tin là chiếc máy tạo thời trang cho xã  hội mới của thế kỷ XXI. 
Lewis Mumford, trong cuốn sách The Pentagon of Power (Lầu Năm Góc  của Sức mạnh) năm 1970 của ông, tập hai của tác phẩm phê bình công  nghệ nổi tiếng The Myth of the Machine (Chuyện hoang đường về Cỗ  Máy), đã nêu lên một thí dụ hùng hồn phản lại ý tưởng rằng tiến bộ công  nghệ định dạng chiều hướng của lịch sử. “Xã hội Tây phương,” ông viết,  “đã chấp nhận vô điều kiện mệnh lệnh của công nghệ: không chỉ đơn  thuần nuôi dưỡng sáng kiến và liên tục tạo ra cái mới, mà còn phải đầu  hàng vô điều kiện những cái mới, không đếm xỉa tới những hệ quả nhân  sinh của chúng.” Thay vì bị công nghệ kiểm soát, Mumford ngụ ý, chúng  ta có khả năng kiểm soát công nghệ – chỉ chúng ta mới có khả năng hội  tụ đủ can đảm để áp đặt hết sức mạnh của ý chí tự do lên những chiếc  máy do chính chúng ta chế tạo ra. 
Đây là một ẩn ý có sức lôi cuốn, ẩn ý mà hầu hết chúng ta muốn chia  sẻ, nhưng lại bị nhầm lẫn. Lỗi của Mumford không phải ở chỗ khẳng  định rằng với tư cách một xã hội, chúng ta theo đuổi và nắm bắt các tiến  bộ công nghệ với rất ít tính bảo tồn. Điều này quả là khó tranh luận. Lỗi 
29 
Bánh xe của Burden 
của ông là ở chỗ gợi ý chúng ta có thể làm khác đi. Mệnh lệnh công nghệ,  thứ đã làm nên thế giới phương Tây, không phải xuất hiện một cách tùy  tiện, và sự đầu hàng của chúng ta trước nó cũng không diễn ra một cách  tùy tiện. Sự nuôi dưỡng sáng tạo và chào đón các công nghệ mới không  phải là những “bổn phận” mà chúng ta chọn để chấp nhận. Chúng là  hệ quả của các lực lượng kinh tế, đa phần nằm ngoài tầm kiểm soát của  chúng ta. Khi xét công nghệ một cách tách biệt, Mumford đã không phát  hiện được rằng con đường của tiến bộ công nghệ và những hệ quả nhân  sinh của nó được xác định không chỉ đơn giản bởi các tiến bộ trong khoa  học và kỹ thuật, mà quan trọng hơn còn bởi ảnh hưởng của công nghệ  tới giá thành của sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Một thị trường  cạnh tranh sẽ đảm bảo để các phương thức sản xuất và tiêu thụ hiệu quả  hơn thắng được các phương thức khác. Do vậy mà Henry Burden đã chế  tạo bánh xe của ông, và rồi mấy thập kỷ sau bánh xe đó lại bị để nằm rỉ.  Công nghệ định hình nền kinh tế, và nền kinh tế định hình xã hội. Đó là  một quá trình hỗn độn – khi kết hợp công nghệ, kinh tế, và bản sắc con  người, ta sẽ nhận được rất nhiều biến thể – nhưng nó có một logic không  lay chuyển được, kể cả trong trường hợp ta chỉ có thể truy xét ngược sau  khi nó đã xảy ra. Là những cá thể, chúng ta có thể nghi ngờ mệnh lệnh  công nghệ và thậm chí chống đối nó, nhưng những hành vi như vậy sẽ  luôn luôn là đơn độc và cuối cùng sẽ kết thúc vô hiệu. Trong một xã hội  bị chi phối bởi thỏa hiệp kinh tế, mệnh lệnh công nghệ chính xác là một  mệnh lệnh. Lựa chọn cá nhân có rất ít ý nghĩa. 
Chúng ta thấy tác động qua lại của công nghệ và kinh tế rõ nhất vào  những thời điểm hiếm hoi khi xuất hiện sự thay đổi trong cách thức cung  cấp một tài nguyên quan trọng, khi một sản phẩm hay dịch vụ thiết yếu  trước đây được cung cấp một cách cục bộ và nay bắt đầu được cung cấp 
30 
chuyển đổi lớn 
một cách tập trung, hoặc ngược lại. Văn minh tự nó xuất hiện khi sản  xuất thực phẩm, phi tập trung trong các xã hội nguyên thủy dựa vào  săn bắn, bắt đầu được tập trung hóa với sự ra đời của các kỹ thuật nông  nghiệp. Sự thay đổi trong cung cấp các tài nguyên quan trọng khác – như  nước, giao thông, chữ viết, và chính phủ – cũng làm thay đổi các thỏa  hiệp kinh tế định hình nên xã hội. Một trăm năm trước đây, chúng ta  đạt được thời khắc với các công nghệ mở rộng sức mạnh vật lý của con  người. Hôm nay, chúng ta cũng đang ở một thời khắc như vậy, với các  công nghệ mở rộng sức mạnh trí tuệ của chúng ta.  
Sự thay đổi trong cách cung cấp dịch vụ điện toán hứa hẹn sẽ tạo ra  những hệ quả vô cùng rộng lớn. Các chương trình phần mềm đã điều  khiển hoặc dàn xếp không chỉ công nghiệp và thương mại mà cả giải  trí, báo chí, giáo dục, lẫn chính trị và quốc phòng. Sóng xung kích do sự  dịch chuyển trong công nghệ điện toán gây ra do vậy sẽ dữ dội và có ảnh  hưởng sâu rộng. Chúng ta đã có thể quan sát thấy nhiều tác động ban đầu  ở khắp mọi nơi – trong dịch chuyển môi trường từ các tổ chức sang các  cá thể, trong cảm nhận ngày càng tăng của mọi người về sự gắn kết với  “các cộng đồng ảo” thay vì các cộng đồng thực, trong các tranh luận về sự  an toàn của thông tin cá nhân và giá trị của sự riêng tư, trong xuất khẩu  các công việc lao động tri thức, thậm chí ngay trong việc tập trung của  cải vào tay một phần nhỏ nhân dân. Tất cả những xu thế này hoặc nảy  sinh hoặc phát triển bởi sự tăng trưởng của điện toán dựa vào Internet.  Khi các dịch vụ tiện ích thông tin lớn mạnh về kích cỡ và độ phức tạp,  các thay đổi đối với doanh nghiệp và xã hội – và với chính chúng ta – sẽ  chỉ sâu rộng hơn. Và nhịp độ của nó sẽ chỉ gia tăng. 
Nhiều đặc tính định khuôn xã hội Hoa Kỳ thực chất chỉ mới xuất hiện  sau thời kỳ điện khí hóa. Sự nổi lên của tầng lớp trung lưu, sự mở rộng 
31 
Bánh xe của Burden 
của giáo dục công, sự đua nở của văn hóa đại chúng, sự di dân ra các  vùng ngoại ô, sự chuyển dịch từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh  tế dịch vụ – chẳng điều gì trong số này có thể xảy ra được nếu như không  có dòng điện giá rẻ được sản xuất bởi các công ty dịch vụ tiện ích. Ngày  nay, chúng ta xem những tiến bộ này là những đặc điểm cố định của xã  hội. Nhưng đó chỉ là một ảo tưởng. Chúng chỉ là những sản phẩm phụ  của một tập hợp đặc biệt các thỏa hiệp kinh tế, phản ánh một cách tổng  thể các công nghệ của thời đại. Chúng ta có thể sớm nhận thấy rằng  những gì đã được giả thiết là nền tảng lâu dài của xã hội lại chỉ là những  cấu trúc tạm thời, có thể bị từ bỏ như cỗ bánh xe của Henry Burden. 
32 
chuyển đổi lớn 
CHƯƠNG 2 
Nhà phát minh và viên thư ký 
Thomas Edison đã mỆt mỎi. Đó là mùa hè năm 1878, ông vừa  dành một năm khó nhọc để hoàn thiện và sau đó để cổ động cho phát  minh đáng kinh ngạc nhất của ông, chụp ảnh bằng giấy thiếc. Ông cần  được nghỉ ngơi sau thời gian hối hả liên tục với phòng thí nghiệm Menlo  Park, để có cơ hội thư giãn trước khi bắt tay vào một cuộc phiêu lưu công  nghệ vĩ đại mới. Khi được một nhóm bạn mời tham gia một cuộc cắm  trại và đi săn ở miền Tây nước Mỹ, ông nhanh chóng nhận lời. Chuyến đi  bắt đầu từ Rawlins, Wyoming, nơi cả nhóm được quan sát nhật thực, rồi  tiếp tục tiến về hướng tây qua Utah và Nevada, tới thung lũng Yosemite,  và San Francisco. 
Trong khi đi qua vùng núi Rockies, Edison đến thăm một khu mỏ bên  sông Platte. Khi thấy những người công nhân phải vật lộn với những  chiếc khoan tay, ông quay lại nói với một người đi cùng: “Tại sao năng  lượng của dòng sông ngay đó lại không thể được chuyển cho những  người công nhân này bằng điện?” Đó là một ý nghĩ táo bạo – điện lúc  đó còn được sản xuất với quy mô rất nhỏ – nhưng với Edison, táo bạo là  đồng nghĩa với cảm hứng. Khi quay trở về miền đông vào mùa thu, ông  đã bị cuốn hút vào ý tưởng cung cấp điện từ một trạm phát trung tâm  qua mạng lưới. Các mối quan tâm của ông đã không còn dừng lại ở việc 
33 
Nhà phát minh và viên thư ký 
cung cấp năng lượng cho những chiếc máy khoan của công nhân ở trong  rừng. Ông khẩn trương thành lập công ty Ánh sáng Điện Edison để chu  cấp kinh phí cho đề án, và ngày 20 tháng Mười, ông tuyên bố với báo chí  sẽ sớm cung cấp điện cho những ngôi nhà và văn phòng của thành phố  New York. Khi đưa ra một hứa hẹn lớn, tất cả những gì ông và nhóm cộng  sự Menlo Park phải làm là hình dung cách thức để hoàn tất nó ra sao. 
Khác với những nhà phát minh ít danh tiếng, Edison không chỉ chế tạo  các sản phẩm riêng lẻ, ông chế tạo toàn bộ hệ thống. Trước tiên ông hình  dung cái tổng thể, rồi chế tạo các bộ phận cần thiết, đảm bảo để chúng  khớp được trơn tru với nhau. “Không chỉ cần các bóng đèn phải thắp sáng  và các máy phải sinh ra dòng điện”, sau này ông viết về kế hoạch cung  cấp điện như một dịch vụ tiện ích, “mà các bóng đèn còn phải thích nghi  với dòng điện của các máy phát, các máy phát phải được chế tạo để cho  ra đặc trưng dòng điện cần thiết cho những chiếc bóng đèn. Và tương  tự tất cả các bộ phận của hệ thống phải được chế tạo trong tương quan  với các bộ phận khác, bởi, theo một nghĩa nào đó, tất cả các bộ phận sẽ  cấu thành một máy.” Thật may mắn cho Edison, ông có một mô hình tốt  trong tay. Các hệ thống đèn khí, phát minh vào đầu thế kỷ, đã được lắp  đặt ở nhiều thành phố, mang khí tự nhiên từ một nhà máy trung tâm đến  các ngôi nhà để làm nhiên liệu cho những chiếc đèn. Ánh sáng, trước đây  được cung cấp bởi những cây nến đơn giản và những cây đèn dầu trong  nhiều thế kỷ, đã trở thành những dịch vụ tiện ích tập trung. Thách thức  cho Edison là việc thay thế các hệ thống đèn khí bằng các hệ thống điện.  
Về lý thuyết, để thắp sáng thì điện có nhiều ưu thế hơn so với khí đốt.  Nó dễ được kiểm soát hơn, và bởi nó thắp sáng mà không cần ngọn lửa,  cho nên sạch hơn và an toàn hơn. Đèn khí nguy hiểm hơn và bẩn hơn.  Nó tiêu thụ oxy trong phòng, thải khói độc, làm đen tường và làm bẩn  rèm cửa, đốt nóng không khí, và có thể gây các vụ nổ lớn chết người rất 
34 
chuyển đổi lớn 
đáng sợ. Trong khi đèn khí ban đầu được “ca ngợi là sạch và hiện thân  cho sự tinh khiết” như Wolfgang Schivelbusch đã viết trong Disenchanted  Night (Đêm giải mê) về các hệ thống đèn khí, những hạn chế càng bị bộc  lộ rõ rệt khi nó được sử dụng rộng rãi hơn. Mọi người bắt đầu xem nó  là “bẩn và mất vệ sinh” – một thứ chẳng đặng đừng. Bản thân Edison đã  loại bỏ đèn khí vì xem nó như một sự “mọi rợ và phí phạm”. Ông gọi nó  là “ánh sáng của những thời kỳ đen tối.” 
Mặc dù sự không hài lòng với các đèn khí gia tăng, các giới hạn về công  nghệ đã hạn chế việc dùng điện để thắp sáng vào thời điểm Edison bắt  đầu các thí nghiệm của ông. Thêm nữa, bóng đèn nhiệt hiện đại vẫn chưa  được phát minh. Ánh sáng điện duy nhất lúc đó là đèn huỳnh quang, làm  việc theo nguyên lý phát một dòng điện trần qua khoảng cách giữa hai  điện cực bằng sắt. Đèn huỳnh quang cháy với độ sáng mạnh và tỏa nóng  tới mức không thể đặt chúng trong các phòng hay bất kỳ không gian kín  nào. Chúng chỉ được giới hạn dùng cho các khu công cộng lớn. Một vấn  đề nữa là không có cách gì để cung cấp điện cho chúng từ một khu vực  tập trung. Mỗi đèn huỳnh quang cần một bộ pin riêng. “Giống như nến  và đèn dầu,” Schivelbusch giải thích, “đèn huỳnh quang được vận hành  theo nguyên lý tự cung, tiền công nghiệp.” Đèn khí dù kém cỏi ra sao đi  nữa thì đèn điện vẫn chưa phải là một lựa chọn. 
Bởi vậy, để chế tạo “một máy,” Edison đã phải theo đuổi các đột phá  công nghệ trong từng thành phần chính của hệ thống. Ông phải đi tiên  phong trong việc sản xuất điện khối lượng lớn một cách hiệu quả, trong  việc truyền tải điện an toàn tới các ngôi nhà và công sở, trong việc đo  lượng điện mỗi khách hàng sử dụng, và cuối cùng, trong việc biến dòng  điện thành nguồn thắp sáng có thể kiểm soát được, thích hợp với các  không gian sống bình thường. Và ông phải đảm bảo có thể bán ánh sáng  điện với cùng giá như đèn khí mà vẫn có lãi.
35 
Nhà phát minh và viên thư ký 
Đó là một thách thức dễ làm nản lòng, nhưng rồi ông và các cộng sự  tại Menlo Park đã thực hiện những công việc đó với tốc độ đáng khâm  phục. Trong vòng hai năm, họ đã phát triển được tất cả các thành phần  chính yếu của hệ thống. Họ đã phát minh ra bóng đèn Edison nổi tiếng,  bọc một dây tóc mỏng bằng đồng bên trong một bóng thủy tinh chân  không nhỏ để tạo “một quả cầu ánh sáng mặt trời nhỏ, một chiếc đèn  Aladin thật sự” như một nhà báo đã mô tả rất thi vị. Họ thiết kế một  máy phát mới rất mạnh, gấp bốn lần máy phát lớn nhất trước đây. (Họ  gọi máy phát là Jumbo, theo tên của chú voi xiếc nổi tiếng thời đó). Họ  hoàn thiện một mạch song song trên một đường dây đơn giản, cho phép  nhiều bóng đèn hoạt động với các công tắc điều khiển riêng biệt. Và họ  chế tạo một đồng hồ có thể theo dõi lượng điện khách hàng sử dụng.  Năm 1881, Edison tới Paris để trưng bày một mô hình nhỏ có thể hoạt  động được của hệ thống tại cuộc Triển lãm Điện Quốc tế, tổ chức tại  Champs-Elisées. Ông cũng công bố thiết kế cho trạm phát điện đầu tiên  trên thế giới mà ông sẽ xây dựng trong hai nhà kho trên phố Pearl ở phía  nam Manhattan. 
Các kế hoạch cho trạm phát phố Pearl là đầy tham vọng. Bốn nồi hơi  to đun bằng than sẽ tạo áp lực hơi nước để chạy sáu động cơ hơi nước,  mỗi chiếc có công suất 125 mã lực. Các động cơ này lại cấp lực để chạy  sáu máy phát Jumbo của Edison. Điện được truyền qua một lưới gồm  các cáp ngầm tới các khu nhà trong phạm vi một dặm vuông xung quanh  trạm phát. Mỗi khu nhà được trang bị một đồng hồ đo. Công việc xây  dựng được bắt đầu ngay sau Triển lãm Paris, và Edison thường làm việc  qua đêm để đôn đốc tiến độ. Hơn một năm sau, trạm phát được dựng  lên, hàng dặm cáp được lắp đặt. Đúng 3 giờ chiều ngày 4 tháng Chín  năm 1882, Edison ra lệnh cho kỹ sư trưởng John Lieb đóng cầu giao tại  trạm phố Pearl, cấp đi dòng điện sinh ra từ một trong những chiếc máy 
36 
chuyển đổi lớn 
phát. Như báo New York Herald viết ngày hôm sau, “trong nháy mắt,  khu vực bao bọc bởi các phố Spruce, Wall, Nasau và Pearl sáng rực lên.”  Tiện ích điện đã tới. 
Nhưng điều hành một dịch vụ tiện ích không phải là việc Edison thực  sự quan tâm. Dưới mắt ông, trạm phát phố Pearl đơn giản chỉ là một bằng  chứng cho thấy hệ thống ánh sáng điện như thiết kế đã hoạt động. Loại  hình kinh doanh mà Edison thật sự quan tâm là lập mạng lưới hoặc cấp  phép sử dụng hệ thống đã sáng chế cho các nhà sản xuất rồi bán cho họ  những thành phần cần thiết để lắp đặt và vận hành các nhà máy của họ.  Ông tổ chức ra một đế chế để theo đuổi tham vọng kinh doanh của mình.  Công ty Ánh sáng Edison bán sáng chế hệ thống điện đi khắp nước Mỹ,  trong khi Công ty Đại lục Edison và các chi nhánh của nó tiến hành công  việc tương tự ở châu Âu. Xí nghiệp Đèn Edison sản xuất bóng đèn điện.  Xí nghiệp Máy Edison chế tạo các máy phát. Công ty Ống điện Edison  cung cấp dây điện. Một công ty khác nữa bán các loại phụ tùng khác nhau.  Cùng với sự tăng nhu cầu về các hệ thống điện Edison, đế chế bạch tuộc  của ông cũng phát triển rất nhanh. 
Nhưng thành công của kẻ phát minh cũng lại làm ông mù quáng.  Mặc dù có tầm nhìn thiên tài, ông đã không vượt được lên khỏi việc  cấp phép sử dụng và kinh doanh các thành phần cho hệ thống điện. Ban  đầu ông cho rằng các dịch vụ tiện ích điện chỉ đơn giản là một sự thay  thế hấp dẫn hơn cho các tiện ích khí đốt: chúng sẽ là những nhà máy  đô thị, tương đối nhỏ, phục vụ nhu cầu ánh sáng của các công sở và  gia đình ở lân cận. Quả thật, vì các hệ thống của Edison chạy với dòng  điện một chiều, không truyền tải được xa, nên chúng không thể phục  vụ được các khu vực rộng hơn một dặm vuông. Khi các ứng dụng của  điện mở rộng tới các nhà máy và các hệ thống giao thông, Edison vẫn  trung thành với niềm tin vào việc sản xuất điện một chiều, quy mô nhỏ. 
37 
Nhà phát minh và viên thư ký 
Ông cho rằng các hãng công nghiệp sẽ xây dựng các xưởng riêng với  trạm phát và những thành phần hệ thống điện của ông. Niềm kiêu hãnh  của Edison về cái ông xem là sự hoàn chỉnh của hệ thống đã củng cố  niềm tin này, và các mối quan tâm về kinh tế của ông cũng vậy. Dù sao,  càng nhiều các hệ thống nhỏ được lắp đặt, càng nhiều các trạm trung  tâm hay các trạm riêng, thì ông càng có thể bán được nhiều sản phẩm.  Edison đã phát minh ra dịch vụ tiện ích điện đầu tiên, nhưng ông lại  không hình dung ra được bước logic kế tiếp: sự hợp nhất sản xuất điện  vào các nhà máy năng lượng khổng lồ và sự thiết lập lưới quốc gia để  phân phối năng lượng điện. Hệ thống mà Edison đã hình dung, và sau  đó biến thành hiện thực, cuối cùng đã trở thành chiếc cũi giam chính  tầm nhìn của ông. 
Phải cần một người hoàn toàn khác với một tầm nhìn hoàn toàn khác  để làm trọn lời hứa hẹn của dịch vụ tiện ích điện. Phải cần một người  tài giỏi về hoàn thiện các hiệu quả kinh tế của một hệ thống công nghệ  giống như Edison tài giỏi về hoàn thiện tự chính công nghệ. 
Vào buổi tối ngày 29 tháng Hai năm 1881, chiếc tàu biển City of Chester nhập cảng New York đem theo viên tốc ký người Anh, hai mươi mốt  tuổi, mảnh khảnh và cận thị, có tên Samuel Insull. Anh bị say sóng gần  suốt chuyến đi, nhưng không hề nản chí khi bước xuống cầu tàu. Anh  biết mình sắp thực hiện được giấc mơ: gặp nhà phát minh huyền thoại  Thomas Edison.  
Insull là một thanh niên nghiêm túc và đầy nghị lực. Sinh ra trong một  gia đình rất chừng mực, anh đã dành tuổi thơ để nghiền ngẫm những  cuốn sách như Lives of the Great Engineers (Cuộc đời của những kỹ sư vĩ  đại) và Self-Help (Tự lực). Ngay từ đầu anh đã chứng tỏ, như người viết 
38 
chuyển đổi lớn 
tiểu sử của anh Forest McDonald mô tả, “có một bản chất khác thường.  Anh luôn dậy sớm, đột ngột, đầy năng lượng, làm việc suốt ngày và tới  tận đêm khuya.” Giống như Edison, Insull là người làm việc không biết  mệt mỏi, thường độc tưởng – một máy phát bằng xương bằng thịt. Anh  có chung với Edison thiên tài về tư duy hệ thống, tuy nhiên kinh doanh  chứ không phải các hệ thống máy móc đã cuốn hút đam mê của Insull.  “Từ rất sớm,” McDonald viết, “anh học được cách nhìn vào cốt lõi của  các mối quan hệ giữa các sự vật, giữa con người với sự vật, và giữa con  người với con người, và hiểu thấu những nguyên lý cơ bản tới mức có  thể biết cách thức thay đổi chúng và làm cho chúng tương tác tốt hơn.”  Mặc dù xem sự trừu tượng của công việc học hành là buồn tẻ, anh có  “khuynh hướng thiên bẩm về định lượng và phân tích số, những thứ theo  anh nhìn nhận là cách thức của nhà kế toán xem xét các sự vật.” 
Khi Insull mười bốn tuổi, anh bỏ học để nhận một chân chạy văn  phòng tại một nhà bán đấu giá ở London. Anh học tốc ký từ một đồng  nghiệp và nhận một công việc thứ hai, làm đêm để ghi tốc ký cho biên  tập viên của một tờ báo. Trong thời gian rảnh rỗi, anh tự học kế toán, đi  xem ca kịch, và đọc rất nhiều, nhét đủ thứ vào bộ nhớ mênh mông của  mình. Năm 1878, khi vừa tròn mười chín tuổi, anh tình cờ thấy một bài  tạp chí với một bản vẽ của Thomas Edison. Đó là một sự kiện, như sau  này Insull nhớ lại, đã làm thay đổi cuộc đời của anh: 
Một buổi tối khi đang đi xuống ga điện ngầm ở London trên đường  từ nhà tới sở, nơi tôi làm việc ghi tốc ký cho một biên tập viên nổi  tiếng ở London, tôi tình cờ mua một tờ nguyệt san Scribner. Trên  báo có một bản vẽ phác thảo của Edison trong phòng thí nghiệm ở  Menlo Park, nơi ông tiến hành các thí nghiệm ban đầu về ánh sáng  điện… Tôi viết cho hội khuyến học, nơi tôi là hội viên, một bài với 
39 
Nhà phát minh và viên thư ký 
chủ đề “Nhà phát minh người Mỹ Thomas Alva Edison.” Thật không  ngờ, trong khi tìm kiếm thông tin cho bài viết thì sự nghiệp của tôi  đã được định đoạt ở nơi cách xa hàng ngàn dặm bởi cái tên của nhà  phát minh, người sau này đã trở thành một trong những bạn bè thân  cận nhất mà tôi từng có. 
Không lâu sau khi hoàn tất bài viết, Insull nhận việc làm thư ký riêng  cho một chủ ngân hàng nổi tiếng tên George Gouraud. Đó chỉ là một sự đổi  việc ngẫu nhiên. Gouraud lại là người trông coi các hoạt động kinh doanh  của Edison ở châu Âu. Qua người sếp mới, Insull gặp và kết bạn với người  kỹ sư trưởng của Edison tên là Edward Johnson. Johnson rất ấn tượng về  trí thông minh và nghị lực của Insull, cũng như những hiểu biết rất tường  tận của anh về công việc của Edison, nên ông mau chóng đề nghị Edison  đem chàng thanh niên này sang Hoa Kỳ để thuê anh làm thư ký riêng. 
Khi Insull bước ra khỏi con tàu City of Chester thì Johnson đã đứng  đợi để đưa anh về các văn phòng Manhattan của công ty Ánh sáng Điện  Edison. Tại đó, Insull đã được giới thiệu với một Edison bận rộn với bộ  râu chưa cạo, và ngay lập tức được ông giao việc rà soát lại các thỏa thuận  tài chính phức tạp và thiếu vững chắc của công ty. Edison cùng Insull làm  việc suốt đêm, và tới rạng đông, Insull đã đưa ra được một kế hoạch sáng  tạo để vay thêm tiền bằng cách dùng gói bằng sáng chế tại châu Âu của  Edison làm tài sản thế chấp. “Từ thời điểm đó,” McDonald viết, “Insull  trở thành người quản lý tài chính của Edison.” Thật ra còn nhiều hơn  thế nữa – anh là viên thư ký cho các tác phẩm của nhà phát minh vĩ đại. 
Insull đã đóng vai trò quan trọng đảm bảo cho những hoạt động đa  dạng và luôn thiếu kinh phí của Edison được trôi chảy khi nhu cầu về  điện ngày càng tăng. Anh phụ trách các bộ phận khác nhau của đế chế  Edison, tổ chức lại các chức năng tiếp thị và bán hàng, đi khắp nơi để đẩy  mạnh công việc xây dựng các trạm điện trung tâm, và đàm phán các hợp 
40 
chuyển đổi lớn 
đồng với ngân hàng và các nhà tài chính. Năm 1889, anh trông nom việc  hợp nhất các công ty của Edison thành General Electric Edison, và ba  năm sau lại đóng vai trò chính trong việc hợp nhất nó với đối thủ cạnh  tranh lớn nhất, Thomson-Houston, để thành General Electric. Mặc dù  mới chỉ ở tuổi ba mươi hai và đã trở thành một trong những người quản  lý cao nhất của một trong những công ty thanh thế nhất thế giới, Insull  không hài lòng với vị trí của mình. Anh đã nghiên cứu mọi khía cạnh  của công việc kinh doanh năng lượng, từ công nghệ, tài chính tới pháp  luật và các quy định, và anh xứng đáng để trở thành thủ lĩnh. Anh không  mấy thích làm một công chức trong một tổ chức lớn và ngày càng phức  tạp, bất kể ở thang bậc cao thế nào và được hưởng lương cao bao nhiêu. 
Hơn nữa, suy nghĩ của anh về công nghiệp điện đã khác biệt với suy  nghĩ của người thầy anh. Anh tin rằng dù sao, việc vận hành các dịch  vụ tiện ích chính là loại hình kinh doanh quan trọng hơn nhiều so với  sản xuất các thành phần của hệ thống. Anh theo sát các tiến bộ nhanh  chóng trong sản xuất, truyền tải và sử dụng điện, và bắt đầu nhìn thấy  sau hệ thống của Edison là mô hình và vai trò hoàn toàn mới mẻ của  các trạm trung tâm. Mùa xuân năm 1892, Insull được đề bạt làm chủ  tịch Công ty Edison Chicago, một nhà máy nhỏ và độc lập sản xuất điện  cho 5.000 khách hàng. Ngay lập tức anh chấp nhận. Việc di chuyển kéo  theo cắt giảm lương đáng kể, từ 36.000 xuống 12.000 đôla, nhưng lương  bổng không phải là thứ hệ trọng với anh. Anh hướng tới một chân trời  xa hơn. Trong bữa tối chia tay ở New York, anh đứng thẳng, và với ánh  mắt bốc lửa, nói Edison Chicago sẽ lớn mạnh để vượt General Electric.  Lời dự đoán, McDonald viết, “là quá gượng gạo tới mức buồn cười – chỉ  có điều khi Samuel Insull nói như vậy thì đã không một ai cười.”  
Điều Insull nhận thấy, hay tối thiểu cảm thấy, là điện được cung cấp  như một dịch vụ tiện tích sẽ có khả năng phục vụ các nhu cầu phong phú 
41 
Nhà phát minh và viên thư ký 
và rộng lớn hơn nhiều so với trước đây. Điện có thể trở thành một công  nghệ phổ dụng đích thực, được các doanh nghiệp và gia đình sử dụng để  chạy đủ các loại máy móc, thiết bị. Nhưng để điện và các dịch vụ tiện ích  điện đáp ứng được sứ mạng của chúng thì cách sản xuất, phân phối, và  tiêu thụ năng lượng sẽ cần phải thay đổi. Như Edison đã phải vượt qua  nhiều thách thức để đan kết nên hệ thống dịch vụ tiện ích của ông, Insull  cũng phải làm cùng việc tương tự để tạo lại hệ thống như vậy. Thách thức  lớn nhất là phải thuyết phục các doanh nghiệp công nghiệp dừng việc  tự sản xuất năng lượng riêng cho họ, và thay vào đó là mua năng lượng  như một dịch vụ từ các nhà máy trung tâm. Đây chính là phép thử các  năng lực của Insull trong tư cách một nhà doanh nghiệp.  
Từ khi con người bắt đầu dùng máy móc, họ không có lựa chọn nào  khác nên phải tự sản xuất năng lượng cần thiết để chạy chúng. Nguồn  năng lượng nguyên thủy là cơ bắp thuần túy. Như Louis C. Hunter viết  trong cuốn History of Industrial Power in the United States (Lịch sử Năng  lượng Công nghiệp ở Hoa Kỳ), “Trong hàng ngàn năm, cơ bắp của con  người và súc vật đã cung cấp chuyển động cần thiết cho những chiếc  máy sơ khai – cối xay, mâm quay bàn gốm, máy khoan, ống bễ lò rèn,  hay bơm tay.” Ngay cả khi máy móc đã phức tạp hơn, thường cơ bắp vẫn  là thứ dùng để vận hành chúng. Dùng sức ngựa kéo là một mốc tiến bộ  trong các công việc như xay lúa, cưa cắt gỗ, ép kiện bông, khoan hầm  và đào mỏ. “Vô số người và súc vật,” Hunter viết, “đã đóng góp đa phần  năng lượng cho các xưởng máy, những thứ tạo nên phần lớn ngành công  nghiệp chế tạo thời kỳ trước 1900.” 
Nhưng dù năng lượng cơ bắp là đủ cho các xưởng máy nhỏ thì chúng  không đáp ứng được các xưởng máy lớn hơn. Khi sản xuất hàng hóa bắt 
42 
chuyển đổi lớn 
đầu tập trung thành các nhà máy, các nhà sản xuất đòi hỏi phải có nguồn  cung cấp năng lượng lớn, ổn định và kiểm soát được để chạy máy móc  của họ. Nguồn năng lượng công nghiệp lớn đầu tiên là dòng nước chảy.  Các nhà sản xuất đã xây dựng nhà máy của họ bên cạnh các dòng suối và  các con sông, tận dụng lực của dòng chảy với các bánh xe nước và biến  chúng thành năng lượng cơ học. Dùng nước như một nguồn năng lượng  đã có lịch sử lâu đời, từ trước Cách mạng Công nghiệp. Người Hy Lạp và  La Mã đã sử dụng bánh xe nước, và những người nông dân Âu châu đã  chế tạo những chiếc cối xay bột thô sơ chạy bằng sức nước từ hàng thế  kỷ nay. Khi vua William the Conqueror tiến hành khảo sát nước Anh  năm 1066 cho cuốn Domesday (Sách Điền thổ), ông đã tìm thấy hàng  ngàn cối xay như vậy ở khắp các vùng nông thôn. 
Trong những năm 1800, các hệ thống dùng sức nước đã phức tạp hơn  nhiều, chúng được phát triển để thích nghi với các nhà máy lớn hơn.  Các kỹ sư thủy lực đã chế tạo được những bánh xe nước hiệu quả hơn,  đưa ra hàng loạt những cải tiến về thiết kế. Thêm vào việc hoàn thiện  các bánh xe truyền thống, như cỗ bánh xe khổng lồ của Henry Burden,  họ đã phát triển các tuabin thủy lực – những chiếc bánh xe rất mạnh  trông giống như những chiếc quạt, đã nhanh chóng được sử rộng rộng  rãi. Nhiều tiến bộ đã đạt được trong thiết kế đập nước, cửa cống, và kênh  đào để điều hòa dòng nước với mức độ chính xác cần thiết nhằm vận  hành những máy móc phức tạp và tinh vi. 
Trước kia, dùng sức nước đã từng là việc giản đơn. Một người chủ cối  xay hợp đồng với một thợ mộc địa phương để làm một bánh xe gỗ với  một trục truyền chuyển động, và đặt bánh xe vào một dòng nước chảy  xiết. Bây giờ, việc tạo ra năng lượng đã phức tạp và tốn kém – và mỗi  ngày lại càng phức tạp và tốn kém hơn. Những người chủ nhà máy hoặc  phải học về thủy lực hoặc phải thuê các chuyên gia hiểu biết về khoa học. 
43 
Nhà phát minh và viên thư ký 
Họ phải đầu tư vốn đáng kể vào việc xây dựng và bảo trì các hệ thống  năng lượng sức nước, và họ phải ra những quyết định phức tạp về việc  mua bánh xe nước nào và dùng thiết kế nào để điều khiển các luồng  nước. Lựa chọn về cung cấp năng lượng có thể làm một công ty hoặc  thành đạt hoặc đổ bể. 
Bức tranh càng trở nên phức tạp hơn khi xuất hiện thêm công nghệ  quan trọng thứ hai về sản sinh năng lượng là động cơ hơi nước. Được  phát minh trong thế kỷ XVIII, động cơ hơi nước chuyển nhiệt lượng  thành năng lượng cơ học bằng cách đun sôi nước, tạo ra hơi để đẩy  một pittông hoặc quay một tuabin. Ưu điểm lớn của động cơ hơi nước  là chúng không cần đòi hỏi các dòng nước chảy – chúng giải phóng các  nhà sản xuất khỏi việc phải xây dựng nhà máy bên cạnh các con suối và  các dòng sông. Nhược điểm lớn của động cơ hơi nước là chi phí để vận  hành chúng đắt hơn so với để vận hành các bánh xe nước. Chúng đòi  hỏi nhiều nhiên liệu, dạng than hoặc củi, để đun nước. 
Cũng như các hệ thống thủy lực, công nghệ hơi nước phát triển nhanh,  nên các nhà phát minh và các kỹ sư trên khắp thế giới cạnh tranh nhau  để chế tạo ra các động cơ hiệu quả và tin cậy hơn. Các tiến bộ trong việc  sản sinh năng lượng đã tương xứng với các tiến bộ trong việc truyền tải  năng lượng. Với sản xuất công nghiệp, đã không còn đủ nếu chỉ nối một  bánh xe nước hay một động cơ hơi nước với một máy đơn lẻ như một  cối xay. Năng lượng cần được phân bổ cho nhiều thiết bị khác nhau trải  khắp xí nghiệp hoặc thậm chí trong nhiều tòa nhà. Việc này đòi hỏi phải  chế tạo các “máy truyền lực” – tổng thể các bánh răng, trục, dây curoa,  và ròng rọc để truyền và điều hòa lực. 
Cùng với việc mở rộng các nhà máy và các quá trình sản xuất phức tạp  hơn, các máy truyền lực cũng tăng đáng kể về độ tinh vi. Các chủ nhà  máy phải thuê kiến trúc sư để thiết kế các hệ thống và thuê các kỹ thuật 
44 
chuyển đổi lớn 
viên lành nghề để bảo hành chúng. Một khách thăm quan một nhà máy  ở Anh vào những năm 1870 kể lại rằng bên trong “trông rất lộn xộn,”  với “hàng đống các ròng rọc và dây đai chạy theo đủ mọi hướng; hiển  nhiên, dưới con mắt không chuyên, nó là một mớ hỗn độn vô vọng.”  Ngoài chi phí cao để chế tạo, dễ hỏng hóc, và hay gây tai nạn, các máy  truyền lực còn kém hiệu quả. Ròng rọc và dây curoa thường tiêu hao  tới một phần ba hoặc nhiều hơn nữa năng lượng do bánh xe nước hoặc  động cơ sản sinh ra. 
Đó là thế giới mà máy phát điện đã thâm nhập với tư cách là nguồn  tạo năng lượng công nghiệp lớn thứ ba. Nó không đòi hỏi máy truyền  lực cồng kềnh. Bởi mỗi máy có thể nhận năng lượng một cách riêng biệt,  nên các chủ nhà máy có thêm độ linh hoạt để thiết kế quy trình lao động  – và mở rộng các hoạt động của họ. Họ không còn bị ràng buộc bởi một  đống dây curoa và ròng rọc rất khó thay đổi. Điện cũng sạch hơn và dễ  điều khiển hơn là nước hay lực hơi nước. 
Tuy nhiên, chấp nhận năng lượng điện lại là một điều cấm kỵ. Các nhà  sản xuất không những phải hy sinh hầu hết các khoản đầu tư trước đây  vào các hệ thống sức nước và hơi nước cùng các máy truyền lực đi kèm,  mà còn phải lắp đặt máy phát điện, đi đường dây khắp xí nghiệp, và điều  làm nản lòng hơn cả là phải thay đổi máy móc để chúng có thể chạy bằng  các động cơ điện. Việc này tốn kém, và bởi năng lượng điện còn mới mẻ  và chưa được kiểm nghiệm nên cũng mạo hiểm. Lúc đầu, sự chuyển đổi đã  xảy ra khá chậm chạp. Năm 1900, một thập kỷ sau khi các hệ thống điện  đã trở thành một chọn lựa thực tế cho các nhà sản xuất, điện chỉ chiếm  ít hơn 5 phần trăm tổng năng lượng sử dụng trong các nhà máy. Nhưng  những tiến bộ công nghệ của các nhà cung cấp như General Electric và  Westinghouse đã làm cho các hệ thống điện ngày càng rẻ hơn và đáng tin  cậy hơn, và những chương trình tiếp thị tích cực cũng thúc đẩy sự chấp 
45 
Nhà phát minh và viên thư ký 
nhận sử dụng công nghệ điện. Góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi  còn có việc gia tăng số lượng các kỹ sư điện lành nghề, họ là những người  cung cấp kinh nghiệm và hiểu biết cần thiết để lắp đặt và điều hành các  hệ thống mới. Tới năm 1905, một nhà báo của tạp chí Engineering đã thấy  đủ tự tin để tuyên bố “bây giờ không ai còn có thể nghĩ tới việc xây dựng  một xí nghiệp mới mà lại không sử dụng năng lượng điện.” Tóm lại, năng  lượng điện đã từ thứ ngoại lai trở thành thứ thông dụng. 
Nhưng có một thứ không đổi. Các nhà máy vẫn tiếp tục xây cất các  hệ thống cung cấp năng lượng riêng và ngay tại trụ sở của họ. Rất ít nhà  sản xuất xem xét tới việc mua điện từ các trạm phát trung tâm nhỏ, như  trạm phát phố Pearl của Edison, mà nay đã mọc lên khắp cả nước. Được  thiết kế để cung cấp ánh sáng cho các gia đình và cửa hàng địa phương,  các trạm phát trung tâm không đủ kích cỡ cũng như năng lực để phục vụ  những nhu cầu của các nhà máy lớn. Và các chủ nhà máy, tới nay luôn tự  cung cấp năng lượng cho mình, đã không thích thú trao một chức năng  thiết yếu như vậy cho đối tác bên ngoài. Họ biết chỉ một chút sai sót trong  việc cung cấp năng lượng đã có thể làm cho hoạt động của họ bị ngừng  trệ – và nhiều sai sót như vậy có thể dẫn tới sự phá sản. “Trong những  năm đầu,” như Louis Hunter mô tả, “điều giả định vẫn là một nhà sản  xuất khi điện khí hóa máy móc thì sẽ dùng trạm phát điện riêng của ông  ta.” Điều giả định này là rất rõ trong thống kê. Khi thế kỷ mới bắt đầu,  một cuộc điều tra của Cục Điều tra Dân số cho thấy đã có 50.000 trạm  phát điện riêng, nhiều hơn hẳn so với con số 3.600 trạm phát trung tâm. 
Cùng với sự bùng nổ của các hệ thống riêng là sự mở rộng nhanh  chóng của công nghiệp cung cấp các thành phần và kinh nghiệm cần  thiết để chế tạo và vận hành chúng. General Electric và Westinghouse  trở thành những công ty khổng lồ được vây quanh bởi các nhà cung cấp  nhỏ hơn. Các nhà cung cấp và các ngân hàng tài trợ rất quan tâm tới 
46 
chuyển đổi lớn 
việc tiếp tục phổ biến các hệ thống phát riêng. Vào thời điểm Insull nhận  chức chủ tịch Chicago Edison, ý tưởng một chủ nhà máy cần sản xuất  năng lượng riêng cho mình đã ăn sâu không chỉ như một di sản của bản  thân giới sản xuất mà còn của chính ngành công nghiệp điện đang lớn  mạnh, phục vụ các nhà sản xuất và thu lợi khủng khiếp từ các doanh  nghiệp của họ. Và người hùng, đồng thời là ông chủ cũ của Insull đang  đứng ngay chính giữa trung tâm của ngành công nghiệp này. 
Ngay khi các chủ xí nghiệp khẩn trương xây cất và mở rộng các trạm  phát điện riêng của họ thì hai công nghệ mới đã xuất hiện, biến các trạm  phát này trở thành những thứ lỗi thời. Đầu những năm 1880, kỹ sư người  Anh Charles Parson đã sáng chế ra tuabin hơi nước rất mạnh, có thể sản  xuất điện hiệu quả hơn nhiều so với các động cơ hơi nước truyền thống  dùng pittông. Cũng khoảng thời gian đó, nhà sáng chế người Serbie  Nikola Tesla đã hoàn thiện một hệ thống để phân phối điện dòng xoay  chiều thay vì dòng một chiều. Hai đột phá này đã thay đổi một cách cơ  bản hiệu quả kinh tế của quy trình cung cấp năng lượng. Tuabin hơi  nước cho phép các trạm phát trung tâm đạt được hiệu quả kinh tế nhờ  quy mô cao hơn rất nhiều trong sản xuất điện và do đó hạ giá thành của  từng kilowatt. Dòng điện xoay chiều cho phép được truyền tải trên cự ly  xa hơn và phục vụ diện rộng hơn các khách hàng. 
Ban đầu, các hệ thống điện xoay chiều đã vấp phải những chống đối  đáng kể. Bởi hoạt động ở điện thế cao hơn nhiều so với các hệ thống hiện  hành, chúng khuấy lên trong công chúng sự sợ hãi về độ an toàn. Edison,  vẫn bị thuyết phục bởi tính vượt trội của hệ thống điện một chiều của  ông, đã cố gắng tung ra chiến dịch quảng cáo nhằm hạ bệ các hệ thống  điện xoay chiều có điện thế cao. Hợp lực với nhà công nghệ điện Harold  Brown, Edison đã giúp dàn dựng một loạt màn hành hình súc vật, bao 
47 
Nhà phát minh và viên thư ký 
gồm chó, bò, và ngựa, dùng dòng điện từ những máy phát xoay chiều.  Ông còn thuyết phục chính quyền New York mua một máy phát điện  xoay chiều – của Westinghouse, hãng đã mua bằng sáng chế của Tesla  và trở thành người quảng bá lớn nhất cho các hệ thống điện xoay chiều  – để dùng vào việc hành hình các tử tù. Ngày 6 tháng Tám năm 1890,  William Kemmler, kẻ giết người bằng rìu, đã trở thành phạm nhân đầu  tiên bị hành hình với ghế điện của bang New York. Dù tít lớn trên đầu  trang báo ngày hôm sau – “Kemmler đã bị Westinghouse xử” – có làm  hài lòng Edison, thì cố gắng gây hoang mang lo sợ của ông vẫn thất bại  trong việc ngăn chặn sự phổ biến của các hệ thống điện xoay chiều ưu  thế hơn nhiều về công nghệ. 
Trong khi Edison cố gắng một cách vô ích để trì hoãn tiến bộ thì Insull  lại hăng hái đầu tư vào đó. Ông là người đầu tiên thấu hiểu rằng với các  công nghệ mới, việc cung cấp điện sẽ có thể được hợp nhất trong các  trạm phát tập trung khổng lồ, có thể đáp ứng được nhu cầu của cả những  khách hàng công nghiệp lớn nhất. Hơn nữa, ưu thế hiệu quả kinh tế nhờ  quy mô lớn, kết hợp với khả năng khai thác năng lực hiệu quả hơn do  phục vụ nhiều khách hàng khác nhau, sẽ cho phép các dịch vụ tiện ích  cung cấp được năng lượng tới các nhà máy với giá rẻ hơn so với những  gì các nhà sản xuất có thể đạt được với các máy phát riêng của họ. Đây  là một vòng tuần hoàn lý thú: khi dịch vụ tiện ích phục vụ nhiều khách  hàng hơn, nó trở nên hiệu quả hơn, cho phép giảm giá hơn, và qua đó lại  thu hút nhiều khách hàng hơn. “Cơ hội kinh doanh lớn về năng lượng đã  đến ngay nơi ngưỡng cửa của tôi,” Insull nhớ lại trong hồi ký của mình,  “và tôi biết, trừ khi xây dựng được nhà máy năng lượng kinh tế nhất, cơ  hội này sẽ bị tuột mất.”  
Insull cấp bách mở rộng năng lực sản xuất của Chicago Edison. Khi ông  nhận chức chủ tịch, ngày 1 tháng Bảy năm 1892, công ty chỉ là một trong 
48 
chuyển đổi lớn 
số hơn hai mươi dịch vụ tiện ích nhỏ nằm rải rác khắp thành phố, tất cả  đều tập trung vào cung cấp điện thắp sáng. Công ty chỉ vận hành hai trạm  phát trung tâm nhỏ xíu. Ngay lập tức, Insull bắt tay vào việc xây dựng một  nhà máy to hơn rất nhiều trên phố Harrison, gần sông Chicago. Đó là nhà  máy đầu tiên được trang bị hai máy phát 2.400 kilowatt, nhưng được thiết  kế để có thể sử dụng những động cơ lớn hơn. Không lâu sau khi hoàn tất  nhà máy phố Harrison, ông bắt đầu lập kế hoạch xây dựng một nhà máy  với nhiều tham vọng hơn trên phố Fisk. Ông muốn lắp đặt tại đây những  tuabin hơi nước 5.000 kilowatt, lớn hơn rất nhiều so với bất kỳ tuabin nào  đã được sử dụng từ trước tới nay trên toàn quốc. Nhà cung cấp General  Electric ngần ngại trước kế hoạch này, nên đã đề nghị thay vào đó sẽ bán  cho ông những máy móc nhỏ hơn. Nhưng Insull không nhụt chí. Khi ông  đồng ý chia sẻ rủi ro trong việc thiết lập những chiếc tuabin khổng lồ thì  người chủ cũ của ông tán thành. General Electric cung cấp chiếc máy phát  5.000 kilowatt đầu tiên trong năm 1905. Chẳng bao lâu sau, Insull đã bỏ  dần những chiếc máy này để lắp đặt những chiếc máy to hơn nữa. Tới năm  1911, nhà máy phát điện phố Fisk vận hành 10 tuabin 12.000 kilowatt. 
Trong khi tăng cường năng lực sản xuất của mình, Insull cũng tiến  hành mua lại các công ty đối thủ. Sau chưa đầy một năm tới Chicago  Edison, ông đã mua lại hai đối thủ lớn nhất, Chicago Arc Light and Power  và Fort Wayne Electric. Trước đó cho đến năm 1885, ông đã mua lại sáu  công ty dịch vụ tiện ích. Kế tiếp, ông mua các trạm phát trung tâm còn  lại ở Chicago, chiếm lĩnh độc quyền về cung cấp điện trong toàn thành  phố. Ông biết thành quả của mình là dựa vào việc phục vụ nhiều khách  hàng nhất có thể, với những trạm phát điện thật hiệu quả. Mục tiêu của  ông trong việc thiết lập độc quyền không phải là nâng giá mà là đạt được  quy mô cần thiết để có thể cắt giảm giá một cách đáng kể – và như vậy  càng bán được nhiều năng lượng cho nhiều khách hàng hơn.
49 
Nhà phát minh và viên thư ký 
Có hai công nghệ nữa cũng góp phần cốt yếu cho các kế hoạch của  Insull. Thứ nhất là máy biến điện hồi chuyển. Do Charles Bradley, một  cựu kỹ sư của Edison phát minh năm 1888, máy biến điện hồi chuyển là  một thiết bị có thể biến đổi dòng điện từ dạng này sang dạng khác. Khi  Insull mở rộng các nhà máy của mình và mua lại các nhà máy khác, ông  thấy mình sở hữu lẫn lộn các loại máy được chế tạo cho các chuẩn dòng  điện khác nhau – dòng một chiều, dòng xoay chiều, và những dòng đặc  thù khác – vận hành với những hiệu điện thế, tần số, và pha khác nhau.  Với các máy biến điện hồi chuyển và các máy chuyển đổi khác, ông có thể  phối hợp tất cả nhà máy của mình thành một hệ thống đơn nhất – theo  dạng “một máy” của Edison nhưng với nhiều kỳ vọng hơn hẳn – có thể  quản lý được một cách tập trung. Điều này cho phép ông bán điện cho  các mục đích sử dụng khác nhau – thắp sáng, chạy máy công nghiệp,  thậm chí chạy xe điện – qua chỉ một quy trình hoạt động sản xuất. Máy  biến điện hồi chuyển cho phép thiết lập một mạng lưới điện phổ dụng  mà không cần phải thay thế tất cả các máy móc, thiết bị cũ. 
Công nghệ chắp cánh thứ hai là đồng hồ nhu cầu điện mà Insull nhìn  thấy lần đầu vào năm 1894 trong kỳ đi nghỉ ở Brighton, Anh. Khác những  đồng hồ truyền thống, chỉ đo “tải” của khách hàng (số lượng kilowatt  thực sự tiêu thụ), đồng hồ nhu cầu còn đo “hệ số tải” (số kilowatt tiêu  thụ đo bằng tỷ lệ phần trăm của tiềm năng mức sử dụng cao điểm). Mức  sử dụng cao điểm của khách hàng là một yếu tố quan trọng mà công ty  dịch vụ tiện ích cần chú ý, bởi nó phải đảm bảo có đủ năng lực sản xuất  để đáp ứng nhu cầu tối đa của khách hàng. Mức sử dụng cao điểm của  khách hàng xác định chi phí cố định của dịch vụ tiện ích – những khoản  đầu tư cần thiết để xây dựng và bảo hành nhà máy và thiết bị – trong  khi mức sử dụng thực tế của khách hàng xác định chi phí khả biến. Lợi  nhuận của công ty dịch vụ tiện ích phụ thuộc vào hệ số tải tổng thể, bởi 
50 
chuyển đổi lớn 
nó xác định hiệu quả sử dụng toàn bộ năng lực mà công ty đã thiết lập.  Hệ số tải càng cao, công ty càng kiếm được nhiều tiền. Là một thí dụ khá sớm về một thiết bị xử lý thông tin, đồng hồ nhu cầu  điện đã mở đường cho một cuộc cách mạng về giá điện. Nó cho phép các  công ty dịch vụ tiện ích tính tiền từng khách hàng theo hai khoản riêng  biệt: một khoản tiền cố định phản ánh phần chia sẻ của khách hàng đối  với tổng chi phí cố định của công ty dịch vụ tiện ích, và một khoản tiền  thay đổi phản ánh mức tiêu thụ thực tế của khách hàng. Thay vì tính tiền  tất cả người mua năng lượng theo cùng một giá, các công ty dịch vụ tiện  ích bây giờ có thể đưa ra các thang giá khác nhau cho các khách hàng  khác nhau, dựa trên hiệu quả kinh tế khi phục vụ họ. Những khách hàng  lớn và tương đối hiệu quả, như các nhà máy, có thể được hưởng giá thấp  hơn nhiều so với các khách hàng nhỏ, ít hiệu quả hơn. Ngoài ra, với các  mức giá khác nhau, các công ty dịch vụ tiện ích khôn khéo có thể thu  hút một tập hợp nhiều loại khách hàng với những nhu cầu sử dụng bổ  sung cho nhau – thí dụ kết hợp những người dùng nhiều vào ban đêm  với những người dùng nhiều vào ban ngày, hay những người dùng nhiều  vào mùa hè với những người dùng nhiều vào mùa đông. Bằng việc quản  lý kỹ lưỡng yếu tố có thể được gọi là “hệ số đa dạng” này, công ty dịch  vụ tiện ích có thể tối ưu hóa hệ số tải và qua đó tối ưu hóa lợi nhuận. Insull đã chứng tỏ là một thiên tài về cân đối tải, và khi thiên niên kỷ  mới bắt đầu, ông đã ung dung tiến khá xa trên con đường tinh chỉnh hệ  thống dịch vụ tiện ích của ông, trên cả phương diện công nghệ lẫn tài  chính. Thành quả của ông về mặt này, theo nhà sử học Thomas P. Hughes,  là tương xứng “với những đóng góp mang tính lịch sử về quản trị của  các nhà công nghiệp đường sắt trong thế kỷ mười chín.” Nhưng Insull  vẫn còn phải thuyết phục các nhà công nghiệp bảo thủ để đóng cửa các  trạm phát điện riêng lẻ của họ và mua điện từ dịch vụ tiện ích của ông.
51 
Nhà phát minh và viên thư ký 
Mục tiêu đầu tiên của ông không phải là các nhà sản xuất mà là các  “công ty xe kéo” – những công ty vận hành xe điện và tàu điện trên không  là những người sử dụng năng lượng điện nhiều nhất vào thời điểm đó  trong thành phố. Insull chú ý tới các doanh nghiệp này bởi kiểu tiêu thụ  điện của họ. Các công ty vận chuyển đòi hỏi khối lượng năng lượng rất  lớn trong những giờ cao điểm vào buổi sáng và buổi chiều, khi công nhân  di chuyển giữa nơi ở và nơi làm việc. Nhu cầu của họ hoàn toàn bổ sung  cho nhu cầu của các gia đình (sử dụng nhiều điện vào sáng sớm và tối  khuya), và của các văn phòng (sử dụng nhiều điện vào ban ngày). Insull  biết nếu thu hút được các công ty vận chuyển, ông có thể cải thiện được  đáng kể hệ số đa dạng của mình. Để đảm bảo lợi nhuận kinh doanh của  họ, ông chào giá chưa đến một penny một kilowatt-giờ, thấp hơn nhiều  so với giá đang lưu hành mười cent một kilowatt-giờ và cũng thấp hơn  nhiều so với chi phí họ phải bỏ ra để tự sản xuất năng lượng riêng. Năm  1902, Lake Street Elevated Railway ký hợp đồng với Chicago Electric. Kế  đó, tất cả các công ty xe điện và tàu điện khác cũng làm theo, dỡ bỏ các  trạm phát điện riêng của họ và nối vào mạng lưới của Insull. 
Với việc kinh doanh của các công ty vận chuyển trong tay, Insull đã  tiến hành một chiến dịch tiếp thị năng nổ để thu hút các nhà máy. Ông  lập ra “Cửa hàng Điện” ở khu thương mại, có bảng quảng cáo những máy  công nghiệp đa dạng chạy động cơ điện. Ông đưa quảng cáo trên các báo  địa phương, thông tin về từng doanh nghiệp khi họ trở thành khách hàng  mới của ông. Ông đã sử dụng ảnh hưởng ngày càng tăng của mình để  đăng các bài tán dương trên các ấn phẩm thương mại có uy tín. Và ông  chi rất nhiều tiền cho các chương trình quảng cáo và bán hàng hướng  tới các nhà sản xuất, mang đến thông điệp là ông có thể cung cấp năng  lượng đáng tin cậy và rẻ hơn nhiều so với việc họ tự cung cấp. 
Insull đã thành công. Các nhà sản xuất ở Chicago đã lần lượt đến với  Chicago Electric, công ty được Insull sau đó đổi tên thành Commonwealth 
52 
chuyển đổi lớn 
Edison Company. Năm 1908, một nhà báo của tờ Electrical World and  Engineer đã nhận xét “mặc dù vẫn còn nhiều xí nghiệp cô lập ở Chicago,  nhưng hơn bao giờ hết, họ bị áp lực nặng nề bởi dịch vụ phát điện tập  trung… Commonwealth Edison Company đã thu hút khách hàng là  những doanh nghiệp trước đây từng được phục vụ bởi những trạm phát  riêng lẻ lớn nhất trong thành phố.” Một năm sau, tạp chí Electrical Review  and Western Electrician viết: “Khách hàng của Insull bây giờ bao gồm một  lượng đáng kể các nhà máy sản xuất và công nghiệp lớn.” Khi nhiều nhà  sản xuất hơn gia nhập mạng lưới điện, Insull tiếp tục hạ giá. Lượng điện  bán bình quân trên đầu người tăng vọt ở Chicago, từ hơn 10 kilowatt-giờ  vào năm 1899 lên gần 450 kilowatt-giờ vào năm 1915.  
Các nhà sản xuất nhận thấy lợi ích do mua điện từ một công ty dịch  vụ tiện ích đâu chỉ đơn giản nằm ở những kilowatt giá rẻ. Do không phải  mua thiết bị đắt tiền, họ giảm được chi phí cố định của chính họ và giải  phóng được nhiều vốn cho nhiều mục tiêu sản xuất hơn. Họ cũng giảm  được lượng nhân viên, bớt đi rủi ro bị lạc hậu và sai sót công nghệ, và  giảm gánh nặng cho các nhà quản lý về một công việc khá rối trí. Từ chỗ  là thứ không tưởng, việc chấp nhận rộng rãi năng lượng do các dịch vụ  tiện ích cung cấp đã trở thành quen thuộc. Khi những nhà điều hành  các dịch vụ tiện ích khác cũng theo bước Insull, sự chuyển dịch từ năng  lượng riêng sang năng lượng do dịch vụ tiện ích cung cấp đã tiếp diễn  vô cùng nhanh chóng. Năm 1907, thị phần của các công ty dịch vụ tiện  ích đạt 40% tổng sản lượng điện của Hoa Kỳ. Tới năm 1920, thị phần này  tăng lên 70%. Năm 1930 con số là 80%. Rồi rất nhanh nó đạt hơn 90%.  Chỉ còn rất ít các nhà sản xuất, chủ yếu điều hành các nhà máy lớn ở các  vùng hẻo lánh, là còn tiếp tục sản xuất điện riêng cho họ. 
Nhờ có Samuel Insull, thời đại trạm phát năng lượng riêng đã kết thúc.  Công ty dịch vụ tiện ích đã chiến thắng.
53 
Nhà phát minh và viên thư ký 
CHƯƠNG 3 
Nhà máy số  
Khi bưỚc sang thẾ kỶ XX, các công ty không chỉ trang bị lại các  máy công nghiệp để chạy bằng điện do các dịch vụ công cung cấp. Họ  còn bắt đầu cài đặt một loại máy điện rất khác, xử lý thông tin thay vì vật  liệu và điều hành bởi các nhân viên văn phòng thay vì bởi các công nhân  xí nghiệp. Chiếc máy, gọi là máy lập bảng bìa-đục-lỗ, được một kỹ sư tên  là Herman Hollerith phát minh đầu những năm 1880 với mục đích tự  động hóa điều tra dân số Hoa Kỳ. Máy làm việc theo một nguyên tắc đơn  giản. Bằng việc đục lỗ ở các vị trí nhất định trên một bìa giấy, bạn có thể  lưu trữ thông tin. Chẳng hạn một bìa điều tra dân số đơn giản có thể lưu  tất cả dữ liệu thu thập về một gia đình. Một lỗ đục tại một vị trí trên bìa  cho biết gia đình có ba con, trong khi một lỗ đục tại một vị trí khác cho  biết gia đình sống tại một căn hộ. Sau đó, bạn có thể đặt bìa lên một đĩa  tích điện trong máy Hollerith rồi hạ một lưới gồm các kim bằng kim loại  xuống đó. Tại các vị trí đục lỗ, kim sẽ chui qua, đóng mạch và cho phép  dữ liệu trên bìa được lưu trữ trên một đồng hồ đo. Đó là một hệ thống  nhị phân – tại một vị trí nhất định, hoặc có lỗ đục hoặc không – tiền  thân của những chiếc máy tính kỹ thuật số ngày nay. Hơn thế nữa, cách  thức máy lập bảng bìa-đục-lỗ được đem bán và sử dụng đã xác lập mô  hình cho toàn bộ lịch sử cận đại của điện toán mang tính thương mại.
54 
chuyển đổi lớn 
Cục Điều tra Dân số đã đưa máy Hollerith vào sử dụng trong cuộc  tổng điều tra năm 1890 rất thành công. Các bảng thống kê đã được lập  nhanh hơn nhiều so với cuộc tổng điều tra năm 1880, mặc dù dân số cả  nước đã tăng thêm khoảng một phần tư trong thời gian đó. Chi phí cho  tổng điều tra giảm 5 triệu đôla – một khoản tiết kiệm lớn gấp gần mười  lần so với ước lượng của Cục. Do chứng tỏ được giá trị trong việc tăng  tốc độ tính toán, máy bìa-đục-lỗ đã thu hút sự chú ý của các chủ doanh  nghiệp lớn như đường sắt, đại lý bảo hiểm, ngân hàng, và các nhà sản  xuất cho thị trường bán buôn cũng như các nhà bán lẻ. Khi các công  ty này mở rộng hoạt động trong buổi đầu của cuộc Cách mạng Công  nghiệp, họ thấy cần thiết phải thu thập, lưu trữ, và phân tích khối lượng  dữ liệu lớn hơn nhiều trước đây – về khách hàng, tài chính, nhân viên,  kho bãi, và nhiều thứ khác. Điện khí hóa lại cho phép các công ty mở  rộng thêm nữa, làm tăng thêm lượng thông tin cần phải xử lý. Lao động  trí óc cũng trở nên quan trọng và thường nặng nhọc chẳng kém lao động  chân tay trong sản xuất hàng hóa và cung cấp các dịch vụ. Máy lập bảng  Hollerith cho phép các doanh nghiệp lớn xử lý thông tin nhanh hơn,  với ít người hơn và và với độ chính xác cao hơn so với những gì có thể  làm trước đây.  
Thấy được tiềm năng kinh tế của phát minh, Hollerith đã lập Công  ty Tabulating Machine để bán máy cho các doanh nghiệp. Công ty phát  triển nhanh chóng, đưa ra một loạt sản phẩm liên quan như máy lập  bảng theo vần chữ cái, máy sắp xếp bìa, máy sao bìa, máy in, và bán cho  rất nhiều khách hàng. Năm 1911, công ty của Hollerith sáp nhập với  Computer-Tabulating-Recording, một cơ sở cung cấp máy thương mại  lớn hơn. Một nhà quản lý trẻ tuổi tài năng tên Thomas J. Watson được  đưa tới để điều hành công việc. Mười ba năm sau, Watson đã đổi cho  công ty cái tên nghe ấn tượng hơn – International Business Machines 
55 
Nhà máy số 
Corporation (viết tắt là IBM). Những công ty khác, như Burroughs and  Remington Rand ở Hoa Kỳ và Bull ở châu Âu, cũng nhanh chóng gia  nhập thị trường máy bìa-đục-lỗ đang đâm chồi nảy lộc, cạnh tranh với  IBM của Watson. 
Ngành công nghệ thông tin đã ra đời. 
Công nghệ bìa-đục-lỗ được nhanh chóng phổ biến khi các chuẩn  được thiết lập cho việc thiết kế bìa và vận hành thiết bị, cùng với việc  hạ giá thành do các tiến bộ kỹ thuật và sự cạnh tranh. Trong vòng vài  thập kỷ, hầu hết các công ty lớn đã xây dựng những phòng bìa-đục-lỗ  cho các máy khác nhau dùng để sắp xếp, lập bảng, và lưu trữ thông tin  tài chính và thông tin thương mại. Họ đã đầu tư một khoản vốn đáng  kể cho máy móc, thuê nhân viên và chuyên viên kỹ thuật để vận hành  và bảo quản chúng. Họ cũng phát triển những quan hệ chặt chẽ với các  nhà cung cấp hệ thống. “Xử lý thông tin với bìa-đục-lỗ đã đi vào thực  tiễn doanh nghiệp giữa những năm 1930,” nhà nghiên cứu máy tính Paul  Ceruzzi viết, “và được củng cố bằng sự thâm nhập liên tục của những  nhân viên bán thiết bị bìa-đục-lỗ vào các văn phòng kế toán tại những  công ty khách hàng.” 
Ngay khi loại bỏ bộ phận sản xuất năng lượng, các công ty đã thiết lập  những bộ phận mới dành cho công nghệ xử lý dữ liệu tự động non trẻ.  Trong nửa cuối của thế kỷ trước, những bộ phận này đã phát triển mạnh  mẽ khi các máy tính điện tử số thay thế các máy bìa-đục-lỗ. Hầu hết các  công ty lớn đã lắp đặt các phần cứng và phần mềm máy tính ngày càng  phức tạp hơn, chi hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đôla một năm cho  các hoạt động tại chỗ về điện toán, và ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào  các nhà cung cấp và tư vấn IT để đảm bảo hoạt động cho các hệ thống  của họ. Khi việc xử lý các ký hiệu – chữ, số, ảnh – thay thế việc chế biến  các vật liệu, trở thành tâm điểm của doanh nghiệp trong thế giới phát 
56 
chuyển đổi lớn 
triển, thì trạm phát năng lượng riêng của thế kỷ XIX đã cho thấy sự lặp  lại nơi trạm xử lý dữ liệu riêng của thế kỷ XX. Và giống như trước đây,  các công ty cũng phải thừa nhận rằng tình hình không thể khác – việc  thực hiện các hoạt động tính toán phức hợp là một phần không thể tách  rời của hoạt động kinh doanh. 
Dù hiện nay quan niệm rằng máy tính đóng vai trò trụ cột cho doanh  nghiệp hiện đại là khá hiển nhiên, ban đầu người ta đã rất hoài nghi tính  hữu ích của nó. Khi máy tính thương phẩm thật sự đầu tiên, UNIVAC,  được chế tạo những năm 1940, rất ít người tin nó sẽ có nhiều triển vọng  trong thế giới doanh nghiệp. Vào thời điểm đó, thật khó để hình dung  sẽ có nhiều công ty cần tới các tính toán với cường độ lớn đến thế và  phải được thực hiện bởi máy tính điện tử. Những chiếc máy lập bảng  bìa-đục-lỗ cũ cho thấy là quá đủ để giải quyết các giao dịch và làm sổ  kế toán. Howard Aiken, một nhà toán học xuất sắc của Harvard và một  thành viên Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia của chính phủ Hoa Kỳ, đã  gạt bỏ và xem ý tưởng về một thị trường lớn cho máy tính là một sự ngu  xuẩn. Ông tin cả nước sẽ chỉ cần chừng nửa tá máy tính như vậy, chủ  yếu dùng cho quân sự và nghiên cứu khoa học. Kể cả Thomas Watson  cũng nổi tiếng vì câu nói năm 1943: “Tôi nghĩ sẽ có một thị trường toàn  cầu cho khoảng năm chiếc máy tính.” 
Nhưng những nhà thiết kế của UNIVAC, hai giáo sư của Đại học  Pennsylvania là J. Presper Eckert và John Mauchly, đã nhìn mọi việc rất  khác. Họ nhận thấy máy tính điện tử có khả năng lưu các lệnh hoạt động  vào bộ nhớ, nên nó có thể được lập trình để thực hiện nhiều chức năng  khác nhau. Nó không chỉ là một máy tính đẹp đẽ, bị giới hạn bởi các  quy trình toán học được định sẵn. Nó sẽ trở thành một công nghệ phổ  dụng, một máy-của-mọi-nghề, các công ty có thể ứng dụng không chỉ 
57 
Nhà máy số 
cho các công việc kế toán thường ngày mà còn cho vô số các công việc  quản lý và phân tích khác. Trong một báo cáo năm 1948, Mauchly đã liệt  kê khoảng hai mươi công ty, cơ quan chính phủ và đại học mà theo ông  có thể sử dụng chiếc máy UNIVAC rất tốt. Cuối cùng đã rõ, thị trường  của máy tính là lớn hơn cả những gì ông trông đợi. 
Đi đầu trong việc chấp nhận máy tính mạnh và mới lại vẫn là Cục  Điều tra Dân số. Ngày 31tháng Ba năm 1951, Cục đã mua chiếc máy  UNIVAC đầu tiên, và một năm sau lắp đặt nó tại trụ sở trung ương ở  Washington DC. Tới cuối năm 1954, những chiếc máy tính của Eckert và  Mauchly đã chạy tại văn phòng của mười doanh nghiệp tư, bao gồm cả  General Electric, US Steel, Du Pont, Metropolitan Life, Westinghouse, và  Consolidated Edison, hậu duệ của Edison Electric Illuminating Company  của Thomas Edison. Những chiếc máy tính UNIVAC đã đảm đương tất  cả công việc mà trước đây các hệ thống bìa-đục-lỗ đã thực hiện – làm  hóa đơn, thanh toán lương, kế toán giá thành – nhưng chúng cũng còn  được dùng cho những công việc phức tạp hơn như dự báo doanh số, lập  lịch biểu nhà máy, và quản lý kho. Tóm lại, sự hoài nghi về vai trò của  máy tính trong doanh nghiệp đã nhường đường cho sự nhiệt tình và  hăng hái. “Mơ tưởng về sản xuất tự động đã trở nên thật sự khả thi,” tờ  Harvard Buisiness Review đã tuyên bố như vậy vào mùa hè năm 1954. 
Sự hăng hái lan truyền tới các nhà sản xuất máy thương mại, bởi  họ thấy ở máy tính một thị trường mới rộng lớn và béo bở. Ngay sau  khi UNIVAC xuất hiện, IBM đã đưa ra dòng máy tính chủ kích thước  lớn (mainframe) riêng của họ, đó là loạt máy 701; và đến năm 1960  thì Honeywell, General Electric, RCA, NCR, Burroughs, và chi nhánh  Western Electric của AT&T đều cạnh tranh tung ra bán các thiết bị phụ  tùng máy tính. Cả một ngành công nghiệp hoàn toàn mới mẻ – lập  trình phần mềm – cũng bắt đầu hình thành. Khoảng bốn mươi công ty 
58 
chuyển đổi lớn 
phần mềm nhỏ, với những cái tên như Computer Sciences Corporation,  Computer Usage Company, và Computer Application Inc., được thành  lập trong thời kỳ cuối những năm 1950 để viết chương trình cho các  máy mainframe.  
Chẳng bao lâu sau, các doanh nghiệp đã bắt đầu cạnh tranh nhau  không chỉ về chất lượng sản phẩm mà còn về năng lực phần cứng và phần  mềm máy tính của họ. Mỗi khi một công ty đưa vào một hệ thống mới  để tự động hóa một tác vụ nào đó, các công ty khác do lo ngại sẽ bị đặt  vào thế bất lợi nên cũng làm theo. Những cuộc chiến đầu tiên của thứ  sẽ trở thành cuộc chạy đua vũ trang toàn cầu về công nghệ thông tin đã  xảy ra trong lĩnh vực hàng không. Năm 1959, Cyrus Rowlett Smith, chủ  tịch của American Airlines, đã khởi động một đề án đầy tham vọng để  thiết lập hệ thống tự động đặt chỗ và bán vé, hai quá trình đòi hỏi nhiều  lao động nhất và là hạt nhân của loại hình kinh doanh này. Được phát  triển bởi 200 kỹ thuật viên trong hơn 5 năm, hệ thống đã ra đời với tên  gọi Sabre, sử dụng 2 máy chủ mạnh nhất của IBM cùng với 16 thiết bị  lưu trữ dữ liệu và hơn 1.000 thiết bị đầu cuối cho các đại lý bán vé. Ngoài  việc lắp đặt phần cứng, đề án còn đòi hỏi phải viết khoảng 1 triệu dòng  mã phần mềm. Khi được đưa vào vận hành đầy đủ cuối năm 1965, hệ  thống có khả năng xử lý 40.000 giao dịch đặt chỗ và bán 20.000 vé một  ngày – một kỳ công đáng kinh ngạc lúc đó. 
Sabre đã tạo ra lợi thế lớn cho American Airlines, giống như bánh  xe nước của Burden trước đây đã tạo ra lợi thế lớn cho nhà máy sắt của  ông. American Airlines có thể hoạt động với ít nhân viên hơn và với hiệu  quả cao hơn so với các hãng hàng không khác khi họ vẫn tiếp tục xử lý  đặt chỗ bằng thủ công. Hãng thu được lợi nhuận cao hơn trong phục vụ  khách hàng, bởi có thể đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi của khách hàng  nhanh hơn nhiều so với các đối thủ. Nó cũng thạo tin hơn, có thể theo 
59 
Nhà máy số 
dõi sát nhu cầu cho các tuyến bay khác nhau và điều chỉnh giá vé với độ  chính xác cao. Việc lắp đặt và chạy các hệ thống máy tính trở nên thiết  yếu đối với thành công của American Airlines, giống như những chiếc  máy bay và những hành khách khó tính. Những năm kế tiếp, tất cả các  hãng hàng không chủ chốt, bao gồm cả Pan American, Delta, và United  đã lắp đặt các hệ thống tương tự. Họ thấy không còn lựa chọn nào khác  nếu muốn duy trì khả năng cạnh tranh. Chẳng có gì ngạc nhiên khi họ  tìm thấy đối tác nơi các nhà cung cấp máy tính như IBM, Sperry Rand,  và Burroughs, những nhà cung cấp đã kiếm được lợi lớn bằng việc nhân  bản các hệ thống tương tự cho hết công ty này tới công ty khác. 
Bank of America cũng khởi đầu một chu kỳ tương tự, đầu tư vào  công nghệ ngân hàng, khi công khai chiếc máy tính dùng trong kế toán  Electronic Recording Machine Accounting – ERMA vào năm 1960 trong  một quảng cáo truyền hình rầm rộ do Ronald Regan chủ trì. Trong vòng  2 năm, Bank of America đã sử dụng 32 máy tính ERMA để xử lý 5 triệu  tài khoản mà trước đây vẫn được cập nhật thủ công. Khả năng của máy  tính thực hiện các giao dịch với tốc độ và độ chính xác chưa từng có đã  thúc ép tất cả các định chế tài chính phải theo bước Bank of America.  Hiện tượng tương tự cũng xuất hiện trong mọi ngành công nghiệp khác,  khi các công ty đua nhau đầu tư vào các thiết bị máy tính hiện đại nhất. 
Nhưng kỷ nguyên máy tính mainframe mới chỉ là bước rất ban sơ của  thời kỳ bùng nổ mua sắm máy tính của giới kinh doanh. Khi kết thúc  thập niên 1960, mỗi công ty trung bình của Mỹ dành chưa đến 10% kinh  phí thiết bị cho công nghệ thông tin. Ba mươi năm sau, tỷ lệ này tăng lên  hơn bốn lần, đạt 45%, theo thống kê của Bộ Thương mại. Năm 2000, mỗi  công ty trung bình của Mỹ đầu tư cho các hệ thống máy tính gần bằng  đầu tư cho tất cả các loại thiết bị khác cộng lại. Chi phí riêng cho phần  mềm đã tăng hơn một trăm lần cùng thời kỳ, từ 1 tỉ đôla vào năm 1970 
60 
chuyển đổi lớn 
lên 138 tỉ đôla vào năm 2000. Tại các nước phát triển khác cũng chứng  kiến sự bùng nổ đầu tư tương tự, khi chi phí toàn cầu cho IT từ dưới 100  tỉ đôla một năm vào đầu thập kỷ 1970 lên hơn 1.000 tỉ đôla một năm vào  đầu những năm 2000. 
Điều gì đã xảy ra trong ba mươi năm đó? Kinh doanh đã thay đổi, và  máy tính đã thay đổi. Khi kinh tế chuyển sức nặng sang khu vực dịch vụ  và giảm thiểu đối với khu vực sản xuất, đầu tư chuyển từ máy móc công  nghiệp sang công nghệ thông tin. Đồng thời, các máy tính trở nên nhỏ  hơn, rẻ hơn, dễ lập trình hơn, và mạnh hơn, mở rộng đáng kể phạm vi  các công việc có thể ứng dụng được. Quan trọng hơn cả, máy tính trở  thành máy cá nhân – là những công cụ thông thường, hầu hết các nhân  viên văn phòng đều có thể sử dụng được. 
Trong thời đại máy mainframe thì ngược lại, máy tính là máy cơ quan.  Bởi phải tốn rất nhiều kinh phí để mua hoặc thuê một máy tính như  thế – tiền thuê một máy tính IBM bình thường là 30.000 đôla một tháng  vào giữa những năm 1960 – công ty phải sử dụng máy liên tục nếu muốn  khoản chi phí bỏ ra là xứng đáng. Điều đó có nghĩa là bản thân từng  nhân viên hầu như không bao giờ được truy nhập trực tiếp tới máy tính.  Giống như các máy lập biểu bìa-đục-lỗ trước đây, máy chủ và các thiết  bị ngoại vi được đặt tách biệt trong các phòng đặc biệt và được vận hành  bởi các các chuyên gia áo trắng đặc biệt – một loại “thầy tu kỹ thuật,” theo  ngôn từ của Ceruzzi. Để sử dụng máy, một nhân viên phải lưu chương  trình muốn chạy cùng với tất cả dữ liệu cần thiết trên một băng từ dài,  hoặc một xấp bìa, và sau đó đưa tác vụ hoặc chuỗi tác vụ vào một hàng  đợi cùng với các tác vụ khác của đồng nghiệp. Các kỹ thuật viên sẽ chạy  từng tác vụ kế tiếp nhau, in ra chương trình và kết quả để các nhân viên  tới nhận và xem lại. Nếu có lỗi, nhân viên phải sửa, nộp lại tác vụ và lại  lặp lại toàn bộ quy trình.
61 
Nhà máy số 
Xử lý theo chuỗi tác vụ với máy mainframe có một lợi thế: nó đảm  bảo máy tính được khai thác hiệu quả. Máy tính không hề nhàn rỗi, hoặc  ít ra là không nhàn rỗi lâu. Máy mainframe của các hãng thông thường  hoạt động hơn 90 phần trăm công suất. Nhưng xử lý theo chuỗi tác vụ  lại có một bất lợi còn lớn hơn: nó làm cho điện toán trở nên không thân  thiện. Các rào cản về tổ chức và công nghệ xuất hiện xen giữa nhân viên  và máy làm xơ cứng sự tìm tòi và giới hạn khả năng ứng dụng máy tính,  trong khi sự chậm trễ nhận kết quả cũng ngăn cản việc dùng máy tính để  hỗ trợ nhiều quyết định nhỏ hàng ngày cần thiết để điều hành công ty. 
Nhưng nhược điểm này đã không tồn tại lâu. Khi các đổi mới công  nghệ gia tăng qua những năm 1960 và 1970, máy tính đã được thu nhỏ  về kích thước và giá cả. Những chiếc bóng bán dẫn nhỏ xíu đã thay thế  các bóng chân không kềnh càng, và các linh kiện chuẩn rẻ tiền đã thay  thế các thành phần đắt tiền phải đặt làm riêng, làm xuất hiện những chiếc  máy tính nhỏ tương đối rẻ tiền có thể đặt cạnh bàn làm việc. Máy tính  nhỏ không hề hất cẳng máy tính lớn; chúng bổ sung cho những chiếc  máy lớn hơn, mạnh hơn. Nhưng chúng cũng mở rộng đáng kể việc sử  dụng máy tính của các doanh nghiệp. Bởi các máy tính nhỏ gọn có thể  được nối với các thiết bị đầu cuối để bàn, chúng cho phép những nhân  viên thường được tiếp cận trực tiếp với máy tính để làm rất nhiều việc,  từ phân tích các đầu tư của doanh nghiệp, thiết kế các sản phẩm mới, lập  lịch biểu cho các dây chuyền sản xuất tới viết thư và báo cáo. Ngôn ngữ  để viết chương trình cũng trở nên đơn giản hơn trong thời kỳ này. Lập  trình viên có thể viết mã bằng các từ và cú pháp tiếng Anh cơ bản thay  vì phải dùng các dòng dài những con số. Điều này đã mở rộng đáng kể  ngành lập trình máy tính, tăng nhanh số lượng lập trình viên cũng như  loại ứng dụng được họ phát triển. Tới đầu những năm 1970, một công ty 
62 
chuyển đổi lớn 
có thể mua một máy tính nhỏ gọn chưa tới 10.000 đôla và nhanh chóng  lập trình để thực hiện một công việc đặc thù. 
Việc kinh doanh máy tính nhỏ rất phát đạt và đã đưa các công ty như  Digital Equipment, Wang, Apollo lên hàng đầu của công nghiệp máy  tính. Nhưng thời hoàng kim này quá ngắn ngủi. Máy tính nhỏ chỉ là một  bước chuyển tiếp. Các đột phá trong thiết kế mạch tích hợp, đặc biệt là  việc phát minh ra bộ vi xử lý của các kỹ sư Intel vào năm 1971, đã dẫn  tới sự ra đời và phổ biến nhanh chóng của một loại máy hoàn toàn mới  – máy vi tính, hay máy tính cá nhân (PC) – còn nhỏ hơn, rẻ hơn, và dễ  sử dụng hơn các máy tính được gọi là “nhỏ” của thời trước. Sự xuất hiện  của máy vi tính đã làm đảo lộn ngành công nghiệp này, mở ra một thời  đại mới trong điện toán mang tính thương mại. 
Cũng giống như với máy tính lớn, lúc đầu các chuyên gia đã không  nhìn thấy hết tiềm năng của máy tính cá nhân. Lần này, sự ngần ngại  lại theo một cách rất khác. Những nơi máy tính lớn được xem là quá  mạnh cho các ứng dụng thương mại thì các máy cá nhân lại bị xem là  quá yếu. Chúng bị gạt bỏ như những thứ đồ vô tích sự, những đồ chơi  của dân không chuyên. Các công ty máy tính có ưu thế lúc đó, từ IBM tới Digital, không hề quan tâm tới những chiếc máy mới này. Nhưng một  sinh viên bỏ học mang tên Bill Gates – anh cũng là dân nghiệp dư đam  mê kỹ thuật – đã nhìn thấy tiềm năng của các máy tính cá nhân trong  kinh doanh. Năm 1975, Gates và người bạn học phổ thông Paul Allen đã  thành lập một công ty nhỏ mang tên Micro-Soft để viết phần mềm cho  những chiếc PC mới phát minh. Gates đã sớm nhận thấy không chỉ PC  sẽ tìm được chỗ đứng trong doanh nghiệp, mà còn thay thế các máy tính  lớn để trở thành trung tâm điện toán của doanh nghiệp do tính đa năng 
63 
Nhà máy số 
và giá rẻ của chúng. Bất kể công ty nào kiểm soát được hệ điều hành của  PC, và bàn làm việc ảo do nó tạo ra, công ty đó sẽ trở nên mạnh nhất  trong lĩnh vực điện toán mang tính thương mại. Tầm nhìn của Gates  đã đưa Microsoft – tên mới của công ty do anh đặt – trở thành đấu thủ  nặng ký trong ngành IT và mang lại cho chính Gates của cải lớn không  thể tưởng tượng nổi. 
PC đã dân chủ hóa tin học. Máy tính được giải phóng khỏi các trung  tâm dữ liệu doanh nghiệp và các phòng ban IT để biến thành một công  cụ phổ dụng. Trong quá trình phát triển, nó cũng thay đổi cách thức công  ty tổ chức hoạt động và các tài nguyên tính toán của họ. Các máy tính cá  nhân trên bàn làm việc của nhân viên văn phòng rất nhanh chóng được  nối thành mạng cho phép các nhân viên trao đổi tập tin và dùng chung  máy in. Các phòng máy mainframe trước đây không mất đi. Chúng được  chuyển thành một dạng mới của trung tâm dữ liệu. Như phòng dụng cụ  của các doanh nghiệp hiện đại, những trung tâm này có các hệ thống lưu  trữ để chứa những dữ liệu quan trọng nhất, cũng như các máy chủ mạnh  nhất chạy các ứng dụng để quản lý tài chính và các hoạt động của công  ty. Các nhân viên có thể sử dụng PC của họ để chạy các chương trình cá  nhân, như Microsoft Word và Excel, nhưng họ cũng có thể dùng chúng  để truy nhập các chương trình và dữ liệu trên các máy chủ trung tâm. Bởi  các PC đóng vai trò như máy con của các máy chủ chia sẻ, hệ thống như  vậy thường được gọi là “hệ thống máy con - máy chủ” (client - server).  Nó trở thành mô hình phổ biến cho tới ngày hôm nay. 
Hệ thống máy con - máy chủ hóa ra lại chính là hình ảnh phản chiếu  của hệ thống máy mainframe. Đúng là nó cá nhân hóa việc áp dụng  tin học, nhưng nó cũng làm cho điện toán trở thành kém hiệu quả ghê  gớm. Các hệ thống điện toán và mạng của doanh nghiệp, “nhà máy số”  của các công ty hiện đại, trở nên phức tạp hơn khi các ứng dụng được 
64 
chuyển đổi lớn 
nhân lên. Một nguyên nhân chính của sự phức tạp là do lịch sử thiếu  các chuẩn về phần cứng và phần mềm máy tính. Các nhà cung cấp có xu  hướng quảng bá cho những sản phẩm riêng của họ, những thứ ngay từ  khi thiết kế đã không tương thích với những thiết bị của các đối thủ. Kết  quả: các chương trình phần mềm của doanh nghiệp thông thường được  viết để chạy trên một hệ điều hành đặc thù, một vi mạch đặc thù, một  cơ sở dữ liệu đặc thù, và một cấu hình phần cứng đặc thù. Không giống  những máy mainframe đa chức năng, hầu hết các máy chủ bình thường  phải được sử dụng như những máy một-mục-đích, dành để chạy chỉ một  phần mềm ứng dụng hay một cơ sở dữ liệu. Mỗi khi mua hoặc viết một  ứng dụng mới, công ty cũng phải mua và lắp đặt những máy tính dành  riêng cho nó. Thêm nữa, mỗi chiếc máy tính này phải được cấu hình để  đáp ứng được yêu cầu tối đa, theo lý thuyết, của ứng dụng – ngay cả khi  tải tối đa rất hiếm khi hay thậm chí không bao giờ đạt tới. 
Sự phổ biến của các hệ thống một-mục-đích dẫn tới mức khai thác  tiềm năng của máy rất thấp. Một nghiên cứu của sáu trung tâm dữ liệu  doanh nghiệp cho thấy hầu hết 1.000 máy chủ được sử dụng ít hơn 25%  khả năng xử lý sẵn có của chúng. Các nghiên cứu khác cho thấy những  hệ thống lưu trữ dữ liệu cũng được sử dụng kém hiệu quả như vậy, bình  quân giữa 25 tới 50% công suất. Trước thời đại PC, các chuyên gia xử  lý dữ liệu nhìn nhận sự bảo toàn của tài nguyên điện toán không chỉ là  một nhu cầu kinh tế mà còn là một đòi hỏi về đạo lý. “Lãng phí một nhịp  CPU hay một byte bộ nhớ là một sai sót đáng hổ thẹn,” cây bút khoa học  Brian Hayes nhớ lại. “Giải quyết một vấn đề nhỏ bằng một máy tính lớn  được coi là khiếm nhã và không xứng đáng, giống như dùng dao phay  giết muỗi.” Mô hình máy con - máy chủ đã giết chết đòi hỏi về đạo lý. Sự  hoang phí đã thay thế tính căn cơ trong định nghĩa đặc trưng của điện  toán thương mại.
65 
Nhà máy số 
Sự phức tạp và không hiệu quả của mô hình máy con - máy chủ đã tích  tụ từ hơn một phần tư thế kỷ qua. Khi tiếp tục bổ sung thêm ứng dụng,  các công ty phải mở rộng các trung tâm dữ liệu, lắp đặt thêm các máy mới,  lập trình lại các máy cũ, và thuê thêm nhiều kỹ thuật viên để đảm bảo cho  mọi thứ hoạt động. Nếu tính đến cả việc các doanh nghiệp phải mua thiết  bị dự phòng cho trường hợp một máy chủ hay hệ thống lưu trữ bị hỏng  thì như các nghiên cứu đã chỉ ra, rất dễ nhận thấy rằng phần lớn số tiền  nhiều ngàn tỉ đôla các công ty đầu tư vào công nghệ thông tin là lãng phí. 
Và còn có thêm các chi phí khác nữa. Khi các trung tâm dữ liệu mở  rộng và trở nên lớn hơn, với nhiều máy tính hơn, thì lượng điện tiêu  thụ tăng vọt. Theo một nghiên cứu vào tháng Mười Hai năm 2005 của  Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence tại Berkeley của Bộ Năng Lượng,  trung tâm dữ liệu của một tổ chức hiện đại “có thể dùng năng lượng trên  một foot vuông (khoảng 0,092 m2) tới 100 lần nhiều hơn so với một tòa  nhà văn phòng thông thường.” Các nhà nghiên cứu thấy một công ty có  thể chi tới 1 triệu đôla một tháng cho lượng điện cần thiết để chạy một  trung tâm dữ liệu. Và hóa đơn tiền điện tiếp tục tăng nhanh khi các máy  chủ được phổ biến và các mạch máy tính trở nên mạnh hơn và đói năng  lượng hơn. Luiz André Barroso, một kỹ sư máy tính của Google, đã kết  luận rằng nếu không có những cải tiến đáng kể về hiệu quả của các máy  tính, “trong mấy năm tới đây, chi phí cho năng lượng điện sẽ dễ dàng  vượt các chi phí cho phần cứng, có thể là rất xa.” 
Sự lãng phí cố hữu trong hệ thống máy con - máy chủ là phiền hà  đối với từng công ty riêng lẻ. Nhưng bức tranh lại tồi tệ hơn, tồi tệ hơn  nhiều, khi xem xét toàn bộ các ngành công nghiệp. Đa số phần mềm và  hầu như tất cả phần cứng các công ty sử dụng ngày nay, về cơ bản, giống  y như các phần cứng và phần mềm các đối thủ của họ sử dụng. Các máy 
66 
chuyển đổi lớn 
tính, các hệ thống lưu trữ, các thiết bị mạng, và hầu hết các ứng dụng  được dùng rộng rãi, tất cả đã trở thành hàng hóa theo góc nhìn của các  doanh nghiệp mua chúng. Chúng không phân biệt công ty này với công  ty khác. Và điều tương tự cũng xảy ra đối với nhân viên các phòng ban IT.  Hầu hết đều thực hiện các công việc bảo hành mang tính thủ tục – giống  y như những công việc mà các đồng nghiệp của họ phải làm ở các công  ty khác. Sự sao chép của hàng chục ngàn trung tâm dữ liệu độc lập, tất  cả đều dùng các phần cứng tương tự nhau, chạy các phần mềm tương tự  nhau, và thuê các loại nhân viên tương tự nhau, đã gây ra những hình  phạt nặng nề đối với nền kinh tế. Nó dẫn tới việc tích tụ quá lớn các tài  nguyên IT trong hầu hết các lĩnh vực công nghiệp, kiềm hãm mức tăng  năng suất có thể thu được nhờ tự động hóa bằng máy tính. 
Các nhà cung cấp IT hàng đầu đã cưỡi làn sóng đầu tư để trở thành  những doanh nghiệp phát triển nhanh nhất và có lãi nhất. Công ty của  Bill Gates là một trường hợp hoàn hảo. Ngày nay hầu như mọi công ty  thuộc mọi kích cỡ đều mua các bản Microsoft Windows và Microsoft  Office cho các nhân viên văn phòng, cài đặt riêng biệt phần mềm lên  từng chiếc PC và nâng cấp các chương trình theo chu kỳ. Hầu hết trong  số đó cũng chạy ít nhất một vài máy chủ của mình trên một phiên bản  của hệ điều hành Windows và cài đặt các chương trình đắt tiền khác của  Microsoft trong các trung tâm dữ liệu của họ, như phần mềm Exchange  dùng để quản lý các hệ thống email. Trong ba thập kỷ kể từ ngày thành  lập, Microsoft đã phát triển đạt doanh số hàng năm gần 50 tỉ đôla, lãi  hàng năm hơn 12 tỉ đôla, và hơn 30 tỉ đôla tiền mặt trong ngân hàng.  Và Microsoft có rất nhiều bầu bạn, từ các nhà sản xuất phần mềm như  Oracle và SAP tới các nhà cung cấp máy chủ như IBM và Hewlett Packard, hay các nhà cung cấp PC như Dell, hay hàng trăm cơ quan tư 
67 
Nhà máy số 
vấn giúp làm giảm độ phức tạp của điện toán trong doanh nghiệp hiện  đại. Tất cả đều vui sướng được may mắn đóng vai các nhà cung cấp vũ  khí trong cuộc chạy đua vũ trang IT.  
—————— 
Tại sao công nghệ máy tính lại phát triển theo cách tỏ ra hỗn độn như  vậy? Tạo sao việc cá nhân hóa các máy tính lại kèm theo sự phức tạp  và lãng phí như thế? Nguyên nhân khá giản đơn. Nó bao gồm hai định  luật. Định luật thứ nhất và nổi tiếng nhất được phát biểu năm 1965 bởi  Gordon Moore, một kỹ sư xuất chúng của Intel. Định luật Moore nói  rằng sức mạnh của các bộ vi xử lý sẽ tăng gấp đôi sau mỗi một hoặc hai  năm. Định luật thứ hai được đưa ra trong những năm 1990 bởi một đồng  nghiệp rất sáng giá của Moore tên là Andy Grove. Định luật Grove nói  rằng băng thông chỉ tăng gấp đôi sau mỗi thế kỷ. Grove có dụng ý dùng  “định luật” này như một sự phê phán cái ông xem là ngành công nghiệp  điện thoại đang hấp hối hơn là một phát biểu về một thực tế công nghệ,  nhưng nó vẫn thể hiện một sự thật cơ bản: trong suốt lịch sử công nghệ  thông tin, sức mạnh tính toán đã tăng nhanh hơn rất nhiều so với năng  suất của các mạng truyền dữ liệu. Sự khác biệt này có nghĩa một công  ty chỉ có thể hưởng được ích lợi của các máy tính hiện đại khi họ lắp  đặt chúng ngay tại trụ sở và nối chúng vào mạng cục bộ của riêng họ.  Giống như thời kỳ của các hệ thống điện một chiều, đã không có cách  thức thực tế để chuyên chở sức mạnh tính toán một cách hiệu quả qua  những cự ly xa. 
Như nhận xét của Grove đã thể hiện, sự khan hiếm của băng thông  từ lâu đã được nhìn nhận là một rào cản đối với tính toán hiệu quả và  năng suất. Người ta đã luôn hiểu rằng về lý thuyết, sức mạnh tính toán, 
68 
chuyển đổi lớn 
giống như năng lượng điện, có thể được cung cấp qua một lưới các công  ty dịch vụ tiện ích với quy mô lớn – và các máy phát tập trung như vậy  sẽ có thể hoạt động hiệu quả và linh hoạt hơn nhiều so với các trung  tâm dữ liệu riêng lẻ nằm rải rác khắp nơi. Trở lại năm 1961, khi các nhà  khoa học máy tính mới bắt đầu hình dung để các máy tính nói chuyện  được với nhau, một chuyên gia trong lĩnh vực mới mẻ về mạng là John  McCarthy đã dự đoán “một ngày nào đó, điện toán sẽ được tổ chức như  một dịch vụ tiện ích, cũng giống như hệ thống điện thoại đã được tổ chức  như vậy.” Mỗi tiến bộ trong lĩnh vực mạng lại mang đến một làn sóng  mới các nhà đầu tư hy vọng sẽ biến dịch vụ tiện ích về máy tính thành  một ngành kinh doanh lớn. Trong thời đại các máy mainframe, các công  ty cho thuê theo ca đã lắp đặt các máy tính trung tâm và cho các doanh  nghiệp khác thuê bao, cho phép kết nối trực tiếp qua đường điện thoại.  Trong những năm 1970, các công ty như Automated Data Procesing đã  bắt đầu cung cấp một số dịch vụ điện toán thông thường – đặc biệt là  thanh toán lương – để thu phí. Và trong những năm 1990, một loạt các  “nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng” đã nổi lên, với nguồn vốn hậu thuẫn  đầu tư đáng kể, với mong muốn cung cấp cho các doanh nghiệp những  chương trình phần mềm qua Internet. 
Nhưng tất cả các nỗ lực cho dịch vụ tiện ích về điện toán đều sụp đổ  hoặc què quặt do thiếu băng thông truyền dữ liệu cần thiết. Ngay cả trong  những năm cuối 1990 khi công nghệ viễn thông gấp rút hiện đại hóa  các mạng lưới, băng thông vẫn vừa đắt vừa không đủ phong phú để các  công ty dịch vụ có thể cung cấp các tiện ích điện toán một cách nhanh  chóng và đáng tin cậy, như các máy tính cục bộ mà các doanh nghiệp đã  rất hứng thú tận hưởng. Và do vậy các công ty vẫn tiếp tục trói buộc bản  thân với những nhà máy số của họ, chấp nhận sự phức tạp, thiếu hiệu  quả và lãng phí như cái giá phải trả cho việc tự động hóa các hoạt động.
69 
Nhà máy số 
Nhưng rồi cuối cùng mọi việc đã thay đổi. Rào cản về mạng trong mấy  năm gần đây đã bắt đầu mất đi. Nhờ có cáp quang do các công ty viễn  thông trải khắp nơi trong thời kỳ bùng nổ của dotcom – theo một ước  tính thì đủ để bao quanh Trái Đất hơn 11.000 lần – băng thông Internet  đã trở thành dư dật và rẻ rúng. Định luật của Grove đã bị hủy bỏ. Và như  vậy, tối thiểu là với máy tính, mọi sự đều thay đổi. Bây giờ, dữ liệu có thể  truyền qua Internet với tốc độ của ánh sáng, toàn bộ sức mạnh của máy  tính cuối cùng có thể được phân phối tới người sử dụng ở rất xa. Không  còn quan trọng việc máy chủ chạy chương trình của bạn đặt tại trung  tâm dữ liệu ngay cuối dãy nhà hay tại một trung tâm dữ liệu của ai đó ở  tận đầu kia của đất nước. Tất cả các máy tính nay được nối với nhau và  cùng chia sẻ – chúng là một máy. Như giám đốc điều hành của Google,  Eric Schmidt, dự đoán từ năm 1995, khi ông còn là chuyên viên công  nghệ trưởng của Sun Microsystems: “Khi mạng trở thành nhanh như bộ  xử lý, máy tính sẽ bung ra và phổ biến khắp mạng lưới.” 
Những gì Internet cáp quang đã giúp cho công nghệ máy tính cũng  chính là việc mà lưới xoay chiều đã giúp cho ngành điện: nó đã làm cho  vị trí địa lý của thiết bị không còn quan trọng đối với người sử dụng. Và  nó còn làm hơn thế nữa. Do Internet được thiết kế để tiếp nhận bất kỳ  loại máy tính nào và bất kỳ dạng thông tin số nào, nên nó cũng đóng vai  trò máy biến điện hồi chuyển của Insull: nó cho phép các máy khác loại  và không tương thích hoạt động được cùng với nhau như một hệ thống  đơn nhất. Nó tạo nên sự hòa hợp từ mớ hỗn độn. Thông qua việc tạo ra  một môi trường phổ quát để truyền và biên dịch dữ liệu, Mạng khích lệ  việc hình thành các nhà máy điện toán tập trung có thể phục vụ đồng  thời hàng ngàn hay hàng triệu khách hàng. Điều mà các công ty trước  đây không có lựa chọn và phải tự cung, thì nay có thể mua như một dịch  vụ trả tiền. Và điều đó nghĩa là họ có thể tự giải phóng khỏi nhà máy số.
70 
chuyển đổi lớn 
Còn cần nhiều năm nữa để hệ thống dịch vụ tiện ích về vi tính chín  muồi. Giống như Edison và Insull trước đây, những người đi tiên phong  của ngành công nghiệp mới sẽ vấp phải những thách thức về kinh doanh  và kỹ thuật. Họ sẽ cần phải hình dung ra những cách thức tốt nhất để  đo và định giá các loại dịch vụ. Họ sẽ cần trở nên thông thạo hơn về cân  bằng tải và quản lý các hệ số đa dạng khi nhu cầu tăng lên. Họ sẽ cần phải  làm việc với chính phủ để thiết lập các quy tắc điều chỉnh hiệu quả. Họ  cần phải đạt những mức độ mới về an toàn, tin cậy, và hiệu suất. Điều  khó khăn nhất là họ phải thuyết phục những công ty lớn từ bỏ các trung  tâm dữ liệu đã được đầu tư rất nhiều tiền của. Nhưng những thách thức  này sẽ được vượt qua cũng giống như trước đây. Hiệu quả kinh tế của  công nghệ máy tính đã thay đổi, và nay nền kinh tế mới đang dẫn dắt sự  tiến bộ. Thời đại PC đang nhường bước cho một thời đại mới: thời đại  của dịch vụ tiện ích.
71 
Nhà máy số 
CHƯƠNG 4 
Xin tạm biệt, ông Gates  
“CƠN BIẾN ĐỘNG TIẾP THEO SẼ ẬP LÊN CHÚNG TA.” Những từ  này xuất hiện trong một bản thông báo rất đặc biệt Bill Gates gửi cho các  lãnh đạo và kỹ sư cấp cao của Microsoft vào ngày 30 tháng Mười năm  2005. Chẳng nhẹ nhàng như tiêu đề “Các Dịch vụ Phần mềm Internet”  của nó, bản thông báo nhằm gióng tiếng chuông cảnh báo sự nổi lên  của dịch vụ công về máy tính đã đe dọa hủy diệt việc kinh doanh truyền  thống của công ty. Cái luôn là cốt lõi cho thành công của Microsoft – địa  vị thống trị đối với PC – đang dần trở thành không còn quan trọng nữa.  Phần mềm, Gates nói với các cộng sự, không còn là thứ mà mọi người  cần phải cài đặt trên máy tính riêng biệt của họ. Vi tính đang hướng đến  dịch vụ tiện ích cung cấp qua Internet. “Nền tảng rộng lớn và giàu có của  Internet sẽ mở ra một ‘làn sóng dịch vụ’ với các ứng dụng và trải nghiệm  sẵn có để dùng ngay lúc cần tới,” ông viết với cách dùng biệt ngữ của nhà  kỹ nghệ. “Các dịch vụ được thiết kế cho hàng chục hoặc hàng trăm triệu  [người dùng] sẽ làm thay đổi một cách mạnh mẽ bản sắc và giá thành của  những giải pháp cung cấp cho các công ty hoặc các doanh nghiệp nhỏ.” 
Không khó để hình dung điều gì đã thúc bách bản thông báo trên. Khi  Gates viết nó trong văn phòng của ông tại trụ sở Microsoft ở Redmond, 
72 
chuyển đổi lớn 
Washington thì những lo ngại về tương lai của công ty đã định hình rất cụ  thể ở nơi cách đó mấy trăm dặm, tại thị trấn heo hút mang tên The Dalles  phía bắc bang Oregon. Đầu năm đó, một công ty bí ẩn, được biết dưới  cái tên Design LLC, đã lặng lẽ đàm phán với các viên chức địa phương  để mua một khu đất rộng 30 mẫu Anh (khoảng 0,4 hecta) của một cơ  quan chính phủ. Khu đất, một bộ phận của công viên công nghiệp, nằm  dọc bờ sông Columbia. Với hy vọng giữ kín được nội dung đàm phán,  công ty đã yêu cầu các viên chức thị trấn, kể cả lãnh đạo thành phố, ký  các thỏa thuận mật. Nhưng rất nhanh chóng, những chi tiết của giao  dịch trong bóng tối đã bắt đầu rò rỉ. Design LLC hóa ra chỉ là một bình  phong. Tập đoàn thực sự quan tâm tới việc mua khu đất không ai khác là  Google, công ty thống soái về tìm kiếm trên Internet, đang nhanh chóng  trở thành đối thủ nguy hiểm nhất của Microsoft. 
Tháng Hai năm 2005, Google kết thúc đàm phán, mua khu đất với giá  gần 2 triệu đôla sau khi thị trấn chấp nhận yêu cầu miễn thuế cho công  ty. Mấy trăm công nhân xây dựng và một đội máy xúc, xe tải, và xe trộn  bê tông được chuyển tới để bắt đầu làm việc cho đề án mang mã hiệu  “Đề án 2.” Công việc đòi hỏi cái mà Eric Schmidt sau này gọi là một “sự  đầu tư đồ sộ.” Khi công việc tiến triển trong năm, quy mô của cơ ngơi  đã lộ rõ. Hai nhà kho vĩ đại, không cửa sổ, mỗi chiếc có kích thước của  một sân bóng bầu dục (109,7m x 48,8m) ngự trên khu đất. Trên hai nhà  kho là bốn tháp làm lạnh, tạo cho khuôn viên một vẻ xấu xí đáng ngại.  Một bài viết trên tạp chí International Herald Tribune đã mô tả nó “lù lù  như một nhà máy nguyên tử thời đại thông tin.” 
Đó là một mô tả thích hợp. Cái Google dựng lên là một nhà máy xử  lý dữ liệu khổng lồ. Theo tất cả các chuẩn mực, nó là lớn nhất và phức  tạp nhất trên hành tinh. Được thiết kế để chứa hàng chục ngàn, thậm chí  hàng trăm ngàn máy tính, tất cả làm việc cùng nhau như một máy đơn 
73 
Xin tạm biệt, ông Gates 
nhất. Quả thực, về xử lý thông tin, nó tương đương với một nhà máy điện  hạt nhân, một máy phát dữ liệu với sức mạnh chưa từng có. Có thể trong  tương lai, chúng ta sẽ nhìn lại nhà máy The Dalles của Google chỉ như  một thí dụ tương đối sớm và đơn sơ của một trạm tính toán trung tâm,  giống như cách bây giờ chúng ta nhìn nhà máy điện phố Fisk của Samuel  Insull; nhưng hôm nay nó tiêu biểu cho sự hiện đại của dịch vụ về máy  tính. Và không nghi ngờ gì nữa, như Gates đã hiểu vào tháng Mười năm  2005, nó biểu trưng cho biến động đang làm thay đổi ngành công nghiệp  máy tính – và đẩy tương lai của Microsoft vào bất ổn.  
Vào thời điểm Google bắt đầu xây dựng nhà máy, công ty đã lắp đặt  hàng tá “trại máy chủ” ở những nơi kín đáo trên khắp thế giới. Gộp  tất cả lại, Google có tới cả nửa triệu máy tính. Nhưng nhu cầu về sức  mạnh tính toán thô vẫn tiếp tục gia tăng. The Dalles, như một tờ báo  của Oregon mô tả là “một trạm nghỉ hamburger-và-xăng giữa Portland  và Pendleton,” tỏ ra là một vị trí tuyệt hảo đối với trung tâm nhiều tham  vọng nhất của Google. Sự hẻo lánh của thị trấn tạo thuận lợi để Google  giữ an toàn cho cơ sở, và các nhân viên của họ khó bị các đối thủ thu hút.  Quan trọng hơn, thị trấn có sẵn phương tiện tiếp cận hai tài nguyên thiết  yếu nhất cho hoạt động hiệu quả của trung tâm dữ liệu: điện giá rẻ và  băng thông rộng. Google có thể cấp năng lượng cho các máy tính bằng  điện sản xuất bởi các đập thủy điện dọc sông Columbia, đặc biệt là đập  The Dalles ngay kề đó với trạm phát 1,8 gigawatt. Nó cũng có thể giảm  bớt nhu cầu điện bằng việc dùng nguồn nước sông giá lạnh để làm nguội  các máy tính. Về băng thông, thị trấn đã đầu tư xây dựng một mạng lưới  dữ liệu sợi-quang lớn với kết nối trực tiếp tới cổng Internet quốc tế ở  Harbour Pointe thuộc bang Washington gần đó. Mạng lưới này đã cung  cấp kết nối Internet mạnh mẽ mà Google rất cần để phân phối các dịch  vụ tới người dùng Web trên khắp thế giới.
74 
chuyển đổi lớn 
Các trung tâm dữ liệu của Google được thiết kế bởi một số trong  những bộ óc xuất sắc nhất của ngành khoa học máy tính. Giống như  “một máy” của Edison, chúng hoạt động như một hệ thống được điều  chỉnh tinh vi – thứ mà nhà thiết kế máy tính huyền thoại Danny Hills  gọi là “chiếc máy tính vĩ đại nhất trên hành tinh” – với từng thành phần  đều được chế tạo một cách tỉ mỉ kỹ càng để làm việc ăn khớp nhịp nhàng  với các thành phần khác. Mỗi trung tâm có một hoặc nhiều “cụm” máy  chủ được chế tạo theo đặt hàng riêng. Các máy chủ lớn hơn chút ít so  với những chiếc PC tự chế, được lắp từ các bộ vi xử lý thương phẩm rẻ  tiền và các ổ đĩa cứng mà Google mua theo lô trực tiếp từ các nhà sản  xuất. Thay vì được nối dây cố định trong các vỏ máy, các bộ phận chỉ đơn  giản được gắn lên những giá sắt cao tầng của hãng Velcro để dễ thay nếu  chúng bị hỏng. Mỗi máy tính nhận điện từ một bộ cấp nguồn do các kỹ  sư của Google sáng chế để tiêu thụ năng lượng ít nhất, và các máy đều  chạy hệ điều hành miễn phí Linux được chỉnh sửa bởi các lập trình viên  của Google. Công ty còn sở hữu hầu hết những cáp sợi quang nối các  trung tâm với nhau, cho phép điều khiển chính xác luồng dữ liệu giữa  chúng với nhau và giữa chúng với cộng đồng Internet. 
Nhân tố quan trọng nhất của hệ thống, chất keo liên kết tất cả với  nhau, là phần mềm bản quyền do Google viết để điều phối tất cả các  máy chủ trong một cụm và, ở mức cao hơn, tất cả các cụm trong tất cả  các trung tâm của công ty. Mặc dầu công ty vô cùng bí mật về công nghệ  của họ, nhưng chúng ta biết về nguyên tắc phần mềm làm việc như thế  nào để thực hiện các tìm kiếm trên Web. Trong các cơ sở dữ liệu của  mình, Google bảo quản một bản sao của hầu như toàn bộ Internet, được  thu thập và liên tục cập nhật bởi phần mềm “lưới nhện” chui luồn khắp  Web, từng đường liên kết một, quét nội dung của hàng tỉ trang nó tìm  thấy. Một tập các thuật toán bí mật phân tích tất cả các trang để tạo ra 
75 
Xin tạm biệt, ông Gates 
một danh mục toàn diện, trong đó các trang được xếp hạng theo độ thích  đáng với các từ khóa riêng biệt. Sau đó danh mục này sẽ được nhân bản  trong từng cụm máy. Khi người dùng nhập một từ khóa vào công cụ  tìm kiếm Google, phần mềm sẽ chuyển yêu cầu tới một trong các cụm,  ở đó nó được xem xét đồng thời bởi hàng trăm hay hàng ngàn máy chủ.  Vì mỗi máy chủ chỉ phải so sánh từ khóa với một phần nhỏ của toàn  bộ danh mục – thứ mà Google gọi là một “mảnh danh mục” – cách “xử  lý song song” này nhanh hơn nhiều so với một máy tính đơn nhất phải  so từ khóa với toàn bộ danh mục. Phần mềm thu thập và tổng hợp tất  cả các trả lời từ các máy chủ, xếp hạng các trang phù hợp theo mức độ  thích đáng, và gửi danh sách kết quả trở lại máy tính của người tìm kiếm.  
Theo các kỹ sư Google, mặc dù một yêu cầu tìm kiếm điển hình đòi  hỏi “hàng ngàn tỉ xung nhịp [của bộ vi xử lý]” và việc đọc “hàng trăm  megabytes dữ liệu,” toàn bộ quá trình được hoàn tất chỉ trong một phần  của một giây. Đó là do phần mềm điều phối, đóng vai một dạng cảnh  sát giao thông, đảm bảo việc xử lý được phân phối cân bằng cho tất cả  các cụm và các máy chủ riêng lẻ. Nó giữ cho toàn bộ hệ thống làm việc  nhanh chóng và hiệu quả nhất có thể. Và khi một máy tính hay một bộ  phận bị hỏng, phần mềm chỉ việc phân luồng công việc để bỏ qua chỗ  hỏng đó. Bởi hệ thống được xây dựng với nhiều ngàn thành phần nên  không có một thành phần nào trong đó là thiết yếu, hệ thống là an toàn  với hỏng hóc. Nó không thể bị sụp đổ. 
Không có hệ thống máy tính doanh nghiệp nào, ngay cả những hệ  thống của các tập đoàn rất lớn, có thể sánh được về hiệu quả, tốc độ, và  sự linh hoạt với hệ thống Google. Một nhà phân tích ước lượng Google  có thể thực hiện cùng một công việc tính toán với chỉ một phần mười  chi phí mà một công ty điển hình phải trả. Đó là lý do tại sao Google lại  làm cho Bill Gates và các nhà lãnh đạo công nghệ khác phải lo lắng như 
76 
chuyển đổi lớn 
vậy. Nó hàm chứa tiềm năng đầy đủ của dịch vụ về máy tính. Nếu các  công ty có thể dựa vào các trạm trung tâm như của Google để thỏa mãn  tất cả hoặc hầu hết các nhu cầu tính toán, họ sẽ cắt giảm được đáng kể  kinh phí chi cho phần cứng và phần mềm riêng – và tất cả những đồng  đôla tiết kiệm được đáng lẽ đã chui vào túi của Microsoft và các công ty  kỹ nghệ khổng lồ khác. Các nhà cung cấp truyền thống thậm chí cũng  không hề được an ủi với hy vọng có thể bán các sản phẩm của họ cho  các dịch vụ tiện ích mới. Cuối cùng, Google lắp ráp các máy tính riêng  của nó và sử dụng phần mềm nguồn mở miễn phí. Nó chẳng mấy cần  tới các nhà cung cấp cổ điển. 
Khi mở rộng tiện ích công cộng, Google đã nhanh chóng giới thiệu  các dịch vụ mới cũng như mua lại các dịch vụ phát triển bởi các công ty  khác. Nhiều dịch vụ như vậy, từ công cụ bản đồ Google Earth, trang chia  sẻ video YouTube tới công cụ viết blog như Bloger đều chủ yếu nhắm  vào người tiêu thụ. Nhưng Google cũng đã bắt đầu xâm nhập vào thị  trường doanh nghiệp. Nó đã tung ra một gói dịch vụ thịnh hành tên là  Google Apps, cạnh tranh trực tiếp với một trong những sản phẩm làm  ra nhiều tiền nhất của Microsoft, bộ Office. Google Apps bao gồm xử lý  văn bản, bảng tính điện tử, email, lịch biểu, nhắn tin trực tuyến, thiết kế  và hosting cho trang web. Giá của bộ ứng dụng này chỉ có 50 đôla cho  một người một năm; và một phiên bản tiêu chuẩn có kèm quảng cáo thì  miễn phí. Để dùng các chương trình này, bạn chỉ cần một PC rẻ tiền và  một trình duyệt. Giờ đây hầu hết các nhu cầu tính toán thường ngày của  nhiều công ty nhỏ đã được thỏa mãn với phần mềm chạy tại các trung  tâm dữ liệu của Google. Khi Google tiếp tục lớn mạnh thêm – năm 2007  nó đã tuyên bố kế hoạch xây dựng các trung tâm mới tại Bắc Carolina,  Nam Carolina, Oklahoma, và Iowa – thì càng có nhiều công ty hơn rơi  vào nhóm này.
77 
Xin tạm biệt, ông Gates 
Mặc dù có thể là lực lượng lớn nhất trong lĩnh vực điện toán theo yêu cầu  ở thời điểm hiện tại, Google không hề là công ty duy nhất đi tiên phong ở  lĩnh vực mới này. Các công ty khác, chuyên hơn về “Phần mềm như một  dịch vụ” đưa ra các chương trình kinh doanh truyền thống hơn – cho  quản lý tài chính, hay điều phối bán hàng và tiếp thị – trên Internet. Và  họ xâm nhập mạnh mẽ vào thị trường các doanh nghiệp. 
Dẫn đầu trong khu vực này là một công ty tăng trưởng nhanh ở San  Francisco mang tên Salesforce.com. Người sáng lập, Marc Benioff, sẽ  không bao giờ có thể bị nhầm lẫn với Samuel Insull – bởi đây là một  người hướng ngoại, vạm vỡ với tóc xù và bộ râu bờm xờm, và được mệnh  danh là “cái mồm to nhất Thung lũng Silicon” – nhưng câu chuyện của  ông lại không mấy khác với câu chuyện của Insull. Ông làm việc mười  ba năm cho công ty kỹ nghệ khổng lồ Oracle, nơi ông nhận được sự đỡ  đầu của Giám đốc Điều hành Larry Ellison. Phần mềm sơ sở dữ liệu  quan hệ của Oracle, giống như hệ điều hành và các ứng dụng thương  mại của Microsoft, trong những năm 1980 và 1990 đã trở thành một  thành phần phổ biến của các hệ thống máy con - máy chủ, đưa công ty  lên hàng đầu các doanh nghiệp máy tính và biến Ellison thành một đại  tỉ phú. Benioff đã thành đạt tại Oracle, trở thành một trong những nhà  quản lý hàng đầu của công ty. 
Nhưng cũng như Insull trở nên bất đồng với Edison và chiến lược  kinh doanh ông theo đuổi tại General Electric, Benioff cũng thành bất  kham tại Oracle trong những năm cuối 1990. Mặc dù công ty kiếm bộn  tiền vào thời gian đó, nhờ sự phát triển về “thương mại điện tử”, Benioff  đã tin rằng toàn bộ công nghiệp phần mềm thương mại đã tận số. Cách  thức kinh doanh truyền thống – cài đặt các chương trình lớn, phức tạp  trên các máy tính của khách hàng, rồi thu tiền bản quyền và phí bảo hành  cao hàng năm – sẽ không thể bền vững lâu được nữa. Benioff nhận thấy 
78 
chuyển đổi lớn 
sự lớn mạnh của Internet sẽ sớm giúp các công ty không phải đau đầu  bởi các chi phí cao cho việc sở hữu và chạy các ứng dụng của riêng họ. Năm 1999, trong khi tuyên bố “sự tận số của phần mềm” sắp tới với  mọi nhà báo chịu lắng nghe, Benioff rời bỏ Oracle và cùng với một kỹ  sư phần mềm thiên tài tên Parker Harris sáng lập Salesforce.com. Công  ty cung cấp một dạng phổ biến của phần mềm kinh doanh gọi là quản  lý quan hệ khách hàng, hay CRM, giúp đội ngũ bán hàng theo dõi các tài  khoản của họ. CRM là một thị phần rộng lớn và béo bở của công nghiệp  phần mềm, nhưng nó cũng tượng trưng cho tất cả những sai sót của  ngành công nghiệp này. Các hệ thống CRM rất khó cài đặt, khó sử dụng,  và thường đắt tới hàng trăm ngàn đôla. Những công ty mua hệ thống này  hiếm khi thu hồi nổi vốn đầu tư. Nhưng các hãng cung cấp phần mềm,  đặc biệt là hãng hàng đầu về hệ thống CRM, Siebel Systems, lại cực kỳ lãi. Sản phẩm Benioff chào mời các công ty là tương đối khác biệt. Họ  không cần phải mua bản quyền phần mềm hay các hợp đồng bảo hành.  Họ không cần phải đầu tư để mua thêm bất kỳ một máy chủ hay thiết bị  mới nào cả. Họ không cần thuê người tư vấn để tích hợp vào hệ thống  của mình. Các nhân viên tiếp thị và bán hàng của họ chỉ cần mở trình  duyệt Web, vào trang của Salesforce, và bắt đầu làm việc. Tất cả mã phần  mềm và tất cả dữ liệu của họ đều nằm trên các máy tính của Salesforce.  Khi chương trình cần được nâng cấp thì một phiên bản mới đơn giản sẽ  xuất hiện. Giá cả thấp một cách đáng ngạc nhiên so với các hệ thống CRM truyền thống – 50 đôla một người một tháng – và các công ty có thể thử  dùng hệ thống miễn phí để bảo đảm nó đáp ứng đúng các nhu cầu của họ. Khi lập ra công ty, Benioff đã vấp phải bức tường của sự hoài nghi.  Với những người mua đã thất vọng với các hứa hẹn phô trương của công  nghiệp phần mềm thì lời chào mời của Benioff là quá tốt đến mức khó  tin. Và những khách hàng tương lai cũng có những lo ngại rất thực tế: 
79 
Xin tạm biệt, ông Gates