🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Để Quên
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Table of Contents
... Sừng sững một tòa ngôn ngữ chân chất, tinh diệu… Những ngày đầu
Khiêng máy
Thảo
Tội làng
Khác trước
Người mất trí
Chuyện đầm sen đền Đồng Cổ
Bác Niệm
Hai đứa trẻ đợi đi
Một đêm gác rừng
Hết một buổi chiều
Chuyện cũ
Hoa bìm biển
Chuyện để quên
Tình buồn
Cối, cối ơ!
Nước mắt
https://thuviensach.vn
... Sừng sững một tòa ngôn ngữ chân chất, tinh diệu…
(Thay lời giới thiệu)
Trong tập tùy bút Thăm thẳm bóng người của Đỗ Chu, Nguyễn Tuân, Tô Hoài được tác giả giới thiệu bằng cảm hứng và lời văn trác tuyệt. Trong thăm thẳm bóng người có bóng ta. Có thăm thẳm bóng Nguyễn Tuân trong những kiệt tác ông để lại cho đời. Tô Hoài còn đấy, “ đứng chống đòn gánh, dưới chân là hai quang sách nặng ”, bóng của hàng triệu độc giả hòa vào bóng Tô Hoài trong những tác phẩm bất hủ của ông. Trước “cốt kiêu” và uy bút lực của hai ông, Đỗ Chu - lần đầu tiên tôi thấy - ... đứng khép nép.
Tôi đã có lần khép nép trước một tác phẩm của Tô Hoài, đó là Chuyện đầm sen Đền Đồng Cổ in trong tập truyện ngắn này. Sau Giăng thề, đây là kiệt tác thứ hai của Tô Hoài. ( Dế mèn phiêu lưu ký đương nhiên là một tác phẩm bất hủ, nhưng ý tôi nên xếp sang một chiếu khác). Trong Chuyện đầm sen Đền Đồng Cổ, hơi thở hùng tráng của lịch sử vừa kín đáo, vừa mãnh liệt chạm vào tình cảm sâu lắng nhất của bất kỳ độc giả người Việt nào. Ta gặp lại đam mê của Tô Hoài quan sát những lễ tục dân gian và sự am hiểu tinh tường những tập quán ngành nghề, sinh hoạt mà tác giả miêu tả.
Cảnh đám rước kiệu “bà” quay tròn:
“ Kiệu bát cống quay tròn, bây giờ mới thật như chiếc hoa giữa đám hội, vừa bay vừa cong cánh nở. Lòng hân hoan mong đợi của cả
https://thuviensach.vn
ngàn người xem hội cứ thế bồng bột mãi lên. Hai mươi bốn trai kiệu, nghe tiếng trống khẩu, một lượt quỳ như hai mươi bốn thớt voi rồi từ từ bò qua gò, vai kiệu vẫn phẳng lừ như tường đứng. ” (tr. 146)
Mùa vụ cây dó (làm bột giấy):
“ Cạn kỳ dó chính tuyết, vừa cuối thu. Lần sang vụ dó Một Chạp đế n tháng Giêng là “đầu giao”. Một Chạp hay “đầu giao”, áo dó mới lột, quệt sương hay mưa đều ố nước, mất công phơi nhiều nắng mới bó được. Nhưng vừa xong cái vất vả rừng này lại phải lặn lội sang rừng khác, đã vào vụ dó chiêm. Dó chiêm tiếp dó đuôi tháng, quanh lại vừa trở lại chính tuyết. ” (tr. 163)
Đúng là Tô Hoài. Chỉ có thể là Tô Hoài.
Nhưng cái mà tôi kính nể là đọc tác phẩm này tôi như đứng trước sừng sững một tòa ngôn ngữ chân chất và tinh diệu. “Trong ngọc” nhất trong tòa ngôn ngữ này là những câu văn thuộc loại “văn xuôi thơ” sáng giá của văn chương Việt Nam hiện đại. Đây là những câu văn tả tình cảnh một người con gái ngồi trên thuyền ngược sông đi lấy chồng giầu mạn ngược:
“Những lời hò vui mà thảm thiết:
Ra khoang… em bước… qua cầu…
Bến vui em đến…
Trên mui bỗng lóng lánh một trời sao. Con thuyền đêm nao cũng đi qua một trời sao ấy. Dù cho con người có cạn nước mắt rồi cũng muốn hy vọng, như người chèo thuyền mong đến bến…
https://thuviensach.vn
Một đêm, Hạ ra khoang sau. Hạ ngồi một lúc thật lâu. Bốn bề lặng ngắt. Những ngôi sao long lanh nhỏ lã chã những giọt nước mắt xuống thế gian…” (tr. 162)
Một lần Hội nghị nhà văn trẻ, nghe giới thiệu nhà văn Tô Hoài lên phát biểu ý kiến, cả hội trường im phăng phắc. Trái với sự chờ đợi của mọi người, nhà văn lão thành lên diễn đàn chỉ để nói với các nhà văn trẻ một câu: “… chừng nào chưa phân biệt được “ mồm ” và “ miệng ” thì đừng có cầm bút… ”. Tôi thiết nghĩ các bạn trẻ háo hức viế t văn nên tìm đọc Chuyện đầm sen Đền Đồng Cổ , đọc xong mà nhận ra được vốn ngôn từ của mình sao mà nó nghèo nàn, thảm hại, xô bồ đến thế thì dù có tiến hay thoái cũng là một sự thức nhận hết sức có ích.
Thăm thẳm bóng người trong tập truyện ngắn này:
Bóng cô Cúc, “một sinh viên người Huế đẹp tuyệt trần” được nhà văn Tô Hoài trao cho bản thảo cuốn tiểu thuyết Đêm mưa “ một chiều đông rét mướt” năm 1946 và tòa nhà lưu niệm “tiêu điều, ảm đạm” của bà Điềm (cô Cúc năm xưa, nay đã trở thành nhà điêu khắc nổi tiếng Điềm Phùng Thị),... “trong những tủ kính trang nhã, phủ bụi mấy bức khắc tự họa của nhà điêu khắc”. (Hồi ký Tiểu thuyết đêm mưa)
Một người đàn bà “cả đời chỉ đi bói chèo ước mong tái hợp” vì chồng đi “đất đỏ Sài Goòng” mãi không trở về. ( Cô đào Thương)
Bà Tứ dở điên dở dại lúc hấp hối phải gặp được người tình năm xưa mới yên tâm nhắm mắt. ( Tình buồn)
Có một loạt truyện giúp độc giả hình dung được đầy đủ hơn trí tưởng tượng kỳ thú và hóm hỉnh của tác giả Dế mèn phiêu lưu ký :
https://thuviensach.vn
Đôi ri đá, Con gà trống ri, Truyện gã chuột bạch, Một cuộc bể dâu, Mụ ngan…
Trong những truyện về các dân tộc miền núi mà tiêu biểu là truyện Vợ chồng A Phủ, còn gì giản dị và sâu sắc hơn tinh thần cứu đất cứu mường nảy sinh trong tâm khảm và gắn với cuộc đời của các nhân vật.
“ … Nhấn nhớ lại cả cái đời thảm của mẹ và của mình. Nhấn muốn khóc.
Giữa khi ấy thì tiếng chim kỳ lanh lảnh như tiếng kèn giục phường săn. Nhấn không khóc được. Nhưng từ đấy, trong đời chiến đấu của người bộ đội, mỗi khi nghe trên cánh rừng, đầu rừng nào có tiếng chim kỳ kêu, Nhấn tưởng hồn mẹ và hồn em đi đâu cũng đuổi theo Nhấn .” ( Cứu đất cứu mường)
Tập Chuyện để quên có những truyện rất “quý”, làm sống lại không khí hồ hởi hồn nhiên của những năm đầu kháng chiến, những đoàn dân công, bộ đội, cán bộ đi công tác…
Truyện - ký Khiêng máy là một tác phẩm xuất sắc. Tiêu biểu là cảnh đám công nhân nhà in báo “ Cứu quốc Việt Bắc” khiêng máy nghỉ lại ở lán.
“…Cứ tố i đến, các lán sàn trên, sàn dưới, hai tầng ghép lại bằng ố ng vầu tươi, người nằm người ngồi ngổn ngang. Một ngày cật lực khiêng máy, vác giấy, tải gạo, tải muối… Tưởng như mỗi khi ngả lưng xuống thì thiếp đi đến chết. Tiếng moóc-chi-ê ình oàng vào sương đêm, không biết từ phía nào. Nhưng chẳng ai có thể chợp mắt. Từ chập tối đến khuya, người nằm cứ rào rào kháo đủ các thứ chuyện. Chẳng chuyện nào vào chuyện nào, nhưng
https://thuviensach.vn
thú vị, hả hê. Họ đố nhau ăn uống cái gì ngon nhất, rồi lấy quần áo ra đổi chác. Quanh quẩn chỉ vài cái cứ đổi đi đổi lại lẫn lộn, như bọn đánh bạc. Lúc thì ồn ào như đương chè chén ở hiệu cao lâu. Lúc thì tranh nhau giá cả, bớt xén như ở nhà cầm đồ Vạn Bảo. Lúc lại bắt chước vợ chồng ỏn ẻn, nũng nịu. Rồi hát tuồng, gẩy đàn mồm, mãi khuya mới ngớt “cuộc vui”...” (Khiêng máy)
Có những truyện nói về cuộc sống cơ cực của người dân trong vùng bị chiếm đóng.
“Hờn khoác thừng kéo cày vào người, lúc đổi vai, lúc thắt ngang bụng. Cái cánh tay cụt giơ lên, cóng rét, bị nếp thừng kéo thít xuống. Có hôm chỗ đau lại bật máu ra, chảy thấm xuống tận nách áo. Nhưng Hờn vẫn cắn răng, lội. Hờn chỉ còn sức dựa vào cái thừng, lạch đi. Trên cánh đồng này biết bao nhiêu người bì bõm cầy bừa, cấy hái quanh năm như thế, cho đến lúc phía tỉnh gầm gừ tiếng xe, trời tảng sáng, các đồn bốt dọc đường sắp xua nhà phạt và lính tráng vác gậy đi dò mìn, thì những người làm đồng kiệt sức mới lục đục về làng.” (Người mất trí)
Trong một thời gian khá dài (hơn bốn năm), tôi tham gia làm đề tài nghiên cứu khoa học do anh Tô Hoài chủ trì. Thời gian đầu, một tháng họp một lần. Công việc tiến triển hơi chậm, anh Tô Hoài quyết định một tuần họp một lần. Tôi nghĩ bụng đến tuần thứ ba không biết còn chuyện gì để mà bàn, có khi phải hai, ba chầu bia mới hết buổi. Nhưng không phải như vậy. Tô Hoài là một kho chuyện vô tận, có khi một nghìn lẻ một buổi họp vẫn chưa hết chuyện, không riêng gì chuyện văn hóa, văn nghệ, hình như chuyện gì anh cũng biết, chuyện nào anh cũng nhớ vài ba chi tiết đặc sắc, rất quan trọng. Không riêng gì những thời kỳ gần đây, mà những chuyện thời Tự lực văn đoàn và Thơ mới, thời Đề cương văn hóa và
https://thuviensach.vn
Văn hóa cứu quốc, những năm đầu kháng chiến... anh Tô Hoài vẫn nhớ và nhớ tường tận. Những chuyện anh hồi tưởng và kể lại bao giờ cũng hấp dẫn. Anh rất quan tâm đến sự chính xác: tên người, địa danh, niên đại, những sự kiện lịch sử và những chi tiết của đời sống thực tại. Tô Hoài hay nhận xét về những chỗ sai, không chính xác trong các bài báo, bài văn và công trình nghiên cứu anh đọc nhưng tôi chưa thấy ai nêu những điều không chính xác trong những trang viết của anh. Duy có một lần Nguyễn Nguyên, một ký giả lão thành ở Sài Goòng nói với tôi: “Trong bút ký, hồi ký của Tô Hoài có những chi tiết thần tình, phải là một người sành ăn thì miếng thịt chó ngon mới gọi là “đặm và phải chăng cái miếng thịt”. Chỉ tiếc là trong một bài viết về “xóc đĩa” đăng trên Kiến thức ngày nay hồi năm trước có những chi tiết sai, tôi có cảm tưởng là Tô Hoài chưa từng bước chân vào sòng xóc đĩa.”
Nghe anh Tô Hoài hồi ức về “những năm tháng, con người và cuộc đời”, tôi hình dung một lịch sử văn hóa, văn nghệ khác, không giống như những điều được trình bày trong những bộ sử đã công bố, nó phong phú hơn, sống động hơn, chứa chất kịch tính, xem ra thảm hơn, mà cũng lớn lao hơn. Cuối cùng thì tôi thông, họp tuần một lần không phải là nhiều vì đề tài nghiên cứu của chúng tôi có liên quan mật thiết đến lịch sử văn hóa. Những chuyện anh Tô Hoài hồi tưởng và kể lại thiên về giải ảo hơn là ảo hóa những người thật, việc thật. Cách nhìn giải ảo thường là một nhân tố tiến bộ trong văn hóa, nhất là khi người giải ảo có ý thức đặt sự thật cao hơn những ước lệ và cấm kỵ. Tô Hoài quá hiểu lịch sử và lịch sử xem ra cũng nể ngòi bút hồi ký của ông. Tô Hoài không chỉ là một nhà tiểu thuyết phong tục có hạng, tác giả Cát bụi chân ai còn là một tác gia hồi ký bậc thày, vả chăng những truyện hay của Tô Hoài thường là mang tính chất hồi ký: Giăng thề (1943), Mười năm (1957 ), Tự
https://thuviensach.vn
truyện (1978), Ba người khác ... Anh Tô Hoài không thích nói chuyện sách vở nhưng khi nói chuyện đụng đến những công trình nghiên cứu thì thấy anh có đọc và đọc khá nhiều. Tôi vẫn cho rằng khổ công đọc sách là một biểu hiện đáng tin cậy của sự khiêm tốn, có thể giả vờ khiêm tốn trong ứng xử nhưng đọc sách thì không giả vờ được. Trong một chuyến thày trò trường viết văn Nguyễn Du hành hương về Tiên Điền, Nghi Xuân thăm quê hương đại thi hào có nhà văn Tô Hoài, chủ tịch đầu tiên và cuối cùng Hội đồng giáo dục Trường Nguyễn Du cùng đi. Trong buổi lễ viếng mộ, mọi người nín lặng khi nhà văn Tô Hoài bước ra đứng trước mộ. Ông thắp nhang, rưới rượu lên mồ rồi ông rót rượu vào cái chén ông cầm trên tay và uống cạn chén rượu trước mộ Nguyễn Du và trước mặt mọi người. Tôi nghe tiếng mấy sinh viên viết văn thì thào: “Tô Hoài tranh thủ uống rượu”, “Tô Hoài cũng ngang đấy chứ”... Tôi nghĩ đến hai câu thơ chữ Hán trong bài thơ Đối tửu của Nguyễn Du:
Sinh tiền bất tận tam bôi tửu
Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi.
Diễn nghĩa:
Lúc sống không uống cạn hồ rượu
Chết rồi ai rưới ruợu trên mồ cho?
Làm đề tài nghiên cứu khoa học, về bất kỳ vấn đề nào anh Tô Hoài cũng có chủ kiến riêng. Về vấn đề tranh luận: làm thơ bằng ý hay bằng chữ ? Ý kiến của Tô Hoài: làm thơ bằng chữ nhưng vấn đề là người làm thơ sống những chữ của mình như thế nào? Tôi thấy nói như vậy cũng là rõ và đủ. Đề tài của chúng tôi được phân thành nhiều vấn đề. Giải quyết mỗi vấn đề, trong
https://thuviensach.vn
nhóm đề tài (có Ngọc Trai, Vương Trí Nhàn và tôi) mỗi người viết bài, sau đó anh Tô Hoài tổng kết. Tôi nghiệm thấy trong bài tổng kết, anh Tô Hoài hầu như chỉ trình bày những chủ kiến riêng của anh. Mặt khác, anh Tô Hoài không bao giờ có ý định đưa ra những ý kiến hướng dẫn, dù là dưới hình thức góp ý, gợi ý nhẹ nhàng. Riêng tôi thấy cách làm việc như vậy hết sức dễ chịu. Có một buổi sinh hoạt nhóm tôi trình bày những ý kiến của tôi về văn hóa làng. Sang buổi sau anh Tô Hoài đưa tôi cuốn sách của Nguyễn Hồ ng Phong về Công xã nông thôn và hỏi: “Hiến đã đọc cuốn này chưa?”. Quả nhiên tôi chưa đọc cuốn này và đây là một tài liệu quý đối với đề tài của tôi, không có nó nội dung bài viết của tôi sẽ kém phần “chắc thiệt” nhiều. Trên đời có một loại ân nhân rất đáng quý nhưng lại ít được chú ý, đó là những người biết ta đương cần đọc cuốn sách gì và đưa cho ta một cách hồn nhiên đúng cuốn sách ấy. Trong các bạn đồng nghiệp ở trong nước, loại ân nhân này rất hiếm. Trong những bạn đồng nghiệp Pháp, Mỹ và Việt kiều dễ gặp hơn những người sẵn sàng chia sẻ sách và tư liệu với mình. Không có những cuốn sách mà Dan Duffy, Neil Jameison, François Jullien, Nguyễn Bá Chung (Mỹ), Nguyễn Ngọc Giao (Pháp)... cho tôi, những công trình biên khảo của tôi sẽ khó khăn hơn rất nhiều.
Những ý kiến riêng của anh Tô Hoài đôi khi rất bất ngờ. Trong một cuộc hội thảo, có một diễn giả nói rất mạnh về sự thiếu khiêm tốn trong giới trí thức. Đây là một định kiến phổ biến và tôi cũng nghĩ như vậy. Giờ nghỉ, anh Tô Hoài nói với tôi: “Lạ thật, cứ nói đến trí thức là nhấn mạnh vào bệnh không khiêm tốn, tất cả những người trí thức tôi biết đều hết sức khiêm tốn, không khiêm tốn làm sao có trí thức được?” Tôi thấy anh Tô Hoài có lý. Thiện cảm và ác cảm ở anh Tô Hoài cũng rất riêng. Có một người bạn văn anh Tô Hoài quen đã hơn bốn chục năm nhưng chưa lần nào anh đến chơi
https://thuviensach.vn
nhà, anh giải thích: “Giả dụ hôm nay tôi mời ông ấy ăn phở, y như rằng ngày hôm sau ông ta mời bằng được trả lại ngay, những người như vậy tôi thấy rất khó giao thiệp”.
Hoàng Ngọc Hiến
https://thuviensach.vn
Những ngày đầu
Mấy hôm nay, Tây đánh loang ra các làng và phố ngoại ô.
Vệ quốc đoàn và tự vệ chỗ nào cũng đương rối tít mù, lúc tiến lên lúc chạy xuống, trong từng ngõ, từng cánh đồng.
Trên ụ đất cao lẩn giữa lũy tre cuối cánh đồng, đội trưởng Trường đứng cầm ống nhòm nhìn ra. Trước mắt, đạn moóc-chi-ê bay vòn vọt tới, đỏ hỏn, nổ oàng giữa sương mù. Ở dưới ruộng, từ đằng xa chạy lại một bé liên lạc, vừa chạy vừa kêu to, váng cả vào trong xóm.
- Vỡ mặt trận rồi! Vỡ mặt trận rồi!
Chú ấy là liên lạc Vệ quốc đoàn hay của tự vệ, hay có khi là Việt gian đi phao tin, không biết chừng. Đội trưởng Trường quát to, bắt thằng bé đứng lại. Nhưng nó đã chạy thẳng vào trong xóm, mặc kệ cả đội trưởng đương giơ tay nhăm nhắm dứ quả lựu đạn. Tiếng kêu “vỡ mặt trận” vẫn hốt hoảng lanh lảnh réo lên.
Ban tiếp tế đương thổi cơm, bỏ cả nồi, cả mấy chục cái bắp cải và một cái nồi ba mươi mật giọt.
Thế rồ i, không biết từ lúc nào, ngoài đường đã lại cồng kềnh từng gánh, từng khiêng sổ sách, xanh nồi, lựu đạn, mã tấu và một cái tượng Cụ Hồ bằng đất trắng… Người và đồ đạc ban chỉ huy đội tự vệ lại chạy một lần nữa, lại chạy nữa. Lần này thì tràn được vào trong làng rồi.
https://thuviensach.vn
Từ hôm Pháp đánh ra ngoài đầu ô, đội tự vệ ăn ở lưu động, lúc nào cũng thiếu ngủ, mệt mỏi, lử lả, không biết thế nào là ngày là đêm.
Cả vùng trống không không còn gì. Người các làng đã gồng gánh sang bên kia sông rồi. Bởi vậy, đội tự vệ ở lại xác xơ chẳng còn đến cả một nắm muối. Vậy mà đi đâu nặng mấy, cũng vẫn chịu khó khiêng lắc lư cái nồi ba mươi, từng khiêng sổ sách…
Trên những thửa ruộng cải bắ p, cải bẹ, cải thìa bỏ hoang, các chị cứu thương và tiếp tế đi mót từng lá về luộc ăn vã. Có những anh lấm vùi từ đầ u tới chân, xách về một rổ tép xúc ở chuôm với một xâu chuột đồng vừa hun được.
Tất cả, lố nhố, lếch thếch đuổi theo đám tự vệ quẩy đồ đạc đi trước.
Đội trưởng Trường quát to:
- Phải… tư cách tự vệ mới được…
Nhưng chẳng ai nghe, họ vẫn chạy. Đội trưởng quát thì quát, chứ đã đói dài, chẳng thể cấm nổi người đi mò, người đi mót.
Đội trưởng Trường và mấy người nữa chạy sau cùng. Vừa ra khỏi cánh đồng, đã trông thấy đằng đầu làng bốc khói đen. Tây đương đốt nhà đằng ấy. Trong chốc lát, khói đã mù mịt cả làng. Tiếng nổ súng tắc bọp… tắc bọp… lác đác kỳ quái, nổi trên ngọn tre. Nhiều người đi trên đường cái, kêu: “Việt gian! Việt gian!” Người ta hốt hoảng đấy là tiếng súng “tắc bọp” của Việt gian bắn báo hiệu. Ở đâu cũng thấy: đầu bụi tre cũng có tiếng tắc bọp.
https://thuviensach.vn
Nhiều người đương đi, bỗng thở không ra hơi, ngồi rũ xuống khóc. Trường đứng lại, cầm cái ống nhòm giơ lên, quay nhìn lại. Cánh đồng đương tan sương. Khói đốt làng nhòe nhòe vàng chóe trong hai mắt kính ống nhòm. Có lẽ cái ống nhòm để cho người ta tin tưởng võ khí hơn là tác dụng thật có của nó. Nhiều người cũng đứng lại quanh Trường. Tiếng khóc thút thít. Những tròng mắt đỏ hoe. Trên bãi cỏ, lao xao tiếng cãi nhau:
- Mất mẹ nó làng rồi!
- Đánh chác làm sao bây giờ?
Đội trưởng Trường buông ống nhòm xuống ngang thắt lưng, gắt:
- Mất làng mà phải khóc a? Ở Nam Bộ người ta cũng đương khóc cả đấy a? Không biết xấu hổ! Được, chúng ta sẽ tiến về tận làng, sẽ cho nó biết tay.
Rồi Trường lại nâng ống nhòm, điềm nhiên quay phải, quay trái. Mấy người cuối cùng còn sót lại trong làng đương chạy ra.
Thế là họ bỏ lại sau lưng cái làng rỗng không, không còn ai và cũng không ai về làng được nữa. Tuy nói cứng vậy, nhưng Trường cũng cảm thấy mủi lòng như vừa chạm phải một điều gì tủi cực, uất ức. Đội tự vệ còn mười quả lựu đạn, mấy thanh kiếm, một cái ống nhòm. Làm thế nào bây giờ?
Nhưng Trường vẫn cứ lẩm bẩm nói:
- Được, chúng mày sẽ biết…
https://thuviensach.vn
Câu nói dường như cũng làm cho mọi người vững tinh thần hơn. Họ kéo vào đóng ở làng bên cạnh, xa xa Tây đã mon men ở bên kia cánh đồng.
*
* *
Thình lình, ngay sớm hôm sau, quân địch lại tấn công.
Người các làng trên chạy xô xuống càng nhiều. Tiếng đạn nổ chi chít, lắc cắc như ngô rang, chốc chốc lại điểm thòm một phát moóc-chi-ê, như trống chầu, trống thúc.
Đại đội trưởng Vệ quốc đoàn đi tuần suốt đêm vừa về, đương ngủ thu lu trong ổ rơm, lại choàng dậy. Đội trưởng tự vệ Trường lòe xòe cái áo ba-đờ-xuy ngoài bằng dạ lót khố tải, tất tả, hớt hải chạy theo. Từ hôm mặt trận lan tới, khi nào cũng thấy hai người đi với nhau. Mỗi lúc, moóc-chi-ê câu xuống gần quanh thì cả hai lại bò rạp rồi lại nhỏm lên chạy, lại nằm rạp, lại chúi xuống lạch nước. Mỗi lần nằm tránh đạn như thế, đại đội trưởng Vệ quốc đoàn người Tày vẫn như không chịu khuất phục, còn nghếch đầu lên, chửi thật to:
- Chỏ mừ! Đồ chỏ mừ! Mẹ nó! Mẹ nó!
Hai người chạy bộ lên phía mặt trận. Có đến ba, bốn cây số! Chốc chốc, gặp một ai còn lại trong làng bấy giờ mới chịu nhào ra, thì cả hai người lại hấp tấp tranh nhau hỏi - dường không nhớ rằng họ đương là những người chỉ huy quân sự.
- Trên ấy thế nào? Trên ấy thế nào, hả các ông các bà, các đồng chí?
https://thuviensach.vn
- Vệ quốc đoàn bị thương nhiều lắm, các anh ơi!
Nghe thế, đại đội trưởng quay sang bảo đội trưởng tự vệ: - Về gọi cứu thương mau lên.
Bấy giờ Trường mới ngớ ra, sực nhớ mình từ nãy đã chạy quàng theo đại đội trưởng, quên cả đội tự vệ, cả công việc đã được phân công. Trường quay trở lại.
Nhưng ở trạm cứu thương không còn ai. Cả tự vệ nữa, đi đâu hết. Có lẽ họ ùa hết cả lên phía có tiếng súng rồi. Có lẽ họ đã chạy lên mặt trận trước cả ta. Thì Vệ quốc đoàn cũng như tự vệ, chỉ đợi đi đánh nhau, chân tay không, cũng cứ ra. Trường sục vào ban tiếp tế. Ở đây, may quá, còn cô Mỳ và cô Phấn đứng đợi gánh cơm. Trường hỏi. Quả nhiên, họ bảo:
- Lên tuốt trên ấy rồi. Sốt ruột quá!
Họ lên cả mặt trận mà đội trưởng cũng không biết. Trường càng cuống quýt:
- Các chị lên ngay xem thế nào. Có ai bị thương thì đỡ đầ n anh em về với.
Rồi Trường lại tất tả, lòe xòe cái áo dạ khoác, chạy bay lên phía đương râm ran tiếng nổ.
Trên đường đằng ấy về, tự vệ và cứu thương các làng, và cả người làng nữa, chốc lại một bọn, xúm xít khiêng người bị thương, người chết về.
https://thuviensach.vn
Những tự vệ và cứu thương ở mặt trận từ tờ mờ sáng, vừa đói, vừa rét, mặt xanh xám nhợt nhạt. Hơi thuốc súng còn quấn theo họ xuống tận đây. Người và quần áo, và cả như hơi thở, bốc mùi khét lèn lẹt.
Tây đã tới được bên kia bờ nước, chỗ đầu Cổng Rong.
Đánh nhau đến giữa trưa thì Vệ quốc đoàn rút về. Có lẽ bọn địch cũng hết hơi, không tiế n được nữa, đã dừng lại bên ấy. Tự vệ các làng chia nhau bám suốt bờ bên này, gác lên tận miế u Giời Ơi, ngay bên đầm, trông thẳng sang chỗ địch đóng. Bởi vậy, hễ từ làng ra, vượt bãi tha ma sang miếu, địch ở bên kia đã trông thấy. Từ đền Voi Phục, phải bò, nấp, toài qua từng mô đất, từng nấm mộ, mới đế n trạm gác được. Thế mà lúc nãy có một anh vô ý, bò xuống, đã bị một phát đạn vèo sang cắt ngọt mất một miếng mông.
Ra đến đầu tha ma, Phấn và Mỳ bỏ quang gánh lại. Mỗi người ôm một rổ cơm, thả xuống bãi cỏ, đẩy đi trước mặt, rồi toài theo. Bỗng nhiên, như từ một chỗ nào không biết, một băng liên thanh xíu xíu réo vuốt trên ngọn cỏ cao. Cái rổ đứng im. Hai người cũng nằm im dưới chân cỏ. Một lát, im lặng trở lại, bàn tay người lại giơ ra đụng đậy cỏ đẩy cái rổ đi. Từng tràng liên thanh lại thun thút réo qua. Lại đứng im, rồi lại bò. Cứ thế, mãi đến khi trông thấy chân tường miếu Giời Ơi đen sì lấp sau mô đất cao, đoán đã có thể đội rổ đứng lên được, thì cũng lúc ấy trời nhọ mặt người.
Có tiếng khàn khàn trong bụi rậm:
- À cơm ra, cơm ra…
https://thuviensach.vn
Mỳ và Phấn đã đứng lên, bê từng rổ cơm vào. Có một tiểu đội, cả thảy chín, mười người trong miếu, xô đến, xúm quanh hai cái rổ đặt giữa nền nhà. Phấn sắp xế p, rồi vào chỗ đội trưởng Trường cũng đương ngồi nhồm nhoàm giữa các người quanh rổ cơm. Mấy hôm nay mới lại được hạt cơm vào bụng. Ăn cải bắp luộc, chén thịt chó bẹc giê không muối mãi, đã phát khiếp! Bây giờ, người nào cũng mải ăn, quên, không ai để ý đến hai chị tiếp tế. Đến đỗi cả người trạm gác cũng bổ vào vác một nắm cơm ra đứng nhai trong bụi cây. Phấn bảo Trường:
- Anh cho chúng tôi khẩu lệnh để về.
Đội trưởng Trường lúc ấy mới nhìn ra cái sân miếu mờ mờ, nhưng cũng không biết đấy là trời sáng trăng hay còn nhá nhem tối, Trường cứ nói:
- Mai về sớm. Bây giờ khó đi lắm.
- Chúng tôi đi được!
- Vệ quốc đoàn gác dọc đường, không có khẩu lệnh nào đi suốt nổi ba cây số được.
Tiếng khàn khàn chõ từ ngoài tường hoa vào nói đùa.
- Ở đây cho vui, các cô ạ. Tối ngày phiên mà nhà vẫn dệt cửi, không nghỉ à?
- Cái anh này lúc nào cũng đùa được thôi!
Đội trưởng Trường ngó ra, gằn giọng, nửa mắng, nửa ra lệnh:
https://thuviensach.vn
- Ông ổng như chó cắn ấy à! Nó trước mặt kia kìa. Lại sắp ăn thuốc lào hả? Cấm đấy! Này, tớ nhắc lại: hễ khẩu lệnh hai tiếng hỏi mà không trả lời thì bắn lập tức.
Hai chị tiếp tế không đòi về nữa.
Cái miếu trở lại im lặng. Và thế là bắt đầu một đêm gác ngoài mặt trận. Những người thợ dệt, thợ tơ trong các làng canh cửi, hôm qua còn không biết thế nào là súng ống, bây giờ bỗng nhiên nghiêm trang cầm giữ cả mặt trận đánh nhau với Tây.
Mùi đất ải trong tường mốc xông lên nặng nề, hâm hấp. Nghe cả tiếng con dế tanh tách đạp càng. Thỉnh thoảng, xa xa, ầm một tiếng nổ, rồi im. Vừa lúc nãy, bắc cái ống nhòm của đội trưởng ngó sang còn nhìn rõ bờ bên kia bờ nước có thằng Tây quần áo vàng lốp ngồi gác trong bờ tường nhà dầu Tam Đa, bây giờ đã mù mịt sương, không thấy gì nữa. Thế là trên bãi tha ma và trong cái miếu hoang im lặng này lại như không có vẻ là đương gay go. Lại từa tựa những đêm cuối năm ngày trước, trai gái trong làng đi chợ Tết, thường hẹn gặp nhau cùng đi, đợi ở cửa miếu “Giời Ơi, Ông Bảo”. Trong bóng tối rét ngọt, chố c chốc lại rì rào khúc khích vài đốm lửa thuốc lào.
Đội trưởng Trường ngồi bên tường, thanh kiếm dài chống trước mặt. Mấy đêm nay Trường mất ngủ, mắt ráo trong. Hai bên hành lang, người nằm thành những hình thù co quắp dựa tường, dựa chân cột. Nhiều người đã lăn ra ngủ từ lúc buông tay hết nắm cơm. Có chỗ vừa nghe lầm rầm chuyện đã khò khò ngáy rồi. Trường cũng mỏi lắm. Nhưng có lúc Trường vẫn thấy khỏe. Cứ thế, mải mê. Nhất là lúc này ngồi tựa tường, trông sang bóng các khuôn mặt trăng trắng, mờ mờ, thế mà Trường nhận thấy ngay ra Phấn.
https://thuviensach.vn
Trường bồn chồn. Mấy hôm nay, Trường cũng như các anh em đây, cuộc đời họ cuốn vào những điều xưa kia không bao giờ biết. Cũng không ai có thể hiểu tại sao. Khung cửi, guồng tơ, chuyện làng chuyện xóm hôm qua, vứt đi hết. Bây giờ, nhận ra Phấn và nhớ lại, Trường muốn trò chuyện. Trường mới nhớ lại cái làng ta bình thường mọi khi. Có khung cửi, có hội tháng Ba và cứ năm ngày một phiên chợ lụa… Nhưng Trường cũng không biết nên nói chuyện gì, đầu óc miên man, phảng phất. Rồi Trường băn khoăn, loay hoay tự hỏi một câu không thể cắt nghĩa (và cũng để tìm chuyện tự vặn mình): Sao Phấn không ra đây một mình?
Bên kia bệ đất, nghe tiếng Mỳ nói nho nhỏ: “Lạnh lưng quá”. Mỳ vẫn thức. Mỳ vốn ngăm ngăm đen, mặt lẫn bóng tối. Trường không nhìn thấy Mỳ tinh tường như thấy Phấn được. Tiếng Mỳ lại nói:
- Có trông thấy gì không, Phấn?
Phấn co ro đứng ra, nghển lên mặt tường hoa.
- Nó bò đến tận nơi cũng chẳng biết. Sương hồ Tây nhiều quá. Trường nói khẽ:
- Cô Phấn, vào đi…
Phấn lại ngồi vào bóng tối lúc nãy.
- Anh Trường thức à? Rét không thể ngủ được.
- Nó hay bắn sang chỗ tường hoa lắm đấy.
Nói xong, Trường thấy hình như không phải mình muốn nói câu ấy. Cũng như Trường muốn bảo: “Đừng ai nói, cái tiếng ban đêm
https://thuviensach.vn
nó vang xa lắm”, Trường không nói như thế. Trường muốn nói một chuyện gì, một câu gì mà chưa tìm ra. Nhưng, xung quanh lặng im quá, Trường thấy ngại. Vả lại, cả Mỳ vẫn thức ngồi đấ y. Thế là Trường lại chỉ ngồi và lặng lẽ nhìn sang hình khuôn mặt trăng trắng tựa cột bên kia - chỉ ngồi cách nhau, có thể thò chân ra thì đụng được. Sương lùa vào chỏm mũi lạnh ngắt. Trong lòng thoáng buồn buồn. Từ hôm mặt trận lan tới, nay mới thấy mình nhơ nhớ như thế.
Trường với Phấn, nhà mỗi người một xóm. Thật ra, không ai bận đến nhau, cũng không hề có điều tiếng với nhau. Nhưng, cùng một lứa tuổi. Bao giờ cũng vậy, trai gái trong làng và cùng một lứa tuổi, thì mọi câu chuyện, họ thường tự nhiên nói đến nhau. Trai mới lớn lên đều thuộc những loạt con gái bằng chà bằng lứa. Trường và Phấn không hề bận gì với nhau, thật đấy, nhưng họ tưởng họ đã biết nhau và hằng bận nghĩ tới nhau. Trường bỗng nhớ ra một câu chuyện đã quên hẳn. Nhưng khi này nhớ thì lại tưởng là một chuyện thấm thía vẫn nhớ. Tết năm ngoái, bọn Trường đi chơi sang làng trên, gặp Phấn và mấy cô xóm dưới đi chùa. Hai cánh gặp nhau, năm mới nói đùa cợt ra sao, Trường không nhớ. Trường chỉ nhớ mỗi lần quay lại, thì hai bên lại cười. Bọn Trường hẹn nhau, nếu gặp “chúng nó” ở đâu lại trêu nữa. Nhưng rồi Tết ấy cũng không gặp lại ở đâu cả. Vả chăng, trong ngày Tết đầm ấm còn gặp biết bao toán con gái khác, thế là rồi cũng nhãng đi. Thế mà, sao lúc này, Trường bỗng nhớ lại mồn một. Cái anh chàng thợ cửi mà các bạn thường chế giễu và ghen tị rằng anh ta có “số đào hoa” ấy đương tơ tưởng lại lúc sáng, khi anh ta đến chỗ ban tiếp tế gặp Phấn. Và sự tơ tưởng đã bắt đầu từ chỗ ấy, làm cho lòng Trường cứ dào dạt vui lại man mác buồn. Trường cất tiếng khẽ hỏi Phấn:
https://thuviensach.vn
- Cô Phấn có nhớ Tết Độc lập năm ngoái không?
Phấn và Mỳ rúc rích cười. Nhưng Phấn trả lời ra một câu khác: - Tết năm nay vui như năm ngoái chứ!
- Nhất định rồi. Tết kháng chiến phải vui hơn Tế t năm ngoái.
- Liệu có diễn kịch được không?
- Có chứ.
- Nữ giả hay nữ thật, ai đóng đấy?
Hai cô lại cười. (Tết năm ngoái, thanh niên làng chơi kịch, những vai nữ đều là con trai đóng).
Cả mấy người nằm ngả nghiêng quanh đấy bỗng cũng cục cục cười. Thì ra, họ tỉnh ngủ, không biết từ lúc nào. Có lẽ từ lúc hai cô này cười nói. Tiếng nói cười của hai người con gái giữa miếu vắng, giữa đám thanh niên đương nằm trước mũi súng, cũng như khói thuốc lào bay vào mũi người nhịn quá bữa, sao mà cái khói nó làm tỉnh người thế. Từ lúc ấy, những tiếng cười cứ bật lại tắt, bật lại tắt theo câu chuyện, theo câu dậm dọa của đội trưởng.
- Năm nay các anh cắt cho tôi một vai kịch.
- Hoan hô!
- Có nữ thật rồi!
Một tràng liên thanh lia dài qua bãi tha ma. Câu chuyện bặt im. Người nằm quanh chồm cả dậy, ngơ ngác một lát, rồi lại nằm
https://thuviensach.vn
xuống. Trường lặng lẽ, chống kiếm, đứng quỳ một gối, quay mặt ra cửa, quan sát. Phấn bò men tới, hỏi khẽ:
- Nó tấn công hả?
- Chưa biết.
Đất lạnh như đá thấu vào gan bàn chân lên đến đầu gối, tưởng buốt tê cả người đến nơi.
Tiếng moóc-chi-ê nhịp đôi oàng xuống, ngay sau tường. Những gã mê ngủ nhất cũng choàng dậy. Có người hoảng hốt chạy ra ngoài bụi dứa. Trường bắc hai tay lên làm loa, quát khẽ:
- Lui vào, lui cả vào đầu tường. Đề phòng địch tấn công…
Nhưng, một lúc rất lâu, không thấy động dạng gì. Chỉ có tiếng moóc-chi-ê oàng oàng cầm canh. Không còn ai ngủ được. Nhưng cũng không đề phòng nữa. Cả bọn cứ thức và lại chuyện gẫu. Câu chuyện moóc-chi-ê lại xoay quanh bàn bạc năm nay Tết thế nào, ở đâu.
Rồi có một lúc Phấn nhìn ra ngoài trời sương, ngạc nhiên, nửa nói, nửa hỏi:
- Sáng rồi à?
Nhiều người nhìn ra:
- Sáng rồi.
Trường nói:
- Chóng hết đêm quá, cô Phấn nhỉ!
https://thuviensach.vn
Đội tự vệ làng dưới đã bò ra đổi gác. Trường và các bạn trở về. Họ tuồi qua bãi tha ma sương mù im lặng, rét tái người, quần áo ướt sũng.
Đã về qua đầu làng. Tiếng moóc-chi-ê chỉ còn vọng đằng sau lưng. Bấy giờ Trường quay lại, nói với cả bọn đi sau:
- Tế t năm ngoái chúng mình gặp bọn cô Phấn đi chùa qua chỗ này.
Thật thì không phải ở chỗ ấy. Trường nói hươu chơi thế thôi. Và chẳng biết Phấn có nhớ không, Phấn cười:
- À, ở chỗ này à?
Rồi Phấn hỏi:
- Vở kịch Tết năm nay, có khó đóng thật không, anh Trường? - Nhất định cô Phấn làm một vai.
Cả bọn cùng cười to. Trường trông thấy cái đuôi mắt Phấ n liếc mình.
Họ lại râm ran chuyện Tết và diễn kịch. Không gặp người, nhưng nếu gặp, chắc không ai tưởng những người đương vui chuyện ấy vừa thức trắng đêm.
Và những đêm sau nữa cũng thế.
*
* *
Mặt trận vẫn đứng lại bên kia bờ hồ Tây chỗ Cổng Rong.
https://thuviensach.vn
Đội tự vệ gác ở miếu Giời Ơi nhìn sang hôm nào cũng thấy một lính Tây gác mặc áo vàng lốp, ngồi nguyên một chỗ bờ tường nhà dầu Tam Đa.
Vệ quốc đoàn rút đi nơi khác rồi. Chỉ còn lại đội tự vệ các làng. Nhưng làng nào cũng chạy loạn hết, không còn ai tiếp tế, tự vệ phải đi kiếm ăn lấy để có sức gác. Bữa đói bữa no thất thường. Tuy nhiên, lúc nào tụ lại chỉ toàn gẫu chuyện Tết sắp đến.
Thế rồi Ba mươi Tết đã đến.
Hôm ấy, lạ lùng chưa, nhìn sang bờ nước không thấy thằ ng nào gác bên kia. Cái ống nhòm của đội trưởng Trường được mọi người thay nhau nhòm sang nhiều lần cũng không thấy nó. Hay là chúng nó rút lên đóng trên đường Thành rồi? Thế là đội tự vệ quyết định về làng, ngay trong đêm nay. Việc làm quả quyết được đội trưởng Trường đồng ý. “Phải về ăn Giao thừa ở làng mới được. Có bao giờ Tết lại bỏ làng đi! Các cụ dưới âm về không thấy con cháu thì các cụ chửi chết”. Thế là ai nấy đều hào hứng.
Đêm Ba mươi, cách ba bước không trông thấy gì. Tố i quá. Nhưng rất nhanh, những bàn chân đã quen thuộc từng gờ đất sống trâu trên đường qua cánh đồng, mà bao giờ cũng vậy, mỗi khi mùa mưa tới lại trơn như đổ mỡ. Họ vừa đi vừa nhận ra hình thù những gò đống ngổn ngang bên đường, ai nấy đều đã thuộc; cả cái lỗ tổ chuột đàn, từng ngách thượng, một hang chuột tí ù, mỗi năm, tới mùa đông, vẫn đi hun, bắt chuột về đánh chén. Và, chao ôi, đến đây kia rồi nhớ làm sao. Cũng hai bên đường đồng này, những đêm đầm ấm trăng suông chèo đám tháng Hai, trai gái phải lòng nhau vẫn đưa nhau ra ngồi đấy. Rồi họ đương đi qua bãi tha ma, những
https://thuviensach.vn
mồ mả ông bà cha mẹ, tuy không trông thấy, mà có thể chỉ tay được những phần mộ ở đâu.
Đến đầu làng. Họ chia nhau về các xóm.
Trường men bờ giếng, vượt rào tre vào. Trường đi thong dong, như những hôm dệt cửi khuya, ra ao đình tắm. Như những đêm đầu hè, bọn con trai đi xem chèo về khua gậy cho chó cắ n inh lên. Nghĩ quen quen thế, Trường thấy tự nhiên. Nhưng chỉ một thoáng rồi lại cảm thấy lạnh lẽo lạ lùng. Bởi vì vừa hôm qua, Pháp đã vào đây. Và trong xóm bây giờ không còn một người. Chưa bao giờ cái xóm không có người. Chưa bao giờ ghê rợn như thế. Trường cứ tưởng như sẽ chạm trán đâu đây những bóng ma quái không phải người, đương nhởn trên đường.
Trường đã đi suốt cái xóm không người, lần ra đến đầu đình. Ở ụ đất, cái điếu cày hôm trước bỏ lại vẫn còn dựng như có người đứng gác đấy. Nhưng đình làng và cả dãy nhà quanh ao đình đều đã biến thành bóng tối. Chỉ còn mấy cái cột đình tốt không biết cháy đã bao nhiêu ngày đêm, vẫn leo lét từng vết đỏ hỏn.
Cả đội đã lần lượt trở ra cửa đình. Làng trống không, không ai gặp cái gì cả. Thì ra bọn Pháp chưa dám đóng trong làng ban đêm. Ngày đi sục sạo, đốt phá, đêm đến rút lên đường Thành, phía ánh sáng đương hẩng lên kia kìa. Đấy là sáng đèn pha và những mắt đèn xe tăng quây lại đậu canh gác quanh các lều bạt cắm giữa trời.
Bấy giờ, đội tự vệ ngồi xúm trước mấy mẩu than cột đình. Lúc này, có lẽ đã vào quãng Giao thừa, sắp sang canh rồi. Năm ngoái, sớm mùng Một Tết Độc lập, cả làng ăn cơm đoàn kết ở sân đình. Rồi thì chuông chùa, trống đình sôi nổi và tiếng chuông nhà thờ
https://thuviensach.vn
trên làng Đông cũng gióng lên. Giao thừa năm nay lặng ngắt không biết thế nào.
Vừa lúc ấy, liên thanh trên đường Thành réo từng hồi dài. Bập bập… tằng tằng… tằng…
- Ông cho chúng mày cứ đổ tiền xuống sông. Bắn nữa đi, bắn nữa đi, các con ơi!
Một anh tặc lưỡi, nói pha thêm:
- Giao thừa đêm nay ta sai Pháp đốt pháo mừng đấy!
Nấp trong hào giao thông, một lúc, tai nghe súng dạn dần, nhưng người thấy rét, thế là lại lóp ngóp bò lên, ra cửa đình, bê củi, nhóm lửa sưởi. Sương đã bắt đầu loãng trắng. Tiếng liên thanh vẫn lúc thưa lúc mau, không ngớt. Có lẽ đã gần sáng. Trường vươn vai đứng dậy nói:
- Phải đến tan sương nó mới dám ra tấn công. Ta cũng bắt đầu bố trí thôi.
Buổi sáng mùa đông mù mịt, bàng hoàng lên trên đống củi sưởi nhạt mờ những tàn than trước sân đình. Bóng đội trưởng đứng, cao lớn trong cái áo ba-đờ-xuy lòe xòe, mà mùa rét nào cũng thấy anh lôi ra mặc, đã rách sờn cả cổ và cửa tay. Có khác là năm trước mặc đi dệt cửi, năm nay đi đánh giặc. Hai quả lựu đạn đeo bên sườn với cái dây cói lòng thòng quấn vào bao kiếm gỗ. Ống nhòm cầm bên tay phải, chốc lại chuyển sang tay trái. Trường chạy đi chạy lại, cắt đặt công việc cho người này đứng chỗ này rình phía trên xuống, anh kia chỗ kia chặn lối ngoài đồng vào. Trường trỏ xuống chân ụ ra lệnh cho các cô cứu thương:
https://thuviensach.vn
- Ngồi dưới ấy làm giao thông, cứ ngồi yên dưới ấy!
Nhưng khi họ vẫn xúm lên giữa ụ đất quan sát, thì Trường cũng mặc. Đội trưởng Trường đứng lên ụ đương giơ ống nhòm, quay quay nghiêng nghé, hai cánh tay nâng khuỳnh khuỳnh, dáng quan trọng, trong lúc mọi người chăm chú ngước nhìn, vẻ tin tưởng cái ống nhòm.
- Thấy gì không? Thấy nó ra chưa?
- Toàn những sương. Hôm nay rồi nắng to.
Không thấy gì, Trường lại xuống giao thông hào. Các chị đã về chỗ, lại đương bàn về mấy vai kịch có lẽ sắp được đóng. Thấy Trường đi tới, Phấn nói:
- Anh Trường dạo này gầy tệ, râu ria bơ phờ ra kìa.
Trường ngồi thụp xuống, giơ hai tay hơ trên đống than đã vạc.
- Cô tính, cứ trắng đêm như đêm qua, mà thông luôn như thế hàng tháng nay.
Mỳ nhanh nhảu:
- Mấy lỵ, kháng chiến thì chẳng ai béo được!
Trường cười, uể oải, không nghĩ, nói nhắc lại:
- Phải, chẳng thể ai…
- Cái tạng anh Trường thì có mà béo đầy!
- Bao giờ độc lập tôi sẽ béo cho mà xem.
https://thuviensach.vn
Cả bọn lại rúc rích cười. Dường họ quên họ đương làm nhiệm vụ chặn địch xuống. Họ nghĩ: nếu Tây không dám xuống, ta sẽ vào làng ăn Tết. Thế là lại chỉ nói chuyện Tết. Tết vui như năm ngoái, vui hơn Tết Độc lập năm ngoái. Dù không có gì ăn, nhưng chỉ rặt thanh niên với nhau, vẫn vui, càng vui. Làng đã tản cư hết, ra gọi về cũng không kịp, chỉ còn ở lại có thanh niên. Không ăn Tết từng nhà, chỉ độc một cái Tết toàn thanh niên. Chưa bao giờ được Tết vui lạ lùng vậy! Ồ, được ở ngay làng ăn Tết này… Họ thi nhau nói những chuyện tưởng tượng.
Liên thanh lại rú từng hồi dài. Cả moóc-chi-ê nữa. Moóc-chi-ê nổ tứ tung. Chúng nó tiến ra chắc? Cái ống nhòm với Trường lại nhô lên miệng ụ. Sương vẫn trắng tinh, trôi lập lờ, châm mưa bụi vào mặt buốt thon thót.
Bỗng nhiên, từ đường cao lao xuống hai chiếc xe tăng to bằng gian nhà. Từ trong ụ đất, đội trưởng Trường và tất cả hét lên, xông ra. Lựu đạn, ống nhòm, súng trường chạy thẳng tới hai cái xe tăng.
*
* *
Cho đến bây giờ, mỗi khi nhớ lại chuyện những ngày đầu, Phấn vẫn tưởng như chiêm bao, Phấn ngờ ngợ rồi còn có khi gặp lại Trường.
1948
https://thuviensach.vn
Khiêng máy
Đối với những người làm việc ở các cơ quan chuyển từ xuôi lên Việt Bắ c thì chuyến ấy - đầu mùa đông năm 1947, quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn, họ được bắt đầu làm quen, và mới thật biết thế nào là rừng núi.
Rừng Bắc Kạn không còn bóng dáng lúi húi, quanh quẩn, u uất như rừng Thái Nguyên và Yên Thế Thượng. Nhưng rừng Bắc Kạn cũng chưa rỡn lên từng đợt, từng đợt rồi mở ra những cánh đồng khoáng đãng trên cao như Cao Bằng. Rừng Bắc Kạn xanh rợn người. Vắt ngang, trên núi Phia Bióc, bắt đầu từ mỏm Píc Cáy, vươn qua huyện Chợ Rã, thò chân rết sang huyện Chợ Đồn và Ngân Sơn, nối Bắc Kạn âm u với Cao Bằng trên cao.
Quân Pháp chiếm ngã ba Phủ Thông.
Nhà in báo “Cứu quốc Việt Bắc” chạy lên đường Chợ Rã rồi vào rừng. Từ Phủ Thông đến cánh rừng Khuổi Khún này còn trên mười cây số. Như thế, cũng tạm gọi là xa. Và, bao giờ cũng vậy, con người thường ưa điều vui, cho nên, mặc dầu túi bụi chạy giặc, mấy chục mạng người nằm rừng quây quần lại, cũng tạo ra những trò nhộn để khuây khỏa nỗi lo lắng và có lẽ cũng để bình tĩnh hơn nữa, trong cơn gay go. Cứ tối đến, các lán sàn trên sàn dưới, hai tầng ghép bằng ống vầu tươi, người nằm ngồi ngổn ngang. Một ngày cật lực khiêng máy, vác giấy, tải gạo, tải muối. Rồi mai lại cật lực khiêng… lại cật lực khiêng… Tưởng như mỗi khi ngả lưng xuống thì thiếp đi đến chết. Tiếng moóc-chi-ê ình oàng vào sương đêm, không biết từ phía nào. Nhưng chẳng ai có thể chợp mắt. Từ chập tối đến
https://thuviensach.vn
khuya, người nằm cứ rào rào kháo đủ các thứ chuyện. Chẳng chuyện nào vào chuyện nào, nhưng thú vị, hả hê. Họ đố nhau ăn uống cái gì ngon nhất, rồi lấy quần áo ra đổi chác. Quanh quẩn chỉ có vài cái cứ đổi đi đổi lại lẫn lộn, như bọn đánh bạc. Lúc thì ồn ào như đương chè chén ở hiệu cao lâu. Lúc thì tranh nhau giá cả, bớt xén như ở nhà cầm đồ Vạn Bảo. Lúc lại bắt chước vợ chồng ỏn ẻn, nũng nịu. Rồi hát tuồng, gảy đàn mồm… mãi khuya mới ngớt “cuộc vui”. Khi đã vãn chuyện, dần dần tiếng khò khò, tiếng ho nổi lên. Ấy là lúc cái rét buốt sởn gáy ở khe núi đá bắt đầu len vào.
Bao nhiêu đêm, từ đêm chạy rừng đầu tiên hơn một tháng nay. Mùa đông này cơ chừng dài hơn tất cả các mùa đông trên đời.
Rồi quân Pháp lên đóng ở cầu Pù Mát, ngay đầu làng Khuổi Khún. Trưa hôm qua ở đây đã nhặt được tàn lửa làng Phiêng Phường bị đốt, bay vào.
Bây giờ thì vắng vẻ quá. Những cuộc “vui nhộn” ban đêm không có, và cũng không dám nói to. Tây đến gần rồi. Cơ quan rút sang Yên Thế, để lại có hơn mười người, vừa giữ kho, vừa tiếp tục ra báo. Cái lán ven suối được dỡ đi, rút vào rừng sâu.
Dật và Liêu chịu trách nhiệm chung cái cơ quan nhỏ bé này. Ngoài ra, có Mộc, người Tày, là liên lạc của xã, ở liền với.
*
* *
Sẩm tối, một tràng liên thanh phía ngoài làng dội vào vách đá. Tiếng súng vang núi, cuốn theo gió, uôm lại, nghe đầy hai bên tai.
Dật ra tận gần cửa suối, trèo lên cây, nhìn xuống.
https://thuviensach.vn
Trong thung lũng dưới kia, lộ lên mép rừng, cánh đồng chín vàng như một chiếc chiếu mới. Những đám khói xanh đậm hơn màu sương tỏa dài vào. Dật đoán: có lẽ bọn Pháp đương dò vào theo dòng nước.
Nghe tiếng gọi:
- Anh Dật!
Dật nhìn xuống. Mộc, xanh thẫm bộ áo chàm, đã đứng lúc nào ngay dưới gốc cây, bạnh mặt ra cười. Mộc đi giao thông ngoài xã về. Làm thế nào mà Mộc vào lố i này được? Dật nghĩ bụng: “Tốt đấy. Phải có những cậu giỏi luồn rừng như cậu Mộc thì mới ở yên được. Chắc Mộc biết tình hình ngoài ấy…”
Nhưng Mộc nói:
- Chẳng gặp ai.
- Sao vậy?
- Ban xã chạy hết. Tây vào đến cửa suối rồi.
- À…
- Khói nó thổi cơm đấy. Nó bắt được mấy con lợn, đương làm thịt ở bờ suối.
- Mộc đi đường nào về?
- Qua suối.
- Làm thế nào qua được?
- Em còn cắp được cả con lợn nó đương làm thịt đây.
https://thuviensach.vn
Dật nhìn thấy một con lợn bột trắng hếu nằm trong bụi lá dong. Mộc vẫn thản nhiên cười như không. Thái độ ấy, làm cho Dật cũng vui lây, làm cho tự mình bình tĩnh hơn.
Dật và Mộc nhặt nhạnh, quẳng đi những đống lá dong, lõi củi, cẳng cây cháy dở hôm nọ làm kiềng đứng ven suối. Tây lùng rừng thường đi ngược ngọn nước. Chúng đã biết người ở lán hay ở đâu cũng phải sống cạnh nước. Tây đã đến ngoài cửa suối kia. Thế nào rồi cũng có hôm, có lúc chúng sẽ theo suối vào đây.
Dật và Mộc chạy vào lán. Bóng núi đá bốn phía đổ xuống, tối sạm, buốt thon thót. Mộc hí hửng xách con lợn bột. Đêm nay làm nồi cháo béo cho cả cơ quan chén.
Trong lán, mọi người đã nằm lăn lóc. Không biết đấy là nghỉ hay ngủ. Thường có những lúc cứ lặng im hàng giờ như thế.
Phía trong, Liêu đương lúi húi áp tai vào cái ra-đi-ô đã long mất một nửa mảng vỏ, lâu nay vứt xó, vì hết pin. Không hiểu Liêu vừa lục lọi đâu ra được bốn chiếc pin cũ còn tí điện.
Dật chui vào trong lán, mới biết không phải mọi người nằ m ngủ. Mà cả những người nằm đấy đều lặng lẽ châu đầu về phía cái ra đi-ô. Hầu như nín thở, những con mắt dán vào chỗ vùng ánh sáng lờ mờ đương hửng lên. Làn điện đỏ lăn đi lăn lại theo tay Liêu vặn. Vùng ánh sáng bé nhỏ ấy đương mở ra một thế giới mênh mông trên trái đất. Không ai nghe tiếng lục cục, lóc róc trong cái máy ốm như người sôi bụng. Cũng chẳng ai nhớ ra những chiếc pin kia chỉ còn rút chút điện, chỉ đủ làm sáng tấm kính. Chao ôi, cái lằn đỏ đương phiêu lưu qua những chữ Chi-ca-gô, Ba-ta-vi-a, Sài Goòng, Răng-gun, Pa-ri… mang biết bao hy vọng của sự sống. Hàng tháng
https://thuviensach.vn
nay, chạy vào trong xó rừng, không nhận được một lá thư, một tin tức. Cái ra-đi-ô hết pin trở thành vô dụng. Không ai biết được thế giới mấy hôm nay ra làm sao, “thằng Tưởng, thằng Mỹ” lại hung hăng những gì. ở Cao Bằng, Pháp tiến đến đâu? Đài Tiếng nói Việt Nam còn không? Có thật nó đã chiếm hết đường sá từ Bắc Kạn lên Chợ Rã? Cái lằn đỏ kia đương lăn đi lăn lại tìm những câu trả lời ấy, những câu trả lời của cái sống chung quanh. Mọi người hau háu nhìn, hồi hộp như trông mũi kim tiêm sắp ấn xuống. Dật thấy mấy anh đương cơn sốt cũng bò dậy, phủ phục sau lưng Liêu.
Dật ngồi ghé ngoài cửa lán. Không muốn đánh tiếng vội. Dật cũng đương nghĩ cách nói thế nào cho mọi người có tinh thần chuẩn bị, nhưng khỏi bối rối. Thế nào họ cũng hỏi về tiếng súng lúc nãy. Cũng một câu trả lời, sẽ làm bình tĩnh hơn, hoặc hoảng hốt tăng thêm.
Liêu vẫn lúi húi quay nút đèn. Ánh sáng hắt lên, mặt Liêu như một miếng đồng hun đỏ. Trong đêm rừng hoang vắng, biệt tịch, lạnh ghê người, cái màu đỏ kỳ lạ và ấm áp ấy là nguồn sống tưởng tượng của những con người đương cần được tiếp sức và được thấy xung quanh. Bỗng phựt một tiếng nứt khẽ, cả lán tối om, im phắc. Còn nghe mấy vòng nút điện lục cục, lạt sạt, nhưng ánh hồng vui đã tắt hẳn. Sự tuyệt vọng chìm sâu xuống, lặng đi một lúc lâu.
Rồi có tiếng hỏi:
- Cái gì ngoài ấy thế?
Thì ra, họ đều đã biết Dật vào. Nhưng, hy vọng nghe được tiếng nói của cái đài đương thiết tha hơn. Tiếng súng Tây ngoài kia cũng chưa đáng quan tâm bằng.
https://thuviensach.vn
Bây giờ mới nhao nhao:
- Cái gì ngoài ấy? Tây vào hả?
- Chưa rõ. Tiếng súng dội xa nghe không thật tai, nó bắn ngoài đường cái lại tưởng như sau lưng. Để mai điều tra lại đã. Nhưng, ngay từ bây giờ, phải sẵn sàng như địch đã tới.
Dật nói lại những việc chuẩn bị ba lô, kho tàng, canh gác và giữ gìn bí mật. Bỗng Liêu đột ngột thốt một câu, như từ nãy anh vẫn tư lự và nói một mình:
- Sáng mai tớ chữa lại. Nhất định phải nghe được.
Trong đám người, bật ra những tiếng “ồ” thú vị. Rồi lại im ngay.
Đêm rét buốt ghê rợn đương dần dần vào sâu.
Dật máy Liêu ra ngoài. Có mấy người nữa cũng trở dậy, lò dò ra. Liêu hỏi:
- Đi gác hả?
- Không.
- Thế thì đi đâu?
- Thằng Mộc vừa lấy được con lợn bột ngoài làng. Chúng nó đi làm họ nhà vạc.
Những cậu ấy ra làm thịt lợn, nấu cháo.
https://thuviensach.vn
Liêu đi vào lán trong. Dật gọi Liêu, Dật muốn bàn với Liêu một việc quyết định. Cam tưởng Dật đi làm thịt lợn, Cam nằm im. Cam đã hết cơn sốt. Nhưng còn thở nhọc lắm. Bóng tối đen kịt tỏa vào, như từng miếng lạnh buốt chạm vào mặt. Cả đến những giọt sương đọng, từ đâu rơi xuống, lộp bộp trên đám lá dong quanh ngoài lán, cũng như thấm vào ruột Cam. Một mình nằm nghĩ vơ nghĩ vẩn, cơn sốt dường như âm ỉ trở lại. Đầu Cam ngóc lên, lại rơi xuống, tưởng không còn sức nhúc nhích. Một chốc, Cam lại ngóc lên, nhìn ra, cứ vơ vẩn sờ sợ.
Có thể Tây đã vào tận đầu suối. Cứ cái gì thằng Dật nói lo vừa thì đã là lo lắm rồi. Cam kinh nghiệm thế. Vậy thì thằ ng Tây đã vít được cho chết hết ở trong rừng, bất kỳ lúc nào nó cũng mò vào đây, cũng có thể tóm được những người sống sót lủi thủi bờ bụi. Cam choáng váng, không dám nghĩ rõ nữa. Cam mơ màng đến những cái gì sáng sủa hơn. Cam nhớ ánh sáng trên mặt ra-đi-ô. Màu sáng hửng giữa quầng tối, như Hà Nội đêm đầu nổ súng, nhìn lại thấy lửa viền sáng suốt chân trời. Cam đã ra đi hăng hái. Đôi khi, cũng tiếc đã bỏ mất ít đồ đạc, cái giường, cái màn mới và nhớ vẩn vơ những cô gái hàng phố mà hàng ngày, cuốc bộ đi qua, Cam vẫn coi nhà các cô như những cái mốc. Chẳng biết bây giờ họ lưu lạc đâu. Màu sáng ấy hửng lên, cũng như trời Hà Nội những đêm rực rỡ từ ngoại ô phía tây đi vào, sao mà nhớ thế. Nhưng nhớ Hà Nội, có nhớ nhất thì cái nhớ cũng chỉ mờ mờ xa xa… Cam nhớ gần vậy. Cam thèm cái đông vui những đêm trước, khi Tây còn ở tận ngoài đường cái, cả cơ quan mới chạy vào đây, chưa phân tán. Tối đến, sinh hoạt còn chưa ra lề lối gì, người nằm ngồi lộn xộn sàn trên sàn dưới, lắc rắc nhá hạt dẻ nhặt được trong rừng, chuyện liên miên bất tận về phở xào, phở nước, vợ lẽ, vợ cả, hai vợ, ba vợ, bốn vợ… Những nỗi vui còm thôi, bây giờ cũng không còn.
https://thuviensach.vn
Nhưng cái hửng sáng trên ra-đi-ô mất đi, rồi câu nói úp mở của Dật, Cam đoán biết tình hình gay hơn. Cơn sốt và những tê tái bồn chồn lại cồn cào. Cam ngẩng đầu nhìn xem Liêu đã trở vào chưa. Cam lại tìm cách nghĩ ra một cái gì vui vui. Lợn bột nấu cháo thì tuyệt đấ y. Phải lúc khác, ra ngoài làng kiếm ít hành, mùi tàu, lá hẹ và ớt gió, chắc càng tuyệt… Liêu chưa vào… Cam lại nằm xuống… Một mình thì bao giờ cũng lẩn thẩn, nghĩ ngợi vơ vẩn đến giày vò… Tây ở ngoài làng mãi thì làm thế nào? Báo in bằng li-tô. Không phải sửa “mô-rát”, mình sẽ lăn đá, viết chữ ngược, làm li-tô. Nhưng, cứ lẩn lút trong bụi mãi thế này, không chắc đã chết vì tay Pháp, mà sốt rét sẽ quật chết trước. Trời ơi! Thằng Phúc Voi khỏe là thế, chỉ có cơn sốt đái ra máu mà gục. Mình cứ nóng hầm hập một tuần lễ nay rồi.
*
* *
Dật và Liêu vào lán trong. Lán trong không có người, chỗ tạm làm kho giấy in. Lội qua một dòng suối, buốt như cứa đôi bàn chân, hai người lên một mỏm đồi đất.
Tiếng con hươu tác khô khốc, giật thót, ngay bên cạnh. Xa xa, một đám đốt nương gieo ngô nào còn nổ nốt những cái mắt nứa tươi. Hay là tiếng củi đốt ngoài làng của bọn đương dỡ nhà người ta ra để sưởi?
Hai người vẫn bàn bạc, không để ý. Dật đã kể vắn tắt cho Liêu nghe tình hình.
Liêu nói:
https://thuviensach.vn
- Có cách nào khác nữa không? Chứ nếu cuối cùng phải mất, ta sẽ chôn máy. Cái kho giấy này thì đốt. Ta cũng đốt lửa lên, như Trung đoàn Thủ đô đã đốt trận địa, trước khi ra khỏi thành phố.
Lúc nào Liêu cũng mang trong đầu những kỷ niệm mặt trận Hà Nội. Ánh lửa cuối cùng rực trời Thủ đô. Bàn tay các chiế n sĩ đốt lửa lên, họ ra đi dưới bóng lửa đó. Bây giờ, giữa rừng Việt Bắc khiêng máy chuyển cơ quan nhà in, Liêu cũng muốn nổi lên một đám lửa hiên ngang.
Nhưng Dật nghĩ khác.
- Không được. Anh không đẻ không đau chứ ngần ấy giấy, ngần ấ y máy, ngần ấy của cải khuân vác được lên đến tận rừng xanh núi đỏ này không phải ít công sức đâu. Phải nghĩ cách nào…
Dật là thợ đúc chữ. Nhưng từ khi ra khỏi thành phố, người thợ đúc chữ ấy rời cái khuôn chì và lò đúc để đi áp tải máy và giấy. Lịch sử cái máy in bỏ xưởng lên rừng từ ấy cũng là lịch sử cuộc trường kỳ kháng chiến ngày một gian khổ. Mới đầu là ô tô tải. Rồi thì đường thuyền sông Thao, sông Lô ngược Phú Thọ, ngược Tuyên Quang. Hàng tháng ròng lênh đênh sông nước, lích kích khiêng máy lên bến xuống thuyền. Từ Bắc Kạn lên lại những khó khăn mới. Bao nhiêu người các làng ven đường đã góp sức vào. Hàng trăm vai thay nhau đẩy cái bệ máy in, mỗi ngày, vất vả lắm cũng chỉ qua nổi một chặng đồi. Vào đường đất, có thêm trâu kéo. Trâu kéo đường đất mà cũng mòn cụt móng, phải lần lượt thay mấy con trâu mới.
Dật là những người áp tải và khiêng máy ấy. Nắng cháy, tróc mấy lần da. Đẩy máy qua đường lầy, cái gậy chèn, tì nổi bánh chè hai vai. Cho đến hôm nay, vẫn khiêng, vẫn chạy, lại càng ngặt nghèo
https://thuviensach.vn
hơn. Bởi thế, Dật không thể để cho Tây lấy được máy. Dật cũng không nỡ chôn máy, đốt giấy dễ dàng như Liêu nói được. Dật không nghĩ nhẹ nhàng như Liêu.
Hôm nọ, Pháp mới từ đường Cao Bằng kéo xuống, Liêu đã bàn thế rồi. Dật lắc đầu. “Có phải trên giao của cải để đốt đi ư? Nếu thế thì, đốt xong rồi chỉ còn tính việc về, có phải không? Không được, ta tính cách khác”. Liêu cũng tự nhận mình có hoảng hốt. Họ bèn “nghĩ cách khác”. Hai chiếc máy “mi-néc”, một cái “công tự” đã tháo rời, chuyề n vào một lán sâu hơn. Kho giấy thì vác lên lán hai tầng, tránh ẩm và mối. Cách ngày lại đảo vào kiểm soát một lần. Một hôm, Cam đi tuần kho về, bảo: “Mối leo tận cột kho giấy rồi”. Thế là ngày nào cũng phải vào miết chết những đường mối đục cột, mà càng phá, tổ mối càng đùn, sao mối đùn nhanh khiếp thế. Nếu bị Tây lùng, chỉ chạy rừng, bỏ kho không nom xem độ vài ngày, mối sẽ lên ăn hết giấy. Có lúc, Dật cũng chần chừ nghĩ: “Đến phải đốt thật. Phí quá”. Nhưng Dật vẫn bảo Liêu:
- Không được! Phải nghĩ cách gì.
Tiếng Dật mạnh mẽ, cứng cỏi, chắc chắn. Liêu không nói thêm được nữa. Trong lúc nguy hiểm, bối rối, người bình tĩnh hơn bao giờ cũng có sức làm cho người khác bị lây. Tuy nhiên, một sự im lặng nặng nề lại trùm xuống. Rồ i Liêu đứng dậy, lẳng lặng trở ra. Quên Dật vẫn ngồi im. Cả người đi ra và người ngồi đấy đều đương chưa biết nên thế nào.
Dật nghĩ: ờ, nếu chỉ có cái ba lô với túi gạo, túi muối thì luồn rừng hàng tháng cũng được. Nhưng còn những kho giấy, kho máy! Không có nó thì không còn nên người, ở đây hết ý nghĩa. Làm thế nào? Nế u có được một toán người địa phương thuộc rừng như Mộc,
https://thuviensach.vn
ta sẽ chuyển đi. Nhưng, việc cần giải quyết ngay ngày mai. Địch đã lùng vào cửa rừng rồi. Người và máy tan tành đến nơi.
Hơi đêm thấm vào gan bàn chân, rồi đầu gối, rồi dọc xương sống, buốt rần rật. Hai con mắt người nghĩ vẫn thao láo vào bóng tối.
Lát sau, Dật xuống lán dưới.
Cả một lán người đã ra ngồi áp lưng nhau quây quanh bế p cháo đương sôi sùng sục. Vừa đỡ rét, vừa che lửa giữ bí mật, vừa đỡ thèm.
Trong lán, mình Liêu vẫn nằm dài, quên cả đắp chăn. Liêu đăm chiêu nghĩ. Dật lặng lẽ ngồi xuống.
- Có cách rồi, Liêu ạ.
- Ý tôi có đúng không?
Dật không trả lời câu hỏi hồi hộp của Liêu. Dật nói:
- Lại chuyển kho đi.
- Phép thánh à?
- Người ta làm được chứ! Sẽ lên liên lạc với các làng Mán trên núi nhờ xuống giúp. Không trông vào xung quanh thì trông vào ai?
Liêu cũng như chợt nhớ:
- Được rồi!
Liêu nhỏm dậy:
- Để mai tôi đi cho. Cậu ở nhà đối phó, ngộ Tây sục vào.
https://thuviensach.vn
Liêu lại tưởng tượng Liêu đi trên dốc núi xa lạ, những xóm làng, những chòm cây cheo leo, những suối nước ngầm mà Liêu mới chỉ thấy lúc bé, ở bể nước hòn núi non bộ. Liêu sắp được gặp người Dao mà Liêu chưa biết bao giờ. Những tưởng tượng thường phong phú và miên man.
*
* *
Từ trong thung lũng, cứ đỉnh núi trèo lên, độ nửa ngày đường, tới một làng Dao. Hồi nọ, bọn Liêu đi dò đường, đã lên một lần. Đứng trên dốc núi, trông sang huyện Ngân Sơn trên kia chỉ thấy núi xanh dán lên núi xanh. Vòng vèo trong núi, thấp thoáng con đường Cao Bằng như ai vắt sợi chỉ. Đoàn ô tô của Pháp chạy, giống con kiến tha mồi cắn đuôi nhau bò dòng dài con trước con sau.
Liêu ngồi nghỉ, lặng nhìn cảnh mênh mông xanh một lúc. Mệt, hơi thở còn đập dồn lên hai tai, nhưng Liêu không biết mệt. Từ khi đặt chân lên bến Bình Ca vào châu Sơn Dương, Liêu thấy mình có thể không bao giờ ra khỏi rừng núi. Chẳng những thế, mỗi ngày đi vào giữa Việt Bắc, tưởng chỉ độc một màu chàm và muông thú rừng, kỳ thực có cả rừng người và đường đi chằng chịt như gân lá, thì Liêu càng cảm thấy một thế giới, một tình cảm, một hứng thú.
Liêu vào cái xóm đầu tiên. Dốc núi có mấy cái mấp đẽo vào sườn đá, ở mỗi mấp tỏa ra một đám khói, trông kỹ thấy nhấp nhô một nhà mái vầu đen mùn. Nhà trưởng thôn ở trên cùng.
Một ngày rét, trên núi càng buốt. Người trong nhà dạt cả vào quanh bếp rừng rực lửa. Một bà già, một cô gái, mấy đứa trẻ ngồi chộp những hạt ngô vùi trong tro lửa chốc lại nổ trắng bông nhảy
https://thuviensach.vn
ra. Ngồi phía chân bàn thờ, có hai người con gái Tày - hai cán bộ Tày thì đúng hơn - chỉ trông cái túi vải dù buộc vào thắt lưng, chỗ các chị thường đeo con dao bổ cau, thì cũng biết đấy là cán bộ. Liêu bước vào, những đứa trẻ chăm chú ngắm Liêu. Hơn nữa, vì Liêu bước lại phía ấy, bỏ ba lô xuống. Liêu ngồi lọt giữa đám trẻ, quen như người nhà, hai bàn tay cóng giơ nướng trên hơi lửa. Nhưng người lớn chỉ nhìn qua khách lạ, theo thói quen bề ngoài vốn thờ ơ, rồi lại ai làm việc nấy như không xảy ra việc gì khác hơn. Người con gái đứng dậy, lấy trên sàn cao xuống một cái vỏ bầu lọ, đồ ra ít gạo, bỏ thêm vào nồi cơm đương sôi. Cách đối xử giản dị và thầm lặng ấy tỏ sự hiểu biết và quý khách tự nhiên của chủ nhà. Có khách, lấy thêm gạo.
Mỗi lần đến một nơi xa lạ, Liêu đều xúc động một tình cảm khó tả. Lần này, Liêu đã thật bồi hồi, khi gặp trên đỉnh núi hai người con gái Tày. Người Dao ở trên rừng, người Tày ở dưới ruộng. Họ tới nhà nhau đã hiếm - lại thấy phụ nữ Tày trong nhà người Dao, thật không phải thường.
Hai cán bộ Tày, một chị đẫy đà, hồng hào, áo chàm thắt lưng quặt đằng sau, như các cô Tày và Nùng cao lớn miền hồ Ba Bể, khi các cô vội ra bãi quẩy ngô.
Một chị nhỏ nhắn, mắt nâu. Không giống chút nào con mắt sáng trong của chị bạn và của những người gái Tày. Và bàn tay nhỏ, mịn của chị ấy nữa (Liêu nghĩ: người này mà ở xuôi thì con gái Hà Nội xách dép cho cũng đáng). Ý so sánh ác ấy làm cho Liêu tự cười thầm. Liêu làm quen, cho bọn trẻ hai mảnh giấy in hình cờ đỏ sao vàng. Liêu nói lõm bõm mấy tiếng Dao mới học. Thỉnh thoảng, chị cán bộ đẫy đà quay lại, đưa mắt nhìn chị nhỏ nhắn, hai người cười mủm mỉm. Liêu bắt chuyện.
https://thuviensach.vn
- Tôi nói có sai không, mà các đồng chí cười?
Thế là cả nhà cùng cười. Chị đẫy đà trả lời:
- Nói đúng đấy, giỏi đấy.
Liêu được dịp hỏi:
- Các đồng chí đi công tác đâu?
Chị đẫy đà cười. “Không được hỏi, ba không mà.”
Liêu nóng rừ mặt. Nhưng, vớt lại, miệng cười dễ dãi của chị ấy cũng làm Liêu bớt ngượng. Lúng túng, Liêu quay lại, hỏi chị người Dao gầy gùa đương nhấc nồi cơm xuống.
- Đồng chí trưởng thôn đi đâu?
Thấy khách hỏi tiếng Kinh, chị ấy đưa mắt nhìn hai chị cán bộ, rồi trả lời Liêu:
- Ma hiu [1].
Liêu rụt rè và cẩn thận hơn, hỏi hai chị cán bộ:
- Các đồng chí có biết trưởng thôn đi đâu không?
Chị người Tày nhỏ nhắn hỏi lại Liêu:
- Đồng chí có công tác gì? Tôi là cán bộ ở đây đây.
Chị đẫy đà nói tiếng Kinh còn lơ lớ, chị này sõi quá. Liêu đưa giấy giới thiệu.
https://thuviensach.vn
Vẻ nhẹ nhàng, chị ấy chỉ thoáng nhìn đã xem xong giấy giới thiệu, có lẽ thế. Rồi hỏi nhanh:
- À… thế bây giờ đồng chí cần gì?
Trong khi nghe Liêu nói, chị ấy lơ đãng nhìn xuống những lớp mây và sương trắng phủ trên thung lũng dưới kia.
- Các xóm trên này vừa đi tải lương cho trung đoàn 72, ba hôm nữa mới về.
- Chúng tôi cần người đưa đường.
- Nhà nào cũng như nhà này, đàn ông đi hết rồi.
Hai chị quay sang, nói tiếng Tày nho nhỏ. Rồi bảo với Liêu:
- Chúng tôi sẽ cố gắng. Người nào còn lại thì xuống giúp các đồng chí.
- Chỉ còn phụ nữ?
Chị ấy mỉm cười:
- Vâng, các chị sẽ xuống giúp.
- May quá.
- Bây giờ, ăn cơm xong…
- Tôi đi với đồng chí…
- Không, phải về nắm tình hình đã. Chúng tôi sẽ đi các xóm. Mỗi xóm độ ba nhà như đây, chỉ phải cái xa thôi.
https://thuviensach.vn
Liêu im hẳn. Nhưng không ngượng nghịu như lúc nãy, mặc dầu vừa bộp chộp nói hớ một câu đáng đỏ mặt. Những người như Liêu, tuy hay viển vông, lại cũng thường xét nét tỉ mỉ, khó khăn. Nhưng nếu đã biết thì, có khi, đương coi thường lại đổi ra kính trọng. Như bây giờ, Liêu đương thầm phục tinh thần khẩn trương công tác của chị cán bộ.
Hai chị đã sắp sẵn túi và nón. Liêu xuống dốc núi, trở về, đi như chạy. Đẹp thật, giỏi thật. “Trên núi gặp Tiên là đây đây.”
*
* *
Cả ngày hôm ấ y, cơ quan nhốn nháo chuẩn bị, đề phòng. Dật đã nói rõ: Tây mò vào tận cửa suối, muốn đóng bốt gác ở đấy, chặn đường ta ra ngoài làng. Mộc lại đi tìm ban xã một chuyến nữa, cũng không gặp. Nhưng lại đem về được một con lợn bột của lính ngụy đương làm lòng ngoài suối. Và Mộc đem về những chuyện ngoài làng. Quả thật, lửa sáng mé ngoài, đấy là nó đốt nhà người ta suốt đêm để sưởi.
Ai nấy đều ba lô sẵn trên lưng.
Liêu về đến lán lúc sẩm tối.
Thế là, tất cả sáng hôm sau chuyển sớm. Những giấy, máy in và các thứ vẫn buộc sẵn từ hôm khiêng đến, mai chỉ việc tiếp vai đi.
Lại một đêm giá, rét dữ.
Đêm nay mọi người rút vào lán trong. Nếu trời sương muối không buốt, chắc nhiều người muốn ngủ chỗ trống ngoài rừng
https://thuviensach.vn
cho dễ chạy ngộ nhỡ Tây lùng đêm. Nhưng, trong rừng cây, cái rét đương trói cứng người lại.
Khi phấ p phỏng đến nỗi không chợp mắt được, thì sự chờ đợi sao dài lâu và chập chờn đến thế. Tuy đã cấm nói chuyện, nhưng không thể nín lặng được. Chốc chốc lại bật ra. Nhưng thì thào nho nhỏ lúc này cũng đem lại chút ít ấm áp cho những người đương rét run.
Dật và Liêu bàn nhau về công việc sắp tới. Họ đều thấy: triền núi trên kia hiểm trở, có thể đóng cơ quan được. Rặng núi Phia Bióc chính là xương sống cán bộ con đường Nam tiến xưa kia.
Dật thì thầm:
- Hướng phấn đấu không phải lăn báo li-tô, mà là in máy.
Liêu ừ. Lúc ấy, miệng Liêu nói, nhưng óc Liêu đương vuốt ve những ý nghĩ về “chị cán bộ nhỏ nhắn có đôi mắt nâu mơ màng”. Trong bóng tối, càng khuya thăm thẳm càng rét, thế mà, Liêu không thấy rét, không thấy đêm hôm trống trếnh, địch có thể thình lình tới. Không có khi nào lại xảy ra cái không may cuối cùng trong khi người ta đương tơ tưởng những tốt lành và cao xa, có lẽ thế chăng?
Cam nằ m yên, thiêm thiếp. Suốt ngày, lúc nào cũng ba lô vác trên lưng, khủng khiếp lắm. Bây giờ, Cam quá mệt. Lại sốt, rũ rượi, cứ thế này, rồi đến chết lỉu đi lúc nào cũng được.
Những tiếng lào xào xung quanh Cam nghe như trong cơn mê. Đến khuya lắm, cơn sốt mới buông Cam ra, Cam dần dần tỉnh. Cam nằm chong mắt với bóng tối.
https://thuviensach.vn
Một tiếng hươu tác. Con hươu từ rừng sâu về tìm ăn tro nóng trên những nương mới đốt. Cam giật mình. Nhưng Cam chợt nhớ hôm mới đây, nửa đêm, thằng Dật ra ngồi rình đầu suối, bắt sống được một con hươu non, vác về, Cam mới đỡ sợ tiếng hươu tác. Lại những tiếng gì xa, sao đêm nghe thì thào thảm thiết nguồn cơn lắm vậy? Cam lắ ng nghe mãi. Tiếng những con suối chảy dầ n dần hóa ra tiếng ô tô chạy đêm phía đường lên Cao Bằng. Trời, ô tô Pháp đâu nhiều đến thế, ầm ì từ chập tối tới giờ. Quân Pháp vây bọc mấy đường (Mấy đường? Ban ngày trông lên Ngân Sơn, bốn phía chỉ thấy núi dán liền tới trời). Mình nằm đây là lọt vòng vây phía nào, lọt vào mấy cánh vòng vây?
Nghĩ vẩn vơ thế, đâm ra mót đái luôn. Cam trở dậy, bước ra. Một luồng gió buốt thốc tới. Cam cong sống lưng, ôm hai tay lên nách, run rẩy đứng ngay đầ u sàn, Cam không dám ngẩng đầu. Nhưng rồi ngay trong bóng tối trước mặt, thấy lù lù cái gì như con trâu, như thằng Tây, Cam ngã bổ chửng vào trong sàn.
Tất cả giật choàng dậy.
- Cái gì thế?
- Khốn khổ, đương đêm đi đâu?
Dật xốc Cam vào, quờ cái chăn quấn cho Cam. Tay Cam giá ngắt. Nhưng trống ngực Cam vẫn thúc thình thịch. Liêu bóp hai thái dương Cam. Cam thở hừ hừ, rồi rên rỉ:
- Anh Liêu ơi… tôi làm sao…
- Sao?
- Tôi chết…
https://thuviensach.vn
- Thế nào?
- …Thọt hai cái hột dái… tôi… chết…
Hai cái hột dái nó thụt đi đâu mất thật. Sờ không thấy, Cam cứ rên rỉ “tôi chết, tôi chết”. Đầu tháng trước, cái chết đột ngột của Phúc Voi bị sốt rét ác tính đã làm hốt hoảng những người lần đầu biết rừng núi.
Mọi người xôn xao, ngồi cả dậy. Tiếng kêu rên trong đêm buốt, nỗi lo lắng nhiều bề không lường được.
Dật gọi Mộc ra, bảo:
- Mộc xem trong rừng đâu có lá ngải cứu.
- Đốt cho anh Cam à?
- Ừ.
- Đốt củi cũng được.
- Anh ấy sắp chết rồi, chú không biết ư?
- Rét quá thì tụt hột dái lên, chứ chết thế nào được.Ai rét chả thế.
- À…
- Cứ âm ấm thì nó lại thò xuống.
- Mẹ khỉ!
Dật sờ tay lên trán Cam. Dật nắn khắp người Cam. Quả thật, Cam vẫn thường thôi. Không như thằng Phúc Voi lúc hấp hối. Dật
https://thuviensach.vn
bèn bảo:
- Không sao. Cứ nằm yên. Tao hòa dầu bạc hà cho uống. Ông cấm kêu. Mày kêu, Tây ngoài kia nó nghe tiếng thì chết cả nút.
Thế là Cam nín thít. Nhưng rồi Cam lại thở, nói nho nhỏ: - Tôi không sống được nữa. Các anh cho tôi dặn…
Dật cười:
- Dối dăng gì! Nằm im.
Những người xung quanh ngạc nhiên vì câu quát của Dật. Dật mở nút lọ dầu bạc hà - cái tủ thuốc độc nhất của cơ quan. Cam thì thầm, nức nở:
- Bao giờ các anh về Thái Nguyên… hỏi nhà anh Luận bán tạp hóa ở Phúc Trìu… nhà anh chị tôi. Mang hộ tôi gói quần áo… bảo thằng Cam nó chết ngày hôm nay rồi… hích… hích… là ngày bao nhiêu…
- Ấy đấy, bảo mà. Cấm kêu khóc. Được, rồi chúng tao về Phúc Trìu bảo anh mày. Bây giờ cấm rên, cấm nói. Uống bạc hà này. Há mồm ra.
Không có nước, Dật dốc mấy giọt bạc hà đặc vào miệng Cam. “Được rồi, được. Chốc nữa lại sống thôi. Bây giờ tao phải ra xem Tây nó có nghe tiếng mày lúc nãy không… Nằm yên”.
Từ ngoài vọng canh, mấy anh đổi gác trở về lán. Họ nằm lăn ra sàn, chỉ kịp kéo cái chăn, đã ngáy khò khò.
Đêm rét buốt khủng khiếp, đêm chờ đợi dần dần qua.
https://thuviensach.vn
Buổi sáng trong rừng, đùng đục rồi nhợt nhạt. Rừng ban ngày hiện ra, nhưng tự nó cũng âm u chẳng khác bóng tối. Không có tiếng chim. Không cả tiếng một giọt sương rơi.
Giữa lúc ấy, không biết đâu đi vào, từ các thân cây sù sì, lêu đêu ghê rợn, từ cành lá, chòm lá ken nhau, từ bụi mây, bụi song lởm chởm như hàng đàn nhím xù lông dưới những hàng cây “mắc có” thẳng dãy như cột, lố nhố, lần lượt đông người cứ tự dưng hiện ra. Đấy là các chị ở Cố c Phường, Vàng Kheo, Nà Đông, Khuổi Buồn trên núi.
Ba xóm được hơn hai mươi chị cùng xuống. Một lũ trẻ con cũng theo - thói quen các em theo người lớn đi nương. Rừng và đường đẫm sương sớm. Ai cũng ướt đến lưng áo. Chui qua sườn đồi tranh, trẻ em ướt hết cả chỏm tóc.
Liêu trông thấy có cả cô bé gầy gùa nhà trưởng thôn.
Kìa, lại cả mấy em hôm qua Liêu vừa dạy hát. Cô gái ấy quen thuộc hơn các chị khác, chạy lại. Cô nói:
- Chúng tôi xuống đủ rồi.
Thì ra cô ấy nói sõi tiếng Kinh. Các em ríu rít sau lưng: - Ma hiu cong câu! Ma hiu!
Các em ấy đùa chế câu tiếng Dao, Liêu nói hôm qua. Liêu hỏi:
- Hai đồng chí cán bộ đâu?
- Về huyện rồi.
https://thuviensach.vn
Trong hai ngày liền, cả cơ quan và các chị đã khiêng hết máy, giấy, muối, mực in lên triền núi.
Pháp đóng ngoài đường cái.
Tòa soạn và nhà in báo “Cứu Quốc Việt Bắc” thì ở ngang sườn núi trước mặt. Những ngày quang trời, trông ra thấy rõ mồn một cái đồn Tây đóng ở cầu Pù Mát.
*
* *
- Rồi thằng cha Cam thế nào?
- Khi trời dần sáng, hơi ấm trở lại, chắc là Cam lại sờ thấy hai hòn dái như thường, Cam nằm rúc đầu vào trong cái áo bông đắp mặt. Nó ngượng. Rồi nó đã trở dậy khiêng máy đi ngay chuyến đầu. Sau này, còn chuyển quanh núi gay go nhiều lần, nhưng nó đã quen. Rồi cũng như tất cả chúng mình. Khi nào có ai nhắc tới những chuyện ấy, nó cười trừ.
Nhưng, cũng khi nào kể lại cái năm khiêng máy vất vả, bao giờ Liêu cũng nhớ thêm một chuyện khác.
Có lần Liêu đi họp hội nghị tỉnh. Tỉnh lỵ Bắc Kạn bị chiế m. Các cơ quan tỉnh đóng bí mật trên các cánh rừng gần thị xã. Liêu đi từ Píc Cáy qua sườn núi xuống mé rừng Pác Trang rồi qua Lùng Trang. Đấy là một trạm nghỉ. Lúc ấy, buổi chiều ngày cuối xuân. Một màu xanh nhẹ mơ màng phủ trên rừng núi. Những nhánh tre, nhánh trúc non vút cong như đan lưới trên trời. Trạm nghỉ đêm là một lán nhỏ trên mỏm đá kề bên dòng suối trong vắt. Liêu gặp lại chị cán bộ nhỏ nhắn “có đôi mắt nâu mơ màng”.
https://thuviensach.vn
Từ ngày ấy, bây giờ Liêu mới gặp lại. Nhưng Liêu đã biết chị ấy là cán bộ huyện, hôm Liêu lên núi, chị đi công tác qua, đã sốt sắng giúp Liêu.
Vẫn dáng dấp nhẹ nhàng. Chiếc áo chàm dài thẫm biếc, thắt lưng quặt đằng sau và cái túi vải dù xinh xinh bên thắt lưng, chiếc khăn vuông chàm. Đôi mắt nâu xa xôi kỳ lạ rất hiếm thấy ở người con gái Tày. Đôi mắt nâu vừa tinh anh, vừa mơ màng. Hôm ấy chị hơi trắng xanh. Chị đến trạm từ sớm, nhưng lỡ liên lạc. Đương cơn sốt, chị không đi được. Bây giờ, chị sửa soạn đi cùng chuyến với Liêu cho kịp. Liêu không hề chờ đợi một tình cờ “lịch sử” ấy.
Liêu hỏi:
- Đồng chí ở quê đây mà cũng bị sốt rét như chúng tôi? Chị cười:
- Sốt rét có biết tha ai đâu!
- Chị người huyện nào?
Chị ấy lại cười, nhưng im, không trả lời.
“Tôi hiểu rồi, hiểu rồi” - Kể đến đây, Liêu khoái chí kêu lên. “Thảo nào, cứ ngờ ngợ. Đôi mắt nâu khác vẻ đẹp những đôi mắt sáng trong hồn nhiên của các cô gái Tày ở Chợ Rã. Chị ấy người Hà Nội mới lên năm ngoái trong đoàn xung phong Việt Bắc ”.
“Từ đó, tôi hiểu núi rừng không phải là cái thích thú cô đơn của tôi”. Liêu nói, như kết luận.
Pác Trang 1948
https://thuviensach.vn
[1] Tiếng Dao, nghĩa là “Không biết”
https://thuviensach.vn
Thảo
Suốt ngày, cái phố dọc bờ sông im như say nắng. Đến tận chập tối mà hai chiếc máy bay “Kinh cô bra” còn nhào lên, sà xuống, bắn ngoài sông một lần cuối cùng.
Những tiếng bay rít rợn gáy vừa vút đi khỏi vòng lượn thì cái phố nhà lá đã mở mắt lên đèn, nhộn nhịp, trở về thói quen thường lệ: ban ngày thì lìm lịm giả chết, đêm đến mới sống thật. Cả dòng sông đã nhuốm đen bóng tối. Đèn trên bờ in xuống, óng ánh, lốm đốm. Đôi chốc, một chiếc thuyền cặp bến, rời bến, thuyền sáng đèn vút ra vút vào như những đốm sao đổi ngôi rơi.
Các hàng tạp hóa lóng lánh. Hàng phở, quán thịt chó, hàng cơm nhà trọ tíu tít tiếng cười nói, tiếng dao thớt côm cốp.
Những ba lô và gồng gánh, bồ, sọt ở đâu chui ra không biết, lù lù dưới ánh những ngọn đèn Hoa Kỳ nhòe nhoẹt trước cửa nhà hàng chứa trọ. Có một tốp dân công tải gạo qua. Đằng kia, đám đông người còn lao xao trước cửa hàng mậu dịch, hỏi mua muối lẻ về làm bữa tối. Những tốp người đi đường xa về nghỉ, đã quen như chim chiều về tổ. Cái phố ồn dần. Tới nửa đêm thì lại đông hơn nữa, lúc này có thêm cả một cái chợ bán đổi vai đòn gánh kéo từ ngoài bờ sông vào.
Phía ngã ba trạm gác đưa lại tiếng hò dô ta… một hai ba… ai ơi đứng lại… Đêm nay phố có mít tinh hoan nghênh chiến thắng trên mặt trận Tây Bắc.
https://thuviensach.vn
Các cụ lão bà đi dự, gọi bà Hai đi nhân thể. Bà Hai vừa buông bát, còn bán rốn một ống nứa dầu dọc nữa rồi mới tất tả chạy theo các bà đã tụ tập cả ngoài kia. Ông Hai đứng ngoài cửa xỉa răng, toan nói với ra một câu gì, lại thôi. Độ rày ông Hai có điều tư lự, đôi khi bần thần cả ngày. Dễ vì ông nghĩ mình ngày càng già yếu, vả lại, từ khi chạy loạn lên ngược, những đi cũng đã nhọc, không đỡ đần được nhà, ông đâm ra rụt rè cả với vợ con.
Cô Thảo bưng mâm xuống bếp, xếp bát ra rửa nốt. Rồ i Thảo lên nhà, vuốt lại mái tóc, mặc cái áo lụa mới nhuộm lại màu gụ - nó vốn là áo dài ngày trước, giờ phá ra làm áo cánh. Thảo lấy túi sổ tay treo trên cột, bước ra cửa. Chị Phú đứng đóng khuy áo cho con. Thằng bé cứ nghếch ra ngoài đường, dẫm chân thình thịch, đòi nhảy đi. Mẹ nó bảo:
- Kìa cô đợi cháu với.
- Đi sau thôi. Mình còn phải ra hò hát với bọn nó.
Nói thế, nhưng Thảo cũng đợi chị. Tay cầm sổ nghiêng vào vạt ánh sáng trong nhà hắt ra, Thảo đứng lẩm nhẩm xem lại công việc.
Ông Trẩm ở phố ngoài vào. Dạo này, ông Trẩm hay vào chơi với ông Hai. Thảo nghiêng mắt nhìn, bụng bảo dạ: “Lại vào làm hoang mang ông cụ”. Nhưng Thảo cũng gượng chào và hỏi: “Chú Trẩm chưa đi mít tinh à?”
Ông Trẩm cười khẩy:
- Đình đám nhà người chứ tôi còn vui nỗi gì!
Tiếng ông Trẩm, hơi rượu nói choang choác. Vừa hay, chị Phú cõng con ra. Ông Trẩm bỗng nói nhỏ:
https://thuviensach.vn
- Cô Phú này, việc ấy mà…
Câu hỏi dịu giọng như trêu tức Thảo. Bởi ông chỉ hỏi thế là Thảo đã biết được “việc ấy” là câu chuyện gì với chị Phú rồi. Gần đây, có tin đồn anh Phú “ở trong kia” phất lắm. Lại nghe người ta nói anh ta sẵn tiền trong tay đương tung tứng muốn nghé ngẩm tí vợ lẽ. Ông Trẩm hay sang xui chị Phú đem con về Hà Nội, “tội gì mà vờ vật ngoài này cho khổ thân”. Nhưng chị Phú chỉ im lặng, ngoảy đi.
Thảo đương tức sẵn, đứng lại:
- Từ giờ chú đừng cứ việc ấy việc nọ nữa mà rườm lời.
Ông Trẩm chặc lưỡi, định mắng. Nhưng Thảo đã bước nhanh ra với chị Phú, vừa đi vừa nói cốt để ông Trẩm cũng nghe được: “Cho một vố cứng lưỡi thế mới được”.
Tiếng hò reo, tiếng ồn ào trong bóng tối ngoài đường. Thảo đi tong tả, đã quên chuyện bực mình, Thảo cúi đùa, cù vào cổ cháu bé. Chị Phú thì lặng lẽ. Dù sao, câu chuyện “việc ấy” lúc nãy cũng làm Phú nghĩ ngợi.
Đời Phú chẳng còn thanh thản như cô Thảo. Không phải là đời chồng con của Phú vất vả. Không, những người quen vợ chồng Phú xưa nay thường nói câu: “Vợ chồng anh Phú như Phật Di Lặc, thấy người là thấy cười”. Thực như thế, đôi vợ chồng nhà ấy chỉ biết chiều nhau. Kháng chiến vất vả, họ bỏ quê, bỏ nghề, tản cư ra đi, Phú xoay xỏa buôn bán, đâu cũng len lỏi, khắp các khu, từ Việt Bắc vào tới khu Bốn. Chị Phú thì đi các chợ, chẳng mấy lúc có nhà. Cho đến năm kia, một chuyế n Phú cùng các bạn buôn xuống cất vải dưới khu Ba - bấy giờ xuống khu Ba phải vượt đường 18 sang Đông Bắc, qua vùng Tây chiếm. Đồng tiền kiếm được liền với
https://thuviensach.vn
đọi máu, không biết thế nào mà tính trước được. Chẳng may, chuyến ấy, cả toán lái sa ổ phục kích. Phú bị bắt, rồi ra sao, không ai biết. Từ ấy mất tin. Chỉ toàn những chuyện đồn thổi nay thế này mai thế khác, không biết đâu mà nghe. Có một điều rằng ai nói thế nào thì nói, chị Phú hằng nghĩ: “Không bao giờ anh ấy phụ em, phụ con”. Phú lặng lặng, im như bóng. Thì ông Trẩm lại tưởng chị ấy đương xót xa, đương muốn về, nên lại càng tỉ tê, càng thúc.
Thật ra, Phú chẳng ưa gì chuyện ông Trẩm. Nhưng dù mình xua đuổi, cái điều không muốn nghe cứ tự nhiên theo ám ảnh, làm khổ mình. Con người ta cũng có số chăng? Vậy thì có lẽ anh ấy đã trở về làng rồi ra tỉnh buôn bán. Anh ấy có còn nghĩ đến lại ra ngoài này với vợ con không? Còn nghẽn chưa ra được, hay là ở trong ấy êm ấm rồi, không muốn ra? Dù sao thì có lẽ nào anh ấy phụ vợ phụ con. Nhưng mà… hay là mình về, mình cứ về tìm rồi lại ra? Có lẽ, có lẽ mình về…
Phú đã nghĩ mớm như vậy nhiều lần. Phú hay cả nghĩ. Giờ đây, nghe ông Trẩm thoáng nói đến, Phú cũng lại nghĩ lẩn vẩn như thế. Đầu óc còn đương tha thẩn, Phú đã đi chen vào đám ồn ào mà không biết.
Hai chị em đứng lại. Từ trong đồi, ánh lửa đuốc rực lên. Người nghìn nghịt kéo đằng sau. Đấy là các người trong làng ra dự mít tinh với thị trấn. Chị em Thảo nhập bọn. Những tiếng lanh lảnh hò dô ta… một hai ba … Đi trong đám đông thì những điều nghĩ tản mạn lúc nãy cũng nhạt mất. Phú cõng con, ngẩn ngơ, cuộn theo dòng người, người đi chen lạc cả hai chị em.
https://thuviensach.vn
Khi tan mít tinh, Thảo về nhà. Bà Hai đã về trước, ra mở cửa, hỏi con: “Nghe nói tối nay có thương binh về qua phố, phải không Thảo?”, Thảo nói: “Con không biết”.
- Tao nghe các lão bà ngoài bến bảo có thương binh ở trên xuôi về.
- Phải đấy, u ạ.
Nhưng rồi Thảo cười:
- Đùa thôi. Con không biết đâu.
Bà Hai mắng yêu: “Mày bí mật cả với tao à!”
Chị Phú cũng đã về trước, còn thức, ngồi khâu bên đĩa đèn dầu chẩu tù mù. Thảo đến bên, chị Phú nói nhỏ:
- Lúc nãy cô chẳng về mà nghe thày nói.
- Lại cái ông Trẩm chứ gì!
- Đành rồi. Nhưng mà thày nói buồn lắm.
- Sao?
- Thày bảo thày ở ngoài này bây giờ chẳng có ích cho ai. Thày muốn về trong ấy. Thày mang thằng Tuấn về, bảo cả tôi cũng đem cháu về. Chỉ còn để những người khỏe ở lại theo đuổi độc lập cho đến đầu đến đũa. Bao giờ kháng chiến thành công thì gia đình lại đoàn tụ.
“Mình chẳng còn có ích cho ai…” Ông Hai buồn bã nghĩ thế. Thật thì ông không oán thán gì. Nhưng, ông cũng như Phú, hay cả lo,
https://thuviensach.vn
lo quẩn. Có lần, Định ở đơn vị về chơi kể chuyện mới rồi dưới Vĩnh Yên ta đánh, bắt sống được mấy chục lính Tây. Định tưởng kể chuyện chiến thắng thế thì bố sẽ thích. Nhưng ông Hai lo lắng hỏi: “Thế thì ta phải nuôi nó mất biết bao cơm cho đủ, rầy rà quá”. Làm cho Định mất hứng chuyện, mà cả nhà thì cười.
Thảo treo túi sổ tay lên cột rồi thay cái áo rách đêm vẫn mặc đi ngủ. Thảo cũng ngồi khâu nốt mấy cái mũ “tàu bay” của trẻ con cho mai khách lấy sớm. Thảo chặc lưỡi:
- Chuyện thày nói thì để đấy thôi. Lo đâu cho mệt.
- Cô bảo tôi lo gì!
Nói thế, Phú ra ý hơi giận em. Phú không thích em có thể cho là mình mềm yếu, mặc dù Phú chẳng cứng cỏi bao nhiêu.
Nhưng, cả hai chị em đều hiểu nỗi băn khoăn của bố. Những người con biết bố nghĩ như thế chỉ vì thương các con. Song bố thì không tưởng được mình nghĩ thế lại là làm các con bận tâm thêm. Bởi vì, có con nào lại chịu để cho bố trở về một mình mà mang tính “dinh tê”.
Chẳng qua cũng bởi vì từ năm chạy tản cư, mỗi lần đổi nơi ở, mỗi lần gồng gánh cơ nghiệp lên vai thì lại một lần thấy cái gánh ngót hơn, nhẹ hơn và cuộc sống mọi người trong nhà lại chật vật hơn. Mấy cái chiếu từ ngày đem đi, còn giữ được, vẫn đeo theo. Mỗi quẩy lại cuộn khoanh nó trên cạp thúng. Bây giờ cái chiếu nào cũng đã gãy đôi cả. Hễ trải ra nằm thì gậm giường rơi đầy những cọng chiếu vụn. Cái năm đầu, mẹ con còn mỗi người một gánh hàng tấm. Anh Phú buôn thuyền, ngược muối, thuốc lào. Thế mà rồi dần dầ n, mòn mỏi, gánh hàng tấm hạ xuống chỉ còn cái thúng
https://thuviensach.vn
bán quà vặt. Cuối năm, máy bay mấy lần ném bom phố bến. Nhà cháy. Rồi, anh Phú đi khu Ba thì bị lọt ổ phục kích của Tây.
Từ đấy, cả nhà kiếm ăn vá víu từng bữa. Phải kiên gan mới đứng lại được giữa những lao đao ấy. Thôi thì chị Phú, cô Thảo gồng gánh, gặp gì buôn nấy, làm nấy. Bà Hai đi khâu mướn. Ông Hai cởi trần xoe tay đánh chỉ, xe chỉ cho con đi chợ. Ông làm không kể ngày đêm. Ông chỉ sợ vì ông mà các con khó nhọc thêm.
Ông Trẩm xưa ở nhà và nay đi tản cư thì cũng thế, vẫn số ng lối ngày trước. Vả lại, lưng vốn mà rộng thì buôn bán như dài chân dài tay, nói rốn cũng ra tiền, ngồi đấy mà tiền cũng cứ bò vào nhà. Những chuyến muối, vải, thuốc lào, mỗi lần hàng toán lái ở xuôi đem lên, lại như đổ của vào nhà. Nhưng ông chưa vừa lòng, ông vẫn so kè: “Ngày trước tôi buôn sướng như ngồi cửa quan ấy chứ. Bây giờ vừa người khôn của khó mà lại lặn lội đầu sông cửa suối, cái chết lượn trên đầu. Chà chà, khó quá”. Cho nên, cứ máy bay lên quấy phá tợn thì ông lại tính chuyện về tề. Ông coi về hay ở cũng là cái chuyện thường. Ông thích nghe ngóng, chắp nhặt những chuyện làng quê tỉ mỉ. Những chuyện xa gần hơi hướng quê hương ấy đã làm hoang mang ông Hai.
Thảo buông tay kim, bảo chị:
- Cũng chỉ vì kinh tế nhà ta bây giờ không ổn nên thày mới phải nghĩ thế. Buồn cười, lúc nào cụ cũng coi như con cái còn bé tí, không muốn đứa nào vất vả. Nếu có việc làm hàng ngày thày đỡ đần được thì dẫu sao thày cũng vui. Nhưng trước hết phải gạt cái chú Trẩm đã. Em không ngờ bụng dạ chú ấy xoàng thế.
https://thuviensach.vn
Làm lành với em, Phú cười: “Ừ, cả nhà ấy cứ thườn thượt thế, chẳng thay đổi gì. Mà họ thừa mứa chứ như nhà mình thì chịu sao được”. Hai chị em thức khâu cố một lúc nữa, quá nửa đêm mới tắt đèn. Trong im lặng, mỗi người vẩn vơ một ý nghĩ. Giữa bóng tối, Phú lại thấy mình không “cứng cỏi” được như lúc ngồi với em. Câu nói của ông Hai khi tối “đem cả con cùng về” lại trở lại miên man day dứt. Ngoài vách nứa, ánh trăng gọn ghẽ như trong chiêm bao. Phú nhớ khi hai vợ chồng mới lấy nhau. Những ngày vui ấy đã qua rồi. Nhưng những người buồn hay nghĩ bằng kỷ niệm. Nước mắt Phú ứa ra. Phú thoáng nghĩ: “Hay là mình về… Cả con cũng về…” Phú cắn môi, nước mắt nhỏ xuống chiếu, Phú trở mình, một tay ủ lên người con.
Xa đằng đầu phố, có tiếng mơ hồ lao xao…
Khi ấy, Thảo cũng còn trằn trọc chưa chợp mắt. Thảo chẳng thích lối buôn hóng, chạy hàng bấp bênh không ra thế nào. Nhưng cái mơ ước có miếng vườn, có quả đồi tăng gia thì càng ngày càng mờ nhạt. Nhà ta đơn lưng lắm rồi. Thảo phác qua trong đầu một ít việc: mở lò khâu (hàng trăm vạn một cái máy), làm bánh kẹo, làm thuốc lá, làm đường, buôn chè (nghề nào cũng phải có số vốn to), hay là làm nón, áo tơi, đan bồ? Phải, làm những cái này thì cả nhà đều có việc. Ông cụ cứ suố t ngày vót vành, là lá thì thật khéo. Nhưng những nghề này phải lâu mới bắt được mối. Mà vốn thì cò con. Lấy đâu để ăn dài những lúc mới dênh dáo? Vẫn là những khó khăn không giải đáp được, cô Thảo ạ.
Dường như đã khuya. Có tiếng rì rầm xa. Thảo đoán, như mọi khi, sắp có đoàn dân công nửa đêm qua phố. Ngoài sân, trăng suông lạnh ngắt. Rồi những tiếng chân lạo xạo, chệnh choạng lại gần, như khiêng cái gì nặng. Thảo chợt nhớ câu hỏi của mẹ lúc nãy.
https://thuviensach.vn
Hay là có thương binh về? Chẳng lẽ. Đã được báo tối mai mới đón thương binh cơ mà?
Thảo sang giường chị Phú, gọi khẽ. “Chị, chị Phú…” Phú đưa tay che mặt, đầm đìa nước mắt, im lặng, vờ ngủ. Không gọi chị nữa, Thảo rón rén dậy ra đầu hiên. Quả nhiên Thảo trông thấy có những chiếc cáng thương binh đen lù lù đi qua lên đỗ trên đầu phố. Những chiếc cáng được đặt xuống rồi có người quay lại trạm gác ngã ba xin lửa hút thuốc. Họ đi nhẹ nhàng trên đường cát. Tuy vậy, như cả phố biết, đã trở dậy, nhà nào cũng đứng sau vách nhìn ra. Một vài nhà sáng đèn. Rồi có những tiếng guốc người đi ra chỗ dân công hút thuốc lào, hỏi nho nhỏ:
- Các anh ấy có khát nước không? Đau thì chóng khát lắm. Nước chè nóng đây…
Mấy bà đi sau, xách nải chuối. Trông dáng cũng biết là các bà Hội Mẹ Chiến Sĩ. Sao các mẹ lại biết có thương binh qua phố? Có lẽ ngoài bờ sông đã tổ chức đón rồi đưa tin vào. Thế mà đoàn thể phụ nữ lại được thông tri tối mai mới đón! Nhưng Thảo cũng chẳng băn khoăn. Báo sai giờ họp, công văn chậm và nhầm ngày đã thành tật, khó chịu mấy rồi cũng thôi. Vả lại, các mặt trận trên Tây Bắc, đương nhiều thương binh về. Đường sông đêm đi ngày nghỉ, không tính trước được. Ngay lúc ấy, theo thói quen, Thảo nhẩm việc. Năm ngoái, thương binh chiến dịch Lý Thường Kiệt về, bà con hàng phố đem quà bánh cho anh em cứ mạnh ai người ấy đưa, có khi hai ba nải chuố i để quanh đầu một cáng, có cáng bỏ sót không ai đưa được chén nước tới.
Thảo thình lình quay lại.
https://thuviensach.vn
Bà Hai đứng sau con gái từ lúc nào. Bà hỏi: “Thương binh về rồi à? Ra các bà ấy ở ngoài phố bến nói đúng. Nhiều hay ít, hả con?” Nghe mẹ hỏi, Thảo thấy mủi lòng thương mẹ. Thảo nghẹn ngào một lát mới nói được: “Nhiều, mẹ ạ”. Thảo biết mẹ đương nhớ anh Định. Lòng mẹ thương những người con ngoài mặt trận cũng là lòng mẹ thương con, đứa con mang nặng đẻ đau, dù nó đã biết cầm súng ra đi vì nghĩa cả, nhưng lúc nào mẹ cũng tưởng như nó còn bé, mỗi lần nó về nhà mẹ lại dặn dò đi đâu phải cẩn thận nắng gió.
Định, anh của Thảo. Thảo nhớ những lần anh Định về thăm nhà.
Lần ấy, trong một trận đánh đồn, trung đội phó Định bị đạn vào cánh tay, phải thương nhẹ. Sau chiến dịch, ở quân y ra, Định được phép về nhà nghỉ. Đêm đó, thuyền xuôi sông Thao. Nửa đêm cặp bến, Định lên bến, đi trong đám đông người lên bờ. Bến khuya, không có đèn đóm. Trời tối quá. Định không biết lối đi. Vả lại, mấy bận về nhà, nhưng chưa lần nào về đằng bến. Định hỏi cầu may:
- Cho tôi hỏi thăm lối nào về nhà cô Thảo ở trong phố? Thì có người hỏi lại:
- Ai như tiếng cậu Định phải không?
- Vâng, Định đây.
Một tiếng reo lớn:
- Ơ kìa cậu Định. Anh Phú đây.
https://thuviensach.vn
Định dựng cái gậy chống tựa vào bồ hàng của anh Phú, nắm tay anh Phú. Định còn chưa tưởng tượng được sự đổi thay của người anh rể, một người thợ cửi, quanh năm ro ró làm ăn ở làng, bây giờ đã thành một tay buôn xuôi ngược đến đỗi tiếng nói cũng khác cả giọng!
Về nhà, Định kể lại chuyện cùng thuyền mà anh em không nhận được nhau, cả nhà còn cười mãi. Ở nhà mấy hôm, dù biết là nhà ai bây giờ cũng gieo neo, nhưng Định cũng cứ nửa thương nửa mừng. Mỗi buổi chiều, bà Hai và em Tuấn đi kiếm cái đun ngoài rừng nứa về, hai mẹ con hai gánh nặng. Chị Phú và Thảo bán bánh tẻ, bánh nếp. Ông Hai cặm cụi chẻ tăm, đun nước cho khách ăn hàng uống nước tráng miệng.
Lúc ấy bà Hai bảo Thảo:
- Tao ra thăm các anh ấy một mảy.
Thảo trông nghiêng hình mẹ đi ngoài đường, thấy tay mẹ cũng xách một nải chuối. Thế ra mẹ đã sắm sẵn chuối từ bao giờ!
Đêm nay, lại có thương binh về qua. Công việc thật túi bụi. Hồi này đêm nào cũng có hai việc nối nhau: Chập tối thì bình nghị thuế công thương. Nửa đêm, ra đón thương binh ngoài bến. Các anh nghỉ chân ở đây, rồi vào viện quân y trong rừng phía chân núi.
Nhà nhà đều để cửa khuya, có đèn sáng. Chỉ nhà ông Trẩm đóng cửa từ chập tối.
Bà Hai bảo Thảo:
- Tao xem ý dạo này chú Trẩm khác lắm. Ngày nào chú ấy cũng sang thì thầm với ông lão nhà này toàn bàn chuyện “về”. Làm cho
https://thuviensach.vn
ông lão cứ ngơ ngẩn, cứ tính quẩn, nói năng như dở người. Cái chú ấy tệ thật! Đi xui nguyên giục bị, tao nghĩ bực lắm.
Thảo nói:
- U ạ, con đương thu xếp. Rồi thày con sẽ yên tâm, mẹ đừng lo. - Việc gì thế?
Thảo cười, nửa bí mật, nửa đùa:
- Bao giờ xong con sẽ nói.
Bà Hai lại chẻm miệng, mắng: “Mẹ mày! Bí mật cả với tao!”. Cái năm tản cư, Thảo mới mười bốn tuổi. Thật là vất vả, chẳng còn được như ở nhà. Cơm thì hạt ngô cõng hạt gạo, có khi chỉ nắm lá sắn để vừa làm canh vừa làm dưa. Mà sao, nói trộm vía, lên ở đất đồng rừng thế này, con bé nó vẫn lớn như thổi. Mái tóc nó dài óng như tóc bà ngày con gái. Chẳng mấy ngày, mấy lúc không có người gọi. Mặc dầu bận công tác, Thảo vẫn lo việc nhà, đỡ được bà nhiều. Thật ra, buôn bán bây giờ cũng như gian khổ kháng chiến, ngày càng khó. Bà Hai chỉ còn sức buôn ngồi buôn đứng từ bờ sông vào chợ. Bởi vậy, chị em Phú càng phải lăn lưng ra làm.
Bấy giờ, Thảo nói:
- Còn cái chú Trẩm, thế nào cũng có hôm con nói toạc vào mặt cho.
- Ranh! Khẽ chứ!
Thảo dặn mẹ:
- Con đi sửa soạn việc đêm đón các anh ấy.
https://thuviensach.vn
Rồi Thảo thoắt ra. Cái phố về đêm đã sống lại. Trên dòng sông tối đen, những chiếc thuyền vút ánh sáng ra vào. Tiếng vó ngựa thồ rậm rịch, nghe từ đằng xa lại. Người vào phố mua bán, nghỉ trọ, tấp nập trong ánh đèn đùng đục làn khói lẫn sương mù. Thảo đi khỏi, bà Hai cũng buông hai phên cánh cửa. Bà dặn ông Hai lúc ấy đương đứng cửa:
- Ông trông nhà.
Rồi bà ra bến đón đong gạo thuyền lên. Đi mấy bước, bà chợt trông thấy ai hao hao như ông Trẩm. Ông ấy cắm cúi đi. Bà Hai đứng nhìn lại. Như cảm thấy điều gì nghi ngại, bà trở về . Ông Hai cũng đã vào nhà. Hình như hai người đứng nói chuyện ở đầu hiên. Bà vòng ra vách sau, nghe ông Trẩm nói cộc lốc như gắt.
- Thế thôi!
Rồi bóng ông Trẩm vằng đi ra cửa.
Lát sau, làm như tình cờ, bà Hai bước vào nhà, nói to: - Ông Hai chẳng khêu đèn lên một mảy, nhà tối om thế này.
Ông Hai gợi cái bấc cỏ đã lụi trong đĩa dầu dọc. Ánh sáng vừa lóe lên, ông Hai nhợt nhạt nói:
- Ông Trẩm về tề rồi.
- À. Thảo nào.
Ông Hai bỗng bối rối, bà Hai nhìn ông trừng trừng. Ông cuống queo. Tay chợt giơ lên, đụng chiếc mũ dạ lù lù trên đầu. Bà ấy nhìn cái mũ dạ. Ông hốt quá, cầm giấu ra sau lưng rồi run run đi
https://thuviensach.vn
lùi vào vách… Bà Hai làm như không để ý, bà quay đi. Trong bụng bà xốn xang. Bà biết, từ ngày trước, ông Hai chỉ đội cái mũ ấy mỗi khi ông định đi đâu. Vừa rồi, ông định đi đâu?
Thế là bà Hai không dám ra bến nữa. Bà đóng cửa, tra dõi cẩn thận.
Ông Hai đã ngồi vào giường. Ông nằm xuống, đắp chăn kín mặt. Bà ấy có biết được cái chuyện vừa rồi ông định thế nào không? Ông bối rối, ông sợ. Ông không dám nghĩ nữa.
Lát sau, Phú đi đong muối dưới bến về. Bà Hai nói: - Lão Trẩm về tề rồi.
Hai mẹ con im lặng. Ông Hai cũng nằm im trong chăn, nghe. Nhưng không thấy bà Hai nói thêm, ông đoán bà Hai không biết thêm gì nữa. Tuy vậy, nghĩ đến cái mũ… nghĩ đến bà ấy có thể gặp lão Trẩm ở đây ra… nghĩ nhiều thứ… Bà ấy biết rồi, bà ấy biết cả rồi. Bà ấy thương mình mà không nói ra cho con cái biết. Nhưng mà… ồ thì cứ cho là bà ấy không biết gì cả. Ông Hai khẽ thở dài, để được yên tâm.
Song chỉ một lát, ông lại rối cả ruột. Không, bây giờ thì ông dứt khoát, ông dứt khoát không dám về. Mà chỉ còn lại nỗi lo lắng, ngượng ngùng trong lòng.
Ngoài đường, cái phố đêm lại tươi tỉnh khi bóng tối buông xuống. Trong nhà, ngoài đường, dưới bến nhộn nhịp. Một toán ngựa thồ muố i đương rậm rịch qua. Hình như bộ đội cũng ngược chiều, bộ đội ngược chiều mấy đêm nay. Trong bóng tối, nghe liên miên xa đến giữa đồng không, tiếng chân bước ràn rạt và
https://thuviensach.vn
tiếng những đầu thắt lưng, súng, lựu đạn va nhau lích kích. Người ngoài bến quẩy gạo, cá, muối, nón… vào phố mỗi lúc mỗi đông, có lúc rừng rực một bó đuốc qua, sáng cả vào vách nhà. Sinh hoạt thâu đêm của cái phố nhỏ rồn rập.
Tiếng Thảo gọi cửa.
- Gớm, sao u cài then sớm thế.
Cửa mở. Thảo ào vào, nhà vui hẳn lên. Chị Phú thì thào: - Nhà chú Trẩm về tề rồi.
Thảo hỏi lại:
- Thày có biết không?
Phú đáp:
- Thày ngủ.
Bà Hai không nói. Chẳng bao giờ bà nói ra chuyện ấy. Đằng kia, nằm trong chăn, ông Hai lại nổi cơn lo. Đến khi không nghe thấy bà Hai nói, ông mới yên tâm. Lần này ông yên tâm hơn.
Thảo bỗng khanh khách cười:
- Ô kìa, có gì mà phải lo. Mặc thiên hạ, ai thế nào mặc ai, mình cứ việc mình. Em về gọi u. Thuyền các anh ấy về đầy bến rồi.
Thế là bà Hai đi ngay với Thảo. Trước lúc đi, nghĩ thế nào, bà dặn lại Phú:
- Mày cài cửa cẩn thận nhé.
https://thuviensach.vn
Trong nhà, im lặng nặng trĩu.
Ngoài đường lúc này đương đông buổi chợ đêm. Đuốc đóm, từ ngoài bến vào, từ các vùng đồi quanh đấy đi ra, lố nhố, tất tưởi rực sáng.
Chuyến thương binh về tối ấy chỉ còn có hơn hai mươi chiến sĩ bị thương nhẹ. Các anh bảo cho được đi bộ để đỡ khó nhọc dân công. Các anh đi từ ngoài bến vào trong phố. Nghỉ ở đấy, ăn cơm sáng ban úy lạo của phố mời, xong mới vào y xá.
Họ đã ngồi cả trong nhà. Mấy anh xuống bếp nhặt rau, thái thịt, làm đỡ các chị đến thổi nấu.
Bà Hai đã quên nỗi lo ban nãy, bà khêu to đèn, rót nước, rồi cứ ngồi đầu phản ngắm từng người.
- Anh giống Định quá. Định nhà tôi cũng thế. Sao bộ đội anh nào cũng giống nhau? Cái năm bốn mươi chín, Định cũng bị thương, được phép về nghỉ mấy ngày. Anh có biết Định không? Định ở Trung đoàn…
Nghe số hiệu đơn vị của Định, một anh nói:
- Chắc anh con ở nhà thì tên khác, vào bộ đội lại đặt tên khác. Chúng con cũng thế. Có gặp cũng khó lòng biết.
Ngoài cửa, có hai anh đứng tựa vách. Họ đứng nhìn ra ngoài trời đầy bóng tối trăng sắp lên, cứ rạng dần. Có lúc buồn tay gõ gậy cộc cộc xuống đất, có lúc lại rì rầm chuyện. Rồi im lặng, chăm chú nghe chuyện trong nhà. Một anh nói:
https://thuviensach.vn
- Ở đơn vị trước, tớ cũng bạn với một thằng tên là Định, thân lắm. Đi trận chúng tớ gói quần áo gửi cùng nhau. Bây giờ nó sang pháo binh. Nó bảo tớ là nó có con em gái. Bao giờ độc lập, nó sẽ gả em gái cho tớ.
Một tiếng cười nhạo đáp lại:
- Chuyện thiếu thời gian tính.
Rồi cả hai người cùng cười. Một anh hát: Lô Giang… Dòng nước trong xanh… Có mái nhà xinh…
Họ lơ đễnh, không để ý vách trong có các chị đương làm bếp. Các chị cũng vừa làm vừa nghe lóm chuyện hai chiến sĩ ngoài cửa. Nghe đến quãng ấy, mấy cô nháy Thảo, rồi bụm miệng đấm lưng nhau cười khúc khích. Thảo ngồi xế cửa, đương gọt su hào. Thảo ngượng nóng mặt. Chốc chốc, Thảo lại ngước lên, bặm môi, nén cười, dọa mấy chị ngồi cạnh: “Yêu cầu trật tự, trật tự nhé!” Nhưng thỉnh thoảng mắt Thảo cũng kín đáo đưa ra ngoài hiên. Trời còn tối, không trông rõ ai. Rồi dáng chừng hai anh chàng chuyện mảnh ngoài vách cũng biết người trong nhà nghe lỏm, họ bèn im. Chỉ còn nghe tiếng gậy, buồn tay, đôi lúc gõ cộc cộc dưới chân vách.
Cơm xong, tuy trời chưa sáng, nhưng để tránh máy bay, các thương binh vào phân viện quân y. Thảo chú ý nghe chuyện, nghe tiếng, để ý nhìn mà không thể nào nhận ra anh nào lúc đêm đã đứng nói chuyện ngoài vách. Bây giờ các anh ấy đi rồi. Chỉ còn nghe tiếng giày nhè nhẹ trên cát. Những tiếng hát nho nhỏ vẳng lại. Thảo nghe như cũng có câu: Lô Giang… Dòng nước trong xanh…
Thảo đứng nhìn theo.
https://thuviensach.vn
Trời đã dựng sáng. Sương bắt đầu tan, từ giữa mặt sông hiện ra những chiếc thuyền bơi ngược suốt đêm bây giờ đương kẽo kẹt vào bờ tìm chỗ ẩn máy bay. Có tiếng hát và khói thổi cơm bốc lên. Thảo đương đi. Thảo vẫn nghĩ đến câu chuyện ngoài vách lúc trời còn bâng khuâng tối của hai anh bộ đội. Hơi sương từ ngang sông bay lên phào lấm tấm má Thảo, lành lạnh âm ấm. Ánh nắng sớm rực rỡ lồng trong sương.
Bà Hai về, đã thổi chín cơm. Thảo nhảy vào bếp, Thảo vỗ cánh tay mẹ. Thảo lắc đầu, rũ rũ tóc, làm nũng như ngày còn nhỏ. Bà Hai mắng: “Mày ngộ đấy à!” Rồi bà đưa cho Thảo cái thư vừa đến.
Thảo đọc, reo lên:
- Xã trả lời bằng lòng cho nhà ta cái đồi tăng gia. Thế là chương trình của con xong. Con tính u nghe này. U với con ở ngoài này chạy chợ. Còn cả nhà vào trong đồi. Thày con vót vành nón và trồng chuối, trồng sắn. Bao giờ anh Định về, anh ấy được yên tâm.
Bà Hai vừa vần nồi cơm, vừa thủng thỉnh nói như nhắc lại: “Yên tâm! Anh em mày thì cái gì cũng hợp nhau!”
Bữa cơm sáng ấy ông Hai cứ hỏi tỉ mỉ về cái đồi xã vừa cho. Rồi bàn người giồng sắn, người giồng chuối. Câu chuyện một lúc u ám đêm qua dường như không có.
Vài hôm sau, ông Hai vào ở trong đồi.
Thảo vừa tạt về nhà, nói:
- Thày ạ, có người làng ta vừa lên kể bố con nhà ông Trẩm về chuyến ấy vướng càn, chết cả rồi.
https://thuviensach.vn
Bà Hai nhìn ông Hai.
Chị Phú thì lặng lẽ khóc. Phú chạnh nghĩ chồng mình ngày ấy đã phải càn thì chắc cũng chết rồi. Con người vốn dễ lo, dễ buồn, Phú lại lo nỗi lo mới.
Thấy chị khóc, Thảo không hiểu: “Ơ hay…” Nhưng đương bận, Thảo lại ra phố.
Chiều mùa đông chóng tối. Những chiếc máy bay mỗi ngày lên lục soát bắn phá dọc sông vừa về xuôi, trời đất ắng lặng hẳn rồi, thuyền bè lại ra giữa dòng, và mọi nhà đã lên đèn. Cuộc sống về đêm của cái phố bến lại bắt đầu tấp nập, cuồn cuộn, mải miết.
1951
https://thuviensach.vn
Tội làng
Xã Trường Minh có bảy thôn. Tây về lập tề, xây bốt ở thôn Đình Thượng trong xã. Từ đấy, ngày ngày đồn Đình Thượng đi càn quét khắp bảy thôn.
Nhiều người còn kể: cái ngày mới hòa bình, Tây ở đồn Thượng vừa rút khỏi, xung quanh đã kéo đến đầy làng Thượng, sục vào từng nhà, lục lọi tìm đồ đạc, trâu bò mấy năm nay đã bị cướp về đấy. Bấy giờ, nếu không được bộ đội giải thích thì có thể xảy ra đổ máu to. Người ta hét: “Vặt râu tất, từ những thằng già trở đi. Phen này phải bỏ tù cả cái làng Thượng thì ông mới nghe”. Mãi về sau vẫn còn nhiều người nói: “Bọn làng Thượng đi lính, theo đi càn, cướp cả từ chai nước cáy. Trên bảo khoan hồng thì khoan hồng chứ cứ như tội cái làng nó thì đáng tùng xẻo!”. Nhiều người còn thâm thù làng Thượng.
Hồi ấy, tôi về công tác xã Trường Minh, đã ở thôn Đình Thượng. Một lần, được nghe chuyện chị Cơi, một du kích trong kháng chiến, tôi mới hiểu thế nào mà ra cái tội làng Thượng.
*
* *
Cơi có một người chị. Cơi cũng chỉ hao hao nhớ chị. Bởi từ thuở bé, mẹ đã phải đưa chị đi ở cho người ta tận huyện Thanh Hà. Chị đi đã mấy năm, Cơi không thấy lại mặt. Chỉ nghe mẹ nói chuyện nhà rằng ngày trước bố mẹ Cơi cùng ở làm cho nhà ông lý Ao và hai người đã thành vợ thành chồng ở đấy.
https://thuviensach.vn
Đến năm Cơi tám tuổi, bố Cơi phải một trận đau mắt rồ i hỏng mắt, không còn đi cày được. Vợ lý Ao xuống cuối làng gọi một người thợ cày về ở năm trong nhà. Biết ý người ta muốn đuổi mình, một hôm, bố Cơi bỏ nằm cửa chuồng trâu nhà lý Ao, sờ soạng ra ở cái quán giữa đồng. Mẹ Cơi đòi tiền công lưu niên của chồng thì lý Ao cười khểnh: “Tao phải trả lương hưu trí cho chồng mày à?”
Từ hôm ấy, bố Cơi chống gậy đi ăn mày. Rồi một hôm khác, bố Cơi bỏ đi đâu, cũng chẳng nói một lời nào với mẹ Cơi.
Từ khi bố Cơi đi thì người thợ cày cuối làng đến ở hẳn nhà lý Ao. Vẫn cái cày ấy, con trâu ấy, và cũng như bố Cơi, hôm nào bác ta cũng ra đồng từ gà gáy, đi được mươi đường cày rồi trời mới tang tảng. Ở nhà, mẹ Cơi băm bèo cho tới khi hai đống bèo đùn lên ngập lưng cột, người vẫn còn ngồi băm. Cơi thì rúc đầu xuống rút rơm. Cây rơm cao bằng mái đình, mỗi lần rút, Cơi phải giơ cái cẳng chân nhái bén lên đẩy ra, mới kéo được một nắm.
Công việc hàng ngày của kẻ ăn người làm trong nhà quần quật như thế, không có gì thay đổi. Như khi bố Cơi còn ở nhà. Và mỗi buổi chiều, ông lý Ao vẫn ngồi uống rượu giữa sân.
Nhưng mẹ Cơi thì càng ngày càng lặng lặng, suốt ngày không thốt một lời, như người bệnh câm, không còn biết nói nữa. Hai mẹ con, đêm nằm cái chõng đầu chuồng trâu. Nhà chủ để người nằm đấy cũng là phòng trộm vào dắt trâu. Xưa nay, khi còn bố Cơi ở thì cả nhà Cơi cũng vẫn ngủ đấy. Bố Cơi đi rồi cũng vẫn ngủ đấy. Gà gáy canh hai, ai nấy nhỏm dậy, mắt nhắm mắt mở, mỗi người chạy một ngả việc, không ai kịp nói với ai nửa câu. Mẹ Cơi mở dõi cổng trâu dọn chuồng. Cứt trâu bốc hơi, nồng chảy nước mũi, nước
https://thuviensach.vn
mắt. Mặt, mắ t mẹ Cơi lóa dần, ngẩng lên, trông ra cây rơm ngoài sân thì thấy vàng vàng nhấp nhóa. Phải hơi cứt trâu mãi, mẹ Cơi càng ngày càng kém mắt. Về sau, đến nỗi mẹ Cơi lội ao vớt bèo, không biết lên bờ sâu bờ nông đằng nào, Cơi phải thò cái sào nứa xuống dắt mẹ lên. Mẹ Cơi chỉ khóc. Làm người cốt có hai con mắt thì hai con mắt lòa.
Thế là, cũng như bố Cơi, mẹ Cơi hỏng mắt. Mẹ Cơi không đi làm được nữa. Chỉ quanh quẩn mó máy việc trong nhà. Còn thì cứ ngồi dưới chuồng trâu suốt tháng. Vợ chồng ông lý Ao cũng không ai nhắc. Mọi người làm ăn tấp nập qua lại, cũng chẳng ai để ý. Mỗi bữa ăn, Cơi bưng một bát cơm về cho mẹ, ông lý lại quát:
- Liều liệu đấy, nhà tao đây không phải trả lương hưu trí cho đứa nào nhé.
Mẹ Cơi rụng rời. Làm sao quên được cái câu ghê gớm lý Ao vừa nói vừa cười khểnh “Tao không phải trả lương hưu trí” cái năm chồng bà chống gậy đi. Nghĩ cực chẳng đã, thế này thì không còn mặt mũi nào mà ở lại nữa rồi.
Nửa đêm, mẹ Cơi lay Cơi dậy. Thấy tay mẹ ướt, Cơi biết mẹ khóc. Cơi nói dỗi: “Cứ khóc mãi thì còn gì mắt”.
- Con ơi con! Mày dắt mẹ ra ngoài cổng đồng.
Nhưng Cơi vẫn ngái ngủ, Cơi lại ngủ. Mẹ Cơi ngồi tựa cột chuồng trâu như thế cho tới sang gà gáy canh hai thì mẹ lôi con dậy dọn chuồng, như mọi khi.
Bà ngồi nghe cái dõi cổng con mình vừa tháo xuống, lúc hai con trâu thấy người vào thì thò cổ ra hít phè phè, rồi quen lệ, chúng ỉa
https://thuviensach.vn
phạch phạch thêm một bãi nữa mới chịu bước ra. Cơi lùa cái mai vào cồn cột hót phân. Mùi phân hôi nồng nặc ra tận đây. Lúc này nước mắt, nước mũi con gái đương đổ ra. Hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt bố mẹ con cái đều vùi trong cái hơi phân này. Cũng lúc ấy, trên nhà, lý Ao ra bể nước đứng súc miệng khoàng khoạc. Ở cửa nhà ngang bước ra mấy người canh điền, vai cày, tay vác cuốc, tay bùi nhùi lửa, đánh trâu đi, lúc ấy cái Cơi đã đổ xong hai giành phân trâu vào chuồng gio, trở vào ném phạch đôi quang xuống, chạy lên thay thau nước cho ông lý vừa trở dậy ra rửa mặt.
Những công việc trong nhà trong sân lúc tờ mờ sáng, mẹ Cơi nghe biết quen thuộc quá nửa đời người rồi. Nay thì mắt lòa, bó tay ngồi đây. Càng thấy nhớ làm, khổ quá, thèm làm quá. Nhưng mà “vợ chồng dâu con ông lý” không ai bảo mình một câu. Lại nghe ông lý quát xuống: “Nhà tao đây không phải trả lương hưu trí, không phải cơm bưng nước rót hầu đứa nào”. Cái ông lý thâm hiểm tài nói xa, nói mỉa. Thế rồi mãi tối cũng không thấy Cơi xuống cho cái ăn như mọi khi. Cơ chừng họ triệt đường cơm nước mình rồi. Đến tận lúc Cơi lủi vào ngủ, nó dúi cho mẹ một nắm cơm, thì thào: “Bà lý hai bà ấy giằ ng bát…” Mẹ Cơi không nói, bà ngồi tựa cái gióng chuồng trâu. Cho tới nửa đêm, nửa đêm ấy, bà lại lay Cơi. Cơi tỉnh dậy, lại thấy tay mình ướt đẫm nước mắt mẹ.
- Cơi ơi Cơi! Mày dắt mẹ ra ngoài cổng đồng bây giờ.
Lần này Cơi nín lặng rồi Cơi khóc, rồi đứng lên. Cơi dắt mẹ đi. Bước khỏi cửa chuồng trâu, nơi vợ chồng đã ăn nằm, sinh con đẻ cái, quá nửa đời người ở đấy, mẹ Cơi nức lên. Hai con trâu nghe động, thò mũi ra thở xì xì. Cửa vẫn đóng kín, có đàn chó xô ra. Nhưng thấy người quen, chúng lại xúm xít nhảy cỡn, quây lấy hai mẹ con Cơi đương vịn nhau qua cái sân sáng trăng. Cơi còn nhớ mãi.
https://thuviensach.vn
Cho đến sau này, mỗi lúc nhớ cái khúc khổ ấy, bao giờ Cơi cũng khóc. Đến tận hôm nay, nhớ lại nỗi khổ đời mình đến cái đận ấy, Cơi còn nghẹn ngào.
Cơi đưa mẹ ra quán giữa đồng. Năm năm trước, bố Cơi đã ra ở cái quán này. Cơi ngồi với mẹ một lúc, mẹ nói: “Sắp sáng rồi, mày phải về mở dõi chuồng trâu đi. Mẹ đã liệu được thân mẹ rồi, đừng lo”.
Cơi trở về, vừa lúc con bác Năm - người thợ cày về ở năm thay bố Cơi ngày trước, thằng Kể - đương đun nước, chốc nữa ông lý uống chè sớm.
Thế là mẹ Cơi đã ra khỏi nhà lý Ao. Cũng không ai hỏi đế n. Mãi một hôm xuống chuồng trâu, bà lý Ao mới hỏi Cơi:
- Mẹ mày đâu rồi?
Cơi không nói. Mụ đánh Cơi một cái cốc, rồi cũng chẳng hỏi thêm. Bấy giờ đương hồi đói, ngoài đường, người đói lũ lượt đi như cô hồn. Kiếm được miếng ăn càng khó, cái mạng con người càng rẻ. Bác Năm thợ cày phải về đón cu Kể lên, cũng xin cho vào ở nhà lý Ao. Ngày ngày cu Kể với cái Cơi băm bèo thay mẹ Cơi, băm cho đến khi đống bèo lù lù cao lấp cả hai đứa trẻ mới đủ ngữ cho năm con lợn ăn. Rồi lại hót phân, thả trâu, chăn trâu, rút rơm cứ quần quật, tối mặt.
Cơi để giấu một nắm cơm từ ba hôm sớm nay mới trốn ra được với mẹ. Như mọi khi, Cơi chắc lúc này mẹ chưa đi xuống chợ kiếm ăn. Cơi chạy vào quán, thấy cái chiếu còn đắp. Mở chiếu ra thì mẹ đã lạnh đen, chết từ bao giờ. Bốn phía đồng không mông mạnh. Cơi ngồi trong quán, khóc thật to. Cũng không ai nghe tiếng.
https://thuviensach.vn
Sau Cơi chạy xuống đồng dưới. Bác Năm đương bừa dưới ấy. Nghe tiếng Cơi khóc gọi, bác Năm bỏ bừa lên.
Bác Năm vào xóm mượn cái thuổng. Qua bờ tre, bác chặt một cành tre non làm lạt. Mẹ Cơi nằm trong manh chiếu buộc ba vành lạt tre.
Bác Năm chôn mẹ Cơi ngay trên bãi trước cái quán mẹ Cơi đã ở. Cơi đứng trước nấm đất, chốc lại khóc, chốc lại nghĩ đến chị đương ở Thanh Hà. Cơi không muốn trở về nhà ông lý. Nhưng huyện Thanh Hà xa xôi kia ở phía nào? Thật thì cả mặt chị, Cơi cũng không còn nhớ được nữa. Cơi lại khóc.
Bác Năm trỏ cái thuổng ra đằng trước:
- Đầu mẹ mày nằm gối về Gò Chùa, chỗ cái cây gạo kia kìa. Mày trông mà nhận lấy, sau này khỏi nhầm.
Cơi ngước mắt trông về phía cây gạo. Mắt lóa lên cây gạo như nhìn thấy bóng mẹ và chị rách rưới ở Thanh Hà lên, đương vẫy Cơi đi. Bác Năm cúi xuống phủi vai áo lấm cho Cơi, bảo:
- Về thôi.
Cơi mới nhớ ra. Nào biết Thanh Hà ở đâu? Chẳng thể làm thế nào được, Cơi rầu rĩ, trở lại nhà ông lý Ao.
*
* *
Khi Tây đánh đường số 5, chiếm luôn cả vùng Trường Minh, dọc theo đường cái.
https://thuviensach.vn
Tây sục vào làng Đình Thượng. Lý Ao chít khăn, mặc áo thụng xanh, vòng tay đứng chực trước cửa.
Thế là lý Ao ra làm xã ủy.
Một năm sau, tên tổng ủy, kiêm đồn trưởng đồn Thượng Tây, cho ông ta trông coi cái lô cốt vuông mái tôn mới xây trấn đầu làng Thượng. Mỗi hôm, ông đồn trưởng lại xách ba toong từ nhà lên bốt, có người đóng các súng đi hầu sau lưng.
Lý Ao thường cười khẩy, nói:
- Làm việc cho Tây chỉ được cái tiếng ác, chẳng được miếng đếch gì.
Ấy chỉ bởi vì nhà ông lý phải bỏ ruộng trắng nhiều. Người làng chạy đói chạy loạn đi đâu cả, không mượn được ai ở năm, ở công mùa, công người nữa. Chỉ còn có bố con nhà Kể và cái Cơi vẫn lẽo đẽo ở, cũng chỉ kham nổi vài mẫu.
Nhưng từ khi Tây cho xây bốt đầu làng Đình Thượng thì lý Ao phát tài. Bởi xây bốt thì mỗi nhà phải góp gạch, đóng tiền. Tiền ông bỏ túi, gạch ông khuân bớt về nhà, còn người các làng thì bắt lên làm bốt. Thôi thì gạch đình, gạch chùa ở những đâu đâu đều cho dõng đi dỡ hết. Mỗi nhà còn phải khoán mấy đợt gánh gạch, đánh vữa, đào móng. Vợ ông lý lên tỉnh cất xi măng, dây thép gai về bán buôn cho đồn. Đến khi xong lô cốt, có lính về đóng đông thì các vợ ông chia nhau thầu cơm, mở sòng xóc đĩa và quán quà, rượu, thức nhắm. Trong nhà lúc nào cũng nuôi sẵn chục con lợn mới kịp mổ bán. Vì ruộng bỏ, cấy ít, việc nuôi đàn lợn bây giờ bác thợ cày Năm phải chuyên, có thằng Kể và cái Cơi phục dịch. Ba người chia nhau đi mua bèo, băm bèo. Mùa rét cũng như mùa hè, hết đầm
https://thuviensach.vn
mình dưới ao vớt bèo lại quang gánh trên cổ, chạy long tong đầu làng cuối làng.
Một hôm, bác Năm ở bốt về, vai trĩu đôi thùng nước vo gạo. Nhà vợ hai lý Ao thầu cơm lính, nước vo cơm nguội cho lợn. Quái, sao nhà lại vắng im thế? Con trâu trong chuồng chưa tháo chốt vẫn đứng yên. Thấ y bóng người, trâu hểnh mũi ra thở. Không có người đến cày. Bác Năm chặc lưỡi, đoán: “Lại đi theo cầu cả rồi”. Vừa lúc đó, xếp Ao chạy xộc vào. Đầu đội cái mũ chào mào, mông đeo khẩu súng to như cái ấm giỏ, tay thì quăng ba toong, hệt quan đồn Cổng Tỉnh. Lão quát:
- Lũ nhà này đâu cả rồi?
Vợ ba lão te tái ở nhà dưới lên. Mụ nói:
- Đi đánh đuổi khắp làng cả buổi sáng chẳng được một đứa nào về cày. Chúng nó sợ phải theo càn, chạy tiệt. Cuối tháng chạp rồi mà chưa cấy hết, lại đến bỏ vụ mất.
- Bỏ đấy. Bỏ đấy! Ra lên đèn hương ngoài điện cho tao xong rồi xuống dưới làng Trằm theo càn. Phải đi tận nơi mà trông đồ đạc, không có thì chúng nó cuỗm hết.
Bác Năm đang trộn bèo, cám vào nước vo trong nhà ngang. Lão trông thấy, hét:
- Thằng này nữa! Mau, đi.
- Tôi…
- Cho đi theo quan mà kiếm cái Tết lại không biết sướng à? Đi mau lên.
https://thuviensach.vn