🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Cười Cổ Nhân Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Tên sách : CHUYỆN CƯỜI CỔ NHÂN Tác giả : VƯƠNG HỒNG SỂN Sưu tập ------------------------ Nguồn sách : Thích Đức Châu Đánh máy : Thanh Trần Kiểm tra chính tả : Kim Thoa, Lê Thị Phương Hiền, Trần Lê Nam, Nguyễn Mỹ Quỳnh Dao Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 29/06/2018 https://thuviensach.vn Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE 4U.ORG Cảm ơn tác giả VƯƠNG HỒNG SỂN đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. https://thuviensach.vn MỤC LỤC LỜI KHAI KHÔNG AI HỎI SÁCH THAM KHẢO 1. Chuyện Ký Viên 2. Cây đơn 3. Ông điếc đi mừng tuổi 4. Sửa mũ mấn 5. Dương phù âm trợ 6. Ông thần bia (Xem bài số 5 trước) 7. Ăn nói khoan thai (số 29 bản Thọ An) 8. Tánh người chậm lụt (số 13 bản Phụng hoàng San) 9. Tánh trầm tĩnh của người Hồng mao (T.S.V.P. tr.149) 10. Lửa cháy nhà 11. Từ Hôn 12. Mảng lo viết văn 13. Nghe qua thì biết 14. Cha dạy con 15. Thằng bé ngu tối 16. Giấu cày 17. Ông già thật thà 18. Tưởng là gì ? 19. Hai anh sợ vợ 20. Thơ cóc 21. Ba anh dốt làm thơ https://thuviensach.vn 22. Bụng không 23. Không chịu thua (chuyện cờ tướng) 24. Chỉ nước cờ 25. Cờ ngoài, bài trong 26. Ông đồ Nghệ làm thơ 27. Bốn anh học trò đặt thơ trong chùa 28. Chế giấm 29. Phép trị rượu chua 30. Hùn vốn đặt rượu 31. Uống rượu bằng chén con mà chết hóc 32. Cạo váy 33. Thầy hù 34. Cái gì không xài nó dài ra VẤN ĐỀ RÂU 35. Mặt dày 36. Mặt dày 37. Ông râu rậm 38. Ông già không có miệng 39. Giống ông bộ râu 40. Thấy pháp râu đỏ 41. Thuốc nhuộm râu 42. Lấy giống râu 43. Râu quai nón 44. Lấy thuốc mọc râu 45. Thuốc trồng râu https://thuviensach.vn 46. Trên dưới thông đồng 47. Liên hữu hội 48. Truyện người râu ba chòm, người râu rìa TIẾU LÂM PHỤNG HOÀNG SAN 49. Thơ ngựa hay (Bài số 6 trương 5) 50. Chó ngáp (bài 2 tr.7) 51. Kết lương hữu (Bài 14 tr.8) 52. Chiêm bao rủi (Bài 15 tr.9) 53. Coi sách (Bài 15 tr.9) 54. Ông đánh cháu (bài 18 tr.10) 55. Làm biếng hai kiếp (Bài số 19 tr.10) 56. Dời nhà (Bài số 20 tr.2) 57. Tuổi sụt (bài số 22 tr.2) 58. Rể bất lợi (bài số 23 tr.12) 59. Mướn đày tớ không tiền (Bài số 24 tr.12) 60. Hai anh em làm ruộng (bài số 25 tr.13) 61. Không đãi khách (bài số 26 tr.13) 62. Một món cũng đủ (bài số 27 tr.13) 63. Hà tiện (bài số 29 tr.14) 64. Xin nước lạnh (bài số 30 tr.15) 65. Cho đủ cặp (bài số 31 tr.15) 66. Đòi nợ (bài số 32 tr.15) 67. Mối ăn nhà (bài số 33 tr.15) 68. Mua phân (bài số 34 tr.16) 69. Chuột cắn (bài số 35 tr.16) https://thuviensach.vn 70. Dốt hay nói chữ (bài số 36 tr.16) 71. Nói láo như bò (bài số 37 tr.17) 72. Đi làm rể (bài số 38 tr.17) 73. Lò mò (bài số 39 tr.18) 74. Con rắn vuông (bài số 40 tr.19) 75. Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ (bài số 41 tr.19) 76. Kính mang coi sách (bài số 42 tr.20) 77. Giấu đồ kẻo chúng giựt (bài số 43 tr.20) TRUYỆN ÔNG Ó 78. Cho mượn trâu (bài số 1 tr.3) 79. Nói láo gạt người hàng thịt (bài số 2 tr.4) 80. Nói láo có Sách (bài số 3 tr.4) 81. Nói láo tới Huế (bài số 4 tr.5) 82. Nói láo gạt các quan (bài số 5 tr.6) 83. Nói láo gạt quân lính (bài số 6 tr.7) 84. Nói láo gạt ông quan hưu trí (bài số 7 tr.7) 85. Nói láo trong dinh Đông cung (bài số 8 tr.9) 86. Từ Huế về Nam (bài số 9 tr.10) 87. Câu ống (bài số 10 tr.10) 88. Nói láo tỉnh tuồng, đờn bà hoảng kinh (bài số 11 tr.11) 89. Người chết của hết (bài số 12 tr.12) 90. Đặt rượu bằng khoai thúi và khoai Sùng (bài số 13 tr.13) 91. Chó săn (bài số 14 tr.14) 92. Khi ông Ó về tới nhà (bài số 15 và bài chót tr.17 tập Bùi Quang Nho) https://thuviensach.vn TRUYỆN TIẾU ĐÀM – PHỤNG HOÀNG SAN VÀ DƯƠNG DIẾP 93. Sửa mũ mấn (bài số 1 tr.5) 94. Chim dồng dộc (bài số 2 tr.6) 95. Không bỏ thói cũ (bài số 3 tr.7) 96. Nghẹt lối (bài số 4 tr.10) 97. Dâu giọi cha chồng (bài số 5 tr.11) 98. Mượn ngựa (bài số 6 tr.12) 99. Thuốc mắc cổ (bài số 7 tr.12) 100. Hỏi chỗ làm (bài số 8 tr.13) 101. Coi đầu mua nón (bài số 9 tr.13) 102. Giáo tập (bài số 10 tr.13) 103. Thầy say rượu (bài số 11 tr.14) 104. Nói chữ An nam ra chữ Tây (bài số 12 tr.14) 105. Thầy dốt (bài số 13 tr.15) 106. Thuốc ngứa 107. Đánh cha già (bài số 15 tr.16) 108. Ngồi lâu phải đổi (bài số 16 tr.16) 109. Sớm đỏ tối đen (bài số 17 tr.17) 110. Học lội (bài số 18 tr.17) 111. Địa lý (bài số 19 tr.17) 112. Chó cắn tay (bài số 20 tr.18) 113. Mới dựng kệ (bài số 21 tr.18) 114. Đừng cho thuốc người mập (bài số 22 tr.19) 115. Thầy thuốc hay (bài số 23 tr.19) 116. Hết gạo (bài số 24 tr.20) https://thuviensach.vn 117. Đi thú (bài số 25 tr.21) 118. Tánh không chừng (bài số 26 tr.21) 119. Thuốc rất linh nghiệm (bài số 27 tr.22) 120. Mau phai (bài số 28 tr.22) 121. Cũng chết (bài số 29 tr.23) 122. Cũng một môn (bài số 30 tr.23) 123. Hết trị (bài số 31 tr.24) 124. Đòi ăn (bài số 32 tr.24) 125. Cạo váy (bài số 33 tr.25) 126. Tá thơ ngu, hườn thơ ngu (bài số 34 tr.25) 127. Trên dưới thông đồng (bài số 35 tr.26) 128. Cho sống lại (bài số 36 tr.26) 129. Thầy thuốc đánh lộn (bài số 37 tr.26) 130. Liên hữu hội (bài số 38 tr.27) 131. Thuốc trồng râu (bài số 39 tr.27) 132. Ông già không có miệng (bài số 40 tr.28) 133. Bị mắng (bài số 41 tr.29) 134. Người lùn hun vợ (bài số 42 tr.29) 135. Cũng là thằng đui sướng (bài số 43 tr.29) 136. Tiếng không xa (bài số 44 tr.30) 137. Cận thị (bài số 45 tr.30) 138. Bay nón (bài số 46 tr.31) 139. Địt hay (bài số 47 tr.31) 140. Ăn trộm địt (bài số 48 tr.31) 141. Của chẳng lìa mình (bài số 49 tr.32) https://thuviensach.vn 142. Dám cho thua (bài số 50 tr.chót 33) CHUYỆN KHÔI HÀI 143. Cũng vậy (số 1 T.V.K) 144. Thơ ngày tết (số 2 T.V.K) 145. Tú Suất lật váy bà quan (số 3 T.V.K.) 146. Lấy quần chúng phơi ngoài sào (số 4 T.V.K.) 147. Tú Suất giành mền ông huyện (số 5 T.V.K.) 148. Chữ Thiên trồi đầu (số 6 T.V.K.) 149. Thơ hòa thượng (số 7 T.V.K.) 150. Đối « thần lần » với « khí gió » (số 8 T.V.K.) 151. Đối được vợ (số 9 T.V.K.) 152. Câu đối có chí khí (số 10 T.V.K.) 153. Than kinh (số 11 T.V.K) 154. Bẻ cau (số 12 T.V.K) 155. Hóc lưỡi búa (số 13 T.V.K) 156. Cá rô cây (số 14 T.V.K) 157. Nửa trự cơm, nửa trự canh (số 15 T.V.K) 158. Ỷa vất (số 16 T.V.K.) 159. Ăn hàng không trả tiền (số 17 T.V.K.) 160. Nghe trống ném ki đi về (số 18 T.V.K.) 161. Con học trò (đồng nhi) cứu thầy già Sáu (số 19 T.V.K.) 162. Cứu Cụ cho khỏi bắt (số 20 T.V.K.) 163. Anh kì cào (số 21 T.V.K) 164. Thầy kiện (số 22 T.V.K.) 165. Khẳng khái (số 23 T.V.K) https://thuviensach.vn 166. Cấp trí (số 24 T.V.K.) 167. Tú Suất đóng cũi giải nạp về tỉnh thành (số 25 T.V.K.) 168. Chọc con ông Tổng đốc (số 26 T.V.K.) 169. Đánh phách (số 27 T.V.K.) 170. Làm bộ chị thợ làm bánh (số 28 T.V.K.) 171. Thợ chạm rồng trỗ phụng (số 29 T.V.K.) 172. Làm xầy (số 30 T.V.K.) 173. Chó có sừng (số 31 T.V.K.) 174. Dụng mưu làm thuốc (số 32 T.V.K.) 175. Thầy rờ (số 33 T.V.K.) 176. Ông huyện với ông đồ (số 34 T.V.K.) 177. Ngô thì Sĩ với ông Tán lý Thường (số 35 T.V.K.) 178. Người can đảm (số 36 T.V.K.) 179. Cà xốc (số 37 T.V.K.) 180. Tú Suất bắt mụ nữ tu (số 38 T.V.K.) 181. Ông Cống Quình ĐỐI CỔ KỲ QUAN 182. Giấu đầu ra đuôi (bài số 10 tr.17 ĐCKQ) 183. Cóc cắn bể nồi vố (bài số 22 tr.33) 184. Tham thì thâm (bài số 26 tr.42) 185. Ông chảng (heo rừng lớn) (bài số 27 tr.45 tập nhì) 186. Bà già hóa ra nắp hòm (bài số 33 tr.65) 187. Tử sanh hữu mạng (số 11 tr.18 tập 1 Đặng-lễ-Nghi, 1910) 188. Ma liệng ban ngày (số 12 tr.20) 189. Một đêm ma nhát hai lần (số 14 tr.22) https://thuviensach.vn 190. Ông bà bắt con cháu, con cháu bắt ông bà (số 23 tr.36) 191. Nàng dân chí hiếu (số 24 tr.38) 192. Cọp oán (bài số 32 tr.60, cuốn nhì) 193. Cá ông cứu người (số 34 tr.68) 194. Cọp hóa ra chó (số 36 tr.72) 195. Nước nóng trừ bệnh điên (số 37 tr.74) 196. Xà niên (số 38 tr.77) 197. Nước gừng trị bịnh bôn đồn (lớn dái) (số 40 tr.81) 198. Hồn Gia-định, xác Bắc-thành (số 42 tr.84) 199. Tà bất cảm chánh (số 30 tr.55) 200. Chuyện ma trong Chợ-lớn 201. Hồn Trương Hoa, ma hàng thịt (chuyện số 31 tr.48) 202. Truyện Thủ Huồn (bài số 25 tr.41) https://thuviensach.vn VƯƠNG HỒNG SỂN Sưu tập CHUYỆN CƯỜI CỔ NHÂN https://thuviensach.vn LỜI KHAI KHÔNG AI HỎI Tôi là một tên dân Việt rất tốt, chưa có tiền án. Bà xã rất ngán tôi, vì tôi có tánh yêu đời và bất cứ thứ gì đẹp đều yêu : yêu sách vở, yêu cổ-ngoạn, yêu ngắm dòm. Bốn vách đều có va đầu vào nhưng chưa bể, nay thêm ghiền trà : bác sĩ cấm thì uống lén. Ưa giễu cợt, ưa ngâm thơ tuy ngâm sai giọng, ưa ca hát tuy trật nhịp, bởi đờn không tươi ngón nên thôi, biết và hiểu hát bội. Có một món ưa nhứt đời là đồ xưa, nhưng không có tiền mua. Thích hơn hết là nói tiếu lâm, từ chuyện tầm phào vô hại đến chuyện hài hước mua cười, nói trước bữa ăn nói sau bữa ăn, nói trước khi ngủ, trong khi mơ, sau khi thức dậy, có khi đào lỗ nói rồi lấp lại. Có lúc cũng biết nổi cộc, rất ba trợn, chưa biết bợ ai, không làm bậy, còn lương tâm. Tức khí dằn ép quá, không xì ra thì chết. Mà chưa muốn chết. Còn yêu đời và muốn thấy thăng bình, trước khi ra đi. Viết tiếu lâm để có tiền mua cà và miếng cơm. Xin kiểm duyệt niệm tình đừng cắt cụt. V.H.S https://thuviensach.vn SÁCH THAM KHẢO 1. Tiếu lâm của Phụng Hoàng San, Đinh Thái Sơn xuất bản, nhà in Phát Toán Sài gòn 1912, sách nầy nhà Thuận Hòa Chợ lớn in lại năm 1954. 2. Chuyện Tiếu đàm của Phụng Hoàng San và Dương Diếp, bản nhì Sài gòn 1914. 3. Truyện Ông Ó, Bùi Quang Nho, bản 1, nhà in Huỳnh kim Danh. Sài gòn 1913. 4. Kho truyện giải buồn Ba Giai của Nguyễn Nam Thông, Nhật Nam xuất bản 1934. 5. Tú Xuất, quyển 4, Nguyễn Nam Thông soạn, Tân Dân xuất bản 1931. 6. Tú Xuất, quyển 5, Nguyễn Nam Thông soạn, Tân Dân xuất bản 1931. 7. Ba Giai, Tú Xuất, Thế Giới xuất bản (Đồ Nam), quyển 1 (không ghi năm in). 8. Ba Giai, Tú Xuất, Thế Giới xuất bản (Đồ Nam), quyển II (không ghi năm in). 9. Cổ tích nực cười, Nguyễn Quỳnh soạn, tác giả tự xuất bản 1957. 10. Tân tiếu lâm, Lò Léc Du Du I, Lạc Sinh, nhà in Phạm Văn Tươi, in năm 1952. 11. Cống Quỳnh (quyển 1 và 2) Nhơn Ái, Thuận Hòa xuất bản, in năm 1957. 12. Chuyện Khôi hài, Trương Vĩnh Ký, bản in nhà hàng C. Guillant et Martinon, 1882. 13. Chuyện tiếu lâm và cổ tích, Công Thành sao lục, Phạm văn Mạnh quyển I in năm 1950. 14. Chuyện tiếu lâm và cổ tích, Công Thành sao lục, quyển 2 in năm 1950. 15. Tiếu lâm Việt Nam Cử Tạ, nhà sách Khai Trí in năm 1968. https://thuviensach.vn 16. Chuyện tiếu lâm Lý Đình Dù, Hương Giang xuất bản (quyển 1) năm 1970. 17. Tiếu Lâm Giao chỉ Lý Đình Dù, Chiêu Dương xuất bản (quyển 2) in năm 1970. 18. Tiếu lâm Tân thời Lý Đình Dù, Chiêu Dương xuất bản (quyển 3) in năm 1970. 19. 101 chuyện cấm cười Tú Xe, Khai Trí in năm 1970. 20. 102 chuyện cấm cười Tú Xe, Khai Trí in năm 1970. 21. 103 chuyện cấm cười Tú Xe, Khai Trí in năm 1970. 22. 1001 chuyện cười Bửu Kế, nhà Khai Trí xuất bản năm 1969. 23. Văn số 169, Tưởng niệm Phạm Duy Tốn in năm 1970. 24. Văn học số 112 (Ấn quán Văn Học Sài gòn) 1970 25. Tiếu Lâm An nam do Thọ An soạn, bản Ích Ký, cuốn 1 in lần 3, năm 1924. 26. Tiếu Lâm An nam do Thọ An soạn, bản Ích Ký, cuốn 2 in lần 3, năm 1924. 27. Tiếu Lâm An nam do Thọ An soạn, bản Ích Ký, cuốn 3 in lần nhứt, năm 1918. Loại sách chữ Pháp 28. Recueil de bons mots historiques, M. Glomeau, Paris 1918. 29. T.S.V.P.J.W. Bienstock et Curnonsky, Ed. Crès, Paris 1924. 30. Le compartiment réservé par Bobèche, le livre de l’avenir, Paris. 31. Le compartiment des dames seules par Bobèche. 32. N.1 Collection Anas, Gallimard, Paris. Histoires enfantines 1925. 33. N.3 Histoires de vacances 1925. 34. N.5 Histoires anglaises 1925. https://thuviensach.vn 35. N.7 Histoires théâtrales 1925. 36. N.9 Histoires gauloises 1925. 37. N.13 Histoires littéraires 1916. 83. N.15 Histoires pour la plage 1926. 39. N.17 Histoires de chasse 1926. 40. N.19 Histoires pour jeunes filles 1926. 41. N.23 Histoires Médicales 1927. 42. N.25 Histoires judiciaires 1927. https://thuviensach.vn Cuộc đời nghĩ chẳng là bao ; Tội gì hay khóc, làm sao không cười ? Trăm năm cái cõi đời người. (trích cuốn G. Cordier tr.326) * Có ai mua cười ra mua ! Cười cay, cười ngọt, cười chua, cười bùi : Cười buồn lại có cười vui, Cười trăm nghìn sự mua cười ra mua ! (trong sách Cordier, tr.328 Sơn Phong, sách xem tết Mậu-thìn). * Này cười đi, này cười đi ! Đừng ngồi sị mặt làm chi nữa ngài ! Người đâu như khóc than hoài ! Không cười kiếc, để cho người ta vui ! (Cordier, sách xem tết Mậu-thìn) * Một ánh trăng trong, trong lòng chậu nước, Một đôi mắt ướt trên mặt xinh xinh, Mắt kia chứa mấy nhiêu tình, Không cười kém đẹp, cô mình biết chưa ? * Một hột nước trong, trong lòng lá thắm, Một tia nắng ấm tắm trọn căn nhà, Hoa, trăng đừng úa chớ tà, Tiếng cười như đã một và lòng ta. https://thuviensach.vn 1. Chuyện Ký Viên Ông Ký Viên, thuở còn đi học, dạo ra ngoài đồng, thấy có ba ông già chừng bảy tám mươi tuổi, tóc râu trắng bạc, lum khum 1 cuốc đất, công việc làm như kẻ còn trai. Ông Ký Viên hỏi : « Ba ông tuổi tác chừng ấy, tiếp dưỡng thể nào mà sức lực còn mạnh thể ấy ? » Một ông trả lời : « Thất nội cơ thô xú » (nghĩa là trong nhà vợ thô kém). Một ông đáp rằng : « Văn phạn giảm sổ khẩu » (nghĩa là cơm chiều bớt và miếng). Ông thứ ba đối lại rằng : « Dạ ngọa bất phúc thủ » (nghĩa là đêm nằm chẳng úp đầu). Ông Ký Viên bèn nối ba câu ấy mà rằng : « Chỉ tai tam tẩu ngôn, Sở dĩ thọ trường cửu » (nghĩa là : ý chỉ thay lời ba già, chỗ do sống lâu xa). Chính là lời dạy người ta muốn hưởng tuổi xa, thì phải tiết ẩm thực, viện sắc dục, vẫn hiệp với lời Tiền Kiên ca rằng : Thượng sĩ dị phòng, Trung sĩ dị bị, Phục dược bách lỏa, Bất như độc ngọa. Nghĩa là : Kẻ thượng sĩ riêng phòng, kẻ trung sĩ riêng mền ; uống thuốc trăm viên, chẳng bằng nằm riêng. Đính vận cả hai bài ca : Thất nội cơ thô xú, Vãn phạn giảm sổ khẩu, Dạ ngọa bất phúc thủ, Chỉ tai tam tẩu ngôn, Sở dĩ thọ trường cửu. Trích « Chuyện giải buồn » cuốn sau. https://thuviensach.vn Của ông Huỳnh Tịnh Của. Bản in Quản Hạt năm 1895, trương 5) * Lời bàn thêm. – Bài này ý vị thâm trầm, lời lẽ trang nhã, bằng mấy thang thuốc bổ, đáng ghi vào đầu cuốn sách nầy. Chuyện gọi giải buồn, tức là để đọc cho vui. Muốn vui mà ép buộc ba điều : già không nên có vợ đẹp, già không nên ráng ăn quá mức buổi tối ; rốt hết, già không nên nằm sấp mặt, (tức cấm làm cái việc đó !) (giảng như vầy đã thấy tục rồi). Nếu ai áp dụng đủ ba phương pháp nầy, thì khỏi đau lưng, khỏi đau bao tử, và không bao giờ mắc tim phòng ! https://thuviensach.vn 2. Cây đơn Một ông về hưu đã lâu, nhân buổi chợ, định ra mua cây đơn về giồng để lấy lá làm thuốc. Cả dẫy hàng cây, chỉ có một hàng có cây đơn thôi. Ngài hỏi : « Cây này bán bao nhiêu ? » - Ngài muốn mua ? Người ta thì bán rẻ, chứ ngài… tôi xin mười nén… - Cây có bằng một tí, lơ trơ vài cái lá… Sao nói thách với tôi ? - Ngày trước bất cứ to nhỏ, ngài cũng lấy mỗi lá đơn là một đồng… - Kìa ! Lý cựu bây giờ về bán cây đấy à ? Kim Xuyên (Văn cười) Trích cuốn Morceaux choisis d’auteurs annamites của ông G. Cordier. bản in Lê Văn Tân. Hà nội năm 1935, trương 322. * Thiệt là sâu sắc, miễn phê bình, ngọt thanh như cam xứ Đoài. https://thuviensach.vn 3. Ông điếc đi mừng tuổi Ông vừa bước vào nhà, con chó sủa. Chủ nhân ở trong nhà nghe chó sủa vội chạy ra. Ông trách ngay chủ nhân : Đầu năm năm mới đến nhà ông, Đã bắt đầu ngay gặp sự rông : Con chó cứ nhìn mình mà ngáp, Thế thì nông nỗi có buồn không ? Ông kia hiểu ngay, liền ghé vào tai ông điếc mà nói to : « Xin quan bác tha lỗi. Con chó này tôi mua ở làng Bẹp về đấy, sáng hôm nay nó chưa được hút ». Ông điếc gật gù mà nói : « Thảo nào… » Sơn Phong (Sách xem tết năm Canh ngọ) Cordier - Morceaux choisis d’auteurs annamites. Lê Văn Tân. Hà nội 1935, tr.326. * Lễ bái tổ đã xong, tôn sư dạy, ăn chạy gặp bữa tiệc vĩ vèo, cứ nuốt ba vắt cơm lạt, rồi được phép nhúng đũa vào đồ mặn, không tội vạ chút nào, miễn người đi tới đâu thì mình đi tới đó. Lễ đà đủ lễ, từ trang nầy sắp sau2; nói tục mới là tiếu lâm. Các bà ưa mắc cỡ, xin xếp sách đừng đọc nữa, để gặp nhau còn chào. Gia định, Vân đường phủ 8-12-1970. https://thuviensach.vn 4. Sửa mũ mấn Có hai anh học trò, một tên Dương Thăng, một tên Lý Diệp, rủ nhau đi thi. Trên đường thiên lý, Lý Diệp cỡi ngựa chạy sau, thấy đuôi ngựa Dương Thăng gió thổi phất phơ đẹp lắm, bèn nói với tới rằng : « Để tôi ra cho anh một câu đối, anh đối chơi đỡ buồn ». - Chú ra đi, tôi đối cho. Lý Diệp ra câu đối như vầy : « Phong xuy mã vĩ, thiên điều tuyến ». (Gió đưa đuôi ngựa, ngàn lông mướt). Dương Thăng ngó quanh ngó quất, bỗng thấy có bầy trâu đương đứng ăn cỏ dưới bầu trời mưa lún phún, liền ngụ ý đối lại rằng : « Võ sái ngưu đầu, vạn điểm sương ». (Mưa rưới đầu trâu, muôn điểm sương). Làm được hai câu như vầy, cả hai đều mừng, vừa ý nhau lắm, chắc phen nầy làm gì cũng đậu. Chạy được một đỗi xa, vừa tới một ngôi miếu cũ, bỗng thấy có một ông già tóc râu bạc phơ, có vẻ tiên phong đạo cốt, đón đầu ngựa tay cầm quạt lông, thi lễ mà rằng : « Xin hai thầy dừng ngựa lại, già muốn nói một đôi điều ». Hai người lật đật xuống ngựa. Ông ấy nói rằng : « Hai thầy quả bực cao tài, chuyến nầy đi thi ắt đậu cao. Khi nãy tôi nghe và lấy làm thích thú, một thầy ra cũng hay mà thầy đối lại cũng xứng. Mà phải chi hai thầy cho phép tôi sửa lại đôi chữ thì là hay vô cùng. Vì theo tôi hiểu, làm sao hai thầy dám chắc đuôi ngựa đếm một ngàn sợi lông, còn hột mưa đủ một muôn hột ? » Hai anh học trò kinh hãi, vái dài mà rằng : « Xin ông dạy giùm chúng tôi ». Ông già nói : « Theo ý già, thì như vầy. Câu ra : Phong xuy mã vĩ điều điều tuyến. (Gió đưa đuôi ngựa lông lông mướt). Còn câu đối lại thì : Võ sái ngưu đầu điểm điểm sương. (Mưa rưới đầu trâu điểm điểm sương) ». https://thuviensach.vn Hai người nghe rồi càng thêm kinh sợ, chắp tay hỏi : « Chẳng hay ông là người gì và ở đâu ? » Ông ấy rằng : « Nói thiệt, tôi là ông thần ở tại cái miếu nầy ». Hai người nghe rồi liền lạy mà rằng : « Xin ông dạy thêm, giúp hai anh em chúng tôi chuyến nầy đi thi cho đậu ». Ông thần lấy tay khoát khoát mà rằng : « Tôi nói không lẽ hai thầy lại cười, chớ thuở nay, tôi làm ra thì không đặng, song có một điều ai làm sẵn tôi đút tay vô sửa mũ mấn 3 thì hay lắm ! ». Thuật theo Phụng hoàng San và Dương Diếp. Truyện tiếu đàm, xuất bản năm 1914. Saigon. Nhà in de l’Union, trương 5. https://thuviensach.vn 5. Dương phù âm trợ Có một anh, yếu như sên, nhát như cáy, đi thi cử vũ không đỗ. Đến sau, nhờ có thần thế, lo chạy được bổ chức phó lãnh binh. Khi đi đánh giặc, mới trông thấy hơi bóng giặc, đã cắm đầu ù té chạy. Giặc đuổi theo, anh ta sợ run cuống cẳng, chạy không được. Sắp sửa bị quân giặc bắt, bỗng tự nhiên nghe có tiếng bảo rằng : « Có ta đây, đừng sợ ! ». Anh ta ngoảnh cổ lại nhìn, thì không thấy giặc đâu nữa, mà cũng chẳng thấy ai cả. Mới chắp tay vái rằng : « Không biết ông thần nào anh linh, cứu tôi khỏi chết vậy ? » Tiếng văng vẳng nói : « Ta là thần bia đây ! » - Vậy chứ tôi có công đức gì cảm động đến ngài, mà ngài cứu tôi ? - Ta cứu nhà ngươi là vì rằng : Kỳ thi vũ mới rồi, nhiều người bắn ta khổ lắm ; duy chỉ có một mình nhà ngươi là không nỡ bắn trúng ta mà thôi, cứ bắn ra ngoài xa cả. Bởi thế cho nên bây giờ ta giã ơn nhà người đấy ! Trích Tiếu lâm Thọ An. Bản Ích Ký. Hà nội, Năm 1924, số 24 trương 30. https://thuviensach.vn 6. Ông thần bia (Xem bài số 5 trước) Cũng một đề tài : « Dương phù âm trợ », đây là một bài thuật theo giọng miền Nam, tôi xin chép y nguyên văn, rút trong bổn Tiếu lâm Phụng hoàng San, do nhà Phát Toán in năm 1912 tại Sài gòn, bài ấy như vầy : « Ông thần bia. – Có anh thi võ cử mà không đỗ, sau nhờ người đỡ đầu đặng làm chức tầm thường. Khi ra đánh giặc thua chạy, bị giặc đuổi nà, xảy nghe có tiếng kêu rằng : « Có ta trợ lực đây ! » Ngó lại thì giặc đã về hết. Anh ta chắp tay mà vái rằng : « Chẳng hay ông thần chi cứu tôi khỏi chết ? ». Tiếng nói lại rằng : « Ta là thần bia đó ! ». Hỏi : « Tôi có đức chi mà cảm động tới ông thần bia, nên ông cứu giúp tôi ? ». Nói : « Cái đó là ta trả ơn cho nhà ngươi, vì trong hội thi võ, nhiều người bắn ta lắm, duy có một mình nhà ngươi nới tay mà thôi. » Tiếu lâm Phụng hoàng San. Nhà Phát Toán Sài gòn in năm 1912, trương 3. Sau đây, cũng một đề tài « Tánh người hoãn đãi », tôi sao y hai bài nầy : https://thuviensach.vn 7. Ăn nói khoan thai (số 29 bản Thọ An) Ngày xưa có một người nuôi phải thằng đày tớ tính hay láu táu, chưa đặt đít đã đặt mồm, bạ đâu nói đấy, chẳng ra đầu đuôi làm sao cả. Một hôm thầy mắng tớ rằng : « Từ rày không được ăn nói hấp tấp như thế nữa. Nói câu gì phải cho có đầu có đuôi, chứ không được nói nhăng nói nhít ». Một nhát, người chủ ngồi ăn thuốc lá, tàn thuốc rơi vào áo nhiễu. Thằng đày tớ trông thấy mới ra đứng khoanh tay, nói thong thả rằng : « Thưa thầy… trứng con ngài… đem ủ… nở ra… con tằm… Con tằm… kéo kén… Kén… ươm tơ… Tơ đem ra… kẻ chợ… bán… Người ta… mua về… bán lại cho… chú khách… Chú khách… đóng hòm… chở về Tầu… Bên Tầu… mới đem… dệt thành nhiễu… Thành nhiễu rồi… đóng hòm… lại chở… sang bên… An nam. Cửa hàng ta… buôn về… bán lại… Thầy mới đi mua… đem về nhà… gọi… thợ may đến… cắt áo… khâu xong… thầy mặc… thầy ngồi… ăn… thuốc lá… tàn thuốc… rơi… cháy kia kìa ». Anh chủ vội vàng trông xuống, thì áo đã cháy mất một mảng to. Giận quá mắng thằng ấy rằng : « Sao mầy không bảo ngay, mà mầy nói lôi thôi thế ? » Nó thưa rằng : « Vừa ban nãy, thầy mới dặn con phải ăn nói cho có đầu có đuôi ». Tiếu lâm An nam. Thọ An soạn Ích Ký Hà nội Xuất bản lần 3. 1924, tr.41. https://thuviensach.vn 8. Tánh người chậm lụt (số 13 bản Phụng hoàng San) Mùa đông lạnh, anh kia đương vầy lửa mà hơ và uống rượu cho ấm. Xảy có người khách tới, tánh người chậm lụt lắm. Anh chủ mời ngồi uống rượu, uống được vài tuần, anh khách thủng thẳng nói rằng : « Tôi… có thấy… một chuyện… hồi… mới… vô…tới… bây… giờ… tôi… muốn… nói… sợ… tánh… anh… nóng… nảy… bằng… không… nói… thì… sợ… thiệt… hại… cho… anh… không… biết… nói… phải… hay… là… làm… thinh… phải ? » Chủ nhà nói : « Chuyện chi anh nói phứt đi mà nghe ! » Anh nói : « Tôi… ngó… thấy… cái… chéo… áo… anh… nó… chấm… vô… lửa ! » Anh nọ lật đật vén áo đứng dậy, thì ngún 4 đã hết nửa cái rồi. Anh giận mà trách rằng : « Sao anh không nói sớm ? » Anh khách trả lời rằng : « Họ… nói… tánh… anh… nóng… thiệt… quả… như… vậy ! » Tiếu lâm Phụng hoàng san. Saigon. Bản 1912, trương 8. https://thuviensach.vn 9. Tánh trầm tĩnh của người Hồng mao 5 (T.S.V.P. tr.149) Bài số 29 bản Thọ An (Hà nội) nói về cách ăn nói khoan thai (xuất bản lần thứ 3 năm 1924) đối chiếu với bản Phụng hoàng San, Sài gòn in từ năm 1912 viết về tánh người chậm lụt. Nay thấy trong quyển T.S.V.P (Tournez s’il vous plait) 6in từ năm 1924, một bài như sau tả tánh trầm tĩnh của dân xứ tóc đỏ, xin đăng luôn để tiện so sánh : Một người Pháp tên Jules Janin, sang qua kinh đô nước Hồng mao, vào một quán rượu của một người đồng hương, ngồi thư thả uống rượu khai vị nơi một bàn nọ, mắt chăm chỉ đọc một tờ báo trải trước mặt. Có một bợm nhậu tóc đỏ cũng đang ngồi nhăm nhi gần đó, xảy gọi tên hầu sáng đến gần và chậm rãi hỏi : « Nầy anh, anh có biết tên họ ông chi chi đang ngồi hút xi gà và đọc báo bên cạnh lò hơ kia chăng ? » - Thưa ông, tên bồi nói, tôi không biết ạ ! Bợm nhậu ta bèn đến gần bàn tính tiền, hỏi hòa hoãn chị giữ kết, cũng y hệt câu ban nãy : « Thưa cô, cô biết danh tánh ông chi chi đang ngồi kia kìa vừa hút xi gà vừa đọc nhựt trình đó đó ? » Cô công-táp nhỏ nhẹ trả lời rằng đó là khách chưa đến quán lần nào nên cô không biết là ai mà nói. - Tôi cần gặp ông chủ quán, bợm nhậu ta nói. Chợt chủ quán từ trong bếp đi ra, bợm nhậu được cô giữ kết chỉ, lại tiếp tục hỏi câu nãy giờ : « Chủ quán có thể cho tôi biết quí danh quí tánh của vị khách đang ngồi đọc báo hút xi gà đàng kia chớ ? » Chủ quán lịch sự đáp : « Thưa ông, đó là một ông khách lạ, mới đến đây lần thứ nhứt, nên tôi chưa được biết tên họ, xin mời ông hỏi ngay vị đó là tốt hơn ». Chừng ấy, bợm nhậu ta bèn đến gần bàn người khách ngồi và trịnh trọng hỏi : « Thưa vị khách đang ngồi thưởng thức mùi xi gà ngon cạnh lò https://thuviensach.vn sưởi, có thế nào ngài cho tôi biết đại danh quí tánh ? » - Dạ thưa, anh Pháp trả lời, tôi tên là Jules Janin. Ông có chi cần dạy bảo ? - Dạ thưa, bợm nhậu lễ phép trả lời, tôi cần cho ông Jules Janin hay rằng cái áo ngự hàn của ông đang cháy. Ấy phép lịch sự của Hồng mao là thế, chỉ tiếp chuyện khi biết được tên người mình muốn tiếp xúc. Sau đây là ba bài tiếu lâm Tây, cho ta thấy tánh người đàn ông Pháp : https://thuviensach.vn 10. Lửa cháy nhà Một tên đày tớ hớt hơ hớt hãi, chạy báo tin cho ông Budé, là một nhà thông thái danh tiếng, rằng có lửa cháy tại nhà, ông trả lời tỉnh khô : « Hãy đi về báo cho bà chủ mi hay ! Mi phải biết, về việc gia đạo, ta không bao giờ cần biết đến ! » https://thuviensach.vn 11. Từ Hôn Một thanh niên được nhà đại văn hào Corneille hứa gả con. Việc bất thành, vì có việc trắc trở, anh đành từ hôn, nên đến tìm cho Corneille biết. Nhà đại văn hào trả lời : « Ấy, đừng làm rộn tôi ! Xin hãy lên lầu mà thương lượng với mụ ở nhà, coi mụ tính sao. Mấy việc như vậy, tôi xin không biết tới ». https://thuviensach.vn 12. Mảng lo viết văn Nhà văn Frédéric Morel đang mãi say mê dịch cổ văn của Libanius. Có tin nhà cấp báo, phu nhơn bịnh nặng từ lâu, nay muốn gặp mặt chồng trăn trối đôi lời. - Về trước đi, Morel nói, còn hai đoạn này nữa, dịch xong là về ngay tức thì. Một lát sau, có tin báo vội, bà đang trở mình, hấp hối. - Cứ về đi, còn hai chữ nữa thôi. Về đi, là tôi theo kịp liền. Liền khi đó, tin báo bà đã thở hơi cuối cùng. - Ai ta hồ hiền phụ ! Tội nghiệp dữ chưa ? Miệng nói vậy mà Morel ngồi lỳ không rời bản dịch. Tôi xin chép luôn ra đây ba bài văn pháp để tiện tra cứu : Un domestique court tout effrayé dans le cabinet du savant Budé, lui dire que le feu est à la maison. « Eh bien ! lui répondit-il, avertissez ma femme. Vous savez bien que je ne me mêle pas du ménage ». (Recueil de bons mots historiques, 15è mille, 1918, paris, M. Glomeau édit, page 150). * Un jeune homme auquel Corneille avait accordé sa fille en mariage, étant, par l’état de ses affaires, obligé d’y renoncer, vint le matin chez le père pour retirer sa parole et, arrivant dans son cabinet, lui expose les motifs de sa conduite. - Eh ! Monsieur, réplique Corneille, ne pouvez vous, sans m’interrompre, parler de tout cela à ma femme ? Montez chez elle, je n’entends rien à toutes ces affaires là. Sách dẫn thượng, trương 150. https://thuviensach.vn * Frédéric Morel travaillait à traduire Libanius, lorsqu’on vint lui dire que sa femme, qui languissait depuis quelque temps, était bien malade et qu’elle voulait lui parler. « Je n’ai plus, dit-il, que deux périodes à traduire et après cela j’irai voir ». Un second commissionnaire vint lui annoncer qu’elle était à l’extrêmité. « Je n’ai plus que deux mots, dit Morel, allez retourner vers elle, j’y serai aussitôt que vous. » Un moment après, on vint lui rapporter qu’elle était morte. « J’en suis très fâché, dit-il, c’était une bonne femme ». Et il continua son travail. Sách dẫn thượng, trương 149. https://thuviensach.vn 13. Nghe qua thì biết Có một ông nhà giàu nọ đã rít róng lại thêm dốt nát, sanh được một đứa con trai đã bảy tuổi đầu mà chưa cho vào trường học tập. Một người khách đến nhà chơi thấy vậy hỏi : « Con ông nó cũng trộng 7, sao ông chưa cho đi học ? » - Sợ nó còn nhỏ, ông nói, vô trường học sợ học trò lớn ăn hiếp. - Vậy thì, khách nói, ông rước thầy về nhà cho nó học. - Sợ nó chưa có trí, ông nói, biết học đặng hay không ? - Có khó gì, khách tiếp, thầy sẽ tùy theo sức nó mà dạy. Ví dụ : Nay dạy nó chữ NHỨT là một, một ngang, nó thuộc rồi, qua ngày mai người ta dạy nó chữ NHỊ là hai, hai ngang, nó thuộc, qua bữa mốt, người ta dạy nó chữ TAM là ba, ba ngang, lần lần như vậy thì nó phải biết chữ. Khách ra về, thằng con ra nói : « Thôi cha đừng rước thầy về tốn kém, mấy chữ ấy con đã thuộc rồi. » Người cha biểu nó viết thử chữ NHỨT là một đến chữ TAM là ba, thì nó đều viết được hết thảy. Cha nó khen giỏi rồi biểu nó viết chữ VẠN là muôn, nó nói để thủng thẳng cho nó viết. Cha nó đi xóm một buổi, về hỏi nó viết rồi chưa ? Đứa con đáp : « Thưa cha, chữ Vạn mắt quá, con viết gần trọn nửa ngày mà mới đặng có năm trăm ngang mà thôi ! » Thuật theo bài số 3 của bản Phụng hoàng San, năm 1912. https://thuviensach.vn 14. Cha dạy con Có một ông thầy dạy dạo kia, nhơn thấy ông chủ nhà mình đang ngồi dạy học, giàu có muôn hộ cơm ăn không hết, còn gia đạo mình thì bần hàn túng thiếu, nên có ý muốn đem con mình theo ở chung ăn học để khỏi tốn cơm nhà. Bữa nọ sẵn dịp thằng con ông chủ nhà quên mặt chữ, thầy mới nhắc khéo : « Phàm học trò thì nhờ có bạn tác nó nhắc nhở nhau, và nông trí đua bơi học tập. Tôi có một đứa con, phải chi nó được ở gần, cặp xách bầu bạn với cậu em, hầu có quên thì nó nhắc ». Ông chủ liền căn dặn sang năm thế nào thầy cũng nhớ đem trò nhỏ theo. Thầy về thăm nhà và kêu đứa con ra dặn trước : « Tao khoe mầy bên ông chủ là mầy học hành sáng láng, nhưng tao biết mầy ngu độn hơn ai hết. Vậy tao cho mầy ba chữ nầy mầy hãy ráng nhớ cho thuộc làu để nữa trước mặt ông chủ, tao hỏi lại thì mầy phải trả lời cho thông, như vậy thì mới mong ở được. Ba chữ ấy là chữ cơm, chữ mền và chữ cha ». Cha con giáp lối xong rồi, đứa nhỏ học hèn lâu, thầy mới dắt qua bển. Cơm nước xong xả, ông chủ đem sách ra cho nó đọc thì nó không đọc được chữ nào, thậm chí chữ nhứt một nét ngang, nó cũng không biết ! Thầy bào chữa cho con : « Tánh nó nhát, ông hỏi nó khớp, nên trả lời không được. Vậy để tôi viết ra đây ít chữ, thử nó đọc cho mà xem ». Nói rồi, thầy viết chữ mền, hỏi nó chữ gì ? Nó đứng ngó trân không nói. Thầy nhắc khéo : « Vậy chớ ban đêm khi ngủ, mầy đắp bằng giống gì ? » Nó cứ tình thiệt nó nói : « Đắp bằng chiếu manh ! » Thầy giận viết chữ cơm hỏi nó, nó vẫn trơ trơ. Thầy nhắc : « Vậy chớ thường bữa mầy ăn giống gì ? » Nó đáp tỉnh bơ : « Ăn tấm mẳn ! » https://thuviensach.vn Thầy giận quá, viết chữ cha, hỏi nó : « Còn chữ gì đây ? Nó lại u ơ ngơ ngáo ». Chán quá, thầy hỏi : « Vậy chớ mẹ mầy, tối ngủ với ai ? » Nó đáp gọn bâng : « Ngủ với ông Xã ! » Thuật lại chuyện số 5 (trương 4) bản Tiếu lâm Phụng hoàng San, In năm 1912 Sài gòn. https://thuviensach.vn 15. Thằng bé ngu tối Có một thằng bé ngu tối quá. Mẹ nó đem gửi ở nhà ông thầy cho nó học. Thầy dạy nó câu gì, nó cũng không nhớ, bảo nó cái gì, nó cũng đều quên. Dạy mãi, mới biết được : Cái ống nhổ, cái hỏa lò, và cái cấp thiêu 8, còn ngoại giả chẳng biết một tý gì nữa. Một hôm, có ông Đề là bạn của ông thầy dạy học, đến chơi. Nó cũng không chào. Ông thầy mới mắng : « Cụ Đề là bạn tao, thì cũng như tao. Sao cụ ấy đến chơi mà mầy không chào ? Thế là vô phép. Hễ bận sau mầy thấy cụ ấy thì mầy phải chắp tay lại mà chào : Lạy cụ Đề ạ ! Nhớ chưa ? » Thằng ấy xin vâng. Từ ngày ấy, hễ nó thấy ông Đề đến, thì nó chắp hai tay lại, chào : « Lạy cụ Đề ạ ! » Bận nào cũng thế. Một hôm nó về chơi nhà. Mẹ nó muốn thử xem con học hành tấn tới thế nào, mới đi lấy cái điếu đem ra hỏi con rằng : « Cái này là cái gì ? » Thằng bé nói : « Cái ống nhổ ! » Mẹ nó chán quá, lại lấy cái ấm bình tích, hỏi nó : « Cái nầy là cái gì ? » Nó trả lời : « Cái hỏa lò ! » Giận lắm, lấy cái cơi trầu, hỏi nó : « Cái nầy là cái gì ? » Nó trả lời : « Cái cấp thiêu » Mẹ nó điên ruột, tốc ngược váy lên, hỏi gắt rằng : « Thế thì cái này là cái gì ? » Thằng bé chắp hai tay lại, mà chào rằng : « Lạy cụ Đề ạ ! » Bài số 28 trương 40, trong Tiếu lâm An nam của Thọ An. Quyển 1. Ích Ký 1924. https://thuviensach.vn 16. Giấu cày Một lão cày ruộng kia, tới buổi, vợ kêu về ăn cơm, lão nói lớn lên rằng : « Khoan đã ! Để tao giấu cái cày đi đã rồi sẽ về ». Vợ dặn : « Giấu cày thì phải làm thinh, chớ ông la lớn chúng nghe nó ăn cắp đi còn gì ? Từ rày sắp lên đừng có nói lớn như vậy nữa ». Về ăn rồi trở ra thì quả thật chúng đã lấy mất cái cày. Lão lật đật chạy về giõ miệng vào lỗ tai vợ mà nói nhỏ rằng : « Họ ăn cắp cái cày rồi mụ à ! » Bài số 17 trương 10 trong Tiếu lâm Phụng hoàng San, in năm 1912. Sài gòn. Cùng một đề ấy, đây là bản Bắc : https://thuviensach.vn 17. Ông già thật thà Có một lão già thật thà quá. Một hôm cày ruộng ở ngoài đồng. Đến bữa cơm, bà vợ ra cổng đứng gọi to lên rằng : « Ông ơi, cơm chín rồi, đi về mà ăn ». Ông lão cũng nói to lên rằng : « Ừ, để tôi giấu cái cày vào trong bụi tre đã, rồi tôi về ». Đến khi về, vợ bảo chồng : « Giấu cày thì cứ im mà giấu, sao ông lại kêu rống lên thế, người ta biết, người ta có lấy mất không ? Từ rày giở đi, ông đừng có nói to thế nữa nhé ! » Ông lão gật đầu : « Ừ, từ rày tôi không nói to nữa ». Ăn cơm xong, ông lão giở ra đồng, vào bụi tre tìm cày thì không thấy cày đâu nữa, người ta ăn cắp mất rồi. Vội vàng chạy về, ghé mồm vào tai vợ mà nói rằng : « Người ta ăn cắp mất cái cày rồi, bà mày ạ ! » Bài số 36, tr.6 quyển II, Tiếu lâm Thọ An. Ích Ký xuất bản năm 1924. https://thuviensach.vn 18. Tưởng là gì ? Có hai bác tính hay sợ vợ, cùng ở láng giềng với nhau. Một hôm, bác nọ, vợ đi vắng ; ở nhà giời mưa, có váy vợ phơi, quên không cất vào, để mưa ướt cả. Khi vợ về, nó chửi cho một trận đê nhục, chán rồi, nó đánh cu cậu tối tăm cả mắt mũi lại. Bác bên cạnh thấy bác kia vợ đánh chửi tệ như vậy, mới lẩm bẩm rằng : « Đ… mẹ kiếp ! Chẳng phải tay ông… » Vợ nghe thấy, trợn mắt lên, hỏi dồn rằng : « Phải tay ông, thì ông làm gì hử ? Ông làm cái gì ??? » - Phải tay ông, thì ông… cất trước lúc giời chưa mưa, chứ gì !… Bài số, 1 tr.5 quyển I. Tiếu lâm Thọ An. Hà nội. Ích Ký năm 1924. in lần 3. https://thuviensach.vn 19. Hai anh sợ vợ Hai thằng cha kia hay sợ vợ, ở kề một bên nhau. Bữa nọ phơi đồ, sao để quên mưa ướt đi. Con vợ nó mắc lục đục trong bếp, nhớ trực lại đồ phơi ngoài sào, thì hối nó ra mà lấy vô. Con mẻ nó mắng nó nhiếc, rồi nó xỉ vả nó lại vác cây nó đập cho, chạy mất. Qua bên nhà anh kia ; ở bển nói chuyện. Người kia hỏi : « Chớ giống gì, mà chỉ mắng chỉ chửi làm om bển vậy ? » - Tôi quên đem đồ vô, nó rầy tôi. - Tốt kiếp thì thôi, thế ! Anh đó, chớ tôi ấy thì… Con vợ nghe nổi xung, ở trỏng xách cây chạy ra hỏi : « Chớ tôi… thì… sao ? » Thằng chồng sợ, nói : « Không mà, tao nói : Anh đó chớ, chớ tôi, thì tôi đem vô trước hồi chưa mưa kìa chớ ! » Bài số 22 trương 33 trong tập « Chuyện đời xưa » của P.J.B Trương Vĩnh Ký, xuất bản 9è mille. Tại nhà in Qui nhơn (An nam) năm 1914. https://thuviensach.vn 20. Thơ cóc Có ba ông vẫn tự đắc là mình hay thơ nôm. Một hôm, rủ nhau đi chơi chùa, để cùng họa thơ tức cảnh. Nhưng mà đến chùa, không biết làm thơ gì ; mới bảo nhau hãy đưa tiền cho ông tự đi mua rượu và đồ nhắm về đánh chén đã : Hễ rượu vào thì tự khắc thơ ra tuồn tuột ! Mua về, ba ông ngồi bắt chân chữ ngũ, gật gù uống rượu, rung đùi nghĩ thơ. Chợt thấy con cóc ở trong xó, nhảy ra. Một ông mới ngâm rằng : Con cóc trong hang, Con cóc nhảy ra. Ông thứ hai họa theo rằng : Con cóc nhảy ra, Con cóc ngồi đấy. Ông thứ ba : Con cóc ngồi đấy, Con cóc nhảy đi. Ba ông cùng vỗ đùi, cười ồ cả lên khen rằng : « Hay ! Hay ! Hay thật ! » Cười chán rồi, một ông bảo rằng : « Thơ ta tuyệt cú ! Mà ta xuất khẩu thành chương như thế thì tôi e lắm, hai tiên sinh ạ. E rằng Thánh nhân người đã dạy : Ai mà linh khẩu lắm thì chẳng kẻo chết non. Vậy ta phải nên liệu trước ». Hai ông kia lấy làm phải lắm, bèn mời ông tự ra, nói hết đầu đuôi rồi đưa tiền nhờ mua hộ ngay cho ba cỗ ván. Ông tự cầm tiền đi mua. Một chốc đem về bốn cái áo quan. Ba ông hay thơ mới hỏi : « Sao lại mua những bốn cái thế ? » - Thưa các ngài, tôi mua thêm một cái để cho tôi, bởi vì tôi buồn cười quá, cũng đến chết mất. https://thuviensach.vn Nguyên văn bài 38, tr.9. Quyển 2, Tiếu lâm Thọ An. Hà nội 1924. https://thuviensach.vn 21. Ba anh dốt làm thơ Có ba anh học trò dốt, ngồi nói chuyện với nhau, mới nói : « Mình tiếng con nhà học trò, mà không có làm thơ làm phú với người ta, thì té ra mình dở lắm ». Mấy người kia mới nói phải. Hè nhau làm ít câu chơi. Anh thứ nhứt thấy con cóc ở trong hang nhảy ra, mới làm câu mở như vầy : « Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra ». Người thứ hai tiếp lấy : « Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó ». Người thứ ba : « Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi ». Lấy làm hay lắm. Rồi nghĩ lại giựt mình, vì trong sách nói : Hễ học hành giỏi, thì sao cũng phải chết. Cho nên tin như vậy mới biểu thằng tiểu đồng ra đi mua ba cái hàng đất để dành cho sẵn đó. Tiểu đồng lăng căng đi mua, ra ghé quán uống nước, ngồi xớ rớ đó. Có anh kia hỏi nó đi đâu ? Mua giống gì ? Thì nó nói : « Ba thầy tôi thông minh trí huệ, làm thơ hay lắm, sợ lời sách quở, có khi không sống, nên sai tôi đi mua ba cái hòm ». - Mầy có nghe họ đọc thơ ấy không ? - Có. - Mà có nhớ, nói lại nghe chơi, coi thử sức nó hay làm sao ? Thằng tiểu đồng mới nói : « Tôi nghe đọc một người một câu như vầy : « Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra ; Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó ; Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi ». Anh kia nghe tức cười nôn ruột, mới nói với tiểu đồng : « Mầy chịu khó mua giùm cho tao một cái hòm cho luôn trót thể ». https://thuviensach.vn Tiểu đồng hỏi : « Mua làm chi ? » Lão nọ mới nói : « Tao mua hờ để đó, vì tao sợ tao cười lắm, có khi cũng chết theo ba thầy làm thơ đó nữa ». Bài số 49, trương 69. Truyện đời xưa của P.J.B. Trương Vĩnh Ký, in lần thứ 9è mille tại nhà in Imprimerie de Qui Nhơn (An nam) năm 1914. 9 https://thuviensach.vn 22. Bụng không Một anh học trò gần ngày thi, lo lắng quá sức, đến nỗi ăn không ngon, nằm không ngủ. Vợ, vì ngày xưa học trò thi đều lớn tuổi, vợ anh thấy vậy mới nói : « Tôi coi bộ anh lo thi nó cũng khó bằng tôi lo đẻ ! » Anh học trò trả lời : « Hứ ! Đẻ coi vậy mà còn dễ ». Con mẻ cãi lại, hỏi đẻ sao mà dễ ? Ảnh nói tỉnh khô : « Thứ đàn bà có con sẵn trong bụng, nín hơi rặn thét nó phải ra, cho nên đẻ không khó khiết gì. Chứ như tôi đây, gần ngày thi mà bụng trống chữ không, mới lấy gì mà rặn : Thi khó hơn đẻ ». Phỏng theo bài số 4 Tiếu lâm Phụng hoàng San. * …Chứ tao đây, ngày thi đã kề mà một chữ trong bụng cũng không có, mới lấy gì mà cho ra ? …Mầy có con sẵn, mầy rặn thì nó lòi, ngặt tao không có chữ nào, lấy gì cho lòi ? (Trên đây là những câu nghe lóm và mỗi lần mỗi khác. Cho hay chuyện Tiếu lâm là kho gia tài vô tận của bình dân và của nhiều đời để lại, không rõ ắt ai là tác giả và câu ấy đã có từ lúc nào. Xưa bên Pháp, có tiếng tài ba lỗi lạc nhứt thời là ông Voltaire. Nhưng Voltaire tiên sanh, kể về hóm hỉnh và đáo để, có khi thua thằng « vô danh thị » xa lắc. (Il y a quelqu’un qui a plus d’esprit que M. de Voltaire, c’est M. Tout-le-monde. Léon Treich, Histoires Gauloises, Gallimard, Paris) https://thuviensach.vn 23. Không chịu thua (chuyện cờ tướng) Một anh kia, tự phụ là cao cờ, xảy gặp một khách cao thủ hơn, cùng nhau thử đánh ba bàn, đều thua anh khách trọn ba. Bữa sau gặp một bạn hữu hỏi thăm hôm qua đánh được mấy bàn và kết quả ra sao ? Anh ta trả lời : « Chúng tôi đánh cả thảy ba bàn : bàn trước tôi không thắng, qua bàn giữa thì ở bển không thua, đến bàn sau rốt tôi biểu huề nhưng bển không chịu ». Tiếu lâm Phụng hoàng San, bản 1912, bài số 7, trương 6. https://thuviensach.vn 24. Chỉ nước cờ Hai người đánh cờ tướng, bất phân thắng bại, ngặt một điều, có một anh đứng ngoài, làm tài khôn, chỉ nước hoài. Anh kia thất nước đổ quạu, đứng dậy xán một bốp tai đau điếng. Anh bị đòn vừa thối lui ít bước, nhưng chứng nào tật ấy, vừa một tay vò má tía lia, tay kia vẫn rán chỉ mà rằng : « Không sập sĩ, bí chết đi còn gì ? » Tiếu lâm Phụng hoàng San, bản 1912, bài số 21, trương 11. https://thuviensach.vn 25. Cờ ngoài, bài trong Bài số 23, « Chỉ nước cờ », được ông Thọ An, Hà Nội, viết lại như vầy : « Hai anh ngồi đánh cờ chiếu tướng, ăn tiền. Có một anh đứng ngoài, cứ mách bảo hão ; nói làm sao, cũng không chịu nghe. Một anh phải nước cờ bí sắp sửa thua. Anh đứng ngoài cứ chỉ trỏ, mách nước nọ, xúi nước kia. Anh bí cờ tức mình, đứng dậy, tát anh mách đánh « đốp » một cái. Anh mách, một tay xoa má, còn một tay cứ chỉ vào bàn cờ mà nói rằng : « Kìa ! sao không ghểnh sĩ, để người ta chiếu tướng, thua bây giờ ! » Tiếu lâm Thọ An, Ích Ký Hà nội xuất bản năm 1918, quyển 3, bài 82, trương 19. https://thuviensach.vn 26. Ông đồ Nghệ làm thơ Có một ông đồ, người xứ Nghệ, ra ngoài Bắc kỳ tìm chỗ dạy học. Đi đến một cái đền thờ Đức Thánh Quan, vào xem, trông thấy ở trong cung có tượng Ngài uy nghi ngồi giữa ; Ông Châu vác ngọn dáo ; ông Bình bưng hòm ấn, đứng hầu hai bên, trên án có cái đỉnh, nắp con sấu, ngoài sân có đôi hạc đứng chầu trên lưng rùa ; liền làm bài thơ họa cảnh, trọ trẹ ngâm rằng : Nọ biết ông chi mặt đỏ gay, Thế mà hương hỏa bấy lâu nay ! Bên kia chú lái cầm dao quắm ; Bên này thầy sãi bưng cái khay. Trên án lò hương con chó đứng ; Ngoài sân cò trắng đ. cà cay. Tiếu lâm Thọ An, Ích Ký Hà nội năm 1924, số 61 trương 42, quyển nhì in lần 3. https://thuviensach.vn 27. Bốn anh học trò đặt thơ trong chùa Bốn anh học trò đi đường, ghé vào chùa chơi. Ngồi coi ba bàn thấy tượng đồ treo thờ đó, mới rủ nhau làm ít câu thơ chơi. Anh thứ nhứt, thấy tượng Quan Đế, thì mở rằng : « Hơn vương ăn ớt mặt đỏ gay ». Người thứ hai, thấy tượng Quan Bình, thì đặt : « Bên kia Thái tử đứng khoanh tay ». Người thứ ba ngó quanh quất, thấy tượng Châu Xương thì đặt rằng : « Thằng mọi râu ria cầm cái mác ». Còn anh thứ bốn ngó ra, thấy con hạc đạp lưng qui, thì thêm : « Ngoài nầy cò quắm đạp cầy thay ». Chuyện đời xưa P.J.B. Trương Vĩnh Ký, in tại Qui Nhơn năm 1914, bài 50 trương 70. * Lời bàn. – Thầy đồ Nghệ, tha phương cầu thực, mà không bỏ tật hỗn xược, làm thơ tục tĩu, không nghe nói kiếm được sở làm. Đến nhà hiền triết, học giả cũng phạm tội bất kính. Tôi chép lấy làm ngượng tay, nhưng vì mục sưu tập, phải chép đủ. Cò quắm là thứ cò dài mỏ mà quáu quáu (Huỳnh tịnh Của). Cầy thay, Cần thay, nguyên tiếng Miên nói trại, chỉ loại rùa lớn con. Tiếng Cần đước, cũng tiếng Miên, gọi con rùa, Quận Cần Đước, Cần Giuộc, đều tiếng Miên Việt-hóa ra. https://thuviensach.vn 28. Chế giấm Chủ quán kia bán rượu, thường rượu hay chua, uống không đặng. Bữa nọ có ba anh khách đi tới quán biểu dọn tiệc, nhứt là rượu phải cho ngon. Chủ quán hỏi : « Thịt bóp giấm dùng được không ? » Mấy ảnh nói : « Ngon lắm ! » Hỏi : « Đậu hủ nấu giấm ngon không ? » Khách nói : « Nó săn, ngon lắm ! » Hỏi : « Cải bóp giấm, nước lèo chế giấm dùng được không ? » Mấy anh khách thấy hỏi dai, liền nói rằng : « Món nào chế giấm cũng là ngon hết, hơi nào mà hỏi từ món ». Anh ta trở vô dọn tiệc, mấy anh khách ngồi lại ăn, đồ uống rượu, mùi rượu chua áy, ai nấy nhăn mày. Hỏi : « Quán ! Rượu gì chua dữ vậy ? » Chủ quán trả lời rằng : « Tại khi nãy các ông nói món nào chế giấm cũng ngon hết, nên tôi mới chế trong rượu, còn hỏi làm sao ? » Bài số 8 trương số 6 trong Tiếu lâm Phụng hoàng san, bản Sài gòn năm 1912. https://thuviensach.vn 29. Phép trị rượu chua Chủ nhà kia đãi khách, rượu chua quá, nhắm một chút, ai cũng đều nhăn mặt. Có anh khách nói rằng : « Tôi có phép trị rượu chua trở nên rượu tốt ». Chủ nhà nghe nói hỏi phăng. Ảnh bày rằng : « Lót giấy cho nhiều, úp hũ rượu lên trên, lấy thuốc cứu đốt trên đít hũ bảy liều, để sáng ngày mà coi ». Chủ nói : « Úy ! vậy nó chảy hết rượu còn gì ? » Khách nói : « Chớ thứ rượu chua, để mà làm quái gì ? » Bài số 12 trương số 8 trong Tiếu lâm Phụng hoàng san, bản Sài gòn năm 1912. https://thuviensach.vn 30. Hùn vốn đặt rượu 10 Hai thằng hùn vốn đặt rượu. Thằng kia hỏi : « Mầy chịu bao nhiêu ? » Thằng nọ nói : « Tao chịu nước, mầy chịu nếp thì đủ ». Thằng kia hỏi : « Như vậy rồi để nữa, chia làm sao ? » Thằng nọ nói : « Tao chẳng hơn thua làm chi, đặt xong rồi, tao chịu nước thì tao lấy ba miếng nước, còn bao nhiêu cái thì để hết cho mầy ! » Tiếu lâm Phụng hoàng San, bài 28 trương 14. https://thuviensach.vn 31. Uống rượu bằng chén con mà chết hóc Có một anh tính khí rất keo cú. Hễ nhà có giỗ, thì cứ đem những chén « hạt mít » ra để mời khách uống rượu. Một khi, có bạn ở xa đến chơi, anh ta phải thết cơm rượu, cứ lối cũ giở ra. Người khách biết ý, đương ngồi uống rượu, tự nhiên khóc hu hu lên. Anh kia ngạc nhiên hỏi làm sao đương vui lại khóc ? Người khách gạt nước mắt, đáp rằng : « Tôi uống rượu, nhìn thấy chén, thì lại sực nhớ đến người anh em bạn thân của tôi, ngày xưa vì uống bằng chén con như thế nầy, mà phải chết oan ». - Làm sao thế ? - Tại chén nhỏ quá, vô ý nuốt cả chén, cho nên chết hóc ! Anh chủ nhà vội vàng thay ngay chén con, mà lấy chén nhớn đem ra. Trích Tiếu lâm Thọ An, Hà nội. Ích Ký in lần 2 năm 1918. Quyển 3 số 108 trương 46. * Chén hạt mít. – chén bằng cỡ hột mít, để dùng uống rượu tăm, Có câu ca dao : Đố ai đánh võng không đưa. Ru con không hát, tôi chừa rượu tăm. Rượu tăm là rượu ngon. Tăm là bọt nhỏ li ti, khi rót từ đáy nổi lên mặt. Chén mắt trâu : lớn hơn chén hạt mít, trông bằng mắt con trâu, để uống trà. Chén tốt, chén quân : chén uống trà (tốt là sĩ-tốt, quân là quân sĩ). Chén tống : do « tướng » nói trại ra. Chén lớn để pha trà « ba quân một tống ». Tỷ dụ, bộ chén trà vẽ tích « Ngưu manh » có đến hai kiểu, (gồm ba quân một tống), một kiểu vẽ thằng mục ngồi lưng trâu với tay chụp nón bị https://thuviensach.vn gió thổi bay, không đề thi ; một kiểu khác cũng vẽ trâu và thằng chăn, kèm câu thi : « Xuân du phương thảo, đồng vịnh ca qui ». Bộ « Xuân du… » ký Trân ngọc, chế năm Kiền long 1736-1795 ; bộ khác ký « Ất tỵ » chế năm Thiệu trị (1845). Năm thứ 5 đời vua Thiệu trị là năm 1845 T.l. https://thuviensach.vn 32. Cạo váy Người kia biểu tên thợ váy tai 11. Thợ váy đau quá, chịu đà không nổi. Váy xong một bên, thợ biểu day qua bên kia. Người ấy nói : « Ủa ! Còn lấy bên nây nữa sao ? Vậy mà tôi tưởng lấy hai bên một lượt. Sao mà nó đau thấu bên nây qua bên kia vậy ». Bài số 33 tr.25, truyện Tiếu đàm Phụng hoàng San và Dương Diếp, in kỳ nhì năm 1914, Sài gòn. https://thuviensach.vn 33. Thầy hù Anh thầy hù mới ra nghề, cạo đầu cho người khách kia, phạm một dao thì anh lấy một ngón tay đậy lại, cho máu đừng chảy, đậy hết một bàn tay năm ngón mà hởi còn phạm. Anh ta ngừng lại mà nói với khách rằng : « Cái đầu của anh coi vậy mà còn non quá, nên cạo bây giờ chưa được. Để đợi ít năm nữa cho nó già rồi tôi sẽ cạo hết cho ». Thuật theo bài số 9 tr.6. Tiếu lâm Phụng hoàng San, in năm 1912 Sài gòn. * Lời bàn phụ. – Tại sao người lớp trước ở miền Nam nầy thường gọi những người chuyên môn cạo đầu váy tai và sau nầy, làm nghề hớt tóc cạo râu, là « thầy hù » ? Tôi tra không thấy sách xưa hay nay nào cắt nghĩa hai tiếng nầy. Và « thầy hù » ngày xưa, cũng có nghĩa là « người hay nói láo ». Trong bộ Đại Nam quốc âm tự vị Huình Tịnh Của có ghi : - HÙ : tiếng nhát sợ, nhứt là nhát con nít, mà giả tiếng cọp kêu. - một nghĩa khác nữa là rên rỉ : rên hù hù ; - cọp hù : tiếng cọp hộ vắn vắn. Vả chăng, ngoài Bắc, gọi « ráy tai » và không dùng tiếng « thầy hù ». Nay trong sách không có, luôn cả hai ông bạn Trần văn Hương và Lê ngọc Trụ cũng bí nốt, và đây là sách tiếu lâm, nên được phép tha hồ chế biến, thêm nhưn thêm nhị. Theo tôi hiểu, sự việc như vầy, và xin để cho tôi cắt nghĩa : hồi tôi còn nhỏ, cách nay sáu mươi năm, con nít đi học, lên tới lớp nhứt, dọn thi tiểu học, mà đầu còn cạo trọc lóc trọc lơ, nhẵn nhụi như cái gáo dừa. Tôi nói cạo là cạo bằng dao, chớ không được hớt sát như các thầy các sư ngày nay thường làm : đẩy tông-đơ mà không cho đẩy sát ! Các cha chú, người Nam, thì hồi đó còn để tóc dài bới lại. Người các chú 12thì https://thuviensach.vn để bím, thắt « bì bi » (đuôi sam), cạo tóc chung quanh sạch bót ; còn học trò thì cạo trọc, chỉ có độ vài mươi người làm việc cho Tây, gọi mấy ông mấy thầy, thì tóc hớt ngắn, cho nên nhắc lại, lối năm 1910, bọn đi cạo đầu dạo từ xóm nầy xóm kia, dân chúng đặt cho cái tên lạ lạ, là « thầy hù ». Cho đến năm 1911 (Tân hợi), dân Trung quốc làm cách mạng, lật đổ nhà Mãn Thanh, cắt đuôi bím và để tóc hớt cụt theo kiểu Tây phương, từ ấy bọn « thầy hù » bớt nghề cạo đầu, và mới đổi ra nghề hớt tóc như ngày nay vậy. Tuy bỏ nghề cạo đầu chớ vẫn giữ nghề cạo râu và váy tai, lấy cứt ráy. Thầy hù váy tai lấy cứt ráy thì khỏi nói, họ làm nhẹ nhàng khéo léo, và đang khi người được váy tê mê tâm thần – gởi hồn trên mây – thì thầy hù kéo lộng váy ra, bịt lỗ tai lại, thổi một hơi gió thật mạnh vào tai, miệng la « hù » một tiếng sát tai. làm cho kẻ kia giật mình như từ trên mây rớt xuống, đoạn thọc lông váy tai vào lỗ trở lại, lấy cây nhíp thép búng một cái vèo. rồi kê sát cây nhíp còn rung cho đụng cây lông váy. người được váy tơ-lơ-mơ sướng cực kỳ, bởi làm cái nghề thổi tai hù lên hù xuống, cho nên thét rồi được danh hiệu là « thầy hù ». Một điều khác nữa là phần đông các thầy hù nầy đều là tay bán trời không chứng, ăn đông nói tây, ăn đàng sóng nói đàng gió, bịa chuyện láo khoét không tin được, – thuở ấy chưa có nhựt báo chưa có bộ thông tin tuyên truyền, cho nên các chuyện trên xóm dưới xóm, vợ ai lấy trai, con nào đẻ sẩy, đổ lọp, tâm bôn, v.v… đều do miệng thầy hù học lại, vả chăng thuở ấy, các mẹ muốn con thôi khóc cũng đem thầy hù ra dọa, khiến nên ai ai cũng ngán thầy hù, tin đồn thất thiệt cũng y, mất con nít cũng nghi cho vã 13, vì đó sanh ra danh từ : « đừng thầy hù mầy » tức là « đừng có nói láo như thầy hù, mầy », và « thầy hù hù con nít » tức là « anh hớt tóc cạo râu đi dọa nạt trẻ con ». Viết đến đây, tôi nhớ lại, lối năm 1913, tôi học lớp nhì (cours moyen) cứ mỗi tháng, mẹ tôi cho tôi ba đồng xu, tức ba phần trăm (0,03) của đồng bạc hồi đời đó, để đi lại tiệm chú Hỉa « cạo đầu cho nó mát ». Lúc ấy tôi đã chồng ngồng cái đầu, thấy gái đã biết mắc cỡ, thế mà mẹ tôi không cho được năm xu (0,05), để đi cạo cho đường hoàng, lại chỉ phát cho có ba đồng xu (0,03) khiến cho tôi bị chú Hỉa đãi vào hàng hạ cấp ! Thuở ấy, hễ https://thuviensach.vn có đủ năm đồng xu lỗ, thì chú Hỉa cho ngồi ghế dựa, có khăn choàng tử tế cho tóc con tóc cắt đừng rớt vào kẽ áo, vào thân mình, bằng với giá ba đồng xu, (phải đưa tiền trả trước), tuy chú vẫn cạo và không nói nặng nhẹ gì, nhưng cách cư xử đối đãi đã khác : cho ngồi ghế đẩu, phân nửa bàn tọa ra ngoài, không có khăn choàng, và muốn tóc khỏi rớt xuống áo quần và xuống gạch, thì chú phát cho miếng nắp hộp thiếc cũ, chú cạo tới đâu, mình phải lẹ tay đưa miếng thiếc ra hứng, khi nào tóc rớt xuống gạch, khi cạo rồi, mình phải lấy chổi hốt quét sạch sẽ trước khi về, chỉ trả thiếu có hai xu mà chú hành hạ mình thế ấy, phép tắc thầy hù đời xưa là vậy. Nhiều khi, đang cạo được một phần hay phân nửa cái đầu, kịp có khách sang và gấp đến, chú Hỉa thôi cạo cho mình và biểu ra ngồi chờ đâu đó, đợi cho chú cạo đầu lấy tai cho khách xong xả rồi chú mới tiếp tục cạo cho mình. Trời đất ôi ! Ai đời đầu cạo còn lại phân nửa, mà chú biểu mình « đi chơi đi » là đi chơi cái gì ? Tuy vậy, nhờ tuổi nhỏ nên bao nhiêu cũng tha thứ, ở nhà để mẹ cạo đầu thì dao lụt 14rát da, hít hà còn không được, thà cho chú Hỉa làm gì thì làm… Nói chí đáng, cây dao cạo của chú Hỉa là cây dao cạo Tàu, có hình lưỡi búa, (nên cũng gọi dao cạo lưỡi búa), dày dục mà bén ngót còn hơn dao A-lơ-măng ngày nay. Trong tay chú Hỉa, cây dao là một nghệ thuật thần sầu, chú kéo chạy tới đâu là tóc rớt tới đó, da đầu êm ru như có thoa mỡ, nhứt là khi chú cạo tới sau ót, chú trịch áo đi một đường bí quyết, vừa lạnh xương sống vừa khoái rần rần từ gót chân đến đỉnh đầu ! Nhớ lại thật là tài xứng với câu liễn sau nầy, đã đọc đâu đây quên phứt : « Cười phấn cợt son, tô điểm tóc tai người tứ xứ. Mài dao đánh kéo, mở mang mày mặt khách năm châu ». Nghĩ lại, ngày nay vật đổi sao dời, đời càng mắc mỏ, chạy không đủ ăn. Mỗi lần hớt tóc, trả một trăm bạc mà vẫn không có cái khoái váy tai. Không bì năm 1913, với ba đồng xu lỗ (0,03), chú Hỉa chạy cho một đường dao lưỡi búa nơi sau ót, cái khoái lên tận mây xanh. Chú Hỉa và chú Sủng, đều là hai lão thầy hù ở chợ Sóc trăng, tôi từng biết mặt biết mày và từng thí nghiệm tài riêng ăn đứt nghề cạo váy sáu chục năm về trước. https://thuviensach.vn Bây giờ thảy đều lên chức. Vật giá đều leo thang. Thầy lên ông, ông lên cụ. Hớt tóc là một nghệ thuật. Người hành nghề ăn vận ra phết, đâu còn nhớ ông bạn đồng nghiệp « thầy hù » năm xưa. Kể về tài ba, kém việc váy tai váy lỗ ghèn, duy thiện nghệ cái nghề chìa tay, trả một trăm, còn cho rằng nhẹ : Hạnh phúc, mầy đi đâu ? https://thuviensach.vn 34. Cái gì không xài nó dài ra Năm ấy, trước đảo chánh 1954, một vị tu sĩ ngồi chờ trước tôi, tại một phòng hớt tóc ở Chợ Cũ, bên hông Tòa tạp tụng. Bởi ông tới trước, nên khách kia vừa xuống thì đến phiên ông lên ghế ngồi. Anh thợ hớt tóc vừa giũ khăn định choàng, bỗng vị tu sĩ nói một câu mở đề, để cho thấy mình là tay có trí : « Nè anh thợ ! Có phải là cái gì mình không xài thì nó mọc dài ra hoài, phải không hử ? » Ý ông muốn ám chỉ tóc râu vô dụng mà vẫn mọc. Nhưng anh thợ lại nghĩ khác, nên một tay cầm khăn quên giũ, một tay ôm bụng cười dài, cười ngoặt ngoẹo đến bủn rủn tay chơn không làm gì được. Nột ý, vị tu sĩ phát cáu : « Tôi nói có gì lạ mà anh cười dữ vậy. Hớt đi chứ ! » - Thưa thầy tha lỗi, anh thợ thưa, nghe thầy nói, con bỗng nhớ thầy là người tu hành, không xài, ắt nó dài lắm ! Vị tu sĩ biết lỡ lời, đỏ mặt, nói để che sượng 15: « Ý cái anh nầy, khéo nghĩ tầm bậy tầm bạ không lo mần việc. Ai nói vậy ! Hớt lẹ đi không ? » Nửa để tai nghe, nửa nhớ cái ấy của mình, nhớ kỹ đủ hết ngày nay chép lại. https://thuviensach.vn VẤN ĐỀ RÂU 35. Mặt dày Hai anh, một anh có râu và một anh không có râu. Anh không có râu, muốn xỏ anh kia, mới đố rằng : « Tôi đố anh, vật gì cứng nhất ? » Anh có râu nói : « Đá với sắt cứng nhất, chứ gì ? » - Không phải. - Đá với sắt mà không cứng, thì còn gì cứng hơn nữa. - Đá đập phải vỡ, sắt nung phải mềm ! - Vậy thì anh bảo cái gì cứng ? - Râu, chứ gì ! - Có khi nào râu lại cứng hơn sắt được ? Anh nói thế, tôi không chịu. - Anh thử nghĩ mà xem : như da mặt anh dày thế kia, mà nó còn dùi thủng ra được, thì râu không cứng là gì ? Anh có râu hiểu là anh nọ nói xỏ mình, mới đáp rằng : « Da mặt tôi dày thật, nhưng mà cũng không dày bằng da mặt anh ». - Sao vậy ? - Bởi vì râu cứng thế, mà cũng không dùi thủng được ! Bài số 100 trương 35 tập 3. Tiếu lâm Thọ An, Hà nội. Ích Ký năm 1918. https://thuviensach.vn 36. Mặt dày Anh không râu đố giả ngộ 16chú có râu rằng : « Đố anh trong đời vật gì thiệt cứng ? » Chú nọ trả lời rằng : « Đá với sắt là cứng chớ giống gì. » Anh kia nói : « Không phải, đá đập phải nát, sắt nướng phải mềm. » Hỏi : « Vậy chớ giống gì cứng ? » Anh kia nói : « Râu là cứng ! » Chú có râu nói : « Có lẽ nào râu lại cứng hơn sắt đá ? » Anh kia nói : « Anh nghĩ mà coi, da mặt anh dày cui nó dùi phủng 17 nó ra, sao gọi rằng không cứng ? » Chú có râu đáp lại rằng : « Tuy cứng thì cứng mà cũng không bằng da mặt chú mầy ; vì nó dùi hoài mà không phủng nên nó không ra được ! » Bài số 10 trương 7 tập Tiếu lâm Phụng hoàng San, in tại Sài gòn năm 1912. https://thuviensach.vn 37. Ông râu rậm Có một ông râu rậm che kín cả miệng. Một hôm, đương đi ở ngoài đường, chợt có đứa bé trông thấy, nó mới gọi mẹ nó mà bảo rằng : « Mẹ ơi ! Ra mau mà xem người không có mồm ! » Rồi nó cứ vỗ tay, chạy theo mà reo lên rằng : « A ! A ! A ! Ông này không có mồm ». Ông râu rậm tức quá, quay mặt lại, vạch râu chửi nó rằng : « Chẳng mồm là l… mẹ mầy đây à ! » Bài số 8 tr.13, nguyên văn Tiếu lâm Thọ An, Hà nội. Ích Ký xuất bản năm 1924 quyển nhất, in lần thứ ba. https://thuviensach.vn 38. Ông già không có miệng Chú kia râu ria um sùm không thấy miệng mồm đâu hết. Đi đường gặp thằng con nít nói chơi rằng : « Hồ tử nghinh phong tẩu, chỉ kiến hồ tử bất kiến khẩu » (râu kia đi ngoài gió, chỉ thấy râu ria miệng đâu có). Người râu giận quá, tay nắm râu dở lên bày miệng ra, chỉ miệng mà mắng rằng : « Giống gì đây không phải miệng, vậy chớ húm mẹ mầy đây sao ? » Thằng nhỏ bị mắng khóc chạy về mét với mẹ nó. Mẹ nó dỗ nó rằng : « Không phải đâu con. Chú nó mắng người khác đa ! Thôi, con chạy theo mắng chú lại, nói mẹ có mà ít kìa, le the năm mười sợi he, chớ không phải xồm xàm như của chú vậy đâu ! » Bài số 40 tr.28. truyện Tiếu đàm Phụng hoàng San và Dương Diếp. Sài gòn 1914. https://thuviensach.vn 39. Giống ông bộ râu Có một ông huyện đi làm quan ở xa, vợ ở nhà gần ngày sanh. Ông nóng biết tin nên sai thằng trung tín về xem bà đã ở cữ rồi chưa. Vốn thằng nhỏ có tánh ngây ngô, sợ việc đàn bà đẻ, nó không dám vào, đứng ngoài hàng rào xớ rớ để nghe ngóng. Bất ngờ bà ra vườn, vén váy đi tiểu. Thằng kia trông thấy, vội vàng chạy về bẩm với ông : « Bẩm ông, bà đã ở cữ rồi ». Quan nghe mừng lật đật hỏi : « Chớ bà mầy đẻ con giai hay con gái ? » - Bẩm, con không tường cô hay là cậu, nhưng con nhìn thấy giống ông lắm. - Mày trông giống tao cái gì ? - Bẩm, giống ông ở bộ râu ! Do một người bạn Bắc thuật lại. https://thuviensach.vn 40. Thấy pháp râu đỏ Lão thầy pháp kia râu hoe hoe đỏ đỏ, cưới vợ về. Vợ nó mới chê : « Râu gì đỏ hoe đỏ hoét xấu quá ». Thì nó kiếm chước nói giải cho xuôi rồi đi. Vậy nó nói : « Úy ! Mầy đừng có khinh, râu tài đó. Râu nầy có biết sợ ai ? » Vợ nó không hiểu được ý làm sao mà làm vậy, làm thinh lừa cơ thử tài anh va, coi thử có thiệt hay không. Cách ít bữa kế bịnh tới rước thầy đi chữa, mà nhà bịnh ở cuối truông ném qua bên kia kìa. Chữa chuyên xong rồi, người ta đem bánh lớ xôi chè chuối mít, lại một cái đầu heo tạ thầy. Thì thấy lấy khăn cột xách đem về. Vợ nghe chừng anh ta về tới, mới vác gậy ra, ngồi giữa truông núp trong bụi. Anh thầy ta lợt xợt đi tới. Chị ta đập một cái sạt. Thầy thất kinh quăng gói chạy quày trở lại, không dám đi. Người vợ ra lượm lấy cái gói xách ngay về nhà, đóng cửa lại ngủ. Một chặp, anh ta tỉnh hồn mới mò về, thì hăm hở hối mở cửa cho mau. Bước vào, cái mặt cắt không đặng một chút máu ; gài cửa lại lấy cây chống thêm. Vợ thấy vậy hỏi việc gì thất thanh đi vậy ? Thì chú chàng mới nói : « Hú hồn ! tao tưởng đâu chúng nó đã cắt cổ tao đi rồi ! Một đảng cướp cũng được hai ba trăm nó đón nó đánh giữa truông ». - Có ở đâu nào ? - Ấy ! Là quả làm vậy chớ ! - Mà anh nói anh râu đỏ anh không biết sợ ai, sao mà sợ té đái ra vậy ? - Nó đông lắm mượn sợ, năm ba mươi chẳng nói gì ; cái nầy đâu cũng được vài trăm, không sợ làm sao ? Thôi tấn cửa lại cho chặt rồi ngủ. https://thuviensach.vn Vợ nó đi nấu nước đi pha cho chú nghỉ uống, lại có đem ra một nải chuối nữa. Nó nhìn đi nhìn lại nải chuối hoài : « Mẻ ! Chuối ở đâu mà giống chuối họ đưa mình ? » Vợ nó nói : « Phải ở đâu ? Chuối sớm mai tôi đi chợ tôi mua. Khéo nhìn bá láp không ! » Rồi đem dĩa xôi ra. Anh ta càng lấy làm lạ : « Lạ nầy ! xôi nầy của nhà bịnh đem đưa tao về đây mà ». Đem lần các món ra ; anh ta hiểu không được, hỏi gắt vợ cho biết đồ ấy ở đâu mà có vậy. Thì vợ mới nói thiệt : « Hồi chạng vạng tôi núp trong bụi, tôi nhát anh, anh ném gói anh chạy, tôi xách gói về đó, chớ ai ? » - Có lẽ nào ? Ăn cướp nó rượt người ta chạy sảng hốt 18, mà mầy nói mầy nhát à ? - Thiệt không tin, tôi đem cái đầu heo, lại cái khăn anh gói cho mà coi. Thầy thấy quả, chưng hửng, mới nói : « Phải hồi đó tao biết là mầy, tao đập một cây chết đi còn gì ? » Bài số 14 trương 23-24-25, Chuyện đời xưa P.J.B. Trương Vĩnh Ký. Qui nhơn 1914. * Giải bày. – Chuyện Tiếu lâm, luôn luôn khởi đầu thì thanh bai ý nhị, nhưng càng về khuya, càng giặm mắm muối và tránh không khỏi sự lả lơi chớt nhả, một đôi khi đến sỗ sàng tục tĩu, một khía cạnh của con người cầm khí cụ làm ra hột cơm, gìn giữ đất nước hơn là cầm viết cầm quạt lông. Để cho đủ hạng tuổi đọc, xin mạn phép chép luôn ra đây những bài tiếp theo. Ai có tật mau đỏ tai, xin xếp sách lại, yêu cầu đừng giả dối lấy mình, rủa người viết mà đọc trong mùng. Trong chuyện tiếu lâm đối chiếu nầy, cốt ý của người sưu tập là gom góp vào một bộ, những cách lối nói chuyện trong thiên hạ, Trung Nam Bắc, lẫn Tây Đông, cũ mới. Ai có tịch nấy biết. Nhứt định không có ý kiêu ngạo https://thuviensach.vn một ai, chỉ muốn duy trì những khía cạnh ngôn ngữ của ông bà ngày trước. Có rất nhiều thành ngữ, danh từ, nay đã ít nghe, rất dí dỏm nếu không ghi chép e mai một mất. Tinh hoa đất nước không phải gồm toàn hoa thơm. Có dây thúi địt mới biết dây phong lan quí ; không tốt phân rau cải không ngon. https://thuviensach.vn 41. Thuốc nhuộm râu Con nụ 19còn trẻ. Chủ nhà đã già, cứ mua thuốc nhuộm râu cho đen, làm bộ còn trẻ để mà gạ. Nó biết nõm 20, nhất định không nghe. Chủ nhà tức quá, phát khùng, dọa nó rằng : « Rồi ông có phép xử cho mầy ! » Nó hỏi : « Phép gì ? » - Phép hãm để cho mầy bạc lông, mới gả chồng ! Con nụ bĩu môi, nói rằng : « Không cần ! Đã có thuốc nhuộm râu ! » Bài số 92 trương 26, tập 3 in lần 2. Tiếu lâm Thọ An. Ích Ký Hà nội xuất bản năm 1918. https://thuviensach.vn 42. Lấy giống râu Có một anh thích râu ba chòm quá, mà mình thì ở cằm, ở mép. không thấy mọc một cái râu nào ; trong bụng thường phàn nàn rằng : « Thôi, số mình chẳng được thì phải cố làm thế nào cho con nó về sau có vậy ». Một hôm, ra đường gặp một người râu ba chòm. Anh ta nhất định đón ngay về nhà để lấy giống ; làm cơm thết đãi, rồi nói thực tình rằng : « Tôi chỉ sở nguyện được một bộ râu như của ông, mà không làm được, đành để cho con vậy. Xin ông giúp tôi việc ấy, không bao giờ dám quên ơn ». Tức thì bảo vợ vào trong buồng quạt màn dải chiếu, sắp chăn gối, mời người ấy vào. Người ấy lấy làm lạ, ngần ngừ ; anh ta cầm tay lôi bừa vào bắt phải… cấy cho một ít giống râu ba chòm. Người có râu, thế-bất-đắc-dĩ, phải nể mà vào… cầy. Thoạt tiên, thấy reo lên : « Này một chòm ! », rồi sau : « Này hai chòm ! Này ba chòm ! », sau nữa làm luôn : « Này bốn chòm ! Năm chòm ! Sáu chòm ! Bảy chòm ! Tám chòm ! »… Anh nọ đứng ngoài nghe thấy, vội vàng chạy vào nói rằng : « Ấy chết ; ông làm vừa chứ, kẻo cháu về sau thành ra râu quai nón mất ». Bài số 59, tr.38, tập 2 in lần 3. Tiếu lâm Thọ An. Ích Ký Hà nội 1924. https://thuviensach.vn 43. Râu quai nón Một hôm, một ông chánh tổng râu quai nón, cưỡi ngựa đi làm thuế. Đến một chỗ, đường nhỏ và lội, không thế nào đi ngựa được ; phồi dắt lên quán, để gửi nhà hàng. Nhưng mà ở trong quán chẳng thấy có ai ; chỉ thấy một ông thầy bói ngồi đấy mà thôi. Ông chánh mới buộc ngựa bên cạnh mà bảo rằng : « Tôi gửi ông thầy con ngựa đây nhé ! Tôi vào trong làng gần đây, chốc nữa ra tôi sẽ lấy ». - Chứ ông là ai mà lại gửi ngựa tôi ? - Tôi là chánh tổng. - À ! Ông chánh đấy ư ? Nhưng mà tôi giữ làm sao được ? Ngộ chốc nữa có đứa nào đến bảo là ông chánh đòi ngựa thì tôi biết làm thế nào ? - Ông thầy đừng ngại, tôi râu quai nón. Bây giờ tôi để ông sờ xem. Hễ chốc nữa tôi lại lấy ngựa, ông sờ lại, y như thế thì giả ngựa tôi ; mà không, thì thôi, ông không cho lấy. Ông thầy thuận. Ông chánh đem râu lại cho mà sờ. Sờ thấy râu tốt, khen mãi vuốt mãi lâu rồi mới buông cho ông chánh đi. Bây giờ có một mụ mò cua sau lưng quán, nghe thấy thế, lập tâm để lấy con ngựa ấy. Nó đợi cho ông chánh đi được một lúc lâu, rồi nó lại, bịt mũi bắt chước tiếng ông chánh, mà nói với ông thầy bói rằng : - Nào, xin ông con ngựa, nào ! - Ông chánh đấy phải không ? - Phải, tôi đây. Tôi đi làm thuế về đây. - Vậy thì ông cho tôi xem râu, nào ! Mụ nọ lại gần, tốc ngược váy lên, cho ông thầy sờ râu. Ông thầy vuốt mãi, khen mãi : « Phải ông chánh đấy. Quí hóa quá ! Râu đâu mà lại có râu quí thế này ». https://thuviensach.vn Rồi lại vuốt râu mình mà nói rằng : « Râu tôi cũng khá, nhưng mà so với râu ông thì còn kém xa ! ứ, ừ ! Ông này đã ăn mắm tôm ! Đã đánh chén ở trong làng rồi mới ra đây ! Thế mà chẳng lấy phần cho tôi, công trình giữ ngựa từ nãy đến giờ. Tệ lắm, ông chánh nhé ! » Bài số 44, trương 19, tập 2 in lần 3 năm 1924.Tiếu lâm Thọ An. Ích Ký Hà nội https://thuviensach.vn 44. Lấy thuốc mọc râu Có một anh không có râu, bị vợ diếc móc khổ quá, phải đi lấy thuốc mọc râu. Một hôm, mang tiền đến nhà ông lang. Chẳng may ông lang đi vắng, chỉ có bà lang ở nhà mà thôi. Bà lang thấy anh ta đến, mới hỏi rằng : « Bác hỏi gì ? » - Thưa bà, tôi đến xin thuốc. - Ông lang tôi đi vắng, bác lấy thuốc gì ? - Thưa, tôi xin thuốc mọc râu. Bà lang ngồi nghĩ một chốc, rồi nói rằng : « Tưởng lấy thuốc gì thì tôi không dám hạ thủ 21, chứ thuốc này tôi đã kinh trị. Để tôi giùm cho ! » Rồi lấy một ít liên tu, gói vào giấy, đưa cho anh kia mà nói rằng : « Phương thuốc này thì phải nội ẩm, ngoại đồ mới được. Đây tôi bốc thuốc uống, còn thuốc đồ, bác phải kiếm lấy ». Anh kia cầm lấy thang thuốc hỏi rằng : « Thưa bà, thuốc đồ thế nào, xin bà bảo cho ». - Bác kiếm lấy hai hòn đá cuội, lấy da bong bóng lợn bọc lại. Khi uống thuốc rồi, thì lên giường nằm ngửa, lấy túm đá cuội ấy mà day trên môi một lúc, rồi lấy ít dầu vừng đồ qua, thì mọc được râu. Anh ta mừng quá, giả tiền thang thuốc, rồi chạy về nhà. Một chốc, ông lang về, hỏi bà lang rằng : « Tôi đi vắng, ở nhà có ai đến lấy thuốc không ? » Bà nói : « Có, có người đến xin thuốc. Ông đi vắng, nếu không có tôi ở nhà khai phương cho người ta, thì người ta đi lấy chỗ khác ». Ông lang ngạc nhiên hỏi : « Ai lấy thuốc gì mà bà dám bốc ? » Bà lang mới kể tình đầu lại cho chồng nghe. https://thuviensach.vn Ông lang ngẩn ra hỏi rằng : « Chứ bà theo sách nào mà bốc cho người ta như thế ? » Bà quắc mắt, cãi rằng : « Chẳng phải theo sách nào cả ! Khi tôi mới lấy ông thì tôi có tí… nào đâu ? Sao ông chỉ đồ cho tôi có một ít lâu, mà bây giờ mọc rậm thế ? » Bài 60 trương 40-41. Tập 2 in lần 3 năm 1924.Tiếu lâm Thọ An. Ích Ký Hà nội. https://thuviensach.vn 45. Thuốc trồng râu Người kia không râu, giận mình chẳng phải đứng trượng phu, mới đi tới thầy mua thuốc trồng râu, thầy đi khỏi. Người vợ bày một phương rằng : « Có khó gì, về lấy trứng dái gà mỗi bữa chà chà hai bên mép, thủng thẳng rồi nó ra. « Người ấy về làm y như vậy. ít lâu quả có râu ra. Người ấy mừng đem đồ tới đền ơn. Thầy mới hỏi vợ phương thuốc đó ở đâu mầy thấy ? Vợ rằng : « Y là ý vậy » (nghĩa là thuốc tại có ý), thiếp ngày mới gả cho phu quân, một sợi cũng không, vì bị hai hòn ngoại thận của phu quân chà hoài, chẳng bao lâu bây giờ cho đến đỗi xồm xàm ra thế nầy… Bài 39 trương 27. Truyện Tiếu đàm của Phụng hoàng San và Dương Diếp. Sài gòn 1914. https://thuviensach.vn 46. Trên dưới thông đồng Một người kia râu dài khỏi bụng, người thấy đều khen rằng tốt. Ngày kia xảy gặp một thầy tướng, anh ta biểu thầy coi tướng cho mình, cũng có ý khoe bộ râu luôn thể. Thầy tướng rằng : « Tiếc thay bộ râu ông vắn một chút ! » Người ấy nói : « Râu tôi dài khỏi bụng, người người đều khen tốt, sao thầy lại chê vắn ? » Thầy rằng : « Phải chi nó dài thêm ít tấc nữa, cho đặng trên dưới giao thông với nhau, càng tốt hơn nữa. » Bài số 35 trương 26. Truyện Tiếu đàm của Phụng hoàng San và Dương Diếp. Sài gòn 1914. https://thuviensach.vn 47. Liên hữu hội Khi đó râu nói với lông mày rằng : « Bọn ta sanh nhằm lúc nầy, người đời hay khinh bạc lắm, chi bằng hiệp lại bao bọc giúp đỡ cho nhau là sự tốt, tôi với anh tóc mai đã liền với nhau rồi vậy tôi thấy trên con mắt nầy có hai vị quí ông đây cũng là bực trên trước, cũng là ở nơi đầu mặt với nhau, nên tôi xin hòa hiệp với nhau một đoàn thì lấy làm sự tốt lắm, xin hai ông chớ từ. » Lông mày rằng : « Chúng tôi đều cảm ơn ông chẳng bỏ phận hèn mọn mà nghĩ đến, song chúng tôi hềm vì phận mỏng, gốc thưa, vậy sao ông không xuống dưới nhà họ Mao kia, chỗ vườn rậm có dựng cột cờ đó mà lập hội, chẳng là đông đảo hơn ! » Bài số 38 trương 27. Truyện Tiếu đàm của Phụng hoàng San và Dương Diếp. Sài gòn 1914. * Phụ chú. – Chuyện năm xưa, trên năm mươi năm, mà như chuyện mới viết ngày hôm qua đây thôi ! Những bài tiếu lâm kể đến đây, như đã thấy, đều mượn qua mượn lại, và còn nhiều lắm, chép không bao giờ hết, để tránh sự nhàm chán, thêm nữa nhiều bài ở Bắc chưa được năm mươi năm, quyền tác giả vẫn còn, nên để tránh sự hiểu lầm, tôi xin chấm dứt sự đối chiếu nơi đây, để sao lại toàn những bài trong Nam lựa rút trong các sách sẵn có và đã trên năm mươi năm, tức bản quyền đã thuộc về công cộng. Đây là một bài chót về râu cho đủ bộ : https://thuviensach.vn