🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Của Paco - Larry Heinemann
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
Dành tặng vợ tôi, Edie và các con, Sarah Catherine và Preston John
https://thuviensach.vn
Chuyện của Paco Larry Heinmann
https://thuviensach.vn
Larry Heinemann, sinh năm 1944 tại Chicago, Illinois, trong một gia đình thuộc tầng lớp bình dân. Sau khi học xong trung học, ông đi làm rồi học đại học. Ông bỏ học giữa chừng và bị gọi nhập ngũ (năm 1966). Từ tháng 3 năm 1967 đến tháng 3 năm 1968, ông là lính của Sư đoàn hộ binh số 25 tham chiến tại Củ Chi và Dầu Tiếng.
Sau khi giải ngũ, Larry Heinemann theo học môn sáng tác (creative writing) tại Đại học Columhia ở Chicago và từ năm 1971 ông bắt đầu dạy môn sáng tác tại đại học này, cho tới khi ông xuất bản Chuyện của Paco (Paco's Story) năm 1986. Năm 1986, Chuyện của Paco được Giải thưởng Sách Quốc gia dành cho thể loại hư cấu (National Book Award for Fiction), vượt qua bốn nhà văn được đề cử khác trong đó có Toni Morrison là ngưòi được Nobel Văn học 5 năm sau đó.
Hiện nay Larry Heinemann là tác giả thường trú (writer-in-residence) tại Đại học Texas A&M University, thành phố College Station, bang Texas.
https://thuviensach.vn
Nhà xuất bản Phụ nữ
https://thuviensach.vn
Lúc đó tôi nghe thấy một tiếng thét lớn bằng tiếng nói của bộ tộc chúng tôi: “Không được động vào ta! Ta là Ngựa Điên!”
BLACK ELK1[1], Black Elk kể
https://thuviensach.vn
Lời tựa
♦ Bảo Ninh
Lần gần nhất chúng tôi gặp nhau cách nay cũng đã cả chục năm. Ở một tiệm rượu phố Bà Triệu. Hôm đó có Trung Trung Đỉnh, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Thanh Sơn, tôi, Nguyễn Trọng Tín, Larry Heinemann. Trong sáu người riêng có Thanh Sơn là còn trẻ trung và không dự vào cuộc chiến hồi xưa.Một cuộc rượu khá là trầm. Quân ta thì gặp nhau thường rồi, lại không ai làm thơ nên vốn dĩ đã luôn luôn uống là chính nói chẳng mấy. Còn như Larry, vẻ ngoài cũng đã cho thấy là kiệm lời. Tây, nên tôi khó áng tuổi, nhìn râu tóc đoán chừng giữa năm lăm với sáu mươi. Một anh lính già. Vóc dáng tầm thước, rắn chắc. Ánh mắt sâu, dõi thẳng người đối thoại. Gặp nhau, gọn ghẽ một lời chào. Và một cái bắt tay của lính, xiết chặt, rồi buông ngay. Chỉ vậy thôi đơn giản, xong mục chào hỏi. Không có kêu to lên, không có ôm choàng vỗ vai cọ má này nọ. Năm 98, ở Mỹ, lần đầu gặp gỡ, tôi đã lập tức thấy cảm mến, thấy thoải mái dễ chịu với cái cung cách cư xử thân thiện điềm nhiên vừa đủ của ông nhà văn này. Hai chúng tôi không hoài cổ những chuyện đánh đấm ngoại trừ hỏi nhau ngày xưa thuộc đơn vị nào, tác chiến địa bàn nào. Larry không nói cái câu quen thuộc và muộn màng “Xin lỗi Việt Nam”, không ra ý khổ đau thống thiết thay cho nước Việt người Việt. Hồi đó, ngay những khi cả hai đã kha khá độ cồn, đã ngà ngà, tôi cũng không thấy ở Larry những bột phát lý sự và xúc cảm mà tôi vẫn thường gặp ở người Mỹ và Tây phương nói chung những khi họ trò chuyện với người Việt Nam, nhất là “Việt Nam vi xi như tôi, về Vietnam War.
Gặp lại ở Hà Nội tôi thấy Larry có phần còn trầm hơn lần trước gặp nhau tại Montana. Tất nhiên, vì bây giờ ông là khách. Tuy nhiên, trầm lặng mà không cách biệt, không ủ dột, hay nói cho đúng thì là một sự sôi nổi nhiệt thành được lắng xuống và ẩn đi. Nhờ vào lời dịch của Thanh Sơn, chúng tôi thong thả trò chuyện. Nhà văn Mỹ qua Việt Nam dự định ở lâu đi nhiều. Trước nhất là trở lại Tây Ninh, tìm chốt đóng quân ngày trước, núi Bà Đen nơi chiến địa ác liệt, xem thử đời sống nhân gian đã hồi sinh thế nào. Rồi về Sài Gòn, địa đạo Củ Chi, căn cứ Đồng Dù. Và sẽ từ đó đi lần ra Bắc: cảng Cam Ranh, biển Nha Trang, Hội An, Mỹ Sơn, đèo Hải Vân, Huế, Quảng Trị, lũng Khe Sanh, nghĩa trang Trường Sơn, cầu Hiền Lương... Trên hành trình dài cây dài ngày ấy, ngoài ý định nhìn ngắm lại phần đời sâu nặng nhất của mình, Larry mong muốn hiểu thêm và kỹ hơn về văn hóa và văn học dân gian của các vùng miền dọc theo đất nước hình chữ S. Nhưng mà cái đích cụ thể Larry định ra cho chuyến đi lại là để khởi sự viết một tác phẩm về hoả xa Đông Dương. Đấy là một đề tài mà quả thật là bản thân tôi cũng rất ưa thích và luôn muốn viết.
https://thuviensach.vn
Hôm ấy, nhóm chúng tôi, người nguyên là du kích Việt Cộng chính hiệu đất Mũi, người là cựu binh bộ đội chủ lực Bắc Việt, người thì từng là một GI sư đoàn 15 Tia chớp Nhiệt đới, ngồi cạch ly với nhau, chậm rãi nhâm nhi, cùng nhau trò chuyện luận bàn về phong tục tập quán, về những thần thoại và cổ tích của các làng quê nước Việt, rồi về các cung đường sắt, các nhà ga, cầu cống, bến sông xưa và nay trên dọc đường xuyên Việt. Nhìn ra bên ngoài kia là rộn rã phố xá mùa xuân, tấp nập, nhộn nhịp đời sống Hà Thành. Tính đến mùa xuân đó hòa bình đã được non ba chục năm. Cuộc chiến tranh tàn khốc đè nặng đời người và không ngừng khắc khoải chà xéo ký ức đã thật sự lùi xa, xa lắm rồi...
Gần chục năm qua tôi vẫn thường nhớ lại lần gặp gỡ ấy. Một kỷ niệm dễ chịu, đầm ấm chân thành những tình cảm giản dị mà sâu xa và hiếm có. Tuy nhiên, những khi nhớ lại thế thì tự thâm tâm tôi vẫn cứ thấy gợn lên cảm giác về một sự không trọn vẹn. Tôi thấy mình thật sự có điều không phải lẽ với Larry. Bởi nỗi, theo tôi nghĩ, thì chính tôi, chính chúng tôi, những người lính Việt Nam, những nhà văn cựu chiến binh Việt Nam một cách đương nhiên phải là thành phần độc giả mà nhà văn Heinemann muốn có nhất, muốn trao gửi, chia sẻ, bộc bạch, muốn hướng tới nhất cả khi đang viết lẫn khi đã xuất bản tác phẩm. Vậy mà tôi lại đã chưa hề đọc gì hết của ông. Cố nhiên chẳng phải tôi không muốn mà vì làm gì có mà đọc, nhưng dù vậy đấy vẫn là một điều thật đáng tiếc và vô cùng đáng buồn. Vô hình chung vẫn là một rào cản, một sự xa cách.
Không được đọc và không đọc được rất nhiều tác phẩm văn học muốn đọc và cần phải đọc, đấy là một trong những hụt hẫng và khiếm khuyết trầm trọng nhất của tôi. Tất nhiên là do zê rô về ngoại ngữ, nhưng cũng là do vì nói chung cái thời của tôi nó như thế. Thời của cha tôi chú tôi không thế. Thời ấy, tầng lớp trí thức, nhà văn, nghệ sĩ cùng toàn thể dân tộc đứng lên giành nền độc lập và tiến hành cuộc Kháng chiến trường kỳ bằng một tinh thần thật sự là không đội trời chung với thực dân Pháp, ấy vậy nhưng họ am hiếu sâu sắc, hoặc chí ít là không hề xa lạ với văn hoá và văn học Pháp. Có thể nói là thế hệ cha tôi đã noi gương sáng của tổ tiên, ngàn năm bất khuất trước phong kiến phương Bắc nhưng không tự ngăn mình thấu hiểu tinh tường đất nước và văn hóa Trung Hoa.
Tôi thì biết quá ít về nước Mỹ người Mỹ, hoặc biết theo cái lối rất cũ kỹ, phiến diện và ấu trĩ một thời. Mà cái sự xa lạ ấy quả thật là rất lạ lùng. Bởi vì xét cho cùng thì chẳng có cái nước ngoài nào tác động trực tiếp, ảnh hưởng mạnh mẽ sâu sắc dữ dội đến cuộc đời và cuộc sống của tôi cũng như bạn bè đồng lứa với tôi cho bằng nước Mỹ. Ngay từ tuổi thơ ấu đã nhìn thấy nghe thấy Mỹ quần đảo gầm thét trên bầu trời Hà Nội và tới tấp dội bom, gieo chết chóc, tai họa, tan nát, phân ly vào mọi gia đình. Và rồi những năm quân ngũ chiến trường thì miễn bàn khỏi cần kể. Có thời khắc nào trong những năm tháng ấy mà mọi mặt đời sống tinh thần và vật chất của người lính tạm lánh được ra ngoài bầu không gian kín đặc đất trời của cuộc chiến
https://thuviensach.vn
tranh? Người Mỹ người Việt hồi đó dãn xa nhau nhất cũng chỉ là cách một tầm trọng pháo và trên cao vài ngàn thước những chiếc oanh tạc cơ đủ loại, gần thì trong tầm đạn AK và MI6, gần hơn nữa thì dao găm, lưỡi lê, báng súng, mặt giáp mặt. Có nghĩa là Việt Mỹ suốt bao nhiêu năm đã hết sức cận kề, dù thời đó cận kề chỉ để nhìn thấy xác của nhau là chính. Nhưng còn sau thời đó, đến bây giờ thì sao? Cũng hết sức là cận kề. Ngày nay, nhất là ở chốn thị thành, bước chân ra cửa, thậm chí ngay trong nhà, bạn lắng nghe và nhìn quanh thử coi, hầu hết những sự vật và thông tin trong đời sống, dù bạn ưa hay ghét, muốn chấp nhận hoặc không muốn gạt bỏ, đều ít nhiều, trực tiếp gián tiếp nhuốm màu sắc Mỹ. Không phải vậy sao?
Có thể nói rằng thế hệ chúng tôi thời đó được sinh ra trên đời, lớn lên, được ăn học nuôi dạy chỉ để hướng tới mục đích là kịp khi đến tuổi thanh niên thì cầm vũ khí chiến đấu chống Mỹ, tuy nhiên, do diễn biến thời cuộc nên vô hình chung lại đã phát sinh một mục tiêu khác nữa dành cho thế hệ cựu chiến binh chúng tôi, ấy là khi đến tuổi trung niên thì kịp tỉnh táo và chín chắn gánh vác trách nhiệm đổi mới đất nước theo hướng bình thường hóa hội nhập hòa đồng vào với một thế giới có thật, một thế giới rộng lớn đa dạng và muôn màu, một thế giới mà sự phát triển, đường đi nước bước của nó gắn bó hiển nhiên và mật thiết với nước Mỹ. Thế nhưng, cái nước Mỹ ấy nó là thế nào, tôi đâu có biết gì đâu. Có người Việt Nam nào cùng một kiểu lý lịch và một học vấn na ná như tôi có được sự am hiểu về nước Mỹ hơn hẳn tôi không? Tôi mong được đọc những cuốn sách viết thật sự khách quan và có độ rộng cùng chiều sâu uyên bác về nước Mỹ, được người Việt viết ra hoặc dịch cũng được, mà không tìm ra.
Riêng về văn học, tôi tự hỏi mình biết gì về văn học thế giới một khi không biết gì đáng kể về văn học Mỹ. Tôi đã đọc các nhà văn Mỹ nào? Vài ba tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt của M. Twain, O. Henry, J. London, J. Steinbeck. Ai nữa? E. Hemingway. Thế thôi, hết. Có vẻ là đã có đủ những tác giả nổi bật nhất. Nhưng rõ ràng là không phải thế. Thậm chí chỉ biết đến như thế thì còn tệ hơn là không biết gì hết.
Văn học Mỹ đương đại, các nhà văn Mỹ của đương thời tôi lại càng không hay biết. Và tôi nghĩ, là nhà văn, lại là cựu chiến binh trong chiến tranh chống Mỹ mà không hiểu văn học Mỹ, thì làm sao có thể viết được cho hay, chí ít là có sức thuỵết phục, về cuộc chiến tranh ấy. Đặc biệt là khi không đọc không hiểu gì về các tác phẩm của các nhà văn Mỹ mà phần nào cùng kiểu như chúng tôi, đã trưởng thành lên từ cuộc chiến (theo hướng khác, ở phía đối diện, cố nhiên).
Nhà văn Larry Heinemann là tác giả nổi tiếng của văn học Mỹ đương thời. Chưa đọc của ông nhưng qua những gì mắt thấy ở các hiệu sách, ở các buổi hội thảo tác phẩm tại những nơi xa tắp như Missoula, Lubbok, hay tại các trung tầm lớn nhất nước Mỹ như Boston, New York mà tôi biết như thế. Các tác phẩm của nhà văn này, nhất là những cuốn liên quan đến cuộc chiến ở Việt Nam như Close Quarter, Paco's Story được tái bản nhiều lần bởi có
https://thuviensach.vn
sức cuốn hút đông đảo độc giả. Dự buổi hội thảo cuốn Paco's Story tại Boston, tôi thấy người đến dự không chỉ đông mà còn rất đa dạng: giáo sư, nhà văn, người lớn tuổi, các cựu chiến binh, sinh viên, học sinh trong đó gồm không ít những thanh niên gốc Việt. Câu hỏi được nêu ra thật nhiều và dồn dập. Mặc dù không hiểu, song tôi thấy rõ những câu trả lời của nhà văn và những trích đoạn tác phẩm mà ông đọc lên trước công chúng đã tạo nên những hiệu ứng gần như đối chọi: cười khóc, tán thưởng, giận dữ, vỗ tay và la ó. Tôi hiểu rằng tác phẩm rất hay, hấp dẫn, cảm động, khiến người ta hứng khởi và khoái cảm về nội dung, về giọng văn, cách miêu tả, đối thoại, dẫn chuyện, về cấu trúc và phong thái của tác phẩm, nhưng đồng thời lại làm người ta bị choáng. Ở đời làm gì có nhiều cuốn tiểu thuyết đạt được sức mạnh như vậy. Thú thực là những khi như thế tôi cực kỳ buồn thay cho mình không biết tiếng Anh. Những nhà văn bạn tôi sành Anh ngữ và đã đọc các tiểu thuyết của Heinemann, đều thấy tôi may mắn quen biết ông mà cũng tiếc cho tôi không đọc được của ông ấy.
Ở ta, không phải là người ta chưa hề dịch một tác phẩm nào của Mỹ viết về cuộc chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên hầu hết là hồi ký của các ông tướng ông tá, các chính khách cỡ bự, những tập phóng sự của các ký giả chiến trường hồi xưa, hoặc là những nghiên cứu của các sử gia. Tác phẩm văn học, nhất là tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng và vốn là lính thường ở đại đội bộ binh như Larry Heinemann thì dường như vắng mặt hoàn toàn. Vậy mà, thiết nghĩ, chỉ trong những tác phẩm văn học đích thực ấy mới hiện lên đích thực bi kịch Mỹ trong và sau chiến tranh Việt Nam, và mới thực sự cho ta thấy cuộc đời cùng số phận của những người Mỹ lính tráng, nông dân, thợ thuyền, tiểu thị dân... bị chiến tranh đày đọa và giày vò như thế nào. Các tác phẩm văn học ấy dù có thể rất gai góc và gây sốc, song quyết liệt tính hiện thực và đậm tinh thần nhân đạo, sẽ cho người đọc trực diện nhìn thấy những người Mỹ bình dân, họ sướng khổ, buồn vui như thế nào, họ tốt đẹp và xấu xa, họ thù hận và yêu thương, họ thiết tha với hòa bình và căm ghét chiến tranh như thế nào. Chắc hẳn rằng họ cũng như mọi người nghèo, mọi người bình dân trên thế gian này cả thôi.
https://thuviensach.vn
Đôi lời cùng độc giả
Tên gọi James bắt nguồn từ cách gọi Jim hoặc Jack, hoặc đôi khi là Jake theo cách đùa cợt, một thói quen của dân hàng phố khi họ bắt chuyện người hoàn toàn không quen biết - chẳng hạn, khi họ hỏi thăm đường, hỏi giá vé xe buýt chính xác bằng tiền lẻ hoặc xin lửa để châm thuốc. Nhưng bởi vì Chuyện của Paco đòi hỏi ngôn ngữ trịnh trọng hơn ngôn ngữ vỉa hè đường phố nên tôi nghĩ James thì thích hợp hơn. Tôi cũng định nhắc tới câu nói giễu cợt: "Về nhà đi, James”2[1]. Khi tôi bắt tay vào viết câu chuyện này, một người bạn thân đã hỏi tôi James thực ra có phải là James Jones hay không3[2] - một nhà văn có sự nghiệp mà tôi rất ngưỡng mộ (và tôi nghĩ ông bị đánh giá quá thấp); ông mất vì một căn bệnh đau đớn kéo dài ngay trước khi cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi được xuất bản năm 1977. Tôi đã trả lời người bạn đó rằng không phải, rằng James không phải là James Jones, nhưng sự trùng hợp ngẫu nhiên này là sự trớ trêu quá kỳ lạ khiến tôi không thể cố tình không biết hoặc gạt bỏ.
Nhưng rút cục tôi được biết hóa ra có rất nhiều James. Trong Kinh Thánh có hai thánh tông đồ mang tên này: James Nhỏ (là người em ruột hoặc em họ của Jesus ở Nazareth và là tác giả của thư truyền giáo của Thánh James gửi cho các Kitô hữu) và James Lớn. Có nhiều vua của nước Anh tên là James, trong đó James I là người đã cho dịch Kinh Thánh sang tiếng Anh cận đại. Có các “James” trong văn học - James Joyce, Henry James và người anh trai của ông là William James, và James Jones. Và chúng ta có thể kể thêm tướng cướp huyền thoại Jesse James, người em trai Frank James của gã, và băng cướp của nhà James; James Bowie và toàn bộ lính của ông đã thiệt mạng trong trận đánh tại Alamo (người anh trai đã tặng ông con dao săn/chiến đấu nổi tiếng vì được mang tên ông); diễn viên James Dean mà huyền thoại cá nhân đã góp phần định nghĩa thời kỳ hậu Thế chiến II.
Hơn nữa, James còn là tên của người anh trai cả của tôi - tôi không gặp hoặc nhận được tin tức của anh ấy kể từ quãng năm 1970. Cuối cùng, tên của cha tôi là John, nhưng mọi người đều gọi ông là Jack - một tên riêng đôi khi thay cho James; ông mất chưa đầy hai tuần trước khi tôi xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay, Close Quarters (Giáp lá cà), cái chết của ông quả thực đã khiến cho sự kiện ăn mừng việc ra mắt cuon sách trở thành mâu thuẫn, ngược đời - một cảm giác mệt mỏi đến kiệt sức vì đau buồn xảy ra cùng thời gian với cảm giác nhẹ nhõm vì cất được gánh nặng.
https://thuviensach.vn
Điều nói thẳng thứ nhất
James, hãy bắt đầu bằng điều nói thẳng thứ nhất này: đây không phải là câu chuyện chiến tranh. Hãy tống khứ ra khỏi đây những câu chuyện chiến tranh. Một, hai, ba, hãy vứt tuốt những câu chuyện chiến tranh xuống hồ cùng với cá mú tanh tưởi bẩn thỉu và nước nhớt nhát váng bọt ở bến tàu. Nhưng như thế có uổng phí hay không? Tất cả những câu chuyện bép xép, nhão nhoét đó, chúng được sắp xếp có trật tự đâu vào đấy giống như những thứ được dành dụm để rồi sau này đem ra dùng, chúng chất thành đống nhiều như những viên sỏi rải đường tầm thường, như những tấm thảm cũ mốc meo nổi lềnh bềnh dưới nước (màu xỉn như chiếc đinh đóng cửa bị gỉ két lại và bốc một thứ mùi phi văn minh rất riêng biệt). Nhưng thực ra cũng không hẳn là uổng phí đâu, bởi vì đây đó và ở chỗ khác, giữa những thứ đáng vứt đi đó vẫn có những câu chuyện dối trá siêu hạng giành được giải thưởng, những câu chuyện vớ vẩn, dễ hiểu, giống như những ổ bánh mì nhỏ xíu nóng hổi tiện lợi dễ làm, tạm ví như vậy, giống như những cú lốp bóng chày tạo thành một đường bay hình vòng cung mềm mại rất đẹp mắt nhưng bị cầu thủ đối phương bắt ngay ữên không khi chưa kịp chạm đất.
Nhưng đó chính là cái cách kể chuyện vẫn tồn tại từ xưa tới nay trên thế giới này, hoặc đó là cái cách kể quen thuộc trong những câu chuyện cổ tích. Những người tầm thường giữ chặt dây thắt hầu bao và dây tạp dề trong bàn tay bé nhỏ, mềm mại, ấm áp của họ - bằng một cách chọn từ hoàn hảo và điệu bộ có chuẩn bị - họ tố cáo những câu chuyện chiến tranh giống như gã dị dạng biểu diễn những tiết mục quái gở rất độc ác và kinh tởm tại những hội chợ giải trí vào những thời xa xưa. (Tại một hội chợ giải trí ngày đó, James à, đó là một gã biểu diễn tiết mục dùng ráng cắn đứt đầu một con gà hoặc một con rắn sống). Người tố cáo những câu chuyện chiến tranh này đứng thẳng người, tay khoát rộng để nhấn mạnh những chỗ thích hợp, tuyên bố rằng chuyện chiến tranh làm cho những người khác phải ngủ gật trên ghế. (James, trong khi ngược lại thì đúng hơn). Bất cứ gã chủ gian hàng hạng bét nào đó ở một hội chợ giải trí - miễn là hắn còn sống hoặc không ngồi tù hoặc không bị nhốt trong một nhà thương điên của địa phương – đều sẽ nói với ông là hầu hết mọi người lần nào cũng sẵn sàng trả những đồng tiền kiếm được một cách khó khăn, những tờ tiền mặt, để được xem một cảnh rùng rợn và gớm ghiếc được biểu diễn khéo léo và hấp dẫn trực tiếp.
Số khác (tự cho mình là người có đầu óc tài giỏi và sắc sảo, kiểu như diễn đàn của Thượng Viện, “hãy để tôi đọc bài diễn văn này để ghi vào Văn Khố Quốc hội’”, giống như những diễn viên trên sân khấu), họ luồn một tay vào bên trong vạt áo gi-lê và điệu đàng đưa mũi giày đánh vécni bóng lộn về phía trước rồi thề sẽ chết liền nếu như tiếng ngáy vì những câu chuyện chiến
https://thuviensach.vn
tranh không làm rung lạch cạch những ô cửa sổ ở quanh vùng cách đó nhiều dặm - tới tận Pokorney hoặc khoảng cách tương tự theo như khẳng định của Văn khố. (James à, Pokorney là một địa điểm có thật, ông có hiểu không, một thị trấn bé tí nằm giữa Wheeling và Half Day, ở chỗ giao cắt giữa xa lộ Liên Bang số 12 và Đường Aptakisic - thị trấn đó có một trạm xe buýt ở Texaco4[1], một lò bánh mì Thụy Điển và motel5[2] Don't Drive Beddie-Bye.
Và một thiểu số khác biệt nhưng hay cường điệu - những gã say mê yêu thuật qua sách vở, những gã chơi nhạc punk đường phố6[1] hiểu biết không đến nơi đến chốn và những gã rao bán lòng ái quốc (James, họ yêu nước để được trả lương đủ để sống lần hồi qua ngày) - những kẻ đó khéo léo hạ thấp đầu xuống rồi nói bóng gió úp mở rằng những tiếng ngáy đó (cái tiếng ngáy đều đều giống như tiếng kêu của con ngỗng trời, run run giật giật từng hồi như con búp bê bằng giẻ rách quật mạnh vào ông khiến cho ông bực bội cáu kỉnh, James à) chỉ đơn giản là vì câu chuyện về Ngày Tận thế7[2] bị tắc nghẹn lại ở cổ họng vì nước bọt, và nó đang cố gắng lấy lại hơi cho một vòng chạy nữa.Và bọn biểu diễn tiết mục nhai đầu gà, bọn dị dạng và bọn bán hàng lừa đảo trên đời này đều hiểu rằng bọn nhà quê khờ khạo đang nuốt từng lời cò mồi kiểu như vậy, vâng, tôi cá rằng bọn họ đang khoái chí cười vỡ bụng - ha ha ha. James, họ là những người biết nhận ra một lời dối trá nhất hạng. Họ ngả người trên những chiếc ghế gấp xếp dọc trước gian trò chơi - gian trò chơi Bắn chim bồ câu hoặc Ném vòng vào cổ chai hoặc Đoán-xem-có-bao nhiêu- đồng-xu-trong-lọ, đại loại thế - và họ vỗ đùi đến lằn cả da trong lúc thì thầm với nhau rằng tụi nhà quê trên đời này hoàn toàn chẳng hiểu tí gì cả.
Vậy là, theo một số người thì công chúng không hề muốn nghe nói tới Đại đội Alpha - lũ lính trơn chúng tôi - những gã đã quần nát những cánh rừng nhiệt đới và cưỡng hiếp gái trinh trong lúc gò lưng di chuyển từ bãi đáp trực thăng Skator-Gator tới Scat Man Do8[3](hay gọi thế nào cũng được). Dạo đó chúng tôi sử dụng những tấm bản đồ có từ thời thuộc địa Pháp - tên các thị trấn, các kí hiệu bản đồ và đường mô tả độ cao bị nhàu nát, quăn queo và nhòe nhoẹt trông khó hiểu như thổ ngữ Apache của tộc người Chiricahua. Chúng tôi không tài nào đoán nổi một cái chết tiệt gì trên những tấm bản đồ đó nên hoàn toàn không thể phát âm chính xác vị trí của Scat Man Do, nhưng chúng tôi đã hỏi đường và dựa vào cái mũi thính của Trung úy Stennert - đi rất nhanh qua những khu vực có thể xảy ra giao tranh đi qua những bãi chông tre bôi phân người9[4] miệng rộng như những bãi khai thác đồng, chưa kể những chuồng heo và chuồng gà (gà chạy tán loạn và lông gà rắc khắp nơi nom như vỏ bào). Chúng tôi đã tới chỗ chiếc máy nước nằm trên một bãi đất rộng của Scat Man Do - rồi quay trở lại Bãi đáp Skator-Gator vào buổi chiều - vừa đi vừa gào rất to những mẩu giai điệu trong các bản đuy-ê của vở
https://thuviensach.vn
Simon Boccanegra10[5] và Con tàu ma11[6]. Nhưng tại sao chúng tôi lại đi tới đó, không có ai nói với chúng tôi cả và không một ai trong số chúng tôi - những người còn lại trong số chúng tôi tại thời điểm đó - lại băn khoăn đặt câu hỏi này.
Và một số người tin rằng công chúng không hề muốn biết về cái đêm tại Cứ điểm Sweet Peas khi đại đội giống như bị đá một cú trời giáng vào mặt - một trận đánh giáp lá cà hỗn loạn, giống như một trận ẩu đả ngoài đường phố - và rút cục trong suốt hai tuần lễ chúng tôi vẫn còn khạc ra những mẩu răng bị vỡ và những mẩu da dính đầy máu. Buổi tối hôm đó Trung úy Stennert ra lệnh cho chúng tôi hạ trại trên một sườn dốc đá lởm chởm nằm dưới chân một cao điểm - sai lầm đầu tiên của ông ta (nhưng là sai lầm cuối cùng, dù suy diễn cách nào đi nữa). Và James này, từ hố cá nhân chúng tôi có thể khạc rồi nhổ cục đờm vào hàng cây ở mép ruộng. Trời mưa tầm tã. Không một ai ngủ được. Vào lúc ngay sau nửa đêm theo mặt đồng hồ dạ quang của Gallagher - một tên người Việt giời đánh nào đó đã nhẹ nhàng bò qua những bụi cây xơ xác để tới rất gần và hắn nói khẽ trong tiếng mưa như trút, “Này, thằng kia! Ri-sớt Ních-Giun chỉ là một đống cứt chó bẩn thỉu!”. Sau đó Paco và tất cả chúng tôi nghe thấy tên người Việt đó cười khúc khích với một tên khác - ti-hi-hi-hi - cứ như thể chúng đã nghĩ ra điều tồi tệ nhất trên đời và nói ra để khích cho chúng tôi nổi khùng lên. Nhưng trước khi tất cả chúng tôi kịp vuốt nước mưa ở mặt thì Jonesy nhô đầu khỏi chiếc ba lô từ chỗ ai củng biết hắn đang làm một giấc chợp mắt - nằm nghỉ ngơi, chúng tôi gọi chệch như thế - rồi đáp lại ngay lập tức bằng giọng thì thầm rất kịch, “Nghe này, đồ mắt một mí, chúng mày nói cái gì tao không hiểu!”. Sau đó chúng đồng thanh đáp lại bằng giọng thì thào rồi cười khúc khích, tiếng cười run run dễ thương như thể chúng là hai đứa trẻ láu cá lên sáu tuổi, “Thằng Mỹ, đêm nay chúng mày sẽ phải chết!” rồi sau đó cười khúc khích thêm một lát nữa. Paco khẽ chớp mắt nhìn lướt thật nhanh sang hai phía như thể muốn nói hắn không thể tin nổi những gì vừa nghe thấy rất rõ rồi lắc đầu gọi to, ‘Bọn mắt một mí chúng mày tưởng đang ở đâu cơ chứ? Trong một bộ phim chết tiệt thuộc loại Bruce Dern - Michael J. Pollard - John Wayne12[1] chắc? Thằng Mỹ, đêm nay chúng mày sẽ phải chết! Đầu óc chúng mày đúng là bẩn thỉu!”. Sau đó hắn nhô người lên khỏi chiếc ba lô ướt sũng và nhìn về hướng có tiếng cười khúc khích the thé rồi đặt hai tay lên mồm, giống như cái loa, rồi nói, “Cứt”, đủ to cho cả đại đội nghe thấy. “Tốt nhất đừng nói hãy làm đi, đồ Mũi tẹt”, hắn nói. “Máu lên cho tao xem nào!”. Đêm hôm đó bọn chúng đã tấn công. Chúng diệt một nửa trung đội 4 và tay lính bộ đàm của Trung úy Stennert vừa được điều động về, còn chúng tôi đã giết được nhiều tên tới mức ông không thể tin nổi. Trung úy nổi cáu với Paco vì hắn đã lắm mồm thiếu cẩn thận khiến cho tay lính bộ đàm của ông ta bị ngoẻo quá sớm - nhưng rồi trung úy củng bỏ qua chuyện đó, bởi vì ông ta không đến nỗi “căng thẳng quá”, như Jonesy nhận xét.
https://thuviensach.vn
Buổi sáng hôm sau chúng tôi thức dậy, giũ sạch bụi trên người, rời khỏi đống rác rưởi để lại sau trận oanh tạc - rác rưởi của trận giao tranh và cây cối đổ nát - và đưa người bị thương nhẹ, người bị thương phải nằm cáng và túi tử thi lên trực thăng. Buổi sáng hôm thứ hai, cảm thấy người khỏe trở lại, James à, chúng tôi khoác ba lô rồi di chuyển chậm vào khu vực hẻo lánh nhất, ẩm ướt nhất của Rừng Sâu13[2] ở phía bắc căn cứ Phuc Luc14[3], để tìm một thằng khốn nào đó mà đá đít - bất cứ thằng khốn nào (ông có hiểu điều đó không, James?) - và để tra hỏi. Vâng, thưa sếp! Chúng tôi đã hành quân từ đầu bên này sang đầu bên kia cái khu rừng chết tiệt đó - đi chéo, đi xiên tùy hứng - không còn bộ dạng hiện đại hoặc phức tạp hay thanh nhã của một toán lính có tổ chức - truy tìm và xử làm gương bất cứ tên khốn nào cười khúc khích mà chúng tôi bắt gặp. Thế rồi vào một buổi sáng đẹp trời và tươi vui sau một tháng trời Binh nhất Elijah Raintree George Washington Carver Jones (gọi tắt là Jonesy, James ạ) đã sưu tầm được ba mươi chín đôi tai người nhăn nheo chỉ còn lại lớp da đã ngả màu đen, hắn xâu chúng vào một mẩu dây thông tin màu đen rồi đặt quanh cái mép uốn cong trên chiếc mũ sắt nom như một vòng hoa. Hắn đã cắt rời tai bằng một chiếc dao cạo có cán nạm ngọc trai nhanh và gọn như người ta cắt một cái mụn cơm to cỡ một quả bóng chầy - nhanh và gọn - hắn khoác lác rằng đó là cách mà ông bác của hắn đã lột da một con hươu. Hắn phơi khô những cái tai đó trong hai ngày bằng cách treo chúng lên vành mũ sắt, sau đó nhét chúng vào một chiếc bít tất. Buổi tối khi Trung úy Stennert nghi ngơi thì Jonesy thức rất muộn để xâu những cái tai vào mẩu dây điện màu đen trong lúc nhai trệu trạo miếng bít-tết của khẩu phần C.
Và buổi chiều của ngày thứ hai, khi chúng tôi vừa mệt mỏi bước qua cổng phía nam của căn cứ Phuc Luc thì đã thấy tụi mèo nhà15[1]làm việc ở căn cứ trợn tròn mắt nhìn, người co rúm lại, hầu hết đứng nép vào tường (James, ông sẽ thấy thực sự tự hào). Jonesy làm đủ các động tác nhảy múa - hắn nhào người, nhảy theo điệu jazz, lắc mông, vung cao chân, đảo đi đảo lại hai mắt rồi bật tanh tách ngón tay theo nhịp - hắn quay tròn chiếc vòng ra dấu chào vĩnh biệt, lắc cho nó kêu lách cách (làm đủ trò với chiếc vòng làm bằng những cái tai người, James à), nói chung hắn dùng cái vòng như thể đó là cái pom-pom16[2] của các cổ động viên.
Và những người Việt ở căn cứ Phuc Luc cũng không thể không nhìn. Người Việt làm việc ở quầy thu ngân tại các cửa hàng dành cho quân đội (những phụ nữ trông ngon mắt luôn phải giữ gìn ý tứ để không bị mất việc), hiệu cắt tóc của căn cứ (những tay thợ cắt tóc người Việt có thể hoàn thành một kiểu tóc với giá từ 35 xu tới 6,5 đôla trong vòng mười lăm phút), ngôi nhà lợp mái tranh kiểu cách bán đồ xú-vơ-nia (một gã thương binh của quân đội Việt Nam Cộng hòa có đôi chân khoèo bán bia lon để trong những tủ ướp lạnh ọp ẹp, những chiếc gạt tàn xú-vơ-nia con con rẻ tiền hình con mèo và những chiếc áo vét kiểu thể thao có thêu một bản đồ ở phần lưng kèm dòng
https://thuviensach.vn
chữ Hot Damn - Vietnam17[3] ở bên dưới. James, đừng quên là ban ngày họ là dân thường nhưng ban đêm họ là Việt Cộng; một lần chúng tôi lượm xác một tên Việt Cộng biết gài mìn ở nhà xí khéo léo không kém cắt tóc.
Tất cả người Việt ở căn cứ đã tụ tập ở những lối cửa ra vào và đứng kín bên những cửa sổ, đại loại vậy, trố mắt nhìn Jonesy - và tất cả chúng tôi. Và thế là hắn bèn biểu diễn một tiết mục đặc biệt, hắn bắt chước điệu bộ của một thầy mo, hắn huơ chiếc vòng tai người về phía họ trong lúc ngâm nga những câu thần chú lắp bắp khó hiểu bằng giọng nam trung cầu kinh hay nhất của hăn và cười phá lên bằng tiếng cười lạnh lùng, độc ác, ghê rợn quen thuộc, rồi hắn nhảy múa lam trò hề cho bọn mèo nhà đó. Những người khác trong đại đội - chí ít những người còn sống sót sau lần ấy - cũng phải bật cười khi nhìn hắn mặc dù đang mệt mỏi đi trên đoạn đường dài ba trăm mét cuối cùng trươc khi tới những căn lều (leo lên một đoạn đường dốc), những vết rộp bị vỡ chảy máu, miệng kêu lạo xạo vì sạn, đai ba lô để lại những vết hằn cố định trên vai. (Cơ thể con người không bao giờ quen với vật nặng trên vai, James à. Khi khẩu lệnh phát ra, chúng tôi khoác ba lô lên lưng, hít một hơi sâu và nghiến chặt răng rồi hơi ngả người về phía trước như thể đang bước đi ngược chiều một cơn gió đông-bắc cắt da cắt thịt rồi bước một chân lên. Chỉ một lát sau ông sẽ có một cảm giác đau buốt chạy dọc từ vai xuống thắt lưng nhưng ông sẽ đành bất lực ngoài việc nghiến chặt răng hơn và tiếp tục bước đi. James, có Chúa chứng giám, ba trăm mét leo dốc cuối cùng đó là ba trăm mét khốn nạn nhất, là điều mắc dịch nhất trong những điều mắc dịch trên toàn Đông Nam Á. Đại úy Courtney Culpepper người không bao giờ bỏ lỡ cơ hội khoe chiếc nhẫn của học viện West Point18[1]trước mặt chúng tôi - một chiếc nhẫn to như chiếc đồng hồ quả quýt hiệu Hamilton của một trưởng ga đường sắt - ông ta chẳng bao giờ cho xe tải tới đón chúng tôi ở cổng căn cứ: ông ta nói chúng tôi đã lết về đến đấy thì có thể lết nốt quãng đường còn lại).
Và người ta cũng không tin rằng công chúng muốn biết chúng tôi đã buồn chán muốn chết như thế nào (chết theo nghĩa đen, James à) trong khi ngồi gác hầm boongke. Hồi đó, một số lính bộ binh gọi là gác chốt bảo vệ vòng ngoài còn một số lại gọi là chốt gác bờ ruộng, nhưng đều như nhau cả
thôi. Hệ thống hầm boongke, James, gồm những thứ được xây bằng bao cát, rộng rãi, mái thoai thoải, rộng như một trang trại chu vi bốn mươi mẫu Anh19[2], mỗi hầm bên trong rộng bằng một cái tủ treo quần áo, các hầm boongke nằm thẳng hàng, mỗi hầm cách nhau khoảng bốn mươi mét dọc theo vòng ngoài doanh trại, cách hàng rào dây thép gai và đầm lầy một tầm ném lựu đạn. Chúng tôi ngồi xổm trên một tấm ván gỗ thông, lưng cong xuống và vai gập về phía trước, mắt nhìn chăm chú qua một lỗ châu mai rộng bằng cái khe của hòm thư. Chúng tôi nhìn ra một đầm lầy bẩn thỉu cách đó hai trăm mét mà không một tên người Việt đầu óc bình thường nào dám vượt qua ruộng bậc thang bỏ hoang từ lâu và đằng xa là bìa rừng bị tàn phá trơ trụi.
https://thuviensach.vn
(Bìa rừng đó bị trụi xơ xác James à, bởi vì chúng tôi thường xuyên nã đạn vào đó, đơn giản chỉ vì buồn chán). Vâng, chúng tôi nhìn tất cả những thứ đó, nhìn miết cho tới khi hình ảnh cỏ, lau sậy, măng tre, bùn loang loáng ánh trăng và những vì sao ăn sâu vào trong đầu giống như thí nghiệm đầu tiên của Daguerre với bộ phận buồng tối của máy ảnh. Chúng tôi hé mắt nhìn qua lỗ châu mai nhỏ nhữ lỗ đít, khẩu M-16 tự động, hai bó lựu đạn mỏ vịt, loại lựu đạn sát thương bằng mảnh nhỏ, được treo trên một sợi dây thép dài khoảng hai sải tay ở phía trên đầu chúng tôi và cứ cách một tiếng vào lúc quá mười lăm phút chúng tôi lại quay điện thoại hữu tuyến để báo cáo tình hình cho hầm boongke chỉ huy nằm ở trên đỉnh đồi ở phía sau cách chúng tôi khoảng năm mươi bước. Bằng một giọng rất thân thiện, chúng tôi gọi “A-lô A-lô, Boongke chỉ huy!”. Tiếng “Đây” phát ra bằng một giọng ngái ngủ nhát gừng được làm dịu đi nhờ năm mươi mét dây thông tin. “Đây là hầm boongke số 7”, chúng tôi đáp lại trong khi liếc nhanh lần cuối ra phía ngoài - mọi thứ đều tĩnh lặng như tờ gợi cảm giác sợ hãi đến sởn gai ốc. “Mọi thứ đều ôkê. Tuyệt đối yên ổn. Mọi thứ đều ổn. Mọi thứ đều ở trong tình trạng không thể hoàn hảo hơn!”. Và cái giọng ngái ngủ, nhát gừng ấy ngừng một lúc lâu để lấy lại hơi rồi trả lời bằng giọng ề à, “Được, tốt, anh bạn!”.
Và giữa những cú điện thoại gọi lên đồi - và thỉnh thoảng giải lao để đứng từ trong đái ra ngoài - chúng tôi chẳng có gì thú vị hơn để làm là quan sát cái đầm lầy để giết thời gian trong lúc dùng tay mân mê dương vật để khỏi mất thói quen, xuất tinh trong lúc mơ tưởng tới ả gái điếm người lai Âu Á có bầu vú rất khêu gợi đi lưu diễn cùng một nhóm nhạc ba người Philippine và cô ả đi khách với bất cứ tay sĩ quan nào.
Nhóm người Philippine đó rất đặc biệt, James ạ. Một gã chơi cây ghi-ta Hawai như sắp long ra, một gã thổi một chiếc kèn sắc-xô giọng nam cao còn rất mới, và gã thứ ba chơi ắc-cóc-đê-ông điện - và gã đó thực sự biết kéo ắc coóc-đê-ông, James. Bộ ba này và ả đàn bà biểu diễn tại tất cả những căn cứ nhỏ, trong những phòng ăn tập thể tồi tàn, nhớp nhúa của sĩ quan, trong những câu lạc bộ nhếch nhác dành cho tụi lính trơn ở nam Vĩ tuyến 17 (người ta gọi là Khu phi quân sự) - họ nổi tiếng theo cách riêng giống như chiếc Máy Giặt Charlie huyền thoại trong Chiến dịch Guadalcanal20[1]. Vậy có bao giờ ông tự hỏi vì sao báo chí chẳng bao giờ nhắc tới họ.
Vâng, thưa ông James, cánh phóng viên cư xử tăm tắp cứ như thể toàn bộ mục đích của chúng tôi ở đó là để mua vui cho họ. Họ liếc nhìn chúng tôi bên dưới vành mũ cao bồi kiểu Úc hiệu Abercrombie & Fitch vành hất lên rất mốt ra vẻ muốn nói, “Nào chàng trai, hãy kể cho tôi chuyện gì là lạ đi! Hãy kể điều gì đó thật điên rồ để tôi có thể trích dẫn, điều gì đó máu me và bẩn thỉu, và hãy kể thật nhanh vì tôi không rảnh cả ngày đâu; tôi phải hoàn thành bài viết cho kịp hạn chót”. Nhưng hầu như người ta chỉ thấy họ ngồi ở quán ba Mark Twain ờ khách sạn Hyatt Regency tai Sài Gòn, một chân đặt lên thanh ngang để chân bằng ống chì ở phía dưới còn khuỷu tay chống lên mạt
https://thuviensach.vn
quầy và nốc từng bình đầy rượu cốc-tai si-rô phúc bồn tử và vodka với chanh tươi ướp lạnh - đám bồi bàn gọi đó là thứ đồ uống dành cho dân pêđê. Cánh phóng viên trẻ, “thời thượng” hơn, thì lén lút nuốt thuốc phiện hoặc tán thành bột rồi cho vào mồm giống như thuốc giảm đau Aspergum, nhưng bài ca của họ cũng giống hệt, “Những gã lính đần độn này không thể chết khổ chết sở được! Họ phải chết thật cao thượng! Họ tựa vào quầy ba lệch một bên người theo kiểu cao bồi rởm - tay xoay xoay cái que khuấy rượu cốc-tai - mắt nhìn xuống đôi giày dã chiến xù xì hiệu L.L. Bean hoặc đôi giày thể thao Adidas đế ba lớp sang trọng, trao đổi với nhau những điều dối trá vớ vẩn, những tin tức chiến tranh ở quê nhà. Một tay phóng viên già người gày đét mắt trắng đục viết thuê cho tuần báo thể thao Pokorneyville Weekly Voluntee Register21[2] kể, Này, Jack, tuần trước tôi đã gặp một thằng thộn da đen mắt lé, nước da sáng bóng đang đào công sự ở Cứ điểm Gee-Gaw22[3]. Ở mặt sau chiếc áo vét chống đạn của hắn có dòng chữ thêu nguệch ngoạc, Jack ạ: “Nguyên tắc 1: Không chuốc lấy phiền phức. Nguyên tắc 2: Đừng làm tao mệt óc. Nguyên tắc 3: Giết hết tù binh”. Tôi hỏi hắn là có phải hắn là dân da đen thế hệ thứ tám chăng - tôi thấy bề ngoài hắn là một gã da đen thế hệ thứ tám - thì hắn đáp (liệu ông có thể trả lời tài hơn hắn không?) “Tôi không phải là thế hệ thứ tám, tôi sinh ra ở Philly23[4]!” Chán thật, ông bạn ạ, bọn da đen này lắm thằng ngu dễ sợ”. Sau đó gã mắt trắng đục đó làm thêm hai tợp hùng dũng cốc-tai si-rô phúc bồn tử, chép môi rồi cười khoan khoái.
James, nghe những cuộc trò chuyện như vậy thì bảo làm sao người ta có thể hi vọng cái thứ phóng viên và nhà báo đó cảm kích được điều gì khó nắm bắt, bí ẩn và đáng thương đã từng xảy ra ở lục địa này kể từ khi những gã thực dân Pháp đầu tiên tới đây, giống như ban nhạc ba người của USO24[5] kia cùng với cô ả quyến rũ, gọi dục. Những gã đó không thể có mặt ở khắp mọi nơi, đúng không?
Nhóm người Philippine đó gào rít lên, cò cử và gãi ghi ta những nốt thăng hoặc nốt giáng trong suốt gần ba tiếng đồng hồ ở góc cuối phòng ăn có ánh sáng đèn điện. Toàn bộ sức quyến rũ ở âm nhạc của họ phụ thuộc vào việc bao giờ họ cũng hát sai một nốt, cho họ tiền, ném cho họ tiền rồi nói, Đây! Chết tiêt, hát tiếp đi!” Họ hát Orange Blossom Special và Home on the Range và You Ain’t Nothing but a Hound Dog và I Can’t Get No Satisfaction theo cách riêng của họ. Và họ hát những ca khúc kiểu như Good Night Irene, và I Wonder Who's Kissing Her Now và I love You a Bushel and a Peck - thứ âm nhạc chưa ai từng nghe nói tới trừ những gã lính chuyên nghiệp đầu hai thứ tóc. Và ả đàn bà đó, hầu như chỉ mặc độc một mảnh vải bé tí trên người (James, nói thực trông cô ta rất ngon mắt) lắc lắc đôi vú xinh xinh vào thẳng bộ râu của viên đại tá - Đại tá Hubbel đã kiếm cho mình một chiếc ghế của nhà ăn ở hàng trên cùng - và có lẽ tại ả nên ông ta đã phải ngồi dựng thẳng người lên. Các sĩ quan tiểu đoàn và đám ăn theo (trong đó có các cha tuyên
https://thuviensach.vn
úy và các sĩ quan trong đại bản doanh) ngồi sát nhau theo hình bán nguyệt cứ như thể họ ngồi xem duyệt binh vậy. Họ ngồi vắt tréo chân để giấu dương vật đang cửng, cố gắng tạo vẻ mặt thờ ơ và thản nhiên (kiểu cách của một sĩ quan hào hiệp), cố gắng không để chúng tôi, những con ruồi, bu lấy mật. Số còn lại của đại đội, đám lính quèn chúng tôi, đứng chen chúc nhau, người trên ghế kẻ trên bàn, có người một tay bám lên thanh xà ngang - miệng thèm rỏ dãi, nốc bia lấy từ tủ ướp lạnh và mỗi người tự tìm cách để tự thỏa mãn mình, cổ tay của chúng tôi như thể một vật đang bay bồng bềnh, James ạ; nó chỉ còn là một đốm mờ nhạt. Và ả điếm đó nhảy vặn vẹo người rồi đi lại nghênh ngang gần như trần truồng, lắc đôi vú be bé đẫm mồ hôi giống như một người đang tung hai chiếc bánh hambơgơ loáng mỡ môi chiếc nặng nửa cân và dứ cái mu be bé xinh xinh về phía trước theo nhịp đều đều và dứt khoát - ta-tada-ha humpa, ta-tada-ha-humpa, ta-tada-ha-humpa, ha-whoo! Thế rồi có hai gã da đen của trung đội phục kích số 3 bắt đầu vỗ tay theo nhịp rồi gào lên, “Nữa đi, cô em xinh tươi, xoay hai cái của nợ ấy vào râu của anh đi! Nào, Lông Mu, sao không ngồi úp vào mặt anh đây này - a ha ha”.
(Nói thật nhé, James, liệu ông có hi vọng chúng ta nhìn thấy cảnh đó trong phim ảnh hay không?)
Nhưng đặc biệt nhất là người ta nghĩ rằng công chúng không hề muốn biết về cái đêm hôm đó tại Cứ điểm Harriette - một nơi nằm ở xa hơn bãi đáp Skator-Gator và nằm rất gần một khóm những ngói nhà tranh vách đất mà tất cả chúng tôi gọi tên là Gookville - cả đại đội chúng tôi, trừ một gã duy nhất, đã bị giết. James, cả đại đội bị giết; như thịt băm. Cả đại đội trừ Paco bỗng nhiên được đề cử và biểu quyết đưa vào Ngôi Nhà Danh dự. Đại đội nghỉ đêm tại một địa điểm chật hẹp trong tâm trạng hồi hộp sợ hãi đã đụng độ rất ác liệt với một tiểu đoàn lính chính quy của quân đội Bắc Việt - xác chết, vỏ đạn, ổ đạn còn nguyên dầu mỡ và lựu đạn thối vương vãi khắp nơi, và tất cả chúng tôi đều sắp hết đạn. Trung úy Stennert ngồi xổm bên chiếc bộ đàm gào lên bằng giọng khàn khàn để thông báo tọa độ cho tất cả các đơn vị pháo binh, máy bay ném bom và trực thăng chiến đấu nằm trong tầm sóng vô tuyến, như thể việc làm này sắp trở nên vô ích thì đột nhiên - vù- không gian rung chuyển, tiếng gió luồn lách, rít, réo vù vù bởi hàng nghìn loạt đạn. Chúng tôi hầu như không nhìn thấy gì vì khói thuốc và bụi đất bị cày tung lên sau những loạt đạn lóe sáng, nhưng tất cả đều ngước mắt lên trời - cả lính Mỹ lẫn lính Việt - và hiểu rằng mỗi loạt đạn đang bay tới sẽ là loạt đạn cuối cùng còn lại do Thượng đế tạo ra, một cuộc tấn công dữ dội, giống như một trận cuồng phong chết chóc đẫm máu, một trận đại hồng thủy hủy diệt tất cả. Chúng tôi biết mặt đất ở bên dưới bụng chúng tôi (và những rừng cây, thành phố và cả chúng tôi) sắp bị tán vụn thành tro (James, chúng tôi thực sự muốn nói là bị tán thành bột), mịn tới mức người ta dùng một cọng rơm để cời cũng chẳng tìm thấy gì; tiếng rít đinh tai nhức óc ở khắp nơi, chúng tôi đoán đạn pháo đã khoét những cái hố to như nền nhà. Chúng tôi không biết những
https://thuviensach.vn
người khác của đại đội đang làm gì lúc ấy, và cả lính Việt nữa, nhưng lính của tiểu đội 2 thuộc trung đội 2 đã trao đổi với nhau cái ánh mắt rất đặc trưng ở tất cả những tình huống thảm họa trong lúc họ nhìn khắp lượt từng nạn nhân một. Lúc ấy chúng tôi tính toán rằng không thể tự đào nhanh cho mình một cái hố đủ sâu; không thể bò xuống đủ sâu bên dưới một cái gì đó dày thế này; không thể vứt súng và những đồ dùng khác rồi sợ hãi bỏ chạy khỏi đó thật nhanh hòng thoát khỏi một loạt đạn tiếp theo. Chúng tôi nhìn nhau khắp lượt như muốn nói, “Ô, mẹ kiếp! Tụi mày xem, đây không phải là trận đánh thuộc loại thông thường, quen thuộc. Một trận đánh như thế này có thể thổi bay không sót một ai”. Có Chúa chứng giám, James, có những ngày khắc nghiệt tới mức chúng tôi chỉ muốn vứt bỏ tất cả và chuồn - khi ấy chúng tôi hoàn toàn chẳng còn việc gì làm ngoài sợ hãi chờ đợi và buông xuôi. Paco cởi chiếc khăn quấn đầu rồi đổ nốt chỗ nước trong bi đông lên chiếc khăn, lau mặt và tay sau đó vắt kiệt rồi lại quấn quanh cổ - cái nút thắt nằm lệch sang một bên. Jonesy nằm duỗi người, đầu đặt trên ba lô chuẩn bị đánh một giấc quen thuộc. Hầu hết những người khác chỉ ngồi yên tại chỗ, luồn những ngón tay vào tóc để làm sao cho tề chỉnh nhất. Gallager, người có một hình xăm con rồng đỏ-và-đen trên cánh tay từ cổ tay tới khuỷu, cởi cúc áo và phủi bụi trên người rồi ngồi vắt tréo chân, hai bàn tay chắp lại đặt trên đui trong tư thế trầm ngâm. Một lát sau đó tất cả mọi người trong tầm nghe đều im bặt và một không khí im lặng hồi hộp len lỏi qua đám người đó như thể một luồng gió mạnh thình lình thổi rạp những thân cây. Rồi chúng tôi nghe thấy một luồng hơi phát ra bởi đường đi của đạn cối, giống như một luồng gió nhẹ thổi trong hang - một cảm giác lạnh buốt trên mặt, khó chịu nhưng khiến người ta tỉnh táo – như thề những viên đạn đó là những bông hoa của cây bông đang bay lặng lẽ thong thả về phía chúng tôi. Chúng tôi ngước nhìn nhau khắp lượt một lần nữa như để nói, “Không có gì nghiêm trọng đâu. Hẹn gặp lại sau. Mẹ kiếp! Lại bắt đầu rồi!”.
Và chưa kịp dứt lời, James, chúng tôi đã gào lên thật khủng khiếp và tất cả mọi thứ ở trong vòng bán kính mười hai cây số đều cháy thành than; mọi thứ đều bốc mùi tro than, xương tủy và bất cứ vật gì bắt lửa; tất cả mọi thứ - quân hàm, những mẩu thịt vụn, thư nhà, những mảnh bao cát và ba lô và tiền MPC25[1], rác rưởi của rừng và rác rưởi xác chết - tất cả mọi thứ ở bên ngoài bìa rừng trông giống như một bãi nôn màu gỉ sắt.
Vâng, thưa ông James, chúng tôi gào đến mức hai hòn dái dồn ngược, ép lên cơ hoành, gào rất nhiều những câu chửi rủa tục tĩu. Khi những vật dơ dáy đó nổ, chúng tôi biến mất, chỉ còn lại như một luồng khói; đúng hơn, chúng tôi biến mất như đụn cát vì một cơn gió mạnh thổi đều đều từ ngoài khơi - lần lượt từng hạt cát mắc dịch. Chúng tôi biến mất giống như người ta thả cục đất vào một cốc nước to trong vắt - những hạt đất tạo thành vệt dài ở phía sau cục đất cho tới khi cục đất tan hết và dưới đáy cốc chỉ còn lại một cái màng xoáy. (James, điều đó không có nghĩa là không đau đớn. Ô, đó là cảm giác nhột
https://thuviensach.vn
nhột nhưng rất đau đớn. Đầu tiên là cảm giác có một vật gì đó liên tục vỗ nhẹ lên đỉnh đầu - giống như ông bác béo phị vỗ vỗ lên mũ của đứa cháu trong lúc ngửa hẳn ra phía sau và khoác lác những câu vớ vẩn rằng ông tự hào biết bao về cái cách chăm chỉ việc nhà của đứa cháu. Nhưng sau đó là một cái gì đó quất cực mạnh - giống như thằng nhà quê xấu trai ở lớp cuối trung học lao vào trong phòng thay đồ rồi quất mạnh cái góc của chiếc khăn tắm ướt sủng lên đầu mọi người. Một cú đau điếng!
Ưi! Chúng tôi bị hất ngược về phía sau và mặc sức gào lên thật khủng khiếp đến nỗi các anh chị em tín hữu ở nửa bên kia của trái đất phải bỏ chạy khỏi buổi giảng đạo thức tình niềm tin Phúc Âm của Linh mục Doo-dah26[1]- chúng tôi muốn nói là họ lao vọt ra, James à; chúng tôi muốn nói là họ trong lúc vội vã đá làm bong lớp vécni của cánh cửa ra vào. Vị linh mục phúc hậu bước tới bước lui ở phía sau lan can của bục giảng kinh, ông hét to và trở nên phấn khích, đập hai bàn tay to vâm nung núc thịt vào với nhau, cảnh cáo những kẻ có tội - bim-bam-bum - và cầu xin lòng khoan dung của Đức Jesus Nhân từ. Vâng, thưa sếp, tiếng gào của chúng tôi đập vào mái tôn như cơn dông mưa đá, theo định nghĩa của từ điển, rồi lao xuống qua đường thông gió của lò sưởi than – “A-su!” . Những kẻ có tội đó giật nẩy người lùi lại hai ba hàng ghế như thể người anh em Doo-dah của họ đã ném vật gì nóng rẫy vào mặt họ. Họ giơ tay lên trời, vẫy tay và thét to, “Xin chúc mừng Thiên Chúa”, “Xin được như nguvện”, “Xin cảm tạ Thiên Chúa!”, “Hãy cứu vớt chúng con, Đức Jesus!”. Sau đó họ vơ cuốn Kinh thánh quăn góc và chiếc khăn choàng đan thủ công được truyền lại đời ông bà cụ kỵ rồi biến khỏi đó. Vâng, thưa ông James, tối hôm đó rất nhiều người trong số anh chị em lương thiện của chúng tôi đã thực sự xúc động vì được Chúa ban ơn. Và người anh em Doo-dah bị bỏ mặc một mình, ông ta vẫn đứng giữa đám bụi đang tan dần, từ tốn gãi gãi cái đầu hói bóng loáng, vẻ trầm ngâm - ông ta tự hỏi chính xác bằng cách nào mà ông ta đã làm được điều kỳ diệu này?
Ôi, chúng tôi đã tan biến rất nhanh, tất cả trừ Paco, nhưng tiếng gào của chúng tôi xuyên thủng tầng ô-dôn, xuyên qua ánh sáng Bắc cực nom giống như tấm rèm che của quán cà phê, và cứ tiếp tục xuyên mãi; được giải thoát khỏi tội lỗi, mới tinh, còn trinh nguyên - và bằng một tần số hoàn hảo, tiếng gào đó xuyên thấu tới tận Vũ trụ Bất diệt của Chúa. Ở tít tận nơi đó, hơi nóng sẽ làm nhãn cầu mắt của chúng tôi khô nhăn nheo lại giống như những quả nho sấy, ở nơi đó hơi lạnh sẽ khiến cho hơi thở của chúng tôi bị đông lại như những tấm chất dẻo.
Và con người vẫn chết từ bao thiên niên kỷ nay (James, tất cả chúng ta đều phải chết), cho tới khi chúng tôi chỉ còn là một hạt bụi nhỏ hơn cả bụi phấn, mịn tới mức bụi phấn vẫn còn là thô, giống như một bãi liếm27[2] hõm xuống nhẵn nhụi - nhưng tiếng gào thét làm đông cứng mạch máu đó vẫn tiếp tục khua vang khắp Đất trời, giống như tiếng kêu một con ruồi bọ muỗi mắt trong một toa xe chở hàng, chỉ có điều vang to hơn.
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
Kế hoạch kỳ diệu của Chúa
Anh lính Paco của chúng tôi không chết, lẽ ra chắc chắn hắn phải chết mới đúng, hắn nằm ngửa mặt lên trời, người đầy những vết rạch sâu, những vết bỏng giộp to đầy nước, và đôi chân bị vỡ, vỡ vụn. Hắn đầm mình trong vũng bùn trơn mịn đó, bùn bám đầy người hắn và những vật xung quanh, và đã khô thành một lớp vảy lẫn đất cát bốc mùi khó chịu. Hắn nằm ở đó bất động suốt đêm và cả ngày hôm sau, rồi nửa ngày hôm sau nữa, hai gót chân bị móc vào một rễ cây leo lắm mấu bị cháy gần thành than cứng. Trong cái đêm dài đầu tiên ấy, nhờ hơi sương ngấm qua lớp quần áo rách tả tơi hắn tỉnh lại trong bóng đêm và không hiểu chuyện gì đã xảy đến với mình.
Mình bị thương rất nặng, hắn nghĩ thầm, nhưng hắn không thể cất nổi lời hay thậm chí hiểu được điều ấy mà chỉ đoán vậy khi nhìn xuống người hắn, nhìn thấy rõ từng vết cắt rộng hoác vì đạn, từng vết cháy miệng vết thương nhăn nheo lại, từng chỗ xương gãy vụn.
Đầu tiên hắn dồn toàn bộ sự chú ý đáng kể để lắng nghe - tiếng khóc, tiếng thở khan nặng nhọc, tiếng những người bị thương khác đang khe khẽ hỏi xin nước uống, kêu viên y sĩ tên Jigs, cầu xin lòng nhân từ của Chúa. (James, có Chúa chứng giám, ông sẽ thấy mọi thứ nghe được trên đời này đều là vớ vẩn hết cho tới khi ông nghe thấy những âm thanh khe khẽ rõ rệt từng tiếng một trong đêm tối, “Cứu tôi với” - mặc dù người ta nói rằng tiếng kêu của loài ngựa bị thương còn tệ hơn). Paco chờ đợi, hai mắt nhắm lại, hắn nín thở vì sợ run người khi nghe thấy những giọng khan và the thé; hắn kiên nhẫn chờ đợi một tiếng thì thầm đáp lại. Nhưng dĩ nhiên hắn chẳng nghe thấy gì.
Hắn nằm như vậy ở đó, gần như nằm im vì có cảm giác khó chịu - có một vật gì đó ngọ nguậy - cho tới khi hắn hiểu ra đó là một sinh vật, tuồng như là một con thú nhỏ có bộ lông xù cứng đang bò tới chỗ hắn để tìm hơi ấm - rồi hắn ngạc nhiên nhìn lên vòm trời hun hút tối đen, hắn nhìn không rõ vì mắt bị vấy đầy đất bùn lẫn với máu. Buổi sáng hôm sau, mặt trờỉ lên, nhanh chóng làm tan sương mù, và tia nắng chiếu xiên vào mặt hắn, nhưng hắn không thể nhấc nổi cánh tay ra khỏi bùn để che mắt, không thể nghiêng đầu sang một bên. Suốt cái ngày oi bức và chói chang hôm đó, ánh nắng rọi vào mắt hắn xót như muối, và nước rỉ ra từ vết thương nát bét đau buốt trên đầu bết vào tóc và da đầu khiến hắn ngứa kinh khủng. Vào quãng giữa chiều, người hắn đầy ruồi bọ bị thu hút bởi mùi hôi thối bốc ra từ những chỗ lở loét thịt lộ ra đã bắt đầu nhiễm trùng chỉ cần chạm nhẹ vào là trào mủ - ruồi trâu màu đen, giòi bé tí màu trong suốt, muỗi mắt cắn như véo mạnh.
Trong suốt đêm thứ hai và nửa ngày hôm sau, Paco nằm đó hầu như không nhúc nhích, người nóng hầm hập vì sốt và gần như mê sảng. Đại đội
https://thuviensach.vn
Bravo (họ không được trang bị gì nhiều) và tay y sĩ quân y trẻ tuổi người khẳng khiu phờ phạc đã tới để tìm những người còn sống sót của đại đội Alpha, và mãi gần trưa họ mới tìm thấy Paco khi hắn đang thoi thóp.
Tay y sĩ quân y của Đại đội Bravo tìm thấy Paco sẽ kể đi kể lại câu chuyện này nhiều lần (nhiều năm sau đó) tại quán rượu Weiss. Đó sẽ là lúc cuối ngày. Ánh sáng trong vắt sẽ chiếu qua những vuông cửa sổ mặt tiền quay về hướng bắc của quán rượu, bậu cửa lốm đốm những giọt nước và đặt rất nhiều những chậu phong lữ thảo, vi-ô-lét châu Phi và tía tô tây thân dài ngoẵng có vẩy sù sì. Ánh sáng sẽ chạm vào mép những chiếc bàn thép, vào mặt lưng uốn cong của những chiếc ghế làm bằng loại gỗ có thể uốn được, và sẽ tạo ra một vệt ánh sáng sắc mịn trên mặt sàn gỗ ghép đầy những vết trầy xướt. Tay y sĩ quân y, giờ đã già hơn, mập ra và trông tiều tụy đi, thường ngồi ngả hẳn lưng trên một chiếc ghế dựa kêu cọt kẹt và ăn trứng luộc kỹ đã để lạnh cứng (mỗi miếng cắn lại được chấm vào muối và mù-tạt cay xé lưỡi). Trọn cả buổi chiều và buổi tối gã sẽ uống hết vại bia này đến vại bia khác trộn lẫn với những cốc nhỏ rượu whiskey hoặc rượu trắng - một thứ hổ lốn nặng nhưng dở ẹc - và gã sẽ uống cạn một hơi.
Tay y sĩ quân y sẽ bắt đầu trong lúc liếm qua bọt bia ở mép, “chúng tôi sống hai tháng liền trong rừng, lần đó ở mãi tận trong một khu Rừng Sâu”. “Và trong suốt mười chín ngày đầu tiên mỗi ngày mắc dịch chính tôi là người đã di tản những binh lính tử trận, những xác chết, ông có hiểu không?, và cả những người bị thương. Chẳng ngày nào chúng tôi không nhận được lệnh”. Lần nào gã cũng nhắc lại y nguyên như vậy khi kể câu chuyện, ngừng một lát để rót rượu whiskey vào một cái cốc nhỏ rồi đổ tất cùng với đá vào cốc bia của gã. “Họ ra lệnh cho chúng tôi bao vây một đại đội Bắc Việt, và lính ngã xuống như ruồi, Jack ạ - cái nóng khủng khiếp khiến người ta kiệt sức, những cuộc phục kích thông thường, những gã bắn tỉa, mìn định hướng của Trung Cộng to như cái lốp máy kéo, những thằng ngốc lao vào chỗ lửa đạn vì tưởng mình là anh hùng. Những gã đầu bị vỡ toác ra như quả óc chó, máu chảy ra từ tai và da đầu. Có gã ngực bị bẹp nát vì dính phải những bẫy mìn đáng sợ. Những gã chân bị cụt đến tận bẹn, từ chỗ đó ngược trở lên bị mảnh đạn găm kín vì dính trọn một trái lựu đạn bắn bằng súng phóng lựu của Trung Cộng - loại súng phóng lựu chống tăng. Mẹ kiếp! Chỗ nào cũng thấy máu me tởm lợm và nguời tôi chỗ nào cũng thấy máu. Đến giờ nhiều đêm tôi vẫn nằm mơ thấy cảnh tuợng đó - trong ác mộng, tôi thấy những con quái vật bốc ra mùi rất khó chịu, những cỗ máy dơ dáy nom giống nhu những vòng ngựa gỗ đang cố chộp lấy tôi, những thầy phù thủy sùi bọt mép một mắt ác hiểm khiến tôi rùng mình sợ toát mồ hôi hột giống nhu vừa uống một liều thuốc chữa sốt rét.
“Cứ cách một quãng thời gian nào đó, đại đội lại thức dậy vào buổi sáng, mỗi buổi sáng chết tiệt, và đợi những chiếc trực thăng hạ cánh tại một nơi nào đấy. Có những ngày chúng tôi không phải rời khỏi chỗ dừng chân nghỉ đêm. Thật khủng khiếp, có gã ngốc tội nghiệp đang ăn sáng - và thế là, Jack
https://thuviensach.vn
ạ, chỉ còn sót lại mỗi chiếc thìa nhựa của hắn. Tôi vừa băng bó thật nhanh những gã tội nghiệp đó để đưa lên trực thăng vừa nói nhỏ, “không, cậu không đuợc chết, đồ ngốc”. “Hãy tin tưởng tôi!' và họ mỉm cuời đáp lại “Cám ơn” cứ như thể họ thực sự tin vào câu nói vớ vẩn đó, rồi mắt họ trợn nguợc (“Cám ơn”), rồi đầu họ đổ oặt sang một bên (“Cám ơn”) rồi họ thiếp đi vì sốc và chết truớc khi trực thăng di tản tới chỗ chúng tôi. Và như thuờng lệ viên đại úy bao giờ cũng nổi cơn điên, ông ta gào những câu bậy bạ khó hiểu qua bộ đàm; sau đó ông ta tức giận ném ống nghe xuống đất rồi dùng chân đá tung nó lên rồi ném mũ xuống đất và giẫm chân lên. “Với lũ mắc dịch này thì bao giờ cuộc chiến chết tiệt mới chấm dứt”, ông ta định nói tới những chiếc trực thăng di tản.
“Và đôi khi trực thăng đến kịp nhung chẳng có gì chắc chắn. Chúng tôi đưa một gã lên trực thăng thì mười phút sau viên đại úy nhận được tin qua bộ đàm rằng gã đó đã DOA28[1]- đến nơi thì đã chết - đã ngoẻo trên đường đi. Chúng tôi đứng đợi tại chỗ, không hề muốn nhận được tin này. Viên đại úy cho gọi tôi tới rồi bỗng nổi cơn điên tiết quở trách thái độ gây rối trật tự, mắt ông ta long lên sòng sọc và nước bọt ở mồm có lẫn máu vì nướu răng của ông ta bị viêm. Ông ta điên hẳn rồi.
“Mỗi ngày, mỗi một ngày chết tiệt đều có người chết trong lúc đang chiến đấu, Jack à” tay y sĩ quân y sẽ nói và gật đầu trong lúc hất hàm về phía người phục vụ quán. Người phục vụ sẽ đặt một cái cốc dưới cái vòi rồi ấn xuống. “Sáng, trưa, và tối. Mẹ kiếp”.
“Rồi một tối chúng tôi nhận được tin Đại đội Alpha đang giao chiến rất ác liệt, họ bị tấn công và đã đánh trả, đúng lúc ấy có tiếng bùm-bùm-bùm! Một tiếng động to khác thường - lúc đó tôi nghĩ đó là một cuộc pháo kích, nhưng tiếng động đó chắc hẳn phải phát ra từ một cái gì đó khủng khiếp chưa từng thấy. Chúng tôi nhận được một cú bộ đàm của Đại tá Hubbel ra lệnh tới đó để kiểm tra xem sao vì ông mất liên lạc qua bộ đàm với Đại đội Alpha. Viên đại úy đứng dậy. “Mẹ kiếp”, ông ta nói. “Sao lão khốn già đó không một lần chịu nhấc đít nhảy lên chiếc trực thăng rồi tự mình làm lấy. Sao lão không thể chọn người khác để thay thế. Thôi nào, tất cả đứng dậy!” ông ta ra lệnh, “Lên đường” rồi đi một vòng lấy chân đá giục mọi người đứng lên.
“Dù sao viên đại úy cũng đang thấy sốt ruột, ông ta thực sự là một người hăng hái tới mức phát ghét - đang hi vọng được tặng tấm Huy chương Trái tim Tím và những huy chương khác - chúng tôi mặc trang phục rồi xuất phát vào lúc nửa đêm. Ờ, chết tiệt, chúng tôi mới đi khỏi chỗ đó được khoảng hai trăm mét thì nhóm tiền trạm rơi vào ổ phục kích - chúng tôi tiêu diệt ba tên lính phục kích bằng một cơn mưa lựu đạn. Nhưng chúng tôi có một người bị giết và hai người bị thương. Đại úy rất cáu và lại nổi cơn điên tiết, và mãi tới rạng sáng chúng tôi mới lại xuất phát. Chúng tôi sục sạo khắp khu rừng đéo nào đó - Rừng Sâu, ông có hiểu không - suốt đêm hôm đó, ngày hôm sau, một đêm nữa và cái ngày hôm đó. Và chúng tôi liên tục bị lạc đường. Chó
https://thuviensach.vn
thật, Jack, chưa thấy ở đâu nhiều gã ngốc như ở Đại đội Bravo. Đại úy mở nắp chiếc la bàn như cứt dùng chung của đại đội, đặt nó lên tấm bản đồ của đại đội để tìm phương hướng, trố mắt nhìn lên mặt đồng hồ rồi nói một mình, “Cái vật mắc dịch gì thế này? Hàng lĩnh thưởng khi mua Cracker Jack29[1] à?”, ông ta đập chiếc la bàn vào đùi như thể nó bị đầy nước bên trong và có
thể làm thế sẽ có tác dụng. Sau đó ông ta lại nổi cơn điên tiết thứ hai, đá thúng đụng nia rồi uống một ngụm nước cho dịu cơn tức giận và chúng tôi lại tiếp tục lên đường”.
Tay y sĩ quân y sẽ bóc vỏ những quả trứng luộc già, sau đó cẩn thận bẻ quả trứng thành hai phần gần như bằng nhau.
“Ờ, cuối cùng vào cuối buổi sáng ngày thứ hai thì chúng tôi tìm thấy Cứ điểm Harriette và những gì còn lại của Đại đội Alpha, tức là những gì chỉ còn là một cái mùi mà tôi không thể so sánh với bất kỳ mùi nào tôi đã từng ngửi thấy từ trước. Không còn gì sót lại ở đó, Jack à, ngay cả cái ấp và cái lô cốt cũ kiểu Pháp, chỉ còn duy nhất một anh chàng đó, cái anh chàng khốn khổ khốn nạn đó. Toàn bộ Đại đội Alpha đã bị tiêu diệt. Toàn bộ đại đội, chỉ trừ một mình anh chàng đó, đã bị tấn công và tất cả đều bị giết trừ anh chàng này. Vậy, sao hắn không chết? Hắn đã bị thương từ một ngày rưỡi trước đó. Sao hắn không chết vì mất máu? Sao hắn không quăn queo lại vì phơi nắng giống như một miếng thịt mỡ xông khói được rán khô quăn? Toàn bộ chỗ đó bốc mùi hôi thối. Hắn bốc mùi hôi thối. Tôi thường tự hỏi tại sao lúc đó chúng tôi lại không đi tiếp. Bọn chúng tôi đứng tại vị trí tất cả đều quá biết đó từng là hầm chỉ huy tại Cứ điểm Harriette - tất cả đều đã từng có thời gian ở Harriette, ông có hiểu không. Chúng tôi quan sát kỹ càng khắp xung quanh - hầm, hào đều bị biến mất, cây cối hầu như không còn - và chúng tôi hiểu rằng sẽ không thể lượm đủ những gì còn lại của những gã tội nghiệp này để nhét đầy một tá sọt bé”. Tay y sĩ quân y sẽ ngả người trên ghế rồi ngước nhìn người phục vụ đang nghe câu chuyện dễ đã đến hàng trăm lần, đang từ tốn nhìn quanh quầy ba của anh ta và đếm số cốc mà tay y sĩ quân y đã nốc cạn.
Vào cái ngày hôm đó tại Cứ điểm Harriette, viên đại úy (một người có cơ thể vạm vỡ và đầu óc chín chắn, James, nhưng vì vận xui triền miên nên ông ta dễ mất bình tĩnh, dễ tức giận, dễ bối rối và cáu kỉnh, đã tức tối đến phát điên) đứng bên cạnh tay y sĩ quân y và nhân viên bộ đàm cùng những người khác nữa bên cạnh vị trí của hầm chỉ huy, ông ta đứng thăng bằng trên một khúc thân cây, hai ngón tay cái ngoắc vào dây ba lô - chiếc ba lô lèn chặt mọi thứ cao ngất ngưởng như mọi chiếc ba lô khác trong đại đội. Ông ta trân trân nhìn khắp bãi tử thi tan hoang - rùng mình nổi da gà như lên cơn sốt - trong lúc tự nhủ “Chết như thế này thì thật khốn khổ, ghê tởm quá, đúng là đen đủi đéo chịu được, xin Chúa tha thứ, đội ơn Đức Mẹ Đồng trinh Mary rất thánh, Nữ hoàng của Thiên giới, Đức Mẹ đã hoài thai Thiên Chúa, ít nhất lần này vẫn chưa phải là con và lính của con”.
Tay y sĩ quân y sẽ nói, tiếp tục kể trong lúc phết mù- tạt lên miếng lòng
https://thuviensach.vn
đỏ trứng, “và khi chúng tôi tìm thấy anh chàng còn sống trong trận đánh ác liệt đó thì hắn đang lên cơn sốt cao, ướt đẫm mồ hôi, hắn đang nói thì thầm điều gì đó không thể nghe rõ và kêu khóc. Trên người hắn không còn cái thẻ bài nhận dạng bắt buộc phải có nên có trời mới biết hắn là ai. Nhưng tại sao hắn còn sống, không một ai có thể đoán nổi. Tôi không biết, và tôi cũng không muốn tìm hiểu. Hắn ngước nhìn tôi, cố gắng gây thiện cảm hay sao ấy. Hắn biết mình bị thương rất nặng. Chẳng cần giỏi giang gì cũng biết được điều đó. Đôi chân của hắn bị xé rách nát giống như người ta bẻ cành củi để nhóm lửa đến nỗi lính cứu thương của chiếc trực thăng di tản phải thả hắn vào một túi đựng tử thi để không bỏ sót cái gì trừ cái lỗ đít của hắn - mặc dù hắn vẫn còn con cu và hai hòn dái, ông hiểu tôi nói chứ. Toàn bộ những gì còn lại trên người hắn lúc này nom giống như người ta dùng một cái vồ có cán dài để dần miếng thịt cho mềm.
“Tôi nhìn kỹ anh chàng đó, ruồi và bọ phủ bám dày đặc trên người khiến cơ thể chỉ còn là vật gì đó không rõ nét, Jack à - giống như một vật gì bị rối tung. Tôi thấy ớn đéo chịu được”.
Tay y sĩ quân y trẻ tuổi đứng cạnh đại úy và những người khác, tất cả cúi xuống nhìn Paco, và đột nhiên tay y sĩ quân y cảm thấy trong người gợn lên một cảm giác chán chường oán giận khiến mặt gã trắng nhợt, và gã tức giận, thấy bất lực.
“Tôi quay sang một y sĩ khác trong đại đội, cái tay từ chối nhập ngũ vì lương tâm - một tân binh mới toanh - nói, “Mẹ kiếp, Jack, hay cậu tên gì ơi, cậu hãy làm đi. Tôi thấy nguời không khỏe, tôi phát ớn đéo chịu nổi vì phải ôm những thằng chó này. Tôi chịu đựng thế đủ rồi. Tôi sẽ xin nghỉ...”.
Nhưng tay lính từ chối nhập ngũ do bực bội và ngượng đã vừa làm lóng ngóng vừa chửi thề, nói chung hắn cứ làm rối tung cả lên đến nỗi tay y tá thứ nhất phải gạt hắn sang một bên để làm nốt, áp dụng các phương tiện sơ cứu mà anh ta có để buộc garô và mọi thứ khác. Anh ta hỏi Paco những câu hỏi bằng một giọng khàn khàn, “Cậu là ai? Có chuyện gì đã xảy ra ở đây? Cậu là ai? Có chuyện quái gì đã xảy ra ở đây?”. Nhưng Paco chỉ khóc, nước mắt tuôn lã chã - mồm miệng hắn đầy nước mắt nóng hổi. Trong lúc chờ trực thăng tới, tay y sĩ ngồi sụp xuống bên cạnh Paco để lau khuôn mặt đen sạm, phồng rộp vì nắng mặt trời của hắn bằng một góc vạt áo thấm nước khiến má của hắn đau nhói và cạo những hạt sạn ở những chỗ thịt trơ ra trên đôi môi nứt nẻ đang rỉ máu của hắn.
Khi càng của chiếc trực thăng di tản trượt trên mặt đất bùn tại khu vực Cứ điểm Harriette rồi dừng lại, đầu tiên là ngập đến mắt cá và sau đó là ngập đến ống quyển, đám lính cứu thương của chiếc trực thăng nhìn tay y sĩ của Đại đội Alpha bằng một cái nhìn thoáng qua đầy vẻ thương hại. Tay y sĩ quân y nhìn đám lính cứu thương của trực thăng di tản (mặc áo T-shirt màu ô-liu nhạt, quần dài và dày cao cổ dã chiến sạch sẽ, được chăm sóc chu đáo) đang nhẹ nhàng đặt Paco vào trong một chiếc túi đựng tử thi kéo phécmơtuya kín tới thắt lưng. Gã giúp hai người của Đại đội Bravo khuân cáng lên trực thăng
https://thuviensach.vn
rồi giúp họ cố định chiếc cáng lên sàn trong khoang chứa của trực thăng. Sau đó gã quay lại chỗ chiếc ba lô và túi đồ cứu thương của mình, giày gã kêu lạo xạo trên mặt bùn đã cứng như thể một cánh đồng đóng băng sau trận bão tuyết. Chiếc trực thăng bốc lên cách mặt đất chỉ vài xăngtimét, dừng lại lơ lửng trên không rồi chúc mũi xuống để lướt một vòng cung rộng về phía trước sau đó bắt đầu bay lên cao, liên tục tăng tốc và độ cao. Lính cứu thương đứng bên cạnh cáng của Paco, cố làm dịu bớt những tiếng khóc nức nở bằng giọng khàn đục của hắn, họ nhìn xuống mặt đất cát mịn và những cái đầu trần và lưng trần của lính thuộc Đại đội Bravo đang đi thu nhặt những thiết bị và dụng cụ chiến đấu bị bỏ lại, lượm những mảnh vụn và khúc thi thể để cho vào các túi đựng tử thi. Chiếc trực thăng lượn một vòng rộng trên Cứ điểm Harriette và cánh rừng để thoát ra khỏi khu vực bốc mùi hôi thối, bay là là bên trên những ngọn cây, làm cho chúng giống như những cơn sóng cuộn. Trong lúc trực thăng đang bay trên trời thì lính cứu thương, bằng bàn tay kiên quyết và chính xác, nhặt những con bọ và mẩu gỗ vụn ra khỏi những vết thương trên người Paco, họ nghĩ, “ít nhất thì cũng không phải là một tá” - sàn trực thăng vấy đầy máu và mùi hôi thối của rừng già lẫn vào quần áo, râu, tóc của họ trong suốt cái ngày mắc dịch đó.
Hai y sĩ của đại đội Bravo đứng quanh quẩn bên máy bộ đàm, họ nghĩ rằng sắp sửa nghe tin anh lính Paco của chúng tôi đã chết trên trực thăng - tại sao cái gã tội nghiệp thứ hai mươi này lại khác biệt kia chứ? Mệt mỏi, đờ đẫn, nghẹt thở vì nóng, tâm trạng lo lắng vì chờ đợi, tay y sĩ quần y tin chắc sẽ nghe thấy thông báo rằng tay lính được tìm thấy của Đại đội Alpha được chở trên chiếc trực thăng người đã nát bét tơi tả như những bông hoa công phét-ti dính máu bay trước gió, chỉ có lỗ đít của hắn là còn nguyên vẹn, bởi vì gã nhìn thấy cái cách tay phi công cho chiếc trực thăng bay hết tốc độ, như bao giờ cũng vậy, để quay về bệnh viện dã chiến, cánh cửa của chiếc trực thăng mở to như miệng cống. Tay y sĩ quân y tưởng tượng hoài trong đầu cái cảnh lính cứu thương của chiếc trực thăng di tản nhiều ngày sau đó sẽ bực bội than phiền về máu vãi đầy sàn máy bay - mặc dù làm gì có nhiều máu như thế - họ bình luận với nhau về anh chàng tội nghiệp của Đại đội Alpha đã sống sót trong một trận đánh khủng khiếp và sau hai ngày nằm một mình ngoài trời, và “trông hắn như một đống thịt nát nhừ”. Rồi sau đó, tay y sĩ quân y còn tưởng tượng rằng sau khi phần lớn cơ thể của hắn đã bị ném vào cánh quạt quay tít của động cơ, lính cứu thương sẽ lầu bầu, miệng méo xệch, “Đánh cuộc là anh ta sẽ không qua khỏi. Cam đoan anh ta sẽ khó lòng đi qua được bộ phận phân loại thương binh. Nhất định anh ta sẽ chết vào quãng giờ ăn tối”.
Buổi tối hôm đó trong sự riêng tư kín đáo và bóng tối yên tĩnh (dưới cơn mưa rào gió mùa mãi không ngớt, tất cả lính của đại đội đều ngồi với vẻ mặt rầu rĩ và không thể ngủ được, và thỉnh thoảng tay y sĩ quân y lại liếc nhìn chiếc bộ đàm, gã vẫn chờ tin tức thông báo anh lính của Đại đội Alpha đã chết - sự chờ đợi lúc này đã khiến tay y sĩ quân y mỗi lúc một thêm khó chịu
https://thuviensach.vn
và gã đã lên cơn đau tim. Những cơn đau co thắt dữ dội kéo dài ở ngực, hơi thở bị ngắt quãng, cảm giác tê tê bì bì dọc cánh tay trái và vùng mặt bên trái, và cơn thở dốc kịch phát kéo dài một cách đáng sợ. Gã thở hổn hển, mặt nhăn nhó và bối rối không hiểu cơn đau này là gì - cơn đau ấy cứ như thể có ai đó thò tay bóp quả tim của gã - nhưng sau đó gã đoán ra, một cơn đau tim, không gì tệ hơn, một tình trạng nghẽn mạch máu; ông tưởng tượng nổi không?Sáng hôm sau, trong ánh nắng rực rỡ và ấm áp của buổi sáng, khi những đám mây gió mùa ở phía tây đang tan dần, tay y sĩ thức dậy, vừa ngáp vừa duỗi chân tay (cảm giác buồn nôn dữ dội do chứng nghẽn mạch vẫn không thuyên giảm), rồi gã nhìn khắp lượt, bộ mặt ủ ê, cảnh chết chóc và đổ nát, và những đồng đội của gã tại Đại đội Bravo (ai trong số họ sẽ chết hôm nay?). Và, James, gã nhìn cứ như thể lần đầu tiên gã nhận ra sự ghê tởm hiển nhiên, tuyệt đối của nơi này - sư ghê tởm thô thiển thấm vào mọi thứ, sự ghê tởm sống sượng và khiến người ta bàng hoàng. Gã đột nhiên có cảm giác rút cục gã sẵn sàng thú nhận rằng dù gã làm gì, dù gã làm được bao nhiêu thì việc làm của gã cũng chẳng bao giờ đủ; dù gã làm việc cố gắng và gọn gàng hết sức - bằng thái độ nghiêm túc thực sự - người bị thương vẫn chết (ông chỉ có thể buộc garô chặt ở một mức độ nào đó thôi, James; ông không thể tiếp nước cho vết thương ở bụng; ông không thể tiêm một liều moóc-phin cho người bị thương ở đầu). Gã đứng dậy, ở trần ở phần trên, quai đeo của chiếc quần dài ướt sũng trễ xuống, đôi tất len dính sát vào da chần trắng bợt vì nước, gã cố nén những giọt nước mắt chán nản chi chực trào ra. Gã bước tới một vũng nước bùn nông ở giữa khu hạ trại rồi ngồi xổm trên vũng nước, cúi xuống múc liên tục từng vốc nước đầy - thứ nước sền sệt vì tro và bùn - rồi ép chặt bàn tay vào mặt rồi vỗ vỗ và giật da mặt giống như người say rượu thường làm. Gã thục tay sâu hơn xuống vũng nước (bùn trôi tuột giữa các ngón tay của gã) rồi siết thành nắm đấm, thậm chí ép chặt các khớp tay để có lực đòn bẩy, cho tới khi toàn bộ những gì gã còn lại trong bàn tay chỉ là hai cục bùn nhỏ ướt nhẽo bốc mùi đặc trưng của xác chết.
(Và tay y sĩ quần y đang ngồi bên chiếc bàn trong quán rượu Weiss, James, sẽ bất ngờ xòe bàn tay ra rồi đặt ngửa tay lên mặt bàn rồi nhìn cục chai màu vàng và những đường vân tay dính đầy dầu máy. Mỗi lần kể chuyện gã đều nhớ lại những cục bùn màu xám được tạo ra trong bàn tay nắm chặt và gã sẽ tưởng tượng thấy mùi của những xác chết bốc lên mặt gã giống như hơi nóng phả mạnh từ một bếp lò).
Gã thả những cục đất trở lại vũng nước đục rồi đứng lên và bỏ đi chỗ khác. Và không kể cho bất kỳ ai về cơn đau tim của mình - ngoan cố chịu đựng cơn buồn nôn vẫn chưa dịu đi - tay y sĩ quân y nhặt túi đồ cứu thương và chiếc ba lô ướt sũng rồi đi thẳng tới chỗ đại úy để thông báo ý định nghỉ việc của mình.
Đại úy đang đứng ăn một miếng bánh mì của khẩu phần C - một cái cục nom giống một vật nặng và rắn, có kích thước gần bằng một chiếc bánh xốp,
https://thuviensach.vn
James ạ, bên ngoài lấm tấm những hạt bột mì, ăn vào thấy nhạt nhẽo, được đựng trong một cái hộp thiếc nhỏ màu xanh lá cây - và uống chung với ba hay bốn lính khác một cốc nước khử trùng clo rất nặng của căng-tin (nước có vị đắng của i-ốt khiến chúng tôi nhổ nước miếng suốt ngày cũng không sao hết được trong miệng cái dư vị tanh tanh của thuốc). Những lính khác thấy tay y sĩ đi đến chỗ đại úy thì bỏ đi chỗ khác, biết chắc rằng gã đó tới để nói chuyện giữa đàn ông với nhau. Và khi tay y sĩ chỉ còn cách đại úy vài bước chần, gã quẳng cái túi cứu thương xuống đất rồi bắt đầu ngay theo cách tốt nhất mà gã có thể làm: “Tôi xin nghỉ việc. Khi cái trực thăng chết tiệt đó tới đây, tôi sẽ đi và ông không thể ngăn tôi. Tôi sẽ không quay lại đây và ông không thể bắt tôi quay lại. Tôi thà chịu khổ vì bị giam tại LBJ30[1]”, tay y sĩ nói cứ như thể gã đã học thuộc lòng, rồi nhìn thẳng vào mặt đại úy lúc này đã ngừng ăn, cầm hộp bánh mì ở trước mặt bằng ngón tay cái và hai ngón tay đặt ở trên, vụn bánh bị ướt dính trên các ngón tay (James, tay y sĩ định nói tới trại giam của quân đội tại Long Bình - chúng tôi gọi là LBJ). “Tôi thà chịu khổ vì bị giam tại LBJ”, tay y sĩ nhắc lại bằng giọng đột nhiên to và dứt khoát. “Tôi không nói bậy bạ đâu và tôi không điên - tôi sẽ không làm y tá quân y cho đại đội của ông nữa!”. Viên đại úy kiên nhẫn lắng nghe những câu nói thì thầm như đớp hơi đó - tay vẫn cầm cái hộp bánh mì giơ ra trước mặt - trong suốt thời gian đó mắt ông ta vẫn nhìn vào bộ mặt đau khổ của tay y sĩ, và ông ta không phản đối.
Đại úy đáp, “Được. Khi trực thăng tới cậu hãy lên đó và trở về căn cứ. Mặc áo vào. Cầm theo túi cứu thương; mang theo ba lô của cậu; để lại khẩu súng ngắn” rồi chỉ tay vào khẩu 45 li đeo ở hông của tay y sĩ - khẩu 45 li đó, James à, đã được truyền tay giữa các y sĩ của đại đội trong suốt bốn năm sau đó. Để khỏi phải làm công việc giấy tờ, tay y sĩ được phân công làm y sĩ tại bộ phận cấp cứu dã chiến tại khu vực bảo vệ vòng ngoài của doanh trại cố định của căn cứ tại Phuc Luc - một thứ nhân viên văn phòng trực ca đêm - một công việc không đòi hỏi gì nhiều; đại úy nghĩ thầm “Hãy chiều theo ý thích của cái thằng của nợ này”.
Một y sĩ trẻ hơn được gọi tới. Tay y sĩ già hơn lấy khẩu 45 ly ra khỏi bao da rồi trao nó cho tay y sĩ kia, gã cầm cái khóa của thắt lưng bằng vải lắc thật mạnh để giật nó ra khỏi hông rồi gần như ném nó cho gã kia (gã này cách đây hai năm bị ban tuyển quân phân loại là lính từ chối nhập ngũ vì lương tâm nhưng thấy gã vẫn sẵn sàng phục vụ nên họ phân gã làm y sĩ quân y). Sau đó tay y sĩ già hơn thọc tay vào túi áo khoác lấy mấy băng đạn dự trữ mỗi băng có 8 viên; rồi gã nắm lấy cổ tay của tay y sĩ trẻ hơn để đặt những băng đạn sáng bóng đó vào tay anh ta giống như gã đang thanh toán một khoản tiền cá cược theo cái cách phô trương và ngang ngạnh thường thấy ở một số gã lính.
“Cầm lấy. Đối xử tốt với họ” tay y sĩ già nói, “hãy nhớ là toàn bộ công việc của cậu ở đây là băng bó cho họ, tiêm cho họ một mũi rồi đưa lên trực thăng. Hẹn gặp lại”. Rồi gã cúi xuống cầm lấy đồ và bước tới chỗ đậu trực
https://thuviensach.vn
thăng. Cả đại đội nhìn theo lưng tay y sĩ, vuốt những giọt nước mưa trên mặt, trệu trạo nhai khẩu phần ăn bị ngâm nước mưa và chuẩn bị sẵn sàng cho lần xuất kích quen thuộc vào sáng hôm sau. Đại úy và toàn bộ lính của ông nghĩ trong đầu “Cái thằng hãm tài đó đã đi khỏi đây rồi, bây giờ có lẽ vận may sẽ khác!”.James, quả đúng là vận may đã khác, nhưng không nhiều.
Tay y sĩ leo lên chiếc trực thăng tới lượm những túi tử thi và những chiếc thùng cách nhiệt đựng khẩu phần ăn hình thù như cái bồn tắm và có kích thước như cái thùng bảo ôn hiệu Coleman (chúng tôi gọi là nồi) của bữa tối hôm trước. Gã ngồi phịch xuống chiếc ghế dài ở vị trí cạnh chỗ đặt súng máy ở cửa bên trái, ba lô và túi cứu thương đặt ở giữa hai chân, khẩu súng trường đã nạp đạn gác lên đùi. Tay y sĩ nhảy ngay xuống đất khi chiếc trực thăng vừa chạm đường băng của căn cứ Phuc Luc, như thể gã bị bắn bằng một chiếc ná, quàng lên vai chiếc ba lô nặng trịch còn vai kia đeo chiếc túi cứu thương, trông như bọc quần áo của một tay lang thang ma cà bông. Gã rời khỏi đường băng phẳng lì và lem luốc dầu mỡ của căn cứ như thể trong đời gã chưa bao giờ nhìn thấy chiếc máy bay trực thăng đó rồi đi lên con đường dốc ở hướng bắc để tới khu nhà của tiểu đoàn và Đại đội Bravo. Gã đi ngang qua khu nhà của bộ tham mưu của căn cứ nơi lính văn phòng của lữ đoàn đang đi lại dưới chỗ có bóng mát, một tay cầm ly vodka pha tonic còn tay kia cầm điếu xì-gà dài. Gã đi ngang qua khu nhà của công binh (tập đoàn Pacific Architects and Engineers31[1], chúng tôi gọi là PA & E) với những xe thùng lọc nước và máy trộn bê tông di động, nhà tắm bằng bê tông lắp ghép và tủ nước đá loại to. Gã đi ngang qua những dãy nhà u ám, vắng lặng như tờ của Đại đội Alpha lúc này lúc nhúc những luật sư của văn phòng Tổng công tố viên của quân đội Hoa Kỳ32[2], những nhân viên tình nguyện của Hội Chữ thập đỏ đến từ khắp nơi, và những phóng viên tự do thuộc loại chó săn chim (và những loại tương tự) chuyên tìm chuyện để bới móc và họ kiếm tiền rất dễ nhờ viết bài cho Times, Washington Post và The Chicago Tribune và những báo khác. Người ta sẽ thấy những dòng tít lớn như:
CỨ ĐIỂM HARRIETTE BỊ XÓA SỔ
ẢNH ĐỘC QUYỀN
BỘ QUỐC PHÒNG HỨA SẼ TĂNG THÊM QUÂN
Họ đứng thành từng nhóm nhỏ, trố mắt ra nhìn ngớ ngẩn, viết nguệch ngoạc những dòng ghi chép và những cái tên một cách rất hăng hái, chụp vội cho nhau những kiểu ảnh và quấy rầy nhau vì những câu hỏi, lời bình luận, thì thầm những lời trao đổi riêng. Họ lục lọi những chiếc rương con, túi dết và túi bằng vải không thấm nước, lật và nhặt lên xem những vật dụng trong đống đồ dùng cá nhân chẳng liên quan gì đến công việc của họ, mồm ngậm tẩu thuốc đã tắt ngấm rồi lắc đầu ra vẻ như chuyện này thật vô cùng đáng
https://thuviensach.vn
thương.
Cuối cùng người ta thấy tay y sĩ quân y đang bước nhanh trên con đường dốc dẫn đến khu nhà của Đại đội Bravo. Lính văn phòng của đại đội (đang điền các mẫu tờ khai), lính nấu ăn (đang khuấy bột trái cây) và những thương binh nhẹ (được giao những công việc bàn giấy nhẹ nhàng) đều phải ngước lên nhìn khi tay y sĩ đi tới cứ như thể gã là một bóng ma xuất hiện - “Tay y sĩ này đang làm cái quái gì ở trong căn cứ vậy”, họ nói chuyện với nhau, “và tại sao những người khác của đại đội chết tiệt vẫn đang ở ngoài chiến trường?”. Tay y sĩ rẽ ngoặt sang trái để đi vào một con đường khác dẫn tới khu nhà của đại đội vắng lặng rồi mất hút trong căn lều của gã. Gã treo ba lô, dụng cụ đeo trên người và túi cứu thương lên tấm ván đầu giường do gã tự tạo, cởi chiếc áo sơ mi bốc mùi khó chịu của rừng rậm rồi đi thẳng ra hố xí ở phía sau để đi ỉa. Sau đó, mệt mỏi, mặt nhợt nhạt như người ngã bệnh, gã quăng phịch người xuống giường, để nguyên cả giày và mọi thứ trên người, rồi rơỉ vào giấc ngủ hầu như ngay lập tức. Gã tỉnh giấc vào chiều muộn, hời đã gần tối, người đầm đìa mồ hôi, mặt gã sưng húp và đỏ phừng phừng vì ngủ, mồm gã khô như rang; chiếc túi ngủ chần bông và chiếc áo poncho33[3] gã dùng làm đệm bị ướt sũng.
Lúc này mọi người khắp căn cứ đã truyền nhau tin tức về tay y sĩ quân y đã tìm thấy Paco và ngay sau đó đã xin thôi việc. Buổi tối hôm đó gã ngồi bó gối trong căn lều, ăn nốt chỗ còn lại của khẩu phần loại C, hút hết sạch một gói cần sa, nghe tiếng động rất khó chịu của chiếc máy chữ hiệu Underwood của tay thư ký của đại đội - tạch-tạch-tạch-tạch-tạch-tạch - anh ta đang viết thư cho nhà kể về người lính còn sống sót của Đại đội Alpha và tay y sĩ quân y, thỉnh thoảng lại nhìn trộm tay y sĩ qua cánh cửa có lưới che của văn phòng của Đại đội. Trong suốt nhiều tuần lễ và tháng trời sau đó cho tới khi đến lượt được hồi hương, tay y sĩ quân y thường ngồi ở bậc thềm trước nhà được xếp bằng những hòm đạn (kẻ hãm tài của đại đội), chống tay lên một cái chổi quét nhà thông thường và quan sát qua tấm màn cửa bằng vải bay phấp phới những người lính còn lại của Đại đội Bravo đi ra mặt trận rồi trở về - bộ dạng của họ sau mỗi lần như vậy lại nom thảm hại, khốn khổ, lấm lét hơn lần trước. Bao giờ cũng thấy bớt đi những khuôn mặt khi mỗi lần họ mệt mỏi lết qua đoạn đường đồi dài ba trăm mét cuối cùng từ cổng căn cứ; bao giờ cũng có những khuôn mặt lạ, nhợt nhạt và ngơ ngác mỗi khi đại đội rời doanh trại. Và ông có biết không, sau một hoặc sáu tháng, mỗi khi đại đội trở về qua cái cổng để đi lên đồi thì không thể phân biệt được những gã đéo đó là mới hay cũ, ngoại trừ đôi mắt. Những đôi mắt trở nên vu vơ hơn.
Và mười, mười hai, mười lăm năm sau, tay y sĩ quân y sẽ hằng đêm đung đưa người trên một chiếc ghế gần những thùng bia được xếp thành một bức tường cao ở phía sau quán rượu Weiss trong lúc kể những câu chuyện của gã. Khi chiều đã tàn (lúc trời bắt đầu tối sầm), tay y sĩ quân y đã say thực sự, nhưng gã vẫn còn đập được vỏ quả trứng luộc già và gọn gàng bẻ quả
https://thuviensach.vn
trứng làm đôi rồi chấm vào muối và phết mù-tạt cay xé lưỡi lên mỗi miếng cắn. Và nếu chưa quá say gã vẫn tiếp tục uống bia lẫn với rượu (cho đến một năm kia gã uống đến phát bệnh, và chết vì rượu). Hầu như đêm nào trong tuần gã cũng ngồi đó và khoác lác rằng đáng lẽ gã đã có thể trở thành một người ra trò. “Lẽ ra đã trở thành một bác sĩ giỏi đếch chịu được, ông có nghe không?” gã sẽ nói với như vậy, James, bằng cái giọng lắp bắp say rượu. “Nếu không có cái thằng nhãi đó, cái thằng quái gở đó”, nó không chết, mà đáng lẽ nó phải chết mới đúng.
https://thuviensach.vn
Lời cảm ơn
của một dân tộc biết tri ân
Vào lúc xế chiều của ngày đầu xuân nắng chói chang và hanh khô, một chiếc xe buýt đường dài sơn màu xám bạc bò lên đoạn đường dốc dài một phần tư dặm nối từ xa lộ liên bang với một biển báo STOP to ở phía đông thị trấn Boone. Phần lớn hành khách đều ngọ nguậy chân tay, tỉnh dậy khỏi giấc ngủ gà gật không cưỡng nổi trong suốt chuyến đi thông chiều. Người lái xe - một người đàn ông có nét mặt thanh tú và cân đối, móng tay được chăm sóc kỹ và bụng hơi phệ - giảm số mà xe vẫn không bị lắc mạnh, mồm nhai ngấu nghiến một thanh kẹo cao su bạc hà mới, mỗi lần ông ta ngoác miệng rộng lại phát ra những tiếng kêu đôm đốp. Khi tới gần đỉnh dốc ông ta giảm số một lần nữa, cho xe chạy qua biển báo STOP rồi rẽ vào một quốc lộ hai làn được bảo dưỡng rất tốt. Ông ta cho xe ì ạch lăn tiếp trên mặt đường rải nhựa bị mặt trời hun nóng của trạm xe buýt Texaco nơi ông ta thường dừng lại để nghỉ chân mươi phút. Ông ta cho xe chạy một vòng rộng trước mặt khu nhà văn phòng trước khi chiếc xe lắc nhẹ rồi dừng hẳn lại. Ông ta kéo phanh tay, tắt máy, tháo phanh hơi kèm theo một luồng hơi mạnh nhưng rất êm.
Sau đó người lái xe ngó sát vào chiếc gương chiếu hậu và nhìn thấy nhiều khuôn mặt đang nhìn ông ta, ông ta xoay nhẹ người trên ghế rồi nói bằng một giọng nhẹ và rõ, “Đây là bến đỗ Boone. Xe sẽ khởi hành sau mười phút. Tất cả hành khách đi Boone thì xuống bến này”. Mọi người bắt đầu nặng nhọc nhấc mình khỏi ghế, người tê cứng và mệt lử sau chuyến đi. Người lái xe lấy phiếu hành trình để ở tấm che nắng trong buồng lái, tờ giấy được gấp kiểu cách làm ba giống như một bức thư công vụ, rồi ông ta dùng bút chì điền giờ đến và giờ đi trong lúc liếc nhìn vào chiếc đồng hồ Thụy Sĩ chuyên dụng đeo ở cổ tay (chiếc đồng hồ đó chính xác như một chiếc đồng hồ bấm giờ, James à). Ông ta cất tờ phiếu được gập cẩn thận đó trở lại chỗ cũ, vươn vai đứng dậy, và cẩn thận cởi cúc tay áo sơ mi là cứng rồi lại cài cúc lại. Và lúc ông ta vừa làm xong việc đó và kiểm tra lại lần nữa các ghế ngồi trên xe thì chỉ còn hai người vẫn chưa xuống, cả hai vẫn đang ngủ.
Hành khách thứ nhất là một phụ nữ da đen có tuổi người mảnh dẻ ngồi nép người trên một ghế sát cửa sổ gần đầu xe, bà ta đang ngủ rất say, tay ôm chặt vào lòng chiếc túi du lịch đã sờn ních đầy những cuộn len, những đồ lặt vặt đang đan dở, và một túi nilông nhỏ đựng những quả mận âm ấm vì hấp hơi. Để nhìn thấy người đang ngủ thứ hai - anh chàng Paco của chúng tôi - người lái xe phải kiễng chân, nghển cổ trong lúc chúi người về phía trước. Paco đang nằm cuộn người lệch sang một bên trên chiếc ghế cạnh lối đi giữa ở gần cuối xe, cằm kê vào chỗ hõm trên vai, tay kẹp giữa hai đùi còn chiếc
https://thuviensach.vn
gậy bằng gỗ óc chó màu sẫm được kẹp giữa hai ghế ngồi. Thực ra hắn không ngủ, tuy phải gập cong người trong tư thế khó chịu nhưng hắn thấy đầu váng vất tới mức hầu như đờ đẫn không biết gì sau khi uống thêm vài liều thuốc - thuốc giãn cơ và chống trầm cảm. Hắn thấy đau ở vùng thắt lưng, như mọi hành khách khác, và đầu đau dữ dội. Thời gian này hắn thường bị những cơn đau đầu như vậy. Hắn thường xuyên vận động, cố gắng chịu đựng và quên đi cảm giác kim châm liên tục và nóng rực ở đùi và hông. Tình trạng đau nhức và co quắp của hắn tồi tệ tới mức hắn có cố gắng duỗi chân duỗi tay hay há to mồm để thở, tập thể dục hoặc trị liệu, đều vô tác dụng. Cảm giác khó chịu, người nóng rực đến ngộp thở, như bị rất nhiều vật nhọn châm vào người hoặc vật gì đó liên tục gõ vào người hầu như là tình trạng thường xuyên lúc hắn thức.Nhưng người lái xe đang nghiêng người về phía lối đi giữa để nhìn Paco hoàn toàn không biết gì về chuyện này. Tất cả những gì ông ta nhìn thấy là một gã trẻ tuổi tàn tật bên cạnh là một chiếc gậy nhỏ. Lúc Paco bước lên xe, người lái xe đã đoán hắn là một gã quân nhân (và James ạ, rất dễ nhận ra một lính Mỹ ở nước ngoài trở về nước - gầy gò, ánh mắt khang khác, tóc húi cua kiểu lính), ba phần tư là mặc những bộ quần áo rẻ tiền hết mốt. Người lái xe nhăn mặt, nhai kẹo cao su kêu đôm đốp và lắc đầu. Ông ta đã lái xe buýt từ hai mươi tư năm nay và đã gặp đủ thứ chuyện: những gã quái gở cụt một chân ôm ấp những gã quái gở cụt cả hai chân trên chiếc ghế dài ở cuối xe; những gã cao bồi ở Colorado cướp giật túi tiền trên xe ở Elko, Nevada, sau đó nhảy ra ngoài cùng túi tiền khi xe buýt đi được nửa đường tới Salt Lake rồi sau đó lại quay trở lại chỗ cũ để thực hiện phi vụ khác; khách du lịch không để ý nên đã lên nhầm xe ở bến tại Lafayette rồi nhún vai cho qua để xe đưa tới tận bến cuối; ba gái già ở Georgia cãi lộn vì giai; một lão già bị chết trong lúc ngủ khi xe đang vào Duluth, người lão bốc mùi hôi thối vì ỉa ra quần, và tất cả hành khách đòi được hoàn trả tiền vé. Có một ả lùn và béo mắc chứng cuồng dâm lẻo đẽo đi theo một đội bóng bầu dục nghiệp dư từ Denver tới Santa Fe; một cặp sinh đôi giống hệt nhau cùng bị tật sứt môi nhưng chưa vá lại, họ cố gắng thế nào cũng không thể làm cho người khác hiểu được họ đang nói gì, “Xờ-mi-xờ- mu-xờ-mít-xờ-mát” khiến người lái xe cười vỡ bụng suốt từ Bakersfield tới lối rẽ đi Sacramento; một bà già lẩm cẩm nọ ở Watseka nói lẩm bẩm với người lái xe và với bất cứ ai nghe bà ta nói, vừa thở khò khè vừa cười khúc khích, “Này con trai, ta nhớ rất rõ cái dạo chính chiếc xe buýt này thường cho ta xuống trước cửa khách sạn Drake ở phố Walton” - kiếp này thì không, người lái xe nghĩ thầm trong đầu - “và một anh chàng gác cổng người da màu rất chu đáo và dễ thương đỡ ta bước xuống một cách rất nhẹ nhàng và lịch sự, anh ta lúc nào cũng đội một chiếc mũ to bằng lông hải li, áo đuôi tôm bằng nhung đỏ, giày da đánh véc ni bóng lộn với ghệt mắt cá màu ghi óng ánh. Rất Đẹp trai, lúc nào cũng sạch sẽ chỉn chu không chê vào đâu được. Chu cha!” bà ta nói. Có lần vào một buổi chiều, hai gã nhà quê trông mặt mũi đần độn (nhưng chắc chắn chúng là bọn lừa đảo
https://thuviensach.vn
chuyên nghiệp, theo lời của tay cảnh sát ở Memphis), đã “phê thuốc” và rút dao nhọn định cướp tiền của ông ta và chiếc xe buýt để đi tói Duckbutter Ridge hoặc một nơi khỉ ho cò gáy nào đó. Ông ta bám chặt lấy vô lăng bằng cả hai bàn tay, cố ý cho chúng nhìn thấy các khớp ngón tay chuyển thành màu trắng rồi bảo chúng gập con dao mắc dịch đó lại và ngồi xuống! - vừa nói vừa nghiến răng - và ông ta rất ngạc nhiên khi thấy chúng làm theo. Có những gã lên xe trông mặt mũi xấu xí đến nỗi người ta nghĩ là Thượng đế đã nặn ra chúng là những kẻ xấu xí nhất rồi Người lấy gậy chọc cho nát; có một bà già người to và béo, ông ta chưa từng thấy ai to béo như bà ta, đã đe dọa ông ta bởi vì bà ta đã trả tiền vé, bà ta nói thế - trả bằng tiền mặt, bà ta luôn miệng khoe khoang - nhưng phải chặt bà ta làm nhiều mảnh mới đưa được bà ta qua bậc lên xuống để lên xe và chắc chắn sẽ chẳng có chiếc ghế nào vừa cho bà ta. Đồ phải gió, bà ta nổi cáu, và cừ vẫy vẫy cái vé nhỏ xíu như vẫy một chiếc khăn tay. Có những Hướng đạo sinh nam ngơ ngác vì ngạc nhiên bởi lẽ lần đầu tiên chúng được đi qua cây cầu George Washington để vào thành phố New York (“Ui chao, nhìn những ngọn đèn kìa!”; những thủy thủ hứng tình đang trên đường tới San Diego để mò gái; những gã pêđê ở New Orleans ăn mặc quần áo giả trang của lễ hội Mardi Gras34[1](chúng thủ thỉ tán tỉnh nhau, “Này, Georgette, em lộng lẫy quá”), mắt chúng đờ đẫn vì phê thuốc kích thích và cần sa. Có những lính thủy đánh bộ ở trại huấn luyện trên đảo Parris (làm như ghê gớm lắm, người lái xe nghĩ thầm) đang trên đường sang Việt Nam và họ say mèm vì rượu vodka nấu lậu, rống lên những bài hành khúc hoặc nhại những bài hành khúc:
Tao đếch biết nhưng nghe kể lại,
Gái Eskimo cái hĩm cũng lạnh.
Tao quen một người đàn bà mặc áo đen,
Nàng kiếm sống bằng cách nằm ngửa.
Tao đúng hay sai?
Mày đúng!
Tao đúng hay sai?
Mày đúng!
Tao không muốn ngồi một chỗ than thở!
Tao không muốn tự hỏi tại sao!
Tao chỉ muốn đánh nhau và chết!
Tao đúng hay sai?
Mày đúng!
Tao đúng hay sai?
Mày đúng!
https://thuviensach.vn
Và họ phun vào mặt nhau những câu mệnh lệnh: “Quay trái quay, đồng cô. Chân trái, bước! Trước mặt chỉ huy phải giữ thể diện cho tao, nếu không thì liệu hồn. E hèm!”. Họ cười, mặt nhăn nhở, nốc rượu vodka rẻ tiền và nặng và nhún nhảy trên ghế. “Con bé đó trông có được không?”. Có người giơ ngón tay ra hiệu cho người lái xe dừng xe tại một ngã tư bụi mù giao cắt Topeka và Salina, một ông già đầu hói mắt trắng đục và bà vợ già béo lùn đang vụng về ôm hôn cậu con trai của họ. Thằng nhóc, người gày nhẳng và có cặp mắt lồi, chỉ nhìn thấy cổ và cái mũi, (rút cục) sắp lên đường gia nhập Hải quân và trông anh chàng có vẻ như đang phải chịu đựng lần cuối cơn bộc lộ tình cảm tràn trề lố bịch này; bà vợ bé nhỏ khóc ướt đẫm chiếc khăn lau bát giắt ở tạp dề; ông bố cố làm bộ hãnh diện! - có thể nhận ra điều đó ở ánh mắt long lanh của ông ta.
Người lái xe buýt nghiêng đầu nhìn dọc lối đi giữa và quan sát Paco. Ông ta đã nhìn thấy những lính Mỹ trở về nhà điệu bộ còn tả tơi hơn anh chàng này. Cứt, xét đại để thì anh ta vẫn còn khá hơn - nếu đây là Triều Tiên năm 1953 thì có lẽ anh ta đã chết rồi; nếu đây là mùa hè năm 1945, anh ta có lẽ đã bị lãng quên từ lâu. Người lái xe đi lại chỗ Paco, tay bám vào lưng những chiếc ghế như thể ông ta đang bước đi trên một mặt phẳng nghiêng. “Này, nhóc”, ông ta gọi bằng một giọng rõ và dứt khoát, mồm nhai kẹo cao su kêu đôm đốp. “Dậy đi. Tới Boon rồi. Tới bến anh định xuống rồi, khéo lại quên”, ông ta nói trong khi hít hà mùi bạc hà trong bộ râu và thận trọng giữ khoảng cách. (Người lái xe đã học được một điều từ những ví dụ sinh động nhiều năm trước đây, James ạ, là nên thận trọng và cảnh giác khi đánh thức hành khách xuống bến; ông ta chỉ để tâm tới việc cầm lái và “Chừng nào mà hành khách không bỏ lại một xác chết nào” thì ông ta hầu như bỏ qua phía đuôi xe”. Người lái xe biết chắc anh ta không có người quen trong thị trấn này và ông ta muốn tranh thủ nửa giờ đi ăn tối rồi quay về xe.
“Dậy đi, nhóc”, ông ta nhắc lại, giọng gay gắt hơn. Bến cuối rồi”. Paco vẫn ngủ, mắt nhắm nghiền.
“Dậy mau, anh lính. Bến cuối rồi”, người lái xe nói, đung đưa hông, cố tình nhấn mạnh từng từ một. “Nhấc đít lên và đứng dậy. Vào vị trí nhảy dù”. Paco cựa quậy người, hắn đã nghe thấy câu cuối.
“Thế chứ. Bến cuối rồi. Lẹ lên”, người lái xe nói.
Đột nhiên Paco giật mình ngồi thẳng dậy, người lái xe giật mình phát hoảng (ông ta sẽ không ngạc nhiên nếu Paco lao vào người ông ta - tụi du côn này đã từng làm điều còn tồi tệ hơn); ông ta vội nhảy lùi lại, nhưòng chỗ cho Paco đứng dậy, duỗi chân tay và lấy đồ của hắn. Một lát sau Paco đã xuống tới bậc lên xuống dưới cùng của xe, một tay cầm cái túi xách nhà binh35[1] còn tay kia cầm chiếc gậy bằng gỗ óc chó màu sẫm, trước mặt chỗ hắn đang đứng ở bìa rừng là cánh đồng rộng và rừng cây xanh rì, hơi nóng của mặt trời đang lặn phả thẳng vào mặt hắn, bóng của hắn kéo dài ra. Mây bắt đầu che
https://thuviensach.vn
phủ bầu trời rạng rỡ ngày xuân và một mùi mưa ẩm ướt tinh khiết tràn ngập không khí.
Người phụ nữ da đen có tuổi người gày gò giả đò đang ngủ (đang mơ màng thưởng thức hương thơm tỏa ra từ những quả mận âm ấm vì bị hấp hơi), đang quan sát Paco và người lái xe qua khe hở của những nếp nhăn trên mi mắt.
Trong lúc đó người lái xe đứng ở ngay sau lưng Paco - cả hai đều cảm thấy hơi nóng mặt trời phả lên mặt, mùi cơn mưa sắp kéo tới, mùi khí thải của xe chạy bằng dầu diesel và mùi tỏa ra từ những quả mận âm ấm - người lái xe vừa chạm nhẹ vào người Paco vừa nói, “Thị trấn nằm về phía tây. Không khó khăn gì đâu, nhóc, sắp tới giờ tan tầm. Đứng đây đợi thể nào cũng có người đi qua đây về thị trấn để xin quá giang. Tất cả các quán ba tốt đều nằm trong thị trấn”. Paco, đầu vẫn còn váng vất, tin đại vào lời của ông ta, hắn đặt chân xuống mặt đường rải nhựa rồi bước đi khập khễnh - chứng chuột rút, cơn đau ở chân, túi xách nhà binh chật căng, chiếc gậy gỗ óc chó màu sẫm và những thứ khác - vòng ra phía sau ngồi nhà để tới khu vực vệ sinh dành cho nam giới nồng nặc mùi thuốc khử trùng.
Tới lúc đó, James à, lúc chiếc xe buýt liên tiểu bang vào bến thì cũng là lúc đám thợ máy ngừng tay để nghỉ giải lao. Họ thường uể oải ngồi ghé trên mép chiếc bàn ở gần cửa ra vào, người vẫn bận nguyên bộ quần liền áo đầy dầu mỡ, uống cà phê trong những chiếc cốc nhựa cáu bẩn, loại dùng cho những chuyến đi chơi và ăn ngoài trời. Những hôm trời lạnh ông chủ thường cho phép làm một chai whiskey36[2]rẻ tiền để trong ngăn kéo lẫn với chồng tạp chí khiêu dâm (All Star Tit Queens và Bikes, Black Leather hoặc Big Broads).
Sau khi Paco đi khuất, người lái xe vào trong bến, tự rót cho mình một cốc cà phê đặc, nóng rát môi, đựng trong chiếc cốc bằng giấy xốp, tán gẫu với hai thợ máy - Chuck và Duck - chào hỏi họ, sau đó ông ta kín đáo tập hợp hành khách để lên xe, nhẹ nhàng nói với họ rằng đã sắp hết giờ nghỉ. Người lái xe khởi động xe, đợi cho đủ áp suất hơi; mọi người lên xe để đi nốt chặng cuối cùng trước giờ cơm tối. Trong lúc đó, Paco người cởi trần đang dùng tay vốc nước lạnh vã lên người, răng nghiến chặt, nín thở. Sau đó hắn lau tay và mặt và nách bằng một nắm khăn giấy ẩm và mềm như giấy báo, bôi lên ngực nước hoa cạo râu loại rẻ tiền, mặc một chiếc sơ-mi sạch nhăn nhúm và một chiếc áo gió hàng đồ cũ mua tại cửa hàng của tổ chức từ thiện Đội quân Cứu tế37[1]. Người lái xe nhìn vào gương chiếu hậu ở bên ngoài để chờ Paco và khi nhìn thấy hắn từ góc sau nhà đi ra, ông ta vào số một rồi cho xe lăn bánh trong lúc nói to cho mọi người biết bến đỗ tiếp theo vào giờ cơm tối. Chiếc xe rẽ vào đường hai chiều; Paco đi qua bãi đỗ xe rải nhựa đường, hơi nóng bốc lên chui qua lớp đế mỏng của đôi giày. Người lái xe cầm lái một cách nhẹ nhàng bằng một tay, tay kia thò vào chiếc túi nằm ở dưới ghế ngồi để lấy chiếc kính râm phi công nhãn hiệu Bausch & Lomb; Paco đứng bên lề đường
https://thuviensach.vn
rải sỏi, cạnh chiếc túi xách căng phồng. Hắn chống hai tay lên chiếc gậy để ngồi xuống và quan sát những làn khí thải màu xanh-đen của xe cộ đi qua và bụi xoáy thành lốc lấp lánh phía sau chiếc xe buýt. Người lái xe chỉnh chiếc kính phi công, liếc nhìn vào chiếc gương chiếu hậu bên ngoài và thấy Paco ngồi lên chiếc túi xách căng phồng của hắn, và bằng động tác nôn nóng nhưng từ tốn, ông ta cho xe đi vào đoạn đường dốc nối với xa lộ liên bang. Lúc này người phụ nữ da đen có tuổi - suốt cả buổi chiều hôm đó ôm chặt chiếc túi du lịch vào lòng ngủ gà gật mơ màng - đột nhiên mở mắt. Trước đó chỉ một lát bà ta đã nhìn thấy Paco (bà ta vẫn chưa quên cảnh tượng người lái xe với Paco năm phút trước đó), chiếc gậy của anh ta nhỏ trông như cây bút chì còn đôi mắt trông như cái đầu đinh ghim, và đột nhiên bà ta nhớ lại rõ từng chi tiết đứa con trai của bà từ chiến trường Triều Tiên trở về năm 1953 đứng ở lối cửa ra vào của ngôi nhà cũ tồi tàn trong bộ quần áo ka-ki rộng thùng thình đầy bụi bặm sau chuyến đi đường trường; nó không đả động một lời nào về chiến tranh; kể từ sau đó nó luôn rầu rĩ và trở nên bất kham khiến những người sống xung quanh hiểu lầm nó là thằng lười biếng, vô tích sự; kể từ sau đó nó rơi vào tâm trạng lúc nào cũng âu sầu. Paco nhìn chăm chú chiếc xe, cái phần sườn xe nhô lên (nhìn thấy tròng mắt trắng đục trên đôi mắt ti hí của người phụ nữ đứng tuổi) cho tới khi chiếc xe đi xuống đoạn đường dốc rồi mất hút - hắn nghĩ trong đầu “Đây chắc chắn đéo phải lần đầu tiên mình bị bỏ rơi”; hắn nghĩ trong đầu cái điều mà bất cứ tên lính trơn nào có lẽ cũng sẽ nghĩ như thế “Bất kể điều gì xảy ra, Jack, bất kể điều gì sẽ xảy ra tiếp theo (và tôi cóc quan tâm, ông có hiểu không), cứ đi tiếp rồi xoay sở sau”.
Sau khi chiếc xe buýt rời bến, hai anh chàng thợ máy uống nốt chỗ cà phê còn lại trong cốc, thấy phấn chấn trở lại, theo cách nói của ông chủ, và quay lại làm việc. Trong suốt thời gian đó, một trong hai người (đó là Chuck) liên tục lắc bàn tay và các ngón tay, cười nhăn nhó vì đau cốt gây sự chú ý của mọi người, anh ta cố làm dịu cảm giác đau đớn do vết thương ở các đốt ngón tay do đã để bàn tay bị kẹt trong bộ truyền lực trong động cơ của chiếc xe Chevy được kích cao rồi đặt trên cái bệ ở góc trong - thịt lòi ra ở các đốt tay dính đầy chất dung môi. Qua cửa sổ (bám đầy những sọc bẩn) anh ta nhìn thấy Paco đang ngồi giạng chân trên chiếc túi xách nhà binh, lơ đãng chọc mũi gậy bịt đồng xuống lớp sỏi rải không chặt dưới chân hắn. Anh chàng thợ máy trẻ nhìn thấy chiếc gậy bằng gỗ óc chó và nghĩ “Một gã chân đi cà nhắc thế kia có chuyện gì mà phải vẫy xe đi quá giang nhỉ? Ôi dào, trên đời này có đủ loại người và mình nghĩ cũng phải có người nọ người kia”. Anh ta rót thêm cho mình một cốc cà phê nữa rồi lại ghé người ngồi lên mép chiếc bàn cáu dính đầy dầu mỡ, vắt tréo chân và nói bằng giọng lè nhè, “Này, Duck! Hay là lấy chiếc Rupert cà tàng cho anh chàng kia đi quá giang vào thị trấn” - Rupert là chiếc xe cứu hộ của trạm xe buýt, một chiếc GMC sơn màu sắc lòe loẹt, được lắp thêm một số bộ phận, tua tủa ba hay bốn loại ăng-ten và rất nhiều đèn xi-nhan màu trắng và màu hổ phách - “Có thể tôi sẽ ghé qua bệnh viện để nhờ Mildred băng bó hộ cái tay!”, anh ta nói rồi lắc bàn tay bị đau
https://thuviensach.vn
thêm hai ba cái nữa.
Anh chàng thợ máy kia, lớn hơn hai tuổi - người thấp và đậm, bộ áo liền quần bật khuy đến tận bụng dưới - đang bới tung một ngăn kéo đựng dụng cụ ở trên cao. Anh ta dừng tay khi tìm thấy cái đèn căn lửa38[1]. “Không!”. - Ở bên ngoài, Paco đang đứng dưới lòng đường vươn vai và ngáp - “Không! Cứ để anh ta đi bộ. Cậu chỉ kiếm cớ vớ vẩn để vào thị trấn rồi la cà ở chỗ Rita. Nếu chưa có việc gì làm thì hãy cho chiếc Chevy vào bãi đậu rồi đưa chiếc Olds vào trong để tháo bộ lốp đi mùa đông. Bánh xe để ở trong cốp sau. Làm nhanh lên, ông chủ bảo khách hàng sáu giờ sẽ tới lấy xe đấy”.
Nghe thấy thế, anh chàng thợ máy trẻ vứt cốc cà phê đang uống dở vào một cái thùng đựng dầu cũ, trong đó chất đầy những đồ bỏ đi tích lại của bất kỳ một trạm sửa xe bận rộn nào nằm gần xa lộ. Anh ta đâm bổ ra ngoài, đi về phía chiếc xe Olds. Nhưng càng lắc bàn tay, trong lúc mặt nhăn nhó rất kịch, anh ta càng không nén nổi tò mò nên rút cục anh ta đã đi vòng ra phía sau chiếc Olds để leo lên chiếc xe cứu hộ - chữ Rupert đuợc in nguợc trên nắp máy phía truớc để có thể đọc nó trong gương chiếu hậu. Xe có một con búp bê Kewpie39[2] xinh xinh màu nom như sáp trang trí trong buồng lái và cục sáp khử mùi treo ở sau chiếc gương chiếu hậu, một giá treo súng gắn dọc ô kính phía sau ghế ngồi, ghế được bọc bằng vải da giả nhãn hiệu Naugahyde, vô lăng có gắn một núm nhựa40[3], một bộ lốp to để đi trên băng tuyết, tấm chắn bùn to như thảm chùi chân trước cửa ra vào (đính rất nhiều hạt phản quang màu tím), một cái lưỡi ủi tuyết tráng chất Teflon và bậc lên xuống trông vui mắt; toàn bộ cái cỗ máy kỳ cục đó được sơn màu hạt dẻ và da cam trông như đoàn tàu Hiawatha của công ty đường sắt Milwaukee Road41[4]- thân xe nhằng nhịt những đường kẻ trang trí uốn lượn màu trắng bạc-và-đen và đường viền nẹp cờ-rôm lấp lánh. Ban đêm, dưới ánh sáng của rất nhiều chiếc đèn nêông to, chiếc xe đó tỏa ánh sáng ấm áp như một cầy thông Nô en.Anh chàng thợ máy trẻ tuổi khởi động chiếc xe - những cái ống dựng thẳng có đầu uốn gập về phía sau buồng lái rung bần bật, tiếng động làm kính cửa sổ của trạm kêu lách cách - rồi thản nhiên lái xe ra đường cái lớn và cho Paco quá giang tới thị trấn. Người thợ máy lớn tuổi đứng ở chỗ cửa lớn, tay cầm cái đèn căn lửa trông như một khẩu súng lục đồ chơi, la to, “Cậu sẽ quay về ngay, nghe rõ không? Cậu phải quay về đây ngay! Bao nhiêu là việc phải làm đây này! Nhờ Mildred chữa cái tay của nợ đó xong rồi Quay về ngay! Nghe rõ không?”. Rồi anh ta lẩm bẩm, “Đồ lười như chó!”
Anh chàng thợ máy trẻ lái xe từ tốn, luôn để ý tới tốc độ, hiển nhiên không gì phải vội vàng trong một ngày mùa xuân đẹp trời thế này. Và tất nhiên để lấp thời gian, anh ta và Paco nói chuyện với nhau, anh ta vừa điều khiển xe bằng cái núm trên vô-lăng vừa đặt những câu hỏi còn Paco vẻ ngượng nghịu ngồi nhô người lên phía trước trên chiếc ghế băng42[5]- hắn
https://thuviensach.vn
biết ơn vì được cho đi quá giang, ông có hiểu không - chiếc túi xách nhà binh của hắn đặt ở giữa hai chân, hắn lịch sự đáp trong lúc mắt vẫn quan sát phố xá bên ngoài. “Anh từ đâu đến? Anh đang định đi đâu? Sao lại có cái gậy này? Chiến tranh có tệ như người ta nói không? Ồ, chân tôi bị đau - tôi bị tật suốt đời - nếu không chắc chắn tôi đã nhập ngũ, tôi cam đoan là thế!”. Paco nói với anh chàng đó là anh ta chẳng bỏ lỡ điều mắc dịch nào cả, hắn nói rằng anh ta nên xem mình là người may mắn. Và sau khi đi được khoảng hai cây số thì rút cục cuộc nói chuyện nhạt dần rồi chuyển thành sự im lặng ngượng nghịu, nhưng anh chàng đó vẫn thích nói nhăng cuội nên cuối cùng lại hỏi, “Chuyện gì đã xảy ra sau khi họ đưa anh ra khỏi chỗ đó?” - sau khi Paco nhắc tới cuộc tàn sát tại Cứ điểm Harriette.
Paco ngồi dịch người thêm về phía trước trên ghế băng ấm áp, hắn không dám dựa lưng vào ghế cho dễ chịu bởi vì thuốc đã khiến hắn đờ đẫn mụ mị và hắn không muốn bị ngủ gật. Hắn nắm chiếc gậy bằng hai tay rồi xoay xoay mấy vòng. “Chẳng có gì to tát, tôi nghĩ thế”, hắn nói trong lúc liếc mắt sang bên nhìn anh ta đang lái xe với một tay đặt trên chiếc núm trên vô lăng còn tay kia gõ gõ theo nhịp 4/4 vào cái hốc trên cửa xe - các đốt ngón tay bê bết máu bị đỏ ửng, bị tê cóng vì thời tiết lạnh.
“Họ chích mooc-phin cho tôi nhiều quá khiến tôi chẳng nhớ rõ”, “anh có hiểu không?”, Paco nói và chủ đề chấm dứt ở đó.
Nhưng Paco nhớ rất rõ và rõ từng chi tiết.
Có một dấu chữ thập lớn đỏ tươi trên nền màu trắng ở bụng chiếc trực thăng cứu thương tới tìm kiếm hắn, và gần như hắn vừa vào trong khoang là chiếc trực thăng lập tức vọt lên, nhanh chóng tăng tốc và lấy độ cao. Paco thấy bụng nôn nao và hắn thấy rất chóng mặt, và hắn muốn nôn. Hắn nhớ lại những bộ mặt rắn rỏi rám nắng của những người lính cứu thương, và những câu tầm phào của họ về những mảnh vụn bẩn thỉu nằm trong những vết thương trên người Paco - giòi ở những chỗ mưng mủ (hắn có cảm giác gần giống như được vuốt ve kích thích), vảy mềm như bọt biển ở những chỗ bỏng giộp bị vỡ và những mảng bùn khô cứng. Hắn nhớ lại cái cảm giác đặc biệt (sau khi được tiêm liên tục mấy liều moóc-phin) lúc tay y tá bạo dạn nhất - một gã trông vẻ ngoài nghiêm nghị và có những ngón tay tiếp xúc nhẹ nhàng, mát lạnh và dứt khoát - bắt đầu nhặt những mẩu vải và giằm gỗ, những mẩu da cháy sém, giòn tan, dài và quăn như vỏ sò (cảm giác bỏng rát ở những chỗ thịt lòi ra ngoài đỏ lòm) - những người lính cứu thương kể rằng giống như bóc những mảnh sơn cũ ra khỏi một lớp sơn dày mới quét vẫn còn dính. Trong lúc đó, những lính cứu thương khác dỗ dành Paco, họ nói chuyện để vỗ về hắn, “Mọi chuyện sẽ ổn, này! Ráng chịu thêm mười phút nữa là xong. Giỏi lắm! Lì như cậu thì không thể chết ở đây được, có phải không?”. Và họ cứ liên tục nói với hắn là mọi chuyện sẽ ổn như thể đó là một phần công việc của họ. Họ hỏi hắn như thét lên để át tiếng rít của động cơ “Cậu là ai, Jack? Tên cậu là gì? Có chuyện gì đã xảy ra ở đó?”. Trong suốt thời gian ấy, Paco chỉ có một ý nghĩ duy nhất trong đầu, ý nghĩ đó rõ rệt như một giấc mơ muôn
https://thuviensach.vn
màu sắc - mày không được chết - mỗi một từ dội lại giống như có người nào nói rất to, cử động nhanh làm đau buốt chỗ thịt bị sưng tấy trên miệng - mày không được chết - giống như những từ ngữ lặp lại trong một câu thần chú, như thể hắn cảm thấy cơ thể mình bị co nhỏ lại ngay lập tức nếu như không nói ra câu ấy. Và hắn nhớ lại là đã không kìm nổi nước mắt (trong lúc một nửa số lính cứu thương lúc đó chỉ chờ đợi một nụ cười yếu ớt, can đảm), nước dãi chảy ra từ miệng sưng phồng của hắn và nước mắt nóng hổi cứ thế chảy giàn giụa trên mắt và mũi hắn - bởi vì hắn đã sống; bởi vì hắn đã thoát chết (nhờ vận may của Chúa, James) - cảm giác hơi nước mát lạnh trên mặt hắn vì gió thổi mạnh từ cánh quạt động cơ của chiếc trực thăng. Hắn nhớ lại là đã bay cao cỡ một nghìn feet, trực chỉ doanh trại vòng ngoài ở phía tây căn cứ Phuc Luc (để chiếc trực thăng có thể đổi hướng rồi bay thẳng tới đường băng của bệnh viện mà không cần phải lượn vòng tròn bên trên những căn lều của bệnh viện để bay theo hướng gió thổi) - tay phi công trẻ lái trực thăng thỉnh thoảng lại ngoái đầu lại hỏi tình hình anh chàng bị thương và đám lính cứu thương đáp, “Cứ khẩn trương lên, Jack!”. Và tay phi công trẻ thỉnh thoảng lại bay chệch hướng khi qua những đám mây tích khổng lồ của mùa mưa để tránh luồng gió xoáy mạnh, cho trực thăng bay với tốc độ nhanh nhất, James, bay hết công suất cho phép của động cơ.
Paco nghển cổ để nhìn qua cánh cửa mở của chiếc trực thăng, lúc đó đang là giữa trưa, hắn nhớ lại, tứ phía trước mắt hắn là một bức tranh toàn cảnh những đám mây dông trong ánh nắng rực rỡ - trắng như lông cừu hoặc có màu thép xám, hoặc đen sẫm như bóng đêm. Chúng trôi bồng bềnh trên bầu trời cách mặt đất hàng trăm mét, phồng lên thật hùng vĩ giống như những vũ nữ Tây Ban Nha đứng thẳng người dậy sau tư thế khẽ nhún đầu gối cúi đầu chào thật thấp, hai cánh tay dang rộng sang hai bên (một hình ảnh choáng ngợp về quyền năng của Chúa mà chúng ta được chứng kiến trên một quy mô nhỏ, James à). Mây cuồn cuộn như sóng đang trôi chậm rãi ở tít mãi trên cao phía trên đầu Paco và những người lính cứu thương; có đám mây di chuyển lặng lẽ; số khác biến thành mưa như trút, những trận mưa tầm tã của mùa mưa biến mặt đất thành bùn nhão nhoét. Tất cả những trận mưa dông đó đột ngột chuyển hướng giống như người mộng du đang leo lên một cầu thang rộng dẫn đến một ban công, Paco nghĩ trong đầu trong lúc nhìn ra bên ngoài chiếc trực thăng - nước mưa trút xuống nhịp nhàng giống như cái đuôi váy dài lê thê làm bằng đăng ten trên bộ áo dài dạ hội bằng vải mỏng tang kéo thành một vệt ở phía sau những thiếu nữ đang say ngủ. Sau đó hắn thấy những đám mây tích giống như những phụ nữ trẻ khắc khổ, tóc xõa, đang đứng rải rác trên một bờ ke bằng đá nhẵn bóng để đợi một con tàu ma, chẳng hạn; tất cả đều úp hai bàn tay nhỏ nhắn sạch sẽ lên cái bụng to lùm lùm; người nọ đứng cách người kia một khoảng cách xa, trong lúc đó những con chim bồ câu mổ thức ăn dưới chân họ, tranh nhau những mẩu vụn thức ăn, và mặt trờỉ tỏa hơi nóng ngộp thở lên tất cả.
Ở rất xa bên dưới chiếc trực thăng, rừng già trông mềm mại như bọt
https://thuviensach.vn
biển, như thể Paco có thể thò tay xuống đó - giống như vục tay vào đống bọt dày màu xanh trong bồn tắm - rồi múc một vốc bọt; Paco tin chắc đó sẽ là thứ bọt có mùi thơm phức nhất. Thỉnh thoảng, những tia nắng rực rỡ bắt gặp những mảng màu nước - ruộng lúa và kênh tưới tiêu hoặc những vũng ao quen thuộc nằm ở đằng sau những ngôi nhà tranh hoặc những khúc sông lấp ló dưới tán cây rừng và những hố bom to như những lô đất - ánh sáng phản chiếu vào mắt hắn giống như một tia ánh sáng rất sắc chiếu qua khe hở của một hàng rào gỗ, chói và lóa mắt hơn cả tia lửa ở họng súng. Paco nhìn những chỗ rừng bị phát quang vì những hố bom rộng ngập đầy nước, đoàn xe tải đang chạy trong rừng cây, hắn nhìn những đoạn đường cong và cơn mưa dông - bụi bốc lên ở những chỗ khô ráo trên mặt đường - những chỗ trước đây là bãi đậu xe tăng, bánh xích đã cày thành những đường rãnh trên lớp cỏ mềm ẩm ướt.
Paco và đám lính cứu thương bay trong thứ ánh sáng mờ mờ kỳ lạ, ghê rợn đó, giữa ban ngày, giữa bầu trời sực mùi hơi nước tích điện. Mưa rơi xiên xiên (bụi nước bị hút vào những cánh quạt đang quay), giống như một màn sương mờ mờ; nắng mặt trời như thiêu đốt của buổi giữa trưa lại chiếu xiên về một phía khác làm cho màú sắc và vùng tối được phân biệt dứt khoát và sống động, giống như một khuôn mặt rạng rỡ và sắc cạnh mà ta nhìn thấy qua một chiếc gương trong vắt.
Chiếc trực thăng bay rất nhanh qua khu vực bảo vệ vòng ngoài của căn cứ Phuc Luc, bay qua dãy hầm boongke nóng ngột ngạt, nòng súng chĩa tua tủa lên trời, rồi sau đó rẽ về phía đông theo hướng gió thổi để bay tới khu nhà bệnh viện được xây bằng những bao cát (James, ông có thể nhìn thấy những chữ thập màu đỏ trên rất nhiều mái nhà của khu bệnh viện - không khí bên trong trực thăng đang bay bên trên mặt đất trống và những mái nhà bằng tôn bỗng nóng rực và sáng sủa). Hầu hết những người đang làm việc trên đường băng dành cho trực thăng đều ngừng tay ngước nhìn chiếc trực thăng đang lượn bay trên trời - mọi người đều hiểu rõ rằng người duy nhất sống sót trong trận đánh khủng khiếp của Đại đội Alpha đang ở trên chiếc trực thăng đó, anh ta được bọc trong một chiếc túi đựng tử thi phécmơtuya kéo đến bụng và anh ta vẫn còn sống (ông có thể hiểu được chuyện như vậy không!), nếu không tay phi công sẽ không tiếp tục bay rất dữ như vậy. Chiếc trực thăng đột nhiên chúc xuống, nhắm thẳng đường băng bé tí nằm ở cuối lối đi tạm lát ván dành cho người đi bộ ở trước cửa trạm phân loại thương binh. Chiếc trực thăng hạ cánh nhanh và dứt khoát xuống bãi đáp. Bác sĩ của trạm phân loại thương binh, lính của bộ phận Nhà xác nom mệt mỏi, măng sét áo may bằng lụa bóng, và những người đi ngang qua hoặc những người hiếu kỳ, xúm lại để giúp - hoặc chỉ để trố mắt nhìn ngớ ngẩn, dĩ nhiên rồi; hoặc để cầu cho tai qua nạn khỏi, có thể như thế, James - họ đưa Paco vào bên trong căn lều tối và ngột ngạt của trạm phân loại thương binh rồi đặt hắn lên một chiếc cáng cao ngang ngực để tay sĩ quan ban kiểm tra - tất cả mọi người đều bàn tán, chụp ảnh.
https://thuviensach.vn
Bộ phận phân loại thương binh nằm ở phía sau bệnh viện, nơi lính khiêng cáng thương binh được đưa từ chiến trường tới, đứng xếp hàng; ai đến trước được phục vụ trước, ông có hiểu không. Một bác sĩ sẽ kiểm tra, phân loại thương binh, so sánh và cân nhắc rồi quyết định ai sẽ vào phòng mổ đầu tiên, ai thứ hai, ai cuối cùng - và ai sẽ bị loại ra. Trong trường hợp cực kỳ khẩn cấp, những ca không thể cứu được nữa sẽ được tiêm thuốc, thường là một liều cao moóc-phin, rồi được chuyển tới khu dành cho người hấp hối và họ bị bỏ mặc cho chết một mình ở đó. Và một khi đã được đưa tới khu dành cho người hấp hối, James, ông coi như đã là người chết rồi - bất kể ông nằm ở đó bao lâu. Nhưng Paco, lúc này là người thương binh vô danh nổi tiếng trong trận thảm sát của Đại đội Alpha, đã được chăm sóc với tất cả sự chu đáo.Tay bác sĩ, một thiếu tá mặt xanh xao nhợt nhạt, mặc một chiếc áo choàng bờ-lu sạch sẽ được nhét vội vào trong giày ủng dã chiến, khệnh khạng bước vào căn lều phần loại thương binh ngoài trời, chùi tay vào chiếc tạp dề có dính những vết máu giống như bà vợ của một ông hàng cá. Ông ta nhìn Paco và ngay lập tức hiểu rằng hắn không đủ sức để lên bàn mổ. Ông ta cũng hiểu rằng trạm sắp ngập mặt vì những thương binh khác cũng bị thương nặng không kém và rất nhiều người trong số họ được chuyển đến từ trận giao tranh đẫm máu tại Cứ điểm Francesca ngay sau khi một chiếc trực thăng có thể vượt qua hỏa lực ác liệt từ mặt đất và súng phóng rốc-két, rằng họ - bác sĩ, hộ lý lẫn y sĩ - rất có thể sẽ phải làm việc suốt đêm nay. Thực ra mà nói, James à, những gì đã xảy ra cũng gần như thế. Tay bác sĩ kéo phéc-mơ-tuya của túi tử thi đựng Paco - mùi hôi thối tanh tưởi của những vết thương trên người Paco, từ ruột gan của Paco, bốc thẳng lên mặt ông ta. Ông ta vạch các mép túi đầy máu sang hai bên rồi thò tay vào trong nâng một mẩu vải lên để kiểm tra các vết thương có mủ và những mảnh xương lòi qua lớp da. “Trời đất quỷ thần”, ông ta nói khẽ, “anh ta bị bỏ mặc thế này đã bao lâu rồi? - tên anh ta là gì?”.“Gần hai ngày”, tay y sĩ có đôi tay khéo léo đáp. “Anh ta là lính của Đại đội Alpha và anh ta vẫn chưa nói tên anh ta là gì, thưa sếp”.
(Chắc đây phải là một trận đánh ác liệt lắm, đám lính cứu thương và hộ lý vừa nói với nhau trong lúc ngó nhìn hắn, trước khi họ kết thúc đêm bì bõm trong máu).
Tay thiếu tá nhìn kỹ Paco một lần nữa rồi nói, “Tốt rồi”. Sau đó, bởi vì Paco bốc mùi dơ dáy và người dính đầy những bùn đất và mảnh đạn bé tí nên ông ta ra lệnh, “Đưa người này sang phòng bên rồi cọ rửa anh ta thật kỹ”, rồi ông ta buông tay thả mép túi tử thi xuống và chùi bàn tay vào tạp dề - mũi chun lại giống như tất cả những người khác - “Sau đó ta sẽ kiểm tra kỹ anh ta rồi sẽ bắt đầu tiến hành chữa cho anh ta”. Các y sĩ của bộ phận phân loại thương binh tiêm thêm cho Paco một liều moóc-phin, vớ hai chai xà phòng y tế nhãn hiệu Phisohex và một nắm bàn chải cọ rửa, nâng hắn và cáng cao lên rồi đẩy sang một buồng nhỏ ở bên cạnh.
https://thuviensach.vn
Paco nhớ lại tấm rèm cáu bẩn bằng vải cứng được các y sĩ kéo vào, bóng đèn sáng rực treo bằng những sợi dây tự tạo rọi thẳng xuống mặt hắn, đám y sĩ mồ hôi nhễ nhại, túi rác ở góc phòng xệ nặng vì chứa những đồ bông băng dùng tạm ngoài chiến trường nay đã mục thối - không khí hôi hám ngột ngạt đến nghộp thở. Thật kỳ cục là hắn còn nhớ cái mùi hóa chất ngòn ngọt của xà phòng và tiếng lõng bõng của nước bọt xà phòng.
Moócphin khiến cho Paco có cảm giác đê mê ấm áp (giống như được ủ ấm dưới lớp chăn dày và cứng) trong lúc họ thoa xà phòng y tế lên ngực và cánh tay của hắn rồi bắt đầu cọ xát. Khi liều moóc-phin bắt đầu đạt tác dụng cao nhất, Paco chỉ còn một cảm không rõ ràng về một vật gì đang mài, thế thôi, giống như có ai dùng một cái thìa gỗ cùn để moi cùi đầy thớ và hạt của một quả bí ngô chín nẫu; giống như âm thanh lúc người ta chải mạnh miếng vải thô. Hắn nhớ lại lúc đó đầu của hắn lắc lư trên chiếc gối nhỏ bẹt gí (được may bằng vải bao bì trong đó nhét đầy bông băng lùng nhùng), và cuối cùng hắn không thể cưỡng nổi cảm giác buồn ngủ dễ chịu sau gần hai ngày thường xuyên ở trong trạng thái chịu đựng và chờ đợi cái chết. (Nó gần giống như giây phút đầu tiên sau khi ông cởi bỏ chiếc ba lô nặng 30-40-50 kg - cái khoảnh khắc lặng đi, tê dại, khó tả khi vai, phổi, thắt lưng của ông dường như nhẹ bỗng và toàn bộ thân người có cảm giác ngứa râm ran, tim đập mạnh, đau nhức, khó chịu - giống như bị tê bại một bàn chân và đùi. Nó giống như rút cục một công việc nặng nhọc đã kết thúc; không phải là kết thúc một cách tốt đẹp, James, mà chỉ đơn giản là đã kết thúc).
Hồi đó dùng xà phòng Phisohex và bàn chải y tế để lấy những mảnh đạn ra là một thủ tục sơ cứu phổ biến - sự dễ chịu của thương binh chẳng liên quan gì đến thủ tục này và hầu hết đều không được tiêm moóc-phin, “Phí thuốc giảm đau, Jack!” - dĩ nhiên thủ tục này phổ biến hơn so với việc bắt một lính tân binh của bộ phận phân loại thương binh dùng một cái kéo cắt móng tay, một cái kính lúp và một lọ ô-xy già để nhổ hàng trăm mảnh đạn. Vì thế các y sĩ mặt nhăn nhó vì mùi tanh tưởi mặc dù họ đeo khẩu trang, đã dùng kéo phẫu thuật lột từng tí một chiếc túi đựng tử thi bằng cao su màu đen và cắt từng miếng vải quần áo trên người Paco để lau rửa người hắn chuẩn bị cho cuộc phẫu thuật đầu tiên.
Paco thức giấc chắc vào quãng nửa đêm trong ngôi nhà lắp ghép bằng tôn chật chội bẩn thỉu nóng ngột ngạt, Phòng Hồi sức, thuốc gây mê đã hết tác dụng nên hắn thấy chân và lưng có cảm giác như kim châm, giống như có người dùng một cái kéo thợ may to như kéo xén lông cừu để rạch - két, két, két (cô y tá trực đêm có bộ ngực căng tròn đang ngồi bên dưới quầng sáng nhỏ của bóng đèn để viết gì đó vào các bảng biểu bằng một mẩu bút chì) - Paco nghĩ trong đầu rằng nếu một cánh tay hoặc một cái chân bị cắt bỏ thì về sau cái chỗ bị cắt sẽ thường có cảm giác ngưa ngứa hoặc nóng hoặc lạnh. Hắn có cảm giác khăn trải giường căng ra rồi chùng lại dưới người hắn; hắn cảm thấy hắn đang thở. Hắn nghe thấy tiếng côn trùng va phải tấm lưới bằng đồng của cánh cửa ra vào bên dưới ánh sáng điện ở mái hiên, tiếng rít của
https://thuviensach.vn
một chiếc radio ở đâu đó (người ta gọi là “tín hiệu của người chết”), có người đang đi trên lối đi tạm lát ván ở bên ngoài, miếng ván bập bềnh trên những vũng nước cạn. Tất cả diễn ra gần như đồng thời với những tiếng rên liên tục, nhịp nhàng, đều đều của một người nào đó - một thương binh khác trong phòng đang thở thật chậm để khỏi chú ý tới một vết thương rất đau đớn. Paco chớp mắt nhìn và gọi thầm, “Này”, chỉ cốt để nghe thấy giọng nói của chính mình - giống như ông tự cấu vào người mình, James, để chứng minh ông là có thật, dù sao cũng đang tỉnh táo và còn sống. Cô y tá có bộ ngực căng tròn đột nhiên ngẩng đầu lên và nhìn dọc lối đi, nhìn nhanh một lượt căn phòng đầy những thân thể khỏe mạnh cường tráng bỗng dưng trở thành tàn phế (trong phút chốc bị cưa cụt chân tay, vỡ hộp sọ, bị cắt một bộ phận cơ thể hoặc bị lòi lục phủ ngũ tạng, hoặc mặt bị phá hủy bởi đạn súng Ak ở tầm gần - viên đạn vẫn nằm trong đầu - mùi mồ hôi hôi hám nồng nặc); rất nhiều chai huyết tương và những ống màu hổ phách treo lủng lẳng; một chiếc quạt cây to đang quay tít ở góc nhà; những chiếc khay bằng thép không gỉ được xếp ngăn nắp trên những chiếc bàn ở đầu giường; những vệt sáng hắt lên trần nhà hình vòm bằng tôn. Ngay sau khi cô y tá bắt đầu để mắt tới mọi người trong phòng thì lập tức tất cả bắt đầu phát ra những tiếng động lách cách, tiếng thở hổn hển, tiếng huýt gió, tiếng vật gì va đập, tiếng cọt kẹt chói tai, và những người đàn ông bắt đầu giật nẩy mình lên hoặc nấc lên, nhưng vẫn đang ngủ rất say. Họ bị mệt lử vì thuốc giảm đau nên họ không thể nhìn, không thể nhận ra, không thể ngửi thấy bất cứ gì ngoài mùi thuốc hôi thối, tởm lợm từ bông băng và máu rỉ ra ở chỗ thịt thối rữa trên mặt đã đóng vảy - mọi thứ dường như ở bên dưới họ, ở đằng sau họ hoặc ở một nơi nào đó hoặc ở lơ lửng trên trời cách xa họ hàng triệu cây số, hoặc ở tít tận tầng trời thứ tám trăm, không thể thăm dò, không thể đi tới, vượt ra ngoài tầm của họ; chỉ có những tiếng vọng. Một người đang nghiến răng, mặt nhăn nhó, mắt trợn lên. Một người khác nằm duỗi người, những ngón chân gập vào bên trong, trán nhăn lại, nheo mắt nhìn như thể anh ta đang đếm những toa xe của một đoàn tàu hàng đang chạy qua. Một người nữa đạp chân như thể anh ta đang đạp xe đạp và quằn quại người giống như người ta rắc muối hạt to lên giường của anh ta, hơi nước phụt ra đều đều từ những cái lỗ trên mặt nạ ô-xy của anh ta. Cô y tá nhìn thấy Paco duỗi thẳng người gây tiếng động sột soạt, hắn đang dùng hai bàn tay túm chặt lấy vải trải giường rồi kéo mạnh để cố nhìn về phía cuối giường chỗ có đôi chân bó bột và băng bó của hắn nom to như cái cột. Cô ta bỏ dở công việc giấy tờ để đi ngay tới chỗ hắn và nhẹ nhàng ngồi xuống sát mép giường. Thoạt tiên cô ta trấn an hắn, nói cho hắn hay hắn đang ở đâu: “phòng hậu phẫu của bệnh viện dã chiến, anh vừa trải qua một cuộc phẫu thuật, anh sẽ còn phải mổ nữa, nhưng anh đã qua khỏi rồi”, cô ta nói rồi đưa cho hắn một cốc nước âm ấm, tay giữ chặt cái cốc giấy cao trong lúc hắn hút mạnh qua cái ống hút bằng nhựa; bao giờ Paco cũng nhớ nhất cái giọng rất trầm, rất nữ tính của cô ta. Cô ta hỏi, “Tên anh là gì? Nói cho tôi biết tên anh là gì”. Hắn nói tên của mình nhưng hắn phát hiện ra rằng hắn chỉ có thể
https://thuviensach.vn
nói được có vậy, và đúng lúc ấy hắn cố dùng các đầu ngón tay túm lấy quần của cô ta - hai bàn tay của hắn bị những vết rạch sâu, thầm tím, bỏng rộp, được băng bó chặt. Hắn muốn hỏi cô ta xem tất cả những thương binh này là ai; có ai thuộc Đại đội Alpha không, có bất cứ ai thuộc Cứ điểm Harriette hay không? “Không”, cô ta đáp rành rọt, đoán được ý của hắn, “họ ở Cứ điểm Francesca. Anh là người duy nhất ở Harriette”. Paco buông tay cho người rơi trở lại về phía sau, vẫn tiếp tục băn khoăn về chuyện này, nghiền ngẫm nó. Cô ta tiêm cho hắn một mũi moóc-phin nữa - tay bác sĩ giải phẫu đã chỉ thị cho phép tiêm cho hắn nhiều mũi nhưng không nhiều quá bởi vì nếu thằng nhãi đó mà ngoẻo thì bất cứ thằng khốn có thẩm quyền chỉ huy cũng sẽ chửi ông ta và sự nghiệp của ông ta sẽ gặp rắc rối không thể cứu vãn. Rồi cô ta kéo lại cái khăn trải giường cho phẳng (mùi da thịt thơm) - Paco bao giờ cũng nhớ lại cái mùi xà phòng nhãn Ivory của cô ta và khuôn mặt tươi tắn của cô ta trong căn phòng sáng mờ mờ và chiếc áo choàng ôm chặt lấy cơ thể khi cô ta di chuyển. Cô ta tháo những chỗ bông băng đã khô cứng (Paco bị thôi miên vì những tiếng kêu rắc rắc của bông băng khô cứng, rất nhiều bông băng đã khô cứng) rồi cô ta lau khắp người hắn bằng một chiếc khăn tắm nhỏ mềm nhúng trong một cái chậu nông nước được lấy từ tủ nước đá của phòng hồi sức. Cô y tá bắt tay vào việc bằng sự bình thản và kiên trì dịu dàng của những phụ nữ hiểu rõ nhu cầu và tác dụng của sự âu yếm thể xác - cảm giác thích được đụng chạm âu yếm và ân cần nhiều lần giống như một sự vuốt ve - cô ta lau sạch người hắn từng tí một bằng chiếc khăn mát lạnh và đôi tay ấm áp. Ngay sau khi cô ta vừa bắt đầu, Paco đã bị cửng (chẳng có gì là bất thường cả, James; dù sao chúng tôi đã ở ngoài chiến trường gần bốn mươi lăm ngày và trước đó nhiều tháng trời Paco không hề ngủ với đàn bà). Cô y tá lau vùng bụng của Paco và nhìn thấy cu của hắn dựng đứng (bị bó chặt bằng khoảng hơn một chục đường khâu thắt nút); Paco rất bối rối - người phụ nữ này là một y tá, dù sao thì cúng là một người lạ, một viên chức, khỉ gió thật!), nhưng cô ta đã làm hắn cụt hứng bằng cách vỗ nhẹ móng tay gần chục cái vào dương vật của hắn - giống như cô ta búng ngón tay vào xơ-ranh chứa moóc phin để gạt bỏ bọt không khí, chỉ có điều mạnh hơn. Cô ta rửa mặt và tai cho hắn, dùng ngón tay và bàn tay vuốt ngược tóc hắn ra phía sau. Cô ta thay băng các vết thương của hắn, kéo chăn lên tận cằm hắn và hắn nhanh chóng ngủ thiếp đi. Buổi sáng hôm sau, trước giờ điểm tâm, tay thiếu tá (nom rất mệt mỏi) đi một vòng lần lượt các phòng - trong bộ quần áo bác sĩ sạch bong, trước tiên ông ta kiểm tra Paco và khoảng hơn chục thương binh khác. Cô y tá ngực căng tròn, một tay đặt trên thành giường của Paco, đã bình thản nêu ý kiến rằng cô nghĩ anh chàng trong vụ tàn sát Đại đội Alpha sẽ qua khỏi (không nhân viên nào của bệnh viện gọi hắn bằng cái tên thật). Và dần dần, mỗi ngày một, sức khỏe của hắn khá hơn mặc dù trong nhiều tuần lễ hắn vẫn tiếp tục đi ra thứ phân sền sệt màu đen.
Một tay quỷ sứ nào đó đã nhét những mảnh đạn (những mảnh kim loại nom giống như vỏ bào và có màu như cùi dừa), những viên đạn méo mó,
https://thuviensach.vn
những vỏ đạn bằng đồng bị xé rách nham nhở, những mẩu xương mà các bác sĩ không thể gắn trở lại - tất tật - vào trong một cái lọ có nắp rồi giúi vào trong đống đồ dùng cá nhân ít ỏi của Paco (được tìm thấy từ hành trang của hắn tại Đại đội Alpha) được cất bên dưới cái bàn ở đầu giường. Nhiều tuần sau đó, trong lúc tìm kiếm đồ của mình, Paco lần đầu tiên nhìn thấy cái đống hổ lốn đó, nó đã khiến hắn nhớ lại những cái đĩa nông người ta dùng để đựng những vật lưu niệm nho nhỏ rẻ tiền, trong đó đựng đầy những cái ghim cài áo, cúc áo và những linh tinh khác mà người ta giữ lại đơn giản chỉ vì lý do tình cảm. Paco dĩ nhiên đã giữ lại cái lọ đó.
Cô y tá trực đêm chăm sóc hắn chu đáo, chuyện trò với hắn, che chở hắn trước những nhân viên thiện nguyện của Hội Chữ Thập Đỏ và cha tuyên úy của lữ đoàn. Từ chiếc ghế của cô ta tại vị trí trực của y tá ở đầu kia của căn phòng, cô ta quan sát hắn ngủ, hằng tối tắm rửa cho hắn bằng chiếc khăn mềm mại duy nhất và lần nào cũng đem lại tác dụng dễ chịu như nhau. Rồi một tối, không lâu sau khi hắn tới đây, trong lúc cô ta đang tắm cho hắn, cô ta lau sạch xà phòng trên tay rồi kích thích cho hắn cương cứng. Dương vật của hắn, chi chít những mũi khâu, ngỏng lên giữa hai đùi của hắn kèm theo những động tác giật giật thật nhanh - cu của hắn cương cứng lên nom thật rắn chắc và đẹp, mặc dù trong trạng thái hoa mắt vì moóc-phin, hắn chỉ cảm nhận được một sự viên mãn rất đặc biệt. Người phụ nữ đó một tay cầm dương vật của hắn còn tay kia vuốt ve bụng hắn, cúi xuống dùng lưỡi liếm xoay tròn đầu dương vật (nó bóng lên như một quả mận ngâm dầu) và dùng những đầu ngón tay ấm áp từ từ xoa nhẹ nó càng lúc càng nhiều (những vết khâu bị kéo căng ra khiến hắn đau nhói). Hắn đặt hai bàn tay của mình lên đầu của cô ta rồi luồn những ngón tay vào trong mớ tóc cắt ngắn - hắn thấy đê mê trong lúc tận hưởng khoái cảm tuyệt vời (giống như một cơn đau răng nhẹ). Cô ta xóc lọ cho hắn rất lâu, hắn cảm thấy sự ngập ngừng, sự khẩn cấp khủng khiếp không thể tránh khỏi. Cô ta cũng nhận ra điều ấy (hắn thót cơ hông bên dưới vải băng bó), với tay lấy một miếng bông to rồi đặt nhanh lên đầu dương vật của hắn. Khi hắn đạt tớỉ cực khoái, cảm giác sung sướng cứ thế kéo dài mà hắn không sao kìm nổi. Cô ta lau người cho hắn, rắc phấn vào bẹn hắn, và Paco cảm thấy dễ chịu bất chấp những mũi khâu - hoàn toàn dễ chịu.
Rồi một buổi tối Paco bất ngờ được đánh thức nhẹ nhàng bởi hai bác sĩ to cao, hắn được gây mê bằng một mũi moóc-phin ngoài kế hoạch, được đặt lên một chiếc cáng của phòng hồi sức rồi được đưa lên một chiếc trực thăng UH-1 bình thường đang đợi, nhấp nháy đèn, trên bãi đỗ của trực thăng cứu thương, rồi được chở tới căn cứ Tân Sơn Nhứt ở ngoại ô Sài Gòn cùng với tất cả mọi thứ trên người hắn - các vết thương bó bột, các chai huyết tương, các ống dẫn và những thứ khác. Paco và một số thương binh nặng khác, cộng với hai gã mà họ phải đợi hơn hai tiếng đồng hồ, được cột chặt vào những chiếc giá ba tầng trong ánh sáng điện đỏ mờ mờ của khoang chở hàng rộng rãi, được tiêm thêm một múi liều cao moóc-phin thứ hai rồi được chở tới những bệnh viện ở Nhật Bản, ở đó họ có thể được chữa trị, được lắp các bộ phận giả
https://thuviensach.vn
và cấy da tốt hơn, đại loại thế; ở đó họ có thể dưỡng bệnh trong sự tiện nghi tối đa và sự yen tính tuyệt vời. Trong suốt chuyến bay, những cái tủ sắt liên tục bật tung cửa rồi lại dập mạnh, chiếc máy bay xóc, lắc và rung giống như hàng ngàn mũi kim châm vào người. Paco nằm trên cáng, hai cánh tay áp chặt vào hai bên sườn, bàn tay nắm chặt đặt trên háng. Hắn nghiến răng, xoay đầu sang hai bên để làm dịu cơn đau và ráng hết sức chịu đựng (giống như những thương binh kia) trong sự im lặng đau đớn. Thờỉ gian bay là đúng năm tiếng đồng hồ không kém một phút. Hai trong số những thương binh trên chiếc máy bay đó, họ được cứu trong một trận đánh ác liệt gần Ban Mê Thuật, khóc thút thít, sau đó đã chết vì chảy máu bởi vì các bác sĩ không thể cầm máu các vết thương đang thấm qua tất cả mọi thứ - vải băng bó tại trận địa và vải băng bó tại bệnh viện, chiếc chăn bé tí và vải bố của chiếc cáng - máu có màu óng ánh.
Một tối trong bệnh viện ở Nhật Bản, một đại tá bốn sao có khuôn mặt xanh xao từ đại bản doanh của bộ chỉ huy cố vấn Mỹ của Tướng Westmoreland tại Sài Gòn, theo sau là một đoàn gồm những bác sĩ hiếu kỳ và những cô y tá hạnh kiểm tốt, đã tới buồng của Paco để trao cho hắn những tấm huy chương - một huy chương Trái tim Tím43[1] và một huy chương Ngôi sao Đồng44[2]. Viên đại tá đeo một chiếc nhẫn cưới to tướng, tay áo xắn gọn gàng bên trên khuỷu tay, quần nhà binh may đo vừa vặn nhét gọn gàng trong đôi ủng dã chiến đánh xi bóng loáng. Paco vẫn bị băng bó từ đầu đến chân, chân và hông của hắn được giữ bất động bằng những khuôn thạch cao cứng. Đại tá cúi xuống đầu giường - các bác sĩ xen vào để tháo bớt một vài chỗ băng bó quanh đầu Paco - và mắt của ông ta đột nhiên để lộ ra vẻ sửng sốt khi các bác sĩ lần lượt tháo những chỗ băng bó và đại tá đã nhìn thấy những vết thương của Paco. Đột nhiên ông ta thấy lúng túng, ông ta mở chiếc túi da nhỏ rồi đặt hai hộp huy chương lên trên chiếc bàn ở đầu giường. Ông ta túm một ít vải trên bộ pijama bệnh viện của Paco ở chỗ túi áo ngực rồi luồn cái đinh ghim của huy chương Trái tim Tím xuyên qua đó và gài nó lại. Bàn tay sạch sẽ, móng tay được cắt sửa, tỏa ra mùi thuốc lá tẩu đắt tiền phong vị đồng quê. “Vì những vết thương đã phải chịu đựng”, ông ta nói bằng một giọng nhỏ nhẹ và đều đều, vừa vặn đủ to để tất cả mọi người trong buồng đều nghe thấy. Sau đó ông ta cầm lấy chiếc huy chương Ngôi sao Đồng. “Vì lòng dũng cảm đặc biệt”, ông ta nói, nhắc lại một câu nói chính trong những lời tuyên dương, rồi cài chiếc huy chương khiến nó bị oằn xuống bên cạnh chiếc huy chương kia đến nỗi mọi người trong căn buồng chỉ chiếu sáng vừa đủ rì rầm bình luận về nỗi hai chiếc huy chương đã bị treo lủng lẳng nom rất kỳ cục trên những chỗ băng bó trên người hắn. Đại tá cúi xuống thấp hơn nữa, hơi gí người Paco xuống tấm đệm, và thì thầm điều gì đó vào tai hắn. Paco không sao nhớ nổi ông ta đã nói gì khi ấy mặc dù nhiều lần hắn đã cố suy nghĩ tìm hiểu, nhưng bao giờ hắn cũng nhớ lại cái hơi thở âm ấm phả vào đầu và tóc của hắn. (Lúc ấy hắn nhớ lại rất rõ những ngày hắn còn bé và những buổi tối
https://thuviensach.vn
nọ cha hắn đi chiếc dép lê bằng da và mặc chiếc quần ngủ rộng thùng thình bước vào phòng ngủ của hắn đã tắt đèn, lặng lẽ ngồi xuống mép giường và hát cho hắn ngủ bằng giọng thì thầm khàn khàn:
Ông ba bị đến kìa,
Bước chân nhẹ nhàng,
Nhón chân đi vòng quanh,
Bàn tay bé nhò rắc cát,
Vào đôi mắt những em bé đang buồn ngủ.
Paco nhớ lại bàn tay ấm áp và rắn chắc của cha lúc ông xoa lưng cho hắn, và bài hát của ông bao giờ cũng dỗ hắn ngáp vì buồn ngủ, và cái cách cha cúi xuống để hôn hắn khi ông hát xong).
Đại tá vụng về chạm tay vào những dải ruy-băng, hai chiếc hộp nhỏ và những tờ giấy lụa ghi lời tuyên dương, đôi mắt của người đàn ông đó ươn ướt khi ông đứng dậy để rời khỏi căn buồng, ông chào Paco “Tạm biệt, anh trung sĩ”, theo sát ông là các bác sĩ và y tá.
Đó là lý do Paco không bao giờ vứt những chiếc huy chương đó hoặc đem chúng tới hiệu cầm đồ mặc dù rất nhiều lần hắn định làm thế và mặc dù những tấm huy chương đó là những vật hoàn toàn vô giá trị - Quân đội phân phát chúng như bỏng ngô, ông có hiểu không, giống như những tấm vé dùng lại khi một trận đấu bị hoãn do thời tiết xấu. Hắn vẫn giữ trong lòng hồi ức về cái hôn và câu nói thì thầm hôm đó. Hắn vẫn còn giữ những chiếc huy chương, chúng được đặt trong bộ đồ cạo râu nằm trong chiếc túi xách nhà binh để ở bên dưới ghế ngồi trên chiếc xe cứu hộ của trạm xe buýt Texaco - những chiếc hộp đựng huy chương dính đầy bọt cạo râu, ngấm mùi nước thơm xoa mặt rẻ tiền và hai tờ giấy tuyên dương bị gập làm tám như những vỉ diêm nhỏ.
https://thuviensach.vn
Paco vào thành phố
Anh chàng thợ máy lái chiếc xe cứu hộ đi vào quốc lộ tiểu bang hai làn rồi chạy về hướng ngoại ô của thị trấn, đi qua những ngôi nhà một tầng thanh nhã, được xây chắc chắn, và những xe moóc cắm trại loại nhỏ nom sạch sẽ và đỗ thành hàng lối. Anh ta cho xe rẽ vào bãi đỗ xe rộng rải sỏi nhỏ của quán Tender Tap của Rita, ngay trước mặt là cây cầu bắc qua sông, xích kéo, xà beng và những dụng cụ nặng khác phát ra những tiếng kêu loảng xoảng ở thùng sau của xe.
Ồ, quán của Rita nom giống như rất nhiều quán rượu ở ven những xa lộ trên thế giới rộng lớn này - một con đường nhỏ nứt nẻ dẫn vào quán, những bụi cây thấp ở mặt tiền, cửa sổ kính màu với những biển quảng cáo nhãn hiệu bia bằng đèn nêông nhấp nháy, và một tờ đề-can hình chiếc cốc lớn dán trên kính ở cửa trước - một hình nhân lùn gầy còm cườỉ nhăn răng ngớ ngẩn, mũi giống như tay nắm cửa, đôi mắt ốc nhồi nhìn hiêng hiếng, hai má tròn đỏ ửng lấm tấm mụn trứng cá, tay cầm một tờ giấy cuộn ở góc trên và góc dưới (giống như một bản tuyên bố, James à) ghi thế này:
CỞI TRẦN
KHÔNG ĐI GIÀY
MIỄN PHỤC VỤ
Ai đó đã viết ở bên dưới:
MIỄN PHỤC VỤ HƯỚNG ĐẠO SINH
Và một người nào đó đã viết thêm ở bên dưới:
MIỄN PHỤC VỤ CỨT
Đỗ trong bãi đậu xe là những chiếc Old45[1], Merc, Buick và Caddy (tất cả đều bị xệ nhíp sau), những chiếc Chevy bị gỉ lỗ chỗ, những chiếc xe tải nhỏ cũ kỹ, những chiếc xe tải nhỏ kín dùng cho việc giao hàng, và cuối cùng nhưng không phải là kém quan trọng, là hai chiếc xe ben tự động của các nhân viên quản lý đường bộ của quận Wyandotte có bộ phận rắc cát46[2] vẫn còn gắn ở phía sau.
Chuck, anh chàng thợ máy, đỗ xe vào bãi. Paco cầm lấy chiếc túi xách nhà binh, ngỏ lời cám ơn vì anh ta đã cho quá giang xa đến thế, rồi định đi về phía cây cầu. Nhưng tay thợ máy, không phân biệt được thế nào mới là đủ,
https://thuviensach.vn
năn nỉ được đãi Paco một cốc bia, vừa nói vừa kéo tay hắn, “Đi nào, ông bạn. Tôi chỉ vừa giúp anh thôi mà. Vào đi”.
Đúng lúc ấy trời bắt đầu mưa lắc rắc nên Paco chịu thua lòng hiếu khách và cả hai cùng đi vào quán của Rita.
Bao giờ cũng có thể đoán được những khách quen nếu nhìn vào những gì đậu trong bãi đỗ xe. Những người chào hàng tới để quảng cáo bộ dụng cụ sửa xe Snap-on, radio gắn trên xe hơi, Kinh Thánh và những tài liệu khác liên quan đến đức tin (Tìm thấy Thượng đế, Làm sao để thoát khỏi những bất hạnh trong cuộc sống, Hãy cư xử tự nhiên với Đấng Giê-su!)-, họ uống whiskey không pha. Những kẻ thất bại tay trắng và những thợ công nhật vô tích sự đang trên đường tới California hoặc Nevada hoặc Oregon hay Alaska để thử nốt vận may cuối cùng; họ uống bia Mỹ loại rẻ tiền nhất ở quán của Rita. Những gã ném tiền trợ cấp cựu chiến binh vào những đêm chơi bài poker, họ đang trên đường tới Florida kiếm một miếng đất rẻ như bùn để “đầu tư”; họ uống Jack Daniel's47[1] bỏ thêm nước. Những kẻ đầu cơ ít vốn,
họ coi phong cảnh miền quê chỉ như của cải và tiền bạc tiết kiệm để dưỡng già - hãy năng nhặt chặt bị, Jack, rồi té nhanh; họ uống whiskey với đá ở quầy ba. Chưa hết, còn có hai chiếc xe tải chở đầy những gã nhà quê của hạt quản lý đuờng bộ của quận Wyandotte, họ có tác phong nhanh nhẹn nhưng lười nhác, bao giờ họ cũng ngồi ở quán của Rita một tiếng trước khi hết ca làm rồi phóng nhanh về ga ra để chấm công. Họ ngồi tì hẳn bụng vào quầy ba, nốc bia hơi Pabst Blue Ribbon rút từ vòi hoặc bia chai Hamm's, khoe những chiếc nhẫn đeo ngón út, chưng đôi giày ủng bảo hộ cao trên đầu gối nom rất mốt và ngầu giống như giày kỵ mã, dây giày giống dây của giày leo núi, và áo gi-lê bảo hộ (một mặt là màu ngụy trang còn mặt kia là màu da cam phản quang). Họ đem theo những túi nhỏ bằng da đựng thuốc lá sợi hoặc bánh thuốc lá sợi nhãn Day's Work, Red Man và Mail Pouch hoặc thuốc lá bột để hít đựng trong hộp thiếc. Tất cả đều đội mũ lưỡi trai giống mũ của người chơi bóng chày - mũ mới tinh trên có in logo của trang trại De Kalb, một con heo cười toe toét hay một con gà trống giống lơ-go hay một bắp ngô vàng rộm đang bay.
Tất cả khách trong quán đang uống bia hoặc một đồ uống khác, nhấm nháp bỏng ngô được hâm nóng lại, Beer Nuts48[2] hoặc Slim Jims49[3], và chọc ghẹo Rita, một phụ nữ cao lớn khỏe mạnh để đầu xù, mặc bộ quần áo đồng phục màu đỏ và đen của người chạy bàn, và có một “cặp vú to và đẹp”, đám nhà quê đó sẽ nói với ông như vậy, James. Rita rất biết cách ve vãn người nổi nhất trong đám, cô ta ngả đầu ra phía sau và dùng hai bàn tay đập đập vào chỗ hõm trên ngực, cười phá lên rồi nói, “Ôi, George Luntke! Ôi, Georgie, ông đúng là một gã rất giỏi chòng ghẹo! Đúng là một thằng cha mắc dịch!
https://thuviensach.vn
Georgie Porgie, bánh pút-đinh và bánh nướng,
Hôn các cô gái rồi làm họ khóc...50[4]
Cô ta nói một câu bắt chước vần của bài thơ, “Sao, ông cũng có kém cạnh gì, lão già hư đốn”. Rita đùa với bất cứ ai, khách quen hay khách lạ. Cô ta biết cách xoay tiền boa của khách, biết cách làm cho người khác mời mình những ly rượu pha thêm nước hoặc biết cách đãi tất cả khách trong quán một chầu rượu nhân sinh nhật một người nào đó (hoặc một dịp được phịa ra) để khuyến khích khách uống rượu.
Ở phía trên đầu của Rita phía sau giá để cốc chén, có một bóng đèn chiếu sáng trưng mọi thứ trong quán - rượu đang rót, đồng hồ đeo tay, tóc sạch sẽ, nhẫn, bùa, vòng bằng vàng tây, bút máy cài túi áo, sơn móng tay, cổ áo hồ bột cứng óng ánh, và gỗ ốp trang trí ở nhiều chỗ. Đám nhà quê đang ngồi với nhau ở góc cuối quầy ba để chơi trò súc sắc ăn bia, niềm nở chào Chuck và tiếp đón Paco bằng cái nhìn lạnh lùng. Ngay sau đó họ hỏi Chuck về Duck, người thợ máy kia. Họ chọc ghẹo Chuck về việc chỉ vì hai đốt ngón tay trầy da thôi mà làm như chuyện ghê gớm lắm khi anh ta giơ bàn tay của mình cho Rita xem hòng xin một chút tình thương mẫu tử và sự chăm sóc không cần thiết.“Tộ... nghiệp thằng bé Chuckie”, một người trong đám nhà quê (mặc một chiếc áo bằng vải len màu xanh pha xám) ca bằng một giọng thiểu não. “Bị đau mấy ngón tay xinh xinh. Nên không thể sờ soạng bằng ngón tay băng bó xấu xí kia”, gã đó làm điệu bộ xúc động, dựa người vào quầy rượu, liếc nhìn những gã nhà quê còn lại. “Nếu cô nàng nhìn thấy rõ cái của khỉ đó giữa thanh thiên bạch nhật, cô ta sẽ nói, “Ôi, Chuckie-wuckie, kinh tởm quá! Hãy ngoan ngoãn đút cái đó vào túi quần như một cậu bé ngoan nào. Em chỉ thích lăn lộn với anh trên cỏ khô, cậu bé của em ạ, nhưng tối nay anh có cái giẻ rách ấy trên ngón tay, anh yêu. Gọi cho em khi nào anh chữa khỏi tay nhé?”. Gã mặc áo vải len đập tay xuống mặt quầy ba, xoay tròn người trên ghế đẩu, vốc quân súc sắc rồi uống cốc bia của mình trong lúc những người khác cười phá lên. Ngay cả Chuck cũng cười, anh ta đã quen với việc mình là mục tiêu của những câu đùa và trò chơi khăm của họ.
“Mình giống hệt một gã tân binh đéo nào đó”, Paco nghĩ thầm trong lúc duỗi một chân lên trên một chiếc ghế đẩu và móc cây gậy lên trên quầy ba. Hãy gọi một cốc bia, uống xong và đợi trời tạnh thì lên đường.
Một gã ngồi ở giữa quầy ba cười toe toét vì trò đùa nói trên, ném một ít tiền lẻ lên mặt quầy giữa những cốc uống bia, khăn ăn và những chỗ rượu bị đổ ra trên mặt quầy và đề nghị đãi anh chàng ấy một ly “whiskey đích thực để hắn có thêm can đảm” khi người ta mổ bàn tay của hắn một lần cho mãi mãi. Rita nhấn vòi lấy bia cho Paco và anh chàng thợ máy sau đó đi vào trong để tìm bộ dụng cụ sơ cứu. Một gã nhà quê khác, gã có yết hầu nhọn như cái khuỷu tay, hất hàm về phía Paco trong lúc nói bằng giọng vừa lịch sự vừa
https://thuviensach.vn
hăm dọa, “Ê, Chuckie, bạn cậu là ai thế?”.
Paco lấy ngón tay lau cốc bia đẫm hơi nước. “Tên tôi là Paco. Vừa đến đây bằng xe buýt. Tìm việc làm; các anh có biết chỗ nào không? Tìm một chỗ để ở lại”. Đó là tất cả những gì hắn nói, hắn nghĩ trong đầu, “Hãy trả lời thẳng, nói bằng một giọng bình thường, uống hết bia đợi trời tạnh thì ra khỏi đây”.Gã có yết hầu nhọn nhoài người trên mặt quầy chỗ bóng đèn rọi xuống và nói, “Cứt lắm, ông bạn ơi, cứ việc đi tìm cho đến khi mòn gót giày. Người ta nói thế nhỉ?”
“Anh định nói là ở đây không có việc làm?”, Paco hỏi.
“Không có việc làm ở cái chốn khỉ ho cò gáy này đâu, không có đâu, tôi nói thế đấy. Không đúng sao?”, anh ta nói rồi nhìn những gã nhà quê khác trong đội của mình. Ai cũng sẽ nói như thế. Cái xưởng đúc phò phạch thì sớm muộn sẽ đóng cửa bất cứ lúc nào. Tuyến đường sắt trước đây tuyển dụng bất cứ thằng vô công rồi nghề tàn tật nào mà họ bắt gặp trên đường” - gã đó chợt nhìn thấy chiếc gậy của Paco, ai trong quán cũng đều nhìn thấy - “thì ngay cả họ bây giờ cũng trở nên kén cá chọn canh và hầu như chẳng tuyển dụng người nữa. Gã Fisher của xưởng Griffin cứ mỗi kỳ trả lương lại sa thải một đống công nhân”. (Tất cả những lời khuyên này, James, là của một anh chàng suốt đời - cách này hay cách khác - sống bằng trợ cấp thất nghiệp và anh ta có được công việc tại hạt quản lý đường bộ của Quận là nhờ ông cậu của anh ta. Trong ba mươi năm tới anh ta sẽ xúc cát, muối rắc đường để làm tan tuyết và nhựa đường trên thùng sau của một chiếc xe ben bằng một cái xẻng cán dài - với mức lương phổ thông, dĩ nhiên. Và nếu anh ta cư xử tốt và được mấy ông bạn chí cốt của ông cậu chấp nhận, một ngày nào đó anh ta sẽ được giao một chiếc xe tải hạng nặng hoặc chiếc máy xúc hoặc thậm chí một chiếc xe lu - với mức lương phổ thông. Và anh ta sẽ có một cuộc sống nghỉ hưu tử tế chẳng kém cạnh ai, với một cái bụng phệ nhưng chưa bao giờ trong đời anh ta lao động trung thực lấy một ngày).
“Đây là lời khuyên của tôi”, gã đó nói trong lúc lấy một nhúm to sợi lá bạc hà đặt xuống dưới lưỡi, “hãy quay lại Texaco ngay rồi lên chuyến xe buýt đầu tiên để đi khỏi đây, hãy đi thật xa chừng nào mà anh vẫn còn tiền để làm điều ấy” - đó chính là cái cách mà Paco đã làm để đi tới tận nơi này, James à.
Và tất cả những điều này diễn ra trong lúc Chuck đặt bàn tay của anh ta lên một chiếc gạt tàn thủy tinh còn Rita liên tục đổ từng cốc dung dịch ô-xi già lên những đốt ngón tay chảy máu dơ dáy của anh ta. Chuck nhìn trân trân về phía truớc, nốc từng cốc bia với sự tập trung đặc biệt. Paco nhìn anh ta giữ bàn tay thẳng dơ trên chiếc gạt tàn, dung dịch ô-xi già sủi bọt. Hắn lịch sự tới mức khoa trương và chẳng hứng thú gì khi nghe gã nhà quê đó nói, hắn để ý nhiều hơn tới cơn đau đang tăng dần khiến bụng hắn nóng rực và cơn đau lan dần sang vùng thắt lưng, hắn từ tốn uống cạn cốc bia (trong lúc nghe những dấu biệu báo trận mưa đang yếu dần) - cơn mưa ngớt không hề làm cho cơ thể của hắn dịu đi, ông có hiểu không - đôi mắt của hắn lờ đờ và mệt mỏi vì
https://thuviensach.vn
chuyến đi bằng xe buýt. Đột nhiên hắn cảm thấy thực sự ngộp thở vì mùi rượu trong quán; hắn cảm thấy cơn mưa yếu dần rồi tạnh hẳn. Hắn cầm lấy đồ của mình lên rồi đi về phía cửa ra vào, cám ơn anh chàng vì lòng mến khách; hắn nghĩ thầm trong đầu, “Rồi mày sẽ thấy phát bực vì những con người này!”
Không khí ngoài trời mát lạnh và ẩm ướt nhưng có điều gì đó khiến người ta có cảm giác mặt trời sắp xuất hiện. Paco đi quanh co giữa những chiếc xe hơi đang đậu, hắn định đi qua cây cầu để vào thị trấn nằm cách đó không đầy ba trăm bước. Hắn gượng cười nhăn nhó vì cơn đau lại xuất hiện, mỗi lúc một tăng vì thuốc đang dần dần hết tác dụng; hắn tự nhủ “Mày có hai việc phải làm trước khi trời tối, tìm việc làm và một chỗ ngủ; bất cứ công việc mắc dịch nào, tất nhiên, kể cả việc làm công nhật rẻ mạt, và một chỗ để ở lâu dài chứ không phải là một chỗ tá túc”. Tôi đã phát ớn vì những chỗ người ta cho tá túc, phát ớn vì ngủ ngoài trời có bao nhiêu quần áo đều quấn hết lên người, mẹ kiếp ông có thể tin như thế đi; phát ớn vì những vựa cỏ ẩm mốc gây ngứa ngáy, những bệnh viện (những nơi người ta cho phép ngủ nhờ), và những nhà trọ tập thể bẩn như cứt, nồng nặc mùi thuốc diệt gián.
Không khí quanh hắn đượm mùi nước mưa bốc hơi từ mặt đường rải nhựa màu thép xám - mùi thơm nhè nhẹ dễ nhận thấy của mặt đất ẩm ướt - những tán lá lấp lánh nước mưa làm lóa mắt hắn, hơi lạnh ngấm đều đều vào giày và bàn chân đau nhức của hắn. Paco rảo bước đi về phía chiếc cầu khung thép mảnh khảnh nom như tấm mạng nhện (ngành kỹ thuật gọi đó là cầu khung thép kiểu Howe, ông có hiểu không) - mặt đường đi trên cầu được rải nhựa đường dày hơn một foot51[1] và nước chảy xuống rãnh thoát nước trông giống như nước bùn bị đóng băng. Những bộ phận bằng sắt nhằng nhịt nhau - dầm kéo, dầm xoắn và những thanh giằng ngang ở bên trên trông giống cái lưới mắt cáo - được thiết kế rất thanh thoát. Cây cầu đã cũ - được cạo gỉ rồi sơn lại rồi lại cạo gỉ rồi sơn lại nhiều lần đến nỗi tấm biển ghi tên nhà thầu không thể đọc nổi và không thể đoán nó được xây vào năm nào. (Lão già Cruikshank sống ở bến tàu ở Andresen ở phía hạ du sẽ kể lại rằng hồi còn bé ông từng là cậu bé xách nước cho đội thi công cây cầu này. “Đó là năm 1904, cùng năm đó xưởng đúc bắt đầu chế tạo những nồi hơi và những bộ phận khác cho tuyến đường sắt”).
Bao giờ Paco cũng nhớ lại lúc đi bộ qua cây cầu này, James, với thị trấn nằm ở ngay trước mặt. Ngay bên dưới, cách chừng tám đến mười mét là cái đập ngăn lũ cao và vững chắc (giống như những công trình công cộng được xây trong những năm 1930). Nước tràn qua bề mặt của con đập xây bằng đá và bê tông, nom giống như một tấm khăn, một hành trình lặng lẽ, không thể cưỡng lại, một ánh sáng phản chiếu lấp lánh như ánh bạc, mềm mại, không thay đổi, và tiếng của hàng ngàn lít nước điên cuồng đổ xuống dòng sông, như thôi miên hoặc giống như trong một giấc chiêm bao, cứ ngân mãi trong ký ức của Paco. Ở phía bên phải, xa tít về phía thượng du hắn chỉ nhìn thấy
https://thuviensach.vn
một vùng nước sâu rộng mênh mông, mặt nước phẳng lặng, lung linh giống như chân trời trên một sa mạc nóng bỏng. Những cây thích và sồi, cây sung Ai Cập, cây óc chó và những bụi liễu già rậm rạp rủ xuống mặt nước. Ở phía hạ du, dòng nước xoáy mạnh khi chảy qua lòng sông có những rạch đá; dòng sông tách ra, xòe ra thành nhiều dòng chảy giống như một hình tam giác giữa lòng sông có sỏi to như nắm tay hoặc mỏng như miếng bánh quế, những dòng nước đó chảy chậm rãi qua lòng sông lác đác sỏi đó rồi lại nhập lại với nhau làm thành một dòng chảy thẳng băng chảy qua chỗ nước sâu tới thắt lưng giữa những mố cầu xây bằng đá của chiếc cầu đường sắt xấu khủng khiếp kia. Sau đó dòng nước bắt đầu chảy xiết, sủi bọt, mất hút trong khu rừng rồi tiếp tục băng qua những đồng cỏ gia súc mọc rải rác hoa cỏ và khu rừng cây lấy gỗ rậm rạp hơn.
Dòng nước dâng lên rồi cuồn cuộn đổ xuống làm bốc lên một màn sương mù dày đặc. Đúng vào lúc ấy Paco đột nhiên thấy có cảm giác ớn lạnh và hắn bỗng có một trực cảm - một linh cảm thực sự, James à - về việc hắn sẽ cảm thấy thế nào khi trở nên rất già.
(Thỉnh thoảng sương mù bốc lên từ mặt nước sủi bọt tạo ra một cầu vồng ở phía xa - bao giờ cũng vào buổi sáng, khi ánh sáng tạo ra một góc vừa đủ. Cái cầu vồng ấy, chắc chắn và tráng lệ như cột52[1], quét lên bầu trời một hình vòng cung duyên dáng rồi biến mất sau những thanh dầm bằng sắt bên dưới có những con dơi treo người bám vào đó và những tổ chuột. Đôi khi xuất hiện cầu vồng đôi. Bọn con trai trong thị trấn ra bờ sông săn ếch bằng cung tên, tất cả ở độ tuổi tám đến mười ba, bất chợt phát hiện ra những chiếc cầu vồng đó, chúng sung sướng đến run người, chúng ngước nhìn lên bầu trời, trong lòng lấy làm kinh ngạc, thét to gọi nhau, “Này, nhìn nó kìa”, - không phải bao giờ chúng cũng hiểu được đó là điều may mắn của chúng: nhiều năm sau này chúng sẽ nghĩ cuộc đời may mắn của chúng, những may mắn bất ngờ liên miên, đều là nhờ sự tài giỏi ích kỷ của chúng hoặc do khả năng gan góc của chúng chứ không phải bởi vì biết bao những niềm vui sướng tình cờ mà không gì so sánh nổi, ông có hiểu không, James).
Những đám mây u ám bao phủ khắp bầu trời bên trên thị trấn và những đồi cây dốc đứng bao quanh thị trấn, nhưng một phút sau ánh nắng chiếu xiên qua lớp mây u ám đó, hoàng hôn đang đến gần và đột nhiên - giống như ta đột ngột hít một hơi thật nhanh vì ngạc nhiên về điều gì đó - một thứ ánh sáng chói chang, gay gắt, giống như một cơn mưa rào mùa xuân, tràn ngập phố xá và không gian. Tất cả mọi màu sắc đều sáng rực rỡ - màu vàng chói của chồi cây, màu xanh tươi của cây non, màu đỏ sẫm của cây cầu gỉ, màu đen bóng của những mảng nhựa đường mới vá, màu mạ crôm sáng long lanh của những chiếc xe đậu dọc con phố. Toàn bộ thị trấn hiện ra trước mắt hắn (và cả chúng tôi nữa, James, nom thật hấp dẫn, huyền ảo và khủng khiếp như một kỳ quan được phát hiện; giống như một câu đố có thưởng - dãy cửa hiệu cũ kỹ có cửa sổ kính to màu tối và cửa ra vào hai cánh hẹp, nhà làm bằng
https://thuviensach.vn
khung gỗ hoặc xây gạch đỏ với một tầng duy nhất, mái lợp amiăng hoặc tôn xiêu vẹo thủng lỗ chỗ vì mưa nắng; từng cái đinh gỉ, từng viên đá lát vỉa hè, mỗi một vết gợn nhỏ trên tấm kính cửa sổ, mỗi chuyển động nhấp nhô gợi cảm của đám mây ở trên cao, chỗ này một nét đỏ nhạt, chỗ kia một nét vẽ màu đỏ tươi hoặc những nét to màu hồng hoặc màu xám, ở tít tận phía xa là một màu gỉ đồng ướt lấp lánh trông giống như một khúc cá hồi vừa được bắt ở sông Hoh.
Cái ánh sáng màu vàng rực ấy khiến người ta phải nheo mắt - Paco đang đi ngược chiều ánh sáng đó, hắn cảm thấy uể oải vì hơi nóng phả vào mặt, ngực và bụng, hầu như không thể nhận ra hắn đang đi khập khiễng, một tay cầm chiếc gậy bằng gỗ óc chó màu sẫm, tay kia xách chiếc túi xách nhà binh căng phồng (mấy đôi tất được gấp cẩn thận, một chiếc quần bò Levi's dự trữ, áo sơ mi lao động, mấy chiếc áo thun đã sờn, một bộ đồ cạo rầu, hai chiếc huy chương, giấy khen và những thứ linh tình khác), hắn vẫn tiếp tục nghĩ trong đầu “Mày phải tìm được việc làm và một chỗ để ở lại”.
Nơi đầu tiên hắn tình cờ nhìn thấy là cửa hiệu bán đồ khô của lão Elliot nằm ở bên tay trái - tấm biển hiệu choán hết tủ kính bày hàng, mặt tiền bị gỉ lỗ chỗ.Bên trong tủ kính mặt tiền, một tấm biển con được đặt dựng đứng trên một chiếc ghế trẻ em kiểu cổ với dòng chữ đọc lên như sau:
- Vâng -
Chúng tôi
- Mở cửa -
và cánh cửa lưới sắt khép hờ, nhưng Paco không nhìn thấy ánh đèn bên trong. Hắn đặt đồ đạc sang một bên, dán mắt vào kính (có những vệt nước mưa), lấy tay che mắt. Hắn nhòm vào trong, nghe thấy tiếng lẩm bẩm, nhưng hầu như không nhìn thấy gì. Hắn nhìn qua tấm ri đô mỏng ở gian trong, nhìn thấy một chiếc ghế bành Lincoln chân thấp bên dưới ánh đèn nêông sáng rực, lưng ghế uốn cong được đan bằng mây; sàn nhà vương vãi những tờ báo dính lem luốc những vết bột nhão màu đỏ - và phía sau chiếc ghế là một đống lộn xộn những dụng cụ làm mộc được đặt trên một chiếc bàn thợ chân cao. Một bóng đèn ở mặt tiền của cửa hiệu bật sáng, Paco hít một hơi, bước vào rồi dừng lại ở chỗ cửa ra vào đợi cho mắt quen với bóng tối. Căn phòng có mùi nhựa thông hăng hắc, mùi quần áo ngấm nước đái, mùi keo dán làm từ động vật và mùi ẩm mốc bốc ra từ các thùng các-tông đựng những cuốn sách cũ bìa mềm. Cửa hiệu chật chội được xếp cao đến tận trần những chiếc rương thủy thủ bị mối xông, đồ gỗ phong cách quê mùa sơn sặc sỡ được xếp thành đống lộn xộn, những chiếc xô đựng đầy đến miệng những đồ vật sưu tầm lạ mắt, những thùng đựng bia chai cũ và những chiếc sọt đựng quần áo chất đầy những dụng cụ làm bếp bỏ đi. Phía bên cạnh, dưới ánh đèn sáng chói của chiếc đèn dáng cổ ngỗng uốn cong đặt trên một chiếc bàn giấy lớn có nhiều ô
https://thuviensach.vn
ngăn kéo, lão Ellis ngồi vắt vẻo trên một chiếc ghế đẩu bằng sắt, cái lưng bè bè cúi xuống một miếng kê bằng nỉ xanh (bị cọ xát đến nhẵn bóng như da một con sơn dương); lão đang tháo các bộ phận bên trong của một chiếc đồng hồ quả lắc. Phần lớn các ngăn kéo đều để mở, để lộ những chồng mắt kính đồng hồ, những hộp nhỏ bằng thiếc đựng bánh răng, lò xo và chìa khóa lên giây đồng hồ, những khay đựng giũa và kẹp, nhíp, kìm mỏ vịt và những dụng cụ kim hoàn tinh xảo khác - được lão sưu tầm vào những lúc rảnh rỗi trong suốt cuộc đời lao động của lão.
Nếu có ai hỏi lão Elliot rằng làm sao mà lão lại tới sống ở cái thị trấn bé nhỏ này, lão sẽ kể bằng giọng lè nhè, bất trị của dân vùng trung Âu - đánh vật với việc phát ra từng nguyên âm và phụ âm - “tôi tóng ủng cho Hồng Quân”, lão nói rồi nhẹ nhàng đặt chiếc đồng hồ xuống, ngước nhìn lên. “Tong thời kỳ cách mạng năm một nghìn chín chăm mười bảy và mười tám, khi ấy tôi còn trẻ và chẳng biết chuyện gì ra chuyện gì. Tôi điên tiết khi quân lừa đảo khốn kiếp đó không muốn chả tiền! Tôi bảo thằng chính ủy đểu giả đó “chúng mày chẳng khác gì một bọn Cô-dắc ăn cướp chết tiệt. Chúng mày nhận ủng mà không thanh toán tiền. Chúng mày nấy thực phẩm mà chẳng thanh toán đồng đéo nào. Hóa ra vẫn còn những thằng tàn sát người Do Thái ở trong thành phố lày. Tao đái vào cuộc cách mạng của chúng mày, đồng-chí đồng cheo đéo gì! Tao khạc nhổ!”. Thế là tôi đến xứ lày và mở cửa hiệu lày”. Lão Elliot kiếm được rất nhiều tiền bằng cách đánh lừa những người nông dân tại những buổi bán đấu giá và bán hàng tồn kho. Tên thật của lão đã bị vứt bỏ tại Đảo Ellis53[1], nó đã bị quên hẳn từ lâu, và bây giờ lão xưng tên mình là Henry Frazier Elliot. “Kiếm được đồng nào là tôi dành dụm hết. Gửi cho bà nhà tôi - Darinka. Giờ thì bà ấy đã mất rồi - cầu Thánh Konstance ở Kiev đoái hoài tới bà ấy”, lão nói trong lúc làm dấu thánh từ phải sang trái theo cách của người theo đạo Chính thống.
Lão già cúi gập người xuống mặt bàn, mải mê nghiên cứu công việc của mình - lão đeo một đôi kính to gọng vàng, một miếng kính phóng đại của thợ đồng hồ, một kính lúp, được kẹp vào gọng kính vàng đó và bẻ quặp xuống một bên mắt. Làm việc chậm rãi, kiên trì và tỉ mẩn, và tiếp tục câu chuyện với Darinka, bà vợ đã mất từ lâu của lão - “Thế đấy, Darinka, tôi bảo với cái anh chàng trong thị trấn, “cậu chỉ cần đánh một chiếc xe tải to đầy tiền tới đây - toàn bộ là tiền mặt. Tôi già rồi nên không thích phiền phức vì những tấm séc và ba cái thứ vớ vẩn đó. Tôi cam đoan rằng cậu sẽ không đến đầy rồi ra về tay không đâu. Hãy mang cho tôi tiền giấy mới láng coóng, cậu quả là một anh chàng tốt bụng!”. Bà thấy phi vụ đó thế nào, Darinka?”.
Sau đó lão Elliot tiếp tục công việc, trong lúc đợi Darinka trả lời lão dùng một chiếc nhíp mỏ dài để lục tìm một con vít nhỏ trong một ngăn kéo nông. Đúng lúc lão Elliot hít một hơi, nghỉ tay để nói chuyện một lát nữa với Darinka thì Paco gõ nhẹ chiếc gậy vào chân bàn rồi nói, “Xin lỗi bác”. Lão Elliots giật nẩy mình, ngẩng đầu lên nhìn cái bóng nghiêng nghiêng của Paco
https://thuviensach.vn
nom giống nhu một bóng ma tương phản với ánh sáng cuối buổi chiều chói gắt hôm đó. “Hả?”, lão già hỏi, hạ thấp cằm để nhìn Paco qua cặp kính và chiếc kính lúp.
“Tôi muốn gặp bác để xin một việc làm”, Paco nói to và rõ ràng, tì lên chiếc gậy, nhìn lão già rồi lại liếc nhìn ra chỗ khác.
“Việc nàm? Việc nàm à? A-ha, Darinka ơi, anh chàng này đang đi tìm việc cơ đấy!”, lão Elliot la lớn, liếc nhìn ra phía sau. “Anh muốn nói tới công việc gì?”. Lão già cười khoái trá một mình, giơ chiếc nhíp kẹp một cái bánh răng sắc nhọn của bộ phận hẹn giờ của đồng hồ rồi cẩn thận xem xét nó ở ngay bên dưới ánh sáng chói gắt của chiếc đèn hình cổ ngỗng.
Paco đáp bằng giọng kiên quyết và tự tin nhất, trong lúc nhìn thấy qua tấm rèm ở ô cửa một chiếc ghế bành đang trong quá trình phục chế lại mặt ghế và lưng ghế bằng mây đan: “Tôi đang tìm bất cứ một công việc nào ổn định. Tôi có thể học làm bất cứ công việc gì trong cửa hiệu này”.
Lão Elliot, hay quên và khó tính đến mức không thể chịu nổi cách làm việc của bất cứ ai, nói, “Thôi được, hãy để tôi hỏi anh một câu, được không? Một anh chàng trẻ trung như anh tại sao lại dùng chiếc gậy kia?”, rồi lão thọc mạnh chiếc nhíp vào không khí, sang bên trái.
Paco xoay xoay cái gậy hai hoặc ba lần như thể hắn muốn bắt chặt nó vào sàn nhà - mỗi lần quay nửa vòng.
James, đã bao nhiêu lần rồi, Paco phải trả lời câu hỏi đó? Hắn đã kể đi kể lại nhiều lần, kể cả những chi tiết tầm thường nhất, hắn kể tóm tắt, kể như thể đó là một câu chuyện đùa vớ vẩn đếch nào đó (đến nỗi cả câu chuyện của hắn ứa ra những mâu thuẫn trớ trêu, những sự cay đắng mỉa mai); hắn kể cho những gã say rượu lúc hắn đã say mèm; kể cho bạn học cũ thời trung học gặp lại hoàn toàn do tình cờ (những gã mà Paco ngỡ đã tống khứ từ lâu và không bao giờ nghĩ sẽ gặp lại trong quãng đời còn lại); kể cho những người đàn bà đang kiên nhẫn chờ cho hắn kết thúc câu chuyện để đưa hắn lên giường rồi tự mình nhìn và sờ vào những vết sẹo của hắn. Có những người hắn đã kể lại toàn bộ câu chuyện không giấu giếm một điều gì, kể về nỗi khiếp sợ khốn khổ làm cho tâm hồn con người trở nên đê tiện, kể về công việc bẩn thỉu, mệt mỏi, cực khổ của một thằng lính trơn (gạt sang một bên sự giết chóc tàn bạo); kể về việc hắn đã bị thương như thế nào, hắn đã sống sót kỳ lạ ra sao trong cuộc tàn sát ấy - bị bỏ lại trong tình trạng gần như đã chết, James, ông có hiểu không. “Trong một ngày rưỡi tôi đã nghĩ rằng mỗi hơi thở của tôi sẽ là hơi thở cuối cùng và tôi chắc chắn sẽ chết. Như cứt, điều buồn cười là cái Cứ điểm Harriette chết tiệt ấy lại được coi là một miếng bánh ngon ăn, giống như người ta trở về ngủ đêm trong ngôi nhà nơi đã lớn lên - thật không tin nổi”, hắn kể với những người đó.
Paco (đứng cạnh một chiếc bàn trên đó có một chồng những tấm phim đèn chiếu hình nổi cũ kỹ về St. Petersburg, Khartoum, Lisbon và San Francisco) lập tức rút gọn toàn bộ câu chuyện thành một câu duy nhất hết sức đơn giản, hắn đứng ngay ngắn lại (cố gắng đứng thẳng người nhất có thể) rồi
https://thuviensach.vn
nhìn thẳng vào mặt lão già và nói cộc lốc, “tôi bị thương trong chiến tranh”. Hắn đứng thẳng người, giống như hắn đang giãn nở. (Đột nhiên có cái gì đó như dòng diện chạy qua, James ạ).
Lão Elliot nghe thấy “bị thương trong chiến tranh” bèn hạ thấp cằm nhìn qua đôi kính - chiếc gậy bằng gỗ óc chó màu sẫm, giày lao động, chiếc quần bò bạc thếch, áo sơ-mi nhàu nát và diện mạo mệt mỏi vì đi đường. Có điều gì đó trong giọng nói, trong âm lượng giọng nói của Paco, điều gì đó trong sự hiện diện vật chất của hắn - lão già nhìn thấy Paco hiện ra lờ mờ trong ánh sáng ở chỗ cửa ra vào. Rồi đột nhiên lão thấy không kìm nổi một cảm xúc đang dâng lên và tháo tung những hồi ức dồn dập của hơn năm mươi năm trước.Lão già, khi đó mười lăm tuổi, tay bám chặt vào thanh vịn và nắm đấm ở cửa lên xuống của một toa xe chở súc vật đang chạy về phía đông khi lão đào ngũ khỏi quân đội của Sa hoàng vào năm 1917 một lần cho mãi mãi, lão luồn chiếc thắt lưng vòng qua thanh vịn cho thêm chắc chắn, đi cả ngày lẫn đêm suốt một tuần lễ dưới trời mưa tuyết giá lạnh, ngả người ra phía ngoài để đái, nhìn thấy những toa xe khác cũng có những người đảo ngũ - vai của lão sưng tấy, tím bầm hàng tuần sau đó vì bị lắc mạnh. Lão hồi tưởng lại kỵ binh đã tấn công vào ngôi làng của lão. Những tảng thịt mông ngựa được lột da bằng dao nhíp, được chặt nhỏ bằng rìu bổ củi rồi treo trên những rui kèo bằng gỗ trên mái của ngôi nhà nơi cả gia đình lão ẩn nấp - máu từ thịt mớỉ mổ chảy thành giọt xuống đống rơm cao lùng bùng tới đầu gối (pốc- pốc-pốc...). Lính kỵ binh cưỡi ngựa không thắng yên, chân quấn vải, súng trường đeo chéo sau lưng trông giống như bao đựng cung tên; da đen sạm, râu mọc xồm xoàm và người hôi hám bẩn thỉu vì sống bữa đói bữa no trong rừng; chúng quất những người đàn ông gan dạ nhất trong làng bằng những chiếc roi da ngắn và dày. Những tên lính tản ra để đi tới từng ngôi nhà trong làng, vét sạch các chạn thức ăn rồi nhét hết vào những chiếc túi vải. Trong lúc ấy những con ngựa lùn, lông rậm trông giống như những kiện bông, đứng xung quanh chiếc giếng của làng trong thứ phân sền sệt, người chúng bốc hơi và hơi thở khàn khàn tạo ra những đám hơi nước (chúng bay là là mặt đất bởi vì trời rất lạnh). Cả lũ đê tiện đó, mặt mũi hung dữ sưng sỉa cúi xuống nhìn, la hét và cười nhạo trong lúc những ông già bà cả trong làng (trong đó có cha tôi) gom những đồng xu bằng vàng và bằng đồng rồi đặt vào trong chiếc mũ lông dơ dáy của tên chỉ huy đội kỵ binh. Lính kỵ binh trêu chọc trẻ con bằng cách giả đò thọc lưỡi lê và kiếm, và sờ soạng phụ nữ đang run lẩy bẩy, chiếc khăn bà già quấn chặt lấy đầu và mặt, vẻ rất xấu hổ. Gia súc kêu inh ỏi trong lúc bị dồn qua cánh đồng bùn tuyết nhão nhoét để tớỉ khu rừng. Sau đó những tên kỵ binh lực lưỡng nhất đã chặt đầu những người đàn ông trong làng, giết họ bằng một cái rìu mà chúng vớ được - chân tay bị trói, quỳ rạp người xuống van xin được tha; gáy bị chém từng nhát như gỗ; những cái đầu lâu bị chặt đứt lăn lông lốc trong bùn; những cái xác không đầu đổ về phía trước, máu xối ra từ những vết thương to tướng. Nhiều mùa đông sau, lão đã bỏ trốn
https://thuviensach.vn
cùng với bộ đồ nghề đóng giày: đi bằng đường bộ tới Ba Lan, tới nước Đức (trên đường đi lão đã học được nghề sửa chữa đồng hồ), rồi lão tới nước Anh và Mỹ; khi đi qua nước Nga lão thấy rất nhiều lính ngồi bắt tréo chân, trước mặt là một khẩu súng máy hoặc một ụ gác được xây bằng những bao cát tại một nơi xa lắc xa lơ không một bóng người, vai họ gập cong, đầu cúi xuống, cánh tay và mặt mũi đang bị tuyết dần dần phủ kín - không một xu dính túi, họ bị đóng băng thành một khối trông giống như những người đang ngủ gật gục mặt xuống đĩa đầy ú ụ thức ăn.
Lão Elliot ngồi trên chiếc ghế đẩu cao bằng sắt ở phía sau chiếc bàn thợ trong cửa hiệu chật chội của lão, nhìn trân trân vào khoảng không, nhớ lại tất cả mọi chuyện. Ngay lúc này và tại đây lão có thể dễ dàng nhắm mắt và ngửi thấy mùi của bụi rơi lấm tấm qua những vệt nắng mặt trời sáng chói lọt qua những khe hở của gian chái nơi gia đình lão đang ẩn nấp trong đống cỏ, lo sợ cho mạng sống của họ. Lão có thể ngửi thấy mùi những súc thịt thú rừng bắt đầu có mùi ôi đang đung đưa trong không khí, có thể nghe thấy tiếng kêu cọt kẹt của những sợi dây cứng nhắc được bện bằng vải. Đến lúc này lão bắt đầu thấy bối rối và đột nhiên trong lòng cảm thấy buồn bã thấm thía, tuyệt đối, đến nỗi lão chỉ có thể nghĩ ra một câu hỏi duy nhất để hỏi Paco, “Đó là cuộc chiến tranh nào, chàng trai?” - tất cả những hồi ức trên vẫn còn sống động, giằng xé trong lão.
Và biết bao nhiêu lần rồi, James à, người ta đã nhìn Paco một cách dò xét và kẻ cả rồi hỏi, “Đó là cuộc chiến tranh nào?” cứ như thể chưa một từ nào về cái điều vớ vẩn này đã để lộ ra cho báo chí. Paco trả lời lão Elliot - bất chấp lão già là người thật thà, đang tức giận và vô hại - gần giống hệt như những lần trả lời khác, “Bác nói thế nào chứ, đó là cuộc Chiến tranh Việt Nam”. Lão già vặn vẹo người trên ghế, lắc đầu - lão chưa bao giờ nghe nói tới cái địa điểm ấy - nhưng trước khi lão kịp trả lòi thì Paco đã định quay gót, ra khỏi cửa và bước ra không khí mát rượi bên ngoài.
“Xin lỗi đã làm phiền bác”, hắn nói khẽ, ngụ ý nói tới chuyện xin việc làm rồi khép cánh cửa lưới lại ở phía sau hắn.
Lão Elliot vẫn nhìn chằm chằm vào không khí, búng cái mắt kính lúp xuống một bên mắt, hạ thấp chiếc đèn cổ ngỗng để chiếu rõ hơn vào sản phẩm của lão, tự nói với mình bằng tiếng Nga, “Tôi đang làm đến đâu rồi nhỉ, Darinka?”. Lão ngoái đầu nhìn ra phía sau về phía chiếc máy khâu Singer còn mới toanh, những ngăn kéo nhét đầy những phụ tùng linh tinh. Lão thấy bối rối và hoang mang. “Darinka? Bà nó có thấy anh ta rất giống Dmitri con trai của Lyuba không?”.
Hơi nước dày đặc đẫm mùi nhựa đường và mùi sắt bị đốt nóng bốc lên từ mặt đường rộng bị mặt trời hun nóng. Paco đi về phía hiệu cắt tóc của Hennig, hơi nước âm ấm lúc này đã bốc lên tới tận đầu gối hắn và hắn có cảm giác ngứa ngáy, gặm nhấm, đau nhói ở vùng bụng và lưng giống như tiếng vo ve của một tổ ong bị hun khói.
Lão Elliot lắc đầu, dùng chiếc kìm mỏ vịt ấn một bánh răng hẹn giờ hình
https://thuviensach.vn
nón vào trong một cái trục, lão hoàn toàn đồng ý với chính mình, “đúng là rất giống Dmitri!” (tối hôm đó ở gian sau của cửa hiệu nơi lão dùng làm chỗ ở trong lúc cởi quần áo đi ngủ lão sẽ nói chuyện với Darinka về Paco và hàng tá điều khác mà lão đã chứng kiến và tưởng tượng trong ngày hôm đó. Lão sẽ ngồi xuống mép giường, nhấm nháp một cốc to whiskey không đá. Con chó già Spice của lão, một con chó giống Labrador bốc mùi hôi hám đang nằm ngủ, hầu như không nhìn thấy nó giữa những tấm kính màu và những con búp bê bằng sứ vẽ tay, nó sẽ liếm cái lưỡi dài ram ráp lên những ngón chân đỏ tía của lão để ăn muối. Lão già đột nhiên sẽ ngước nhìn làm như có ai đó đã vỗ lên đỉnh đầu của lão - hơi ấm của whiskey không đá bốc lên khiến lão cay mắt mũi. Và rút cục sự thật về Paco đã trở nên rõ ràng đối với lão, chàng trai đó lúc chiều đã vào cửa hiệu của lão để hỏi xin việc - chỉ có thế thôi. Lão sẽ nhìn chằm chằm vào một chiếc đèn bằng kim loại hình một vũ nữ múa hula54[1] ở đầu giường của lão - làn da của cô ta màu nâu, đầu vú và đôi môi màu hồng, đôi mắt và mái tóc màu đen. Lão sẽ buột miệng thốt ra trong lúc nhìn chiếc đèn, “Cơ mà Darinka ơi! Dmitri, con trai của Lyuba đã chết từ bốn mươi lăm năm nay rồi! Không thể là nó được!”).
Paco băng qua đường để sang cửa hiệu cắt tóc của Hennig giống như hắn bước lên một sân khấu - cửa kính của hiệu cắt tóc khá to và đèn được thắp sáng rực. Một biển hiệu cắt tóc hình trụ nằm ở cạnh cửa ra vào đang quay chầm chậm. Ở bên trong cửa hiệu, những chậu rửa bằng sứ, những chiếc ghế quay tay dành cho khách và gạch gốm lát nền nhà màu đen - trắng ánh lên những tia lấp lánh dưới ánh đèn nêông - tường được ốp những tấm gương được chạm khắc và ở cuối căn phòng có một chiếc ghế băng cũ kỹ dùng để ngồi đánh giày. Hennig, một gã cao to tóc xoăn xức dầu vuốt ngược về phía sau, hai chân đứng giạng như đang kéo nước giếng, lúc làm việc gã thích đứng ở vị trí đối diện cửa sổ để có thể theo dõi người đi qua kẻ đi lại. Lúc Paco khom người bước vào cửa hiệu của Elliot, gã nhìn kiểu tóc quê kệch xấu xí của Paco đã biết ngay đó là một lính Mỹ mà chẳng cần phải nhìn lại đến lần thứ hai, ông có hiểu không, James. (Gã sẽ bình luận trong lúc đi những nhát kéo giống như cây đũa của một nhạc trưởng, “Tất cả những gì tôi phải nói với ông về chuyện này là ở trong quân đội bất cứ tay bị thịt đần độn nào chỉ cần biết cầm cái lược cũng có quyền cắt tóc cho ông. Toàn bộ những gì những gã ngốc này biết làm là xoẹt-xoạt- xoẹt” - Gã làm điệu bộ khua kéo trong không khí - 'Người tiếp theo!”’). Hennig chậm rãi chải tóc cho khách, vẩy nước rồi ép sát tóc xuống - bàn tay của gã có mùi xì gà, hành tây và thuốc nhuộm tóc. Gã đi kéo một vòng theo chiều này rồi lại theo chiều kia, không lúc nào ngơi tay kéo, dùng mắt ước lượng cái đầu của khách giống như một nhân viên đạc điền đang đo một mảnh đất. Người đàn ông đang ngồi trên ghế, ông Holland, chủ hiệu tạp hóa trong khu trung tâm mua sắm nằm ở phía tây thị trấn, ngồi thẳng đưỡn lưng, vẻ nghiêm nghị căng thẳng, đầu gối nhô lên dưới tấm áo choàng rộng, cảm thấy rất không thoải mái cứ như ông ta
https://thuviensach.vn
đang ở trong phòng khám răng. Hennig tiếp tục công việc, chải, cắt, nói chuyện vói những người khách đang đợi đến lượt, làm hai động tác cắt kéo chắc nịch trong không khí để chỉ vào Paco khiến mọi con mắt trong cửa hiệu đều hướng vào Paco khi hắn bước vào cửa (làm phát ra tiếng kêu leng keng của cái chuông bé móc vào một sợi dây) - Holland liếc mắt lườm Paco.
Hennig chỉ tay vào chiếc ghế ở cuối hàng gần cửa ra vào, ra hiệu cho Paco ngồi xuống đó rồi nói, “Tôi sẽ làm cho anh ngay bây giờ đây”. Paco ngồi xuống, đẩy chiếc túi xách nhà binh vào trong gầm ghế rồi cởi áo khoác.
Ở đầu kia của hàng ghế có một người đàn ông to cao béo phị mà tất cả mọi người gọi tên là Russell. Mọi chỗ trên người ông ta đều màu mỡ - tóc trên đầu rậm và dựng đứng, mũi tẹt, dáng người như bò mộng, ngón tay ngắn, dầy và mềm, đôi chân ngắn mập, bàn chân to. Ngồi bên cạnh ông ta là bà vợ, Muriel, người cũng béo tốt nhão nhoẹt không kém (“Tôi thích kiểu người nhỏ nhắn nhưng béo tốt, các vị có hiểu không, nó giống như thể đêm nào tôi cũng được nằm bên cạnh một cái mông đít nóng bỏng, các vị hiểu ý tôi nói chứ, a ha-ha”). “Bà vợ bé nhỏ”, như cách ông ta gọi, đi đôi giày nhãn Hush Puppies và tất nilông cao tới đầu gối, hai tuần một lần bao giờ bà cũng đi cùng chồng tới hiệu cắt tóc để giám sát, dặn dò Hennig điều này điều nọ, thanh toán đúng một đôla tiền giấy hoặc tiền xu - tờ giấy bạc được gấp cuộn lại theo cách rất kỳ cục còn tiền xu thì vẫn còn chưa bay hết mùi kẹo si-rô.
Ngồi cạnh Muriel là lão già Cruilshank làm nghề bán mồi câu sống tại bến tàu ở Andressen. Lão có thú vui ngồi ở phía sau cửa hiệu bán mồi câu ở mạn thượng du con sông để ngắm cây cầu - lão nhớ lại hai tháng trời cả thung lũng đều nghe thấy tiếng búa tán đinh rivê của thợ sắt; người ta đã phải chật vật thế nào để đặt những thanh dầm xoắn cuối cùng vào đúng vị trí; hai công nhân đã tử vong; và đủ mọi thứ chuyện. Cruilshank lật qua những số báo cũ của tờ Popular Mechanics và Field and Stream đã nhàu nát như giẻ rách vì dở xem nhiều lần.
Ngồi bên cạnh Cruikshank là Virgil Harriman, một lính cứu hỏa của thị trấn thích tranh luận về bóng chầy.
Sau khi tất cả mọi người đã kịp nhìn kỹ Paco, Hennig xoay người lại nhìn Russell, kín đáo chỉ tay vào ông ta rồi gật đầu, chắc là để ra hiệu, James ạ.Russell nhấc người lên và cúi về phía trước giống như ông ta sắp tiết lộ với mọi người một bí mật lớn, rồi nói (cứ như thể ông ta đã luyện tập cả buổi chiều hôm đó, James ạ), “Nào, nói thử xem, có ai biết tuần trước có một anh chàng bị bắn chết tại chỗ?”. Russell nhìn xung quanh. Vợ ông ta ngồi ngả người về phía sau, chân bắt tréo tận đầu gối, tay giữ chặt chiếc túi xách tay, vẻ mặt tươi cười rạng rỡ. Cruikshank và Harriman xoay người trên ghế, đảo mắt cứ như thể họ sắp nghe không biết đến lần thứ mấy một câu chuyện bịa đặt nhẫn tầm nào đó. Holland ngồi bất động, cặp mắt sáng liếc nhìn Russell, chớp mạnh khi Hennig cắt một lọn tóc. Lúc này Hennig cúi hẳn người xuống, nhón chân tiến lại chỗ Russell, lắc đầu, chậm rãi và tự tin, rồi vui vẻ thì thầm
https://thuviensach.vn
bằng một giọng rất kịch, “Sao, vì lòng nhân từ, Russell, không, tôi không nhớ ông đã bao giờ kể. Chuyện xảy ra thế nào hả?”, gã hỏi với giọng giả đò ngạc nhiên.Russell, một người ba hoa bẩm sinh, dùng mu bàn tay và cả năm ngón quệt mồm, đặt bàn tay lên đầu gối rồi bắt đầu kể.
“Chà” ông ta nói, “Phải nói đây đúng là một câu chuyện bất hạnh chưa từng thấy”. Ông ta nhìn chằm chằm khắp lượt để gây sự chú ý của mọi người. “Một thằng nhà quê mặt bóng nhẫy - đen như đít nồi, cho phép tôi bổ sung - đã bị bắn chết tươi trong khi hắn định ăn cướp tại Hội chợ Bingo của Hội Elks55[1]. Tính đến Thứ Năm này là được ba tuần. Các vị chắc đã đọc trên báo rồi?”. Henrtig tỉa tót vài chỗ, cắt cây kéo lách cách vào không khí rồi lắc đầu nhẹ ra ý chưa đọc. “Vâng, lúc đó tôi đang ở đấy nên tôi có thể cam đoan với các vị rằng tôi đã nhìn kỹ thằng đó đã làm cái điều hoàn toàn dại dột đơn giản chỉ vì ngu (thứ lỗi cho thứ tiếng Pháp của tôi, bà nó nhé) - ý tôi muốn nói tới những việc làm ngớ ngẩn nhất của bọn da đen - nhưng cái vụ cuối cùng của nó thì ngu nhất hạng. Cái thằng đó - tên nó là Rufus hoặc Zebedee hay Snowflake hoặc một cái tên ngớ ngẩn kiểu ấy - chắc là một nhân viên phụ việc hoặc nhân viên rửa bát ở nhà bếp phía sau. Ố, nó biết khá rõ sơ đồ của chỗ đó nhưng chắc hẳn nó kém khôn bởi vì nó không tính được rằng Hội chợ Bingo của Hội Elks được quản lý bởi vợ của hai viên cảnh sát - oa-ha-ha. Để tôi kể cho nghe, nó có bộ mặt rất buồn cười của một thằng da đen khi biết được điều này - oa-ha-ha. Hai người phụ nữ, hai bà vợ - Effie Webb và Darlene Jean Miller - đang ngồi bên một cái bàn đánh bài nằm ở ngay góc khuất sau cánh cửa ra vào và giá treo áo khoác, họ đang đếm tiền thu được buổi tối và phân loại các cuống phiếu lĩnh thưởng, nhấm nháp cốc-tai Wallbangers và thì thầm với nhau những câu chuyện tục tĩu. “Đâu là sự khác nhau giữa thô tục và bệnh họan?”, một bà hỏi, đầu cúi xuống lấy tay che miệng. “Thô tục là khi anh ta chỉ nhổ một cái lông, chị hiểu không, còn bệnh hoạn là khi anh ta xơi cả con gà mái! Nói thế không có gí quá đáng’”. Và bất ngờ thằng nhóc đó lượn tới chỗ bàn đánh bài và rút khẩu súng lục bé tí cỡ nòng 22 li (thứ lỗi cho thứ tiếng Pháp của tôi, bà nó nhé) và nói - các vị có hình dung nổi không - “Đưa tiền mau thì sống”, và với tay túm lấy chiếc thùng đựng tiền vừa hay đang đầy ắp tiền (tối hôm đó họ thu được quãng 260 đôla tiền chơi bingo, đều là tờ 1 đôla và 5 đôla hoặc 10 đôla). Đúng như tôi nghĩ, tối hôm đó không phải là tối thằng đó chơi bingo gặp hên - oa-ha-ha - bởi vì các ông chồng của họ đang đứng hút thuốc và tán gẫu ở góc nhà gần chỗ mắc treo áo khoác (thứ lỗi cho thứ tiếng Pháp của tôi, bà nó nhé), một tai nghe tiếng gọi bộ đàm của các xe tuần tra còn tai kia nghe tiếng Clementine Agee xướng to các con số của trò chơi bingo. Vừa nghe thấy “... đưa tiền mau thì sống”, họ từ góc hành lang nhảy ra, nhất loạt chĩa cục sắt (đấy là cách họ gọi súng) vào thằng nhãi khốn nạn rồi nói “Đứng lại! Cảnh sát đây!” và thằng nhãi đó chưa kịp chớp mắt và nuốt nước miếng thì họ đã bắn thẳng vào hắn
https://thuviensach.vn
sáu hay bảy viên đạn - khiến hắn không còn toàn thây, theo như cách nói nào đó (thứ lỗi cho thứ tiếng Pháp của tôi, bà nó nhé - oa-ha-ha. “Thằng đó chảy máu như lợn bị chọc tiết và đi thẳng xuống địa ngục trước khi kịp đổ gục người xuống - Tù binh chiến tranh!”. Russell nói, hai tay bất ngờ giơ lên cao, mắt mở to. “Và suốt thời gian còn lại của buổi tối hôm đó chúng tôi tìm những viên đạn găm trong đồ đạc bằng gỗ để lấy chúng ra. Vâng, thưa Ngài, khi khách chơi bingo nghe thấy tiếng ồn ào, họ nháo nhào lao ra hành lanh, há hốc miệng ra nhìn - mọi người bàn tán đến mỏi cả mồm - và vào lúc đóng cửa thì khắp các góc nhà đều có những vệt máu. Bà vợ bé nhỏ của tôi đây đã phải ở lại làm thêm giờ để lau dọn sạch sẽ”. Bà vợ của Russell thôi ngồi bắt tréo chân, người hơi cúi về phía trước, tay nới lỏng chiếc túi xách. Bà ta thọc tay vào sườn Russell, cấu mạnh vào cánh tay ông ta rồi nói, “Malcolm Herbert Russell, tôi thực sự muốn ông sửa đổi cách ăn nói, nhưng mà đúng thế đấy, Hennig ạ, ông lão nhà tôi kể đúng sự thật đấy. Những vết “dơ”, chúng tôi khẳng định như vậy, có ở khắp trên sàn nhẩy, nhà vệ sinh, thậm chí ở phòng chứa thực phẩm ở phía sau nơi câu lạc bộ Elks cất giữ những đồ vật trang trí lễ Giáng sinh và Ngày Valentin”. Khi Russell kết thúc câu chuyện và bà vợ của ông ta phụ họa một câu vớ vẩn thì Hennig cũng cắt xong cho Holland và đang mài lưỡi dao cạo như thể đang đu đưa một lưỡi liềm - mỗi cú quét trên đá mài lại phát ra tiếng kêu của thép không gỉ. Sau đó Hennig dùng mặt sau của các ngón tay lấy một nhúm bọt cạo xà phòng rồi hào phóng thoa và táp lên gáy và tai của Holland - Holland liếc mắt theo dõi. Sau đó Hennig choàng một chiếc khăn tắm sạch lên vai của Holland và bắt đầu tỉa tót mái tóc vừa cắt, một tay giữ chặt cái đầu của ông già để nghiêng nó sang bên này, bên kia. Hennig khéo léo cầm chiếc dao cạo, lách những đường gọn và nhanh quanh tai và gáy, thỉnh thoảng lại lau sạch bọt xà phòng ở lưỡi dao cạo, và chỉ một loáng đã hoàn thành công việc. Mọi người đều nhìn đôi mắt của Holland lườm trái, lườm phải, không biểu lộ tình cảm gì cả. Họ nghe thấy tiếng lưỡi dao sột soạt trên làn da, tiếng rung của thép được mài sắc.
Giữa lúc đang còn giở tay, Hennig nhìn Paco rồi hỏi, “Tôi giúp gì được cho anh?”.
Và Paco, người có thể nhận ra loại người lười biếng (và những loại người bất tài an phận thủ thường) khi nhìn họ, khi hắn liếc nhìn tất cả những người đang ngồi trên ghế, hắn dựng đứng chiếc gậy ở giữa hai chân, quan sát Holland nhìn Hennig trong lúc gã lau lưỡi dao cạo vào chiếc khăn tắm. Paco nói, “Thực ra tôi không vào đây để cắt tóc”.
Và Paco chưa kịp nói thêm một lời nào nữa thì Russell đã hỏi, “Vậy anh vào đây làm gì?”.
Paco đáp, “Tôi vừa xuống xe ở Texaco. Tôi vào thị trấn để tìm việc làm, tìm một chỗ để ở lại”. “Thế à”, Russell nghĩ thầm. “Quán ba nằm ở bên kia đường”, Paco liếc nhìn phía sau ông ta theo hướng của quán Tender Tap của Rita, “chật cứng những gã rượu chè bê tha và những gã dẻo mồm nhưng
https://thuviensach.vn
chẳng động chân động tay làm bất cứ việc gì. Còn ông già ở bên kia đường” - Paco dùng cán của chiếc gậy ra hiệu phía bên kia đường - “luôn mồm nói chuyện với một người nào đó vắng mặt - nhưng tôi đồ rằng các ông đều đã biết phần nào chuyện này”.
Tất cả mọi người đều biết về Elliot và bà vợ đã mất của lão, Darinka. Ông Henry Frazier Elliot là một người nước ngoài đến sống ở đây, lão có cách cư xử kỳ quặc - “gàn dở”, Russell nói - lão ăn nói “kỳ cục”, ăn mặc “kỳ cục”, say mê một “công việc kinh doanh kỳ cục”: mua sạch hàng nông trại bán đấu giá và của cải tịch biên của người nghèo”, Russell kể. “Mẹ kiếp, như thế có thể gọi là công việc kinh doanh đứng đắn của một tín đồ Cơ đốc được không?”. Russell thấy ông Elliot kinh doanh theo cách “kỳ cục”, “bán cái thứ đồ tạp nham - thế mà người ta gọi đó là đồ cổ đấy, có nghe rõ không? - cho những người phân phối ở những thành phố lớn. Đúng là một lão già lẩn thẩn, kỳ quặc”, Russell sẽ kể với ông như vậy.
Harriman - một người bà con xa với dòng họ Harriman ở miền Trung của tiểu bang New York - một trong số những lính cứu hỏa ít ỏi của thị trấn từ nhiều năm nay, “Đây là công việc tốt nhất của tôi”, gã sẽ nói như vậy, gã làm việc láng cháng ở đồn cảnh sát, theo học chương trình đào tạo kinh doanh từ xa, tự học nấu ăn và sửa chữa đồ chơi của trẻ em và chưa bao giờ bận tâm tới công việc. Russell xoay sở chỗ này chỗ kia, kiếm đủ tiền để sống bằng công việc tu bổ và “sửa chữa nhà” không đến nỗi tồi. Xét mọi nhẽ thì Russell là người ích kỷ và khó gần - “Chẳng ai giúp đỡ tôi cả” (mặc dù rất nhiều người đã từng giúp ông ta) - và nếu ông ta có nghe ngóng thấy có công việc nào thì cũng chẳng hé môi nói cho Paco biết. Còn Charles T. Holland, chủ tiệm hàng khô, từ nãy giờ vẫn nhìn Paco chăm chú - một cựu chiến binh, Holland nghĩ trong đầu, loại người đó thì ta nên chủ động giúp đỡ, mái tóc của anh ta được cắt khá gọn, nhưng chiếc gậy kia, bộ quần áo tả tơi kia và ánh mắt khang khác của anh ta (có phải tất cả bọn họ đều có ánh mắt như thế?) cũng chẳng thuyết phục nổi ai mua tặng một đôi giày tử tế, hãy tin tôi đi. Với lại người ta đã nghe quá nhiều câu chuyện về cách cư xử đột nhiên rất kỳ cục của họ. Đừng, Holland này tốt nhất là không, ông ta nghĩ trong đầu.
Hennig rót nước thơm vào lòng bàn tay, vỗ lên gáy của Holland rồi xoa. Holland giật nẩy mình vì cảm giác buốt lạnh, nói: “Tôi thực sự muốn giúp anh, chàng trai ạ, nhưng tôi chẳng nghe nói tới bất kỳ công việc nào. Còn anh?”, ông ta quay sang hỏi Hennig lúc này vừa xong công việc của mình. Hennig cởi chiếc tạp dề, thả cho nó trượt ra khỏi đầu gối của Holland rồi giũ nhẹ. Gã liếc nhìn dò xét Russell và Muriel, lão Cruikshank và Harriman rồi nói: “Tôi chẳng biết gí cả. Còn các ông?”. Tất cả mọi người đều lắc đầu. Hennig bèn nói: “Sao anh không thử tới tiệm giặt là Boussierre ở bên kia đường. Họ có một tấm bảng ghi các tin rao vặt để phục vụ các khách hàng của họ. Có thể anh sẽ tìm thấy điều gì đó. Xin lỗi tôi không thể giúp gì được, chàng trai ạ”.
Vậy là trước khi Holland rút ví ra để trả tiền, trước khi Russell đứng dậy,
https://thuviensach.vn
kéo quần lên rồi ngồi yên vị trên chiếc ghế cắt tóc ấm áp, trước khi Muriel nhổm mông trên mép ghế, thì Paco đã nói lời cảm ơn rồi biến mất sau cánh cửa cùng chiếc túi xách nhà binh và chiếc gậy bằng gỗ óc chó màu sẫm. Hắn bước ra ngoài trời, vẫn thứ ánh sáng vàng chóe lẫn trong làn mưa xuân, đi sang bên kia đường xuyên qua làn hơi nước đặc như bộ lông thú bốc lên đến mắt cá chân từ mặt đường rải nhựa - hơi nóng của mặt đường nhựa thấm qua giày, hơi nước mát lạnh có mùi nước mưa sạch sẽ bọc quanh hai ống chân của hắn.
Hennig đứng bên cạnh hộp đựng tiền, đang xếp lại tiền trong lúc mắt vẫn nhìn Paco - tất cả mọi người đều dõi theo Paco và buông một lô những lời đùa cợt vớ vẩn, James, vì họ tin chắc sẽ chẳng bao giờ còn gặp lại hắn. “Những anh chàng tham chiến ở Việt Nam đều tin chắc chúng ta nợ họ điều gì đó, có phải thế không nhỉ?”.
Paco đi quanh co giữa những chiếc xe đang đậu trên bãi, càng lúc càng phải gắng sức vì những cơn đau ở lưng và chân, hắn ngửi thấy mùi xà phòng và mùi quần áo, mùi thuốc tẩy và hơi nước nóng của tiệm giặt là Boussierre. Hắn bước qua cánh cửa được chèn để mở ngỏ - những chiếc máy giặt nằm dọc một bức tường, nhiều chiếc rung bần bật phát ra tiếng kêu ro ro trong lúc quay để vắt kiệt những mẻ quần áo. Nằm dọc bức tường thứ hai là khoảng mười hai hay mười ba chiếc máy sấy đang phát ra tiếng động ầm ĩ - những cái nút và dây đai phát ra tiếng lách cách rất to. Ở giữa hai bức tường là rất nhiều những chiếc bàn rộng, chân thấp và có thể gập lại được. Bốn cô gái trẻ đang đứng rải rác bên cạnh những chiếc bàn, lưng quay ra phía cửa ra vào, họ đang gấp quần áo đã giặt vẫn còn nóng được bỏ trong những chiếc túi vải to. Họ không nhìn hoặc nghe thấy Paco khi hắn bước vào, họ đang xem một bộ phim nhiều tập trên một chiếc tivi cỡ to đặt ở góc trong của tiệm giặt, thỉnh thoảng lại thò tay vào trong những chiếc túi vải để lấy ra một vật gì đấy - bít tất hoặc quần đùi, khăn mù soa, vải phủ sôfa hoặc áo sơ mi. Họ ôm từng chiếc vào người, gấp rất nhanh và khéo rồi xếp từng chiếc lên chiếc bàn ở trước mặt. Nhưng họ vẫn không rời mắt khỏi màn hình của chiếc tivi để xem một người đàn ông dáng vẻ quý phái mặc chiếc áo sơ mi bằng vải flanen rộng thùng thình và chiếc quần nhung sọc kẻ, anh ta đang đọc một tờ báo trải rộng trên một chiếc bàn ăn, đánh dấu các tin rao vặt bằng một chiếc bút dạ trong lúc trả lời những câu hỏi sốt sắng từ một người phụ nữ đang bận tay bên chậu rửa bát trông có vẻ như là bà mẹ, anh ta trả lời các câu hỏi một cách rất cặn kẽ giống như một người kể chuyện hoặc một luật sư. Các cô gái giặt là đang theo dõi cuộc đối thoại chậm rãi, họ vừa chăm chú vừa mê mẩn, họ chỉ thỉnh thoảng cúi xuống để vuốt cho phẳng những chỗ vải nhăn nheo, kiểm tra xem có chiếc khuy nào bị đứt và dùng móng tay giật những sợi vải thừa rồi búng vào không khí như búng tàn thuốc lá.
Paco đứng ở lối cửa ra vào, chống tay hết sức lên chiếc gậy, James ạ, hắn đưa mắt quan sát tiệm giặt là để tìm chiếc bảng thông báo trứ danh và đúng lúc ấy những cô gái đó - chiếc áo đồng phục của học sinh trung học, vạt áo
https://thuviensach.vn
ngắn bỏ ra ngoài ôm quanh hông - đã làm hắn nhớ lại những cô gái người Việt tại tiệm giặt bằng tay bẩn như nhà thổ ở Ham Lom56[1](chúng tôi đặt tên là Gookville) nằm ở bên kia đường, đối diện với Cứ điểm Harriette. Hàng ngày vào lúc chiều tối, quần áo đựng trong những chiếc sọt đầy ắp được chở bằng xe Lambretta ba bánh và xe Honda từ căn cứ Phuc Luc vào trong cái ấp đó và rất nhiều những cái ấp khác ở cái chốn khỉ ho cò gáy này. Vào buổi sáng, Paco và chúng tôi, James ạ, thường nằm ườn trên cái mái nóng và lổn nhổn của một chiếc hầm boongke nào đó ở khu vực bảo vệ vòng ngoài của căn cứ (cái mái hầm đó dày bằng chiều cao của chúng tôi) dùng ống nhòm của Lester (lính bắn tỉa của đại đội) để quan sát tụi con gái đó đang giặt quần áo trên một bãi đất phẳng và trống cách đó 135-150 mét. Mấy con đĩ này (tất cả đều mười lăm, mười sáu hoặc mười bảy tuổi, ông có hiểu không) làm việc quần xắn đến tận bẹn, mở bớt cúc của chiếc áo bà ba bó sát người để hở người ra và mái tóc đen dài được hất ngược ra đằng sau rồi túm lại thành búi nhỏ bên dưới chiếc nón rộng - cơ thể của họ lấp lánh mồ hôi, những bầu vú mớỉ nhú lắc lư, đung đưa nhè nhẹ. Họ giặt những mẻ quần áo trong những bồn lớn - quân phục dã chiến và quần áo rách mặc lúc thường của lính - đổ nước xà phòng ra cái sân của ngôi nhà mái lợp rơm rồi sau đó phơi quần áo rỏ nước tong tỏng và đang bốc hơi nóng lên một cái phên tre trong nắng mặt trời thiêu đốt. Nhìn mấy con đĩ này làm việc, James, bao giờ chúng tôi cũng bị kích thích chim cửng lên.
Paco nhìn thấy ngay cái bảng thông báo nằm ở góc gần khuất sau chiếc máy bán côca côla lon. Các thông báo được viết tay nguệch ngoạc bằng chữ in hoặc được đánh máy bằng khổ chữ 9/12 lên những mẩu phong bì hoặc những mẩu bìa của hộp đựng xà phòng giặt rồi được đính lên phớt đen bằng ghim rệp và ghim bấm, ghim nhọn hoặc đinh cỡ nhỏ.
Và tất cả được viết đại loại như sau:
THÔNG BÁO:
Bữa Fishfry57[2] của giáo khu vào các chiều thứ Sáu.
Đến một mình hoặc đông người đều được phục vụ không hạn chế.
Cần gấp đi quá giang xe tới Detroit.
Có thể thay nhau cầm lái. Chịu chi phí xăng.
Hội trường của Hội Ái hữu Tự do thần thánh.
Gặp gỡ Chúa Jesus. Hãy tự cứu rỗi! Đóng góp tự nguyện. Tụng danh Chúa!
CẦN BÁN:
https://thuviensach.vn
Xe Chevy đời 1956. Máy sạch sẽ. Tình trạng mới tinh. Một số bộ phận được chế tạo theo đơn đặt riêng. Xem là tin liền.
Cỏ khô đóng kiện, bán theo xe tải hoặc bán lẻ từng kiện.
Cỏ khô, rơm, cách nhiệt cho nhà ở lưu động.
Nhà ba phòng ngủ có vườn cây được chăm sóc tốt. Rất nhiều cây đại hoàng và măng tây. Vắn tắt: chuyển về sống tại Florida.
Giá cả ưu tiên cho gia đình thực sự cần mua. (ĐÃ BÁN)
Máy giặt và máy sấy công nghiệp.
Đã qua sử dụng nhiều, nhưng giá rẻ. Gặp chủ nhân.
Có đủ các loại sản phẩm Amway, kể cả vitamin và các sản phẩm hỗ trợ sức khỏe và sắc đẹp. Mua ngay trước khi tăng giá. Hãy gọi cho Russell.
TÌM VIÊC LÀM:
Trông trẻ tại nhà bạn. Ngày hoặc đêm.
Khi bạn vắng nhà, bạn muốn có người tốt nhất ở trong nhà.
Hãy gọi cho Thelma hoặc Beulah.
Chuyên gia chăm sóc tóc. Đến phục vụ tận nhà.
Cho thuê xe tải - chl nhận tiền mặt - cần bán củi khô dùng để sưởi, tính theo mét khối. Giao hàng tận nhà.
Nhận cày bằng máy trên mọi diện tích. Tiền công tính theo giờ. Tối thiểu 20 đôla một giờ. Gọi điện để biết chi tiết.
Nhận làm các công việc vặt. Có thể làm mọi công việc. Chuyên môn chính là chất hàng lên xe và bốc vác. Hãy gọi ngay cho Russell.
Tìm mạch nước ngầm và khoan giếng. Đảm bảo tìm thấy mạch nước. Có thư giới thiệu. Không tìm thấy mạch nước không lấy tiền.
Sửa chữa xe hơi. Tất cả các loại xe. Nhận làm cả các công việc liên quan đến vỏ xe. Có thể sửa chữa bất kỳ bệnh gì. Mọi công việc đều được đảm bảo.
Dọn dẹp nhà cửa vào mùa xuân, nhanh và cẩn thận. Sàn nhà, cửa sổ, tầng hầm, gara ô tô, tầng áp mái, chuyên môn về ngoại thất. Dọn rác. Hãy cho biết yêu cầu. Đừng chậm trễ. Gọi cho Russell ngay hôm nay!
https://thuviensach.vn
CẦN TUYỂN NGƯỜI
Đàn ông hoặc thiếu niên biết nghề chế biến bơ sữa. Tiền công tính theo tỉ lệ phần trăm lãi, nuôi ăn ở.
Tìm người sống cùng để bầu bạn và chăm sóc người cô bị tàn tật. Sạch sẽ, biết ăn nói, giọng đọc sách dễ chịu. Công việc phù hợp với một nữ sinh trung học siêng đi lễ nhà thờ. Hãy đích thân gọi điện và chuẩn bị sẵn giấy chứng nhận người theo đạo Cơ đốc.
Làm thêm tại nhà qua điện thoại để phân phát miễn phí các mẫu sản phẩm khuyến mại và các sản phẩm y tế cá nhân nhãn hiệu nổi tiếng trong nước. Công việc này không phải là mánh lới quảng cáo. Chỉ những người nghiêm túc, năng động, mong muốn thành công hãy đăng ký.
Làm việc công nhật. Trả lương công nhật. Thời gian làm việc tùy chọn. Biết nhiều nghề càng tốt, nhưng cũng có nhiều công việc không đòi hỏi tay nghề chuyên môn. xếp hàng nộp đơn tại quán của Rita vào đúng 5 giờ sáng, trừ các ngày Chủ nhật.
Đó là nội dung chính trên chiếc bảng đó.
Paco dụi mắt và xoa mặt, tự nhủ “Trời ạ, mình cứ tưởng là còn có những thứ gì đó khác ngoài thứ này”. Cái thị trấn nhà quê bé tí chết tiệt. Sao mình không có thêm hai đôla để đi tới thị trấn kế tiếp nhỉ? (Paco đã dốc hết tiền trong túi để đưa cho người lái xe rồi nói, “Khi nào hết tiền thì cho tôi xuống”, và số tiền đó đã đưa hắn tới tít tận bến xe buýt Texaco). Trong trường hợp tệ nhất mình sẽ xếp hàng ở chỗ Rita để kiếm một việc làm công nhật - mình tin là công việc ở đó cũng còn hơn khối việc vớ vẩn mình đã từng làm trước đây. Hắn quay gót bước trở lại đường phố, nắng vẫn chưa dịu và hơi nước dày đặc bốc lên tới đầu gối của hắn.
Hắn bước qua đường để đi về phía hiệu thuốc và bước vào sâu phía trong hiệu thuốc dưới ánh đèn nêông sáng gắt, tay dược sĩ đang ngồi sau một cái quầy cao ngang ngực. Paco hỏi xin việc ông ta, tự nhủ mình có thể sử dụng được máy tính tiền; mình biết quản lý tiền; chẳng cần giỏi giang gì cũng biết bán báo và tạp chí, thuốc lá và những đồ lặt vặt, đại loại thế. Nhưng tay dược sĩ cúi người qua quầy bàn, nhìn Paco qua khe hở giữa những chiếc hộp đựng mẫu thuốc Alka-Seltzer và những hộp đựng bao cao su, và biết ngay lập tức rằng Paco đang dùng thuốc giảm đau, James à, rồi tính toán rằng nếu y để cho người này đứng trông quầy hàng thì lượng hàng bán ra của y sẽ sụt giảm 35 phần trăm trong chín mươi ngày.
“Tôi rất lấy làm tiếc”, y nói rồi quay mặt đi chỗ khác, lục lọi trong ngăn
https://thuviensach.vn
kéo để làm gì đó. “Tôi không giúp gì được. Không được”.
Paco nặng nhọc quay gót - bụng hắn đau từng cơn đều đều và nóng rát giống như một cái cờ đuôi nheo kêu phần phật vì gió mạnh. Hắn bước ra ngoài trời, lẫn vào trong hơi ẩm mát lạnh và nắng mặt trời ấm áp, đi sang đường và ngay trước mặt là cửa ra vào của một cửa hiệu bán phụ tùng ô-tô. Dây cu-roa của quạt động cơ và dây ống của bộ phận tản nhiệt treo ở khắp nơi - mùi cao su mới và dầu nhớt sạch tỏa ra khắp cửa hiệu. “Tôi đang tìm việc làm”, hắn nói với nhân viên bán hàng - gã đó một tay đang cầm một chiếc bảng kẹp những tờ hóa đơn còn tay kia cầm những chiếc hộp đựng phụ tùng. “Anh đã thử tới xưởng đúc chưa?”, gã đó hỏi trong lúc khom người đi xuống một lối đi giữa các kệ hàng, miệng lẩm bẩm “lò xo van, lò xo van. Lò xo van E-44 ở đầu? Đây rồi!”. Gã chộp lấy một chiếc hộp, quay trở lại quầy bán hàng. “Anh đã thử tới chỗ Rita chưa?”
“Rồi”, Paco đáp, “nhưng đời tôi làm việc công nhật thế là đủ rồi”. Người bán hàng đi chậm lại, xuất hiện ở chỗ lối đi và nghĩ trong đầu “Không hiểu sao những gã vô công rồi nghề này lại kén cá chọn canh như vậy - ôi dào, công việc là công việc. Con người ta đi làm, hết giờ thì về nhà, có gì đâu mà phải nghĩ xa xôi; theo mình chỗ nào cũng vớ vẩn cả thôi”.
Sau đó gã lại biến mất ở sau một lối đi khác, gã tìm những miếng đệm ở nắp đậy chiếc van, những chiếc vòng của ống bô và đinh ốc của biển số xe bằng nhựa.
Ngay lập tức Paco bước sang đường và bước vào một đại lý bán bảo hiểm - văn phòng duy nhất trên phố có lò sưởi ấm đang bật. Những chiếc lò sưởi cao ngang đầu gối kêu ùng ục, lách cách. Trên tường treo đầy những phần thưởng của đội bóng softball58[1] của giáo khu và những tấm bằng khen bán hàng màu sắc lấp lánh. Văn phòng kín đáo và tĩnh lặng như một thư viện, người phụ nữ ngồi sau chiếc bàn ở gần cửa ra vào nhất đang nhâm nhi trà chanh nóng trong lúc dùng một cây bút chì vót rất nhọn để đánh dấu những cái tên trong danh sách khách hàng thuê bao điện thoại. Bà ta co duỗi đôi chân sau tấm ván của chiếc bàn để tập thể dục cho các ngón chân.
“Gì thế, chàng trai?, bà ta hỏi khi Paco bước vào, bật ra một tiếng rung khe khẽ êm ái. “Tôi có thể giúp được gì?”.
Paco cố đứng thẳng người lên và hỏi xem có nơi nào cần tuyển người làm không.
“À ra thế, chàng trai”, bà ta nói, ngồi ngả người ra phía sau, từ tốn quan sát Paco bằng một ánh mắt giống hệt như những người khác trong thị trấn. “Tôi thực sự không biết một ai. Anh đã hỏi ông Hennig ở hiệu cắt tóc chưa? Mọi khi trên tấm bảng ở chỗ Boussierre vẫn đăng các tin rao tìm người làm những công việc khoán, đại loại thế”. Bà ta cân nhắc giọng nói của Paco - bà ta làm công việc chào hàng qua điện thoại, bán các dụng cụ nhà bếp, đơn đặt tạp chí và hợp đồng bảo hiểm. Nghe cách Paco nói thì bà ta kết luận rằng hắn sẽ không thật sự phù hợp với công việc này - ở phía trong, James à, có một
https://thuviensach.vn
căn buồng kín như hũ nút trong đó có sáu chiếc điện thoại. “Anh đã tới hỏi cửa hàng McDonald ở trung tâm thương mại chưa? Hiện tại chúng tôi không tìm kiếm cộng sự và thông thường chúng tôi chỉ tuyển dụng khi người xin việc có thư giới thiệu của một đại lý khác và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo hiểm và bất động sản. Tôi chắc anh cũng thông cảm. Tôi rất tiếc không thể giúp gì được anh” nói xong bà ta cầm lấy tách trà và rút cây bút chì ra khỏi mái tóc.
Trong nháy mắt Paco đã lại ở trên vỉa hè, những giọt mưa rào cuối cùng chảy lách cách trong ống máng ở tầng trệt - vẫn là nắng vàng xuyên qua làn mưa xuân chiếu thẳng vào mặt hắn khiến hắn phải nheo mắt. Hắn đứng ở góc đường và nhìn bao quát phần còn lại của con phố. Chéo góc với chỗ hắn đứng, ở bên kia đường, là một quán ăn có vẻ bên ngoài bẩn thỉu mang biển hiệu Texas Lunch, có một mái che bằng khung hình chữ V bọc đồng ở lối cửa ra vào và cửa sổ to ở mặt tiền bám đầy hơi nước đọng thành giọt. Đối diện với Texas Lunch - cách một lối đi rộng lát gạch là Khách sạn Geronimo có mái hiên rộng rãi với những chiếc ghế xếp và ghế bành bằng mây đan ở đó những người cũ kỹ và nhàn rỗi (như lão già Cruikshank) hai tay đặt lên đầu gối, đầu cúi khom về phía trước ngồi sưởi nắng để trị bệnh viêm khớp, tán gẫu, đưa chuyện về người khác và nhổ bã thuốc lá nhai xuống đất. Ở trên một cửa sổ là một tấm biển đơn giản có viết dòng chữ:
CHO THUÊ PHÒNG THEO NGÀY,
TUẦN HOẶC THÁNG
(hỏi Earl)
chữ:
Và ở trên một cửa sổ khác là một tấm biển hiệu bằng đèn nêông có dòng
KHÁCH SẠN Earl và Myrna
Có phục vụ bia và đồ ăn nhẹ
Xa hơn nữa, phía đối diện với chỗ Paco đang đứng là Savic and Sons,
một cửa hàng gia đình bán đồ ngũ kim, James ạ, họ bán ví đựng tiền xu, găng tay hở ngón và những thứ linh tinh khác - kiểu như đồ bắt được - treo lủng lẳng bằng những sợi dây dài trên cửa sổ mặt tiền. Rồi phía sau chỗ Paco đang đứng trên vỉa hè và ở đằng sau khách sạn Geronimo là một nhà ga gần như bỏ hoang. Thẳng tắp về phía xa hơn nữa là những ngôi nhà một tầng giản dị được xây lùi vào phía trong, một cửa hàng trước đây của chuỗi cửa hàng bán trà A & P nay được đặt gọi là Cửa hàng bán Quần áo Hạ giá Clarence, một cửa hàng bán đồ rẻ tiền và những ngôi nhà một tầng khác nằm khuất sau những hàng rào cây tử đinh hương và hoa tú cầu. Bên phải Texas Lunch là quả đồi duy nhất thực sự đáng gọi là đồi của thị trấn với những con phố ngoằn ngoèo và những ngôi nhà nằm trên sườn đồi khá dốc. Paco vui sướng
https://thuviensach.vn
tận hưởng cái mùi vị ấm áp hăng hăng của nhựa đường nóng bốc lên từ mặt đường và cả mùi thơm cám dỗ của mỡ và muối. Hắn nhìn chăm chú vào Texas Lunch (có một người đang dùng một đầu chiếc khăn ăn để tẩy một vết bẩn trên mặt kính), tính toán xem còn bao nhiêu tiền (hắn biết rõ tới từng xu, James à) - một đôla và 46 xu: bốn đồng 25 xu là một đôla; ba đồng 10 xu, ba đồng 5 xu và một đồng 1 xu duy nhất tổng cộng là 46 xu.
Hắn đi chéo qua ngã tư, đi qua ánh sáng chói gắt - cái ánh sáng làm hắn chói mắt lúc nẫy - để bước vào bóng râm mát dịu khiến hắn có cảm giác ngứa râm ran ở mặt nhưng đôi mắt thì dễ chịu. Hắn vẫn không rời mắt khỏi cái cửa ra vào to có hai cánh. Trên một ô kính cửa sổ nước mưa chảy ròng ròng có tên của quán ăn, TEXAS LUNCH, còn trên ô kính thứ hai là chữ ĂN TRƯA kèm theo là một tấm biển nhỏ có chữ MÓN ỚT NẤU KIỂU MEXICO. Paco tính nhẩm nhanh chắc đủ tiền để gọi một món ớt và bánh sò59[1](những quán ăn như thế này bao giờ cũng phục vụ miễn phí một món ăn thêm là bánh sò) và một hoặc hai tách cà phê cho ấm người để tiếp tục chịu đựng. Một chiếc xe hiệu Jaguar XKE mui trần màu hạt dẻ sáng bóng, thứ màu hạt dẻ giống như màu của xe cứu hỏa, đang đậu ở ngay sát vỉa hè trước mặt, hơi nước bốc lên tay nắm cửa ra vào. Paco liếc nhìn vào bên trong xe trong lúc hắn đi ngang qua - nước đọng trong chiếc gạt tàn, một chiếc áo thun sũng mồ hôi được cuộn tròn đặt trên ghế ngồi phía sau, bên cạnh là một đôi dép tông. Những điếu thuốc lá và kính râm bị đẫm nước mưa, cuốn sổ tay bỏ túi và cây bút bi, chiếc la bàn và những chiếc lược bằng sừng và một chiếc ví đầm bằng da cá sấu. Chiếc vỏ hộp sắt kêu lách cách đang nguội dần. Hắn đi lên vỉa hè rồi bước qua chiếc mái che khung bằng đồng đã bị biến đổi màu sắc vì lớp bột màu xanh đặc trưng của gỉ đồng. Và tất cả diễn ra rất nhanh - tia nắng rát chiếu xiên, hơi nước mùi hăng hăng dày đặc đến nỗi người ta cứ ngỡ đôi chân của hắn bị cắt cụt đến đầu gối, mùi thức ăn bắt đầu khiến dạ dày của hắn réo ầm ầm. Khi hắn vừa đặt chân lên bậc thềm được gia cố bằng sắt ở các mép thì gió lùa không khí ấm áp qua cánh cửa đôi to khiến tóc hắn dựng lên và chiếc áo gió bị thổi phồng lên, và khi Paco bước qua cửa ra vào để vào bên trong quán Texas Lunch thì hắn thấy như thể đang bước vào căn bếp của ai đó. Paco trông nhợt nhạt và mệt mỏi, trông hắn thất sắc và toàn thân hắn ngứa râm ran. Hắn chọn một cái ghế nằm ở giữa dọc theo quầy rượu bằng phooc-mi-ca, móc chiếc gậy vào cái gờ và thả chiếc túi xách nhà binh xuống dưới chân. Một phụ nữ trẻ ngồi bên quầy rượu ở vị trí gần cửa ra vào, tách cà phê để trước mặt, chiếc quần soóc và áo chẽn chơi hockey bị sũng nước mưa dính chặt vào người - cô ta đang giết thời gian; chiếc XKE đang đậu bên vỉa hè và chiếc áo thun sặc sỡ là của cô ta. Đằng sau quầy rượu là một chiếc máy tính tiền có tay quay cũ kỹ, một vỉ nướng bằng sắt màu ghi, một lò ga bốn bếp, một nồi áp suất hiệu Anets, một lò điện nướng bánh mỗi lần được bốn lát và một chiếc chảo rán to (mỡ đang sôi sùng sục) và một tủ lạnh to như một cái tủ treo quần áo. Ở tít phía trong, tại vị trí tất cả mọi người đều nhìn
https://thuviensach.vn
thấy, là vị trí của người rửa bát - Texas Lunch quá chật để đặt máy rửa bát, ông có hiểu không, vì thế công việc rửa bát đĩa được làm bằng tay. Một anh chàng mặt lưỡi cày đang cúi người xuống một chiếc bồn rửa bát to hai chậu (giống hệt những chiếc bồn ở căng-tin của quân đội Mỹ ở trong nước, James ạ), anh ta vừa lẩm bẩm nói vừa hát trong lúc quẳng những chồng đĩa và những chiếc đĩa đặc biệt vào trong cái chậu ngập đến tận miệng nước bọt xà phòng nóng.
Ernest Monroe, chủ quán ăn, đang đứng bên sau quầy, chạy ra chỗ gần cửa ra vào để làm nhanh vài hơi thuốc (ông ta sẽ kể với ông, James ạ, “tôi đã mua lại cái quán này từ hai người Hy Lạp; không thể hiểu nổi làm sao mà hai gã đó lại có thể sở hữu một nơi có tên như Texas Lunch thế này, nhưng họ đã từng ở đây còn tôi hiện đang ở đầy). Ông ta nhìn thấy Paco gần như xộc vào quán rồi đi thẳng tới chỗ giữa quầy. Ông ta hoàn toàn nhận ra cái nhìn chằm chằm của Paco từ cách xa một nghìn mét, cái vẻ ngoài xanh xao kiệt sức được thấy rõ từ đầu đến chân. Ernest ném mẩu thuốc lá vào cái thùng rác ướt, cầm lấy một bảng thực đơn ở trên cái giá nằm ở mặt sau một trong những chiếc hộp đựng khăn ăn nằm rải rác trên mặt quầy, đưa nó cho Paco và rót cho hắn một cốc nước, Paco uống một mạch (khát và mất nước). Ernest rót cho hắn một cốc nữa, Paco cũng uống một mạch, Ernest rót thêm một cốc nữa, Paco uống từng ngụm.
“Cà phê nhé?”. Ernest hỏi, thừa biết rằng ngoài bất cứ thứ gì những gã này đủ tiền mua - đôi khi chỉ là một cái bánh nướng xốp, đôi khi là một miếng bánh ngọt, đôi khi một bữa lót dạ gồm bít tết với trứng bất kể thời gian nào trong ngày - bất kể họ gọi món gì khác thì bao giờ họ cũng muốn gọi cà phê. Paco gật đầu, nhìn chằm chằm vào cái nồi nấu món ớt trên bếp ga, miệng nồi dính những vệt thịt bò bị cháy. Ernest lau tay vào tạp dề, gập nó làm hai rồi gấp tiếp làm hai thành miếng lót dày ở trước bụng rồi rót cà phê cho Paco vào trong một cái cốc có hình dáng tròn tiện lợi, tay cầm dày, kiểu những chiếc cốc mà ta thường nhìn thấy ở quán ăn tự phục vụ tại những khách sạn ven đường. Paco xem lướt từ trên xuống dưới bảng thực đơn có một trang duy nhất, chủ định biết giá của món thịt bò hầm ớt rồi mới hỏi món bánh sò (đôi khi được cộng thêm vào món chính). Hắn rót một nửa in-sơ sũa rồi rót tiếp thêm nữa vào trong cái cốc (đây gọi là cà phê kiểu Boston, James) và rất nhiều đường, hết thìa đầy này đến thìa đầy khác.
“Món ớt giá bao nhiêu?”. Paco hỏi vì không tìm thấy món đó trên bảng thực đơn, nhưng mắt vẫn không rời cái nồi - đã đến lúc sẵn sàng hứa hẹn bất cứ điều gì miễn là giải thoát khỏi cảm giác đau nhói ở bụng vì đói cồn cào.
Ernest quay lại cầm lấy cái môi có cán dài để đảo đáy nồi. Ớt bốc khói và kêu ùng ục. “Một suất ớt nấu kiểu Mehico do quán chúng tôi tự tay nấu - chắc chắn vừa bổ lại vừa no bụng - kèm theo cà phê chỉ phải trả tổng cộng một đôla mười bảy xu chưa kể tiền boa. Dùng với bánh sò và một chiếc thìa to. Món này làm người ấm lên rất nhiều. Anh muốn ăn không” - Paco gật đầu, tỏ vẻ biết ơn - “Cho tôi thêm nước lọc!”, hắn không uống theo ngụm mà
https://thuviensach.vn
uống lèo một mạch. Ernest đem món ớt tới (thịt bò với gia vị là ớt, thìa là, tỏi, ớt ngọt, kinh giới và chỉ dùng bột ngô cho sánh - không có đậu hạt, không mì ống, không bất kỳ thứ gì khác, ông biết không), đặt chiếc đĩa ngay dưới mũi Paco. Mùi thơm hấp dẫn của gia vị ngọt, cay bốc lên mặt hắn - làm hắn cay mắt; nước miếng ứa ra trong miệng hắn. Hắn bẻ một miếng bánh sò rồi rưới ớt còn nóng lên đến nỗi tạo thành một cái vỏ trên bề mặt giống như cái màng của sữa nóng trong một cái cốc lạnh. Ernest đứng cạnh hắn, ông ta đi một chiếc giày da to có những vết đốm bẩn vì nước tinh bột khoai tây. Monroe là một người đàn ông cao lớn, là khách hàng tốt nhất của chính mình, ông ta có những vết sẹo vì dao cắt và những vết bỏng vì mỡ trên mu bàn tay; lái một chiếc xe hiệu Mercury đời 1848 màu kem còn mới tinh và ông ta đã tham gia Thế chiến II trong lực lượng lính thủy đánh bộ. (Nói cho cậu biết một điều này, anh bạn trẻ ạ, một khi đã là một tên lính thủy đánh bộ mắc dịch của Hải quân Mỹ thì suốt đời anh sẽ là một tên lính thủy đánh bộ mắc dịch”).
Paco cúi xuống đĩa thịt bò hầm ớt, ăn chậm rãi, thường thức nó, ớt làm miệng hắn cay xè; hắn liên tục bỏ thêm vào đĩa những miếng bánh sò, uống ực một hơi từng cốc nước lạnh để chống mất nước, nhấp từng ngụm cà phê Boston pha rất nhiều đường. Vào đúng lúc này, cái ánh sáng vàng chóe nhòa đi trong làn mưa xuân lúc nãy chiếu một vệt thẳng vào cánh cửa sau (một sự hiện diện hoàn toàn bất ngờ khiến mọi người đều giật mình nheo mắt lại), nó chiếu sáng tất cả mọi thứ - dụng cụ nấu nướng công nghiệp, những bếp đun bằng gang, xẻng nấu ăn và những cái thìa bóng loáng vù dùng nhiều - những tay cầm bằng gỗ sáng bóng nước gỗ. Cái ánh sáng rực rỡ trong trẻo này còn bị dội lại từ những ngôi nhà ở bên kia đường, ánh sáng chói lòa lung linh tràn vào những ô cửa sổ ròng ròng nước mưa nom như ánh nắng mặt trời rực rỡ chiếu qua một kính chắn gió xe hơi lấm bùn và dường như làm tăng thêm mùi vị của con phố - vỏ hộp sắt của chiếc xe hơi hiệu XKE, nhựa đường bị mặt trời hun nóng bốc hơỉ và được tưới mát bởi cơn mưa.
Paco tiếp tục ăn, rút cục đầu óc hắn đã hết mụ mị, hắn nhớ ra là trời vừa mưa (vì nhận ra đôi giày bị ẩm ướt); Ernest Monroe làm một điếu thuốc nữa và bắt đầu tranh luận vói Peterson, nhân viên rửa bát, ông ta đang nhớ lại cơn mưa xuất hiện đột ngột lúc nãy đã hàn vào quán qua cửa ra vào như thế nào. Người phụ nữ trẻ - James, tên cô ta là Betsy Sherburne - đang ngồi trên chiếc ghế ở gần cửa ra vào nhất, một chân móc ở bên dưới, đang nhai cái đuôi tóc cột kiểu đuôi ngựa và nghịch với chiếc cốc uống cà phê và chùm chìa khóa - cô ta đang quan sát Paco, ông có thể coi đó là điều chắc chắn, James ạ, cô ta bị kích thích trí tò mò; cô ta thấy hắn hấp dẫn, không nghi ngờ gì nữa - cô nàng đang nhớ lại mình đã phải chạy dưới cơn mưa rào lạnh buốt như thế nào khi từ Griffin tới đây.
Lúc đó, đúng lúc người thợ máy và Paco bước vào quán Tender Tap của Rita thì Betsy, từ hướng khác đi tới trên chiếc xe mui trần hiệu Jaguar XKE có màu giống xe cứu hỏa, cố chạy trước cơn mưa rào đang bất ngờ đổ xuống
https://thuviensach.vn
thành phố. Khi frông60[1] đã đi qua, nhiệt độ hạ xuống 15 độ và cô ta giống như đang lái xe vào trong bóng đêm (tối tới mức như vậy đấy, James ạ). Cô ta hạ mui xe xuống - “muộn quá rồi, đồ chó đẻ!”, - radio bật to hết cỡ và máy sưởi đặt ở chế độ cao nhất để sưởi ấm đôi chân. Cô ta lái xe vào thị trấn, đỗ xe cạnh vỉa hè ở chân dốc trước mặt Texas Lunch, nhảy ra khỏi xe - trời vẫn còn mưa xối xả, ông biết không - rồi chạy nhón chân vào bên trong, quần áo cô ta dính chặt vào người. Ngay cả Ernest, người đã biết Betsy hầu như từ khi cô ta còn bé - đủ già để làm bố cô ta - cũng phải thừa nhận rằng nhìn thấy cô ta lao vào trong quán trong bộ quần áo ướt sũng dính chặt vào người như vậy bao giờ ông cũng thấy bị kích thích ở bụng dưới.
Vào đúng lúc đó, James à, chúng tôi có thể đứng ở ngoài trời, đứng ở chỗ viền bóng râm của cái ánh sáng rực rỡ đó của lúc chiều muộn, những giọt nước mưa cuối cùng đang rỏ tong tỏng trên mái ô văng nhanh như tiếng trống dồn; tiếng nước mưa rỏ xuống tấm ván rêu mốc trơn chuôi nghe to như tiếng vỗ tay. Chúng tôi có thể đứng trong làn hơi nước ấm áp đó - hơi nước bốc lên đến tận đầu gối - và nhìn qua phía trên cái chiếc đồng hồ bọc gỗ hồng sắc và nắp ca pô múp về phía trước của chiếc xe hiệu XKE của Betsy để ngắm cô ta đang cúi xuống cốc cà phê và chùm chìa khóa của mình, cô ta đang vừa cáu lại vừa vui; cô ta đang giết thời gian, ánh sáng chói lọi khiến cô ta lóa mắt và rọi xuống mặt đất cái bóng rất rõ của cô ta. Mái tóc rậm của cô ta đẫm nước mưa được vấn thành một cái đuôi ngựa dày và rậm - nhìn từ xa nó trông như được rắc phấn trắng; một ít tóc bết vào gáy và trán; chiếc áo dệt kim chơi hockey của học sinh trung học và chiếc quần bò xổ gấu ướt sũng bó chặt vào người một cách khó chịu. Chúng tôi có thể đứng trong bóng râm mát rượi đó, thoát khỏi cái ánh sáng vàng chói nhòa đi trong làn mưa xuân ấy, James à, và kìa! Vào giây phút đó, Betsy đẹp hơn bao giờ hết và sẽ chẳng bao giờ nàng còn đẹp như vậy nữa.
Giả sử chúng tôi có cách nào đó chộp được toàn bộ hình ảnh này: hơi nước ẩm có mùi thơm bốc lên tới đầu gối, chiếc xe hiệu XKE đọng những hạt nước mưa, hình uốn cong gọn gàng và duyên dáng của kính chắn gió phía trước tương phản với đường cong duyên dáng của nắp capô thoải về phía trước, mùi của động cơ đang nóng được bảo dưỡng tốt và da bọc ghế đắt tiền bị ẩm; mái hiên xiêu vẹo bằng đồng đã lên gỉ xanh; ánh sáng chói gắt lọt qua cửa sau của quán - cũng cắt một cái bóng rõ nét của Paco - đan chéo với ánh sáng khuếch tán dìu dịu ở khắp nơi, nó được phản chiếu từ những ngôi nhà ở bên kia đường, khúc xạ qua cửa ra vào có rèm che kiểu nhà ở trang trại đồng quê và những ô cửa sổ nước mưa tạo thành những vệt nước và những tấm rèm bằng vải ca-rô màu xanh sáng kiểu hay dùng trong các quán cà phê; khuôn mặt và cơ thể ẩm ướt và mát lạnh của Betsy trông giống như đồng được đánh bóng kỹ bằng tay (kèm theo mùi vị đặc trưng của thời tiết ẩm ướt và da bọc ghế ẩm ướt tỏa ra từ người cô ta); những tia sáng lấp lánh phản chiếu từ những dụng cụ nấu ăn; mùi thơm ngào ngạt của ớt nấu với gia vị,
https://thuviensach.vn
dưa muối, bát đĩa bị mờ xỉn vì chất tẩy của nước rửa bát; những tờ giấy keo dính diệt ruồi hình xoắn ốc lốm đốm đen được treo trên trần nhà trông giống như thạch nhũ; và mùi của lớp nước đóng băng dày và khô bám trên tấm kính của chiếc tủ lạnh to; tất cả những cái đó hòa nhập với vẻ khoái lạc gợi tình của Betsy - nếu cái toàn thể đó, nếu toàn bộ hình ảnh đó có thể được chộp lấy và đóng băng lại - chứ không chỉ đơn thuần được chụp bằng máy ảnh, ông lưu ý nhé, không chỉ đơn thuần ghi lại bằng máy quay phim - thì nhiều năm sau chúng ta có thể lấy nó ra, James ạ, rồi nhìn nhau và nói, “Ngày ấy cô ta đẹp làm sao!”.
Và Paco không bỏ qua cái khoảnh khắc ấy, ông nên biết điều đó. Betsy không phải là thiên thần đối với bất kỳ ai, ông có hiểu không - bà mẹ đã nói thẳng vào mặt cô ta là “đồ đĩ rạc”. Hầu hết bọn thanh niên hay la cà ở quán của Rita đều rất thích cô ta, họ gọi cô ta là “bảng xổ số của thị trấn” và họ ba hoa về cái hĩm tuyệt vời của cô ta - “cái hĩm nhìn là muốn ăn liền”, gã có yết hầu đã nói vậy.
Chính Betsy là người lúc trước đã lấy một nắm giấy ăn rẻ tiền để lau kính - cô ta lau những chỗ hơi nước đọng cho tới khi giấy ăn biến thành một cục bột giấy - vừa lau vừa quan sát Paco bước hình chữ chi trên mặt đường bốc hơi nước dẫn tới Texas Lunch, nhìn thấy Paco mỗi lúc một tì người nặng nề hơn lên chiếc gậy bằng gỗ óc chó màu sẫm của hắn.
Cô ta ngồi trên chiếc ghế ở vị trí đầu tiên, người ẩm ướt và run vì lạnh, nghĩ trong đầu rằng sẽ thú vị biết mấy nếu được ngủ với Paco, chuốc rượu cho hắn say rồi đưa về nhà rồi hai người sẽ làm tình trên chiếc ghế xô-fa ở căn phòng nhỏ làm thêm (bố mẹ cô ta đang có chuyến du lịch hàng năm bằng tàu biển vòng quanh thế giới; cô ta tưởng tượng rằng sáng hôm sau hắn sẽ thức dậy trước, tắm trong buồng của người giúp việc rồi bước ra đứng ở cửa thông ra hiên nhà có lưới sắt để ngắm hàng rào bằng những bụi cây rậm rạp sum suê và hoa cẩm tú cầu nở trắng như màu bạc chạy xuống tít tận bờ sông. Ánh nắng ban mai phản chiếu từ mặt nước con sông lên sườn đồi, bên dưới những vòm cây (đường ngắm của Paco trùng với góc của ánh sáng). Và ánh sáng phản chiếu từ mặt nước tạo thành những vệt ngoằn ngoèo, run run, nhấp nhô trên khắp trần của mái hiên - và khuôn mặt của Paco cũng lung linh ánh nắng.Betsy ngồi trong Texas Lunch, trong ánh sáng chói gắt sau cơn bão, để tưởng tượng toàn bộ chuyện này. Cô ta cũng tưởng tượng những cái sẹo nổi cuộn trên lưng của hắn từ trên xuống dưới, và cái cách mà những vết sẹo đó biến mất sau đôi vai và bên dưới mái tóc của hắn; cái cách cô ta sẽ tựa đầu lên vai hắn và vuốt ve những vết sẹo trên bụng hắn (nhìn thấy cu của hắn dựng lên, cô ta sẽ dùng các đầu ngón tay giật nó giống như cô ta đang vuốt mượt một bộ lông), những vết sẹo màu hồng và tím túa ra theo mọi hướng - cái bụng cuồn cuộn thịt săn chắc của Paco, những chỗ nổi lên ở những vết sẹo (cô ta ngỡ như nghe thấy tim của hắn đập). Cô ta tưởng tượng sẽ lần theo những vết sẹo của hắn như thể chúng là chữ nổi của người mù, như thể mỗi
https://thuviensach.vn
một vết sẹo có một câu chuyện riêng. Betsy ngồi ở đó, một chân gác ở bên dưới, đang nhai cái đuôi tóc đuôi ngựa và tưởng tượng cô ta và Paco trở thành người tình của nhau, nhưng đó là một rung động thôi thúc mà cả hai đều không làm theo, James ạ, mặc dù mùa hè năm đó họ đã tình cờ gặp nhau không biết bao nhiêu lần.
Paco đã lấy lại sắc mặt; má hắn đỏ ửng, hắn cảm thấy rút cục bụng ấm lại nhờ rượu whiskey - chưa kể cái món ớt nấu gia vị và cà phê nóng. Cuối cùng hắn ngước nhìn lên, đặt thìa xuống và hỏi thêm cà phê. Ernest rót đầy cốc cà phê và nhìn hai người - Paco ngồi ở một đầu và Betsy ngồi ở đầu bên kia của dãy ghế bên quầy - và ông ta muốn cười phá lên. Nhưng đúng lúc ấy ông ta chợt hiểu ra rằng thức ăn và Betsy không phải là những thứ duy nhất khiến Paco bận tâm và trước khi Paco kịp cất lờỉ thì ông ta đã quay lại nói với người rửa bát, “Này, Peterson! Ngừng tay rồi chạy tới chỗ Elliot hỏi xem ông ta đã sửa xong chiếc ghế xích đu của tôi chưa”. Anh ta thả một chồng đĩa nữa vào nước rửa bát nóng sủi bọt, giật phắt chiếc tạp dề khỏi người (lốm đốm những vết bẩn) rồi động tác tiếp theo là quay người và lao nhanh ra ngoài qua chiếc cửa to ở lối sau nhà.
Paco vươn vai, muốn tìm cái gì để dựa lưng, nhưng hắn cảm thấy ấm áp và lấy lại sinh khí. Hắn rút một bao thuốc lá nhăn nheo từ trong chiếc áo sơ mi vải flannel và châm một điếu. Ernest xuất hiện với một bình cà phê mới, sau khi đã hâm nóng cốc cà phê của Paco. “Anh biết làm công việc rửa bát chứ?”, ông ta hỏi trong lúc đung đưa chiếc cốc thủy tinh Pyrex về phía chiếc bồn rửa bát. Betsy ngoái cổ lại nhìn hai người.
“Tiền công bao nhiêu?”. Paco hỏi, linh cảm rằng hắn cần phải tỏ ra thật khôn khéo.
“Tôi đang trả cho anh chàng kia 2 đôla một giờ, nhưng anh ta vô tích sự. Tôi sẽ trả cho anh 2 đôla 25 xu. Nếu anh được việc, tôi sẽ nâng lên thành ba đôla. Chúng tôi mở cửa lúc 6 giờ sáng và đóng cửa lúc 11 giờ đêm, tuần làm việc sáu ngày. Anh sẽ bắt đầu làm việc lúc mười giờ rưỡi hoặc mười một giờ sáng, bê bát đĩa, rửa bất cứ thứ gì trong bếp, có thể làm phục vụ bàn khi chúng tôi đông khách. Không có gì phức tạp cả, chỉ cần hỏi khách gọi gì rồi nói lại với tôi. Nếu họ gọi món không có trong thực đơn, hãy bảo họ cuốc bộ tới tận Hogadorn rồi gọi món “Razzberry” ở quán Ngày tận thế. Sau khi quán đóng cửa, anh sẽ rửa tất cả bát đĩa, lau khô rồi xếp gọn gàng vào một chỗ. Thông thường chúng tôi khóa cửa vào quãng nửa đêm. Có chỗ ở chưa?”. Paco định nói chưa có nhưng chưa kịp mở miệng thì Ernest đã nói, “Anh sang khách sạn Earl and Myrna ở đối diện bên kia đường rồi nói với họ là anh làm việc cho tôi. Chỗ đó sạch sẽ, đứng đắn, lại gần nên anh có thể thức dậy muộn”. Ông ta bước sang một bên rồi đi xuống chỗ máy tính tiền ở gần chỗ Betsy ngồi, mở ngăn đựng tiền, lấy ra một tờ hai mươi đôla. “Đây là hai mươi “đô” tạm ứng. Hãy trả trước cho Earl. Hiểu không?”.
“Hiểu, cám ơn”, Paco đáp, hắn cảm thấy lưng kêu răng rắc vì đau.
https://thuviensach.vn