🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Của Che
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
“Quítate de la acera mira que te tumbo que aquí viene el Che Guevara acabando con el mundo.” “Đừng có tụ tập bên lề
Và cẩn thận đừng sảy chân
Bởi Che Guevara đang đến
Trên hành trình thay đổi thế gian.”
https://thuviensach.vn
GIỚI THIỆU
Tên anh trong hộ chiếu là Ernesto Guevara de la Serna. Có những lúc anh được biết đến với tên gọi Téte, Fúser, Tatu, Fernando hay Ramón. Anh nhận hộ chiếu chính thức của Cuba khi một sắc lệnh ban quyền “công dân Cuba gốc Cuba” cho anh năm 1959 – một sự tri ân khác thường dành cho đóng góp của anh trong Cách mạng Cuba – mặc dù anh đã từ bỏ nó khi anh lên đường chiến đấu ở Congo. Từ đó trở đi, anh sở hữu vài hộ chiếu giả với những cái tên như Adolfo Mena-González: doanh nhân Uruguay và anh dùng danh tính này để tới Bolivia thực hiện chiến dịch cuối cùng của mình.
Cả thế giới biết đến anh với cái tên Che. Biệt danh đó được các đồng chí của anh đặt tại Mexico khi họ đang huấn luyện cho cuộc xâm chiếm Cuba năm 1955 – và anh thích cái tên đó. Anh nói: “Đối với tôi, cái tên Che thể hiện khía cạnh cốt yếu nhất, khía cạnh mà tôi thích nhất về cuộc đời mình. Làm sao tôi có thể không thích cái tên đó? Tên đầu và tên đệm của một người chỉ là điều nhỏ nhặt, riêng tư và không quan trọng. Trái lại, tôi rất thích mọi người gọi tôi là Che.”
Lúc đó, cái tên “Che” được sử dụng ở khắp Mỹ Latinh để chỉ những người Argentina. Đó là một từ mà chúng tôi thường chêm vào khi trò chuyện. Ngày nay, rõ ràng từ đó đã trở thành của riêng của Guevara, nhưng nó nhắc nhở chúng ta một khía cạnh quan trọng và thường xuyên bị lãng quên của cuộc đời anh: anh là một người Argentina.
Tôi cũng là người Argentina, sinh năm 1938 (có nghĩa là tôi trẻ hơn Ernesto mười tuổi) trong một gia đình cùng giai tầng xã hội với Che và tổ tiên tôi cũng là những bầy tôi cung túc của hoàng gia và đế chế như cha ông Che. Chúng tôi có cùng nền tảng xuất thân và đều chứng kiến những sự kiện chính trị giống nhau: Perón và Eva; những tổng thống quân phiệt thân Đức Quốc xã trên thực tế; một nền kinh tế bị Vương quốc Anh chỉ đạo; đời sống trí thức bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những nhà tư tưởng người Pháp, ngay cả những vị khai quốc công thần của chúng tôi cũng tra cứu các bách khoa thư của Pháp và trước tác của Jean-Jacques Rousseau để soạn thảo hiến pháp và bộ luật của đất nước; nhà thờ Công Giáo La Mã hữu khuynh thâm nhập khắp nơi; những người lưu vong cộng hòa Tây Ban Nha; nền văn hóa bị tàn sát thô bạo bởi quyền lực kinh tế thống trị của Hoa Kỳ.
Vì thế có lẽ cũng là tự nhiên khi tôi luôn bị mê hoặc bởi câu chuyện về Che Guevara. Như phần lớn những người Argentina khác, tôi dõi theo sự nghiệp chói lòa xuyên suốt cuộc đời ngắn ngủi phi thường của ông. Tôi nhớ rõ ràng sự náo động ở Buenos Aires năm 1957-1958 khi báo chí bắt đầu đưa tin về người bác sỹ Argentina đã trở thành chỉ huy trong Cách mạng Cuba. Một thanh niên gần như không được đào tạo đang dẫn đầu đoàn quân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, chỉ vài năm sau khi ông bị quân đội Argentina tuyên bố không đủ sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Cũng trong khoảng thời gian này, những người trong chúng tôi thành thạo tiếng Anh hoặc tiếng Pháp đã tìm đến phòng thay đồ của các nghệ sỹ biểu diễn ở Grand Rex hay Cine Opera trên đại lộ Corrientes và giới thiệu bản thân, đề nghị dẫn họ đi thăm thành phố, đưa họ đi chơi và làm cho họ vui vẻ. Có một dịp chúng tôi hộ tống Ella Fitzgerald đến một quán bar nhỏ, tối, đầy khói ở tầng hầm ở trung tâm Buenos Aires vì chúng tôi biết có nghệ sỹ dương cầm hay ở đó và bà sẽ không bị những tay săn ảnh làm phiền. Những nghệ sỹ lưu diễn thường cảm thấy thoải mái gần như ở nhà và cầm lấy cái micro và làm chúng tôi vui sướng với một buổi buổi biểu diễn riêng tư. Những từ như con swing (có swing) hoặc una total falta de swing (hoàn toàn không có swing) trở thành một phần của biệt ngữ của chúng tôi. Swing như Ella nghĩa là bạn có thể nhập bọn với chúng tôi; ai đó “không biết gì về swing” thì đang có vấn đề nghiêm trọng với họ.
https://thuviensach.vn
Không phải mọi thứ đều về khả năng âm nhạc. Mặc dù bị điếc tông nhưng Che Guevara là ví dụ điển hình của swing. Anh có sức quyến rũ, sự lôi cuốn và vẻ điềm tĩnh lạ thường và anh có thể lãnh đạo một quân đội du kích với một kiểu cách như thể anh không cần cố gắng. Chúng tôi đều hết mực yêu mến anh. Chúng tôi cũng yêu quý bạn chiến đấu của Che là Camilo Cienfuegos với chiếc mũ rộng vành, vóc dáng mảnh mai và bộ râu xồm. Tôi vẫn còn nhớ rõ sự xuất hiện của một người bạn nói chung hơi tự phụ tại tòa nhà của chúng tôi ở Buenos Aires vào đêm giao thừa 1959. Anh ta nhảy một điệu samba vụng về ở hành lang, hát “los barbudos bajaron de la Sierra” (những gã râu xồm đến từ dãy núi) khi các bản tin cho chúng tôi biết rằng Cienfuegos đã hành quân ở Havana và ở Trại lính Columbia. Chẳng mấy chốc Che và người của anh đang ở Santa Clara cũng đi theo Cienfuegos, sẵn sàng đổ bộ vào thủ đô Cuba và chiếm pháo đài La Cabaña.
Mặc dù lúc ấy tôi không ý thức về điều đó nhưng một số người quen biết của tôi sẽ đóng những vai trò quan trọng trong cuộc đời của Guevara và sau khi anh qua đời. Ví dụ như tôi nhớ một buổi tối năm 1961 khi một nhóm chúng tôi đang ra ngoài ăn tối ở La Cabaña, một trong những nhà hàng thịt bò nổi tiếng nhất của Buenos Aires. Horacio Rodriguez-Larreta, một người bạn làm cố vấn cho Bộ Ngoại Giao sắp có mặt. Khi chúng tôi đang chuẩn bị rời khỏi căn hộ nơi chúng tôi đã tụ tập để chè chén, Horacio gọi điện nói rằng anh đã được tổng thống triệu tập đến nhà ông ở ngoại ô Buenos Aires và sẽ tham gia với chúng tôi sau. Khi cuối cùng anh cũng xuất hiện ở nhà hàng lịch sự đó, tôi nhận thấy đôi giày của anh dính đầy bùn. Horacio là một người ăn mặc bảnh bao, một trong những người thanh lịch nhất trong thành phố. Tôi cười và hỏi rằng có phải anh đã đi đôi giày đó đến gặp tổng thống không. Anh nói rằng tổng thống đã mời anh ra ngoài trò chuyện, đi qua những khu vườn rộng lớn mà người ta chỉ mới tắt những bình tưới, có lẽ bởi vì ông cho rằng nhà ở của ông đang bị tình báo quân phiệt nghe trộm.
Nhiều năm sau, khi phỏng vấn Horacio cho một bộ phim tài liệu về Che mà tôi đang lên kế hoạch cùng Pepe González-Aguilar, tôi mới phát hiện ra rằng tổng thống đã triệu tập anh bởi vì ông muốn biết chi tiết nội dung thảo luận giữa Guevara và Richard Goodwin, phái viên của Kennedy đến hội thảo Punta del Este tháng 8 năm 1961. Horacio, nhà ngôn ngữ học đã làm thông dịch viên cho họ.
Một mối liên hệ khác là thông qua những cựu thành viên của Phong trào kháng chiến Pháp đã ở Buenos Aires sau khi Paris bị Đức chiếm đóng. Những nhạc sỹ chịu ảnh hưởng của Django Reinhardt cũng tìm đường đến thành phố của chúng tôi, thành lập các nhóm biểu diễn và đạt được thành công lớn. Có những phòng trà ở trung tâm thành phố, nơi bạn có thể nghe nhạc jazz buổi chiều và buổi tối. Tatave Moulin, người đã từng tham gia Phong trào kháng chiến có một nhà hàng nhỏ ở ngay sau Harrods (một cửa hàng giống với cửa hàng cùng tên ở London), nơi mọi người tụ tập để nghe ông hát, chơi accordion và thưởng thức đồ ăn Pháp làm tại nhà tuyệt ngon. Ông và bạn ông là diễn viên Maurice Jouvé chiếm tất cả những vai diễn cần giọng nước ngoài trong các bộ phim nhựa và truyền hình Argentina và luôn duyên dáng, thân thiện và vui vẻ. Họ khiến bạn nghĩ rằng họ không quan tâm đến thế giới. Chúng tôi không biết rằng những hoạt động ngoài màn ảnh của họ trong những năm 1960 bao gồm cả việc hỗ trợ những tổ chức cánh tả như phong trào du kích bất thành của Che Guevara ở Salta, phía bắc Argentina do Jorge Ricardo Masetti lãnh đạo.
Tới năm 1961, khi chúng tôi mới ngoài hai mươi, tôi phụ trách kịch bản vài bộ phim ngắn do Rodolfo Kuhn đạo diễn, người bạn thân trở về từ trường điện ảnh ở Mỹ và đã kiếm được một quỹ nhỏ để sản xuất bộ phim nhựa đầu tiên của anh. Để tiết kiệm chi phí trường quay, anh đã quay một vài cảnh trong căn hộ mà tôi ở cùng các chị gái.
Một buổi tối, phó đạo diễn Pepe González-Aguilar đến muộn. Khi anh đến, chúng tôi đều quở trách anh. Chúng tôi không muốn hàng xóm than phiền về việc có người khuân đạo cụ đến và đi khỏi tòa nhà sau nửa đêm. Pepe giải thích rằng anh đã ghé thăm gia đình Guevara sống cách đó mấy tòa nhà. Họ đã nhận được một cú điện thoại từ Ernestito (tên gia đình gọi Che) ở Havana nên mọi người đã xếp hàng để nói chuyện với anh. Lúc này, anh có lẽ là người nổi tiếng nhất ở châu lục. Thật kỳ lạ khi có ai đó chúng
https://thuviensach.vn
tôi quen biết lại được báo chí thế giới đưa tin gần như hàng ngày, đả phá những lề thói lâu đời và tỏ ra bất kính với Hoa Kỳ.
Vài năm sau, năm 1963, tôi là nhà báo mới vào nghề của Đài Phát thanh Buenos Aires, một phần của Đài Phát thanh Truyền hình Quốc gia Argentina. Do tôi từng được học tiếng Anh nên tôi chịu trách nhiệm viết, sản xuất và trình bày một chương trình hàng tuần được gọi là phiên bản tiếng Tây Ban Nha của “Cuộc đời và Âm nhạc của Vương quốc Anh và Các nước khối Thịnh vượng chung”. Không khí phấn chấn và hy vọng tràn ngập các hành lang của đài (lúc đó đặt ở tầng hầm của Teatro Colon, nhà hát opera lớn ở Buenos Aires). Chúng tôi được ở nơi trung tâm của cuộc tranh luận chính trị và văn học, và những nhà văn và nghệ sỹ tầm cỡ thường xuyên có mặt để phỏng vấn. Jorge Luis Borges, người có một chương trình năm phút ngay sau chương trình của tôi, đứng nghe từ buồng kỹ thuật cho đến khi nhạc hiệu chương trình của tôi được phát sóng.
Chính tại đó tôi được thường xuyên gặp Albino Gómez, một nhà ngoại giao chuyên nghiệp đồng thời là nhà báo. Trong một giai đoạn dân chủ ngắn ngủi trong thập niên 1960, Albino Gómez là phụ tá thân cận của Tổng thống Frondizi – và là người chịu trách nhiệm dàn xếp chuyến thăm bí mật của Che Guevara đến Argentina năm 1961. Một nhà báo chính trị khác thường xuyên có mặt ở đài và Tomás Eloy Martínez. Ông đang viết cho Primera Plana, một tạp chí hàng tuần đăng câu chuyện của Guevara từ khi anh xuất hiện ở Cuba cho đến khi hy sinh ở Bolivia. Tomas sau này trở thành một tiểu thuyết gia được nhiều lời khen ngợi. Ông viết nhiều về hiện tượng chủ nghĩa Perón ở Argentina. Ông cũng trở thành người đấu tranh cho Ciro Bustos, người bị buộc tội vô lý là đã phản bội Che Guevara ở Bolivia và chịu đựng nhiều năm bị tẩy chay và hắt hủi vì một tội mà ông không gây ra. Mặc dù tôi chuyển đến London năm 1968, hai nhà văn này vẫn là bạn tốt của tôi.
Che Guevara tiếp tục ảnh hưởng đến cuộc đời tôi theo nhiều cách bất ngờ. Tháng 12 năm 1987, tôi đến Havana dự một liên hoan phim. Rodolfo Kuhn đã qua đời đột ngột ở Mexico và đang được tôn vinh vì bộ phim tài liệu của anh về thân quyến của “những người biến mất” ở Argentina có tên là những Người Mẹ ở Quảng trường tháng Năm. (Có một nhóm đông đảo những phụ nữ, một số người là mẹ của những người đàn ông và phụ nữ đã “biến mất” trong cuộc Chiến tranh Bẩn thỉu năm 1976-1993 đã từng tập hợp ở Quảng trường tháng Năm thứ năm hàng tuần trước Nhà Chính Phủ, đeo khăn trắng để phản đối bất cứ ai đang cầm quyền. Hành động của họ thật can đảm.)
Khi nhóm người từ London rẽ vào đường vào gara của khách sạn Nacional huyền thoại, trước mặt chúng tôi là một pa-nô quảng cáo lớn che kín mặt tiền. Trong tấm hình có Kuhn cũng như những vị khách danh tiếng khác. Tôi xúc động sâu sắc. Từ trên pa-nô, Che Guevara nhìn xuống chúng tôi. Đã hai mươi năm trôi qua kể từ khi anh chết và anh vẫn có mặt ở khắp mọi nơi. Con người đó đã trở thành một biểu tượng độc lập ở Caribe. Anh đã trở thành tinh thần của Cuba.
Lúc năm giờ rưỡi sáng, tôi bị đánh thức bởi những người đang khoan trên đường ở ngoài khách sạn để sửa chữa các ống nước. Khi tôi than phiền về tiếng ồn đó, nhân viên lễ tân chỉ nói đơn giản rằng những người đó phải bắt đầu sớm bởi họ đang làm công việc tình nguyện trước khi đi làm công việc thường ngày của mình. Họ là thành viên của Lực lượng Tình nguyện Che Guevara.
Một ngày kia, khi tôi đang ra ngoài mua sắm ở trung tâm Havana, tôi bị một cơn mưa rào ập đến làm ướt sũng người. Một chiếc taxi Dodge cũ kỹ mòn vẹt dừng lại và hỏi tôi đang định đi đâu. Tôi biết rằng anh ta không được phép đón khách nước ngoài bởi vì có xe taxi đặc biệt dành cho họ, nhưng khi nghe thấy giọng nước ngoài của tôi, người tài xế nói: “Nếu Che có thể hy sinh tính mạng của ông ấy cho chúng tôi thì tôi cũng có thể hi sinh tiền phạt vì bà. Mời vào.”
Đó là một cảm giác kỳ lạ khi một người Argentina nhìn thấy một người Argentina khác đã đi sâu vào tinh thần người Cuba như vậy. Ban đầu tôi nghĩ điều đó chỉ diễn ra ở Havana – liên hoan phim bao gồm nhiều phim tài liệu về Che – nhưng khi tôi rời khỏi thành phố, tôi nhận ra rằng đó là một lễ kỷ niệm quốc gia. Một buổi tối, tôi đi từ Matanzas với đoàn đại biểu Brazil đến liên hoan phim. Trong suốt chuyến đi
https://thuviensach.vn
kéo dài hai giờ, tôi bắt đầu cảm thấy chóng mặt. Khi chúng tôi đến nơi, tôi quyết định ở lại trong xe nghỉ ngơi vì tôi đã xem bộ phim đó, nhưng người tài xế quan tâm đến tôi và khăng khăng rằng tôi nên đến khoa ngoại trú của một bệnh viện ở ngay bên kia đường. Bác sỹ trực là một người phụ nữ trẻ. Ngay khi tôi mở miệng, cô cười toét miệng và nói: “Đồng chí Argentina có chuyện gì vậy” Cô đã nhận ra giọng Argentina của tôi. Tôi đã nói với cô. Cô đặt cuốn sách đang đọc xuống và kê đơn cho tôi. Rồi cô chỉ vào cuốn sách của mình và nói: “Ông ấy cũng có cái giọng đó.” Đó là cuốn Hồi ức về Chiến tranh Cách mạng Cuba của Che Guevara.
Cũng trong chuyến đi đó, một nhà làm phim tài liệu nhờ tôi giúp nghiên cứu về Santería, một tôn giáo địa phương kết hợp giữa Công giáo và tín ngưỡng Yoruba mà nô lệ châu Phi đem đến. Chúng tôi đang nói chuyện với một người Cuba da đen đang chỉ cho chúng tôi xem bàn thờ ở nhà anh. Tôi kinh ngạc khi thấy giữa những bức tượng của Yemanyá, Oshún và Oxalá là Che Guevara. Không có cách nào để can ngăn lão nông da đen này: theo ông thì Guevara là người Cuba da đen đã gia nhập đền thờ của các vị thần của Santería bởi sự hi sinh của anh đối với đồng bào. Mặc dù Che không thể chịu nổi sự xu nịnh nhưng tôi ngờ rằng đây là kiểu tán tụng mà Che sẽ thích thú bởi nó vượt qua chủng tộc, tầng lớp xã hội, nguồn gốc và quốc tịch mà anh được sinh ra. Tôi chưa bao giờ gặp một quốc gia nào (cho dù là nhỏ bé) lại hoàn toàn yêu mến người anh hùng của họ đến vậy, nhưng đất nước Cuba đã có tình cảm đó. Nó có sức lan tỏa và xúc động.
Tôi trở về nhà ở Buenos Aires cuối năm 1989, sau 25 năm ở nước ngoài. Tôi dự định đến phía bắc Argentina để làm việc cho một bộ phim hợp tác sản xuất giữa Argentina và Anh. Trước khi đi, tôi ghé thăm Juan Martín Guevara, em trai út của Che ở Nuestra América, hiệu sách, kho hàng và đại lý về sách Mỹ Latinh, xì gà Havana và rượu rum Cuba lớn do ông làm chủ. Một chính phủ dân chủ đã được thiết lập và Juan Martin vừa mới được phóng thích sau khi ở tù tám năm cho bản án mười hai năm tù vì những hoạt động Cách mạng và ông đã bị viêm gan virus mãn tính. Tôi nói với ông rằng tôi định đến Bolivia và theo con đường của đội du kích của Che năm 1967. Juan Martín cho tôi mượn một cuốn sách có tên là Du kích quân Ñacahuasú làng Higuera do Adys Cupull và Froilán González viết. Họ là hai nhà sử học đã từng làm điều đó khi được cử đến đại sứ quán Cuba ở Bolivia. Tôi dự định thăm những nơi mà Che và người của ông đã chiến đấu và phỏng vấn những tướng Bolivia đã dự phần đánh bại ông cũng như những dân làng đã chứng kiến các sự kiện lúc đó. Tôi sẽ theo con đường của Che từ Ñacahuasú đến Vallegrande từ lâu trước khi Bolivia phát hiện ra tiềm năng hút khách du lịch của Che.
Gần cuối chuyến đi, tôi đến La Higuera, ngôi làng nơi các chiến sỹ du kích bị bắt làm tù binh năm 1967. Tôi đứng giữa đường mòn bẩn thỉu đi qua con đường bên ngoài căn nhà của nhân viên điện báo mà Guevara đề cập trong nhật ký của ông. Một người phụ nữ từ trong nhà bước ra và tiến về phía tôi. Hóa ra cô là con gái của người nhân viên điện báo. Khi tôi nói rằng tôi đến để xem nơi Guevara đã qua đời, cô cho biết cô đã ở đó, lúc đó cô mười chín tuổi. Sau đó cô nhìn quanh mình và nói: “Hãy nhìn chúng tôi. Không có gì thay đổi kể từ đó. Chỉ huy đã đến quá sớm. Khi đó chúng tôi dốt nát và không hiểu ông ấy. Chúng tôi bỏ mặc ông ấy và ông chết vì chúng tôi trong khi ông đến để cứu chúng tôi để chúng tôi có một cuộc sống tốt đẹp hơn, và giờ đây chúng tôi như thế này, vẫn như trước kia trước khi ông đến hoặc có thể còn tệ hơn.” Tôi choáng váng trước những lời nói của cô.
Vài tuần sau, khi tôi trở lại Buenos Aires, chị gái tôi Celia đưa cho tôi một hộp cac-tông lớn đã cũ kỹ. Chị ấy đã thu thập những bài báo về Che và giấu trong hộp. Chị nói: “Bởi vì em rất quan tâm.” Chị ấy cũng đã treo một bức ảnh của Che trong phòng.
“Bức ảnh đó ở đâu ra vậy?” Tôi hỏi.
“Tất cả bọn chị đều có ảnh của Che,” chị nói.
“Em không hề biết chị là người cánh tả,” tôi sửng sốt nói.
“Em không hiểu,” chị trả lời. “Cái chết của anh ấy làm tất cả chúng ta đều xúc động. Anh ấy vượt lên trên ý thức hệ. Che”, chị tôi giải thích, “chiến đấu vì châu lục của anh chống lại những thế lực hùng
https://thuviensach.vn
mạnh. Anh ấy là một người trong chúng ta. Chúng ta có thể đồng cảm với anh ấy. Anh ấy đã từ chối đặc quyền và quyền lực. Và anh ấy qua đời mà không sở hữu một thứ gì. Giống như Gandhi. Giống như Chúa Jesus.”
“Em không biết điều gì đã diễn ra ở đây trong những năm qua,” chị nói. “Bề ngoài thì mọi người đều giả như mọi thứ đang ổn bởi họ sợ. Có những người bị giết vì họ xuất hiện trong sổ địa chỉ của ai đó mà cảnh sát nghi ngờ là có những hoạt động cánh tả. Cuộc sống dưới quyền Isabel Perón và tay bộ trưởng pháp sư López-Rega của bà ta kinh khủng đến mức tất cả mọi người đều vui mừng khi quân đội lật đổ họ. (Lopez-Rega đã thành lập một lực lượng bán quân sự có tên là Liên minh chống Cộng sản Argentina (AAA hay Ba A). Nó đã truy tố và khủng bố những ai dám bất đồng quan điểm với chúng.) Mọi người không hề biết rằng điều diễn ra tiếp theo cũng kinh khủng không kém. Ba mươi nghìn người “biến mất”.
***
Đây là câu chuyện về cuộc đời của Guevara được viết bởi một người Mỹ Latinh quê ở Buenos Aires đồng thời là một người phụ nữ. Tôi hi vọng giải thích tại sao mà hơn bốn mươi năm đã trôi qua nhưng hình ảnh giận dữ và đầy quyết tâm của ông trên ngọn cờ đen đỏ vẫn xuất hiện ở đầu những cuộc biểu tình khắp nơi từ Buenos Aires đến Berlin đến Kathmandu. Tôi muốn đặt Che vào bối cảnh Mỹ Latinh và truyền tải ý nghĩa của điều đó cho độc giả ở châu Âu, Bắc Mỹ và phần còn lại của thế giới. Tôi sẽ giải thích tại sao anh lại được những người thân quen ngưỡng mộ – và rộng hơn là xuyên khắp các tư tưởng chính trị ở Mỹ Latinh – vì tính chính trực, sự dũng cảm và phong thái cuốn hút, sự tận tâm với người nghèo và thái độ thù địch với Mỹ. Cảm xúc này cũng có ở nhiều người không ủng hộ bạo lực cách mạng, học thuyết kinh tế và các lý tưởng chính trị khác của anh.
Tôi đã xem xét các tài liệu được xuất bản về Che bằng bốn thứ tiếng và đã cố gắng thu thập, nghiên cứu và đánh giá tỉ mỉ những chứng cứ mâu thuẫn nhau hết mức có thể, nhưng đây cũng là một cuốn sách riêng tư của người trong cuộc. Nó được dựa trên một nền tảng cho phép tôi nhìn những điều mà những nhà viết tiểu sử khác bỏ qua hoặc không hiểu. Đất nước mà tôi miêu tả ở những chương đầu là đất nước mà tôi biết khi còn là một đứa trẻ cho đến khi trưởng thành, khi tôi lớn lên ở Barrio Norte ở trung tâm Buenos Aires, chỉ cách căn nhà của gia đình Che vài dãy nhà. Chúng tôi cùng đến một số nơi và cùng biết nhiều người (Tôi thường xem đội bóng bầu dục mà Che chơi ở San Isidro – thực ra chính là ở những sân chơi đó mà anh có biệt danh Fúser, tên rút gọn của Furibundo Guevara de la Serna – Guevara de la Serna giận dữ - bởi vì các cầu thủ thường nói “Fúser đến kìa” khi họ thấy anh lao hết tốc độ tới và ném mình vào cuộc giằng co với sự khoái trá. Cách cản bóng của anh nổi tiếng là dữ dằn). Có lẽ quan trọng hơn cả là chúng tôi cùng chung ngôn ngữ.
Tiếng Tây Ban Nha ở Argentina đầy những thành ngữ do những người quốc tịch khác nhau được mời đến nhập cư trước và sau Thế chiến Thứ II đem đến. Nhờ kết hợp những thành ngữ này vào các giai điệu mà điệu tango giúp củng cố một ngôn ngữ gọi là lunfardo mà chỉ có những người lớn lên ở Argentina mới nói và hiểu được. Nhiều người thắc mắc tại sao những người bị điếc tông như Guevara và bản thân tôi lại thuộc lòng lời bài hát. Họ không nhận ra rằng đó là một phần của tính cách chung của chúng tôi, là ngôn ngữ của thủ đô. Buenos Aires là một cảng nằm trên con sông rộng nhất thế giới cởi mở với những người mới đến thuộc mọi chủng tộc và tín ngưỡng, và ngôn ngữ này thường thể hiện cảm xúc của những porteño[1] chúng tôi tốt hơn những từ ngữ trong tiếng Tây Ban Nha truyền thống do những kẻ xâm lược đem đến. Một ví dụ hay của sự mỉa mai theo kiểu porteño của Che xuất hiện trong cuốn nhật ký của anh về chiến dịch Bolivia. Giống như các tác phẩm đã được xuất bản khác của anh, cuốn nhật ký này bao gồm những ghi chép mà anh viết cho bản thân mình như một bản ghi nhớ vắn tắt để làm nền tảng cho cuốn sách. Anh không bao giờ có cơ hội chỉnh sửa nó vì anh chết hai mươi bốn giờ sau khi cuốn sổ bị lấy mất. Giọng điệu trong đó tự tin rõ ràng và gần gũi, hé lộ con người thật của anh hơn là con người trước công
https://thuviensach.vn
chúng. Có lúc, mặc dù họ chỉ có vài con lừa và ngựa nhưng Che vẫn miêu tả rằng họ “phi nhanh như những kỵ binh”.
Vì trong số những người đã viết về anh chỉ có một số ít người quê ở Buenos Aires nên họ thường không ý thức được về những sắc thái ngôn ngữ và giọng điệu đặc trưng của chúng tôi. Khi anh ghé thăm những di tích Inca ở Cuzco, nơi những người xâm chiếm xây dựng nhà thờ của họ, anh nói trong cuốn Lại lên đường (Back on the Road) rằng anh có matete trong đầu, một thành ngữ chỉ sự mụ mị. Vậy mà có người dịch nó thành “bài thánh ca ngắn”, một sai sót mà những người viết tiểu sử sau đó cứ sử dụng mà không suy nghĩ gì. Một văn bản tiếng Ý còn ghi rằng anh đang hút cần sa (hierba trong tiếng Tây Ban Nha) trong khi thực ra anh đang uống maté (yerba maté trong tiếng Tây Ban Nha), một nước uống truyền thống của Argentina làm từ lá cây Ilex paraguariensis; tương tự như trà xanh.
Chiếc mũ bê-rê đen mà Che đội ở Sierra là một phần của bộ đồng phục và diện mạo của anh nay đã trở thành biểu tượng phổ biến của sự nổi loạn được các ngôi sao nhạc pop và thậm chí là cả công nương Diana trong tranh biếm họa đội, trông rất sành điệu. Tuy nhiên, ở Argentina, nó có ý nghĩa cụ thể hơn bởi loại mũ đó đến cùng những người dân nhập cư từ xứ Basque ở Tây Ban Nha và là đặc trưng của những người lao công hoặc những người làm thuê tầng lớp thấp ở các nông trại thời ông còn nhỏ.
Khi những người viết tiểu sử trước đây của Che muốn tìm hiểu nguồn gốc của anh, họ phải bắt đầu bằng cách phỏng vấn gia đình, bạn bè và những người biết rõ anh. Một nửa số dân Argentina đều có thể nói gì đó về anh và hàng tá những ngụy chuyên gia từ trên trời rơi xuống. Có vẻ như Guevara cùng một lúc lớn lên ở những thành phố khác nhau, hẹn hò với những cô gái còn chưa ra đời khi anh vĩnh viễn rời khỏi đất nước và thực hiện những chiến công khác bất khả thi không kém.
Nhiều người thân thiết với anh cảm thấy họ đã bị những tác giả không chung tư tưởng chính trị với Che xuyên tạc và từ chối trả lời phỏng vấn thêm. Khi tôi bắt tay vào dự án này, tôi có lợi thế là đã biết một số người mà anh lớn lên cùng. Việc tôi nói tiếng Tây Ban Nha với giọng Buenos Aires đặc trưng có lẽ khiến những người không biết tôi chấp nhận rằng tôi không hoàn toàn là người ngoài. Tôi đang nghiên cứu Che bởi vì anh là một phần của di sản của tôi, lịch sử của cả lục địa của tôi.
Nhiều năm sau khi Che qua đời, người ta còn dựng lên không biết bao nhiêu câu chuyện về anh, đại loại như những tuyên bố rằng anh sinh ra trong tầng lớp quý tộc hoặc một tay sát gái hàng loạt; rằng anh đã giết phụ nữ và trẻ nhỏ và tổ chức những buổi hành quyết giả khi anh là chỉ huy của pháo đài La Cabaña; rằng ông chẳng biết gì mấy về chiến thuật du kích; rằng vì kình địch với Castro mà ông phải rời khỏi Cuba; rằng Castro trên thực tế đã giết Che bằng cách bỏ rơi anh ở Bolivia, rằng anh đến Bolivia bởi vì anh đang tuyệt vọng và không có lựa chọn nào khác. Và xuất thân cũng như những trải nghiệm của tôi đã giúp tôi rất nhiều khi phải tiếp cận với những câu chuyện ấy.
Cuối cùng, bởi vì tôi là phụ nữ nên tôi không cần phải cạnh tranh với Che như những người đàn ông. Nhiều nhà văn nam viết tiểu sử Che dường như bị buộc phải tấn công anh như thể chỉ riêng sự tồn tại của anh thôi cũng khiến chất nam tính của họ bị nghi ngờ. Sao họ lại không nhận thấy anh là người đàn ông cứng rắn hơn họ khi họ thấy anh cùng bệnh hen đi khắp các chiến trường mà không một lời phàn nàn, rằng anh là một người viết rất nhiều, không bao giờ ngừng học hỏi, được các đồng chí kính trọng, có năng lượng và niềm tin vô biên vào tương lai của những lý tưởng của anh? Ở Cuba cho đến ngày nay, có những người sẽ nói cho bạn biết rằng họ đã đau đớn thế nào khi Che không chọn họ đi cùng anh đến Bolivia, ngay cả khi biết rằng điều đó gần như đồng nghĩa với cái chết.
Bản chất và giá trị thực sự của di sản mà Guevara để lại vẫn còn gây tranh cãi cho dù chúng ta đặt nó trong bối cảnh Cách mạng Cuba, một tầm nhìn về châu lục hiện nay đang nổi lên với sự nắm quyền của những người xã hội chủ nghĩa ở Bolivia, Uruguay, Ecuador, Venezuela và Brazil, hay thậm chí là ước mơ của anh về Liên minh các nước Mỹ Latinh. Tuy vậy, anh chắc chắn vẫn là một trong những nhân vật kiệt xuất nhất của thế kỷ XX và tiếp tục là nguồn cảm hứng cho nhiều người trong thế kỷ XXI.
https://thuviensach.vn
I
(1828 - 1930)
Che, tên khai sinh là Ernesto Guevara de la Serna, chào đời tại thành phố cảng Rosario thuộc tỉnh Santa Fé, Argentina. Ngày sinh của anh có lẽ là ngày 14 tháng 6 năm 1928. Dù bức ảnh trong giấy khai sinh của anh đã được công bố ở nhiều nơi nhưng một số người viết tiểu sử về anh vẫn đưa ra một ngày sinh khác. Có người còn nói giấy khai sinh của Che được khai man để giấu giếm chuyện lúc sinh Che hai vợ chồng Guevara chỉ mới kết hôn được 7 tháng. Nhưng những ai biết gia đình đó sẽ hiểu rằng họ chẳng hề bận tâm với những chuyện như thế. Gia đình Guevara không bao giờ quan tâm tới những quy tắc ứng xử thông thường hay những điều cấm kỵ trong tầng lớp của họ. Thực chất, theo lời một người em trai của Che là Roberto Guevara de la Serna thì sự nhập nhằng ngày tháng đó là đòn trả thù của một nhà báo bị bà Guevara tuyệt giao trong những ngày tháng cuối đời của mình ở một bệnh viện tại Buenos Aires năm 1965, khi bà đang hấp hối vì căn bệnh ung thư vú. Điều không may là ngày 14 tháng 5 năm 1928 do nhà báo đó đưa ra lại được ghi lại trong hầu hết các hồi ký sau này của Che.
Liệu chúng ta có bao giờ biết được ngày sinh thật của Ernesto? Tôi nghiêng về ý kiến rằng ngày tháng ghi trên giấy khai sinh của ông là chính xác. Mà điều đó có quan trọng không? Chỉ quan trọng khi bạn tin vào chiêm tinh học và bói toán. Dù sao đi nữa, ta chỉ cần biết rằng Ernesto đã tự viết nên hành trình cho mình ngay từ khi sinh ra; cậu vội vã chào đời tại một nơi như Rosario, không quan trọng ngày tháng.
Thành phố Rosario là hải cảng lớn thứ hai trong nước, với dân số xấp xỉ 300.000 vào thời điểm Ernesto ra đời. Thời đó Argentina là nước xuất khẩu ngũ cốc, đồ da, thịt bò và nhập khẩu hàng công nghiệp nên Rosario trở thành một trung tâm buôn bán sầm uất. Các mặt hàng không được chuyên trở bằng công-ten-nơ hay máy bay mà được đóng rồi vận chuyển bằng đường biển tới châu Âu, Mỹ và Viễn Đông.
Gần đây Rosario mới quyết định công nhận Ernesto Che Guevara là người con của thành phố và tôn vinh ông với một bức tượng đồng khổng lồ nhờ tiền quyên góp của hàng nghìn người hâm mộ. Bức tượng do nhà điêu khắc Andrés Zerneri thực hiện và được khánh thành ngày 14 tháng 6 năm 2008 nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của Che. Ernesto Che Guevara đã trải qua một chặng đường dài ở ngay chính quê hương ông, từ chỗ những tác phẩm của ông bị các chính phủ quân phiệt liên tiếp cấm đoán cho đến khi được tôn vinh với bức tượng cao 4m và xuất hiện trên tem thư. Tuy vậy, việc Ernesto được sinh ra ở Rosario là hoàn toàn ngẫu nhiên. Khi đó gia đình ông không có bất cứ một mối liên hệ nào với thành phố. Ngay cả bây giờ, mối liên hệ duy nhất chỉ là việc Juan Martín, người em trai ít tuổi nhất của Ernesto bị bắt giữ ở đó khi ông là thành viên du kích của Quân đội Cách mạng Nhân dân chiến đấu chống lại chính phủ quân phiệt tự phong của tướng Jorge Rafael Videla. Đây cũng chính là kẻ đứng sau cuộc Chiến tranh Bẩn thỉu kéo dài từ năm 1976 đến năm 1983 khiến 30.000 người Argentina “biến mất” vì bị nghi là theo cánh tả.
Ernesto Guevara - Lynch và vợ ông là Celia de la Serna đều đến từ Buenos Aires, thủ đô của Argentina, nơi hiện nay gia đình họ vẫn sống. Năm 1928, ông bà Guevara sống ở đồn điền yerba maté[2] tại Puerto Caraguatay thuộc tỉnh Misiones. Khi họ đang xuôi sông Paraná du hành tới Buenos Aires để đón chào đứa con đầu tiên thì Celia lâm bồn sớm và họ buộc phải dừng lại. Rosario nằm chính giữa Misiones và Buenos Aires và thời đó cần phải mất tới một tuần mới đến được thủ đô.
Các thành viên hai gia đình đến thăm để chào mừng Ernestito ra đời. Cậu bé sẽ được gọi bằng cái tên đó cho đến lúc trưởng thành để tránh rắc rối khi cha cậu cũng tên là Ernesto. Hơn ba mươi năm sau, khi cha mẹ của Ernesto đặt chân đến Havana nhân thắng lợi của Cách mạng Cuba, Camilo Cienfuegos, đồng
https://thuviensach.vn
chí cũng là bạn thân nhất của Ernesto đã không thể nhịn được mà lăn ra cười khi nghe họ gọi Che là Ernestito. Sĩ quan Guevara huyền thoại, kẻ kiêu hùng của vùng núi Sierra Maestra, chiến lược gia của chiến thắng mang tính quyết định Santa Clara khiến kẻ độc tài Fulgencio Batista phải tháo chạy lại được cha mẹ ông gọi bằng cái tên rút gọn như thể ông chỉ là một đứa trẻ.
Ernestito sống ở Puerto Caraguatay, tại đồn điền của cha mẹ cậu bên bờ sông Paraná trong hai năm đầu của cuộc đời. Vì con sông này là ranh giới giữa hai nước Argentina và Paraguay nên có thể nhìn thấy những cánh rừng của Paraguay ở bên kia bờ. Người cha Guevara vốn là một thợ cả đã từng dành vài năm theo học kiến trúc nên đã xây cho gia đình ông một căn nhà có tên là “la calesita” hay “vòng quay ngựa gỗ”. Căn nhà tuy có hình vuông nhưng trông lại giống vòng quay ngựa gỗ nhờ những cột trụ chống đỡ phần nhô ra của mái nhà. Những cột trụ, ô tường và căn nhà đều làm từ gỗ nhưng lại không có mối nối hay đinh thông thường mà chúng được kết nối bằng những chiếc dầm sắt mạ kẽm. Bí quyết của kết cấu này là ở chỗ nó phân phối đều áp lực. Mặc dù vậy, ông Guevara vẫn kinh ngạc khi căn nhà có thể trụ được qua một trận cuồng phong kéo dài hàng giờ đồng hồ và làm bật gốc nhiều cây cổ thụ trong khu rừng xung quanh.
Dân số Argentina trong khoảng thời gian Ernestito lớn lên ước chừng 12 triệu người (Bản điều tra dân số năm 1914 đưa ra con số 8.612.000; bản tiếp theo, năm 1947 thống kê 15.894.000). Phần lớn những người có họ Tây Ban Nha đã định cư ở đó từ trước khi Argentina trở thành một nước cộng hòa. Chính cha mẹ của ông bà cố của thế hệ của Ernesto đã giành độc lập từ người Tây Ban Nha cho nên lịch sử hiện đại của chúng tôi – và toàn bộ lịch sử Argentina đều hiện đại – được viết nên bởi những con người có họ vẫn hiện hành ở Argentina. Lũ trẻ thực sự cảm nhận được chúng thuộc về nơi đây khi những chiến công của cha ông chúng được nhắc đến trước lớp.
Những gia đình đầu tiên tới Argentina xuất thân từ vùng Basque ở Tây Ban Nha, và Guevara là một họ đặc trưng ở Basque. Họ trở nên giàu có nhờ sở hữu đất đai màu mỡ và chăn nuôi gia súc và được biết đến với tên gọi oligarquia vacuna hay đầu sỏ gia súc. Thế rồi Argentina trở thành đất nước của những nông trại bao la trồng lúa mì và nuôi gia súc và người dân được học hành tới nơi tới chốn.
Những người viết tiểu sử thường nói rằng gia đình Guevara thuộc tầng lớp quý tộc. Thật ra họ không hiểu được cơ cấu xã hội ở Argentina. Đối với criollos (những người có nguồn gốc Tây Ban Nha sinh ra trên đất châu Mỹ), công dân của một đất nước chưa tròn 200 năm tuổi thì khái niệm quý tộc hoàn toàn khác với người châu Âu. Nó gần như có ý miệt thị bởi tổ tiên của chúng tôi đã không chọn làm quý tộc. Năm 1813, trong lời mở đầu của bản hiến pháp được soạn thảo sau khi chúng tôi giành độc lập từ tay hoàng gia Tây Ban Nha, Hội đồng lập hiến tuyên bố rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng. Thêm nữa, Hoàng gia Tây Ban Nha cũng để lại những tàn dư thối nát, và điều đó khiến những người criollo càng thêm phẫn uất.
Dòng họ Guevara là quý tộc nhỏ gốc Tây Ban Nha và Ireland còn dòng họ de la Serna là quý tộc nhỏ có tổ tiên người Tây Ban Nha. Nếu người cha Guevara có khoe khoang rằng Phó vương Peru Peralta là một trong những cụ cố của Ernesto thì cũng là để nhấn mạnh rằng con trai ông có xuất thân danh giá, rằng cậu bé da trắng, được học hành tử tế, luôn được no đủ và bởi vậy cậu làm cách mạng không phải vì lợi ích cá nhân.
Cha mẹ Ernesto thuộc tầng lớp tư sản Argentina được giác ngộ. Họ sẽ thất kinh nếu bị gọi là quý tộc. Khi gia đình ngày một đông hơn thì khối tài sản ban đầu lại bị chia năm xẻ bảy. Người cha Ernesto Guevara luôn phải lo mưu sinh và ông đã đạt được một số thành công nhất định. Ông và vợ có những nguyên tắc của tầng lớp có học và bốn người con lớn nhất của họ đều học đại học và tốt nghiệp. Ernesto là bác sĩ, Celia là kiến trúc sư, Roberto là luật sư và Anna María đã khuất cũng từng hành nghề kiến trúc sư.
Những người criollo được giác ngộ, mà ví dụ là nhà Guevara không coi mình là người châu Âu mà coi những bộ lạc địa phương đã cư ngụ ở châu lục này trước sự xuất hiện của người Tây Ban Nha là
https://thuviensach.vn
paisanos, nghĩa là đồng hương châu Mỹ. Một trong những người như thế là José de San Martín, vị tướng lỗi lạc đã giải phóng dân tộc ông khỏi quân Tây Ban Nha vào thập niên 1810. Sau khi được bộ lạc Pehuenche cho phép đi qua lãnh thổ của họ, ông tiếp tục vượt dãy núi Andes trên lưng ngựa, dẫn đầu ba đội quân, một đội gồm những người Argentina đồng hương, một gồm người Chile và một gồm những người Peru ái quốc để giải phóng cả Chile và Peru. Trong khi đó thì một người criollo khác là Simon Bolívar từ đỉnh lục địa tiến về phía Nam giải phóng những vùng đất sau này sẽ trở thành Venezuela, Columbia và Ecuador.
Khi ra lệnh cho toàn quân ngày 27 tháng 7 năm 1819, San Martín đã gọi những người da đỏ là paisano, người đồng hương. Ông đã có những lời nói thật kích động: “Hỡi những người anh em Đội Quân Andes, chúng ta sẽ phải tiến hành một cuộc chiến tranh hết khả năng của mình. Cho dù chúng ta thiếu tiền bạc thì vẫn có thịt và một ít thuốc lá. Khi chúng ta hết quần áo, hãy vận những trang phục mà những người phụ nữ của chúng ta đã dệt nên, nếu không chúng ta sẽ trần truồng như những người anh em da đỏ. Hãy ung dung tự tại và những chuyện còn lại sẽ không còn quan trọng nữa... Hỡi những người anh em, hãy cùng thề rằng chúng ta sẽ không hạ vũ khi xuống một khi chúng ta chưa được chứng kiến đất nước được giải phóng hoàn toàn hoặc chúng ta sẽ chết trong vinh quang.” San Martín là một sĩ quan đồng thời là một quý tộc được giáo dục tại Tây Ban Nha. Việc ra trận trong tình trạng không quần áo hẳn nhiên không bình thường đối với một người như ông, nhưng những lời nói đó cho thấy dù là thổ dân hay criollo thì những người sinh ra trên đất châu Mỹ coi trọng sự tự do thoát khỏi xiềng xích của người châu Âu như thế nào.
Tuy vậy, cách đối xử với cộng đồng thổ dân của nhiều người thuộc tầng lớp đầu sỏ gia súc chẳng nhân đạo hơn quân xâm lược là mấy. Tầng lớp cai trị mới ở Argentina chỉ chia chác đất đai cướp từ người Tây Ban Nha giữa các thành viên với nhau. Họ bỏ mặc cho hầu hết dân chúng, không chỉ riêng người da đỏ mà những người lai như người gaucho (chiếm phần lớn trong dân số nông thôn và làm thuê trên lưng ngựa cho các địa chủ) cũng như những người tầng lớp thấp hơn như thợ thủ công, quân nhân, lao công, nông dân và người làm công nhật sống trong tột cùng của sự nghèo khổ. Nếu tính đến giá trị của những vùng đất đai mà bọn bọ đã tự mình giành lấy thì hành động này còn thô bạo bội phần. Các chính phủ kế nhiệm luôn được những người thuộc đầu sỏ da trắng mới lập nên. Chúng tự cho mình quyền được cướp trắng từ những người đồng bào Argentina nhờ công cụ pháp luật vốn chỉ củng cố đặc quyền của chúng và làm lợi cho chúng và đồng bọn.
Dân số Argentina chủ yếu là người da trắng. Có vẻ như trong thời gian đô hộ miền đất này với tên gọi Unidas del Sur (Liên minh các tỉnh phía Nam), những người Tây Ban Nha đã rất tàn bạo. Họ cũng đem theo những căn bệnh của châu Âu như đậu mùa, thổ tả và viêm phổi. Người da đỏ chưa gặp phải những dịch bệnh này bao giờ nên họ không có kháng thể chống lại bệnh. Vẫn có những bộ lạc da đỏ biệt lập sống rải rác khắp Argentina nhưng trong những chuyến du hành của mình, chàng trai Guevara đã phát hiện ra rằng cuộc sống của các bộ lạc ở những vùng còn lại của châu Mỹ Latinh có phần khá hơn. Khác với Argentina, phần lớn dân số Nam Mỹ và Trung Mỹ có nguồn gốc da đỏ. Sở dĩ tôi nói rằng cuộc sống của họ “có phần khá hơn” là bởi vì họ vẫn sống, nhưng họ rất nghèo và thiếu thốn đủ thứ, không khá hơn nô lệ là mấy. Trên thực tế, họ không phải nô lệ mà nô lệ là những người Brazil gốc châu Phi bị quân đô hộ Bồ Đào Nha chiếm đóng đày cấp tốc đến đây.
Nhưng cũng cần phải nói rằng nghiên cứu gần đây cho thấy người Argentina không thuần da trắng như nhiều người nghĩ. Trong cuốn La Conquista Erotica de las Indias (Cuộc chinh phục người da đỏ bằng tình dục), nhà sử học Argentina Ricardo Herren thuật lại rằng khi đến Mỹ Latinh, những kẻ xâm chiến Tây Ban Nha thiếu thốn đàn bà đã tìm đến thú vui xác thịt với những người phụ nữ da đỏ địa phương, sản sinh ra thế hệ “mestizo” đầu tiên hay những người sinh ra ở châu Mỹ lai Tây Ban Nha và da đỏ. Trong những năm gần đây, trung tâm DNA ở Buenos Aires có nhiệm vụ khớp con cái của các nạn nhân “biến mất” với họ hàng của chúng, bởi một số người vẫn sống và mong mỏi được đoàn tụ với những đứa trẻ. Kết quả của trung tâm cho thấy có đến 56% các mẫu ADN được phân tích có dòng máu da đỏ.
https://thuviensach.vn
Cha của Ernestito từng tự hào nói rằng dòng máu nổi loạn và ái quốc của tổ tiên Ireland luôn chảy trong huyết quản của cậu con trai. Guevara và Lynch là hai dòng họ lừng lẫy ở Argentina đã tự nguyện tha hương đầu thế kỷ XIX dưới chế độ độc đài bạo ngược của Juan Manuel de Rosas (1829-1832; 1835- 1852). Hắn dùng phương pháp khủng bố để cai trị cho đến khi bị trục xuất và đày đến Anh. Hắn coi bất kỳ ai từ chối gia nhập quân đội của hắn là kẻ thù. Francisco Lynch từ chối và cùng gia đình chạy đến Uruguay. Từ đó ông đi theo hướng bắc đến California và định cư ở San Francisco.
Juan Antonio Guevara cũng rời Argentina vì những tư tưởng chính trị của mình. Từ tỉnh nhà Mendoza nằm ở chân dãy núi Andes, ông vượt núi rồi sống ở Chile một thời gian. Sau đó ông cùng các anh em trai và một nhóm bạn du hành đến California. Những mỏ vàng được phát hiện năm 1840 tại đó đang thu hút đàn ông từ khắp nơi trên thế giới đổ về.
Francisco Lynch và Juan Antonio Guevara là ông bà của Ernesto Guevara Lynch. Hai người con của họ là Ana Lynch và Roberto Guevara sinh ra tại Hoa Kỳ rồi trở về Argentina và kết hôn. Họ có 12 người con và một trong số đó là Ernesto Guevara-Lynch, cha của Ernesto Che Guevara de la Serna, người đã có thể dễ dàng trở thành công dân của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Mẹ Ernestito cũng có xuất thân danh giá không kém. Celia de la Serna y de la Llosa là con út của Edelmira de la Llosa và Juan Martín de la Serna, hậu duệ của hai dòng họ gốc Tây Ban Nha uy quyền nhất ở Argentina. Juan Martín de la Serna thừa kế khối tài sản khổng lồ dưới dạng một số nông trại hay trại gia súc được gọi là estancia ở Argentina. Ông đã quản lý trang trại bằng những phương pháp nông canh hiện đại. Ông là một trí thức hành nghề luật sư từ năm 22 tuổi và là giáo sư khoa Luật trường Đại học Buenos Aires. Ông qua đời khi Celia chưa đầy 2 tuổi và vợ ông từ trần khi Celia lên bảy. Chị cả của Celia là Carmen chịu trách nhiệm gánh vác gia đình khi mẹ họ mất.
Celia được các xơ của dòng Thánh Tâm nuôi dưỡng và lớn lên thành một con chiên ngoan đạo. Người ta từng đinh ninh rằng bà cũng có thể trở thành xơ. Từ chỗ ủng hộ hình phạt bằng roi và hành xác, bà dần dần nhận ra mình không có thiên hướng và rằng các xơ nhận bà vào nhà thờ là bởi họ hi vọng bà sẽ đem theo của hồi môn giá trị.
Carmen, người chị cả của Celia sau này lấy một nhà thơ cộng sản là Cayetano Córdoba-Iturburu. Bà trở thành người mẹ tinh thần của Celia sau khi cha mẹ họ qua đời. Gia đình CórdobaIturburus hiển nhiên là nguồn ảnh hưởng quan trọng suốt thời thanh xuân của Celia. Khi Celia lấy Ernesto Guevara Cha thì ông đã là một người theo chủ nghĩa xã hội, và sau đó bà cũng đi theo con đường của chồng. Ban đầu bà tiếp thu một ít kiến thức chính trị từ người chồng nhưng khi sự nghiệp sáng chói của con trai đang phát triển, bà nhiệt thành nghiên cứu chủ nghĩa xã hội, cải cách chính trị và những phương pháp nhằm đem lại một xã hội bình đẳng hơn.
Celia gặp Guevara Cha qua gia đình Echagüe vốn là chỗ rất thân với ông. Suốt một thời gian họ chỉ là bạn bè. Khi Celia muốn kết hôn và nhận thừa kế thì bà chưa đủ tuổi bởi tuổi thành niên ở Argentina lúc đó là 22. Để thực hiện mong muốn của mình, bà bỏ nhà và đến ở với người chị gái khác là Edelmira, vợ của Ernesto Moore. Edelmira sắp xếp cho Guevara Cha và Celia làm đám cưới kín và Jorge, em trai của hai người là thành viên duy nhất của dòng họ dela Serna được mời đến. Sau đó, cặp đôi đến sống ở trang trại maté ở Puerto Caraguatay thuộc Misiones.
Misiones chưa phải là một tỉnh khi hai vợ chồng Guevara sống ở đó mà là một trong số vài “lãnh thổ” sau này được chính phủ trung ương ở Buenos Aires nâng lên thành tỉnh. Đó là một vùng đất hoang không ai biết đến. Trong cuốn hồi ký “Che thời trẻ”, Guevara Cha cho chúng ta biết ông đã mua đất ở đó nhờ tiền thừa kế từ cha ông. Tôi không có lý do gì để không tin lời ông, mặc dù một số người viết tiểu sử cho rằng ông đã dùng tiền của vợ.
Ở Argentina, việc hai vợ chồng góp vốn không phải là việc hiếm gặp. Các cặp vợ chồng cần hơn một nguồn thu nhập để nuôi sống họ do nguồn thu từ đất đai phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện khách quan
https://thuviensach.vn
như khí hậu, dịch bệnh, châu chấu, côn trùng và trong chăn nuôi thì còn có những bệnh như lở mồm long móng mà cho đến nay người nông dân Argentina vẫn đang vật lộn loại bỏ. Tuy nhiên, khi Celia và Guevara Cha kết hôn thì bà mới chỉ là vị thành niên và trẻ mồ côi, mặc dù sau này bà được thừa kế đất canh tác, gia súc cũng như lợi tức từ phiếu nợ.
Missiones là một vùng đất thanh bình. Theo lời Guevara Cha thì khi hai nhà tư nhiên học Friedrich von Humboldt và Aimé Bonpland đến đó hồi thập niên 1850 thì họ đã bị mê hoặc với phong cảnh và chẳng muốn về nữa. Họ ở lại đó vài năm như thể bị bỏ bùa. Có người cũng viết rất hùng hồn về tình cảm tha thiết của họ dành cho vùng đất như Félix de Azara, được hoàng gia Tây Ban Nha cử đến để giải quyết tranh chấp biên giới giữa các thuộc địa ở hai bên bờ sông; Martin de Moussy, nhà khoa học Pháp được chính quyền Argentina vời tới để tiến hành nghiên cứu địa lý, ông cũng đã thám hiểm các con sông ở Uruguay và Paraná; Moisés Bertoni, nhà khoa học Thụy Sĩ sống ở Misiones và Paraguay đã thực hiện các nghiên cứu về nông nghiệp, thực vật học, động vật học và khí tượng học. Nghiên cứu của họ nổi tiếng khắp châu Âu.
Mọi thứ ở Misiones đều hùng vĩ khác thường. Cánh rừng bất khả xâm phạm, và những cây lớn che hết ánh sáng mặt trời, khiến khu rừng trở nên tối tăm, ẩm ướt và bí ẩn. Có những động vật không thể thấy ở nơi khác, như yaguareté, một loại báo có khả năng xé toạc một con bò mộng; onza, một loài lai giữa mèo và báo; và yacaré, một loại cá sấu khổng lồ. Thực vật bản địa gồm có lapacho, loại cây có được sử dụng trong công nghiệp xây dựng và tacuara và tacuarembó, những loại sậy rất dẻo dai được tìm thấy ở các bờ sông phía bắc Argentina và được dùng làm đồ nội thất. Người da đỏ đã sử dụng tacuara để làm giáo mác chống lại các đội quân đô hộ. Ngược lại, những đội quân đó cũng tự học cách dùng tacuara làm giáo mác.
Khi Ernesto Moore và vợ Edelmira dela Serna de Moore ghé thăm Puerto Caraguatay cùng hai người con trai, họ cũng bị vùng đất này lôi cuốn và ở lại đó vài tháng. Ernestito và các anh họ trạc tuổi rất thích chơi ngoài trời và thường được người giúp việc mới tên là Carmen Arias dẫn đi khắp rừng. Carmen ở cùng gia đình họ cho đến khi lấy chồng 8 năm sau đó nhưng vẫn giữ mối thân tình với họ. Guevara Cha kể lại rằng khi ông dạo quanh đồn điền maté, ông có thể nghe thấy bọn trẻ cười rú lên trên chiếc xe độc mã chạy hết tốc độ do mấy con la kéo, trong khi Carmen thì cất cao giọng hát cho chúng nghe.
Đó là những năm tháng hạnh phúc dù cuộc sống không dễ dàng lắm. Theo lời Guevara Cha thì những côn trùng ở vùng đó có thể gây chết người và họ phải học cách nhận biết chúng và xử lý da khi bị đốt. Mbargui, muỗi mắt và ura là những côn trùng nhỏ khó nhìn thấy nhưng rất nguy hiểm. Chúng có thể vượt qua lưới chống muỗi và bay thành đàn hàng trăm con. Gần như không thể nhìn thấy con pique sống giữa các tấm ván của tòa nhà cho đến khi chúng bò vào dưới móng chân của những ai đi chân đất. Sau khi thụ thai, một con cái có thể sinh hàng ngàn con mới tạo thành nhiều hang rãnh dưới da khiến người bệnh đau đớn khủng khiếp và nhiễm trùng.
Người quản đốc ở đồn điền của Guevara Cha là chuyên gia gắp pique khỏi móng chân bọn trẻ khi chúng đang ngủ bằng thuốc lá. Khi lũ côn trùng đã trồi lên bề mặt da, ông dùng ghim vàng gỡ chúng ra. Ernestito thường xuyên phải gắp pique và người quản đốc khéo léo đến nỗi cậu bé chẳng bao giờ tỉnh giấc trong lúc ông đang làm. Và tất nhiên là còn có những con muỗi mang bệnh sốt rét nữa.
Misiones có thể là thiên đường đối với một đứa trẻ khi nó được thiên nhiên bao bọc và được hưởng sự tự do ngoài trời, nhưng một gia đình giàu có đã quen với tiện nghi của lối sống thành thị mà lại ở đó thì thật khác thường. Thực ra Celia và Ernesto Guevara là một cặp vợ chồng hơi kỳ quặc và thậm chí người khác còn nghĩ rằng họ hơi điên, nhưng họ rất dễ mến và tốt bụng. Khi mới cưới, hai vợ chồng Guevara được bạn bè và người thân miêu tả là lộn xộn, bất cẩn và hào phóng quá mức. Người làm công luôn được đối xử như người trong nhà.
Nhiều năm sau, khi Carmen, người vú em của Ernestito nghỉ việc để lập gia đình, cô cũng biết gia đình Guevara đang gặp khó khăn về tài chính do Celia tình cờ đề cập đến trong thư gửi cho cô. Ngay trước lễ
https://thuviensach.vn
Giáng Sinh, bọn trẻ nhà Guevara nhận được một giỏ mây khổng lồ đầy ắp sôcôla và các loại kẹo, hoa quả và mứt từ vợ chồng Carmen. Trong một lá thư gửi đến bố mẹ chúng, Carmen giải thích rằng họ muốn tặng cho mấy đứa mà cô hết mực yêu quý những thứ quà trẻ con luôn nhận được nhân dịp Giáng Sinh.
https://thuviensach.vn
II
(1930 - 1934)
Gia đình Guevara sống ở Misiones được vài năm thì Celia lại mang thai. Họ trở lại Buenos Aires năm 1930 để đón chào sự ra đời của đứa con thứ hai, một bé gái được đặt tên là Celia. Họ thuê một ngôi nhà trong khuôn viên biệt thự lớn của Martín Martínez-Castro ở San Isidro. Sự sắp xếp này có lợi cho tất cả mọi người. MartínezCastro lấy Maria Luisa, chị gái của Ernesto Guevara Cha cho nên bọn trẻ sẽ sống cạnh anh chị em họ và chúng có thể cùng chơi trong khu vườn rộng lớn của dinh thự mà không cần bố mẹ giám sát. Con của Martínez-Castro lớn hơn Ernestito và Celia một chút và như nhiều đứa trẻ khác, chúng vui mừng nhận trách nhiệm trông coi những đứa em họ.
San Isidro là một khu dân cư thanh lịch nằm ở ngoại ô Buenos Aires và Guevara Cha làm ở Astillero Río de la Plata, không xa nhà mấy. Đó là một xưởng đóng tàu của người em họ Germán Frers-Lynch trong đó ông cũng góp một ít vốn. Rủi thay, xưởng đóng tàu bị lửa thiêu rụi mà lúc ấy lại chưa đóng bảo hiểm. Sai lầm đó đã khiến Guevara Cha mất toàn bộ tiền vốn. Trận hỏa hoạn có lẽ do một đối thủ ghen ăn tức ở khi thấy việc kinh doanh của mình thua kém Frers. Guevara Cha không còn lại gì ngoài chiếc thuyền buồm có tên Kid mà ông neo ở sông Paraná gần ngôi nhà ở Puerto Caraguatay. Đó từng là phương tiện giúp ông tới đồn điền maté của mình. Frers cũng tặng ông một chiếc du thuyền có tên là Ala thay cho khoản bồi thường. Ông giữ chiếc thuyền này ở đồng bằng Río de la Plata gần Buenos Aires để sử dụng vào dịp cuối tuần và ngày nghỉ.
Ban đầu gia đình Guevara chỉ định ở Buenos Aires trong một thời gian ngắn, nhưng Ernestito bắt đầu mắc hen suyễn, căn bệnh sẽ ảnh hưởng tới Che suốt đời. Các bác sĩ khuyên rằng cậu bé sẽ khó thở nếu phải sống ở vùng Puerto Caraguatay nóng ấm. Vì thế gia đình Guavara không thể trở lại đó.
Đã có nhiều tài liệu viết về căn bệnh hen suyễn của Ernestito và cho rằng đó là hệ quả của mối quan hệ quá gần gũi của cậu bé với mẹ. Thời gian và những nghiên cứu y khoa đã chỉ ra sai lầm của giả thuyết này, nhưng dù gì thì giả thuyết đó cũng sai bởi tất cả các anh em nhà Guevara đều bị hen, mặc dù bốn người con khác chỉ bị nhẹ rồi lớn lên mà không gặp khó khăn gì. Rõ ràng là Ernestito được mẹ cưng chiều nhất và họ có mối quan hệ vô cùng gần gũi. Có thể là vì cậu là đứa con đầu tiên của bà hoặc bởi vì cậu không thể đến trường như bình thường và người mẹ phải lo dạy dỗ cậu bé khi cậu nằm liệt giường. Nhưng Celia cũng từ chối nuôi dạy cậu như một người khuyết tật và chắc chắn bà là tấm gương truyền cảm hứng cho Ernestito khi cậu trưởng thành.
Celia không phải là một người phụ nữ coi thường truyền thống nhưng bà hoàn toàn không quan tâm đến truyền thống, bởi bà có những ưu tiên khác. Bà rất quả cảm, thông minh và hào phóng. Bà được giáo dục tốt và đọc nhiều.
Bà thông thạo tiếng Pháp và đam mê văn học Pháp, đặc biệt là thơ. Bà luôn vui vẻ, thoải mái và trước khi người con trai Ernestito trở nên nổi tiếng, bà không làm căng bất cứ chuyện gì. Mặc dù không sở hữu một vẻ đẹp cổ điển nhưng bà luôn được coi là một người phụ nữ cực kỳ hấp dẫn. Bà có cá tính mạnh và ở Argentina vào giai đoạn đó, đặc biệt là trong tầng lớp của mình, bà luôn là một trong những người đầu tiên hấp thu tư tưởng mới. Bà là một trong những người phụ nữ đầu tiên ở Argentina mặc quần ngoài đường phố, bà tự mình lái xe, có tài khoản ngân hàng cá nhân và để tóc ngắn như con trai.
Calica Ferrer, một người bạn thời thơ ấu của Ernestito có kể lại một giai thoại về cá tính khác người của Celia khi họ sống ở tỉnh Córdoba. Một hôm, vị cha xứ cho rằng Celia đã dự lễ Mét mà không mặc vớ dài (một điều cấm kỵ vào thời đó) và đã quở trách bà khi bà chuẩn bị rời khỏi nhà thờ. Bà cười vào mặt
https://thuviensach.vn
ông, thò tay vào ngăn túi của chiếc váy và kéo chiếc vớ nylon lên để cho thấy là bà đang mặc vớ dài. Vớ nylon trong suốt thời đó là một món hàng khác thường.
Ngày 6 tháng 9 năm 1930, Tướng José Félix Uriburu lật đổ chính phủ dân chủ do dân bầu của Hipólito Irigoyen, một luật sư từng lãnh đạo đảng trung lập Liên minh Công dân Cấp tiến. Sự kiện đó đánh dấu sự mở đầu của Thập kỷ Ô Nhục mặc dù nó kéo dài đến tận năm 1943. Chính phủ không chính thức của tướng Uriburu (1930-1932) đã nhượng bộ tư bản Anh rất nhiều và hầu hết những bước đi đó không có lợi cho đất nước. Điều này đã dẫn đến bất ổn thường xuyên cũng như hàng loạt các cuộc đảo chính và chống đảo chính và tình trạng thay đổi chính phủ liên miên. Trong số đó có một số chính phủ gian lận, một số dân chủ và một số độc tài.
Thập kỷ Ô Nhục đã tạo ra hệ lụy là các lực lượng vũ trang luôn nhòm ngó chiếc ghế quyền lực ở Argentina, một tình trạng còn kéo dài trong nhiều năm sau đó, lúc có lúc không. (Có ý kiến cho rằng cuối cùng họ chỉ rời bỏ chính trường khi việc thua quân Anh trong Chiến tranh Malvinas/Falklands năm 1982 khiến quân đội chịu sự ô nhục và bất tín). Cố nhiên, việc quân đội thường xuyên can thiệp vào các thể chế dân chủ đã ảnh hưởng phần nào đến quan điểm và nhãn quan của những người sinh trưởng vào thời kỳ đó. Thật là mệt mỏi khi luôn bị những người mặc quân phục đó từ chối quyền công dân.
Ernestito tiếp tục bị hành hạ bởi những cơn hen suyễn và các bác sỹ khuyên gia đình ông nên rời khỏi San Isidro. Khí hậu ở biệt thự nhỏ gần sông của họ vốn quá ẩm ướt và không có lợi cho sự phục hồi của cậu con trai. Gia đình họ chuyển đến một căn hộ trên tầng năm của một tòa nhà ở trung tâm Buenos Aires, gần công viên Palermo rộng lớn, lá phổi của thành phố. Người con thứ ba của ông bà Guevara là Roberto chào đời ở đó ngày 18 tháng 5 năm 1932. Ernestito thường xuyên đến chơi ở công viên. Cậu thích tận hưởng không khí trong lành và cha cậu còn dạy cách lái xe ba bánh, nhưng sức khỏe của cậu không tiến triển.Các bác sỹ lại khuyên gia đình chuyển về vùng đồi núi ở tỉnh Córdoba, một nơi nổi tiếng về khí hậu dễ chịu. Quả thực là cả tỉnh Córdoba ở miền Trung Argentina từ lâu đã trở thành nơi nghỉ dưỡng cho những người mắc các chứng viêm phổi.
Gia đình Guevara khởi hành đến Córdoba trên chuyến tàu đêm. Guevara Cha đã dự định để vợ và các con cùng người vú em đến trước ông do ông còn một số việc ở Buenos Aires phải hoàn thành. Ông đưa gia đình đến ga xe lửa, nhưng khi họ chuẩn bị đi thì Ernestito bắt đầu lên cơn hen. Cha cậu bé không nỡ lòng rời khỏi cậu và lên xe lửa mà không đem theo hành lý nào. Bởi vậy mà chuyến đi của gia đình họ toàn điềm gở. Guevara Cha kể lại rằng lúc đó ông đang đi một đôi giày mới quá chật, ông có cả gia đình theo sau, người con trai lớn nhất đang bệnh và ông vốn cũng không hay vui vẻ.
Cả gia đình thuê một căn hộ trong khách sạn Plaza ở Córdoba có cửa sổ nhìn ra Quảng trường San Martín. Họ có thể cảm thấy không khí khô ráo miền sơn cước. Trời nắng, quảng trường rợp bóng những cây cổ thụ xinh xắn, và không xa đó lắm, họ có thể thấy ngôi nhà thờ cổ mà những tín hữu Kitô đã xây dựng từ thế kỷ trước. Guevara Cha để ý thấy bệnh hen của cậu con trai đã đỡ. Cậu bé đã không chợp mắt được suốt đêm trên tàu vì cơn hen hành hạ và giờ cậu có thể thở được bình thường. Ông bố nghĩ con trai mình sẽ nhanh chóng khỏi bệnh và tất cả bọn họ sẽ hân hoan trở về Buenos Aires, nơi gia đình và bè bạn của họ sống và nơi ông có công việc lẫn tổ ấm của mình.
Bác sỹ Soria, vị bác sỹ nhi địa phương được giao nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe của Ernestito. Ông khuyên gia đình không nên quá lạc quan bởi cậu bé cần thời gian để có những tiến triển lâu bền. Vì thế, để ổn định gia đình mình, Guevara Cha thuê một căn nhà trong khu Arguello và tại đó, không cần giải thích cũng biết rằng bệnh hen của Ernestito trở nên trầm trọng hơn. Họ đã dự định ở khu đồi đó trong bốn tháng, nhưng giai đoạn này sớm trôi qua và sức khỏe của Ernestito vẫn lúc thăng lúc trầm. Sự sắp đặt này không có lợi một chút nào cho cậu bé.
Một người bạn cũ là bác sỹ Fernando Peña khuyên họ thử đến Alta Gracia, một thị trấn nhỏ gần Córdoba, dưới chân dãy Sierras Chicas. Ông đã sống ở đó nhiều năm và biết rõ khí hậu tuyệt vời ở đó. Vì đã hết cách nên gia đình Guevara quyết định nghe theo lời khuyên của bác sỹ Peña. Họ thuê những căn
https://thuviensach.vn
phòng trong khách sạn de la Gruta ở Alta Gracia và cậu con trai lớn bắt đầu thở dễ dàng hơn gần như tức thì. Guevara Cha được khích lệ bởi sự tiến triển này liền thuê một căn nhà trong khu Villa Carlos Pellegrini ở chân núi.
Thị trấn Alta Gracia được chia làm hai khu gọi là El Alto và El Bajo. El Bajo lâu đời hơn, đã phát triển bên cạnh nhà thờ và những công trình thực dân khác do người dòng Tên xây trong thế kỷ XVII. Ở đó du lịch phát triển và người ta bày bán áo poncho, thảm, đồ da, đồ lưu niệm và những mặt hàng thủ công rẻ tiền. Những người nghèo hơn trong thị trấn cư ngụ ở khu vực này. Gia đình Guevara ở El Alto là khu dân cư có những ngôi nhà rộng rãi và bề thế hơn, mặc dù hầu hết chúng đã bị hư nát. Những người đến đây nghỉ dưỡng thì thuê nhà trong khu vực này. Đời sống xã hội của dân dịa phương và những du khách mùa hè diễn ra ở khách sạn Sierras, nơi họ đến chơi bài, uống rượu và gặp gỡ. Tuy nhiên, khi mùa đông đến thì El Alto rặt người đến để chữa các bệnh về phổi.
Gia đình Guevara đến Córdoba năm 1933, khi Ernestito tròn năm tuổi. Họ đến để tìm khí hậu tốt hơn cho cậu con trai mắc bệnh hen của mình và ở đó đến năm 1944 khi cậu bé lên sáu tuổi. Ngôi nhà mới của họ được rừng bao phủ và chẳng mấy chốc lũ trẻ đã chạy nhảy xung quanh, kết bạn và nhìn chung là trải qua một khoảng thời gian tươi đẹp ở đó. Thậm chí Ernestito còn có những giai đoạn không lên cơn hen và có thể vui chơi ngoài trời cùng những đứa trẻ khác. Tuy nhiên, cậu không hoàn toàn khỏi bệnh. Thỉnh thoảng, cậu vẫn bị lên cơn hen và những cơn hen dữ dội có thể khiến cậu phải nằm bẹp giường một thời gian dài và sử dụng ống thở. Cha mẹ cậu kiên quyết muốn cậu sống một cuộc sống bình thường. Họ khuyến khích cậu chơi thể thao, bơi và tận hưởng cuộc sống ngoài trời, và cậu bé từ lâu đã quả quyết rằng cậu sẽ không để bệnh hen hạ thấp mình hoặc ảnh hưởng đến bất cứ thứ gì cậu muốn làm.
(Khi cậu chơi bóng bầu dục ở tuổi thiếu niên, cậu sắp xếp để một người bạn cầm theo ống thở và chạy dọc theo đường biên suốt trận đấu để luôn ở gần cậu nếu cậu lên cơn hen.)
Có thể nói rằng bệnh hen đã thay đổi cuộc đời cậu bé. Tôi từng là một đứa trẻ phải nằm liệt giường một thời gian dài nên tôi hiểu rằng những đứa trẻ mắc bệnh kinh niên sẽ phát triển những cơ chế để đối phó. Việc phải nằm yên một chỗ đã cho Ernestito thời gian suy nghĩ những vấn đề vượt quá tuổi cậu. Cậu buộc phải quyết định trở thành nạn nhân hay người sống sót. Tính cách mạnh mẽ của cậu khiến sự lựa chọn đó trở nên dễ dàng: Ernestito lựa chọn không trở thành nạn nhân. Một khi cậu đã lựa chọn thì sẽ không quay đầu lại.
Việc phải đối mặt với tử thần khi cậu bị ngạt và không thở được đã cho cậu một nhân sinh quan khác. Ở cái tuổi mà những đứa trẻ khác còn đang mơ tưởng trở thành những nhà thám hiểm gan dạ hay những tên cướp biển khét tiếng thì Ernestito đã quen với sự hữu hạn của cuộc đời mình. Việc cái chết cứ lảng vảng đã thay đổi suy nghĩ của đứa trẻ. Điều đó không còn diễn ra ở người lớn nữa. Đứa trẻ lập ra những phương án dự phòng để xử lý khi cái chết đến. Sự mong manh của bản thân khiến cậu bé trân trọng tất cả những gì cậu có: một gia đình yêu thương, một ngôi nhà, bạn bè, thức ăn đầy đủ, những ngày nghỉ, sách vở... Cậu trở nên ý thức về sự sung túc của mình. Cậu sử dụng thời gian tốt hơn bởi cậu không thể mặc nhiên cho rằng mình có thời gian. Cậu đang sống từng khoảnh khắc.
Trong trường hợp của Ernestito, điều này cho cậu một sự quyết tâm và cứng cỏi, trái ngược hẳn với sự yếu đuối mà bệnh tình của cậu đem đến. Tôi không tin rằng Ernesto Guevara có ý định chứng minh điều gì với người khác, nhưng trong một cuộc nói chuyện với người bạn đồng thời là nhà văn Uruguay Eduardo Galeano thì mẹ ông đã nói: “Con trai tôi dành cả đời mình cố gắng chứng minh với bản thân nó rằng nó có thể làm được tất cả những việc mà nó đã có thể không làm được.”
Thời niên thiếu, Ernestito phát hiện ra nhà thơ Đức Rainer Maria Rilke, người tuyên bố rằng cái chết chỉ là phần tối của cuộc sống và chúng ta cần chấp nhận sự mơ hồ đó. Chẳng lấy gì làm lạ là cậu yêu thích tư tưởng này. Việc Ernesto không sợ chết và coi đó là một sự tất yếu đã chi phối hành động của anh và có lẽ tạo cho anh một lợi thế trước kẻ thù. Nhiều năm sau, ở Cuba, Fidel Castro so sánh hai người cộng sự đắc lực nhất của ông: ông nói rằng Camilo Cienfuegos là người dũng cảm nhất nhưng Che thì hoàn
https://thuviensach.vn
toàn không biết sợ và dấn thân vào hiểm nguy, không màng đến cái chết có thể xảy đến. Castro ngạc nhiên khi Guevara đã sống cho đến ngày cuộc đấu tranh Cách mạng kết thúc.
Ngày 28 tháng 1 năm 1934, Ana Maria, đứa con thứ tư của gia đình Guevara chào đời. Gia đình họ đang sống trong một ngôi nhà không có người ở suốt một thời gian dài. Đó là ngôi nhà cuối cùng trên con đường cũ dẫn đến những triền đồi và có một sự mê tín phổ biến rằng có những linh hồn trú ngụ trong đó. Dân địa phương gọi nó là “căn nhà ma” mặc dù tên thật của nó là Villa Chichita. Trong hồi ký của mình, Guevara Cha nói rằng ông tin những con ma kia chỉ là một câu chuyện hoang đường nhưng niềm tin của dân địa phương khiến ông có thể thuê căn nhà với giá rẻ. Nó rất lý tưởng với gia đình ông.
Một đêm, khi ông đang đọc sách trên giường, ông nghe thấy một tiếng động phát ra từ nhà bếp ở tầng hầm. Tiếng động đó ngừng lại rồi lại bắt đầu theo nhịp của nó. Ông biết rằng không có ai trong bếp vào giờ này và tự hỏi liệu bác sỹ Peña có đang đùa không. Ông kiếm một khẩu súng lục trên đường đến phòng bếp và bật đèn. Không còn tiếng động nữa. Ông quay lại giường. Tiếng động lại bắt đầu nên ông quay lại nhà bếp. Một lần nữa, tiếng động dừng lại. Khi tiếng động bắt đầu lần thứ ba, ông đến nhà bếp và đóng cánh cửa ở sau lưng. Tiếng động lại bắt đầu. Ông bật đèn lên. Nó phát ra từ hai vung bản lề bằng gỗ của thùng chứa than: những thứ này rung lên khi gió lùa qua những ô cửa sổ nhà bếp đã vỡ. Nếu cánh cửa nhà bếp được mở thì áp suất giảm, những cái vung không rung nữa và tiếng động dừng lại. Những cái vung không gây ra tiếng động ban ngày vì cơn gió từ phương Bắc chỉ thối lúc đêm. Khi mọi người biết là nhà không có ma, bọn trẻ thì chưng hửng, nhưng người lớn lại được ngủ ngon.
Gia đình họ cuối cùng cũng rời khỏi Villa Chichita vì mùa đông ở đó quá lạnh và chuyển đến Villa Nydia, một căn nhà lớn có khuôn viên rộng. Nơi này đã trở thành bảo tàng Che Guevara, nhưng thời đó Villa Nydia cũng hơi xuống cấp. Đất đai của Celia đang trải qua một thời kỳ khô hạn dài đằng đẵng và giá maté từ đồn điền của họ ở Misiones đã tuột dốc nên thu nhập của gia đình bị tổn thất nặng nề. Tuy nhiên, họ vẫn tiếp tục sống vô tư lự. Trong nhà lúc nào cũng huyên náo rồi khi lũ trẻ lớn lên và mời bạn bè về nhà, căn nhà được gọi thân mật là “Vive como quieras” (Cứ tự nhiên). Đó cũng là tên Tây Ban Nha của bộ phim của Frank Capra You Can’t Take It with You. Villa Nydia giống như một câu lạc bộ thanh niên hơn là nhà của một gia đình.
https://thuviensach.vn
III
(1934 - 1941)
Trong thời gian dài gia đình Guevara sống ở Alta Gracia, Ernestito và Calica Ferrer trở thành bạn bè. Bác sĩ Carlos Ferrer-Moratel, cha của Calica lúc này là bác sĩ của gia đình Guevara. Vì ông là chuyên gia về các bệnh viêm phổi nên Alta Gracia là nơi lý tưởng để hành nghề. Carlos Figueroa, một người bạn thân khác của Calica và Ernestito hồi ở Alta Gracia nói rằng họ xích lại gần nhau nhờ trực khuẩn lao, nguyên nhân gây bệnh viêm phổi. Người ta cho rằng khí hậu miền núi khô ráo, thức ăn phong phú và bổ dưỡng cùng việc nghỉ ngơi thường xuyên sẽ có ích cho sức khỏe của những người mắc bệnh này cũng như bệnh hen suyễn và các bệnh liên quan đến phổi khác. Thời đó bệnh viêm phổi thường được coi là điềm gở nên người bệnh có điều kiện thường mua một căn nhà ở Alta Gracia và gắng gượng chịu đựng số mệnh.
Ông bà Guevara và ông bà Ferrer là những người bạn thân cùng chung lý tưởng chính trị bởi họ cùng ủng hộ đảng chủ nghĩa xã hội của Alfredo Palacios. Điều này thật khác thường đối với những người ở tầng lớp họ và trái ngược với dân trong vùng, những phần tử hữu khuynh và là tín đồ Công giáo La Mã trung thành. Thời đó, hệ thống nhà thờ lâu đời ở Argentina gây ảnh hưởng với cả các chính trị gia và các gia đình thuộc tầng lớp thống trị. Những thành phần bảo thủ hơn không từ chối gia đình Ferrer hoặc Guevara bởi Ferrer, Guevara-Lynch và de la Serna là những dòng họ quý tộc lâu đời và thành viên của các gia đình này sẽ luôn được các gia đình quý tộc khác khoan dung. Thật ra có một điều khiến tôi ngạc nhiên trong những chuyến đi Argentina là thành viên các gia đình đầu sỏ mà Ernesto Che Guevara giành cả đời chiến đấu chống lại quyền lợi của họ lại sẵn sàng giả đò rằng quan điểm chính trị của ông không mấy cấp tiến. Cùng lắm thì họ cũng chỉ cho rằng ông hơi điên hoặc lập dị nhưng sẽ không đời nào gọi ông là kẻ phản bội giai cấp.
Theo lời kể của Calica trong cuốn hồi ký về thời thơ ấu của mình thì Celia là quý tộc từ trong trứng nước. Người ta thường thấy bà đeo ngọc trai và chơi bài bridge ở khách sạn Sierras, nơi giới quý tộc hội ngộ. Bà hút loại thuốc lá làm từ cây thuốc lá sẫm màu mà chỉ có đàn ông mới hút thời đó. Bà dong dỏng cao, gầy và tràn đầy sức sống, có ngoại hình và phong thái của một người đặc biệt, và bà lúc nào cũng cầm một cuốn sách. Bà có văn hóa, thanh lịch và tao nhã, dám bày tỏ quan điểm và không ngại bất cứ chủ đề nào. Bà vốn hay mỉa mai và châm biếm nhưng khi trở thành nạn nhân của một trò đùa thì bà vẫn khéo léo đùa cùng. Bà có óc hài hước và ân cần quan tâm đến con cái. Sự quan tâm này còn lan tỏa đến cả bạn bè của con bà, không phân biệt nguồn gốc.
Khi Ernesto bắt đầu hòa nhập với bọn trẻ hàng xóm rách rưới hay những cậu bé làm nghề nhặt bóng ở câu lạc bộ golf thì Celia đón chào chúng như những đứa bạn khác của cậu. Bà mở cửa chào đón chúng không phải chỉ để lũ trẻ có thể vui chơi cùng nhau mà còn đảm bảo rằng chúng sẽ được thưởng thức bữa trà chiều bởi rất có thể đó là bữa ăn duy nhất trước khi đi ngủ của chúng. Bữa trà chiều còn được gọi là la leche bởi bọn trẻ sẽ được uống một cốc sữa hoặc cà phê sữa, trà hoặc maté đi kèm bánh mì với bơ và mứt hoặc mật ong. Bánh mì bơ đường là món ăn rất phổ biển. Một đĩa đường thường được đặt giữa bàn và trẻ em có thể ấn lát bánh mì phết bơ vào đó để cho đường dính vào bơ. Một món ăn khác vẫn còn phổ biến đến bây giờ là factura, được coi là họ hàng của bánh ngọt Đan Mạch với những hình thù và kích cỡ khác nhau, có khi được phết mứt hoặc sữa trứng. Ở Argentina, bột mì không được làm trắng và người dân Argentina luôn tin rằng bột mì của chúng tôi ngon hơn bất cứ nước nào.
Guevara Cha là một người đàn ông ấn tượng: cao lớn, điển trai và chơi thể thao. Ông đeo một cặp kính dày vì bị loạn thị và gây cảm giác xa cách và ngạo mạn, nhưng đó chỉ là bề ngoài. Thực ra ông rất nhạy
https://thuviensach.vn
cảm và tốt bụng. Trong thời gian mười một năm sống ở Córdoba, ông bất mãn khi thấy đời sống tỉnh lẻ không tạo nhiều cơ hội việc làm và nguồn thu nhập không ổn định từ đồn điền maté ở Puerto Caraguatay (hoạt động cho đến năm 1947) hay nông trại của Celia khiến ông và gia đình phải sống nay đây mai đó.
Những người chủ nợ của Guevara đặt cho ông biệt danh “Urquiza, nỗi khiếp đảm của Caseros”, theo thiếu tướng Justo José de Urquiza, một người ái quốc đã chiến đấu anh dũng tại Monte Caseros năm 1852 chống lại tên bạo chúa Rosas. Ông là tai ương của kẻ thù và khiến người dân quê ông nể phục vì tinh thần công tâm. Như nhiều người khác, Guevara Cha thấy biệt danh này thật hài hước. Mặc dù ông thường trả nợ muộn nhưng ông luôn nhớ trả. Khi ông không thể trả công đúng hạn cho những người làm – những người phụ nữ giúp chăm sóc các con ông, nấu nướng và làm việc nhà thì ông sẽ trả thêm tiền lãi để đền bù.
Khi họ sống ở Puerto Caraguatay, ông được đặt biệt danh là “người cộng sản” bởi ông luôn đảm bảo trả tiền công cho người làm bằng tiền mặt mặc dù thời đó người ta thường trả bằng phiếu công. Người làm hầu hết là người da đỏ Guaraní đã được những thầy tu dòng Tên cải đạo khi họ tới chiếm vùng này. Sau khi những thầy tu bị hoàng gia Tây Ban Nha buộc phải rời khỏi đó năm 1767, những chủ đồn điền mới cư xử như thể họ sở hữu cả người da đỏ lẫn đất đai. Những công nhân làm việc dưới sự giám sát của đội bảo vệ có vũ trang và thường xuyên nợ các ông chủ, những kẻ sở hữu các tiệm tạp hóa và bán cho họ hàng cung cấp, thực phẩm và quần áo chất lượng rất kém với giá cắt cổ. Họ không thể mua được nhu yếu phẩm ở nơi khác bởi những tờ biên lai mà họ được trả chỉ có thể dùng được ở những cửa hàng này. Nợ nần triền miên cũng có nghĩa là họ phải gia hạn khế ước và không bao giờ thoát khỏi cuộc sống thống khổ này. Nếu họ tìm cách chạy trốn qua những cánh rừng thì sẽ bị đám côn đồ có vũ trang ăn tiền của các điền chủ truy đuổi như dã thú. Họ sẽ bị giết chết hoặc đem về để tiếp tục kiếp nô lệ.
Guevara Cha đã thuê một số người đàn ông trong khu vực để làm việc ở đồn điền maté của ông. Một hôm, người quản đốc sai một người đến nhà ông với tờ hối phiếu 95 peso. Guevara Cha cầm lấy hối phiếu và định đưa người đàn ông chính xác số tiền đó thì ông ta xin được trả bằng một tờ 100 peso. Guevara ngạc nhiên hỏi, “Tại sao anh lại muốn tờ 100 peso?” Người đó đáp rằng: “Thưa ông chủ, tôi chưa bao giờ được trông thấy tờ tiền đó”.
Guevara Cha đưa tờ tiền đó cho người đàn ông. Ông ta trả lại bằng đống tiền lẻ gói trong khăn tay mà ông mang theo. Ông nhìn chằm chằm vào tờ tiền và lật qua lật lại nó trong tay. Ông cứ nhìn như thể đang bị thôi miên. “Thưa ông chủ, ông biết là chúng tôi không bao giờ có thể kiếm được từng này đống tiền,” ông ta nói. Guevara Cha mời người đó ngồi lại, chia sẻ một ít maté và từ đó ông hiểu được đời sống của người da đỏ ở Misiones thực sự là như thế nào.
Gia đình Guevara là những người vô thần mặc dù Celia đã từng được các xơ nuôi dạy. Nếu họ có dự lễ mét ngày chủ nhật thì đó là một dịp để giao lưu hơn là vì mục đích tôn giáo. Lũ trẻ được miễn học giáo lý ở trường, một điều mà thường chỉ có một số ít các phụ huynh Do Thái mới yêu cầu. Tuy nhiên, những quy tắc đạo đức mà ông bà Guevara dạy con cái họ cũng gần giống lối giáo dục kiểu Kitô giáo. Thật ra Celia và Ernesto chỉ ghét giới tăng lữ và thói đạo đức giả của họ. Họ coi giới đó là đồng minh của những người giàu và những kẻ bóc lột dân nghèo.
Khách sạn Sierras với bể bơi, sân golf và những sân tennis có kích cỡ đạt tiêu chuẩn Olympic là nơi diễn ra rất nhiều hoạt động xã hội ở Alta Gracia. Khách sạn này do người Anh xây dựng trong quá trình lắp đặt đường ray xe lửa chạy theo chiều dài và chiều rộng đất nước Argentina. Nó giống với khách sạn được xây ở Calcutta vào thời hoàng kim của Đế chế Anh, gồm nhiều phòng tiếp khách, sân thượng, phòng tranh và phòng ăn. Các vị khách gặp nhau và thưởng thức đồ uống tại quán bar tráng lệ trước bữa tối và còn có một dàn nhạc để mọi người nhảy vào buổi tối. Cho dù là ở Argentina hay Ấn Độ, người Anh vẫn tự làm cho mình một nơi hội ngộ theo phong cách châu Âu xa xỉ nhằm tái hiện lối sống của họ.
Trong khi đó, Celia đưa đón lũ trẻ trên chiếc xe Maxwell 1926 mui trần, có ghế trước dành cho hai người và khoảng trống ở đằng sau để hành lý. Các con bà và bạn bè chúng thường đi trên chiếc xe đó,
https://thuviensach.vn
túm tụm lại và cười khúc khích không ngớt. Thỉnh thoảng có đứa tách ra và phải đón chúng từ bên kia đường. Celia đưa bọn trẻ đến trường nhưng bà cũng đưa chúng đi tham quan các ngọn đồi và tại đó chúng có thể cắm trại và bơi lội.
Calica, tên thật là Carlos, và anh trai Jorge (tên thân mật là Gordo hoặc Fatso) và Horacio (tên thân mật là Chacho) đều thuộc nhóm bạn này cùng với lũ trẻ nhà González-Aguilar mới đến từ Tây Ban Nha. Ngoài ra lũ trẻ nhà Ernestito còn có những người bạn khác vốn là con cái của những người lao động sống ở một thị trấn lụp xụp được tân trang ở gần nhà Guevara. Tiki và Ariel Bildoza thuộc nhóm này. Nhiều năm sau đó, vào năm 1953, Tiki (nay là một cảnh sát) gặp lại Ernestito ở La Quiaca, nơi ông đang canh giữ biên giới giữa Argentina và Bolivia khi Ernestito và Calica đang trên đường đi theo hướng bắc đến Venezuela.
Các bữa tiệc trà, sinh nhật, hội ngộ để chơi guitar hoặc khiêu vũ, thi đấu bóng bàn, bài canasta hoặc truco (truco là một trò chơi bài truyền thống ở Argentina), liên hoan ngoài trời, tham quan các ngọn đồi, bơi ở các con suối, cưỡi ngựa – đây là những thú tiêu khiển mùa hè của el elenco estable (tầng lớp cố định) ở Alta Gracia và con cái của những gia đình đến đây nghỉ hè.
Trong số đó, nhiều hoạt động diễn ra ở nhà các cô gái trong nhóm. Đó là cách cha mẹ các cô theo dõi sát sao con mình. Một cách để các chàng trai quyến rũ các cô gái là guitarreada (một buổi gặp gỡ để chơi guitar và hát hò). Guitar Nam Mỹ xuất phát từ những chiếc đàn guitar do thực dân Tây Ban Nha đem tới. Hầu hết các thiếu niên nghỉ hè hoặc sống ở Córdoba là các tay guitar nghiệp dư, có thể chơi và hát vài bài dân ca địa phương, và có khi thậm chí là cả tango. Ernestito và Calica cực kỳ ghét guitar Nam Mỹ bởi họ không thể phân biệt được thanh điệu và không thể tham gia chơi. Những chàng trai có thể chơi và hát trở thành trung tâm của sự chú ý và nhận được lời tán dương từ các cô gái.
Ernestito không thể nhận biết ngay cả bản quốc ca mà cậu đã nghe bao nhiêu lần ở trường và hoàn toàn mù tịt về khiêu vũ. Khi cậu lớn lên và bắt đầu mặc quần dài thì các ông chú cho cậu những chiếc quần cũ của họ. Cậu cứ thế mặc chúng mà không buồn chỉnh lại cho vừa với mình. Cậu thích ăn mặc bình thường và đôi khi hơi lập dị. Mặc dù vậy, cậu vẫn thu hút các cô gái nhờ vẻ ngoài điển trai và cách nói chuyện với họ. Cậu luôn mời các cô gái kém hấp dẫn nhất khiêu vũ bởi cậu thấy tội cho họ khi bị bỏ lại như người ngoài. Theo lời Calica thì những cô gái dự tiệc cùng họ thường thấy tội cho Ernestito vì cậu không có khả năng khiêu vũ. Họ thường mời cậu qua chơi buổi chiều để dạy cậu khiêu vũ, và cậu sẽ uống trà ở nhà họ, ăn tất cả những thứ mà cậu có thể nhồi vào bụng được để rồi có một buổi học khiêu vũ công cốc nhưng lại là một khoảng thời gian tuyệt vời.
Ernestito và Calica chỉ có thể cạnh tranh về khoản nổi tiếng khi họ ở ngoài trời thể hiện kỹ năng cưỡi ngựa. Cả hai đều giỏi cưỡi ngựa và có thể khiến ngựa của mình nhảy lên, giúp họ nhận được những tràng tán thưởng. Và nếu họ ra ngoài cưỡi ngựa giữa những ngọn đồi, họ có thể tìm được một chỗ vắng vẻ để có được một khoảng thời gian thân mật với cô gái mà họ sẽ chinh phục rồi hôn trộm cô ta. Trong khi đó, người lớn thì đang vui vẻ chơi những môn thể thao của riêng họ như golf hoặc tennis hay thỉnh thoảng đi săn cáo theo đúng phong cách Anh.
Gia đình Guevara thường tận hưởng kỳ nghỉ hè dài ở biển trong một khu nghỉ dưỡng có tên là Mar del Plata, cách Buenos Aires khoảng 400km. Điều ngạc nhiên là khí hậu vô cùng ẩm ướt đó lại không làm trầm trọng thêm bệnh hen suyễn của Ernestito. Họ cũng đến ở tại nhà hoặc trang trại của họ hàng và bạn bè. Trong số đó có một điền trang ở Galaza,thuộc tỉnh Entre Ríos, do Ernesto Moore, chồng của chị gái Celia là Edelmira sở hữu. Đó là kiểu mẫu hoàn hảo của một trại nuôi súc vật kiểu Nam Mỹ. Căn nhà lớn được bao bọc bởi đồng cỏ bát ngát và gia đình Moore nuôi gia súc ở đó.
Cha Ernesto Moore là người Anh còn mẹ ông là người Ireland. Bản thân ông trông rất giống người Ireland: cao lớn, gầy và xương xẩu, với đôi mắt xanh dương sâu thẳm và mặt nhiều tàn nhang. Ông lớn lên tại điền trang do cha mẹ ông sở hữu và là một người chăn bò Nam Mỹ điển hình. Ông ăn mặc theo kiểu đó và làm mọi việc cùng với những người làm công. Công việc bao gồm dồn gia súc và lùa chúng
https://thuviensach.vn
đến các trang trại nhỏ trong điền trang nơi những người chăn bò sống và làm việc. Tại đó lũ gia súc sẽ được đóng dấu bằng sắt nung, vỗ béo và bị hoạn khi cần thiết. Những người chăn bò cũng thuần hóa cả ngựa hoang. Họ làm được điều đó mà chưa bao giờ bị ngã ngựa. Một số người có thể ngồi trên lưng ngựa mà không cần nắm lấy dây cương và điều khiển con vật chỉ bằng cái roi. Những hoạt động này sẽ kết thúc với asado, một bữa tiệc trong đó con vật được nướng lên và ăn cùng rượu vang đỏ. Ernestito tham gia vào tất cả các hoạt động này và luôn chơi với con cái của những người chăn bò này.
Gia đình Guevara cũng thường xuyên ở với mẹ của Guevara Cha là Ana Lynch. Bà sinh ra tại San Francisco và đến Argentina năm 12 tuổi, khi cha mẹ bà trở về sau thời gian sống lưu vong để đòi lại đất đai. Khi kết hôn với Roberto Guevara, bà đã tiếp quản điền trang ở Portela thuộc tỉnh Buenos Aires và có một căn nhà lớn ở đó. Vốn hiếu khách nên bà đã cho xây mười một phòng ngủ, một phòng ăn lớn và vài phòng tắm. Trang trại của bà nằm trong một điền trang lớn hơn là San Patricio do cha bà là Francisco Lynch sở hữu. Bà trồng ngô, cỏ linh lăng, lúa mì, hạt lanh và nuôi gia súc và cừu. Lũ súc vật sẽ được đem đến lò giết mổ địa phương sau khi đã được vỗ béo. Bà cũng nuôi ngựa và sau khi bà đã xây xong căn nhà bề thế thì có thể bắt gặp mười lăm đến hai mươi tay nài ngựa phi nước kiệu trên cánh đồng.
Ernestito và Celia Guevara đã nhiều lần nghỉ hè ở Portela cùng con cái. Khi chúng lớn lên, chúng cũng mời bạn bè tới đó chơi. Ernestito đặc biệt thân với bà ngoại, một người rất cưng chiều cậu bé. Có thể cậu đã thừa hưởng tình yêu cuộc sống ngoài trời và thiên nhiên từ bà. Bà thích đưa cậu ra ngoài buổi tối trên chiếc xe ngựa bốn bánh và lái qua chuồng ngựa để thăm thú những con vật đó hoặc dọc theo những hàng cây ăn quả, vừa đi vừa hái táo chín rụng khỏi cành.
Cuối mùa hè, những người đến Alta Gracia để nghỉ ngơi quay lại Buenos Aires khi năm học mới chuẩn bị bắt đầu. Ở Argentina có hai kỳ học: kỳ một kéo dài từ đầu tháng Ba cho đến tháng Bảy và kỳ hai bắt đầu sau một kỳ nghỉ đông kéo dài hai tuần, bắt đầu từ cuối tháng Bảy đến đầu tháng Mười hai. Do đó kỳ nghỉ hè kéo dài ba tháng, từ đầu tháng Mười hai đến đầu tháng Ba, bởi khi đó thời tiết ở nhiều vùng của Argentina vô cùng nóng.
Khi những vị khách mùa hè đi rồi, Alta Gracia trở nên yên tĩnh và quay trở lại nhịp sống thường ngày: ít người hơn, ít xe cộ hơn, ít tiệc tùng và kém vui hơn. Những đứa trẻ ở đó cũng quay trở lại trường học. Đó là những đứa trẻ thuộc tầng lớp tư sản vì con cái những người nghèo với đồng lương ít ỏi hoặc thất nghiệp thì không đi học, mặc dù việc học vốn bắt buộc và miễn phí, và khi đó hoàn toàn có thể học hành tử tế ở các trường công. Chúng phụ giúp cha mẹ bằng cách ở nhà trông em hoặc giúp những việc vặt trong nhà bếp ở khách sạn Sierras, nhặt bóng ở sân golf, hoặc ra ngoài đường với một giỏ đầy bánh nhân bột làm tại nhà hoặc bánh ngọt để bán. Những đứa trẻ này hay bán hàng ở các ga xe lửa cho các hàng khách trên những chuyến tàu thường dừng chốc lát trên đường đến và rời khỏi thủ đô.
Bản thân Ernestito cũng không thể tới thường đều đặn, dù là với lý do khác, và cậu kết bạn với những đứa trẻ này. Cậu tới nhà chúng và tận mắt nhìn thấy cả một gia đình thường xuyên ngủ trong một phòng, trên những chiếc đệm rải trên sàn và dùng giấy báo làm chăn. Có một vài dịp Celia không thể tìm thấy guardapolvo mà Ernestito phải mặc đến trường bởi cậu đã đem cho những đứa trẻ kém may mắn hơn. (Guardapolvo là một chiếc áo khoác trắng mà trẻ em thường mặc ngoài quần áo để khỏi bị cũ kỹ và sờn rách. Nó cũng tương tự như đồng phục mà trẻ em ở các trường tư thục mặc.)
Vào những năm 1930, người dân Argentina khi đó đang phải trải qua Thập kỷ Ô nhục nhưng danh tiếng quốc tế của đất nước không bị ảnh hưởng. Ngoại trưởng Argentina, Carlos SaavedraLamas được trao giải Nobel Hòa bình năm 1935 nhờ nỗ lực hòa giải của ông trong Chiến tranh Chaco 1932-1935 giữa Bolivia và Paraguay. Buenos Aires tài trợ một hội nghị hòa bình quốc tế và Argentina gia nhập Hội Quốc liên trở lại vào năm 1936, sau mười ba năm vắng mặt.
Cũng trong năm đó, một phần của quân đội Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của tướng Franco chống lại nền Cộng hòa. Nội chiến Tây Ban Nha bắt đầu. Xét về quá khứ thuộc địa, bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và tổ tiên của mình thì đất nước Argentina không thể không quan tâm, và cuộc nội chiến này sẽ tô điểm thêm
https://thuviensach.vn
cuộc sống của người Argentina trong nhiều năm tới.
Các nhà ngoại giao Argentina ở khắp châu Âu cố gắng bảo đảm sơ tán một cách an toàn những người Tây Ban Nha xin tị nạn ở đại sứ quan và lãnh sự quán của họ. Argentina lên án hành động bắt cóc, ném bom các thành phố đầu hàng và tấn công dân thường. Vì trung lập nên Argentina có thể trợ giúp những người Tây Ban Nha bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến, không cần biết quan điểm chính trị của họ. Có sự chia rẽ lớn trong quan điểm và lòng thương cảm của dân chúng khi quân đội, Giáo hội lâu đời và tầng lớp thượng lưu ủng hộ Franco trong khi những người còn lại nhiệt tình ủng hộ nền Cộng hòa.
Cayetano Córdoba-Iturburu, nhà thơ và nhà báo cộng sản kết hôn với Carmen de la Serna đến Tây Ban Nha khi nội chiến nổ ra trong vai trò phóng viên chiến tranh của Crítica, một tờ báo chính thống phát hành vào buổi tối. Carmen và các con từ Buenos Aires đến ở với gia đình Guevara. Chồng bà sẽ ở Tây Ban Nha trong vòng một năm. Để tránh việc những bài báo của mình rơi vào tay những người ủng hộ Franco, kẻ thù của Cộng hòa Tây Ban Nha, Córdoba-Iturburu gửi chúng kèm thư cá nhân cho vợ ông. Sau khi mọi người đã đọc các bài báo đó ở Alta Gracia, Carmen chuyển tiếp chúng đến tòa soạn báo. Do đó gia đình Guevara có được thông tin trực tiếp về tình hình mặt trận ở Tây Ban Nha.
Trong khi Cộng hòa Tây Ban Nha vẫn chiến đấu vì sự tồn vong của mình thì ông bà Guevara và thân hữu cũng cố gắng hết mình vì nền cộng hòa đó. Gần cuối năm 1938, một gia đình người Tây Ban Nha ủng hộ nền cộng hòa đến Alta Gracia. Người cha, bác sỹ Juan González-Aguilar đã ở lại Barcelona, nơi ông đứng đầu Quân y phụ trách di tản những người tị nạn đến Pháp thông qua dãy Pyrenees phía tây. Ông đã đưa được nhà thơ Antonio Machado và mẹ qua biên giới trong một chiếc xe cứu thương nhờ hóa trang cho họ thành những người lính bị thương. Vợ và bốn đứa con của González-Aguilar lập tức được nhà Guevara chào đón và giúp ổn định cuộc sống. Lũ trẻ của hai gia đình cũng trạc tuổi nên chúng nhanh chóng kết bạn.
Pepe González-Aguilar, người sau này sẽ trở thành bạn của Ernestito khi sự chênh lệch tuổi tác không còn quan trọng nữa và theo ông đến Cuba khi cách mạng thắng lợi, đã từng kể cho tôi nghe nhiều chuyện về tình bạn của gia đình ông với gia đình Guevara. Nhiều năm sau đó, khi ông và tôi làm việc cùng nhau, ông cho tôi biết khi gia đình ông đến Alta Gracia thì Celia Guevara đã tự nhận trách nhiệm chăm sóc ông cho đến khi phục hồi. Khi đó ông là một đứa trẻ bốn tuổi lo âu, sợ sệt và gặp khó khăn trong việc làm quen với môi trường mới. Cậu bé nhớ cha và hoang mang khi phải chuyển nơi ở bởi họ đã sống ở Buenos Aires một thời gian khi họ từ Tây Ban Nha đến. Cậu không chịu ăn gì cả và trở nên hốc hác hơn.
Vào một bữa trưa, Celia làm một đĩa gnocchi dành riêng cho câu. Khi bà nói rằng món ăn này là đặc sản Ý thì Pepe không chịu cầm dĩa lên. Cậu buột mồm nói với bà rằng những kẻ phát xít Ý là kẻ thù. Celia lặng lẽ vào nhà bếp và quay trở lại vẫn với chiếc đĩa gnocchi đó, nhưng lần này bà đã hầm nó trong sốt cà chua cho đến khi nó trông khác hẳn. Bà nói rằng món ăn đỏ này là khoai tây Nga. Lần này, Pepe vui mừng thưởng thức và ăn hết món đó. Nhiều năm sau, khi cậu bé trưởng thành, bà mới kể lại câu chuyện đó và cả hai cùng cười trước mưu mẹo và sự sáng tạo của bà.
Manuel de Falla, nhạc sỹ tị nạn người Tây Ban Nha cũng đến sống ở Alta Gracia. Nhà văn Argentina Daniel Moyano viết một câu chuyện ngắn kể lại kỷ niệm ông và Ernestito đã từng trèo lên những cây đào trong vườn của de Falla để trộm quả. Vị nhạc sỹ xuất hiện ở ban công tầng một và nhắc hai đứa trẻ cứ tự nhiên lấy quả nhưng không được làm hại cái cây. Daniel Moyano xuất thân trong một gia đình rất nghèo và mẹ ông nhận rửa bát và ủi đồ cho các gia đình giàu có ở Alta Gracia. Khi Ernestito nhảy xuống đất, trong áo đầy đào chín, cậu đưa tất cả cho Daniel. Cậu không thể đem đào về nhà bởi mẹ cậu sẽ trừng phạt cậu nghiêm khắc vì đã ăn trộm. Daniel kết thúc câu chuyện bằng lời nhận xét rằng cả de Falla và Guevara sau này sẽ được in trên đồng tiền của nước họ. Hình ảnh của de Falla xuất hiện trên tờ tiền 100 peseta trong khi khuôn mặt Guevara thì được in trên tờ 3 peso ở Cuba.
Córdoba-Iturburu thỉnh thoảng đính kèm các bài báo và tạp chí do Cộng hòa xuất bản cùng với các lá thư của ông. Vì thế, khi các trí thức Tây Ban Nha đến tị nạn ở Argentina sau khi nền Cộng hòa thua trận
https://thuviensach.vn
thì gia đình Guevara đã quen thuộc với tác phẩm của những người như nhà thơ Rafael Alberti, người đã trải qua nhiều năm tha hương ở Alta Gracia. Sau cái chết của Franco năm 1975, ông trở về Tây Ban Nha trong chiến thắng và giữ một ghế trong quốc hội. Đời sống văn hóa của Argentina đã được nâng cao và tô điểm thêm nhờ những con người như vậy.
Một người Tây Ban Nha cộng hòa nổi tiếng khác cũng xuất hiện ở Alta Gracia là tướng Enrique Jurado, anh hùng của trận Guadalajara, nơi quân đội cộng hòa dưới quyền chỉ huy của ông đã đánh bại lực lượng dân tộc chủ nghĩa của Franco và ngăn chúng tiến vào Madrid. Đó là một chiến thắng quyết định cho phe cộng hòa ở thời điểm đó và củng cố thêm nhuệ khí của họ. Khác với nhiều tướng Argentina khác vốn học theo các vị tướng người Đức, tướng Jurado là một con người khiêm tốn. Ông không bao giờ nói về những chiến công của mình mà luôn khen ngợi binh sĩ và các sĩ quan dưới quyền.
Ernestito rất quan tâm đến những câu chuyện của ông. Trong chiến tranh, cậu đã dõi theo tiến trình của cuộc xung đột nhờ tấm bản đồ lớn treo trên tường phòng ngủ của câu. Trên đó cậu và em trai Roberto ghim những lá cờ nhỏ đánh dấu vị trí, các cuộc tiến công và rút lui của quân đội cả hai bên. Thật ra cả Ernestito và Roberto đều thuộc lòng tên các tướng cộng hòa và chỉ cần có ai đó gợi ý chút xíu thôi thì hai cậu bé sẽ nêu được tên của họ cũng giống như nhiều đứa trẻ kể vanh vách những cái tên trong đội bóng yêu thích của chúng.
Năm 1939, Pháp và Anh công nhận chính phủ Franco ở Tây Ban Nha. Hitler tiến quân vào Praha vào tháng ba năm đó và, khi mùa hè sắp sửa kết thúc ở Alta Gracia thì thế chiến đang manh nha ở đằng xa. Một chính phủ Bảo thủ đang cầm quyền ở Argentina khi Thế chiến thứ hai nổ ra năm 1939 và nước này bị giằng xé giữa bản chất thân Đức và sự lệ thuộc kinh tế vào Anh từ lâu nay, nhưng Argentina vẫn giữ thế trung lập.
Trong Thập kỷ Ô nhục, Argentina ngày càng phụ thuộc nhiều vào Anh. Tại London, ngày 1 tháng 5 năm 1933, Julio A. Roca Con, đại diện chính phủ Argentina và Ngài Walter Runciman đại diện cho nước Anh ký Hiệp định Roca-Runciman cho phép xuất khẩu một lượng cố định thịt Argentina đến Anh. Điều khoản rất không thuận lợi cho Argentina. Theo hiệp định này, Anh sẽ tiếp tục mua thịt từ Argentina với điều kiện là giá cả phải thấp hơn các nhà cung cấp khác. Để đổi lấy “ân huệ” này, Argentina phải gỡ bỏ phần lớn thuế đối với hàng hóa Anh và ngăn cản việc thành lập các công ty Argentina có thể cạnh tranh với các công ty do Anh sở hữu trong lĩnh vực đóng gói thịt đông lạnh. Ngân hàng Trung ương Cộng hòa Argentina được thành lập với vài quan chức Anh trong ban lãnh đạo. Một tập đoàn Anh được nhượng lại hệ thống vận tải của thủ đô. Vận tải bằng đường bộ sẽ không thể cạnh tranh nổi với hệ thống xe lửa do người Anh xây dựng và quản lý.
Julio A. Roca Con tuyên bố rằng Argentina giờ đây sẽ trở thành một phần của Đế quốc Anh mà có vẻ không nhận ra mức độ nghiêm trọng của những gì mình nói. Không may là câu nói đó đã bị một thành viên trong đoàn nhắc lại rằng “Argentina là một trong những viên ngọc quý nhất trên vương miện của Vua Anh”. Thượng nghị sĩ Lisandro de la Torre của Đảng Dân tiến nói rằng người ta không thể bảo Argentina đã có vị thế như một thuộc địa của Anh bởi vì các thuộc địa của Anh còn không phải chịu sự sỉ nhục từ Anh như Argentina phải chịu. Các thuộc địa của Anh vẫn được phép quản lý hạn ngạch xuất khẩu thịt của riêng mình.
Đằng sau việc này là cả một câu chuyện dài. Anh đã thèm muốn mảnh đất sau này trở thành Argentina từ trước năm 1810, khi nước này giành được độc lập từ Tây Ban Nha. Anh gây chiến với Tây Ban Nha năm 1804. Tháng 6 năm 1806, Anh xâm chiếm Buenos Aires với ý định sáp nhập Phó vương quốc Río de la Plata vào lãnh thổ Đế quốc Anh. Họ đã chiếm được thành phố và vơ vét ngân khố của Argentina rồi gửi về Anh cho đến khi bị một đội quân tình nguyện đánh đuổi ngày 12 tháng 8. Họ quay lại xâm chiếm vào tháng 6 năm 1807 nhưng lần này người dân địa phương đã được trang bị tốt hơn để bảo vệ thành phố. Khi người Anh hành quân trên những con đường hẹp của Buenos Aires, họ được chào đón bằng dầu sôi đổ xuống từ các ban công và mái nhà. Người ta bảo rằng tất cả đàn ông của đất nước, cả những nô lệ da
https://thuviensach.vn
đen và người da đỏ đều tham gia vào cuộc chiến bảo vệ thành phố. Quân Anh rút lui, và lá cờ Anh không bao giờ tung bay trên đất Argentina.
Tuy vậy, sự kiện đó không ngăn cản Anh trở thành đối tác thương mại chính trong một mối quan hệ bất công bằng với Argentina trong nhiều thập kỷ sau đó, cho đến những năm 1930 và sau này. Những ông trùm gia súc luôn ủng hộ Anh và ngoài tiếng Tây Ban Nha thì họ còn nói tiếng Anh. Họ tự cho mình cao quý hơn đám đông ít học hơn mà họ đã tước quyền sỡ hữu và đẩy vào tình cảnh thống khổ ở một đất nước giàu có ngoài sức tưởng tượng. Họ là những người Công giáo ngoan đạo và Giáo hội bỏ qua cho những hành động của họ.
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cũng xâm nhập Argentina với hệ tư tưởng của mình. Đó là một phần của khuynh hướng kéo dài gần một thế kỷ khi họ luôn cho rằng Mỹ Latinh là “sân sau” của mình. Năm 1848, Hoa Kỳ ký Hiệp ước Guadalype Hidalgo với Mexico, chấm dứt sự thù địch giữa hai nước và lấy sông Rio Grande làm biên giới. Vậy là Hoa Kỳ thu đất của Mexico mà sau này sẽ trở thành các bang California, Nevada, Utah, một phần của Arizona, New Mexico và Wyoming. Cộng hòa Texas mà Mexico không bao giờ công nhận nền độc lập của nó thì đã bị thôn tính từ năm 1845. Hoa Kỳ cũng chiếm nhiều vùng đất từ Pháp năm 1803 thông qua vụ mua bán Louisiana, và mua Florida từ Tây Ban Nha năm 1819. Đã 70 năm trôi qua từ ngày giành độc lập và Hoa Kỳ đã bành trướng lãnh thổ. Không ai còn nhận ra đất nước mà George Washington đã lập ra trên nền tảng tự do và công bằng.
Trong khi Hoa Kỳ đang bành trướng thì Argentina lại bị thu hẹp lại bởi những lãnh thổ từng thuộc về Phó vương quốc Río de la Plata – Paraguay, Bolivia và Uruguay li khai. Hoa Kỳ quay sang nhòm ngó Nam Mỹ như một lẽ tự nhiên. Quan điểm của Định mệnh không thể cưỡng lại, một cụm từ được đặt ra năm 1839 để bào chữa cho việc Tây tiến của Hoa Kỳ, được John O’Sullivan, biên tập viên của một tờ báo New York tầm cỡ sử dụng năm 1845 để ủng hộ việc thôn tính Texas và từ đó được giới truyền thông sử dụng thường xuyên. O’Sullivan chỉ nêu lên quan điểm lâu đời rằng người Mỹ da trắng có quyền trời cho được xâm chiếm toàn bộ châu Mỹ. Đó là bổn phận do Thượng Đế ban cho họ để truyền bá các giá trị của mình đến những người da đỏ và gốc Latinh kém may mắn hơn. Động cơ thực sự của họ là lòng tham và quyền lực. Năm 1823 Hoa Kỳ đưa ra Học thuyết Monroe, cảnh cáo người châu Âu về những hành động thực dân hóa ở Tây bán cầu ở thời điểm mà nhiều nước Mỹ Latinh đã hoặc chuẩn bị giành độc lập từ Tây Ban Nha. Cuối cùng, Hoa Kỳ sử dụng học thuyết đó để bào chữa cho ý đồ bành trướng, quyền đơn phương can thiệp và làm bá chủ của mình.
Trong khi đó, gần cuối năm 1939, Graf Spee, một tàu chiến nhỏ của Đức đang gây tổn thất lớn cho thương hải Anh và sau khi chiến đấu trong trận sông Plata chống lại ba tàu Anh nhỏ hơn rất nhiều thì nó bị thuyền trưởng nhấn chìm ngoài Vịnh Montevideo của Uruguay. Những thủy thủ người Đức thoát nạn khi con tàu bị đắm đã bị giam giữ ở tỉnh Córdoba, nơi có một cộng đồng người gốc Đức đông đảo ở Calamuchita, không xa Alta Gracia.
Guevara Cha là sáng lập viên của một nhóm có tên gọi là Acción Argentina ủng hộ cuộc chiến của quân Đồng minh và có chi nhánh ở khắp đất nước. Các thành viên đến từ các đảng phái khác nhau nhưng tất cả đều chung tư tưởng chống phát xít. Trong bản tuyên bố mục đích, tổ chức này đã lên án những ý đồ xâm chiếm Argentina của các thế lực ngoại bang và kêu gọi các công dân tự tổ chức thành nhóm để theo dõi và chống lại các hành động đó.
Các tổ chức quốc xã đã được chính phủ Hitler đưa vào Argentina. Chúng hoạt động bí mật và có thể trồi lên bất cứ lúc nào nếu như chiến tranh lan đến lục địa Nam Mỹ. Bản thân Hitler đã từng nói, một khi quân Đức thắng trận ở châu Âu thì chúng sẽ chinh phục những vùng đất kém phát triển ở Nam Mỹ. Tổ Chức Trung Ương của Những người Đức hải ngoại và Phòng thông tin xe lửa Đức thực chất được lập ra để che giấu hoạt động của Đức Quốc xã ở Nam Mỹ. Các nhân viên Sứ quán Đức ở Buenos Aires thuộc những mạng lưới quốc xã này cuối cùng bị tuyên bố là persona non gratae[3] và buộc phải rời khỏi Argentina vì đã lợi dụng quyền miễn trừ ngoại giao để thực hiện những hành động bất chính. Chính phủ
https://thuviensach.vn
có lẽ muốn tránh một vụ tai tiếng trước công luận có thể để lộ nhiều bất ổn khác.
Nhóm của Guevara Cha phát hiện một mạng lưới gián điệp của Đức Quốc xã hoạt động ở La Falda thuộc tỉnh Córdoba, không xa Alta Gracia: một khách sạn với máy phát radio mạnh có liên lạc với Berlin hằng đêm. Khi nhóm Acción Argentina đến đó để điều tra khu vực thì Ernestito, lúc này 12 tuổi, cũng đi cùng. Nhóm đã soạn hai bản báo cáo dài và chi tiết gồm nhiều dữ liệu liên quan và đưa chúng cho Văn phòng tổng thống cùng với những bản báo cáo do các thành viên từ các vùng khác trên khắp đất nước. Chúng bị vị tổng thống thân Đức vứt vào sọt rác ngay lập tức.
https://thuviensach.vn
IV
(1941 - 1950)
Khi quân Đức hoành hành khắp châu Âu, lũ trẻ nhà Guevara và bạn chúng cứ nhắc lại tên các địa danh mà chúng nghe người lớn nói chuyện cho đến khi những cái tên đó trở thành đề tài hằng ngày. Có những lúc chúng còn quan tâm đến những vùng đất xa xôi đó còn hơn những gì đươc dạy ở trường. Những người tị nạn Tây Ban Nha đã đem cuộc xung đột ở châu Âu ấy vào cuộc đời chúng và chúng biến vấn đề đó thành của riêng mình. Các cậu bé không còn chơi trò cao bồi và da đỏ nữa. Chúng sử dụng những cái hào được đào ở ngoài phố để sửa hệ thống cống rãnh làm hầm ngầm mà quân đội hai bên vẫn đánh nhau ở đó.
Năm 1941, ở tuổi 13, Ernestito tốt nghiệp bậc tiểu học ở trường Escuela Pública San Martín, một trường công lập mà ba người anh chị em khác cũng theo học. Cậu không đến trường thường xuyên cho đến khi lên chín tuổi, và cậu chỉ đến đó khi các nhà chức trách buộc cha mẹ cậu phải cho cậu đi học. Khi đó, giáo dục là bắt buộc, và một cuộc thanh tra cho thấy cậu rất ít khi đến lớp. Cậu đã hoàn toàn hạnh phúc khi ở nhà, được người mẹ dạy dỗ và theo học theo chương trình ở trường với sự giúp đỡ của các em có nhiệm vụ đem bài học trong ngày về nhà.
Theo lời các thầy cô giáo ở trường thì cậu là một học sinh lãnh đạm và thỉnh thoảng có vấn đề trong ứng xử. Cậu rất hiếu động, bất cẩn và rõ ràng là không thích đến trường. Cậu được điểm cao trong môn lịch sử và có tiến bộ liên tục trong các môn khoa học tự nhiên, đọc, viết, địa lý và hình học nhưng không thích hội họa, thể dục và âm nhạc. Các giáo viên vẫn còn nhớ đến cậu, một học sinh thông minh luôn dẫn đầu các bạn học trong các trò chơi trong giờ giải lao nhưng có vẻ không mấy thích thú với chương trình học ở trường.
Vì không có trường trung học cơ sở ở Alta Gracia nên vào năm 1942 Ernestito đến thành phố Córdoba hàng ngày để theo học chương trình Bachillerato (Tú Tài) ở trường Colegio Nacional Deán Funes. Chị gái cậu là Celia cũng đã hoàn thành bậc tiểu học và theo học một ngôi trường ở thị xã. Mùa hè năm 1943, khi cậu 15 tuổi, cả gia đình quyết định chuyển đến thành phố. Việc này sẽ giúp hai đứa con đầu không phải đi xe buýt 40km đến trường mỗi ngày, và Guevara Cha hiện đang tham gia một dự án xây dựng ở thành phố Córdoba. Đó là sự bắt đầu của thời kỳ phát tài trong gia đình khi Guevara Cha cuối cùng cũng có một công việc lâu dài. Người cộng sự kinh doanh của ông là một kiến trúc sư ở Córdoba và công ty họ đã nhận được một vài hợp đồng xây nhà. Guevara là thợ cả nên chịu trách nhiệm giám sát quá trình xây dựng.
Gia đình Guevara chuyển đến một ngôi nhà ở Calle Chile trong một khu dân cư có tên là Nueva Córdoba. Gia đình GonzálezAguilar cũng chuyển đến Córdoba và thuê một ngôi nhà không xa họ nên lũ trẻ hai bên ngày nào cũng gặp nhau và vẫn là bạn tốt. Không may là khu vực họ đang sống được xây trên một nền đất có nguy cơ bị lở và bởi gia đình Guevara ở ngôi nhà đó đầu tiên nên họ cũng là nạn nhân đầu tiên của hiện tượng lún đất dẫn đến những vết nứt lớn trên tường. Guevara bất chấp điều đó hoặc cũng có thể là ông ỷ vào kiến thức xây dựng của mình nên có vẻ không lo lắng lắm về vết nứt ở trên trần nhà, thẳng từ giường ông lên, cho phép ông ngắm sao mỗi tối. Hành động đề phòng duy nhất mà ông làm là di chuyển giường của bọn trẻ cách xa khỏi những bức tường vì các vết nứt cũng xuất hiện trong phòng chúng. Bên cạnh các căn nhà xa xỉ của tầng lớp trung lưu, những người nghèo trong thành phố xây nhà từ bìa cac-tông bỏ đi, những mảnh kẽm và thiếc, và nhà của gia đình Guevara nằm cạnh một villa miseria, tên gọi của các khu ổ chuột ở Argentina.
Ngày 18 tháng 5 năm 1943, Juan Martín, đứa con thứ năm và cũng là con út của ông bà Guevara chào
https://thuviensach.vn
đời trong căn nhà. Pepe González-Aguilar cho chúng tôi biết rằng tuy ông bà Guevara là những người vô thần nhưng họ vẫn làm lễ rửa tội cho đứa trẻ và cha mẹ ông trở thành cha mẹ đỡ đầu của Juan Martín. Khi những đứa lớn hơn nghe thấy cha mẹ mình vốn vô thần, theo cánh tả và có tư tưởng tự do trả lời bằng tiếng Latinh với vị linh mục chủ trì nghi lễ, chúng cười khúc khích và rời nhà thờ.
Ngày 4 tháng 6 năm 1943, Tổng thống Castillo bị lật đổ trong một cuộc đảo chính và người thay thế ông là Arturo Rawson. Ông này lại tiếp tục bị thay thế bởi Tướng Pedro Ramírez, người sau đó bị buộc phải từ chức và bị thay thế bởi phó tổng thống là tướng Edelmiro J. Farrell năm 1944. Một đại tá Perón nào đó không ai biết rõ đứng đằng sau cuộc đảo chính đã bắt đầu một chuỗi những sự kiện này. Cả những người ủng hộ Đức và Đồng minh đều vui mừng bởi khi đó chưa ai rõ tư tưởng của những người lãnh đạo mới như thế nào.
Khuynh hướng phát xít của quân đội sớm bộc lộ khi họ sa thải các giáo sư đại học kêu gọi đất nước quay trở lại con đường dân chủ và cấm mọi đảng phái chính trị. Hoa Kỳ ra lệnh cấm vận kinh tế đối với Argentina và kêu gọi chính phủ nước này chấm dứt quan hệ với các nước phe Trục và họ tuân lệnh. Tất cả mọi người đều hồ hởi, ngoại trừ Ernestito thì tức giận. Không ai có thể hiểu được phản ứng của cậu thiếu niên này. Cậu luôn phản đối phát xít mạnh mẽ mà. Cha mẹ cậu phải mất một thời gian dài mới hiểu được rằng thật ra cậu đang phản đối việc đất nước mình đã quỵ lụy trước sức ép của Hoa Kỳ. Đó là khởi đầu sự căm ghét suốt đời của cậu đối với chủ nghĩa đế quốc Mỹ - một cảm xúc sẽ tô điểm quá trình phát triển chính trị của cậu từ đó trở đi.
Khi vẫn đang theo học trường Colegio Nacional Deán Funes ở Córdoba thì Ernestito gặp Tomás Granado. Cả hai cùng tuổi, học cùng lớp và họ nhanh chóng kết bạn. Tomás có một người anh trai là Alberto, 21 tuổi đang học hóa sinh và dược ở Đại học Córdoba. Anh đang thành lập một đội bóng bầu dục lấy tên là Estudiantes. Ernestito muốn chơi, liền xin cơ hội được tham gia và Alberto đồng ý. Họ tập hai buổi tối một tuần và Ernesto tỏ ra là một cầu thủ cứng rắn, khác hẳn với vẻ bề ngoài – trông cậu không mấy năng động và tay thì xương xẩu. Nhưng tình bạn của cậu với Alberto vượt xa thể thao bởi cả hai đều đọc rất nhiều sách.
Ernestito luôn đem theo một quyển sách và đã đọc Baudelaire, Mallarmé, Verlain, Dumas và Zola bằng nguyên bản tiếng Pháp. Cậu cũng thích đọc các nhà văn Mỹ như Faulkner và Steinbeck qua bản dịch. Tuy cũng mê văn học như Ernestito nhưng Alberto cũng thích cả hóa sinh và y khoa. Anh có hiểu biết về xã hội và đang nghiên cứu trực khuẩn Hansen gây bệnh phong. Anh xuất thân khiêm tốn và đã trực tiếp nếm trải những bất công của hệ thống chính trị. Sau này họ sẽ cùng nhau du hành khắp Nam Mỹ và Alberto sẽ theo bạn mình đến Cuba để giúp củng cố nền cách mạng sau khi giành thắng lợi.
Sự suy yếu của Tây Ban Nha thời tướng Franco sau cuộc nội chiến có nghĩa rằng sẽ còn rất lâu nữa đất nước này – khi xưa từng là một đế chế hùng mạnh – mới có thể gây ảnh hưởng đến các nước Mỹ Latinh. Điều tương tự cũng xảy đến với kẻ chiến bại Italy, đất nước mà phần lớn người Argentina di cư đến. Và tất nhiên Đức Quốc xã bị tầng lớp thanh niên tư sản Argentina cánh tả ghét cay ghét đắng. Có một phong trào xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ ở Argentina do Alfredo Palacios lãnh đạo, một người có uy tín lớn, có tầm ảnh hưởng và là một diễn giả ấn tượng, trong khi Liên minh Công dân Cấp tiến là một đảng trung lập được tầng lớp trung lưu ủng hộ lúc bây giờ. Người Mỹ với sự hoang tưởng của mình đã kiểm soát truyền thông chính thống nên rất ít thông tin lọt ra từ Liên Xô và ít người đi theo Cộng sản.
Đại tá Perón đã che đậy khuynh hướng phát xít của mình khi còn giữ một chức quèn ở Bộ Lao động, nhưng ông dần dần bắt đầu có tiếng nói với tầng lớp thấp hơn trong xã hội. Ông đã biến cục của mình thành Ban Lao động và Phúc lợi Xã hội và thực hiện một chuỗi các biện pháp có lợi cho tầng lớp lao động. Ông cũng được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng và điều này cho phép ông đưa thân hữu của mình nắm giữ những vị trí quan trọng trong quân đội. Sau đó đến tháng 6 năm 1944, ông trở thành phó tổng thống Cộng hòa Argentina, dưới quyền tổng thống Farrell.
Khi Hoa Kỳ buộc Argentina phải tuyên chiến với phe Trục đầu năm 1945, ai cũng biết Perón vốn hâm
https://thuviensach.vn
mộ Mussolini trong khi nội các chính phủ có khuynh hướng phát xít công khai. Tuy nhiên, các tù nhân chính trị được phóng thích, ngoại trừ những người cộng sản. Những giáo sư đại học bị sa thải trước kia nay được phục hồi chức vụ và có một đạo luật được thông qua cho phép các đảng chính trị hoạt động. Người ta còn nói về những cuộc bầu cử trong tương lai gần. Hoa Kỳ đã phạm sai lầm khi cử một đại sứ mới đến Argentina, Spruille Braden từ Công ty Đồng Braden, người công khai trở thành người ủng hộ phe đối lập khi mà lẽ ra với tư cách là một nhà ngoại giao, ông không nên có thái độ bè phái như thế. Việc này khiến Perón đặt ra câu nói “Braden hay là Perón”, cứ như thể họ là hai lựa chọn duy nhất: hoặc anh theo Mỹ hoặc anh theo vô sản. Đảng Cộng sản Argentina về phe Braden, một điều mà họ không bao giờ được phép quên.
Khi cuộc chiến ở Thái Bình Dương chấm dứt năm 1945, nhiều người nhân cơ hội đó biểu tình chống đối Perón và chẳng mấy chốc đã xảy ra những vụ đụng độ giữa tầng lớp trung lưu và cảnh sát bảo vệ chính phủ trên các đường phố Buenos Aires và ở các thành phố khác. Các nhóm thân Perón còn có tên là Liên minh Giải phóng Dân tộc (một ngày không xa họ sẽ cảm thấy bị Perón phản bội và đổi chiều), xuất hiện trên đường phố áp dụng những chiến lược bán quân sự bạo lực. Liên đoàn Sinh viên Đại học và Phong trào Tuổi trẻ Cộng sản tự vũ trang và đã xảy ra những đụng độ nghiêm trọng mà cả hai bên đều có thương vong.
Alberto Granado là một trong những thủ lĩnh sinh viên bị bắt giữ ở Córdoba trong những vụ đụng độ đó. Ernesto (cậu đã tìm được cách bỏ tên tục và chỉ có gia đình vẫn gọi cậu là Ernestito) và Tomás, anh trai của Alberto đến thăm Alberto và chu cấp thực phẩm. Alberto cố thuyết phục cả hai, lúc này vẫn đang học để lấy bằng Tú tài, huy động sinh viên đồng môn và cùng biểu tình chống chính phủ. Ernesto từ chối thẳng thừng, nói rằng cậu sẽ chỉ tham gia một cuộc biểu tình nếu ai đưa cho cậu khẩu súng. Cảnh sát ở Argentina được trang bị khẩu Colt 45 ly làm vũ khí và cậu không sẵn sàng chống lại họ mà không có vũ trang.
Phe đối lập toan tổ chức một cuộc nổi dậy chống lại Farrell và Perón. Tướng Rawson, người giữ chức vụ tổng thống trong 48 giờ năm 1948 đứng đầu cuộc nổi loạn nhưng thất bại, và chính phủ tuyên bố tình trạng vây hãm và ban bố lệnh giới nghiêm. Một nhóm trong quân đội yêu cầu Perón phải bị sa thải và thay thế bởi một phó tổng thống dân sự cho đến khi có thể tổ chức được bầu cử.
Ngày 13 tháng 10 năm 1945, Perón bị giam giữ và đưa đến đảo Martín García, ngoài bờ biển Argentina, nơi có một nhà tù quân sự. Tin tức lan truyền như mồi lửa. Phe đối lập ăn mừng trong khi các công đoàn thân Perón vì bị ấn tượng bởi chất dân túy ở ông và tôn ông làm anh hùng đã kêu gọi tổng bãi công ngày 18. Nhưng quân đội và các phe đối lập không đạt được thỏa thuận bởi quân đội bị chia rẽ và có một số thành viên thân Perón. Ngày 17 tháng 10, công nhân diễu hành đến các trung tâm thành phố thay vì đến nơi làm việc. Tại Buenos Aires, Córdoba, Tucumán, Rosario và khắp đất nước có tiếng hô vang: “Perón! Perón! Perón!” Tầng lớp trung lưu cảm thấy bị đe dọa. Mọi người vội về nhà, và các cửa hàng hối hả đóng cửa. Celia Guevara, lúc này đang đi ngoài đường ăn vận thanh lịch thì gặp phải một nhóm người biểu tình trên phố. Bà bị buộc phải hô: “Perón muôn năm”. Thay vì hô như vậy, bà lại hô “Perón chết đi”. Cảnh sát lập tức can thiệp và giải cứu bà khỏi đám đông đang tức sôi máu.
Khoảng trống quyền lực xuất hiện: các chính trị gia không thể làm gì và quân đội cũng vậy. Lực lượng cảnh sát không muốn tấn công dân thường. Đất nước chưa bao giờ chứng kiến tình trạng này. Trước hoàng hôn, Perón đã được dẫn độ từ đảo trở về và nói chuyện với đám đông từ ban công Casa Rosada, tòa nhà chính phủ. Bài diễn văn của ông được phát thanh đi khắp đất nước thông qua hệ thống phát thanh quốc gia. Ngày 24 tháng 2 năm 1946 diễn ra tổng tuyển cử. Trước sự ngạc nhiên của nhiều người, Perón chiến thắng với cách biệt lớn. Nhưng tại tỉnh Córdoba, địa phương đã và sẽ luôn phản đối Perón, Liên minh Dân chủ, một liên minh đảng chống Perón đã giành thắng lợi.
Thật không dễ định nghĩa chính phủ của Tổng thống Perón. Động lực công nghiệp hóa khiến nhiều người giàu lên nhanh chóng. Nhu cầu về nhân công tại các nhà máy mới đồng nghĩa với việc nhiều người
https://thuviensach.vn
rời bỏ gia đình ở thôn quê và định cư ở các khu ngoại ô thủ đô. Điều này hoàn toàn thay đổi Buenos Aires. Giai cấp vô sản xâm chiến trung tâm thành phố và tiếp quản các con phố, rạp chiếu bóng, nhà hàng và vũ trường. Tầng lớp tư sản kinh hãi gọi những cuộc đổ bộ này là cabecitas negras (đầu đen nhỏ, theo tên một loại chim Nam Mỹ, Carduelis magallanica) bởi hầu hết những người đó đều nhỏ bé, da sẫm màu và dáng người bè bè. Perón gọi những người ủng hộ là descamisados hoặc ở trần. Ông dùng từ đó với ý trìu mến trong khi phe đối lập lại thấy xúc phạm. Tình trạng thiếu nhà ở cho những người mới đến định cư khiến những khu dân cư lụp xụp mọc lên ở nhiều vùng. Nhưng trường học cũng được xây dựng nhiều hơn bao giờ hết và giáo dục phát triển đến tận những vùng xa xôi nhất của đất nước.
Perón tại nhiệm trong sáu năm và tái đắc cử năm 1952 cho một nhiệm kỳ sáu năm nữa để rồi bị chính phủ quân sự lật đổ năm 1955. Ông đã phạm phải một sai lầm kinh tế cơ bản: Ông đã không đầu tư số dự trữ tài chính mà Argentina tích góp được trong Thế chiến thứ hai khi nước này giữ thế trung lập và xuất khẩu thịt bò và lúa mì sang Anh. Thay vì phát triển các ngành công nghiệp dầu khí, sắt và than, xây dựng các nhà máy điện và đường sá, hiện đại hóa giao thông và cơ khí hóa nông nghiệp thì ông chỉ lo phân phối của cải.
Một chính sách kinh tế thành công không thể không chăm lo đến công bằng xã hội, và không thể có công bằng xã hội nếu không có nền tảng kinh tế vững chắc. Thất bại của các chính sách của Perón dẫn đến căng thẳng giữa các tầng lớp xã hội khác nhau. Tình trạng này chỉ có thể kết thúc trong bạo lực. Đảng của Perón, nay đổi tên thành Đảng Chính nghĩa, đã khởi đầu với tư cách là một phong trào toàn quốc mặc cho những sai lầm trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội, nhưng sau đó Perón đã biến nó thành một phe phái. Nghịch lý thay, khi có quyền trong tay thì đảng của ông lại trở thành một phong trào cực đoan, xa rời nhân dân nói chung cũng như tầng lớp lao động và tìm cách biến họ thành lực lượng ủng hộ chính trị duy nhất của đảng. Và sau đó ông công kích nhà thờ Công giáo La Mã và tranh cãi với những con chiên ngoan đạo, khiến họ buộc phải lựa chọn. Vì thế quân đội phải can thiệp và lật đổ ông.
Ngay từ khi bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống, Perón đã biến đất nước thành thiên đường cho những tên tội phạm chiến tranh của Đức Quốc xã như Josef Mengele, Adolf Eichmann, Klaus Barbie và Erich Priebke cũng như nhiều tên phát xít Croatia khác như nhà lãnh đạo Ante Pavelic bị truy nã ở châu Âu vì những hành động diệt chủng. Một khi khách của Perón đã được ở lại Argentina, họ có thể có cuộc sống bình thường mà không phải trả giá cho những tội ác của mình. Họ được cấp căn cước mới và được trợ giúp để hòa nhập vào xã hội bản địa, học ngôn ngữ và cư xử như bất cứ dân nhập cư khác ở miền đất hứa Argentina thời đó.
Cuối mùa hè năm 1946, gia đình Guevara trở lại ở hẳn Buenos Aires. Ban đầu, họ sống tại nhà mẹ của Guevara Cha tại Calle Arenales 2208. Ernesto ở lại Córdoba để hoàn thành việc học. Cậu và Tomás Granado đã tìm được việc làm ở phòng phân tích tài liệu của Ty Giao thông Công chính tỉnh. Cậu viết thư kể cho cha mình rằng cậu nhận mức lương 200 peso và được miễn phí tiền thuê nhà nên cậu chỉ tiêu vào việc ăn uống và sách vở. Cậu thích công việc này bởi cậu rất hợp với những người kỹ sư phụ trách công việc và cậu cảm nhận được rằng họ tin tưởng cậu. Người tiền nhiệm của cậu đã không làm tốt việc nên cậu phải làm ngoài giờ để thực hiện những bản xét nghiệm quá hạn về từng đoạn 10km đường. Cậu sớm được thăng chức làm quản đốc và thậm chí còn cân nhắc học ngành kỹ sư với Tomás Granado vừa mới nhập học tại trường Đại học Córdoba. Nhưng đầu năm 1947, Ernesto hoàn thành Tú tài, nghỉ việc và trở lại Buenos Aires.
Bà nội cậu, Ana Lynch de Guevara đang ốm nặng. Hai bà cháu đã từng rất thân thiết và cậu chăm sóc bà suốt mười bảy ngày mà không rời khỏi giường bệnh. Khi bà qua đời, không ai có thể an ủi cậu được. Không lâu sau đó, cậu quyết định nhập học y khoa ở trường Đại học Buenos Aires và người ta thường nói rằng quyết định của cậu bị ảnh hưởng bởi cái chết của người bà và những ca phẫu thuật nghiêm trọng mà mẹ cậu phải trải qua vì bệnh ung thư vú.
Gia đình Guevara mua một căn nhà cũ ở góc đường Calles Aráoz và Mansilla. Họ ở tầng một vì đã có
https://thuviensach.vn
những người thuê nhà ở tầng trệt. Qua một người bạn thân, cha Ernesto tìm cho cậu một công việc ở Ban Hậu cần của Hội đồng Thành phố Buenos Aires. Từ đó, Ernesto kết hợp việc học với việc làm và tự chu cấp cho bản thân. Cậu dành nhiều thời gian cho công việc hơn, đơn giản bởi vì nơi đó cậu có được sự thanh bình và yên tĩnh để đọc sách và viết. Ernesto gọi cái mà mình đang viết là từ điển triết học, giúp cậu diễn giải các ý tưởng của mình và phân loại những gì đã đọc. Ernesto giữ thói quen này trong nhiều năm, phát huy và cập nhật các ghi chép khi cậu học hỏi thêm về những đề tài mà cậu đề cập đến. Những bài luận của Ernesto về Marx và Engels cuối cùng đã được xuất bản năm 2007 theo di nguyện của anh với tựa đề Tổng tập tiểu sử Marx và Engels.
Không lâu sau, cậu bỏ công việc này và quyết định kinh doanh với Carlos Figueroa, người bạn cũ ở Córdoba hiện cũng đang ở Buenos Aires học luật. Họ bắt đầu sản xuất thuốc trừ sâu trong ga-ra của gia đình Guevara, dựa trên một sản phẩm có tên là Gamexane mà Bộ Nông nghiệp đang sử dụng để tiêu diệt nạn châu chấu ở nông thôn. Sau khi thực hiện một vài thí nghiệm, họ mua một lượng lớn thứ thuốc này cùng hoạt thạch và một vài hộp nhỏ có thể chứa được 100 gram hỗn hợp làm từ 80% hoạt thạch và 20% Gamexane. Họ quảng cáo sản phẩm này với tên gọi Vendaval, có nghĩa là cuồng phong. Theo lời Carlos Figueroa thì các bà nội trợ mua về dùng và khen tốt. Nhưng ngay khi họ tưởng họ đã có một cơ nghiệp lời lãi thì họ buộc phải dừng sản xuất hỗn hợp đó bởi mọi thứ trong nhà Guevara ở tầng trên của gara đều ám mùi hóa chất đó. Và nó còn độc hại nữa, nên chẳng mấy chốc cả Ernesto và một người trợ lý mà cậu thuê đều bị ngộ độc nhẹ.
May thay, Ernestito lúc này nhận được một công việc từ bác sỹ Salvador Pisani, một nhà khoa học tiếng tăm chuyên về các bệnh dị ứng. Ông điều hành Viện Nghiên cứu Dị ứng và nổi tiếng khắp cả nước. Ernesto đã khám bệnh ở chỗ ông và có tiển triển tốt nhờ phương pháp điều trị của ông. Bác sỹ Pisani nhìn thấy tiềm năng làm chuyên viên nghiên cứu khoa học ở Ernesto và cho cậu một công việc bán thời gian tại phòng thí nghiệm của mình. Giả thuyết của bác sỹ Pisani là những người bị một số dị ứng nhất định có thể được gây tê bằng những mũi tiêm ông đã chuẩn bị trong phòng thí nghiệm của mình. Những mũi tiêm đó gồm một hỗn hợp chứa thực phẩm đã được tiêu hóa một phần. Giữa hai người có một sự đồng cảm lớn lao và Ernesto đã học được nhiều điều từ Pisani.
Tiến sỹ Pisani đã mua một số thiết bị điện hiện đại từ Thụy Điển để nghiền ruột người cho thí nghiệm của họ. Khi thiết bị đến nơi, Ernesto quyết định thử chiếc máy. Thế là cậu lấy một ít ruột từ khoa Y nơi cậu đang học. Đống ruột đó là của những người đã chết vì bệnh nhiễm trùng. Khi chuẩn bị hỗn hợp để bỏ vào chiếc máy, Ernesto không nhận ra là cần phải dùng nút cao su để ngăn các phần tử bị nhiễm trùng tiếp xúc với bàn tay. Vài ngày sau, cậu bị sốt cao và nằm liệt giường. Cha cậu về nhà thấy vậy liền gọi cấp cứu và yêu cầu thuốc trợ tim và còn gọi điện thoại cho bác sỹ Pisani. Guevara Cha bất lực và hoàn toàn tuyệt vọng nhìn bệnh tình của con trai mình tiến triển xấu hơn. Một lúc sau thì người y tá đem theo thuốc trợ tim và bác sỹ Pisani đều có mặt. Vị bác sỹ ở lại vài giờ đồng hồ chăm sóc người bệnh và cho anh uống thuốc. Cả gia đình lo lắng chờ đợi cả đếm cho đến khoảng 6 giờ sáng thì Ernesto bắt đầu hồi phục.
Ernesto ra khỏi giường, bắt đầu mặc quần áo. Cha cậu đã đợi cho đến khi cậu mặc xong chiếc áo khoác mới hỏi cậu định đi đâu.
Ernesto nói rằng cậu có bài thi trong vài giờ nữa. Chẳng ích gì khi tranh cãi với cậu: cậu đã quyết định như vậy rồi. Khi còn nhỏ tính cách của cậu hay bị mọi người bảo là cứng đầu nay đã trở thành ý chí ngoan cường vượt qua mọi khiếm khuyết và hạn chế, đưa cậu đến bất cứ đâu cậu muốn.
Năm 1947, Ernesto đủ tuổi đi nghĩa vụ quân sự bắt buộc. Cậu nhận lệnh tòng quân và theo lời gia đình thì vào kỳ kiểm tra y tế, cậu đã tắm rất lạnh trước khi có mặt ở doanh trại. Cậu biết cơn cảm lạnh khiến cậu lên cơn hen kinh hoàng. Kết quả là cậu được miễn nghĩa vụ quân sự do sức khỏe không đạt yêu cầu. Cậu không có ý định lãng phí một năm cuộc đời trong khi đang muốn học tiếp. Cậu nói: “Rốt cục thì hai cái phổi tệ hại cũng có ích cho mình”.
https://thuviensach.vn
Cơn hen suyễn đầu tiên của Ernesto cũng xảy đến trong hoàn cảnh tương tự, sau khi Celia đưa cậu đi bơi ở Câu lạc bộ San Isidro gần nhà. Khi Guevara Cha đến đón họ đi ăn trưa, ông nhận thấy cậu bé đang run rẩy và thở không bình thường, nhưng mãi sau này bệnh của Ernesto mới được chẩn đoán là hen suyễn.
Khoa Y trường Đại học Quốc gia nơi Ernesto theo học và thực hành từ năm 1947 cho đến khi tốt nghiệp năm 1953 là một tòa nhà cũ kỹ, xám xịt, theo phong cách giả Gothic ở trung tâm Buenos Aires. Tại đó anh gặp Tita Infante, một cô gái trẻ từ Córdoba cũng đang theo học để trở thành bác sỹ. Họ học cùng nhau, cùng nhau thực hiện các thí nghiệm, cùng đến lớp học và chung niềm đam mê văn chương.
Tita nhiều tuổi hơn Ernesto một chút và là một người cộng sản kiên trung nhưng cô không tham gia vào các hoạt động chính trị của hội sinh viên mà cô là thành viên. Ernesto thoái lui trước những lợi ích nông cạn của chính trị đảng phái ở Argentina và vẫn đang trong quá trình hình thành quan điểm chính trị của mình – cậu chỉ có tình cảm dành cho những người đồng hương. Tita và Ernesto thường dành thời gian cùng nhau trước và sau các buổi học và gặp gỡ tại một trong các quán cafe gần khoa để bàn luận về lớp học, và có lúc ở nhà Guevara. Vào các ngày thứ tư, họ tham gia một lớp học về hệ thần kinh ở Bảo tàng Khoa học Tự nhiên. Tại đó, họ mổ cá và các loại côn trùng. Họ thường xuyên viết thư cho nhau sau khi Ernesto rời hẳn Argentina và duy trì tình bạn cho đến khi Ernesto hi sinh. Họ thường giãi bày tâm sự với nhau nhưng họ không bao giờ đi quá tình bạn dù rất yêu quý nhau.
Félix Fernández-Madrid đã biết Ernesto từ hồi cả hai cùng chơi bóng bầu dục một thời gian ở Câu lạc bộ San Isidro và họ gặp lại nhau ở khoa Y. Em trai của hai người là Talo và Roberto cùng là sinh viên luật, cùng là bạn bè và cùng chơi bóng bầu dục với nhau. Fernández-Madrid sau này hành nghề y ở Mỹ. Ông viết một cuốn sách có tên là Che Guevara và căn bệnh nan y. Tựa đề đó không chỉ nói về bệnh hen suyễn của Ernesto mà còn về sự sợ hãi và hoang tưởng của một xã hội không dám đối mặt với nỗi thống khổ và sự áp bức kinh tế của một bộ phận lớn dân chúng.
Trong cuốn sách của mình, ông cho biết vào thời gian họ còn là sinh viên, học phí ở trường Đại học Quốc gia được miễn và chỉ phải đóng một khoản phí ghi danh không đáng kể. Nghĩa là sẽ có hàng nghìn sinh viên nhập học bởi kỳ thi đại học cũng khá dễ. Số lượng lớn sinh viên đi học gây ra những bất cập về nguồn lực, giáo sư, các lớp học và tài liệu, nhưng các kỳ thi lý thuyết và thực hành lại khắt khe nên tỉ lệ rớt cao. Sau bảy năm, chỉ có khoảng 10% số sinh viên ban đầu tốt nghiệp.
Chương trình học trong năm cơ sở bao gồm giải phẫu học, mô học và phôi học. Chướng ngại lớn đầu tiên là giải phẫu học. Các sinh viên đến giảng đường đúng giờ không thể vào thính phòng vì nó đã kín chỗ. Đây không hẳn là vấn đề lớn vì giáo trình rất tốt. Kinh thánh đối với các sinh viên là bản dịch tiếng Tây Ban Nha của cuốn sách kinh điển do Testut viết. Các bài thi thực hành được xem là rất khó nhằn và không ai dám bỏ lỡ một buổi ở nhà xác, nơi diễn ra buổi thực nghiệm mổ xẻ giải phẫu. Các lớp học chật kín người và không thể nhìn thấy gì. Giải pháp cho vấn đề này là kiếm một tử thi, tự mình thực hành thí nghiệm, tham khảo sách và biểu đồ.
Các sinh viên tận dụng tử thi từ nhà thương điên bởi ở đó dễ kiếm tử thi hơn do có nhiều bệnh nhân bị gia đình bỏ mặc hoặc là người nước ngoài không có người thân đến nhận. Người gác nhà xác chuẩn bị xác chết bằng cách tiêm formalin để bảo quản.
Các sinh viên có thể mua nguyên một xác chết và thực hành trên đó trong vài tuần ở nhà xác. Một hôm, Ernesto lấy một cái chân từ nhà xác để cùng người bạn Adalberto Larumbe nghiên cứu tại nhà cậu. Cậu gói cái chân trong giấy báo và đem cùng lên tàu điện ngầm. Khi giấy bọc bị hở, các ngón chân lòi ra. Các hành khách trên tàu không biết đó là gì và nhìn cậu kì thị. Ernesto thích thú khi thấy mình đã gây ra cú sốc và đến nhà bạn cười ha hả.
Fernández-Madrid và Ernesto thỉnh thoảng chung nhau một tử thi và cùng học tập, gặp gỡ tại nhà của một trong hai người cũng như tại các quán cafe và ở khoa. Đến năm 1950, họ đã hoàn thành chương trình
https://thuviensach.vn
học cơ bản. Các môn sinh lý học, vật lý và hóa sinh chỉ đòi hỏi một vài buổi thực hành và về cơ bản là nặng tính lý thuyết. Chỉ có môn bệnh lý học cần đến kính hiển vi và khám nghiệm pháp y.
https://thuviensach.vn
V
(1950 - 1951)
Suốt sáu năm học y bữa đực bữa cái, Ernesto không bao giờ cố nổi trội hay giành điểm cao. Cậu chỉ muốn vượt qua các kỳ kiểm tra và tốt nghiệp càng sớm càng tốt, bất chấp những gián đoạn khi cậu dấn thân vào những chuyến đi trong giai đoạn đó.
Ngày 1 tháng 1 năm 1950, nhân dịp nghỉ hè, Ernesto lên đường đến phía bắc Argentina bằng xe đạp. Cậu đã gắn động cơ Micro nhỏ vào chiếc xe đạp của mình nhưng thận trọng nói giảm ý định của mình và không nói rõ chi tiết về hành trình đã định bởi mọi người trong gia đình đã nói rằng cậu sẽ không thể đi xa hơn Pergamino, cách Buenos Aires khoảng 230 km, chứ đừng nói đến các tỉnh phía bắc.
Cậu đem theo một số tài liệu để đọc và một vài cuốn sổ tay để ghi chép lại những ấn tượng của mình, và điều này đã trở thành thói quen trong suốt phần còn lại của cuộc đời chàng thanh niên. Suốt chuyến đi, cậu viết rất nhiều thư về nhà kể cho bố mẹ về nơi ở và miêu tả sống động những gì nhìn thấy. Nhưng chính là nhờ những cuốn sổ viết vội bằng bút chì đã cho chúng ta nhìn xuyên thấu những suy nghĩ và tâm hồn của Ernesto. Cậu viết bất cứ khi nào có thể: bên lề đường khi phải dừng lại,và suốt các chặng dừng chân qua đêm ở bệnh viện, đồn cảnh sát hoặc bất cứ đâu cậu được chào đón.
Cha Ernesto tìm thấy một vài cuốn sổ đó ở tầng hầm trong căn hộ của người chị gái Beatriz khá tình cờ năm 1972, rất lâu sau khi cậu qua đời năm 1967. Khi đó đang có một cơn bão khủng khiếp trong thành phố và các tầng hầm ở trung tâm Buenos Aires đều bị ngập. Beatriz lúc này ngoài 80 tuổi đang nằm liệt giường và bị bại liệt nên bà nhờ em trai khắc phục sự cố. Hercilia, em gái của hai người đã xuống tầng dưới bảo người quản lý tòa nhà đốt tất cả mọi thứ. Khi Guevara Cha đến nơi thì xung quanh viên quản lý là những người thuê nhà từ các căn hộ khác trong tòa nhà đang chỉ trỏ những đồ đạc hỏng hóc nào cần đốt. Nồi lửa đã được bật lên và người ta đốt rất mau lẹ.
Viên quản lý tòa nhà cho Guevara Cha xem mấy cái rương của gia đình trong đó có đủ thứ đồ vứt đi: giày dép cũ, những mảnh quần áo, những mẩu báo và rất nhiều đồ vật vô tích sự khác. Có cả sách mà ông nhanh chóng nhận ra là của con trai Ernesto, và giữa đống sách là những cuốn sổ tay. Ông liền hiểu là bà chị già Beatriz, người cô kính mến của Ernestito đã được chỉ định làm người giám hộ tài sản của chàng thanh niên khi cậu rời khỏi nhà lần cuối (mặc dù lúc đó không ai biết rằng cậu sẽ không bao giờ trở về). Người cô choáng ngợp trước số lượng sách vở và giấy tờ Ernesto gửi gắm nên đã cất chúng trong một chiếc rương và quên khuấy.
Ernesto đã chụp một tấm ảnh trước khi ra đi: cậu ngồi trên xe đạp, đeo kính mát, đội mũ lưỡi trai và mặc áo khoác da, quàng chiếc lốp xe dự phòng trước ngực. Bức ảnh rất có chất của một vận động viên thể thao. Khi trở về sau chuyến đi, cậu viết cho những người nhập khẩu chiếc động cơ đó yêu cầu họ sửa và đề cập đến quãng đường cậu đã đi – 4700km. Cả lá thư và bức ảnh của cậu sau đó được dùng trong một mẩu quảng cáo động cơ, đổi lại là miễn phí sửa xe. Bức ảnh cũng được lên trang bìa tạp chí thể thao danh tiếng El Gráfico.
Ernesto tự mình đặt ra mục tiêu đặt chân lên Pilar, cách Buenos Aires khoảng 50km ở giai đoạn đầu của hành trình. Ban đầu cậu có dùng động cơ nhưng sau khi đến San Isidro ở ngoại ô thành phố thì cậu quyết định tắt máy và tiếp tục đạp xe. Một người đi xe đạp khác bắt kịp cậu và họ đi cùng nhau qua Pilar và sau đó là San Antonio de Areco vào buổi sáng. Tại đó, sau bữa sáng, hai chàng trai trẻ từ biệt nhau.
Đến chiều, Ernesto đã tới Pergamino. Đây là nơi xa nhất mà cậu đã dự định đến ở chặng thứ hai, nhưng thành tích này khích lệ cậu và Ernesto quyết định tự đẩy mình đi xa hơn nữa và tiếp tục đến
https://thuviensach.vn
Rosario dù đã thấm mệt. Cậu bám đuôi một chiếc xe tải chở nhiên liệu để dưỡng sức sau khi đạp xe, và tới 11 giờ đêm hôm đó cậu đã đến được địa điểm dự tính trong ngày. Cậu viết trong nhật ký rằng lúc này cả cơ thể cậu biểu tình đòi một chiếc nệm êm nhưng ý chí của cậu phản đối và cậu lại tiếp tục. Một cơn mưa rào đến vào lúc 2 giờ sáng và cậu che mình bằng chiếc áo choàng vải bạt mà mẹ cậu đã chuẩn bị. Cậu cất cao giọng ngâm một bài thơ của Ernesto Sábato và cười vui vẻ trước thời tiết như vậy.
Khi cậu đến Leones thì đã là 6 giờ sáng và đến khoảng 10 giờ thì cậu đi qua Bel Ville và lại bám vào đuôi một chiếc xe tải khác đưa cậu đến tận Villa María, cách điểm xuất phát 600km. 10km sau, một chiếc xe hơi vượt qua trước mặt cậu và cậu nhờ người tài xế kéo cậu theo, nhưng không vượt quá 60km/giờ. Sau vài chục km thì cậu nhận ra bánh xe sau bị thủng và ngã ra. Cậu kiểm tra chiếc xe và nhận thấy động cơ đã cọ xát với lốp xe sau làm lộ chiếc săm bị hỏng. Chiếc săm dự phòng của cậu thì không thể thay được và vì đã kiệt sức nên cậu đành ngủ bên vệ đường. Vài giờ sau, cậu vẫy một chiếc xe tải không chở gì và xin tài xế đưa cậu đến Córdoba.
Cậu đến nhà Grandano sau đúng 41 giờ 17 phút tính từ lúc xuất phát. Mấy hôm sau, khi Tomás Granado về nhà, họ cùng đến Tanti bằng xe đạp cùng Grego, người em trai thứ ba nhà Granado. Sau khoảng một ngày thì mưa rơi không ngớt và cảm giác ngồi trong lều thật vô nghĩa nên ba người bạn quyết định hạ lều và cất đi. Họ đang sửa soạn đồ đạc thì nghe thấy tiếng nước chảy ồ ồ hướng về phía họ. Khi tới gần hơn, âm thanh đó biến thành tiếng gầm. Người trong nhà chạy ra nói rằng con suối đang ào tới và ba người có thể sẽ bị cuốn đi. Họ liền thu nhặt đồ đạc của mình và Ernesto, lúc này đang cầm con dao rựa liền cắt dây chằng cuối cùng và hét lên: “Chạy đi, những người hùng,” như một cảnh trong phim vậy. Phút cuối cùng, cả ba người kéo đồ đạc về một bên vừa kịp lúc con suối ào ạt đổ qua. Ernesto thất vọng khi thấy nó chỉ sâu khoảng một mét rưỡi và không nguy hiểm lắm.
Sau đó, hai anh em Granado về nhà và Ernesto tiếp tục đến San Francisco del Chañar nơi Alberto, người thứ ba và lớn tuổi nhất trong các anh em Granado, làm việc tại một bệnh viện. Ngày hôm sau, Ernesto bị ngã và làm gãy tám chiếc nan hoa xe đạp và hết bốn ngày mới sửa xong được. Cuối cùng, Ernesto và Alberto đến Ojo de Agua, Alberto đi xe máy còn Ernesto đi xe đạp. Alberto đã cố kéo theo Ernesto nhưng dây thừng luôn bị đứt và họ đi quãng đường 55km hết bốn giờ. Alberto sau đó quay lại San Francisco del Chañar trong khi Ernesto tiếp tục hành trình đến tỉnh Santiago del Estero, phía bắc Córdoba. Tại đó cậu thấy những cây xương rồng cao 6m mà cậu thấy giống những cột đèn.
Cậu đến Loreto vào nửa đêm và hỏi một người cảnh sát địa phương tìm chỗ trọ. Người cảnh sát khuyên cậu chuyển đến đó và hành nghề vì khu vực này không có bác sỹ và cậu sẽ kiếm được rất nhiều tiền cũng như giúp ích cho những người dân địa phương. Ernesto từ chối và lại tiếp tục lên đường lúc rạng sáng đến thành phố Santiago ghé thăm họ hàng của bạn bè. Tại đó, nhật ký của Ernesto hân hoan kể lại rằng cậu đã được phỏng vấn “lần đầu tiên trong đời.” Nghe cứ như thể cậu đã biết trước sẽ có nhiều cuộc phỏng vấn nữa trong tương lai. Ernesto để nhà báo đó trả tiền cho các bữa ăn chung mà không cảm thấy hối hận.
Tuy Ernesto sống trong một gia đình khá giả nhưng cậu không có đồng nào cho chuyến đi của mình. Thay vì vậy, cậu dựa vào may mắn để vượt qua khó khăn, đón nhận và hỏi xin lòng hiếu khách ở bất cứ đâu cậu có thể tìm thấy. Cậu có thể đề nghị đổi kiến thức y học của anh lấy một đêm ngủ ở bệnh viện và đồn cảnh sát (đó thường là những nơi duy nhất mở cửa cho người dân 24/24 giờ ở các tỉnh của Argentina vào những năm 1950) và có vẻ như không ai từ chối cậu điều gì. Cậu có khả năng gây cảm tình với người khác. Cảnh sát mến cậu, thư ký và y tá bệnh viện mến cậu, tài xế xe tải cũng mến cậu. Và tất nhiên, cả gia đình cậu đều yêu thương cậu.
Có một chuyện lạ kỳ xảy ra ngày hôm sau khi Ernesto đến Tucumán. Khi cậu đang bơm lốp xe cách ngôi làng 1km thì một người lang thang xuất hiện từ một cống nước gần đó. Họ trò chuyện và người đó nói với cậu rằng ông ta đã từng thu hoạch bông ở Chaco ở phía bắc và đang tính đến tỉnh San Juan để làm trong mùa nho. Khi Ernesto cho ông ta hay cậu đang du hành qua các tỉnh chỉ để trải nghiệm thì người đó
https://thuviensach.vn
không tin nổi vào tai mình nữa: làm sao một người lại có thể bỏ nhiều công sức đến thế nếu không phải vì lợi nhuận?
Người đàn ông quyết định rằng ông ta và Ernesto sẽ cùng nhau kinh doanh. Lời phản đối của cậu bị bỏ ngoài tai nên cậu đành theo người anh cả, như cách cậu gọi người đàn ông ấy, chỉ vì tò mò. Cả hai đến cửa hàng đầu tiên trong thị trấn và gã lang thang có một bài phát biểu tuyên bố rằng “chàng trai trẻ này” đang theo đuổi một hành trình. Cậu đang đi khắp mười bốn tỉnh của Argentina để gây quỹ cho một mục tiêu cao cả: đến Boulogne-sur-Mer ở Pháp, nơi an nghỉ của Tướng San Martín, Anh hùng giải phóng Argentina, Chile và Peru (gã lang thang thỉnh thoảng tán tụng ông là Thánh kiếm và Đại chỉ huy). Chàng thanh niên yêu nước và cương nghị này sẽ đặt hoa ở lăng mộ của ngài khi cậu hoàn thành chiến tích của mình bởi khi đó sẽ là kỷ niệm 100 năm ngày mất của tướng San Martín.
Sau khi đi vòng quanh các cửa hàng trên phố lớn, họ thu được 112 peso. Sau đó, gã lang thang đã phạm sai lầm khi tiêu số tiền kiếm được trong một quán bar gần đó. Gã mua đồ uống cho mình, Ernesto và mấy người lạ, lại còn huênh hoang về hành vi bóc lột của mình và chế nhạo những người bị lừa. Hẳn ai đó đã chỉ điểm hắn vì không lâu sau đó, một viên cảnh sát xuất hiện hỏi thăm về người thanh niên lái xe đạp và lập tức bắt Ernesto. Phải mất bốn giờ cậu mới chứng minh được sự vô tội của mình và được thả ra. Cậu quay lại cống nước nơi gã kia xuất hiện và mời gã tham gia vào hành trình với mình, nhưng gã từ chối và cho “người thanh niên đi xe đạp” 10 peso từ phần còn lại của đống tiền kiếm được.
Một cơn mua rào ngay lúc đó buộc Ernesto phải trú mưa và cậu nghỉ qua đêm ở một trại lính địa phương (đúng hơn là kho thuốc súng) cách Tucumán khoảng 15km và khởi hành sáng sớm hôm sau. Cậu tả rằng con đường ra khỏi Tucumán là một trong những con đường đẹp nhất ở miền Bắc Argentina với thảm thực vật sum suê như một khu rừng nhiệt đới. Trong khung cảnh thôn dã này cậu mới nhận ra mình ghét đời sống đô thị đến mức nào khi tiếng ồn của nó làm át đi giai điệu du dương của thiên nhiên. Cậu thấy các thành phố thật đối nghịch với sự thanh bình và yên tĩnh, và rằng những công việc khó nhọc không dứt của con người thật vô nghĩa và có hại cho tự nhiên.
Đến gần trưa thì cậu tới một trạm kiểm soát của cảnh sát và dừng lại nghỉ chân. Một người lái chiếc mô tô Harley-Davidson mới toanh xuất hiện và có nhã ý muốn kéo cậu theo với vận tốc 80-90km/giờ. Ernesto biết rằng điều này là bất khả thi nên đã từ chối. Cậu uống chút cà phê với người cảnh sát và lên đường đến phía bắc rồi nhìn thấy chiếc Harley-Davidson bị một xe tải đè. Cậu hỏi thăm tình hình về người lái xe và được biết anh ta đã chết. Ernesto viết rằng khi hồi tưởng lại, cậu thấy hình ảnh một người đi tìm hiểm nguy và chết không ai hay giống như một kẻ phiêu lưu vô danh mang trong mình sự nhiệt tình chết người, và điều đó khiến cho việc tìm hiểu tính cách của Che trở nên thú vị.
Sự hùng vĩ của cảnh vật gần Lobería khiến cậu ước ao có một người phụ nữ đồng hành, bất cứ ai, để chia sẻ trải nghiệm và lo cho cậu những ngày trái gió trở trời. Ernesto đến một bệnh viện ở Salta và giới thiệu mình là một sinh viên y khoa và một người đi xe đạp rỗng túi và kiệt sức. Cậu được phép ngủ trên ghế mềm của một chiếc xe mà thấy nó như long sàng.
Ngày hôm sau, cậu đến thành phố Jujuy, thủ phủ của tỉnh Jujuy và lại tìm bệnh viện vì lúc này cậu nhận thấy không có cách nào để tìm hiểu một vùng đất hiệu quả hơn là ghé thăm các bệnh viện và gặp gỡ mọi người ở đó. Cậu được phép ngủ một trong khu trong nhà thương sau khi người ta đã kiểm tra kỹ năng y học của cậu. Cậu được giao nhiệm vụ gỡ bỏ giun sán làm tổ trên da đầu của một cậu bé da đỏ 2 tuổi. Đứa bé gào khóc trong lúc gỡ trong khi Ernesto đếm cơ man nào là giun. Cậu không thể hình dung nổi làm sao một đứa trẻ nhỏ có thể bị nhiễm giun như vậy. Khi mẹ đứa trẻ bày tỏ lòng biết ơn, Ernesto tơ tưởng cô trong phút chốc nhưng tự nhắc nhở mình về thân phận sống ngoài lề xã hội của cậu. Cơn buồn ngủ đến xoa dịu dục vọng và cậu đã có những giấc mơ êm ái. Vào buổi sáng, khi chuẩn bị lên đường thì mẹ đứa trẻ bắt tay cậu và Ernesto nhận thấy tay cô có chai, như thể chạm phải gai xương rồng.
Ngày hôm sau, Ernesto quay lại Salta và đến thăm những người bạn ở bệnh viện. Họ ngạc nhiên trước sự trở về nhanh chóng của cậu. Làm sao cậu có thể thực hiện cả hành trình chỉ trong một ngày? Cậu có
https://thuviensach.vn
thời gian tham quan gì trên đường không? Ernesto không thể giải thích với họ rằng cậu không có hứng thú với những nơi dành cho du khách. Các bảo tàng trưng bày kỷ vật quân đội, tượng những người yêu nước trên lưng ngựa trang hoàng những quảng trường chính ở các thị trấn của Argentina, nhà thờ Công giáo với những vị thánh ban phép màu và di tích. Tất cả đều chẳng khiến cậu để ý một mảy may. Tuy nhiên, cậu đam mê khảo cổ học và những chứng tích về quá khứ của lục địa này trước khi người châu Âu tới. Đối với Ernesto, tâm hồn của một dân tộc được phản ánh ở những người ốm yếu trong bệnh viện, bị giam ở đồn cảnh sát hoặc những người qua đường mà cậu đã bắt chuyện trong suốt chuyến đi.
Ernesto không giải thích gì vì cậu cảm thấy sẽ chẳng ai hiểu được. Thay vì thế, cậu đi thăm thú Salta, nơi mà cậu đã không có cơ hội tìm hiểu nhiều trong lần đầu. Đêm buông xuống, cậu tìm đến đồn cảnh sát và xin ngủ nhờ. Cậu trò chuyện với những người cảnh sát, làm một giấc rồi quyết định rời khỏi đó lúc 4 giờ để quay lại Tucumán. Lúc 7 giờ sáng, Errnesto có một sự bất ngờ thú vị khi nhìn thấy một dãy dài các xe tải bị kẹt trong bùn. Những người tài xế tranh thủ ngủ và đang tụ tập bàn tán nên làm gì tiếp theo. Trong số các tài xế có một người cậu đã gặp. Ernesto cược với họ rằng cậu sẽ rời khỏi đó ngay lập tức và nếu họ bắt kịp cậu trước khi đến con đường bê tông rẽ vào Tucumán thì cậu sẽ thua. Nhưng nếu họ không thể đuổi kịp cậu thì cậu sẽ chờ họ ở đó và họ sẽ đãi cậu một bữa thịnh soạn. Ernesto khởi hành, mặc những cái phanh hỏng, những con đường dốc, những đoạn cua hiểm cùng cơn khát và sự mệt mỏi. Cậu bị thôi thúc bởi hình ảnh một bữa ăn no nê với gà quay và khoai tây.
Chúng ta sẽ không bao giờ biết được liệu Ernesto có thắng cuộc không bởi phần còn lại của những cuốn sổ tay đã thất lạc. Tuy vậy, chúng ta biết được rằng cậu đã ghé qua Mendoza, nơi cô Maruja, em gái của bố cậu đang nghỉ ở đó. Cô không nhận ra Ernesto khi cậu xuất hiện ở bậc cửa bởi cậu để râu và tóc dài, và người phủ đầy bụi. Cô đưa cậu vào nhà, giặt quần áo cho cậu, giúp cậu sửa xe đạp, cho cậu ăn một bữa no nê và giúi vài đồng peso vào túi cậu dù cậu cứ không chịu lấy. Tất nhiên, lúc đó cậu đã tiêu đến những đồng xu cuối cùng. Rời khỏi Mendoza, Ernesto đến Buenos Aires, ngang qua tỉnh San Luis.
Cậu đã được nhìn ngắm vẻ đẹp của đất nước mình, đã tận hưởng chuyến du hành một mình cũng như đi cùng những người bạn thân và người nhà. Cậu đã thử thách thể lực bản thân, tận dụng tài khéo léo của mình, chịu đựng gian khổ khi vượt qua 4.700 km và cũng có những thời gian vui vẻ! Nhưng với cậu, trải nghiệm thật sự là đã được đối mặt với một cuộc sống khác của những người bản địa ở xứ sở này. Nay cậu đã tận mắt chứng kiến sự thiếu thốn và đói kém cùng cực của họ. Đó thực sự là một bài học đáng giá.
Tháng 10 năm 1950, gia đình Guevara đến Córdoba, nơi Carmen, một người con trong gia đình González-Aguilar chuẩn bị lấy chồng. Tại một bữa tiệc lớn, Ernesto gặp Chichina Ferreya và họ yêu nhau say đắm như những người trẻ tuổi khác. Gia đình Ferreyra vô cùng giàu có và thành đạt. Khác hẳn những người bình thường, họ có văn hóa, du lịch nhiều nơi và nổi bật ở một nơi mà ai cũng thiển cận và tẻ ngắt như Córdoba. Cha của Chichina đã từng đến rừng Amazon và trải qua đủ các loại hiểm nguy. Ông và những người anh trai thường hay đua xe. Họ lái xe hơi ở cái thời gần như không có con đường nào ở nông thôn và tự lái phi cơ. Một trong những người anh em của họ đã qua đời trên con tàu đến châu Âu bị quân Đức đánh đắm trong chiến tranh. Khi đó, người anh em ấy đang trên đường gia nhập Lực lượng Pháp tự do của tướng de Gaulle. Dòng họ Ferreya yêu nghệ thuật, âm nhạc và sở hữu một trại ngựa giống Ả Rập. Nông trang của họ ở Malagueño có sân chơi polo, sân quần vợt và một bể bơi lớn.
Vài tháng sau, đầu năm 1951, Ernesto nhận công việc y tá nam trên một con tàu buôn của Argentina có tên là Anna C. Nó rời khỏi cảng phía nam của Comodoro Rivadavia bên bờ biển Đại Tây Dương của Argentina đến các cảng ở Brazil, Trinidad và Tobago, Curaçao, Guiana thuộc Anh và Venezuela. Cậu tham gia bốn chuyến đi kéo dài vài tuần nhưng rồi nhận thấy rằng mình không thích cuộc sống thủy thủ lắm bởi sẽ phải dành quá nhiều thời gian lênh đênh trên biển và có quá ít cơ hội thăm các địa điểm mà tàu cập bến nên bỏ cuộc.
Trong một chuyến đi như thế, Ernesto viết một truyện ngắn tên là ‘Angustia - Eso Es Cierto’ (Khổ não – Sự chắc chắn duy nhất). Sau này, truyện đó được thu thập và xuất bản theo di nguyện của cha cậu sau
https://thuviensach.vn
khi ông qua đời. Trong đó cậu miêu tả những trải nghiệm của mình ở Trinidad, xen lẫn lời tường thuật với những châm ngôn từ các tác gia và chính trị gia nổi tiếng (Ibsen, Pascal, Sartre, Nehru) cùng với những đoạn suy ngẫm triết lý của chính cậu. Đó là một câu chuyện siêu thực trong đó cậu suy tư về tín ngưỡng của mình và cách mà cậu muốn sống, Những mầm mống đầu tiên của nhân sinh quan rất đạo đức và nhân bản của Ernesto có thể được tìm thấy trong đó. Phần kết của câu chuyện cho thấy văn phong dùng nhiều biện pháp tu từ mà Ernesto phát triển sau này.
Vì lúc này Ernesto đang sống ở Buenos Aires nên cậu sẽ đến Córdoba gặp Chichina và ở với gia đình Granado. Ban đầu, gia đình Ferreyra chấp nhận Ernesto và thấy thú vị trước tính khí kỳ quặc của cậu cũng như cách cậu cố tình tạo một vẻ bù xù và lôi thôi. Họ thấy cậu có duyên và hoàn toàn không khoa trương. Họ ấn tượng với vốn kiến thức văn học, lịch sử và triết học của cậu và thích cậu kể chuyện về hành trình của mình trên xe đạp. Nhưng họ lại không vui vẻ khi Ernesto bày tỏ nguyện vọng du lịch cùng Chichina (và trước hết là lấy cô). Chichina chưa đến tuổi kết hôn và Ernesto không có một xu dính túi. Cô đã không đi cùng cậu trong hành trình tiếp theo.
Giờ đây, gia đình họ bắt đầu mệt mỏi với việc cậu chỉ trích tất cả những gì họ ủng hộ. Gia đình Ferreyra là những con chiên ngoan đạo. Họ là những công dân ngay thẳng và tuân thủ pháp luật. Họ không phải là phát xít nhưng cũng không theo cánh tả, và họ ngưỡng mộ Winston Churchill và Dwight Eisenhower. Winston Churchill là một trong những người Ernesto cực kỳ căm ghét. Vào thời Churchill được hầu hết mọi người sùng kính vì đã đối đầu với phát xít thì Ernesto lại coi ông là một chính trị gia bảo thủ và lạc hậu đã từ chối quyền bầu cử của phụ nữ cùng nhiều chính sách sai lầm khác. Dù chưa phải là một người cộng sản nhưng Ernesto không bao giờ bỏ lỡ cơ hội gièm pha các nước phe Đồng minh khác trong khi vẫn ca ngợi Liên Xô. Cậu quan tâm tới chính trị thế giới và quá trình phi thực dân hóa, và là người nhiệt thành hâm mộ Gandhi cùng niềm tin vào bất bạo động của ông (khi ấy cậu đang đọc về ông trong cuốn sách Khám phá Ấn Độ của Nehru). Mặc dù Ernesto không ủng hộ Hoa Kỳ hay Perón hay cộng sản nhưng cậu lại không quá hứng thú với chính trị đảng phái ở nước mình hoặc hoạt động của hầu hết các chính trị gia, những người mà cậu cho là kém hấp dẫn và giả dối.
Tình hình chính trị ở Argentina vẫn đang căng thẳng. Perón tiếp tục phản đối chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ và tuyên bố rằng đất nước có thể tự lực về kinh tế được. Tuy nhiên, ông đồng thời cũng khủng bố những người cộng sản, mặc dù họ chỉ là thiểu số không mấy quan trọng về chính trị. Vì tờ báo chính thống cánh hữu La Prensa bị coi là cơ quan của Đại sứ quán Hoa Kỳ nên chính phủ đã đóng cửa tờ báo. Trong cuộc bầu cử tháng 11 năm 1951, Perón được trở lại chính phủ. Phu nhân của Perón, Eva Duarte, lúc này là một nhân vật nổi trội trên chính trường với tư cách là người ủng hộ dân nghèo và những người bị tước quyền bầu cử. Bà đã từng là một diễn viên kịch dài tập trên đài và bị cáo buộc là đã có nhiều mối quan hệ mờ ám để thăng tiến trước khi gặp Perón. Bà bị cả phụ nữ thượng lưu lẫn trung lưu căm ghét cho dù nhờ có bà mà hiện nay họ mới có quyền bầu cử. Bản thân bà cũng bỏ phiếu bầu trên giường bệnh trong khi đang thập tử nhất sinh với bệnh ung thư.
Vài tháng sau, ngày 26 tháng 7 năm 1952, bà qua đời. Bà được hưởng quốc tang mặc dù chưa bao giờ cầm quyền. Xác bà được đặt ở Bộ Lao động ở trung tâm Buenos Aires cho người dân đến vĩnh biệt. Những người lao động, cả nam giới và phụ nữ xếp hàng chờ để nhìn mặt bà lần cuối. Có sáu hoặc bảy người mỗi hàng và họ làm thành dãy dài mấy tòa nhà trong nhiều ngày. Trong số họ có nhiều người đến từ các tỉnh. Quân đội nấu ba bữa ăn một ngày trong những cái nồi khổng lồ đặt trên củi lửa để những người đến viếng ăn tại chỗ hoặc đem đi. Bữa sáng gồm một mẩu bánh mì và maté cocido (một loại nước pha maté đi kèm với sữa, tương tự như trà). Bữa trưa và bữa tối có puchero, một món thịt hầm rau củ trong nước dùng truyền thống của Argentina. Dĩ nhiên, tất cả các bữa ăn đều miễn phí.
Có thể nói rằng Eva Perón và Ernesto Che Guevara là hai nhân vật chính trị có sức lôi cuốn nhất ở châu Mỹ Latinh thế kỷ XX. Họ cùng quan tâm đến người nghèo và những người bị áp bức và chung một niềm tin rằng họ có thể hành động để cải thiện điều đó, một sự lạc quan pha lẫn nổi loạn. Mỗi người đều hăng say và sẵn sàng chiến đấu. Đó là những phẩm chất của một nhà cách mạng thực thụ. Họ có xuất thân
https://thuviensach.vn
hoàn toàn khác nhau nhưng cả hai đều trở thành những kẻ ngoài lề, quay lưng lại với xã hội mà họ đã sinh ra.
Eva là con út trong năm đứa con ngoài giá thú của một thương gia tỉnh lẻ thuộc giới trung lưu lớp dưới. Ông ta có một cuộc sống hai mặt bởi ông đã có vợ và những đứa con với người vợ đó. Thời đó, đây là tình trạng phổ biến ở môi trường xã hội như thế. Ernesto là con cả trong một gia đình quý tộc lâu đời mà phả hệ của họ có thể truy đến giới quý tộc Tây Ban Nha. Eva chỉ được học hành căn bản và chỉ biết đến sự hắt hủi, đói khát và nhục nhã khi là một đứa trẻ ở quê nhà tỉnh lẻ và khi là một người phụ nữ trẻ tìm việc ở Buenos Aires. Xuất phát điểm bất hạnh đó càng tô điểm thêm thái độ của Eva đối với những người bị truất hữu ở đất nước, những người nghèo bị các ông chủ thực dân lợi dụng và sau đó là giới trùm sò gia súc. Ernesto có một gia đình yêu thương, một nền tảng giáo dục khá hơn người thường và cậu xuất thân từ tầng lớp thống trị. Nền tảng xã hội của Ernesto mang lại cho cậu thuận lợi hơn nhiều người. Nhưng cậu cũng chạy trốn khỏi hoàn cảnh mà cậu đã được sinh ra. Thái độ của cậu đối với những người bị truất hữu đến từ tính công tâm, trong khi thái độ của Eva đến từ sự cay đắng và mong mỏi tìm chỗ đứng cho mình. Cậu coi chế độ và cơ cấu xã hội của đất nước mình là trưởng giả và bất bình đẳng, trong khi bà tìm cách để được xã hội chấp nhận (một điều không bao giờ xảy ra). Eva chống lại lề thói bởi bà không được chấp nhận. Ernesto chống lại lề thói cũ bởi cậu không chấp nhận nó.
Cả hai đều giành được sự kính phục của những người cùng thời, Eva ở Argentina, còn cậu ở Cuba, và cuối cùng họ đều được toàn thế giới ghi nhận. Họ đều chết trẻ và điều này càng củng cố thêm những bí ẩn quanh họ. Cả hai đều dũng cảm, đả phá lề thói theo cách khác thường với sự tự tin lớn lao vào bản thân và số mệnh. Đối với người ngoài, sự tự tin của họ có thể gây cảm giác kiêu căng. Mỗi người theo cách riêng của mình, đại diện cho tinh thần Argentina: một thứ chủ nghĩa cá nhân, một tinh thần bất tuân. Khi đã nắm quyền lực, Eva không cưỡng nổi sức cám dỗ của thời trang cao cấp Pháp và vô vàn trang sức, bởi đó là con người mới của bà. Trong khi đó, Ernesto mặc bộ quần áo lao động màu xanh ô liu đã bạc màu và ngoại hình không chải chuốt gần như là lời tuyên bố về vị thế của cậu: một chiến sĩ và một con người không có thời gian xao nhãng trên hành trình của mình.
https://thuviensach.vn
VI
(1951 - 1952)
Một năm rưỡi sau chuyến du hành bằng xe đạp, Ernesto và Alberto, người anh cả trong gia đình Granado lại bắt đầu một chuyến đi khác xuyên Mỹ Latinh trên xe máy của Alberto. Ernesto đã mơ được đi cùng Chichina nhưng khi biết điều này là bất khả thì cậu sốt sắng nhận lời mời làm bạn đồng hành của Alberto. Alberto đang làm làm bác sỹ bệnh phong tại một bệnh viện ở San Francisco del Chañar, nhưng anh vẫn hằng mong thực hiện chuyến đi trước sinh nhật lần thứ 30 và lúc này anh đã 29 tuổi. Họ quyết định khởi hành vào cuối tháng 12 năm 1951 sau khi Ernesto hoàn thành kỳ thi.
Sau nhiều lần bàn bạc, lên kế hoạch và sắp xếp, Ernesto và Alberto lên đường ngày 29 tháng 12. Họ rời khỏi nhà Alberto ở Córdoba trên chiếc mô tô cũ Norton 500cc 1939 của anh (chiếc mô tô được đặt tên là La Poderosa II do chiếc xe đạp của Alberto đã có tên là Poderosa hay Powerful One). Họ đã từng mơ đến tận nước Mỹ trên chiếc mô tô đó. Tuy vậy, từ Córdoba họ đi về hướng nam chứ không phải hướng bắc. Họ dự định ăn mừng năm mới với gia đình Guevara ở Buenos Aires rồi lái xe đến thị trấn ven biển Miramar vẫn thuộc tỉnh Buenos Aires để tạm biệt Chichina lúc này đang nghỉ hè ở đó. Sau đó, họ sẽ ghé thăm những con hồ ở phía nam Patagonia trước khi quay lại hướng bắc đến Chile, Peru, Colombia và Venezuela.
Điểm dừng đầu tiên là Ballesteros. Tại đó, họ cắm trại dưới mái đua của một trang trại nhỏ và ăn mừng đêm đầu tiên trở thành những “hành lộ nhân quốc tế”, họ gọi bản thân mình như thế. Sau đó, họ đến Rosario thăm cháu gái của Alberto và các cô gái rất ấn tượng với Ernesto. Tuy vậy, mấy cô gái lại không gây ấn tượng với hai chàng trai bởi họ chỉ thích mấy phim truyền hình dài tập và tạp chí phụ nữ. Ở Buenos Aires, họ bị đem ra làm trò đùa và phải chịu những lời gièm pha khi mọi người nhìn thấy phương tiện đi lại của họ, những tham vọng hão huyền và túi tiền ít ỏi. Chỉ có mẹ của Ernesto là dành cho họ những lời động viên tích cực. Bà gọi Alberto ra một chỗ và nhờ anh thuyết phục Ernesto quay trở về sau khi kết thúc chuyến đi để hoàn thành việc học y khoa. Bà nói rằng ‘một tấm bằng cũng không hại gì’.
Ngày 4 tháng 1 năm 1942, cả hai rời khỏi nhà Guevara ở Buenos Aires với chiếc mô tô chất đầy đồ đạc khiến nó trông giống một con rô bốt. Họ đem theo lều, parrillla (một loại vỉ nướng nhỏ để nướng thịt) cùng với các đồ dùng để nấu nướng và pha maté, giường ngủ, quần áo, sách, bản đồ và một khẩu súng lục Smith & Wesson do cha của Ernesto cho mượn. Khi họ lái xe qua các công viên ở Palermo, có rất nhiều hàng rong ở đó bán đủ các loại vật lưu niệm, nữ trang rẻ tiền và thậm chí cả thú nuôi. Ernesto trong cơn bốc đồng đã mua một con chó nhỏ làm quà chia tay cho Chichina. Người bán nói rằng đó là giống chó bẹc giê nhưng dĩ nhiên là không phải. Khi con vật lớn lên, hay chính xác là không lớn lên, người ta càng thấy rõ đó là một con chó lai. Ernesto đặt tên cho con chó nhỏ là Come Back, bằng tiếng Anh, nhưng chúng ta không biết được Chichina đã làm gì với nó.
Họ đặt chân đến Villa Gesell ngày 6 tháng 1 và Alberto được nhìn thấy biển lần đầu tiên trong đời, dưới ánh trăng buổi đêm. Cảnh vật đó gây ấn tượng lớn lao với anh bởi anh đã ghi lại nó trong hật ký. Trong khi đó, Ernesto lại coi biển như một người bạn cũ mà anh thường chia sẻ những bí mật thầm kín. Họ ở nhà một người chú của Ernesto. Ông mời họ ăn, đưa họ một ít đồ hộp để đem theo trên đường đi và tiễn cả ba rời an toàn đến thăm Miramar và Chichina. Con chó nhỏ tội nghiệp đã có một hành trình vất vả khi nó rơi khỏi xe vài lần, thường xuyên ốm yếu và suýt bị một chiếc xe tải cán phải.
Thời gian ở Miramar kéo dài bảy ngày, dài hơn dự tính ban đầu nhưng Ernesto cảm thấy khó rời khỏi Chichina. Người ta đã nói nhiều về mối tình giữa Ernesto và Chichina nhưng Pepe GonzálezAguilar, lúc này đang hẹn hò một người bạn thân của cô cho tôi biết rằng mối quan hệ ngắn ngủi của họ đã được thổi
https://thuviensach.vn
phồng vì Ernesto đã trở thành một vĩ nhân và cũng bởi Chichina được nhắc đến trong nhật ký du hành của cả Ernesto và Granado. Cho dù tình cảm của Ernesto dành cho Chichina là như thế nào đi chăng nữa thì Chichina đã nói lời chia tay với cậu trong thư khi cậu đi xa.
Alberto được mở mang đầu óc khi thấy đám hầu cận của Chichina vì họ đến từ một tầng lớp mà anh chưa gặp bao giờ. Anh xuất thân từ tầng lớp lao động và bố mẹ anh quá nghèo nên họ phải gửi anh cho bà ngoại nuôi khi các em trai anh ra đời. Alberto dần chán những chàng trai và cô gái thượng lưu tự cho mình đặc quyền là không làm gì ngoài hưởng thụ và thờ ơ với những gì diễn ra xung quanh. Ernesto tranh luận với họ về nền y tế được xã hội hoá ở Anh (một chính sách mà chính phủ Công đảng vừa thực thi lúc bấy giờ), thực trạng chăm sóc y tế và phúc lợi bấp bênh ở nước họ và vai trò của bác sỹ trong xã hội. Cậu luôn thắng trong các cuộc tranh luận ấy nhờ vốn kiến thức rộng hơn và nhiệt tình hơn.
Khi Come Back đã có một nơi ở ổn định và một cô chủ chu đáo thì họ tiếp tục lên đường. Cuối cùng thì họ cũng đến được Necochea, nơi Alberto có một người đồng nghiệp tên là Tamargo và họ đã từng ở chung nhà thời sinh viên. Họ đã cùng nhau chơi thể thao, đụng độ với lực lượng cảnh sát đàn áp và xây dựng Hội Sinh viên Córdoba dân chủ hơn. Tuy họ mới chỉ xa nhau bốn năm nhưng giờ đây giữa họ đã có một khoảng cách lớn. Tamargo rất thân thiện và mến khách nhưng vợ anh không che giấu nổi sự thất kinh khi thấy Ernesto quyết định đi xuyên châu Mỹ trong khi vẫn còn một vài môn học trước khi tốt nghiệp.
Ernesto cho rằng thái độ thù địch của cô đối với họ là bởi cô sợ rằng chồng mình sẽ bị dụ dỗ làm theo họ. Ernesto thấy điều đó là không thể và tuyên bố rằng Tamargo ‘không thể cải tạo nổi’. Điều này đã rõ ràng ngay từ đầu, khi Tamargo không thể giấu nổi sự sửng sốt khi thấy Alberto xuất hiện trên chiếc mô tô, người lấm lem dầu mỡ và bụi đường từ đầu đến chân. Alberto cũng ngạc nhiên không kém khi thấy người bạn cũ của mình đã “trở thành một anh tư sản tầm thường cổ hủ đánh đổi lương tâm của mình để trở thành một thành viên của tầng lớp bóc lột và thu tiền xét nghiệm khống với bệnh nhân”.
Đôi bạn rời đến Bahía Blanca. Trời rất nóng và họ lang thang khắp thành phố và bến cảng trong khi chờ chiếc xe đạp được sửa chữa trước khi lại khởi hành qua những cồn cát ở Médanos. Ernesto cầm lái và sốt sắng muốn bù lại thời gian đã mất liền lái với vận tốc cao nhất và gây ra cái cậu gọi là cú đâm xe tệ nhất trong chuyến đi. Chân cậu bị thương vì bị bỏng bô và một thời gian dài sau mới lành trong khi Alberto không hề hấn gì. Một cơn mưa rào nặng hạt buộc họ phải tìm chỗ trú ở một nông trại, trong lúc đó họ còn bị ngã vài lần nữa. Những người ở nông trại tiếp đãi họ nồng hậu và sẵn sàng giúp đỡ nhưng họ sẽ mãi ghi nhớ ngày đó khi đã nhào lộn chín lần.
Sáng hôm sau, họ khởi hành đến Choele Choel nhưng vì kiệt sức nên họ dừng lại giữa chừng ở Benjamín Zorrilla và vui vẻ ngủ trong một căn phòng ở trạm xe lửa. Khi họ tỉnh dậy thì Ernesto biết mình đã bị cảm cúm bởi người cậu cứ run lên bần bật. Alberto lái xe đến Choele Choel, đằng sau là Ernesto ngủ gà gật, đầu tựa lên vai anh. Họ được phép ngủ ở một bệnh viện địa phương và Ernesto được kê một liều penicillin. Họ cố rời khỏi đó nhưng vị bác sỹ tức giận và tuyên bố dứt khoát: “Cậu bị cúm thì phải nghỉ ngơi”. Một vài ngày trôi qua và mọi nhu cầu của họ luôn được đáp ứng cho đến khi bác sỹ cuối cùng cũng hài lòng với tình trạng của Ernesto. Trong vòng một giờ, họ đã đứng dậy và khởi hành theo hướng đến khu hồ. Sau khi đi bộ khoảng 20 km đến Piedra del Águila để sửa xe đạp (tay lái đã bị gẫy và cần phải hàn lại) và ngủ qua đêm ở cửa hàng của người thợ, họ lại tiếp tục lái đến San Martín de Los Andes như dự kiến.
Ngày hôm sau, trong khi họ đang ăn bữa sáng với bánh quy và maté thì một người đàn ông tiến lại gần. Theo truyền thống mến khách của người Argentina, họ mời ông ta cùng thưởng thức maté. Người đó ngồi với họ và nhận xét rằng áo vét và túi da của họ thật xịn. Hắn hỏi họ có sợ không khi đi một mình trong khu vực vắng vẻ, có thể bị cướp tấn công và lấy đi quần áo, tiền bạc và mô tô. Ernesto không nói một lời và rút khẩu súng lục của cha cậu từ một bên ủng và nhằm về hướng hồ mà bắn từ mạn sườn. Một con vịt bơi ngang gào quàng quạc và gục xuống mà chết. Gã khách vội đứng dậy và chuồn mà chưa uống xong maté hay chào tạm biệt trong khi Ernesto phá lên cười.
https://thuviensach.vn
Ngày 13 tháng 2, họ vượt qua biên giới sang Chile. Chiến dịch vận động bầu cử ngày 4 tháng 9 đang diễn ra. Cả Ernesto và Alberto đều tin rằng tướng Ibáñez del Campo sẽ giành chiến thắng. Ông đã là tổng thống từ năm 1927 đến năm 1931 và ông là một người dân túy cũng như một chính trị gia độc đoán. Chính sách lúc bấy giờ của ông bị ảnh hưởng bởi tướng Perón ở Argentina và ông cũng nhận được sự ủng hộ từ Perón. Những ai có thể làm được vậy đều đã từng tự nguyện đi lưu vong nước ngoài, trong số đó có nhà thơ cộng sản Pablo Neruda. Ernesto nhắc đến trong nhật ký rằng ứng cử viên từ Mặt trận Dân tộc được những người cộng sản ủng hộ. Tên ông là Salvador Allende nhưng sẽ phải mất nhiều năm nữa thì con đường của họ mới gặp nhau tại Cuba và còn lâu nữa Allende mới lên làm tổng thống để rồi bị tướng Augusto Pinochet lật đổ với sự thông đồng của tổng thống Hoa Kỳ lúc đó là Richard Nixon.
Khi đã đặt chân lên đất Chile, Alberto và Ernesto khởi hành đến Temuco. Trời đang mưa phùn và lốp xe của họ bị xì hơi nhưng trong lúc đang sửa xe thì một người lái xe tải cho họ đi nhờ. Họ đặt La Poderosa, lúc này đang biến thành The Weakling (Xe Yếu Ớt) lên xe tải và tiếp tục đi trong khi vị ân nhân cầm lái.
Họ rời khỏi Temuco, trong lòng ngạc nhiên trước lòng tốt và hiếu khách của người Chile. Họ mới chỉ đi được 100m thì chiếc xe đạp khiến họ ngã văng ra. Alberto bị hất tung về phía trước trong khi Ernesto bị ngã cạnh xe thì đủ tỉnh táo để đứng dậy tắt xăng. Xem xét kỹ, họ nhận thấy càng nhôm bảo vệ bộ truyền động đã đâm vào đường và vỡ thành bốn mảnh. Nhưng cuối cùng họ cũng đến được Lautaro và đem chiếc xe đi sửa. Họ tiêu đến đồng tiền cuối cùng cho việc sửa chữa và mất hai ngày nữa.
Trong khi chờ đợi, họ quyết định đến một sàn nhảy ở một nơi không mấy đứng đắn trong thị trấn. Có rất nhiều người say rượu ở đó cùng mấy mụ đàn bà tỏ ra thích thú với hai chàng trai ngoại quốc. Alberto nhảy với một người phụ nữ da đỏ thích điệu tango trong khi Ernesto bị một phụ nữ trẻ kéo riêng ra và cô ta có vẻ muốn thân mật hơn với anh. Ernesto tưởng rằng mình được mời và đưa cô ra ngoài, nhưng người phụ nữ nhìn thấy chồng cô ta và giả như mình đang bị kéo đi ngoài ý muốn. Chồng cô ta chạy hết tốc lực theo sau Ernesto với một cái chai vỡ trong tay. Alberto kịp thời ngăn không cho gã đánh vào đầu Ernesto. Gã ngã xuống, Ernesto quay lại, nhận ra điều suýt xảy ra và chạy. Alberto cũng theo sau. Sự việc đó đã có thể kết thúc bằng một thảm họa nhưng đó là điều thú vị nhất xảy đến với họ ở Lautaro. Nhìn chung thì họ cảm thấy chán nơi đó.
Họ lại tiếp tục lên đường và gặp sự cố khác: phanh xe rời ra ngay lúc họ cố lách giữa một đàn bò. Họ đang đổ dốc, có nghĩa là chiếc xe đang tăng tốc mặc cho Ernesto giảm số để ghìm nó lại. Khi họ đến gần bờ sông, Ernesto đã sang được số một và Alberto nhảy ra ngoài. Ernesto tiếp tục lái với hai chân dang rộng cho đến khi xe đâm phải một mô đất và cậu cũng nhảy ra ngoài. Họ chạy đến bên chiếc xe và tắt bình xăng. Họ đã thoát chết trong gang tấc và thấy hạnh phúc khi mình vẫn còn sống.
Họ cố lên đến Malleco, nơi có một chiếc cầu đường ray cao nhất châu Mỹ nhưng con La Poderosa lại dở chứng. Hai người nhẫn nại chờ một chiếc xe tải gần hết ngày để xin đi nhờ lên đỉnh. Họ ngủ trong thị trấn Cullipulli nhưng sáng hôm sau chiếc La Poderosa đơn sơ đã chết ngắc. Alberto, Ernesto và tàn tích chết khô của chiếc xe được một xe tải đi ngang qua chở tới thị trấn Los Ángeles.
Cuối cùng, họ được phép ngủ lại tại trạm cứu hỏa ở Los Ángeles và đêm đầu tiên họ bị đánh thức bởi tiếng chuông báo cháy. Họ xin giúp một tay và được phát mũ bảo hiểm và áo bảo hộ. Trong giây lát, họ đã trở thành hai lính cứu hỏa bất đắc dĩ đứng trên xe cứu hỏa Chile-España vút hết tốc lực qua thị thấn. Từ xa, họ nhìn thấy ngọn lửa và ngửi thấy mùi nhựa thông cháy thoảng trong không khí về phía họ. Căn nhà bị cháy được làm từ gỗ thông và gần như chẳng còn lại gì khi họ đến nơi.
Đội cứu hỏa chia làm hai nhóm. Một nhóm khống chế ngọn lửa lúc này đã lan tới khu rừng xung quanh và những người khác gắng dập lửa trong ngôi nhà chính và nhà phụ. Họ nghe thấy tiếng kêu ‘meo’ hoảng sợ của một con mèo ở trên mái không thể tìm đường thoát khỏi đám lửa. Ernesto trèo lên mái nhà tìm nó và quay trở xuống với con vật trong tay. Mọi người vỗ tay và đội cứu hỏa quyết định giữ chú mèo làm linh vật. Đây không phải lần đầu tiên Ernesto cho thấy cậu có thể bất chấp hiểm nguy một cách thản
https://thuviensach.vn
nhiên và tự tin.
Để tới Santiago, họ đã thỏa thuận với một người lái xe tải. Ông ta sẽ cho mang con La Poderosa lên xe với giá 400 peso Chile đồng thời cũng thuê họ làm phu khuân vác với giá 50 peso một ngày kèm nuôi ăn. Khi đã đến Santiago, họ nhận ra rằng tiền sửa chữa La Poderosa vượt quá khả năng tài chính của họ và họ quyết định bỏ chiếc xe lại. Họ chấm dứt thân phận những quý ông lái mô tô trên đường và bắt đầu hành trình như những kẻ bộ hành lang thang.
Ban đầu, Alberto thấy đau khổ nhưng Ernesto nói rằng cậu chẳng ngại để lại La Poderosa. Việc không có phương tiện đi lại sẽ đưa họ ngang bằng với những người nghèo nhất ở lục địa này và họ sẽ có thể thấy nhiều hơn, gặp nhiều người hơn và trải nghiệm tận mắt những người Nam Mỹ thống khổ nhất chịu đựng số mệnh của họ như thế nào. Trong khi Alberto có thể xem lại và sửa lại nhật ký của mình với dự định xuất bản thì lời nói này của Ernesto thật thức thời một số người còn nói rằng nó cho thấy sự bắt đầu gắn bó chặt chẽ với những người nghèo nhất ở châu lục. Giờ đây Ernesto đã phát hiện ra rằng họ cũng cơ cực và bị chà đạp giống như những người ở Argentina quê hương cậu.
Điểm dừng tiếp theo của họ là Valparaíso, một trong những thành phố đẹp nhất ở Chile, tọa lạc giữa một khung cảnh ấn tượng. Những rặng núi phía sau được cây cối bao phủ và không xa là những dòng sông băng, nơi mọi người thường đến chơi các môn thể thao mùa đông quanh năm. Nhìn sang hướng tây là một vịnh có những bãi biển hấp dẫn và đi vài dặm về hướng bắc sẽ thấy một viên ngọc trên vương miện. Đó chính là Viña del Mar, khu nghỉ dưỡng bên bờ biển đẹp không bút nào tả xiết, được giới quyền quý và nổi tiếng ở Chile và nước ngoài yêu thích.
Khi lên kế hoạch cho chuyến đi, họ đã hi vọng được đến Đảo Phục sinh, nhưng lúc này hi vọng đó đã bị dập tắt. Chuyến tàu tiếp theo đến Rapa Nui sẽ rời bến gần một năm sau. Chủ tịch Hội Bằng hữu Đảo Phục sinh, ngài Mollina-Luco nào đó hứa sẽ mời họ đến chơi năm sau. Thay vì vậy, họ quyết định không vượt sa mạc ở phía bắc Chile và đến Antofagasta bằng đường biển.
Trong khi ở Valparaíso, họ kết bạn với người chủ một cái lều đánh cá trôi dạt hoạt động như một nhà hàng. Ông cho họ ăn miễn phí hai bữa một ngày và nhờ Ernesto đến thăm một người phụ nũ già cũng bị hen như cậu. Trông bà thật đau khổ vì bà còn mắc bệnh tim mạch nữa. Bà sống cực kỳ nghèo khó và phải nằm liệt giường. Căn phòng của bà có mùi mồ hôi và chân người không rửa sạch. Ernesto cảm thấy bất lực và cậu chợt nhận ra rằng đây không chỉ là vấn đề y tế mà còn là vấn đề xã hội nữa. Đây là số phận của những người vô sản ở khắp lục địa này. Mãi cho đến gần đây bà vẫn làm bồi bàn, thở khò khè và hổn hển nhưng bà vẫn đối mặt với cuộc sống với lòng tự trọng của mình. Giờ đây, bà trở thành gánh nặng cho người thân. Có lẽ họ không có đủ tiền để chăm sóc bà và vì thế mà tỏ ra phẫn uất. Ernesto biếu người phụ nữ một vài viên thuốc cậu đem theo và tạm biệt, trong tai vẫn văng vẳng những lời cảm tạ của bà.
Lúc này họ đã gặp thuyền trưởng của một tàu chở hàng ở một hãng vận chuyển và thuyết phục ông cho họ chất hàng hóa lên tàu và họ sẽ làm việc trong suốt chuyến đi. Họ tạm biệt người bạn mới, người chủ của nhà hàng kiêm lều đánh cá La Gioconda và chờ đến tối thì bí mật lên tàu. Hoá ra là họ chỉ có thể lên tàu lúc 9 giờ sáng khi đám thủy thủ đến và thức trắng đêm lẩn trốn những sĩ quan trên tàu, những người bốc vác làm việc suốt đêm và những cảnh sát canh gác bến cảng và tàu. Khi đã ở trên tàu, kế hoạch của họ là nấp trong toilet cho đến khi tàu nhổ neo. Họ đã không tính đến cảnh bẩn thỉu, bốc mùi và theo lời Alberto là “ngập ngụa phân” trong toilet.
Đến trưa, một tiếng còi hú ầm ĩ báo hiệu đầu máy sắp sửa được khởi động. Họ nghe thấy tiếng rít của mỏ neo khi nó được nâng lên và biết rằng mình đang trên đường. Tạm biệt Valparaíso với những chú bồ nông và hải âu, những căn nhà nhạt màu, những đường sắt leo núi nhẹ nhàng đưa hành khách lên và xuống thành phố mà không sợ rơi khỏi dốc, phong cảnh hữu tình và những cư dân thân thiện. Bây giờ họ đến Antofagasta và những cuộc phiêu lưu mới.
Ngay khi họ đi đủ xa khỏi bến cảng để không thể bị tống cổ hay gửi trả lại, họ trình diện trên boong tàu. Trên đường ra đó, họ đã xoáy một vỏ bánh mì và một ít cà phê từ những người làm trong nhà bếp.
https://thuviensach.vn
Khi thuyền trưởng nhìn thấy họ, ông gọi họ đến đài chỉ huy và chửi mắng đủ điều. Dĩ nhiên là ông chỉ đang diễn kịch. Ông gọi thủy thủ trưởng và cho anh ta biết rằng họ sẽ phải chấp nhận việc đã rồi và bảo anh kiếm giường ngủ và công việc cho họ. Ernesto phải cọ rửa toilet và Alberto được sai vào bếp gọt hành. Sau đó họ phải lau chùi toàn bộ nhà bếp cho đến khi nó sạch không tì vết. Họ thực sự phải làm việc để được ở trên tàu nhưng không ai phàn nàn gì.
Khi họ đã hoàn thành xong công việc và thủy thủ đã ngủ, họ lên boong tàu chiêm ngưỡng biển dưới ánh trăng. Đến đài chỉ huy, họ thấy thuyền trưởng đang chơi bài canasta với một sĩ quan khác và người điều khiển điện đàm. Họ được mời chơi cùng và Ernesto kết hợp với Alberto thắng ba ván: họ không biết đến thất bại. Thời đó, canasta là loại bài được yêu thích ở Argentina và chúng tôi đều là cao thủ trò đó cho đến khi truyền hình thay thế nó làm phương tiện giải trí chính ở nhà. Thuyền trưởng ra lệnh cho người đầu bếp dậy để chuẩn bị bữa ăn cho họ. Sau khi ăn và uống mấy ly rượu, Ernesto và Alberto bắt đầu để thua bởi nếu không thì họ sẽ phải chơi suốt đêm vì những người sĩ quan kia không chịu chấp nhận thua. Ngày hôm sau, công việc dường như còn nặng nhọc hơn bởi dư vị khó chịu từ rượu.
Tàu cập bến ở Antofagasta và ở chặng đầu tiên họ xin đi nhờ xe đến Chuquicamata, nơi có những cánh đồng muối nitrat và mỏ đồng mà họ muốn tham quan. Con đường quanh co giữa những triền đồi trong khung cảnh đỏ au của sa mạc. Dấu hiệu duy nhất của sự sống là các trạm thư tín và nền nhựa đường. Cứ cách vài dặm lại có một quầy nước cung cấp cho các ngôi làng giữa sa mạc. Nước được lấy từ Bolivia ở bên kia biên giới, không xa lắm về hướng bắc.
Họ nghỉ qua đêm ở Baquedano và gặp một đôi vợ chồng nghèo khổ trên đường. Anh ta đã bị bỏ tù vì là người cộng sản và giờ đây không thể tìm được việc. Đảng Cộng sản bị cấm ở Chile và các thành viên trong đảng bị khủng bố và bắt bớ. Anh ta kể cho họ nghe về những bất công mà những người chủ mỏ quặng và chính quyền địa phương gây ra cho những người công nhân. Nhiều người làm cùng anh đã phải bỏ mạng dưới đáy biển. Anh đã phải ở tù ba tháng, con cái anh được một người hàng xóm tốt bụng săn sóc còn hai vợ chồng anh thì lang thang trên đường, gần như chết đói và đã mất tất cả. Alberto và Ernesto chia sẻ maté, bánh mì và pho mát với họ và tặng họ một cái chăn, còn hai anh thì nằm rúc vào nhau trong chiếc chăn còn lại. Sau này Ernesto viết: “Đó là một trong những đêm lạnh lẽo nhất trong cuộc đời tôi nhưng cũng là đêm khiến tôi cảm nhận được tình anh em với người lạ mặt này, hay đối với riêng tôi, đó là tình cảm với con người nói chung.” Cậu sẽ khó có thể quên được tình cảnh của những người thợ mỏ Chile đó.
Sáng hôm sau, họ rời đến Calama. Từ Calama họ tiếp tục đi xe buýt, vượt qua sa mạc ở độ cao hơn 2000m so với mực nước biển. Khi họ tới Chiquicamata, họ được một thanh tra cảnh sát chào đón và đưa họ đi xem một phần của mỏ quặng trên xe ông. Tối hôm đó, họ được mời nghỉ tại đồn cảnh sát và còn được mời ăn. Người ta cũng đưa cho họ mấy chiếc giường cắm trại và họ được ngủ thoải mái cả đêm, sau mấy ngày liền chẳng được ngủ tử tế..
Ngày hôm sau họ đến gặp người quản đốc của mỏ quặng. Sau khi bắt họ đợi một lúc lâu, y lên giọng thuyết giáo rằng khu vực này không phải là một tổ chức từ thiện hay điểm du lịch và đưa họ đi vòng quanh xem hệ thống máy móc. Alberto hơn Ernesto sáu tuổi và có nhiều kinh nghiệm chính trị hơn Ernesto. Anh kể lại trong nhật ký về chuyến đi rằng chẳng ai không thấy của cải kếch sù ở đó, và rằng những thợ mỏ vốn là thổ dân Araucania ở Chile đang bị những ông chủ người Mỹ đối xử tệ bạc.
Mỗi thợ mỏ, mỗi người điều khiển máy chỉ thạo việc ở khu vực của mình. Những người đã ở đây mười năm có thể chẳng biết gì về các quy trình mà họ không trực tiếp tham gia. Đây là chiêu bài có toan tính của công ty. Người lao động càng biết ít thì lãnh đạo công đoàn càng khó có thể thảo luận với họ. Người công nhân sẽ ký bất cứ một hợp đồng nào mà công ty đưa ra mà không bao giờ biết liệu họ có bị cắt giảm quyền lợi hay lừa bịp không. Thực ra người đang dẫn Alberto và Ernesto đi thăm khu mỏ còn không hề tỏ ra nao núng khi cho họ biết rằng mỗi khi công đoàn kêu gọi một cuộc họp thì anh ta và các thành viên khác trong ban quản lý sẽ mời một số quan chức công đoàn đến các nhà thổ địa phương và vì
https://thuviensach.vn
thế mà buổi họp sẽ không bao giờ đạt được số đại biểu cần thiết. Mặt khác, anh ta nói rằng các thợ mỏ đã đòi hỏi quá đáng khi đòi tăng lương 100 peso (khoảng 1 USD) nhưng anh ta cũng không ngần ngại kể rằng chỉ cần khu mỏ không sản xuất một ngày thì tiền lỗ sẽ là 1 triệu USD.
Ngày hôm sau, họ ghé thăm một nhà máy đang được xây dựng và Ernesto phải trèo lên đỉnh của ống khói được cho là cao nhất Nam Mỹ. Đôi lúc sự cam đảm của cậu gần như là điên rồ. Họ đến thị trấn và tận mắt nhìn thấy điều kiện sống bấp bênh của công nhân trong những túp lều được dựng sẵn mà không có nước dùng. Trong khi đó, những người Mỹ thì được sống trong nhà cửa đàng hoàng, trường học và cả một sân golf. Họ tiếp tục đến một nhà máy muối nitrat tên là Empresa Salitrera de Toco. Tại đó, họ được một nhóm thợ xúc đất chào đón và mời họ cùng chơi bóng đá. Sau khi chơi xong, họ cùng nhau ăn và ngủ trong trại của những người làm đường như thể họ đã quen nhau từ bé.
Sau vài ngày đi đây đi đó, ghé thăm các nhà máy muối nitrat Rica Aventura và Prosperidad và đi nhờ xe đến Laguna, họ được một tài xế xe tải cho đi nhờ. Họ đã giúp anh ta sửa lốp xe bị xì hơi. Họ đang ngồi trên đống cỏ linh lăng chất ở cuối xe thì đến một ngọn núi và nhìn thấy biển ở dưới. Đó là vịnh Iquique đẹp nổi tiếng. Sau một đêm ở Iquique, một xe tải khác đưa họ đến Arica, cạnh một con đường cắt vùng Bảy Trảng cỏ (những bình nguyên khô cằn bị chia cắt bởi những ngọn núi đâm ngang tua tủa). Con đường chạy dọc bờ biển, lên cao 2000m và chạy xuyên qua một rặng núi. Có một vài chỗ con đường quá cao đến mức có thể nhìn thấy mây trắng và kền kền ở dưới. Hành trình kéo dài 24 giờ.
Lúc này, cách không xa là Chí tuyến Nam và cây cối sum sê hơn. Họ trông thấy những cây ổi và bơ, xoài và đu đủ. Họ đến bệnh viên địa phương và được vị giám đốc mời nghỉ qua đêm. Buổi chiều, họ đi bơi và thưởng thức một loại thân mềm gọi là loco chỉ có ở bờ biển Chile. Họ đã ở Chile được 38 ngày, tận hưởng lòng mến khách và phóng khoáng của người Chile ở mọi nơi mà họ đặt chân đến. Ngày 23 tháng 3, từ trạm hải quan ở Chacalluta ở bờ phía nam của sông Lluta, điểm cực bắc của Chile, họ sang Peru. Họ đi qua Tacna đến Puno, bên bờ hồ Titicaca và rồi qua Sicuani trên đường đến Cuzco. Ở Peru có những xe tải hoạt động như xe buýt để cho những người nghèo ngồi trên đống hàng hóa không có mui che. Ernesto nhận xét trong nhật ký rằng những người tài xế là người lai đã đối xử với họ như những người thuộc chủng tộc thượng đẳng vì họ là dân da trắng và mời họ ngồi trong buồng lái. Cậu cũng nhận thấy rằng người dân địa phương nhìn họ dửng dưng, có lúc còn tỏ ra sợ hãi. Cậu cảm thấy khó mà thấy được mối liên hệ giữa những người này và bộ tộc kiêu hãnh đã thường xuyên thách thức uy quyền của người Inca và buộc họ phải điều quân đội thường trực để canh phòng biên giới. Tuy nhiên, những người nói chuyện với họ có ca ngợi Perón và Eva, hai con người đã đảm bảo cho người nghèo ở Argentina có mọi thứ như người giàu và không bóc lột hay đối xử khắc nghiệt với những người da đỏ nghèo khó như ở Peru.
Chẳng mấy chốc họ đến Cuzco, nơi đã từng là trung tâm của nền văn minh Inca hay Đế chế Tiawanakota và là nơi lời răn Tiwantisuyo được lấy làm chuẩn mực: không dối trá, không tàn sát, không cướp bóc. Rất lâu sau đó, đến tận năm 1966, kiến thức này sẽ có ích cho Ernesto ở Bolivia khi giao thiệp với người Aymara đã từng là nông nô của người Inca. Cuzco có rất nhiều nhà thờ thực dân của Tây Ban Nha được xây trên những đống đổ nát của Inca: nhà thờ Thiên Chúa giáo được xây trên nền của ngôi đền thờ Viracocha, nhà thờ dòng Tên trên đền thờ Thần Rắn, nữ tu viện trên Tòa thánh Nữ Dương và tu viện Santo Domingo trên đền Mặt Trời và Mặt Trăng. Trận động đất năm 1950 đã làm sụp đổ phần lớn những ngọn tháp nhà thờ và có lời đồn rằng đây là sự trả thù của Viracocha, vị thần huyền bí của người Inca và là Đấng Sáng thế của loài người và mọi thần thánh. Tướng Franco đã tài trợ việc tái xây dựng tháp nhà thờ và ngày 7 tháng 4 Ernesto và Alberto đến dự lễ khánh thành đó. Một trong những chiếc chuông lớn nhất thế giới ngân vang và âm thanh kỳ lạ của nó do vàng trong hợp kim tạo nên.
Đại sứ Tây Ban Nha cũng có mặt tại sự kiện đó và ban quân nhạc chơi quốc ca Tây Ban Nha để tỏ lòng tôn kính, nhưng bản nhạc mà họ đang chơi thực chất là quốc của của Cộng hòa Tây Ban Nha. Ngài đại sứ chạy tán loạn như thể bị nhập và yêu cầu dừng nhạc. Ernesto cười gầm lên và tin rằng đây là sự trừng phạt của Tupac Amaru, vị vua cuối cùng của người Inca đã bị phó vương người Tây Ban Nha Don Francisco de Toledo hành quyết năm 1572.
https://thuviensach.vn
Trong một chuyến tham quan bảo tàng, Alberto làm quen với một người phụ nữ trẻ da đỏ làm việc ở khu vực đồ gốm. Như nhiều cư dân khác trong vùng, cô nói rằng mình là hậu duệ của một dòng họ Quechua cổ đại. Anh lại gặp cô ta buổi tối và sáng hôm sau quay lại bảo tàng. Tên cô gái là María Magdalena và mặc dù anh bỡn cợt với cô nhưng cô lại vờ như không hứng thú.
Cuối cùng họ đến Machu Picchu, thành phố đã mất của người Inca được Hiram Bingham phát hiện ra năm 1911. Machu Picchu trong tiếng Quechua có nghĩa là Cựu Sơn và khu vực này tọa lạc tại độ cao 2400 trên mực nước biển. Nó được xây dựng khoảng năm 1460 nhưng khoảng một thế kỷ sau thì bị các vị vua Inca bỏ rơi. Tuy nhiên, nó vẫn được coi là một thánh địa. Điều đáng nói là những kẻ xâm lược Tây Ban Nha không bao giờ tìm ra nó và nhờ thế mà nó tránh được nạn cướp bóc và tàn phá.
Ernesto và Alberto quyết định ở lại đó vài ngày để tìm hiểu càng nhiều càng tốt. Trong một trận bóng đá ngẫu hứng, họ may mắn gặp một người cho thức ăn và chỗ trọ sau khi cho thấy họ không phải mấy kẻ cầu bất cầu bơ như bề ngoài của họ. Đêm đó, trên giường Ernesto đọc sách của Hiram Bingham trong khi Alberto lơ đãng nghiên cứu tuyển tập thư từ của Simón Bolívar.
Bất thình lình, Alberto nói với Ernesto rằng anh đã có câu trả lời cho những vấn đề của người da đỏ bị áp bức. Anh sẽ lấy María Magdalena, một hậu duệ trực tiếp của Manco Capac II và sẽ trở thành Manco Capac III. Anh sẽ lập một đảng chính trị của người da đỏ, cho họ quyền bầu cử và phát động Cách mạng Da đỏ châu Mỹ Tupac Amaru. “Cách mạng mà không phải xả súng ư? Anh thật là điên”. Đó là câu trả lời của Ernesto để chấm dứt ảo tưởng của Alberto.
https://thuviensach.vn
VII
(1952)
Điểm dừng tiếp theo là trại phong Huambo. Ở Abancay, họ đã dừng lại một lần ở trại này, được cho ăn ở và giặt giũ quần áo. Khi trở lại, họ đã nói chuyện với các y tá về phương pháp thí nghiệm lâm sàng mà cả Alberto và Ernesto giờ đây đều đã rất thành thạo. Hai người đã dành nguyên cả ngày để đi thăm cả khu vực đó và khi trở về vào buổi tối, họ nói về bệnh phong và hen suyễn. Đúng lúc ấy thì Ernesto lên cơn hen nặng và cần tiêm hai liều adrenalin liền nhau.
Rồi sau đó ở Huancarama, trên đường đến Huambo, Ernesto lại lên cơn hen một lần nữa. Lúc 4 giờ sáng, cậu đánh thức Alberto, cảm thấy tuyệt vọng vì cơn hen đã quay trở lại nặng hơn trước và cậu không thở được tí nào. Alberto đã có một quyết định liều lĩnh vì họ đã hết ống tiêm adrenalin mà Ernesto dùng để làm dịu những cơn hen khi ống thở không có tác dụng. Alberto tiêm vào tĩnh mạch của Ernesto một liều canxi chlorit để kích thích tủy thận tiết ra adrenalin. Anh cần nước để tiệt trùng xi lanh và mũi tiêm và lấy nước từ một con suối nhỏ chạy qua nông trang mà họ đang trọ qua đêm.
Ernesto dịu xuống sau mũi tiêm nhưng một chốc sau Alberto lại bị đánh thức bởi những tiếng rên rỉ của cậu. Cậu trông như người chết, người oằn èo trên sàn nhà còn miệng thì co lại. Alberto sững sờ trước tiến triển khác thường này mà không biết phải làm sao. Anh nhìn Ernesto một lúc cho đến khi tiếng kêu dịu xuống, cơ thể cậu trở lại trạng thái bình thường, cậu thiếp đi và lại bắt đầu ngáy như sấm. Thông thường, Alberto sẽ cù sườn Ernesto, bảo cậu thôi tạo ra tiếng động ghê gớm đó nhưng giờ đây anh thấy an tâm và phấn khởi. Ernesto sắp khỏe lại.
Sáng hôm sau, họ dậy muộn và hỏi xin nhà chức trách địa phương một đôi ngựa để đến Huambo. Ngựa mà người ta đem tới gầy gò, nhỏ choắt và thật lố bịch khi tin rằng chúng chịu được sức nặng của hai người họ. Có một thanh niên da đỏ dẫn lối cho họ qua con đường gồ ghề. Con đường men theo tầng tầng lớp lớp sườn đồi được phủ bởi những bông hoa màu vàng, đôi chỗ lần theo rìa các vách đứng và có lúc xuống sát mặt sông. Họ đi qua những ngôi làng mà ở đó người dân đang ăn mừng lễ Phục Sinh, kéo theo việc tiêu thụ một lượng lớn chicha, một loại rượi làm từ ngô. Nhiều người đã say như điếu đổ bên vệ đường. Khi đường càng gồ ghề hơn thì những con ngựa mà trước đó họ coi thường tỏ ra hữu ích. Chúng trèo lên rồi trèo xuống địa hình dốc mà không hề mất thăng bằng. Đi được khoảng ba giờ thì họ nhìn thấy Huambo.
Trong suốt thời gian trên đường, có một người phụ nữ già và một cậu bé cứ đi theo họ. Ernesto và Alberto không để ý đến họ lắm vì thường thì người da đỏ vẫn đi theo người khác để bán sản vật và người phụ nữ này cũng đang cầm mấy cái giỏ. Nhưng bây giờ họ mới được biết là những người đó là chủ của mấy con ngựa mà nhà chức trách đã trưng thu cho người ngoại quốc. Người phụ nữ và đứa trẻ đi theo họ để xin lại mấy con vật đem về nhà. Chỗ này rất xa nơi ở của họ. Ernesto và Alberto sửng sốt trước phiền phức mà họ đã gây ra liền xuống ngựa, trả tiền cho họ rồi tiếp tục đi bộ.
Sau khi nghỉ chân chốc lát để ăn hoa quả hái từ một cái cây gần đó, hai người lại lên đường. Những tán lá rậm rạp đến nỗi ánh sáng mặt trời không thể xuyên qua và đường đi thì lầy lội. Họ lội trong bùn ngập đến mắt cá chân và cuối cùng cũng đến được trại phong ở Huambo. Chẳng có nơi đâu xa xôi và hẻo lánh hơn nơi đó nữa.
Có hai khu riêng biệt: một khu dành cho người khỏe mạnh và khu kia cho bệnh nhân. Khu khỏe mạnh gồm hai phòng với mái tranh và những bức tường đắp bùn. Một phòng là nơi phát thuốc, ăn uống và văn phòng còn phòng kia là nhà thuốc, phòng tư vấn và bệnh xá. Họ gặp đội ngũ nhân viên ở đó gồm ba y tá
https://thuviensach.vn
nam và một nhân viên y tế và được đón tiếp nhiệt tình. Sáng hôm sau họ đi thăm khu của bệnh nhân gồm có bốn chái nhà. Đó là những căn lán đắp đất không có cửa sổ, mỗi lán có ba hoặc bốn bệnh nhân. Không hề có hệ thống hay dụng cụ vệ sinh. Một số bệnh nhân đang mải trồng sắn, khoai tây hoặc ngô. Tất cả chỉ có thế.
Ngay khi họ tưởng rằng mình đã chứng kiến quang cảnh tồi tệ nhất thì một nhóm trẻ con xuất hiện. Chúng không bị nhiễm bệnh nhưng gần như chắc chắn sẽ bị phơi nhiễm. Tuy chúng sống với cha mẹ là những bệnh nhân ở đây nhưng chúng lại không được tiêm phòng. Ông Montejo và ba người trợ lý là Vivanco, Montoya và Valdivia kể cho họ nghe về những thiếu thốn mà họ phải trải qua. Ngay cả bác sỹ cũng không đến làm thường xuyên. Ông Montejo cho họ biết rằng nhà khoa học duy nhất ở Peru quan tâm đến những người mắc phải tai ương này là bác sỹ Hugo Pesce.
Ngày ngày trôi qua, Alberto và Ernesto nhận thấy rằng mọi thứ không ảm đạm như vậy. Bệnh viện có thuốc chữa bệnh phong công hiệu cũng như thuốc trị bệnh thiếu máu. Thức ăn khá tốt và còn có thêm cây nhà lá vườn do bệnh nhân trồng. Nhưng điều lạc quan nhất là ông Montejo và những người trợ lý đối xử với bệnh nhân với một sự tôn trọng, thông cảm và thậm chí là quý mến. Người ta cũng kể với họ là có một viện điều dưỡng mới cũng đang được xây dựng gần đó nhưng họ sững sờ nhận ra đó chỉ là phiên bản lớn hơn của cái họ đã từng chứng kiến. Alberto tuyệt vọng nhận xét rằng đó là một kiểu nhà kho chứa con bệnh. Ernesto có thể đổ hen bất cứ lúc nào mà không có triệu chứng báo trước và sau chuyến đi thăm trại phong về cậu còn bị lên cơn một lần nữa. Lần ấy nặng đến mức cậu lại phải tiêm một mũi nữa.
Ông Montejo đã thu xếp cho họ nghỉ qua đêm ở một trang trại gần đó. Người chủ trang trại tiếp đón họ nồng hậu và đãi họ một bữa tối ngon lành với đủ các loại rượu Chile hảo hạng. Khi họ ngồi bên bàn ăn, chủ nhà ngẫu hứng giải thích cho các vị khách cách ông biến những vạt đất mênh mông thành đất trồng trọt (khu đất của ông trải dài đến tận sông Vilcanota, bằng với khoảng cách từ đây đến Machu Picchu). Ông cho phép những người da đỏ định cư ở trong các khu rừng nguyên sinh. Họ đốn cây và cải tạo đất ở đó để có thể canh tác được. Đến lúc đó, ông ta đuổi họ đi, bắt họ đến vùng đất mới và quá trình lại bắt đầu. Đến cuối chu kỳ này, người da đỏ chỉ còn lại những vùng đất khô cằn và đất chưa làm gì đã bị xói mòn.
Alberto và Ernesto kinh hoàng trước những lời bộc bạch này và bày tỏ thái độ trong khi ông Montejo tội nghiệp thì tự hỏi việc ông giới thiệu hai bên với nhau có phải là một việc làm khôn ngoan khi mà quan điểm của họ quá đối lập. Sáng hôm sau, họ rời khỏi đó rất sớm với những con ngựa do chủ nhà cung cấp. Tuy ông ta có đến chào tạm biệt họ nhưng lúc này thái độ của ông lạnh lùng và cộc cằn thấy rõ.
Họ đến Huancarama và bắt gặp một lễ hội hóa trang đang diễn ra. Nhiều người da đỏ, cả đàn ông lẫn đàn bà đang nhảy carnavalito và chơi quena, một loại sáo ở vùng Andes. Phần lớn mọi người đều say và có những cử chỉ khiếm nhã khi họ đi qua. Ernesto đang lên cơn hen nhưng bởi vì có lễ hội nên nhà chức trách lẫn cảnh sát địa phương đều không làm việc. Alberto để cậu ngồi bơ vơ ở một góc và đi tìm nước để tiệt trùng kim tiêm và xi lanh. Trời bỗng đổ mưa và giải quyết vấn đề cho Alberto. Anh đun sôi nước mưa và lập tức tiêm cho bạn mình. Ernesto nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
Hai tuần tiếp theo trôi qua với nhiều cơn hen hơn, nhiều đợt ngủ tại bệnh viện và đồn cảnh sát hơn, nhiều lễ hội hóa trang và diễu hành tôn giáo hơn, những con đường ngoằn ngoèo, cảnh trí lộng lẫy, những người da đỏ say xỉn, những đứa trẻ đang chết đói và những người phụ nữ bệnh tất cầu xin họ giúp đỡ khi họ biết có hai bác sỹ đang ở trong vùng. Và cuối cùng họ cũng tới Lima, thủ đô của Peru và thành phố của các tổng trấn. Quan trọng hơn cả, đây là nơi bác sỹ Hugo Pesce sinh sống.
Bác sỹ Pesce là chuyên gia bệnh phong nổi tiếng và họ có đem theo một lá thư giới thiệu đến ông. Ông đã từng học tại Ý và trở về quê nhà để hành nghề, để rồi bị cách chức ở khoa Y học Nhiệt đới của Đại học Lima bởi ông là đảng viên Đảng Cộng sản Peru. Ông bị nhà độc tài Odría điều đi làm ở một vùng xa xôi thuộc dãy Andes nhưng ông đã tận dụng thời gian ở đó để viết một cuốn sách có tên là Những vùng đất câm lặng nói về tình cảnh của những người da đỏ và kinh nghiệm của ông khi sống với họ. Ông đã theo
https://thuviensach.vn
gót José Carlos Mariátegui, một nhà tư tưởng Marxist người Peru và người sáng lập ra đảng Người Bản địa, là một trong những người đầu tiên kết hợp chủ nghĩa dân tộc và tư tưởng bản địa với chủ nghĩa Marx quốc tế. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Mariátegui là Bảy bài luận về Hiện thực Peru, bàn về việc những người bị bóc lột và bị truất hữu ở Mỹ Latinh cần đi theo con đường xã hội chủ nghĩa để giải phóng bản thân khỏi ách áp bức của những ông chủ da trắng hoặc ngoại quốc. Những năm sau này, Ernesto Guevara cũng bị ảnh hưởng bởi các tác phẩm của Mariátegui nhưng lúc này cậu chưa xác định sẽ đi theo một đảng phái nào.
Bác sỹ Pesce sắp xếp cho Alberto và Ernesto nghỉ lại tại bệnh viện de Guía (dĩ nhiên là miễn phí). Một phần bệnh viện đó là một trại phong. Zoraida Boluarte, trợ tá của ông che chở cho họ và quan tâm tới những nhu cầu cấp thiết của họ như quần áo sạch sẽ và thức ăn. Bà dần quý mến họ và tình bạn của họ vẫn được duy trì qua thư từ liên lạc trong nhiều năm. Bác sỹ Pesce mời Alberto và Ernesto đến dùng bữa tối ở nhà ông gần như hàng ngày và họ thảo luận đủ các chủ đề, không chỉ có bệnh phong và các bệnh nhiệt đới. Ông là chuyên gia về bệnh sốt rét và đã viết một số bài nghiên cứu liên quan về chủ đề này. Ông đã phát hiện ra hai loại muỗi mới mang theo mầm bệnh sốt rét. Họ cũng bàn luận về sinh lý học, chính trị và triết học. Alberto ghi nhận ông đã giới thiệu cho họ các tác phẩm của César Vallejo, một nhà thơ nhân dân hàng đầu của Peru.
Lúc này, Ernesto và Alberto đã đọc cuốn Những cùng đất câm lặng của bác sỹ Pesce và thấy nó nhạt nhẽo và sáo rỗng nhưng họ không nói ra suy nghĩ của mình. Ernesto gọi bác sỹ Pesce là Đại sư bởi cậu thực sự ngưỡng mộ ông vì kiến thức sâu rộng và niềm tin chính trị nghiêm túc của ông mà vì nó ông đã bị tẩy chay cũng như sự tao nhã và tốt bụng của ông đối với họ.
Sau khi thu xếp cho chuyến đi sắp tới của họ (trao cho họ những lá thư giới thiệu cũng như vé đến trại phong ở San Pablo, một ít quần áo và tiền bạc), bác sỹ Pesce mời họ đến bữa tối chia tay trong đêm cuối cùng của họ ở Lima. Tối đó, ông hỏi Ernesto ý kiến của cậu về cuốn sách của ông. Alberto lo ngại về những gì Ernesto có thể nói ra nên nhanh chóng đi vào ca ngợi những mặt tốt của nó. Anh thực sự có quan tâm đến những đoạn miêu tả về tâm lý người da đỏ. Bác sỹ Pesce lại hỏi Ernesto một lần nữa. Alberto lại xen vào và nói anh thích đoạn miêu tả lũ lụt ở sông Urubamba. Vợ ông đến giải cứu họ bằng cách nói lên ý kiến của bà và chủ đề đó đã được cho qua.
Nhưng khi họ chia tay nhau, bác sỹ Pesce bắt tay Ernesto và năn nỉ muốn biết ý kiến của cậu về cuốn sách. Ernesto trả lời thẳng thừng rằng đó không phải là một cuốn sách hay và cậu không thể tin nổi một học giả Marxist có thể miêu tả tâm lý của người da đỏ với những lời lẽ tiêu cực như vậy. Cậu cho rằng nó thật bi quan và không xứng tầm của một nhà khoa học và một người cộng sản. Vị bác sỹ không bảo vệ tác phẩm của mình mà còn mặc nhận.
Alberto ngỡ rằng mình đã chết vì xấu hổ. Đối với anh, Ernesto đã làm hỏng bữa tiệc chia tay chỉ vì cậu không thể nhượng bộ nho nhỏ với điểm yếu duy nhất của ân nhân của họ, đó là thói khoe khoang văn tài. Khi họ đi bộ về phía nhà trọ, cách nhà bác sỹ khoảng bốn mươi dãy nhà, Alberto nổi xung lên. Anh kết tội Ernesto đã thiếu nhạy cảm. Làm sao Ernesto có thể cư xử tệ với một người đã cho họ quá nhiều thứ? Ernesto đau đớn chỉ nói rằng: “Anh không thấy là em chẳng muốn nói gì sao?”. Đó là biểu hiện của một thói quen mà cậu sẽ không bao giờ đánh mất: cậu luôn từ chối thoả hiệp, bất chấp hậu quả.
Họ cáo từ Zoraida Boluarte, người mà họ luôn gọi là thiên thần hộ mệnh của họ và tạm biệt các bệnh nhân ở trại phong. Những người bệnh đưa cho họ một phong bì trong có một ít tiền mà họ gom góp được và điều này làm họ xúc động. Họ đi tìm người đàn ông đã đồng ý cho họ đi nhờ trên một chiếc xe tải của ông tới Pucallpa, một thị trấn bên sông Ucayali, bên kia dãy núi trung tâm. Tại đó, ngày 25 tháng 5, Alberto và Ernesto lên tàu La Cenepa, một cái xuồng hai tầng kéo theo một thuyền chở heo, gỗ và hành khách hạng ba. Con xuồng xuôi sông Ucayali suốt một tuần thì đến Amazon. Họ đều vui mừng ở trên tàu cho dù họ không thể có được một đêm ngủ ngon vì hàng đàn muỗi kéo đến khi mặt trời lặn. Sau bảy ngày lênh đênh trên sông, họ tới Iquitos. Trong vòng nửa giờ, nhờ lá thư giới thiệu của Đại sư Pesce mà họ có
https://thuviensach.vn
được một căn phòng ở Trung tâm Phòng chống Bệnh Sốt vàng da cũng như những bữa ăn ở bệnh viện địa phương.
Họ đến trại phong San Pablo ngày 8 tháng 6 và được bác sỹ Bresciani chào đón cũng nhờ thư giới thiệu từ bác sỹ Pesce. Họ ở đến ngày 20 tháng 6 và đã hỗ trợ các bác sỹ thăm khám bệnh nhân và tham gia vào các xét nghiệm cũng như chơi bóng với những người bệnh. Bệnh viện gồm nhiều tòa nhà có cột chống đỡ thông với nhau bằng những tấm ván gỗ để mọi người đi từ nhà này sang nhà khác mà không phải đi trong bùn vì ở đó thường mưa dầm dề. Bệnh phong vốn là dịch bệnh dọc bờ sông Ucayali và Yaraví. Người ta đã quen nhìn thấy những người mắc bệnh xung quanh mình đến nỗi không thể nào cách ly con cái họ với những người bệnh. Nếu xét về mặt tích cực thì bệnh viện này thân thiện đến mức trở thành ngôi nhà thực sự cho người bệnh và họ có thể sống một cuộc sống bình thường hết mức có thể. Một số người trồng cà chua, ngọc giá và chuối. Những người khác mở cửa hàng bán đồ uống có ga. Một vài người làm ăn phát đạt và mua được xuồng máy. Bác sỹ, y tá và bệnh nhân đều trở thành bạn bè.
Ngày 14 tháng 6, Ernesto bước sang tuổi hai tư và một bữa tiệc sinh nhật buổi tối được tổ chức trong căng tin để chúc mừng cậu. Có khiêu vũ, thức ăn và đồ uống và đến nửa đêm thì vị giám đốc có một bài phát biểu chúc mừng cậu. Ernesto đáp lại bằng một vài lời xúc động và rồi họ lại nhảy suốt đêm. Cậu uống vài ly và bớt nhút nhát. Cậu cảm ơn mọi người vì lòng tốt và sự hào phóng và thay mặt cho Alberto và cả cậu nói rằng: “Mặc dù chúng tôi chưa đủ tầm để phát ngôn vì một mục đích cao cả nhưng chúng tôi tin rằng sự chia rẽ châu Mỹ thành những nước bất ổn và hão huyền chỉ là điều hư cấu, và chuyến đi này thêm khẳng định niềm tin đó. Chúng ta cùng thuộc chủng tộc mestizo với sự tương đồng dân tộc rõ rệt từ Mexico đến eo Magellan. Vì vậy, để giải phóng khỏi tư tưởng cục bộ thiển cận, tôi đề nghị uống mừng Peru và một châu Mỹ thống nhất.”
Cho dù có ý thức về điều đó hay không thì Ernesto cũng đã lựa chọn: cậu đã chối bỏ tầng lớp của mình và dòng máu châu Âu da trắng nhưng không chối bỏ quốc tịch của mình bởi theo quan điểm của Ernesto thì một người Argentina là một phần của châu Mỹ thống nhất mà cậu đang khám phá.
Một người y tá ở đó là con gái của thủ lĩnh một bộ lạc da đỏ đang săn bắn trong vùng và vị giám đốc đã sắp xếp cho họ tham gia chuyến săn khỉ ngày hôm sau. Họ được đưa theo thượng lưu một vài km đến một ngôi làng mà vị thủ lĩnh nọ đã đợi sẵn, xung quanh là nhiều phụ nữ và trẻ nhỏ. Họ chung sống trong một căn chòi làm từ lá cọ. Khi nhóm đi săn đến một khu đất trống trong rừng, họ được hướng dẫn bôi mỡ khỉ và annatto (một loại thuốc nhuộm chiết xuất từ hạt của cây Bixa orellana, một loại cây nhiệt đới nhỏ) lên mặt và tay mình để trung hòa mùi của người và chống muỗi. Một người thợ săn cầm trên tay một ống thổi và tay kia cầm một phi tiêu tẩm nhựa độc curare.
Chờ đợi một lúc lâu thì họ nghe thấy tiếng khỉ hú khi họ tới gần. Mấy con khỉ nhảy qua trên đầu và hét thất thanh. Một bầy khỉ đủ kích cỡ đi theo họ và những con nhỏ còn bám lấy họ. Một nhóm khác đi qua và một vài phút sau lại có một nhóm nữa. Khi nhóm tiếp theo đi qua thì con khỉ đi cuối ngã xuống vì bị trúng phi tiêu từ ống thổi. Người thợ săn giải thích rằng cần phải giết con khỉ đi cuối bởi nếu không thì cả đàn có thể thay đổi lộ trình và địa điểm săn sẽ trở nên vô dụng.
Những người thợ săn còn lại quay lại nhóm. Năm con khỉ săn được được đem về làng trên những cái cọc và mọi người đều được mời ăn. Ernesto và Alberto đi dạo một quãng ngắn trước bữa tối và khi quay trở về thì họ có thể ngửi thấy mùi thịt nướng. Họ được mời một loại rượu làm từ củ sắn lên men và thức ăn được bày trên những chiếc lá chuối. Những con khỉ con bị nướng trông như những đứa trẻ chưa thành hình hài nhưng Ernesto và Alberto nhìn nhau, thu hết lòng dũng cảm và ăn. Tuy nhiên, họ không bao giờ biết thịt khỉ có vị như nào vì món nướng đã được hun khói với ớt rất cay.
Khi thời gian tạm biệt trại phong đến gần, các bệnh nhân làm cho họ một cái bè để họ có thể xuôi sông Amazon đến điểm tiếp theo đang vẫy gọi là Leticia ở Colombia. Họ còn nhận được những lời chia tay, những bài hát và món quà là bơ, xúc xích, thịt đóng hộp, bột mì, trứng, đậu lăng, chuối, đu đủ, đậu hồi và gia cầm. Họ cũng được tặng một cái màn chống muỗi, dầu lửa và đèn lồng. Các bệnh nhân sẽ không bao
https://thuviensach.vn
giờ quên được hai chàng trai trẻ tuổi không ngại lây nhiễm mà hòa đồng với họ. Mọi người thường đeo găng tay khi tiếp xúc với bệnh nhân nhưng Ernesto và Alberto dứt khoát không làm thế.
Alberto trở lại trại phong năm 2003 với tư cách là cố vấn của Walter Salle strong quá trình quay bộ phim Nhật ký mô tô, một bộ phim về hành trình của họ. Một số bệnh nhân, có những người khoảng 14 đến 20 tuổi thời đó vẫn còn nhớ hai người bạn Argentina mà theo cách nói của họ thì đã trao cho họ lòng tự trọng và cư xử với họ với tình thương mến và bằng hữu.
Chiếc bè được các bệnh nhân đặt tên là Mambo-Tango và họ sơn cái tên đó lên sườn bè. Họ lênh đênh trên bè suốt ba ngày ba đêm và dòng nước đã đẩy họ đi qua Leticia và dừng ở Brazil. Sau khi trao đổi rất nhiều bằng tiếng Bồ Đào Nha, ngôn ngữ mà cả hai đều không biết, họ đã thuyết phục được một người dân địa phương lái cano đưa họ trở lại Leticia vì họ không thể nào chèo bè ngược dòng nước được.
Colombia do một nhà độc tài cai trị, tương tự như Peru và Chile. Hắn là Laureano Gómez, đã thắng cử năm 1950 vì là ứng cử viên duy nhất. Năm 1948, Jorge Eliécer Gaitán, lãnh đạo cánh tả của Đảng Tự do bị ám sát. Một cuộc khởi nghĩa nhân dân nổ ra sau đó có tên là El Bogatazo (đặt theo tên Bogotá, thủ đô Colombia) nhưng cuộc khởi nghĩa không được tổ chức tốt nên quyền lực đã không thuộc về tay nhân dân. Sau nhiều tuần bạo loạn trên đường phố thì phe cánh hữu cuối cùng cũng lên cầm quyền. Các nhóm du kích ra đời ở những vùng khác nhau trong cả nước và tiếp tục nổi dậy trong nhiều năm. Họ có nhiều khuynh hướng chính trị và có cả những người cánh hữu. Kể từ đó Colombia luôn là một quốc gia cực kỳ bạo lực.
Leticia là một thị trấn biên thùy và máu đã đổ nhiều ở đó do cả Peru và Colombia đều tuyên bố chủ quyền với nơi này. Khi họ đến nơi, Alberto và Ernesto đến gặp cảnh sát hải quan để giải thích về cách đến khác thường của họ và xin đóng dấu vào hộ chiếu. Họ được ở tại sở chỉ huy cảnh sát và ăn ở đồn cảnh sát. Khi họ đến bến cảng để đổi tiền Peru lấy peso Colombia, họ có bắt chuyện với một số thủy thủ. Họ nói cho hai anh biết rằng người sỹ quan thứ nhất của El Cisne, con xuồng máy đã đưa họ từ Iquitos đến San Pablo đã kể về hai nhà khoa học đang đi thăm tất cả các trại phong khắp thế giới”. Ernesto và Alberto đùa với nhau rằng danh tiếng của họ đã đi nhanh hơn cả họ.
Buổi tối, chủ tịch một câu lạc bộ bóng đá địa phương đến gặp họ. Có lẽ vì ấn tượng với danh tiếng quốc tế của các cầu thủ bóng đá Argentina mà ông muốn họ ở lại và huấn luyện câu lạc bộ Independient Sporting cho một trận đấu đặc biệt sắp diễn ra. Họ hứa sẽ ghé thăm sân bóng ngày hôm sau. Bởi vì họ đã kiếm được vé máy bay rẻ một nửa đến thủ đô hai tuần sau đó nên một chút bóng đá có lẽ sẽ giúp họ đỡ chán ở thị trấn tiền đồn này. Nơi đây dường như có nhiều người mặc quân phục hơn là dân thường. Họ tham gia đội bóng và chơi cùng các học viên trong trận đấu đặc biệt đó. Ernesto làm thủ môn còn Alberto chơi ở vị trí tiền đạo giữa. Mặc dù họ đã thua trận khi trận đấu phải giải quyết bằng những loạt đá luân lưu nhưng họ đã gây ấn tượng tốt và câu lạc bộ thưởng cho họ thù lao cao hơn mức thỏa thuận ban đầu.
Chiếc máy bay hóa ra là một thủy phi cơ và họ đến Bogotá ngày 2 tháng 7. Họ đã không biết đến một tin tức quốc tế nào suốt mấy ngày và lúc này họ biết được có hai diễn biến đáng mừng. Ở Guatemala, Tổng thống Jacobo Arbenz đã ban sắc lệnh cải cách nông nghiệp dẫn đến việc xung công nhiều hecta đất thuộc sở hữu của Công ty United Fruit, một công ty thương mại của Mỹ rất có thế lực ở Trung và Nam Mỹ. Lúc này, ở Bolivia, Đảng Phong trào Cách mạng Dân tộc đang cầm quyền và hệ thống bầu cử đã được cải tổ để trao quyền bỏ phiếu cho hàng triệu người, phần lớn là thổ dân.
Ernesto và Alberto ghét không khí ở Bogotá. Họ bị cảnh sát bắt sau khi Ernesto lấy ra một con dao gọt bút chì vẽ bản đồ khu vực trên vỉa hè để xác định phương hướng. Sau đó họ tranh cãi với một hạ sĩ đang trực và người này yêu cầu họ rời khỏi đất nước. Ernesto nói rằng cậu sẽ không rời khỏi đây mà không có con dao. Một cuộc tranh cãi nữa lại nổ ra và họ lại bị bắt. Lãnh sự quán Argentina phải can thiệp và họ được phóng thích, nhưng cảnh sát cảnh cáo rằng họ phải rời khỏi đất nước trong vòng 48 giờ. Vì họ đã không được phép thăm trại phong và bị đuổi ra khỏi nhà trọ một cách thô lỗ nên họ cũng không muốn ở lại. May mắn thay, họ đã có thêm mấy người bạn trong khuôn viên trường đại học ở đây, nơi họ đã từng
https://thuviensach.vn
đến ăn. Những người bạn này đã tổ chức một buổi quyên góp để trả tiền đưa họ ra khỏi thành phố.
Họ rời khỏi đó ngày 14 tháng 7, qua Cúcuta và vượt qua biên giới với Venezuela trên chiếc cầu bắc qua sông Táchira. Họ nhắc nhở bản thân rằng hôm nay cũng là ngày Cách mạng Pháp đối với họ bởi họ đã bỏ lại sau lưng những rào cản ở Colombia.
Venezuela có lịch sử riêng với những nhà độc tài và chính phủ quân sự, một số người trong đó giác ngộ cách mạng đến đáng ngạc nhiên. Khi Ernesto và Alberto từ Colombia tới Venezuela thì chính phủ quân sự do German Suarez Flamenich đứng đầu đang lãnh đạo đất nước. Venezuela là một đất nước giàu có nhờ trữ lượng dầu của nó và nhiều người đổ đến đây để tìm vận may. Tiền tệ của Vevezuela có giá trị cao và việc tiết kiệm tiền cũng dễ dàng (mặc dù điều này không đúng với Alberto và Ernesto vì họ chỉ có tiền peso Colombia có mệnh giá thấp hơn nhiều). Tuy vậy, đất nước Venezuela cũng đã gây ấn tượng tốt với họ.
Chuyến đi từ San Cristóbal đến Barquisimeto đầy biến động bởi họ đi trên một chiếc xe chật ních người. Cái xe này thường xuyên bị nổ lốp và họ mất rất nhiều thời gian vá và sửa lốp. Sau Barquisimeto, họ đến Valencia và ngạc nhiên khi gặp người da đen. Họ chưa bao giờ nhìn thấy những người đó trên hành trình của mình bởi dân cư các nước trong vùng Andes chủ yếu là gốc da đỏ và Tây Ban Nha. Họ thấy thành phố Caracas thật hiện đại, hấp dẫn và giao thông ở đó cũng tệ hại như bây giờ. Ernesto lại lên cơn hen lần nữa. Người cô của một người bạn xuất hiện như một thiên thần khi bà giúp họ tìm chỗ trọ tốt ở nhà trọ Thanh niên Công giáo Venezuela.
Họ đem theo thư giới thiệu của bác sỹ Pesce gửi bác sỹ Convit và đến gặp ông. Sau khi hỏi Alberto một vài câu hỏi liên quan đến kinh nghiệm y học của anh, ông đề nghị với anh một công việc tại đó với mức lương 500 bolívar và chỗ trọ ở bệnh viên. Alberto nói rằng anh sẽ nghĩ về điều đó dù anh đang tha thiết muốn nhận lời. Họ đi thăm trại phong ở La Guaira. Nơi này đã nhuốm màu rêu phong và cần được sơn lại, nhưng nó chỉ cách biển xanh Carribe xinh đẹp một vài bước chân. Sau khi gặp lại bác sỹ Convit là làm quen với bác sỹ Bluemenfeld, người đứng đầu phòng thí nghiệm, Alberto đã quyết định sẽ ở lại La Guaira.
Trong khi đó thì Ernesto quyết định về nhà. Cậu đang cố kiếm thị thực tạm lưu trú qua Mỹ bởi cậu chỉ có thể về nhà bằng cách đi nhờ máy bay chở hàng. Máy bay này bay giữa Caracas và Buenos Aires, nghỉ lại ở Miami và chở theo ngựa thuần chủng của một người bạn làm ăn của chú Ernesto là Marcelo Guevara-Lynch. Sau nhiều lần đôn đáo ngược xuôi, Ernesto cũng có được visa nhưng không may là chiếc máy bay lại gặp sự cố kỹ thuật và cậu phải ở lại Miami một tháng trong khi chờ nó được sửa xong.
Cậu chỉ có một đô la trong người khi đặt chân đến Mỹ ngày 26 tháng 7 và mấy ngày liền cậu chỉ uống cà phê sữa cầm hơi. Cuối cùng cậu đánh bạn với người chủ tiệm cà phê và được ông ta đãi thường xuyên. Cậu ở một nhà trọ cách thư viện công cộng mà cậu vẫn thường hay lui tới khoảng 15 cây số và cậu vẫn đi đi về về suốt. Theo lời người cha thì Ernesto được ở trọ miễn phí bởi cậu đã hứa sẽ trả tiền trọ khi về nhà và cậu đã giữ lời hứa. Jimmie Roca, em họ của Chichina đang học kiến trúc ở gần đó và họ thường gặp gỡ nhau. Jimmie được cha mẹ tài trợ nên hoàn cảnh của cậu ta không khó khăn như Ernesto nhưng không phải lúc nào cũng dư tiền lúc cuối tháng.
Cuối cùng Ernesto cũng lên được chiếc máy bay chở hàng chất đầy những thùng hoa quả về nhà. Bạn đồng hành của cậu là tay nài ngựa đã hộ tống lũ ngựa đua về phía bắc. Khi nói về trải nghiệm ở Mỹ của mình, Ernesto trích lời José Martí, anh hùng giải phóng Cuba từ tay Tây Ban Nha rằng: “Tôi đã nhìn thấy bụng của con quái vật.” Một số người rất tốt với cậu, cậu không chết đói và đã được thỏa mãn niềm đam mê đọc sách của mình tại thư viện công cộng, nhưng cậu kinh ngạc trước sự phân biệt chủng tộc mà mình đã chứng kiến. Bởi vì Ernesto có ngoại hình Latinh nên người ta tưởng cậu là người Puerto Rico. Vùng này mới trở thành Lãnh thổ Thịnh vượng chung theo kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý. Nhiều người không hài lòng với kết quả này và người Puerto Rico thường bị cảnh sát theo dõi sát sao. Khi cảnh sát yêu cầu Ernesto chứng minh danh tính, khó lắm họ mới chịu tin cậu là một hành khách quá cảnh trên một máy
https://thuviensach.vn
bay chở hàng đang được sửa chữa.
Ernesto thấy người Mỹ không thân thiện và tỏ ra hiếu chiến, nhất là khi bàn đến Chiến tranh Triều Tiên đang diễn ra lúc đó. Chiến dịch khủng bố cộng sản của thượng nghị sỹ Joseph McCarthy đang lên đến đỉnh điểm và các trí thức và nghệ sỹ đang chạy khỏi đất nước hoặc bị cầm tù. Cuộc sống xa hoa của khách du lịch khắp hòn đảo này – những bãi biển, bể bơi lớn, sòng bạc và quán bar và đèn neon ghi tên những ngôi sao hộp đêm trái ngược hẳn với cuộc sống ở phần còn lại của châu Mỹ.
Chuyến đi của Ernesto kéo dài bảy tháng và trên đường đi cậu đã được thỏa mãn niềm đam mê khảo cổ học, thăm nhiều địa điểm, bảo tàng và đọc về những chủ đề đó trong các thư viện công cộng. Cậu đã rèn giũa kiến thức y khoa của mình ở các trại phong mà cậu và Alberto ghé thăm và Ernesto đã chứng kiến tình cảnh bấp bênh của những người nghèo khắp châu lục. Giờ đây cậu trở lại Buenos Aires để hoàn thành tấm bằng y khoa như đã hứa với mẹ. Cậu vẫn còn mười hai môn học nữa. Tháng 11 năm 1952, Ernesto đã thi qua ba môn. Tháng 12, cậu qua thêm mấy môn nữa. Tới cuối năm, cậu chỉ còn duy nhất một môn còn nợ và chẳng mấy chốc cậu cũng qua được.
https://thuviensach.vn
VIII
(1953)
Ernesto tốt nghiệp để thực hiện lời hứa với mẹ nhưng cậu không có ý định mở một phòng khám hay thậm chí là ổn định cuộc sống. Cậu vẫn chưa biết mình muốn làm gì nhưng cậu đã trải nghiệm América morena (châu Mỹ da màu) đủ để thấy rằng mình là một người Mỹ Latinh hơn là một người Argentina đơn thuần và cậu nhất định không muốn sống trong những ràng buộc của giai cấp xã hội mà cậu sinh ra. Một lần nữa, cậu quyết định tiếp tục lên đường.
Theo lời Calica Ferrer, việc Ernesto mời anh làm bạn đồng hành trên chuyến đi thứ hai vòng quanh Mỹ Latinh giống như một thử thách hơn là một lời đề nghị. Nhưng đó là cách Ernesto vẫn làm. Cậu đã nói với Calica rằng cậu sẽ thi nốt mười hai môn còn lại bởi đó là lý do cậu trở về nhà,và rồi cậu sẽ lại ra đi. Ý tưởng thật điên rồ, nhưng Calica cảm thấy vinh dự khi được mời. Trong số nhiều người bạn thơ ấu thì Ernesto đã chọn anh làm bạn đồng hành cho cuộc phiêu lưu mới này. Khi Ernesto đi cùng với Granado, những lá thư gửi về nhà của cậu được tất cả mọi người đọc và cả những chuyện lặt vặt lẫn chuyến đi đều trở thành huyền thoại. Thật ra, việc một thanh niên thượng lưu, có học vấn mà lại đi du dịch không có kế hoạch cụ thể hay mang nhiều tiền bạc, làm việc trong các trại phong, ngủ khổ sở rồi ăn bữa nay lo bữa mai cũng khá là bất thường.
Ernesto lên kế hoạch quay trở lại Caracas, nơi Alberto Granado đã ổn định cuộc sống và kiếm được khá tiền từ việc làm khoa học và nghiên cứu. Cậu mơ màng về Venezuela với đồng tiền mạnh và những phụ nữ hấp dẫn, rằng hai chàng trai có học vấn sẽ dễ dàng kiếm được công việc thích hợp ở đó một thời gian trước khi đi tiếp đến Paris cùng Granado. Thuở đó, phần lớn những trí thức Mỹ Latinh đều mơ đến Paris như một trung tâm văn hóa, tri thức, nghệ thuật, thời lưu và sự sang trọng. Ernesto nói trôi chảy tiếng Pháp nhờ được mẹ dạy. Vì thế cậu biết nhiều về tác phẩm của các nhà văn và nhà thơ Pháp. Cha cậu có trí tuệ rất rộng mở và thư viện của ông đầy những nhà cách tân như Freud và Marx cũng như các tiểu thuyết gia: Faulkner, Stevenson, Conrad, Jack London và các nhà văn Mỹ Latinh như Pablo Neruda và José Martí. Ernesto được tiếp cận với một lượng sách rất đồ sộ với nhiều chủ đề phóng khoáng. Những người Argentina thượng lưu thường đọc văn học hư cấu nhưng không có mấy cơ hội được đọc Marx và Freud và những nhà cách mạng tư tưởng Âu châu.
Ngày 11 tháng 4 năm 1953, Ernesto nhận bằng đại học. Cậu gọi cho mẹ từ một bốt điện thoại công cộng và nói rằng: “Đây là bác sỹ Guevara de la Serna”. Cậu nhấn mạnh vào từ “bác sỹ” và bà sướng run lên. Sau đó, Ernesto đến gặp Calica, ném tấm bằng vào mặt anh và nói: “Nhìn đây, ngốc ạ. Cậu nghĩ là tớ sẽ không tốt nghiệp à? Hãy chuẩn bị đi Calica. Chúng ta sẽ khởi hành sớm thôi.”
Calica kể lại rằng mùng 7 tháng 7, ngày họ khởi hành đã trở thành một sự kiện lớn. Tất cả họ hàng cũng như bạn bè, bạn gái cũ và những người tình hiện tại đều có mặt. Vì họ không có vị hôn thê chính thức và có không chỉ một bạn gái lúc đó nên họ có nguy cơ gây ra cảnh náo loạn ở sân ga, nhưng họ cũng không thể ngăn mọi người đến tạm biệt được. Và bởi họ sẽ rời khỏi đây nên những gì họ để lại không còn quá quan trọng nữa.
Calica và Ernesto chủ ý chọn đi tàu hạng hai vì họ không có nhiều tiền và giá vé hạng hai chỉ bằng một nửa hạng nhất. Họ cần chi tiêu dè sẻn hết mức có thể nếu muốn đến Venezuela ở địa đầu Nam Mỹ. Sau này, Ernesto viết trong nhật ký rằng những quý bà mặc áo lông đắt tiền đi guốc cao và những quý ông trong những bộ vét đặt làm thật tương phản với những hành khách thổ dân quê mùa trong khoang tàu họ ngồi. Họ đã đi từ tận phía bắc xuống thủ đô tìm việc chân tay và lúc này đang trở về nhà, trên người chỉ có áo poncho và sau lưng địu những đứa trẻ. Họ đem theo gia cầm và thỉnh thoảng là một chú vẹt nhỏ
https://thuviensach.vn
lông xanh, maté, bí và ấm đun nước. Một số người mang cả chó mèo theo.
Calica là người ăn diện nên va li của anh đầy những trang phục thanh lịch. Trong khi đó, Ernesto lại mang cả đống sách. Khi Calica phàn nàn thì Ernesto chỉ đáp rằng đó là những quyển sách cậu đang đọc. Calica nghĩ rằng quần áo đẹp sẽ giúp họ kiếm được việc, chỗ trọ và bạn gái. Anh đi một đôi bốt da cao đến đầu gối mà bà anh đã tặng cho anh do López-Taibo, thợ giày nổi tiếng nhất thành phố làm. Calica đi đôi bốt đó trong suốt chuyến đi. Ernesto mặc bộ quần áo hải quân cũ kỹ và đôi bốt ngắn có dây buộc mà cậu tự kiếm cho mình. Em trai cậu là Roberto đang thực hiện nghĩa vụ quân sự trong hải quân và đó là bộ đồng phục của Roberto. Ernesto thường xuyên để tóc rất ngắn nên lúc này trông cậu giống như một người đi lính. Những trang phục mà Ernesto mặc đều ấm áp, bền và thích hợp dùng cho qua ngày đoạn tháng, như cậu đã dự định trong chuyến đi.
Theo phong tục thời đó, Hội đồng Tiễn biệt (đó là cách Calica gọi bạn bè và gia đình họ) có mặt với đủ các thức ăn ngon làm quà: những khay bánh ngọt kiểu Âu và bánh ngọt Argentina có tên là factura, đồ uống có ga và sô-cô-la. Hai bà mẹ Celia và Dolly cuống hết cả lên nhưng họ đã khéo che giấu cảm xúc. Tuy vậy, Celia không thể ngăn mình gọi Calica sang một bên và nhờ anh săn sóc Ernesto và bà cũng từng làm vậy khi cậu đi cùng Granado. Trong khi đó, Dolly lại kéo Ernesto sang một bên và nhắc cậu rằng cậu đã từng đi du lịch và có nhiều kinh nghiệm hơn Calica nên cậu cứ liệu tình hình mà cư xử cho hợp lý. Bà đặc biệt khuyên hai người không nên say rượu hay tham gia vào những trận ẩu đả có thể khiến một trong hai người bị thương, hay tệ hơn có thể bị giết. Không bà mẹ nào căn dặn điều gì về chuyện ăn uống bởi họ đều biết Calica và Ernesto có thể ăn cả đá nếu cần. Đó là cách họ đã được nuôi dạy. Ở nhà, họ ăn bất cứ thứ gì được cho và không ai được phép khó tính hay kén chọn.
Con tàu đã bắt đầu khởi hành. Theo lời Guevara Cha thì Ernesto đi dọc theo con tàu đang từ từ rời sân ga bởi nó rất dài và có đầu máy ở cả hai đầu. Khi lên tàu rồi, cậu ngoái lại nhìn Hội đồng Tiễn biệt và hét lên: “Chiến sĩ châu Mỹ lên đường đây”. Có vẻ như Guevara Cha coi những lời này là rất quan trọng nên ông đã gọi cuốn hồi ký về con trai mình là “Aquí va un soldado de América”. Calica tuyên bố rằng hoặc là anh không nghe thấy những lời đó hoặc là anh không để ý vì Ernesto đang mặc quân phục và có lẽ đó là một lời nói đùa. Anh đã bảo Ernesto rằng đi du lịch mà ăn vận như một người đi lính thì không phải là ý kiến hay vì một sĩ quan nào đó có thể thình lình xuất hiện, hỏi tên và cấp bậc của cậu và cậu sẽ phải lên tàu thủy.
Carlos Figueroa, một người bạn nối khố khác của Ernesto đã đưa tay cho Celia, lúc này quyết định đi dọc theo sân ga cho đến khi con tàu ra khỏi nhà ga. Đến lúc đó, khi đã cách xa mọi người bà mới khóc, nhưng rồi bà cũng kìm lòng được khi họ quay lại nơi mọi người đang đứng. Nhiều năm sau Carlos mới tiết lộ điều này với Calica.
Hành khách bắt đầu kiểm tra những túi nhỏ đựng đồ ăn của mình trong khi những cholo (tên gọi mà người da trắng dùng để chỉ người da đỏ) nghèo khổ tận hưởng một bữa ăn với món hầm, thịt gà, empanada (một loại bánh nhân thịt là thực phẩm chủ yếu ở Argentina) và các món ăn no nê khác. Những hành khách hạng hai thường đem theo thức ăn bởi họ không có tiền mua từ căng tin. Một lát sau, Ernesto và Calica được mời ăn cùng và họ cũng đóng góp phần đồ ăn của họ khiến những người bạn mới ngạc nhiên vì họ chưa nhìn thấy hay nếm kẹo sô-cô-la bao giờ.
Con tàu thuộc tuyến đường General Belgrano tới tận La Quiaca phía bắc Argentina, giáp với Bolivia. Ernesto đã có ý nghĩ đi Bolivia. Trong chuyến đi lần trước với Alberto Granado cậu đã không được đến đó và luôn ao ước được nhìn thấy Isla del Sol với những di tích ấn tượng của văn minh Inca. Hòn đảo này nằm giữa hồ Titicaca, không chỉ là hồ cao nhất thế giới mà còn là thắng cảnh tuyệt đẹp. Thêm nữa, Bolivia là nước đi ngược lại với xu hướng ở Mỹ Latinh. Đảng Phong trào Cách mạng Dân tộc đã giành thắng lợi trong cuộc bầu cử năm 1952, đánh bại chính phủ độc tài và đang tiến hành những thay đổi xã hội rất cần thiết và có ảnh hưởng sâu rộng. Chính phủ mới đã quốc hữu hóa hai mỏ thiếc, phát động cải cách nông nghiệp và giải tán quân đội.
https://thuviensach.vn
Những nước Mỹ Latinh còn lại đều nằm trong tay những người giành được ghế quyền lực nhờ Mỹ đỡ lưng chứ không phải nhờ hòm phiếu bầu. Tướng Manuel Odría cai trị đất nước Peru bằng quả đấm thép trong khi Đại tá Gustavo Rojas Pinilla ở Colombia, Marcos Pérez-Jiménez ở Venezuela và Alfredo Stroessner ở Paraguay cũng độc đoán và hữu khuynh không kém. Tình hình ở Trung Mỹ cũng chẳng khá khẩm hơn: Fulgencio Batista giành lấy quyền lực ở Cuba bằng một cuộc đảo chính, Anastasio “Tacho” Somoza cai trị Nicaragua như thể cả đất nước là lãnh địa riêng của y rồi Héctor Trujillo ở Cộng hòa Dominica và Papa Doc Duvalier ở Haiti đang gây dựng triều đại của riêng mình. Tất cả đều phụ thuộc vào tiền của Mỹ và tiền đó lại nhờ thái độ tự nguyện phục tùng trước chủ nghĩa đế quốc Mỹ mà có. Ở Argentina, Juan Domingo Perón hiện đã được bầu một cách dân chủ nhưng rồi ông cũng sẽ trở thành một nhà độc tài, chỉ khác những người đồng cấp khác ở thái độ chống đối Mỹ mà thôi.
Lộ trình của Ernesto và Calica đi qua Bolivia, Peru, Ecuador, Colombia và Venezuela. Không dễ xin được visa vào những nước đó, ngoại trừ Bolivia. Venezuela đặc biệt khó chịu khi xét visa vì đó là một đất nước có trữ lượng dầu mỏ và mọi người đều muốn đến đó thử vận may của mình. Lãnh sự quán Venezuela ở Buenos Aires yêu cầu họ xuất trình vé khứ hồi trước khi cấp visa. Ernesto và Calica hẹn với lãnh sự Venezuela để xin cấp visa nhưng việc không diễn ra thuận lợi. Vị lãnh sự là một người da trắng lai đen phát phì thiếu kiên nhẫn nói với họ rằng nếu họ không có vé khứ hồi thì đừng mong bàn đến chuyện visa. Calica nhắc lại những lời anh đã tập dượt cẩn thận tối hôm trước tại nhà Guevara rằng họ sẽ đến Venezuela để nghiên cứu cách chữa bệnh phong. Ernesto xen vào nói với vị lãnh sự rằng anh là một bác sỹ và người ta đang đợi cậu ở trại phong La Guaira, nơi Granado đang làm việc nhưng ông ta chẳng mảy may quan tâm. Tất cả những gì ông muốn là nhìn thấy vé khứ hồi của họ. Ernesto nài nỉ rằng cậu sẽ đóng góp kiến thức và kinh nghiệm của mình cho tiến bộ khoa học ở Venezuela nhưng ngài lãnh sự cũng không hề suy suyển.
Đến nước này thì họ dẹp phép lịch sự sang một bên và Ernesto và vị lãnh sự hét vào mặt nhau. Ông ta quyết định chấm dứt buổi gặp gỡ này bằng cách tuyên bố họ sẽ không thể đến Venezuela được. Ernesto khăng khăng rằng họ sẽ đến được. Vị lãnh sự gào lên rằng họ sẽ phải bước qua xác ông và Ernesto đáp lại rằng cậu sẽ bước qua cái bụng bự của ngài lãnh sự để vào được Venezuela. Calica và Ernesto bị đuổi cổ khỏi lãnh sự quán. Calica chán nản nhưng Ernesto an ủi anh rằng họ sẽ vừa đi vừa nghĩ cách đến Venezuela. Cậu luôn có thái độ như vậy với bất cứ trở ngại nào. Và tất nhiên là Ernesto đã đúng bởi sau đó, tới cuối hành trình, Calica sẽ sống vài năm ở Venezuela. Trong khi đó thì Ernesto không bao giờ muốn đặt chân đến đất nước đó một lần nữa, nhưng không phải vì lý do visa.
Ernesto và Calica đã dành ra được một khoản tiền khiêm tốn là 14.000 peso Argentina, tương đương với 700 USD xin được từ bạn bè và họ hàng. Calica giữ tiền trong chiếc thắt lưng vải do mẹ anh may và đeo nó dưới lớp quần áo. Họ gọi đó là chiếc thắt lưng thầy tu. Ernesto thì không quan tâm mấy đến tiền bạc (hay việc thiếu tiền). Trong chuyến đi lần trước với Granado, họ chẳng có đồng nào gần như từ lúc khởi hành nhưng điều đó cũng không ngăn cản họ đến được Venezuela. Trong suy nghĩ của Calica thì việc thiếu tiền được bù đắp xứng đáng bởi nhiều lá thư giới thiệu từ bạn bè và họ hàng đến bạn bè và họ hàng của họ ở những nơi khác nhau trên châu lục. Đôi lúc có tiền cũng chẳng bằng có một người quen để ghé thăm bởi người đó có thể bày tỏ lòng mến khách bằng một chỗ trọ hay một bữa ăn no nê, hoặc cả hai.
Con tàu hú tiến về phương bắc suốt đêm và đám đông hành khách trong khoang hạng hai đã chìm vào giấc ngủ. Ngay cả những đứa trẻ và lũ vẹt cũng thôi làm ồn. Điểm dừng đầu tiên là Córdoba lúc 7 giờ sáng hôm sau. Khi tàu tiến vào ga, Calica và Ernesto trông thấy hai người bạn thân của họ là Mario Salduna và Raúl Tisera đứng giữa một biển tuyết tay cầm món quà là một con gà quay và hai lít rượu đế.
Sáng hôm sau, khi tàu đến điểm cuối là biên giới tại La Quiaca ở độ cao 3442m so với mực nước biển, họ vô cùng kinh ngạc trước vẻ đẹp lạ lùng của một sa mạc khô cằn bao la, không giống bất cứ những gì họ từng thấy. Bolivia và Argentina được ngăn cách bởi một con sông chảy nhỏ giọt. Có một cây cầu dành cho tàu hỏa bắc qua sông, và ở giữa cầu là cờ của hai nước đặt cạnh nhau để đánh dấu biên giới. Đúng lúc
https://thuviensach.vn
hành trình của con tàu chuẩn bị kết thúc và họ sắp sửa xuống tàu và đi bộ qua cầu thì Ernesto lên cơn hen khủng khiếp. Calica đã chứng kiến những con hen như thế nhiều năm qua nhưng anh chưa bao giờ đối mặt với với cơn bệnh nào nặng thế. Anh cuống cuồng thu gom tất cả đồ lề trước khi rời tàu. Hàng tá người da đỏ xuất hiện đề nghị xách hành lý đổi lấy một vài xu. Calica đưa hết hành lý và gói hàng cho họ mang rồi đặt Ernesto lên vai và kéo cậu đến nhà trọ gần nhất.
Họ đến một nhà trọ tồi tàn, theo sau là một đội phu da đỏ khuân vác hành lý.Vài giờ sau, cơn hen đã dịu đi và Ernesto lại thở được bình thường. Calica vừa cáu tiết vừa cảm thấy nhẹ nhõm. Anh giận dữ quở trách Ernesto vì đã không cảnh báo anh rằng một tình huống nguy hiểm như vậy có thể xảy đến. Ernesto thừa nhận đơn giản rằng Calica đã đúng và rằng lần sau Calica có thể tiêm cho cậu một liều adrenalin, rồi nhắc thêm rằng cần phải tiêm vào bắp bởi nếu tiêm vào mạch máu thì cậu sẽ toi mạng.
Ernesto cần nguyên một ngày mới hồi phục hoàn toàn và không thể ăn gì ngoài cơm và chỉ uống được một ít maté. Cậu kết luận rằng nguyên nhân của cơn hen đó là do họ đã ăn quá nhiều món ngon trong mấy ngày vừa qua. Họ ăn hết bữa tiệc chia tay này đến bữa tiệc khác và còn ăn ngốn ngấu ở trên tàu nữa.
Sự buồn tẻ của nơi này cùng với phong cảnh khô cằn chừng như không bao giờ thay đổi khiến họ nhớ nhà khôn nguôi. Nhưng khi họ gặp Tiki Bildoza thì cảm giác đó liền tiêu tan. Tiki là một trong những người bạn nghèo của Ernesto ở Alta Gracia, sau này gia nhập lực lượng cảnh sát và hiện đang canh gác biên cương. Họ trò chuyện, cười nói và sớm lấy lại tinh thần. Để yên tâm về cơn hen suyễn kia và sẵn sàng bắt đầu hành trình đi Bolivia (và cũng vì tỉ giá hối đoái đang có lợi cho họ), Calica đã thuyết phục Ernesto đi La Paz bằng vé hạng nhất.
Độ cao này có vẻ thích hợp với sức khỏe của Ernesto. Cậu bỏ cơm và maté để quay lại với thực đơn bình thường, tận dụng khoang ăn hạng nhất cũng như đồ ăn thức uống và hoa thơm quả lạ do người địa phương chào bán mỗi khi tàu dừng lại tại một nhà ga. Phong cảnh ở đây tương tự như miền bắc Argentina. Cao nguyên trơ trọi và màu sắc chủ đạo là màu xám. Ernesto viết trong nhật ký rằng “Màu xanh đã bị cấm”. Sự đơn điệu của phong cảnh chỉ bị phá vỡ bởi trang phục sặc sỡ của những thổ dân. Phụ nữ mặc váy màu sáng còn đàn ông mặc áo poncho đủ các màu sắc. Cả đàn ông và phụ nữ đều đội mũ quả dưa nhỏ trên đỉnh đầu, một phong tục từ những năm 1920 khi công nhân đường sắt người Anh đến Bolivia đội kiểu mũ này. Dù thời tiết rất buốt giá nhưng người da đỏ vẫn đi chân đất hoặc xăng đan làm từ lốp xe cũ. Không thể bắt chuyện với họ vì hoặc là họ rất khép kín và sợ sệt hoặc là họ không nói tiếng Tây Ban Nha. Họ nói tiếng Aymara hoặc tiếng Quechua và không ai nhắc đến cuộc cách mạng xã hội sôi động đang là đề tài bàn tán ở Buenos Aires.
Tuy nhiên, Calica và Ernesto có làm quen với một người trên tàu tên là José María Nougués, một anh chàng Argentina trạc tuổi họ đang đến La Paz thăm cha đang sống lưu vong ở đó. Họ phát hiện ra rằng họ có bạn bè chung ở Argentina, đó là những người bạn cùng chơi bóng bầu dục với Ernesto và những bác sỹ quen biết cha Calica. Con tàu đi xuyên đêm. Trời lạnh đến nỗi nước đóng băng trong bồn rửa toilet. Vậy mà những người da đỏ họ gặp trên đường hầu như chỉ đi chân đất mà mặt cứ như không. Tất cả những người thổ dân ấy đều nhai coca có tác dụng gây tê và có thể chống lại cơn đói, khát, lạnh và sự mệt mỏi. Đến chiều thì ba người bọn họ tới nơi.
La Paz là thủ đô cao nhất thế giới, ở độ cao hơn 4000m so với mực nước biển và được xây dựng trên miệng một núi lửa đã tắt. Calica và Ernesto tạm biệt người bạn mới và đi tìm phòng trọ giá cả phải chăng. Họ tìm thấy một nhà khách bẩn thỉu nhưng rất rẻ. Sau đó, họ đi kiếm bữa ăn và dừng lại ở một căng tin phục vụ món hầm trên một chiếc bàn dài mà khách có thể ngồi ở đó. Họ đói ngấu và đây không phải là lúc nghĩ đến bít tết Argentina và khoai tây chiên, những món thường thấy trong các nhà hàng ở Buenos Aires. Xa xa, ai đó đang chơi guitar. Khi cả hai nghe thấy những giai điệu tango quen thuộc, họ không dám nhìn mặt nhau vì sợ không kiềm chế được cảm xúc.
Sáng hôm sau, sau khi đã tắm rửa, cạo râu và mặc quần áo sạch, họ thử vận may của mình với những lá thư giới thiệu. Địa chỉ đầu tiên là một gia đình Bolivia có họ hàng ở Argentina. Thư giới thiệu do người
https://thuviensach.vn
bạn Carlos Figueroa viết. Gia đình Penaramba có vị thế xã hội và tài chính ở La Paz, rất thân thiện và nhiệt tình giúp đỡ. Họ không chỉ mời hai người ăn mà còn đưa họ đi tham quan thành phố và giới thiệu họ với bạn bè của gia đình.
Cả Calica và Ernesto đều ngưỡng mộ thành phố này vì lối kiến trúc thuộc địa, những con phố nhỏ và dốc, chợ Camacho sống động với trái cây ngoại và những quán rượu nhỏ bé vui vẻ ở khu Calle 16 de Julio. Đâu đâu cũng có nhà thờ và giá trị nghệ thuật của những nhà thờ đó có vẻ không ăn nhập chút nào với những người thổ dân da đỏ Aymara ăn mặc tuềnh toàng và khó hiểu dường như hoàn toàn thờ ơ với cuộc sống. Khi phụ nữ cần đi tiểu, họ cứ việc ngồi xổm xuống là xong. Họ không mặc quần lót mà mặc nhiều lớp váy và váy lót dài đủ màu sắc. Vấn đề vệ sinh không phải là ưu tiên ở đó. Chính quyền đã tìm cách thay đổi thói quen này bằng cách sơn những dòng thông báo lớn lên tường thành rằng bất cứ ai bị bắt gặp đi tiểu bậy sẽ bị phạt. Những dòng chữ trên thông báo bị mờ đi do đàn ông đi tiểu lên đó.
La Paz khác hẳn Buenos Aires, nhưng chính cách mạng đã khiến thành phố này trở nên sôi động. Đi đâu cũng thấy đàn ông có vũ trang thuộc Phong trào Cách mạng Dân tộc, những người đã đưa Víctor Paz Estenssoro lên nắm quyền. Chính phủ đã quốc hữu hóa những mỏ thiếc từng là tài sản của gia đình Aramayo, Patiño và Hochschild. Bởi vì những mỏ thiếc này là nguồn ngoại tệ chính ở Bolivia nên trên thực tế các gia đình này quản lý nền kinh tế quốc gia, nắm quyền lực tuyệt đối chi phối người da đỏ đang phải sống trong những điều kiện thiếu thốn cùng cực. Chính phủ cũng đã giải tán quân đội và đang chuẩn bị thực thi một cuộc cải cách nông nghiệp nghiêm túc. Đất nước này bị phân cực rõ ràng, với một bên là những người trung thành ủng hộ chính phủ và bên kia là những người cực lực phản đối chính phủ. Cuộc chiến không nhân nhượng và nhiều người đã bỏ mạng.
Campesino (nông dân nghèo) lúc này đang tấn công các latifundio (điền trang lớn) thuộc sở hữu tư nhân. Họ hành xử theo luật rừng thay vì chờ đợi cải cách ruộng đất mà chính phủ đã hứa. Trong khi đó, những người thợ mỏ đã gia nhập Liên minh Công đoàn Bolivia và tổ chức nhiều đợt biểu tình để chính phủ mà họ đã ủng hộ không thể thất hứa. Ernesto kể lại trong nhật ký rằng một cuộc biểu tình diễn ra trong ánh đuốc ngày 15 tháng 7 kéo dài thật lâu và tẻ nhạt, nhưng mà xem họ thể hiện sự ủng hộ của mình bằng cách bắn piripipi (tên thường gọi súng tiểu liên) cũng hay. Người ta đã nói đến phản cách mạng khi những cựu binh của lực lượng quân đội đã bị giải tán cũng không hài lòng và vì vậy mà có sự chia rẽ nội bộ trong Phong trào Cách mạng Dân tộc, với hai phe theo cánh hữu và một phe theo cánh tả.
Nhưng còn cần thay đổi rất nhiều nữa. Calica thuật lại trong nhật ký rằng khi đã ở La Paz được vài ngày thì họ chứng kiến một cảnh tượng gai người. Khi ấy, họ đang uống cà phê ở trà quán La Paz ở trung tâm thành phố. Ở một cái bàn gần chỗ họ ngồi có một người phụ nữ đang dùng trà và sandwich với con của bà. Người phụ nữ da đỏ làm vú em ngồi trên sàn dưới gầm bàn. Bọn trẻ ném vỏ bánh và những mẩu thừa của miếng sandwich cho người phụ nữ bắt lấy và đớp như một con chó.
Calica và Ernesto đang bình luận cảnh tượng đó thì người đàn ông họ đã gặp trên tàu hỏa xuất hiện. José María đang đi cùng với cha anh là Don Isaías Nougués. Ông là người Argentina lưu vong nổi tiếng nhất ở La Paz và hóa ra là ông cũng biết cha mẹ hai chàng trai. Nhà ông là nơi gặp gỡ của dân thường lẫn những người lưu vong quân đội khỏi Argentina dưới chế độ Perón cũng như tầng lớp trí thức địa phương. Tại những bữa tiệc ngoài trời và ăn tối mà ông thường tổ chức, Ernesto và Calica được gặp những người xuất chúng nhất ở La Paz.
https://thuviensach.vn
IX
(1953)
Ernesto và Calica ở lại Bolivia một tháng rưỡi thay vì một tuần như dự định ban đầu. Don Isaías Nougués là lý do chính khiến họ lưu lại ở La Paz lâu đến vậy. Ông là một người rất hay, có khí chất và quyền uy như một lãnh chúa thời Trung cổ, hay như Ernesto miêu tả là “quý ông xứ Tucumán”.
Don Isaiás tìm cho họ một phòng trọ đơn sơ nhưng sạch sẽ với giá chỉ bằng cái nhà khách bẩn thỉu tồi tàn mà họ đang ở. Mỗi sáng, họ ăn điểm tâm nhẹ nhàng trước khi đến khách sạn Sucre Palace, nơi sang trọng nhất ở La Paz. Gần như ngày nào Nougués cũng đến đó ăn trưa. Vị tiền bối này cùng các vị khách của ông không bao giờ ăn hết thức ăn trên bàn. Ông mời Ernesto và Calica dùng những thức ăn còn thừa nếu họ không ngại, vậy là hai anh được mời ăn những thứ họ không dùng hết do một người bồi bàn thân thiện để phần. Họ ngồi trên sân thượng ngắm công nhân tuần hành phô diễn sức mạnh trên các con phố trung tâm La Paz. Giới đầu sỏ chưa bao giờ chứng kiến cảnh tượng đó nhưng Ernesto nhận thấy rằng nhiều người biểu tình có vẻ mệt mỏi. Cậu không cảm nhận được sức mạnh toát ra từ phong thái của họ.
Mối thân giao giữa họ và Nougues còn đem lại một lợi ích khác là những chuyến ghé thăm El Gallo de Oro thường xuyên. Đó là hộp đêm tai tiếng nhất ở La Paz do một người Argentina lưu vong làm chủ. Theo lời Calica thì người ta thường gọi đùa hộp đêm này là trụ sở thứ hai của chính phủ. Các chính trị gia, điền chủ, chủ mỏ và lãnh đạo cách mạng gặp nhau ở đó mỗi đêm trong không khí chè chén bởi có thừa đồ uống cho mọi người. Họ thường bàn chuyện chính trị với sự tham gia của những người lưu vong Argentina và người đẹp ở đó.
El Gallo de Oro nằm ở ngoại ô La Papaz và tương đối khó kiếm trừ khi được một người khách quen ở đó đi cùng. Ernesto và Calica được Don Isaías và anh trai anh là Gogo chở đến đó. Đường đến hộp đêm có một chuỗi trạm kiểm soát được canh gác bởi những người lính luôn chĩa súng vào xe đi đường và yêu cầu dừng lại. Một đêm muộn, khi họ rời hộp đêm để quay lại thành phố, họ bị buộc phải dừng lại một trạm gác như thế. Gogo Nougués đã uống quá nhiều nên đã bảo người lính “dùng súng đấy mà đi bắn gà gô”. Nhưng lạ thay anh ta vẫn cho họ qua. Ernesto và Calica thở phào nhẹ nhõm bởi họ đã nghe được những câu chuyện về việc người ta bị bắn chết sau khi có những cuộc đụng độ tương tự.
Trong những tối đi chơi hộp đêm này, cả Ernesto và Calica thường phải kiềm chế khi những người ngồi cùng bàn với họ (có đặc quyền tuyệt đối ở Bolivia hoặc Argentina) bày tỏ quan điểm về tình hình chính trị lúc đó và sự xê dịch trật tự xã hội do chính phủ cách mạng mới gây nên. Nhưng Ernesto tuyên bố rằng: “Không ai phủ nhận vai trò của nhà nước trong việc chấm dứt những thứ tượng trưng cho quyền lực của ba ông chủ ở mỏ thiếc, và tầng lớp thanh niên tin tưởng rằng đây là một bước tiến trong cuộc đấu tranh giành công bằng hơn giữa người và tài sản”.
Đôi khi Calica tỏ ra từng trải hơn Ernesto. Một tối ở El Gallo de Oro, Ernesto quay trở ra từ nhà vệ sinh nam và nói với Calica rằng hành động của một số người trong đó khiến cậu thấy bối rối. Lúc ở trong nhà vệ sinh họ đã lấy ra một cái hộp nhỏ và hít một thứ gì trong đó. Calica bảo anh “Đó là cocain, ngốc ạ. Đây là Bolivia mà.” Ernesto chưa bao giờ biết đến điều đó trong những chuyến đi của mình nhưng Calica đã được một người chú chỉ cho anh thú vui đêm ở Buenos Aires, một phần trong việc dạy anh thành người lớn, và đã đưa anh đến một số tụ điểm tango tệ nạn mà cocain là thứ phổ biến ở đó.
Ernesto và Calica đã sống độc thân kể từ ngày họ rời nhà và họ đang bắt đầu cảm thấy bứt rứt. Một hôm, khi họ quay lại thành phố, Calica quyết định chấm dứt đời sống cô đơn khi anh nhìn thấy hai cô gái dễ thương từ vị trí thuận lợi trên sân thượng khách sạn Sucre Palace. Anh tiến lên trước, xuống đường và
https://thuviensach.vn
tiếp cận họ. Thời đó, người ta không đi du lịch nhiều nên một anh chàng Argentina lịch lãm ở La Paz sẽ được coi là thú vị và phần nào đặc biệt. Anh đang tán chuyện với các cô gái thì một người đàn ông khác cũng tiếp cận họ và tham gia vào cuộc đối thoại. Anh ta nhỏ người, da ngăm, khoảng trên dưới ba lăm tuổi. Khi anh ta rủ tất cả cùng đi uống thì Calica hoảng sợ vì anh không có một đồng nào trong người. Nhưng các cô gái đã đồng ý. Anh ra hiệu cho Ernesto lúc này đang quan sát họ từ sân thượng khách sạn nhưng vô hiệu.
Cả nhóm vào một quán bar gọi bánh ngọt và sandwich. Người đàn ông kia gọi rượu Scotch trong khi Calica chỉ gọi một cốc cà phê bình thường, thứ rẻ nhất trong thực đơn. Một lát sau, người kia lại gọi rượu Scotch nữa. Calica cuống cuồng ra hiệu cho anh ta chú ý đến tình cảnh lỡ cỡ của mình, hi vọng hai cô gái không để ý. Người đàn ông cười phá lên và nói: “Đừng lo, tôi sẽ trả tiền mà.” Khi các cô gái đi khỏi, người bạn mới giải thích với Calica rằng anh là một đại tá người Venezuela được phái làm tùy viên quân sự của đại sứ quán nước anh tại Bolivia để trừng phạt vì anh đã có mưu đồ lật đổ tên độc tài PérezJiménez. Lương của anh được trả bằng ngoại tệ có giá trị nên anh không những không giống như bị phạt mà còn được tận hưởng một cuộc sống sung túc.
Calica và Ramírez (tên anh ta) tiếp tục hẹn hò với hai cô gái họ đã gặp trên đường. Trong khi đó, Ernesto cũng hẹn hò với một cô gái cậu đã gặp ở một bữa tiệc. Cô tên là Martha Pinilla, xuất thân trong một gia đình đầu sỏ có đất đai trải dài nhiều km từ chỗ gần La Paz. Giai đoạn độc thân dài đằng đẵng của hai chàng trai đã qua. Lối sống có phần điên loạn của họ (theo cách dùng từ của Calica) cứ tiếp diễn, đan xen giữa những bữa tiệc thượng lưu và công cuộc khám phá trật tự xã hội Bolivia trên đường phố. Tình hình tài chính của họ tuột dốc không phanh và họ cần phải làm gì đó. Những người bạn mới đều rất hào phóng nhưng chiếc thắt lưng thầy tu nổi tiếng, túi tiền của hai người thì gần như trống rỗng.
Họ nhanh chóng nhận được visa đi Ecuador nhờ những mối quan hệ của ông bạn già Nougués, và tình bạn thân thiết giữa Calica và viên đại tá người Venezuela Ramírez thật giống định mệnh. Trong bữa trưa, khi được biết việc Calica và Ernesto không có visa để đến Venezuela thì Ramírez nói rằng anh sẽ giải quyết việc đó cho họ. Và khi Calica thuật lại cho anh nghe về lần đụng độ với vị lãnh sự Venezuela thì anh phát hiện ra là Ramírez cũng không ưa gì ông ta. Ngày hôm sau, Ernesto và Calica có ngay visa đi Venezuela. Ernesto mỉm cười đắc thắng và nói: “Vậy là cuối tớ cũng đã bước qua cái bụng bự của ông ta.”
Nhằm cải thiện tình hình tài chính tồi tệ của họ, Ernesto chơi chiêu bài đem lá thư của bác sỹ Ferreira ở Buenos Aires đến trường Đại học Y Bolivia. Cả hai khoác lên người những bộ vét đẹp nhất. Với Ernesto thì đó là bộ đồ cậu được hưởng từ người chú Jorge de la Serna mà họ vẫn thường gọi là El Jorge. Họ gặp bác sỹ Molina, hiện thân của lòng tốt. Ông nói với Ernesto rằng ông có thể cho cậu làm bác sỹ ở một mỏ quặng trong ba tháng, trong khi Calica có thể làm y tá cho ông. Họ quyết định chỉ nhận làm trong một tháng bởi số tiền eo hẹp của họ sẽ hết sạch nếu họ ở lại lâu hơn, và rồi họ sẽ bị kẹt ở Bolivia (lương được trả bằng tiền Bolivia không có giá trị ở nơi khác). Nhưng sáng hôm sau, khi họ quay lại gặp bác sỹ Mollina thì người thư ký nói rằng ông sẽ đi vắng vài hôm. Cách vài ngày họ lại đến trường Y trong trang phục đẹp nhất để rồi ra về tay trắng. Cuối cùng, bác sỹ Molina cũng trở về nhưng lúc này đã quá muộn và họ quyết định tiếp tục du hành.
Tuy vậy, bác sỹ Molina cũng giúp họ kiếm được giấy mời ghé thăm một khu mỏ tungsten ở vùng núi gần La Paz. Ngài bác sỹ lo liệu cho họ có chỗ trọ ở khu mỏ nhưng họ không còn đồng nào để đi lại. Ernesto vẫn nhớ một mẹo hữu hiệu từ chuyến đi trước của cậu. Thế là cậu ra chợ tìm người sẽ đi cùng đường sáng hôm sau và thu xếp đi nhờ. Một tài xế xe tải không những đồng ý chở họ đi mà còn cho họ ngồi cùng khoang lái.Vậy là họ lên đường.
Ernesto sực nhớ là bạn gái Martha Pinilla đã từng kể với cậu rằng đất của gia đình cô bất đầu ngay ngoại ô La Paz nên cậu nhờ người tài xế gọi anh khi họ đi qua nơi đó. Người tài xế nói rằng họ đã lái xe qua đất của nhà Pinilla được một lúc rồi. Mỗi lần Ernesto hỏi anh ta liệu họ đã đến điểm cuối cùng của
https://thuviensach.vn
đất nhà họ chưa thì anh ta sẽ trả lời rằng vẫn còn phải đi một đoạn nữa. Sau nhiều giờ ròng rã trên đường, anh ta mới bảo họ đã đến điểm cuối của đất nhà Pinilla.
Hai chàng trai quyết định nghỉ một lát để duỗi chân duỗi cẳng và xem xét xung quanh. Ernesto và Calica dừng lại trò chuyện với một số người da đỏ. Lều của họ có thể nhìn thấy rõ từ bên đường. Những công nhân da đỏ nói với họ rằng các ông chủ không cho phép họ nuôi dù chỉ là một con vật, vì thế nên họ không thể nuôi gà lấy trứng hay nuôi bò lấy sữa để cải thiện bữa ăn.
Khi họ đến khu mỏ Bolsa Negra thì trời đã chập choạng tối. Các kỹ sư ở đây tiếp đón họ nồng hậu và họ cùng nhau ăn tối và sau đó thì lên giường ngủ. Ngày hôm sau là chủ nhật và họ được dẫn đi tham quan dòng sông băng ở Mururata và được chỉ cho xem khu vực sản xuất tungsten bằng cách dùng cối xay nghiền quặng do người thợ khai thác được. Ernesto ghi chép lại tất cả những thông tin này như thể đó là một bài học ở trường. Sáng hôm sau, họ được đưa đi xem ngọn núi nơi khai thác. Họ trang bị ủng cao su, áo mưa và đèn cacbua rồi tiến vào hầm mỏ.
Đó thực sự là một trải nghiệm thú vị, nhưng điều mà họ chứng kiến khi bước ra từ phía bên kia của căn hầm khiến họ sững sờ. Không xa lối ra của hầm mỏ là một ngôi làng, nơi những người thợ mỏ và gia đình họ sinh sống. Người ta đặt súng máy chĩa về hướng ngôi làng. Khu mỏ này đã được quốc hữu hóa nhưng những tên trọc phú vẫn còn là chủ của khu mỏ này chỉ cách đây vài tuần đã cho chĩa súng vào nhà của thợ mỏ để cho họ thấy ai mới là ông chủ nếu họ dám đòi tăng lương hay cải thiện điều kiện làm việc. Sau khi giành được quyền lợi xã hội và lao động, lại được chính phủ trang bị vũ phí, những người thợ mỏ đã trở thành dân quân tự vệ.
Hôm đầu tiên, Calica và Ernesto thăm khu mỏ thì đám thợ đã tới La Paz. Hôm đó là ngày 2 tháng 8, được chọn là Ngày Cải cách Nông nghiệp cũng như Ngày Thổ dân trong lịch cách mạng mới. Khi những tin đồn về phản cách mạng lan rộng, những người thợ mỏ đã đến thủ đô bày tỏ tình đoàn kết với chính phủ. Cuối chiều, khi họ trở về, trông họ thật kinh khủng. Xa xa, có thể nhìn thấy những chiếc xe tải của họ đi thành đoàn, và có thể nghe thấy tiếng họ nhả súng vào không trung và âm thanh đó vang vọng khắp thung lũng. Họ là một tập thể đáng sợ, và càng đáng sợ hơn nữa nếu ta biết rằng mới chỉ gần đây thôi những họng súng máy luôn chĩa về ngôi làng của họ.
Ernesto nhận xét trong nhật ký rằng “những người thợ mỏ trở về với khuôn mặt như đeo đá và những chiếc mũ bảo hiểm nhựa đủ màu sắc khiến tất cả trông như những chiến binh ngoại bang”. Họ ra khỏi xe và nộp vũ khí ở kho. Họ mới chỉ ngoài ba mươi tuổi nhưng trông họ như những ông già năm mươi hay sáu mươi tuổi. Họ đã làm việc cật lực suốt đời mà không được ai bảo vệ, không nhận được sự chăm sóc y tế nào, hàng giờ dài đằng đẵng vùi mình trong hầm mỏ với đồng lương rẻ mạt. Ernesto hỏi về vấn đề vệ sinh từ người y tá duy nhất sống trong làng. Cậu muốn tìm hiểu về chuyện sinh nở ở đây nhưng những người trong làng nói rằng họ không cho phép ai can thiệp vào chuyện riêng tư của mình và họ có bà đỡ riêng.
Ernesto khâm phục cách mạng Bolivia bởi đó là một sự cải cách cần thiết, nhưng không có nghĩa là cậu không thấy những hạn chế của cuộc cách mạng này và bình luận về nó với sự mỉa mai và hài hước. Một hôm, Ernesto và Calica nhận được lời mời gặp Bộ trưởng Bộ Nội Vụ. Ñuflo Chávez là một người da đỏ, đã có bằng luật học và nói được tiếng Quechua, Aymara và Tây Ban Nha. Ngài bộ trưởng cũng trạc tuổi các vị khách của mình. Trong chế độ trước, ông bị truy tố vì đã nhận bào chữa cho các thành viên công đoàn và tù nhân chính trị. Ông ngồi trong văn phòng sang trọng với rèm cửa, thảm và ghế ngồi bọc da lắng nghe những đại biểu thổ dân đến gặp và trình bày hoàn cảnh của họ với ông. Vì chính phủ vừa thông qua luật cải cách nông nghiệp nên nhiều người tìm đến vị bộ trưởng với hi vọng được nhận phần đất đã được hứa. Những người da đỏ xếp thành hàng dài, ăn vận đơn sơ với áo poncho tồi tàn và mũ len sặc sỡ. Họ nhích từng tí một dọc hành lang, lặng lẽ chờ đến lượt mình.
Cuối hàng lang, một thanh niên da đỏ[4] đứng trên bục gỗ cầm ống cao su dài. Anh ta nhét ống cao su vào trong quần áo của những người đàn ông đang đứng chờ, ấn nó dọc theo cổ áo và phun thuốc trừ sâu.
https://thuviensach.vn
Anh làm việc cẩn thận sao cho trên người mỗi nạn nhân đều có bột trắng. Không một ai nháy mắt. Ernesto phẫn uất khi chứng kiến cảnh đó. Anh nói cay đắng: “Phong trào Cách mạng Dân tộc dùng DDT[5] để làm cách mạng”. Không khó gặp những người da đỏ đi trên phố, người phủ một lớp DDT, tất cả đều từ văn phòng bộ trưởng ra.
Ñuflo Chávez cư xử lịch thiệp và tặng họ mấy cuốn sách về phong trào cách mạng Bolivia. Nhưng Ernesto không thể kiềm chế được bản thân và hỏi tại sao những người da đỏ lại phải trải qua một nghi thức nhục nhã như vậy trước khi bước chân vào phòng ông. Bộ trưởng nói rằng đó là một việc không hay nhưng cần phải làm vậy. Hầu hết người da đỏ không dùng xà phòng và nước, và không thể trông mong họ học được thói quen đó một sớm một chiều, nên họ đến đây với cơ thể đầy chấy rận và những loại côn trùng khác. Lúc này, cách mạng cần giải quyết hậu quả và rồi sẽ đến lúc họ có thể giải quyết nguyên nhân.
Khi họ rời khỏi bộ, Ernesto đứng trước tượng của anh hùng giải phóng Simón Bolívar (tên Bolivia được đặt theo tên ông) mà nói: “Vấn đề là phải chiến đấu với gốc rễ chứ không phải là thỏa mãn với việc triệt tiêu hậu quả. Cuộc cách mạng này sẽ thất bại nếu nó không thay đổi được tình trạng bị cô lập của người da đỏ, nếu nó không lay chuyển họ tới tận tâm can và trả lại cho họ quyền làm người. Nếu không làm được như vậy thì cách mạng để làm gì?”. Và lúc này Ernesto vẫn chưa quan tâm đến chính trị mà cậu chỉ lo nghĩ về bản chất của lòng nhân đạo.
Cùng với José Martí, Simón Bolívar, người đóng vai trò then chốt trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Mỹ Latinh là nguồn cảm hứng bất tận với Che. Bolívar coi cả lục địa này như một liên minh các quốc gia có thể đồng lòng chống lại sự tấn công của ngoại bang và bảo toàn nền độc lập. Chính niềm tin đó đã khiến ông trở thành người đi đầu trong việc thành lập liên minh các nước độc lập đầu tiên ở Mỹ Latinh. Việc Bolívar đề cao tầm quan trọng của công bằng xã hội cũng đặc biệt hấp dẫn Che. Thời của ông là cuộc đấu tranh chống chế độ nô lệ, tình cảnh làm công dân hạng hai của người criollo và người thổ dân ở ngay trên mảnh đất họ sinh ra. Bolívar có thể đã chọn những quan chức cao cấp từ đội quân mới bị giải tán của Wellington nhưng những người cùng ông chống lại quân Tây Ban Nha là mulatto, người lai và những nô lệ da đen được giải phóng cũng như người criollo. Đối với Bolívar, trong một xã hội hậu thuộc địa, một công dân sẽ không chỉ được hưởng giáo dục mà còn được tiếp cận với y tế, quyền được lao động mà không bị bóc lột và những người thổ dân xứng đáng được hưởng quyền bình đẳng. Có thể dễ thấy những chủ đề này là mối bận tâm thường trực của Che, mặc dù ở thời cậu thì Mỹ đã thay thế Tây Ban Nha để trở thành kẻ đàn áp ở Mỹ Latinh.
Ernesto luôn biết rằng kẻ thù thực sự là tư bản Mỹ nhưng cậu rất mơ hồ về các chính trị gia nói chung. Tuy vậy, cậu vẫn thấy rằng Perón có những cố gắng xứng đáng được nhìn nhận, mặc dù cậu không quan tâm đến ông ta. Chẳng hạn, một tối nọ, khi Nougués bắt đầu chỉ trích Perón như thường lệ. Ông ấy nói dông dài về những hi sinh của bản thân vì nền tự do và việc ông tự nguyện sống tha hương do bất đồng quan điểm với chính sách của những người cầm quyền ở quê nhà. Ernesto tuy đã nhận lòng hiếu khách phóng khoáng của Nougués nhưng cũng không ngại nêu lên ý kiến của mình. Đang tận hưởng món locro (món thịt hầm truyền thống của Argentina, cậu ngắt lời chủ nhà. “Được rồi, thế là đủ rồi ạ. Bây giờ sao chú không nói cho chúng cháu biết chút ít về việc chế biến đường của chú?” Gia đình Nougués lúc đó sở hữu một trong những nhà máy đường lớn nhất nước ở Tucumán, phía bắc Argentina.
Ernesto cũng thường xuyên tranh luận với cô bạn gái Martha Pinilla về những bất động sản của gia đình cô và quan điểm chính trị của họ. Gia đình Pinilla có một số đất đai sắp bị chính phủ xung công. Cậu nói với cô rằng cậu không ngạc nhiên khi gia đình họ phản đối cách mạng bởi họ đang bị tịch thu ruộng đất và những đặc quyền của tầng lớp của họ đang bị dẹp bỏ.
Khi ngày khởi hành của họ đến gần, ông Nougués tổ chức một bữa tiệc chia tay cho Ernesto và Calica. Họ đều bỏ lại bạn gái, nhưng thật ra đó chỉ là một mối tình hời hợt, chủ yếu là bỡn cợt, tán dóc và chè chén say sưa. Khi Ernesto rời bữa tiệc lúc bình minh, cậu không nhận ra là mình đã quên không đem theo
https://thuviensach.vn
chiếc máy ảnh. Khi kể lại về chuyến đi, Calica cho biết sáng hôm sau cả hai đã ngủ quá giấc và chạy vội đến bến xe buýt, nơi họ đã mua trước chỗ ngồi trên một chiếc xe tải đưa họ đến vịnh Copacabana ở hồ Titicaca, nằm trên biên giới giữa Bolivia và Peru. Họ ngồi trong buồng lái nhưng cũng có lúc ngồi sau xe để ngắm cảnh dễ hơn với những người da đỏ, gà, bê, thùng hộp và bất cứ thứ gì họ mang theo. Họ là những người da trắng duy nhất ở đó và trông thật nổi bật. Đi được nửa đường đến Copacabana, Ernesto mới nhận ra chiếc máy ảnh đã biến mất và quyết định quay lại lấy. Cậu bảo Calica cứ tiếp tục hành trình với đống hành lý và chờ cậu, rồi sang đường và xin đi nhờ xe theo hướng ngược lại.
Khi ở La Paz, Ernesto và Calica đã gặp Ricardo Rojo, một luật sư 29 tuổi người Argentina đã từng bị Perón bỏ tù. Trong cuốn sách Che, Bạn tôi, Rojo kể rằng anh cũng chơi cùng nhóm với Che. Theo những cuốn hồi ký đã được xuất bản của Rojo và Calica thì có vẻ họ không thích nhau vì mỗi bên đều có những nhận xét ác ý về đối phương.
Theo lời Rojo, sau này Calica chia tay với Ernesto tại Ecuador bởi anh chán kiểu đi du lịch như thế: đi bộ khắp nơi mà không bao giờ thấm mệt, bất chấp vấn đề vệ sinh, quần áo và phải chịu cảnh thiếu tiền bạc mà không thể than phiền. Calica khi viết sách năm 2005, sau khi Rojo đã qua đời nhiều năm có nói rằng Rojo đã ảo tưởng về một vài khía cạnh của chuyến đi khi nói rằng anh đã từng đi du lịch cùng Ernesto và Calica trong khi thực chất Rojo giàu hơn họ rất nhiều và du lịch xa xỉ hơn nhiều. Anh ta cũng phóng bút khi miêu tả khuynh hướng chính trị của Ernesto rất lâu sau này ở Cuba. Đúng là có những chi tiết thiếu chính xác trong cuốn sách của Rojo, được viết rất vội vã sau khi Che hi sinh nhưng cũng có thể là có một sự kình địch giữa hai chàng trai thời đó, dẫn đến những khác biệt trong lời kể của hai người.
Tuy nhiên, có một thực tế là Rojo rất thân với mẹ của Ernesto trong suốt cuộc đời bà. Khi Ernesto nổi tiếng tại Cuba, Rojo đã làm nhiều việc ở nước ngoài do Ernesto kêu gọi. Năm 1967, khi Ernesto lãnh đạo một đội du kích ở Bolivia, Rojo vội tới đó để bào chữa cho Ciro Bustos, một đặc vụ liên lạc người Argentina bị bắt giữ trong khi tìm cách rời khỏi khu vực. Anh tham gia bào chữa ở một tòa án binh mà không ai trông đợi một phiên xử công bằng.
Ernesto Guevara có thể có nhiều khiếm khuyết nhưng cậu hết sức quan tâm đến sự thật, không kiêu ngạo và không hề mơ tưởng viển vông đến danh tiếng hay phú quý. Cậu hẳn sẽ bực mình với kiểu cách của mấy người cứ thích ăn theo để nổi tiếng trong khi họ chỉ biết cậu sơ sơ. Có lần Ernesto đã nói với một nhà báo Pháp rằng: “Vinh quang cái con khỉ[6]” Câu nói đó sau này trở nên rất nổi tiếng.
Calica kể rằng anh đến Copacabana một mình và để tất cả hành lý tại một nhà khách tuềnh toàng rồi đi dạo. Nơi đây thật buồn và trầm mặc với phong cảnh ấn tượng. Anh nhìn thấy một khách sạn năm sao ở bên hồ và qua đó xem. Một người phụ nữ đến gần anh và anh nhanh chóng phát hiện ra cô cũng là người Argentina. Cô là người quản lý của khách sạn này và mời anh nghỉ lại đó, bởi khi ấy không phải là mùa cao điểm và khách sạn vắng người. Cô cũng mời anh ăn uống cùng. Người phụ nữ đang cô đơn và mừng rỡ khi có bạn đồng hành trong một chốc. Cô sống trong khu nghỉ dưỡng yên tĩnh và bị cô lập này vì cô cần phải nuôi một đứa con tật nguyền mà không có chồng.
Sau 24 giờ thì Ernesto hội ngộ Calica sau khi đã lấy được máy ảnh và ngủ ngon qua đêm. Họ lên kế hoạch đến Isla del Sol, mục đích của việc họ ở Copacabana. Họ khởi hành lúc bình minh với một người đàn ông bản địa hộ tống và đóng vai trò chèo thuyền và hướng dẫn cùng một giỏ thức ăn do bà chủ nhà tặng. Vì trời lặng gió nên họ phải chèo thuyền. Khi đến đảo, họ được mấy người da đỏ chào đón và chỉ cho xem những phế tích gần bờ theo lời họ đã từng là Đền Mặt Trời. Ernesto đã nghiên cứu nên cậu không bị mắc lừa. Họ bắt đầu cao giọng tranh cãi cho đến khi người lái thuyền kiêm hướng dẫn viên thừa nhận rằng Đền Mặt Trời nằm ở giữa đảo. Anh ta dọa là phải đi bộ hai giờ đồng hồ mới đến được đó và sẽ không kịp quay về. Tuy vậy, hai người vẫn quyết định đi.
Khi họ đến được Đền Mặt Trời, họ trông thấy một phế tích mà tất cả những đồ tạo tác đã bị lấy trộm nhưng Ernesto lại trở thành hướng dẫn viên cho Calica. Cậu có thể chỉ ra vương quốc Inca nằm ở đâu và khu vực diễn ra những lễ hiến tế. Trong cuốn hồi ký của mình, Calica nói rằng đó là một khoảnh khắc kỳ
https://thuviensach.vn
diệu. Từ gò đất giữa đảo, họ có thể trông thấy con hồ xinh đẹp và bao quanh họ là lịch sử và thiên nhiên. Ernesto lục lọi trong đống bụi và tìm thấy một bức tượng nhỏ mà cậu bảo là “tượng mô phỏng một người phụ nữ đáp ứng mọi nguyện vọng của tớ”.
Người hướng dẫn chấm dứt cảnh thơ mộng này bằng cách nhắc nhở họ đã muộn rồi. Họ quay lại nhưng mãi đến khi trời tối hẳn mới đến bờ. Người lái thuyền không muốn đi bởi vì quá nguy hiểm nhưng nếu ở qua đêm trên đảo thì còn tệ hơn bởi họ chẳng mang theo đồ lề gì. Họ đang đi thuyền vui vẻ thì một cơn bão ập đến và thuyền bắt đầu lắc lư dữ dội. Người hướng dẫn hoảng sợ vứt mái chèo, nhảy về phía đuôi thuyền và cầu nguyện Đức Mẹ Pacha cũng như Đức Chúa cha và Đức Mẹ Đồng Trinh Mary.
Ernesto và Calica thay phiên nhau chèo thuyền cho đến khi tay họ chảy máu. Calica bắt đầu cởi đôi giày cao cổ sang trọng của anh ra và Ernesto hỏi tại sao anh lại làm vậy. Calica nói rằng họ có lẽ sẽ phải bơi. Ernesto tỉnh táo giải thích: “Đừng có ngốc như vậy! Nếu cậu ngã xuống nước thì cậu sẽ đóng băng mà chết trong vòng 5 phút. Calica nghĩ: “Đúng là Ernesto”. Họ đang ở giữa một cái hồ mênh mông lạnh cóng trong màn đêm đen thẫm và những ngọn sóng do cơn bão gây ra khiến nó như một đại dương, vậy mà Ernesto vẫn giữ được sự điềm tĩnh.
Cuối cùng họ cũng cập bến một vịnh nhỏ. Họ có thể nghe thấy tiếng chó sủa và nhận thấy những người đàn ông đang tìm kiếm họ. Tất cả mọi người đều giận dữ vì họ đã khiến cho mạng sống của người lái thuyền lâm vào nguy hiểm và bây giờ thì họ đang ở trên một khu đất tư nhân mà họ không có quyền neo đậu.
Tuy vậy, họ vẫn được ở lại qua đêm trong một cái lán rộng và họ quyết định nằm sát vào cánh cửa lớn để không ai có thể lẻn vào trộm được. Họ nhanh chóng chìm vào giấc ngủ trên đống cỏ khô, mệt mỏi vì trận vật lộn khi nãy. Sáng hôm sau, họ bị đánh thức bởi ánh mặt trời chiếu vào mặt, lũ gà mái bước qua người và những người da đỏ đi ra đi vào tìm dụng cụ làm việc. Hóa ra hai cánh cửa có thể được mở theo hai hướng.
Họ quay lại Copacabana cùng người lái thuyền và được cô bạn ở khách sạn chào đón. Cô thở phào nhẹ nhõm vì trước đó đã tưởng họ đã chết. Họ nghỉ một lúc và đến chiều thì đi thăm nhà thờ Đức Mẹ Đồng Trinh Copacabana nổi tiếng vì những di tích của nó. Họ đến nơi gặp những người bị phong, ăn mày và một người đàn ông mù chơi chiếc đàn vĩ cầm một dây, tạo nên giai điệu thê lương nhất ở vùng cao nguyên. Trong nhà thờ, họ bắt gặp một cảnh tượng khó tin: một thầy tu béo ú, kẹp vài tờ tiền Bolivia giữa các ngón tay như một con bạc thực thụ đang làm lễ cho một dãy dài những người da đỏ. Ông ta cầu phúc cho từng người bằng tiếng Aymara hoặc Quechua trong khi họ dè đặt đặt tiềnvào tay ông. Đó là một cảnh tượng kỳ quái, buồn cười nhưng cũng khó chịu.
Ngay lập tức, Ernesto bắt chuyện với vài người da đỏ để tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Cậu phát hiện ra rằng linh mục đang bán chỗ trên thiên đường cho họ, được sắp xếp dựa theo số tiền trả. Chỗ tốt nhất dĩ nhiên cũng đắt nhất, nhưng còn phải mặc cả. Nếu người ta thấy giá cao quá thì họ sẽ bỏ đi, khi ấy tên mục sư sẽ nèo kéo họ lại và rồi cũng thỏa thuận được mức giá thấp hơn. Đấy là kiểu làm tiền ở đây. Linh mục lợi dụng những người da đỏ tìm đến ông vì đủ các vấn đề - bệnh tật, khúc mắc gia đình, thất nghiệp. Cảnh tượng đó khiến ngay cả Ernesto, một người chưa bao giờ đi nhà thờ và đã có thành kiến với giới mục sư từ bé, cũng phải kinh ngạc.
https://thuviensach.vn
X
(1953)
Lãnh đạo Peru là tên độc tài Namuel Odría, một vị tướng có cái nhìn hằn học về sự phát triển ở Bolivia. Y quyết không để đất nước mình bị đầu độc tư tưởng và muốn chắc chắn rằng không một chiêu tuyên truyền cánh tả nào được được phép diễn ra ở Peru. Khi Calica và Ernesto từ Bolivia vượt biên giới sang Peru, lính gác đã tịch thu cuốn Người Liên Xô mà Ernesto mang theo từ khi họ rời Buenos Aires cũng như tài liệu của Bộ Vấn đề Người Bản địa do Ñuflo Chávez tặng ở La Paz. Ernesto đã cãi nhau to với những người lính gác nhưng vô ích. Họ nói rằng cậu có thể lấy lại sách khi đến Lima.
Ernesto đề nghị đi tàu từ Puno đến Cuzco. Cậu không nghĩ rằng sẽ có nơi nào thú vị để tham quan trên đường đi và nhờ thế cả hai sẽ bù lại thời gian đã lãng phí. Vì số tiền của họ đang tiếp tục cạn kiệt nên họ quyết định đi tàu hạng hai. Sau một đêm ở Puno, họ đến ga tàu mua vé, đem theo tất cả đồ đạc. Nhà ga vắng như chùa Bà Đanh, yên tĩnh đến rợn người.
Khi họ đến quầy hỏi mua hai vé hạng hai thì người bán vé từ chối, chỉ nói rằng: “Không, không, tôi không thể bán cho hai anh vé hạng hai được.” Họ yêu cầu giải thích. Người đó không thể nói cụ thể nhưng Calica và Ernesto ngờ ngợ nguyên nhân: khoang hạng hai ở Peru chỉ dành để chở gia súc. Những người da đỏ, cả già lẫn trẻ, đàn ông và phụ nữ cùng con cái và súc vật bị nhét trong những khoang như thế mà không có điều hòa và ghế ngồi. Cửa bị khóa từ bên ngoài và khi tàu vào ga thì người soát vé có thể mở hay không mở khóa tùy thích, mặc cho những người da đỏ bên trong đòi ra. Nếu người ta không mở thì họ sẽ phải xuống ở ga tiếp theo và đi bộ ngược lại để trở về nhà hoặc chỗ làm. Người quản lý ga từ chối bán vé hạng hai bởi vì họ là người da trắng và nếu đối xử với họ tàn tệ như thế thì người ta sẽ gánh lấy hậu quả.
Ernesto mất bình tĩnh: “Anh đang nghĩ cái quái quỷ gì vậy? Anh bán vé cho chúng tôi và chỉ có vậy. Đi hạng nào là quyết định của chúng tôi.”
Người đàn ông nói: “Được thôi, tôi sẽ bán vé hạng hai cho hai anh, nhưng có gì thì các anh hãy tự chịu trách nhiệm. Nếu đúng lịch trình thì tàu sẽ đến đây trong bốn giờ nữa”.
Ernesto và Calica trả tiền vé rồi đi dạo cho khuây khỏa. Một lát sau Ernesto ngồi bệt xuống viết vào cuốn nhật ký. Calica đang đi lên đi xuống sân ga thì có hai người đàn ông lại gần anh. “Anh có vé hạng hai à?”, họ hỏi.
“Ôi không, lại nữa rồi! Đừng có làm bọn này nổi cáu với cái trò mèo vé hạng hai của mấy người. Bọn này đã có đủ rắc rối rồi. Thôi lèo nhèo đi nha. Chết tiệt, bọn này đi thế đấy, được chưa?”. Calica nói vậy bởi vụ việc đã khiến anh mất kiên nhẫn.
“Hãy ăn nói cho cẩn thận! Chúng tôi là thanh tra Peru”, họ nói và trình trẻ cảnh sát.
“Nếu vậy thì...” Calica nói và nhanh chóng thoái lui. “Đây, chúng tôi có đủ hết giấy tờ - hộ chiếu, visa, con dấu chứng nhận nhập cảnh...”
“Không, hai anh đừng có lo. Chúng tôi chỉ muốn đề xuất một thương vụ.”
Ernesto cố ra dáng một thương gia và bình tĩnh nói: “Một thương vụ? Thật thú vị. Thương vụ gì vậy?”
“Chúng tôi đề nghị thế này: Chúng tôi có nhiệm vụ dẫn độ hai phạm nhân từ Puno đến Cuzco trên khoang hạng nhất nhưng không may là chúng đã tẩu thoát. Như vậy là có hai ghế trống trong khoang hạng nhất nên chúng tôi có thể bán lại vé hạng hai của hai anh. Các anh sẽ giữ lại tiền bán một vé còn
https://thuviensach.vn
chúng tôi giữ phần còn lại. Cả hai bên sẽ đều hài lòng – các anh được đi tàu hạng nhất còn chúng tôi cũng có lợi.”
Sau khi nhìn nhau thì Calica và Ernesto đồng thanh nói: “Vâng, tất nhiên rồi.”
“Đừng có quá phấn kích như thế. Có một vấn đề là các anh sẽ phải đóng giả tù nhân và bị còng tay”, hai thanh tra nói.
Calica và Ernesto lại nhìn nhau và đồng ý. Cả hai cùng bị còng tay và lên tàu cùng đống hành lý, trong lòng vừa ngượng vừa thích thú. Hai thanh tra ngồi đối diện với họ trong khi hành khách trong khoang tò mò nhìn sang. Điều khôi hài là những người đi cùng khoang cho hai tù nhân đồ ăn thức uống để thể hiện tình đoàn kết trong khi lờ đi hai cảnh sát. Peru có thể có một tổng thống mị dân hữu khuynh nhưng người dân thường vẫn không ngần ngại bày tỏ sự cảm thông với những người bị áp bức.
Trên đường đi, Ernesto trò chuyện với hai cảnh sát và nói rằng cậu là một bác sỹ đã từng đến Peru, rằng cậu và bạn đồng hành của mình đặc biệt quan tâm đến chiến dịch tiêu diệt bệnh phong khắp Nam Mỹ. Câu chuyện họ đã tập dượt trước khi đến lãnh sự quán Venezuela đã thú vị hơn nhiều vì được kể đi kể lại suốt chuyến đi. Hai cảnh sát mủi lòng và thấy rằng có thể tin tưởng họ được. Họ tháo còng cho hai người và còn cho họ mượn thẻ cảnh sát. Họ không cần đến thẻ bởi những công nhân đường ray đều đã gặp họ và sẽ không có ai nghi ngờ danh tính của họ. Vậy là chỉ trong vài giây Calica và Ernesto từ phạm nhân trở thành cảnh sát Peru.
Khi người soát vé có mặt, hai cảnh sát chuyển sang khoang khác nơi người ta đang đánh bạc. Ernesto cũng tham gia một lúc và thua tất cả số tiền cậu có trong người: 20 sole. Cậu nghĩ bọn đánh bạc đã lừa mình nhưng vẫn bình tĩnh. Cậu đã học được một bài học: đánh bạc không phải là giải pháp cho tình hình tài chính eo hẹp của họ. Đến đêm, tàu tới Cuzco. Calica và Ernesto trả lại thẻ cho một người cảnh sát còn người kia thì say khướt đến độ phải được dìu đi. “Tôi vẫn còn nhớ giày anh ta gần như tuột ra,” Calica kể lại câu chuyện sau gần 50 năm.
Họ đi tìm chỗ trọ và thấy một nhà khách bẩn đến tởm lợm, nhưng bù lại cũng rẻ khác thường. Vì tỉ giá hối đoái ở Peru không có lợi cho họ nên họ phải từ bỏ những chi tiêu vặt và thú ăn chơi nho nhỏ. Sáng hôm sau, họ đến đồn cảnh sát trình hộ chiếu và đăng ký là ngoại kiều – một điều bắt buộc ở các nước toàn trị lúc đó. Bỗng nhiên có một người xuất hiện và hét lên: “Chính chúng đã ăn cắp thẻ căn cước.”
“Chúng tôi không ăn cắp gì hết,” Ernesto nói dứt khoát. Calica được sai đi lấy lại thẻ căn cước bị mất mà họ đã bỏ quên ở nhà khách trong khi cảnh sát giữ Ernesto lại để đảm bảo. Trước khi Calica quay lại thì người cảnh sát say rượu, lúc này đã tỉnh đã có mặt và xin lỗi vì sự hiểu lầm và nói: “Anh hiểu mà, phải không?” Tất nhiên họ đều hiểu rằng phải im lặng bởi Calica không thể giải thích với đồng nghiệp của người cảnh sát rằng anh ta đã cho một người nước ngoài mượn thẻ cảnh sát và rồi vì say rượu mà không trông chừng người đó.
“Các anh đã ăn ở quán picantería bao giờ chưa?” anh ta hỏi. Họ chưa ăn bao giờ, thế là đêm đó người cảnh sát đưa họ đến một nhà hàng Peru đặc trưng chế biến thức ăn với đủ loại ớt (hay picante) ngoài trời. Các thực khách thường tham gia một cuộc thi bản lĩnh đàn ông để xem ai ăn cay nhất. Món khai vị là xúp. Món này cay khủng khiết, vậy mà ông chủ vẫn cho thêm ớt. Như mọi hôm Ernesto và Calica rất đói nhưng họ gần như không thể ăn gì. Người bạn mới giải thích rằng thời chưa có tủ lạnh thì ớt được cho vào các món ăn để làm giảm vị giác và người ta có thể ăn thức ăn đã quá hạn sử dụng. Khi họ vừa ăn vừa nước mắt nước mũi giàn giụa thì Ernesto ra hiệu cho Calica, chỉ sang hướng cửa nhà bếp khép hờ. Họ thấy những người bồi bàn đang đổ đống xúp thừa vào nồi. Ernesto làm ra vẻ nhà khoa học và thì thầm: “Đừng lo, cứ ăn đi – đống ớt kia sẽ giết hết vi khuẩn. Nó như kiểu tiệt trùng thức ăn đó.”
Họ ở lại Cuzco trong hai ngày, tham quan vô số nhà thờ với các di sản nghệ thuật. Một nhân viên ở bảo tàng họ đến thăm vui mừng nói với Ernesto rằng bức tượng nhỏ mà cậu lấy từ đống đổ nát ở Isla del Sol là đồ thật và được làm từ tunyana, một loại hợp kim làm nên danh tiếng của người Inca. Cậu quyết
https://thuviensach.vn
định đặt tên cho nó là Martha, theo tên cô bạn gái người Bolivia của mình.
Không ai muốn đổi tiền peso Argentina của họ nên Calica và Ernesto bị kẹt ở Cuzco, không thể đến được Machu Picchu cho đến khi họ gặp một người phụ nữ Argentina bán cổ vật cho các du khách từ Mỹ. Bà ta nói rằng chính bà đã sưu tầm các cổ vật từ những khu khai quật Inca xa xôi. Các du khách trả tiền hậu hĩ cho những cổ vật đó nhưng khi họ vừa đi khỏi thì người phụ nữ đem ra những miếng tương tự và lại trưng bày ở cửa kính. Bà ta làm bạn với Calica và Ernesto và giúp họ lo hậu cần cho chuyến đi tới Machu Picchu, cho họ hai ba lô đầy dụng cụ cắm trại mà theo lời bà ta là của những người lính trong Thế chiến thứ II cũng như những đồ đạc cần thiết khác. Nhưng đến lúc đổi tiền thì bà ta đưa ra một tỉ giá rất bất lợi cho họ. Ernesto triết lý: “Tạm thời chúng ta sẽ không phải chết đói.” Họ dùng tiền đó mua hai vé tàu hạng hai đến Machu Picchu.
Khi con tàu leo dốc trên đường ray hẹp, men theo dòng sông Urubamba, họ có thể trông thấy phong cảnh tráng lệ với thảm thực vật nhiệt đới trải rộng ra xanh mướt. Calica và Ernesto đã gửi những hành lý nặng cho người bạn Argentina mới nọ và quyết định đi bộ 8km từ nhà ga đến khu di tích. Trong nhật ký, Calica kể lại rằng Ernesto hoan hỉ khi được trở lại nơi đã hớp hồn cậu ngay lần đầu tiên. Tâm trạng cậu rất tốt. Cậu vui vẻ, nói nhiều và tuy đang ở độ cao và đi bộ nhanh nhưng cậu không lên cơn hen. Ernesto nhiệt tình chỉ cho Calica 150 công trình kiến trúc kết nối với nhau bằng những hành lang và bậc thang.
Machu Picchu cũng khơi dậy trong Ernesto mối căm ghét âm ỉ với chủ nghĩa đế quốc ở mọi hình thức, trong đó có chủ nghĩa đế quốc hiện đại từ những công dân Mỹ tử tế đã phát hiện ra di tích này. Cậu viết một bài báo sau này được đăng trên tạp chí Siete của Panama tháng 12 năm đó. Trong đó, Ernesto bày tỏ sự khinh bỉ tột cùng trước sự tàn phá mà cậu chứng kiến cùng lòng căm phẫn trước việc những đồ tạo tác và kho báu đại diện cho “nền văn minh bản địa hùng mạnh nhất của châu Mỹ”, một thứ “không bị vẩn đục bởi đám người xâm lược” lại đang nằm trong các bảo tàng ở Mỹ xa xôi, trong tay một dân tộc “không có khái niệm gì về sự chia rẽ đạo đức giữa họ và hậu duệ của một dân tộc đã từng rất kiêu hãnh, bởi vì nó đòi hỏi sự tinh tế mà chỉ có tinh thần của chúng ta, những người Mỹ Latinh mới có thể hiểu được.” Ernesto cảm nhận được tình thân với những người bản địa mà trước kia cậu chẳng biết gì mấy. Ernesto kết thúc bài viết với một đoạn miêu tả thi vị về ý nghĩa của Machu Picchu đối với cậu: “Đối với những chiến sĩ đấu tranh cho tự do, những người đang theo đuổi một lý tưởng mà người thời nay cho là ảo mộng, Machu Picchu là biểu tượng của quá khứ vươn đến tương lai và kêu gọi khắp lục địa, “Hỡi những người Anh-điêng, hãy giành lại lịch sử”.
Ernesto giải thích cho Calica rằng trong chuyến đi trước đó, cậu và Alberto đã kết bạn với người quản lý của một khách sạn sang trọng và còn chơi một trận bóng với anh giữa những tàn tích này. “Tên anh ấy là Soto. Anh ấy là người Peru sùng mộ Argentina vì anh yêu bóng đá và tango. Anh ấy hát rất tệ và chơi bóng cũng không khá hơn, nhưng cậu chỉ cần nói với anh ấy rằng anh giỏi cả hai thứ thì sẽ được bao tất.”
Soto vẫn nhớ Ernesto và ân cần đón tiếp họ. “Đừng lo lắng, hai chàng trai. Hai cậu có thể sử dụng những phòng nhân viên của khách sạn chỉ với vài sole.” Phòng cho nhân viên khách sạn dĩ nhiên là tốt hơn tất cả những nơi họ đã từng ngủ. Phòng có hai giường với những tấm ga sạch sẽ và một phòng tắm ở gần đó. Tối hôm ấy, họ đi chơi Soto, anh ấy làm vài điệu tango thảm họa rồi Calica còn hát cùng anh nữa. Một người mù nhạc như Ernesto cũng biết là không nên tham gia với họ. Nhưng bù lại Soto biết rất nhiều về nền văn minh Inca và Ernesto rất thích trò chuyện với anh về vấn đề đó.
Ngày hôm sau có mấy thanh niên trong vùng đến, đem theo một quả bóng và tất cả cùng chơi giữa những đống đổ nát. Ernesto luôn chơi ở vị trí thủ môn vì bị hen. Cậu đã phát triển một lối chơi riêng và không sợ hãi khi cản những cầu thủ hết tốc lực xông vào mình. Ernesto đã cảnh báo Calica rằng độ cao này có thể sẽ ảnh hưởng đến anh và anh không nên chạy quá nhiều. Calica không nghe và cuối cùng nằm bẹp trên sân cỏ trong khi Ernesto trở thành người hùng của trận đấu trong mắt đội bóng, cho dù cậu đã khéo léo cố tình để mấy cú sút của Soto lọt lưới.
Họ quay lại Cuzco và bởi vì không có phương tiện đến Lima nên họ buộc phải ở lại đó một tuần. Cuối
https://thuviensach.vn
cùng thì họ cũng khởi hành trên một xe buýt (thực chất là một xe tải đã được cải tiến, có vải bạt làm mái và những ghế ngồi bằng gỗ). Ngay cả Ernesto dường như không bao giờ cảm thấy khó chịu hay bất tiện cũng thấy chán nản: “Chuyến đi đã trở nên vô nghĩa. Lũ gà ỉa ngay dưới ghế ngồi và mùi chân hôi thật khó chịu; bạn có thể dùng dao cắt bỏ cái không khí đó.” Thỉnh thoảng họ lại trèo lên tấm vải bạt và ngồi đó cho đỡ chán và thoát khỏi mùi khó chịu.
Phong cảnh dọc theo sông Apurimac, thung lũng và núi non thật hữu tình, nhưng họ có thể cảm nhận được sự hiểm trở của đường đi được đẽo từ núi đá và hầu như chỉ đủ chỗ cho một hàng xe. Khi hai xe tải đối đầu nhau, một xe sẽ phải quay lại và nhường đường cho xe kia đi qua. Và tất nhiên, hiểm họa núi lở luôn rình rập. Thỉnh thoảng những vụ sạt lở này lại làm tắc nghẽn đường và xe buýt sẽ phải chờ đến khi máy ủi tới dọn đống đất đá đi.Một vụ lở đất khác có thể lại bắt đầu trong khi quá trình dọn dẹp đang diễn ra. Calica và Ernesto không thể không nhận thấy kỹ năng và sự tự tin ở những người da đỏ lái xe tải, máy kéo và xe buýt. Phương tiện của họ thường cũ kỹ và chắp vá đủ chỗ, những lốp xe cũ đã bị ăn mòn và gần như không có thắng. Và tài xế thường kiệt sức đến nỗi phải nhờ một hành khách lái hộ trong khi họ chợp mắt đến chặng dừng tiếp theo.
Trong lúc dừng chân, hành khách có thể ăn một đĩa cơm với ớt gần như miễn phí nếu họ chịu khó chờ để dùng bộ thìa và đĩa duy nhất ở đó. Calica và Ernesto giúp chất súc vật hoặc bao tải lên xe để đổi lấy một cốc chicha hoặc tamal, một món quà vặt làm từ bột ngô có nhân thịt. Pisco, một loại aquavit là thức uống quốc hồn quốc túy của Peru. Đó là đồ uống tốt nhất khi bị cảm lạnh và còn tốt hơn nước thường nữa; uống nước có thể gây ỉa chảy. Khi chiếc xe cheo leo trên những triền đồi, trời ban đêm lạnh cóng còn ngày thì nóng như rang nên hành khách cứ phải mặc rồi lại cởi quần áo luôn. Trong một lần nghỉ chân, Ernesto và Calica quyết định đi bơi ở sông Apurimac. Họ cởi hết quần áo và nhảy xuống sông. Những hành khách khác nhìn chăm chú khiến Calica phải che những chỗ nhạy cảm trong khi Ernesto thì nhảy tưng tưng để làm cho họ hoảng sợ hơn. Nhưng cậu phải trả giá cho trò đùa của mình vì cậu lại lên cơn hen và phải dùng đến ống thở.
Khi dừng chân qua đêm, họ ngủ dưới gầm xe hoặc trong một cái lán mà những người chủ dành một góc làm chỗ cho họ. Mặc dù những người da đỏ sẵn sàng giúp đỡ hai người nhưng họ không mấy khi sẵn sàng nói chuyện vì họ rất è dè hoặc là không nói được tiếng Tây Ban Nha. Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ. Khi xe buýt tiếp tục đi, Calica bị đánh thức bởi tiếng cười không thể lẫn được của Ernesto. Người da đỏ đang nói chuyện cùng cậu cũng cười, một cảnh tượng hiếm có. Anh đang giải thích cho Ernesto, nửa bằng tiếng Tây Ban Nha, nửa bằng tiếng mẹ đẻ của anh và nhiều điệu bộ khác rằng anh còn phải đi trong bốn ngày nữa và thức ăn duy nhất mà anh có là đậu hồi đã nấu được chia làm nhiều phần ăn nhỏ. Anh mời Ernesto một ít và Ernesto nhớ ra mình có mang theo vài đồ hộp mà người bạn Argentina ở Cuzco đã cho.
Ernesto tìm thấy một hộp cá mòi và một tí bánh quy. Khi cậu mở hộp thì một tia dầu bắn ra. Ngay lập tức, Calica cảnh báo anh rằng thức ăn trong đồ hộp có thể nhiễm độc và sẽ khiến cậu bị ốm. “Cậu định ăn thứ đó à?” Calica hoảng sợ hỏi. “Cậu không nhìn thấy thứ gì bắn ra à? Hỏng rồi! Chết người đấy.”
Ernesto trả lời: “Ăn chứ. Ngon mà.”
Calica hét vào mặt Ernesto: “Đồ khốn, hãy nghe lời tớ. Mẹ cậu đã nhờ tớ trông chừng cậu. Và cậu đang định ăn cái thứ đồ hộp từ tận năm 1940. Cậu sẽ lăn ra ốm giữa cánh rừng này và chúng tôi không định tìm một pháp sư mà chữa bệnh cho cậu đâu. Cậu sẽ chết, ngốc ạ. Tớ sẽ làm gì với cái xác của cậu?”
Ernesto và người bạn mới ăn ngấu nghiến món đó và họ vẫn sống mà kể lại câu chuyện. Họ còn ăn vài thanh sôcôla trong ba lô từ tận Thế chiến thứ II. Họ trèo lên tấm vải bạt để thưởng thức phong cảnh. Bỗng dưng Calica, lúc này vẫn ở trong xe, nghe thấy Ernesto kêu thất thanh: “Dừng lại, dừng lại, có người rơi rồi.” Người tài xế vẫn đi phăng phăng đến điểm dừng tiếp theo và sau một hồi thì người da đỏ với món đậu hồi xuất hiện, người tím bầm, xây xước. Anh ta quyết không để mất hành lý và đậu hồi vẫn còn ở trên xe. Ernesto vui mừng khi thấy anh xuất hiện. Cậu kiểm tra kỹ rằng anh ta không bị gãy xương và rửa vết thương cho anh ta. Ở nơi khác thì người lái xe sẽ bị đánh vì không dừng lại chờ khách, nhưng người da
https://thuviensach.vn
đỏ ấy một lần nữa cho thấy chủng tộc anh sống một cuộc đời vô vọng, hoàn toàn cam chịu trước số mệnh. Vậy nên chẳng lấy gì làm lạ là một kẻ mị dân như Odría lại có thể cầm quyền lâu đến thế mà không gặp bất cứ một thách thức nào. Dù vậy thì quân đội vẫn có mặt trên khắp các phố, trang bị vũ khí đến tận răng và người nước ngoài thường xuyên bị chặn lại và đề nghị xuất trình hộ chiếu, kể cả ở những làng nhỏ và hẻo lánh nhất. Cuối cùng họ đến Lima và chui vào một khách sạn nhỏ bẩn thỉu. Ernesto mong được gặp lại bác sỹ Hugo Pesce, một người bạn và người bảo hộ tốt bụng trong chuyến đi lần trước cùng Alberto trong khi Calica mơ được hội ngộ Gogo Nougués, người bạn từ Bolivia chắc chắn là sẽ giúp ích cho họ như anh và gia đình đã làm ở La Paz. Thế nào cũng được.
Nhưng trước khi họ có thể ổn định cuộc sống ở Lima thì họ gặp rắc rối với cảnh sát và vụ việc dó khiến họ nhận ra chế độ độc tài của Odría kiểm soát đất nước như thế nào. Họ trở về khách sạn thì thấy hai cảnh sát đang lục lọi hành lý của họ. Khi bị hỏi giấy tờ, Ernesto vội nói: “Tôi là bác sỹ Argentina, cùng với bạn mình là một sinh viên giỏi đang nghiên cứu cách chữa bệnh phong.”
“Chúng tôi không quan tâm đến việc đó”, một người cảnh sát ngắt lời. “Các anh sẽ phải đi cùng chúng tôi.”
Ernesto đáp: “Không, các anh không thể đưa tôi đi được. Tôi cần phải nói chuyện với lãnh sự Argentina đã.”
Người cảnh sát nói: “Cả hai anh không được đi đâu hết. Phải đi cùng chúng tôi.”
Họ bị đưa đến đồn cảnh sát và thẩm vấn. Cảnh sát muốn biết họ quen biết những ai ở Lima, họ định đi đâu và tại sao họ lại đi du lịch. Sau cuộc thẩm vấn, họ bị giam giữ vài giờ đồng hồ mà không có lời giải thích nào.
Họ bóp trán suy nghĩ. Liệu vụ này có liên quan gì đến những cuốn sách đã bị tịch thu ở biên giới không nhỉ? Tình bạn của Ernesto với bác sỹ Pesce có làm hại đến anh không? Khi cảnh sát đến thả họ ra thì giọng điệu của họ đã thay đổi. Thậm chí họ còn xin lỗi. Họ nói rằng họ đang truy nã một kẻ đến từ Argentina đã bắt cóc con gái mình sau khi mâu thuẫn với bà mẹ Peru của hắn. Ernesto và Calica nhận thấy rằng câu chuyện đó thật phi lý. Nếu một người bắt cóc một đứa trẻ, điều cuối cùng anh ta sẽ muốn làm là ở lại Peru, nơi ai cũng biết đến sự áp bức của chế độ và sự tàn bạo của cảnh sát. Họ quyết định không lấy lại mấy quyển sách đã bị tịch thu ở biên giới nữa.
Dĩ nhiên, người hai anh tìm đến đầu tiên là bác sỹ Hugo Pesce. Ông chào đón Ernesto và Calica rất nồng hậu. Ông mời họ đến khoa phong của bệnh viện de Guia cũng như tư trang của ông, nơi họ được mời ăn tối vài lần. Ernesto thích nghe bác sỹ Pesce nói. Ông có thể nói về rất nhiều chủ đề một cách tường tận. Vợ ông, Soraya Sheir nấu ăn rất khéo và các con ông, Lucho và Tito cũng có mặt trong bữa tối, cứ như một buổi sum họp gia đình vậy.
Một lần nữa tại La Paz, cuộc sống thật kỳ cục khi họ đi từ thái cực này sang thái cực khác. Điều khác biệt là cánh hữu đang nắm quyền và những người bạn cánh tả của họ thì bị khai trừ và chính phủ không dung tha cho bất cứ một hành động chống đối nào.
Lý do duy nhất mà bác sỹ Pesce không bị đụng đến là bởi ông nổi tiếng ở nước ngoài vì đóng góp cho y học của ông, dù cũng có người nói rằng đó là bởi ông là hội viên Hội Tam điểm cấp cao hơn cả tổng thống Odría. Người ta cũng đồn thế về Simón Bolíar. Một người nữa là Gogo Nougues, anh ta đến Lima thật đúng lúc và chăm lo cho đời sống xã hội của họ, anh rủ họ đến Câu lạc bộ Đồng quê và khách sạn Gran Bolívar ở trung tâm Lima, nơi hội tụ của giới thượng lưu. Thật may mắn là Gallo de Oro không có mặt ở Lima. Gogo đảm bảo cho họ được ăn uống đầy đủ và thường xuyên, cho họ đóng giả làm cháu của anh mỗi khi anh được mời riêng tư và bào chữa cho sự tham ăn của họ là do còn trẻ. Ricardo cũng đã bay đến Lima và tham gia các bữa tiệc. Theo lời Ernesto thì anh cũng gặp rắc rối ở biên giới vì những cuốn sách anh mang theo.
Lúc này, họ đã đi du lịch được hai tháng. Ernesto khó chịu khi không nhận được thư nào từ nhà, đặc
https://thuviensach.vn
biệt là khi cậu nhận được tin trực tiếp từ Dolly, mẹ của Calica vì bà thường xuyên viết thư. Cậu giận dữ viết cho bố mình, bảo ông nói với mẹ mình rằng “mỗi khi mẹ muốn ngồi xuống chơi trò kiên nhẫn thì hãy viết thư cho con trước.”
Đối với Ernesto, một trong những trải nghiệm xúc động nhất ở Lima là chuyến thăm các bệnh nhân ở khoa phong của bác sỹ Pesce. Họ vẫn còn nhớ Ernesto là một người đặc biệt, một anh hùng, một bác sỹ trẻ tuổi đang nghiên cứu căn bệnh của họ mà không có thành kiến. Buổi chiều, Calica và Ernesto thường ngồi cùng các bệnh nhân (sau khi đã dùng bữa trưa ở trường đại học, nơi họ có thể mua được một bữa ăn ngon giá rẻ), bàn luận về bóng đá, tango và phim ảnh. Họ còn đem theo cả một số tạp chí thể thao Argentina mà họ đã nhận được từ nhà. Mặc dù các bệnh nhân của bác sỹ Pesce không ốm nặng như những người bị gửi đến trại phong ở những khu hẻo lánh nhưng số phận của họ thật buồn thảm. Nhìn chung họ đều trẻ, nghèo khó và sẽ không thể kiếm được việc bởi sự kỳ thị và thiếu hiểu biết về căn bệnh này. Ngay cả Calica cũng rất ngần ngại khi tiếp xúc với họ.
Khi họ quyết định rời Lima, họ đến bệnh viện nói lời tạm biệt. Đó là một buổi chia ly rất cảm động. Những bệnh nhân tặng cho Ernesto và Calica đủ các loại quà nhỏ như hoa quả, bức tranh và đồ thủ công. Calica vì xúc động mà quên đi sự e dè và bắt tay với họ. Mọi người gần như bật khóc, dù họ đều vờ như sẽ có ngày hội ngộ. Khi họ đi khỏi và cảm xúc của buổi chia tay đã lắng xuống, Calica mới hỏi Ernesto: “Cậu có chắc là bệnh phong không lây nhiễm không? Hãy nói cho tớ sự thật đi: tớ có nên dùng bàn tay này sờ cái cái gì không?” Ernesto trả lời: Dĩ nhiên là không rồi, ngốc ạ. Bỏ tay xuống đi, trông cậu cứ như đang vẫy xe buýt ấy. Bệnh phong không lây truyền như thế. Tớ cũng không thích tự sát đâu.”
Họ đến Piura trên một chiếc xe khách kiêm xe tải giống với chiếc xe mà họ đã đi khi đến Lima. Xe đi dọc bờ biển nhưng thời tiết quá lạnh, không thể xuống biển tắm được và họ mơ đến Ecuador, ở đó trời sẽ ấm áp hơn. Họ quay trở lại cuộc sống với những ghế gỗ, những món hầm với các nguyên liệu bí ẩn và những con đường dài đằng đẵng. Khi họ đến Tumbes, nằm ở biên giới giữa Peru và Ecuador, Ernesto bỗng dưng lên cơn hen và buộc phải nằm trong phòng cho đến ngày hôm sau. Cảnh sát Peru đóng dấu hộ chiếu của họ ngày 27 tháng 9 năm 1953.
https://thuviensach.vn
XI
(1953 - 1954)
Celia đã dừng trò chơi kiên nhẫn một thời gian để sắp xếp một mối liên lạc tại Guayaquil có ích cho con trai bà. Bà viết thư cho Ernesto nói rằng tổng thống Ecuador biết họ ở đó và sẽ giúp đỡ hai người. Việc này do một người bạn của bà quen với vợ của ngài tổng thống lo liệu. Calica phấn khích tột độ bởi lúc này anh bắt đầu chán ngấy những chiếc xe khách tồi tàn, thức ăn kinh tởm và không được vệ sinh sạch sẽ.
Ngày cuối cùng ở Lima, Ricardo Rojo đã đưa cho họ địa chỉ một nhà khách ở Guayaquil, nơi họ có thể liên lạc với anh khi họ đến nơi. Nhưng rồi họ lại gặp Rojo tại một bến tàu ở Guayaquil khi họ đặt chân xuống bờ sau một ngày và một đêm trên tàu gia súc, ngủ trong võng mắc trên đầu lũ bò. Từ Huaquillas, đồn biên giới ở bên phía Ecuador, họ đi nhờ xe đến bến cảng Santa Marta với chiếc thắt lưng thanh bạch đã trống rỗng.
Rojo đi cùng ba sinh viên luật mà anh đã quen ở trường Đại học La Plate ở Argentina: Eduardo Garcia (hay Gualo), Andro Herrero và Oscar Valdovinos (hay Valdo). Họ đều đang chờ phương tiện hàng hải đến Panama. Từ đó, họ hi vọng sẽ đi bộ đến Guatemala, điểm cuối cùng. Nhóm bạn cùng đến nhà khách mà ba người kia đang ở. Đó đã từng là một biệt thự theo phong cách thuộc địa xa hoa nhưng giờ đây nó là một khách sạn rẻ tiền gần như bỏ hoang ở bên bờ sông Guaya. Người chủ là một người phụ nữ tốt bụng tên là Maria Luisa cho cả sáu người ở chung một phòng mà thật ra đó là một phần của một căn phòng rộng hơn rất nhiều đã được chia lô bằng những thùng gỗ và giấy báo cũ. Không thể nhìn người ở bên kia nhưng hoàn toàn có thể nghe thấy tiếng họ. Ngày đầu tiên, sáu chàng trai tụ tập uống maté, kể chuyện và phát hiện ra là họ có chung bạn bè ở quê nhà. Sau đó họ phải dành phần lớn ngày đi kiếm nguồn tài trợ và phương tiện đi lại nhưng họ vẫn còn rất nhiều thời gian dư dả mà không biết đi đâu và không biết làm gì. Việc thiếu tiền khiến họ không thể tiếp tục khởi hành được.
Theo lời Calica thì Ernesto bắt đầu thấy nản lòng và trở nên sốt ruột. Anh cũng bắt đầu quan tâm đến chính trị và có những cuộc đàm đạo kéo dài với Rojo và Valdovinos là hai thành viên có ý thức chính trị nhất trong nhóm. Có lẽ việc tìm được vài người bạn để bàn luận triệt để về những gì anh đã chứng kiến suốt chuyến đi, trình bày những ý tưởng khơi gợi phản ứng nơi họ và có thời gian tranh luận với họ nhiều ngày liên tục đã tạo ra môi trường cho sự giác ngộ này.
Ernesto chơi cờ với những người khác trong nhà khách và vẫn đọc nhiều sách. Phòng của họ chỉ có hai giường và buổi tối, những người về nhà trước sẽ chiếm giường còn những người khác phải trải đệm ngủ trên sàn, thỉnh thoảng bị mấy con chuột làm tỉnh giấc. Calica quan sát thấy lũ chuột này không sợ người, khác với những con chuột mà họ đã từng thấy. Chúng bạo dạn và dường như sẵn sàng đánh nhau giành lại chỗ ở mà chúng phải chia sẻ. Dĩ nhiên đây không phải chuyện tầm phào. Calica xuất thân trong một gia đình hành nghề y và anh nhận ra dấu vết do bệnh dịch hạch để lại trên trán nhiều người Ecuador mà họ đã gặp ở những khu nghèo của Guayaquil. Hàng đàn muỗi dễ dàng sinh sôi nảy nở trong nước sông Guayaquil bẩn thỉu cũng tìm đến nhà khách, nhưng khi về nhà, các chàng trai không mấy bận tâm vì họ đã kiệt sức sau một ngày đi bộ dưới thời tiết nhiệt đới và chỉ sống nhờ vào trái cây (chủ yếu là chuối).
Sau đó, tổng thống Ecuador, ngài Velasco Ibarra đến Guayaquil trong một chuyến công cán. Ernesto và Calica nghĩ rằng việc này sẽ chấm dứt cảnh cơ hàn của họ. Họ hi vọng tất cả sẽ cùng thoát khỏi vũng bùn này, nơi họ đang tiêu tốn thời gian và nợ nần chồng chất. Họ mặc lên người những bộ đồ sạch sẽ, cạo râu và đến khách sạn nơi ngài tổng thống đang ở cùng đoàn tùy tùng. Họ chỉ gặp được sĩ quan phụ tá quân đội của tổng thống; hắn trẻ, thấp, phô trương và ăn vận không chê vào đâu được. Hắn không hề có
https://thuviensach.vn
thành ý giúp đỡ mà chỉ hỏi han qua loa, và sau khi phát hiện ra mối quan hệ của họ với vợ tổng thống rất hời hợt, hắn quyết định không lãng phí thời gian, liền thô lỗ đuổi khéo họ.
Sau thất bại ê chề này, Calica, Ernesto và ba người bạn mới tập hợp lại và tất cả cùng bán những tài sản quý giá nhất. Rojo từ bỏ chiếc áo bành tô đắt tiền và nhẫn vàng của mình và cũng trả một phần nợ của họ (anh đang nhận một ít tiền từ chính phủ xã hội chủ nghĩa của Guatemala nhờ là chính trị gia lưu vong). Lúc này Calica vẫn thường chơi bóng với một nhóm những thanh niên địa phương và nhận được lời mời đến Quito huấn luyện một đội bóng. Ernesto cũng được mời. Chi phí đi lại và ăn ở của họ sẽ được đài thọ và họ sẽ nhận được lương. Calica rất muốn đi nhưng Ernesto quyết định đi tiếp về phương bắc.Cậu muốn chứng kiến cuộc thử nghiệm chủ nghĩa xã hội ở Guatemala nơi đương kim tổng thống, đại tá Jacobo Arbenz đứng đầu một chính phủ cánh tả. Như các thành viên khác, cậu cũng tìm cách đến đó qua Panama. Cậu bảo Calica hãy đến Quito thử vận may của mình. Cậu sẽ gặp lại Calia ở đó nếu cậu không thể đến được Panama.
Cuối cùng, Rojo và Valdovinos lên một chiếc tàu chở hàng lớn thuộc Hạm đội Trắng của Công ty United Fruit đến Panama. Rojo có quen một luật sư theo chủ nghĩa xã hội do chính Salvador Allende, thượng nghị sỹ người Chile cũng theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa, giới thiệu. Chuyến đi này cũng do một tay Allende sắp xếp. Họ được hứa sẽ có chỗ cho cả sáu người nhưng rồi chỉ có hai người đi được bởi không tàu nào có thể chở miễn phí nhiều hành khách trong một lượt như vậy. Về sau, Ernesto và Gualo cũng lên được tàu đi Panama. Andro đồng ý ở lại để bảo đảm cho những món nợ của họ và chờ đồng đội giải cứu.
Cả Andro lẫn Calica không bao giờ gặp lại Ernesto nữa. Andro tìm được việc làm và trả nợ cho cả nhóm, nhưng cuối cùng anh mệt mỏi về chuyến phiêu lưu và sự thiếu thốn thường trực nên đã về quê nhà Argentina thay vì đi tiếp đến Guatemala. Còn Calica về sau đến Venezuela, tìm đến Granado, xin được một chân bán dược phẩm và ở lại đó gần mười năm trước khi về nhà.
Trong cuốn sách của mình, Ricardo Rojo tuyên bố đã nhìn thấy sự trớ trêu của hoàn cảnh: Ernesto Guevara bước chân vào chính trường Trung Mỹ nhờ lời mời du hành trên một trong những tàu của công ty United Fruit hùng mạnh và phản động. Điều này chưa chắc đã đúng bởi những người khác không nói với chúng ta rằng tàu Guayos chở Ernesto và Gualo đi Panama thuộc sở hữu của hạm đội United Fruit. Ernesto kể lại trong nhật ký rằng chuyến đi của họ được thu xếp bởi một người bạn là bạn của thuyền trưởng. Tàu Guayos khởi hành ngày 31 tháng 10 và Ernesto hoàn toàn thoải mái trong những ngày trên biển còn Gualo Garcia thì thấy nó thật khủng khiếp vì cậu bị say sóng liên tục, trừ lúc ngủ.
Họ đến Panama, đặt chân xuống bến cảng Balloa thuộc Vùng Kênh đào Panama lúc đó bị Hoa Kỳ kiểm soát và tìm đường đến thành phố Panama. Rojo đã cho họ địa chỉ của một nhà khách và tại đó họ được ngủ ở hàng lang chỉ với một đô la một người. Họ đến lãnh sự quán Argentina tìm thư gửi từ nhà, trong đó có tên của những sinh viên người Panama đã kết bạn với họ kịp thời. Nhờ những người bạn này mà Ernesto gặp một số biên tập viên tạp chí và một người đã cho xuất bản bài viết của anh về chuyến đi lần trước cùng Alberto Granado, còn người khác sau này xuất bản bài viết của anh về Machu Picchu. Những người bạn sinh viên mới của họ cũng giúp tạo quan hệ cho Ernesto để anh thuyết trình về bệnh dị ứng tại khoa Y trường Đại học Panama.
Ernesto và Gualo đi khắp Panama bằng xe tải, tàu hỏa, đi bộ và sau đó tới Costa Rica bên bờ biển Thái Bình Dương. Họ ghé thăm Golfito, một cảng chuối do công ty United Fruit quản lý và Ernesto thuật lại rằng: “Thành phố này được chia thành các khu riêng biệt có lính canh, không để người ngoài ngoài xâm nhập, và tất nhiên khu tốt nhất là của người nước ngoài.”
Chiều hôm sau, Gualo và Ernesto ra đi trên tàu Rio Grande. Thuyền trưởng cho họ mượn vé và một vài người làm trên tàu cho họ ngủ trên sàn cabin. Ernesto chỉ cần có thế. Khi tàu đến cảng chuối bị bỏ hoang Quepos, tàu chòng chành dữ dội vì biển động, gần như mọi hành khách, trong đó có Gualo đều say sóng. Chỉ còn lại Ernesto và Socorro, một cô gái da đen hấp dẫn đầy nhục dục. Anh nhận xét trong nhật
https://thuviensach.vn
ký rằng cô ta “mas puta que las gallinas” (hứng tình hơn cả gà mái) – một thành ngữ Argentina phổ biến. La Pachucca – cái tên thân mật Ernesto đăt cho con tàu vì nó chở những pachuco (những kẻ lang thang) cập cảng Puntarenas lúc sáu giờ tối.
Họ xuống tàu và đến San José, thủ đô của Costa Rica nằm ở Thung lũng Trung tâm, bao quanh là những núi lửa. Thành phố tọa lạc ở độ cao 1.161m so với mực nước biển và vì nó là một trong những thủ đô trẻ nhất ở châu Mỹ Latinh nên nó không có những tòa nhà theo phong cách thuộc địa. Nhiệt độ ở đây dễ chịu quanh năm, trung bình khoảng 23ºC. Đến nơi, họ ghé qua lãnh sự quán và Ernesto nhận được thư từ Alberto Granado khiến anh nhận ra mình nhớ Alberto biết bao. Các nhân viên ngoại giao cũng cho họ một kho yerba maté.
Costa Rica là ví dụ điển hình cho thấy một nước cộng hòa Trung Mỹ nhỏ bé có thể trở nên thịnh vượng và ổn định mà không phải nghe “người khổng lồ phương bắc” chỉ đạo cách quản lý công việc nội bộ của chính nước mình, tuy rằng tổng thống Figueres có đặt Đảng Cộng sản ra khỏi vòng pháp luật và tìm cách dĩ hòa vi quý với Hoa Kỳ. Ông đã bãi bỏ quân đội và quy định rằng lúc này cần phải dùng ngân khố để phát triển giáo dục và văn hóa. Ông đã quốc hữu hóa các ngân hàng và điều hành một nền kinh tế do chính phủ quản lý nhưng không can thiệp vào đầu tư nước ngoài. Ông ban quyền công dân cho con cái của những người nhập cư da đen, cho phụ nữ quyền bỏ phiếu và tích cực ủng hộ việc thảo hiến pháp mới.
Tại San José, Ernesto gặp hai người gây ấn tượng sâu sắc với cậu và có thể đã củng cố lòng nhiệt tình với chính trị đang lớn dần trong cậu: Manuel Mora-Valverde và Juan Bosch. Mora-Valverde là một lãnh đạo cộng sản và Ernesto thấy ông thật thông tuệ và giỏi hùng biện khi phân tích lịch sử hiện đại Costa Rica. Juan Bosch, nhà văn sau này trở thành tổng thống Cộng hòa Dominica có bàn luận về chính trị với ông và Ernesto thấy Bosch có những tư tưởng và khuynh hướng cảnh tả rất rõ ràng. Cậu còn gặp một chính trị gia khác tên là Romulo Betancourt, người sau này trở thành tổng thống Venezuela. Ernesto không có ấn tượng với ông ta và cho rằng ông ta là một kẻ ba phải.
Ernesto cũng gặp hai tiểu thuyết gia Carlos Luis Fallas và Jorge Icaza tại Costa Rica. Fallas sinh ra tại thành phố Alujuela. Khi còn trẻ, ông làm ở đồn điền chuối của công ty United Fruit và sau này trở thành lãnh đạo cuộc đình công của công nhân chuối năm 1934. Tiểu thuyết Mamita Yunai của ông (Yunai là phiên âm của United và mamita có nghĩa là người mẹ nhỏ), được xuất bản năm 1940, phơi bày tình cảnh cùng cực của công nhân và sự ngược đãi mà họ phải chịu dưới tay đốc công người Mỹ.
Tiểu thuyết Huasipungo của Jorge Icaza được xuất bản năm 1934 kể về những vấn đề của người da đỏ ở Ecuador. Trào lưu bản địa chủ nghĩa đi trước chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và nó có vai trò quan trọng trong nền văn học Mỹ Latinh bởi nó mở đường cho những nhà văn như Gabriel García-Márquez và Mario Vargas-Llosa. Cuốn tiểu thuyết đem lại tiếng tăm toàn cầu cho tác giả khi nó được dịch ra bốn mươi thứ tiếng. Cả hai nhà văn tặng Ernesto sách có chữ ký của họ và cậu đọc rồi chú thích hai cuốn đó một cách nghiêm túc.
Ernesto và Gualo xin đi nhờ xe đến Nicaragua. Anastasio “Tacho” Somoza đang tự tung tự tác cai trị đất nước này. Ernesto gọi Nicaragua, El Salvador và Honduras là nông trang của những kẻ lắm quyền chứ chẳng phải là đất nước, một cách so sánh cậu đã từng nghe ở Buenos Aires. Khi họ đi bộ dưới trời mưa tầm tã trên đường cao tốc ở Nicaragua, một chiếc xe đi ngược chiều dừng lại. Đó là một chiếc Ford 1946 với biển số xe của Mỹ và họ vô cùng ngạc nhiên khi thấy Ricardo Rojo bước ra khỏi xe. Anh đang đi du lịch cùng hai người anh em Argentina là Walter và Domingo Beveraggi. Vì một người là giáo sư Đại học Boston nên có biển số xe tại Mỹ.
Gualo và Ernesto cho họ biết là con đường này không thể đi được nữa nên họ quyết định quay về Rivas, với Gualo và Ernesto gia nhập nhóm. Tối đó, họ cùng uống maté và Rojo và Ernesto kể cho nhau nghe những gì đã diễn ra với mỗi người từ khi họ chia tay nhau ở Guayaquil. Họ ăn cơm và gà chiên và anh em Beveraggi lôi cây guitar ra chơi những bài hát dân ca từ quê nhà, khiến cho buổi tối hôm đó thêm phần hoài niệm và tha thiết. Ernesto và Gualo đã không có một bữa ăn tử tế nhiều ngày nay.
https://thuviensach.vn
Sáng hôm sau, nhóm bạn chia làm hai: Rojo và Walter Beveraggi bay đến San José và Ernesto, Gualo và Domingo Beveraggi lái xe đến Guatemla để Domingo bán xe. Họ đi qua Honduras và El Salvador, trả tiền thuế nhập cảnh ở cửa khẩu bằng cà phê ở nước này và ngọn đuốc ở nước kia. Khi đến được Guatemla thì đã là đêm Giáng Sinh và họ đã rỗng túi.
Thành phố Guatemala, thủ đô của quốc gia nhỏ bé này được bao quanh bởi thảm thực vật nhiệt đới sum suê. Nó tọa lạc giữa những núi lửa, hồ, rừng và đồn điền cà phê. Ernesto gặp Valdovino và vợ mới cưới người Panama của anh là Luzmilla và tìm được một nhà khách để trọ. Ricardo Rojo đã trở về từ Costa Rica và anh giới thiệu Ernesto với Hilda Gadea. Cô là một người Peru lưu vong lai Trung Quốc và da đỏ, một nhà kinh tế học tại Instuto de Fomento a la Producción (Viện Phát triển Sản xuất). Ở Peru, cô đã từng là thủ lĩnh sinh viên Đoàn thanh niên thuộc đảng Liên minh Cách mạng Nhân dân châu Mỹ (Alianza Popular Revolucionaria Americana), một đảng dân chủ xã hội cánh tả với tham vọng vươn khắp châu lục. Nó đã ảnh hưởng đến nhiều phong trào Mỹ Latinh, trong đó có Phong trào Cách mạng Dân tộc của Bolivia.
Hilda giới thiệu Ernesto với Harold White, một giáo sư người Mỹ chuyên viết về chủ nghĩa Marx và ông đang muốn tìm người dịch nghiên cứu của mình sang tiếng Tây Ban Nha. Luzmilla và Ernesto nhận việc đó và Ernesto còn dạy tiếng Tây Ban Nha cho giáo sư. Đó là công việc tạm thời để trang trải những chi phí trước mắt trong khi cậu đang cố xin một công việc tử tế đúng chuyên môn của mình với Bộ Y tế Cộng đồng. Cậu không quên rằng Andro Herrero vẫn bị kẹt ở Guayaquil với đống nợ nần của cả nhóm và họ đã hứa sẽ giải cứu anh.
Guatemala thú vị hơn bất cứ nơi nào họ đã từng đến trong khu vực bởi chính phủ nước này đang thực hiện cải cách nông nghiệp. Sứ mệnh này đòi hỏi sự can đảm khi mà phần lớn đất đai đều dưới quyền sở hữu của công ty United Fruit có mặt ở khắp nơi. Thành phố Guatemala có nhiều người lưu vong chính trị từ các nước Mỹ Latinh đang bị cai trị bởi nền độc tài quân phiệt cánh hữu. Họ đến từ Peru, Venezuela, Nicaragua, Honduras và cả một nơi xa xôi như Chile. Trong những người mà Hilda Gadea quen biết có giáo sư Nicaragua Edelberto Torres, một chiến sĩ đấu tranh không mỏi mệt chống lại chế độ độc tài ở Trung Mỹ. Giáo sư Torres đã từng đến Trung Quốc và từ ông mà Ernesto học được nhiều điều về cách mạng ở quốc gia đó. Gia đình Torres thường tiếp đón và chiêu đãi bạn của bạn bè họ nên Ernesto và Gualo cũng trở thành khách của họ. Nhờ đó mà trong một bữa tiệc mừng năm mới do Myrna Torres tổ chức tại nhà, Ernesto đã gặp một số người Cuba lưu vong đã thoát khỏi vụ tấn công pháo đài Moncada kinh hoàng vào tháng bảy mới đây: Ñico López, Mario Dalmau, Armando Arancibia và Antonio Darío López.
Tại Santiago, Cuba, một luật sư trẻ tên là Fidel Castro, em trai Raúl cùng một nhóm nam nữ thanh niên cùng chí hướng đã bí mật lên kế hoạch lật đổ chính quyền của Fulgencio Batista, kẻ đã cầm quyền từ năm 1952 nhờ một cuộc đảo chính có sự đồng thuận của Hoa Kỳ. Họ lên kế hoạch tấn công pháo đài Moncada ngày 26 tháng 7 năm 1953. Cuộc nổi dậy thất bại hoàn toàn. Anh em nhà Castro bị tống vào ngục và phần lớn những người đồng mưu bị bắt hoặc bị giết. Tuy vậy, số binh lính thiệt mạng nhiều gấp ba lần số người nổi dậy trong cuộc giao tranh đó.
Để trả thù cho sự việc nhục nhã, đáng hổ thẹn này, Batista ra lệnh cứ một người lính bị chết thì giết mười tù nhân. Bảy mươi người nổi dậy đã bị bắn chết trong ngục và chỉ nhờ có sự can thiệp của Tổng giám mục Santiago thì mới chấm dứt được bể máu này.
Khi Fidel Castro bị xét xử và được hỏi ai đứng đằng sau vụ tấn công này, anh trả lời: “Tác giả của cuộc cách mạng này là José Martí, lãnh đạo nền độc lập của chúng ta.” Martí là người ủng hộ Cuba giành độc lập từ Tây Ban Nha và vì sứ mệnh đó mà ông đã hi sinh năm 1895. Fidel Castro bị xử mười lăm năm tù giam và em trai Raúl của ông bị xử mười ba năm. Nhưng vụ tấn công pháo đài Moncada đánh dấu khởi đầu của phong trào 26 tháng 7 sẽ tiếp tục chiến đấu giải phóng Cuba khỏi tay Fulgencio Batista.
Ban đầu, Ernesto không tin lắm vào những kỳ tích của họ. Cậu cười khẩy và còn dùng một thành ngữ
https://thuviensach.vn
phổ biến ở Buenos Aires lúc bấy giờ để chế giễu và thể hiện sự hoài nghi của mình: “Bây giờ kể cho tôi câu chuyện về mấy anh chàng cao bồi đi.” Nhưng cuối cùng Ñico López và Ernesto trở thành bạn thân (chính Ñico López đã đặt tên thân mật cho Ernesto là Che). Những người Cuba ở Guatemala đang đếm thời gian bởi họ biết cách mạng sẽ bùng nổ mạnh mẽ ngay khi Fidel Castro được phóng thích.
Ernesto đã hi vọng đến vùng El Petén, nơi những người da đỏ có thể hưởng lợi từ sự giúp đỡ của cậu (và ở đó cũng có đền thờ của người Maya ở Tikal). Cậu tình nguyện làm bác sỹ nhưng chính quyền đòi xác minh bằng cấp của cậu và sẽ mất một năm. Cuối cùng, cậu nhận được một công việc ở Direccion Nacional de Estadistica (Cục Thống kê Quốc gia) nhưng cậu từ chối vì để có công việc đó cậu phải gia nhập Đảng Lao động Guatemala (là một đảng cộng sản). Cậu không chịu. Cậu nói với Hilda Gadea, người đã giới thiệu cậu, rằng: “Không phải là tôi không đồng ý với hệ tư tưởng cộng sản mà là tôi không thích những phương pháp của đảng đó. Người ta không nên kết nạp thành viên như thế. Như vậy không đúng.“
Do Ernesto không thể hành nghề y nên cậu và Ñico López đi bán hàng rong. Họ bán một bức tranh đóng khung của Nuestro Señor de Esquipulas, Chúa cứu thế người da đen rất nổi tiếng ở Guatemala. Ñico mắc bóng đèn vào tranh để thắp sáng và Ernesto đem nó đi khắp nơi rao bán, thường xuyên ca ngợi những phép màu của vị thánh này.
Ernesto hợp với Hilda Gadea bởi cô cũng là người đọc nhiều. Cậu đã tìm được một người để cùng bàn luận về bộ Tư Bản của Marx, Chủ nghĩa Xã hội: Duy tâm và Khoa học và Chống Dühring của Engel và Chủ nghĩa đế quốc, hình thức cao nhất của Chủ nghĩa tư bản của Lenin cũng như các tác phẩm của Tolstoy, Gorky, Dostoyevsky và Kropotkin. Họ cũng thường xuyên thảo luận với nhau về José Carlos Mariátegui, nhà tư tưởng Peru và là người Mỹ Latinh đều tiên kết hợp chủ nghĩa dân tộc và tư tưởng bản địa với chủ nghĩa Marx trong những năm 1920. Ông đã sống những năm tháng lưu vong tại Paris, một thành phố mà Ernesto luôn mơ đến thăm còn Hilda thì bảo anh chỉ thích đời sống tự do ở Paris và ngồi dầm dề trong quán cà phê.
Có thể nhờ quãng thời gian nghiên cứu và tranh luận này mà Ernesto mở mang tư tưởng của mình rằng chủ nghĩa Marx là một môn khoa học đang phát triển, cũng như sinh học. Tuy nhiên, suốt cuộc đời mình, cậu chỉ miễn cưỡng nhận mình là người Marxist dù cậu đã quen thuộc với những tư tưởng đó từ hồi trẻ. Thời niên thiếu, cậu vẫn thường đọc Marx trong thư viện của cha; Alberto Granado đã là một người Marxist khi họ gặp nhau và quyết định cùng đi du lịch; Tita Infante, bạn của Ernesto ở Khoa Y ở Buenos Aires là đảng viên đảng Cộng sản; người thầy của cậu, sư phụ Hugo Pesce vốn là tông đồ của Mariátegui và cũng có ảnh hưởng đến quá trình giác ngộ chính trị của cậu. Pepe González-Aguilar, người bạn lâu năm của Ernesto từng nói rằng Ernesto tự phát triển tư tưởng chính trị của mình, lấy Marx làm gốc và kết hợp tư tưởng của các nhà tư tưởng đương đại nữa.
Thời trẻ ở Argentina, Ernesto cho rằng đảng Cộng sản bị phân tầng, cứng nhắc và xa rời dân chúng. Anh sẽ không bao giờ thay đổi quan điểm của mình về những đảng cộng sản lâu đời đó cho dù họ từ đâu tới, và điều này tô điểm thêm thái độ của cậu với họ: Ernesto không coi họ là môn đồ thực sự của Marx cho dù họ đã theo tư tưởng của Marx và áp dụng vào trường hợp cụ thể.
Hồi ở Guetamala, Ernesto giành thời gian tiến hành một bản nghiên cứu vai trò của bác sỹ ở các nước Mỹ Latinh. Bản nghiên cứu đề cập đến tình hình trạng nhiều quốc gia hầu không có bất cứ sự hỗ trợ hay bảo hiểm y tế nào đồng thời miêu tả những điều kiện làm việc tồi tàn của ngành y và sự thiếu thốn tài nguyên. Đó là bản tóm tắt những số liệu thống kê mà Ernesto thu thập được từ các nước cậu đã đi qua. Như những người đã điều tra trước đó, Ernesto đi đến kết luận rằng thái độ của chính phủ các nước đó đã dung túng cho bọn đầu sỏ địa phương thông lưng với những công ty lớn của Mỹ bóc lột đất nước. Những điều Ernesto đọc được đã giúp cậu biết Liên Xô giải quyết những vấn đề đó theo cách khác.
Giữa tháng hai năm 1954, người ta đồn ầm lên rằng Mỹ chuẩn bị xâm lược Guatemala vì chướng mắt với những cải cách xã hội chủ nghĩa của tổng thống Arbenz. Đại tá Castillo-Armas, một người Guatemala
https://thuviensach.vn
sẽ lãnh đạo lực lượng nổi dậy nhưng thật ra ông ta chỉ đang làm việc bất chính cho chính phủ Hoa Kỳ và anh em Dulles. John Foster Dulles là người phát ngôn của chính quyền Eisenhower và đồng thời là một luật sư có công ty đã đại diện cho United Fruit trong những vụ tranh chấp với các chính phủ Trung Mỹ. Anh trai ông ta, Allen Dulles là giám đốc CIA. Cả hai đều công khai chống cộng sản.
Ricardo Rojo và Gualo Garcia quyết định rời khỏi Guatemla. Rojo dự định đi về hướng bắc để đến Mỹ trong khi Gualo chuẩn bị về quê nhà ở Argentina và ổn định cuộc sống. Valdovinos đã về Buenos Aires với vợ anh vì cô đã xin được việc làm ngoại giao tại đại sứ quán Panama ở đó. Vậy là trong nhóm sáu người bạn ở Ecuador thì chỉ còn Ernesto là vẫn rong ruổi trên đường. Cậu muốn chứng kiến sự xâm lược do Mỹ giật dây và cho rằng ngay cả khi chính phủ Guatemala có quân đội về phía mình thì họ vẫn nên trang bị vũ khí cho dân chúng, những người sẽ giúp bảo vệ những tiến bộ xã hội mới đạt được.
Trong cuốn sách Che, Bạn tôi, Ricardo Rojo kể lại rằng một tuần trước cuộc xâm lược, phi công Mỹ đã rải hàng nghìn truyền đơn để cho dân chúng Guetamela biết rằng quân giải phóng của đại tá Castillo Armas đã tập trung ở biên giới. Đại tá cũng thường xuyên lên sóng đài phát thanh kêu gọi dân chúng từ bỏ chính phủ Arbenz. Nhà thờ Công giáo cũng lợi dụng tình hình mà thổi phồng khuynh hướng cánh tả của giới cầm quyền.
Trước ngày 18 tháng 6, quân nổi dậy từ Honduras tràn sang Guatemala. Trong những ngày đầu tiên, họ tiến quân được 15km mà không gặp phải sự kháng cự nào. Sau đó, họ đụng độ với quân chính phủ và những kẻ xâm lược bị phân tán. Nhưng ai cũng biết trận chiến thực sự diễn ra ở thủ đô. Chính phủ có 7000 quân nhân có vũ trang nhưng Jacobo Arbenz là một người lính dạn dày kinh nghiệm và ông không sẵn sàng trao vũ khí cho những thành viên công đoàn, sinh viên, những đảng phái chính trị đã tuyên bố trung thành với cuộc cách mạng của ông ta hay những người nông dân chỉ để thổi phồng quân số. Thay vì vậy, ông từ chức tổng thống với lý do muốn né tránh sự đổ máu. Khi ông chưa kịp rời ghế tổng thống, những đối thủ cánh hữu của ông đã lên kế hoạch vụ đổ máu tiếp theo, biến Guatemala thành một đất nước bạo loạn và bất ổn triền miên.
Theo lời Ricardo Rojo thì quyền đại sứ Argentina đã tìm đến nhà khách nơi Ernesto ở lúc rạng sáng. Ông vốn có quan hệ tốt với Rojo, Valdo, Gualo và Ernesto và họ đã được ông tặng những món quà là yerba maté và báo Argentina (ngay cả khi ông là đặc phái viên của tổng thống Perón). Ông yêu cầu Ernesto cùng ông đến đại sứ quán vì sự an toàn của chính cậu. Ernesto cãi lý rằng không một ai biết cậu và cậu không thực sự gặp nguy hiểm. Nhà ngoại giao ấy nói rằng ông đã được cảnh báo về một kẻ gây rối người Argentina trong danh sách tử hình. CIA đã phát hiện ra cậu ở Guatemala và đang mở cuộc điều tra về cậu và theo dõi sát sao những động tĩnh của cậu. Ngài đại sứ phân tích rằng Ernesto thật ngây thơ khi tin rằng cậu có thể làm được những việc mà ngay cả chính phủ cũng không làm nổi để cứu lấy mình. Và thế là Ernesto sống ở đại sứ quán Argentina trong một tháng với tư cách khách mời của chính phủ Perón.
Sau này, người ta mới biết được là tổng thống Perón có mối quan hệ đặc biệt với người tiền nhiệm của Arbenz: Tháng 5 năm 1947, tổng thống Guatemala Juan José Arévalo phê chuẩn Luật Lao động mới, dẫn đến các công ty vận chuyển của Mỹ tuyên bố họ sẽ không phục vụ các bến cảng Guatemala nữa. Bởi vì quốc gia này không có đội tàu riêng nên như thế cũng chẳng khác nào phong tỏa. Ngay khi Perón nhận được tin này, ông ra lệnh cho hạm đội thương mại đưa các cảng Guatemala vào lộ trình. Ông cũng nhân cơ hội gửi một kiện hàng vũ khí do những tàu lớn đầu tiên chở đến Guatemala. Perón được trao tặng Huân chương Quetzal, huân chương cao quý nhất của Guatemala cho người nước ngoài.
Điều này giải thích tại sao Perón lại phản đối vụ đảo chính. Ông cũng kịp thời xin phép cho đậu máy bay quân sự ở Guatemala để những người Argentina xin tị nạn ở đại sứ quán có thể hồi hương. Ernesto từ chối quay lại Argentina nhưng đã xin được giấy thông hành an toàn tới Mexico. Tại đó, cậu gặp lại Ricardo Rojo và kể cho bạn mình nghe về những gì đã diễn ra ở Guatemala sau khi chính phủ Arbenz sụp đổ. Công ty United Fruit lại ngự trị tối cao, những người ủng hộ Arbenz bị tàn sát, có một cuộc thanh trừng chính trị và bao nhiêu kế hoạch cải cách nông nghiệp đều bị đảo ngược. Điền chủ quay trở lại và
https://thuviensach.vn
người dân lại bị truất hữu một lần nữa.
Guatemala là một bước ngoặt trong cuộc đời Ernesto, không chỉ bởi vì cậu đã học được bài học rằng Arbenz vì không trang bị vũ khí cho người dân, sinh viên và công nhân nên đã tự đào huyệt chôn mình mà còn bởi vì cậu thích những cuộc giao tranh, đánh bom và chiến đấu ác liệt, như cậu tâm sự trong thư gửi mẹ. Trong thư, cậu nói: “Con hơi xấu hổ khi thừa nhận rằng con đã có khoảng thời gian tuyệt diệu nhất trong những ngày qua. Cảm giác bất khả xâm phạm thần kỳ mà con đã kể với mẹ trong thư trước khiến con thích thú nhìn người người chạy qua lại như điên ngay khi họ nhìn thấy máy bay, hay buổi đêm đạn bay vèo vèo trong thành phố lúc mất điện.” Ernesto bị ấn tượng bởi sức mạnh của những máy bay ném bom mà cậu đã chứng kiến, cảm nhận sự khấn khích vượt qua tất cả những gì cậu đã trải qua ngay cả trong thời khắc hiểm nghèo nhất từ trước đến nay.
Chính tại Guatemala mà Ernesto tán thành thành giải pháp bạo động để giải phóng hoàn toàn châu lục khỏi sự thống trị của ngoại bang. Cậu sẽ không bao giờ từ bỏ bạo động bởi cậu thực sự tin rằng đó là cách duy nhất để đánh bại kẻ thù. Những lời dạy của Gandhi về bất bạo động chẳng còn là gì ngoài một ký ức mơ hồ. Trên thực tế, cho dù có ý thức hay không thì kể từ đó, Ernesto sẽ lên đường tìm một dân tộc sẵn sàng cầm vũ khí nổi dậy và sẽ gửi đời mình theo họ. Một con người đã đùa giỡn với tử thần suốt đời mình vì thể chất yếu đuối dường như lại chơi một trò chơi nguy hiểm là chế nhạo tử thần. Cậu như đang muốn nói: “Hãy đến và bắt ta đi.”
https://thuviensach.vn
XII
(1954 - 1955)
Tại biên giới Mexico, Ernesto gặp một thanh niên Guatemala, “một sinh viên khoa công trình tên là Julio Roberto Caceres-Valles cũng đam mê di chuyển. Sau một thời gian, cậu ấy định đến Veracruz và từ đó nhảy sang Mỹ. Bọn con cùng đến thành phố Mexico và lúc này con chỉ có một mình mặc dù cậu ấy có thể sẽ quay lại,” Ernesto viết trong một lá thư gửi cha mẹ.
Patojo, tên thân mật của Caceres vì những người trẻ hay nhỏ con ở Guatemala thường được gọi như vậy sau này sẽ trở thành bạn đồng hành không thể tách rời của Ernesto. Họ cùng nhau làm việc và cùng quan điểm về cuộc chiến chống lại ách thống trị của Mỹ ở Mỹ Latinh. Khi cuộc xâm lược Cuba đang được chuẩn bị ở Mexico, Patojo tình nguyện ra nhập đội quân nổi dậy nhưng Castro từ chối bởi anh không muốn biến lực lượng du kích của mình thành “một bức khảm trai toàn những người ngoại quốc”, theo cách nói của Ernesto. Khi cách mạng đã thắng lợi, Patojo từ bỏ tài sản ít ỏi của mình ở Guatemala và đến trước cửa nhà Ernesto. Ernesto cho anh một công việc ở văn phòng chính phủ và không lâu sau thì anh trở thành thủ trưởng phòng tổ chức cán bộ của ban công nghiệp hóa thuộc Viện Cải cách Nông nghiệp Trung ương mà Ernesto từng làm giám đốc năm 1959. Cuối cùng, anh quay về Guatemala để tham chiến lần nữa và hi sinh tại đó.
Trên đường đến thành phố Mexico, Ernesto và Patojo đi thăm những di tích khảo cổ ở Mitla gần Oaxaca. Chúng không ấn tượng như Machu Picchu nhưng Ernesto thấy nơi đó thật thú vị, giúp anh mường tượng về những kỳ công của nền văn minh Aztec và Maya khắp Mexico mà anh đang mong chờ.
Đến thành phố Mexico, Ernesto quyết định đi tìm việc. Anh đến gặp Ulises Petit de Murat, một người bạn Argentina của cha mẹ anh đã tị nạn ở Mexico vì lòng căm ghét mãnh liệt của ông với Perón. Petit là một nhà biên kịch thành công. Những ngày đó, Mexico tự hào có một nền công nghiệp điện ảnh phát triển với những diễn viên lên hàng ngôi sao quốc tế như Pedro Armendáriz, Cantinflas và María Félix. Petit cùng người con gái tuổi thiếu niên đưa Ernesto tham quan thành phố, cho anh ăn uống và còn mời anh đến ở với gia đình họ. Ernesto từ chối vì anh thấy họ quá tư sản và sùng đạo so với anh và anh cũng muốn giữ sự tự chủ cho mình.
Trong lá thư gửi cha mình đề ngày 30 tháng 9 năm 1954, Ernesto viết rằng: “Con đã thăm thú Mexico đủ để nhận ra rằng vấn đề sẽ không mấy đơn giản, nhưng con đã đến đây với một tinh thần thép... Sau này, con sẽ xin visa sang Mỹ và sẽ chấp nhận bất cứ cơ hội nào ở đó, nhưng phải chờ mấy tháng nữa.” Giờ đây, khi có thể phân tích trải nghiệm ở Guatemala với cái đầu lạnh, anh kết luận rằng Mỹ sẽ tiếp tục can thiệp vào “sân sau” bất cứ khi nào một quốc gia Mỹ Latinh tự mình đưa ra những quyết định trọng đại mà không hỏi sự đồng thuận của Mỹ trước, do đó đe dọa quyền bá chủ của Mỹ. Anh cũng tin rằng Liên Xô và Mỹ đang xảy ra xung đột. Lúc này, anh 26 tuổi và quan tâm nghiêm túc đến chính trị mặc dù anh vẫn chưa phải là một người Marxist và anh tin rằng đấu tranh có vũ trang là đường đi duy nhất. Sau này, anh có một câu nói nổi tiếng: “Tôi sinh ra ở Argentina, tôi chiến đấu ở Cuba và tôi bắt đầu cách mạng ở Guatemala.”
Anh đến bảo tàng quốc gia và đó là một trải nghiệm rất bổ ích, thỏa mãn trí tò mò về khảo cổ học và giới thiệu anh đến những bích họa của tứ đại danh họa: Rivera, Tamayo, Siqueiros và Orozco. Anh thấy chúng thật ấn tượng tuy anh không cho rằng chúng được trưng bày thích đáng. Bốn danh họa thuộc trường phái Tranh tường Mexico, được sinh ra cùng với Cách mạng Mexico đã đem lại những tiến bộ chính trị và xã hội, và cả bốn người đều là người cộng sản. Họ trang trí những tòa nhà công cộng với những hình họa khổng lồ nhiều màu sắc, một số là phong cách Maya truyền thống, một số lại là phong
https://thuviensach.vn
cách đương đại.
Ernesto và Patojo thuê chung một căn phòng ở trung tâm thành phố Mexico và lúc này họ cùng nhau kinh doanh để không vướng nợ. Ernesto chụp ảnh cho trẻ em trong các công viên ở thành phố Mexico và những bức ảnh sau khi được rửa sẽ được Patojo đem đến cha mẹ chúng. Ernesto cũng cố bước chân vào ngành y, bằng cách này hay cách khác để tiếp tục những nghiên cứu về bệnh dị ứng mà anh đã bắt đầu dưới sự dẫn dắt của bác sỹ Pisani cũng như tìm một công việc đem lại cho anh nguồn thu nhập ổn định.
Anh đi khắp các bệnh viện cố gặp được giáo sư Mario SalazarMallén, nhà nghiên cứu bệnh dị ứng hàng đầu Mexico và ông mời anh cùng hợp tác ở Bệnh viện Đa khoa. Tại đó, Ernesto có thể vận dụng tất cả những gì anh đã học được ở Buenos Aires vài năm trước. Anh cũng làm việc ở Bệnh viện Nhi mấy buổi sáng một tuần. Đến cuối tháng 10, Ñico López, người bạn Cuba của anh từ Guatemala đến khoa dị ứng của Bệnh viện Đa khoa tìm bác sỹ để giúp một người đồng hương Cuba bị ốm và gặp ngay Ernesto. Họ nối lại tình bạn và Ernesto gặp lại những cựu binh Cuba lưu vong sau vụ tấn công pháo đài Moncada năm xưa mà anh đã gặp lần đầu tiên ở Costa Rica.
Đầu tháng 12, Ernesto gặp giám đốc Thông tấn xã Mỹ Latinh (Agencia Latina de Noticias). Thông tấn xã do Perón thành lập vì ông nghĩ rằng nên để cho những phóng viên Mỹ Latinh tường thuật những tin tức về Mỹ Latinh thay vì những đồng nghiệp Bắc Mỹ. Ông cho anh làm phóng viên không thường trực, đồng nghĩa với việc anh sẽ không phải chạy theo những đứa trẻ Mexico khắp các quảng trường thành phố và niềm nở với cha mẹ chúng với hi vọng họ sẽ mua ảnh của anh và bạn anh. Đó là một công việc rất mệt mỏi và không mấy lời lãi. Anh tiếp tục nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa bởi đó là công việc anh thích và anh đang thu được những kết quả đáng chú ý.
Hilda Gadea không thể quay lại Peru bởi cô gặp một số rắc rối với các nhân viên đại sứ quán Peru ở thành phố Guatemala khi họ từ chối gia hạn hộ chiếu cho cô. Cô bị quan chức Guatemala bắt giam và tống vào một nhà tù ở biên giới vì đã hợp tác với chính phủ trước. Tại đó, cô đã tìm cách mua chuộc để đưa mình ra khỏi tù và vượt qua biên giới Mexico.
Hilda và Ernesto bắt đầu hẹn hò thường xuyên, tuy rằng mối tình của họ cũng trải qua nhiều sóng gió. Một lần Hilda nổi cáu khi Ernesto không chịu hộ tống cô đến một bữa tiệc đón năm mới. Thay vì thế, anh lại đón năm mới ở cơ quan của Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ để gác đêm.
Pepe González-Aguilar kể với tôi rằng Ernesto đã từng có quan hệ với một người phụ nữ da đỏ hơn nhiều tuổi tên là Sabina, người giúp việc ở nhà bố mẹ anh ở Buenos Aires và đã từng trông nom anh trong những lúc lên cơn hen. Pepe cho rằng Hilda với nửa dòng máu da đỏ đã khiến Ernesto nhớ lại mối quan hệ bí mật đó. Theo ý kiến của ông thì Ernesto chưa bao giờ yêu hay muốn ổn định cuộc sống với cô. Anh coi trọng cô như một người đồng hành trung thành, một người bạn tốt trong những lúc hoạn nạn và một người ngang hàng về trí tuệ.
Lúc này, Ernesto giành nhiều thời gian hơn với những người bạn Cuba. Họ thường tụ tập ở nhà một người Cuba lưu vong là María Antonia González và người chồng Mexico của cô là Dick Medrano, một tay đấm bốc chuyên nghiệp. Ernesto vừa phẫu thuật buồng trứng cho mấy con mèo cái anh đem từ ngoài đường về, coi như một thí nghiệm khoa học vừa đọc cuốn “Mexico nổi dậy” của John Reed và hồi ký của Pancho Villa. Anh muốn biết tại sao Cách mạng Mexico thất bại và tại sao những chiến công anh hùng của hai nhà lãnh đạo tài ba Pancho Villa và Emiliano Zapata lại rơi vào dĩ vãng. Đảng Tổ chức Cách mạng Partido hình thành từ cuộc cách mạng vẫn nắm quyền nhưng đã phản bội lại tôn chỉ hoạt động của nó.
Trong thư gửi cha đề ngày 10 tháng 2 năm 1955, Ernesto kể rằng “Mexico nằm hoàn toàn trong tay người Mỹ, đến mức khi Nixon sang thăm (nhân Đại hội thể thao liên Mỹ), người ta phải tống vào tù tất cả những người Puerto Rico dân tộc chủ nghĩa cũng như những người chống đối thuộc đủ thành phần. Anh nói về tình trạng kiểm duyệt báo chí và bày tỏ lo ngại về việc FBI cứ vô tư hoạt động tại Mexico mà không lo bị truy tố. Ernesto coi Argentina như “một ốc đảo giữa châu Mỹ”, trái ngược với Mexico mục
https://thuviensach.vn