🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chim Cổ Đỏ - Jo Nesbo Ebooks Nhóm Zalo LỜI ĐỀ TỪ Nhưng rồi, dần dần, con chim có được can đảm, bay đến gần Chúa hơn, cái mỏ bé xíu nhổ một cái gai đã ghim sâu vào trán của Đấng chịu Đóng đinh trên Thập giá. Khi nó làm thế, một giọt máu từ trên mặt Chúa nhỏ xuống ngực nó - nhanh chóng loang ra, nhuộm thắm đám lông trên khuôn ngực nhỏ mịn màng. Thế rồi Chúa hé môi, thì thầm với con chim: “Nhờ lòng trắc ẩn của ngươi, ngươi đã có được tất cả những thứ mà giống loài của ngươi vẫn hằng đeo đuổi, từ khi thế giới này được tạo ra.” Seltna Lagerloy, Chim cổ đỏ, Những huyền thoại về Chúa Jesus, PHẦN 1 ĐẤT ĐỐI ĐẤT 1 Trạm thu phí tại Alnabru. Ngày 1 tháng Mười một năm 1999. Một con chim lông xám chao lượn trong tầm nhìn của Harry. Mấy ngón tay anh gõ gõ trên vô lăng. Thời gian trôi chậm chạp. Hôm qua trên truyền hình ai đó đã nói về chuyện “thời gian trôi chậm chạp”. Đây là lúc thời gian trôi chậm lại. Như đêm Noel trước khi ông già Noel đến. Hay ngồi trên ghế điện trước khi dòng điện bật lên. Anh gõ nhịp mạnh hơn. Họ đỗ xe trong khu vực lộ thiên phía sau mấy buồng bán vé tại cổng thu phí. Ellen vặn to radio lên một chút. Giọng của xướng ngôn viên vang lên đầy trang trọng và cung kính. “Phi cơ đã hạ cánh cách đây năm mươi phút, và đúng 6 giờ 38 phút sáng ngài tổng thống đã đặt chân lên đất Na Uy. Ngài được thị trưởng Ullensaker nghênh tiếp. Hôm nay là một ngày thu tuyệt vời ở Oslo: một khung cảnh Na Uy tráng lệ làm nền cho cuộc họp thượng đỉnh này. Chúng ta hãy cùng nghe lại những gì ngài tổng thống phát biểu tại cuộc họp báo nửa giờ trước.” Lần thứ ba rồi. Một lần nữa Harry trông thấy các đoàn báo chí hò hét chen lấn bên hàng rào chắn. Mấy gã mặc com lê xám đứng phía bên kia hầu như chẳng buồn cố gắng sao cho khỏi giống Mật vụ, khom vai rồi lại thả lỏng khi theo dõi đám đông, kiểm tra tới lần thứ mười hai xem tai nghe đã ngay ngắn chưa, theo dõi đám ông, chú mục mấy giây vào tay chụp ảnh có ống kính tele hơi quá dài, tiếp tục theo dõi, kiểm tra tai nghe đến lần thứ mười ba. Ai đó chào đón tổng thống bằng tiếng Anh, mọi thứ im bặt. Rồi một tiếng lạo xạo trong micro. “Trước hết, cho phép tôi nói rằng tôi rất vui mừng khi đến đây…” Tổng thống nói đến lần thứ tư bằng thứ tiếng Anh Mỹ nặng và khàn. “Tôi đọc ở đâu đó có một nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ cho rằng tổng thống mắc chứng MPD” Ellen nói. “MPD?” “Chứng rối loạn đa nhân cách. Theo kiểu bác sĩ Jekyll và ông Hyde ấy. Nhà tâm lý học đó nghĩ rằng nhân cách bình thường của ông ta không nhận thức được rằng nhân cách kia là con thú dâm dục, đang có quan hệ với tất cả những phụ nữ này. Và đó là lý do tại sao Tòa án không thể buộc tội ông ta dối trá khi tuyên thệ trước tòa.” “Lạy Chúa,” Harry nói, ngước nhìn lên chiếc trực thăng đang lượn cao trên đầu họ. Trên radio, ai đó nói tiếng Anh giọng Na Uy hỏi, “Thưa ngài tổng thống, đây là lần thứ tư một tổng thống Mỹ đương nhiệm đến thăm Na Uy. Cảm xúc của ngài thế nào?” Khoảng dừng. “Trở lại đây thật sự là tuyệt vời. Tôi thấy điều quan trọng hơn nữa là các vị lãnh đạo nhà nước Israel và nhân dân Palestin có thể gặp nhau tại đây. Đó là chìa khóa để…” “Ngài còn nhớ được gì từ chuyến thăm trước đây đến Na Uy không, thưa ngài tổng thống?” “Có chứ, dĩ nhiên rồi. Trong các cuộc hội đàm ngày hôm nay, tôi hy vọng rằng chúng tôi có thể…” “Oslo và Na Uy có ý nghĩa gì đối với hòa bình thế giới, thưa ngài tổng thống?” “Na Uy đóng một vai trò quan trọng.” Một giọng tiếng Anh không mang âm Na Uy. “Ngài tổng thống coi những kết quả đạt được nào là mang tính thực tiễn?” Đoạn ghi âm bị cắt ngang và ai đó ở trường quay tiếp nối. “Chúng ta vừa nghe tổng thống nói rằng Na Uy đóng một vai trò quyết định trong… ừm, tiến trình hòa bình Trung Đông. Ngay lúc này tổng thống đang trên đường đến…” Harry lầm bầm rồi tắt radio. “Có chuyện gì với cái đất nước này vậy, Ellen?” Cô nhún vai. “Đã qua chốt 27,” chiếc bộ đàm trên bảng đồng hồ kêu lạch tạch. Anh nhìn cô. “Mọi người đều đã sẵn sàng ở vị trí rồi chứ?” anh hỏi. Cô gật đầu. “Bắt đầu thôi!,” anh nói. Cô đảo mắt. Đây là lần thứ năm anh nói thế kể từ lúc đoàn người xuất phát từ sân bay Gardermoen. Từ nơi đỗ xe họ thấy được đường cao tốc vắng tanh trải dài từ trạm thu phí lên phía Trosterud và Furuset. Ngọn đèn xanh trên nóc xoay uể oải. Harry hạ kính xe xuống, thò tay ra hất chiếc lá vàng héo vướng dưới cần gạt nước. “Một con chim cổ đỏ kìa!” Ellen nói, đưa tay chỉ. “Hiếm thấy một con như thế vào cuối thu thế này.” “Ở đâu cơ?” “Đằng kia. Trên nóc buồng bán vé.” Harry cúi thấp đầu xuống, nhòm qua kính chắn gió. “Ừ nhỉ. Thì ra đó là chim cổ đỏ à?” “Phải. Nhưng tôi nghĩ có lẽ anh không nhìn ra được sự khác biệt giữa nó với chim két cánh đỏ đâu nhỉ?” “Đúng.” Harry đưa tay che mắt. Có phải anh bị cận thị rồi không? “Chim cổ đỏ là một loài chim hiếm,” Ellen nói, vặn chặt nắp bình giữ nhiệt. “Đó là một dữ liệu à?” Harry hỏi. “90% chim này di cư về phương Nam. Chỉ ít con chấp nhận mạo hiểm, có thể nói vậy, ở lại đây.” “Có thể nói vậy?” Lại tiếng lạch tạch trên bộ đàm: “Chốt 62 gọi Sở chỉ huy. Có một chiếc xe cảnh sát không đèn và phù hiệu đang đỗ bên đường cách lối rẽ đi Larenskog 200 mét.” Một giọng trầm đặc âm vùng Bergen trả lời từ Sở chỉ huy. “Đợi một chút, 62. Chúng tôi sẽ tìm hiểu!”. Im lặng. “Cô đã kiểm tra dãy nhà vệ sinh chưa?” Harry hỏi, hất hàm về phía cây xăng Esso. “Rồi, đã giải tán hết khách hàng và nhân viên khỏi cây xăng. Chỉ còn mỗi tay sếp. Chúng tôi đã nhốt ông ta trong văn phòng.” “Cả mấy buồng bán vé nữa chứ?” “Rồi. Bình tĩnh đi, Harry, kiểm tra xong cả rồi. Phải, những con ở lại làm thế vì hy vọng mùa đông sẽ dễ chịu, đúng không? Nếu đúng thì tốt, nhưng nếu chúng sai, chúng sẽ chết. Vậy sao chúng không bay thẳng về phương Nam để phòng xa? Anh có thể thắc mắc như thế. Những con chim ở lại, có phải chỉ vì chúng lười không?” Harry nhìn trong gương, thấy bảo vệ ở cả hai bên cầu đường sắt. Họ mặc đồ đen, đội mũ cối và súng máy MP5 choàng qua cổ. Ngay cả từ chỗ anh đứng, anh vẫn thấy được vẻ căng thẳng trong ngôn ngữ cơ thể của họ. “Vấn đề là nếu mùa đông đó không quá khắc nghiệt, chúng có thể chọn nơi làm tổ tốt nhất trước khi những con khác quay về,” Ellen nói trong khi cố lèn cái bình giữ nhiệt vào hộc để găng tay đã đầy ắp. “Một sự mạo hiểm có tính toán, anh thấy đấy. Hoặc anh có thể nở nụ cười mãn nguyện hoặc anh sẽ ngập trong rắc rối. Có nên mạo hiểm hay không. Nếu anh liều, một đêm nọ anh có thể ngã lộn cổ từ cành cây đông cứng, phải đến mùa xuân nó mới tan băng. Nhưng nếu chết nhát thì có thể anh sẽ không tìm được chỗ nào mà làm tổ khi quay về. Đó là những thế lưỡng nan muôn đời, mà anh phải đối mặt.” “Cô mặc giáp chống đạn rồi đúng không?” Harry quay ngoắt người lại kiểm tra. “Cô mặc rồi hay chưa?” Cô đập đập vào ngực bằng mấy khớp ngón tay thay câu trả lời. “Loại nhẹ à?” Cô gật đầu. “Mẹ kiếp, Ellen! Tôi đã ra lệnh phải mặc áo chống đạn tử tế cơ mà. Không phải mấy cái áo Chuột Mickey ấy.” “Anh có biết mấy thằng cha Mật vụ mặc cái gì không?” “Để tôi đoán. Áo loại nhẹ?” “Đúng thế.” “Cô có biết tôi cóc quan tâm cái gì không?” “Để tôi đoán. Bọn Mật vụ?” “Đúng vậy.” Cô bật cười. Harry cũng cố nặn ra một nụ cười. Có tiếng lạch tạch từ bộ đàm. “Sở chỉ huy gọi chốt 62. Mật vụ nói đó là xe của họ đậu trên đường rẽ về Lorenskog.” “Chốt 62. Đã nhận tin.” “Cô thấy không!” Harry nói, tức tối đấm rầm xuống tay lái, “chẳng liên lạc gì cả. Lũ Mật vụ, chuyện chúng chúng làm. Cái xe đó đang làm gì trên ấy mà chúng ta không biết? Hả?” “Kiểm tra xem ta có đang làm việc của mình không,” Ellen đáp. “Theo chỉ thị bọn họ đưa ra.” “Anh sẽ được phép đưa ra một vài quyết định, nên đừng có làu bàu nữa,” cô nói. “Và thôi ngay cái vụ gõ gõ lên vô lăng đi.” Hai tay Harry ngoan ngoãn rụt lại để xuống lòng. Cô mỉm cười. Anh phả ra một hơi dài: “Rồi, rồi, rồi.” Những ngón tay anh sờ thấy báng khẩu súng lục công vụ, một khẩu Smith & Wesson cỡ nòng 38, sáu viên đạn. Trong thắt lưng anh còn giắt thêm hai ổ đạn, mỗi ổ sáu viên. Anh vỗ nhẹ báng súng, biết rằng nói cho đúng thì thực ra anh không được phép mang vũ khí. Có lẽ anh bị cận thị thật rồi, sau khóa học bốn mươi giờ mùa đông năm ngoái anh đã trượt phần thi bắn. Cho dù đó không phải là điều bất thường cho lắm, nhưng đó là lần đầu tiên chuyện như vậy xảy ra với Harry nên anh chẳng thích chút nào. Anh chỉ cần làm mỗi một việc là thi lại - nhiều người phải thi những bốn, năm lần - nhưng vì lý do này khác mà Harry cứ lần lựa mãi. Thêm nhiều tiếng lạch tạch nữa. “Đã qua chốt 28.” “Còn qua một chốt nữa trong địa phận cảnh sát Romerike,” Harry nói. “Chốt tiếp theo là Karihaugen rồi sẽ đến chúng ta.” “Tại sao họ không thể làm như ta vẫn làm? Chỉ việc nói đoàn xe hộ tống đang ở đâu, thay vì mấy con số ngu xuẩn này,” Ellen hỏi, giọng càu nhàu. “Đoán xem.” Hai người đồng thanh trả lời: “Vì họ là Mật vụ!” Rồi cười vang. “Đã qua chốt 29.” Anh nhìn đồng hồ tay. “Được rồi, ba phút nữa là họ đến. Tôi sẽ chuyển tần số bộ đàm qua khu vực cảnh sát Oslo. Tiến hành kiểm tra lần cuối đi.” Ellen nhắm mắt lại để tập trung kiểm tra lại cho chắc từng thứ một. Cô để micro lại chỗ cũ. “Mọi thứ đều đâu vào đấy và sẵn sàng cả rồi.” “Cảm ơn. Đội mũ bảo hộ lên đi.” “Hả? Nghiêm túc đấy hả Harry?” “Cô nghe tôi nói rồi đấy.” “Anh đội mũ của anh đi!” “Mũ của tôi bé quá.” Một giọng nói khác. “Qua chốt 1.” “Ôi khỉ thật, đôi khi anh đúng là… thiếu chuyên nghiệp.” Ellen kéo chiếc mũ lên đầu, thắt chặt dây ở cằm rồi nhìn gương chiếu hậu nhăn nhó. “Tôi cũng yêu cô,” Harry đáp, quan sát kỹ con đường trước mặt họ qua ống nhòm. “Tôi thấy họ rồi.” Trên đỉnh con dốc chạy đến Karihaugen, ánh mặt trời phản chiếu từ kim loại lấp lánh. Lúc đó Harry chỉ thấy được chiếc xe ô tô đầu tiên trong đoàn xe hộ tống, nhưng anh đã biết thứ tự của chúng: sáu chiếc mô tô trong đội cảnh sát hộ tống Na Uy; hai ô tô hộ tống của cảnh sát Na Uy; một xe của Mật vụ, rồi đến hai chiếc Cadillac Fleetwood giống hệt nhau (ô tô đặc chủng của Mật vụ được đưa bằng máy bay từ Mỹ sang) và tổng thống ngồi trên một trong hai chiếc ấy. Chiếc nào thì bí mật. Cũng có thể ông ta đang ngồi trong cả hai xe, Harry nghĩ. Một chiếc cho Jekyll và một chiếc cho Hyde. Sau đó đến những chiếc xe lớn hơn: xe cứu thương, xe liên lạc và vài xe Mật vụ. “Mọi thứ dường như khá yên ắng,” Harry nói. Ống nhòm của anh di chuyển chậm từ phải sang trái. Không khí run rẩy bên trên lớp nhựa đường cho dù đó chỉ là một buổi sáng tháng Mười một mát mẻ. •   •   • Ellen thấy được hình dáng chiếc xe đi đầu. Ba mươi giây nữa chúng sẽ đi qua các cổng thu phí và vậy là xong được phân nửa công việc. Và trong vòng hai ngày nữa, cũng đoàn xe này sẽ đi qua trạm theo hướng ngược lại, cô và Harry có thể quay về với công việc thường nhật. Cô thích xử lý những vụ chết người ở Ban Trọng án hơn là thức dậy lúc 3 giờ sáng để ngồi trong chiếc Volvo lạnh cóng này cùng một gã Harry cáu bẳn rõ ràng đang coi trọng trách được giao là gánh nặng. Ngoài tiếng thở đều của Harry, trong xe hoàn toàn im ắng. Cô kiểm tra đèn chỉ báo trên cả hai chiếc bộ đàm để chắc rằng chúng đều đã xanh. Đoàn xe hộ tống đã gần tới chân đồi. Cô quyết định xong việc sẽ đến Torst uống đến say thì thôi. Ở đấy có một anh chàng mà cô đã liếc mắt đưa tình, anh ta có những lọn tóc đen quăn, đôi mắt màu nâu hơi nguy hiểm. Dong dỏng. Trông hơi tự do phóng túng, trí thức. Có lẽ… Cái quái… Harry đã chụp lấy micro. “Có người trong buồng bán vé thứ ba từ trái sang. Có ai nhận diện được người này không?” Đáp lại trên bộ đàm là sự im lặng lạo xạo, ánh mắt Ellen lướt nhanh từ buồng bán vé này tới buồng bán vé khác trong hàng. Kia rồi! Cô trông thấy tấm lưng một người đàn ông phía sau tấm kính nâu của buồng vé - chỉ cách chừng 40, 50 mét. Bóng người trông rõ ràng hơn nhờ ánh sáng từ phía sau, cũng như khúc nòng súng có ống ngắm nhô lên qua vai. “Vũ khí!” cô hét lên. “Hắn có súng máy.” “Khốn kiếp!” Harry đá tung cửa xe, nắm sườn xe lao ra. Ellen nhìn chằm chặp đoàn xe hộ tống. Chỉ còn cách nhiều nhất là vài trăm mét. Harry thò đầu vào xe. “Hắn không phải người của ta, nhưng hắn có thể là bên Mật vụ,” anh nói. “Gọi Sở chỉ huy đi.” Trong tay anh đã sẵn khẩu súng lục. “Harry…” “Làm đi! Và hãy bấm còi nếu Sở chỉ huy bảo hắn là người của họ.” Harry cất bước chạy về phía buồng bán vé và tấm lưng người đàn ông mặc com lê. Căn cứ theo nòng súng thì Harry đoán đó là khẩu Uzi. Không khí rét căm căm buổi sáng sớm làm phổi anh buốt nhói. “Cảnh sát đây!” anh hét lên bằng tiếng Na Uy, rồi tiếng Anh. Không có phản ứng. Lớp kính dày của quầy bán vé được chế tạo nhằm làm giảm tiếng ồn xe cộ bên ngoài. Người đàn ông lúc này đã quay đầu về phía đoàn xe hộ tống nên Harry thấy cặp kính râm Ray Bans màu tối. Mật vụ. Hay ai đó đang muốn tạo ấn tượng như thế. Giờ thì còn cách 20 mét. Làm sao hắn lọt vào trong buồng bán vé đã khóa nếu hắn không phải là người của họ? Chết tiệt thật! Harry đã nghe thấy tiếng xe mô tô. Anh sẽ không kịp tới chỗ buồng vé. Anh tháo chốt an toàn và nhắm bắn, cầu cho tiếng còi xe phá tan không khí tĩnh lặng của buổi sáng lạ lùng này, trên con đường cao tốc đóng kín chưa lúc nào anh muốn đến gần. Chỉ thị đã rõ ràng, nhưng anh không sao dập tắt được những suy nghĩ riêng: Áo chống đạn mỏng. Không chịu liên lạc. Bắn đi, đó không phải là lỗi của anh. Nhưng hắn ta có gia đình không? Đoàn xe hộ tống đang đến từ ngay phía sau buồng bán vé, và đang tiến đến rất nhanh. Trong vài giây hai chiếc Cadillac sẽ ngang hàng với dãy buồng bán vé. Từ khóe mắt trái anh để ý thấy một sự chuyển động, một con chim nhỏ trên mái nhà vụt bay đi. Có nên mạo hiểm hay không… thế lưỡng nan muôn đời. Anh đã nghĩ về cái cổ rụt thấp trên áo chống đạn, hạ súng lục xuống một phân. Tiếng mô tô gầm lên đinh tai. 2 Oslo. Ngày 5 tháng Mười năm 1999. “Đó là sự phản bội khủng khiếp,” người đàn ông đầu trọc nói, mắt nhìn xuống bản thảo. Đầu, cặp lông mày, hai cánh tay cuồn cuộn cơ bắp, ngay cả đôi bàn tay to bè đang nắm chặt bục đứng, tất cả đều nhẵn nhụi tinh tươm. Hắn cúi xuống micro. “Kể từ năm 1945, kẻ thù của chủ nghĩa Quốc xã đã là những chúa đất; họ phát triển và đưa vào thực hành các nguyên tắc dân chủ và kinh tế của mình. Do vậy, không có một ngày nào mặt trời được lặn xuống trên một thế giới không có chiến tranh. Ngay cả ở châu Âu này, chúng ta cũng đã trải qua chiến tranh và tội diệt chủng. Ở các nước thế giới thứ ba, hàng triệu người chết đói - và châu Âu bị đe dọa bởi làn sóng nhập cư ồ ạt, với hậu quả tất yếu là hỗn loạn, đói nghèo và đấu tranh sinh tồn.” Hắn dừng lại nhìn chằm chằm xung quanh. Trong phòng im lặng như hóa đá; chỉ có duy nhất một người trong đám cử tọa, ngồi trên mấy băng ghế dài sau lưng hắn, ngập ngừng vỗ tay. Khi hắn tiếp tục, giờ đã hăng máu lên, ánh đèn đỏ bên dưới chiếc micro sáng lên báo điềm gở, cho thấy tín hiệu ghi âm đã bị chỉnh. “Chẳng có mấy thứ có thể ngăn chúng ta khỏi sự thịnh vượng phù du và cái ngày chúng ta buộc phải dựa vào chính mình và cộng đồng xung quanh. Một cuộc chiến tranh, một thảm họa kinh tế hay sinh thái, vậy là toàn bộ mạng lưới luật lệ từng quá nhanh chóng biến chúng ta thành những khách hàng thụ động trong xã hội bỗng chốc không còn ở đó nữa. Sự phản bội khủng khiếp trước kia đã diễn ra vào ngày 9 tháng Tư năm 1940, khi những kẻ gọi là lãnh đạo dân tộc của chúng ta chạy trốn phe địch để giữ mạng, mang theo các nguồn dự trữ vàng để chu cấp cho cuộc sống xa hoa của họ ở London. Bây giờ kẻ thù của chúng ta lại về đây. Và những kẻ lẽ ra phải bảo vệ quyền lợi của chúng ta lại một lần nữa làm chúng ta thất vọng. Họ để chúng xây dựng những nhà thờ Hồi giáo ngay giữa chúng ta, để chúng cướp bóc những đồng hương cũ của chúng ta và hòa trộn dòng máu của chúng với phụ nữ của chúng ta. Bổn phận của chúng ta với tư cách người dân Na Uy là phải bảo vệ giống nòi và trừ khử những kẻ đã khiến chúng ta thất vọng. Hắn lật trang. Nhưng một tiếng đằng hắng từ bục ngồi trước mặt khiến hắn dừng lại và ngẩng lên. “Xin cảm ơn, tôi nghĩ chúng tôi đã nghe đủ rồi,” thẩm phán nói, nhưng mắt nhìn qua cặp kính. “Công tố viên còn câu hỏi nào dành cho bị cáo không?.” Ánh nắng chiếu ngang qua phòng xử án số 17 thuộc Tòa Đại hình Oslo, cho gã đầu trọc một quầng sáng ảo ảnh. Hắn mặc áo sơ mi trắng, cà vạt thanh mảnh, có lẽ là theo lời khuyên của tay luật sư bào chữa – Johan Krohn con – ngay lúc này đang ngả người ra ghế, nghịch nghịch cây bút giữa ngón trỏ và ngón giữa. Krohn ghét gần như mọi thứ trong tình huống này. Gã không thích chiều hướng các câu hỏi mà công tố viên đi theo, cái cách thân chủ của gã – Sverre Olsen, tuyên bố công khai cương lĩnh của mình, và việc trước mặt cả thẩm phán và các đồng nghiệp, Olson lại cho rằng việc xắn tay áo lên khoe mấy hình xăm mạng nhện trên cả hai khủy tay và dãy hình thập ngoặc trên cẳng tay trái là hợp lý. Trên cẳng tay phải có xăm một chuỗi biểu tượng Na Uy và Valkyria – một băng đảng Quốc xã mới, bằng chữ gothic đen. Nhưng có một điều khác trong toàn bộ trình tự khiến gã nghĩ mãi. Chỉ là gã không chỉ ra được đó là gì. Ủy viên công tố, một người đàn ông nhỏ nhắn tên là Herman Groth, đưa ngón tay nhỏ nhắn đeo chiếc nhẫn có biểu tượng của luật sư đoàn, đẩy chiếc micro ra xa. “Chỉ vài câu hỏi nữa là xong, thưa quí tòa,” giọng nói nhẹ nhàng và khẽ. Đốm đèn dưới chiếc micro sáng lên màu xanh. “Vậy vào lúc 9h ngày 3 tháng 1, khi bước vào nhà hàng pizza Dennis Kebab tại cổng Dronningens, có phải bị cáo đã có ý định rõ ràng là thực hiện bổn phận bảo vệ nòi giống của chúng ta mà bị cáo vừa nói đến hay không?” Johan Krohn chồm tới chiếc micro. “Thân chủ của tôi đã trả lời rằng một cuộc tranh cãi dữ dội đã nổ ra giữa ông ấy và chủ quán người Việt Nam.” Đèn đỏ. “Ông ấy bị khiêu khích!” Krohn nói. “Tuyệt không có lý do gì để nói rằng đó là một hành động có chủ tâm.” “Nếu những gì luật sư bào chữa của bị cáo nói là chính xác, thưa ông Olsen, thì lúc đó bị cáo đang cầm cây gậy đánh bóng chày là chuyện hoàn toàn tình cờ sao?” “Để tự vệ,” Krohn ngắt lời, tuyệt vọng vung hai cánh tay lên. “Thưa quý tòa, thân chủ của tôi đã trả lời những câu hỏi này rồi.” Thẩm phán xoa xoa cằm khi quan sát tay luật sư bào chữa. Ai cũng biết rằng Johan Krohn con là ngôi sao bào chữa đang nổi - đặc biệt là ở chính cái tên Johan Krohn - và có lẽ điều này cuối cùng đã khiến thẩm phán tán thành kèm theo chút bực dọc. “Tôi đồng ý với luật sư bào chữa. Trừ phi công tố viên có bổ sung gì mới, nếu không tôi đề nghị ta đi tiếp, được chứ?” Groth mở mắt ra để lộ một viền trắng mảnh phía trên và dưới tròng đen. Ông nghiêng đầu. Bằng cử chỉ mệt mỏi, ông giơ cao một tờ báo. “Đây là tờ Dagbladet số ra ngày 25 tháng Một. Trong một bài phỏng vấn trên trang tám, một trong số những người đồng tư tưởng của bị cáo.. “Tôi phản đối…” Krohn cất tiếng. Groth thở dài. “Cho phép tôi đổi câu đó thành một người bộc lộ những tư tưởng phân biệt chủng tộc!” Thẩm phán gật đầu, nhưng cùng lúc ném sang Krohn cái nhìn cảnh cáo. Groth nói tiếp. “Người này, khi nhận xét về vụ tấn công tại nhà hàng Dennis Kebab, nói rằng chúng ta cần thêm những kẻ phân biệt chủng tộc như Sverre Olsen để giành lại quyền kiểm soát Na Uy. Trong bài phỏng vấn, từ ‘kẻ phân biệt chủng tộc’ được sử dụng đầy tôn trọng. Bị cáo có tự cho mình là một ‘kẻ phân biệt chủng tộc’ không?” “Đúng, tôi là kẻ phân biệt chủng tộc,” Olsen nói trước khi Krohn kịp can thiệp. “Trong nghĩa mà tôi dùng từ đó.” “Vậy còn có thể là nghĩa nào nữa chứ?” Groth mỉm cười. Krohn siết chặt hai tay thành nắm đấm dưới gầm bàn và nhìn lên bục, có hai đồng thẩm phán ngồi hai bên. Ba người này sẽ quyết định số phận thân chủ của gã trong vài năm tới, cả địa vị của anh ta ở đoàn luật sư Tostrupkjeller trong vài tháng tới. Hai công dân bình thường đại diện cho nhân dân, đại diện cho công lý theo lương tri. Họ thường tự xưng là “thẩm phán không chuyên,” nhưng có lẽ họ đã nhận ra là như thế nghe quá giống “thẩm phán ham chơi”. Ngồi bên phải là một thanh niên mặc bộ com lê loại bền chắc, rẻ tiền, hầu như chẳng dám ngước mắt lên. Người phụ nữ trẻ tuổi, hơi đẫy đà ngồi bên trái dường như đang giả vờ theo dõi phiên tòa, trong khi rướn cổ lên để từ dưới sàn không ai thấy được cái cằm bắt đầu có nọng. Những người Na Uy bình thường. Họ biết gì về những người như Sverre Olsen? Họ muốn biết điều gì? Tám nhân chứng đã thấy Sverre Olsen bước vào quầy burger, nách kẹp cây gậy đánh bóng chày và, sau một chốc lời qua tiếng lại chửi rủa, đánh vào đầu chủ quán, Hồ Đại - một người Việt Nam bốn mươi tuổi - đến Na Uy cùng thuyền nhân vào năm 1978. Đánh mạnh đến nỗi Hồ Đại sẽ không bao giờ còn đi được nữa. Khi Olsen bắt đầu trình bày thì Johan Krohn con đã thảo sẵn trong đầu tờ đơn kháng cáo sẽ trình lên Tòa án Tối cao. “Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc,” Olsen đọc sau khi tìm thấy phần định nghĩa trong đống giấy tờ của mình, “là một cuộc đấu tranh vĩnh cửu nhằm diệt trừ bệnh tật di truyền, sự thoái hóa và hủy diệt, đồng thời là một ước mơ, một khao khát có một xã hội lành mạnh hơn, có chất lượng cuộc sống tốt hơn. Pha trộn chủng tộc là một kiểu diệt chủng song phương. Trong một thế giới đã có các dự án thành lập ngân hàng gen nhằm bảo tồn con bọ cánh cứng bé nhất, người ta nói chung đều công nhận rằng ta có thể hủy diệt các chủng tộc người phải mất hàng thiên niên kỷ để phát triển chỉ bằng cách pha trộn giống loài. Trong một bài viết trên tạp chí American Psychologist năm 1972, năm mươi nhà khoa học Mỹ và châu Âu đã cảnh báo những mối nguy hiểm khi dập tắt các tranh luận về lý thuyết di truyền.” Olsen dừng, quét ánh mắt trừng trừng giận dữ một lượt khắp phòng xử án số 17 rồi giơ ngón trỏ tay phải lên. Hắn đã quay về phía công tố viên nên Krohn thấy được hình xăm hai chữ Sieg Heil(1) mờ mờ trên ngấn mỡ nhẵn nhụi giữa gáy và cổ hắn - một tiếng thét câm lặng và một bức tranh kệch cỡm lạ lùng tương phản với lối nói hoa mỹ điềm đạm của tòa án. Trong sự im lặng sau đó, Krohn còn nghe được từ tiếng lao xao trong hành lang là phòng xử án số 18 đã nghỉ để ăn trưa. Vài giây nữa trôi qua. Krohn nhớ một chuyện đã đọc về Adolf Hitler: tại các cuộc mít tinh quần chúng, hắn thường ngừng lại đến ba phút để tạo ấn tượng. Khi Olsen nói tiếp thì mấy ngón tay hắn gõ nhịp, như thể đánh nhịp từng từ, từng câu vào não người nghe. “Những ai trong các người đang cố gắng giả vờ như không có một cuộc chiến chủng tộc đang diễn ra ở đây thì hoặc là bị mù hoặc là những kẻ phản bội.” Hắn uống nước trong cốc mà nhân viên trực cửa tòa án đặt trước mặt. Công tố viên xen vào: “Và trong cuộc chiến chủng tộc này, bị cáo và những người ủng hộ bị cáo, một số trong đó có mặt tại tòa hôm nay, có phải là những người duy nhất có quyền tấn công không?” Tiếng la ó từ bọn đầu trọc trong khu vực dành cho công chúng. “Chúng tôi không tấn công, chúng tôi tự vệ,” Olsen đáp. “Đó là quyền hạn và bổn phận của mỗi chủng tộc.” Một tiếng la từ phía mấy băng ghế dài, Olsen đón nhận rồi tiếp tục bằng một nụ cười. “Thực ra, ngay cả trong dân chúng từ các chủng tộc khác cũng tồn tại chủ nghĩa Quốc xã có ý thức chủng tộc.” Tiếng cười, tiếng vỗ tay lác đác từ khu vực dành cho công chúng. Thẩm phán đề nghị im lặng trước khi nhìn công tố viên đặt câu hỏi. “Chúng tôi đã hỏi xong,” Groth nói. “Luật sư bên bị còn câu hỏi nào nữa không?” Krohn lắc đầu. “Vậy thì tôi muốn gọi nhân chứng đầu tiên của bên nguyên vào đây.” Công tố viên gật đầu với nhân viên gác cửa, anh ta mở cánh cửa sau phòng. Có tiếng ghế kéo ở bên ngoài, cánh cửa mở rộng và một người đàn ông cao lớn thong thả bước vào. Krohn để ý người này đang mặc áo vest quá chật, quần jean đen và giày cao cổ Dr Martens cỡ lớn. Đầu húi sát và thân hình gọn gàng, săn chắc cho thấy anh ta mới khoảng ba mốt, ba hai - cho dù đôi mắt đỏ ngầu, có bọng và nước da nhợt nhạt với đám mao mạch mỏng thỉnh thoảng vỡ thành những tam giác nhỏ màu đỏ cho thấy anh ta phải ngoài năm mươi rồi. “Sĩ quan Harry Hole phải không?” thẩm phán hỏi khi người này đã ngồi vào ghế nhân chứng. “Vâng.” “Tôi thấy là anh không cung cấp địa chỉ nhà?” “Giữ kín.” Hole trỏ ngón cái qua vai. “Bọn họ đã cố đột nhập vào nhà tôi.” Thêm nhiều tiếng la ó. “Anh đã từng đưa ra lời xác nhận chưa, sĩ quan Hole? Hay nói cách khác là tuyên thệ?” “Rồi.” Đầu Krohn lắc lư như mấy con chó đồ chơi gật gù mà một số tay mô tô hay để trên giá hành lý. Gã cuống quýt lật lật tài liệu. “Anh điều tra các vụ án mạng cho Đội Hình sự đúng không?” Groth hỏi. “Vì sao anh được giao vụ này?” “Bởi vì chúng tôi đã đánh giá sai vụ này.” “Vậy sao?” “Chúng tôi không nghĩ rằng Hồ Đại lại sống sót. Thông thường người ta sẽ không sống nổi khi sọ bị đập nát và nội tạng đã lòi hết ra ngoài.” Krohn trông thấy hai đồng thẩm phán bất giác nhăn mặt. Nhưng bây giờ chuyện đó chẳng quan trọng. Gã đã tìm được tài liệu có tên của họ. Và nó đây rồi: một sai lầm. 3 Phố Karl Johans. Ngày 5 tháng Mười năm 1999. Ông sắp chết rồi, ông già ạ. Mấy lời đó vẫn còn văng vẳng bên tai khi lão già bước xuống mấy bậc thềm để ra về rồi đứng khựng lại, chói mắt vì ánh mặt trời mùa thu gay gắt. Khi đồng tử của lão từ từ co lại, lão bám chặt lan can và hít vào, chậm và sâu. Lão lắng nghe tạp âm của ô tô, xe điện, tiếng bíp còi cho khách bộ hành biết có thể qua đường. Và giọng nói - những giọng phấn khởi, vui vẻ vội vã lướt qua cùng tiếng đế giày lách cách. Và tiếng nhạc. Lão đã bao giờ được nghe nhiều tiếng nhạc như vậy chưa? Thế nhưng chẳng có gì át được tiếng những lời ấy vang lên: Ông sắp chết rồi, ông già ạ. Đã bao lần rồi lão đứng đây trên những bậc thềm bên ngoài phòng khám của bác sĩ Buer? Mỗi năm hai lần trong vòng bốn mươi năm, vị chi là tám mươi lần. Tám mươi ngày bình thường như ngày hôm nay, nhưng trước hôm nay, lão chưa bao giờ để ý thấy phố xá đông đúc biết chừng nào, vui tươi hồ hởi biết bao, và niềm khao khát sống mạnh mẽ ra sao. Giờ là tháng Mười, nhưng có cảm giác như đang là một ngày tháng Năm. Cái ngày sự yên bình bị phá vỡ. Có phải lão đang nói quá không? Lão còn nghe được giọng nói của nàng, thấy bóng hình nàng đang bước ra từ ánh mặt trời, đường nét khuôn mặt tan trong quầng ánh sáng trắng. Ông sắp chết rồi, ông già ạ. Sắc trắng nhuốm màu và biến thành phố Karl Johans. Lão xuống tới bậc cuối cùng, dừng bước, nhìn sang phải rồi lại nhìn sang trái như thể không quyết định được nên đi hướng nào, và chìm trong mơ màng. Lão giật nảy mình như thể bị ai đó đánh thức và cất bước về phía Hoàng cung. Dáng đi của lão ngập ngừng, mắt nhìn cắm xuống đất và dáng người gầy còm hom hem của lão còng xuống trong chiếc áo khoác len hơi quá khổ. “Tế bào ung thư di căn rồi!” bác sĩ Buer nói. Phải, lão đáp, nhìn bác sĩ và tự hỏi có phải họ đã học điều này ở trường y. Bỏ kính ra khi phải nói về những vấn đề nghiêm trọng hoặc giả đó là điều mấy bác sĩ cận thị hay làm để tránh nhìn thẳng vào mắt bệnh nhân. Bác sĩ Konrad Buer đã bắt đầu trông giống bố khi đường chân tóc chạy lên dần, và những bọng mắt làm anh có được chút vẻ quan tâm của bố anh. “Nói tóm lại?” lão hỏi bằng giọng của một người mà lão đã không còn nghe thấy tiếng suốt hơn năm mươi năm. Đó là những âm thanh khô, khàn, khùng khục của người đang sợ chết run run trong thanh quản. “Vâng, thực ra vẫn còn một nghi vấn về… “Bác sĩ, làm ơn đi. Tôi đã từng tận mắt thấy cái chết rồi.” Lão cao giọng lựa chọn những từ ngữ buộc giọng phải điềm tĩnh, theo cách lão muốn bác sĩ Buer nghe thấy. Theo cách mà chính lão muốn nghe. Ánh mắt bác sĩ lia sang mặt bàn, qua mặt sàn gỗ đã mòn rồi ra ngoài ô cửa sổ bẩn thỉu. Ánh mắt ấy trốn tránh ở ngoài đó một lúc rồi mới quay về và bắt gặp ánh mắt lão. Đôi tay bác sĩ tìm thấy một miếng vải và lau đi lau lại cặp kính. “Tôi biết là ông cảm thấy…” “Anh chẳng biết gì hết, bác sĩ ạ.” Lão già nghe thấy mình bật một tiếng cười khẩy khô khốc. “Xin đừng phật ý, bác sĩ Buer, nhưng tôi có thể đoan chắc với anh một điều: anh chẳng biết gì sất.” Lão quan sát vẻ khó chịu của tay bác sĩ và cùng lúc đó nghe thấy tiếng vòi nước nhỏ tí tách xuống bồn rửa ở tít góc phòng. Đó là một âm thanh mới mẻ, thế rồi bất chợt và không thể hiểu nổi, dường như lão có lại thính lực thời đôi mươi. Rồi bác sĩ Buer lại đeo kính vào, cầm lên một mảnh giấy như thể những gì anh ta sắp nói đã được viết trên đó, hắng giọng và cất tiếng: “Ông sắp chết rồi, ông già ạ.” Lão sẽ thích hơn nếu cái lối thân tình thái quá ấy bớt đi một chút. Lão dừng lại bên một đám người tụ tập, nghe thấy tiếng guitar bập bùng và một giọng đang ca một bài chắc ai cũng nghe qua trừ lão. Trước kia lão đã từng nghe bài đó, có thể là từ một phần tư thế kỷ trước, nhưng với lão có lẽ chỉ mới ngày hôm qua. Giờ thì mọi thứ đều giống như vậy - dường như càng ở xa về phía quá khứ, chúng trông càng gần hơn và rõ hơn. Lão có thể nhớ những thứ đã nhiều năm rồi không nghĩ đến. Giờ đây lão có thể nhắm mắt lại rồi thấy ngay trên võng mạc những thứ mà lão đã đọc trong các nhật ký chiến tranh của mình. “Dù sao đi nữa, ông cũng còn được một năm!” Một mùa xuân và một mùa hè. Lão sẽ được thấy từng chiếc lá ngả vàng trên những cây rụng lá ở Studenterlunden như thể lão đang đeo cặp kính mới. Cũng những cây ấy đã đứng đó hồi năm 1945, đúng không nhỉ? Ngày hôm đó trông chúng không rõ ràng lắm, chẳng có gì rõ ràng cả. Những khuôn mặt tươi cười, những bộ mặt tức tối, những tiếng reo hò lão hầu như không nghe thấy, tiếng cửa xe đóng sầm lại còn lão có lẽ đã ứa nước mắt vì khi lão nhớ lại những ngọn cờ người ta vừa vẫy vừa chạy dọc vỉa hè, chúng có màu đỏ và nhòa đi. Họ hô vang: thái tử đã trở về! Lão đi lên đồi đến Hoàng cung nơi vài người đang xúm lại xem đổi phiên gác. Tiếng vọng của những khẩu lệnh, tiếng lách cách, rầm rập của báng súng trường và gót giày dội lên mặt tiền bằng gạch vàng nhạt. Có tiếng ro ro của máy quay phim và lão nghe được vài từ tiếng Đức. Một cặp vợ chồng trẻ người Nhật đứng đó khoác tay nhau, vui vẻ xem màn diễn. Lão nhắm mắt lại, cố gắng phát hiện mùi quân phục và dầu lau súng. Thật vớ vẩn, dĩ nhiên; ở đây chẳng có gì tỏa ra mùi cuộc chiến của lão. Lão lại mở mắt ra. Chúng biết cái gì chứ, đám lính trẻ ranh mặc đồ đen, những hình nhân trên sân duyệt binh của chế độ quân chủ xã hội này, thực hiện những hành vi mang tính biểu tượng mà chúng còn quá ngây thơ để hiểu và còn quá trẻ để cảm nhận được gì. Lão lại nghĩ về ngày hôm đó, những thanh niên Na Uy ăn vận như quân nhân, hay “lính Thụy Điển” như họ tự gọi. Trong mắt lão, họ là những chú lính chì; họ không biết cách mặc quân phục, còn ít biết cách đối xử với tù nhân chiến tranh hơn. Họ đã khiếp sợ và tàn bạo: điếu thuốc trên môi và mũ quân phục đội lệch ngang tàng; họ đã bám vào vũ khí mới có và cố vượt qua nỗi sợ hãi bằng cách nện báng súng trường vào lưng tù binh. “Đồ lợn phát xít,” họ vừa quát vừa đánh, để nhận được tức thì sự tha thứ cho tội lỗi của mình. Lão hít vào và nhấm nháp ngày thu ấm áp, nhưng đúng lúc ấy cơn đau ập đến. Lão lảo đảo lùi lại. Nước trong phổi của lão. Mười hai tháng nữa, có thể ít hơn, viêm tấy và mủ sẽ sinh ra nước,ứlại trong phổi lão. Người ta nói đó là điều tồi tệ nhất. Lão sắp chết rồi, lão già ạ. Tiếp theo là cơn ho. Nó dữ dội đến mức những người đứng gần lão nhất bất giác tránh xa. 4 Bộ Ngoại giao, Viktoria Terrasse. Ngày 5 tháng Mười năm 1999. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Bernt Brandhaug, sải bước dọc hành lang. Ông vừa rời văn phòng ba mươi giây trước; trong vòng bốn mươi nhăm giây nữa ông sẽ có mặt tại phòng họp. Ông vươn vai trong lớp áo khoác, cảm thấy hơi chật, cảm thấy mấy cơ lưng căng ép sát vào lớp vải. Latissimus dorsi - các cơ lưng trên. Ông đã sáu mươi tuổi, nhưng trông không quá năm mươi lấy một ngày. Không phải là ông luôn bận rộn chăm sóc vẻ ngoài. Ông biết thừa mình là người đàn ông nhìn hấp dẫn, dù sao cũng không cần phải làm gì nhiều hơn việc tập luyện ông vốn yêu thích, và thêm vài buổi tới phòng tắm nắng vào mùa đông và thường xuyên nhổ sợi bạc nơi cặp lông mày đã trở nên rậm rì. “Chào Lise!” ông gọi lớn khi đi qua máy photocopy, cô nhân viên tập sự tại văn phòng Bộ Ngoại giao giật thót, chỉ kịp nở nụ cười yếu ớt trước khi Brandhaug rẽ vào góc tiếp theo. Lise là một luật sư còn chập chững và là con gái của người bạn từ thời đại học. Cô chỉ mới bắt đầu công việc ba tuần trước. Và từ lúc đó cô đã nhận thức được rằng ông thứ trưởng, viên chức cấp cao nhất trong tòa nhà này, biết cô là ai. Liệu ông có đủ sức có được cô không? Có thể. Không phải vì đó là điều sẽ xảy ra. Mà đó là điều tất yếu. Ông nghe thấy giọng nói rì rầm từ trước khi mở cửa. Ông nhìn đồng hồ đeo tay. Bảy mươi nhăm giây. Rồi ông bước vào trong, ném nhanh cái nhìn quanh phòng để chắc chắn tất cả các quan chức được triệu tập đều đã có mặt. “À, à, chắc anh là Bjarne Moller?” Ông nói lớn với một nụ cười rộng ngoác, chìa tay qua bên kia bàn cho người đàn ông cao, mảnh khảnh ngồi cạnh Anne Storksen, cảnh sát trưởng. “Anh là PAS, đúng không? Tôi nghe nói anh đang ở chặng nhiều đoạn lên xuống dốc thuộc Giải chạy tiếp sức Holmenkollen?” Đây là một trong số các tiểu xảo của Brandhaug. Kiếm được tí thông tin về những người ông mới gặp lần đầu. Thứ gì đó không nằm trong CV của họ. Điều đó khiến họ cảm thấy bất an. Sử dụng những chữ cái đầu PAS - lối viết tắt trong nội bộ để chỉ Politiavdelingssjef, sếp của Đội Hình sự - đặc biệt khiến ông hài lòng. Brandhaug ngồi xuống, nháy mắt với người bạn già Kurt Meirik, sếp của Politiets overv akningstjeneste, hoặc là POT, Cục An ninh, và dò xét những người khác đang ngồi quanh bàn. Thế nhưng không ai biết ai sẽ là người chủ trì cuộc họp này, vì các đại diện đều có cấp bậc cao ngang nhau, ít nhất là về lý thuyết, từ Văn phòng Thủ tướng, cảnh sát Oslo, Cục An ninh Na Uy, Đội Hình sự và Bộ Ngoại giao của chính Brandhaug. Văn phòng Thủ tướng đã triệu tập cuộc họp này, nhưng không nghi ngờ gì nữa, cảnh sát Oslo, dưới cái lốt Anne Storksen, và POT, trong hình hài Kurt Meirik, muốn đảm nhận trách nhiệm điều hành khi mà các quy trình đã tiến xa đến vậy. Ông Thứ trưởng Ngoại giao từ Văn phòng Thủ tướng trông như thể đang trù tính việc chủ trì cuộc họp. Brandhaug nhắm mắt lại, lắng nghe. Mấy cuộc chuyện trò kiểu chào hỏi dừng, những giọng nói rì rầm từ từ lắng xuống và tiếng một chân bàn kéo dưới sàn. Chưa đâu. Có tiếng giấy tờ loạt soạt, tiếng bút lạch tạch - tại những cuộc họp quan trọng như thế này hầu hết những người đứng đầu phòng ban đều dẫn theo nhân viên ghi chép riêng, đề phòng trường hợp một lúc nào sau này họ quay ra đổ lỗi cho nhau về những chuyện đã xảy ra. Có người cất tiếng ho, nhưng nó xuất phát từ đầu kia phòng, ngoài ra thì đấy không phải kiểu ho húng hắng trước khi phát biểu. Có tiếng hít vào mạnh. Ai đó nói. “Vậy thì ta bắt đầu thôi!” Bernt Brandhaug nói, mở mắt ra. Những mái đầu hướng về phía ông. Lúc nào cũng thế cả. Một cái miệng mở hé, ông Thứ trưởng Ngoại giao, một nụ cười gượng từ Anne Storksen cho thấy cô ta hiểu chuyện gì đã diễn ra - nhưng trái lại, những bộ mặt lạnh tanh nhìn ông không cho thấy dấu hiệu nhận thức rằng cuộc chiến đã kết thúc rồi. “Chào mừng đến cuộc họp phối hợp đầu tiên. Nhiệm vụ của chúng ta là đưa bốn trong những nhân vật quan trọng nhất thế giới đến và rời Na Uy mà ít nhiều được nguyên vẹn.” Tiếng cười lịch sự vang lên quanh bàn. “Hôm thứ Hai, ngày 1 tháng Mười một, ta sẽ đón tiếp nhà lãnh đạo PLO Yasser Arafat, thủ tướng Israel Ehud Barak, thủ tướng Nga Vladimir Putin đến thăm, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, trái anh đào trên chiếc bánh ngọt; lúc 6 giờ 15 phút sáng, đúng hai mươi bảy ngày nữa, chuyên cơ Không Lực Một, chở tổng thống Mỹ, sẽ đáp xuống sân bay Gardermoen, Oslo.” Ánh mắt của Brandhaug đưa từ khuôn mặt này sang khuôn mặt kia dọc theo bàn. Nó dừng lại ở khuôn mặt mới, Bjame Moller. “Tức là nếu trời không quá nhiều sương mù!” ông nói, giành được một tiếng cười và hài lòng nhận thấy Moller đã quên đi được sự căng thẳng trong chốc lát mà cười theo mấy người kia. Brandhaug đáp lại bằng một nụ cười phô ra hàm răng chắc khỏe còn trắng hơn nữa từ sau lần thẩm mỹ vừa rồi ở nha sĩ. “Chúng ta vẫn chưa biết chính xác bao nhiêu người sẽ đến!” Brandhaug nói. “Tổng thống Mỹ từng có đoàn tùy từng 2.000 người ở Australia và 1.700 người ở Copenhagen.” Những tiếng rì rầm quanh bàn. “Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của tôi, một ước đoán vào khoảng 700 người thì có lẽ là thực tế hơn.” Brandhaug hoàn toàn tự tin “ước đoán” của ông sẽ sớm được xác nhận vì một tiếng trước ông vừa nhận được bản fax danh sách 712 người sẽ đến. “Vài người trong các vị có lẽ đang tự hỏi tại sao tổng thống Mỹ cần nhiều người đến thế cho một cuộc họp thượng đỉnh hai ngày. Câu trả lời đơn giản thôi. Điều chúng ta đang nói ở đây là sự phô trương quyền lực theo kiểu cũ rích. Bảy trăm người, nếu tôi suy đoán đúng, là bằng đúng số tùy tùng mà vua Kaiser Friedrich III mang theo khi đến Rome năm 1468 để cho giáo hoàng thấy ai là người hùng mạnh nhất thế giới.” Thêm nhiều tiếng cười nữa quanh bàn. Brandhaug nháy mắt với Anne Storksen. Ông đã thấy chuyện này được nhắc đến trên tờ Aftenposten. Ông áp hai lòng bàn tay vào nhau. “Tôi không cần phải nói với mọi người rằng thời gian hai tháng ngắn ngủi thế nào, nhưng điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ phải cần những cuộc họp phối hợp hằng ngày lúc mười giờ tại phòng này. Mọi người sẽ phải bỏ hết những việc khác cho đến khi nào bốn nhân vật này nằm ngoài tầm tay chúng ta. Có lệnh cấm nghỉ lễ và nghỉ phép. Cả nghỉ ốm nữa. Có câu hỏi nào không trước khi chúng ta tiếp tục?” “Vâng, chúng tôi nghĩ…” Thứ trưởng Ngoại giao mở lời. “Kể cả nghỉ vì trầm cảm cũng không,” Brandhaug cắt ngang, Bjame Moller không nhịn được mà bật cười. “Chúng tôi, chúng tôi…” Thứ trưởng Ngoại giao lại mở miệng. “Đến anh đấy, Meirik,” Brandhaug gọi. “Gì cơ?” Sếp Cục An ninh - POT - ngẩng mái đầu sáng bóng lên nhìn Brandhaug. “Anh có muốn nói gì về bản đánh giá mối đe dọa của POT không?” Brandhaug hỏi. “À, việc đó,” Meirik đáp. “Chúng tôi có mang theo bản sao đây!” Meirik lớn lên ở Tromso nên hay nói pha lẫn đến kỳ lạ phương ngữ vùng Tromso với tiếng Na Uy chuẩn. Ông hất đầu về phía người phụ nữ ngồi bên cạnh. Đôi mắt của Brandhaug nấn ná ở cô ta. Được rồi, cô ta không trang điểm, mái tóc nâu cắt kiểu bob cặp gọn lại bằng một chiếc kẹp không hợp. Còn bộ com lê, thứ đồ len may bằng vải màu xanh lam, thì hết sức tẻ nhạt. Nhưng mặc dù cô ta tự làm mình trông trang nghiêm thái quá, như kiểu những người phụ nữ có chuyên môn lo không được xem trọng thường làm, ông vẫn thích những gì mình nhìn thấy. Cặp mắt nâu dịu dàng và đôi gò má cao tạo cho cô ta một vẻ ngoài quý tộc, gần như không phải Na Uy. Ông từng gặp cô ta rồi, nhưng kiểu tóc này thì mới. Nhớ lại xem tên cô ta là gì ấy nhỉ - cái gì đó theo kiểu Kinh Thánh - Rakel à? Có lẽ cô ta mới vừa ly dị. Điều ấy có thể giải thích cho kiểu đầu mới. Cô ta cúi xuống chiếc cặp tùy viên giữa mình và Meirik, đôi mắt Brandhaug tự động tìm đường viền cổ áo trên áo khoác của cô, nhưng áo cài nút lên quá cao không cho thấy gì đáng chú ý. Cô ta có con ở tuổi đi học không nhỉ? Liệu cô ta có phản đối gì chuyện thuê một phòng khách sạn tại trung tâm thành phố trong ngày không? Quyền lực có làm cô ta thấy hứng thú? Brandhaug: “Cứ cho chúng tôi bản tóm tắt ngắn gọn, Meirik.” “Tốt thôi.” “Trước tiên tôi muốn nói một chuyện…” Thứ trưởng Ngoại giao nói. “Chúng ta sẽ để Meirik nói xong đã được không? Rồi sau đó anh cứ việc nói bao lâu tùy thích, Bjorn.” Lần đầu tiên Brandhaug gọi tên thánh của ông Thứ trưởng Ngoại giao. “POT cho rằng sẽ có nguy cơ tấn công hoặc gây ra thiệt hại khác,” Meirik nói. Brandhaug mỉm cười. Từ khóe mắt, ông thấy cảnh sát trưởng cũng làm tương tự. Cô bé thông minh, có bằng luật và trong hồ sơ hành chính không một tì vết. Có lẽ một tối nào đó ông nên mời vợ chồng cô ta đến ăn bữa tối với cá hồi. Vợ chồng Brandhaug sống trong một căn nhà gỗ khang trang ở vành đai xanh tại Nordberg. Vào mùa đông ta chỉ việc bỏ ván trượt tuyết ra ngoài nhà và vậy là lên đường. Brandhaug yêu quý ngôi nhà. Vợ ông thì nghĩ nó quá tối tăm. Bà ấy bảo rằng cái thứ gỗ đen sì ấy khiến bà sợ, bà cũng không thích cánh rừng bao quanh nhà họ. Phải rồi, một lời mời đến ăn tối. Gỗ cứng, và cá hồi tươi ông sẽ tự bắt. Chúng là những tín hiệu đúng để phát đi. “Tôi có thể nhắc các vị rằng bốn tổng thống Mỹ đã chết do bị ám sát. Abraham Lincoln vào năm 1865, James Garfield vào năm 1881, John F. Kennedy vào năm 1963 và…” Ông quay sang người phụ nữ có đôi gò má cao, cô ta mấp máy một cái tên. “À phải rồi, William McKinley. Vào năm…” “1901,” Brandhaug nói kèm một nụ cười ấm áp và cái liếc mắt nhìn đồng hồ đeo tay. “Chính xác. Nhưng cũng có rất nhiều vụ mưu sát nữa. Harry Truman, Gerald Ford và Ronald Reagan đều là mục tiêu của những cuộc tấn công nghiêm trọng khi họ còn tại vị.” Brandhaug hắng giọng. “Anh quên rằng vài năm trước người đương nhiệm cũng bị bắn. Hoặc ít nhất thì cũng là nhà ông ta bị bắn.” “Điều đó đúng. Nhưng chúng ta không bao gồm kiểu tình huống như thế vì nếu vậy sẽ có quá nhiều. Tôi không tin là trong vòng hai muơi năm qua có tổng thống Mỹ nào kết thúc nhiệm kỳ mà không có ít nhất mười cuộc mưu sát được phát hiện và thủ phạm bị bắt. Giới truyền thông thì không biết gì hơn!” “Tại sao không?” Sếp Đội Hình sự Bjame Moller hình dung ông chỉ vừa nghĩ đến câu hỏi nên cũng ngạc nhiên như những người khác khi nghe thấy giọng chính mình. Ông nuốt khan khi nhận thấy những mái đầu quay lại nhìn rồi cố gắng chú mục vào Meirik, nhưng không nhịn được đưa mắt về hướng của Brandhaug. Thứ trưởng Ngoại giao nháy mắt trấn an. “Vâng, như các anh biết đấy, giữ kín về những kẻ mưu sát là điều bình thường,” Meirik đáp, bỏ kính xuống. Trông nó như loại kính tối hơn khi ta ra ngoài nắng, được Horst Tappert đeo khi đóng vai chánh thanh tra Derrick, rất nổi tiếng với catalog được đặt hàng qua thư của Đức. “Những âm mưu ám sát đã tỏ ra ít nhất cũng có tính lây lan như tự sát. Thêm nữa, chúng tôi trong ngành không muốn tiết lộ quy trình tác nghiệp của mình.” “Về giám sát thì đã có những kế hoạch nào rồi?” Thứ trưởng Ngoại giao hỏi. Người phụ nữ có đôi gò má cao đưa qua cho Meirik một tờ giấy. Ông đeo kính lên lại rồi bắt đầu đọc. “Tám người của Mật vụ sẽ đến vào thứ Năm. Sau đó chúng tôi sẽ bắt đầu kiểm tra khắp các khách sạn và lộ trình, rà soát chặt chẽ tất cả những ai sẽ tiếp xúc với tổng thống và huấn luyện cho các cảnh sát Na Uy mà chúng tôi sẽ triển khai. Chúng tôi sẽ cần kêu gọi các đơn vị từ Romerike, Asker và Baerum.” “Sẽ sử dụng họ vào việc gì?” Brandhaug hỏi. “Chủ yếu là các nhiệm vụ quan sát. Xung quanh đại sứ quán Mỹ, khách sạn nơi đoàn tùy tùng sẽ nghỉ trọ, điểm đỗ xe…” “Nói ngắn gọn, tất cả những nơi không có tổng thống.” “POT sẽ đảm nhận việc đó. Cùng với Cơ quan Mật Vụ Mỹ.” “Tôi nghĩ anh không thích công tác theo dõi, đúng không Kurt?” Brandhaug nói với nụ cười tự mãn. Hồi ức khiến Kurt Meirik nhăn mặt. Trong thời gian diễn ra Hội nghị Khai thác khoáng sản tại Oslo năm 1998, POT đã từ chối cung cấp nhiệm vụ theo dõi trên cơ sở đánh giá mối đe dọa của riêng họ. Họ kết luận rằng đó là rủi ro an ninh từ trung bình đến thấp. Đến ngày thứ hai của hội nghị, Ban giám đốc Cục Xuất nhập cảnh Na Uy khiến cả hội nghị chú ý đến sự việc là một trong số tài xế Na Uy mà POT đã kiểm tra cho phái đoàn Croatia thực ra là tín đồ Hồi giáo người Bosnia. Hắn ta đến Na Uy vào những năm 1970 và có quốc tịch Na Uy đã nhiều năm. Nhưng năm 1993 cả cha mẹ và bốn người nhà hắn bị binh lính Croatia tàn sát tại Mostar, Bosnia Herzegovina. Khi khám xét căn hộ của hắn, người ta tìm thấy hai quả thủ pháo và một bức thư tuyệt mệnh. Dĩ nhiên, báo chí chẳng đánh hơi thấy gì, nhưng hậu quả của nó đã lan đến cấp chính phủ, và sự nghiệp của Kurt Meirik như chỉ mành treo chuông cho đến khi đích thân Bernt Brandhaug can thiệp. Sự vụ được ỉm đi sau khi tay thanh tra cảnh sát phụ trách vấn đề hồ sơ an ninh từ chức. Brandhaug không thể nhớ tên anh ta, nhưng kể từ đó các quan hệ công tác với Meirik thật tuyệt vời. “Bjorn!” Brandhaug thốt lên, vỗ đét hai tay vào nhau. “Giờ thì tất cả chúng tôi háo hức nghe xem anh muốn nói với chúng tôi chuyện gì. Nói đi nào!” Brandhaug đưa mắt nhìn khắp phòng, lướt nhanh qua người trợ lý của Meirik, nhưng không nhanh đến mức không nhận thấy cô ta đang nhìn ông. Tức là cô ta đang nhìn về phía ông, nhưng đôi mắt cô ta vô cảm, lạnh tanh. Ông cân nhắc có nên đáp lại cái nhìn của cô ta không, để xem vẻ mặt nào sẽ xuất hiện khi cô ta nhận ra điều ông sắp làm, nhưng rồi bỏ ý đó đi. Tên cô ta là gì? Rakel à, đúng không nhỉ? 5 Vườn thượng uyển. Ngày 5 tháng Mười năm 1999. “Ông chết rồi hả ông?” Lão già mở mắt thì thấy bóng dáng một cái đầu đang đứng trước mặt, nhưng khuôn mặt chìm trong quầng ánh sáng trắng. Có phải nàng không? Nàng đã đến đưa lão đi rồi sao? “Ông chết rồi hả ông?” Giọng tươi vui lặp lại. Lão không trả lời vì không biết mắt mình đang mở hay đơn giản là lão đang mơ. Hay, như giọng nói đã hỏi, lão đã chết rồi. “Tên ông là gì?” Cái đầu xê dịch rồi lão trông thấy những ngọn cây và bầu trời xanh ngắt. Lão đã nằm mơ. Cái gì đó trong một bài thơ. Máy bay Đức ném bom trên đầu. Nordahl Grieg. Nhà vua chạy trốn sang Anh. Hai đồng tử của lão điều tiết cho quen với ánh sáng và lão nhớ mình đã ngồi bệt xuống bãi cỏ trong Vườn thượng uyển để nghỉ. Chắc lão đã ngủ thiếp đi. Một thằng bé cúi xuống bên cạnh lão, cặp mắt nâu nhìn lão từ bên dưới mớ tóc đen ngang trán. “Tên cháu là Ali,” thằng bé nói. Một thằng bé Pakistan à? Nó có cái mũi hếch, lạ lùng. “Ali nghĩa là Thượng Đế,” nó nói. “Tên ông nghĩa là gì?” “Tên ta là Daniel,” lão già nói mà nhoẻn cười. “Đó là một cái tên trong Kinh Thánh. Nghĩa là Thượng Đế là người phán xét ta.” Thằng bé nhìn lão. “Thế tên ông là Daniel à?” “Ừ,” người đàn ông đáp. Thằng bé không rời mắt khỏi lão nên lão già cảm thấy bối rối. Có lẽ thằng bé nghĩ rằng lão là kẻ vô gia cư vì lão đang nằm đây còn mặc nguyên áo quần, dùng chiếc áo khoác len làm thảm dưới mặt trời nóng nực. “Mẹ cháu đâu?” lão hỏi, nhằm lảng tránh ánh mắt dò hỏi của thằng bé. “Đằng kia ạ.” Nó quay người lại, giơ tay chỉ. Hai phụ nữ khỏe mạnh, làn da ngăm đen đang ngồi trên bãi cỏ cách đó một quãng. Bốn đứa trẻ đang nô đùa xung quanh, cười như nắc nẻ. “Vậy thì cháu là người phán xét ông, cháu đấy,” thằng bé nói. “Cái gì?” “Ali là Thượng Đế, đúng không? Và Thượng Đế là người phán xét Daniel. Mà tên cháu là Ali còn ông là…” Lão già thò tay véo mũi Ali. Thằng bé cười ré lên sung sướng. Lão thấy hai người phụ nữ quay đầu lại; một người đang đứng lên nên lão bỏ tay ra. “Mẹ cháu kìa, Ali,” lão nói, hất đầu về hướng người phụ nữ đang đi lại. “Mẹ!” thằng bé kêu lên. “Nhìn này, con là người phán xét ông già đó.” Người phụ nữ quát thằng bé bằng tiếng Urdu. Lão già mỉm cười, nhưng bà ta lảng tránh lão, nghiêm khắc nhìn thằng con, cuối cùng nó cũng nghe lời và rón rén đi về phía bà ta. Khi họ quay đi, ánh mắt bà ta nhìn tới và lướt qua lão như thể lão vô hình. Lão muốn phân trần với bà ta rằng mình không phải là kẻ vô công rỗi nghề, nói với bà ta rằng lão cũng góp một tay vào việc định hình xã hội này. Lão đã đầu tư vào nó, theo cách tốt nhất có thể, cho đi mọi thứ mình có đến khi không còn gì để cho nữa, ngoài việc sụm xuống, nhượng bộ và đầu hàng. Nhưng lão không đủ sức làm chuyện đó, lão mệt và chỉ muốn về nhà. Nghỉ ngơi, và rồi lão sẽ thấy. Đã đến lúc một số kẻ khác phải trả giá. Lão không nghe thấy tiếng thằng bé thét gọi theo khi lão bỏ đi. 6 Sở cảnh sát, Gronland. Ngày 9 tháng Mười năm 1999. Ellen Gjelten ngước mắt nhìn người đang xồng xộc qua cửa. “Chào buổi sáng, Harry.” “Mẹ kiếp.” Harry đá văng sọt rác cạnh bàn anh khiến nó đâm sầm vào tường cạnh ghế Ellen ngồi, lăn qua sàn nhà lót vải sơn, giấy rác bắn tung tóe khắp nơi: mấy tờ báo cáo cố gắng viết rồi vứt bỏ (vụ án mạng ở Ekeberg); một bao thuốc lá loại hai mươi điếu rỗng (Camel, nhăn hiệu được miễn thuế); một hộp sữa chua Go’morn xanh lá; tờ tạp chí Dagsavisen; một vé xem phim dùng rồi (Tên phim: Sợ hãi và ghê tởm ở Las Vegas); một phiếu thưởng cá độ bóng đá dùng rồi; một tạp chí âm nhạc (MOJO, số 69, tháng Hai năm 1999, có hình ban nhạc Queen trên trang bìa); một chai coca (bằng nhựa, loại nửa lít); và một tờ giấy nhớ màu vàng có số điện thoại anh đã cân nhắc gọi được một thời gian rồi. Ellen ngước mắt khỏi máy tính và xem xét mớ rác trong sọt đổ giữa sàn. “Anh vừa quăng tạp chí MOJO đi đấy à, Harry?” cô hỏi. “Mẹ kiếp!” Harry lặp lại. Anh vùng vằng cởi phăng áo vest bó sát rồi ném qua văn phòng hai mươi mét vuông anh với Ellen Gjelten dùng chung. Chiếc vest trúng giá áo, nhưng tuột xuống sàn. “Làm sao thế?” Ellen hỏi, đưa tay ra đỡ cho cái giá áo đang lắc lư khỏi đổ xuống. “Tôi tìm thấy cái này trong ngăn kéo bàn tôi.” Harry vẫy vẫy một tài liệu. “Trông như bản án của tòa.” “Phải. “Vụ Dennis Kebab à?” “Đúng.” “Rồi sao?” “Sverre Olsen đã được tặng một bản án thích đáng. Ba năm rưỡi.” “Lạy Chúa. Chắc tâm trạng anh hẳn phải tuyệt vời lắm.” “Đúng vậy, trong khoảng một phút. Cho đến khi tôi đọc cái này.” Harry giơ lên một bản fax. “Thì sao?” “Khi Krohn nhận được bản sao bản án hồi sáng nay, hắn đáp lại bằng cách gửi cho chúng ta cảnh cáo rằng hắn sẽ theo đuổi khiếu nại về sai lầm tố tụng.” Ellen nhăn mặt như thể đang ngậm cái gì đó buồn nôn trong miệng. “Eo ơi.” “Hắn muốn toàn bộ bản án bị hủy bỏ. Cô sẽ đếch tin được đâu, nhưng thằng cha Krohn lươn lẹo đó gây sức ép với chúng ta về việc tuyên thệ.” Harry đứng trước cửa sổ. “Các thẩm phán chỉ phải đọc lời tuyên thệ lần đầu tiên khi họ làm thẩm phán, nhưng việc đó phải diễn ra tại phòng xử án trước khi vụ án bắt đầu. Krohn để ý thấy rằng một thẩm phán là người mới. Và bà ta đã không đọc lời tuyên thệ trước tòa.” “Đó được gọi là lời xác nhận!” “Đúng. Bây giờ hóa ra căn cứ theo giấy chứng nhận bản án, thẩm phán đã nghe lời xác nhận của thẩm phán không chuyên trong văn phòng mình, ngay trước khi bắt đầu phiên xử. Ông ta đổ lỗi do thiếu thời gian và không biết những quy định mới!” Harry vò tờ fax ném thành một vòng cung rộng, trượt cái sọt rác của Hellen nửa mét. “Hậu quả là gì?” Ellen hỏi, đá tờ fax sang bên nửa văn phòng của Harry. “Lời kết án sẽ được xem là không có hiệu lực, Sverre Olsen sẽ là người tự do trong ít nhất cũng mười tám tháng, cho đến khi phiên tòa được mở lại. Theo kinh nghiệm thì bản án sẽ nhẹ đi rất nhiều do sự căng thẳng trong thời gian chờ đợi mà bị cáo phải gánh chịu này nọ. Bị quản thúc tám tháng rồi thì Sverre Olsen là người tự do mẹ nó rồi còn gì.” Harry không nói với Ellen, cô biết mọi chi tiết của vụ án. Anh đang nói với hình ảnh phản chiếu của mình trong của sổ, nói rành rọt từng chữ để nghe xem chúng có nghĩa lý gì không. Anh đưa cả hai bàn tay lùa qua cái đầu đẫm mồ hôi, đến tận chỗ mái tóc vàng mới cắt sát rạt đã mọc lên lởm chởm. Lý do để anh cạo nhẵn thín phần còn lại rất đơn giản: tuần trước anh lại bị nhận mặt. Một gã thanh niên, đầu đội mũ len đen, đi giày Nike và mặc quần cỡ to rộng thùng thình đến nỗi đũng xệ xuống giữa hai đầu gối, đã bước lại chỗ anh trong khi lũ bạn hắn cười khẩy sau lưng mà hỏi Harry có phải “anh chàng kiểu Bruce Willis ở Úc hay không.” Đó là ba - ba! - năm trước khi mặt anh trang trí trang bìa các tờ báo và anh còn tự biến mình thành thằng ngốc trên các sô truyền hình nói về một kẻ giết người hàng loạt anh bắn chết tại Sydney. Harry đã bỏ đi ngay và cạo trọc đầu luôn. Ellen còn gợi ý anh nên để râu. “Điều tồi tệ nhất là tôi dám cá rằng tên khốn luật sư đó đã thảo sẵn đơn kháng cáo trước khi bản án được thông qua. Hắn đã có thể nói gì đó, và lời xác nhận có thể đã được thực hiện ngay tại chỗ. Nhưng hắn chỉ ngồi ì ra đó, xoa tay mà chờ.” Ellen nhún vai. “Chuyện kiểu đó vẫn xảy ra mà. Chiến công của luật sư bên bị. Thì cũng phải hiến tế cái gì đó lên bàn thờ luật pháp và trật tự chứ. Bình tĩnh lại đi, Harry.” Cô phát biểu một thực tế bằng sự pha lẫn châm biếm với nghiêm túc. Harry ghì trán vào lớp kính mát lạnh. Lại một ngày nữa trong những ngày tháng Mười ấm áp bất thường. Anh tự hỏi Ellen, nữ cảnh sát trẻ trung, mới vào nghề, có khuôn mặt xanh xao, dễ thương như búp bê, cái miệng nhỏ xinh và đôi mắt tròn xoe như viên bi này tạo được vẻ ngoài cứng rắn như thế từ đâu. Cô nàng xuất thân từ tầng lớp trung lưu, chính miệng cô nói, là con một và được nuông chiều, thậm chí còn theo học trường nữ sinh nội trú ở Thụy Sĩ. Ai biết được? Có lẽ sự dạy dỗ đó đã đủ cứng rắn rồi. Harry ngửa cổ ra sau và thở ra. Rồi anh cởi một cúc áo sơ mi. “Nữa đi, nữa đi,” Ellen vừa thì thầm vừa vỗ tay cổ vũ. “Bọn Quốc xã mới gọi hắn là Người Dơi đấy.” “Hiểu rồi. Gậy Bóng chày(2).” “Không phải tên phát xít - gã luật sư ấy.” “Phải rồi. Thú vị đấy. Có phải nghĩa là hắn đẹp trai, giàu có, nóng tính, bụng sáu múi và xe xịn không?” Harry phá lên cười. “Cô cũng nên có chương trình truyền hình riêng đấy, Ellen. Đó là vì Người Dơi luôn thắng. Thêm nữa, hắn có vợ rồi.” “Đó là điểm trừ duy nhất à?” “Cái đó… và lần nào hắn cũng biến chúng ta thành trò cười!” Harry nói trong khi rót cho mình một cốc cà phê xay sẵn mà Ellen mang theo khi cô dọn đến văn phòng hai năm trước. Khó khăn bất ngờ đó là khẩu vị của Harry không chịu được loại đồ uống không có cồn thông thường này nữa. “Hắn định leo lên chức thẩm phán Tòa án Tối cao à?” cô hỏi. “Trước khi hắn được bốn mươi tuổi.” “Cá một nghìn krone là hắn không thành công!” “Xong.” Họ cùng cười, cùng nâng cốc cà phê giấy. “Thế tôi lấy tờ tạp chí MOJO này được không?” cô hỏi. “Có mấy bức ảnh chụp mười tư thế khỏa thân khủng khiếp nhất của Freddie Mercury. Ngực trần, hai tay chống nạnh và phô ra hàm rằng vẩu. Đúng là một thảm họa. Của cô đấy!” “Tôi thích Freddie Mercury mà, thật đấy. Từng thích.” “Tôi không nói là tôi không thích hắn.” Chiếc ghế văn phòng màu xanh, lỗ chỗ vốn từ lâu được để ở mức thấp nhất, rít lên phản đối khi Harry ngả người ra sau, chìm trong suy tư. Anh cầm lên một tờ giấy nhớ màu vàng có dòng chữ của Ellen trên điện thoại trước mặt. “Cái gì đây?” “Anh biết đọc mà, đúng không? Moller muốn gặp anh.” Harry chạy xuống hành lang, vừa đi vừa hình dung ra cái miệng mím chặt, hai nếp nhăn hằn sâu của sếp khi biết tin Sverre Olsen lại được sải bước tự do. Cạnh chiếc máy photocopy, cô gái trẻ má hồng tức thì ngước mắt lên và mỉm cười khi Harry đi ngang. Anh chẳng buồn mỉm cười đáp lại. Có lẽ là một trong mấy cô gái văn phòng. Mùi nước hoa của cô ta thật ngọt và nồng, đơn giản là khiến anh thấy khó chịu. Anh nhìn xuống kim chỉ phút trên đồng hồ đeo tay. Vậy là giờ đây mùi nước hoa bắt đầu làm anh khó chịu. Anh bị chuyện gì vậy? Ellen đã nói rằng anh thiếu nghị lực tự nhiên, hoặc bất kể nó nghĩa là gì mà hầu hết mọi người cố vùng vẫy mà trồi lên lại. Từ Bangkok về anh chán nản một thời gian dài đến mức đã tính chuyện bỏ cuộc không bao giờ còn trồi đầu lên nữa. Mọi thứ đều giá lạnh và tối đen, mọi cảm giác của anh không hiểu sao đã cùn nhụt đi. Như thể anh đã chìm sâu dưới nước. Đó từng là sự thinh lặng tuyệt vời. Khi người ta nói chuyện với anh, từ ngữ như những bọt khí thoát ra từ miệng họ, hối hả bay lên rồi tan mất. Anh đã nghĩ vậy ra chết đuối cũng giống thế, và anh chờ đợi. Nhưng chẳng xảy ra chuyện gì. Chỉ là khoảng chân không. Mà cũng tốt thôi. Anh đã sống sót. Nhờ có Ellen. Cô đã có mặt trong mấy tuần đầu tiên sau khi anh quay về, khi anh đã phải thừa nhận mình thất bại và bỏ về nhà. Cô lo sao cho chắc rằng anh không đến mấy quán bar, bắt anh thở ra khi anh đi làm muộn, rồi căn cứ theo đó mà tuyên bố anh có say xỉn hay không. Đã vài lần cô buộc anh về nhà nhưng cô giữ kín chuyện đó. Chuyện này cần thời gian nhưng Harry chẳng có việc gì đặc biệt mà làm. Ellen gật đầu hài lòng hôm thứ Sáu đầu tiên họ khẳng định được rằng anh tỉnh táo đi làm năm ngày liên tiếp. Cuối cùng anh đã hỏi thẳng cô. Với học viện cảnh sát và tấm bằng luật sau lưng, cả cuộc đời còn ở trước mặt, tại sao cô lại tình nguyện quàng vào cổ cái ách này? Chẳng lẽ cô không nhận ra làm thế cũng chẳng có lợi gì cho sự nghiệp của mình sao? Cô thấy khó tìm được những bạn bè bình thường và thành đạt hay sao? Cô nhìn anh với vẻ mặt nghiêm túc, trả lời rằng cô làm thế chỉ nhằm học hỏi hết kinh nghiệm của anh mà thôi. Anh là điều tra viên xuất sắc nhất họ có trong Đội Hình sự. Nhảm nhí, dĩ nhiên, dẫu vậy anh thấy tự mãn vì cô lại chịu nói ra vậy. Thêm nữa, Ellen là một điều tra viên nhiệt tình, tham vọng đến mức không thể không lan truyền sang ta. Trong sáu tháng qua Harry thậm chí còn bắt đầu làm việc tốt trở lại. Một số vụ anh còn hoàn thành xuất sắc. Chẳng hạn như vụ Sverre Olsen. Trước mắt anh là cửa văn phòng Moller. Harry gật đầu khi đi qua với một cảnh sát mặc đồng phục đang giả vờ như không nhìn thấy anh. Harry nghĩ nếu hắn là thí sinh trên chương trình truyền hình Cuộc thám hiểm Robinson của Thụy Điển, họ sẽ chẳng mất đến hơn một ngày mới nhận ra ác nghiệp của hắn và tống cổ hắn về nhà. Tống cổ hắn về nhà ư? Lạy Chúa, anh đang bắt đầu tư duy theo thuật ngữ của mấy cái chương trình nhảm nhí trên đài TV3 rồi. Đó là chuyện xảy ra khi ta năm giờ mỗi tối lại ngồi trước màn hình ti-vi. Ý tưởng rằng nếu anh bị nhốt trước cái ti-vi tại phố Sofies, ít nhất anh sẽ không ngồi trong quán Schreder. Anh đưa tay lên gõ hai cái ngay bên dưới tấm biển trên cửa: Bjame Moller, PAS. “Vào đi!” Harry nhìn đồng hồ đeo tay. Bảy giờ năm giây. 7 Văn phòng Moller. Ngày 9 tháng Mười năm 1999. Thanh tra Biame Moller đang nằm thì đúng hơn là ngồi trên ghế, hai cẳng chân dài thò ra giữa mấy chân bàn. Hai tay ông xếp sau đầu - một mẫu vật tuyệt đẹp cho thứ mà các nhà nghiên cứu chủng tộc thời đầu hay gọi là “sọ dài” - điện thoại kẹp chặt giữa tai và vai. Tóc ông cắt theo lối húi cua mà gần đây Hole ví von với kiểu tóc của Kevin Costner trong phim Vệ Sĩ. Moller chưa xem phim Vệ sĩ. Ông không đi xem phim đã mười lăm năm nay rồi vì số mệnh đã cho ông một ý thức trách nhiệm quá cỡ, quá ít thời gian, hai đứa con và một người vợ chỉ hiểu được ông phần nào. “Vậy thì ta cứ theo chuyện đó,” Moller nói, bỏ điện thoại xuống và nhìn Harry qua cái bàn oằn xuống vì tài liệu, những gạt tàn thuốc đầy be và cốc giấy. Trên mặt bàn một tấm ảnh hai thằng bé ăn mặc như thổ dân da đỏ đánh dấu một trung tâm hợp lý giữa hỗn loạn. “Cậu đây rồi, Harry” “Tôi đây rồi, sếp.” “Tôi đã đến dự một cuộc họp tại Bộ Ngoại giao có liên quan tới hội nghị thượng đỉnh trong tháng Mười một này ở Oslo. Tổng thống Mỹ sẽ đến…àmà cậu đọc tài liệu rồi nhỉ. Cà phê không, Harry?” Moller đứng lên, chỉ cần hai sải chân bảy dặm ông đã tới được tủ hồ sơ mà trên đó, nằm ngay ngắn trên cùng một chồng tài liệu, máy pha cà phê đang phun ra thứ chất lỏng sền sệt. “Cảm ơn sếp, nhưng tôi…” Đã quá trễ nên Harry đưa tay đón lấy cốc cà phê nghi ngút khói. “Tôi đặc biệt mong chờ chuyến viếng thăm của Mật vụ, tôi chắc chắn chúng ta sẽ có mối quan hệ thân ái với họ khi chúng ta và họ đã hiểu nhau rõ hơn!” Moller chưa bao giờ học được cách vận dụng lối ăn nói mỉa mai. Đây chỉ là một trong nhiều điều Harry đánh giá rất cao ở sếp. Moller co hai đầu gối vào cho đến khi đỡ đáy mặt bàn. Harry ngả người ra sau lấy bao Camel đã nhàu nát từ túi quần, nhướng một bên mày dò hỏi về phía Moller. Ông nhanh chóng đón bắt được tín hiệu, đẩy cái gạt tàn đầy ắp về phía anh. “Tôi sẽ chịu trách nhiệm về an ninh dọc các tuyến đường đến và đi từ Gardermoen. Ngoài tổng thống ra còn có Barak.” “Barak?” “Edhud Barak. Thủ tướng Israel.” “Trời ạ, vậy là lại sắp có thêm một thỏa thuận Oslo tuyệt vời nữa à?” Moller chán nản nhìn chằm chằm cột khói xanh đang cuộn lên trần nhà. “Đừng bảo tôi cậu chưa nghe chuyện đó, Harry. Nếu không tôi sẽ còn lo lắng cho cậu hơn hiện giờ nữa. Chuyện này đã lên tất cả các trang nhất tuần trước rồi.” Harry nhún vai. “Thằng bé đưa báo không chịu đến đều đặn. Khiến kiến thức chung của tôi chịu những lổ hổng nghiêm trọng. Một thứ cản trở trầm trọng cho đời sống giao tế của tôi.” Anh cẩn thận nhấp thêm một ngụm cà phê nữa, nhưng bỏ cuộc, đẩy cốc cà phê ra xa. “Và đời sống tình ái của tôi nữa.” “Thật à?” Moller dò xét Harry với vẻ mặt cho thấy ông không biết nên thích thú hay khiếp sợ chuyện sắp xảy ra. “Dĩ nhiên. Ai lại thấy một thằng đàn ông độ ba mươi lăm, biết tường tận cuộc sống của bao người trong chương trình Cuộc thám hiểm Robinson, thế mà lại hầu như không nhớ được tên vị nguyên thủ nào, hay là tổng thống Israel, là hấp dẫn?” “Thủ tướng.” “Thì đấy. Sếp hiểu ý tôi rồi đấy.” Moller nhịn cười. Ông thường dễ cười. Và mềm lòng với viên sĩ quan có phần đau khổ với đôi tai to lộ ra từ mái đầu húi sát trông như hai cánh bướm đầy màu sắc. Cho dù đối với Moller, Harry chỉ gây cho ông nhiều rắc rối hơn niềm vui. Là người mới được thăng chức lên PAS, ông đã học được rằng lời răn thứ nhất đối với một công chức có các dự tính cho sự nghiệp là đề phòng. Khi Moller hắng giọng chuẩn bị thốt ra những câu hỏi gây lo nghĩ, ông đã quyết định sẽ hỏi, và sợ phải hỏi, bước đầu tiên ông nhíu mày cho Harry thấy rằng mối bận tâm của ông có tính chất chuyên môn, không phải thân mật. “Tôi nghe nói cậu vẫn đang giết thời gian ở quán Schreder, Harry?” “Đỡ hơn xưa rồi sếp. Trên ti-vi cũng lắm chương trình hay mà.” “Nhưng cậu vẫn đang ngồi đó mà nốc rượu?” “Họ không thích ta đứng đâu.” “Thôi ngay đi. Cậu đang uống trở lại sao?” “Tối thiểu thôi.” “Tối thiểu thế nào?” “Họ sẽ quẳng tôi ra ngoài nếu tôi uống ít hơn vậy.” Lần này Moller không nhịn được cười nữa. “Tôi cần ba sĩ quan liên lạc để giữ an ninh cho tuyến đường,” ông nói. “Mỗi người sẽ được tùy nghi sử dụng mười người từ các khu vực cảnh sát tại Akershus, cộng thêm hai học viên năm cuối trường sĩ quan. Tôi đã nghĩ đến Tom Waaler…” Waaler. Thằng khốn phân biệt chủng tộc nhưng đang ở ngay trong danh sách đề bạt cho chức vụ thanh tra. Harry đã nghe nói đủ về các hoạt động chuyên môn của Waaler để biết chúng xác nhận tất cả các định kiến người dân có thể có đối với cảnh sát. Trừ một điều: thật không may, Waaler không phải là thằng ngu. Những thành tích khi hắn làm điều tra viên ấn tượng đến mức chính Harry phải thừa nhận hắn kiểu gì cũng xứng đáng được thăng chức. “Và Weber…” “Cái lão già bẳn tính ấy à?” “… và cậu nữa, Harry.” “Nói lại xem nào?” “Cậu nghe rồi đấy.” Mặt Harry nhăn nhó. “Cậu có phản đối gì không?” Moller hỏi. “Dĩ nhiên là có.” “Tại sao? Đây là một nhiệm vụ vẻ vang, Harry. Niềm tự hào của cậu đấy.” “Thế á?” Harry giận dữ dụi điếu thuốc vào gạt tàn. “Hay đây là giai đoạn tiếp theo trong quá trình phục hồi?” “Ý cậu là sao?” Bjame Moller có vẻ bị xúc phạm. “Tôi biết rằng sếp đã bất chấp lời khuyên đúng, đã có bất đồng với một vài người khi sếp tiếp nhận tôi về lại đội sau vụ Bangkok. Và tôi mãi mãi biết ơn sếp vì điều đó. Nhưng cái gì thế này? Sĩ quan liên lạc sao? Nghe như một nỗ lực chứng minh với những kẻ còn nghi ngờ rằng sếp đã đúng, còn bọn họ thì sai. Rằng Hole đang trồi lên, rằng có thể giao trách nhiệm cho anh ta và đủ thứ.” “Vậy sao?” Bjame Moller lại chắp hai tay sau đầu. “Vậy sao á?” Harry nhại lại. “Có phải đằng sau chuyện này là thế không? Tôi lại chỉ là một con tốt?” Moller buông tiếng thở dài thất vọng. “Chúng ta đều là con tốt cả, Harry. Luôn luôn có một động cơ ngầm. Chuyện này không tồi tệ hơn bất kỳ chuyện gì khác. Hãy làm tốt công việc rồi điều đó sẽ tốt cho cả hai chúng ta. Chuyện này khó đến thế hay sao?” Harry khịt mũi, định nói gì đó, kiềm chế, lấy đà lần nữa, nhưng rồi lại thôi. Anh búng một điếu nữa trong bao ra. “Chỉ là tôi cảm thấy mình như một con ngựa chết tiệt cho thiên hạ đặt cược. Và tôi ghét cay ghét đắng trách nhiệm.” Harry để thõng điếu thuốc trên môi mà không châm lửa. Anh nợ Moller ân huệ này, nhưng nếu anh làm hỏng bét thì sao? Moller đã nghĩ đến điều đó chưa? Sĩ quan liên lạc à? Bây giờ anh đã kiêng rượu được một thời gian rồi, nhưng anh vẫn phải thận trọng, từng ngày một. Chết tiệt, chẳng phải đó là một trong những lý do anh trở thành điều tra viên sao? Để tránh có người ở dưới mình, và càng ít người trên mình càng tốt? Harry cắn xuống đầu lọc điếu thuốc. Họ nghe thấy những giọng nói ngoài hành lang cạnh máy pha cà phê. Nghe giống như Waaler. Tiếp theo là những tràng cười. Có lẽ là của cô nhân viên văn phòng mới. Trong mũi anh vẫn còn mùi nước hoa của cô ta. “Mẹ kiếp!” Harry nói. Mẹ-kiếp. Với hai chữ, khiến điếu thuốc nảy lên hai lần trên miệng. Moller nhắm mắt suốt lúc Harry chìm trong suy tư, rồi giờ ông hé mắt ra. “Tôi xem đó như một lời đồng ý nhé?” Harry đứng dậy bước ra ngoài chẳng nói tiếng nào. 8 Trạm thu phí tại Alnabru. Ngày 1 tháng Mười một năm 1999. Con chim lông xám lọt vào tầm nhìn của Harry rồi lại đang bay ra. Anh ghì mạnh cò khẩu Smith & Wesson cỡ 38 trong khi nhìn qua mép ống ngắm về khoảng lưng bất động sau tấm kính. Ai đó đã nói về chuyện thời gian trôi chậm lại trên ti-vi ngày hôm qua. Còi xe, Ellen. Nhấn cái còi chết tiệt ấy đi. Chắc hắn ta là nhân viên Mật vụ. Thời gian trôi chậm lại, như vào đêm Giáng sinh trước khi ông già Noel đến. Chiếc mô tô đầu tiên đã chạy đến ngang buồng bán vé, con chim cổ đỏ vẫn chỉ là một chấm đen bên rìa tầm nhìn của anh. Thời gian trên ghế điện trước khi dòng điện… Harry siết cò. Một, hai, ba lần. Rồi thời gian tăng tốc dữ dội. Lớp kính màu trắng xóa đi, bắn tung mảnh vụn xuống mặt đường nhựa, anh nhác thấy một cánh tay biến mất dưới đường viền buồng bán vé trước khi tiếng êm ru của những lốp xe Mỹ đắt tiền xuất hiện - rồi đi mất. Anh nhìn chằm chằm về phía buồng bán vé. Vài chiếc lá vàng xoáy tít lên bên đoàn xe mô tô vẫn lơ lửng trong không trung rồi mới hạ xuống gờ cỏ xám bẩn thỉu. Anh nhìn về phía buồng bán vé. Tất cả lại chìm vào im lặng, và trong một lúc anh chỉ nghĩ được một điều là anh đang đứng tại một trạm thu phí Na Uy bình thường vào một ngày thu Na Uy bình thường, với một trạm xăng Esso bình thường làm phông nền. Thậm chí còn có mùi của một buổi sáng lạnh lẽo bình thường: mùi lá mục rữa và khói xe. Bỗng dưng anh chợt hiểu: có lẽ chẳng có gì trong những chuyện này đã thực sự xảy ra. Anh vẫn đang nhìn chăm chăm về phía buồng bán vé thì tiếng rền rĩ không ngớt của còi xe Volvo sau lưng anh cưa ngày làm đôi. PHẦN 2 KHỞI NGUYÊN 9 Năm 1942. Những quả pháo sáng chiếu sáng bầu trời đêm xám xịt, khiến nó giống như tấm vải bạt bẩn thỉu phủ lên một khung cảnh xám ngoét, trần trụi bao quanh họ ở mọi phía. Có lẽ quân Nga đã mở đợt tấn công, có lẽ chỉ là bịp; ta thực sự chẳng bao giờ biết được chừng nào nó chưa kết thúc. Gudbrand nằm trên mép hào, hai chân co lên ngực, cầm chắc cây súng bằng cả hai tay lắng nghe những tiếng nổ khô khốc xa xa khi nhìn pháo sáng rơi. Gã biết mình không nên nhìn pháo sáng. Mắt gã sẽ bị quáng gà rồi không thấy được những tên lính bắn tỉa Nga bò ra trong tuyết trong vùng trung lập. Nhưng dù gì gã cũng chẳng thể nhìn thấy họ, chưa từng trông thấy một tên nào; gã chỉ bắn theo lệnh. Như bây giờ gã đang làm. “Hắn kia rồi!” Đó là Daniel Gudeson, anh chàng thành thị duy nhất trong đơn vị. Những người khác đến từ những nơi có tên tận cùng bằng chữ dal. Một số vùng thung lũng thì rộng còn số khác thì sâu, hoang liêu và tối tăm, chẳng hạn như vùng đất quê nhà của Gudbrand. Nhưng với Daniel thì không. Daniel có vầng trán cao, trong sáng, đôi mắt xanh long lanh và nụ cười phô ra hàm răng trắng bóc. Cậu ta giống như hình trên áp phích tuyển quân. Cậu ta đến từ đâu đó có những đường chân trời. “Hướng hai giờ, bên trái bụi rậm,” Daniel nói. Bụi rậm? Không thể có bụi rậm nào trong quang cảnh toàn hố bom thế này? À mà có, vì mấy đứa kia đang bắn. Tành tạch, pằng pằng, vèo vèo. Cứ năm viên đạn lại có một viên vút đi như đường parabol, như con đom đóm. Đạn lửa. Viên đạn vút đi vào bóng tối nhưng dường như nó bỗng thấm mệt vì vận tốc viên đạn giảm rồi nó chìm xuống đâu đó ngoài kia. Dù sao đi nữa thì trông nó giống như vậy, Gudbrand nghĩ một viên đạn bay chậm như thế sẽ chẳng giết nổi ai, “Hắn đang bỏ chạy!” một giọng cay đắng, đầy căm hận rít lên. Là giọng của Sinclre Fauke. Khuôn mặt hắn gần như lẫn vào bộ quân phục ngụy trang và đôi mắt nhỏ, sâu hoắm nhìn đăm đăm vào bóng tối. Hắn đến từ một trang trại xa xôi hẻo lánh tận trên vùng cao Gudbrandsdalen, có lẽ là một vùng đất hẹp bị bao bọc xung quanh nào đó mà ánh mặt trời không chiếu tới vì da hắn trông tái xanh. Gudbrand không biết tại sao Sindre lại tình nguyện đi chiến đấu trên Mặt trận phía Đông, nhưng gã nghe nói rằng cha mẹ và cả hai anh hắn đều gia nhập đảng Dân tộc Thống nhất phát xít. Họ đeo dải băng trên cánh tay đi khắp nơi, chỉ điểm dân làng đồng hương họ nghi ngờ là dân quân kháng chiến. Daniel nói rằng một ngày nào đó những kẻ chỉ điểm và tất cả những ai khai thác chiến tranh để mưu lợi cá nhân sẽ phải ăn đòn. “Không, không đâu,” Daniel hạ thấp giọng, cằm tì lên súng. “Không thằng Bônsêvích chết tiệt nào thoát dược đâu.” “Hắn biết bọn mình thấy hắn rồi” Sindre nói. “Hắn sẽ trốn vào chỗ trũng dưới kia.” “Không, không đâu!” Daniel đáp và nhắm bắn. Gudbrand nhìn chằm chằm ra vùng tối đen màu trắng xám. Tuyết trắng, những bộ đồng phục ngụy trang trắng, ánh lửa trắng. Bầu trời lại sáng lên. Đủ kiểu bóng đen vụt qua lớp băng tuyết. Gudbrand lại nhìn chằm chằm lên. Những chớp sáng đỏ, vàng ở chân trời, tiếp theo là những tiếng ầm ầm xa xa. Nó không thật như ở rạp phim vậy, ngoại trừ một điều đang âm ba mươi độ và chẳng có ai để vòng tay ôm. Có lẽ lần này là đợt tấn công thật rồi? “Mày chậm quá đấy, Gudeson. Hắn biến rồi.” Sindre nhổ toẹt xuống tuyết. “Chưa, hắn chưa biến đâu!” Daniel đáp còn khẽ hơn nữa và ngắm bắn, rồi lại ngắm. Gần như miệng cậu ta không còn phả ra khói lạnh nữa. Thế rồi một tiếng đạn rít chói tai, một tiếng thét cảnh báo, vậy là Gudbrand ném mình xuống đáy hào phủ đầy băng, đưa cả hai tay lên che đầu. Mặt đất rung chuyển. Từng hòn đất nâu đóng băng trút xuống như mưa; một hòn trúng mũ sắt của Gudbrand, trượt xuống ngay trước mặt gã. Gã đợi đến khi chắc rằng không còn hòn đất nào rơi nữa mới đẩy mũ lên lại. Yên ắng trở lại và một lớp tuyết trắng mịn bám đầy mặt gã. Họ nói ta chẳng bao giờ nghe thấy tiếng đạn pháo bắn trúng ta, nhưng Gudbrand đã thấy đủ kết quả của những trái đạn pháo vèo vèo để biết điều đó không đúng. Một quả pháo sáng làm lóe sáng con hào; gã trông thấy khuôn mặt trắng bệch của mấy đứa kia và bóng họ khi họ bò về phía gã, bám sát vào một bên con hào, đầu cúi thấp khi ánh sáng dần nhạt đi. Nhưng Daniel đâu? Daniel! “Daniel!” “Tóm được hắn rồi!” Daniel nói, vẫn đang nằm trên mép hào. Gudbrand không tin nổi tai mình. “Cậu vừa nói gì?” Daniel trượt xuống hào, giũ tuyết và đất. Cậu ta cười toét miệng. “Tối nay không thằng chó Nga nào bắn trong phiên gác của bọn mình được đâu. Báo thù cho Tormod được rồi.” Hai gót chân cậu ta bấm xuống mép hào để khỏi trượt trên băng. “Nó chém đấy!” Là giọng Sindre. “Mày có bắn trúng hắn quái đâu, Gudeson. Tao thấy thằng Nga đó biến vào dưới chỗ trũng cơ mà.” Đôi mắt ti hí của hắn hết nhìn người này lại nhìn người kia, như thể muốn hỏi có ai tin được lời khoác lác của Daniel. “Chính xác!” Daniel nóỉ. “Nhưng hai tiếng nữa là trời sáng, và hắn biết hắn sẽ phải bò ra trước lúc đó.” “Đúng vậy, nên hắn đã cố làm thế sớm một chút!” Gudbrand lẹ làng nói thêm. “Hắn ló ra ở phía bên kia. Đúng không, Daniel?” “Quá sớm hay không!” Daniel mỉm cười. “Dù sao thì tớ cũng sẽ tóm được hắn.” Sindre rít lên: “Câm cái mỏ bể của mày lại đi, Gudeson.” Daniel nhún vai, kiểm ổ đạn và lên đạn. Rồi cậu ta quay người, gác súng qua vai, đạp một bên ủng vào thành hào đóng băng rồi phóng người lên trên mặt hào. “Đưa tớ cái mai của cậu được không, Gudbrand.” Daniel cầm lấy cái mai và đứng thẳng người lên. Trong bộ quân phục mùa đông trắng xóa, dáng người cậu ta in rõ nét trong bầu trời đêm và pháo sáng lơ lửng như ánh hào quang trên đầu. Trông cậu ta như thiên thần ấy, Gudbrand nghĩ. “Cậu đang làm cái quái gì thế hả!” Edvard Mosken tiểu đội trưởng quát. Người lính điềm tĩnh quê Mjondol hiếm khi cao giọng với những quân nhân kỳ cựu như Daniel, Sindre và Gudbrand trong đơn vị này. Thường thì chỉ lính mới mỗi khi phạm sai lầm mới bị quát mắng. Họ càng nghe chửi nhiều thì sẽ càng nhiều người trong số họ giữ được mạng sống. Lúc này Edvard Mosken đang nhìn trừng trừng lên Daniel bằng một bên mắt mở to không bao giờ khép lại. Ngay cả khi anh ta đang ngủ cũng không. Chính mắt Gudbrand đã nhìn thấy điều đó. “Xuống nấp đi, Gudeson,” tiểu đội trưởng nói. Nhưng Daniel chỉ mỉm cười và loáng cái đã biến mất; khói lạnh từ miệng cậu ta lơ lửng bên trên họ trong giây lát. Rồi ánh pháo sáng sau đường chân trời chìm xuống và trời lại tối đen. “Gudeson!” Edvard gào lên, trèo lên mặt hào. “Mẹ kiếp!” “Cậu thấy nó không?” Gudbrand hỏi. “Biến mất tiêu rồi.” “Cái thằng điên này tính làm gì với cái mai nhỉ?” Sindre hỏi, nhìn Gudbrand. “Không biết!” Gudbrand đáp. “Dời hàng rào thép gai chăng?” “Tại sao nó lại muốn dời hàng rào thép gai?” “Không biết!” Gudbrand không ưa cặp mắt hoang dại của Sindre. Chúng nhắc gã nhớ đến một thằng nhà quê khác đã từng đến đó. Đến cuối cùng hắn ta hóa điên, một đêm nọ đã đi tiểu ngay vào giày của mình trước khi đi tuần và sau đó buộc phải cắt bỏ hết mười đầu ngón chân. Nhưng bây giờ hắn ta đã quay về quê nhà ở Na Uy rồi, nên suy cho cùng có lẽ hắn cũng không điên cho lắm. Dù sao đi nữa, Sindre cũng có đôi mắt điên dại giống hệt như thế. “Có lẽ cậu ta đi dạo trong vùng trung lập!” Gudbrand nói. “Tôi biết bên kia hàng rào thép gai là cái gì. Tôi đang tự hỏi cậu ta đang làm gì ở đó.” “Có lẽ cậu ta bị đạn pháo bắn trúng đầu rồi!” Hallgrim Dale nói. “Chắc cậu ta hóa lẩm cẩm rồi.” Hallgrim là đứa trẻ nhất trong tiểu đội, mới mười tám tuổi. Chẳng ai thực sự hiểu tại sao cậu ta lại đăng lính. Máu phiêu lưu, Gudbrand nghĩ vậy. Dale luôn mồm nói rằng cậu ta ngưỡng mộ Hitler, nhưng cậu ta chẳng biết gì về chính trị. Daniel thì nghĩ chắc vì cậu ta đã làm con gái nhà người ta mang thai. “Nếu thằng Nga đó vẫn sống, Gudeson sẽ bị bắn chết trước khi cậu ta tiến được năm mươi mét,” Edvard Mosken nói. “Daniel tóm được hắn rồi!” Gudbrand thì thầm. “Trong trường hợp đó một đứa khác sẽ bắn Gudeson,” Edvard đáp, thọc tay vào trong áo jacket rằn ri, lôi ra điếu thuốc lá mỏng manh trong túi áo ngực. “Đêm nay nó đang bò với chúng ở ngoài kia.” Anh ta khum tay che que diêm khi quẹt diêm vào vỏ bao cứng. Lưu huỳnh bốc cháy ở lần quẹt thứ hai, Edvard đưa diêm lên châm lửa, hít một hơi dài rồi chuyền quanh không nói tiếng nào. Tất cả bọn họ chậm rãi rít vào, rồi chuyền điếu thuốc sang cho người bên cạnh. Chẳng ai nói lời nào; dường như tất cả đều đang đắm chìm trong những suy tư riêng. Nhưng Gudbrand biết rằng, giống như gã, họ đang lắng nghe. Mười phút trôi qua mà không có một tiếng động nào. “Nghe nói máy bay sắp đánh bom hồ Ladoga,” Hallgrim Dale nói. Tất cả đều đã nghe đồn rằng lính Nga đang tháo chạy khỏi Leningrad qua mặt hồ đóng băng. Nhưng điều tồi tệ hơn là mặt băng đồng nghĩa với việc tướng Tsjukov có thể kiếm được hàng tiếp tế vào thành phố bị bao vây. “Đáng lẽ chúng phải ngất xỉu khắp phố vì đói ở đằng đó,” Dale nói, hất hàm về phía Đông. Nhưng Gudbrand đã nghe nói điều này từ hồi gã được cử đến đó, gần một năm trước, vậy mà chúng vẫn đang ở ngoài đó bắn ta ngay khi ta thò đầu lên khỏi hào. Mùa đông năm ngoái, bọn đào ngũ Nga - đã chịu đủ rồi và sẵn sàng đổi phe vì chút thức ăn và lửa ấm - đã qua hào của họ, hai tay chắp sau đầu. Nhưng giờ đây mấy kẻ đào ngũ này cũng thưa thớt rồi, còn hai tên lính mắt trũng sâu Gudbrand thấy đến với họ tuần trước đã ngờ vực nhìn họ khi thấy lính Na Uy cũng gầy trơ xương như chúng. “Hai mươi phút rồi. Nó sẽ không về đâu!” Sindre nói. “Nó tiêu rồi. Đồ bỏ đi.” “Câm đi!” Gudbrand tiến một bước về phía Sindre, hắn ta liền đứng bật dậy. Dù Sindre có cao hơn gã cả một cái đầu nhưng rõ ràng hắn không có bụng dạ đâu mà đánh nhau. Có thể hắn nhớ tên lính Nga mà Gudbrand giết vài tháng trước. Ai mà ngờ một Gudbrand tốt tính, hiền từ lại có máu tàn bạo đến thế? Tên lính Nga đã lẻn vào chiến hào của họ nằm giữa hai chốt do thám hoạt động của địch mà không ai thấy, tàn sát tất cả những ai đang ngủ trong hai boong ke gần nhất, một đầy lính Hà Lan còn cái kia đầy lính Úc trước khi hắn xông vào boong ke của họ. Lũ rận đã cứu mạng họ. Rận có mặt ở khắp nơi, nhưng đặc biệt là ở những chỗ ấm áp, như ở nách, dưới thắt lưng, xung quanh đũng quần và mắt cá chân. Gudbrand là người nằm gần lối ra vào nhất, không tài nào ngủ nổi vì những cái họ gọi là vết loét rận cắn trên hai chân gã - những vết thương há miệng to bằng đồng xu nhỏ, các mép dày kín rận bu. Gudbrand rút lưỡi lê ra cố gắng vô vọng gạt hết lũ rận đi, đúng lúc đó tên người Nga đứng ở ngưỡng cửa để nhả đạn. Gudbrand chỉ nhìn thấy cái bóng của hắn, nhưng gã biết ngay đó là địch khi trông thấy bóng dáng khẩu súng trường Mosin-Nagant giơ lên. Chỉ bằng cái lưỡi lê cùn, Gudbrand đã cứa cổ tên lính Nga điêu luyện đến nỗi khi vùi hắn vào trong tuyết sau đó, hắn dường như đã khô kiệt máu. “Bình tĩnh, mấy cậu!” Edvard nói, nói riêng với Gudbrand, “Cậu nên đi ngủ chút đi, Gudbrand. Cậu đổi ca một tiếng trước rồi cơ mà.” “Tôi sẽ ra ngoài tìm cậu ấy,” Gudbrand đáp. “Không, cậu sẽ không đi đâu hết!” Edvard nói. “Có, tôi sẽ đi, tôi…” “Đó là lệnh!” Edvard lắc mạnh vai gã. Gudbrand cố vùng ra, nhưng tiểu đội trưởng giữ gã chặt cứng. Giọng Gudbrand cao hơn và run run tuyệt vọng: “Có lẽ cậu ta bị thương! Có lẽ cậu ta bị mắc kẹt vào hàng rào thép gai!” Edvard vỗ vai gã. “Trời sắp sáng rồi!” anh ta nói. “Lúc ấy ta sẽ xem xem chuyện gì đã xảy ra.” Gã liếc nhanh về mấy người đang im lặng theo dõi cảnh này. Họ bắt đầu giậm chân xuống tuyết và thì thầm với nhau. Gudbrand trông thấy Edvard đi lại chỗ Hallgrim Dale và thì thầm mấy từ vào tai cậu ta. Dale lắng nghe rồi quắc mắt nhìn Gudbrand. Gudbrand thừa hiểu điều đó nghĩa là gì. Đó là lệnh phải để mắt đến gã. Đã một thời gian rồi, ai đó rêu rao rằng gã và Daniel còn hơn cả bạn thân. Và rằng không thể tin tưởng họ được. Mosken đã hỏi thẳng có phải họ đang trù tính cùng nhau đào ngũ không. Dĩ nhiên họ phủ nhận, nhưng có lẽ lúc này Mosken cho rằng Daniel lợi dụng cơ hội để chạy trốn. Rằng Gudbrand sẽ “đi tìm” đồng chí như là một phần trong kế hoạch cùng nhau sang phía bên kia. Điều đó khiến Gudbrand phá lên cười. Quả thật là thế, mơ về những lời hứa hẹn tuyệt vời nào là đồ ăn, lửa ấm và đàn bà mà mấy loa phóng thanh Nga vẫn phun ra trên chiến trường trơ trọi bằng tiếng Đức để lấy lòng thì hấp dẫn đấy, nhưng tin vào điều đó sao? “Ta cá cược xem nó có quay về không?” Đó là Sindre. “Ba khẩu phần ăn. Bọn mày thấy sao?” Gudbrand xuôi hai tay xuống bên sườn và cảm thấy được lưỡi lê thò ra bên thắt lưng dưới bộ quân phục ngụy trang. “Nicht schieB en, bitte!(3)” Gudbrand quay ngoắt lại và kia, ngay trên đầu, gã thấy khuôn mặt hồng hào dưới chiếc mũ Nga đang mỉm cười với gã từ mép chiến hào. Rồi người này nhảy xuống hào, đáp xuống mặt băng sau một cú lượn hình vòng cung thật êm. “Daniel!” Gudbrand hét lên. “Da da da dum!” Daniel hát, bỏ chiếc mũ Nga xuống. “Dobry vyecher(4).” Đám đàn ông đứng chôn chân tại chỗ, ngây nhìn cậu ta. “Này, Edvard!” Daniel kêu lên. “Tốt hơn anh nên thắt chặt với những người bạn Hà Lan của chúng ta đi. Họ đã tiến được ít nhất cũng 50 mét giữa các điểm do thám đằng kia kìa!” Edvard cũng im lặng và sững sờ như mấy người kia. “Cậu chôn tên người Nga rồi à, Daniel?” Khuôn mặt Gudbrand sáng lên háo hức. “Chôn hắn?” Daniel đáp. “Tớ thậm chí còn đọc kinh Lạy Cha và hát cho hắn nghe. Các cậu bị lãng tai hết rồi hay sao thế? Tớ chắc chắn ở phía bên kia chúng còn nghe thấy.” Nói rồi cậu ta nhảy lên mép hào, ngồi xuống với hai cánh tay giơ lên trên không và bắt đầu hát bằng một giọng trầm, “Một pháo đài uy nghi là Chúa Trời của chúng ta…” Những người khác hoan hô còn Gudbrand cười đến chảy nước mắt. “Cậu quỷ lắm, Daniel!” Dale thốt lên. “Không phải Daniel… Hãy gọi tớ là…” Daniel bỏ mũ Nga xuống, đọc cái tên bên trong lớp lót. “Uriah. Hắn còn biết viết nữa chứ. Chà, chà, nhưng hắn vẫn là một thằng Bôn sê vích.” Cậu ta nhảy xuống hào nhìn xung quanh. “Tớ hy vọng không ai phản đối cái tên Do Thái phổ biến này chứ hả?” Tiếp theo đó là sự im lặng bao trùm trước khi một tràng cười rộ lên. Rồi người đầu tiên trong đám tiến đến phát mạnh vào lưng cậu ta. 10 Leningrad. Ngày 31 tháng Mười hai năm 1942. Tại chốt súng máy trời lạnh cắt da cắt thịt. Gudbrand mặc hết số quần áo gã có lên người. Tuy thế, hàm răng gã vẫn đánh vào nhau lập cập, toàn bộ mấy đầu ngón tay và ngón chân gã đã mất cảm giác. Tồi tệ nhất là đôi chân. Gã phải quấn thêm giẻ rách quanh hai bàn chân, nhưng cũng chẳng ăn thua. Gã nhìn chằm chằm vào bóng tối bên ngoài. Họ đã không nghe thấy gì nhiều từ các chàng Ivan tối hôm ấy. Có thể chúng đang đón đêm Giao thừa. Có thể chúng đang ăn uống no say. Thịt cừu hầm. Hoặc sườn cừu. Dĩ nhiên, Gudbrand biết rằng quân Nga chẳng có tí thịt nào, nhưng gã không thể ngăn mình nghĩ đến những món ăn. Về phần mình, họ cũng chẳng có gì hơn món xúp đậu láng và bánh mì. Bánh mì có mốc xanh, nhưng họ đã quen. Và nếu nó mốc đến mức nát vụn, họ chỉ cần đun sôi xúp cùng với bánh mì ấy là xong. “Ít nhất bọn mình cũng còn xúc xích cho đêm Giáng sinh,” Gudbrand nói. “Im nào!” Daniel nói. “Tối nay chẳng có ma nào ngoài kia đâu, Daniel. Chúng đang bận ăn thịt nai. Với nước xốt thịt thú đặc màu nâu nhạt và quả việt quất. Cùng khoai tây hạnh nhân.” “Đừng lại bắt đầu nói về đồ ăn nữa đi. Im lặng xem cậu có phát hiện ra gì không.” “Tớ chẳng nhìn thấy gì cả, Daniel. Chẳng thấy gì cả.” Họ ngồi chụm vào nhau, cứ cúi đầu xuống. Daniel đang đội chiếc mũ Nga. Mũ sắt có phù hiệu Lực lượng Vũ trang SS nằm bên cạnh. Gudbrand hiểu tại sao. Có điều gì đó ở hình dạng chiếc mũ khiến tuyết lạnh luôn đi qua dưới vành mũ và tạo nên tiếng vi vu liên tục bên trong mũ, tra tấn thần kinh. Điều này đặc biệt khốn khổ nếu ta đang canh gác tại điểm do thám. “Mắt cậu có bị làm sao không đấy?” Daniel hỏi. “Không sao. Chỉ là tầm nhìn ban đêm hơi kém.” “Thế thôi à?” “Tớ cũng hơi bị mù màu.” “Hơi bị mù màu à?” “Màu đỏ và xanh lá. Tớ không thể nhìn ra sự khác biệt. Thấy hai màu như nhau. Chẳng hạn tớ chưa bao giờ thấy được những trái việt quất, khi nhà tớ vào rừng hái nam việt quất để ăn thịt nướng vào ngày Chủ nhật…” “Không nói về đồ ăn nữa, bảo rồi mà lại!” Họ bèn giữ im lặng. Xa xa, một tiếng súng máy vang lên lạch tạch. Nhiệt kế chỉ hai mươi nhăm độ âm. Mùa đông năm ngoái họ gặp bốn mươi nhăm độ âm vài đêm liền. Gudbrand tự an ủi mình với ý nghĩ rằng lũ rận sẽ ít hoạt động trong tiết trời lạnh giá này. Gã sẽ không cảm thấy ngứa cho đến khi canh gác xong và chui vào dưới tấm chăn bông len trong chỗ ngủ của mình. Nhưng lũ rận chịu rét giỏi hơn gã. Có lần gã làm một thí nghiệm: gã để áo lạnh ra ngoài tuyết trong cái lạnh thấu xương suốt ba ngày liền. Khi gã mang áo lạnh vào lại boong ke, nó thành một tấm băng. Nhưng khi gã hơ áo trước lò sưởi, lũ rận lại lúc nhúc, bò lổm ngổm sống lại nên gã ném luôn cái áo vào lửa chỉ vì ghê tởm. Daniel hắng giọng. “Thế rồi nhà cậu bắt đầu xơi thịt nướng ngày Chủ nhật thế nào?” Gudbrand không cần được mời đến lần thứ hai. “Trước hết, bố tớ cắt súc thịt ra, một cách trang trọng, như mục sư ấy, trong khi lũ con trai bọn tớ ngồi im phăng phắc và nhìn. Sau đó mẹ tớ bỏ lên mỗi đĩa hai lát thịt, rồi tưới nước thịt lên, xốt đặc đến mức bà phải để ý khuấy vừa đủ để nó không đông lại. Và có rất nhiều cải Brussel tươi và giòn. Cậu nên đội mũ sắt lên đi, Daniel. Ngộ nhỡ dính một mảnh đạn pháo lên mũ mềm thì sao hả?” “Thử tưởng tượng một mảnh đạn bắn vào mũ tớ xem. Tiếp đi’ Gudbrand nhắm mắt lại, một nụ cười nở trên môi gã. “Món tráng miệng thì có mận khô ninh. Hoặc bánh sô cô la hạnh nhân. Đó không phải bữa ăn thường xuyên đâu. Mẹ tớ học được truyền thống ấy ở Brooklyn đấy.” Daniel nhổ toẹt xuống tuyết. Theo lệ, vào mùa đông, ca gác là một giờ. Nhưng cả Sindre Fauke lẫn Hailgrim Dale đều đang sốt ngủ li bì, nên Edvard Mosken đã quyết định tăng giờ canh gác lên hai tiếng, cho đến khi cả đơn vị phục sức hoàn toàn. Daniel đặt tay lên vai Gudbrand. “Cậu nhớ bà ấy, đúng không? Mẹ cậu ấy.” Gudbrand phá lên cười, cũng nhổ toẹt xuống đúng chỗ Daniel đã nhổ, nhìn chằm chằm lên những ngôi sao băng giá trên bầu trời. Có tiếng lạo xạo trên tuyết nên Daniel ngẩng đầu lên. “Cáo,” cậu ta nói. Không thể tin nổi, nhưng ngay ở đây, nơi mà từng mét vuông đều bị đánh bom còn mìn thì dày đặc hơn cả cuội ở phố Karl Johans, vẫn có đời sống động vật. Không nhiều nhưng cả hai đều từng thấy thỏ rừng và cáo. Và con chồn hôi lạc lõng. Hiển nhiên là họ cố gắng bắn vào bất kỳ thứ gì nhìn thấy. Cái gì cũng đem nấu được sất. Nhưng sau khi một lính Đức bị bắn chết lúc ra ngoài bắt thỏ, viên chỉ huy phải tạc vào đầu họ rằng bọn Nga đang thả thỏ ra trước các chiến hào nhằm dụ họ tiến vào vùng trung lập. Như thể quân Nga tự nguyện tặng thỏ vậy! Gudbrand đưa ngón tay lên đôi môi khô nẻ, nhìn đồng hồ đeo tay. Còn một tiếng nữa mới đến phiên gác tiếp theo. Gã đồ rằng Sindre đã nhét thuốc lá lên trực tràng để cho sốt; hắn là kiểu người sẽ làm thế. “Tại sao cậu lại bỏ nước Mỹ mà về?” Daniel hỏi. “Phố Wall sụp đổ. Bố tớ bị mất việc ở nhà máy đóng tàu.” “Thấy chưa,” Daniel nói. “Đó là cái chủ nghĩa tư bản cho cậu đấy. Những thằng thấp cổ bé họng thì cặm cụi làm việc, trong khi những thằng giàu thì luôn béo lên, bất kể là vào giai đoạn thịnh vượng hay đình trệ.” “Ừ, thì vẫn thế mà.” “Cho đến giờ thì vẫn thế, nhưng rồi sẽ có thay đổi thôi. Khi chúng ta thắng trận, Hitler đã thủ sẵn chút ngạc nhiên cho người dân. Và bố cậu sẽ không phải lo đến chuyện thất nghiệp nữa. Cậu nên gia nhập Dân tộc Thống nhất đi.” “Cậu có thực sự tin tất cả những chuyện đó không Gudbrand không thích tranh cãi với Daniel nên chỉ trả lời bằng cái nhún vai, nhưng Daniel vẫn hỏi lại. “Dĩ nhiên tớ tin vào điều đó” Gudbrand đáp. “Nhưng trên hết tớ nghĩ đến Na Uy. Nghĩ đến chuyện không còn bóng dáng tên Bôn sê vích nào ở đất nước này. Nếu chúng đến, gia đình tớ nhất định sẽ quay về Mỹ.” “Đến một nước tư bản à?” Bây giờ giọng Daniel đã trở nên khắc nghiệt hơn một chút. “Một nền dân chủ nằm trong tay những kẻ giàu có, phó mặc cho may rủi và những kẻ cầm quyền tham nhũng à?” “Thà như thế còn hơn chủ nghĩa cộng sản.” “Các quốc gia dân chủ đã hết hữu dụng rồi, Gudbrand. Thử nhìn châu Âu xem. Anh và Pháp đều đã lâm vào cảnh khốn khổ rất lâu trước khi chiến tranh bắt đầu: nào là thất nghiệp, bóc lột. Giờ đây chỉ có hai người đủ sức ngăn chặn châu Âu không rơi chúi mũi vào cảnh hỗn loạn: Hitler và Stalin. Đó là sự lựa chọn chúng ta có.” Gudbrand gật đầu. Không chỉ là về những gì Daniel nói, mà với cách cậu ta nói. Rất là thuyết phục. Bất chợt cả địa ngục xổng ra và bầu trời trước mặt họ trắng lòa pháo sáng, mặt đất rung chuyển, ánh lóe vàng tiếp theo là đất nâu và tuyết dường như bắn tung lên không nơi đạn pháo rơi xuống. Gudbrand đã nằm ngay dưới đáy chiến hào, hai tay đưa lên che đầu, nhưng mọi thứ kết thúc rất nhanh như khi bắt đầu. Gã nhìn lên thì kia rồi, đằng sau chiến hào, phía sau khẩu súng máy, Daniel đang ồ lên cười. “Cậu đang làm cái gì thế?” Gudbrand hét lên. “Nổi còi báo động đi chứ! Gọi mọi người dậy!” Nhưng Daniel chẳng buồn để ý. “Anh bạn thân mến của tôi ơi!” cậu ta thét lên, nước mắt giàn giụa vì cười. “Chúc mừng năm mới nhá!” Daniel chỉ vào đồng hồ đeo tay rồi Gudbrand mới hiểu ra mọi chuyện. Rõ ràng Daniel đã chờ đợi loạt đạn chào mừng năm mới của quân Nga, vì giờ đây cậu ta vùi tay vào tuyết đã chất đống cạnh chốt gác giấu súng máy. “Brandy,” cậu ta hét lên, đắc thắng giơ lên cái chai đựng thứ chất lỏng màu nâu. “Tớ cất cái này hơn ba tháng rồi đấy. Mời.” Gudbrand đã bò dậy quỳ gối và mỉm cười với Daniel. “Cậu trước!” Gudbrand hô. “Chắc không?” “Chắc như bắp, anh bạn. Cậu đã cất nó mà. Nhưng đừng uống hết đấy!” Daniel gõ mạnh vào một bên nút bần cho đến khi nó bật ra, rồi giơ cao chai lên. “Đến Leningrad. Vào mùa xuân chúng ta sẽ cùng cạn ly tại Cung điện Mùa Đông,” cậu ta tuyên bố, bỏ cái mũ Nga xuống. “Rồi đến hè chúng ta sẽ trở về nhà, được chào đón như những anh hùng ở Na Uy yêu dấu.” Cậu ta đưa chai lên môi, ngửa đầu ra sau. Thứ chất lỏng màu nâu ồng ộc, sóng sánh trong cổ chai. Nó lấp lánh khi thủy tinh phản chiếu ánh sáng từ những quả pháo sáng đang rơi xuống, và nhiều năm sau nữa Gudbrand sẽ phải tự hỏi liệu đó có phải là cái tên bắn tỉa người Nga nhìn thấy: ánh lấp lánh từ chai ấy. Tiếp đó Gudbrand nghe tiếng nổ bốp inh tai và thấy cái chai nổ tung trong tay Daniel. Một chùm mảnh thủy tinh cùng rượu brandy trút xuống và Gudbrand nhắm mắt. Gã cảm thấy mặt mình ướt: nó chảy xuống má gã, theo bản năng gã thè lưỡi ra liếm được vài giọt. Hầu như nó chẳng có mùi vị gì, chỉ là cồn và một thứ khác nữa - thứ gì đó ngòn ngọt và như kim loại. Nố đặc sệt, có lẽ là vì lạnh, Gudbrand nghĩ, rồi gã lại mở mắt ra. Từ trong hào gã không thể nhìn thấy Daniel. Gudbrand đoán hẳn cậu ta đã thụp xuống đằng sau khẩu súng máy khi biết rằng mình bị phát hiện, nhưng gã cảm thấy được tim mình đang đập dồn. “Daniel?” Không có tiếng đáp lại. “Daniel?” Gudbrand đứng dậy bò ra khỏi chiến hào. Daniel đang nằm ngửa với thắt lưng đạn dưới đầu và chiếc mũ Nga úp trên mặt. Rượu brandy lẫn máu loang lổ trên tuyết. Gudbrand cầm mũ lên. Daniel đang nhìn trừng trừng bằng đôi mắt mở to hướng lên bầu trời đầy sao. Giữa trán cậu ta có một lổ thủng to, đen ngòm và toang hoác. Trong miệng Gudbrand vẫn còn nguyên vị kim loại ngòn ngọt và gã cảm thấy buồn nôn. “Daniel.” Nó gần như một lời thì thầm giữa đôi môi khô nẻ của gã. Gudbrand nghĩ trông Daniel như một thằng bé muốn vẽ những thiên thần trên tuyết nhưng rồi lại ngủ thiếp đi. Gã nức nở lảo đảo bước về phía còi báo động và kéo cần quay tay. Khi những quả pháo sáng chìm xuống những nơi ẩn náu của họ, tiếng còi rền rĩ lanh lảnh vọng thấu trời xanh. “Chuyện này không thể diễn ra như thế,” Gudbrand chỉ nói được đến thế. Edvard và những người khác bước ra ngoài, đứng sau lưng gã. Ai đó hét gọi tên Gudbrand nhưng gã không nghe thấy. Gã cứ tiếp tục quay vòng vòng cái cần quay tay. Cuối cùng Edvard bước đến, nắm lấy cái cần. Gudbrand buông tay, nhưng không quay lại; gã vẫn đứng yên tại chỗ, nhìn trừng trừng con hào, bầu trời, còn nước mắt đã đóng băng trên đôi má. Lời than van của cái còi đã tắt. “Chuyện này không thể diễn ra như thế,” gã thì thầm. 11 Leningrad. Ngày 1 tháng Một năm 1943. Tinh thể nước đá găm vào dưới mũi, trong khóe mắt và miệng Daniel khi họ đưa cậu ta đi. Thường thì người ta để họ đó cho đến khi xác đông cứng để dễ mang đi hơn, nhưng Daniel đang nằm chắn lối súng máy. Nên hai người phải kéo cậu ta đến một nhánh xa chiến hào chính, ở đó họ đặt cậu ta nằm trên hai hòm đạn dự trữ. Hallgrim Dale buộc miếng vải gai quanh đầu cậu ta, để họ khỏi phải trông thấy mặt nạ thần Chết với cái cười nhăn nhở xấu xí. Edvard đã gọi cho mộ tập thể bên Quân khu Bắc giải thích Daniel ở đâu. Họ đã hứa cử hai người mang xác lúc nào đó trong đêm. Sau đó Mosken ra lệnh cho Sindre rời khỏi giường bệnh đến hoàn thành nốt phiên gác cùng Gudbrand. Việc đầu tiên họ phải làm là lau sạch chiếc súng máy bê bết máu. “Chúng đã đánh bom Cologne nát vụn như cám!” Sindre nói. Hai người nằm bên nhau trên mép chiến hào, trong hố chật hẹp nhìn ra được vùng trung lập. Gudbrand không thích quá gần Sindre như thế. “Còn Stalingrad sẽ tiêu tùng.” Gudbrand không thể cảm thấy cái lạnh; như thể đầu và cơ thể gã nhồi đầy vải bông nên chẳng còn gì làm gã bận tâm nữa. Gã chỉ cảm thấy mỗi lớp kim loại lạnh như đá rát buốt trên làn da cùng mấy ngón tay tê cóng không tuân lệnh gã. Gã cố thử lại. Báng súng và bộ kích hỏa nằm trên miếng thảm len bên cạnh gã trong tuyết, nhưng tháo mảnh cuối cùng còn khó gấp bội. Ở Sennheim họ đã được huấn luyện tháo lắp súng máy khi bị bịt mắt. Sennheim, ở vùng Elsass xinh đẹp, ấm áp của Đức. Đó là sự khác biệt khi ta không thể cảm thấy những ngón tay mình đang làm cái gì. “Chưa nghe nói à?” Sindre nói. “Bọn Nga sẽ tóm được chúng ta. Hệt như chúng tóm Gudeson.” Gudbrand nhớ lại tay đại úy Lực lượng Vệ quốc(5) đã buồn cười khi Sindre nói hắn ta xuất thân từ một trang trại ở ngoại ô một nơi tên là Toten. “Toten. Wie im Totenreich(6)?” tay đại úy phá lên cười. Gã tuột tay giữ chốt. “Mẹ kiếp!” Giọng Gudbrand run run. “Toàn là máu dính bết mọi thứ lại với nhau.” Gã kê miệng ống dầu lau súng be bé lên chốt và nặn ra. Cái lạnh đã khiến thứ chất lỏng vàng vàng đặc lại và lờ đờ: gã biết rằng dầu làm tan được máu. Khi một bên tai gã sưng tấy lên, gã đã dùng đến dầu súng. Sindre nghiêng người qua, nghịch ngịch mấy vỏ đạn. “Lạy Chúa!” hắn nói. Hắn nhìn lên mà cười toét, phô ra vết ố nâu giữa kẽ răng. Mặt nhợt nhạt, râu ria lởm chởm của hắn gần đến mức Gudbrand ngửi thấy hơi thở hôi hám ai ai cũng có sau khi ở đây một thời gian. Sindre giơ lên một ngón tay. “Ai mà nghĩ được Daniel lại thông minh thế chứ hả?” Gudbrand quay mặt đi. Sindre săm soi đầu ngón tay. “Nhưng nó lại không chịu dùng đến trí thông minh ấy. Nếu không nó đã chẳng quay về từ vùng trung lập đêm đó. Tao đã nghe chúng mày nói đến chuyện bỏ sang bên kia. Ừ thì, hai đứa chúng mày chắc chắn là… những người bạn tốt, đúng không?” Mới đầu Gudbrand chẳng nghe thấy gì; những từ ngữ rất xa xôi. Rồi những từ ngữ ấy vọng đến tai gã, gã cảm thấy sức nóng lại dâng trong người. “Bọn Đức sẽ chẳng bao giờ cho chúng ta rút lui đâu!” Sindre nói. “Chúng ta sẽ chết ở đây, từng thằng một. Lẽ ra mày phải chuồn đi. Bọn Bôn sẽ vích không đối xử tàn bạo với những thằng như mày và Daniel tàn bạo bằng Hitler đâu. Ý tao là những người bạn thân thiết đến thế mà.” Gudbrand không đáp. Giờ gã có thể cảm thấy sức nóng nơi đầu ngón tay. “Bọn tao đã nghĩ đến việc đêm nay lẻn ra ngoài kia!” Sindre nói, “Hallgrim Dale với tao. Trước khi quá muộn.” Hắn trở mình trong tuyết, mắt dò xét Gudbrand. “Đừng trông bàng hoàng thế Johansen,” hắn cười toét. “Mày nghĩ sao bọn tao lại cáo ốm hả?” Gudbrand cụp ngón chân trong giày. Bây giờ gã cảm nhận được chúng rồi. Cảm giác thật ấm và ổn. Còn một cảm giác khác nữa. “Muốn đi cùng bọn tao không, Johansen?” Sindre hỏi. Con rận! Gã thấy ấm, nhưng không cảm nhận được con rận. Ngay cả tiếng rít dưới mũ sắt cũng đã ngừng. “Vậy chính mày là thằng đã phao tin đồn!” Gudbrand đáp. “Tin đồn nào?” “Daniel và tao đã nói về chuyện sẽ đến Mỹ, chứ không phải qua với bọn Nga. Và không phải bây giờ, mà là sau chiến tranh.” Sindre nhún vai, nhìn đồng hồ tay, nhổm dậy ngồi quỳ. “Tao sẽ bắn mày nếu mày cố thử!” Gudbrand nói. “Bằng cái gì?” Sindre hỏi, ra dấu về phía mấy bộ phận súng trên mảnh vải. Súng trường của họ đều để trong boong ke và cả hai đều biết Gudbrand sẽ không thể đến đó rồi kịp quay lại trước khi Sindre đi mất. “Cứ ở lại đây mà chết nếu mày muốn, Johansen. Cho tao gửi lời hỏi thăm Dale nhé, và nhớ bảo nó đi theo tao.” Gudbrand thọc tay vào bộ quân phục rút lưỡi lê ra. Ánh trăng soi trên lưỡi thép mờ xỉn. Sindre lắc đầu. “Những thằng như mày và Gudeson toàn rặt một lũ mơ mộng. Cất lưỡi lê đi rồi theo tao này. Giờ bọn Nga đang được nhận thực phẩm dự trữ qua hồ Ladoga đấy. Có thịt tươi.” “Tao không phải quân phản bội!” Gudbrand nói. Sindre đứng lên. “Nếu mày cố giết tao bằng cái lưỡi lê đó, điểm do thám Hà Lan sẽ nghe thấy và kéo còi báo động. Vận dụng trí não của mày đi. Mày nghĩ họ sẽ tìm ai là kẻ đang cố bỏ trốn hả? Mày, cùng bấy nhiêu lời đồn thổi đã sẵn về các tính toan đào ngũ, hay tin tao, một đảng viên hả?” “Ngồi xuống, Sindre Fauke.” Sindre phá lên cười. “Mày không quen giết người, Gudbrand. Tao biến đây. Cho tao năm chục mét rồi mày hẵng kéo còi báo động nhé, làm thế mày sẽ vô tội!” Họ nhìn nhau dò xét. Những bông tuyết nhỏ, nhẹ tênh bắt đầu rơi xuống giữa hai người. Sindre mỉm cười: “Ánh trăng và tuyết cùng một lúc. Một khung cảnh hiếm thấy, đúng không?” 12 Leningrad. Ngày 2 tháng Một năm 1943. Chiến hào bốn người đàn ông đang đứng cách tiểu đội tiền tuyến của họ hai cây số về phía Bắc, tại nơi chiến hào vòng lại, gần như tạo thành một đường vòng. Đại úy đang đứng trước mặt Gudbrand, giậm giậm chân. Tuyết đang rơi, một lớp tuyết mỏng mịn đã hình thành trên chóp mũ ông ta. Edvard Mosken đang đứng cạnh đại úy và quan sát Gudbrand với một mắt mở thao láo, con mắt bên kia gần như nhắm lại. “Vậy,” đại úy nói. “Er ist binuber zu dent Russen geflohen? Hắn chạy sang phía quân Nga rồi đúng không?” “Ja(7),” Gudbrand đáp. “Warum(8)?” “Das weifi ich nicht(9).” Đại úy ngây nhìn về phía xa, rít rít qua kẽ răng và giậm giậm chân. Rồi ông gật đầu với Edvard, lẩm bẩm một vài từ với Rottenfuhrer của mình, tay hạ sĩ Đức tháp tùng, rồi cả hai cùng giơ tay chào. Tuyết kêu lạo xạo khi họ đi. “Vậy đấy!” Edvard nói. Anh vẫn đứng đó nhìn Gudbrand. “Phải,” Gudbrand đáp. “Chẳng điều tra gì nhiều.” “Đúng.” “Ai mà ngờ được chứ?” Một con mắt mở to trơ trơ nhìn Gudbrand. “Ở đây lúc nào chẳng có kẻ đào ngũ!” Gudbrand đáp. “Họ không thể điều tra được hết…” “Ý tôi là ai lại nghĩ Sindre như vậy? Ai mà ngờ được hắn lại làm một chuyện như thế?” “Vâng, anh nói vậy cũng đúng!” Gudbrand nói. “Do tình thế bức bách. Cứ vậy đứng lên và bỏ trốn.” “Phải.” “Đáng tiếc cho khẩu súng máy!” giọng Edvard lạnh lùng vẻ châm biếm. “Vâng.” “Mà cậu cũng không thể gọi lính gác Hà Lan?” “Tôi hét lên, nhưng đã quá muộn. Trời lại tối.” “Trăng đang chiếu sáng mà.” Họ kình nhau. “Cậu biết tôi nghĩ gì không?” Edvard hỏi. “Không.” “Có, cậu biết mà. Tôi thấy được điều đó trên mặt cậu. Tại sao, hả Gudbrand?” “Tôi không giết hắn.” Gudbrand nhìn chằm chặp kiên định vào con mắt chột của Edvard. “Tôi đã cố gắng nói chuyện với hắn. Hắn chẳng thèm nghe tôi. Hắn cứ thế chạy đi. Tôi còn biết làm gì chứ?” Cả hai đều thở phì phì, khom người trong cơn gió giật hơi nước từ miệng họ. “Tôi nhớ lần trước nét mặt cậu cũng hệt thế này, Gudbrand. Đó là đêm cậu giết chết tên người Nga trong boong ke.”