🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiêu Bài Quản Lý Vàng Của Bill Gates
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: ĐAM MÊ LÀ ĐỘNG LỰC LỚN NHẤT ĐỂ LÀM GIÀU
CHƯƠNG II: CHÚ TRỌNG CÔNG NGHỆ CAO THÌ MỚI CÓ TƯƠNG LAI
CHƯƠNG III: LẤY NHÂN LÀM GỐC, CHÚ TRỌNG NHÂN TÀI
CHƯƠNG IV: KIÊN TRÌ SÁNG TẠO, THẤT BẠI LÀ KHỞI ĐẦU CỦA SÁNG TẠO
CHƯƠNG V: LỰA CHỌN QUYẾT ĐOÁN, NẮM BẮT CƠ HỘI CHƯƠNG VI: COI TRỌNG SÁCH LƯỢC KINH DOANH
CHƯƠNG VII: LÀM NGƯỜI DẪN ĐẦU, KHÔNG LÀM NGƯỜI CHẠY THEO
CHƯƠNG VIII: DOANH NGHIỆP NHỎ LÀM VIỆC, DOANH NGHIỆP LỚN LÀM NGƯỜI
CHƯƠNG IX: CHỈ CẦN KHÔNG NGỪNG HỌC HỎI LÀ CÓ THỂ DẪN ĐẦU
BTóm tắt nội dung
ill Gates là người sáng lập ra công ty Microsoft, công ty hàng đầu chuyên cung cấp phần mềm cho máy tính. Ông nguyên là Tổng Giám đốc và CEO của công ty Microsoft. Ông là người nổi tiếng trên thế giới. Ông đã biến lĩnh vực phần
mềm trở thành một thần thoại, đã tạo ra một vương quốc phần mềm kỳ diệu bằng cả cuộc đời mình.
Ông từng phát biểu: “Luôn có người cho rằng tôi thành công là nhờ may mắn. Tôi không phủ nhận tính quan trọng của cơ hội, nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng, cơ hội đâu chỉ đến với riêng tôi. Hơn nữa, tôi không ngồi yên chờ đợi cơ hội mà luôn tự tạo ra nó. Chúng ta luôn phải đối mặt với các thách thức, vì vậy, nếu kiên trì, chúng ta sẽ tìm được cách giải quyết triệt để. Hàng ngày tôi dành phần lớn thời gian để suy nghĩ, vì mỗi ngày đều xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới. Tôi cần phải xác định rõ nhất cử nhất động của đối thủ để có biện pháp đánh bại đúng đắn”.
Trước những thành công của Bill Gates, nhiều người thường hỏi: Tại sao Bill Gates lại thành công đến vậy? Tại sao lịch sử lại chọn ông? Theo suốt quá trình sống của Bill Gates thì thấy, thành công của Bill Gates mang tính tất nhiên. Bạn sẽ thấy, sự thành công của Bill Gates được tạo bởi những phẩm chất như, dũng cảm tạo dựng sự nghiệp, dù thất bại cũng quyết đứng lên bằng đôi chân của mình, biết cách giao tiếp khéo léo, làm việc say mê… Những yếu tố ấy là những nấc thang vững chãi đưa ông đến với đỉnh cao của thành công.
Thành công là sản phẩm của tư tưởng và trí tuệ. Nói cách khác, nếu tư tưởng của bạn nghèo nàn thì đó chính là thất bại đau đớn nhất. Thông qua cuộc đời và sự nghiệp của Bill Gates, tác giả Thương Mỗ đã giải mã bí mật thành công của ông. Đọc xong cuốn sách này, bạn sẽ thấy đây là một cuốn sách hướng dẫn cách quản lý vô cùng sinh động.
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
CHƯƠNG I:
ĐAM MÊ LÀ ĐỘNG LỰC LỚN NHẤT ĐỂ
“E
LÀM GIÀU
instein đã nói: “Đam mê là người thầy tốt nhất”. Có đam mê mới nỗ lực làm việc và luôn thấy cuộc sống thật
phong phú. Nếu công việc bạn đang làm là niềm đam mê của bạn thì điều đó cho thấy, bạn đã thành công một nửa”.
1.
GIẤC MƠ SÁNG TẠO CỦA NGƯỜI MÊ MÁY TÍNH
Từ nhỏ, Bill Gates đã thích máy tính, sau này, máy tính đã trở thành niềm đam mê. Chiếc máy tính thần kỳ đã khiến ông vui sướng vô cùng, tuy nhiên, nhiều lúc chính chúng lại gây ra rắc rối cho ông. Nhưng điều đó không ngăn được ông học và tìm hiểu máy tính, ngược lại, ông càng say mê máy tính hơn.
Trong suốt quãng thời gian học tiểu học và trung học cơ sở, Bill Gates luôn đạt thành tích xuất sắc. Vì vậy, ông được vào học tại trường Trung học Hoockin. Ngôi trường này luôn đề cao cá tính, tôn trọng sở trường của học sinh. Hơn nữa, nhà trường còn tạo điều kiện để học sinh phát huy sở trường của mình. Trường Trung học Hoockin có ảnh hưởng rất nhiều tới sự nghiệp sau này của Bill Gates. Tại ngôi trường này, Bill Gates đã hoàn tất một mục kinh doanh đầu tiên và cũng tại đây, ông đã làm quen với một số người bạn thân thiết là những thiên tài về máy vi tính.
Cách giáo dục của ngôi trường này thoáng nên đã khơi dậy sức sáng tạo lớn lao của Bill Gates. Sở trường và sở thích của ông đã được vun đắp ở ngôi trường này, tố chất cá nhân của ông cũng được nâng cao. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho thành công của mình tại đây. Bill Gates có đầu óc của một thiên tài, tràn đầy sức sống, có tinh
thần vươn đến thành công rất mạnh mẽ. Mặt khác, ngôi trường Hoockin cũng nổi tiếng nhờ có Bill Gates. Có người nói: “Hoockin là cái nôi của Microsoft”. Mô hình giáo dục tuyệt vời của Hoockin đã tạo ra rất nhiều nhân tài, trong đó có Bill Gates.
Bill Gates thích máy vi tính ngay từ lần đầu tiên tiếp xúc với máy. Với Bill Gates, máy vi tính là siêu nhân, vì nó có khả năng tính toán nhanh chóng. Mỗi khi sử dụng máy vi tính, Bill Gates rất muốn tháo vỏ máy ra xem bên trong là những gì. Hồi đó, phòng máy tính là nơi Bill Gates đến nhiều nhất và chiếc máy vi tính PDP – 10 của công ty GE trở thành người bạn trung thành của Bill Gates. Cũng chính từ đó, máy vi tính trở thành toàn bộ cuộc sống của Bill Gates. Ngoài giờ học, Bill Gates lại ngồi bên máy tính. Bạn bè nhìn Bill Gates sử dụng máy tính điêu luyện bằng con mắt ngưỡng mộ. Kiến thức về máy tính còn ít ỏi nên ông thường xuyên tìm các tài liệu liên quan tới máy tính. Có lần tìm được cuốn sách hay, ông đọc một mạch trong cả ngày khiến bố mẹ không thể hiểu nổi hành động của ông. Cứ đến trường là ông lại vào ngay phòng máy vi tính ngồi thực hành.
Do có tài năng cũng như kiến thức phong phú về máy vi tính, Bill Gates đã trở thành người nổi tiếng trong trường. Mỗi lần trường tổ chức thi về máy vi tính thì Bill Gates luôn đứng thứ hạng đầu tiên. Hồi đó, các học sinh còn truyền tai nhau nói: “Bill Gates tham gia thi máy vi tính thì chúng ta chỉ xếp thứ hai mà thôi”. Tuy mới vào trường nhưng Bill Gates được rất nhiều học sinh lớp trên tìm đến nhờ chỉ bảo về máy vi tính. Tài năng xuất chúng của Bill Gates trong lĩnh vực máy tính đã đặt nền móng cho sự nghiệp phần mềm máy tính sau này của ông.
Thành công Bill Gates có được ngày hôm nay luôn gắn bó chặt chẽ với niềm đam mê máy tính thuở nhỏ của ông. Ông đã chọn cho mình nghề yêu thích nhất và ông đang làm việc mình thích làm.
2.
BỎ DỞ HỌC HÀNH VÌ SỰ NGHIỆP
Bill Gates trẻ tuổi đã bỏ ngang sự học hành của mình để nắm lấy cơ hội phát triển. Ông hiểu rõ tính quan trọng của cơ hội, cơ hội đã đến thì không để đánh mất, đã mất rồi sẽ không bao giờ có lại. Ông đã
nắm được cơ hội, con đường sự nghiệp của ông ngày càng thênh thang rộng mở.
Những trải nghiệm của Bill Gates cho chúng ta biết rằng, một sự nghiệp vĩ đại đôi khi được bắt đầu từ việc say mê một mục tiêu nào đó. Bill Gates say mê máy vi tính vô cùng, ông biến niềm đam mê này thành sự khích lệ, qua nhiều năm nỗ lực, Bill Gates đã giành được thành tích cao.
Trong một cuốn sách của mình, Bill Gates đã nhiều lần nhắc đến nhà kinh doanh phần mềm người Hàn Quốc tên là Lee. Ông nói rằng, chính vì có những nhà kinh doanh phần mềm như Lee mà công ty Microsoft mới đi đến thành công ngày hôm nay. Có sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa Bill Gates và Lee: Họ đều xin thôi học vì quá say mê máy vi tính. Trong buổi triển lãm sản phẩm tại San Francisco, Bill Gates đã gặp Lee. Hai người lập tức ký hợp đồng kinh doanh. Theo đó, Lee có quyền độc quyền phát hành ngôn ngữ Basic của công ty Microsoft tại khu vực Đông Nam Á với trị giá 180 triệu USD. Điều này vượt qua cả sự tưởng tượng của công ty Microsoft.
Mấy năm sau đó Lee không làm cho công ty Microsoft thất vọng chút nào. Lee trân trọng từng cơ hội hợp tác. Thời điểm này, thực lực của Lee cũng phát triển rất mạnh, lập công ty riêng và không ngừng tìm kiếm cái mới. Sau đó Lee có một ý kiến rất lạ: Sản xuất máy tính loại nhỏ đặt trên đùi để đáp ứng nhu cầu đi lại của các doanh nhân. Công ty Microsoft hết sức coi trọng cách nghĩ này của Lee và cho rằng đó là một ý tưởng hay. Rất nhanh chóng, suy nghĩ của Lee được trở thành hiện thực, công ty Microsoft và Lee đã hợp tác khai thác loại máy tính này. Năm 1986, loại máy tính này được tung ra thị trường. Do tính tiện dụng cao nên chẳng mấy chốc, loại máy tính này trở thành con cưng của thị trường, luôn chiếm doanh số hàng đầu trong vòng mấy năm liền, kể cả ở Mỹ, châu Âu và Hàn Quốc.
Lựa chọn điểm bắt đầu cho sự nghiệp là vô cùng quan trọng trong quá trình gây dựng sự nghiệp của mỗi người. Có người sau khi tìm được cho mình điểm bắt đầu thì bị gia đình, bạn bè phản đối nên buông xuôi. Bill Gates không thế, ông quyết định bỏ học để thành lập công ty của mình. Hồi đó, cha Bill Gates chỉ muốn ông trở thành luật sư, mẹ ông thì phản đối suy nghĩ này của con trai. Nhưng Bill Gates không chùn bước, ông kiên trì sự lựa chọn của mình.
Sau khi tốt nghiệp trường trung học Hoockin, do thành tích xuất sắc của mình, Bill Gates được vào học tại Đại học Harvard, trường đại học hàng đầu nước Mỹ. Theo nguyện vọng của cha, Bill Gates không học chuyên ngành mình thích là máy vi tính mà chọn chuyên ngành luật. Cha ông là một luật sư, khi ấy, đây là nghề được mọi người trọng vọng, lại có thu nhập cao. Cha ông mong muốn ông theo nghiệp mình để làm rạng danh tổ tiên. Nhưng Bill Gates không thích nghề luật sư, lúc nào ông cũng nghĩ đến máy vi tính và những mã số.
Một lần, vô tình Bill Gates gặp lại người bạn cũ quen được tại phòng máy tính ở trường Hoockin là Paulo Alan. Paulo Alan cũng đã thôi học, bắt đầu với sự nghiệp máy vi tính vì không thích chuyên ngành mình học. Paulo kể cho Bill Gates nghe về mơ ước thành lập một công ty máy tính riêng của mình. Nghe xong, Bill Gates rất hứng thú và nảy ra ý nghĩ bỏ học để quay sang sản xuất phần mềm. Ông nhận thấy tốc độ thay đổi phần mềm rất nhanh, không thể bỏ lỡ cơ hội này. Chính vì vậy, ông quyết định thôi học.
Khi nói suy nghĩ này với gia đình, mẹ ông vô cùng ngạc nhiên và không thể nào hiểu nổi. Họ nghĩ rằng bản tính ham chơi của Bill Gates không thể thay đổi được. Chính vì vậy, mẹ ông phản đối rất quyết liệt và cho đó là hành động ngu xuẩn, còn cha ông cũng cố hết sức để con không bỏ học. Để Bill Gates tiếp tục đi học, mẹ ông tuyên bố, chỉ cần Bill Gates học hết đại học thì sau đó bà sẽ không can thiệp vào lựa chọn nghề nghiệp của con. Vì bố mẹ và mọi người phản đối hết sức quyết liệt, ông đành tạm thời gác lại ý nghĩ thôi học.
Tuy nhiên, sự phản đối ấy chưa thể xóa hết được nguyện vọng cháy bỏng trong lòng ông. Trong thời gian học đại học, ông và Paulo Alan vẫn tiếp tục việc chuẩn bị lập công ty, mặt khác dùi mài kiến thức về máy vi tính. Lúc bạn bè đang bận rộn bài vở thì ông nhận thấy mình phải lựa chọn dứt khoát. Thời gian ấy, ông luôn sống trong mâu thuẫn giữa sự nghiệp và học hành. Ông không thể một lúc có cả hai nên quyết định nắm lấy số phận mình, từ bỏ trường học, gây dựng công ty, vén tấm màn vào vương quốc phần mềm.
3.
TUỔI TRẺ HAM CHƠI, KHÔNG
THÍCH GÒ BÓ
Ngay từ nhỏ, Bill Gates là người ghét tù túng, tính cách mạnh mẽ và không bao giờ chịu thua. Những tính cách này đã đưa ông đi đến đỉnh cao của thành công.
Việc Bill Gates chọn chuyên ngành luật chứ không chọn chuyên ngành máy tính theo sở thích khiến nhiều người bất ngờ. Nguyên nhân là do bố mẹ lo Bill Gates ham chơi, không phấn đấu nên yêu cầu con học luật. Cha ông vui vì có con nối nghiệp. Cha ông yêu cầu rất cao, ngoài việc học các bài theo quy định, Bill Gates còn phải học thêm những kiến thức khác về luật cần thiết cho một luật sư. Nhưng điều đó khiến ông thấy mâu thuẫn và đau khổ vô cùng, học kiến thức luật nhưng trong đầu ông cứ quanh quẩn những vấn đề liên quan tới máy tính. Thời gian học ở Harvard thật buồn tẻ vì hàng ngày ông phải làm việc mình không thích.
Chính vì cuộc sống nhàm chán ấy, Bill Gates lại có một sở thích khác là đánh bạc. Với ông, đánh bạc vừa để thử vận may vừa thể hiện lòng dũng cảm. Ông say mê đánh bạc cũng giống như lao mình vào nghiên cứu máy vi tính. Chẳng mấy chốc ông trở thành cao thủ của các ván bài. Nếu không có máy vi tính thì có lẽ ông sẽ trở thành ông vua cờ bạc.
Trong một lần chơi bạc, ông đã quen được Steve Ballmer, theo học chuyên ngành toán ứng dụng. Steve không quan tâm lắm đến máy vi tính, nhưng có kiến thức xã giao sâu rộng và hiểu biết về toán học khiến Bill Gates khâm phục. Mười mấy năm sau, Steve vào làm tại Công ty Microsoft. Dư luận cho rằng, ngoài Bill Gates thì nhân vật số hai có ảnh hưởng mạnh đến Microsoft chính là Steve Ballmer, người từng được lên trang đầu của tạp chí Time.
Ngay từ nhỏ, Bill Gates đã thể hiện tính cách không thích gò bó của mình. Trong quá trình gây dựng sự nghiệp, tính cách này của Bill Gates không thay đổi, đã góp phần tạo ra thành công ngày nay của ông.
4.
TUỔI TRẺ CÓ CHÍ LÀ NỀN TẢNG CHO SỰ NGHIỆP CỦA CÔNG TY MICROSOFT NGÀY NAY
Từ nhỏ Bill Gates đã mong mỏi trở thành người nổi tiếng, chính nguyện vọng này đã thôi thúc ông phát triển. Năm 13 tuổi, với tư chất thông minh và kết quả học tập của môn toán và các môn khoa học tự nhiên khác, Bill Gates đã dễ dàng thi trúng trường trung học Hoockin. Đó là ngôi trường tư thục nổi tiếng trong toàn bang và cũng là một ngôi trường quý tộc. Bill Gates vào trường giống như cá gặp nước, môi trường học xuất sắc, cộng thêm trí thông minh vốn có, tư chất của ông phát huy được rất tốt.
Ngoài giờ học, ông học máy tính và đọc hồi ký của các nhân vật nổi tiếng như Einstein, Newton… Ông đọc và mơ ước có ngày mình cũng trở nên nổi tiếng.
Chính Bill Gates là người đã mua lại bản thảo đầu tay của De Vince trong một buổi đấu giá với trị giá 30,8 triệu USD. Hành động này của ông đã khiến cho người dân nước Ý thất vọng vì họ muốn bản thảo này quay về đất nước họ.
Cuộc đấu giá kết thúc, có người đề nghị ông tặng nước Ý bản thảo này, nhưng ông nói: “Đúng là De Vince là người Ý, nhưng phải hiểu rằng, trí tuệ ông là di sản của cả nhân loại”. Sau đó, ông đã cho các Viện bảo tàng trên toàn thế giới mượn trưng bày trong một khoảng thời gian nhất định, điểm đầu tiên chính là nước Ý.
Ông còn ngưỡng mộ nguyên Tổng thống Nam Phi là ngài Menson Mandela. Ông đã từng chăm chú lắng nghe ngài Menson Mandela phát biểu. Ông thực sự thấy bất bình thay cho ngài Tổng thống này. Ông ấy đã chiến đấu vì vinh dự và lòng tự trọng của cả một dân tộc, nhưng đổi lại là những ngày bị giam trong ngục tù. Từ trẻ, Menson Mandela đã tham gia các phong trào giải phóng dân tộc ở Nam Phi. Tháng 8/1962, ông bị bắt khi mới tròn 43 tuổi. Chính quyền Nam Phi đã tuyên phạt ông 5 năm tù giam vì tội vượt biên trái phép và quấy rối chính trị. Tháng 6/1964, ông bị tuyên phạt tù chung thân vì bị tố cáo thêm tội âm mưu lật đổ chính quyền. Từ đó ông đã bị giam cầm trong lao tù hết 27 năm. Ông Mandela đã bị giày vò, bức hại nhiều lần
nhưng tinh thần trung với nước vẫn quật cường trong ông.
Từ khi thành lập công ty Microsoft, dù bận rộn đến đâu Bill Gates cũng không bỏ thói quen đọc hồi ký những người nổi tiếng. Đó là cách ông san sẻ đau khổ và buồn vui với họ, cũng là cách ông tự học hỏi, khích lệ mình, giữ cho mình ý chí vươn lên mạnh mẽ.
Từ nhỏ ông đã hâm mộ những người nổi tiếng và không nghĩ rằng có ngày mình lại là một trong những người nổi tiếng, thành công của nước Mỹ. Sự thành công của ông có mối liên hệ nhất định với tâm
lý hâm mộ những người nổi tiếng từ thuở nhỏ. Qua những cuốn hồi ký đã đọc, ông đúc rút được những kinh nghiệm thành công của họ và áp dụng có lựa chọn vào thực tế cuộc sống của mình.
5.
THÀNH CÔNG BẮT NGUỒN TỪ TRÁI TIM KHÔNG NGỦ YÊN
Từ nhỏ, Bill Gates đã không cam chịu cảnh yên phận, vì vậy ông luôn làm những việc khiến mọi người bất ngờ. Do đó đôi lúc cũng gây ra nhiều rắc rối, nhưng chính tính cách không cam chịu này đã thôi thúc ông từng bước đi đến thành công.
Do tính cách không thích gò bó nên ông cũng gây nên nhiều rắc rối. Trường Hoockin thuê máy tính của công ty GE cho học sinh thực hành. Số máy tính này được nối với các máy của công ty GE. Chỉ có điều, các máy chia thành các khu vực khác nhau, mỗi khu vực có một quyền hạn không giống nhau và người sử dụng sẽ làm tại máy của mình theo những mật mã nhất định. Trong một lần thực hành, Bill Gates rất tò mò muốn biết máy tính ở các khu vực khác thế nào. Trực giác mách bảo ông không được phép làm thế, nhưng ông vẫn cả gan chui vào hệ thống được bảo vệ của công ty GE.
Bill Gates không có ý tìm tài liệu hay phá hoại, chỉ xuất phát từ sự tò mò. Khi vào được máy tính của người khác, ông phát hiện được nhiều tài liệu cũng như tình hình tài chính của cả công ty GE.
Ông không tin vào mắt mình và tự hỏi tại sao mình có thể dễ dàng
đột nhập vào máy tính của người khác và có tài liệu như vậy? Ông vừa vui vừa tò mò. Do ông làm sai quy định nên toàn bộ hệ thống máy của công ty GE bị ngừng hoạt động hoàn toàn. Người ta nhanh chóng phát hiện ra hành vi đột nhập của ông. Bill Gates sợ lắm vì không nghĩ mình lại gây ra họa lớn như thế.
Hành động của ông khiến công ty GE tức giận, Ban Giám hiệu nhà trường phải năm lần bảy lượt xin lỗi công ty và viết giấy bảo lãnh đảm bảo không có sự việc tương tự xảy ra. Bill Gates bị gọi lên nhắc nhở và thông báo tình hình cho bố mẹ. Bố mẹ không còn lời nào để nói về con, họ giận dữ cấm con không được động đến máy tính.
Không còn cách nào khác, ông phải tuân theo và hứa với bố mẹ trong vòng hai năm sẽ không chạm đến máy vi tính, cố gắng kiểm soát mình. Hai năm không động vào máy vi tính với chúng ta không phải là chuyện gì khó khăn, nhưng với ông thì quá dài. Khi các bạn vào phòng máy tính, Bill Gates thường đứng từ xa nhìn với vẻ thèm muốn. Rốt cuộc, vì không chịu nổi, ông tìm mọi cách được động vào máy tính.
Ông nghe nói có trường trung học khác sử dụng máy tính nối mạng trên toàn quốc. Ông chạy ngay đến nơi ấy nhưng không được vào phòng máy vì phòng được phân giờ cho từng lớp sử dụng giảng dạy và học máy tính. Ông phải đợi đến giờ lên lớp mới được vào. Trong giờ, các học sinh khác chăm chú lắng nghe giảng bài còn ông hí húi thao tác. Ông thử cài đặt vào máy chương trình ứng dụng của mình, sau đó thì gửi đến máy khác qua mạng. Sau khi cài đặt xong chuẩn bị gửi lên mạng thì toàn bộ hệ thống máy của trường ngưng hoạt động. Mọi người ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra. Sau khi điều tra thì phát hiện thủ phạm chính là Bill Gates. May là tính năng mạng ưu việt nên nhanh chóng khôi phục lại những dữ liệu đã bị mất và máy lại hoạt động bình thường. Bill Gates suýt nữa bị đuổi học và lại bị cấm động vào máy tính. Một năm sau đó ông không động vào máy tính. Những ngày tháng sống không có máy tính thật buồn chán, trong lòng ông luôn nghĩ, tương lai sau này là tương lai của máy tính, máy tính sẽ là công cụ sử dụng cho công việc, vui chơi của mọi người.
Tuy nhiên, suy nghĩ này bị coi là viển vông vì lúc đó máy tính cồng kềnh lại đắt, các gia đình bình thường làm gì có tiền mua. Nhưng chính suy nghĩ này gieo vào lòng ông giấc mơ khai thác máy tính.
Chính vào lúc buồn chán này, cơ hội lại đến với ông. Tháng 6/1971, sếp của một công ty máy tính đã đến Seatle mời Bill Gates và Paulo Alan về làm việc với mức lương cao vì nghe về những chiến tích lừng lẫy của ông trong các sự cố máy tính.
Sếp của công ty máy tính này giao cho hai người việc viết chương trình với thù lao là thời gian sử dụng máy tính trị giá 20 ngàn USD. Hai chàng trai trẻ hết sức vui mừng. Trước đấy quả thực họ đã nản chí. Dù mơ ước có công ty phần mềm riêng, làm chủ thị trường phần mềm của thế giới nhưng trên thực tế, việc này là rất khó. Họ cũng đã tranh thủ học viết một số chương trình ứng dụng và nhiều lần gọi điện đến một số công ty máy tính quảng cáo nhưng đều nhận được câu trả lời: “Các cậu chỉ là học sinh trung học, chúng tôi không cần sản phẩm của các cậu”, kèm đó là tiếng gác điện thoại lạnh lùng.
Mỗi lần như thế, tinh thần của họ như bị dội gáo nước lạnh, nhưng họ không bỏ cuộc. Và rồi cơ hội đến với họ.
Nhưng bất ngờ khi nhận được việc làm từ công ty trên thì lại có một cơ hội khác đến với họ.
Sau khi trường trung học Hoockin sáp nhập với trường nữ St.Nicolai, do quá đông học sinh nên việc xếp lớp học thật phức tạp. Tình trạng xếp nhầm lớp diễn ra nhiều. Để thay đổi tình hình này, nhà trường quyết định sử dụng máy tính. Nhà trường thông báo mở cuộc thi viết phần mềm xếp lớp trên toàn trường.
Biết được tin này, Gates và Alan vui lắm. Họ nghĩ, cơ hội thể hiện mình đã đến. Họ liền đến phòng giáo vụ xin lấy tài liệu và đăng ký dự thi. Sau đó họ nhanh chóng bắt tay vào viết phần mềm. Qua hơn hai mươi ngày quên ăn quên ngủ, họ đã hoàn thành công việc. Chuyển bài thi đi rồi mà họ vẫn lo lắng không biết mình có thành công hay không. Cuối cùng, họ được khen ngợi rất nhiều, còn được đăng ảnh lên trang nhất của tạp chí khoa học trường với dòng chữ: “Ai quen hai chàng trai này?”.
Ngày nay nhiều gia đình biết đến họ, họ không chỉ tạo ra một tương lai tốt đẹp cho thế giới phần mềm mà còn trở thành thần tượng của rất nhiều người.
6.
GIỮ VỮNG NIỀM TIN, LÀM VIỆC MÌNH MUỐN LÀM
Có người nói: “Người có niềm tin thì mới chống chọi được mọi phong ba bão táp của cuộc đời”. Ông vua phần mềm Bill Gates luôn giữ niềm tin kiên định trên con đường kinh doanh của mình và đã chiến thắng được mọi khó khăn, trở ngại, trở thành tỷ phú thế giới, là người dẫn đầu trong lĩnh vực phần mềm.
Vì lý tưởng của mình, Bill Gates không đi theo sự lựa chọn của bố mẹ; kiên quyết bỏ ngang sự nghiệp học hành để chuyển sang nghiên cứu phần mềm máy tính mà mình đam mê. Ông đã có thành tích đáng khâm phục, khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ.
Thành công của Bill Gates quả là kỳ tích đối với mỗi người trên thế giới này, tên ông trở nên quen thuộc với cả thế giới. Gia tài ông có được trong hơn 20 năm còn lớn hơn nhiều gia tài của các đại gia ô tô, dầu mỏ, gang thép, tiền tệ trong vòng 200 năm. Tuy mọi người có những ý kiến khác nhau về Bill Gates, cho rằng ông kiện tụng quá nhiều, lũng đoạn thị trường… nhưng lịch sử cũng đã chấp nhận ông, dành cho ông một vị trí quan trọng nổi bật trong lịch sử phát triển của ngành công nghiệp máy tính. Gia tài, con đường gây dựng sự nghiệp và lãnh đạo công ty Microsoft của ông đều là những chủ đề tranh luận thú vị.
Ngày 28/10/1955, Bill Gates sinh ra trong một gia đình bố là luật sư, mẹ là giáo viên ở thành phố Seatle thuộc bang Washington. Sinh ra trong một gia đình nề nếp, từ nhỏ ông đã phát triển lành mạnh về mọi mặt.
Ông đọc rất nhiều từ tủ sách của gia đình và nhận được sự giáo dục bằng nhiều hình thức phong phú của bố mẹ. Chính vì vậy, từ nhỏ ông đã khác với những đứa trẻ xung quanh. Bạn bè mỗi khi nói về ông đều có chung nhận xét: “Gates là người rất thông minh, chúng tôi không ai bằng cậu ấy. Từ năm lên 9 tuổi cậu ấy đã có những lời nói sâu xa như người trưởng thành, nhiều khi chúng tôi còn không hiểu cậu ấy muốn nói gì”.
Gates thích môn toán và máy vi tính. Tháng 5/1975, Gates đã bán cho trường trung học ở Seatle bộ phần mềm đầu tiên có tên “Hệ thống quản lý các môn học” với giá 4.200 USD. Từ đó ông đã kiếm được bộn tiền nhờ viết phần mềm. Quan trọng hơn, ông đã học được nhiều kiến thức phong phú, tích lũy được nhiều kiến thức quý giá.
Cũng từ ấy, ông được các bạn đặt biệt danh là “mọt máy tính”. Ông cùng anh bạn thân Paulo Alan chơi điện tử trong máy tính của trường trung học Hoockin. Mọi người thường thấy hai người bạn này đi với nhau bên hồ, vừa nói chuyện sôi nổi vừa ăn bánh hamburger. Mọi người muốn xen vào buổi trò chuyện của hai người cũng không được vì chẳng hiểu hai người nói gì, nên chỉ đứng bên cạnh rồi đi chỗ khác. Khi ấy, Paulo Alan học trên Gates hai lớp, họ chơi với nhau vì có tiếng nói chung là niềm đam mê máy vi tính.
Gates và Alan đã đến gặp lãnh đạo của một công ty máy tính và đề nghị diệt vi rút cho máy tính của công ty với điều kiện duy nhất là hết giờ làm việc họ được sử dụng máy tính của công ty. Họ tin rằng mình có đủ khả năng làm việc ấy. Vậy là cứ 6h tối mỗi ngày, hai chàng trai trẻ lại bắt đầu làm việc cho đến khuya. Họ sử dụng phần mềm ứng dụng, viết các chương trình, lòng vui sướng như cá được nước. Thời gian sau, năng lực của họ ngày càng giỏi thêm, tuy nhiên, Gates vẫn không hài lòng với những gì mình đã có được. Như mọi lần, ông lại tìm cách chui vào khu vực cấm, giải mã được hệ thống bảo vệ mật mã của máy tính và có được rất nhiều tư liệu không được phép tiếp cận. Thành công này khiến Gates sung sướng quên đi tất cả. Chính lúc ấy, toàn bộ hệ thống máy tính của công ty bỗng tắt phụp, tai họa ập đến. Toàn bộ kỹ sư máy tính của công ty tức giận, mắng Gates thậm tệ và đuổi ông ra khỏi phòng máy tính kèm theo lệnh cấm chạm vào máy tính…
Tuy vậy, với niềm tin kiên định, Bill Gates đi theo niềm đam mê của mình.
Ông ý thức rõ, sẽ có ngày máy vi tính cũng như vô tuyến đến với từng nhà, đều cần cài đặt phần mềm ông viết. Năm tốt nghiệp trung học, ông đã nói với các bạn cùng lớp: “Tôi sẽ kiếm được 1 triệu USD của riêng mình trước năm 25 tuổi”.
Gates và Alan thường nói với nhau về việc thành lập một công ty máy tính. Trong khi theo học chuyên ngành luật ở Đại học Harvard,
ông vẫn đeo đuổi mơ ước cháy bỏng của mình. Ông muốn dốc toàn tâm vào máy tính. Đã nhiều lần ông muốn thôi học Đại học Harvard để phát triển sự nghiệp máy tính nhưng bị bố mẹ phản đối kịch liệt nên đành phải tiếp tục theo học tại đó.
Mỗi khi tìm được thông tin gì mới liên quan đến máy tính, Paulo lại chạy ngay đến chỗ Gates thông báo. Một hôm, Paulo nhìn thấy một tấm hình máy tính đặt bàn, liền vui mừng chạy đến báo cho Gates biết. Gates đọc chú thích “máy tính loại nhỏ đầu tiên trên thế giới, chạy nhanh gấp bốn lần, rất hợp với những nhà kinh doanh” liền nói với Paulo: “Giả thiết của tôi sắp thành hiện thực rồi, máy tính chẳng mấy sẽ được phổ biến đến mọi nhà, thông dụng như vô tuyến”. Hai người vui lắm, dường như họ đã nhìn thấy mơ ước của mình được thực hiện, thấy sự nghiệp của mình đang ngày một phát triển tốt đẹp. Vì máy tính được phổ cập đồng nghĩa với việc nhu cầu về phần mềm ngày càng nhiều. Khi làn sóng phổ cập máy tính diễn ra thì nhu cầu sử dụng phần mềm ứng dụng của mọi người ngày càng tăng, điều đó là đương nhiên. Sở trường của họ là lập trình, họ đã có đất dụng võ. Hai chàng trai trẻ đã đoán ra được sự xuất hiện của một lĩnh vực khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Chiếc máy tính cá nhân PC đầu tiên ra đời đã làm rung động cả Gates và Paulo. Đang là tháng 12 giá rét nhưng một cơn bão lớn chưa từng thấy gào thét trong tâm hồn hai chàng trai trẻ. Họ đã phân tích tỉ mỉ về sự ra đời của chiếc máy tính cá nhân, nhận định máy tính cá nhân sẽ cần đến một loại thiết bị vi xử lý, mà loại thiết bị này lại cần đến một lệnh riêng. Hai người rất giỏi về lĩnh vực này. Gates liền gọi điện cho Ade Roberts, người phát minh ra máy tính cá nhân, nói rằng mình là người của công ty Trofo Data Seatle, đã nghiên cứu phần mềm ngôn ngữ Basic ứng dụng thành công cho Altair. Bill Gates đã hỏi ngài Roberts có hứng thú gì với phần mềm này không. Dĩ nhiên là Roberts rất thích phần mềm ấy, yêu cầu phải là “Basic hoàn chỉnh” và mời Gates cùng Paulo đến cài đặt thử ngôn ngữ Basic ấy cho máy tính của mình. Gates trả lời với giọng chắc nịch: “Ngài yên tâm, trong vòng ba tuần sẽ có phần mềm ngôn ngữ Basic hoàn chỉnh chuyển đến Abercrom”. Thực ra, lúc Bill Gates trả lời Roberts, ngôn ngữ Basic mới chỉ là một kế hoạch xa vời.
Thời gian giao hàng đã đến, Gates và Paulo miệt mài viết phần mềm cả ngày lẫn đêm, dường như họ hoàn thành phần mềm này trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Có một lần, Gates thực sự rất buồn
ngủ nên ngủ gật va đầu vào bàn phím máy tính và bừng tỉnh, liền nhìn vào màn hình máy tính cắm cúi làm tiếp các dữ liệu. Paulo cho rằng, Gates là một thiên tài, ông có khả năng lập trình ngay cả trong giấc mơ.
Đêm trước ngày giao hàng, ngôn ngữ Basic vẫn chưa hoàn thành khâu cuối cùng. Mãi đến sáng ngày hôm sau, ngôn ngữ Basic mới chính thức được viết xong. Lúc ấy, Gates cũng không có chút chắc chắn nào, ông nói với Paulo: “Tôi không chắc chút nào, chẳng ai biết là có ổn hay không. Cầu mong Thượng đế phù hộ cho chúng ta”.
Nhưng Paulo lại gật đầu chắc nịch vì ông tin vào khả năng của Gates. Trước lúc máy bay chuẩn bị hạ cánh nửa tiếng, Paulo chợt phát hiện ra vẫn chưa viết chương trình cài đặt. Thế là ông lấy vội tờ giấy nháp viết một mạch, đến khi máy bay hạ cánh thì chương trình cũng được hoàn tất.
Cũng vì lòng không chắc chắn nên Paulo rất run khi cài đặt chương trình Basic vào máy tính. Mọi người có mặt đều nín thở chờ xem thử nghiệm. Ngôn ngữ Basic đã chạy thành công trong tiếng reo hò của mọi người, đem lại sự sống cho máy tính. Sau đó Roberts đã mời Paulo đến làm việc tại công ty của ông, còn Bill Gates vẫn tiếp tục đeo đuổi nghiệp học hành tại Học viện Luật Đại học Harvard.
Bill Gates bắt đầu xây dựng tương lai cho mình. Ông băn khoăn giữa lựa chọn học chuyên ngành luật mình không thích với lựa chọn làm việc bên chiếc máy tính mình đam mê. Cuối cùng ông đã quyết định bỏ ngang việc học hành để theo đuổi mơ ước của mình. Lựa chọn này của Bill Gates đã gây ra nhiều tai tiếng cho gia đình, vì dù gì bố mẹ ông cũng là những người có danh tiếng trong vùng, Đại học Harvard là một trường đại học danh tiếng nhất thế giới, không phải ai muốn học cũng được, bỏ trường là đã tự vứt bỏ tương lai xán lạn của mình. Tuy nhiên, Bill Gates vẫn đưa ra lựa chọn bất ngờ là thôi học giữa chừng để chuyển sang nghiên cứu máy tính, việc mà hồi ấy rất ít người hiểu được. Điều này đã khiến bố mẹ ông đau lòng, nhưng với bản tính cố chấp, Gates kiên quyết làm theo ý của mình. Ông đã mặc nhiên bỏ qua trường học danh tiếng, tương lai phát triển, kiên trì làm việc mình muốn làm, đón nhận một tương lai với đầy nguy hiểm, gian nan.
7.
VƯƠN LÊN PHÍA TRƯỚC TRONG SỰ ỔN ĐỊNH VÀ CHỈ LÀM NHỮNG VIỆC MÌNH THẤY CHẮC CHẮN
Bill Gates đã đặt ra cho mình một quy định, không bao giờ kinh doanh những lĩnh vực ngoài khả năng của công ty. Ông cần phải phát triển sự nghiệp của mình trong sự ổn định, giảm hệ số rủi ro đến mức tối thiểu. Như vậy, công ty Microsoft mới từng bước đi lên thực hiện được mơ ước đứng đầu trong lĩnh vực phần mềm.
Mỗi khi khai thác sản phẩm hoặc thị trường mới, ông luôn nghĩ đến việc người khổng lồ Sony của Nhật Bản tiến quân sang Hollywood bị thất bại thảm hại trong nhiều năm trước ra sao. Câu chuyện này không chỉ nhắc nhở Gates mà còn là hồi chuông cảnh tỉnh cho nhiều người trong giới máy tính rằng, viễn cảnh thì đẹp nhưng chưa chắc đã thành công trong thực tế.
Cuối những năm 80 của thế kỷ 19, công ty Sony đã mua lại một công ty giải trí của Mỹ, chuyện ấy khiến mọi người sửng sốt và nhận thức lại, giống như câu chuyện những nhà tỷ phú người Nhật lùng mua tranh cổ của châu Âu.
Hồi ấy công ty Sony đang kinh doanh hàng điện tử gia dụng rất thành công, đã kiếm được hàng tỷ đô la, nhưng không hiểu sao họ lại có ý nghĩ chuyển hướng sang kinh doanh giải trí. Họ muốn gây dựng công ty mình thành một tập đoàn lớn mạnh hơn cả tập đoàn Disney.
Đúng là “trăm hay không bằng tay quen”, dù công ty Sony đã lên một kế hoạch kỹ lưỡng nhưng họ vẫn quên một điều, đó là quản lý ngành vui chơi giải trí khác hẳn với việc sản xuất thiết bị điện tử. Hơn nữa, cách quản lý của họ không thể hòa nhập được với nghề giải trí đình đám của Mỹ. Năm 1994 – 1995, công ty Sony bắt đầu bị lỗ nặng, cuối cùng họ đã thất bại hoàn toàn trong cuộc thử nghiệm chuyển hướng ấy. Có thể nói trong những năm ấy, người khổng lồ của ngành điện tử Nhật Bản đã bị sa lầy vào lĩnh vực giải trí và mãi đến năm 1997 họ mới thoát khỏi cảnh khó khăn.
Bill Gates thông minh luôn khắc sâu trong lòng bài học xương máu của công ty Sony, trong bất cứ tình huống nào cũng không được đánh mất bình tĩnh, không làm việc mình không chuyên, không chắc.
Ông cho rằng, không thể kiêm nhiệm được nhiều lĩnh vực để có ưu thế tuyệt đối.
13 năm đứng đầu trong danh sách các tỷ phú giàu có nhất thế giới, ông không có những tòa nhà cao ngất, cũng không có những kho hàng, nguyên liệu chất đống như núi, ông chỉ có kiến thức lưu trữ trong các phần mềm. Chỉ dựa vào điều đó mà trong vòng 20 năm, Bill Gates đã tạo ra kỳ tích thần kỳ. Đến cuối năm 1997, công ty đã có trong tay 46 tỷ đô la Mỹ vốn cố định, và giá trị khác trên thị trường còn vượt xa tổng số tài sản của ba đại gia chuyên về xe hơi của Mỹ. Trong quá trình phát triển sự nghiệp của mình, ông luôn hướng về phần mềm, kể cả sau khi đã tích lũy được hàng chục tỷ đô la, ông cũng không đi lệch hướng vì những cám dỗ khác.
Bill Gates cho biết, Microsoft chẳng cần phải xa rời định hướng chuyên môn, vì công ty có quá đủ lĩnh vực để khai thác. Ông còn nói: “Chúng tôi cho rằng trong lĩnh vực phần mềm, chúng tôi có đủ cơ hội phát triển. Bạn sẽ chẳng bao giờ thấy công ty chúng tôi mua lại một công ty tư vấn… Chúng tôi cũng không bao giờ đặt chân sang lĩnh vực chip”.
Sự thành công của Microsoft đã nêu bật được trọng tâm phát triển chuyên môn chính, tránh mù quáng chuyển sang đa nguyên hóa. Mặc dù ông không được coi là một người đi đầu trong khoa học chuyên môn, nhưng do luôn đi theo lĩnh vực mình nghiên cứu, lại biết nhìn xa trông rộng và kinh nghiệm kinh doanh giỏi nên Bill Gates đã làm cho công ty Microsoft phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực phần mềm. Từ đó Microsoft đã chiếm lĩnh đỉnh cao của lĩnh vực thông tin. Microsoft không bao giờ đi xa chuyên môn của mình, đó chính là nguyên nhân khiến họ không ngừng nghiên cứu, sáng tạo ra những sản phẩm phần mềm mới có tính năng vượt trội và dần dần củng cố địa vị số một của mình.
Các nhà quản lý cao cấp của công ty Microsoft luôn ủng hộ quan điểm này của Bill Gates, chính vì thế, công ty chưa gặp nguy cơ lớn nào. Đó cũng là vì công ty Microsoft luôn có những nhân viên quản lý tài giỏi. Họ có đầy đủ những kiến thức chuyên nghiệp trong một lĩnh vực, ngay cả bản thân Bill Gates cũng có kỹ thuật chuyên môn rất
mạnh, là một nhân viên lập trình, một nhân viên kinh doanh, một nhân viên quản lý ưu tú. Đó là nguyên nhân quan trọng để công ty Microsoft phát triển mạnh mẽ như ngày hôm nay.
Điều quan trọng là mỗi quyết sách của công ty Microsoft không phải là một ván bạc, họ cần làm những gì liên quan đến sở trường của mình, làm với quyết tâm chỉ được thắng chứ không được thua.
Nếu Bill Gates không đưa công ty của mình phát triển trong sự ổn định, không đầu tư lĩnh vực mình thông tỏ thì chắc chắn không gây dựng được công ty phần mềm hoành tráng như ngày nay, và càng không có một anh hùng của thời đại cạnh tranh ác liệt.
8.
ĐỊNH VỊ CHÍNH XÁC PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA BẢN THÂN VÀ MỤC TIÊU CỦA CÔNG TY
Định vị chính mình là tìm cho mình một phương hướng phát triển chính xác; định vị cho công ty chính là xác định mục tiêu cho công ty. Bill Gates đã sớm định vị được mình một cách chính xác.
Muốn làm việc gì thì trước hết bạn cần phải định vị cho mình một cách hợp lý: bạn muốn làm gì, có thể làm được gì. Bill Gates có tài trong lĩnh vực máy tính, nếu ông làm nghề khác thì e rằng sẽ không có công ty Microsoft ngày hôm nay.
Khi mới thành lập, Bill Gates đã nhìn thấy tương lai xán lạn của thị trường phần mềm máy tính, thêm vào đó là những phân tích chính xác về đam mê, sở trường của bản thân nên ông càng quyết tâm mình sẽ thành công trong lĩnh vực này. Đúng như phân tích và phán đoán, Bill Gates và Microsoft đã từng bước đi lên con đường thành công.
Ngay từ nhỏ Bill Gates đã có thói quen suy nghĩ độc lập, vì vậy bất cứ lúc nào ông cũng có thể nhận thức rõ ràng về bản thân mình. Hồi học trung học có một khoảng thời gian ông thấy hoang mang vì không
được chạm vào máy tính, không có máy tính ông thấy mình dường như đã mất đi phương hướng. Trong một lần ngẫu nhiên ông đã học chơi bài và rồi chẳng mấy chốc trở thành cao thủ. Lâu dần ông làm quen được nhiều bạn và sau này một trong số những người bạn ấy đã trở thành trợ thủ đắc lực giúp ông trong lĩnh vực kinh doanh. Mỗi khi nhắc lại thời thơ ấu, Bill Gates đều nói: “Nhận thức rõ bản thân mình là việc vô cùng quan trọng, nhưng bạn muốn thành công thì cũng không thể tách rời những người bạn thân thiết”.
Những năm học trung học, Gates luôn giành được thành tích xuất sắc, nhất là về môn toán học. Chính vì vậy, sau khi tốt nghiệp trung học ông đã vào học tại Đại học Harvard. Trong ngôi trường đại học danh tiếng nhất thế giới này có rất nhiều người tài, Bill Gates không phải là người đứng đầu về môn toán học, nhưng thầy giáo hướng dẫn vẫn khuyên ông phát triển môn học này. Thầy giáo hướng dẫn cho rằng ông rất có tiềm năng trong môn toán học. Nhưng ông đã từ chối dứt khoát lời khuyên của thầy, ông nói rằng: “Em không thể nổi bật ở trường này trong môn toán học, chứ đừng nói gì nổi bật trên nước Mỹ và trên thế giới. Làm như vậy không phải là quá khó khăn hay sao?”. Thực ra, vì Bill Gates quá đam mê máy tính.
Cùng với thời gian, máy tính đã không ngừng được đổi mới, nâng cấp, đặc biệt là chức năng của bộ vi xử lý ngày càng lớn. Đó là một cơ hội tốt để Gates phát triển. Khi công ty máy tính Altair đưa ra thị trường loại máy tính có bộ vi xử lý Intel 8008 thì ông nhận định đã đến lúc mình phải thể hiện.
Máy vi tính có bộ vi xử lý Intel 8008 có rất nhiều chức năng, nhưng khi sử dụng máy tính này cần phải học cách nắm vững ngôn ngữ máy tính. Điều đó không gây khó dễ gì đối với Gates, vì ngay từ khi học ở Trung học Hoockin, ông đã chuyên tâm mày mò ngôn ngữ
máy tính, lúc đó ông đã viết trình tự ngôn ngữ lập trình đơn giản. Gates và Paulo vô cùng phấn khởi khi công ty MITS của Ade Roberts quyết định ứng dụng ngôn ngữ Basic cho máy tính Altair. Họ biết cơ hội thể hiện mình đã đến. Bill Gates và Paulo Alan liên tục làm trong vài tuần liền để viết ra trình tự một trò chơi. Đây cũng là phần mềm đầu tiên được cài đặt vào máy tính sử dụng trình tự lập trình ngôn ngữ Basic.
Lần thành công này đã củng cố thêm niềm tin trong ông, ông thực sự tin vào sự lựa chọn của mình, và cho rằng mình sinh ra để dành
cho máy tính, sống vì máy tính.
Sau này ông luôn ứng dụng cách định vị bản thân ấy vào việc quản lý công ty Microsoft, ông thấy Microsoft cần phải đưa ra những phần mềm tuyệt hảo. Để giành được mục tiêu này, Bill Gates thường
xuyên nhắc nhở nhân viên của mình phải không ngừng học hỏi, không ngừng cố gắng. Chỉ có như vậy thì mới bỏ qua được đối thủ cạnh tranh của mình. Microsoft được tổ chức như sau: trọng tâm sẽ là trung tâm nghiên cứu khai thác, chủ yếu tiến hành nghiên cứu các sản phẩm phần mềm, sau đó biến nghiên cứu ấy thành sản phẩm và sản phẩm làm ra sẽ được một trung tâm kiểm định chất lượng. Nói chung, sau khi nghiên cứu thành công một sản phẩm phần mềm thì sản phẩm ấy cần phải trải qua nhiều sự thử nghiệm và khi đã được đánh giá chất lượng thì mới đưa ra thị trường.
Nếu để ý đến sự thay đổi và phát triển của Microsoft, bạn sẽ thấy Microsoft đổi mới bộ máy của mình theo kiểu dần tiến, không bao giờ thay đổi đồng loạt để tránh xảy ra tình trạng khó thích ứng. Ngoài ra, hàng năm Microsoft định kỳ tổ chức một số khóa tập huấn dành riêng cho những lập trình viên và nhân viên quản lý. Tài liệu của những khóa tập huấn này do chính những lãnh đạo cao nhất của Microsoft lựa chọn. Đó là những tài liệu chứa nhiều kiến thức, rất triết lý và khá thú vị. Những người tham gia những khóa tập huấn này sẽ học được rất nhiều kiến thức mới mẻ.
Bill Gates luôn nhắc nhở nhân viên của mình, Microsoft là một công ty chuyên về phần mềm, vì vậy, làm ở Microsoft cần phải có suy nghĩ chín chắn, cách làm việc cẩn thận. Đồng thời, Microsoft luôn tạo cho nhân viên một sân chơi khơi dậy sự sáng tạo cũng như không gian phát huy tiềm năng riêng, do đó, nhân viên của Microsoft luôn giành được những thành tích xuất sắc trong thời gian ngắn nhất.
Bill Gates đã định vị một cách chính xác cho công ty của mình, làm cho những quyết sách của công ty ngày càng khoa học hơn, hợp lý hơn. Điều này rất có ích đối với sự phát triển của công ty.
9.
LÝ TƯỞNG + HÀNH ĐỘNG = THÀNH
CÔNG
Có lý tưởng là vô cùng quan trọng, nhưng không thể ngày nào cũng quanh quẩn bên lý tưởng mà cần phải có những hành động thực tế. Chỉ có như vậy thì bạn mới từng bước tiến đến thành công. Một lý
tưởng đẹp cộng thêm sự phấn đấu không ngừng vì lý tưởng ấy thì thành công sẽ ở ngay trước mắt bạn.
Bước chân vào ngưỡng cửa đại học ông vẫn còn lưu luyến với máy tính. Máy tính luôn là những hồi ức đẹp nhất trong lòng ông. Ở trường các bạn truyền tay nhau tạp chí “Playboy” còn Bill Gates vẫn mày mò nghiên cứu kiến thức về máy tính. Ông thấy cuộc sống của mình đầy đủ.
Thỉnh thoảng ông cũng nghiên cứu các tài liệu về luật như luật thương mại, vì ông theo học chuyên ngành luật. Trên bàn học của ông lúc nào cũng đầy những cuốn sách như sách kinh doanh, quản lý và thương mại… Thời gian này Gates học được rất nhiều kiến thức có ích, đặt nền tảng cho ông gây dựng sự nghiệp sau này.
Buổi sáng mùa đông năm 1974, Paulo Alan thức dậy rất sớm vì có hẹn đến Đại học Harvard thăm Bill Gates. Từ khi Gates vào học Đại học Harvard, cứ cách vài hôm Paulo lại đến thăm ông một lần, vì họ cùng có chung tiếng nói, hai người ở cạnh nhau là không bao giờ hết chuyện.
Paulo Alan đội gió rét để đến trường Harvard. Gần đến phòng máy tính của trường, Paulo dừng chân lại bên quầy bán báo. Mỗi lần đi đến đây ông đều dừng lại để xem có tin tức gì mới liên quan đến máy tính hay không. Thế là Paulo cầm một tờ tạp chí máy tính lên xem, mở trang đầu tiên ông đã ngẩn cả người, mặc dù trời rất rét nhưng ông vẫn đứng đó bất động đến vài phút.
- “Cuốn tạp chí ấy mới về, giá 5 USD”. Bác bán báo nói lớn. Khi ấy Paulo mới định thần được, trả tiền và ôm khư khư lấy cuốn báo như một vật báu chạy đến phòng máy tính. Bác bán báo lắc đầu khó hiểu.
Paulo chạy một mạch đến phòng máy gặp Gates và gọi vội ông ra ngoài. Vừa nhìn thấy trang báo, mắt Gates đã sáng như sao, đó là bức hình máy tính Altair 8080, tức là máy tính Altair đời thứ hai, được cải tiến từ máy Altair đời đầu kèm theo dòng chữ rất ấn tượng: Máy
tính để bàn siêu nhỏ, rất thích hợp cho các nhà kinh doanh.
Bill Gates và Paulo vô cùng phấn khởi, họ biết mình có thể làm được gì, ngôn ngữ Basic họ nghiên cứu bấy lâu nay đã có đất dụng võ.
Trong khi chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ Basic, cả hai người vẫn chú ý tới sự phát triển của công nghiệp phần cứng máy tính. Máy vi tính Altair 8080 là loại máy tính được cải tiến mới nhất sau khi cho ra đời chip 4004 và 8008. Họ cho rằng, cùng với sự phát triển không ngừng của kỹ thuật máy tính thì chức năng của bộ vi xử lý sẽ ngày càng lớn, thể tích sẽ ngày càng nhỏ đi. Sau này thực tế cho thấy, những gì họ dự đoán là hoàn toàn chính xác, chip 8080 có đủ chức năng để khai thác trình ngôn ngữ Basic. Điều đó có nghĩa là một kỳ tích của thời đại lại xuất hiện, Bill Gates và Paulo sẽ cùng nhau gây dựng thời đại dành riêng cho máy tính cá nhân.
Chính máy tính Altair đã đi đầu cho thời đại của máy tính cá nhân. Máy tính Altair là loại máy tính nhỏ được công ty MITS của Ade Roberts ở Abercrom bang New Mexico đưa ra thị trường năm 1974. Ông Ade Roberts thành lập công ty MITS năm 1968 với chức năng chính là sản xuất máy tính. Do cạnh tranh thương mại quá khốc liệt, sản phẩm mới còn ít nên công ty thua lỗ khá nhiều. Sau khi bộ vi xử lý 8080 ra đời, ông Ade Roberts đã cho sử dụng vào máy vi tính loại nhỏ và đặt tên là máy tính Altair. Loại máy tính này đã được người tiêu dùng đón nhận nhiệt liệt.
Tuy nhiên, máy tính Altair vẫn chỉ là mô hình của máy tính loại nhỏ, có một khoảng cách nhất định so với máy 386 và 486. Máy này không có màn hình, không có bàn phím, cũng không có ổ CD, phần mềm lại ít. Muốn sử dụng hay nhập dữ liệu thì hoàn toàn phụ thuộc vào những công tắc ở bàn kiểm soát. Thao tác rất vất vả, nếu có sai sót thì phải làm lại từ đầu.
Tuy máy tính Altair có nhiều khiếm khuyết nhưng cũng gây ra chấn động không nhỏ trên thị trường. Người tiêu dùng cảm thấy loại máy tính này thật mới mẻ.
Còn Bill Gates và Paulo Alan lại cho rằng, máy tính Altair sẽ mở đầu cho thời đại máy tính cá nhân, họ đang nghĩ cách phải làm thế nào để thời đại máy tính cá nhân phát triển lớn mạnh. Chính vì vậy họ quyết định sử dụng máy tính Altair để khai thác trình ngôn ngữ
Basic, vì ngôn ngữ Basic dễ hiểu, dễ sử dụng. Qua ngôn ngữ Basic, mọi người sẽ có những phần mềm ứng dụng như kế toán, xử lý văn bản… Chỉ có như vậy, máy tính Altair mới trở thành máy tính cá nhân được ưa chuộng mạnh và phát triển được trên toàn thế giới.
Suy nghĩ này của họ cũng phù hợp với suy nghĩ của chủ nhân máy tính Altair, ông Ade Roberts. Ông Ade Roberts không ngờ rằng hai chàng trai trẻ ấy đang dệt nên giấc mơ của mình.
Paulo và Gates quyết tâm nghiên cứu bắt đầu từ ngôn ngữ Basic, họ cũng mày mò các đặc điểm của máy tính Altari để lập trình ngôn ngữ thích hợp nhất cho máy tính này. Sau mười mấy ngày chăm chỉ làm việc, họ đã tìm ra bước đột phá quan trọng.
Muốn hiểu kỹ về máy tính Altair trước hết phải có một máy tính Altair thật. Nhưng họ lấy đâu ra tiền để mua máy tính? Đến phòng máy tính của trường ư? Quản lý nghiêm lắm, không được tùy tiện thao tác. Thật may là trong cuốn tạp chí điện tử có tặng bạn đọc sách hướng dẫn sử dụng bộ vi xử lý 8080 nên xem như họ đã giải quyết xong một vấn đề. Có cuốn sách hướng dẫn này, họ liền mô phỏng một bộ vi xử lý 8080 trên máy tính PDP -10 và họ đã lập trình ngôn ngữ Basic trong hoàn cảnh như vậy.
Đến cuối tháng 5 năm 1975, hai người đã lập trình xong ngôn ngữ Basic dành cho máy tính Altair. Đây là một phần mềm trò chơi, người chơi cần phải ngồi trên tàu vũ trụ để vượt qua các cửa ải khó khăn, sau đó phải bước lên mặt trăng trước khi đốt sạch nhiên liệu. Trong đêm không ngủ ấy, hai người đã ngồi bên máy tính PDP – 10 chạy thử nghiệm nhiều lần xem còn gì sai sót không.
Ngày hôm sau, hai người quyết định thể hiện thành quả ấy cho tất cả mọi người. Họ gọi điện cho ông Ade Roberts. - “Xin hỏi đây có phải là công ty MITS không? Tôi muốn nói chuyện với ngài Ade Roberts”, giọng nói của một thanh niên còn rất trẻ.
- “Tôi là Ade Roberts đây! Cậu là ai?”. Ông Ade Roberts đáp.
- “Chúng tôi là người của công ty Trofo Data, vừa nghiên cứu được một trình ngôn ngữ rất thích hợp cho máy tính Altair, không biết ngài có muốn thử dùng hay không?”.
- “Vậy hả? Thế thì mang đến đây đi”. Nói rồi ông gác luôn máy điện thoại. Ông Ade Roberts bán tín bán nghi, vì hàng ngày ông nhận được quá nhiều các cuộc điện thoại có nội dung tương tự, kết quả luôn làm ông thất vọng.
Hai người đã mang theo “kiệt tác” của mình đến công ty của Ade Roberts. Nhân viên lễ tân tỏ vẻ thất vọng khi thấy hai người chỉ là những cậu bé.
Tuy nhiên, đến lúc nhân viên kiểm tra báo lại kết quả thử nghiệm cho ông Ade Roberts thì khuôn mặt ông nở nụ cười tươi rói. Mọi người không ai tin vào mắt mình. Ngay lúc ấy, ông Ade Roberts đã đồng ý cho bán kèm theo máy tính Altair phần mềm ứng dụng này với giá 60 cent một bộ.
Thành công này càng củng cố niềm tin trong Bill Gates. Từ ấy, ông càng nỗ lực hơn và đã sáng lập ra một cuộc cách mạng cho máy tính cá nhân có ý nghĩa vô cùng to lớn.
CHƯƠNG II:
CHÚ TRỌNG CÔNG NGHỆ CAO THÌ
“L
MỚI CÓ TƯƠNG LAI
à một công ty phần mềm lúc nào cũng phải ghi nhớ đến tính quan trọng của khoa học kỹ thuật. Chỉ có dựa vào sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì công ty mới không ngừng lớn mạnh và phát triển. Đặc biệt, đối với những
công ty chuyên về công nghệ cao, phải chú trọng đến khoa học kỹ thuật thì mới có tương lai”.
1.
TỰ MÌNH NGHIÊN CỨU MỚI CHẮC
Muốn cho công ty công nghệ cao phát triển ngày càng lớn mạnh thì cần phải có bản quyền tri thức của mình. Một bản quyền tri thức tốt là chiêu bài của công ty. Muốn có bản quyền tri thức của mình thì công ty cần độc lập khai thác, đồng thời phải biết bảo vệ tốt bản quyền tri thức của mình.
Công ty muốn phát triển lớn mạnh cần phải tự mình nghiên cứu, khai thác. Bill Gates vô cùng thấm thía câu nói này, nhất là sau khi hợp tác với IBM. Ông hiểu rằng không được dựa vào những công ty khác mà cần phải làm sản phẩm của chính mình. Sau này Microsoft đã thoát khỏi cái bóng của công ty IBM để phát triển độc lập. Nguyên nhân chính là vì Microsoft đã kiên trì đi theo con đường tự mình nghiên cứu và khai thác.
Trong những năm đầu mới thành lập công ty Microsoft thì IBM là một đại gia của làng máy tính thế giới. Phương hướng xê dịch của IBM đã ảnh hưởng đến kế hoạch hành động của những công ty khác, thậm chí làm thay đổi cả thị trường máy tính. Lợi nhuận ròng trong năm 1985 của IBM đã đạt 8,6 tỷ USD. Đây là khoản lợi nhuận khổng lồ mà không công ty máy tính nào dám mơ. Không lâu sau, công ty IBM quyết định đưa ra một loại máy tính cá nhân đời mới. Máy tính thế hệ mới này đã cài đặt bộ xử lý Intel 80286 rất mạnh trước kia còn
có tên gọi 286. Loại máy tính này tương đương với PC cá nhân ngày nay. Sau khi máy tính này ra đời đã được thị trường đánh giá rất cao.
Khi lãnh đạo công ty IBM đưa ra quyết định nghiên cứu, sản xuất máy tính cá nhân, họ cũng không hy vọng là loại máy tính này sẽ mang lại nhiều lợi nhuận, vì công ty IBM kinh doanh máy tính dành cho doanh nghiệp là chính. Tuy nhiên, máy tính cá nhân thế hệ mới này lại được rất nhiều khách hàng thân thiết tiêu thụ. Đó cũng là vì họ đã quen và chấp nhận với hiệu IBM. Sau đó, lãnh đạo công ty IBM cho rằng tương lai của máy tính cá nhân sẽ không sáng sủa nên dừng ngay việc nghiên cứu, khai thác máy tính cá nhân.
Tuy nhiên, trong đội ngũ nhân viên của IBM có một số kỹ sư cho rằng máy tính cá nhân sẽ phát triển tốt, có thị trường tiềm tàng. Họ đã xin nghỉ việc tại IBM và cùng nhau thành lập một công ty mới chuyên sản xuất máy tính cá nhân. Họ tự sản xuất phần cứng của máy tính, ứng dụng hệ thống vận hành của Microsoft. Như vậy, những máy tính họ sản xuất không có gì khác với máy tính cá nhân của công ty IBM. Sau khi những máy tính cá nhân này được tung ra thị trường, họ đã giành được thành công ngoài mong đợi. Đó chính là công ty máy tính Compaq.
Năm đầu tiên máy tính của Compaq đưa ra thị trường, công ty đã thu được 100 triệu USD. Chức năng máy tính của công ty Compaq hoàn toàn giống với máy tính của IBM, phần mềm cài đặt như nhau, nhưng máy tính của công ty Compaq nhỏ gọn hơn, vì vậy Compaq nhanh chóng trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của công ty IBM.
Để đánh bại Compaq, lấy lại vị trí hàng đầu trong lĩnh vực máy tính, lãnh đạo IBM quyết định hợp tác với Microsoft. IBM muốn chặn đứng sự phát triển của công ty Compaq bằng cách mua bản quyền phần mềm. IBM muốn san sẻ thị trường với Microsoft bằng cách IBM sản xuất ổ cứng còn Microsoft chuyên sản xuất phần mềm. Sau đó IBM sẽ mua lại phần mềm của Microsoft với giá cao với điều kiện phần mềm Microsoft bán ra sẽ được IBM độc quyền sử dụng. Phương án này có vẻ rất hoàn hảo nhưng khi thực hiện Microsoft mới thấy rằng mình bị trói buộc quá nhiều. Theo quy định hợp đồng, IBM ở các khu vực, các phòng ban đều có quyền nêu ý kiến về hệ thống thao tác. Mà nhân viên của IBM có đến hàng chục ngàn người, muốn đáp ứng được toàn bộ ý kiến của họ thật khó khăn. Ý kiến của các nhân
viên IBM trên toàn cầu sẽ tập hợp về công ty mẹ, sau đó người phụ trách IBM sẽ bàn bạc cụ thể với kỹ sư nghiên cứu của Microsoft để xét duyệt từng ý kiến một. Mỗi lần như vậy phải mất vài ngày, thậm chí là mười mấy ngày.
Ngoài ra, phần mềm của Microsoft chỉ được bán cho IBM nên về mức độ nào đó đã hạn chế sự phát triển của Microsoft. Đặc biệt, Microsoft sẽ bị bó buộc quá nhiều vào IBM, nếu máy tính của IBM bán chạy thì phần mềm của Microsoft sẽ bán chạy theo, ngược lại, phần mềm của Microsoft sẽ không thể bán được.
Để thay đổi tình trạng này, Bill Gates đã vất vả bao ngày tìm ra đáp án. Sau này ông hiểu ra, chính IBM đã trói buộc mình quá nhiều. Không lâu sau, Microsoft chấm dứt hợp tác với IBM, độc lập khai thác thị trường. Sau khi đã nghiên cứu ra những phần mềm ứng dụng, Microsoft liền bán cho các công ty máy tính như IBM… Hệ thống phần mềm thao tác bán chạy nên các phần mềm do Microsoft tự nghiên cứu, sản xuất đã được thị trường ưa chuộng và cuối cùng, cánh cửa thị trường đã mở rộng chào đón Microsoft.
Chính vào lúc Bill Gates đang kinh doanh thuận lợi thì vấn đề bản quyền sở hữu trí tuệ đã khiến ông vô cùng đau đầu.
Bill Gates có được khoản tài sản kếch xù như ngày hôm nay không phải là do đã bán được nhiều phần mềm mà là ông đã truyền thụ được kỹ thuật phần mềm của máy tính. Phần mềm máy tính phải có bản quyền sở hữu trí tuệ thì Gates mới thu được khoản lợi nhuận lớn. Mỗi bộ phần mềm có nghĩa là một bản quyền sở hữu trí tuệ độc lập, Bill Gates khai thác càng nhiều phần mềm thì ông có trong tay càng nhiều bản quyền sở hữu trí tuệ, lợi nhuận sẽ tỷ lệ thuận với bản quyền này.
Bill Gates là người tiên phong ứng dụng bản quyền sở hữu trí tuệ vào phần mềm máy tính. Khi mới thành lập, công ty Microsoft của Bill Gates đã ủy quyền cho công ty của ông Ade Roberts ở New Mexico sử dụng trình ngôn ngữ Basic do ông lập ra. Ông đã thu tiền bản quyền tính theo lượng tiêu thụ của công ty Ade Roberts. Tuy công ty của Ade Roberts có đủ sức thanh toán tiền bản quyền cho Microsoft, nhưng những người mê máy tính thì không làm được điều đó. Họ liên tục sao chép các phần mềm của Microsoft mà không trả một xu bản quyền nào cho Microsoft. Với họ, dường như phần mềm máy
tính là hàng khuyến mại miễn phí.
Sau này Microsoft cho ra đời phần mềm ngôn ngữ Basic mới. Loại ngôn ngữ này đơn giản, thông dụng nên được ưa chuộng, gây chấn động cho thị trường máy tính. Song song với đó là vấn đề bản quyền cũng làm cho Gates vô cùng mệt mỏi. Người sử dụng chỉ thích dùng ngôn ngữ Basic do Microsoft viết ra nên dẫn đến hiện tượng làn sóng copy phần mềm tràn lan mọi nơi, họ không muốn trả tiền phần mềm cho Microsoft. Vì vậy, thu nhập từ bản quyền của Microsoft giảm đi khá nhiều. Thời ấy, cả người sử dụng và người sản xuất phần mềm đều ít hiểu biết về bản quyền sở hữu trí tuệ, có thể nói là không có chút hiểu biết pháp luật nào trong lĩnh vực này. Lúc ấy chính Bill Gates đã đứng ra chuẩn bị cho công cuộc thách thức với cái cũ và quyết tâm làm người bảo vệ cho bản quyền sở hữu trí tuệ của phần mềm máy tính.
Năm 1976, ông đã lên tiếng nhắc nhở những nhà sản xuất phần mềm cũng như những người đam mê máy tính bằng bức thư công khai “Gửi cho những người đam mê máy tính”. Trong bức thư này ông đã viết: “Các bạn đam mê máy tính thân mến, cuộc sống của chúng ta trở nên đẹp đẽ biết bao từ khi có máy tính. Các bạn cũng biết rằng, chúng ta phải bỏ tiền ra thì mới mua được ổ cứng máy tính, còn phần mềm thì có thể sao chép tùy thích. Đó là sự san sẻ ư? Bạn đã bao giờ nghĩ hộ cho những nhà sản xuất phần mềm? Họ đã phải cật lực làm lụng nhiều ngày quên ăn quên ngủ chỉ để cho ra một chương trình hay. Lẽ nào những vất vả của họ lại không được đền đáp xứng đáng? Bạn sẽ thấy thế nào nếu như bạn là người viết phần mềm, trải qua bao vất vả mới có được thành quả, rồi bỗng nhiên vài ngày sau thấy trên mạng đầy rẫy phần mềm mình vừa viết xong? Lẽ nào bạn không thấy mình bị cướp mất thành quả?”.
Ngày nay, Bill Gates luôn đi đầu trong lĩnh vực bản quyền sở hữu trí tuệ, chính vì thế ông đã tạo ra con đường làm giàu cho chính mình.
2.
CÓ GIÁ TRỊ MỚI CÓ SỰ SỐNG
Phần mềm cũng là một thứ hàng hóa, nó có giá trị tự thân. Điều mà Microsoft muốn làm là biến phần mềm của mình thành thứ hàng
hóa có giá trị thương hiệu. Hàng hóa có thương hiệu tốt không phải là việc một sớm một chiều có thể làm được, nó đòi hỏi cần phải có sự cố gắng lâu dài, điều quan trọng là không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.
Để từng bước chiếm vị trí bá chủ trong thị trường phần mềm toàn cầu, mở rộng thị trường, Microsoft đã quyết định thực hiện “kế hoạch đa nguyên”, tức là thay đổi việc trước kia chỉ dựa vào nắm bắt hệ thống thao tác chuyển sang cùng lúc khai thác phần mềm hệ thống, ứng dụng phần mềm, phần mềm giải trí và phần mềm kinh doanh. Kế hoạch “đa nguyên hóa” xuất hiện đánh dấu một kỷ nguyên mới của công ty phần mềm Microsoft.
Trước kia Microsoft chỉ bán chương trình phần mềm cho nhà sản xuất ổ cứng như IBM và nhận được phí bản quyền của chương trình. Từ khi Microsoft phát triển lớn mạnh, mô hình kinh doanh cũ không đáp ứng được nhu cầu mở rộng thị trường của Microsoft. Kỹ thuật máy tính ngày càng phát triển mạnh và Bill Gates đã nhắm trúng lĩnh vực phần mềm ứng dụng. Ông quyết định tiến quân vào lĩnh vực này. Từ đó Microsoft chuyển mình hoàn toàn, biến thành một công ty phần mềm kỹ thuật cao chuyên tập trung sản xuất phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng từ một công ty nhỏ chuyên khai thác phần mềm hệ thống.
Nhằm triển khai thuận lợi “kế hoạch đa nguyên hóa”, nhất là làm tốt công tác tuyên truyền và kinh doanh thị trường, Bill Gates đã mời Ronal Hanson làm Phó Tổng giám đốc với khoản tiền lương kếch xù, chuyên phụ trách về mảng kinh doanh, thị trường. Ronal Hanson
nguyên là Phó Tổng giám đốc phụ trách kinh doanh, thị trường của một tập đoàn sản xuất xà phòng nổi tiếng. Ông có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực quảng cáo sản phẩm, quan hệ công chúng và dịch vụ hậu mãi sản phẩm, đặc biệt rất giỏi về việc đóng gói và quảng bá sản phẩm.
Từ lúc đặt chân vào Microsoft, ông phải thốt lên lời khâm phục đối với văn hóa làm việc của Microsoft, các bộ phận phân công làm rất cụ thể, nhân viên ai cũng chăm chỉ làm việc. Mặt khác, ông đã tìm ra những điểm thiếu sót về đóng gói sản phẩm của Microsoft, chẳng hạn như: bên nghiên cứu sản phẩm vừa đưa ra được một phần mềm ứng dụng thì đặt tên luôn là “công cụ thực dụng”. Theo ông, cái tên đó quá cứng nhắc, không lột tả được những ứng dụng thực sự của phần
mềm này trong cuộc sống. Nếu tung sản phẩm này ra thị trường với tên đó thì khó trở thành hàng bán chạy. Từ đó, các phần mềm của Microsoft đều được đặt tên theo chức năng chính của chúng, chẳng hạn, phần mềm ứng dụng Word mà chúng ta sử dụng hiện nay.
Có được sự đồng tâm cố gắng của toàn thể lãnh đạo và nhân viên trong công ty, Microsoft đã chiếm lĩnh phần lớn thị trường phần mềm của thế giới. Microsoft đã tạo ra tên tuổi bằng chính những sản phẩm của mình. Đến năm 2007, tên tuổi của Microsoft là 54 tỷ 951 triệu, xếp hàng đầu trong 500 doanh nghiệp mạnh nhất thế giới.
Yếu tố quan trọng tạo nên thành công của Microsoft ngày hôm nay là người Microsoft luôn theo đuổi một sự hoàn hảo tuyệt vời. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Microsoft, các quyết định của công ty cũng ngày càng trở nên quan trọng hơn. Để các quyết định này hoàn hảo hơn, chính Bill Gates đã “đi kiểm tra” hàng trăm nhân viên lập trình, các Giám đốc, các nhân viên quản lý, nhân viên kỹ thuật để đánh giá tình hình. Qua đó, ông đã chọn ra 13 nhân viên xuất sắc nhất để xây dựng một kho tư tưởng sống. Họ là những người quản lý luồng sản phẩm, nắm vững hướng phát triển mới của công ty, tổ chức các nhóm giám sát đánh giá thành tích làm việc của từng cá nhân; đồng thời tham mưu ý kiến cho lãnh đạo để đưa ra những quyết định đúng đắn và hiệu quả nhất. Những người này, có người đã từng gắn bó với công ty ngay từ ngày đầu thành lập, cũng có những người mới từ công ty khác chuyển đến.
Bill Gates luôn quan tâm tới những nhân tài biết nhiều lĩnh vực, tức là vừa am hiểu kỹ thuật lại vừa biết quản lý kinh doanh. Vì vậy, luôn có trường hợp nhân viên lập trình trẻ tuổi được đề bạt vào vị trí quản lý cao cấp. Tuy nhiên, trong đội ngũ nhân viên Microsoft, dù được thăng chức thì những người này cũng không bao giờ quên những gì mình đã làm. Chẳng hạn, khi Microsoft nghiên cứu phần mềm văn phòng OFFICE, giám đốc của một số bộ phận đã tham gia vào lập trình. Chỉ có những giám đốc bộ phận am hiểu tường tận mọi vấn đề liên quan tới nghiên cứu và khai thác kỹ thuật phần mềm thì mới đưa ra được những quyết định đúng đắn.
Tại Microsoft, ngoài việc theo đuổi sự hoàn hảo của sản phẩm, họ cũng rất chú trọng tới tố chất của những người lãnh đạo và quản lý. Bản thân người sáng lập ra công ty Microsoft - Bill Gates là một nhân viên kỹ thuật, nên những nhân viên kỹ thuật tại Microsoft sẽ có tiền
đồ xán lạn. Hơn nữa, càng giỏi thì sẽ được thăng chức tăng lương càng nhanh. Tuy nhiên, Microsoft cũng không xao nhãng khả năng quản lý của những nhân viên kỹ thuật này. Microsoft luôn cho rằng, chỉ khi nào người của Microsoft hoàn hảo thì những sản phẩm họ làm ra mới hoàn hảo.
Sau này, Bill Gates đã đặt ra một công thức cho mình: sản phẩm hoàn hảo + nhân viên hoàn hảo + quyết định hoàn hảo = thương hiệu hoàn hảo.
3.
GIÀNH LẤY THỊ TRƯỜNG BẰNG CHẤT LƯỢNG KỸ THUẬT VÀ DỊCH VỤ
Sản phẩm phần mềm là sản phẩm kỹ thuật, kỹ thuật tiên tiến đương nhiên sẽ có sản phẩm chất lượng cao, Microsoft đã giành lấy thị trường toàn cầu bằng sản phẩm phần mềm tuyệt hảo với những kỹ thuật hiện đại nhất. Song song, Microsoft cũng hết sức quan tâm tới chất lượng dịch vụ hậu mãi của sản phẩm, dịch vụ hậu mãi tốt thì càng dễ lấy được lòng khách hàng.
Microsoft nhanh chóng nổi hơn những đối thủ cạnh tranh khác trong thị trường máy tính, điều đó cho thấy chất lượng kỹ thuật sản phẩm của Microsoft rất cao. Bill Gates đã từng nói, Microsoft kiếm tiền bằng kỹ thuật, nâng cao sự hoàn chỉnh của sản phẩm bằng chính kỹ thuật. Trong quá trình khai thác phần mềm, Microsoft luôn theo đuổi mục tiêu nâng cao tính hoàn chỉnh của sản phẩm.
Một phần mềm thế nào được gọi là hoàn chỉnh? Đó là một phần mềm được sử dụng chung cho những ổ cứng và hệ thống thao tác khác nhau. Nó cũng tạo ra một giao diện chung cho những ngôn ngữ khác nhau và tung ra các thị trường khác nhau những sản phẩm giống nhau. Phần mềm có đặc điểm hoàn chỉnh này chứa đựng nhiều ưu điểm, có tính ứng dụng cao, môi trường ứng dụng phong phú. Sản phẩm như vậy chính là phần mềm của Microsoft.
Microsoft không ngừng nỗ lực đưa ra nhiều phiên bản phần mềm cho mỗi loại nhằm tăng thêm khách hàng tiềm năng, mở rộng thị trường quốc tế và đáp ứng được nhu cầu của các ổ cứng khác nhau. Người sử dụng phần mềm của Microsoft luôn khen ngợi công ty vì cách phân chia rạch ròi này. Đó cũng là một trong những sách lược cạnh tranh hàng đầu của Microsoft, mỗi nhân viên Microsoft luôn luôn khắc ghi điều này.
Ví dụ: phần mềm Word thì có đến 10 phiên bản khác nhau kể cả phiên bản Word 4.0 để thích ứng với những khu vực ngôn ngữ khác nhau như tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và cả khu vực Viễn Đông là tiếng Nhật, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên. Không
những thế, phần mềm này còn phải tương thích với chương trình vận hành Windows và Macintosh. Microsoft đã nghiên cứu ra những phần mềm khác nhau cho khách hàng từng vùng để mỗi một vùng ngôn ngữ đều có phiên bản Word của mình.
Việc đưa ra nhiều phiên bản Word là một ví dụ điển hình. Trong quá trình nghiên cứu phiên bản này, các lập trình viên đã lập riêng một hồ sơ giải thích những từ chuyên ngành dành cho ngôn ngữ của mỗi sản phẩm. Việc làm ấy đã đơn giản hóa lượng công việc của những lập trình viên, họ chỉ cần thông qua phần dịch của nội dung thuộc hồ sơ này thành tiếng nước ngoài là hoàn thành công việc. Như vậy, các lập trình viên có thể tập trung vào lập trình mà không phải quan tâm đến phần ngôn ngữ. Trong tất cả các phiên bản đều có những phần san sẻ chung, tức là bản mô phạm chung.
Trong một số trường hợp đặc biệt, ngôn ngữ của một số khu vực muốn dịch cần phải xem xét đến yếu tố văn hóa của khu vực ấy. Những phần dịch ngôn ngữ như vậy sẽ được tiến hành trong giai đoạn sắp hoàn thành việc nghiên cứu sản phẩm. Những lập trình viên đều mong muốn người sử dụng có được giao diện ổn định, phần dịch ngôn ngữ luôn được hoàn thành trước khi chuẩn bị công bố một phiên bản mới.
Lãnh đạo Microsoft luôn nhận thức được tính quan trọng và lợi ích của việc đưa ra nhiều phiên bản của một loại phần mềm. Việc đó không chỉ nhận được sự đánh giá tốt của khách hàng mà còn giúp Microsoft rút ngắn thời gian tiếp cận thị trường, cùng một lúc có thể tung ra nhiều loại phiên bản cho mọi thị trường trên thế giới. Mục đích chính của Microsoft là nâng cao tính hoàn chỉnh của sản phẩm,
một sản phẩm sẽ có được những phiên bản tiên tiến giống nhau đến với từng ổ cứng và từng thị trường ngôn ngữ khác nhau. Như vậy cũng có nghĩa là trong một thời gian ngắn, Microsoft đã tung ra thị trường toàn bộ những phiên bản phần mềm mới nhất. Điều này vô cùng quan trọng đối với sự thành công của công việc kinh doanh, vì khi khách hàng biết đến phiên bản mới, họ thường nhanh chóng đi mua phiên bản mới ấy.
Microsoft đã dốc rất nhiều tâm huyết cho sự nghiệp nâng cao tính hoàn chỉnh của sản phẩm. Điều đó làm cho sản phẩm của Microsoft có được tính cạnh tranh cao. Ngoài ra, cách làm này còn tạo cho khách hàng có cảm giác sản phẩm của Microsoft thống trị thị trường phần mềm. Tuy nhiên, điều này phải được bảo đảm bằng kỹ thuật công nghệ cao, không phải công ty nào cũng dễ dàng thực hiện được.
Đối với công ty chuyên về công nghệ cao thì vấn đề duy trì kỹ thuật tiên tiến là việc vô cùng quan trọng, ngoài ra, không thể xem nhẹ chất lượng dịch vụ hậu mãi. Cùng với sự phát triển không ngừng của công nghệ máy tính, sự chênh lệch giữa các sản phẩm cũng ngày một thu ngắn lại. Rất nhiều công ty chuyển sang cạnh tranh nhau trong lĩnh vực dịch vụ hậu mãi và ủng hộ sản phẩm. Trong lĩnh vực phần mềm máy tính, nếu chất lượng dịch vụ hậu mãi tốt, mức độ trợ giúp sản phẩm tốt thì lượng tiêu thụ sản phẩm càng cao.
Microsoft đã từng gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực dịch vụ hậu mãi. Khi mới thành lập, sản phẩm của Microsoft rất đơn giản, còn tồn tại nhiều vấn đề trong quá trình sử dụng, vì vậy khách hàng liên tục gọi điện đến Microsoft. Khi ấy Microsoft còn non nớt, chưa có nhiều kinh nghiệm,thiếu ý thức dịch vụ hậu mãi nên phản hồi rất lạnh nhạt với ý kiến của khách hàng. Vì thế, Microsoft mất đi rất nhiều khách hàng.
Lãnh đạo Microsoft đã đúc ra kinh nghiệm, khi tung ra phần mềm Windows 3.0, họ đã thay đổi tình trạng này. Do hệ thống thao tác Windows mới có những tính năng ưu việt nên lượng tiêu thụ lên đến hàng triệu bản. Không lâu sau, có tới hàng chục ngàn cuộc điện thoại gọi đến Microsoft đề nghị tư vấn rất nhiều vấn đề, mong được trợ giúp về kỹ thuật. Bộ phận chăm sóc khách hàng của Microsoft đã giải đáp chu đáo từng đề nghị của khách hàng. Mặt khác, thời gian ấy Microsoft đang ở trong giai đoạn chuyển mình, trước kia khách hàng chính của Microsoft chủ yếu là những khách hàng lớn như IBM, số
lượng khách hàng cũng tương đối ổn định, trợ giúp kỹ thuật rất dễ dàng. Nhưng từ khi Microsoft chuyển từ khách hàng lớn sang khách hàng cá nhân thì đối tượng này cần rất nhiều đến trợ giúp kỹ thuật. Vì một tương lai phát triển, Microsoft đã thay đổi cách làm của mình để duy trì số lượng khách hàng mới lên đến hàng triệu này.
Microsoft đã làm tốt phần chăm sóc khách hàng cũng như trợ giúp kỹ thuật chủ yếu bằng những phương pháp sau:
- Một là, thành lập một đội ngũ chăm sóc khách hàng, tức là dịch vụ hậu mãi chuyên nghiệp để giải đáp tư vấn điện thoại nhanh và có hiệu quả.
- Hai là, tìm kiếm các thông tin qua điện thoại của khách hàng, qua đó tìm ra những sản phẩm xuất hiện nhiều vấn đề nhất và những dịch vụ có liên quan đến sản phẩm đó, sau đó tổng hợp những thông tin này lại, chuyển cho bộ phận nghiên cứu, khai thác sản phẩm. Bộ phận nghiên cứu, khai thác sản phẩm sẽ nhanh chóng sửa chữa những sai sót của sản phẩm.
- Ba là, nâng cao hiệu suất trợ giúp kỹ thuật cho khách hàng. Họ đề ra thời gian xử lý thông tin điện thoại và lập ra một quỹ chuyên giải quyết vấn đề này, đồng thời hướng dẫn khách hàng gửi e-mail để được trợ giúp kỹ thuật…
Mọi cố gắng của công ty Microsoft đã nhanh chóng được đền đáp. Thông qua việc nghiên cứu, phân tích tỉ mỉ những vấn đề xuất hiện trong quá trình trợ giúp sản phẩm, Microsoft không chỉ nhận được những nhận xét tốt về dịch vụ hậu mãi mà còn nhận được rất nhiều ý kiến đóng góp phát triển sản phẩm từ phía khách hàng.
Đó là một bằng chứng thành công của Microsoft, xuất phát từ việc nắm chắc công nghệ cao. Thống kê của bộ phận chăm sóc khách hàng của Microsoft cho thấy: 80% cuộc điện thoại gọi điện đến chủ yếu liên quan đến 5 sản phẩm bán chạy nhất. Đó là: Windows, Word, Excel, Foxpro, MS-Dos. Trong đó Windows chiếm 29%, Word chiếm 18%, Excel chiếm 14%, Foxpro chiếm 14% và MS – Dos chiếm 5%.
Khi đề ra chiến lược phát triển, lãnh đạo công ty Microsoft luôn chú ý đến thông tin từ bộ phận chăm sóc khách hàng. Microsoft cũng bắt đầu gắn chặt sản phẩm cụ thể với việc thu lợi ích từ đó. Đây chính
là điểm khác biệt giữa Microsoft với những công ty khác, và cũng là chiến lược hết sức độc đáo của Microsoft. Chúng ta thấy, Microsoft ngày nay không chỉ là một công ty công nghệ cao mà còn là một công ty kinh doanh giỏi tính toán.
Hỗ trợ sản phẩm sẽ làm tăng giá thành của sản phẩm, vì vậy, Bill Gates suy nghĩ đến phương pháp làm giảm giá thành sản phẩm khi hỗ trợ kỹ thuật. Dĩ nhiên, ngoài việc tìm cách cải tiến sản phẩm, giảm bớt chi phí hỗ trợ kỹ thuật sản phẩm thì cách đơn giản nhất chính là thu một phần chi phí nhất định cho việc hỗ trợ đó. Khách hàng tiếp xúc và tìm hiểu sản phẩm, sau đó sẽ phản hồi thông tin tới bộ phận chăm sóc khách hàng. Thực chất, mỗi lần tiếp xúc với khách hàng chính là một cơ hội tốt để Microsoft cải tiến sản phẩm, số lần nhân viên chăm sóc khách hàng tiếp xúc với khách hàng nhiều thì họ sẽ hiểu được những vấn đề kỹ thuật nào hay gặp nhất. Những vấn đề thường gặp sẽ được đưa vào hệ thống trả lời tự động. Hệ thống trả lời tự động này cũng giống như khi tra cứu các thông tin cần thiết từ điện thoại, khách hàng chỉ cần thực hiện thao tác bấm nút. Hệ thống này phục vụ 24/24 giờ, tiết kiệm được rất nhiều nhân lực. Hơn nữa, Microsoft liên tục cập nhật các thông tin như thông tin sản phẩm, phần mềm khởi động mới nhất, xu hướng của các sản phẩm mới… lên các trang web nổi tiếng và những trang web của chính phủ.
Để phục vụ khách hàng tốt hơn, Microsoft không ngừng chắt lọc những thông tin phản hồi của khách hàng. Trong lúc bộ phận chăm sóc khách hàng tập hợp và chuyển những thông tin này đi thì Microsoft cũng gặp khá nhiều khó khăn. Trước hết, bộ phận chăm sóc khách hàng cần phải thu thập và lựa chọn thông tin có ích từ nguồn thông tin phải hồi đồ sộ. Sau đó, họ phân tích những thông tin có ích để đưa ra kết luận cụ thể và chuyển kết luận đó đến bộ phận nghiên cứu. Bộ phận nghiên cứu căn cứ vào những thông tin ấy để tiến hành điều chỉnh sản phẩm. Cuối cùng, bộ phận nghiên cứu sẽ tận dụng nguồn thông tin quý giá ấy để nghiên cứu, viết ra những phần mềm vượt trội khác. Sứ mệnh của bộ phận nghiên cứu sản phẩm là giúp công ty Microsoft đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của khách hàng, cải tiến sản phẩm thông qua những ý kiến phản hồi, ý kiến đóng góp của khách hàng.
Họ đã lập hẳn một cơ chế phân tích báo cáo nhằm phân tích các thông tin phản hồi của khách hàng tốt hơn. Trong đó, báo cáo tháng về phân tích thông tin điện thoại được áp dụng rất có hiệu quả.
Những người làm trong bộ phận chăm sóc khách hàng sẽ đưa phần phân tích thông tin qua điện thoại của khách hàng vào hồ sơ điện tử và gửi hồ sơ này cho các bộ phận nghiệp vụ cũng như quản lý cấp cao của công ty bằng e-mail. Kho dữ liệu thông tin đóng góp của khách hàng được xây dựng bằng cách tổng hợp ý kiến của khách hàng tới công ty. Kho dữ liệu này luôn được cập nhật kịp thời. Ngoài liên lạc bằng điện thoại, khách hàng cũng có thể gửi e-mail đóng góp ý kiến cho Microsoft, nhân viên của bộ phận chăm sóc khách hàng có nhiệm vụ tập hợp ý kiến qua con đường này vào kho dữ liệu. Bất cứ bộ phận nghiệp vụ nào của công ty cũng có thể sử dụng tư liệu từ kho dữ liệu này. Như vậy, Microsoft rất quan tâm, chú trọng ý kiến của khách hàng.
Mỗi lần Microsoft đưa ra một sản phẩm mới thì nhân viên lập trình sẽ được điều sang bộ phận chăm sóc khách hàng để hỗ trợ kỹ thuật. Bộ phận nghiên cứu và khai thác sản phẩm luôn chia thành nhiều nhóm, lần lượt từng nhóm sẽ phải đến bộ phận chăm sóc khách hàng để hỗ trợ kỹ thuật. Như vậy, mỗi nhân viên nghiên cứu, nhân viên lập trình đều có cơ hội chăm sóc khách hàng và luôn biết rằng “Khách hàng là thượng đế”. Nhờ tinh thần chăm sóc khách hàng chu đáo, Microsoft đã nhận được sự đánh giá cao từ khách hàng, khách hàng luôn tin tưởng mỗi khi sử dụng sản phẩm của công ty Microsoft.
4.
BIẾT CHỌN RA PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CHO TƯƠNG LAI
Tuy còn trẻ tuổi nhưng Bill Gates đã dự đoán được tương lai phát triển của máy tính. Khi thành lập và phát triển công ty ngày càng lớn mạnh, ông luôn nhìn nhận tương lai rất chính xác. Một tương lai rộng lớn chính là điều ông hướng đến.
Máy tính ngày càng phát triển thì một ngành mới cũng ra đời, đó chính là ngành công nghệ thông tin. Do tính không xác định của thông tin, khó ai có thể dự tính chính xác được tương lai. Người có thể dự tính được tương lai chính là người giỏi nhất.
Nhớ lại kinh nghiệm đi đến thành công của mình, Bill Gates luôn
nói, tương lai thuộc về người có mắt quan sát và đầu óc dự tính. Khi ông thành lập công ty Microsoft, nhiều người cho rằng Microsoft không thể phát triển lớn mạnh, vì thời điểm đó, các công ty giống Microsoft có hằng hà sa số. Lúc ấy, công ty đình đám nhất là công ty thiết bị máy tính số. Sáng tạo nổi bật của công ty này là gắn kết ổ cứng với màn hình máy tính. Thành tựu này đã khiến họ đứng lên vị trí cao nhất khi kỷ nguyên máy tính bắt đầu chuyển mình. Mười mấy năm sau công ty này đã phát triển với tốc độ vũ bão.
Năm 1960, công ty đã đưa ra thị trường loại máy tính nhỏ đầu tiên, đó chính là PDP - 1. Loại máy tính này là tiền thân của máy tính PDP – 8. Khi ấy, thể tích của PDP – 1 nhỏ nên giá khá rẻ, được người tiêu dùng ưa chuộng. Trong 10 năm liền, công ty nhanh chóng phát triển thành một công ty lớn có số vốn đến hàng chục tỷ USD, xứng đáng với danh hiệu “người khổng lồ máy tính”.
Tuy nhiên, sau đó do người điều hành công ty có những nhận định sai lầm về tương lai phát triển của máy tính để bàn loại nhỏ nên công ty bắt đầu sa sút. Ngoài ra, cùng thời điểm Bill Gates thành lập công ty cũng có một số công ty lớn đã mất đi con mắt quan sát, như công ty IBM. IBM đã thua công ty máy tính Compaq trên thị trường máy tính cá nhân. Nguyên nhân chính là do ban lãnh đạo IBM đã có những đánh giá sai lầm về tương lai, còn Bill Gates có cái nhìn sắc bén, ông đã tạo ra kỷ nguyên mới cho lĩnh vực máy tính.
Thế kỷ 20, ở Seatle Mỹ có hai người giống tên nhau, nhưng gây dựng được hai kỳ tích hoàn toàn khác nhau, họ đã chiếm lĩnh hai đỉnh cao không ai bì được.
Một là Bill Boeing, người sáng lập ra công ty máy bay Boeing. Năm 1916, Bill Boeing nhận được bản hợp đồng vận chuyển hàng không từ Sealte đi Vancuver, Canada và đã tạo ra tuyến đường vận chuyển quốc tế đầu tiên của nước Mỹ. Hiện nay Boeing là công ty chế tạo máy bay lớn nhất thế giới, Tổng công ty có trụ sở chính tại Seatle, Mỹ. Bắt đầu từ năm 1921, họ nhận đơn đặt hàng của Bộ Quốc phòng Mỹ, chuyên chế tạo máy bay quân sự. Sau này, họ sát nhập với một số công ty, hãng máy bay và công ty vận tải khác. Ngày nay, xưởng sản xuất Boeing 747 của họ rộng khoảng hơn 500m, cao hơn 40m, cùng một lúc có thể lắp đặt 6 chiếc Boeing 747. Tuy nhiên, xưởng sản xuất nói trên cũng chỉ bằng 1/5 xưởng sản xuất lớn nhất của họ.
Người còn lại chính là Bill Gates. Trụ sở của Microsoft được đặt tại phía Nam Seatle, nơi không có những tòa nhà chọc trời cũng như tiếng ồn ào của máy móc. Nơi đây chỉ có những khu rừng rậm, không gian đặc biệt yên tĩnh và những thảm cỏ xanh ngút ngàn. Đặt văn phòng tại nơi này, ông đã tạo ra một câu chuyện thần thoại trong làng máy tính.
Hiện nay, đa số máy bay hạng lớn đều là của công ty Boeing và hàng trăm triệu người trên toàn thế giới đang sử dụng hệ thống khởi động máy tính cũng như phần mềm thao tác của Microsoft. Hai người này có con mắt nhìn xa trông rộng, họ đã gây dựng được hai công ty lừng lẫy ở Seatle.
Dưới sự dẫn dắt của Bill Gates, Microsoft lúc nào cũng duy trì được những sự thay đổi đầy linh hoạt. Bill Gates thường nhắc nhở nhân viên của mình: “Microsoft không bao giờ được hài lòng với những gì đã có, cần phải luôn luôn suy nghĩ, tìm tòi cái mới, thay đổi triệt để những thói quen xấu”.
Vì thế, sản phẩm của Microsoft không ngừng được đổi mới để đáp ứng yêu cầu khắt khe của khách hàng. Tính ổn định, tính ứng dụng cao của sản phẩm luôn là những mục tiêu khách hàng hướng tới.
Trong cuộc sống, chúng ta luôn đứng trước nhiều cơ hội, nhưng lựa chọn cơ hội chính xác là điều quan trọng nhất. Bill Gates làm được điều đó nên ông đã thành công. Minh chứng cho điều này chính là việc Microsoft khai thác và tung ra thị trường phần mềm Windows. Sau khi Windows 1 được tung ra thị trường thì thị trường phản ứng không mạnh lắm. Do đó, Microsoft đã tìm cách cải tiến sản phẩm rất nhiều, sau đó Windows 2.0 và Windows 3.0 ra đời, tiếp đó, Windows 95 ra đời khiến cho phần mềm này nổi đình nổi đám. Cuối cùng, hệ thống thao tác Windows đã độc chiếm thị trường phần mềm hệ thống.
Ngoài phần mềm hệ thống thao tác, những loại phần mềm khác cũng có bóng dáng của Microsoft. Tuy làm trong lĩnh vực này Microsoft gặp không ít rủi ro, nhưng rủi ro lại chính là cơ hội nên Microsoft kiên quyết đi theo những gì họ đã chọn. Tất nhiên, trong quá trình thực hiện, họ sẽ gặp rất nhiều đối thủ cạnh tranh, đối thủ cạnh tranh càng nhiều thì vấn đề rắc rối cũng tăng lên. Đó là một
trong những nguyên nhân tại sao Microsoft hay bị kiện. Bill Gates và các nhân viên của mình đang dệt nên tương lai cho Microsoft. Họ muốn cả thế giới biết Microsoft đang làm gì và là một công ty như thế nào.
Lãnh đạo quản lý công ty cần có con mắt biết nhìn xa trông rộng, chỉ khi nào biết nhìn xa thì mới có thể đi xa được. Mỗi khi Microsoft gặp khó khăn, ông luôn kiên trì những gì mình đã chọn. Sự thực đã chứng minh rằng ông luôn luôn đúng.
5.
CHÚ TRỌNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRẺ
Ngày nay, tuy bề ngoài, Microsoft trông như một cỗ máy cồng kềnh nhưng lại tràn đầy sức sống của một cơ thể trẻ. Bí quyết chính là không ngừng tuyển dụng đội ngũ nhân viên trẻ. Những nhân viên này đem đến cho Microsoft một sức sống mới. Họ tràn đầy sức trẻ nên đã tiếp sức cho Microsoft luôn dẫn đầu trên thị trường phần mềm.
Theo tư liệu thống kê của nội bộ Microsoft, độ tuổi bình quân của nhân viên Microsoft là khoảng 30 tuổi. Điều đó cho thấy họ rất trẻ, luôn tràn đầy sức sống, không sợ thất bại. Đó chính là điều Microsoft đang đeo đuổi. Nhân viên của Microsoft đa số vào làm trong công ty ngay khi vừa tốt nghiệp đại học với nỗ lực làm việc rất cao, giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển của Microsoft.
Bill Gates biết khai thác nguồn nhân lực trẻ tuổi. Chính ông đã tuyển dụng hai cố vấn trẻ tuổi tài năng về làm cho mình. Một người 17 tuổi tên là Jim Gray và một người 19 tuổi tên là Gorden Bell.
Trong thời gian làm cố vấn tại Microsoft, hai chàng trai trẻ này không chỉ nhận được khoản lương hậu hĩnh mà còn giành được những học phần tương ứng. Microsoft đã gửi gắm tương lai phát triển vào thế hệ trẻ luôn gắn chặt mình với mạng Internet. Microsoft cũng mong muốn mình sẽ nắm được nhịp đập của thời đại qua việc tìm hiểu những thanh niên trẻ sống và làm việc gắn liền với công nghệ mạng. Từ đó họ sẽ mở ra thị trường tiềm năng cho giới trẻ.
Ngoài ra, Microsoft luôn luôn chào đón những sinh viên vừa tốt nghiệp đại học vào làm. Những sinh viên này không có gánh nặng hay áp lực gì nên họ làm việc rất chăm chỉ, nhiệt tình.
Sinh viên mới tốt nghiệp đại học thường không có kinh nghiệm thực tế nên họ không có đòi hỏi cao về tiền lương. Tuy nhiên, nếu được Microsoft để mắt tới thì thu nhập của họ rất khả quan. Vì thế, tốt nghiệp đại học và được vào làm tại Microsoft là mơ ước của rất nhiều sinh viên.
Để tìm được những sinh viên xuất sắc, người của Microsoft sẽ đi về các trường thăm dò, tìm kiếm những người thích hợp với công ty mình. Sau đó họ sẽ chủ động trò chuyện để biết sinh viên ấy có muốn về làm cho Microsoft hay không. Tất nhiên, đa số sinh viên đều sẵn sàng đón nhận lời mời hấp dẫn này. Nếu đồng ý, họ sẽ được bố trí đến thực tập tại Microsoft và trải qua thử thách xem có đạt kết quả hay không.
Những nhân viên trẻ trung này luôn tràn đầy sức sống và có tác phong làm việc của riêng mình, đó là những người đam mê công việc và cũng rất thích chơi. Một nhân viên mới vào làm tại Microsoft được vài tháng đã phải thốt lên: “Được làm việc với những người giỏi trong Microsoft, tôi thấy mình có thêm cơ hội được rèn luyện, điều quan trọng hơn là tôi thấy mình rất thanh thản và mọi người có chung những sở thích”. Như vậy, Microsoft là địa chỉ mơ ước của rất nhiều người, vô cùng hấp dẫn đối với những thanh niên trẻ.
Mỗi khi tuyển được một lớp trẻ về thì chính Bill Gates sẽ giảng cho họ bài đầu tiên về “Microsoft”. Trong khi làm việc hàng ngày ông cũng khuyến khích từng nhân viên trẻ bằng tinh thần hăng say công việc của mình. Lâu dần, Bill Gates trở thành thần tượng của những nhân viên trẻ ấy, nhiều khi họ còn mô phỏng theo ngữ điệu, cách nói năng của Bill Gates, cách làm việc lại càng giống ông hơn. Ông đã truyền tinh thần làm việc không biết mệt mỏi của mình sang thế hệ trẻ và sang cả công ty Microsoft.
Hàng năm, Microsoft luôn có những nhân viên trẻ vào làm. Microsoft luôn tổ chức các cuộc thi để chọn ra người giỏi nhất vào làm tại công ty mình. Mặt khác, Microsoft cũng rất chú trọng đến tính sáng tạo của thế hệ trẻ, vì vậy Microsoft có sức sáng tạo và sức sống mạnh mẽ.
6.
BIẾT MÌNH BIẾT NGƯỜI THÌ MỚI THÀNH CÔNG
Trên thương trường cạnh tranh mạnh mẽ, muốn có không gian phát triển của riêng mình thì cần phải biết mình biết người. Chỉ khi nào biết rõ mục đích và kế hoạch hành động của đối phương thì bạn mới đề ra được sách lược chiến thắng đối phương. Biết mình biết người trăm trận trăm thắng.
Bước sang thềm thế kỷ mới, con đường sự nghiệp của Bill Gates ngày càng rộng thênh thang và thành công ngày càng nhanh. Tuy nhiên, không có con đường nào trải đầy hoa hồng, Bill Gates cũng gặp rất nhiều khó khăn. Những khó khăn ấy do các đối thủ cạnh tranh, do Tổ chức thương mại nước ngoài gây ra, do cả Chính phủ Mỹ đem đến. Mỗi khi đối mặt với vấn đề gai góc, ông đều “biết mình biết người”.
Nhìn lại quá trình phát triển của Microsoft, chúng ta sẽ thấy Microsoft phải trải qua ít nhất là hai cửa ải vô cùng gian nan:
- Một là, sự can thiệp của Chính phủ: Đó là của EC và Bộ Tư pháp Mỹ.
Năm 2002, trong bài phát biểu của Chủ tịch Ủy ban Liên minh châu Âu – EU tại Bruxel có đề cập đến vấn đề, đầu năm 2003 EU sẽ tiến hành điều tra Microsoft. Nhân viên điều tra của EC đã kiện Microsoft lạm dụng phần mềm Windows của công ty để chiếm vai trò chính trong thị trường hệ thống thao tác của máy tính cá nhân. Vai trò chính này còn xâm nhập vào các thị trường có liên quan đến phần mềm của máy chủ và của cả hệ thống truyền thông. Microsoft sẽ phải đối mặt với khoản tiền bồi thường rất lớn của EC.
Đến tháng 6/2002, Microsoft lại gặp tiếp khó khăn nữa. Đó là EC tuyên bố đang bắt tay vào điều tra việc công ty Microsoft lấy thông tin cá nhân của các hộ sử dụng phần mềm trên mạng. Trước đó, Nghị sĩ Pháp đã đệ trình vấn đề này lên Ủy ban liên minh châu Âu, nói rằng Ủy ban Liên minh châu Âu nên tiến hành điều tra Microsoft. Qua đó xem xem Microsoft có vi phạm bí mật cá nhân hay không. Việc
Microsoft nâng cấp dung lượng là để cho cá nhân hộ sử dụng mạng có thể vào mạng mua bán hàng hóa, chơi cổ phiếu được dễ dàng. Máy chủ do Microsoft cung cấp sẽ thông qua IP của khách hàng để thu thập các thông tin cá nhân của họ.
Rất nhanh chóng, EC có ý kiến và lập tức bắt tay vào điều tra Microsoft. Nếu kết quả điều tra này được EC thừa nhận thì Microsoft sẽ gặp rất nhiều rắc rối.
Năm 2002, Microsoft cũng mắc phải rắc rối với 9 bang của nước Mỹ. 9 bang này yêu cầu Microsoft phải cung cấp một bộ hệ thống thao tác Windows giá rẻ không bị trói buộc bởi bất cứ phần mềm nào của Microsoft.
Nếu Microsoft không chấm dứt ngay hành động lũng đoạn thị trường thì sẽ tiến hành cưỡng chế buộc công ty phải công bố mã bộ phận tìm kiếm trên mạng và công bố cả mã của hệ thống thao tác Windows. Điều đó cho thấy, Chính phủ Mỹ đã có những biện pháp cứng rắn với Microsoft.
Theo tiết lộ của một luật sư chuyên làm về mảng chống lũng đoạn thị trường, khi Microsoft không thể bồi thường được những yêu cầu mà bên khởi kiện nêu ra thì chính phủ mới ép được Microsoft cung cấp mã. Ngoài ra, không phải phần mềm nào của Microsoft cũng bị hạn chế như vậy, chỉ có những phần mềm vi phạm đến yêu cầu bồi thường thì mới bị áp dụng, tức là cưỡng chế công bố mã.
Lúc ấy, một số chuyên gia nhận định rằng, Bill Gates không lo lắng lắm đến vụ kiện lũng đoạn thị trường của Bộ Tư pháp Mỹ. Vì dù gì, cả thị trường phần mềm máy tính Mỹ và các thị trường thông tin khác đều có cống hiến của Microsoft.
- Hai là, khó khăn từ chính đối thủ cạnh tranh.
Năm 1998, doanh số của Microsoft lên đến 15 tỷ USD, trong đó lợi nhuận đạt 4,6 tỷ USD, tăng 27% so với năm 2007. Con số này chiếm vị trí hàng đầu trong các công ty phần mềm trên toàn thế giới. Doanh số của Microsoft chiếm trên 12% doanh số phần mềm trên toàn thế giới và lợi nhuận chiếm 33%. Tuy nhiên, hàng năm Microsoft đầu tư rất nhiều kinh phí để nghiên cứu, khai thác sản phẩm mới. Từ năm 1995 đến năm 1997, Microsoft có cổ phiếu của khoảng 32 công ty
khác. Năm 2008, Microsoft đứng hàng thứ 44 trong số 500 doanh nghiệp mạnh nhất thế giới. Cây lớn luôn dễ gặp gió nên lúc nào Microsoft cũng phải đối mặt với rất nhiều đối thủ cạnh tranh, nhiều khi các đối thủ cạnh tranh này còn liên kết lại với nhau để chống lại Microsoft. Chính vì vậy, Microsoft phải luôn luôn cố gắng.
Trong quãng thời gian mười mấy năm phát triển của mình, Microsoft đã tạo ra khá nhiều đối thủ. Microsoft đụng chạm đến nhiều lĩnh vực nên đối thủ cạnh tranh khá nhiều. Về phần mềm đồ họa có đối thủ cạnh tranh là công ty Adobe; về mạng có đối thủ cạnh tranh là Google và Yahoo; về phát triển công ty thì có IBM; về phần mềm máy tính thì Microsoft khó thể địch nổi Nokia… Đứng trước hàng loạt những đối thủ cạnh tranh đáng gờm này, Bill Gates không chỉ áp dụng những biện pháp cạnh tranh linh hoạt mà còn phải đi sâu vào tìm hiểu đối thủ cạnh tranh, hiểu được hướng phát triển cũng như kế hoạch lâu dài của họ. Chỉ có như vậy thì Microsoft mới không thất bại.
Dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng Bill Gates vẫn đưa Microsoft phát triển mạnh mẽ dựa trên quan điểm “biết mình biết người”.
7.
LUÔN NÂNG CAO GIÁ TRỊ CỦA SỰ GIÀU CÓ
Bill Gates không bao giờ để số tài sản kếch xù của mình nhàn rỗi. Ông luôn nhân nó thành nhiều và nhiều hơn nữa. Qua đó ông không ngừng nâng cao giá trị của bản thân và tiếp tục viết nên những câu chuyện thần thoại làm giàu.
Mỗi một giây Bill Gates kiếm được 250 USD, mỗi ngày ông kiếm được 20 triệu USD. Nếu coi Microsoft là một đất nước thì đây sẽ là đất nước giàu có xếp hàng thứ 37 trên toàn thế giới. Trong 15 năm liền, Bill Gates liên tục là người giàu có nhất thế giới. Theo tạp chí Fober vừa mới công bố thì trị giá tài sản của Bill Gates lên đến 57 tỷ USD, đứng hàng đầu thế giới. Có người sẽ hỏi: Bill Gates dùng số tiền ấy để làm gì? Chẳng lẽ gửi ngân hàng để sinh lãi? Tất nhiên là không phải. Ông luôn dùng tiền của mình để đầu tư, và tiền lại đẻ ra tiền.
Đầu tư là gì và đầu tư cái gì? Đây là một câu hỏi hóc búa. Theo Bill Gates, đầu tư chính là dùng một số tiền nhất định để nghiên cứu tìm ra một phần mềm thích ứng với sự phát triển của xã hội trong tương lai, qua đó sẽ nhận được sự đền đáp xứng đáng. Khi được hỏi về bí quyết thành công, Bill Gates nói, tôi thành công là vì tôi biết nhìn nhận chính xác tương lai, tức là đầu tư tương lai. Nói cách khác, nếu bạn muốn thành công thì bạn cần phải học cách đầu tư và dũng cảm đầu tư.
Bill Gates đã từng nói với nhân viên của mình: “Chỉ cần sản phẩm phần mềm thích ứng được với nhu cầu phát triển trong tương lai thì Microsoft sẵn sàng bỏ một khoản tiền lớn để đầu tư”. Bill Gates luôn nghiên cứu và khai thác phần mềm máy tính, ông cho rằng, đầu tư nghiên cứu khai thác thị trường phần mềm máy tính cũng thu được nhiều lợi nhuận và các thành quả khai thác của những công ty khác cũng giúp cho Microsoft thu được nhiều lợi nhuận. Ông nói: “Trong thị trường phần mềm, nếu mỗi công ty đều đặt nhiệm vụ trọng tâm vào việc khai thác thì thị trường phần mềm vô cùng sáng sủa”.
Trên mạng và báo chí, Bill Gates đã nhiều lần kêu gọi các công ty khác nên tăng vốn đầu tư cho lĩnh vực nghiên cứu, khai thác phần mềm. Việc này không chỉ giúp chia sẻ thành quả nghiên cứu mà trong quá trình nghiên cứu còn có thể chia sẻ kinh nghiệm.
Hàng năm Microsoft đầu tư khoảng 3 tỷ USD cho nghiên cứu khai thác phần mềm mới. Mọi người luôn có ấn tượng mạnh với sự đầu tư lớn của ông. “Tại sao lại có công ty không tăng thêm đầu tư cho việc nghiên cứu? Nguyên nhân chính là họ không thấy được lợi nhuận trong thời gian ngắn. Do tính đặc thù của thị trường máy tính, làm trong nghề này phải có con mắt nhìn xa trông rộng”.
Ngoài đầu tư vào Microsoft, Bill Gates cũng nghiên cứu đầu tư lĩnh vực khác. Bước sang thế kỷ 21, sau khi Bill Gates rút lui khỏi vị trí Chủ tịch Hội đồng quản trị của Microsoft, trao vị trí đó cho Steven Ballmer, một mặt Bill Gates vẫn lên kế hoạch trong tương lai cho Microsoft, mặt khác tìm cách làm giàu cho mình thêm nữa. Lúc nào ông cũng muốn của cải của mình phải không ngừng tăng giá trị.
Động tác đầu tiên của ông chính là quay sang đầu tư vào lĩnh vực năng lượng. Năm 2005, ông bỏ ra 80 triệu USD để mua 5,52 triệu cổ phần ưu đãi của một công ty lương thực chuyên sản xuất alcohol –
cồn. Khoản đầu tư lớn của Bill Gates đã thôi thúc công ty này hạ quyết tâm đưa cổ phiếu ra thị trường. Trước đó họ vẫn do dự có nên đưa cổ phiếu ra thị trường hay không. Động tác này của Bill Gates đã khiến mọi người chú ý, một số chuyên gia về rủi ro đầu tư cho rằng, dầu là một loại năng lượng không tái sinh được, nên tương lai sẽ không sáng sủa, còn alcohol – cồn, thứ thay thế cho dầu lại có tương lai rất hấp dẫn, đầu tư vào lĩnh vực này là một sự lựa chọn sáng suốt. Xét tình hình năng lượng trên thế giới cho thấy, giá dầu thế giới tăng nhanh mà không giảm, năm 2007, giá dầu thế giới lần đầu tiên tăng đến ngưỡng 100 USD/thùng. Như vậy chắc chắn là sau này mọi người sẽ sử dụng alcohol – cồn thay thế cho dầu.
Cũng có người nói rằng, việc Bill Gates đầu tư vào công ty nhiên liệu sản xuất cồn này chỉ mang tính thăm dò. Nếu cồn có thể thay thế được dầu thì chắc chắn ông sẽ càng giàu hơn, nhưng nếu cồn không trở thành nguồn năng lượng chính thì 80 triệu USD đầu tư ấy chỉ là khoản tiền đầu tư “cho biết” mà thôi.
Bill Gates là người đàn ông không thích “an phận”, lúc nào ông cũng thấy hứng thú với những ngành nghề mới. Chẳng hạn, ông cũng muốn thử nghiệm một chút trong lĩnh vực người máy. Năm 2006, ông đầu tư quyên góp khai thác phần mềm người máy. Ông đã đánh giá về người máy như sau: “Người máy hiện đại cũng giống như máy tính mấy chục năm trước, tuy chưa được phổ cập đến từng nhà, nhưng đừng coi thường tương lai sáng sủa của nó. Microsoft muốn phát triển tương lai của người máy đến mức cao nhất”.
Vì số lượng khách hàng của Microsoft rất lớn nên lúc nào cũng phải giữ quan hệ ổn định với khách hàng. Mỗi khi có hướng đầu tư mới, Bill Gates luôn phải xem xét đến ý kiến đánh giá của khách hàng. Như vậy vừa có được những khách hàng thân thiết vừa mở rộng được mạng lưới khách hàng mới. Microsoft không ngừng phát triển đã đem đến cho chính bản thân Microsoft một sức sống mạnh mẽ, ngoài ra cũng khiến cho của cải của bản thân Bill Gates không ngừng nhân lên.
8.
CHỌN SẴN PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT
TRIỂN THÌ MỚI ĐI ĐẾN TƯƠNG LAI
Muốn sự nghiệp thành công trước hết phải biết chọn đúng hướng phát triển, tức là muốn làm cái gì. Chỉ khi nào chọn đúng hướng phát triển thì mới tiếp tục phát triển được. Nếu ngay từ đầu đã chọn sai phương hướng thì có làm tiếp sẽ càng sai mà thôi. Với từng công ty, chỉ cần chọn đúng hướng phát triển thì con đường sau này sẽ vô cùng thuận lợi.
Con đường đi đến thành công của Bill Gates luôn tỏa ra hào quang sáng chói nhưng mỗi khi được hỏi đến bí quyết thành công thì ông luôn nói: “Cả đời tôi chỉ làm một việc”.
Một việc mà ông nói ở đây chính là sự nghiệp phần mềm. Từ khi Microsoft mới thành lập, ông đã từng nói với các đồng nghiệp của mình rằng, chúng ta chỉ làm phần mềm. Con đường phần mềm của Bill Gates đã giúp mọi người nhìn thấy được giá trị của phần mềm, cũng chính phần mềm đã giúp ông có được sự nghiệp phi thường. Phần mềm chính là tương lai của Microsoft và cũng là tương lai của Bill Gates.
Trong quá trình phát triển Microsoft, Bill Gates luôn đặt trọng tâm phát triển vào mục tiêu khai thác phần mềm. Khi máy tính đã được phổ cập đến từng nhà thì giá trị cũng như thị trường phần mềm nhanh chóng được mở ra. Một lần nữa sự thực lại chứng minh Bill Gates đã lựa chọn rất sáng suốt.
Về việc khai thác sản phẩm, Microsoft luôn tự mình nghiên cứu, tự mình khai thác, tự làm chủ kỹ thuật, đây là cách để kỹ thuật hiện đại không ngừng vươn lên. Microsoft thực hiện quá trình này căn cứ vào những thông tin tổng hợp từ bộ phận chăm sóc khách hàng, trợ giúp kỹ thuật. Nói đơn giản là, Microsoft đã kết hợp tự mình nghiên cứu với thị trường.
Sau đó, Recharl Seamon vào làm tại Microsoft chuyên về nội dung khai thác phần mềm. Mới vào một thời gian nhưng ông đã nêu ra khái niệm “Xưởng phần mềm”. Đây là mô hình quản lý khai thác phần mềm, cách quản lý này rất quan tâm đến xu hướng của thị trường.
Ngày học tiến sĩ, ông chuyên nghiên cứu về vấn đề nâng cao sức
sản xuất của nhân viên lập trình. Vì vậy, trong thời gian làm tại Microsoft, vấn đề khai thác phần mềm luôn là vấn đề mang tính vô thời hạn. Do vậy, mỗi lúc gấp gáp, ông luôn gia hạn một thời gian nhất định để hoàn thành nhiệm vụ.
Trước kia, mỗi khi bộ phận nghiên cứu không hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian yêu cầu thì giám đốc bộ phận sẽ trưng dụng nhiều nhân viên lập trình đến cùng. Seamon thì không, ông cho rằng phần mềm không hoàn thành theo đúng thời hạn mà tăng thêm nhiều nhân viên lập trình thì sẽ làm tăng gánh nặng quản lý và giá thành của sản phẩm. Làm như vậy không thể giải quyết được vấn đề. Thế là ông đã đề ra một chức vụ mới, đó là Giám đốc lập trình. Giám đốc lập trình có nhiệm vụ quản lý thiết kế và quản lý phần mềm, đồng thời giám sát các nhân viên lập trình hoàn thành nhiệm vụ theo kế hoạch. Giám đốc lập trình có quyền quyết định về quản lý, thiết kế… nên tốc độ khai thác phần mềm nhanh hơn hẳn.
Để hoàn thiện lý luận này của mình, ông Seamon đã phân Giám đốc lập trình thành các cấp khác nhau, để tiến hành quản lý các cấp khác nhau. Người quản lý cao nhất đương nhiên là Bill Gates, đây là người phụ trách đề ra những mục tiêu lâu dài của Microsoft. Những nhân viên quản lý cốt cán sau Bill Gates được ông Seamon gọi là “kiến trúc sư”. Dưới cấp mỗi một vị kiến trúc sư này sẽ là một Giám đốc lập trình và vị trí thấp nhất là lập trình viên. Đương nhiên, trong quá trình khai thác phần mềm, không có chuyện tuân thủ suốt với một quy luật bất biến. Nhiều khi đòi hỏi nhân viên lập trình cũng như Giám đốc lập trình phải tự phát huy chủ quan của mình để xử lý vấn đề. Trong mô hình quản lý này, Microsoft cồng kềnh đã biến thành một đội ngũ khai thác rất có hiệu quả. Bill Gates đã trở thành nhân vật lãnh đạo hàng đầu của đội ngũ lập trình. Bill Gates rất giỏi kết hợp mục tiêu trước mắt với mục tiêu lâu dài và cũng rất linh hoạt trong việc thay đổi phương hướng phát triển của Microsoft. Chính vì vậy, Microsoft mới đứng vững và phát triển được như ngày hôm nay.
Thay đổi đầu tiên là từ hệ thống vận hành ổ đĩa DOS chuyển sang hệ thống vận hành Windows. Đầu những năm 80 của thế kỷ 20, Microsoft tập trung toàn bộ sức mạnh nghiên cứu hệ thống vận hành hình ảnh cho người sử dụng. Sau nhiều lần trì hoãn cũng như nhiều lần thất bại, phiên bản Windows 1.0 đã được đưa ra thị trường vào tháng 11/1985.
Sau đó, Microsoft đã chuyển dần một số phần mềm ứng dụng vào giao diện của hệ thống vận hành Windows. Không lâu sau, Microsoft đã thay thế được và vượt qua cả công ty Lotus để trở thành một công ty phần mềm danh tiếng trên thế giới. Tiếp đó, phiên bản Windows 2.0, Windows 3.0 liên tục ra đời, Windows trở thành phần mềm bán chạy nhất trong thời gian ấy. Cùng với việc phần mềm ứng dụng Windows bán chạy trên thị trường thì Word, Excel cũng trở thành những phần mềm ứng dụng được khách hàng mua nhiều nhất. Chính điều ấy đã đem về một khoản lợi nhuận khổng lồ cho Microsoft.
Lần thay đổi phương hướng thứ hai nhằm vào mạng Internet. “Thượng đế thống trị con người, còn tôi sẽ thống trị mạng Internet”, đây là câu nói nổi tiếng của Bill Gates.
Trong thời đại internet, mục tiêu hàng đầu để các nhà kinh doanh cạnh tranh chính là trình duyệt mạng. Đến nay chúng ta hay gặp trình duyệt mạng phổ biến nhất là Internet Explorer. Đây chính là trình duyệt mạng của Microsoft. Thoạt đầu, một công ty nhỏ đã gọi trình duyệt mạng là Internet Explorer. Nhưng sau đó do làm ăn thua lỗ, công ty đứng bên bờ vực phá sản. Khi đó, Microsoft đã ngắm trúng cái tên của trình duyệt mạng này nên quyết định trả giá rất cao để mua nó. Sau này cũng chính vì tên trình duyệt mạng này mà Microsoft đã bị kiện ra tòa.
Thời gian sau Bill Gates bận rộn với tranh chấp, kiện tụng và nghiên cứu khai thác Windows 98. Nếu tung Windows 98 ra thị trường thì tình hình sẽ rất có lợi cho Microsoft, vì Windows 98 vừa là một hệ thống vận hành, vừa là một trình duyệt mạng. Hai thứ kết hợp với nhau thì Microsoft sẽ chiếm thế thượng phong trong vụ kiện của Bộ Tư pháp Mỹ. Xét về hướng phát triển lâu dài thì điều này đã đánh dấu bước ngoặt của Microsoft đối với lĩnh vực Internet, đồng thời cho thấy Microsoft đã đạt được mục tiêu thống trị Internet.
Quá trình gây dựng sự nghiệp của Bill Gates cho thấy, ngắm đúng hướng phát triển, chọn đúng hướng đi chính là điều kiện cần thiết để giành được thành công.
CHƯƠNG III:
LẤY NHÂN LÀM GỐC, CHÚ TRỌNG
N
NHÂN TÀI
“gười tài là gốc rễ của một doanh nghiệp, không có người tài giỏi thì tất cả chỉ là nói suông. Vì vậy, mỗi một doanh nghiệp đều cần phải có những chính sách chú trọng nhân tài, lấy nhân tài làm gốc. Chỉ khi nào lấy nhân làm gốc thì mới
có sức ảnh hưởng lớn mạnh”.
1.
BIẾT SỬ DỤNG NHÂN TÀI SẼ THẮNG CẢ THIÊN HẠ
Nhân tài là hạt nhân của doanh nghiệp, cũng là nguồn của cải quý giá nhất của doanh nghiệp ấy, nhân tài giỏi giang cũng là nhân tố quyết định tương lai của doanh nghiệp. Vấn đề các nhà doanh nghiệp quan tâm hàng đầu là làm sao tuyển dụng được người tài, nhất là những doanh nghiệp chuyên về công nghệ cao, càng có nhiều người tài thì càng dễ thành công.
Những năm 80 của thế kỷ 20 cho thấy Microsoft đã có những phát triển đáng mừng. Để quản lý công ty tốt hơn, Microsoft đã bắt đầu thành lập những bộ phận chức năng chuyên trách. Thoạt đầu, những bộ phận ấy chưa có gì cụ thể, chỉ là Giám đốc các bộ phận tự định nghĩa tính chất công việc của nhân viên dưới quyền mình. Bộ phận quản lý nguồn nhân lực được thành lập vào thời gian ấy, nhiệm vụ chủ yếu của họ là tổ chức lựa chọn, tuyển dụng nhân viên.
Trước kia, Microsoft tổ chức đến tận trường Đại học tuyển nhân viên, tức là sẽ có người chịu trách nhiệm chuyên đi lựa chọn. Trước hết họ sẽ chọn ra những ứng cử viên để tham dự phỏng vấn từ những người xin việc, buổi phỏng vấn thường từ 4 đến 6 người. Sau đó, người quản lý bộ phận nhân sự sẽ trò chuyện với ứng cử viên tham
gia phỏng vấn, người đạt tiêu chuẩn sẽ được tuyển dụng. Quá trình phỏng vấn không có một công thức cố định mà rất linh hoạt. Câu hỏi được đưa ra khi phỏng vấn không bao giờ là cố định, cũng không có đáp án cố định, hoàn toàn dựa trên sự suy nghĩ và giải quyết của ứng cử viên.
Ví dụ, việc Microsoft muốn tuyển dụng nhân viên khai thác và đo thử. Trước hết, nhân viên khai thác của Microsoft sẽ đảm nhận trách nhiệm phỏng vấn với người dự tuyển, mà cách phỏng vấn này tương tự như phỏng vấn chuyên môn. Cũng như vậy, nhân viên đo thử của
Microsoft cũng sẽ phải chịu trách nhiệm phỏng vấn với người dự tuyển vào vị trí đo thử. Nội dung phỏng vấn sẽ liên quan đến những vấn đề chuyên nghiệp và cũng có một số vấn đề thông thường. Chẳng hạn như, tại sao nắp hố ga lại hình tròn? Đó là những câu hỏi thuộc diện thông thường mà Microsoft đề cập. Microsoft muốn biết cách suy nghĩ vấn đề của người dự tuyển ra sao, đáp án thế nào thường không quan trọng.
Vì đặc thù nghề nghiệp, Microsoft rất coi trọng đội ngũ nghiên cứu, khai thác. Điều đó cũng đúng, vì trong công ty phần mềm máy tính, nếu không có đội ngũ nghiên cứu, khai thác trình độ cao thì khó có thể nói đến chuyện phát triển của công ty. Trong đội ngũ nghiên cứu, khai thác thì vị trí của những người khai thác dữ liệu là quan trọng nhất. Nhân viên khai thác có nhiệm vụ lập trình. Những dữ liệu lập trình này sẽ quyết định trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm phần mềm. Do vậy, Microsoft luôn có những tiêu chuẩn khắt khe khi tuyển dụng những nhân viên khai thác. Theo phân tích, từ năm 1989 đến năm 1990, nhân viên khai thác của Microsoft ngoài lập trình còn có một nhiệm vụ quan trọng không kém là tổ chức tuyển dụng những nhân viên khai thác mới, trong đó thời gian tổ chức phỏng vấn chiếm khoảng 10% thời gian làm việc của họ. Các nhà quản lý của Microsoft đã đưa ra những quy định tỉ mỉ về việc phỏng vấn nhân viên khai thác nhằm hạn chế thời gian nhân viên khai thác sử dụng để phỏng vấn. Mỗi tuần được phỏng vấn từ 1 đến 2 người, thời gian phỏng vấn của mỗi người sẽ từ 1 đến 2 tiếng. Thông thường, trong buổi phỏng vấn tại trường học sẽ có hai nhân viên khai thác của Microsoft tiến hành phỏng vấn, nhưng đến Microsoft thì sẽ có từ 2 đến 3 Giám đốc bộ phận tiến hành phỏng vấn. Tại Microsoft, các nhân viên khai thác luôn tâm niệm, nhân viên khai thác giỏi là người sẽ lập được nhiều trình dữ liệu tuyệt hảo nhất vào sát thời hạn phải cho ra sản phẩm. Trong quá trình đó, nhân viên khai thác cần phải có tinh thần bền bỉ,
cố gắng. Trong cả quá trình marathon phỏng vấn của Microsoft, chỉ những nhân viên lập trình giỏi thực sự mới có thể vượt qua.
Để chọn ra những nhân viên đo thử trong quá trình phỏng vấn thì phức tạp hơn nhiều. Một nhân viên đo thử giỏi phải là một người theo chủ nghĩa “hoài nghi” và là một người “biết làm thực sự”. Đó phải là người luôn có thái độ hoài nghi với mỗi sản phẩm phần mềm mới khai thác và luôn luôn biết điều chỉnh các trình máy tính. Chỉ như vậy thì chất lượng của phần mềm mới được đảm bảo. Mặt khác, các nhân viên đo thử cần phải giỏi bảng biểu máy tính hơn nhân viên khai thác. Microsoft luôn có những bài sát hạch khó đối với nhân viên đo thử về bảng biểu. Microsoft đã sử dụng cách tuyển dụng nhân viên khắt khe để thu hút được nhiều người tài giỏi về mình, đó cũng là cách để Microsoft phát triển lớn mạnh.
Rất nhiều người đã bị rớt trong cuộc tuyển dụng nghiêm túc và lâu dài này của Microsoft. Microsoft sẽ mời 10 đến 15% người dự tuyển đến công ty mẹ để tham gia dự tuyển, cuối cùng họ chỉ tuyển dụng 10 đến 15% trong số những người trên. Vì vậy, tính ra Microsoft chỉ tuyển dụng 2 đến 3% số người tham gia dự tuyển.
Một vị Phó Tổng giám đốc của Microsoft đã từng nói: “Riêng về việc Microsoft tuyển dụng nhân sự, tôi không dám bảo đảm mình đã chọn được tất cả người tài, nhưng chắc chắn những người chúng tôi tuyển dụng đều là người xuất sắc. Chúng tôi vô cùng cảm phục trước tài năng và khả năng của họ”. Thực chất, quá trình phỏng vấn người dự tuyển lâu như vậy lại là một kiểu thử thách với những người mới, tuy nhiên khi cuộc phỏng vấn kết thúc không có nghĩa là thử thách đã kết thúc. Khi họ được tuyển dụng vào vị trí nào đó, một cuộc thử thách mới lại bắt đầu. Vì vậy mà những người việc tại Microsoft ai cũng đam mê công việc, thời gian nghỉ ngơi của họ rất ngắn. Có người đã miêu tả về những nhân viên làm việc tại Microsoft như sau: Sáng dậy sớm lái xe đi làm, đói bụng thì xuống dưới ăn chút gì đó lót dạ, sau đó quay về tiếp tục làm việc. Đến lúc thấy đói thực sự thì ăn trưa, làm việc một mạch đến tối mới lái xe về nhà. Chính vì vậy, người vào được Microsoft trước hết phải có tài năng, thứ hai là có niềm đam mê nghề nghiệp và có sức khỏe để chịu đựng được sức ép công việc trong thời gian dài. Microsoft đã sáng lập được hết kỳ tích này đến kỳ tích khác bởi những con người tài giỏi ấy.
Ngoài việc tuyển dụng nhân viên từ các trường, Microsoft còn
tuyển dụng nhân sự với mức lương cao ngất ngưởng từ những công ty khác và qua các công ty săn tìm nhân lực. Trong khi khai thác hệ thống vận hành Windows 3.0 đã xảy ra tình trạng, chỉ vì một vấn đề kỹ thuật khó không xử lý được mà đã làm lỡ cả tiến trình khai thác hệ thống. Vì việc đó Bill Gates đã quyết định tuyển dụng một số người giỏi kỹ thuật về làm. Chẳng mấy chốc, công ty săn tìm nhân lực đã gửi đến mấy bản danh sách và Bill Gates chấm một nhân viên rất giỏi về phần mềm. Ông quyết định đích thân đi gặp kỹ sư phần mềm này. Nhưng ông không ngờ người này lại châm chọc ông là: “Tôi chưa thấy có một hệ thống vận hành nào tồi tệ hơn hệ thống vận hành của Microsoft”.
“Chính vì chúng tôi còn nhiều thiếu sót nên chúng tôi mới đến mời anh cộng tác”, Bill Gates không hề tức giận, ngược lại còn tươi cười đáp lại. Khi ấy hệ thống thao tác của Microsoft vẫn chưa nổi tiếng trên thị trường, vì vậy, vị kỹ sư phần mềm mới nói những lời như vậy.
Vị kỹ sư phần mềm nghe Bill Gates nói xong thì vô cùng xúc động, ông nhận lời về làm cho Microsoft. Chính vị kỹ sư này đã khắc phục được những khó khăn đó của Microsoft, một thời gian sau, hệ thống thao tác Windows 3.0 được tung ra thị trường.
Microsoft có quan niệm dùng người của riêng mình, đó chính là tìm mọi cách để có được những người tài giỏi nhất, đồng thời luôn đi sâu khảo sát tố chất tổng hợp của người dự tuyển, khuyến khích họ phát huy hết tiềm năng sẵn có của mình. Chính vì có những nhân tài ưu tú, Bill Gates đã hoàn thành giấc mơ trở thành người đứng đầu thị trường phần mềm thế giới.
2.
TÌM KIẾM ĐỐI TÁC HỢP TÁC TỐT NHẤT
Sự thành công của Bill Gates không thể tách rời những đối tác của ông. Những đối tác chính là cánh tay đắc lực của Bill Gates. Họ đã giúp Bill Gates vượt qua những lúc khó khăn nhất. Có thể nói rằng, tìm được đối tác tốt là điều vô cùng quan trọng.
Bill Gates gây dựng sự nghiệp, thành lập Microsoft từ hai bàn tay trắng. Không những thế, ông còn đưa Microsoft trở thành một trong 500 tập đoàn, doanh nghiệp mạnh nhất thế giới. Microsoft thành công cũng chính là Bill Gates thành công. Ông “làm mưa làm gió” trên thị trường phần mềm máy tính là nhờ có hai đối tác tuyệt vời nhất.
Tục ngữ nói quả không sai: “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Trong thành công của Bill Gates có những đóng góp không nhỏ của những người bạn đối tác của ông. Việc Bill Gates có thể xưng bá trong ngành phần mềm tin học, không thể không kể đến công lao của hai người bạn đối tác trung thành của ông.
Bill Gates là một nhà quản lí tài ba, ông rất biết cách dùng người. Trong sự nghiệp của mình, ông cùng hợp tác với Paul Allen gây dựng nên một Microsoft lớn mạnh. Sau đó lại cùng hợp tác với bạn học của mình là Steve Balmer, khi đó, Microsoft đã trở thành ngọn cờ đầu trong ngành công nghiệp phần mềm máy tính
Tháng 1 năm 2000, Bill Gates nghỉ hưu, Steve Balmer trở thành Chủ tịch của Microsoft. Điều này cũng đánh dấu sự chuyển đổi của Microsoft từ thời đại của Bill Gates sang thời đại của Steve Balmer.
Đối với rất nhiều người, Steve Balmer còn khá xa lạ. Ông gia nhập Microsoft từ năm 1980, cũng là giám đốc kinh doanh đầu tiên mà Bill Gates tuyển dụng. Steve Balmer làm việc rất nhiệt tình. Ông đồng thời cũng là nhà diễn thuyết và một ngôi sao về lĩnh vực marketing với tài năng bẩm sinh. Steve Balmer giữ vai trò chỉ đạo từ phía sau tại Microsoft, là trợ thủ đắc lực của Bill Gates. Tài năng lãnh đạo và sự nhiệt tình với công việc của ông khiến Bill Gates vô cùng hài lòng.
Balmer sinh ra và lớn lên ở Detroit, bố ông là người Thụy Sỹ, từng làm giám đốc công ty ô tô Ford. Ông tốt nghiệp Đại học Harvard, có bằng toán học và kinh tế học. Steve Balmer và Bill Gates biết nhau từ năm 1974. Khi đó, rạp chiếu phim của trường chiếu phim vào cuối tuần, Steve Balmer và Bill Gates đều xem bộ phim đó, bộ phim rất hay, sau khi kết thúc, cả hai không ngờ đều cất tiếng hát bài hát trong bộ phim.
Sau khi tốt nghiệp Harvard, với thành tích xuất sắc, Steve Balmer trúng tuyển vào Học viện Stanford. Khi đó, công ty P&G đã mời ông về làm giám đốc sản phẩm cho công ty, ông đành lùi thời gian
nhập học vào Stanford. Sau này, vào năm 1979, ông đã quay lại Stanford để hoàn thành việc học còn dang dở. Ngay năm đầu tiên quay trở lại Stanford, Steve Balmer đã nhận được 2 suất học bổng, mỗi suất trị giá 10.000 đô la, tin này nhanh chóng được truyền đi khắp Học viện Stanford. Đó cũng là lúc Microsoft đang chiêu mộ nhân tài, sau vài lần nói chuyện, Bill Gates đã thuyết phục được Steve Balmer lúc đó đang học tại Stanford về làm cho mình. Thế là Steve Balmer đã vào làm việc tại Microsoft với mức lương 50.000 đô la/năm. Từ đó, Steve Balmer bắt đầu sự nghiệp gần 30 năm tại Microsoft với tinh thần làm việc hết mình. Sự thành công của Microsoft cũng cho chúng ta thấy Steve Balmer quả là một nhà quản lí doanh nghiệp xuất sắc, ông đã mang lại sức sống vô tận cho Microsoft.
Từ sau khi trở thành Chủ tịch của Microsoft vào năm 1998, Steve Balmer chịu trách nhiệm quản lí toàn bộ Microsoft, ông bắt đầu tạo dựng lại công ty theo cách của mình, bao gồm cả việc thực hiện ước mơ của Microsoft, giấc mơ về một phần mềm ưu việt có thể cho phép con người có được khả năng giao lưu và sáng tạo bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu và thông qua bất cứ thiết bị nào. Đồng thời, ông còn có một kế hoạch vĩ đại hơn: kế hoạch kinh doanh lớn hơn, thu nhập nhiều hơn và giành nhiều sự ủng hộ về kỹ thuật hơn cho các khách hàng…
Bộ phận khai thác của Microsoft trước đây đã có một hướng đi sai lầm, đó là các nhân viên khai thác khi khai thác sản phẩm mới đã khai thác theo nhu cầu của sản phẩm mà xa rời nhu cầu của khách hàng. Steve Balmer đã làm thay đổi tình hình, đó cũng là sự khởi đầu cho nguyên tắc kinh doanh lấy khách hàng làm trung tâm của Microsoft. Bởi vậy, phương pháp làm việc của nhân viên Microsoft cũng có sự thay đổi, không còn theo phương pháp truyền thống ngồi làm việc trong văn phòng mà ra khỏi văn phòng đến gặp khách hàng, tìm hiểu nhu cầu thực tế của khách hàng. Steve Balmer thậm chí còn quy định số lần đến gặp khách hàng mỗi tháng của nhân viên.
Ngoài ra, để thể hiện được khái niệm lấy khách hàng làm trung tâm, phòng khai thác sản phẩm của Microsoft đã thực sự thay đổi, phí điện thoại khách hàng gọi tới được đưa vào báo cáo lỗ của phòng khai thác sản phẩm. Chính vì sản phẩm có vấn đề nên khách hàng mới gọi điện đến. Như vậy, phòng khai thác sản phẩm của Microsoft bắt buộc phải có sự thay đổi nhằm vào đối tượng khách hàng để đáp ứng nhu cầu của họ. Bởi vậy, bắt buộc phòng khai thác sản phẩm phải chịu
trách nhiệm đối với sản phẩm của mình.
Microsoft trải qua mấy năm thực hiện kế hoạch đa nguyên, thu nhập hàng năm đã tăng lên rất nhiều. Điều này có liên quan đến việc tạo ra các sản phẩm mới và sự gia tăng các khách hàng đơn lẻ của Microsoft. Tuy nhiên cũng có một số kế hoạch ảnh hưởng đến sự phát triển chủ đạo của công ty.
Ngoài ra, trong mắt những nhân viên Microsoft, Steve Balmer là một nhà kinh doanh chịu được vất vả, ông thường xuyên đến thăm khách hàng, lắng nghe cách nghĩ và ý kiến của khách hàng. Là Chủ tịch, Steve Balmer còn giỏi hơn Bill Gates, đặc biệt là đối với phòng khai thác sản phẩm, vì sản phẩm trực tiếp quyết định vận mệnh của công ty. Ông luôn đưa ra những vấn đề rất khó cho phòng khai thác sản phẩm, khiến nhân viên phòng khai thác sản phẩm phải không ngừng nghiên cứu để giải quyết vấn đề.
Hiện nay Microsoft có văn phòng chi nhánh tại hơn 60 quốc gia, số nhân viên trên toàn thế giới gần 44.000 người, thu nhập hàng năm đạt 22,9 tỉ đô la Mỹ. Rõ ràng, Steve Balmer đang quản lí một công ty giàu có nhất, thành công nhất trên thế giới. Việc Bill Gates giao lại Microsoft vào tay Steve Balmer có thể cho thấy sự tín nhiệm cao độ của ông đối với Steve Balmer. Steve Balmer cũng không để Bill Gates thất vọng, dưới sự lãnh đạo của Steve Balmer, Microsoft đang phát triển hướng đến một mục tiêu cao hơn.
Steve Balmer không những là đối tác của Bill Gates mà ông còn là người tiếp nhiệm của Microsoft, ông đón lấy “chiếc gậy tiếp sức” từ tay Bill Gates, tiến về phía mục tiêu tiếp theo.
3.
10 KIỂU NHÂN VIÊN XUẤT SẮC ĐƯỢC MICROSOFT ƯU ÁI
Những nhân viên xuất sắc luôn được các doanh nghiệp ưu ái, vậy những nhân viên như thế nào mới được coi là nhân viên xuất sắc? Chúng ta hãy thử xem những nhân viên xuất sắc trong mắt của Bill Gates như thế nào, qua đó sẽ có được câu trả lời.
Khi bạn đối diện với Bill Gates, có thể bạn sẽ hỏi ông làm thế nào để có thể trở thành một giám đốc thành công, chứ bạn sẽ không hỏi ông làm thế nào để trở thành một nhân viên xuất sắc. Đối với một công ty, những nhân viên xuất sắc cũng đóng những vai trò vô cùng quan trọng. Trong mắt của Bill Gates, những nhân viên giỏi cũng quan trọng như những giám đốc giỏi. Với kinh nghiệm quản lí kinh doanh Microsoft nhiều năm, Bill Gates cho rằng, những nhân viên có được những đặc điểm dưới đây đều có thể được coi là nhân viên xuất sắc:
1. Một nhân viên giỏi phải có hứng thú đối với sản phẩm của công ty, nhất là những nhân viên phòng khai thác sản phẩm. Chỉ khi hứng thú đối với sản phẩm của công ty thì nhân viên mới có được sự nhiệt tình và động lực trong công việc. Nhưng nhân viên đó không được quá tin tưởng vào sản phẩm, cho rằng sản phẩm của công ty mình luôn là sản phẩm tốt nhất, tiên tiến nhất, như vậy sẽ dễ rơi vào trạng thái tự trói chân mình, không cầu tiến, đó là một điều rất nguy hiểm.
2. Một nhân viên giỏi phải khiêm tốn, biết lắng nghe ý kiến của người khác, càng phải biết lắng nghe ý kiến của khách hàng, như vậy mới có thể không ngừng tiến bộ.
3. Phải chú trọng đến chi tiết, theo đuổi sự hoàn hảo. Rất nhiều việc mà một nhân viên làm trong một công ty đều là những “việc nhỏ”, bởi vậy, phải rèn luyện được thói quen chú trọng đến chi tiết. Nếu không chú trọng đến chi tiết thì khó có thể hoàn thành công việc một cách tốt nhất, mà chi tiết lại quyết định thành bại trong công việc.
4. Một nhân viên giỏi phải có một kế hoạch cho sự nghiệp của mình. Giống như một công ty phải có mục tiêu lâu dài, một nhân viên phải có một quy hoạch chi tiết cho cuộc đời mình, từ đó không ngừng nâng cao tố chất và năng lực của bản thân.
Kế hoạch cho sự nghiệp phải được đưa ra dựa trên sở thích, đặc điểm tính cách, khuynh hướng năng lực của bản thân và các kiến thức kỹ năng chuyên ngành mà bản thân đã học được, đồng thời phải cân nhắc đến các yếu tố ngoại cảnh, tổng hợp so sánh, cân nhắc nặng nhẹ, đặt mình vào vị trí có thể thể hiện được rõ nhất giá trị của bản thân. Ở Microsoft, những nhân viên có kế hoạch tốt cho sự nghiệp của mình càng dễ được lãnh đạo coi trọng.
5. Một nhân viên giỏi phải không ngừng học hỏi. Thời đại công nghệ, tốc độ thay đổi kiến thức và kỹ thuật ngày càng nhanh, chỉ không ngừng học hỏi mới có thể theo kịp được thời đại.
6. Một nhân viên giỏi phải có quan niệm đúng đắn về khách hàng. Lắng nghe ý kiến của khách hàng về sản phẩm của công ty, đồng thời phải dũng cảm đối mặt với những khiếm khuyết của sản phẩm. Ngoài ra, phải không ngừng tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, suy nghĩ xem làm cách nào để sản phẩm của công ty có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
7. Có thói quen tôn trọng nghề nghiệp. Tôn trọng nghề nghiệp tức là phải chịu trách nhiệm đối với công việc của mình, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải tôn trọng nghề nghiệp. Việc tôn trọng nghề nghiệp không liên quan đến tính chất công việc bạn đang làm, dù bạn làm công việc gì, chỉ cần có sự tôn trọng nghề nghiệp, bạn sẽ dễ dàng giành được thành công và có được sự chấp nhận của công ty.
8. Một nhân viên giỏi phải có khả năng phân tích vấn đề một cách độc lập, đối mặt với những vấn đề xuất hiện trong quá trình làm việc, phải nhạy bén, phát huy tính năng động chủ quan của mình. Nếu việc gì cũng phải xin ý kiến của cấp trên thì nhân viên sẽ chẳng bao giờ làm được việc gì.
Trong nội bộ, hiệu quả kinh doanh của công ty là do sự tích cực sáng tạo của toàn bộ nhân viên trong công ty, nếu việc gì nhân viên làm cũng cần phải có sự chỉ đạo của lãnh đạo thì không những không thể làm tốt công việc mà còn làm giảm hiệu suất công việc và chất lượng sản phẩm.
9. Một nhân viên giỏi luôn nhớ đến lợi ích của công ty. Trong công việc, dù làm bất cứ việc gì đều phải có ý thức về giá thành, cố gắng tránh những tổn thất và lãng phí không đáng có. Ngoài ra, còn phải giữ những bí mật của công ty.
Ở Microsoft, nhân viên khai thác phần mềm và nhân viên lập trình phải giữ được bí mật của Microsoft, trong công việc hàng ngày, họ có thể sẽ tiếp xúc với rất nhiều bí mật liên quan đến sự sống còn của Microsoft.
10. Một nhân viên tốt phải có đạo đức nghề nghiệp. Thành thật
và giữ chữ tín, phấn đấu trong công tác, đó đều là những việc mà một nhân viên ưu tú bắt buộc phải làm được.
10 kiểu nhân viên này cũng giống như 10 nguyên tắc, cũng là mục tiêu mà các doanh nghiệp theo đuổi, là những điều mà họ hy vọng nhân viên của mình đều có được.
4.
KHÔNG CÂU NỆ TIỂU TIẾT, MẠNH DẠN SỬ DỤNG NHÂN TÀI
Để có được những nhân tài thực sự, Bill Gates không câu nệ tiểu tiết, mạnh dạn sử dụng nhân tài. Ông có thể sử dụng những người có tì vết về một phương diện nào đó, có nhân viên có hành vi kỳ quái, nhưng lại là một thiên tài về máy tính, chính những người như thế sau này đã trở thành ngôi sao của Microsoft.
Đầu những năm 80 của thế kỷ 20, Microsoft giữ ưu thế tuyệt đối trên lĩnh vực hệ thống điều hành, không có đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên chính lúc đó, Bill Gates đưa ra một quyết định đáng kinh ngạc: tiến quân vào lĩnh vực phần mềm ứng dụng.
Xét về tình hình thực tế, Microsoft lúc đó có đủ năng lực để khai thác phần mềm ứng dụng, bởi Microsoft có một đội ngũ nhân viên đáng tin cậy. Tuy nhiên, Microsoft còn yếu về mặt marketing và dịch vụ hậu mãi.
Ban đầu, Microsoft cũng có phòng hậu mãi, nhưng đó chỉ là hình thức, nhân viên chỉ có hai người không thông thạo về phần mềm. Mỗi khi có khách hàng đến thắc mắc, họ chỉ biết trả lời một cách máy móc, rồi đưa cho khách hàng quyển sổ ý kiến để khách hàng viết. Lâu ngày, ý kiến của khách hàng viết kín mấy quyển sổ, chất đầy trên bàn làm việc, sổ chẳng có ai đọc nên ngoài bìa bám đầy bụi. Sau này, khi Gerry, quản lí phòng marketing của Microsoft lần đầu tiên bước vào phòng hậu mãi, ông đã vô cùng ngạc nhiên. Ông không ngờ công tác hậu mãi của một công ty hàng đầu thế giới như Microsoft lại tồi tệ đến thế.
Khi Microsoft định tiến quân vào lĩnh vực phần mềm ứng dụng mới phát hiện ra lực của mình quá mỏng về phương diện marketing và hậu mãi. Nếu hai lĩnh vực này không được cải thiện thì đừng nói là tiến quân vào lĩnh vực phần mềm ứng dụng, ngay cả lĩnh vực hàng đầu là hệ thống điều hành cũng khó giữ được vị trí như hiện nay. Để làm những việc đó, Microsoft phải tìm ra được một “nhân vật lãnh tụ” để đảm đương trọng trách quản lí mặt bán lẻ của Microsoft. Bill Gates đi khắp nơi tìm người. Người này phải hiểu các kiến thức về phần mềm máy tính đồng thời phải có kinh nghiệm trong kinh doanh.
Một thời gian dài sau đó, Bill Gates vẫn không tìm được người phù hợp, ông đành nhờ vào công ty tìm người. Rất nhanh, họ đã cung cấp cho ông vài hồ sơ của cấp quản lí cao trong các công ty lớn. Bill Gates xem qua một lượt hồ sơ của những người này, trong số đó Bill Gates đặc biệt chú ý đến Gerry. Ban đầu Gerry làm việc ở một công ty sản xuất socola nổi tiếng ở Mỹ, sau đó làm công việc kinh doanh tại một công ty máy tính, khi Bill Gates biết về Gerry thì ông này đang đảm nhiệm công việc giám sát kinh doanh ở công ty kỹ thuật Koala.
Bill Gates ngay lập tức quyết định giao cho Gerry trọng trách của Microsoft. Thế là Bill Gates đích thân đến nhà Gerry, sau vài lần thuyết phục, cuối cùng Gerry đã đồng ý đến làm việc ở Microsoft. Tháng 5 năm 1984, Gerry chính thức nhậm chức Phó Chủ tịch phụ trách kinh doanh. Với kinh nghiệm kinh doanh phong phú trong lĩnh vực bán lẻ và năng lực quản lí xuất sắc của Gerry, bộ phận kinh doanh và hậu mãi của Microsoft đã nhanh chóng được cải thiện.
Sau khi Gerry nhậm chức không lâu, Microsoft bắt đầu triển khai “kế hoạch đa nguyên”. Các sản phẩm của Microsoft lần lượt ra đời một cách nhanh chóng, nhưng lượng bán ra vẫn không được cao, so với công ty đối thủ là Lotus thì tỏ ra kém ưu thế rõ rệt. Để giành được vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực phần mềm ứng dụng, Bill Gates bắt tay vào điều chỉnh lại thị trường phần mềm ứng dụng. Bởi vậy, Bill Gates rất cần sự ủng hộ mạnh mẽ của bộ phận kinh doanh và hậu mãi.
Ban đầu, trong nội bộ Microsoft không có nhiều người biết cách kiểm soát thị trường bán lẻ, khi phần mềm ứng dụng của Microsoft được khai thác và đưa ra thị trường đã nhanh chóng rơi vào tình trạng ế ẩm. Để làm thay đổi tình hình, Microsoft cũng đã thử nhiều cách nhưng đều không có tác dụng, nguyên nhân chính là do Microsoft không có một đội ngũ hậu mãi có thực lực. Sau khi nhậm
chức được vài ngày, Gerry đã nhanh chóng tìm ra nguyên nhân căn bệnh.
“Đối với một công ty lớn, nhất là công ty Microsoft, cần phải có một đội ngũ hậu mãi chuyên nghiệp để giúp đỡ và giải quyết các vấn đề khó khăn cho khách hàng, cung cấp cho khách hàng một dịch vụ toàn diện và chu đáo”. Gerry nói với Bill Gates một cách thẳng thắn. Thế là Gerry bắt tay vào chỉnh đốn đội ngũ kinh doanh và hậu mãi của Microsoft.
Trong thời khắc quan trọng, Bill Gates đã mạnh dạn dùng nhân tài. Microsoft từ đó không những đánh bại được đối thủ cạnh tranh mà còn chiếm vị trí bá chủ trên thị trường phần mềm ứng dụng.
Trong lĩnh vực khai thác sản phẩm, Bill Gates lại càng chú trọng đến việc lựa chọn nhân tài. Nhân viên khai thác sản phẩm quyết định trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm, bởi vậy, nhân viên khai thác sản phẩm cũng quyết định bộ mặt của doanh nghiệp.
Ở giai đoạn đầu khi mới thành lập, Bill Gates có những tiêu chuẩn rất nghiêm khắc trong việc tuyển dụng nhân viên khai thác sản phẩm, đầu tiên đó phải là người thông minh, có lòng nhiệt tình, quan trọng nhất là phải yêu thích ngành phần mềm. Sự thông minh mà Bill Gates muốn nói đến là năng lực cao trong lĩnh vực phân tích và giải quyết vấn đề, đặc biệt là trong lĩnh vực máy tính. Mà những nhân viên vào được Microsoft thì đều là những người vô cùng ưu tú, trong số những người đến dự tuyển vào phòng khai thác sản phẩm, chỉ có 10% trong số 10% những người đứng đầu được lọt vào vòng trong, tức là chỉ có tỉ lệ là 1%. Trong số những người dự tuyển vào Microsoft, có người khả năng xã giao kém, có người có vẻ ngoài kỳ quái, nhưng họ tinh thông lập trình. Những người này có thể bị các công ty khác từ chối nhưng ở Microsoft, những người đó lại có thể trở thành những người nổi tiếng được mọi người chú ý.
Không câu nệ tiểu tiết, mạnh dạn sử dụng nhân tài, đó là phương châm dùng người của Bill Gates, thông qua phương pháp đó, ông đã thu được những nhân tài xuất sắc. Cũng chính các nhân tài này đã giúp Bill Gates có được sự huy hoàng như ngày nay.
5.
MỘT DOANH NGHIỆP THÀNH ĐẠT KHÔNG THỂ THIẾU ĐƯỢC CÁC NHÂN TÀI XUẤT CHÚNG
Sự thành công của Microsoft phải kể đến công lao của một đội ngũ nhân tài xuất chúng, họ là những người đã giúp Microsoft có được vị trí dẫn đầu trong ngành phần mềm, Microsoft cũng trở thành một đại bản doanh tập trung những anh tài nổi tiếng trên thế giới. Hiện nay, Microsoft vẫn luôn chiêu mộ các nhân tài trong lĩnh vực kỹ thuật cao, không ngừng làm lớn mạnh thêm đội ngũ nhân tài của Microsoft.
Những nhân tài xuất sắc là tương lai của các doanh nghiệp. Câu nói này không bao giờ là lỗi thời. Trong các hội nghị cấp cao của Microsoft, Bill Gates đã rất nhiều lần đề cập đến vấn đề này. Trong một lần nói chuyện với bạn bè, Bill Gates từng nói đùa rằng: “Microsoft là gì, Microsoft chính là những nhân viên ưu tú mà tôi và ban lãnh đạo thu nạp được, mỗi người họ đều là thiên tài”. Bill Gates cho rằng, tiến bộ của xã hội là kết tinh của trí tuệ và sức sáng tạo của con người, trong đó những “thiên tài” có cống hiến nhiều nhất. Bởi vậy, Bill Gates rất coi trọng việc thu nạp nhân tài vào Microsoft bởi rất có thể chính một người nào đó sẽ đem lại những đột phá mới lớn hơn cho Microsoft.
Có một câu chuyện ngụ ngôn liên quan đến Bill Gates như thế này: Thượng đế cho Bill Gates đi trên một con thuyền nhỏ trên biển, đồng hành với ông còn có một người giàu có và một thiên tài máy tính. Khi họ rời bến, đột nhiên có gió lốc, con thuyền nhỏ đối mặt với nguy cơ bị lật thuyền. Thượng đế nói với Bill Gates: “Con chỉ có thể lựa chọn một người đồng hành với con trong số hai người kia, nếu không con thuyền sẽ bị lật, con sẽ chọn ai? Bill Gates đã không do dự chọn ngay thiên tài máy tính.
Câu chuyện ngụ ngôn này đã thể hiện rất rõ một điều, nhân tài xuất chúng mới là thứ của cải quý giá. Vào năm 1992, Bill Gates đã nói: “Microsoft có thể không có số tài sản khổng lồ nhưng không thể không có những nhân tài xuất chúng, nếu mang đi những nhân tài
xuất sắc của công ty chúng tôi thì Microsoft sẽ trở thành một công ty bình thường chẳng có gì đặc biệt”.
Trong lịch sử phát triển mấy chục năm của Microsoft, số nhân viên từ 2 người tăng lên đến hơn 70.000 người, tuyển dụng nhân viên là một mắt xích mà Bill Gates vô cùng coi trọng và vẫn luôn là một mắt xích quan trọng. Microsoft phát triển đến ngày hôm nay, mỗi năm Bill Gates đều nhận được mười mấy vạn lá thư xin việc, những lá thư này được gửi đến từ khắp nơi trên thế giới, họ đều là những người có sở trường trong một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực nào đó. Dưới con mắt của những người bình thường chúng ta, Microsoft về mặt nhân tài đã không thể còn gì để kén chọn, nhưng Bill Gates vẫn cho rằng, Microsoft vẫn mất đi một số nhân tài, bởi vì những nhân tài này không quan tâm đến Microsoft.
Chúng ta đã nghe thấy rất nhiều huyền thoại về quá trình lập nghiệp của Bill Gates, nhưng khi bạn nghe thấy những câu chuyện về việc tìm kiếm nhân tài của Bill Gates, bạn sẽ thấy, người giàu nhất thế giới này là khao khát nhân tài. Theo những người làm việc bên cạnh Bill Gates cho hay, bất cứ người nào trên thế giới, chỉ cần Bill Gates coi trọng thì sẽ không tiếc bất cứ giá nào để có thể đưa được người đó về Microsoft. Đối với những nhân tài này, Bill Gates cũng sẽ sắp xếp để phỏng vấn họ, tất nhiên những cuộc phỏng vấn đó chủ yếu mang tính chất hình thức, Bill Gates muốn thông qua đó thể hiện thái độ tích cực của mình đối với sự xuất hiện của họ. Thung lũng Silicon ở bang California là căn cứ địa của ngành công nghiệp điện tử quan trọng của Mỹ, cũng là khu tập trung công nghiệp điện tử nổi tiếng nhất trên thế giới. Ở đây, ngọa hổ tàng long, tập trung rất nhiều những nhân tài chuyên ngành máy tính, có người thậm chí còn là người có quyền uy trong ngành phần mềm máy tính. Trong một lần tình cờ, Bill Gates đã gặp hai thiên tài máy tính – Jim Gray và Gordon Bell. Nội dung mà hai thiên tài máy tính này đang nghiên cứu lại chính là thứ mà Microsoft đang cần. Sau này Bill Gates đã dùng mọi cách, cuối cùng cũng thuyết phục được hai người này về làm cho Microsoft. Tuy nhiên hai người họ lại không thích thời tiết ẩm ướt của mùa đông ở Redmond, Bill Gates nói: “Không khó, các anh có thể ở lại làm việc ở thung lũng Silicon, chúng tôi sẽ xây dựng một trung tâm nghiên cứu riêng ở đây”.
Đó là hai người may mắn, vì đa phần những ứng cử viên đều phải đối mặt với những chọn lựa chặt chẽ và nghiêm ngặt, bởi Microsoft
chỉ tuyển dụng số người ít hơn số thực tế họ cần, ví du,ï họ cần 3 nhân viên khai thác sản phẩm thì chỉ lấy hai người xuất sắc nhất. Từ đó có thể thấy, Microsoft dưới sự lãnh đạo của Bill Gates luôn luôn khao khát tìm được nhân tài.
Cùng với sự phát triển của thời đại, những nhân tài đa tài càng ngày càng được trọng dụng. Họ không những phải có kỹ thuật chuyên môn cao mà còn phải biết quản lí kinh doanh. Phương hướng phát triển của các doanh nghiệp hiện đại ngày càng thiên về chuyên môn hóa và quy mô hóa, điều này yêu cầu các doanh nghiệp phải có những nhân tài kỹ thuật và kinh doanh có tố chất cao. Nếu một doanh nghiệp chỉ có nhân tài về kỹ thuật mà không có nhân tài về mặt kinh doanh thì khó có thể phát triển được.
Để nhân tài của Microsoft đáp ứng được nhu cầu phát triển của Microsoft, Bill Gates trước sau luôn kiên trì một nguyên tắc, để những nhân viên vừa có kỹ thuật chuyên môn cao vừa hiểu về quản lí kinh doanh nắm các vị trí lãnh đạo. Đồng thời, Microsoft cũng có những thay đổi về mặt lựa chọn người mới, coi trọng những người vừa có kiến thức chuyên môn lại có những hiểu biết sâu rộng về mặt quản lí kinh doanh. Về mặt lí thuyết, những nguyên tắc này không phải do Microsoft phát minh ra nhưng Microsoft đã vận dụng rất tốt những nguyên tắc đó, thậm chí tạo được ảnh hưởng sâu sắc đối với cả ngành phần mềm máy tính. Vào thời đó, chỉ có Microsoft nắm được những kỹ thuật tiên tiến, đồng thời chuyển hóa những kỹ thuật đó thành số tài sản khổng lồ.
Đối với tầng lớp lãnh đạo, ngoài những yêu cầu trên, Bill Gates còn yêu cầu họ có một tinh thần trách nhiệm cao. Đầu tiên, họ phải coi Microsoft là sự nghiệp của chính bản thân họ, nhiệt tình với việc khai thác phần mềm. Thứ hai, họ phải luôn luôn quan tâm đến toàn bộ quá trình từ khi bắt đầu đến khi kết thúc của sản phẩm phần mềm, quan tâm đến từng chi tiết. Trong công việc hàng ngày, họ phải giỏi tư duy vấn đề trên tất cả các phương diện có thể nghĩ đến, cũng phải cân nhắc đến những vấn đề có liên quan một cách kịp thời, đồng thời nhanh chóng tìm ra cách giải quyết.
Thành công của Microsoft không thể tách rời những nhân tài ưu tú, chính là họ đã tạo ra kỳ tích của Microsoft.
6.
TỰ TẠO RA QUAN ĐIỂM DÙNG NGƯỜI, LÀM MỘT NHÀ QUẢN LÝ CHUYÊN NGHIỆP
Microsoft có mấy trăm nghìn nhân viên, muốn quản lí tốt một đội ngũ lớn như vậy không phải là một chuyện dễ dàng. Bill Gates đã không hổ danh là một nhà quản lí chuyên nghiệp hoàn hảo.
“Nghi nhân bất dụng, dụng nhân bất nghi”, “Tri nhân thiện dụng”, đó đều là những đạo dùng người của người xưa. Những đạo dùng người này cũng được thể hiện khá rõ nét ở Microsoft. Bởi vậy, ở Microsoft, các nhân viên đều có thể phát huy hết năng lực của mình, được đặt đúng chỗ.
Đầu những năm 80 của thế kỷ 20, Microsoft đã chiếm lĩnh thị trường hệ điều hành của máy tính cá nhân, đồng thời quyết định tiến công vào lĩnh vực phần mềm ứng dụng. Bill Gates quyết định đưa Microsoft từ con đường phát triển đơn nhất là khai thác phần mềm điều hành, chuyển sang con đường phát triển đa nguyên là vừa khai thác phần mềm điều hành, vừa khai thác phần mềm ứng dụng. Cùng với xu thế của thị trường phần mềm ứng dụng, Bill Gates gặp phải một vấn đề rắc rối, đó là vấn đề marketing. Để bổ sung vào chỗ thiếu hụt, Bill Gates đi khắp nơi để tìm kiếm nhân tài. Cuối cùng, cũng mời được Roland Hansen về làm cho công ty Microsoft. Bill Gates giao cho ông ta chức Phó Chủ tịch phụ trách kinh doanh, phụ trách quảng cáo, tiêu thụ và dịch vụ cho các sản phẩm của Microsoft.
Ronald Hanson khi nhậm chức đã nói lên cách nhìn của mình về kinh doanh: sức mạnh của thương hiệu là vô tận. Ronald Hanson cho rằng, muốn giành được khách hàng thì sức hấp dẫn nằm ở thương hiệu; khi khai thác thị trường, thương hiệu là sức chiến đấu. Thương hiệu không phải dựa trên sự tin tưởng vào xuất thân, cũng không phải là mãi mãi, chỉ có thể dựa vào chính bản thân doanh nghiệp để tạo ra thương hiệu cho chính mình, khiến thương hiệu của mình trở nên nổi tiếng, như vậy, sau khi đưa sản phẩm ra thị trường, dựa vào tiếng tăm của thương hiệu, sản phẩm của doanh nghiệp mới dễ dàng có được chỗ đứng. Từ đó về sau, trong đầu óc của nhân viên
Microsoft mới có khái niệm về thương hiệu, nhân viên Microsoft mới bắt đầu hành trình gây dựng thương hiệu đầy gian khổ. Microsoft đã có được sự cải thiện đáng kể về mặt thiết kế sản phẩm cũng như dịch vụ hậu mãi. Microsoft cũng bắt đầu in thương hiệu của mình lên trên bao bì sản phẩm.
Cùng với quy mô sản xuất ngày càng lớn, thị phần thị trường của Microsoft cũng không ngừng mở rộng, đứng vững trên thị trường nước ngoài. Chính vào lúc đó, Phó Chủ tịch đời đầu tiên của Microsoft dường như đã không còn phù hợp với nhu cầu phát triển của Microsoft bởi các phương pháp quản lí mà ông áp dụng đều là những phương pháp cũ, không phù hợp với tình hình phát triển thực tế của Microsoft. Ông chủ động xin từ chức.
Để nhanh chóng có người thay thế, Bill Gates đã phải vắt óc để suy nghĩ. Sau cùng, Bill Gates nghĩ đến Sherry - Chủ tịch công ty máy tính Tandy. Vì Sherry và Bill Gates là bạn cũ nên Bill Gates chủ động mời ông về giữ chức Phó Chủ tịch Microsoft. Ngoài ra, ông còn thay nhà cung cấp văn phòng phẩm của công ty, cắt giảm 10% phí văn phòng. Microsoft dưới sự quản lí có hiệu quả của Sherry bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh chóng.
Năm 1983, Microsoft bắt đầu khai thác hệ thống điều hành Windows, đồng thời tuyên bố sẽ đưa ra thị trường vào cuối năm 1984. Nhưng đến tháng 9 năm 1984, hệ điều hành Windows vẫn chưa có, Sherry bắt đầu phải đối mặt với áp lực dư luận trong và ngoài Microsoft. Đối mặt với những lời chỉ trích, Sherry tiến hành điều tra một cách kỹ lưỡng, ông nhanh chóng phát hiện ra căn nguyên của vấn đề, hóa ra sự quản lí ở nhóm hạng mục Windows rất hỗn loạn. Sherry đã áp dụng các biện pháp xử lí quyết đoán, chia nhóm Windows ra thành mấy nhóm nhỏ, chỉ định người phụ trách từng nhóm. Về phương diện khai thác hệ thống Windows, Sherry đưa ra rất nhiều sự ủng hộ, đồng thời tăng cường nhân viên khai thác. Còn ông và Bill Gates thì tập trung nghiên cứu khung tổng thể của Windows.
Với những cách giải quyết của Sherry, tốc độ khai thác hệ thống điều hành Windows đã có được sự cải thiện. Tài lãnh đạo xuất sắc của Sherry khiến Bill Gates vô cùng hài lòng. Rất nhanh, Windows 1.0 được đưa ra thị trường, tiếp theo là Windows 3.0. Từ đó, hệ thống Windows đã lan rộng khắp toàn cầu.
Chính quan điểm dùng người độc đáo của Bill Gates đã đưa Microsoft dần dần có được sự phát triển lớn mạnh. Nói đến việc dùng người, chúng ta nghĩ đến việc quản lí. Quản lí như thế nào, làm thế nào để trở thành một nhà quản lí chuyên nghiệp, đó là vấn đề mà đại bộ phận những người quản lí đang theo đuổi.
Sự thành công của Microsoft không thể thiếu phương thức quản lí độc đáo của Bill Gates. Rất nhiều công ty trong quá trình phát triển đều có thể gặp phải những vấn đề về quản lý. Microsoft không gặp phải vấn đề tương tự vì trong nội bộ Microsoft, tầng lớp lãnh đạo vừa có kiến thức chuyên môn sâu rộng lại vừa có tài quản lí xuất sắc, họ có thể nhanh chóng thay đổi phương hướng phát triển của sản phẩm.
Ở Microsoft, việc lựa chọn nhân viên kỹ thuật để đưa vào tầng lớp quản lí đều có những tiêu chuẩn và tiền đề nghiêm ngặt. Tiền đề là có trình độ kỹ thuật hơn người, có sở trường. Tiêu chuẩn là có khí chất lãnh đạo. Một trong những mục tiêu để cất nhắc nhân viên kỹ thuật lên làm quản lí là khuyến khích họ tiếp tục phát huy tác dụng dẫn dắt trong lĩnh vực kỹ thuật. Bởi vì tầng lớp lãnh đạo của Microsoft cũng làm công việc thiết kế phần mềm, bởi vậy, họ cũng có những kỹ thuật siêu việt, nếu không sẽ không thể có được sự chấp nhận của những nhân viên khác trong công ty. Trong đội ngũ của Microsoft, chức càng cao, trình độ càng cao, tài năng lãnh đạo càng cao.
Bill Gates từng nói: “Có công ty sắp xếp người theo công việc, công ty thành lập một tổ hạng mục mới, rồi tuyển dụng người phụ trách tổ hạng mục này. Nhưng ở Microsoft thì không như thế, một người nhân viên bình thường nếu có thành tích xuất sắc thì Microsoft sẽ cấp cho anh ta một đội ngũ để anh ta tự làm”.
Một nhà doanh nghiệp thành công cũng là một nhà quản lí thành công, trước tiên phải làm một nhà quản lí chuyên nghiệp, như thế mới có thể phát triển doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh.
7.
KHAI THÁC TÍNH NĂNG ĐỘNG CỦA NHÂN VIÊN
Tiềm năng của mỗi nhân viên là vô hạn, người quản lí phải biết cách phát hiện, kích thích tiềm năng của họ, khai thác tính năng động chủ quan của nhân viên để mỗi nhân viên đều có thể phát huy được hết trình độ thực sự của họ, từ đó tạo thêm nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Trong đội ngũ nhân viên khai thác sản phẩm ở Microsoft, nhân viên khai thác do quá bận rộn với công việc nên rất ít khi đọc sách kỹ thuật liên quan đến lĩnh vực phần mềm máy tính, bởi vậy, kênh thông tin của họ quá hạn hẹp, khiến Microsoft bỏ lỡ mất nhiều cơ hội tốt.
Để thay đổi tình hình, Bill Gates đã cố gắng rất nhiều. Đối với nhân viên của Microsoft, Bill Gates rất hiểu họ, họ đều là những người rất xuất sắc, đương nhiên không thích bị người khác sắp đặt, nhưng họ cũng thích được chỉ dẫn để làm việc. Thế là, Bill Gates luôn cho nhân viên quyền chủ động, để họ tự tìm kiếm phương pháp giải quyết mà họ thích, chứ không phải làm những câu mệnh lệnh như: “Anh phải như thế này”, “anh phải như thế kia”… Sau khi cho công nhân toàn quyền chủ động, họ sẽ cố gắng hết sức mình để hoàn thành công việc được giao phó, kết quả đạt được có thể vượt ngoài dự tính của bạn, họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ một cách vô cùng hoàn hảo. Ngoài ra, tầng lớp lãnh đạo của Microsoft cũng đề ra một loạt những quy định mới để tránh sự trùng lặp trong công việc giữa các tổ nhóm, tiết kiệm được rất nhiều thời gian và sức lực cho nhân viên.
Ở thời kỳ đầu của Microsoft, Bill Gates hàng ngày đều viết lại một lượt các ký hiệu code của các sản phẩm mới, như vậy ông có thể nắm được từng sản phẩm của công ty. Cùng với sự phát triển của Microsoft, Bill Gates không còn thời gian để viết ký hiệu code. Ông liền đưa ra một quy định về trình tự quản lí. Về trình tự khai thác, mỗi công việc đều có những sự phân công nghiêm ngặt. Tuy nhiên, có một ngoại lệ là công việc của giám đốc chương trình và nhân viên không tách biệt hoàn toàn với nhau, bởi nếu tách biệt hoàn toàn thì sẽ không thể quản lí một cách có hiệu quả được.
Do nhân viên khai thác hàng ngày đều chỉ làm một công việc đơn điệu nên họ không thích việc viết lách, càng không thích các cuộc họp dài lê thê. Để người quản lí có thể kịp thời nắm bắt được tiến trình công việc của nhân viên khai thác, Bill Gates đã lập ra một vị trí, đó là nhân viên quản lí chương trình. Nhân viên quản lí chương trình hàng ngày phải phối hợp công tác với nhân viên khai thác, giúp nhân viên
khai thác giải quyết các vấn đề nằm ngoài lĩnh vực kỹ thuật. Ngoài ra còn phải báo cáo tình hình công việc của nhân viên khai thác lên ban quản lí. Như vậy sẽ liên kết được công việc của nhân viên khai thác với công ty một cách có hiệu quả.
Ở các công ty máy tính khác thường có một bộ phận độc lập, họ chủ yếu phụ trách việc miêu tả và thiết kế chức năng của sản phẩm phần mềm, còn ở Microsoft lại không có bộ phận này. Bill Gates nói: “Microsoft không có bộ phận này, giám đốc chương trình cũng không hoàn toàn mang nghĩa là người thiết kế chức năng phần mềm, công việc của họ là phải quán triệt từ đầu đến cuối công tác khai thác phần mềm. Ngoài ra, đối với Microsoft, trong quá trình khai thác phần mềm, chức năng của phần mềm cũng thay đổi cùng với sự mở rộng không ngừng của chương trình phần mềm, trong quá trình này, những nhân viên khai thác ưu tú rất được trọng dụng”.
Ở Microsoft, khai thác tính chủ động chủ quan của nhân viên tức là phải tận dụng được hết khả năng của nhân viên, sử dụng nhân tài đúng chỗ, dựa vào đặc điểm và sở trường của họ để sắp xếp họ vào những vị trí phù hợp. Bill Gates nói với nhân viên của ông rằng: “Tôi hy vọng mỗi người trong số các anh đều có được không gian để phát triển”.
Ngay từ khi nhân viên bước vào Microsoft, Bill Gates và các trợ lí của ông đã bắt đầu tìm kiếm tài năng của mỗi một nhân viên, đương nhiên tài năng của mỗi nhân viên đều khác nhau, nhưng nếu tập trung những thiên tài này vào cùng một chỗ thì đó là một tài sản vô cùng lớn của Microsoft. Là người lãnh đạo Microsoft, nhiệm vụ của Bill Gates là để cho những thiên tài này phát huy được hết tác dụng của mình.
Sau khi Bill Gates phát hiện ra tài năng của nhân viên, ông sẽ dựa vào tình hình của bản thân nhân viên đó để sắp xếp công việc, nhiệm vụ phù hợp cho người đó, những nhiệm vụ đó đều có tính thách thức nhất định, đối với những nhân viên này, cần phải có sự dũng cảm mới có thể đảm nhận được những nhiệm vụ này, đồng thời đây cũng là cơ hội tốt nhất để thể hiện giá trị của bản thân. Bởi vậy, đa số nhân viên đều sẽ chấp nhận những nhiệm vụ này, tiềm năng của nhân viên sẽ được bộc lộ trong những tình huống này.
Những nhân viên vào được Microsoft đều là những nhân viên vô
cùng xuất sắc, Bill Gates hiểu rất rõ điều này, bởi vậy, trong công việc hàng ngày, Bill Gates đã khiến cho nhân viên của mình phát huy được tính chủ động và tính năng động của họ. Trong quá trình này, tầng lớp lãnh đạo của Microsoft càng dễ dàng phát hiện được những ngôi sao thực sự trong đội ngũ nhân viên của mình.
Rick Belluzzo từng giữ chức COO ở Microsoft, khi Microsoft tiến quân vào lĩnh vực tìm kiếm thông tin, do sự thể hiện xuất sắc của mình, ông đã được tầng lớp lãnh đạo của Microsoft thừa nhận. Ban đầu, Belluzzo làm việc tại công ty Silicon Graphics. Công ty Silicon Graphics là một công ty xuyên quốc gia sản xuất hệ thống máy tính có tính năng cao, một sản phẩm của nó cũng đang cạnh tranh thị phần với Microsoft, tuy nhiên vẫn không đánh bại được Microsoft, sau này Belluzzo gia nhập Microsoft, Bill Gates để ông phụ trách mở rộng MSN. Belluzzo cũng không để Bill Gates thất vọng, với mô hình linh hoạt của Microsoft, Belluzzo đã thể hiện được tài năng của mình, trong một thời gian ngắn đưa MSN bên bờ nguy cơ thụt lùi chuyển sang hướng đi lên, số lượng người dùng MSN cố định lên đến con số hơn trăm triệu, độc chiếm một phần thị trường dịch vụ tìm kiếm trên toàn cầu, đặt nền tảng vững chắc cho sự phát triển sau này của Microsoft.
Trong chiến dịch MSN, Belluzzo đã giành được tình cảm của ban lãnh đạo Microsoft, đường hoàng bước vào vị trí trong ban lãnh đạo Microsoft, bởi vậy, đặt người phù hợp vào vị trí thích hợp càng dễ dàng phát huy được tính năng động chủ quan của người đó.
Cơ chế làm việc ở Microsoft rất linh hoạt, tạo điều kiện cho nhân viên có cơ hội thể hiện được giá trị của bản thân, còn Microsoft cũng có được sự phát triển không ngừng.
8.
MÔI TRƯỜNG LÀM VIỆC ĐƯỢC NHÂN TÍNH HÓA
Môi trường có thể ảnh hưởng đến tình cảm của con người, một môi trường làm việc tốt có thể khiến cho mỗi nhân viên đều cảm thấy thoải mái, giúp nâng cao hiệu suất làm việc của nhân viên, là một nhà
quản lí doanh nghiệp, không thể coi nhẹ môi trường làm việc của nhân viên.
Microsoft có văn hóa doanh nghiệp mang phong cách riêng, nhân viên của Microsoft có thể phát huy được hết tài năng, bộc lộ được cá tính của mình. Bill Gates và tầng lớp lãnh đạo của Microsoft bằng phương pháp quản lí độc đáo của mình đã tạo cho Microsoft một văn hóa doanh nghiệp có bản sắc riêng. Trong một doanh nghiệp, nếu muốn nhân viên chú tâm vào công việc thì môi trường làm việc là rất quan trọng. Là một doanh nghiệp nằm trong số 500 doanh nghiệp mạnh nhất thế giới, Microsoft cũng hiểu rất rõ điểm này.
Cùng với quy mô không ngừng mở rộng của Microsoft, tòa nhà văn phòng ở Seattle đã trở nên rất chật chội, để nhân viên công ty có được một môi trường làm việc rộng rãi và thoải mái hơn, ban lãnh đạo Microsoft quyết định rời khối văn phòng ra ngoại thành. Ở đây, Bill Gates mua một mảnh đất 1100m2, xây dựng mấy tòa nhà văn phòng mới, xung quanh là rừng rậm, chẳng khác gì một pháo đài.
Cùng với sự phát triển của Microsoft, các thiết bị sinh hoạt của khối văn phòng Microsoft cũng dần được cải thiện. Khi mới thành lập, các kỹ sư lập trình đều miệt mài làm việc. Một hôm, một kỹ sư tên Paul phải làm thêm, đến trưa anh cảm thấy khát, liền hỏi trợ lí có
Pepsi Cola không, người trợ lí vội vàng đi mua mấy lon. Nhưng khi vừa mua về đến nơi, mấy người kỹ sư ở bên cùng giành lấy uống hết. Sau khi Bill Gates biết được chuyện này, Microsoft đã đưa ra chế độ miễn phí đồ uống cho nhân viên. Ngoài ra, bên trong tòa nhà văn phòng của Microsoft còn có cửa hàng bán đồ ăn nhanh phục vụ 24/24.
Sân bóng đá, bóng chuyền mở cửa miễn phí cho tất cả nhân viên. Khi có người hỏi Bill Gates về linh cảm thiết kế, ông nói: “Trong số các nhân viên của chúng tôi, phần lớn là tầng lớp thanh niên, phải đáp ứng nhu cầu vận động của họ, ở vùng ngoại ô xa xôi này, chúng tôi sẽ khiến cho mỗi nhân viên đều cảm thấy thật thoải mái”.
Trong văn phòng Microsoft, mỗi một nhân viên đều cảm thấy rất ấm áp và thoải mái. Bill Gates và tầng lớp lãnh đạo Microsoft đều rất tinh tế trong việc sắp xếp môi trường làm việc khiến mỗi nhân viên đều có được một môi trường làm việc thoải mái, thậm chí còn mời kiến trúc sư về nội thất gia đình đến để thiết kế văn phòng làm việc.
Ở Mỹ rất thịnh hành kiểu văn phòng tập thể rộng, nhưng ở Microsoft thì khác. Ở Microsoft, mỗi nhân viên đều có không gian riêng. Bởi vậy, bạn sẽ phát hiện ra rằng, Microsoft có rất nhiều phòng làm việc, gần như mỗi một nhân viên đều có phòng làm việc riêng, những văn phòng này thể hiện một cách nghĩ tự do và thoáng, khiến mỗi nhân viên đều cảm thấy có thể thể hiện được cá tính của mình, các nhân viên được phép tùy ý bố trí văn phòng của mình, đặt một chậu hoa, đặt một bể cá… Ở đây, văn phòng là của bạn chứ không phải là của công ty, bạn muốn làm gì thì làm.
Ở Microsoft, diện tích văn phòng của Chủ tịch và các lãnh đạo cao cấp cũng bằng với diện tích văn phòng của các nhân viên khác. Ngoài ra, dù chức vụ cao hay thấp, các đồ dùng trong văn phòng đều được bố trí như nhau, đều được đặt làm từ một công ty đồ gia dụng.
Khi xây khu văn phòng, cân nhắc đến thời tiết của Redmond, Microsoft thiết kế mỗi văn phòng đều có cửa sổ, ai cũng được hít thở không khí trong lành và ánh sáng mặt trời. Ngoài ra, những lúc rảnh rỗi, nhân viên còn có thể ngắm nhìn phong cảnh bên ngoài.
Ngoài không gian làm việc, chế độ làm việc linh hoạt cũng thể hiện được tinh thần bao dung mở cửa của Microsoft. Ở Microsoft, bạn không thể nhìn thấy những tốp nhân viên đến văn phòng làm việc, vì Microsoft không quy định giờ làm việc cụ thể cho nhân viên, thời gian làm việc hoàn toàn được tự do quyết định tùy vào tình hình công việc thực tế của mình. Cấp lãnh đạo của Microsoft chủ yếu cân nhắc đến vấn đề mỗi người ở mỗi khoảng thời gian khác nhau thì có hiệu suất làm việc khác nhau, có người thích làm việc vào ban ngày, có người lại thích làm việc vào buổi tối. Bởi vậy, khi một nhân viên này đến làm việc thì có thể nhân viên khác đã hết giờ làm.
Bill Gates còn phát hiện ra rằng, trong nội bộ Microsoft, càng là nhân viên lập trình giỏi thì lại càng xuề xòa về mặt cuộc sống. Ví dụ: có nhân viên lập trình thích đi dép lê, hoặc nhai kẹo cao su trong khi làm việc, những điều này ở các công ty khác là không được phép, nhưng Bill Gates lại khuyến khích sự tự do làm việc. Đặc thù của lập trình viên là trong môi trường thoải mái tùy ý thì họ càng dễ tạo ra được những chương trình hoàn hảo. Ngoài ra, nếu nhân viên có suy nghĩ và ý kiến sáng tạo hay đều có thể tự mình tiến hành thử nghiệm, cấp trên cũng sẽ không ngăn cản người đó, chỉ cần hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian quy định, không ai quy định cách làm việc và
chương trình làm việc của bạn. Chính không khí tự do đó đã khiến cho rất nhiều thanh niên có tài chấp nhận đầu quân vào Microsoft.
Về mặt văn phòng phẩm, Microsoft cũng chuẩn bị cho nhân viên rất đầy đủ. Việc quản lí văn phòng phẩm ở các công ty khác có thể rất nghiêm ngặt, còn ở Microsoft, mỗi bộ phận đều có một phòng kho riêng, trong đó chứa các loại văn phòng phẩm, bút máy, giấy viết thư, sổ ký, kẹp file… Nếu nhân viên cần, chỉ cần nói với nhân viên quản lí kho là được, không cần phải thông qua sự đồng ý hoặc chữ ký của cấp trên. Microsoft làm như vậy để tiết kiệm thời gian của nhân viên và giá thành quản lí, quan trọng nhất là khiến nhân viên có cảm giác được tín nhiệm.
Một môi trường làm việc tốt có thể tạo ra một hiệu suất làm việc vô cùng cao, môi trường công việc tốt có thể thu hút được nhân tài, lưu giữ được nhân tài. Một doanh nghiệp ưu tú đương nhiên phải có một môi trường làm việc tốt.
9.
NÂNG CAO CHẾ ĐỘ PHÚC LỢI CHO NHÂN VIÊN
Chế độ phúc lợi là điều kiện đầu tiên của mỗi nhân viên khi lựa chọn công việc. Chế độ đãi ngộ tốt không những có thể thu hút được những nhân tài xuất sắc mà còn có thể giữ được những nhân tài ưu tú nhất; chế độ đãi ngộ tốt không những đem lại cảm giác an toàn cho nhân viên mà còn có thể khiến nhân viên coi công ty như chính ngôi nhà của mình.
Trong một doanh nghiệp, nếu mỗi nhân viên đều quan tâm đến sự phát triển của doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó nhất định thành công. Có một thời kỳ, báo nội bộ công ty Microsoft có đăng một bức thư ngỏ của một nhà quản lí cấp trung gửi đến tất cả các nhân viên trong công ty. Trong thư viết: “Các đồng nghiệp thân mến, các bạn rất vĩ đại, chính các bạn đã tạo ra Microsoft, Thượng đế sẽ tự hào về các bạn. Tuy nhiên, chúng ta phải từ bỏ suy nghĩ cho rằng mình là đúng để xem xem người khác làm như thế nào. Chúng ta đang làm việc ở một công ty hạng nhất, vậy cách làm của chúng ta cũng phải là hạng
nhất. Khi bạn đi một vòng đến tất cả các văn phòng, bạn sẽ phát hiện có người thì làm việc nghiêm túc, có văn phòng lại vô cùng hỗn loạn. Chúng tôi bố trí cho mỗi nhân viên một phòng làm việc, mục đích là
để chúng ta có được một không gian tự do, độc lập, nhưng không phải để chúng ta muốn làm gì thì làm. Là một thành viên của Microsoft, mỗi nhân viên đều cần có một tư duy nghiêm túc, công việc mà chúng ta làm cần phải tuân theo những quy tắc và thứ tự. Những tản mạn của cuộc sống cũng có thể được đưa vào trong công việc. Bởi vậy, mỗi một thành viên của Microsoft đều cần xem xét lại hành vi của mình để làm một nhân viên Microsoft văn minh. Đôi khi Bill Gates cũng phát hiện ra những lỗ hổng trong việc quản lí Microsoft, tuy nhiên, ông không bắt tay vào giải quyết vấn đề ngay mà trước tiên ông để nhân viên tự quản lí để kiểm tra xem nhân viên đó có thích Microsoft hay không, có quan tâm đến những phương pháp hay của Microsoft hay không. Bức thư ngỏ ở trên đã nói rõ về vấn đề đó. Mà muốn nhân viên quan tâm đến doanh nghiệp, vấn đề đãi ngộ phúc lợi là rất quan trọng. Sau khi Microsoft lên sàn giao dịch, cổ phiếu đã trở thành một cách tốt nhất để nâng cao đãi ngộ đối với nhân viên.
Bill Gates cho rằng, cổ phiếu không chỉ nâng cao đãi ngộ phúc lợi cho nhân viên mà điều quan trọng hơn là còn có thể duy trì sự đoàn kết chặt chẽ của Microsoft. Khi mỗi nhân viên của Microsoft đều có cổ phần, họ đã trở thành cổ đông của Microsoft, cũng là chủ nhân của Microsoft, như vậy, nhân viên sẽ dốc hết sức để làm việc, bởi vì họ đều biết rằng họ làm việc là vì chính bản thân họ.
Ở Microsoft, nhân viên có thể có cổ phần của công ty, những nhân viên bình thường khi mua cổ phiếu sẽ được hưởng chế độ ưu đãi, nhân viên thuộc tầng lớp quản lí khi mua cổ phiếu sẽ nhận được sự ưu đãi ở mức cao hơn, nhân viên cũ của Microsoft vẫn có quyền mua bán cổ phiếu. Cổ phiếu của Microsoft đã tạo ra một số triệu phú mới với số tài sản lên tới cả trăm triệu đô la. Có lẽ cũng vì sự đãi ngộ tốt của Microsoft, rất nhiều người đã đến làm việc tại Microsoft. Từ khi Microsoft lên sàn, thu nhập của nhân viên Microsoft đã có sự thay đổi rất lớn, trước đây chỉ dựa vào tiền lương, giờ lương chỉ chiếm một phần nhỏ, lợi ích thu được từ cổ phiếu chiếm phần lớn. Có cổ phiếu, nhân viên Microsoft càng quan tâm hơn đến Microsoft và tương lai của công ty. Bill Gates cũng từng nói rằng, nhân viên nắm giữ cổ phiếu, ở một mức độ nào đó, cũng là một công cụ để duy trì sự đoàn kết chặt chẽ của Microsoft.
Chế độ khen thưởng ở Microsoft được phân ra rất nhiều hình thức, có thưởng tiền, thưởng cổ phiếu… Trong đó, nhân viên trong công ty thích nhất là được thưởng cổ phiếu. Lương của nhân viên ở Microsoft là cố định, tiền làm thêm giờ ngày càng ít, nhưng giá cổ phiếu của Microsoft thì luôn tăng cao, điều này khiến mỗi nhân viên trong công ty đều khao khát được mua cổ phiếu công ty. Trong nội bộ công ty quy định, những nhân viên làm việc liên tục 3 năm tại Microsoft sẽ được quyền mua 25% cổ phiếu trong số cổ phiếu được phép mua, thêm một năm nữa thì sẽ được mua thêm 12,5% trong số đó nữa, ngoài ra, cứ cách hai năm công ty lại phát hành quyền mua cổ phiếu mới, nhân viên mới, nhân viên cũ đều có thể tiếp tục được mua.
Thực ra, thu nhập của nhân viên Microsoft cao cũng có liên quan đến tỉ lệ nắm giữ cổ phiếu của họ, tỉ lệ đó cụ thể là bao nhiêu người ngoài rất ít khi được biết. Trên thực tế, khi cổ phiếu công ty tăng giá cao sẽ đem lại lợi ích trực tiếp cho một bộ phận nhân viên. Bởi vậy, có rất nhiều nhân viên Microsoft trở nên giàu có nhờ nắm giữ được cổ phiếu của công ty, biện pháp đoàn kết nhân viên Microsoft này rất có hiệu quả. Tuy nhiên, công ty không bao giờ đưa ra sự đảm bảo: “Thị trường cổ phiếu có rủi ro, khi tham gia phải thận trọng”, đó là câu nói rất thích hợp với Microsoft. Công ty chỉ thông báo về mức giá và lợi nhuận chứ không nhắc gì đến hai từ rủi ro. Sau khi những người đến xin việc thấy mức lương thấp ở Microsoft, việc mua bán cổ phiếu khó dự đoán được thì lần lượt bỏ đi. Những giám đốc của Microsoft luôn tìm được cách để gọi những ứng cử viên có tiền đồ quay lại, khuyên họ hãy thử, thu nhập từ cổ phiếu của Microsoft có thể bù đắp lại mức lương thấp.
Dù vậy, đối với đa số những người đi xin việc, Microsoft vẫn có một sức thu hút khá mãnh liệt, bởi vậy, mỗi năm vẫn có rất nhiều người mới gia nhập Microsoft. Những người này sau khi vào làm việc tại Microsoft cũng có chút thất vọng bởi cơ hội giá cổ phiếu tăng cao đột biến không tái diễn. Khi mới lên sàn, Microsoft phát hành cổ phiếu nguyên thủy, giá là 1 đô la 1 cổ phiếu, sau này tăng gấp mấy lần, hiện nay đang có giá là hơn 30 đô la. Đương nhiên cũng có lúc giá cổ phiếu giảm, nhưng rồi lại nhanh chóng tăng. Bởi vậy, dù là nhân viên mới hay nhân viên cũ, họ không còn cảm thấy bị Microsoft bỏ rơi, họ bắt đầu trung thành với Microsoft.
Cổ phiếu của Microsoft mang lại lợi ích lớn cho nhân viên, việc đó
có tác dụng tạo ra sự đoàn kết, đồng thời cũng tạo ra không ít kỳ tích. Trong đội ngũ nhân viên đông đảo của Microsoft, tính riêng nhân viên khai thác phần mềm đã có tới mấy chục nghìn người, đa phần trong số họ đều có cổ phần của Microsoft, sau khi cổ phiếu lên sàn, trong chớp mắt đã tạo ra mấy nghìn triệu phú. Ở khu văn phòng của Microsoft, bạn có thể phát hiện ra một hiện tượng rất thú vị, hàng ngày có rất nhiều nhà triệu phú, tỉ phú ra vào tòa nhà văn phòng Microsoft, điều mà ở những nơi khác là rất hiếm khi gặp. Thực ra, những nhà triệu phú, tỉ phú đó hoàn toàn có thể xin nghỉ việc, dựa vào số tài sản của mình để làm ông chủ, nhưng họ không làm vậy, sự nhiệt tình và hứng thú ở đây đã lôi cuốn họ, họ hoàn toàn hòa nhập vào Microsoft.
10.
TƯ DUY THEO NHÓM
Sức mạnh của một người là hữu hạn, về mặt quyết sách cũng vậy. Trong rất nhiều quyết sách được đưa ra ở đế quốc Microsoft, kho tư tưởng của Microsoft đã phát huy tác dụng rất lớn, khiến Microsoft vững vàng trước những thay đổi trong thị trường đầy biến động.
Microsoft lớn mạnh được như ngày nay không thể thiếu được những kế hoạch hành động đúng đắn và những quy hoạch có mục tiêu lâu dài. Những kế hoạch đó đạt được nhờ vào kiệt tác kho tư tưởng của Microsoft mà Bill Gates là người lập ra.
Microsoft ban đầu là một công ty không tiếng tăm, nhân viên chỉ có vài người, một công ty như vậy thì không cần đến kho tư tưởng, dù có sai sót nhỏ trong quyết sách thì cũng có thể kịp thời điều chỉnh. Cái gọi là “thuyền nhỏ dễ quay đầu” chính là nói về đạo lí này. Nhưng khi Microsoft trở thành một doanh nghiệp trong top 500 doanh nghiệp mạnh nhất thế giới, số nhân viên lên tới mấy chục nghìn người thì tác dụng của kho tư tưởng đã được thể hiện rất rõ rệt. Một công ty lớn như vậy, nếu có sơ suất trong quyết sách, để thay đổi ngay phương án hành động không phải là một chuyện dễ dàng. Bởi vậy, để quyết sách của công ty hợp lí hơn, khoa học hơn, Bill Gates đã xây dựng nên kho tư tưởng cho Microsoft.
Kho tư tưởng của Microsoft bao gồm một số lượng lớn các nhà
chuyên môn trong các ngành khoa học, Bill Gates vận dụng trí tuệ và thiên tài của họ để đưa ra những đáp án hoàn hảo cho sự phát triển của Microsoft hoặc để tối ưu hóa phương án thực hiện sắp tới. Kho tư tưởng của Microsoft là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trên con đường phát triển của Microsoft. Nhiệm vụ chính của kho tư tưởng là cung cấp dịch vụ tư vấn cho tầng lớp lãnh đạo Microsoft, đưa ra mưu lược cho các nhà quyết sách. Đồng thời, các thành viên trong kho tư tưởng còn phải theo dõi điều tra phương án tiến hành của Microsoft, báo cáo lại kết quả thực hiện cho người quyết sách để kiểm tra hiệu quả của quyết sách. Khi Microsoft gặp khó khăn, kho tư tưởng căn cứ vào hiện trạng và nguyên nhân phát sinh vấn đề để đưa ra những cách giải quyết, đồng thời chọn ra phương án giải quyết tối ưu nhất trong số đó.
Kho tư tưởng của Microsoft có mười mấy thành viên, trong số họ có người là lãnh đạo cấp cao của Microsoft, có người là cốt cán kỹ thuật, cũng có người là trưởng phòng xuất sắc. Về độ tuổi cũng có khoảng cách khá lớn, tầng lớp lãnh đạo cấp cao của Microsoft có độ tuổi cao hơn, còn những cốt cán kỹ thuật lại rất trẻ. Thêm nữa, những công việc mà họ từng làm trước đây cũng không giống nhau, có người làm quản lí, có người làm kỹ thuật. Chính tổ chức này đã không ngừng đưa ra những mưu lược cho Microsoft.
Trong số các thành viên trong kho tư tưởng của Microsoft, Bill Gates coi trọng các cốt cán kỹ thuật hơn, bởi trong quá trình khai thác phần mềm hệ thống, những người này đã giải quyết được rất nhiều vấn đề trong quá trình khai thác phần mềm. Khi khai thác phần mềm hệ thống, Microsoft đã nhận thức được rất sâu sắc điểm này. Trong một lần tuyển dụng nhân tài, công ty chuyên tìm kiếm người đã cung cấp một số ứng cử viên phù hợp, trong số đó có một người khiến Bill Gates chú ý, đó chính là Charles Simonyi của công ty Xeros, ông cũng có tài năng thiên bẩm về máy tính như Bill Gates, cũng là trụ cột của công ty Xeros. Để khiến Charles Simonyi gia nhập Microsoft, Bill Gates đã phải đích thân ra mặt mấy lần, Charles Simon cuối cùng cũng đồng ý về Microsoft. Dưới sự lãnh đạo của Charles Simonyi, Microsoft bắt đầu nghiên cứu phần mềm Office, sự ra đời thành công của phần mềm Office không những thực hiện thành công kế hoạch đa nguyên của Microsoft mà còn mang lại thu nhập rất cao cho Microsoft. Đương nhiên, Charles Simonyi cũng trở thành một trong những thành viên của kho tư tưởng của Microsoft.
Paul trước đây là một người yêu thích máy tính, cũng giống những người yêu thích máy tính khác, ông say mê với những kỹ thuật máy tính. Sau đó, những người yêu thích máy tính cùng với Paul lập ra một câu lạc bộ máy tính, mọi người ai có phát hiện gì mới đều chia sẻ với mỗi thành viên trong câu lạc bộ. Nhưng câu lạc bộ này có một đặc điểm, các thành viên trong câu lạc bộ đều không hài lòng với sản phẩm của Microsoft. Sau khi Bill Gates nghe được thông tin này, cảm thấy vô cùng ngạc nhiên, ông đến câu lạc bộ máy tính, tìm gặp Paul, Bill Gates được mở rộng tầm mắt, muốn mời Paul gia nhập Microsoft. Paul dù không hài lòng với sản phẩm của Microsoft, nhưng thấy người lãnh đạo cao nhất của Microsoft đích thân đến mời mình gia nhập Microsoft thì thấy mình cũng được coi trọng, dù sao bản thân cũng chỉ là một người yêu thích máy tính. Sau khi Paul gia nhập Microsoft đã tìm mọi cách để cải tiến văn hóa doanh nghiệp của Microsoft. Dưới sự lãnh đạo của Paul, Microsoft bắt đầu khai thác phần mềm kho số liệu, phần mềm mới này đã mang lại sự phát triển mạnh mẽ cho Microsoft. Trong số các thành viên của kho tư tưởng Microsoft, tiếng nói của Paul rất có trọng lượng.
Nathan Myhrvold là Chủ tịch hành chính của Microsoft, cũng là người rất nổi tiếng, là học trò của Hawking, trước khi vào Microsoft đã nhận bằng tiến sĩ vật lí học. Là Chủ tịch hành chính của Microsoft đồng thời còn giữ nhiều chức vụ quan trọng khác, Nathan Myhrvold đã giúp Bill Gates giải quyết được rất nhiều vấn đề khó khăn. Với đội ngũ nhân viên đông đảo như của Microsoft, Nathan Myhrvold khuyên Bill Gates bỏ phương pháp quản lí doanh nghiệp theo cách truyền thống, đưa cách quản lí tiên tiến của IBM vào Microsoft. Không lâu sau, phương pháp quản lí này đã phát huy tác dụng. Điều này làm Bill Gates vô cùng ngạc nhiên, cũng khiến ông vô cùng vui mừng, ông không còn phải bận tâm đến việc quản lí đội ngũ nhân viên đông đảo, dành nhiều thời gian để chỉ đạo công việc khai thác sản phẩm mới.
Khi đọ sức với đối thủ cạnh tranh, ngoài việc phát huy ưu thế về mặt phát triển phần mềm, Microsoft càng coi trọng việc cạnh tranh thị phần. Microsoft có kho tư tưởng của mình, có nguồn lực kinh tế hùng hậu, những điểm này khiến đối thủ cạnh tranh phải e dè, điều này được thể hiện rất rõ trong việc cạnh tranh thị trường Browser.
Những năm 90 của thế kỷ 20, công ty Netscape Communications Corporation cũng muốn giành vị trí dẫn đầu trong thị trường Internet nên đã đưa ra Browser của mình là Nescape Navigator. Ngày 9 tháng
8 năm 1995, cổ phiếu của Nescape Communications Corporation lần đầu tiên lên sàn đã giành được thành công lớn. Sự phát triển nhanh chóng của Nescape Communications Corporation trên thị trường Browser khiến công ty nhanh chóng trở nên nổi tiếng, rất nhiều công ty bắt đầu ký hợp đồng với Nescape Communications Corporation. Khi đó, Thung lũng Silicon ở San Francisco, nghiệp vụ của Nescape Communications Corporation phát triển nhanh nhất, vụt trở thành một ngôi sao sáng. Rất nhanh, Nescape Communications Corporation giành được vị trí thống trị trên thị trường Browser, là một thách thức lớn đối với Microsoft trên thị trường Browser.
Áp lực của Nescape Communications Corporation khiến Microsoft nghẹt thở, để giành lại thị phần của mình trên thị trường Browser, Microsoft quyết định chỉnh đốn lại ưu thế của mình, tấn công Nescape Communications Corporation. Tác dụng của kho tư tưởng của Microsoft lúc này bắt đầu phát huy tác dụng rõ rệt. Rất nhiều thành viên của kho tư tưởng đều cho rằng, muốn đánh bại được Nescape Communications Corporation phải bỏ nhiều sức lực vào khai thác tính năng Browser của Microsoft, không ngừng nâng cao chức năng của Internet Explorer. Sau khi ý kiến của kho tư tưởng của Microsoft được thu nạp, Microsoft đã đầu tư hơn tỉ đô la vào dự án nghiên cứu, có đến gần 1000 nhân viên tham gia khai thác Internet Explorer phiên bản mới.
Rất nhanh, Internet Explorer phiên bản mới được đưa ra thị trường, vì Microsoft tập trung tất cả những cao thủ phần mềm nên về phương diện tính năng, Internet Explorer phiên bản mới là vô cùng hoàn hảo. Để mở rộng thị phần, Microsoft đã gắn liền phần mềm này với phần mềm điều hành của mình. Nescape Communications Corporation chỉ còn cạnh tranh với Microsoft về phương diện chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, Microsoft còn cung cấp dịch vụ download miễn phí trên website của mình và website MSN, điều này thì Nescape Communications Corporation không thể địch lại được. Năm 1998, Nescape Communications Corporation được America Online mua lại, dần dần rút khỏi thị trường Browser.
Trong trào lưu phát triển kinh tế, tính linh hoạt trong quyết sách và tốc độ phát triển của rất nhiều công ty khiến cơ chế một người lãnh đạo là rất khó, bởi vậy, việc tổ chức một kho tư tưởng xuất sắc là vô cùng cần thiết.