🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiến tranh nhìn từ nhiều phía Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Chiến tranh nhìn từ nhiều phía nhiều tác giả Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động Nguồn: http://vnthuquan.net Phát hành: Nguyễn Kim Vỹ. https://thuviensach.vn Mục lục Những ngày tháng Năm năm 2004 của tôi Văn chương về chiến tranh Việt Nam và nhu cầu sáng tạo bút pháp mới Giữa những lằn đạn, giữa những quê hương Người đi, thơ còn lại Phỏng vấn Nguyễn Thị Hoàng Bắc Tôi không nói tiếng Ma-rốc [khi trả lời phỏng vấn của Trần Văn Thuỷ] Gạo đắng Quên và nhớ: Người Việt trên thế giới, chúng ta là ai? Ai chiến thắng? Về việc tra tấn kẻ khác Ðọc sách: Death of a Generation: JFK đảo chính Ngô Ðình Diệm để rút quân Chiến tranh và bệnh vĩ cuồng Triển lãm At War Vụ Kiện William Joiner Center: Ai có quyền viết lịch sử một cộng đồng? Cựu chiến binh, nhà thơ Vụ Trại người Việt tại Pháp và vụ William Joiner Center tại Mỹ Thư gởi nhà văn Cao Xuân-Huy nhân đọc lại Tháng Ba Gãy Súng Lớn lên trong hoà bình Tản mạn về vụ kiện chất độc da cam và nhóm VietUnity Hòa hay chiến, và phản chiến Chiến Tranh, mắt nhắm mắt mở Trận Valmy của các dân tộc thuộc địa Sự thật tương đối của lịch sử - Đọc “Trăng huyết” của Anthony Grey và Nguyễn Ước Chung một Chiến Hào https://thuviensach.vn Vẫn còn đó vết thương cũ Sống và chết sau chiến tranh Việt Nam https://thuviensach.vn nhiều tác giả Chiến tranh nhìn từ nhiều phía Những ngày tháng Năm năm 2004 của tôi Phan Nhiên Hạo Anh Nguyễn Xuân Hoàng nhờ tôi viết mục Sổ Tay cho Văn số này. Tôi chưa bao giờ phụ trách mục gì cho bất cứ báo nào. Những bài tôi viết chỉ là những sáng tác “tự do": thơ, truyện, tùy bút, tiểu luận. Viết Sổ Tay thì phải đề cập ít nhiều đến nội dung của số báo sắp ra. Nhưng tôi không có trong tay ngay cả mục lục của số báo, và tôi chỉ có một đêm để viết cho kịp “deadline" mà anh Hoàng nhờ. Tôi gọi điện thoại, anh Hoàng nói: “Hạo muốn viết gì cứ viết, coi như một bài tùy bút". Vâng, đây chỉ là bài tùy bút của tôi, đăng vào mục Sổ Tay thế chỗ cho người chủ bút bận việc, không liên quan gì đến quan điểm của tạp chí Văn. Tôi nhận lời, nhưng chưa nghĩ ra sẽ viết về điều gì. Rồi tôi tự hỏi, sao không bắt đầu bằng chính những ý nghĩ của tôi về nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, người tôi vừa nói chuyện xong trên điện thoại. Tôi chưa bao giờ gặp mặt anh Nguyễn Xuân Hoàng. Thỉnh thoảng tôi liên lạc với anh qua email, gấp thì gọi điện thoại, nói dăm câu cần thiết, không bao giờ ra ngoài phạm vi công việc. Tôi không có cơ hội quen biết nhiều người làm văn nghệ ở đây, mặc dù tôi sống cách Little Saigon chỉ hai giờ lái xe. Không rõ vì sao, nhưng thật sự tôi hơi ngại gặp họ. Có thể vì cách biệt tuổi tác? Tôi nghĩ ở Mỹ, cái hố ngăn cách thế hệ rộng hơn ở Việt Nam. Một người lớn tuổi và một người trẻ ở Việt Nam chỉ cách biệt nhau về tuổi tác, kinh nghiệm. Nhưng cũng hai người đó, nếu sống ở Mỹ, ngoài những cách biệt về tuổi tác và kinh nghiệm, còn có những cách biệt về ngôn ngữ, về mức độ đậm nhạt văn hóa Việt-Mỹ, về mối liên hệ với quê hương, về quan điểm chính trị. Cái hố ngôn ngữ-văn hóa giữa các thế hệ người Việt ở đây rộng đến nỗi đôi khi trong cùng một nhà, cha mẹ con cái gần như không thể trò chuyện được với nhau. Tôi sang Mỹ khi đã lớn. Có nghĩa tôi rất “Mít". Nhưng thật tình, tôi vẫn thấy ngại khi phải tiếp xúc với những người làm văn nghệ thuộc thế hệ trước. Có thể một phần vì bản tính tôi https://thuviensach.vn không chủ động trong những quan hệ. Anh Nguyễn Xuân Hoàng là một trong hai người làm văn nghệ từ trước 1975 ở hải ngoại mà tôi quen. Người kia là anh Khánh Trường. Cả hai đều là những người tôi cảm thấy gần gũi khi tiếp xúc, dù với anh Hoàng, chỉ là những tiếp xúc qua thư từ, điện thoại. Người ta đang đề cao một thứ văn chương tách biệt khỏi nhân cách nhà văn. Tôi biết vậy. Nhưng riêng tôi, trong tư cách một người đọc, người làm thơ, tôi vẫn giành cho mình quyền được yêu mến “con người" các nhà văn qua tác phẩm. Tôi không tìm cách tranh cãi hay thuyết phục ai với quan niệm “lỗi thời" của tôi. Ðây chỉ là chuyện cá nhân. Ðọc Nguyễn Xuân Hoàng, bao giờ tôi cũng hình dung một nhân cách mẫn cảm, sâu sắc, và dịu dàng. Nguyễn Xuân Hoàng có lẽ thuộc vào số những người làm văn chương có khả năng đứng lùi ra khỏi văn chương để nhìn thấy cái chiều kích lớn hơn của đời sống. Anh làm văn chương nhưng không “sân si" vì văn chương, không quên rằng văn chương, xét cho cùng, chỉ là một trò nhảm trước cái chết. Ðây là mẫu nhà văn luôn ám ảnh tôi. Tôi đã lớn lên với tác phẩm của những nhà văn mà khi đọc họ, tôi nghĩ họ là những người bạn tinh tế. Ðọc Nguyễn Xuân Hoàng, tôi có cảm giác đó. Tôi cũng yêu mến Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiêm Mậu, Võ Ðình ,và Thường Quán qua văn chương trong một cung cách như vậy, mặc dù tôi chưa bao giờ gặp họ. Vừa rồi nhân dự một hội nghị ở Ðại Học UC Bekerley, tôi có gặp vài người Việt trẻ đang theo học tiến sĩ các ngành văn chương, xã hội học Ðông Nam Á. Trong số họ có người làm thơ tiếng Việt, có người viết truyện bằng tiếng Anh và đang tìm người dịch tác phẩm sang tiếng Việt. Những người này khiến tôi ít nhiều lạc quan về một lớp độc giả mới của văn chương hải ngoại, tuy không nhiều, nhưng là những người đọc giỏi, rất có kiến thức. Một cô trong số này, Quân Trần, đang có ý định nghiên cứu về văn chương miền Nam trước 1975. Các sách trước 1975 phần nhiều được in lại ở hải ngoại hoặc được sưu tập bởi thư viện các đại học lớn như Cornell. Nhưng các báo, tạp chí thì không được đầy đủ lắm, rải rác mỗi nơi một ít. Tạp chí Sáng Tạo hiện có ở thư viện Cornell, số 1 đến số 15 năm 1956-1957, số 16 đến số 27 năm 1958, số 1 đến số 7 năm 1961, và một số bản chụp https://thuviensach.vn microfilm. Báo chí rất quan trọng trong việc dựng lại bộ mặt văn chương một thời. Nó chứa nhiều sáng tác không được in thành sách của các tác giả, và quan trọng hơn, chứa nhiều tranh luận, điểm sách, tin văn nghệ mà không thể tìm ở nguồn tài liệu nào khác. Sách báo Việt Nam xuất bản không nhiều, lại còn bị chiến tranh tàn phá, bị hủy bỏ, ngăn cấm, nên những người trẻ giờ đây muốn nghiên cứu gì cũng gặp khó khăn về tài liệu. Ngay bây giờ, nếu ở Việt Nam, các thư viện bắt đầu kiểm kê, sưu tập lại sách báo trước 1975, hy vọng vẫn kịp. Ðể lâu hơn nữa, có thể chẳng còn gì. Lúc đó có tiền cũng vô ích. Nhắc đến văn chương miền Nam trước 1975, tôi nhớ lời Nguyễn Quốc Chánh nhân một buổi tối ngồi ở quán bia lề đường Sài Gòn cách đây gần hai năm. Chánh nói, “đời sống văn chương Sài Gòn trước 1975 thật đã, Hiện Sinh rắc một chút phấn vàng lên mọi thứ". Tôi phá lên cười, nhưng hiểu ý Chánh. Một người đọc nhiều, hiểu biết như Chánh thừa biết thời của Hiện Sinh đã qua; và ngay trong những ngày vàng son của nó ở Sài gòn, chắc cũng không ít trò sến. Ðiều mà Chánh muốn nói, tôi hiểu, là một không khí trí thức, một thái độ làm văn nghệ với ý thức về sự phi lý sau cùng của mọi sự để không quá cay cú, quá “ăn thua đủ" với văn chương. Tôi đã gặp Nguyễn Thị Hoàng. Một thời gian dài bà hay ngồi buổi tối ở quán bar của gia đình trên đường Lý Tự Trọng. Một người phụ nữ mà thời gian và những truân chuyên của đời sống dường như không chạm tới được. Bà hay ngồi một mình trong góc, quan sát cái đám đông ồn ào với đôi mắt thẳm sâu trong bóng tối. Lối nói chuyện nhát gừng của bà cũng hấp dẫn như cái huyền thoại văn chương mà bà tạo nên. Nếu tôi là người làm phim, tôi sẽ làm một cuốn phim tài liệu về những nhà văn Sài Gòn còn sót lại như Nguyễn Thị Hoàng, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Ðức Sơn, Trần Thị NgH., Huy Tưởng, Nguyễn Thụy Long... Họ là những nhân chứng vô giá của một thời văn học sáng giá. Họ đã luôn ở đó, Sài gòn, qua tất các biến động kinh hồn của một cuộc chuyển đời. Những người thuộc lớp hậu sinh như Chánh và tôi hay nghĩ về văn chương Sài Gòn trước 1975 với ít nhiều thi vị hóa. Về mặt tâm lý, có lẽ phần nào vì chúng tôi quá chán ngán với sự cục mịch của sinh hoạt văn chương hôm nay. Vụ “Trò Chuyện Với Hoa https://thuviensach.vn Thủy Tiên" của Nguyễn Huy Thiệp gần đây là một ví dụ. Không đâu vào đâu cả. Người khiêu khích thì thô, người tấn công thì phô. Trước đây, người ta “ngông" bằng triết học như Phạm Công Thiện, “điên" bằng thơ ca như Bùi Giáng. Có một sự dễ thương trí thức trong các hiện tượng văn nghệ “bất thường" đó. Còn bây giờ thì không, những sự “bất thường" hôm nay chỉ khiến chúng ta buồn nản vì vẻ thô lỗ thực dụng của nó. Nhắc đến Phạm Công Thiện, tôi chắc nhiều người cũng như tôi, khi mới lớn ít nhiều đều bị mê hoặc bởi các tác phẩm “triết học" của ông. Dĩ nhiên khi trưởng thành hơn một chút, tôi nhận ra những sách gọi là “triết học" của Phạm Công Thiện thật ra chỉ là những tác phẩm thơ ca. Chúng lộn xộn, đầy cảm tính, và không trình bày một vấn đề triết học nào đến đầu đến đuôi. Nhưng chúng làm ta say đắm vì sự mãnh liệt của cảm xúc, sự rực sáng của thông tuệ. Tác phẩm hay nhất của Phạm Công Thiện với tôi là tập thơ “Ngày Sinh Của Rắn". Mười bài thơ trong tập sách mỏng này thật tuyệt diệu. Tôi đã đọc đi đọc lại chúng trong những đêm lạnh một mình ở Seattle những ngày mới qua Mỹ. Tôi cũng vừa mới đọc bài viết đăng lại trên talawas của Phùng Hà Phủ kể chuyện bố ông, nhà thơ Phùng Cung. Tôi chưa đọc nhiều văn chương Phùng Cung. Nhưng việc người ta giam một nhà thơ 12 năm tù chỉ vì tư tưởng nghệ thuật của ông thì thật kinh hoàng. Tôi tự hỏi Phùng Cung đã nghĩ gì suốt 12 năm dài trong tù. Tôi tự hỏi gia đình ông, con cái ông đã trải qua những thiếu thốn, kỳ thị, lo sợ như thế nào suốt thời gian đó; và thơ ca nào, triết học nào có thể nâng đỡ con người trong nỗi đau khổ to lớn như vậy. Ðôi khi nhân danh nghệ thuật, chúng ta mang văn chương đi quá xa khỏi đời sống. Những số phận nghệ sĩ như Phùng Cung nhắc nhở chúng ta về sự phù phiếm của kiểu văn chương như vậy. Một sự phù phiếm đáng xấu hổ. Khi tôi đang viết những giòng này thì biết được tin về vụ chặt đầu Nick Berg, một thanh niên 26 tuổi người Mỹ làm việc ở Iraq. Những bức ảnh từ internet video cho thấy năm kẻ khủng bố bịt mặt đứng phía sau Nick, bị trói quặt tay sau lưng ngồi dưới đất. Một tên bịt mặt nắm tóc, kéo đầu người thanh niên về một bên, tên khác rút dao cắt cổ Nick trong khi anh đang https://thuviensach.vn hoàn toàn tỉnh táo. Xong, chúng giơ cao đầu người thanh niên trước ống kính máy quay. Kiểu xử tử Trung Cổ này chắc không phải xảy ra lần đầu trong lịch sử, điều khác biệt là giờ đây nó được truyền đi sống động qua internet đến hàng tỉ người trên thế giới. Sự đối lập giữa internet, cái “hình thức" văn minh thời đại công nghệ Hậu Hiện Ðại, với “nội dung" dã man Trung Cổ khiến ta choáng váng. Trong phút chốc, sự mâu thuẫn tột độ này như một bộc thuốc nổ giật sập hàng thế kỷ văn minh thành tro bụi. Trong phút chốc, nó khiến ta không còn thiết tha việc làm người. Ta chỉ muốn trả thù. Bài viết này bắt đầu với những ý nghĩ tốt đẹp về một nhà văn mà tôi yêu mến, kết thúc với hình ảnh đẫm máu của một vụ giết người mọi rợ. Giữa hai đoạn này là một chút văn chương. Ðây là những ngày tháng Năm năm 2004 của tôi. https://thuviensach.vn nhiều tác giả Chiến tranh nhìn từ nhiều phía Văn chương về chiến tranh Việt Nam và nhu cầu sáng tạo bút pháp mới Hoàng Ngọc Tuấn Chiến tranh Việt Nam, đặc biệt cuộc xung đột quân sự kể từ lúc Hoa Kỳ tham chiến, đã là một trong những đề tài quan trọng trong văn học Việt Nam và Hoa Kỳ đương đại. Trong lĩnh vực văn chương, đề tài "chiến tranh Việt Nam" đã làm sinh ra vô số tác phẩm. Tuy nhiên, thực trạng cho thấy mặc dù văn chương về chiến tranh Việt Nam cực kỳ phong phú về số lượng, chỉ có một số tác phẩm được xem là những thành tựu nghệ thuật. Tại sao vậy? Tim O Brien, một nhà văn Hoa Kỳ và là cựu quân nhân tham chiến tại Việt Nam, cho rằng tác giả của văn chương về chiến tranh Việt Nam chủ yếu là giới cựu quân nhân, và vì vậy họ dễ "bị cầm tù bởi những kinh nghiệm của chính bản thân họ. Hậu quả là sự đóng cửa của óc tưởng tượng, là tính khả đoán và giọng văn kể lể kiểu melodrama, là sự chật hẹp về đề tài và thái độ không chịu khai triển những khả thể hư cấu." [1] Thật vậy, chúng ta dễ dàng thấy đa số tác giả văn chương về chiến tranh Việt Nam sử dụng bút pháp hiện thực chủ nghĩa truyền thống với nỗ lực kể lại những hình ảnh, sự kiện, trạng huống, cảm nhận, mà chính họ đã trải qua. Dường như đa số tác giả hy vọng bút pháp ấy có khả năng truyền đạt trực tiếp đến độc giả những gì đã thực sự xảy ra và cần được kể lại. Tính hư cấu trong đa số tác phẩm này chỉ dừng lại ở những mảnh tưởng tượng hợp lý, được tạo ra như một chất keo để kết nối, hay một chất men để làm nổi bật các tình tiết rút ra từ chính kinh nghiệm cá nhân hay từ lời kể của đồng đội và quần chúng về cuộc chiến. Tóm lại, khi viết truyện về chiến tranh Việt Nam, đa số tác giả muốn độc giả lưu ý đến những sự kiện có thật được kể lại: sự kiện có ý nghĩa và khả tín chừng nào, thì truyện hay chừng đó. Theo J.T. Hansen, tất cả những nhà văn chiến tranh mà ông nghiên cứu đều chia sẻ quan điểm rằng tiêu chuẩn của văn chương chiến tranh là "sự trung thực" https://thuviensach.vn (authenticity), một sự trung thực dựa trên "kiến thức về chiến tranh mà họ đã kinh nghiệm". [2] Phần lớn tác giả xem nhẹ giá trị sáng tạo nghệ thuật và đề cao "sự trung thực" có thể vì một hoặc cả hai lẽ sau đây: một, đa số họ viết văn như người lính hơn là như nghệ sĩ văn chương; hai, chính họ cũng là những độc giả của văn chương về chiến tranh, và họ biết họ cần điều gì khi đọc. Thật vậy, theo một nghiên cứu của Donald Ringnalda, hầu hết giới độc giả của văn chương về chiến tranh Việt Nam chính là những quân nhân tham chiến ở đó, và họ cho rằng tiêu chuẩn để đánh giá các tác phẩm hư cấu về cuộc chiến ấy là "sự chính xác, đúng như sự kiện đã xảy ra, trung thành với từng chi tiết". [3] Ở đây, câu hỏi then chốt cần đặt ra là: liệu những nỗ lực sử dụng thủ pháp mô tả hiện thực có đủ sức phản ảnh trung thực cuộc chiến Việt Nam như chính nó đã xảy ra không? Xin trả lời ngay: không, vì hai lẽ. Một: tham vọng sử dụng thủ pháp mô tả hiện thực để phản ảnh trung thực một sự kiện phức tạp xảy ra trong cuộc sống, chưa cần kể đến chiến tranh, là một tham vọng ngây thơ, vì điều ấy bất khả thực hiện. Hai: ngay cả nếu điều ấy thực hiện được, không có gì bảo đảm sự phản ảnh ấy có giá trị nghệ thuật. Từ một bức nhiếp ảnh thật rõ ràng, chính xác, đến một bức nhiếp ảnh nghệ thuật, là một khoảng cách rất xa. Riêng ý niệm về hình ảnh trung thực của một cuộc chiến Việt Nam như chính nó đã xảy ra là một ý niệm mang tính cách hư tưởng, vì thật sự không chỉ có một cuộc chiến Việt Nam, mà có rất nhiều cuộc chiến Việt Nam khác nhau. Mọi nỗ lực phản ảnh một cuộc chiến Việt Nam đều vô vọng. Cùng lắm, những nỗ lực ấy chỉ để lại những cách diễn dịch khác nhau về cuộc chiến, và mỗi cách diễn dịch lại tạo thêm một cuộc chiến Việt Nam khác. Thật vậy, dù mỗi nhà văn đều cố gắng thể hiện "sự trung thực" của mình, những cuộc chiến Việt Nam của họ không chỉ khác nhau, mà lắm khi còn trái ngược nhau hẳn. Cuộc chiến Việt Nam trong tác phẩm của một nhà văn quân đội ở miền Nam nhiều khi được mô tả trái ngược hẳn với cuộc chiến Việt Nam của một nhà văn bộ đội ở miền Bắc. Cuộc chiến Việt Nam trong tác phẩm của một người lính Hoa Kỳ bị trưng binh nhiều khi trái ngược hẳn với cuộc chiến Việt Nam trong tác phẩm của một người lính Hoa Kỳ tình https://thuviensach.vn nguyện vào quân đội. Và những cuộc chiến Việt Nam khác nhau ấy lại càng khác xa những cuộc chiến Việt Nam được tổ chức và ghi nhận trong các kho tài liệu, các ấn phẩm về chính trị và lịch sử được chính thức công nhận hoặc không công nhận bởi các chính quyền liên hệ. Trong mỗi cuộc chiến ấy, các ý niệm "ta" và "địch", "chính" và "tà", "chân" và "ngụy", "đúng" và "sai", "tốt" và "xấu"... có thể hoàn toàn trái ngược nhau vì được nhìn qua những lăng kính có cấu trúc và định hướng hoàn toàn khác nhau. Những nỗ lực sử dụng bút mực nhằm mô tả trung thực (những) cuộc chiến Việt Nam, do đó, là vô vọng, nếu người cầm bút chỉ đứng ở một góc cố định và nhìn qua một lăng kính cố định để quan sát, và sử dụng một bút pháp đơn sơ để diễn tả. Một tác phẩm như vậy, cùng lắm, chỉ "trung thực" đối với một giới độc giả cùng "chiến tuyến", và tất nhiên bị xem là giả tạo, một chiều, hoặc dối trá, đối với độc giả thuộc về những "chiến tuyến" khác. Đa số tác giả xuất bản truyện ngắn và tiểu thuyết trong những năm 70 và đầu 80 ở Hoa Kỳ đã chứng tỏ sự thất bại khi viết về hiện thực cực kỳ phức tạp của chiến tranh Việt Nam. Ngay cả phần lớn những tác phẩm bán hư cấu bán ký sự cũng rơi vào những luận đề đơn giản, hạn chế, và khuôn sáo. Người đọc chỉ nhìn thấy các sự kiện xảy ra qua con mắt của tác giả, và chỉ hiểu các sự kiện theo lối diễn dịch của tác giả, mà con mắt và lối diễn dịch ấy nhiều khi chỉ là sự lập lại những bản kẽm sẵn có trong quán tính tập thể về "sự thật lịch sử". Ít có tác phẩm nào có khả năng vượt qua mọi "chiến tuyến", soi rọi vào những giấc mơ thầm kín, những bí mật đen tối, những nỗi sợ đến mê sảng, hay những niềm hy vọng và tuyệt vọng không thể giãi bày của những con người tham dự vào cuộc chiến Việt Nam. Từ cuối những năm 80 cho đến gần đây, khi khoảng cách giữa ký ức và hiện thực chiến tranh đã lùi xa hơn, một số nhà văn cựu quân nhân Hoa Kỳ đã trở nên tự chủ hơn để sáng tạo những lối viết khác. Gregory L. Morris ghi nhận: Những kỹ thuật tự sự truyền thống thường là không đủ; nội dung của những "truyện chiến tranh" mới này trở nên quá sức trơn trượt, quá sức lạ thường để có thể được chuyên chở bởi những giọng nói bình thường và https://thuviensach.vn phương pháp tự sự bình thường. Những gì đã xảy ra trong những tác phẩm hư cấu gần đây về chiến tranh Việt Nam, nói rõ ra, là cái cách câu chuyện được kể đã trở nên cũng quan trọng như chính câu chuyện được kể. Các nhà văn tìm cách kể cho chúng ta về cuộc chiến -- về những sự mơ hồ của cả lịch sử lẫn đạo đức -- nhận ra chính họ cần những phương pháp luận mới, những kỹ thuật tự sự mới để diễn tả những sự thật lịch sử mới. [4] Thật vậy, những tác phẩm hư cấu sử dụng kỹ thuật tự sự theo truyền thống hiện thực chủ nghĩa trước đây hầu hết đã chỉ diễn tả những cuộc chiến như những bức tranh rõ ràng, vừa khít với cái khung lịch sử và ý thức mà tác giả chọn và tin. Trong những bức tranh đó, hầu như lúc nào các ý niệm "ta" và "địch", "chính" và "tà", "chân" và "ngụy", "đúng" và "sai", "tốt" và "xấu" cũng được xác định ngay từ đầu, và tác giả vừa kể chuyện, vừa lồng vào câu chuyện của mình những luận đề chính trị và đạo đức, rồi lần lượt giải quyết những luận đề ấy theo một công thức nhất định nào đó. Trong gần hai thập niên trở lại đây, một số nhà văn đương đại của Hoa Kỳ đã nhận ra rằng không phải chỉ có một sự thật, mà có nhiều sự thật, về chiến tranh Việt Nam và về bất cứ sự kiện nào xảy ra trong cuộc chiến ấy, và họ nỗ lực tìm kiếm những bút pháp mới có khả năng diễn tả cái hiện thực đa phương đa tầng của lịch sử và cái tâm cảm cực kỳ phức tạp của con người trong cuộc chiến ấy. * Tiểu thuyết Paco s Story của Larry Heinemann, xuất bản năm 1986, đoạt giải National Book Award năm 1987 và gây nhiều tranh luận về quan điểm đạo đức và chính trị, là một trong những ví dụ thú vị về lối viết có khả năng vượt qua những "chiến tuyến" để chạm đến những chiều sâu và những góc cạnh ẩn mật của nội tâm con người trong chiến tranh. Trước hết, để tránh cho chính mình và độc giả rơi vào lối mòn thẩm mỹ của loại "truyện chiến tranh", và cũng để tránh bị bất cứ chiếc khung lịch sử nào về "chiến tranh Việt Nam" choàng lên tác phẩm (dù tác giả vẫn lấy https://thuviensach.vn chiến tranh Việt Nam làm bối cảnh tiểu thuyết), Heinemann đã khởi sự câu chuyện như thế này: Hãy bắt đầu với một điều nói thẳng, James à: Đây không phải là "truyện chiến tranh". Vứt đi những "truyện chiến tranh" - một, hai, ba, vứt tuốt vào trong bể hồ với tất cả những thứ rác rưởi nhếch nhác bọt bèo... [5] Khởi sự như vậy, Heinemann bắt đầu câu chuyện của một giọng nói vô danh kể cho một nhân vật tên James. Suốt cả tiểu thuyết, giọng nói không bao giờ tự xưng danh tính, và James là ai cũng không hề được xác định. Giọng nói đôi khi là hồn ma của một người lính Hoa Kỳ tử thương trong một trận đánh kinh hoàng ở Việt Nam, đôi khi lại là hồn ma của tập thể Đại Đội Alpha cùng chết trong trận ấy, đôi khi thậm chí có vẻ là giọng nói chung của tất cả quân nhân Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam, đã chết trên chiến trường hay còn sống đâu đó trên đất Mỹ. Giọng nói ấy kể liên tục, nhưng thái độ kể, quan điểm của người kể và lối hành ngôn luôn luôn thay đổi. Trong một câu văn ngắn, chúng ta có thể thấy cách nói nghiêm túc xen lẫn với những tiếng lóng tục tĩu, những phương ngữ, và ngay cả những lối diễn đạt như thơ. (Cách viết như thế nếu dịch ra Việt ngữ sẽ mất rất nhiều, bởi thế tôi xin tạm trích một đoạn rất ngắn từ nguyên tác). Thử đọc: And you stare at a couple hundred meters of shitty-ass marsh that no zip in his right mind would try to cross, terraced rice paddy long gone to seed, and a raggedy-assed, beat-to-shit woodline yonder. ... Well, you stare at all that, and stare at it, until the moonlit, starlit image of weeds and reeds and bamboo saplings and bubbling marsh slime bums itself into the back of your head in the manner of Daguerre s first go with a camera obscura. (tr.10) Giọng nói ấy liên tục đổi vai để kể những câu chuyện chung quanh, nhưng hiếm khi kể trực tiếp về nhân vật chính là Paco Sullivan, người lính duy nhất sống sót sau trận đánh kinh hoàng ấy. Những chi tiết về trận đánh https://thuviensach.vn được kể hết sức chi li, nhưng chi tiết Paco sống sót được kể ngắn gọn như sau: Vâng, thưa ngài, James, chúng tôi gào đến mức cặc dái dồn ngược lên, chèn ngược lên cách mô, gào hết hàng đống lớn những lời thề không thể in ra... chúng tôi biến mất... Ô, chúng tôi tan biến hết sạch, tất cả, trừ Paco... (tr.16-17) Sống sót, Paco trở nên cực kỳ ít nói, không có khả năng kể chuyện và thậm chí không bao giờ muốn kể rõ về bất cứ điều gì anh đã trải qua, chứng kiến và suy nghĩ về chúng. Sống sót với những vết sẹo chằng chịt trên thân thể, nhưng khi có bất cứ ai hỏi về những vết sẹo ấy, Paco chỉ nói một câu như thuộc lòng: "Tôi bị thương trong chiến tranh". Chỉ một câu cụt ngủn như vậy, chỉ "trong chiến tranh" thôi, chứ không bao giờ anh nói thêm là "trong chiến tranh Việt Nam", hay trong một trận đánh cụ thể nào đó ở Việt Nam. Trong trọn cuốn tiểu thuyết, Paco cùng lắm chỉ nói vài chữ sơ sài, chứ không bao giờ thực sự kể về mình, nhưng câu chuyện của anh dường như đã được ghi lên những vết sẹo chằng chịt đầy thân thể anh. Người đọc, trong khi nghe muôn ngàn câu chuyện về những người khác đã chết hay còn sống chung quanh Paco, sẽ dần dần nghe được, hay tự kể cho mình, câu chuyện riêng của anh trên những vết sẹo ấy. Nhan đề của tiểu thuyết là Paco s Story (Câu chuyện của Paco), nhưng bút pháp của Larry Heinemann tài tình ở chỗ ông không để cho Paco tự kể rõ về mình, cũng không để ai kể rõ về anh cả. Mỗi người chỉ kể một mảnh nhỏ mà y biết. Độc giả tất nhiên phải không ngừng thắc mắc về Paco, và không ngừng lục lọi trong từng câu, từng chữ, để tìm những sự kiện về anh và những mảnh ý tưởng của riêng anh -- kẻ duy nhất sống sót sau một trận đánh kinh hoàng ở Việt Nam. Cuốn tiểu thuyết lại chẳng phải chỉ là những đoạn kể. Xen lẫn vào đó là một rừng những chất liệu khác được trình bày hết sức chi tiết đến độ độc giả phải tin chúng có thể có khả năng phản ảnh những góc độ tế vi của tâm hồn Paco: những mẩu quảng cáo, thông báo, bích chương, lời nhạc rock, lời thơ, thực đơn; những lời chỉ dẫn cách hớt https://thuviensach.vn tóc, cách đi quá giang xe, cách xăm mình, cách rửa bát đĩa, cách gỡ mìn, cách cắt cổ, cách giết người bằng dao thăn thịt, cách hiếp dâm một cô gái "Việt Cộng", v.v... Đi xuyên qua khu rừng của những mảnh chuyện và các chất liệu hỗn tạp ấy, độc giả có thể rối trí và khó hình dung được tính cách của Paco. Theo lời kể của giọng nói vô danh, chỉ có một người có vẻ biết đôi chút về Paco: đó là một chàng quân y sĩ, người đã vô tình phát hiện Paco nằm chết dở trong rừng, với thương tích máu me đầy mình, và đôi chân gãy. Chàng quân y sĩ đem Paco về, nhưng suốt đời không biết gì hơn về những điều đã xảy đến cho Paco, vì Paco không chịu kể. Bị ám ảnh bởi sự kiện hãi hùng và lạ lùng ấy, chàng quân y sĩ hằng đêm uống rượu say và kể đi kể lại chỉ một chi tiết nhỏ về chuyện Paco sống sót. Chàng kể suốt đời, kể cho đến chết. Và mười, mười hai, mười lăm năm sau, chàng quân y sĩ sẽ đong đưa tới lui, hằng đêm, trên một chiếc ghế gần bức tường chất đầy những thùng bia ở đằng sau Weiss s Saloon, kể những câu chuyện của mình. Khi đêm đã tàn (lúc không gian yên tĩnh và đen tối) chàng quân y sĩ sẽ thấm rượu và say, nhưng chàng vẫn còn đập được những chiếc trứng luộc và gọn gàng tách đôi hai nửa vỏ trắng tinh trước khi chấm vào muối và phết một chút mù-tạt lên mỗi miếng cắn. Và lúc chàng chưa quá say chàng không thể nhấm nháp bia được nữa mà đổ tuốt nó xuống (cho đến một năm kia chàng uống đến phát bệnh, và chết vì say). Hầu như bất cứ đêm nào trong tuần chàng cũng sẽ ngồi đó và khoác lác rằng đáng lẽ chàng đã có thể làm được điều gì đó cho chính mình "Chắc hẳn là đã trở thành một bác sĩ giỏi đếch chịu được, ngài có nghe không?" chàng sẽ nói với ông như vậy đó, thưa ông James, với cái giọng lè nhè bốc mùi rượu. "Ngoại trừ cái thằng nhải này, cái thằng bá láp" nó không chết, mà đáng lẽ nó đã chết rồi. (tr.33) Theo lời kể của giọng nói vô danh, còn có một nhân vật khác, Trung Sĩ Gallagher, không kể chuyện về Paco, nhưng kể về chính những vết sẹo và vết xăm trên thân thể mình. Những vết sẹo của Gallagher là chứng tích của https://thuviensach.vn cuộc xung đột đầy bạo động giữa cha của anh và anh thời thơ ấu. Vết xăm hình con rồng không bao giờ xoá được là chứng tích của một quá khứ bất ưng. Câu chuyện của Gallagher, không đề cập đến Paco, nhưng rọi một tia sáng nhỏ vào những vết sẹo chiến tranh của Paco: trên thân thể Gallagher là những vết sẹo của một cuộc chiến nhỏ trong gia đình mà Gallagher suốt đời không thể quên được = trên thân thể Paco là những vết sẹo của một cuộc chiến khổng lồ mà Paco suốt đời không muốn nhắc đến; vết xăm của Gallagher ám ảnh chính anh mãi = những vết sẹo dị dạng to lớn khắp thân thể của Paco chính là những vết xăm lớn hơn, sâu hơn, và đậm hơn, nhưng anh không hề nói một lời về điều đó. Cũng theo lời kể của giọng nói vô danh, có một nhân vật khác, Jesse, một cựu quân nhân không có nơi cư trú nhất định, một hôm đến làm việc chung với Paco trong một quán ăn. Paco nói ít chừng nào, thì Jesse nói nhiều chừng ấy. Jesse có đủ khả năng ngôn ngữ để diễn tả những ẩn ức, giận dữ, tuyệt vọng của mình sau cuộc chiến. Jesse kể về mình nhiều chừng nào, thì Paco lại cảm thấy gần gũi hơn với anh chừng ấy. Rồi cuối cùng chính Jesse đã làm Paco thốt lên được đôi lời. Một đêm kia, Jesse giúp Paco đóng cửa quán lúc Paco đang bận rửa nồi, Paco cảm thấy cần phải kể cho người bạn tốt đôi điều về mình: Paco khuấy nước rửa trong cái nồi hầm xúp 10-quart, rồi đứng thẳng dậy, và nói, "Bác sĩ bảo tôi là thằng duy nhất còn lại trong số chín mươi ba thằng" – anh nhớ lại mớ cứt khô đã dính vào tóc như thế nào, nỗi sợ hãi đến ngộp thở trước cái chết chờn vờn suốt gần hai ngày, vẻ kinh ngạc tột độ của chàng quân y sĩ thuộc Đại Đội Bravo. "Ừ, mày có thấy cay đắng về chuyện đó không?" Jesse hỏi. Paco đổ nước rửa ngầu bọt đi và đặt cái nồi xuống cho ráo nước. Anh bước vào căn bếp và phòng ăn đã tắt đèn, đứng sững trong một nỗi đau nhức nhối, bóng của chiếc máy đông lạnh to lớn phủ lên anh. Mất một lúc anh mới tìm thấy Jesse đứng trong bóng tối, giữa những chiếc bàn ăn. "Tôi đã thức nhiều đêm để suy nghĩ triền miên về điều đó, vo tròn nó trong miệng, tạm gọi như vậy, và vâng, tôi mong tôi cay đắng đúng nghĩa là cay đắng, hơn là điều cái lưỡi có thể nói ra. Nhưng tôi muốn nói https://thuviensach.vn với anh về một điều khác: được có mặt ở đây là vui lắm rồi – có phải Thurman Munson đã nói như vậy không?" (tr.162-163) Câu chuyện của Paco do chính anh kể chỉ có thế. Vài câu nói. Đọc suốt cuốn tiểu thuyết, độc giả chỉ có thể biết rất nhiều về những nhân vật khác nhưng khó có thể suy đoán được một điều gì chắc chắn và rõ ràng về Paco, ngoại trừ những sự kiện hết sức đơn giản và ít ỏi trên bề mặt hiện tượng, rải rác đó đây trong truyện, được kể bởi một giọng nói vô danh, và không chắc đã khả tín (giọng nói ấy không phải của một người, mà của nhiều người, với nhiều cá tính khác nhau, nhiều quan điểm khác nhau, xen vào nhau để kể chuyện). Nếu xếp các sự kiện theo thứ tự thời gian, độc giả có thể tạm nắm được một số điểm sau đây: Paco là một người lính Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam; có lần anh cùng đồng đội hiếp dâm và giết chết một cô gái "Việt Cộng" mười bốn tuổi; anh sống sót sau một trận đánh khủng khiếp; anh bị phỏng nặng khắp thân thể, hai chân bị gãy và được gắn lại bằng những con ốc và vít, dương vật bị đứt lìa và được may dính trở lại; anh trở về Hoa Kỳ, mang theo một ký ức thầm kín về cuộc chiến và một chiếc xách "AWOL" đựng mấy món đồ lặt vặt; sau đó, anh kiếm sống bằng nghề rửa bát đĩa ở một quán ăn; anh thường xuyên chịu đựng những cơn đau trong thể xác (nhưng anh không kể cho bất cứ ai biết anh đau đến chừng nào), và những ác mộng (nhưng anh không kể cho bất cứ ai biết về những điều trong ác mộng) ; để giữ quân bình, anh thường uống rượu và sử dụng ma túy. Độc giả còn được cung cấp vô số những sự kiện khác xảy ra chung quanh Paco, nhưng vẫn không thể biết rất nhiều điều cần biết: Anh đến với cuộc chiến Việt Nam như thế nào? Anh suy nghĩ gì về cuộc chiến ấy? Trong suốt thời gian trên chiến trường anh đã cảm thấy thế nào về cuộc chiến và về chính mình? Anh đã ước mơ những gì? Sợ hãi những gì? Giờ đây, anh suy nghĩ gì về chính mình? Về quá khứ? Những cơn đau của anh như thế nào? Anh thường thấy những gì trong ác mộng? v.v... Độc giả chỉ được nghe những sự kiện về Paco, chứ không thể nghe câu chuyện của chính Paco. Thỉnh thoảng, độc giả mới có dịp nhìn thấy anh thấp thoáng xuất hiện qua những mảnh chuyện được giọng nói vô danh kể https://thuviensach.vn lại. Một mảnh chuyện rất quan trọng là mảnh về Cathy, cô gái ở cạnh căn gác của Paco. Cathy thường cố ý nhìn trộm anh qua khung cửa sổ, và lén ghi vào nhật ký những gì cô nhìn thấy. Cathy tò mò về Paco nhưng không cố gắng tiếp cận để chia sẻ với anh bất cứ điều gì. Cô chỉ âm thầm theo dõi và, dù không hề yêu anh, vẫn thỉnh thoảng tưởng tượng làm tình với anh trong khi đang làm tình với một thanh niên khác. Đọc nhật ký của Cathy, độc giả có thể biết thêm đôi chút về diện mạo của anh, qua cái nhìn của cô. Chẳng hạn: Chàng bước vào phòng và móc chiếc gậy lên tay nắm của tủ quần áo. Chàng lột cái T-shirt ra, có những đêm chàng vùng vẫy cật lực để chui ra khỏi nó và khi chàng nắm nó trong bàn tay nó trông giống một mớ giẻ rách dơ dáy xám xịt. Chàng rửa mặt và ngực trong chậu. Và những vết phỏng ấy. Trông như những vòng cuộn tím bầm và nâu và trắng, dính chùm vào nhau ở nơi này nơi kia như những đường may thô bạo trên trên một tấm chăn. (trang 204-205) Cuộc sống của Paco là một thế giới khép kín và bí mật. Chỉ một kẻ có thể biết rõ về anh, đó là giọng nói vô danh, cứ từng chặp, kể chuyện suốt cuốn tiểu thuyết. Nhưng giọng nói ấy dành hầu hết thì giờ để kể về những chuyện chung quanh anh. Chỉ có hai lần trong cuốn tiểu thuyết giọng nói ấy kể những chuyện quan hệ nhiều đến anh: lần đầu, về sự kiện anh tham dự vào cuộc hiếp dâm tập thể; lần thứ hai, về công việc rửa bát đĩa của anh tại một quán ăn. Cuộc hiếp dâm tập thể được kể lại qua mười trang giấy, với một giọng hết sức tỉnh táo, rành mạch, hoàn toàn không để lộ một chút tình cảm, một quan điểm chính trị hay đạo đức nào cả. Chúng ta thử xem lại một số chi tiết. Cô gái nhỏ được mô tả với giọng văn như thế này: "Không đâu, James, nó là VC thứ thiệt như những đứa khác (xem vẻ phong trần trên mặt nó thì biết)", "trông cái lưng có thể biết nó đã làm việc nặng nhọc, hàng ngày, suốt cả đời nó", "khuôn mặt dẹp lép, trông như đàn ông", "nó tọng cả một khẩu phần lương khô loại C gồm thịt sườn và trứng mà một thằng đéo nào đó https://thuviensach.vn mới đến cho nó"... Cuộc hiếp dâm tập thể diễn ra trong một "phòng nhỏ", "ngột ngạt", trên một cái bàn gỗ rộng gấp đôi cái "bàn nhà bếp". Jonesy trói hai tay cô gái mười bốn tuổi ra sau lưng rồi đẩy nó lên bàn, gọn gàng "giống như nó kéo cờ buổi sáng, nhanh chóng và tươm tất như được mô tả trong sách -- cuốn Cẩm Nang Quân Dụng", rồi bọn lính "xếp hàng dọc" như chuẩn bị lãnh thức ăn hay vào sân xem đá bóng. Sau đó: "Đứa con gái sợ hết cứt, lạnh gáy và rùng mình, đổ mồ hôi bóng nhẫy, và chẳng làm gì được ngoài ý định van xin bọn họ rằng, giữa người và người với nhau, đừng hiếp nó, đừng giết nó, nhưng nó không biết nói tiếng Anh"... Đến cuối cuộc hiếp dâm tập thể, cô gái nhỏ "bị ném... vào đống gạch vụn", "những mảnh vôi vữa, ngói vụn... cắm vào da đầu và mặt nó", "nước miếng và nước mũi, máu và rớt dãi và tinh khí đầy cả mình mẩy nó"... Rồi Trung Sĩ Gallagher bắn nó chết. "Paco còn nhớ tia máu phun ra, những mảnh gạch và xương vụn văng tung téo lên Gallagher và Jonesy, tia máu ấy phun nhanh, gây ngứa nhẹ trên da, như một đám mưa phùn thổi xuyên qua màn cửa"... (tr. 175-185). Những diễn biến của cuộc hiếp dâm tập thể được mô tả rất chi tiết, và không kèm một lời bình luận nào cả. Trong bản mô tả đó, thỉnh thoảng Paco được nhắc đến. Độc giả phải căn cứ vào từng chi tiết ấy để suy đoán về những góc cạnh ẩn mật khốn khổ trong tâm cảm của Paco sau này. Công việc rửa bát đĩa của Paco tại một quán ăn cũng được mô tả hết sức chi li suốt năm trang giấy ở chương "The Texas Lunch". Tác giả hoàn toàn không đưa ra bất cứ một nhận xét gì về tâm trạng hay cảm nghĩ của Paco trong lúc anh làm công việc ấy, nhưng chính thái độ ân cần trong giọng kể gợi đến trạng thái quân bình trong tâm hồn của Paco. Độc giả có thể thấy anh thương binh Paco có một đời sống quy củ và hữu ích trong những giờ phút anh chăm chút dọn rửa và sắp xếp bát đĩa. Thử đọc một đoạn ngắn: Công việc trông nhếch nhác nhưng có phương pháp đàng hoàng -- mỗi thứ đều có chỗ riêng của nó, thưa ông James, và mỗi thứ ở chỗ riêng của nó – ly và cốc được rửa ngay lập tức, xả nước và để cho ráo khô mỗi lần một cặp, còn đĩa thì được xếp thành chồng, những dao muỗng nỉa thì được thả https://thuviensach.vn vào chậu rửa cho ngập để ngấm nước, và các nồi và chảo trước tiên được xối nước và xịt với dầu chùi xoong [...] Công việc này thì phải đâu vào đấy và có trật tự cơ học, thưa ông James. (tr.112-114) Trong khi giọng kể tỉnh táo về cuộc hiếp dâm tập thể có thể làm độc giả phẫn nộ và ghê tởm (thực tế, đoạn ấy đã gây rất nhiều tranh cãi về đạo đức trong giới độc giả và phê bình văn học Hoa Kỳ), thì giọng kể ân cần về công việc rửa bát đĩa của Paco lại khiến độc giả an tâm và cảm thông với thân phận người cựu chiến binh tàn tật sau cuộc chiến. Thế nhưng, đó chỉ là cảm nghĩ của độc giả, chứ tuyệt nhiên, từ đầu đến cuối, Paco không hề biểu lộ một điều gì thật rõ ràng về tâm trạng của anh. Chỉ đến khi Paco đã đọc được nhật ký của Cathy, độc giả mới đoán được phần nào những nỗi niềm ẩn mật qua phản ứng của anh. Điều thú vị nhất là Cathy, người không hề biết gì về quá khứ và tâm trạng của Paco, chỉ tò mò nhìn lén và tưởng tượng về anh, lại có thể tình cờ viết vào nhật ký của mình những điều dường như chạm đến tâm cảm sâu kín của anh. Nàng bị ám ảnh bởi sự cô đơn của anh và những vết sẹo khủng khiếp trên thân thể anh. Mối ám ảnh ấy tràn vào vô thức của nàng, biến thành những giấc chiêm bao tình dục lạ lùng. Cathy ghi chép cả những giấc chiêm bao ấy vào nhật ký. Một hôm, Paco chợt nghi ngờ cô gái bên cạnh nhà đã lén lút theo dõi mình và giấu giếm một điều gì đó về mình, nên đã lẻn sang phòng của nàng để tìm hiểu. Anh thấy cuốn nhật ký của Cathy. Giở ra đọc, anh bắt gặp chính mình ở đoạn Cathy mô tả lúc hai người vừa làm tình xong trong giấc chiêm bao của nàng: Chàng vươn mình dậy, tay gồng cứng, và cong lưng xuống, sờ vào trán và bắt đầu ráng móc lớp da ở đó ra, rồi chàng làm da lỏng ra, và bắt đầu lột từng miếng da như chúng là chiếc mặt nạ. Trông như chàng cạy mở những chiếc nút của chiếc áo jacket. Giống như bạn thấy người ta gỡ những cọng spagetti khô ra khỏi bàn nấu ăn. Chàng cầm những cái sẹo trong nắm tay trông như những cuộn dây rối rắm xoắn thành một nùi khủng khiếp. Tôi nhắm mắt lại và xoay mặt đi chỗ khác, và hẩy chàng ra khỏi hông tôi – https://thuviensach.vn nhưng tôi đoán rằng chàng chắc hẳn tưởng tôi muốn đụ thêm. Chàng đè tôi xuống bằng cái bụng cứng ngắc của chàng, và đặt những cái sẹo lên ngực tôi. Nó bốc cháy... và tôi nghĩ tôi nghe những tiếng gào, dường như mỗi cái sẹo là một tiếng gào, và tôi lại nhìn chàng và chàng đang lột những cái sẹo dọc theo cánh tay, trông như những miếng da dài cháy nắng, nâu sẫm và bốc mùi hành rán. Rồi chàng quỳ lên vai tôi [...] và chàng đặt những cái sẹo ấy lên mặt tôi, và tôi bắt đầu ngộp thở. Rồi chàng vói cả hai tay ra sau lưng, như sắp cởi một cái T-shirt, bấu và lôi những cái sẹo ra khỏi lưng. Và tôi có thể nghe những đường chỉ may đứt tung. Và chàng đặt chúng trên vú và bụng tôi -- nhột nhạt và nóng bỏng -- đặt chúng vào tóc tôi, trùm chúng quanh đầu tôi, như một cái mũ chỏm. Và khi mỗi cái sẹo chạm vào tôi, tôi cảm thấy ngộp thở, nghe tiếng gào. Và rồi tôi thức giấc. (tr.208-209) Paco dừng lại ở đây, không thể đọc hết cuốn nhật ký, vội vã chuồn ra khỏi phòng Cathy. Sau đó, anh lên chuyến xe buýt để đi thật xa về miền tây Hoa Kỳ. Điểm độc đáo của đoạn cuối này là ở chỗ nó không cho phép độc giả đưa ra một phán đoán khả tín nhất định nào về Paco cả. Độc giả có thể đoán đoạn nhật ký này có những chi tiết nhỏ vừa gợi đến cảnh hiếp dâm (một điều xảy ra trong quá khứ mà Paco không hề kể lại), vừa gợi đến cảnh nhà bếp (nơi Paco giành lại được sự quân bình trong tâm trí); và hiển nhiên nhất, nó xây dựng một hình ảnh siêu thực về những vết sẹo khủng khiếp mà Paco muốn tháo gỡ. Nhưng phải chăng Paco chạy trốn vì muốn thoát khỏi ám ảnh của mặc cảm tội lỗi mà anh hằng chôn dấu? Hay anh chạy trốn vì hình ảnh những vết sẹo vừa cháy vừa gào trong nhật ký của Cathy làm bừng dậy sự khủng hoảng trong tâm trí vốn đã trở lại quân bình của anh? Nhưng làm sao anh chạy trốn mặc cảm tội lỗi hay sự khủng hoảng, vì chúng ở ngay trong anh? Lại càng không phải anh chạy trốn Cathy, vì cô ấy hoàn toàn không biết gì về cuộc sống của anh, ngoài những vết sẹo mà cô nhìn trộm và thấy; và những dòng chữ trong nhật ký chỉ ghi chép một giấc chiêm bao đầy hoang tưởng. Những câu hỏi này lại làm bật lên những câu hỏi khác về https://thuviensach.vn chính sự câm nín của Paco. Độc giả còn tiếp tục hoang mang khi Paco nói với người tài xế: "Càng đi xa về miền tây chừng nào, càng ít bullshit chừng ấy". Tại sao phải đi xa về miền tây? Cái gì là "bullshit"? Sự đột nhập kỳ quái của Cathy vào cuộc sống bình thường của anh là "bullshit"? Sự sống lại của mặc cảm tội lỗi là "bullshit"? Hay đoạn nhật ký vô tình nhắc đến cái đau đớn thể xác của anh là "bullshit"? Lối viết đa quan điểm của Heinemann phù hợp với quan niệm thẩm mỹ hậu hiện đại: tác phẩm chỉ trình bày toàn khối của câu chuyện, với tất cả những chi tiết phức tạp của nó được nhìn từ nhiều quan điểm khác nhau; tác giả không chủ tâm đưa ra một phán xét chung cuộc nào cả; và độc giả phải đối diện với vô số khả thể diễn dịch. Lối viết hậu hiện đại này, sau đó, được thực hiện và đẩy xa hơn bởi một số nhà văn viết về chiến tranh Việt Nam, với những bút pháp đầy uyển chuyển và sáng tạo. * Theo tôi, có lẽ trong số những nhà viết tiểu thuyết hậu hiện đại về chiến tranh Việt Nam, Tim O Brien là khuôn mặt đáng lưu ý nhất, đặc biệt với tiểu thuyết The Things They Carried (1990). Tim O Brien cũng là một cựu quân nhân Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam. Giải ngũ và trở về nước vào năm 1970, đến năm 1973, O Brien xuất bản một cuốn ký sự chiến trường dưới nhan đề If I Die in a Combat Zone: Box Me Up anh Ship Me Home. Năm 1975, ông cho ra đời tiểu thuyết đầu tay Northern Lights. Đây là một thứ tiểu thuyết luận đề, sử dụng lối viết hiện thực chủ nghĩa để diễn tả sự xung đột và hoà giải giữa hai quan điểm đối lập về cuộc chiến Việt Nam. Đến năm 1978, ông tung ra tiểu thuyết kế tiếp Going After Cacciato, vẫn lấy đề tài chiến tranh Việt Nam, nhưng sử dụng lối viết hiện thực thần kỳ để xoá nhoà ranh giới giữa hiện thực và tưởng tượng. Tiểu thuyết này đoạt giải National Book Award năm 1979. Sau đó, ông viết cuốn Nuclear Age (1984), hoàn toàn không chạm đến chiến tranh Việt Nam. Đến năm 1990, ông trở lại với đề tài chiến tranh Việt Nam với tiểu thuyết The Things They Carried. Tiểu thuyết này gồm 22 chương, https://thuviensach.vn nhưng mỗi chương lại có thể đứng riêng như một truyện ngắn. Thật ra, có 10 chương/truyện đã được đăng rải rác từ năm 1977 đến 1986 và đã giành cho O Brien rất nhiều giải thưởng quan trọng về truyện ngắn. Đây là một tiểu thuyết giàu tính sáng tạo về nhiều phương diện. Trong giới hạn của tiểu luận này, tôi chỉ xin được đề cập đến một vài điểm đáng lưu ý nhất về bút pháp và quan niệm "truyện chiến tranh" của O Brien. Điểm đầu tiên đáng lưu ý nhất trong The Things They Carried là dường như tất cả mọi chi tiết được kể đều khiến độc giả hoài nghi về tính cách khả tín của chúng, dù chúng luôn luôn hiện ra như thể hoàn toàn có thật. Ngay từ đầu, trước khi bước vào truyện, độc giả nhìn thấy một dòng chữ rất quen thuộc, gần giống như những dòng "disclaimer" được in trong hầu hết các tiểu thuyết từ trước đến nay: Đây là một tác phẩm hư cấu. Ngoại trừ một vài chi tiết liên quan đến đời tư của tác giả, tất cả những sự kiện, danh tính và nhân vật trong sách này đều là giả tưởng. [6] Kế đến, độc giả thấy một lời đề tặng như sau: Cuốn sách này được viết với lòng yêu mến trao về những con người của Đại Đội Alpha, và đặc biệt là Jimmy Cross, Norman Bowker, Rat Kiley, Mitchell Sanders, Henry Dobbins, va Kiowa. (tr.9) Sau phần mục lục, trước khi vào truyện, tác giả danh một trang sách để in lại một đoạn văn trích từ cuốn Andersonville Diary của John Ransom: Cuốn sách này hoàn toàn khác với bất cứ cuốn sách nào đã được xuất bản viết về cuộc chiến vừa qua hay về bất cứ những sự kiện nào liên quan đến cuộc chiến ấy. Những ai đã từng trải qua cùng một kinh nghiệm với tác giả sẽ nhận ra sự thật ngay lập tức, và đối với những độc giả khác, cuốn sách này , như một bản thực chứng, được gửi đến quý vị bởi người đã trải qua kinh nghiệm trọn vẹn nhất. (tr.13) https://thuviensach.vn Đoạn văn trên có vẻ chẳng có tác dụng gì ngoài việc góp phần thuyết phục độc giả tin vào sự có thực của câu chuyện sắp được xem. Tuy nhiên, nếu độc giả tò mò tra cứu thêm thì sẽ thấy John Ransom là một quân nhân bị bắt làm tù binh ở miền Đông Tennessee vào năm1863, và cuộc chiến vừa qua là cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ (1861-1865). Khi đã nhận ra điều này, có lẽ độc giả phải tự hỏi tại sao Tim O Brien lại in đoạn trích ấy vào sách này. Lời xác tín về cuốn hồi ký của một tù binh trong một cuộc chiến trước đây hơn một thế kỷ thì có giá trị gì đối một tiểu thuyết viết về chiến tranh Việt Nam hôm nay? Thật ra, tất cả những điều trên đây đều nằm trong kế hoạch của O Brien. Ngay từ đầu, ông muốn gài độc giả vào chiếc bẫy "Sự Có Thật", để rồi sau đó ông sẽ dần dần tạo ra một trò chơi trên chính ý niệm về "Sự Có Thật". Đọc dòng chữ đầu tiên của chương 1, độc giả sẽ nhận ra ngay danh tính của một người trong danh sách người được tác giả yêu mến đề tặng: Jimmy Cross. Độc giả ắt hẳn phải thắc mắc: Jimmy Cross là nhân vật hư cấu hay là một người có thật? Phải chăng đây là sự trùng tên? Chẳng phải tác giả đã tuyên bố từ đầu sách rằng tất cả nhân vật trong sách đều là giả tưởng? Thế rồi, độc giả sẽ còn ngạc nhiên hơn khi thấy tất cả những người khác có tên trong danh sách đề tặng cũng đều xuất hiện ngay ở trang kế tiếp: Norman Bowker, Rat Kiley, Mitchell Sanders, Henry Dobbins, và Kiowa. Trò chơi bắt đầu từ đây và tràn lan suốt tác phẩm. Những chi tiết ngoạn mục của trò chơi này nhiều vô kể, nhưng tôi chỉ xin được đề cập đến một chi tiết: cái chết của một anh Việt Cộng trẻ. Ở chương 3, cái chết của anh Việt Cộng được kể như sau: Một cậu trai trẻ chừng hai mươi tuổi, thon gọn, dễ thương, nằm chết. Kiowa nói, Không có sự chọn lựa, Tim à. Mày có thể làm gì khác hơn chứ? Kiowa nói, Đúng không? Kiowa nói, Trả lời tao đi. (tr.49) Tim ở đây là Tim O Brien, người lính trùng tên với tác giả, hoặc chính là https://thuviensach.vn tác giả, vì tiểu sử của hai người hầu như hoàn toàn giống nhau, ngoại trừ một số chi tiết (đây cũng là một trò chơi ngoạn mục và đã gây nhiều thắc mắc trong cả giới độc giả và giới nghiên cứu ở Hoa Kỳ suốt nhiều năm qua). Kiowa là một bạn đồng ngũ. Chương 12, dài hơn năm trang, hoàn toàn dành để kể một cách hết sức tỉ mỉ về cái chết của anh Việt Cộng ấy. Trong đó, ngoài việc mô tả hình thù xác chết, nhân vật Tim O Brien còn tưởng tượng cả tiểu sử và những chuyện đời tư của anh Việt Cộng. Ở chương này, Kiowa nói nhiều hơn ở chương 3, và nói hầu như hoàn toàn khác: [Kiowa nói] Đừng mất công, mày ơi. Mày có thể làm gì khác hơn chứ? Sau đó, Kiowa nói, Tao nói chuyện nghiêm túc. Không ai có thể làm gì cả. Thôi đi mà, Tim, đừng nhìn nó chằm chằm nữa. Khúc quẹo của đường mòn bị che khuất bởi một hàng cây và bụi rậm. Người trai trẻ thon gọn nằm đó, hai chân nó duỗi vào bóng mát. Cái hàm của nó lọt vào cổ họng. Một mắt của nó nhắm và mắt kia là một cái lỗ hình ngôi sao. Kiowa nghiêng người. Thôi được, để tao hỏi một câu, nó nói. Mày muốn đổi chỗ với nó? Cứ lộn ngượi lại hết – mày muốn vậy không? Tao muốn nói, mày nói thật đi. [...] Nghĩ kỹ đi, Kiowa nói. Rồi sau đó nó nói, Tim, đây là chiến tranh. Thằng này không phải là cô bé Heidi [7] -- nó có vũ khí, đúng không? Chuyện này rất khổ tâm, chắc chắn rồi, nhưng mày đừng nhìn chằm chằm như vậy nữa. Rồi nó nói, Có lẽ tốt hơn mày nên nằm xuống một lát. Rồi sau một lúc trống rỗng thật lâu nó nói, Cứ từ từ thôi. Cứ để trong lòng thấy sao thì làm vậy. (tr.138-139) Ở chương này cũng có một số chi tiết thú vị khác. Chẳng hạn, ở trang 137, O Brien cho rằng: "Nó không phải là Cộng Sản", nhưng rồi ở trang 141, lại cho rằng "nó đầu quân làm xạ thủ cho Sư Đoàn 48 của Việt Cộng". Hoặc, ở trang 138: "hai chân nó duỗi vào bóng mát", nhưng ở trang 142: "nó nằm https://thuviensach.vn với một cái chân cong vòng ở dưới lưng", v.v... Chương 13 kể rất chi tiết về việc Tim O Brien núp trong bụi rậm ném lựu đạn giết anh Việt Cộng trẻ trên con đường mòn. Nhưng đến cuối chương này, O Brien lại kể rằng ông thấy anh Việt Cộng bước ra khỏi sương mù, đi đến rất gần ông, rồi "thình lình mỉm cười với những ý nghĩ thầm kín nào đó và rồi tiếp tục đi theo con đường mòn đến nơi có khúc cong khuất vào sương mù trở lại." Cũng ở ngay đoạn nhập đề của chương này, O Brien viết: Lúc lên chín tuổi, bé Kathleen con gái tôi hỏi tôi đã có giết ai chưa. Nó biết về cuộc chiến ấy; nó biết tôi đã là lính. Bố cứ viết hoài những chuyện chiến tranh, nó nói, cho nên con đoán bố chắc chắn đã có giết ai đó. Đó là một khoảnh khắc khó xử, nhưng tôi đã làm cái dường như đúng, nghĩa là tôi nói, Tất nhiên là không, và rồi tôi bế nó ngồi vào lòng tôi và ôm nó một lát. (tr.145) Đến chương 18, chúng ta thấy tính cách mâu thuẫn giữa các "sự thật" được bày ra không cần giấu giếm, và O Brien (vừa là tác giả, vừa là nhân vật chính) thẳng thắn giải thích về điều ấy. Chương này rất ngắn, tôi xin trích dịch toàn bộ: Đây là lúc phải thẳng thắn. Tôi bốn mươi ba tuổi, thật vậy, và tôi đang là nhà văn, và cách đây đã lâu tôi đã đi xuyên qua Quảng Ngãi như một người bộ binh. Tất cả mọi điều trong cuốn sách này đều được sáng chế. Đây không phải là một trò chơi. Đây là một hình thức. Ngay tại đây, lúc này, lúc tôi sáng chế chính tôi, tôi đang suy nghĩ về tất cả những gì tôi muốn kể cho quý vị tại sao cuốn sách này được viết theo cách này. Ví dụ, tôi muốn kể cho quý vị nghe chuyện này: cách đây hai mươi năm tôi chứng kiến một thanh niên chết trên một con đường mòn gần làng Mỹ Khê. Tôi đã không giết nó. Nhưng tôi có mặt ở đó, thật vậy, và sự có mặt của tôi đã đủ mang tội lỗi. Tôi còn nhớ khuôn mặt nó, không phải là mặt đẹp, bởi cái https://thuviensach.vn hàm lọt vào cổ họng, và tôi còn nhớ tôi cảm thấy gánh nặng của trách nhiệm và sự khổ tâm. Tôi tự kết án tôi. Và làm vậy là đúng, vì tôi có mặt ở đó. Nhưng hãy nghe đây. Ngay cả câu chuyện đó cũng được sáng chế. Tôi muốn quý vị cảm thấy giống như tôi cảm thấy. Tôi muốn quý vị biết tại sao một sự-thật-trong-truyện đôi khi còn có thật hơn một sự-thật-xảy-ra. Đây là sự-thật-xảy-ra. Tôi có lần là một người lính. Có rất nhiều xác chết, những xác chết có thật với những diện mạo có thật, nhưng lúc ấy tôi còn trẻ và tôi sợ, không dám nhìn. Và bây giờ, hai mươi năm sau, tôi còn lại ở đây với cái trách nhiệm vô diện mạo và nỗi khổ tâm vô diện mạo. Đây là sự-thật-trong-truyện. Nó là một cậu trai trẻ chừng hai mươi tuổi, thon gọn, khá dễ thương. Nó nằm chết giữa con đường mòn đất đỏ gần làng Mỹ Khê. Cái hàm nó lọt vào cổ họng nó. Một mắt nó khép lại, mắt kia là một cái lỗ hình ngôi sao. Tôi đã giết nó. Điều mà những câu truyện có thể làm, tôi đoán, là làm cho nhiều điều hiện diện. Tôi có thể nhìn vào nhiều điều tôi đã chưa từng nhìn. Tôi có thể gắn những diện mạo vào niềm khổ tâm và tình yêu và lòng thương hại và Thượng Đế. Tôi có thể trở thành can đảm. Tôi có thể làm cảm nghĩ của chính tôi sống lại một lần nữa. Bố ơi, hãy kể thật, Kathleen có thể nói, bố đã từng giết ai chưa? và tôi có thể nói, một cách thành thật, Dỉ nhiên không. Hoặc tôi có thể nói, một cách thành thật, Có. (tr.195-196) Viết như vậy, O Brien muốn đảo ngược tận gốc rễ tiêu chuẩn "trung thực" của loại "truyện chiến tranh". Còn hơn thế, ở chương 7, dưới nhan đề thú vị "Làm Thế Nào Để Kể Một Truyện Chiến Tranh Có Thật", O Brien sử dụng thủ pháp siêu hư cấu (metafiction) để vừa kể nhiều dạng biến thiên đầy mâu thuẫn của cùng một câu chuyện, vừa tự bình luận về những lối kể ấy. Văn phong kể chuyện thân mật và đầy tình cảm xen lẫn vào văn phong bình luận chua chát và khiêu khích. Ngay từ câu nhập đề của chương 7, ông đã viết: "Chuyện này có thật." Rồi https://thuviensach.vn ông kể một câu chuyện cảm động về tình bạn của một người đồng ngũ đối với một người đồng ngũ khác đã hy sinh dũng cảm. Nhưng ngay sau đó, ông viết: Một câu chuyện thật về chiến tranh thì không bao giờ bay mùi đạo đức. Nó không dạy bảo, không khuyến hạnh, không đưa ra những điển hình về cách ứng xử tốt lành, không kiềm chế con người để họ khỏi làm những việc họ đã luôn luôn làm. Nếu một câu chuyện có vẻ đạo đức, đừng tin nó. Nếu ở đoạn kết một câu chuyện về chiến tranh bạn cảm thấy tâm hồn được nâng cao, hoặc nếu bạn cảm thấy một chút nào đó được gạn lọc ra từ đống rác to hơn, thì hẳn là bạn đã bị biến thành nạn nhân của một sự dối trá thảm hại cũ rích rồi đó. Chẳng có chút đức hạnh nào cả. Nguyên tắc tiên quyết, do đó, là bạn có thể kể một chuyện chiến tranh có thật bằng một sự trung thành tuyệt đối và không khoan nhượng đối với những sự kiện ghê tởm và tàn ác. [...] Bạn có thể kể một chuyện chiến tranh có thật nếu nó làm bạn bối rối. Nếu bạn gạt đi sự ghê tởm, bạn gạt đi sự thật. (tr.82) Lời nhận định trên cho thấy rằng O Brien vừa kể chuyện, vừa tự phản đối cách kể chuyện của mình. Qua đó, ông cho thấy ông không chấp nhận loại "truyện chiến tranh" được kể với thái độ gạn lọc, uốn nắn cho câu chuyện có ý nghĩa đạo đức. Trong thực tế, loại truyện này lại có vẻ chiếm tỷ lệ rất cao: những truyện đề cao gương hy sinh, đề cao chủ nghĩa anh hùng, chẳng hạn. Sau đó, O Brien kể một chuyện về cái chết của một bạn đồng ngũ. Chuyện này đã được kể ở những chương khác, với những chi tiết khác nhau, và lần kể này lại gồm cả những chi tiết mang tính hiện thực thần kỳ nữa. Và ông viết: Trong bất cứ câu chuyện chiến tranh nào, nhưng đặc biệt đối với một chuyện có thật, thật khó để phân biệt giữa cái đã xảy ra và cái dường như xảy ra. Cái dường như xảy ra trở thành sự xảy ra của chính nó và phải được kể như vậy. [...] Trong nhiều trường hợp, một chuyện chiến tranh có thật lại không thể tin được. Nếu bạn tin nó, hãy hoài nghi. Đây là một vấn đề về tính khả tín. Thường thì sự kiện quái đản lại có thật và sữ kiện bình thường https://thuviensach.vn lại không có thật, bởi vì sự kiện bình thường chỉ cần có để làm bạn tin vào những sự kiện quán đản không thể tin nổi. Trong những trường hợp khác, bạn thậm chí không thể kể nổi một chuyện chiến tranh có thật. Đôi khi nó vượt qua sự kể chuyện. (tr.84) Đoạn trên cho thấy O Brien không chấp nhận loại "truyện chiến tranh" "có lý", hợp với tầm tưởng tượng của con người bình thường. Trong thực tế, đa số độc giả lại xem những chuyện "có lý" là đáng tin, và những chuyện "vô lý" là hoàn toàn bịa đặt! O Brien cũng không chấp nhận loại "truyện chiến tranh" có khởi sự và kết cục ("Bạn có thể kể một câu chuyện chiến tranh như thể nó không bao giờ chấm dứt") (tr.88); và cũng không chấp nhận loại "truyện chiến tranh" khái quát hoá các sự kiện để phục vụ cho một luận đề chật hẹp và khuôn sáo: Những câu chuyện chiến tranh có thật không mang tính khái quát. Chúng không chiều theo tích cách trừu tượng và phân tích. Ví dụ: Chiến tranh là địa ngục. Như một tuyên ngôn đạo đúc, cái chân lý cũ kỹ này có vẻ hoàn toàn đúng, nhưng bởi nó trừu tượng hoá, bởi nó khái quát hoá, tôi không thể tin nó bằng cái bụng của tôi. Chẳng có gì nhúc nhích trong đó. Đây là vấn đề chạm đến bản năng. Một câu chuyện chiến tranh có thật, nếu được kể thật, làm cái bụng cảm thấy tin được. (tr.89) [...] Bạn khái quát hoá thế nào? Chiến tranh là địa ngục, nhưng điều đó chưa được một nửa của chiến tranh, bởi chiến tranh cũng là sự bí mật và sự khủng khiếp và sự phiêu lưu và sự can đảm và sự khám phá và sự linh thiêng và sự thương cảm và sự tuyệt vọng và sự khao khát tình yêu. Chiến tranh là tồi tệ; chiến tranh là thú vị. Chiến tranh là ghê rợn; chiến tranh là cực nhọc. Chiến tranh làm bạn nên người; chiến tranh làm bạn chết. Những sự thật thì đầy mâu thuẫn. Có thể tranh cãi rằng, chẳng hạn, chiến tranh là xấu xa. Nhưng sự thật là chiến tranh cũng đẹp đẽ nữa. (tr.91) Chẳng những O Brien không chấp nhận phục vụ cho một luận đề chật hẹp và khuôn sáo, ông còn thậm chí tin rằng một câu chuyện chiến tranh đáng xem là "có thật" thì không phô bày bất cứ một ý nghĩa nào cả: https://thuviensach.vn Thông thường trong một câu chuyện chiến tranh có thật, không có ngay cả một ý nghĩa, hoặc nếu có, cái ý nghĩa đó không chạm trúng bạn cho đến hai mươi năm sau, trong giấc ngủ, và bạn thức giấc và bạn lay vợ dậy và kể cho nàng nghe câu chuyện, ngoại trừ khi bạn kể đến cuối chuyện bạn lại quên mất cái ý nghĩa đó là gì. Và rồi bạn nằm đó rất lâu nhìn ngắm câu chuyện diễn ra trong đầu bạn. Bạn lắng nghe hơi thở của vợ. Chiến tranh đã qua rồi. Bạn nhắm mắt. Bạn mỉm cười và nghĩ, Chúa ơi, cái ý nghĩa là gì vậy? (tr.93) Đọc suốt tiểu thuyết The Things They Carried từ đầu đến cuối, hoặc ngay cả đọc bất cứ chương/truyện riêng lẻ nào trong đó, độc giả có thể nhận ra ngay rằng lối viết như thế chưa từng có trong văn chương hiện đại. Trong khi tuyệt đại đa số các nhà văn chiến tranh trong thời hiện đại nỗ lực chinh phục độc giả bằng những sự kiện và diễn biến "như thật" hoặc "hoàn toàn có thật", O Brien lại cố ý làm độc giả hoài nghi liên tục bằng những sự kiện và diễn biến không ngừng tự mâu thuẫn nhau. Hơn thế nữa, ông còn xen vào câu chuyện để, một cách tỉnh táo, lật tẩy chính lối viết của mình. Thế nhưng, đọc xong truyện, độc giả sẽ khó có thể gạt ra khỏi trí óc những mẩu chuyện có vẻ khó tin ấy. Điều đọng lại trong ký ức của độc giả là một không gian chiến tranh, trong đó tất cả đều bất xác, từ mỗi một sự kiện đơn giản, đến chính ý nghĩa của toàn bộ cuộc chiến đó, đến ngay cả thân phận và tâm trạng của từng con người còn sống hay đã chết, ở bên này hay bên kia của bất cứ một thứ "chiến tuyến" nào. * Trong thế kỷ 20, "truyện chiến tranh" đã được định hình bởi Wilfred Owen, Stephen Crane, George Orwell, và Ernest Hemingway. Những đặc điểm chung của họ là: sử dụng lối viết mô tả hiện thực theo trật tự tuyến tính; cơ sở ý tưởng của truyện đặt trên thế đối lập giữa đạo đức và tội ác (và những biến thiên của nó ở những cấp độ khác nhau, chẳng hạn: sự ngây thơ và kinh nghiệm, chính nghĩa và tà ngụy, v.v...); thực trạng chiến tranh là sự hỗn loạn, và tác phẩm văn chương tạo nên một trật tự cho sự hỗn loạn ấy (nhờ tác phẩm văn chương, con người thấy rõ thực trạng chiến tranh hơn); nhân vật chính giữ vai trò chứng nhân và là kẻ tường trình một cách chi tiết https://thuviensach.vn và trung thực những sự kiện đã xảy ra; tính hư cấu không có giới hạn, nhưng phải phục vụ để xây dựng một "hiện thực khả tín". Những đặc điểm này đã tạo ảnh hưởng lớn lên đa số nhà văn đương đại. Heinemann và O Brien là những cây bút viết "truyện chiến tranh" hậu hiện đại. Cùng với những cây bút đồng thời như Al Santoli, Michael Herr và Neil Sheeham họ gạt bỏ lối viết mô tả hiện thực theo trật tự tuyến tính: họ viết theo lối đa thanh, đa tuyến, truyện-trong-truyện, truyện-về-truyện, nhảy quãng, lập lại, đảo ngược thời gian, thần kỳ hoá hiện thực. Họ phá vỡ ý niệm về thể loại: họ đem cả thơ, tiểu luận, nhiếp ảnh, bản tin, đồ hoạ, thực đơn..., và mọi phương tiện khả dụng vào truyện. Họ không muốn đưa ra một chọn lựa rõ ràng nào giữa những quan điểm đối lập sẵn có về chiến tranh: họ đi giữa và đi trên những quan điểm ấy, cho phép những quan điểm ấy giao thoa tự nhiên và đối tác biện chứng. Họ không còn cố gắng vẽ lại thực trạng chiến tranh một cách có trật tự, mà để tác phẩm phát triển tự nhiên theo những dẫn dắt ngẫu nhiên của các sự kiện hư cấu. Độc giả phải lách mình qua những khối sự kiện chồng chéo ấy để tự vẽ bản đồ cho mình. Nhân vật chính không còn nhất thiết là chứng nhân và kẻ tường trình trung thực nữa, mà lời tường trình có thể đến từ bất cứ nơi nào khác, và có thể mâu thuẫn liên tục, thậm chí tác giả có thể nhảy vào truyện, đóng vai một nhân vật, và bình phẩm bất cứ lời tường trình nào. Và quan trọng hơn hết là ý thức phản tỉnh cao độ của các tác giả về bút pháp: họ không ngừng phát hiện những cách kể khác nhau; điều được kể nhiều khi không còn quan trọng bằng cách kể, vì chính sự phong phú vô hạn của cách kể nhiều khi có khả năng biểu lộ những sự thật sâu sắc hơn về cuộc chiến Việt Nam so với những sự kiện ngập ngụa trên báo chí và trong đủ thứ sách vở về lịch sử và chính trị. Như thế, trong gần hai thập niên trở lại đây, văn chương về chiến tranh Việt Nam đã chứng tỏ có những nỗ lực sáng tạo bút pháp mới mang tính cách thẩm mỹ hậu hiện đại. Những nỗ lực này được thực hiện qua vô số cách thế khác nhau không chỉ nhằm diễn tả sự phức tạp cao độ của thực trạng cuộc chiến và tâm cảm con người trong cuộc chiến, mà còn nhằm làm thay đổi những khuôn sáo thẩm mỹ của truyền thống "truyện chiến tranh" của thời https://thuviensach.vn hiện đại. Những nỗ lực này cho thấy một điều: chiến tranh Việt Nam là một cuộc khủng hoảng đa diện xảy ra trong thời hậu hiện đại, để lại những dấu vết trong chiều sâu của tâm cảm của con người hậu hiện đại, và chỉ có những bút pháp hậu hiện đại mới có thể chạm đến chiều sâu ấy. --------- [1]Timothy J. Lomperis, Reading the Wind: The Literature of the Vietnam War (Durham, NC: Duke University Press, 1987) 47. [2]J.T. Hansen, "Vocabularies of Experience", America Rediscovered: Critical Essays on Literature and Film of the Vietnam War, ed. Owen W. Gilman & Lorrie Smith (New York: Garland, 1990) 134-135. [3]Donald Ringnalda, "Unlearning to Remember Vietnam", America Rediscovered: Critical Essays on Literature and Film of the Vietnam War, ed. Owen W. Gilman & Lorrie Smith (New York: Garland, 1990) 65. [4]Gregory L. Morris, "Telling War Stories: Larry Heineman s Paco s Story and the Serio-comic Tradition", Studies in Contemporary Fiction 36:1 (Fall 1994) 58. [5]Larry Heinemann, Paco Story (New York: Farrar, 1986) 3. Những đoạn trích tiếp theo từ tiểu thuyết này sẽ được ghi số trang kèm theo. [6]Tim O Brien, The Things They Carried (London: Collins, 1990) 5. Những đoạn trích tiếp theo từ tiểu thuyết này sẽ được ghi số trang kèm theo. [7]Heidi là nhân vật chính trong câu chuyện trẻ em nổi tiếng cùng tên hồi thế kỷ 19 của nữ văn sĩ Thụy Sĩ Johanna Spyri. (Chú thích của HN-T) https://thuviensach.vn nhiều tác giả Chiến tranh nhìn từ nhiều phía Giữa những lằn đạn, giữa những quê hương Nguyễn Trọng Văn Hậu 30.4 và 7.5 - Ghi nhận từ nhiều phía Đọc loạt bài về ngày 30 tháng Tư và 7 tháng Năm trên talawas, tôi có ba ý kiến xin được đóng góp phản hồi: thứ nhất, về mặc cảm chiến thắng chiến bại, thứ hai, về những người may mắn có nhiều quê hương, thứ ba, về “tinh thần” ngày 30.4 và 7.5. A. Chiến thắng - chiến bại 1. Vinh quang- Anh hùng Có thắng bại của tướng tá, sĩ quan; có thắng bại của binh lính, thường dân và “phó thường dân”. Hãy nói về tướng lãnh hai bên, người Pháp có câu “gloire aux vainqueurs, honneur aux vaincus” (thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng, Cao Tần diễn ca). Cứ theo câu này thì thắng và bại ranh giới rất mong manh, vinh quang cho kẻ chiến thắng và anh hùng cho kẻ chiến bại. Chiến thắng và anh hùng xem ra rất gần nhau, thậm chí lẫn lộn, đổi chỗ cho nhau được. Nội dung câu thành ngữ và cách diễn ca của Cao Tần (mà bại cũng anh hùng ) biểu lộ tính nhân đạo sâu sắc. Nhân đạo chủ nghĩa nên mới dịch honneur thành anh hùng trong khi rõ ràng nghĩa nó là danh dự. Trong các trận đấu (thí dụ, đá banh) người ta nói thua trong danh dự hoặc gỡ một bàn danh dự. Danh dự đây hiểu là chiến đấu “ngoan cường,” tấn công không mệt mỏi, fair play, cống https://thuviensach.vn hiến nhiều pha đẹp mắt, vận may không mỉm cười mà bị thua, đối thủ rất mạnh nhưng ít ra mình cũng vô được một bàn danh dự, v.v. Yếu tố không may và bất lợi dẫn tới việc bại trận của Pháp là vào thời điểm tướng Võ Nguyên Giáp “kéo pháo ra” (25.1.54), cũng chính là thời điểm các cường quốc Anh, Nga, Mỹ, Pháp triệu tập Hội nghị chấm dứt chiến tranhÐông Dương, cùng với sự tham dự của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa (18.2.54). Tướng Võ Nguyên Giáp dồn toàn lực (toàn quân, toàn dân, viện trợ ồ ạt, ý chí quyết thắng ...) để giành thắng lợi cuối cùng, trong khi tướng Navarre ở tình thế “ván cờ thế giới đã thay đổi,” cuối cùng bị dồn vào thế anh hùng chiến bại, nói như sách báo nước ngoài “de Castries, Langlais, Bigeard... đã xuất hiện như những người hùng bi tráng.” Nhận xét về Navarre, tướng Võ Nguyên Giáp nói: Navarre có óc chiến lược nhưng không biết gì về chiến tranh nhân dân (...) Bẩy tướng tư lệnh tiền nhiệm đã thay nhau, và đã vi phạm cùng một sai lầm. Bất cứ vị tướng tư bản nào cũng sai lầm như vậy, trong vị thế của Navarre. Bằng cớ là sau Ðông Dương họ khai chiến ở Algérie. Sau đó là người Mỹ (...) Công bình mà nói, tới lúc này (đầu 1954) Navarre không đáng chê trách như nhiều người sau đó đã lên án.” Với tướng lãnh Pháp, tướng Võ Nguyên Giáp là người chiến thắng; với tướng Võ Nguyên Giáp, các tướng lãnh Pháp tại Ðiện Biên Phủ cũng là những người hùng hoặc ít ra là người hùng bi thảm. Trên bình diện nhân loại, tướng Võ Nguyên Giáp đã thông cảm, biện hộ, thậm chí chia sẻ tình huống khó khăn của Navarre. Không có vấn đề thắng bại. Nếu chẳng đặng đừng phải chiến đấu để bảo vệ đất nước, tôi sẽ chiến đấu anh dũng hơn anh, dữ dội hơn anh, nhưng nếu cần lòng bác ái, nhân từ tôi cũng sẽ bác ái, nhân từ hơn anh gấp nhiều lần, có thể nói đó là cái tâm rất nhân hậu của tướng Võ Nguyên Giáp. Với lòng yêu quý vô hạn, tôi muốn coi thắng lợi của tướng Võ Nguyên Giáp như biểu tượng sinh động của tinh thần đại hùng, đại lực và đại từ bi của dân tộc, thắng lợi thần kỳ đến nỗi các dân tộc thuộc những nền vănhóa khác nhau đều tỏ lòng quý trọng và khâm phục. https://thuviensach.vn Cũng trong tinh thần trên, tướng Dương Văn Minh phải được coi là một anh hùng. Không có thắng bại, chỉ có sự thể hiện tinh thần trách nhiệm, những mệnh lệnh oan nghiệt thời chiến và lòng nhân từ của một vị tướng, trong một hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc. 2. Tự tôn và tự ti Về mặc cảm của binh lính, thường dân, “phó thường dân”: Mặc cảm là tập hợp những xu hướng tâm lý trong trạng thái xung đột lẫn nhau và gây ảnh hưởng một cách vô thức, lên thái độ, cử chỉ của một cá nhân. Về mặt phân tâm học, Bleuler và sau đó Freud, cách đây 80, 90 năm, đã nói tới những mặc cảm thường thấy thời thơ ấu của đứa trẻ như mặc cảm Oedipe (con gái yêu cha ghét mẹ, con trai yêu mẹ ghét cha), mặc cảm bị thiến (lo sợ vì không có dương vật – ở con gái - hoặc bị cắt bỏ mất dương vật - ở con trai- , mặc cảm dứt sữa (thiếu hụt, mất mát thứ đáng lẽ mình vẫn có) v.v. Mặc cảm được hình thành thời thơ ấu từ một nhân vật, một hoàn cảnh cụ thể; nếu không được giải quyết ổn thỏa nghĩa là tách khỏi, vượt qua nhân vật hoặc hoàn cảnh gây mặc cảm, nó có thể để lại những dấu ấn tâm lý tai hại, ảnh hưởng suốt tuổi trưởng thành sau này (thí dụ, mặc cảm Oedipe). Mặc cảm “trốn chạy khỏi tổ quốc” là một loại mặc cảm đặc biệt, nó vượt khỏi những mặc cảm tâm lý thông thường được Bleuler và Freud nói tới. Nó liên hệ tới mặc cảm phạm tội, sự bù trừ, tự tôn- tự ti, vô thức tập thể, thuộc phân tâm học của Jung và Adler. Tổ quốc, quê hương, nhân dân, dân tộc, đồng bào, truyền thống, thần thoại, những giá trị văn hóa lịch sử, bản sắc, cá tính dân tộc v.v., tất cả tạo thành một toàn khối rất mơ hồ trừu tượng nhưng cũng rất cụ thể sinh động, https://thuviensach.vn quy định cách sống, cách nghĩ, bản lãnh bản sắc của từng cá nhân trong cộng đồng dân tộc. Trốn chạy khỏi tổ quốc, tách biệt khỏi dân tộc tạo ra một loạt phản ứng tâm lý tiêu cực: phản bội, thua cuộc, vọng ngoại, mất gốc... Lúc đầu, song song với tâm lý trên cũng phải kể tới tâm lý phục thù. Tâm lý này dựa trên hai tiền giả định: thứ nhất, cuộc đời là một canh bạc, một ván cờ, thua keo này bày keo khác; thứ hai: tình hình quốc tế và quốc nội có thể đảo ngược. Về sau tâm lý này dần dần mờ nhạt đi [có lẽ vì thấy tình hình khó có thể đảo ngược, hoặc xuất hiện những yếu tố mới (hội nhập, toàn cầu hóa) hoặc phương cách đấu tranh cũ không hữu hiệu (vụ Fulro trước kia, vụ Tây Nguyên hiện nay]. Tâm lý những người xa quê hương lúc này lắng xuống thành một thứ mặc cảm có tính phổ biến và khá đặc trưng của lớp người Việt lưu vong: mặc cảm tự ti. Người ở lại có mặc cảm tự tôn (vì được tham dự vào chiến thắng, vì được cả một hệ thống tôn ti trật tự, chuẩn mực, tiêu chuẩn xã hội bảo đảm cho mặc cảm tự tôn của mình) và cũng có nhiều thành phần khác có mặc cảm tự ti (vì những tiêu chuẩn trong đảng ngoài đảng, lý lịch, thành phần). Ðiều đáng nói ở đây là mặc cảm tự tôn thường thấy ở người trong nước và mặc cảm tự ti ở Việt kiều. Xét trong hoàn cảnh riêng biệt cụ thể, có những văn nghệ sĩ, trí thức, nhà khoa học ...có tài, được bạn bè và xã hội quý trọng, họ ý thức rõ điều này và có mặc cảm tự cao về mình – tôi nghĩ thái độ tự cao đó thật cũng xứng đáng. Tuy nhiên, nhìn chung những người ra đi có mặc cảm tự ti. Hình như định mệnh (hoặc lịch sử, vận nước, thời cuộc?) đã lựa chọn cho họ một số phận như vậy, cho tự tôn hoặc bắt phải tự ti. Một thứ chủ nghĩa lý lịch thời toàn cầu hóa. Sự thực không phải như vậy. Mặc cảm nói chung và mặc cảm tự tôn - tự ti nói riêng chỉ là một trạng thái tâm lý có tính giai đoạn chứ không phải là một thuộc tính cố định, nhất sinh bất biến, gắn chặt vào cuộc đời một con người. Một trong những nguyên tắc để giải tỏa mặc cảm https://thuviensach.vn là phải vượt qua nhân vật hoặc hoàn cảnh đã sinh ra mặc cảm. Ðiều kiện giải tỏa mặc cảm thực ra hiện diện ngay trước mắt chúng ta. 1975: trong chiến tranh giải phóng dân tộc, những người bỏ tổ quốc ra đi bị mặc cảm tự ti, những người chiến thắng ở lại có mặc cảm tự tôn. Từ những năm 1990 đến nay, trong hòa bình xây dựng đấtnước, a) Chủ nghĩa xã hội đã từng một lần bị phá sản vì không đáp ứng được yêu cầu của thời đại, sau đó đã phải sửa sai, đổi mới để đi vào hội nhập, toàn cầu hóa; b) Trong hội nhập, toàn cầu hóa, chính khối lượng Việt kiều hải ngoại lại có những điều kiện thuận lợi hơn (về tri thức chuyên môn, về tổ chức quản lý xã hội đại công nghiệp, kinh tế thị trường, về khả năng tài chánh, về các mối bang giao quốc tế v.v.) để đáp ứng những yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Nói cách khác, những người có mặc cảm tự ti đang trở thành người có mặc cảm tự tôn, và ngược lại, những người có mặc cảm tự tôn đang mang mặc cảm tự ti (thua kém về tri thức, thiếu khả năng, mất dần những đặc quyền đặc lợi, chia rẽ, tham nhũng, thoái hóa biến chất...). Lấy một thí dụ điển hình trong phạm vi văn học nghệ thuật: Những người cầm bút Việt Nam ở hải ngoại tự hào về chủ nghĩa hậu hiện đại – trong lý luận phê bình và sáng tác văn học – và đang tìm cách du nhập nó vào Việt Nam, bổ sung cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ðối với một số người, từ 1954 đến nay, tại Việt Nam chưa từng tồn tại một nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa mà chỉ có một thứ văn chương thời vụ, mang nặng tính khẩu hiệu và tuyên truyền. Nếu vấn đề học thuật trên được thảo luận công khai, thẳng thắn và đầy thiện chí giữa người Việt hải ngoại và ở trong nước, ta có thể thấy ai đang tự tôn, ai đang tự ti?! Giải tỏa mặc cảm tự tôn hoặc tự ti là điều cần thiết. Nó giúp ta quẳng bớt một gánh nặng tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực. Mặt khác, nó giúp nhìn nhận và giải quyết vấn đề một cách khách quan khoa học hơn. Tuy nhiên điều quan trọng nhất không phải là giải tỏa mặc cảm hoặc https://thuviensach.vn chứng minh tôi hơn anh hay anh hơn tôi mà là cùng nhau làm một điều gì tích cực cho đất nước và dân tộc, dù ở trong hay ngoài nước. B. Chúc phúc cho người có nhiều quê hương 1. Bài của Claudia Việt-Ðức Borchers, Cha tôi giữa những quê hương gây cho tôi nhiều xúc động. Có những tình tiết trong bài văn tôi thấy rất giống với những kinh nghiệm sống thực của đời mình. Thí dụ đoạn ông Erwin Borchers, ba của Claudia Việt-Ðức Borchers, phải đi Ðiện Biên Phủ, vậy nên đứa bé phải mang một cái tên gì gợi nhớ ông, nếu chẳng may ông không trởvề từ mặt trận này. Chi tiết này diễn tả đúng hệt tâm lý của một tập thể những người trẻ tuổi – trong đó có tôi - hồi 1964-65, tuy hoàn cảnh có hơi khác một chút. Ra trường năm 1963, tôi được điều về dậy triết tại trường Tống Phước Hiệp, Vĩnh Long. Chỉ một ít lâu sau tôi nhận được tờ Trí thức mới (in ronéo) của Mặt trận, mấy “ổng” bắt liên lạc với tôi. Hồi đó, đường Vĩnh Long – Sài Gòn thường bị Việt Cộng đắp mô. Ðólà những ụ đất lấy từ bờ ruộng lên, đắp sơ sài cao khoảng 1 mét chắn ngang qua mặt lộ, bên trong có gài chất nổ. Xe đò gặp mô phải dừng lại, nối đuôi hàng cây số, chờ công binh tới gỡ mìn, xe nào cố luồn lách hoặc phá mô vượt qua sẽ bị banh xác. Trong những dịp Tết hoặc nghỉ hè, chúng tôi – những thầy giáo trẻ tại Vĩnh Long, Sa Ðéc , Long Xuyên - thường về nhà ở Sài Gòn, do đó thường gặp cảnh đắp mô và đôi khi cũng thấy cảnh xe đò bị banh xác. Tôi kể cho thầy me tôi nghe chuyện đắp mô nhưng giấu chuyện “rủ rê” của mấy ổng. Cả nhà chăm chú nghe và tỏ vẻ rất lo lắng, thầy tôi trở nên đăm chiêu, ít nói. Từ đó, mỗi lần tôi rời Sài Gòn đi Vĩnh Long, thầy me tôi và mấy đứa em, tuy không nói ra nhưng qua ánh mắt tôi biết đều coi như tôi đang đi vào một nơi nguy hiểm, biết đâu “chẳng may không trở về.” Trong câu chuyện, khi ra trận, ông Erwin Borchers đã ấp ủ trong lòng cái tên con gái của mình, Claudia Việt- Ðức Borchers, gọi là chút gì để gợi nhớ Ðiện Biên Phủ – Hà Nội. Mẹ tôi lại thương con theo cách khác: bà luôn luôn hỏi tôi thích ăn món gì để bà làm cho ăn trước khi ra đi. Tôi nhớ tôi luôn đòi ăn https://thuviensach.vn món bún thang hoặc bánh cuốn cà cuống, một phần vì tôi thích thật, một phần để làm cho mẹ tôi vừa lòng. Cho dù có gặp mô hay bị banh xác trên đường đi Vĩnh Long thì hương vị cà cuống có lẽ sẽ là tín hiệu cuối cùng gợi nhớ thầy me và gia đình tôi ở Sài Gòn. 2. Một điều nữa làm tôi suy nghĩ nhiều khi đọc bài của Claudia Việt- Ðức Borchers viết về Erwin Borchers, đó là ý tưởng về những người sống giữa hai lằn đạn. Erwin Borchers tham gia hoạt động chống phát-xít, bị Ðức Quốc Xã truy lùng phải trốn sang Pháp. Tại Pháp lại bị quản chế vì bị tình nghi là gián điệp Ðức. Gia nhập đoàn quân lê dương của Pháp để thoát cảnh tù đày và có thể tiếp tục chống phát-xít Ðức. Sang Algérie rồi sang Ðông Dương, cuối cùng thất vọng về đường lối thực dân của Pháp đã bắt liên lạc với Việt Minh. Erwin Borchers được Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Ðồng và Trường Chinh đích thân đón nhận vào hàng ngũ kháng chiến. Trong suốt 9 năm kháng chiến, Erwin Borchers giữ nhiều trọng trách trong hoạt động tuyên truyền địch vận (ra tờ báo đầu tiên của Việt Minh bằng tiếng Pháp, kêu gọi lính Pháp và lính lê dương trong quân đội Pháp bỏ hàng ngũ, về với chính nghĩa của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, giáo dục hàng binh, tù binh Pháp). Erwin Borchers cũng có mặt trong trận Ðiện Biên Phủ lịch sử. Tuy nhiên trong “thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, nhà chúng tôi ở bị theo dõi (...) Sau ngày giải phóng, ông gặp rắc rối với Ðảng ở đây. Có thể nói là người ta đã bỏrơi ông, coi ông là “quá tư sản” không đủ lòng “trung thành với đường lối” thời ấy. Ông cấm con cái là chúng tôi không được hát những bài hát thiếu nhi mang mầu sắc chính trị học ở trường về , bởi nội dung các bài hát đó quá giáo điều. Cha tôi luôn chống đối mọi giáo điều, nhưng trong thâm sâu con tim ông vốn https://thuviensach.vn nguyên là một người cộng sản. Thất vọng vì tất cả, ông không muốn tham gia cuộc chiến tranh giải phóngtiếp theo ở Việt Nam. Thế nên trong hoàn cảnh đó, ông quyết định trở về quê hương, nước Ðức. Chuyện đó xẩy ra năm 1966.(...) Có lần ông nói với tôi rằng ông muốn được rắc nắm tro của mình vào một nơi nào đó trên đất nước Việt Nam (...) Trong tôi còn lại một người cha, thế nào đó, như thể một người không có quê hương (...) Với người Ðức, tôi nghĩ bằng tiếng Ðức và bên bạn bè Việt Nam, tôi nghĩ bằng tiếng Việt. Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của tôi. Tôi tự hào làm người con của mẹ cha khác biệt hai dòng máu. Hoàn cảnh đó làm cho cuộc đời tôi phong phú hơn.” Sống giữa hai lằn đạn là tâm lý phổ biến và đặc trưng của Việt Nam, đối với người Việt cũng như người ngoại quốc sống tại Việt Nam, như trường hợp Erwin Borchers. Thời kháng chiến chống Pháp, rồi kháng chiến chống Mỹ, rồi thống nhất cả nước đi vào hội nhập, toàn cầu hóa v.v., ở đâu, lúc nào trên thế giới cũng có tình trạng sống giữa hai lằn đạn, tuy nhiên hiện tượng này như được thể hiện tập trung và rõ nét hơn cả tại Việt Nam. Hãy lấy thí dụ tình cảnh những người cầm bút miền Nam thời chống Mỹ cứu nước trước đây. Một bên là Mỹ, tư bản chủ nghĩa, đế quốc, xâm lược, thực dân, CIA/ một bên là Cộng sản, chủ nghĩa xã hội, VC, cách mạng, giải phóng/ đứng giữa là Quốc gia, tay sai. Trên nguyên tắc, Mỹ = chống Cộng , Cộng sản = chống Mỹ, Quốc gia = chế độ tay sai của Mỹ nên về nguyên tắc cũng chống Cộng. Trên thực tế, mối quan hệ giữa ba thực tại đó phức tạp hơn nhiều chứ không đơn giản như vậy. Mỹ tại Việt Nam chống Cộng nhưng Mỹ chóp bu tại Washington có thể đi đêm với Cộng sản. Cộng sản cũng vậy. Vấn đề là ở anh quốc gia. Quốc gia không chỉ có nghĩa là chính quyền “tay sai” mà còn là đám đông quầnchúng nhân dân, không đứng giữa Mỹ và Cộng sản, trái lại khi nghiêng bên này, khi nghiêng bên kia. Anh được cả hai phía https://thuviensach.vn mời mọc, níu kéo. Thân Mỹ nhưng làm như chống Mỹ/ đứng giữa/ thân Cộng thì Cộng sản mới để cho yên thân. Thân Cộng nhưng làm như chống Cộng/ đứng giữa/ thân Mỹ thì Mỹ, quốc gia mới để yên, cho qua. Ðó là cái triết lý “thực dụng” kiểu Việt Nam để sống giữa hai lằn đạn, chính nhờ triết lý đó mà người ta vượt qua mọi thử thách, và tồn tại được cho tới giờ phút quyết định cuối cùng. Quốc gia/đứng giữa nhưng nếu hơi ngả sang Mỹ một chút anh sẽ bị CS dòm ngó, bị coi là CIA, tay sai, mật vụ, chỉ điểm, có tội với nhân dân (một lằn đạn); nhưng nếu có dấu hiệu đã ngả sang CS hơi nhiều anh sẽ bị Mỹ, quốc gia coi là ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản, Cộng sản nằm vùng (hai lằn đạn). Tốt nhất là đóng vai “quốc gia/đứng giữa” ngả sang Mỹ nhưng làm như không ngả sang Mỹ hoặc ngả sang Cộng sản mà làm như không ngả sang CS. Như vậy là được lòng cả hai bên, nếu có bị ghi sổ đen thì cũng không đến nỗi bị bắt, nếu có bị bắt thì cũng không đến nỗi bị đánh đập tàn nhẫn hoặc bị thủ tiêu (giữa hai lằn đạn). Cuộc chiến này có điều lạ là tôi biết anh thân Mỹ, chống Cộng hoặc anh biết tôi là thân Cộng, chống Mỹ nhưng cả hai bên đều làm ngơ, coi như không biết, để công việc trôi qua “bình thường,” miễn là đừng gây ra điều gì “nổi cộm”quá. Có nhiều trường hợp hai người ở lập trường đối nghịch nhau còn bao che, nương tay cho nhau, thậm chí còn báo tin cho chạy trốn trước khi việc lùng bắt hoặc thủ tiêu diễn ra (giưã hai lằn đạn). Có một thực tế rất sâu sắc, ít khi được nói ra: cả hai đều biết đối thủ của mình vì miếng cơm manh áo mà phải làm như vậy, không ai hoàn toàn tin vào Mỹ, vào Cộng sản hay vào VNCH. Vì vậy người ta đóng vai diễn của mình một cách vừa phải, không hay quá hoặc dở quá, ngoài mồm thù ghét, hù dọa, kết án nhưng trong lòng vẫn có sự tôn trọng hoặc thông cảm, bao che. Có những sinh viên làm mật vụ/tình báo/CIA cố ý bao che hoặc làm ngơ đối với những ông thầy mà họ biết rõ là thân Cộng/nằm vùng. Và ngược lại (giưã hai lằn đạn). Sống giữa hai lằn đạn nên ai cũng phải đeo mặt nạ, có con người thực https://thuviensach.vn và con người giả. Giả là con người bề ngoài, một chức vụ, một nhân vật của nhà nước, của Mỹ, của VC. Con người thực, sâu thẳm, kín đáo, gạt bỏ mọi chức tước, nhãn hiệu. Trong tôi có những yếu tố là của anh, trong anh cũng có nhiều yếu tố là của tôi. Cái xấu, cái tàn bạo, xảo trá và cái tốt, cái chính nghĩa, cái tình người tồn tại xôi đậu, chuyển hóa lẫn nhau. Nhiều khi, chúng được biểu hiện bằng những hành động trái ngược với tên gọi của chúng. Rất khó đánh giá, khen chê sự việc như là sự việc. Sau khi thống nhất đất nước, Cộng sản đã nắm quyền, tâm lý giữa hai lằn đạn còn hay mất? Nó đã biến đổi như thế nào? Hồi nghiên cứu về trí thức khuynh tả tại Pháp, nhất là phong trào tháng 5-68, tôi đã đặt câu hỏi này và câu trả lời là một nghi vấn. Ngày nay, có thể nói tâm lý giữa hai lằn đạn vẫn còn nguyên, thậm chí tăng thêm, tinh vi, vô hình và đáng sợ hơn. Ðất nước thống nhất nhưng một số ở lại, một số ra đi. Tâm lý thân Cộng, chống Cộng, chờ xem Cộng sản ra sao vẫn còn. Anh thân Cộng nói điều gì cũng sẽ bị anh chống Cộng hoặc anh chờ xem nghi ngờ. Ngược lại, anh chống Cộng nói ra điều gì cũng bị anh Cộng sản, thân Cộng hoặc chờ xem theo dõi! Bản thân anh thân Cộng, anh Cộng sản, anh chờ xem... nói ra điều gì cũng sẽ bị các anh khác nghi ngờ, dè dặt. Chúng ta đeo mặt nạ sống với nhau. Nhiều đảng viên hoạt động bí mật, đến khi đất nước hòa bình, cần xác minh một vụ việc, ở một giai đoạn cụ thể nào đó, công việc xác minh thật không đơn giản. Ðôi khi phải chịu cảnh thiệt thòi, oan ức, xúc phạm danh dự... không đáng có. Ðối với những anh em không phải là đảng viên, vấn đề càng phức tạp hơn. Kinh nghiệm này ai cũng từng nếm qua, đó là kinh nghiệm méo mặt giữa những lằn đạn. Vấn đề đánh giá con người sống giữa hai lằn đạn Vấn đề giữa hai lằn đạn gồm 5 yếu tố: 1) Ðế quốc Mỹ, chủ nghĩa tư bản; 2) Cộng sản, chủ nghĩa xã hội; 3) Nhân dân Việt Nam; 4) chủ nghĩa yêu nước; 5) Hội nhập, toàn cầu hóa. Liên hệ tới yếu tố 1: ta có chủ nghĩa thực dân của Pháp, chủ nghĩa https://thuviensach.vn thực dân mới của đế quốc Mỹ. Chế độ dân chủ, tự do/ của dân do dân vì dân. Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, xâm chiếm thuộc địa, nô lệ hóa các dân tộc... Chống Cộng sản và những người theo Cộng sản. Lằn đạn thứ nhất. Liên hệ tới yếu tố 2: chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, quốc tế vô sản, chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp, chuyên quyền, giáo điều, kinh tế chỉ huy, chế độ tem phiếu v.v. Ðiểm quan trọng đáng nhớ: Quốc tếIII có đặt vấn đề giải phóng dân tộc. Chống thực dân, đế quốc và những người làm việc cho/ cộng tác với thực dân, đế quốc. Lằn đạn thứ hai. Liên hệ tới yếu tố thứ 3: yếu tố chính của hệ thống. Ðang từ tình trạng thuộc địa đấu tranh cho độc lập, chủ quyền, trở thành bãi chiến trường cho hai lằn đạn, nhân dân Việt Nam có ba khả năng: 1) Ðấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do, hạnh phúc; 2) Sau khi giành được độc lập, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa; 3) Phát triển “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo định hướng tư bản chủ nghĩa. Liên hệ tới yếu tố thứ 4: đấu tranh giải phóng dân tộc có một vai trò rất quan trọng, nó là mẫu số chung giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc, chủ nghĩa xã hội (quốc tế III) có thể song hành với chủ nghĩa yêu nước nhưng sau khi đã cướp được chính quyền (chuyển từ đảng cách mạng sang đảng cầm quyền) thì chủ nghĩa xã hội lại tách ra vì hai chủ nghĩa khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa yêu nước phát triển lên thành độc lập, dân chủ, tự do còn chủ nghĩa xã hội phát triển lên thành quốc tế, chuyên quyền và giáo điều. Liên hệ tới yếu tố thứ 5: đây là nhân tố mới làm thay đổi toàn bộ ý nghĩa của các yếu tố kia. 1) Ðế quốc Mỹ và CSthay vì tiêu diệt nhau bây giờ lại bắt tay, coi nhau như “bạn bè” thân thiết, vừa đấu tranh vừa hợp tác; 2) Giải phóng dân tộc, độc lập chủ quyền thì bây giờ dân tộc phải hiểu là gắn liền với quốc tế, độc lập là liên lập, hợp tác cùng phát https://thuviensach.vn triển; 3) Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội bây giờ thành yêu nước là phấn đấu xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; 4) Trước kia ta chủ trương tiến thẳng từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa xã hội, bây giờ ta điều chỉnh lại phải qua con đường vòng tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường “phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.” 5) Trước kia là tiến từ chủ nghĩa yêu nước lên chủ nghĩa xã hội nhưng từ những năm 1990, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, phải can đảm nhìn thẳng vào sự thật là chúng ta đang chuyển ngược từ chủ nghĩaxã hội về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc. Chính sự tương tác giữa 5 yếu tố nói trên tạo ra ý nghĩa sống chết của những thân phận sống giữa hai lằn đạn. Có một giai đoạn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội cùng nhau làm nên kỳ tích, sau đó là một giai đoạn lãng mạn cách mạng vô cùng nghiệt ngã; giờ đây lại cùng nhau bước vào hội nhập, toàn cầu hóa, một kế tục truyền thống vẻ vang của dân tộc, một đang phải bắt đầu lại từ con số không. Cả hai, tay trong tay, đại đoàn kết, đại đoàn kết. Cuộc đời thì vẫn lặng lẽ trôi, theo quy luật của nó. 3. Chúng ta may mắn sống sót và thấy được những sự thật đáng kinh hoàng hồi 1990. Erwin Borchers không có được cái may mắn đó, ông mất năm 1984. Người cộng sản chân chính, lý tưởng và cương trực ấy khi nhìn lại chủ nghĩa xã hội hiện thực trước mặt đã không tránh khỏi u buồn, thất vọng. “Thất vọng vì tất cả, ông không muốn tham gia cuộc chiến tranh giải phóng tiếp theo ở Việt Nam.” Mấy năm trước khi mất, ông rơi vào tâm trạng u uất, trầm cảm. Và còn hơn thế nữa, theo Claudia Việt- Ðức Borchers “trong tôi còn lại một người cha, thế nào đó, như thể một người không có quê hương.” Càng chân chính, lý tưởng, cương trực bao nhiêu thì càng thất vọng, suy sụp, hụt hẫng bấy nhiêu. Hụt hẫng như bị mất chân đứng, rơi vào chân không. Không có quê hương tinh thần, mất chỗ dựa lý luận. Chủ nghĩa xã hội đã từng là tất cả, nay thực tế trước mắt, tại Việt Nam https://thuviensach.vn và trên thế giới, cho thấy nó không tốt đẹp như mong ước, mà hơn thế còn chứa đựng những sai lầm, xấu xa đáng ghê sợ. Sám hối. Vỡ mộng. Sự thật, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa yêu nước có một mẫu số chung là sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Erwin Borchers nghĩ rằng mình đã đóng góp với tư cách một chiến sĩ Cộng sản, trong khi thực ra, theo tôi, ông đã hoạt động như một chiến sĩ đấu tranh vì lý tưởng độc lập tự do cho/với dân tộc Việt Nam. Ðây là hoạt động hết sức cao đẹp và có ý nghĩa, giống như hoạt động của các người da trắng, da mầu trên khắp thế giới đấu tranh cho hòa bình, độc lập của Việt Nam; không thể nói là không có quê hương, chính ông cũng đã từng mơ ước “được rắc nắm tro của mình vào một nơi nào đó trên đất nước Việt Nam.” Việt Nam là một quê hương, mãi mãi là một quê hương tươi đẹp, anh hùng trong thế giới mơ ước của Erwin Borchers. Trường hợp Erwin Borchers là biểu tượng cho một thế hệ những người Việt và người nước ngoài trong giai đoạn giữa hai lằn đạn, tức là giai đoạn đấu tranh chung giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội chống chủ nghĩa đế quốc. Ðó cũng là giai đoạn của những sai lầm bước đầu trong công cuộc xây dựng xã hoäi chủ nghĩa (cải cách ruộng đất, Nhân văn-Giai phẩm ở miền Bắc, hợp tác hóa, cải tạo tư sản ở miền Nam). Những người Việt hải ngoại hoặc lưu vong, có một thời cũng mặc cảm như Erwin Borchers, không có quê hương. Tới 2004, tức là 20 năm sau khi Erwin Borchers nằm xuống, tình hình và ý nghĩa mọi sự việc đã thay đổi hẳn. Bước vào thời đại công nghệ thông tin, kinh tế tri thức, hội nhập toàn cầu hóa, tư bản-cộng sản “chung sống hòa bình” theo chu kỳ xoáy ốc, những ranh giới địa lý, chính trị, tâm lý được nới rộng. Chúng ta có nhiều quê hương. Cái “tôi” được trải rộng, quê hương được trải rộng, và sự trung thành với quê hương cũng được trải rộng, người ta nói tới double fidélité, triple fidélité (R.Aron). Claudia Việt-Ðức Borchers, dù là một nữ họa sĩ, đã dùng chữ thật tài tình khi chọn đề bài của mình: Cha tôi, giữa những quê hương. C. Tinh thần ngày 30.4 và 7.5 1. Có một sự trùng hợp kỳ lạ của hai con số 30.4 và 7.5: một con số chỉ https://thuviensach.vn ngày 30.4.75, ngày thống nhất đất nước, một con số chỉ ngày 7.5.54, kỷ niệm 50 năm chiến thắng Ðiện Biên Phủ. Tách ra là hai, nhưng gộp lại là một. Từ lâu, tôi thường tự hỏi, cái làm nên sức mạnh biến cố lịch sử 7.5 và 30.4 xét cho cùng là gì? Theo tôi, tinh thần, tức linh hồn, tức sức mạnh thần kỳ của ngày 30.4 và 7.5, dù là hai hay là một, là sự kết tinh của ba yếu tố: 1) đại đoàn kết; 2) ý chí quyết chiến quyết thắng; 3) vì độc lập, tự do, hạnh phúc toàn dân. Năm nay, kỷ niệm ngày 30.4.2004 và 7.5.2004, chúng ta có làm sống lại được tinh thần ngày 30.4 và 7.5 hay không? 2. Một tâm lý hơi khác thường đang len lỏi vào tâm trí mọi người và dần dần trở thành quen thuộc, thậm chí nhàm chán, một tâm lý có vẻ mâu thuẫn khi nhắc tới những ngày lễ lớn 30.4 và 7.5: một mặt chúng ta háo hức, tự hào, hơn thế muốn khoa trương về những thắng lợi của lịch sử dân tộc, với nhau cũng như với người nước ngoài, nhưng mặt khác chúng ta lại cảm thấy có điều gì mỉa mai, đáng xấu hổ, hình thức chủ nghĩa trong việc tổ chức những ngày lễ đó. Hình như vì không có sựtương hợp giữa nội dung và hình thức. Chúng ta nhắc tới ngày 30.4 và 7.5 nhưng lại thiếu tinh thần của ngày 30.4 và 7.5. Phải kết hợp truyền thống và hiện đại, biến tinh thần Ðiện Biên Phủ (1954), Ðiện Biên Phủ trên không (1972) thành tinh thần Ðiện Biên Phủ chống đói nghèo, kém phát triển, đưa đất nước tiến lên dân giàu nước mạnh, ngang tầm các nước tiên tiến trên thế giới (2004) v.v. Dĩ nhiên, là người Việt Nam ai chẳng mong muốn như vậy. Tuy nhiên, mơ ước là một chuyện, còn biến mơ ước thành hiện thực lại là chuyện khác. Hãy nhìn vào thực tế trước mắt, mấy chục năm trôi qua, những yếu tố tạo ra tính thần kỳ của Ðiện Biên Phủ trước kia, giờ đây đã bị sói mòn, bị biến dạng như thế nào? Ðại đoàn kết? Thực tế ta đang chia rẽ, mất đoàn kết (trong đảng ngoài đảng, Kinh- Thượng, tôn giáo, thành phần, lý lịch, giữa hai ba lằn đạn...) Ðâu rồi ý chí sắt thép, muôn người như một, hoàn thành một sứ mạng lịch sử cao quý? Trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, có biết bao người lo làm ăn lương thiện, đóng góp công sức chính đáng của mình; trái lại có những ông quan cách mạng ăn trên ngồi trốc, tham nhũng, đặc quyền đặc lợi, làm giàu bất chính... chứ không phải ai cũng một lòng phấn đấu https://thuviensach.vn xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Vì lợi ích toàn dân? Nhà nước của dân do dân vì dân? Hãy tự xét lại mình xem chúng ta thực sự đang phấn đấu vì lợi ích 80 triệu người hay chủ yếu vì lợi ích của không đầy 2 triệu người? Muốn có Ðiện Biên Phủ, phải có tinh thần đại đoàn kết, ý chí quyết chiến quyết thắng, đấu tranh vì lợi ích toàn dân. Không có tinh thần đại đoàn kết, không có ý chí quyết chiến quyết thắng, không một lòng đấu tranh vì lợi ích toàn dân, sẽ không có Ðiện Biên Phủ. 3. Ðó là hiện tượng, còn bản chất vấn đề nằm ở đâu? Chúng ta thường nói tới bốn hiểm họa là tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng và diễn biến hoà bình. Bốn hiểm họa trên, ai cũng thấy, chúng ta đều hội đủ cả. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh tới hiểm họa tham nhũng, xét dưới khía cạnh tâm lý và ngữ nghĩa học chứ không dưới khía cạnh chính trị, xã hội (vì người ta đã nói nhiều quá rồi). Thứ nhất, ý nghĩa của một câu chữ (thí dụ chữ tham nhũng) không nằm trong chính câu chữ đó mà nằm trong mối quan hệ với hệ thống những câu chữ (thí dụ trong tiếng Việt, với các chữ ăn tiền, sách nhiễu, đút lót, trà nước, bôi trơn, tiêu cực phí, phong bì, chung chi...) và với thực tại bên ngoài câu chữ, thực tại này có thể là thực tại ảo trong đầu óc con người (“tái phân phối lợi tức,” “bao che,” “bảo kê xã hội đen kiểu Năm Cam,” chạy quyền, chạy chức, chạy tội...) hoặc thực tại sống thực bằng xương bằng thịt (cơ chế tham nhũng từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, có lộ trình, có bước đi, có đẳng cấp rất lớp lang bài bản...). Thứ hai, không những gắn liền với một hệ thống ý nghĩa, mỗi câu chữ còn tạo ra một hệ thống thái độ, cử chỉ tương ứng. Ðối với người coi tham nhũng như một hiện tượng bình thường, phổ biến , xảy ra mọi nơi, mọi cấp, chữ “tham nhũng” tạo thái độ chịu đựng, mỉa mai, đôi khi đượm chút coi thường hoặc khinh bỉ. Ðối với những người coi tham nhũng như một tệ nạn xã hội, “từ trên trời rớt xuống” chẳng biết do đâu mà ra thì tham nhũng gây cho họ thái độ bức xúc, tìm kiếm cho ra tác giả, ra địa chỉ rõ ràng để quy trách nhiệm của những người “vô cảm,” “vô trách nhiệm,” “dửng dưng trước mọi cảnh bất công, ngang trái trong xã hội.” Ðối với những ai coi tham nhũng như một tội ác cần cương quyết bài trừ, chữ “tham nhũng” tạo thái độ tuyên chiến, dứt khoát. Ðảng viên chân chính cương quyết chống tham nhũng, https://thuviensach.vn anh không cương quyết chống tham nhũng, vậy anh không phải là đảng viên chân chính. Thứ ba, nói câu chữ tạo ra hệ thống thái độ cử chỉ tương ứng cũng có nghĩa là câu chữ nằm trong một hệ thống chuẩn mực, giá trị văn hóa, xã hội nhất định. Và cùng với nó là cả một hệ thống quyền lực. Tới đây, phát triển tâm lý của một người Việt Nam bình thường bị thử thách, nó gặp những đối kháng nội tâm không thể vượt qua được, thường là bị rơi vào trạng thái ẩn ức, bế tắc hoặc ngụy tín (mauvaise foi). Một mặt nó thấy cái xấu xa, đen tối, bất công, tàn nhẫn, vô nhân đạo của tham nhũng, mặt khác nó thấy những thứ đó (dường như) có liên hệ (mật thiết) với những giá trị, những quyền lực cao cấp (thậm chí cao cấp nhất) trong xã hội. Hoảng sợ và thất vọng, nó trốn tránh sự thật, cố đẩy sự thật càng xa càng tốt hoặc đổ cái sự thật xấu xa kia lên đầu người khác. Cái xấu là của người khác, do người khác, vì người khác, không bao giờ có thể là của mình, do mình và vì mình. Cái khác, người khác đó có thể là kinh tế thị trường, triết lý thực dụng, nền hành chánh quan liêu bao cấp, những thế lực thù địch, dân trí quá thấp, chệch hướng, diễn biến hoà bình, truyền thống lạc hậu, bảo thủ, trình độ quản lý tổ chức thấp kém, một số cán bộ thoái hóa biến chất v.v. Nhờ kỹ thuật zoom out chúng ta đẩy ra xa hoặc gán cho người khác những khó khăn sai lầm, để rồi tin hoặc giả vờ tin rằng về phía mình không có vấn đề gì nổi cộm, nhờ đó lương tâm được (tạm thời) thanh thản, trong lòng như vẫn tràn đầy kiêu hãnh và hy vọng (hão). 4. Hiện tượng tâm lý ẩn ức, thái độ ngụy tín kể trên rồi sẽ dẫn tới đâu? Không thể trốn tránh sự thật, cũng không thể ngụy tín mãi mãi. Có hai cách kết thúc khác nhau, tùy sự chỉ dẫn của thực tiễn cuộc sống và ý chí bản thân muốn tự giải phóng khỏi ẩn ức và ngụy tín. Về phía người dân thường, tức người chủ thực sự của đất nước, chỉ cần zoom in, mọi sự thật đen tối, xấu xa lại hiện ra, trần trụi, không che đậy. Mối quan hệ mờ ảo cái xấu xa, bất công, tàn nhẫn và hệ thống https://thuviensach.vn quyền lực trở nên rõ ràng minh bạch hơn, người ta còn thấy được cả mối quan hệ nhân – quả của chúng. Thấy sự thật, nói ra sự thật là bước đầu giải quyết mối ẩn ức tâm lý rất bức xúc được chôn sâu trong lòng, đó là phát hiện và nhìn nhận tôi vừa là tôi vừa là cái–không-tôi, cái vượt-khỏi-tôi trước kia. Hẳn chúng ta còn nhớ, cách đây khoảng 7, 8 năm, quốc hội họp bàn về tham nhũng, có một đại biểu quốc hội đã phản đối việc đưa vấn đề tham nhũng vào chương trình nghị sự vì theo ông như vậy có khác gì công nhận - trước dư luận trong và ngoài nước – một đất nước được Ðảng lãnh đạo và Nhà nước quản lýlại có nạn tham nhũng nổi cộm đến nỗi phải chính thức mổ xẻ trong quốc hội! Con đà điểu biết nói này có lẽ đã chạy bộ về Úc. Ngày nay, quốc hội nhìn vấn đề một cách tỉnh táo, can đảm và khoa học hơn, chẳng hạn quyền hạn và trách nhiệm của bộ trưởng, quyền “cách chức” bộ trưởng bất kể ông là ai. Tự huyễn hoặc trong thái độ ngụy tín, làm như thể tin nhưng thực ra không tin, không tin nhưng lại làm cho mọi người nghĩ là mình tin, đóng kịch lừa dối mọi người và cuối cùng tự lừa dối chính mình, những người nắm quyền lực trong tay đã giải hoặc như thế nào? Người dân thường, khi được thực tiễn mở mắt, thì sốt sắng và nhanh chóng tự giải thoát khỏi những ẩn ức tâm lý và thái độ ngụy tín; với những người có chức có quyền, quá trình diễn ra lắt léo hơn. Họ có thực sự muốn tự giải hoặc hay muốn sống mãi trong ngụy tín? Trước nhất, ngụy tín là đóng kịch để che mắt người dân trong phạm vi có thể được. Giải thích những xấu xa, đen tối, tiêu cực của tham nhũng có nguồn gốc từ bên ngoài, do người khác, chứ không phải do mình (điều mà báo chí và dân chúng gọi là thái độ “vô cảm” và “vô trách nhiệm.”) Chính mình là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp của tham nhũng nhưng lại làm như thể mình cũng chỉ là nạn nhân của tham nhũng mà thôi. Có một hồi kịch bản này phát huy tác dụng, nó che mắt được một số người. Những người này coi tham nhũng như một định mệnh, một thứ “vận nước” lúc suy tàn, chẳng phải trách nhiệm https://thuviensach.vn củaai, nhưngđè nặng lên mọi người, không thể cứu vãn được, chỉ biết chịu đựng, than vãn, kêu trời. Thứ hai, cao hơn, ngụy tín là đóng kịch để che mắt cả phiá tư bản chủ nghĩalẫn phía xã hội chủ nghĩa. Ðây là một thứ ngụy tín vụ lợi, bắt cá hai tay. Một mặt chủ trương phát huy dân chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân, làm kinh tế thị trường, gia nhập WTO, hội nhập toàn cầu hóa v.v., mặt khác lại chủ trương theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vế thứ nhất làm những người theo xu hướng muốn phát triển dân chủ, tự do, kinh tế thị trường, chống chế độ chuyên quyền, quan liêu, mệnh lệnh, giáo điều và kinh tế chỉ huy, vừa lòng, sẵn sàng hợp tác hoặc đầu tư vào Việt Nam; vế thứ hai trấn an những người muốn kiên trì lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng hướng về các nước tư bản phát triển phương Tây để trao đổi, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm mà không sợ mang tiếng phản bội lý tưởng, chệch hướng, diễn biến hòa bình. Lập trường nước đôi trên có nhiều cái lợi, nó giúp giải thích nhiều sự việc, từ nhiều phía: a) nếu tham nhũng trở thành quốc nạn, quốc nhục thì đó là vì kinh tế thị trường, tâm lý làm giàu bất chính, luật pháp lỏng lẻo v.v.; b) con cái các ông lớn đều được gửi đi học tại các đại học danh tiếng phương Tây (chứ không tại Nga) để trau giồi kiến thức và kinh nghiệm về phục vụ tổ quốc xã hội chủ nghĩa một cách hiệu quả nhất; c) tại sao vẫn còn sót lại những biểu hiện của mệnh lệnh, giáo điều? Chúng ta không thể theo dân chủ, tự do quá trớn kiểu tư bản chủ nghĩa. Chúng ta vẫn là người cộng sản theo định hướng xã hội chủ nghĩa; d) Tại sao cần đổi mới? Cần đổi mới để phát triển dân chủ, tự do, làm kinh tế thị trường đồng thời chống óc quan liêu, mệnh lệnh, giáo điều v.v. Thành ra, tin hoặc giả vờ tin những điều trên thực ra có lợi nhiều hơn có hại! Thứ ngụy tín này là kết quả rút ra từ những bài học đổi mới tại Liên Xô và Trung Quốc. Từ kinh nghiệm Liên Xô: đổi mới chính trị trước (dân chủ, tự do, perestroika...) cải cách kinh tế sau sẽ dẫn tới thất bại, rối loạn, vô chính phủ; từ kinh nghiệm Trung Quốc: cải cách kinh tế trước (vấn đề mèo trắng mèo đen...) cải cách chính trị sau có thể đưa https://thuviensach.vn tới thành công. Việt Nam muốn, và trên thực tế, đang theo gương Trung Quốc hơn là Liên Xô. Tuy nhiên, có một khác biệt rất căn bản: Trung Quốc sau khi cải cách kinh tế thực sự có cải cách chính trị (sửa đổi hiến pháp, điều lệ đảng, Ðảng phải phục vụ quyền lợi của nhân dân chứ không phải ngược lại, công nhận quyền tư hữu chính đáng của người dân (= sổ hữu không chính đáng sẽ bị truy cứu trách nhiệm) chống tham nhũng làm giàu bất chính, vai trò quan trọng của dân doanh hơn quốc doanh...) còn Việt Nam thì không/ chưa thấy bày tỏ quyết tâm đó bằng hành động, bằng cơ chế cụ thể. Desaix Anderson nhận xét: “Không diệt tham nhũng thì không thể phát triển kinh tế và càng ngày dân càng mất niềm tin ở nhà nước. Còn quyết tâm cải cách kinh tế để phát triển rồi sẽ phải cải cách chính trị.” Chúng ta không diệt tham nhũng nhưng làm như thể đang cương quyết diệt tham nhũng, không quyết tâm cải cách kinh tế nhưng làm nhưthể đang quyết tâm cải cách kinh tế, không cải cách chính trị nhưng làm như thể đang quyết tâm cải cách chính trị. Thái độ ngụy tín này có thể đem lại lợi lộc, đặc quyền đặc lợi cho một số quan chức cao cấp nhưng rõ ràng đang mài mòn niềm tin trong đông đảo quần chúng nhân dân cũng như người nước ngoài đang đầu tư tại Việt Nam. Về mặt tâm lý, ngụy tín bị giải hoặc, nghĩa là bị vén màn bí mật, sẽ biến thành một trò hề trơ trẽn. 5. Trở lại với ngày 30.4 và 7.5. Liệu chúng ta có thể tìm lại và khôi phục tinh thần ngày 30.4 và 7.5 không? Theo tôi, vấn đề không khó nhưng tế nhị. Không khóù vì thực tế ai cũng mang trong máu tinh thần đó, ngọn lửa vẫn âm i cháy chứ không tắt. Có những người vì lợi ích cá nhân, phe đảng, muốn đánh tráo, muốn che chắn làm nó tối đi, đây là một trò hề đã hạ màn. Tế nhị vì phải làm sao cho các anh hề có cảm tưởng như thể họ tự nguyện và chủ động từ bỏ vai hề, không chịu bất cứ một tác động nào dù tinh tế nhất từ bất cứ một ai. Vấn đề là làm cho tinh thần đó tỏa sáng trở lại. Trong hành trình tìm lại quá khứ, tôi khám phá ra nhiều chân dung, người Việt https://thuviensach.vn Nam và người nước ngoài, xứng đáng là biểu tượng cho hiện tại và tương lai. Trong số này tôi đặc biệt chú ý tới đại tướng Võ Nguyên Giáp và nữ họa sĩ Claudia Việt-Ðức Borchers. Tướng Võ Nguyên Giáp tiêu biểu cho tinh thần đại hùng, đại lực và đại từ bi của dân tộc Việt Nam đang bước vào thế kỷ mới, nữ họa sĩ Claudia Việt- Ðức Borchers tiêu biểu cho tinh thần hội nhập, toàn cầu hóa, chữ làm tôi tâm đắc nhất chính là chữ “giữa những quê hương.” Hội nhập, toàn cầu hóa, kinh tế tri thức, thời đại công nghệ thông tin ..., trong bối cảnh trên chúng ta chẳng phải là người đang sống giữa những quêhương đó sao? TP Hồ Chí Minh - Ðà Lạt https://thuviensach.vn nhiều tác giả Chiến tranh nhìn từ nhiều phía Người đi, thơ còn lại Phạm Xuân Nguyên Tháng 10/2003 báo Quân Đội Nhân Dân có tổ chức một cuộc tọa đàm nhan đề “Thơ hôm nay đi về đâu?”. Thành phần được mời dự cuộc đó là các nhà thơ nhà phê bình thế hệ tứ thập, sau lớp chống Mỹ và trước lớp thơ trẻ hiện nay, có thể tạm gọi là thế hệ hậu chiến. Các ý kiến phát biểu hôm đó đã được đăng lên báo [1] và đã gây ra một số phản ứng. Bị phản ứng nhất là những ý kiến cho thơ chống Mỹ đã hoàn thành sứ mệnh, bây giờ là đến một thời thơ mới. Những người phản ứng cho như thế là phủ nhận quá khứ (một luận điệu khá sáo rỗng và cũ mòn). Tôi viết bài nay như một sự minh định cho cuộc tọa đàm đó. 1. Trước hết cần phân biệt hai khái niệm: Thơ chống Mỹ và Thế hệ thơ chống Mỹ. Thơ chống Mỹ là thơ sáng tác trong thời kỳ diễn ra cuộc kháng chiến chống Mỹ, đội ngũ thơ lúc đó có nhiều thế hệ. Đề tựa cho tuyển tập Thơ chống Mỹ cứu nước (1965 – 1967) Chế Lan Viên viết: “Từ anh Khương Hữu Dụng cầm bút hồi sinh thời cụ Phan Bội Châu đến em bé Trần Đăng Khoa đẻ ra sau ngày hòa bình lập lại, tất cả đều có mặt.” [2] Đội ngũ này làm nên một nền thơ chống Mỹ trong những ngày khói lửa chiến tranh. Thế hệ thơ chống Mỹ hiểu là những người đã trưởng thành và kinh qua chiến tranh, đã có thơ trong chiến tranh hoặc sau khi chiến tranh kết thúc mới có thơ, nhưng thế hệ nhà thơ này khẳng định mình chủ yếu là sau 1975. Hữu Thỉnh ký tên Nguyễn Hữu ở bài thơ về năm anh em trên một chiếc xe tăng in chung trong một tập thơ chiến sĩ năm 1972, và năm 1973 anh được giải ba cuộc thi thơ báo Văn Nghệ với bài Mùa xuân đi đón, đó mới là dấu hiệu khởi đầu. Thanh Thảo được nhà thơ Chế Lan Viên giới thiệu chùm thơ 13 bài trên tạp chí Tác Phẩm Mới năm 1972, đó mới là dấu https://thuviensach.vn hiệu khởi đầu. Nguyễn Duy đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ năm 1973, cũng năm ấy anh có tập Cát trắng xuất bản, đó mới là khởi đầu. Chỉ kể ra ba trường hợp, (có thể kể nhiều nữa), để thấy Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy thành ra họ như hiện nay trong nền thơ Việt Nam nửa sau thế kỷ XX là ở thời hậu chống Mỹ, họ là thế hệ thơ chống Mỹ, sự nghiệp thơ của họ là ở thời hậu chiến, và thơ hậu chiến của họ không phải là thơ chống Mỹ, không phải như khi họ viết trong thời đang chiến. Chiến tranh kết thúc, thơ chống Mỹ kết thúc. Sau chiến tranh thơ (và văn học) viết về chiến tranh phải khác. Thơ đó đã hoàn thành sứ mạng của nó. Sứ mạng tuyên truyền và cổ vũ tinh thần chiến đấu và chiến thắng. Yêu cầu giáo dục đặt trên yêu cầu nhận thức. Hoàn cảnh chiến tranh bắt thơ (và văn học) phải thế, không chỉ ở Việt Nam, ở nước nào cũng thế. Năm 1937 trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, A. Machado viết: Ngòi bút tôi nếu được bằng khẩu súng của anh thôi, tôi sẽ chết yên lòng [3] . Năm 1969 trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Tố Hữu viết: Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ Hơn nghìn trang giấy luận văn chương Thơ đó là một tồn tại, hiểu theo nghĩa Hegel, “cái gì tồn tại là hợp lý, và cái gì hợp lý thì tồn tại”. Chê bai, phủ nhận đều không đúng, và không được, cái tồn tại ở khách quan thì cũng mất đi ở khách quan. Nói điều này để tránh những thái độ suy diễn, quy chụp ra ngoài thơ, đẩy về phía chính trị hay đạo đức, đó là hành động phi chính trị và phi đạo đức, không nói là phi khoa học vì cố nhiên là phi khoa học. Chiến tranh là biến cố bất thường và khác thường trong đời sống một cộng đồng, một dân tộc, một quốc gia, một gia đình, một cá nhân. Thơ chống Mỹ nói cái khác thường, bất thường đó một mặt như cái bình thường, mặt khác https://thuviensach.vn như cái phi thường. Chẳng hạn sự chia ly là điều buồn bã, đau đớn, nhưng các chàng trai cô gái Việt Nam ngày chống Mỹ “xa nhau không hề rơi nước mắt” (Nam Hà), và nếu có khóc thì đó là “những giọt long lanh nóng bỏng sáng ngời, chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi, và rạng đông đã hừng trên nét mặt, một rạng đông với màu hồng ngọc” (Nguyễn Mỹ). Hai người yêu chia tay nhau “anh ôm em, và ôm cả khẩu súng trường bên vai em” (Nguyễn Đình Thi). Không thể khác được, vì tình riêng nằm trong tình chung, ngay từ thời chống Pháp đã vậy, “anh yêu em như anh yêu đất nước” (Nguyễn Đình Thi), đến cả nỗi đau mất người yêu thương xót vò xé cũng chỉ là “một tấm lòng trong vạn tấm lòng” khi “nhớ nhau anh gọi em đồng chí” (Vũ Cao). Nghĩa lớn tình chung buổi vận nước mất còn đã ràng buộc mọi số phận cá nhân và tình cảm riêng tư vào cộng đồng. Thơ chống Mỹ đã làm được điều đó. Nhưng hễ ai đi ra khỏi điều đó thì bị coi là chệch đường, là lạc giọng, là sai sự thật. Và phải bị phê phán. Phạm Tiến Duật nổi lên trong dàn thơ chống Mỹ với những bài thơ nói cái hiện thực trần trụi của chiến tranh, cái ngang tàng hiên ngang của người lính. Nhưng cái trần trụi đó, cái ngang tàng đó được khen chỉ khi nhà thơ viết theo âm hưởng hào hùng, ca ngợi. “Thế đấy giữa Seng Phan, Nghe tiếng bom rất nhỏ”. “Không có kính không phải vì không có kính, Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi, Ung dung buồng lái ta ngồi”. Nhưng khi nhà thơ tỉnh táo nhìn vào một cuộc ném bom của kẻ thù xuống xóm làng quê hương: “Khói bom lên trời thành những vòng đen, Và dưới mặt đất sinh ra bao vòng trắng” thì cái trần trụi khốc liệt đó của anh đã không được thơ chống Mỹ chấp nhận. Khi anh đẩy tới nữa hình ảnh liên tưởng “Khăn tang vòng tròn như một số không” để đi tới một nhận thức thực tế “Không có mất mát nào lớn bằng cái chết” thì anh đã thành kẻ có tội, mặc dù bài thơ kết lại đầy tinh thần chiến đấu “Tôi và bạn tôi đi trong im lặng, Với cái đầu bốc lửa ở bên trong”. Tội của anh được quy chiếu rất rõ ràng: cách nhìn đen tối về cuộc kháng chiến. Có thể lấy trường hợp Lưu Quang Vũ để thấy thơ chống Mỹ là gì vì anh là một người thức tỉnh sớm và đã sớm từ bỏ dàn đồng ca thơ của thế hệ mình. https://thuviensach.vn Những bài thơ viết về chiến tranh ở phần “Hương cây” của anh trong tập thơ đầu tay in chung với Bằng Việt (1968) có chung giọng điệu dịu dàng, ngọt ngào, lãng mạn của thơ chống Mỹ hồi đầu, ví như “Tầng năm”, “Vườn trong phố”. Nhưng anh đã rất nhanh đối khác mình khi đối mặt với thời cuộc, với chiến tranh. Anh tuyên bố “Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều, Rách tan cả những làn sương đẹp phủ”. Anh chán cả bạn bè vì “mấy năm rồi họ chẳng nói được câu gì mới”. Thơ anh những năm 1970 – 1975 chỉ viết cho mình về sự thực cuộc sống và sự thực lòng mình. Cố nhiên, thơ đó không thể nào đăng lên báo được thời đó, và cả một quãng dài sau 1975 nữa. Khi con người giết nhau Những lá thư không biết gửi về đâu Những hải cảng không có tàu cập bến (Lá thu) Hòa bình đến mong manh Nhiều tin đồn mà chẳng có gì ăn (Liên tưởng tháng Hai) Tổ quốc là nơi tỏa bóng yên vui Nơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhất Nhưng nghĩ đến Người lòng tôi rách nát Xin Người đừng trách giận, Việt Nam ơi Người có triệu chúng tôi, tôi chỉ có một Người Tất cả sẽ ra sao Mảnh đất nghèo máu ứa? Người sẽ đi đến đâu Hả Việt Nam đói khổ? Đến bao giờ bông lúa Là tình yêu của Người? (Việt Nam ơi) [4] https://thuviensach.vn Thơ anh nhiều những câu như vậy. Trong dàn đồng ca thơ chống Mỹ với hai giọng cao lĩnh xướng là Tố Hữu và Chế Lan Viên, một giọng thơ như thế của Lưu Quang Vũ không có chỗ, và anh cũng không muốn có chỗ trong đấy. Bản thân Chế Lan Viên cuối đời cũng đã ngộ ra được giọng cao chỉ là hô hào, cổ vũ, còn để nói được chuyện đời thì thơ phải nói giọng trầm. Theo ông thơ thời đó là sông Hồng vạm vỡ, nhưng “thiếu đi một tiếng thương thầm”, cần phải để “dòng Thương thương hộ, dù nửa dòng bên đục bên trong”. Ông đã tự vấn, tự buộc tội mình của một thời cao giọng trong thơ như vậy. Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời Tôi ú ớ. Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong Mà tôi xấu hổ. (Ai? Tôi?) [5] Chế Lan Viên ý thức được thơ chống Mỹ là phải thế nhưng vẫn ngậm ngùi: Ở đất nước ba tuổi đã rời nôi lên ngựa sắt Tuổi trẻ chơi lau đã chơi trò đánh giặc Kiếm làm cho con rùa không thể yên thân trong cuộc sống thường… Thơ chỉ sống một phần cho mình còn ba phần cho nhiệm vụ Nghĩ mà thương! (Sử) [6] Và ông dặn lại hậu thế mai này đọc thơ ông thì phải trừ đi: Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ Có phải tôi viết đâu! Một nửa Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi Giết một tiếng đau - giết một tiếng cười Giết một kỷ niệm - giết một ước mơ – tôi giết https://thuviensach.vn Cái cánh sắp bay - trước khi tôi viết Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ Và giết luôn mặt trời lên trên biển - Giết mưa Và giết cả cỏ trong mưa luôn thể Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình Và thơ này rơi đến tay anh Anh bảo đấy là tôi. Không phải! Nhưng cũng chính là tôi - Người có lỗi Đã phải giết đi bao nhiêu cái Có khi không có tội như mình [7] . Tiếng nói của một người trong cuộc đáng để suy ngẫm và thêm một luận cứ để xét đoán thơ một thời khi thời đó đã qua. 2. Thực ra khái niệm “Thơ chống Mỹ” (cũng như “Thơ chống Pháp”) đã bó hẹp phạm vi vấn đề, nội hàm của nó đã bị thu vào chữ “chống”. Cho nên dễ hiểu là những gì viết ra không trực tiếp chống (kẻ thù), hay có thể bị coi là làm suy yếu tinh thần chống (kẻ thù) đều bị phê phán, loại trừ, như đã nói trên. Là chống nên đối tượng rất rõ ràng, thái độ của chủ thể nhà thơ và nhân vật trữ tình rất rõ ràng. Và như thế thơ phiến diện là điều cũng rất rõ ràng. Có lẽ ở đây, để bao quát được hết các hiện tượng văn học như đã diễn ra trong thực tế, nên chăng dùng khái niệm “Thơ chiến tranh” (rộng ra là “Văn học chiến tranh”). Khi nói thơ chiến tranh thì cảm hứng và âm điệu chủ yếu là cái bi, có hùng thì cũng là cái hùng trong bi. Thơ chiến tranh có ở cả hai miền trong thời chia cắt đất nước. Hai mươi năm chiến tranh bom đạn máu lửa xương thịt, các nhà thơ ở hai miền đều đã dấn thân, nhập cuộc và thơ của họ đều xoáy vào số phận đất nước và cá nhân (cố nhiên, mỗi bên theo cách của mình). Nhìn tổng thể, thơ miền Bắc hào hùng ngợi ca; thơ miền Nam bi phẫn đau đớn. https://thuviensach.vn Đây là một kiểu “tặng vật tỏ tình” của Trần Dạ Từ: Tặng cho em một cuộn dây thép gai Thứ dây leo của thời đại mới Đang leo kín tâm hồn ta hôm nay Đó là tình yêu anh em nhận đi đừng hỏi Tặng cho em một xe plastic Xe plastic nổ giữa phố đông Giữa phố đông nổ tung từng mảnh thịt Đó là đời sống ta em hiểu gì không Tặng cho em cuộc chiến tranh đang tàn Trên quê hương của bao nhiêu bà mẹ Nơi đồng bào ta ăn bom đạn thay cơm Nơi vải xô không đủ để chít đầu con trẻ Tặng cho em dòng dã hai mươi năm Hai mươi năm bảy ngàn đêm đại bác Bảy ngàn đêm tiếng đại bác ru em Em đã ngủ chưa hay em còn thức Trên chiếc võng đung đưa giữa hai đầu tan nát Râu tóc trắng phơ trùm kín tuổi mười lăm Những cánh đồng bị băm nát mặt Anh còn muốn tặng em nhiều thứ khác Nhưng thôi Chỉ xin tặng em thêm trái lựu đạn cay Hạch nước mắt không buồn không vui Đang dàn dụa trên mặt anh chờ đợi [8] https://thuviensach.vn Đây là những lời trò chuyện với con của Du Tử Lê: Khốn nạn cho bố không biết sẽ để lại cho con những gì những gì đây con khi hiện tại bố chạy ăn từng bữa còn nói chi, còn nói chi tới đất đai của chìm của nổi. Đêm bắt đầu thật sớm trên những lớp tôn ám khói bố thầm nghĩ không lẽ để lại cho con những mũ sắt này với những vết xuyên thủng những vết đạn tròn ngoan như đôi mắt trẻ thơ (đôi mắt trẻ thơ hoài hoài nhìn bố) và bố phải mang ơn nó rất nhiều con ạ bởi nếu không có nó, chắc bố đã bị tiêu ma hồn phách trước khi có kịp ý nghĩ về con bố thầm nghĩ không lẽ để lại cho con khẩu súng trường này một chứng tích hãi hùng luôn nhắc bố đừng quên mày là tên sát nhân vô trách nhiệm [9] (Câu thơ Du Tử Lê “khi hiện tại bố chạy ăn từng bữa còn nói chi, còn nói chi tới đất đai của chìm của nổi” viết trong khói lửa chiến tranh sẽ được đồng vọng lại trong bài thơ Đánh thức tiềm lực của Nguyễn Duy viết năm 1980, năm năm sau khi chiến tranh kết thúc). Có lẽ để thấy rõ hơn mạch thơ chiến tranh ở hai miền thời kỳ 1954 – 75 tôi xin làm một sự so sánh giữa hai tập thơ có cùng tên gọi Những năm sáu mươi. Những năm sáu mươi, tập thơ của Huy Cận (Nxb Văn Học, Hà Nội 1968), gồm 45 bài thơ được sắp xếp thành năm phần: phần I (21 bài) nói về cuộc chiến đấu chống Mỹ; phần II (9 bài) nói về công cuộc sản xuất xây dựng; phần III (5 bài) nói về tình cảm quốc tế; phần IV (9 bài) nói về tình cảm quê hương, đất nước, con người; phần V (1 bài) nói về cuộc đấu tranh của con người chống cái chết, giữ sự sống. Về thể thơ, Huy Cận vẫn dùng thể https://thuviensach.vn lục bát, 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, nhưng đặc biệt bắt đầu từ tập này thể tự do được dùng nhiều. Lục bát không có gì hay. Sau hơn ba mươi năm đọc lại tập thơ này bây giờ có thể thấy sự cố gắng của Huy Cận (cùng nhiều nhà thơ khác hồi đó) mở rộng khuôn khổ bài thơ để phản ánh cuộc sống và biểu hiện tình cảm. Kỹ thuật ở những bài thơ tự do tiêu biểu trong tập (Niềm tự hào, Lời chào các dân tộc, Cầu Hàm Rồng, Người bác sĩ) là lối đối thoại, hỏi đáp: đối thoại với mình và đối thoại với người, hỏi để mà khẳng định, trả lời. Thực chất những bài thơ có giọng điệu hào hùng, ca ngợi là nhằm để nói với người đối thoại, thuyết phục họ, khẳng định với họ thực tế anh hùng, vĩ đại của đất nước Việt Nam những ngày đánh Mỹ. Những năm sáu mươi trong mắt Huy Cận là những năm huy hoàng khi … thế kỷ mở hai tay / Thấy máu thắm đang dồn về mười ngón. Thơ viết ở giọng cao mang chở các ý tưởng lớn, phát ngôn của một cảm hứng nhân danh tập thể, cộng đồng: Đánh giặc, đánh Mỹ không phải là một cuộc du chơi Không phải đi trẩy hội Nhưng đánh Mỹ có một niềm vui lớn Không đùa đâu Đùa sao được với lũ chó ngao cắn xé loài người Đùa sao được với bọn chuyên đi gieo cái chết: chết lân tinh, chết nổ chậm, chết bột, chết hơi Không đùa đâu Nhưng đánh Mỹ có một niềm vui lớn. (Xin hãy nhớ lại câu thơ cùng âm hưởng của Phạm Tiến Duật “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Các nhà thơ, dù ở hậu phương hay ngoài mặt trận, đều hát chung một bản đồng ca). Những năm sáu mươi, tập thơ của Nguyên Sa, không được xuất bản. Nhà xuất bản Trình Bầy đã đưa bản thảo tập thơ này lên Bộ Thông Tin (Việt Nam Cộng Hòa) để kiểm duyệt từ tháng 5/1970. Nhưng tới tháng 1/1971 https://thuviensach.vn tập thơ vẫn không được kiểm duyệt để đưa in, do đó tác giả đã đề nghị nhà xuất bản in ra ronéo 200 bản tặng anh em bạn bè đọc chơi. Bây giờ chúng ta chỉ có thể xét qua tập thơ này căn cứ vào bài đọc sách của nhà phê bình Phạm Việt Tuyền [10] . Tập thơ gồm 29 bài và một bài tựa “triết lý một cách thơ mộng về thi ca, chế độ kiểm duyệt sách và “trò chơi” in ronéo những tác phẩm bị cấm”. Có thể có một vài ý niệm về tập thơ qua các tên bài trong tập như sau: Sân bắn, Nhìn em nhìn thành phố quê hương, Tắm, Đám tang Nguyễn Duy Diễn, Cắt tóc ăn Tết, Dặn vợ sắp cưới, Bao giờ, Xin lỗi về những lầm lẫn dĩ vãng, Vết sẹo, Nhìn thấy mình trong quân trường nhắn bạn, Cầu siêu cho Nguyễn Quan Đại chết ở Khe Sanh, Thằng Sỹ chết, Chào nhau, Tám phố Sài Gòn, Hỏi bạn, Buillding, Định mệnh chân dài, Lời năn nỉ. Hỏi thăm Sài Gòn, Giã từ khóa đàn anh, Chim, Vẽ, Nguyền rủa ngày, Ném đá, Hỏa châu và huyền thoại, Chỗ nằm của ta, Lời dặn bản thân, Tóc, Điểm danh. Những bài thơ này Nguyên Sa viết khi đang từ nhà giáo phải đăng lính, chúng đã được đăng trên các báo chí Sài Gòn những năm ấy. Đọc các tên bài đã phần nào đoán hiểu được nội dung tập thơ. Theo Phạm Việt Tuyền, nội dung đó là: “Không thích bị cưỡng bách đi lính, không ưa cuộc chiến tranh đang gieo rắc chết chóc đau thương cho toàn dân Việt, không chịu đựng nổi những cái nhố nhăng trong xã hội Việt Nam Cộng Hòa các năm sáu mươi. Ý lớn nhất là cái ý thứ hai liên quan đến chiến tranh và hòa bình”. Nhà thơ đang từ thầy giáo đứng trên bục giảng bị ném vào quân trường, ngơ ngác giữa sân bắn: Bia lên ta thấy thân người thấy ta thấy địch thấy đời lãng du thấy tay dư thấy chân thừa thấy tai nghễnh ngãng mắt mù óc không Đứng trước một building nhà thơ đã tự hỏi phải đứng trên tầng nào mới thấy được hận thù trôi xuôi, thống khổ nhẹ bớt, nhục nhã rút đi, chiến tranh https://thuviensach.vn dừng lại, tổ quốc bình phục, hy vọng đứng lên, tuổi trẻ hồi sinh, ý thức trong veo và em mỉm cười. Đối mặt với thực tế trần trụi của cuộc chiến, nhà thơ đã cất lên lời xin lỗi về những lầm lẫn dĩ vãng đối với những học trò ngày trước, những người anh em cùng thế hệ: Bây giờ khẩu garant ta mang trên vai Bây giờ khẩu trung liên bar ta mang trên vai Ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế Ta mới biết rằng trong cuộc đời dạy học ta là một thằng dốt nát Trong mười mấy năm trời ta làm bao nhiêu tội lỗi Trong mười mấy năm ta không nói cho học trò ta biết Anh em ta và quê hương ta Vác những thỏi sắt nặng như thế Từ bao nhiêu năm nay… Cái thường nhật ở quân trường là nỗi nhớ nhà, nhớ cuộc sống thanh bình của người lính đã được Nguyên Sa viết ra cụ thể, riêng tư, có hình có khối: Chủ nhật chúng mày vào thăm tao Nhớ mang cho tao mấy miếng Miếng văn nghệ, ôi ngon, thơ tình lả lướt Miếng nhà in, ôi ngon, tay thợ chữ nét romain Miếng dạy học ôi ngon Miếng học trò trêu tao ôi ngon Ôi ngon miếng bảng đen Ôi ngon miếng phấn Miếng mẹ tao lo cho tao ăn ít, miếng vợ tao sỉ vả tao làm biếng, miếng con tao ngồi trên bụng Miếng nhẹ tao cất vào ba lô cho chuyến tập hành quân Miếng to tao cầm dưới tay cùng với súng đêm đứng gác Miếng lả lướt và mấy miếng thơm nuốt trong giờ học tập Miếng ngọt cho thao trường mồ hôi bớt mặn https://thuviensach.vn Miếng bùi cho xạ trường mùi súng đỡ cay Miếng vợ con tao cất dưới gối nằm Miếng mắt em soi gương trong giầy đánh bóng Tác giả dùng các thể thơ lục bát, tự do, 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, trong đó các bài viết theo thể thất ngôn và thể tự do là khá nhất. Lục bát trong tập này bị lạc vận nhiều. Thể tám chữ ngắt nhịp 4/4 gây cảm giác đơn điệu buồn tẻ. Nhận xét chung, theo Phạm Việt Tuyền, là ở tập này cũng như ở các tập trước “Nguyên Sa đã có tài sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh và tiết điệu một cách mới lạ, đẩy thơ ca tới lý tưởng thơ thuần túy. Hình ảnh và tiết điệu thơ nhiều chỗ rất thích hợp với ý thơ, tạo ra những bức tranh vô cùng khêu gợi, những bản nhạc âm vang dài bất tuyệt”. Kỹ thuật thơ chủ yếu là trùng điệp và liên hoàn. Như vậy có hai tập thơ cùng mang tên Những năm sáu mươi của hai nhà thơ ở hai miền trong thời kỳ chia cắt đất nước. Trên phương diện nội dung hai tập thơ cho thấy hai phía hiện thực của chiến tranh: một bên, nhìn từ tầm cao của dân tộc, một bên khác, nhìn từ thân phận cảnh ngộ riêng của một cá nhân. Trên phương diện nghệ thuật đáng chú ý là cả hai nhà thơ đều có xu hướng làm thơ tự do, kéo câu thơ về gần với câu nói để diễn tả cho được những điều muốn nói trong thơ. Tập của Nguyên Sa bị chính quyền miền Nam đương thời coi là “thơ đen”, không được xuất bản, nhưng nó đã tồn tại dưới hình thức in ronéo. Cả hai tập thơ đều là tác phẩm của văn học nước nhà. Như bằng chứng của lịch sử. Như lộ tiêu của tiến trình văn học hiện đại Việt Nam. Trong thơ chiến tranh này nổi bật là tập Chiến tranh Việt Nam và tôi của Nguyễn Băc Sơn. Như tên gọi tập thơ, những bài thơ trong đó được viết từ một tâm thế và một cách nhìn cá nhân về cuộc chiến đang diễn ra bằng một giọng điệu chua chát, buồn bã pha lẫn khinh bạc, chán chường. Cuộc chiến đã lùi xa nhưng đọc lại tập thơ đó hôm nay người đọc còn ngẫm ngợi được nhiều điều. 3. https://thuviensach.vn Trở lại thế hệ thơ chống Mỹ (vẫn tạm dùng cách gọi này). Sau chiến tranh, như đã nói trên, thơ họ mới thực sự nói và nói thực sự về chiến tranh. Cái hùng một thời lắng xuống, chìm đi để cho cái bi nổi lên. Như vậy, thơ chống Mỹ đã hoàn thành sứ mệnh thời chiến. Thời hậu chiến thế hệ thơ chống Mỹ đã viết khác trong giọng điệu khác của nền thơ, nhất là khi xuất hiện thế hệ thơ sau 1975. Khi một cô gái năm 1975 mới năm tuổi lớn lên viết về mẹ: Cả cuộc đời cha đi bộ đội Quà về cho mẹ là mái tóc pha sương Và trên ngực những vết thương Cứ trở gió lại đau nhức nhối Chiếc ba lô gió sương đã gội Gia tài cha tặng mẹ… chỉ thế thôi [11] Khi một cựu chiến binh Mỹ viết về một ông già xích lô Việt Nam: Đôi chân già này đã đi bao dặm đường Chúng đã bước trên những lối mòn rừng rậm mấp mô ở Việt Bắc cùng Bác Hồ những năm 40 Chúng đã vượt qua những dãy núi mù sương quanh Điện Biên Phủ cùng Võ Nguyên Giáp những năm 50 Chúng đã lên đèo xuống dốc trên đường Hồ Chí Minh với Quân Đội Nhân Dân những năm 60 và 70 Chúng đã chống đữ những bao xi măng trên đường từ Hải Phòng lên những năm 80 Đôi chân già này đã đi bao dặm đường Mỗi sáng chúng cứng đơ như khúc gỗ Chúng kêu răng rắc như tre nổ https://thuviensach.vn Chúng quá mệt vì đi quá nhiều nơi Lẽ ra chúng phải được nghỉ ngơi Đôi chân già này đã đi bao dặm đường Nhưng giờ đây tôi phải đạp xích lô đưa khách từ Nhật, Pháp, Mỹ sang đi vòng quanh các phố phường chật hẹp của Hà Nội Đôi chân già này đã đi bao dặm đường [12] thì thơ viết về chiến tranh bây giờ đã khác. Một nền thơ đánh giặc đã hoàn thành nhiệm vụ. Bây giờ thơ không phục vụ cho việc đánh giặc nữa, mà thơ suy ngẫm cái giá thương đau mất mát để có chiến thắng, để ngăn chặn chiến tranh đừng bao giờ xảy ra dẫu có kết thúc vinh quang. Nói như một nhà thơ từng ra trận hồn nhiên trong trẻo trở về vẹn nguyên nhưng bây giờ anh hình dung cái chết của mình: Nếu tôi chết, tốt hơn đừng chết Ai sẽ phục sinh em trong những tối không chồng [13] Có một thế hệ thơ mới đã lên tiếng, đã khác thế hệ thơ chống Mỹ để tiếp tục nói về cuộc chiến hôm qua, và bắt đầu nói về cuộc sống hôm nay. Đừng sợ nói đến sự bàn giao và chuyển tiếp. Bởi ai cũng đã từng trẻ và cũng sẽ đến già. Những giá trị thì còn lại. Nhưng những lớp người thì ra đi và lại đến. Hà Nội xuân – hè 2004 [1]Báo Quân Đội Nhân Dân, ra ngày thứ Sáu, 31/10/2003. [2]Thơ chống Mỹ cứu nước 1965 – 1967, Nxb Văn Học, Hà Nội, 1968, tr. 10. https://thuviensach.vn [3]Thơ Tây Ban Nha chiến đấu, Đào Xuân Quý dịch và giới thiệu, Nxb Văn Học, Hà Nội, 1972, tr. 46. [4]Lưu Quang Vũ. Thơ và đời (Lưu Khánh Thơ biên soạn), Nxb Văn Hóa – Thông tin, Hà Nội, 1997. [5]Chế Lan Viên. Di cảo thơ, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1992, tập 1, tr. 227. [6]Chế Lan Viên. Di cảo thơ, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1993, tập 2, tr.79. [7]Tạp chí Văn, Paris 1992. [8]Dẫn theo Trần Tuấn Kiệt. Thi ca Việt Nam hiện đại (1880 – 1965), Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn 1968, tr. 961 – 962. [9]Dẫn theo Trần Tuấn Kiệt. Sđd, tr. 1039 [10]Phạm Việt Tuyền. Tôi đọc thơ, Phong Trào Văn Hóa xuất bản, Sài Gòn 1973, tr. 179 – 196. [11]Đoàn Ngọc Thu. Muộn, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 2001, tr. 33 [12]Larry Rottman. Voices from the Ho Chi Minh Trail. Ngân Xuyên dịch. [13]Hoàng Nhuận Cầm. Xúc xắc mùa thu, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 1992. https://thuviensach.vn nhiều tác giả Chiến tranh nhìn từ nhiều phía Phỏng vấn Nguyễn Thị Hoàng Bắc Trần Văn Thủy Gần 30 năm sau cuộc chiến, một trong những di sản lớn nhất của nó: sự ngăn cách giữa người Việt trong nước với cộng đồng người Việt hải ngoại hình thành từ gần 1 triệu người Việt rời bỏ đất nước sau năm 1975, đến tị nạn tại các nước phương Tây mà tập trung nhất là ở Mĩ, vẫn là một di sản không dễ tiếp cận cho cả hai phía. Những giao lưu, hoà nhập, cộng tác và đối thoại giữa Việt Nam và thế giới ngày càng và sẽ không ngừng phát triển. Những sum họp và hoà giải trong các gia đình và giữa những cá nhân người Việt trong và ngoài nước ngày càng và sẽ không ngừng diễn ra mạnh mẽ. Nhưng tiến trình tự nhiên ấy vẫn không ngừng vấp phải những cản trở lớn của di sản lịch sử. Không hiếm khi, khả năng đối thoại dường như đã bị triệt tiêu ngay từ đầu bởi bức tường kiên cố của thành kiến, sức ỳ, tham vọng và thái độ thù địch từ cả hai phía. Và cũng không hiếm khi, những cố gắng đối thoại bước đầu cũng trở thành vô vọng bởi sự nửa vời và tránh né trước những cấm kị quá giới hạn chịu đựng, bởi ảo tưởng về sự đã lành của những vết thương vẫn còn đau nhức, hay đơn giản bởi sự bất lực trước một hiện thực với quá nhiều chiều cạm bẫy. Gần đây, tác phẩm Nếu đi hết biển của Trần Văn Thủy trở thành một trường hợp tiêu biểu cho những khó khăn của việc tiếp cận với di sản nói trên. Là kết quả nghiên cứu của một trí thức, nghệ sĩ trong nước, thuộc chương trình Rockefeller Nghiên Cứu Về Tiến Trình “(Tái) Xây Dựng Diện Mạo và Quê Hương Của Người Việt Ở Nước Ngoài” 2000-2003 do Trung tâm William Joiner Nghiên Cứu Về Chiến Tranh và Hậu Quả Chiến Tranh, Đại Học Massachusetts Boston tổ chức và tài trợ, tác phẩm này một mặt không hề được công luận chính thức tại Việt Nam ghi nhận, mặt khác nó gây xung đột trong dư luận tại hải ngoại. Nhiều tháng qua, những tác giả như Phan Nhật Nam, Hoàng Hải Thủy, Irina Zisman, Trần Nghi Hoàng... đã phê phán dữ dội công trình này cũng như những người tham gia và tổ chức nó. Chiến tranh nhìn từ nhiều phía, song các góc nhìn ấy sẽ có ích gì với người https://thuviensach.vn Việt, “những người còn tồn tại sau một loạt những cuộc chiến tranh do ngoại bang áp đặt đã chia cắt đất nước họ thành ba, thành hai trong gần một thế kỉ, và để lại cho họ một dân tộc cuốn lốc trong những bong bóng của chân lí và những điều giả dối”, như lời của Kewin Bowen, Giám đốc Trung tâm William Joiner, trong phần giới thiệu tác phẩm Nếu đi hết biển? talawas Trần Văn Thủy(TVT):Xin chị nói cho đôi điều về tiểu sử của chị? Hoàng Bắc (HB): Anh cần “lý lịch” hay là “trích ngang”? TVT:Chị vui tính thật, nhưng đừng gây sự với tôi. Ðộc giả muốn biết về chị, đôi chút cũng được. HB: Theo anh, tôi nên bắt đầu từ lúc nào đây? Bắt đầu từ cái mốc năm 75 nhé, vì trước đó hơn ba mươi năm, cuộc đời tôi cũng na ná như tất cả mọi người khác: sinh ra, lớn lên, học hành, làm việc, lập gia đình, sinh con đẻ cái v.v..., có lẽ... cái cuộc đời nhàm chán! Tháng 3 năm 75 tôi đang dạy học ở Nha Trang thì xảy ra cái goiï là biến cố năm 75. Sau đó, người miền Nam đặt tên là “Quốc Hận”, miền Bắc gọi là “Giải Phóng.” TVT:Tôi nghĩ có lẽ cũng không hẳn là như thế. Tôi thấy có nhiều người gốc miền Bắc gọi là ngày “Quốc Hận”. Thí dụ, những người nổi tiếng như ông Nguyễn Cao Kỳ, Trần Kim Tuyến, Cao Văn Viên, Vũ Văn Mẫu, Phan Huy Quát, Lê Nguyên Khang, Trần Văn Tuyên... Ngược lại, có nhiều người gốc miền Nam gọi là ngày “Giải Phóng”. Thí dụ, ông Lê Duẩn, ông Tôn Ðức Thắng, ông Phạm Văn Ðồng, ông Phạm Hùng, ông Huỳnh Tấn Phát, ông Nguyễn Hữu Thọ, ông Võ Văn Kiệt, ông Phan Văn Khải, ông Trần Văn Giàu, ông Trần Bạch Ðằng... Ðó là những “anh Hai” thứ thiệt. HB: Anh chỉ định “sửa sai” tôi thôi. Nhưng anh hiểu tôi muốn nói gì mà! Nghĩa là, tuy cả nước đã về một mối (thơ Nguyễn Chí Thiện đấy!) nhưng cũng từ đó, ý thức chính trị đã chia rẽ sâu sắc người Nam và người Bắc từ https://thuviensach.vn trong nước cho đến ngoài nước, và cũng từ đó sản sinhra một cộng đồng mới: người Việt di tản hay Việt kiều. Không có nghĩa là trước đó người Việt ta không có mặt ở các nước trên thế giới. Pháp, Nga, Mỹ, Úc. Tàu...đâu đâu cũng có một số sinh viên, người giàu có, người có quốc tịch nước ngoài sinh sống tại các nước này. Nhưng phải đợi đến sau 1975, lực lượng người di tảntừ miền Nam, sau đó là những đợt vượt biên, vượt biển, ô đi bộ, ô đi ghe, hát ô, đa số là người Việt từ miền Nam, đến định cư tại các nước trên thế giới thì lực lượng Việt kiềunày mới thực sự thành hình, với hơn một triệu người, và đông đảo nhất là ở châu Bắc Mỹ. TVT:Thế chị qua đây bằng đường nào? HB: Tôi thuộc diện vượt biển. Sau 1975, tôi được giữ lại dạy ở trường gọi là giáo viên lưu dung, và vẫn luôn luôn được nhắc nhở rằng, khi Hitler lên cầm quyền ở Ðức đã ra lệnh sa thải và cầm tù hoặc giết tất cả các giáo viên chế độ cũ, tôi đã được nhà nước lưu dung (nghĩa là không đuổi dạy, tha không bỏ tù, không giết!).Xuyên qua các tổ trưởng, tổ dân phố, phường trưởng, khóm trưởngvốn là các bác lái xe lam, xe thồ trước kia trong xóm, và nhất là các công an khu vực, chưa bao giờ tôi có ý niệm mạnh mẽ về quyền lực lớn như Trời lúc ấy: trời kêu ai nấy dạ, gẫm hay muôn sự tại trời, thuở trời đất nổi cơn gió bụi, trời hành, trời ơi...Công an lúc ấy là Trời, Trời là Công an. TVT:Gia đình của chị có dính líu gì tới chính trị không mà ấn tượng mạnh với công an thế? HB: Không cần dính líu đến chính trị mới có ấn tượng mạnh với công an. Anh có thể kiểm chứng với bất cứ gia đình nào vốn là người sống ở miền Nam và ở lại miền Nam sau “Ngày Giải Phóng”. Anh đừng bắt bẻ và nêu tên mấy ông miền Nam tập kết đấy nhé, vì hiển nhiên họ thuộc diện “công thần” hoặc “gia đình cách mạng”. Ý tôi muốn nói đại đa số nhân dân Việt gốc Bắc, gốc Trung, gốc Nam làm ăn và sinh sống ở miền Nam từ những năm trước 1975. Chẳng hạn gia đình cha mẹ tôi trước cũng tham gia kháng chiến chống Pháp, ba tôi tham gia từ những ngày còn đi học, khi đi làm Sở https://thuviensach.vn Hỏa xa của Pháp, Chemins des Fères, đã xuôi Bắc vào Nam chuyển tải người, tài liệu, đưa dắt đường cho các đồng chí hoạt động bí mật thời kỳ Việt Minh. Việt Minh cướp chính quyền năm 1945, ở Thủ Ðức, ba tôi ở trong lực lượng nổi dậy và từng giữ chức Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân quận Thủ Ðức. Các cậu tôi, người kháng chiến ở Quảng Ngãi, người bị Pháp bắt giam và chết ở Côn Ðảo... Lúc nhỏ, tôi là con mồ côi, vì ba tôi bị Pháp bắt tra tấn, cầm tù và vì không đủ chứng cớ để cầm tù ba tôi lâu hơn, sau thời gian suốt 2, 3 năm chuyển ba tôi từ các nhà tù Ðà Lạt, Djiring, Nha Trang, Pháp chở một nhóm tù Việt Minh ra sông Trà Khúc (?) bắn rát trên đầu và đuổi họ tự bơi qua sông đến vùng kháng chiến, lúc đó là Liên khu Năm. Phải khai gian lý lịch là cha chết để được đi học. Nhưng dĩ nhiên gia đình ba mẹ tôi sau 1975 không thuộc diện gia đình cách mạng. Ba tôi từ hậu phương trở về sau hiệp định Genève, là viên chức của Sở Hỏa xa, bọn chúng tôi lớn lên đi học, đi làm việc ở miền Nam... Nếu cần nói rõ thêm, năm 1980, sau một tai nạn giao thông, ba tôi bị lãng trí, đã bị công an bắt nhốt vì bị kết tội đã nói lời xúc phạm đến lãnh tụ. Lãnh ba tôi ra khỏi nhà giam thì ba tôi đã hoàn toàn mất trí và qua đời ngay sau đó. Ðó là một vết thương khó phai của gia đình tôi. Kể lể dài dòng để anh thấy lý lịch khá phức tạpcủa mỗi gia đình miền Nam, không dễ dàng và đơn giản qui kết một chữ gọn lỏn: bọn ngụy. TVT:Thế theo chị thế nào là “ngụy”? HB: Theo từ điển Hán Vịêt nghĩa là dối trá, nghĩa là giả, nghĩa là nói một đằng làm một nẻo. Theo phong kiến Minh Mạng thì ngụy là bọn làm phản, làm loạn, chẳng hạn Mả Ngụy, ở đó chôn bọn làm phản Lê Văn Khôi chống lại chính quyền phong kiến Nguyễn. Theo tự điển nhà nước XHCN Việt nam thì ngụy quyền là chính quyền lập ra để chống lại chính quyền hợp pháp của nhân dân (Từ Ðiển Tiếng Việt, NXB Ðà Nẵng, 1996). TVT:15 năm qua rồi, chị thấy có gì đổi thay ở Việt Nam? HB: Tôi chưa có dịp trở về nước nhưng qua phim ảnh, báo chí, internet, https://thuviensach.vn thư từ và điện thoại trao đổi với bạn bè cũ, mới trong nước và ngoài nước, tôi thấy một “Việt Nam mới” rất khác, so với Việt nam cơ cực và kìm hãm những năm 75- 85, thời tôi còn ở nhà. Ðó là chuyện rất đáng mừng. Cởi mở, tự do, sung túc, hiện đại hơn, và bắt đầu có mặt vào các sinh hoạt thế giới... Cả chuyện Việt kiều vượt biên bất hợp pháp cũng được tự do về thăm nhà, thăm nước phải kể là một trong những điều vui vẻ... (Nhưng có người nêu thắc mắc: nếu hằng năm người Việt nước ngoài không gửi về nước trên dưới 2 tỉ USD, năm 2002 thì con số tổng kết là 2,4 tỉ, thì chính sách của nhà nước ta sẽ ra sao?!) TVT:Tôi nghĩ chúng ta không nên xen chuyện tiền bạc, trần tục vào câu chuyện nghiêm chỉnh như thế này. Chị là nhà văn. Chị đánh giá như thế nào về sự giao lưu văn học trong và ngoài nước? HB: Tôi sinh hoạt trong giới những người làm văn nghệ ở hải ngoại nên thường theo dõi ở lãnh vực này, việc giao lưu sách vở báo chí trong và ngoài nước chưa hoàn toàn tự do thoải mái, nhưng trong những năm gần đây, một vài tác phẩm có giá trị ở ngoài nước đã được phép chính thứcin lại trong nước, như tập trường thiên Sông Côn Mùa Lũ của anh Nguyễn Mộng Giác, một vài truyện ngắn của tôi và các bạn khác đã do Nhà xuất bản Phụ Nữ TP Hồ Chí Minhin lại trong một tuyển tập, và sốt dẻo nhất, tôi được Hoàng Ngọc-Tuấn ở Úc cho hay, quyển Văn Học Hiện Ðại và Hậu Hiện Ðại qua ThựcTiễn Sáng Tác và Góc Nhìn Lý Thuyết sẽ được Trung Tâm Ngôn Ngữ & Văn Hóa Ðông Tây hợp cùng NXB Ðại Học Sư Phạm Hà Nội in lại ở Việt Nam. Thật là một tin vui, vì chẳng bõ công chúng tôi hợp sức làm chung tạp chí Hợp Lưu 12 năm trước đây, với cố gắng làm một cây cầu giới thiệu văn học trong nước với người nước ngoài và ngược lại. Ở hải ngoại, nhóm Hợp Lưu bị chụp mũ là cộng sản, thì ở trong nước lại cho là một bọn xịa, hoặc là diễn biến hòa bình! Rõ chán mớ đời. Tôi cũng được biết giáo sư Phan Cự Ðệ và nhóm khác gồm các giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Huệ Chi trong nước đang chuẩn bị soạn bộ Văn học Việt Nam của cả hai miền Nam-Bắc. Trong tương lai, những dự án hợp tác như thế sẽ định vị lại các giá trị từ https://thuviensach.vn chính trị, văn chương, học thuật với cái nhìn cởi mở, khách quan và do đó, trung thực hơn. Mong lắm thay! TVT:Hiện nay, gia đình con cái chị thế nào? Chị còn là một nhà giáo và qua việc học hành, trưởng thành của con cái chị ở Mỹ, chị suy nghĩ gì về ảnh hưởng của giáo dục Mỹ? HB: Tôi vượt biển đến định cư ở Mỹ năm 1986, cùng bốn đứa con trên một đất nước xa lạ mà mình lơ mơ lắm về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục... Nhờ Trời, các con tôi chăm chỉ học hành, làm việc, 3 cháu lớn đã tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm, cháu út đang ở năm cuối đại học. Khi các cháu hầu như đều đã có trình độ đại học, trong quá trình theo dõi sức học và sức làm việc của các cháu, tôi nghiệm ra một điều là giáo dục của nước Mỹ không quá chú trọng vào bằng cấp như giáo dục ở nước ta. Mà cũng không hoàn toàn đánh giá người qua cấp bằng đại học đâu. Nghĩ cũng đúng, nhiều người chỉ học hết bậc trung học mà kiến thức và tài năng tự học của họ gấp mấy lần người có bằng đại học. Nhưng ở đại học Mỹ, bọn trẻ được học hành đào tạo rất tử tế. Con trai út tôi là may và rủi, cháu bắt đầu từ lớp mẫu giáo ở Mỹ, rồi lên đến đại học, cái không may là tiếng Việt cháu kém hơn các anh chị nó, cái may là nó được hấp thụ hoàn toàn tinh thần tự do, khai phóng, và sáng tạo của giáo dục Mỹ. Trước kia còn ở trong nước, tôi vẫn được nghe nói đi nói lại mấy từ vựng này, tự do, khai phóng, sáng tạo mà không mường tượng được nó là cái gì? TVT:Nếu với tinh thần tích cực, ta tiếp thu và vận dụng ở Việt Nam, thì hiệu quả có khả dĩ không? HB: Làm sao học sinh dámkhai phóng, tự do, sáng tạo khi mà khoảng thời gian từ 75 đến 77, khi tôi là giáo viên chế độ cũdạy Văn ở hai trường trung học Lý Tự Trọng và Hoàng văn Thụ ở Nha Trang, các đồng chí giáo viên miền Bắc dạy thao diễn tổbất cứ bài giảng văn nào cũng nhất cử nhất động theo từng câu, từng chữ, từng liên hệ thực tếcó in sẵn trong Sách Giáo Ándo Bộ Giáo Dục xuất bản? Tôi không quên được một chuyện cười của riêng tôi lúc đó, của riêng vì không tin ai nên không thể chia sẻ cùng ai, bạn https://thuviensach.vn bè lén tố cáo nhau với công an khu vực, công an văn hóa là thường, thời buổi ấy...Một người bạn đồng nghiệp của tôi lúc đó vốn là người miền Nam, có lẽ quá khiếp sợ, trong một buổi họp tổ để thông qua giáo án chung cho các lớp, anh ấy đã phát biểu: truyện cổ Sơn Tinh Thủy Tinh của dân gian là có tính Ðảng. Tôi đã suýt bật cười to lên nhưng đã không dám... TVT:Xin chị nói tiếp đi. HB: Theo tôi, bất cứ một tập thể chính quyền nào, từ tập họp nhỏ như một cơ quan, một nhà trường, một phường, một tỉnh và lớn hơn như một đảng, một nước...mà chỉ trông mong giáo dục cho các thành viên thành những con cừu non ngoan ngoãn, chỉ đâu làm đó, thì tập thể ấy sẽ thiếu sáng kiến, thiếu thi đua, lề mề, chậm tiến. Người dân không nên chỉ là một tín đồ ngoan đạo, dễ mù quáng, dễ đưa tới họa dốt nát, trì trệ, đố kỵ và tranh chấp tủn mủn lẫn nhau. TVT:Quan hệ và cuộc sống ở Mỹ, chị thấy dễ chịu hơn? HB: Ở Mỹ, nhất là ở thành phố tôi đang ở, cạnh thủ đô Washington DC là một thành phố đa văn hóa. Tôi tạm hài lòng vì đã chọn thành phố này làm nơi định cư. Ở đây, người Mỹ hay nói đến sự đa dạng (diversity) và sự tiếp nhận và nuôi dưỡng nhiều văn hóa khác nhau. Mỹ, Việt, Trung Quốc, Mễ, Cuba, Ðại Hàn, Nhật, Trung Ðông... làm ăn, buôn bán, đi chùa, đi nhà thờ song song bên cạnh nhau, không có vấn đề đối chọi nhau gì lớn. Mọi người tuân thủ pháp luật, đề huề một cách tương đối và gìn giữ văn hóa, lối sống riêng của mình được pháp luật bảo vệ. TVT:Chị có vẻ yêu đời sống ở Mỹ và có khá nhiều kỷ niệm không vui về Việt Nam vào những năm 1975- 1985, sao chị vẫn muốn về thăm Việt Nam, và còn có ý định về sống lâu ở Việt Nam khi nghỉ hưu, như chị thường bày tỏ với bạn bè và qua các tác phẩm văn học của chị? HB: Thì tại tôi là người Việt. Mặc dù mang quốc tịch Mỹ, ăn không biết bao nhiêu cái hamburgers, hot dogs thì ít hơn, bao nhiêu pounds khoai tây chiên, gà chiên, uống coke v.v. từ McDonald, Popeyes, Burgers King, Subway. Lúc đầu thì lãnh tiền welfare của sở Xã hội Mỹ, rồi đứng bán hàng https://thuviensach.vn ở các tiệm buôn Mỹ, rồi công chức Mỹ, lúc nào cũng phải đầy đủ bổn phận đóng thuế cho liên bang, tiểu bang, đi đầu phiếu Quốc Hội, Tổng thống...tôi vẫn chưa cảm thấy tôi là người Mỹ! Có thể đó là điều khác nhau giữa tôi và thế hệ các con tôi. Tôi lại cũng không thể xem Việt Nam như một thứ quê ngoại như nhiều người cùng thế hệ tôi phát biểu, đối với tôi, ngoại là Việt Nam, nội cũng là Việt Nam. Như một cuộc ngoại tình chính đáng không chừng! Sống với vợ, với chồng, đầy đủ quan hệ, bổn phận, kể cả quan hệ tình dục, nhưng tâm hồn thì vẫn thuộc về một người khác! Ðó là nỗi oái oăm mà các bạn tôi trong nước có thể không có, có thể thế hệ sau tôi cũng không có! TVT:Mọi người đều nói quê hương, đất nước luôn là nỗi ám ảnh khôn nguôi của người xa xứ. Với chị thì như thế nào? HB: Tôi phân biệt chính phủ Việt Nam với nướcViệt. Nước Việtnằm trong trong trái tim tôi, còn chính phủthì còn... tùy! Khi chúng ta bỏ phiếu cho Tổng thống, Chủ tịch, đại biểu Quốc Hội là ta bỏ phiếu cho chính phủ chứ đâu có bỏ phiếu cho đất nước đâu! Chúng ta chọn vợ, chọn chồng, chọn bồ, chọn bạn, không ai chọn cha chọn mẹ. Ðất mẹ, ngôn ngữ mẹ, ngoài người mẹ già sinh ra tôi (biological mother) hiện ở Mỹ, Việt Nam là một bà mẹ khác trong trái tim tôi. Hiện giờ, tôi kiếm ăn được cũng là nhờ tiếng Việt, trong nước tôi học Văn, dạy Văn, giờ tôi dạy tiếng Việt, tôi nói chuyện với con cái bạn bè bằng tiếng Việt, ăn uống hầu hết là cơm Việt, và nghề tay trái, ngoài việc kiếm ăn, lại viết lách lăng nhăng cũng bằng tiếng Việt. Lúc ra khỏi nước, tôi đã sống ở đó hơn bốn mươi năm rồi. Kỷ niệm buồn ở Việt Nam không ít, nhưng kỷ niệm vui thì cũng tràn đầy. Cuối đời rồi, không đi Việt Nam thì nghe không có lý! TVT:Bây giờ, nếu có thể được, ta nói chuyện một chút về Cộng đồng người Việt ở Mỹ, Thí dụ, chị có thể phác họa vài nét về Cộng đồng người Việt ở Mỹ, thí dụ chị có tham gia các Hội Ðoàn, các sinh hoạt có tổ chức của người Việt trong vùng chị ở, Virginia, hay trên nước Mỹ không? Chị thấy các sinh hoạt đó như thế nào? Ðối với thế hệ chị và đối với thế hệ con em chị ở hải ngoại? https://thuviensach.vn HB: Tôi đề nghị anh đọc Unbearable Lightness of Being của Milan Kundera (mà một người bạn của tôi là Trịnh Y Thư đã chuyển ngữ rất hay, sách vừa do NXB Văn Nghệ California phát hành dưới cái tên Ðời Nhẹ Khôn Kham) để anh dễ thâm nhập và nhận diện bộ mặt của cộng đồng Việt ở hải ngoại. Kundera viết quyển này lấy bối cảnh biến cố Mùa Xuân Praha năm 1968 và các nhóm di dân Tiệp vào thời điểm đó, đến nay, trải qua mấy chục năm rồi, giọng điệu, ngôn ngữ, suy tư của đám di dân Tiệp vẫn còn có thể dùng để mô tả được chính xác hình ảnh các hội đoàn chống Cộng của người Việt rải rác và đầy dẫy ở các nước Mỹ, Pháp, Úc, Canada... Lâu lâu lại phải đọc tuyên cáo này, tuyên cáo nọ, lên án bọn cộng sản trong nước và tay sai ngoài nước, lâu lâu lại có vụ đốt một quyển sách hay hăm dọa một nhà xuất bản nào đó đã dám bày bán quyển sách thiên cộng kia, biểu tình mấy chục ngàn người để chống một tên tâm trí bất bình thường không đủ tiền và đủ sức để kinh doanh nghiêm chỉnh nên chơi nổi treo hình Bác Hồ và cờ Việt Cộng, lâu lâu lại có biểu tình lẹt đẹt vài người hay tự thiêu, ủi xe tăng vào Sứ Quán Việt Cộng... Ðối với những vụ này, tôi chia sẻ với suy nghĩ của nhân vật Sabina trong tiểu thuyết của Kundera: “...Cái yếu tính cốt lõi để trở thành người Tiệp tan biến vào hư không mất rồi...Hay vì những bậc vĩ nhân. Jan Hus? Không ai trong căn phòng đó từng đọc một dòng chữ nào của ông. Họ chỉ có thể hiểu được ngọn lửa, niềm vinh quang của ngọn lửa khi ông bị hỏa thiêu, niềm vinh quang của tro tàn, và do đó, với họ, yếu tính để thành người Tiệp là đám tro tàn và chỉ có thế thôi. Ðiều duy nhất giữ họ lại là sự chiến bại và những lời khiển trách lẫn nhau...” Nên tôi không mấy ngạc nhiên khi đọc các diễn văn, tuyên ngôn, tuyên cáo cùng các bài báo ở các loại báo biếu lá cải các nhân vật cộng đồng tố cáo mạ lỵ chụp mũ tưng bừng lẫn nhau, người oan kẻ ưng cá mè một lứa. Trung tâm William Joiner tặng cái grantanh Thủy đang làm đó cũng gây ra một vụ kiện đang đưa nhau ra ba tòa quan lớn Mỹ đấy, chắc anh có nghe rồi! Tôi https://thuviensach.vn cũng nghe, nhưng nghe qua rồi bỏ...Anh có nhận xét gì không? TVT:Tôi chân ướt chân ráo qua đây làm sao mà nhận xét được. Các cụ bảo: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe.” Tôi nghe chị chứ. HB: Không dám! Không dám! Nhưng anh liều mạng nghe thì tôi cũng liều mạng nói! Tôi cũng đọc được thêm một tài liệu khác nhận định về tính cách của các cộng đồng lưu vong. Trích đoạn được dịch và in trong tập “Văn học Hiện đại và Hậu Hiện đại...” của tác giả Hoàng Ngọc-Tuấn: “Trong cuộc sống lưu vong ở các nước Âu châu và Bắc Mỹ những năm cuối thế kỷ 20, những người đàn ông đến từ các quốc gia chậm phát triển và nhiều rối loạn chính trị ở châu Mỹ La Tinh rất dễ trở thành những con người thất bại. Vỡ mộng về một cuộc sống dễ dàng, cùng lúc nhận ra sự mất giá trị của bản thân trước xã hội mới qua những trở ngại trong ngôn ngữ và/hoặc trong khả năng kinh tế, cộng thêm tình trạng sống như những người không có một địa vị xã hội nào, họ thường có nguy cơ rơi vào những triệu chứng tâm lý đa nghi hoang tưởng (paranoia), vĩ cuồng (megalomania), trầm uất (folie manfaco-melancolico), hay dằn vặt với khát vọng hồi hương. Ðể xây dựng giá trị bản thân trong xã hội mới, thay vì nỗ lực hội nhập và vươn lên từng bước với sự kiên nhẫn, nhiều người lao vào và bỏ nhiều thì giờ, sức lực và ngay cả tiền bạc để tạo nên những địa vị giả (pseudo-estado) trong những nhóm sinh hoạt chính trị mệnh yểu và đầy sự cạnh tranh cá nhân. Chính những điều này là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên những xung đột trong nội bộ các cộng đồng và sự mâu thuẫn hoặc đổ vỡ trong nhiều gia đình, vì trong lúc đó, đa số đàn bà thì thực tế hơn và do đó dễ hội nhập hơn vào đời sống mới...” Nhận định này đúng với thực tế cộng đồng lưu vong Việt nam ở Mỹ và ở vài quốc gia khác ở châu Âu, Úc... Riêng tại tiểu bang California Mỹ nhận định này giúp chúng ta dễ dàng giải thích các hiện tượng chính phủ lưu vongmọc lên như nấm tại tiểu bang này, với đầy đủ các chức vụ từ tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng, thứ trưởng, tổng tư lệnh quân đội cho tới tỉnh https://thuviensach.vn trưởng, phó tỉnh trưởng đều có đầy đủ tuốt luốt. Các chính phủ ma này mọc lên rồi tan đi, lại có các chính phủ khác thay thế. TVT:Vui nhỉ! Tôi mà ở bên này, tôi cũng lập chính phủ. HB: Vậy sao? Nếu thế thì vừa vặn với nhận định vừa nêu trên của nhà tâm lý xã hội Pedro Lopez Pujo đối với đàn ông tị nạn! Những cuộc biểu tình rầm rộ, như anh biết, có khi lên tới vài chục ngàn người, như ban tổ chức từng phô trương, như cái lần để phản đối một anh chàng dở điên dởkhùng do những người thích ôm micro la hét giữa đám đông tổ chức, chỉ tổ tốn tiền thuế dân đóng góp để mướn cảnh sát địa phương canh giữ trật tự. Mọi chuyện sau đó thì cũng chìm xuồng. Vùng tôi ở, lâu lâu cũng có lác đác biểu tình chống lai rai, chống trong nước và chống ngoài nước. Gần đây nhất, là chống các ca sĩ trong nước ra ngoài trình diễn. Về những mặt tiêu cực này, tôi thấy trong nước và ngoài nước có những điểm trùng lặp thú vị. Thí dụ mới nhất tôi đọc ở báo Công An trong nước, họ dùng cái người dở điên dở khùng để thóa mạ nhà văn Dương Thu Hương. Trường hợp biểu tình chống ca sĩ trong nước trình diễn ở hải ngoại có người so sánh với trường hợp tài tử trong nước Ðơn Dương ra ngoài đóng phim thì bị rút hộ chiếu, bị cấm xuất ngoại vân vân... TVT:Tôi chia sẻ với chị và cũng thấy rằng đó là một thiếu sót của người Việt Nam chúng ta. Tuy nhiên, tôi muốn nói thêm, báo chí ở hải ngoại, trừ một số báo tôi cho là đứng đắn, phần đông vì xu thời, câu khách, thường mô tả xã hội Việt Nam đen tối, khủng khiếp. Khi đưa tin về tình hình trong nước thường có xu hướng thổi phồng, bóp méo. Cái cung cách thổi phồng, bóp méo này tôi cũng đã từng thấy ở một số báo trong nước nữa. Chúng ta làm vậy liệu có ích gì để lấp đi cái hố vốn đã sâu, ngăn cách trong và ngoài nước? Tôi có cảm tưởng hình như người Việt chúng ta vẫn kiên trì theo đuổi một bí quyết rất khiêm nhường và rất “đậm đà bản sắc dân tộc”: Ta nhất thiết phải có kẻ thù và kẻ thù của ta càng xấu ta càng tốt, mà là người Việt với nhau nữa thì càng tiện. Ðó là thiển ý của tôi. Bây giờ chúng ta tiếp tục câu chuyện. Theo tôi hiểu, chị không muốn hòa nhập vào các tổ chức cộng đồng? Thế chị có tham gia chút đỉnh vào việc hướng về đất nước không? https://thuviensach.vn HB: Tôi không tham gia tổ chức cộng đồng nào, không phải vì tâm lý phản bác như cô họa sĩ Sabina của Kundera. Các con tôi lại càng không tham gia. Nhưng chúng tôi và những người khác không quay lưng ngoảnh mặt với đất nước, chúng tôi giúp bà con, bạn bè, đồng bào và đất nước, theo cách của chúng tôi. Các con tôi làm việc cho chính phủ đều ký tặng trừ lương hàng tháng cho chương trình CFC (Combined Federal Campaign) để nhờ họ chuyển tiền đến các tổ chức giúp đỡ người tàn tật, trẻ bụi đời, trẻ mồ côi ở Việt Nam, trường dạy nghề... Vô số các tổ chức NGO (Non Governmental Organization) hoạt động cho các dự án liên quan đến việc cho người nghèo vay vốn, xây dựng trường học, xóa đói giảm nghèo, cứu lụt, cứu hạn....cũng nhận được sự đóng góp tài trợ của rất nhiều người Việt nước ngoài. Cũng kể đến số tiền hàng tỉ mà Việt kiều gửi về cho không biếu không bà con, họ hàng, bạn bè trong nước. TVT:Vắn tắt thì cộng đồng người Việt, cộng đồng gốc Á châu được đánh giá như thế nào ở Mỹ? HB: Cộng đồng nào cũng có cái tiêu cực và tích cực. Nhưng nếu nói chung, cộng đồng di dân châu Á ở Mỹ thường được đánh giá khá cao, so với các cộng đồng khác. Thí dụ, cộng đồng người da đỏ theo thống kê là có tỉ lệ tự tử cao nhất, các cộng đồng Nam Mỹ thì thường dính líu ít nhiều đến tệ nạn xã hội. Cộng đồng đến từ châu Á, trong đó có Việt Nam, được coi là cộng đồng tương đối có nhiều thành công trong việc hội nhập xã hội mới. Con số con em người Việt được đào tạo từ các trường đại học Mỹ để trở thành các chuyên gia trong nhiều lãnh vực là một con số lạc quan. TVT: Liên hệ của chị với người thân, bạn bè trong nước ra sao? HB: Liên hệ bằng tình người. Người thân thì có bổn phận liên hệ đỡ đần đã đành. Với tôi, bạn bè, không lưu ý chính kiến, bạn nào dễ thương chơi hợp thì kết bạn, trao đổi thư từ, email, điện thoại...Bình thường, như những người bạn trên đời mà ta muốn gặp. TVT:Chị không thích chơi với loại người nào? https://thuviensach.vn