🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiến tranh Đông dương 3 Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Chiến tranh Đông dương 3 Hoàng Dung Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động Nguồn: http://vnthuquan.net Phát hành: Nguyễn Kim Vỹ. https://thuviensach.vn Mục lục Thay lời tựa P1 P2 P3 P4 P5 P6 P7 P8 P9 P10 P11 P12 P13 P14 Phần Kết https://thuviensach.vn Hoàng Dung Chiến tranh Đông dương 3 Thay lời tựa Tôi không biết phải gọi Hoàng Dung, tác giả cuốn sách này bằng danh hiệu gì. Về nghề nghiệp ông là bác sĩ, nhưng chức vị bác sĩ sẽ không làm cho giá trị cuốn sách này tăng lên một chút nào. Ông không phải là nhà văn, mặc dù thỉnh thoảng có viết đôi bài đăng báo. Ngay cả ông là tác giả thiên khảo cứu này, ông cũng không nhận là nhà biên khảo Có một điều chắc chắn: ông là một người ưa đọc sách, có thói quen ghi lại những gì ông rút tỉa được nơi những trang sách ông đã đọc. Tôi biết Hoàng Dung từ khi chúng tôi còn thơ ấu. Trong sân trường trung học Nguyễn Trãi, lúc trường này chưa có trụ sở riêng, còn học nhờ tại trường Tiểu học Lê Văn Duyệt. Năm đó là năm 1957, tôi học Đệ Ngũ, Hoàng Dung dưới tôi một lớp. Chúng tôi là bạn chơi banh trong trường. Hai năm sau tôi rời Nguyễn Trãi lên Chu Văn An, một năm sau chúng tôi gặp lại nơi trường Chu Văn An cũ, sau lưng trường Petrus Ký. Khi lên Chu Văn An, là học sinh Trung học đệ nhị cấp, chúng tôi ít giao https://thuviensach.vn thiệp vì không còn đá banh, đá cầu trong sân trường nữa. Hơn mười năm sau gặp lại Hoàng Dung tại Pleiku. Ông đã là một bác sĩ quân y. Tuy là bạn thiếu thời, nhưng không phải đồng nghiệp nên thỉnh thoảng chúng tôi mới gặp nhau trong Câu lạc bộ sĩ quan quân đoàn, và đôi khi tệ hơn nữa là gặp nhau nơi bàn mạt chược. Dù gặp nhau ở nơi nào, ông cũng cho người khác thấy ông là người ít nói, lặng lẽ. Nhưng không một ai chối cãi được ông là một người tử tế. Ông tử tế với bạn là chuyện đương nhiên, ông tử tế với binh sĩ dưới quyền. Ông là một y sĩ tận tình săn sóc thương binh của ta và của dịch. Thế rồi chúng tôi tan tác trong cuối mùa trận chiến. Đầu thập niên 80, gặp lại nhau trên xứ người. Hoàng Dung đang đi học lại. Ông mới tới Mỹ một thời gian ngắn, lại lao vào việc sách đèn để có thể đì hết con đường ông đã chọn, để tiếp tục tuân thủ lời thề Hyppocrate. Nơi xứ người thỉnh thoảng chúng tôi mới có cơ hội gặp nhau, khi thì tôi sang miền Đông, khi thì Hoàng Dung sang Cai cho đỡ nhớ không khí nước Việt. Cách đây gần một năm, Hoàng Dung gọi điện thoại đến tôi, ông muốn tôi đọc hộ một tập bản thảo. Ông dứt khoát không hé lộ một chút gì về nội dung cuốn sách, chỉ vắn tắt một câu: “ông đọc hộ tôi coi nó có ra cái giống gì không” Buông điện thoại xuống tôi nghĩ tới Hoàng Dung, những đồng nghiệp của ông, và thế hệ di dân đầu tiên, mà trong đó có Hoàng Dung và cả tôi. Rất nhiều người trong cộng đồng chúng ta, sau khi đã an tâm về vật chất, con người ta cần một món ăn tinh thần. Mỗi người đến với món ăn tinh thần này một kiểu. Có người thành nhà văn, nhà thơ. Có người thành nhạc sĩ, hoạ sĩ. Cũng không thiếu gì người trở thành ca sĩ trình diễn trong vòng thân hữu, trong những party mừng sinh nhật, kỷ niệm thành hôn hay trong các tiệc cưới. Có người trở thành những chuyên viên tranh đấu, có mặt trong năm bẩy đoàn thể, tổ chức. Có người không làm gì cả, chỉ ngơ ngơ ngác ngác nơi xứ người. Hoàng Dung không rơi vào những thông lệ trên. Dù nghĩ gì thì nghĩ tôi không bao giờ tưởng tượng được Hoàng Dung, người bạn thiếu thời, một quân y sĩ nhiều lương tâm, sống giản dị cho tới năm ngoài 40 mới lập gia đình, lại có thể rơi vào cái vòng lợi, danh luẩn https://thuviensach.vn quẩn. Suốt mấy ngày liền, tôi bị cuốn sách của Hoàng Dung ám ảnh. Đã có lúc tôi nghĩ là bạn tôi chắc là đang cơn quẫn trí, một mình lủi thủi một xó, thành ra viết văn làm thơ cho nó bớt buồn. Dù sao chăng nữa ở nhà viết bất cứ cái gì, cũng còn hơn mải mê trong những canh mạt chược, đắm đuối trong chỗ ánh sáng mờ ảo của vũ trường. Cầm cuốn bản thảo trong tay, một lần nữa những suy nghĩ về bạn cũ lộn tùng phèo. Đó không phải là một tập truyện ngắn, không phải một tập thơ, tập nhạc. Đó là tất cả những gì Hoàng Dung đọc trong những khi nhàn rỗi, bởi vì ông làm việc cho một bệnh viện của một tỉnh nhỏ, thưa người. Tập bản thảo là kết quả của một thời gian dài cặm cụi, nghiền ngẫm, ghi chép. Hoàng Dung đặt tên cho cuốn sách của ông là: Trận chiến Đông dương hồi III. Bên dưới tên của cuốn sách có chua một hàng chữ: Chiến tranh biên giới Hoa Việt, Miên Việt 1979. Ông đã từng là một nạn nhân của cộng sản, đã từng ở tù vài năm. Vừa mới thoát khỏi hàng rào trại tù, là ông nhắm hướng biển Đông xông tới. May thì đến được một bến bờ, không may thì thêm một mạng người chui vào bụng cá. Nào có xá kể gì, vì sinh mạng con người trong thời khoảng vừa tàn cuộc chiến, thật không khác gì sinh mạng một con kiến. Vài năm đầu tại Mỹ Hoàng Dung chúi đầu vào việc học. Ông chỉ thật sự đọc sách sau khi đã tốt nghiệp, đã thực tập và đã trở thành một y sĩ góp mặt với đời. Sau giờ làm việc tại bệnh viện ông rảnh rỗi, mượn sách thư viện về nhà, xúc tìm nơi những trang sách, về một đề tài ông rất quan tâm: Đó là những trận đánh trong chiến tranh Đông dương hồi III. Hồi I là chiến tranh Việt Pháp cho tới 1954, hồi II là chiến tranh Nam Bắc Việt nam cho tới 1975, và hồi III là chiến tranh tại vùng biên giới, giữa các nước đã từng có thời là đồng minh trong những trận chiến Đông dương cũ. Để có thể liên kết nhiều tài liệu, nhiều tác giả với nhau, ông nẩy ra ý định ghi chép lại. Ông ghi chú tất cả những điều gì cần ghi chú, sắp xếp cho thành từng chương sách, liên hệ cách nhìn của các tác giả, và rút ra cách nhìn của riêng ông. Nội dung tập bản thảo dầy hơn 200 trang, viết về các trận đánh biên giới xẩy ra năm 1979, giữa ba quốc gia đã từng có một thời là anh em, môi hở răng lạnh, đã từng là hậu phương lớn với tiền tuyến lớn: https://thuviensach.vn Campuchia-Việt nam-Trung hoa. Chỉ mới ngốn được hai trang đầu, tôi biết là tôi đã bất gặp một cuốn sách đặt đúng vấn đề. Tôi nhớ lại, trong khi trận chiến giữa Việt nam và Trung hoa đang xẩy ra khốc liệt, cũng như chiến tranh Việt nam và Campuchia tới giai đoạn một mất một còn. Không biết người Việt trong nước nghĩ gì, nhưng tại hải ngoại trong lòng người Việt ly hương là một mớ suy nghĩ hỗn độn. Chẳng lẽ lại ca tụng Trung quốc, kẻ thù truyền kiếp của dân Việt từ phương Bắc. Lại càng không thể cổ võ bạo quyền cộng sản trong nước, khi mà hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức của miền Nam còn đang lê những tấm thân tàn trong các xó núi, góc rừng. Thành thử trong khi cả nước từ Bắc chí Nam, bất kể đảng viên cộng sản hay là dân chúng, đang oằn người chịu đựng một cuộc chiến tranh khác, thì ngoài nước không một cá nhân nào, một tổ chức nào có một cái nhìn tương đối dứt khoát, đối với một tai hoạ mới đang diễn ra với anh em, ruột thịt đồng bào. Hoàng Dung có mặt trong nước khi chiến tranh biên giới xẩy ra, nhưng người cộng sản có bao giờ thông tin cho dân chúng một cách trung thực. Cái mà ông đọc ở báo chí trong nước, chỉ là những mớ bùi nhùi chữ nghĩa, chỉ là những khẩu hiệu ca tụng chiến thắng rất kêu, hệt như những tiếng phèng la của những tay Sơn Đông mãi võ. Ông muốn tìm hiểu việc gì đã đích thực xẩy ra. Do đó ngay khi điều kiện sinh sống cho phép, ông vùi đầu vào những cuốn sách của các nhà sử học, của các ký giả ngoại quốc đã viết về trận chiến tranh này. Nhân tiện ông ghi lại cho những bạn đồng tù của ông, hay bất cứ ai muốn tìm hiểu trận chiến này. Ông vẽ tại các cuộc chuyển quân của cả ba nước cộng sản tham chiến: Hoa, Việt, Miên. Ông cũng ghi lại những biến chuyển nhân sự, những con người trồi lên tụt xuống trong Chính trị Bộ Bắc Việt, hay trong Trung Nam Hải Bắc kinh, cũng như trong rừng già nhiệt đới Campuchia, để những người đọc ông, có thể hên kết những biến chuyển chính trị, xạ chiếu trên mặt trận quân sự như thế nào. Cách ông viết giống như ông đã trình bầy luận án, do đó cuốn sách có một https://thuviensach.vn cái nhìn nhất quán, trình bầy sáng sủa mạch lạc, tài liệu tra cứu dồi dào, với những phụ bản cần thiết. Chỉ cần đọc chương chót cuốn sách, chương ghi chú sơ lược về các nhân vật cuốn sách nói tới, người đọc sẽ thấy cái cần cù của tác giả. Mỗi một nhân vật đều có một vài dòng tiểu sừ, ghi năm sinh, năm chết, giữ chức vụ gì, tại sao bị thanh trừng... Bảng danh sách này gồm có 166 nhân vật Việt, Hoa, Miên, Lào, Nga, Mỹ, Pháp. Tôi chọn thử một nhân vật: Đinh Bá Thi: Tên thật là Ung Văn Chương, được Lê Duẩn nâng đỡ, nhờ bầy kế để Duẩn lấy người vợ thứ ba. Đại diện Việt nam tại Liên hiệp quốc sau 1975, bị triệu hồi năm 1978 sau một vụ án gián điệp. Có tin bị công an đặc biệt của Việt nam giết vì đã móc nối với Trung hoa”. Một thí dụ khác: “Kayxon Phomvihan (AL): Tổng bí thư Đảng cộng sản Lào, sau 1975 làm Thủ tướng Lào. Tên thật không rõ, con của Nguyễn Trí Loan, một công chức người Việt tại Lào”. Ông cũng thiết lập một danh sách 37 đại đơn vị của Việt nam, từ cấp Sư Đoàn trở lên, được thành lập trong thời điểm nào, và vùng hoạt động trong các trận đánh cùng với Trung quốc và Miên Cộng. Đánh giá lại trận chiến này là một việc làm cần thiết cho người Việt lưu vong, bởi vì khi khối cộng sản tan thành mảnh nhỏ tại Đông Âu, và cả nước Nga, đã khai sinh lại nhiều quốc gia trên bản đồ thế giới. Trong việc khai sinh những quốc gia này, máu đã đổ không ít giữa những người có thời là đồng chủng, tại Nam Tư, cũng như tại Liên xô, huống hồ giữa hai sắc dân hoàn toàn khác biệt về ngôn ngữ cũng như chủng tộc giữa nòi Việt và nòi Hán, hay những oán thù chủng tộc giữa người Việt và người Khmer. Những tranh chấp lãnh hải trong vùng biển Đông, nơi lưu trữ một nguồn hơi đốt và dầu hoả, có thể không thua lượng dầu thô dự trữ tại bán đảo ả Rập. Số lượng tài nguyên này chưa biết có đủ tốt để khai thác kỹ nghệ không. Nhưng có thể nó sẽ là một liều thuốc nổ, khơi ngòi chiến tranh trong một vài năm tới. Một cuộc chiến nữa có thể xẩy ra giữa các nước trong vùng Đông Nam Á là một điều khả tín. Vì thế ước vọng khiêm nhường của Hoàng Dung, tác giả của cuốn sách này https://thuviensach.vn chỉ mong mỏi: Cuốn sách sẽ là bước đầu tìm hiểu các cỗi rễ, những căn nguyên, cũng như những yếu tố đã đưa tới chiến tranh giữa Việt nam và hai nước lân bang. Để nếu không giải quyết được thì cũng làm giảm đi sự nghi kỵ và lòng thù hận, hoặc tăng thêm sự cảnh giác về mối đe doạ thường trực của đất nước. Hoàng Dung là một ngạc nhiên trong đời sống tôi. Biết nhau suốt 40 năm tôi chưa bao giờ có dịp nhìn ông thật kỹ. Cuốn sách cho tôi biết một điều: Có những con người bình thường mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày, tưởng như đã hiểu, đã biết rõ về họ. Kịp cho tới khi có một việc không bình thường xẩy ra, mới là dịp để chúng ta biết con người đó đích thật nghĩ gì, làm gì? Nếu như ông gửi tới tôi bản thảo một tập truyện ngắn, một tập thơ thì có thể ông sẽ là một “nhà văn y sĩ”, như một số cây bút, hay chua thêm chữ MD dưới tên tác giả mỗi khi viết bài. Nếu ông viết một tài liệu y khoa tôi đã không ngạc nhiên, mà tài liệu y khoa thì chắc chắn người nhận là các đồng nghiệp của ông. Tôi biết gì về thuốc men, về bệnh trạng, về cơ thể con người? Đọc xong tập bản thảo, tôi biết ông là người như thế nào ông là một người học thức khoa bảng với cấp bằng ông hiện có, với nghề nghiệp ông đang làm, nhưng đồng thời ông cũng là trí thức. Chữ trí thức với nghĩa giản dị, khiêm tốn và đúng nghĩa nhất của danh từ này. Xin thành thật cám ơn người bạn thuở thiếu thời, mà mãi tới 40 năm sau tôi mới có dịp nhận biết con người thực sự, ẩn sâu trong những công việc ông đã làm cho chính ông, cho bằng hữu, cho bệnh nhân. Bất kể bệnh nhân ấy là ai, làm gì, từ đâu tới Xin cám ơn cuốn sách Chiến Tranh Đông dương III, tác phẩm đã soi tỏ cho tôi những điều tù mù tăm tối của hơn mười lăm năm trước. Hoàng Khởi Phong Ghi nhận của Hoàng Dung, bìa Khánh Trường, trình bày Cao Xuân Huy, Văn Nghệ xuất bản Califomia USA ISBN 1-886566-85-2 Copyright 2000 by Văn Nghệ https://thuviensach.vn Hoàng Dung Chiến tranh Đông dương 3 P1 Sơ lược lịch sứ Cam pu chia từ lập quốc đến thời cận đại https://thuviensach.vn Lịch sử Việt nam từ khi lập quốc đã luôn luôn có những quan hệ thăng trầm với Trung hoa. Văn minh Trung hoa đã ảnh hường nhiều đến dân tộc Việt nam trong cả thời kỳ bị đô hộ hay thời kỳ độc lập. Do đó, người Việt nam đã biết nhiều về văn hoá cũng như lịch sử của Trung hoa, nhưng đã rất mù mờ về hai quốc gia lân bang khác ở phía tây là Lào và Campuchia, chỉ vì hai quốc gia này đã không gây nhiều ảnh hưởng đến an ninh lãnh thổ cũng như nếp sống văn hoá xã hội của Việt nam. https://thuviensach.vn Một trong những nguyên nhân sâu xa đưa đến cuộc chiến tranh Đông dương thứ ba hay cuộc chiến tranh hậu chiến là mối thù hận lâu đời của người Campuchia đối với người Việt Mối thù hận này, ít có người Việt nào để ý đến nhiều, mặc dù đã kéo dài suất trong lịch sử mấy trăm năm nay, kể từ khi Việt nam đã thôn tính xong nước Chiêm Thành, và trở nên một lân quốc của Campuchia. Cũng như lịch sử Việt nam, nguồn gốc lập quốc của Campuchia rất mơ hồ. Người ta chỉ biết tại vùng đất trước kia từng thuộc Campuchia đã có người sinh sống từ hai ngàn năm trước Tây lịch. Quốc gia đầu tiên được biết đến ở phần đất này là Phù Nam, khi thứ sử Giao Châu là Sĩ Nhiếp năm 220 báo cáo về triều đình Đông Hán là đất Giao Châu (Việt nam hồi đó) bị quân Lâm ấp (sau là Chiêm Thành) và Phù Nam quấy nhiễu. Năm 245, vua Tàu nhà Hán có gửi một sứ bộ đến Phù Nam. Một trong những sứ giả là Khang Thái, khi về nước đã viết về quốc gia này. Theo ông, người sáng lập ra vương quốc là vua Kaundinya. Ông đến từ Ấn độ, đánh bại nữ hoàng Liệu Yeh rồi kết hôn với bà này. Tuy nhiên, cũng như người Việt từng tự hào là con rồng cháu tiên, người Khmer cũng huyền thoại hoá lịch sử của họ. Trên một bia dá tìm thấy ở Phú Yên, có khắc một chuyện thần tiên, trong đó kể lại vua Kaundinya có một cây thương thần và đã kết hôn với con gái của thần rắn Nga. Do đó mà về sau, thần rắn trở nên một biểu tượng cho nguồn gốc thần thánh của dân tộc Campuchia. Đế quốc Phù Nam, cũng như tất cả những đế quốc khác, sau một thời gian hưng thịnh, rồi cũng bị sụp đổ vào thế kỷ thứ sáu do cuộc nổi loạn của một quốc gia chư hầu là Chân Lạp. Theo sử nhà Tuỳ, Chân Lạp là một nước nhỏ ở phía tây nam Lâm ấp (vùng rừng núi Ratakini ở phía tây của Kontum và Pleiku) và dân tộc Chân Lạp cũng thuộc giống dân Khmer. Sau khi tiêu diệt triều đình Phù Nam, vương quốc Chân Lạp luôn luôn có nội chiến, và https://thuviensach.vn đến năm 706 thì lãnh thổ bị chia làm hai nước: Thượng hay Thổ Chân Lạp, và Hạ hay Thuỷ Chân Lạp. Năm 802, vua Jayavarman II, một vị vua sáng suốt của Thổ Chân Lạp lên ngôi. Ông thống nhất hai nước, củng cố hành chánh, đổi tên nước là Kambuja, tên nguyên thuỷ của Campuchia, dời đô về Angkor, mở đầu một kỷ nguyên vàng son. Những vị vua kế nghiệp ông đã xây thêm nhiều đền đài lăng tẩm, nhất là cha con vua Indravarman (877- 900) đã phát triển hệ thống dẫn thuỷ nhập điền, đào những con kinh rộng hơn cây số, những hồ chứa nước, mở ra một cuộc “cách mạng xanh” khiến cho đất đai Campuchia có thể sản xuất lương thực dồi dào cho suốt mấy trăm năm. Một vị vua nổi tiếng khác, vua Suryavarman II (1113- 1150) đã bành trướng đất đai đến bán đảo Malaysia, đánh phá Chiêm Thành, và xây dựng ngôi đền Đế thích Angkor Wat, một công trình kiến trúc nổi tiếng nhất Đông Nam Á. Sau khi vua Suryavarman II băng hà, thành Angkor bị người Chiêm Thành tấn công, và vua Jayavarman VII sau đó lên ngôi. Ông có lẽ là vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử Campuchia. Ông hưng binh phục hận và chinh phục Chiêm Thành, biến nước này thành chư hầu, mở rộng lãnh thổ. Đồng thời ông đào thêm kinh rạch, xây dựng Đế Thiên Angkor Thom và đền Bayon, cùng hơn một trăm ngôi nhà nghỉ mát. Nhưng những chiến công của ông và những công trình vĩ đại đó đã phải trả một giá rất đắt. Dân chúng phải làm việc như nô lệ để xây dựng và trùng tu cung điện, đền đài. Trai tráng bị cưỡng bách tòng quân chinh chiến liên miên. Tài nguyên quốc gia bị kiệt quệ, và ngay sau khi vua Jayavarman VII qua đời, những gì ông thực hiện được hoàn toàn tan rã.Tuy nhiên, những công trình xây dựng và những chiến công hiển hách của ông đã trở nên niềm hứng khởi cũng như mối ám ảnh cho đường lối cai trị cuồng điên của những lãnh tụ Khmer Đỏ sau này. Sau khi vua Jayavarman VII qua đời (năm 1228), triều đại Angkor bắt đầu suy tàn, khởi đầu là nước Chiêm Thành thâu hồi độc lập. Từ đó, người https://thuviensach.vn Chiêm Thành và người Thái liên tiếp tấn công thủ đô, triều đình phải di chuyển về Phnom Penh (1434), rồi Lovek (15161. Đế Thiên Đế Thích bị bỏ hoang. Năm 1594, quân đội Thái tấn công chiếm được kinh thành Lovek. Họ đô hộ cả quốc gia, tịch thu và cướp bóc của cải, bắt đem về Thái lan hàng chục ngàn thợ giỏi, trí thức, nghệ sĩ, tăng sĩ. Dù cho về sau, dân Campuchia đã nổi dậy đánh đuổi được quân Thái lan, nhưng cũng kể từ lúc đó, người Campuchia không còn năng lực sản xuất được những công trình mỹ thuật và kiến trúc vĩ đại như xưa, Quốc gia Campuchia không bao giờ hồi phục lại phong độ cũ Cũng trong giai đoạn suy tàn đó, vào thế kỷ thứ mười bảy, Việt nam đã thôn tính xong quốc gia Chiêm Thành và trở nên một lân quốc trực tiếp của Campuchia.Bị nằm kẹt giữa hai quốc gia hùng mạnh đang phát triển, Campuchia chỉ có một cách duy nhất để sống còn là hoặc thần phục Thái lan, hoặc thần phục Việt nam, có khi đồng thời thần phục cả hai nước. Nhưng vì nhu cầu bành trướng lãnh thổ của Việt nam, và vì nội bộ triều đình Campuchia luôn luôn lủng củng, lãnh thổ quốc gia Campuchia dần dần bị thu hẹp. Tới thế kỷ thứ mười chín thì Việt nam đã chiếm hết lãnh thổ Thuỷ Chân Lạp cũ, và nếu người Pháp không can thiệp vào Đông dương, có lẽ quốc gia Campuchia đã biến mất. Người Pháp bắt đầu can thiệp vào nội tình Đông dương vào thế kỷ thứ mười chín. Lúc đó người Anh đã chiếm được Ấn độ, Malaysia và người Pháp đang cần một đầu cầu để đi vào thị trường rộng lớn Nam Trung hoa. Trong thời gian đó, Nhật bản có Minh Trị Thiên Hoàng, Thái lan có vua Mongkut có đầu óc canh tân, thì những vị vua triều Nguyễn đã vụng về thi hành chính sách bế quan toả cảng và đàn áp đạo Thiên Chúa, khiến cho người Pháp có cớ để tấn công Việt nam. Từ năm 1851, sau khi vua Tự Đức ký dụ cấm đạo, các tướng Pháp Grenouilly, Charner liên tiếp bắn phá Đà Nẵng và rồi Bonard, De Lagrandière lần lượt chiếm hết sáu tỉnh Nam Kỳ làm thuộc địa. Tiếp theo, người Pháp bắt đầu dòm ngó Campuchia. Tháng https://thuviensach.vn 9.1862, Bonard đích thân sang thăm vua Norodom (Nặc Ông Chân), yêu cầu nhà vua nhận cho Pháp bảo hộ. Nhà vua còn trù trừ thì năm sau, Lagrandière sợ nếu để trì hoãn lâu thì Thái lan sẽ nhảy vào tranh giành ảnh hưởng nên đã đích thân lên Phnom Penh gặp Norodom, ép nhà vua ký hiệp ước bảo hộ vào tháng 7-1863. Mới đầu, người Pháp chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ và Campuchia với mục đích tìm đường đi đến Nam Trung hoa. Một phái đoàn thám hiểm ngược dòng sông Cửu Long được thành lập, do De Lagrée làm trưởng phái đoàn, Francis Garnier phụ tá. De Lagrée bị chết trong chuyến thám hiểm, còn Garnier đến được Vân Nam. Phái đoàn nhận thấy không thể dùng tàu bè ngược sông Cửu Long để lên Vân Nam, nhưng tại Vân Nam, Garnier gặp Jean Dupuis (Đồ Phổ Nghĩa), một thương gia, Jean Dupuis xúi Garnier yêu cầu Thống Đốc Nam Kỳ Duprée can thiệp để Dupuis có thể dùng sông Hồng Hà để sang Vân Nam buôn bán. Garnier được cử đem quân ra Hà nội dàn xếp, và sau mấy ngày thương thuyết không xong, Garnier tấn công và lấy được thành Hà nội. Tổng đốc Hoàng Diệu tự tử, Garnier sau đó cũng bị quân Cờ Đen phục kích giết chết. Thấy không sử dụng được sông Cửu Long, người Pháp tìm cách khai thác những mối lợi khác. Năm 1884, họ đòi vua Norodom phải ký thoả ước để người Pháp được nắm toàn quyền về hành chánh, tư pháp, tài chánh, thương mại và thu tất cả mọi thứ thuế. Vua Norodom từ chối, Lagrandière tự đem tàu chiến lên Phnom Penh, vào tận hoàng cung, ép vua Norodom phải ký. Tự ái dân tộc bị tổn thương, nhân dân Campuchia nổi loạn dưới sự lãnh đạo của hoàng thân Si Vatha. Người Pháp phải đánh dẹp hai năm mới yên. Vua Norodom chết năm 1904, em của ông là Sisowath nối ngôi, trị vì đến năm 1927 thì con là Monivong nối nghiệp. Nhưng khi Monivong mất năm 1941 thì toàn quyền Decoux lại chọn Sihanouk là chắt của vua Norodom lên ngôi https://thuviensach.vn vua, chỉ vì lúc đó ông ta còn trẻ và người Pháp nghĩ là ham chơi, thiếu kinh nghiệm. Nước Campuchia, dưới sự bảo hộ của Pháp, có được một thời kỳ tương đối yên tĩnh, và họ cũng may mắn không bị liên quan nhiều đến thế chiến thứ hai. Tuy rằng mối quan tâm chính của người Pháp là bóc lột tài nguyên và nhân lực của dân bản xứ, nhưng họ đã bảo vệ được sự toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia và đã làm được vài công trình có lợi ích. Trước hết là sự phát hiện và trùng tu những lăng tẩm Đế Thiên Đế Thích, làm sống lại một thời đại vàng son rực rỡ của quốc gia Campuchia khơi dậy niềm tự hào dân tộc. thứ hai là họ đã canh tân hệ thống giáo dục, mở mang dân trí, trong đó có sự thành lập hai cơ sở chính là Viện nghiên cứu Phật học và trường trung học Sisowath. Hai cơ sở này đã là nơi đào tạo ra những lãnh tụ tương lai của Campuchia. Viện nghiên cứu Phật học Phnom Penh được thành lập năm 1930, với sư giúp đỡ của một học giả người Tháp bà Suzanne Karpelès, một nhân viên thuộc Viện Viễn Đông Bác Cổ Hà nội. Viện chủ trương phát huy những tinh tuý của Phật Giáo tiểu thừa gạt bỏ những lễ nghi mê tín, đồng thời làm sống lại niềm kiêu hãnh và khát vọng của nhân dân Campuchia. Trong một xứ không có giai cấp sĩ phu hay quan lại và Phật Giáo được coi gần như là quốc giáo, tầng lớp sư sãi đã có một uy tín và ảnh hưởng rất lớn. Họ sống khổ hạnh, đạo đức. Họ nuôi cô nhi, làm việc thiện, dạy dỗ trẻ con. Người Campuchia khắp nơi đổ về học, nhất là những người Khmer Hạ từ vùng đồng bằng Cửu long trước kia là Thuỷ Chân Lạp nay đã thuộc Việt nam. Trong công cuộc phục hưng văn hoá cổ truyền, Viện Phật học đã gián tiếp phát huy tinh thần quốc gia chóng thực dân và bài Việt nam. Một cơ sở giáo dục khác, trường trung học Sisowath, được coi như nơi tập trung những tinh hoa của giới học sinh. Qua hội ái hữu cựu học sinh, họ đã qui tụ được một nhóm trí thức sau này trở nên những lãnh tụ chính trị, mà https://thuviensach.vn tư tưởng cũng như khuynh hướng chính trị dù rất khác nhau của họ đã có ảnh hưởng quan trọng đến vận mạng của dân tộc Campuchia suốt mấy chục năm qua. Người lãnh tụ quốc gia đầu tiên của Campuchia trong giai đoạn này là ông Sơn Ngọc Thành. Theo ông hoàng Sihanouk, ông Sơn Ngọc Thành là anh em của Sơn Ngọc Minh, lãnh tụ đầu tiên của phong trào cộng sản Campuchia, và Sơn Thái Nguyên, cựu nghị sĩ Quốc hội Việt nam cộng hoà - nhưng chi tiết này có lẽ không xác thực, vì ông hoàng Sihanouk đã rất ganh ghét Sơn Ngọc Thành - Sơn Ngọc Thành là một người Khmer Hạ, sinh trưởng ở vùng đồng bằng Cửu Long, học hết trung học ở Việt nam, sau đó sang Pháp học Luật, và mấy năm sau, dù chưa tốt nghiệp, ông trở về Phnom Penh. Với trình độ học vấn của ông lúc đó, ông trở nên một nhân vật quan trọng trong Viện Phật Học và là một gạch nối quan trọng giữa tầng lớp sư sãi và nhóm tri thức cựu học sinh Sisowath. Nhóm trí thức này phần lớn có địa vị, có khả năng tài chánh, có kiến thức chính trị, trong khi tầng lớp sư sãi lại có uy tín và tổ chức sâu rộng trong quần chúng. Năm 1936, Sơn Ngọc Thành xuất bản tờ báo Nagaravatta. Dưới danh nghĩa truyền bá Phật Giáo và bảo tồn văn hoá, tờ báo kêu gọi đấu tranh giành độc lập. Tờ báo cũng cực lực công kích sự ưu đãi của người Pháp dành cho người Việt khi họ dùng người Việt trong những chức vụ hành chánh ở Campuchia. Mấy năm sau, thế chiến thứ hai bùng nổ, quân Nhật tiến vào Campuchia, nhưng vẫn để người Pháp duy trì bộ máy hành chánh. Lo sợ trước cao trào đấu tranh của dân bản xứ, năm 1942, người Pháp đóng cửa tờ báo Nagaravatta, bắt giữ lãnh tụ Phật Giáo Hem Cheav. Nhà sư này sau đó chết trong tù tại Côn Đảo. Việc bắt giữ cao tăng Hem Cheav đã gây phẫn nộ trong dân chúng Campuchia. Ngày 20-7-1942, Sơn Ngọc Thành tổ chức một cuộc biểu tình lớn đòi Pháp phải thả hết tù chính trị và trao trả quyền tự quyết cho dân tộc https://thuviensach.vn Campuchia.Cuộc biểu tình bị người Pháp dẹp tan và người Nhật không can thiệp. Sơn Ngọc Thành phải trốn sang Nhật. Mấy năm sau, quân Nhật đảo chánh quân Pháp, ép ông hoàng Sihanouk thành lập một chính phủ thân Nhật, ra tuyên ngôn độc lập trong khối Thịnh vượng Đại Đông Á. Sơn Ngọc Thành về nước làm Bộ trưởng ngoại giao. Mấy tháng sau, Nhật đầu hàng Đồng Minh, và ngày 9-8-1945, Sơn Ngọc Thành đảo chánh tự đứng lên làm Thủ tướng. Lúc đó, tại châu Âu, Đức Quốc Xã đã đầu hàng chính phủ De Gaulle không che giấu ý định trở lại Đông dương. Để cứu vãn tình thế, Sơn Ngọc Thành mới thoả hiệp với Việt Minh để thành lập một mặt trận chung chống Pháp, nhưng viên Bộ trưởng quốc phòng của ông đã phản bội, trốn xuống Sài gòn, báo cho Pháp biết kế hoạch. Ngày 10-10-1945, liên quân Anh Pháp Ấn tiến vào Phnom Penh bắt giam Sơn Ngọc Thành, tái lập chế độ thuộc địa và cho Sihanouk trở lại làm vua. Sơn Ngọc Thành bị kết án hai mươi năm khổ sai, đầy sang Vence rồi Poitiers. Ông được thả năm 1950, nhưng uy tín ông cũng lu mờ dần. Sau giai đoạn hỗn loạn đó, hai phong trào giải phóng quốc gia được thành lập. Ở phía tây, là phong trào Khmer Issarak, được chính quyền Thái lan dung túng và giúp đỡ. Đây là phong trào gồm nhiều thành phần, bảo hoàng có, phe Sơn Ngọc Thành có, tả phái có, kết hợp lại cùng chung mục đích là đánh đuổi thực dân Pháp. Ở phía đông, một lãnh tụ Phật Giáo, nhà sư Achar Man, đã gia nhập đảng cộng sản Đông dương khi bị tù ở Côn Đảo cùng với các tù nhân cộng sản Việt nam, trở nên lãnh tụ đầu tiên của phong trào cộng sản Campuchia với bí danh Sơn Ngọc Minh (kết hợp hai tên Hồ Chí Minh và Sơn Ngọc Thành). Tuy thế, hai phong trào này vẫn còn yếu ớt, cho nên trong chiến tranh Đông dương thứ nhất, tình hình chiến sự Campuchia tương đối yên tĩnh. Khi chiến tranh chấm dứt, hai phong trào này gần như tan rã. Tại hội nghị Genève năm 1954, các lãnh tụ cộng sản Việt nam, Trung hoa, Liên xô đã không đếm xỉa gì tới cộng sản Campuchia. Việt nam được nửa https://thuviensach.vn quốc gia phía bắc, cộng sản Lào được hai tỉnh Sầm Nứa và Phong Saly. Riêng cộng sản Campuchia một số phải lui vào bóng tối, một số khác giả làm bộ đội Việt nam theo tàu Ba lan đi Hà nội. Một mình ông hoàng Sihanouk là có quyền tuyên bố đã giành được độc lập và toàn vẹn lãnh thổ một cách hoà bình. Đối với đa số dân Campuchia, ông trở nên một anh hùng giải phóng dân tộc. Nhưng dù khôn khéo đến đâu, ông cũng không thể giữ cho quốc gia Campuchia đứng ngoài vòng tranh chấp của cuộc chiến tranh Đông dương thứ hai và vận mạng không may của dân tộc Campuchia đã phải trải qua từ thảm trạng này sang đến thảm trạng khác, đúng như lời tiên đoán của ông nội ông: Sẽ có ngày dân Campuchia sẽ phải chọn lựa, hoặc bị tiêu diệt bởi con cọp, hay bị nuốt bởi con cá sấu. Xét bề ngoài, Campuchia có một thời gian hoà bình từ 1954 đến 1970. Trong khi trận chiến Đông dương thứ hai diễn ra ở Việt nam kéo dài gần hai mươi năm, thì nội chiến Campuchia chỉ thực sự bùng nổ dữ dội từ 1970 đến 1975. Nhưng trong khoảng thời gian này, những diễn biến chính trị nội bộ cùng nhưng biến chuyển ở Việt nam đã đưa đến sự phát triển của phong trào cộng sản Campuchia, lần này được lãnh đạo bởi những tay lãnh đạo mới, có khả năng hơn (tương đối có học nhất trong những lãnh tụ cộng sản châu Á), và cuồng tín hơn. Vì thế, dù cuộc nội chiến chỉ xảy ra trong năm năm nó đã gây ra những tổn hại nhân mạng, kinh tế và xã hội nghiêm trọng. Nhân vật chính trị nổi bật nhất trong giai đoạn này vẫn là ông hoàng Sihanouk. Ông là một người đa dạng. Tuỳ theo cách nhìn của mỗi người ông ta có thể là một ông vua bình dân, một nhà độc tài, một chính trị gia khôn khéo, một kẻ cơ hội, một nhà soạn nhạc dở hay một diễn viên điện ảnh tồi, ông đã từng cộng tác với Pháp, với Nhật nhưng vẫn tự nhận là anh hùng dân tộc. Khi thấy cộng sản mạnh, ông đi đôi với Trung quốc rồi Việt cộng. Sau 1968, Việt cộng bị yếu đi, ông tìm cách trở lại kết thân với Mỹ. Sau khi bị đảo chánh, ông theo Khmer Đỏ. Thoát được ra ngoài, ông đả kích họ kịch liệt. Tuy ông không phải là một nhà lãnh đạo nhìn xa trông rộng, nhưng trong cái hoàn cảnh chênh vênh của nước ông ở bên cạnh một https://thuviensach.vn quốc gia mà tình hình luôn luôn sôi động như Việt nam, sự khôn khéo và đường lối chính trị đu dây của ông đã giúp ông lúc nào cũng là một trong những nhân vật chính trong mọi hoàn cảnh. Sau năm 1954, theo hiến pháp, Campuchia phải bầu cử quốc hội. Sợ rằng các đảng đối lập có thể thắng cử và lập chính phủ, Sihanouk đang làm vua tự ý thoái vị, nhường ngôi cho cha, rồi dùng uy tín cá nhân của mình kết hợp những đảng phái ôn hoà và hữu phái lại thành một đảng, lấy tên là Cộng đồng nhân dân xã hội (Sangkum Reasts Niyum). Cùng ra tranh cử trong thời gian đó là những đảng viên của đảng Độc lập (phe Sơn Ngọc Thành), đảng Nhân dân (của Keo Meas, cộng sản trá hình), đảng Dân chủ (Thioun Mumm, cũng cộng sản). Nhờ uy tín cá nhân của Sihanouk, cũng như nhờ gian lận và đàn áp, đảng Sangkum của Sihanouk chiếm được tất cả các ghế trong quốc hội, nhưng ông ta vẫn không nương tay với các chính khách đối lập, nhất là các cán bộ cộng sản. Chủ bút tờ báo cộng sản Cờ Giải Phóng Pracheachon bị đánh đập, hành hung rồi chết vì vết thương hai ngày sau đó. Thioun Mumm phải trốn về Pháp, Keo Meas trốn sang Bắc Việt. Phong trào cộng sản Campuchia càng suy đồi hơn vào năm 1959, khi lãnh tụ cộng sản số hai phụ trách nông thôn là Siêu Hung về hồi chánh, chỉ điểm cho mật vụ của Sihanouk bắt bớ, phá hoại hết những cơ sở cộng sản ở nông thôn. Thời gian đó, các trí thức tả phái Khieu Samphan, Hou Youn đã tốt nghiệp bên Pháp trở về dạy đại học và hoạt động cộng sản nằm vùng. Trong khi đàn áp và tiêu diệt những tên cộng sản “xấu” ở trong nước, thì Sihanouk lại kết thân với những chính quyền cộng sản “tốt” ở ngoài. Ông tuyên bố theo đường lối trung lập không liên kết và gia nhập khối Á Phi. Đường lối này rất phù hợp với Trung hoa, không muốn thấy Hoa kỳ có căn cứ hay ảnh hưởng ở biên giới phía nam, và với Bắc Việt, vì Sihanouk đã làm ngơ để cho Việt nam dùng đất Campuchia làm đường mòn tiếp vận và mật khu an toàn. Khôn ngoan hơn nữa, năm 1962, ông mời những trí thức tả phái tham https://thuviensach.vn gia chính phủ. Hu Nim được cử làm phụ tá chủ bút báo đảng Sangkum, Samphan làm Bộ trưởng Thương mại và Hou Youn Bộ trưởng Kế hoạch. Mấy người này mới làm được một vài cải cách nhỏ thì năm sau, 1963, song song với những cuộc biểu tình của sinh viên và Phật tử ở Việt nam, sinh viên học sinh ở tỉnh Siem Reap cũng biểu tình phản đối cảnh sát Campuchia tham nhũng và có những hành vi đàn áp hung bạo. Họ cũng phản đối luôn cả Sihanouk. Đây là một biến cố tự phát, nhưng là lần đầu tiên ở Campuchia có biểu tình phản đối chính phủ. Sihanouk nghi ngờ phe tả xúi dục, buộc Khieu Samphan, Hou Youn, Hu Nim phải từ chức. Còn Saloth Sar bị săn đuổi phải trốn vào rừng. Tuy đàn áp tả phái trong nước, Sihanouk vẫn tiếp tục chính sách đối nội và đối ngoại lưng chừng. Để Trung hoa và cộng sản Bắc Việt không viện trợ cho cộng sản Campuchia, ông quốc hữu hoá nhũng ngành sản xuất, ngưng nhận viện trợ Mỹ, và làm ngơ cho những hoạt động của Việt cộng ở vùng biên giới. Mất viện trợ Mỹ, ngân sách bị thiếu hụt, Sihanouk ra lệnh thu mua lúa gạo với giá rẻ hơn. Điều này khiến nông dân bất mãn và họ không chịu tăng gia sản xuất. Ngay cả phe hữu cũng bất bình vì thái độ đối ngoại thân Cộng và vì ngân sách quốc phòng bị giảm. Họ càng bất mãn hơn khi Sihanouk đứng ra triệu tập Hội nghị nhân dân Đông dương ở Phnom Penh năm 1966, và chỉ mời Bắc Việt, Mặt trận giải phóng, và Pathet Lào tham dự. Vào cuối năm đó, Quốc hội Campuchia được bầu lại. Chỉ trừ Khieu Samphan, Hou Youn và Hu Nim đắc cử, còn lại toàn là dân biểu phe hữu. Lon Nol được bầu làm Thủ tướng, và chính phủ bắt đầu chính sách thu mua lúa gạo một cách cứng rắn hơn. Mầm mống bất mãn nổi lên. Sáng ngày 2-4-1967, nông dân làng Samlaut tỉnh Battambang nổi loạn, giết chết hai binh sĩ, cướp súng ống rồi tấn công đồn bót tỉnh ly. Cuộc nổi loạn bị dẹp tan, nhưng ở biên giới phía đông gần vùng tam biên, Saloth Sar và Trung ương Đảng cộng sản Campuchia nghĩ rằng thời gian đã chín mùi để có thể phát động đấu tranh vũ trang chiếm https://thuviensach.vn chính quyền, bắt đầu nổi lên gây rối. Sihanouk tố cáo phe tả đứng đằng sau cuộc nổi loạn ở Samlaut nên cho mật vụ bắt bớ đàn áp. Khiêu Sam phan, Hou Youn, Hu Năm phải trốn vào bưng. Kể từ lúc đó, Sihanouk mất dần sự ủng hộ của cả phe tả lẫn phe hữu. Ngày 18-3-1970, khi Sihanouk đang nghỉ hè ở Pháp, Quốc hội Campuchia được triệu tập, ra tuyên cáo truất phế Sihanouk khỏi chức Quốc trưởng, tố cáo ông ta đã để bộ đội Việt nam chiếm đóng đất đai Campuchia một cách bất hợp pháp, vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và nền trung lập của quốc gia Campuchia. Cuộc đảo chánh kể trên đã chấm dứt đường lối chính trị đu dây của Sihanouk. Nhân vật chính trong cuộc đảo chính là hoàng thân Sirik Matak và tướng Lon Nol. Lon Nol xuất thân nông dân. Năm 1946, ông lập đảng Canh Tân Campuchia. Tới năm 1955, đảng này nhập vào đảng Sangkum của Sihanouk và Lon Nol được Sihanouk cho làm Tham mưu trưởng quân đội. Ông ta giấu kín tham vọng, được Sihanouk tin cẩn và trở nên cánh tay mặt của Sihanouk. Sau khi đảo chánh, Lon Nol gom tất cả Việt kiều vào những trại tập trung, và rồi hàng ngàn người Việt bị thảm sát thả trôi trên dòng Cửu Long. Chính phủ ngầm xúi dục dân chúng Phnom Penh biểu tình đập phá toà đại sứ Bắc Việt và toà đại diện Việt cộng, đồng thời chính thức yêu cầu quân lính Việt cộng rút ra khỏi những mật khu biên giới. Ngày 30-4-1970, quân đội Sài gòn và Hoa kỳ tràn qua biên giới tấn công các mật khu của Việt cộng ở khu Lưỡi Câu và Mỏ Vẹt, tịch thu nhiều vũ khí, lương thực, nhưng Bộ chỉ huy Cục R chạy thoát. Mất căn cứ ở biên giới, quân Việt cộng lùi sâu vào lãnh thổ Campuchia, đánh chiếm hầu hết lãnh thổ vùng Đông Bắc, rồi giao lại cho quân Khmer Đỏ cai trị. Lon Nol phản ứng lại bằng cách tăng cường quân đội, từ ba mươi lăm ngàn quân lên một trăm ngàn trong vòng hai tháng. Dù thiếu trang bị và huấn luyện, nhưng Lon Nol tin rằng ông ta sẽ chiến thắng. Trước hết, ông ta tin vào lòng thù ghét Việt nam của dân chúng Campuchia, thứ hai là vì những lý do rất mê tín. Lon Nol tin rằng Phật sẽ giúp quân lính ông chống lại ma vương https://thuviensach.vn cộng sản, do đó quân sĩ được khuyến khích đeo bùa, hay xâm lên người những dấu hiệu thiêng liêng. Dù binh sĩ Cộng hoà Khmer đã chiến đấu dũng cảm, nhưng vì thiếu trang bị, thiếu huấn luyện, vì tệ nạn tham nhũng và nhất là vì Lon Nol cứ liên tiếp xen vào hệ thống chỉ huy nên hai cuộc hành quân Chân Lạp I và Chân Lạp II trong hai năm 1970 và 1971 đã đưa đến thảm bại, gây tổn thất trầm trọng cho quân đội. Trong khi đó, quân Khmer Đỏ lớn mạnh dần, và sau khi hiệp định Paris về Việt nam được ký kết (ngày 27-1-1973), quân Khmer Đỏ bắt đầu đảm nhiệm cuộc chiến một cách tích cực hơn. Với lối đánh liều mạng bất kể tổn thất, Khmer Đỏ dần dần mở rộng vùng kiểm soát và tới cuối năm 1974, họ bắt đầu tấn công Phnom Penh. Tuy hai lần Khmer Đỏ bị đẩy lui với những tổn thất nhân mạng rất lớn, nhưng rồi vòng đai phòng thủ Phnom Penh cũng bị vỡ. Ngày 1-4-1975, Neak Song thất thủ, ngày 12-4-1975, cứ điểm phòng thủ cuối cùng Takhman ở phía tây bị tràn ngập. Phnom Penh trở nên một thành phố bỏ ngỏ. Ngày 17-4-1975, quân Khmer đỏ tiến vào thành phố. Cuộc nội chiến trong giai đoạn chiến tranh Đông dương thứ hai chấm dứt, nhưng người dân Campuchia không biết rằng họ đang bước sang một giai đoạn lịch sử đen tối khác, bi thảm hơn tất cả mọi thảm hoạ mà họ hay toàn thể nhân loại đã trải qua. Tài liệu tham khảo: - Việt nam sử lược của Trần Trọng Kim. - History of Southeast Asia, Hatl - When The War Was Over, Elizabeth Becker - Brother Enemy, Nayan Chanda https://thuviensach.vn - War & Hoe, Norodom Sihanouk - Campuchia, Year Zero, Francois Ponchaud. https://thuviensach.vn Hoàng Dung Chiến tranh Đông dương 3 P2 Lịch sử tranh chấp Việt Miên trước 1975 Trong lịch sử thế giới, hầu như hai quốc gia lân bang nào cũng có nhiều lần xảy ra tranh chấp. Biên giới mỗi quốc gia cũng nhiều lần thay đổi, lãnh thổ mỗi quốc gia có lúc được mở rộng, có lúc bị thu hẹp. Có những quốc gia bị biến mất, có những quốc gia mới được tạo dựng nên. Mỗi quốc gia đều có những thời kỳ hưng thịnh hay suy tàn và nguyên tắc mạnh được yếu thua không những áp dụng cho con người mà còn được áp dụng cho mỗi quốc gia, dân tộc. Những nguyên nhân chính để xảy ra xích mích thường là vấn đề kinh tế hay an ninh quốc phòng. Quốc gia nào cũng mong muốn có một quốc gia láng giềng thân hữu với mình hay tốt hơn, chịu ảnh hưởng của mình. Nhưng hoàn cảnh khách quan như thế cũng chưa đủ cho một mối bang giao tốt đẹp giữa hai dân tộc. Nó còn cần có những điều kiện chủ quan nội bộ. Một khi mà đường lối kinh tế hay cai trị trong nước thất bại, gây chia rẽ và bất mãn, những nhà cầm quyền thường đổ thừa cho những yếu tố bên ngoài để bào chữa, và yếu tố bên ngoài dễ dàng nhất là do quốc gia bên cạnh. Lịch sử bang giao giữa hai dân tộc Việt Miên trải qua hơn một ngàn năm là lịch sử những tranh chấp, và những nguyên nhân sâu xa thường là nhu cầu bành trướng lãnh thổ của Việt nam và sự chia rẽ nội bộ của Campuchia. Từ hơn một ngàn năm trước, vào thế kỷ thứ ba, khi Việt nam lúc đó có tên Giao Châu, đang bị Trung hoa đô hộ thì vương quốc Phù Nam đang ở trong một giai đoạn cực thịnh. Họ đã liên kết với quân Lâm ấp đánh phá đất Giao Châu (thời Khúc Thừa Dụ), nhưng bị quân Trung hoa đánh bại. Sau đó vì những mâu thuẫn nội bộ, và vì ở giữa hai nước còn có nước Lâm ấp (sau là Chiêm Thành) nên hai nước đã không có chiến tranh. Khoảng năm trăm năm sau, lúc dân Chân Lạp đã chinh phục được Phù Nam, mở mang bờ cõi đến vùng Nam Lào, thì họ lại cùng quân Nam Chiếu đánh phá biên giới Giao Châu. Một lần nữa, họ bị quân nhà Đường - lúc đó Bùi Nguyên Dụ https://thuviensach.vn làm Kinh Lược Sứ - đẩy lui. Nước Chân Lạp, Campuchia sau này, sau giai đoạn cực thịnh, bắt đầu bước vào giai đoạn suy tàn cùng lúc với sự phát triển của hai quốc gia lân bang phía đông và phía tây là Việt nam và Thái lan. Việt nam, lúc đó đã thu hồi được độc lập trong hoàn cảnh đặc biệt là luôn bị đe doạ bởi láng giềng khổng lồ phương bắc, mặt đông giáp biển, phía tây là dấy Trường Sơn hiểm trở, nên chỉ có thể bành trướng được về phía nam. Công cuộc xâm chiếm những nước nhỏ, bành trướng lãnh thổ được gọi một cách giản dị là Nam tiến. Cuộc Nam tiến của Việt nam bất đầu ngay sau khi Việt nam thu hồi được độc lập. Năm 1069, vua Lý Thánh Tôn bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ, đòi lấy ba châu để chuộc mạng, và ba châu đó đã trở nên Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay. Hơn hai trăm năm sau, địa giới Việt nam lại mở rộng khi vua Trần Anh Tôn gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý. Hai châu này, vua Trần đổi lại tên là Thuận Châu và Hoá Châu. Từ vùng đất Thuận Hoá này, khoảng ba trăm năm sau, cuộc Nam tiến bắt đầu trở nên mãnh liệt sau khi Nguyễn Hoàng vào đó để dựng nghiệp, tranh chấp với họ Trịnh ở phương Bắc. Vì nhu cầu quân sự, kinh tế và chính trị, các chúa Nguyễn đã phải bành trướng đất đai một cách cấp bách. Cả một giải đất từ Quảng Bình hiện nay đến mũi Cà Mau đều đã được bành trướng trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh. Khởi đầu các chúa Nguyễn đánh chiếm những đất đai còn lại của Chiêm Thành, lần lượt là Phú Yên, Phan Rang, Khánh Hoà, Phan Rí và nước Chiêm Thành coi như mất hẳn vào năm 1697. Một quốc gia có những thời kỳ lịch sử rực rỡ, một nền văn minh biệt lập, một anh hùng như Chế Bồng Nga từng làm rung động triều đình nhà Trần, đã bị tiêu diệt. Những gì còn lại chỉ là những tháp Chàm ven biển miền Trung và những nhóm dân Chàm nhỏ sống rải rác ở Nam Việt nam và Campuchia. Tới năm 1697, Việt nam trở nên một lân quốc trực tiếp của Campuchia, lúc đó còn có tên Chân Lạp, và lịch sử những tranh chấp triền miên giữa hai quốc gia này bất đầu. Thật ra, trong quan hệ yêu ghét giữa hai dân tộc, đại đa số người Việt ít ai để ý đến nguyên nhân và tầm mức sự thù hận của người Miên đối với người Việt. Điều đó dễ hiểu vì trong lịch sử hai dân tộc, chỉ có Campuchia https://thuviensach.vn là bị mất đất và bị đô hộ. Mỗi khi nhắc đến người Việt, người Miên luôn liên tưởng đến mối hận mất đất và sự cai trị tàn ác của quan lại Việt nam hồi xưa. Trong khi đó, nhắc đến người Miên, người Việt thường có thái độ tự cao. Chính thái độ tự cao và khinh miệt này đã khiến người Việt có được một cái cớ, coi việc chinh phục và đô hộ là một nghĩa vụ khai hoá, và từ đó dễ dàng áp dụng những biện pháp dã man khi đô hộ. Nước Campuchia, trong giai đoạn suy tàn của vương quốc Angkor, cứ luôn hết bị quân Xiêm rồi quân Việt xâm lăng. Trong cách đối xử với dân bản xứ, thâm tâm người Xiêm chắc cũng không khá gì hơn người Việt, nhưng người Miên lại thù hận người Việt nhiều hơn. Thứ nhất là vì người Việt đã chiếm đất đai của họ nhiều hơn, cả một vùng đồng bằng Cửu Long rộng lớn phì nhiêu. Thứ hai là lịch sử trong hơn một thế kỷ qua, đã gắn liền vận mệnh của Campuchia theo những thăng trầm của lịch sử Việt nam, và quan hệ càng nhiều, thì những mâu thuẫn càng nảy sinh. Nguyên nhân thứ ba, quan trọng nhất, là vì biên giới Việt Miên đã không giản dị là biên giới giữa hai dân tộc, mà còn là biên giới của hai nền văn minh khác biệt Ấn độ và Trung hoa. Cùng theo Phật Giáo, người Việt theo Đại Thừa, người Miên Tiểu Thừa. Tiếng Việt cũng giống tiếng Tàu độc âm, tiếng Miên đa âm. Người Việt mặc quán, người Miên mặc xà rông. Người Việt thích màu đơn giản như trắng, nâu, đen người Miên thích màu sặc sỡ như đỏ, xanh, vàng. Người Việt làm nhà trên nền, người Miên ở nhà sàn. Người Việt ăn đũa, người Miên dùng muỗng hay tay. Người Miên xem trọng nghệ thuật múa, người Việt trước kia coi múa hát là xướng ca vô loài. Bị ảnh hưởng của văn minh Trung hoa, về hành chính Việt nam có một giai cấp quan lại và về xã hội có một lăng lớp sĩ phu làm khuôn mẫu đạo đức. Trong khi đó, ảnh hưởng văn minh Ấn độ khiến cho tầng lớp tăng lữ ở Campuchia có một địa vị quan trọng. Quan trọng hơn nữa, dù đã liên tiếp đấu tranh giành độc lập, người Việt cũng bị ảnh hường văn minh Trung hoa trong khuynh hướng bành trướng, coi các dân tộc nhỏ yếu láng giềng như bán khai, lạc hậu. Trong khi người Xiêm đô hộ dân Miên, họ không bắt dân Miên phải thay đổi lối sống thì người Việt không bao giờ coi người Miên như bình đẳng. Tuy nhiên, sự suy thoái của Campuchia trong mấy năm gần đây không hẳn https://thuviensach.vn chỉ là do tham vọng bành trướng đất đai của các nước lân bang mà còn do những nguyên nhân nội tại Lịch sử Campuchia cứ tái diễn như một quy luật. Trong khi Việt nam đất hẹp người đông đang cần có nhu cầu bành trướng đất đai thì nội bộ Campuchia cứ luôn chia rẽ. Kể từ năm 1658, khi chú cháu vua Chân Lạp tranh quyền nhau chạy sang Việt nam cầu cứu, và chúa Hiền sai quân sang Phnom Penh, bất vua Nặc Ông Chân và bảo vệ cư dân người Việt, thì đã có đến hơn mười lần mà các chúa Nguyễn đem quân sang đất Miên hoặc giúp vua Miên phục quốc, hoặc kiếm cớ bảo vệ kiều dân. Mỗi lần như thế, vua Chân Lạp lại phải cất đất hay triều cống. Sự chia rẽ đó vẫn thể hiện trong những năm gần đây. Ngay cả trong khi chiến tranh Đông dương thứ ba ở vào giai đoạn gay go nhất, Pol Pot vẫn đẩy mạnh thanh trừng nội bộ, khiến cho một số cán bộ chỉ huy chạy sang Việt nam, cống hiến cho Việt nam một cơ hội xâm lăng - và gần đây hơn, khi nhân dân Campuchia vẫn còn lầm than sau bao biến cố, hai người con ông hoàng Sihanouk vẫn theo hai phe khác nhau và kình chống nhau kịch liệt. Trong công cuộc Nam tiến, người Việt nam còn được những người Trung hoa chạy giặc nhà Thanh trốn sang Việt nam giúp đỡ. Đầu tiên là cựu tổng binh Dương Ngạn Địch, không chịu thần phục nhà Thanh, đem ba ngàn quân cùng năm chục chiến thuyền chạy sang Việt nam, được chúa Hiền cho vào khai khẩn đất Gia Định, Đồng Nai, Mỹ Tho, lúc đó đang thuộc Campuchia, và sau đó mười năm, chúa Hiền cử ông Nguyễn Hữu Kính vào làm Kinh Lược Sứ, sát nhập đất này vào Việt nam. Một người Quảng Đông khác là Mạc Cửu, cũng chạy giặc nhà Thanh sang Hà Tiên buôn bán, mở sòng bạc, lại không thần phục vua Campuchia mà thần phục chúa Nguyễn, được phong chức Tổng Binh. Năm 1759, con cháu Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ giúp Nặc Tôn lên làm vua Campuchia, Nặc Tôn dâng đất Vểnh Long, Sa Đéc, Châu Đốc cho chúa Nguyễn, còn vùng đất còn lại ở đồng bằng Cửu Long thì cho Mạc Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ dâng hết đất này cho chúa Nguyễn. Từ năm đó, sáu tỉnh Nam Kỳ thuộc Thuỷ Chân Lạp hay Khmer Hạ đều thuộc về Việt nam. Sau khi đã bành trướng lãnh thổ đến mũi Cà Mau, vì nội chiến xảy ra giữa hai nhà Nguyễn và Tây https://thuviensach.vn Sơn, cho nên Việt nam đã không xâm lăng hay can thiệp vào nội tình Chân Lạp trong một thời gian. Mãi tới năm 1833, quân Xiêm thừa lúc Lê Văn Khôi nổi loạn ở Gia Định đem quân đánh chiếm Chân Lạp. Vua Minh Mạng sai ông Trương Minh Giảng đem quân qua đánh dẹp. Chỉ trong vòng một tháng, quân nhà Nguyễn phá tan quân Xiêm, vua Minh Mạng đổi tên nước Chân Lạp thành Trấn Tây Thành, chia phủ huyện cai trị. Đây là một trong những thời kỳ đen tối của lịch sử bang giao Việt Miên. Quan lại Việt nam cai trị dân Campuchia rất hà khắc. Công Chúa Ang Mey bị đưa về Gia Định, các quan chức Chân Lạp đã đầu hàng Việt nam bị đày ra Bắc. Năm 1840, dân Campuchia nổi lên khởi nghĩa. Lãnh tụ khởi loạn tên Prom đã khuyến khích các thuộc hạ: “Chúng ta khoan khoái giết hết người Việt, chúng có mạnh đến đâu chúng ta cũng không sợ”. Câu nói đó cũng là một trong những quyết tâm của Pol Pot sau này. Năm đó quan quân Việt nam phải bỏ Trấn Tây Thành rút về An Giang. Ông Trương Minh Giảng buồn bực mà chết. Trong Việt nam sử lược, cụ Trần Trọng Kim viết về giai đoạn này như sau: “Đây cũng là vì người mình không biết bênh vực kẻ hèn yếu, chỉ đem lòng tham tàn mà ức hiếp người ta, cho nên hao tổn binh lương, nhọc mệt tướng sĩ, mà lại phải sự bại hoại, thật là thiệt hại cho nước mình”. Ít năm sau, sự can thiệp của Pháp vào Đông dương đã giúp Campuchia bảo vệ được sự toàn vẹn lãnh thổ. Tuy cả hai dân tộc đã cùng đấu tranh giành độc lập, nhưng những nguyên nhân căn bản như những tranh chấp đất đai và thái độ trịch thượng của người Việt đối với người Miên vẫn còn. Thái độ trịch thượng này lại được sự đồng tình của người Pháp. Trước hết họ cho là người Việt khôn ngoan chịu khó hơn, nên đã dùng người Việt trong những chức vụ hành chánh cấp thấp để cai trị Campuchia. Để tiện việc hành chánh, họ gọi chung ba quốc gia có ba nền văn hoá, ba dân tộc ba ngôn ngữ khác nhau là Đông dương và mỗi khi nói đến Đông dương, thường họ nói về Việt nam, coi hai dân tộc kia là những dân tộc thiểu số. Đôi khi có xảy ra những tranh chấp biên giới, người Pháp thường thiên vị người Việt. Dĩ nhiên người Việt dễ dàng chấp nhận một quan niệm Đông dương như thế, nhưng đối với người Campuchia, trong ngôn ngữ của họ không bao giờ có chữ Đông dương. ý niệm Đông dương là một thực thể chính trị và địa lý https://thuviensach.vn không những được người Pháp dùng để giản dị hoá công việc cai trị thuộc địa, nó lại còn được Quốc tế cộng sản công nhận. Năm 1930, sau khi ông Hồ Chí Minh giúp thống nhất được ba phong trào cộng sản riêng rẽ thành Việt nam cộng sản Đảng thì Văn phòng Quốc tế cộng sản đã nghiêm khắc phê bình danh xưng đó, cho đó là chủ nghĩa xô-vanh chật hẹp, bắt phải đổi lại thành Đông dương cộng sản Đảng, dù cho lúc đó chưa có một đảng viên cộng sản nào chính gốc người Lào hay Campuchia. Dĩ nhiên, những người cộng sản Việt nam cũng dễ dàng chấp nhận danh xưng này. Năm 1934, trong một lá thư ngỏ gửi “những đồng chí ở Campuchia”, Đông dương cộng sản Đảng nêu rõ rằng việc thành lập một Đảng cộng sản Campuchia riêng biệt là một điều không thể thực hiên được, vì “Đông dương bị thống trị bởi một đế quốc duy nhất, tất cả những lực lượng cách mạng phải đoàn kết lại và... Campuchia không có quyền thành lập một Đảng cộng sản riêng”. Năm sau, 1935, tại đại hội Đông dương cộng sản Đảng lần thứ nhất, những lãnh tụ cộng sản Việt nam nêu mục tiêu thành lập một chính phủ Xô viết Đông dương, trong đó bao gồm người Việt nam, và “thiểu số” người Miên Lào. Những người thiểu số này chỉ có quyền tách ra thành lập một quốc gia riêng biệt sau khi đã đánh đuổi được đế quốc Pháp. Trong một cuốn sách của nhà xuất bản ngoại văn năm 1979, Việt nam lý luận rằng ý niệm về chính phủ Liên bang Đông dương đã chấm dứt khi Đông dương cộng sản Đảng tuyên bố tự giải tán năm 1945. Nhưng thật ra trong nghị quyết của Đảng Lao động tháng 11-1951 vẫn có đoạn Đảng cộng sản Việt nam giành quyền giám sát hoạt động của những đảng anh em ở Lào và Campuchia... Mai sau, nếu tình hình cho phép, ba đảng Cách mạng Việt nam, Campuchia và Lào có thể thống nhất thành một đảng duy nhất, đảng của Liên bang Việt Miên Lào”. Những kinh nghiệm chua xót trong lịch sử cùng ý niệm Liên bang Đông dương kể trên đã khiến hầu hết những lãnh tụ Campuchia, dù quốc gia hay cộng sản, luôn bị ám ảnh và dễ dàng có những phản ứng quá khích. Trong thời kỳ Pháp thuộc, khi một số người Việt giúp người Pháp cai trị Campuchia, thì ở bên kia chiến luyến, sau khi Đông dương cộng sản Đảng tuyên bố tự giải tán để kêu gọi lòng yêu nước của nhân dân ba nước, những người cộng sản Việt nam vẫn luôn giành lấy địa https://thuviensach.vn vị đi đầu, đàn anh. Họ viết luận cương cho Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia. Họ sử dụng lãnh thổ Lào và Campuchia để hành quân một cách tự do. Năm 1950, tướng Giáp có viết: “Đông dương là một đơn vị chiến thuật duy nhất. một chiến trường duy nhất”. Đó là một nhu cầu chiến lược dễ hiểu, vì quân đội Pháp đã dùng căn cứ ở cả ba lãnh thổ để mở các cuộc hành quân và vì hình thể đặc biệt của Việt nam, bị bó hẹp ở miền Trung, về phương diện quân sự sẽ dễ dàng bị chia cắt và cô lập nếu không sử dụng đất đai Lào và Campuchia. Do đó mà một cuộc chiến nào ở Việt nam cũng lôi cuốn theo những biến động chính trị và quân sự ở Lào và Campuchia, và một chính quyền Việt nam nào cũng mong muốn có một lân bang thân hữu, hay tốt hơn là chịu ảnh hưởng của mình. Sau năm 1954, để chống lại áp lực của Nam Việt nam và Thái lan, Sihanouk dựa vào Trung hoa và nghiêng về Bắc Việt. Ông từ chối gia nhập khối Liên phòng Đông Nam Á, ngả theo đường lối trung lập không liên kết của khối Á Phi và nhắm mắt làm ngơ cho Việt cộng sử dụng vùng đất sát biên giới Việt nam làm mật khu và đường tiếp vận. Với đường lối đối ngoại đó, Sihanouk đã hoá giải sự ủng hộ của Trung hoa và cộng sản Việt nam với cộng sản Campuchia. Ông hy vọng nếu Bắc Việt thắng trận sẽ nhớ ơn và để yên cho ông. Không còn cách nào khác, Tổng thống Ngô Đình Diệm ở Nam Việt nam lúc đó quay sang ủng hộ lãnh tụ đối lập Sam Sary, giúp tướng Đap Chuồn nổi loạn và có lần cho phép Đại sứ Ngô Trọng Hiếu mưu sát Sihanouk bằng bom. Tất cả những âm mưu kể trên đều thất bại và càng làm Sihanouk thiên về khối cộng sản. Tuy nhiên hành động làm lơ cho bộ đội Việt nam thao túng ở vùng biên giới đã gây bất mãn trong quân đội Campuchia và đưa đến cuộc đảo chính của Lon Nol năm 1970. Thời gian từ 1970 tới 1975 là thời gian hợp tác giữa hai lực lượng cộng sản Việt nam và Campuchia. Nhưng sự hợp tác này chỉ dựa trên căn bản lợi dụng lẫn nhau. Tuy cộng sản Campuchia đã bắt đầu đấu tranh vũ trang từ 1967, những năm đó là những năm Sihanouk đang cầm quyền và Việt nam thấy có thể lợi dụng được Sihanouk nên đã kìm hãm hoạt động của Khmer Đỏ. Từ 1970, sau khi Sihanouk bị lật đổ, hai năm đầu lực lượng Khmer Đỏ còn yếu, bộ đội Việt nam đảm nhiệm mọi cuộc hành quân và đã gây tổn hại https://thuviensach.vn nặng nề cho quân Cộng hoà Khmer trong hai cuộc hành quân Chân Lạp I và II, sau đó họ giao lại những lãnh thổ chiếm được cho Khmer Đỏ, và quân Khmer Đỏ chỉ thực sự chủ động chiến trường trong hai năm cuối của cuộc chiến. Tuy nhiên, trong giai đoạn đó mối nghi kỵ ngàn xưa vẫn còn âm ỉ. Hơn ai hết, các lãnh tụ Khmer Đỏ biết rõ về ý định Liên bang Đông dương của Việt nam. Hơn ai hết, các lãnh tụ cộng sản biết rằng tình hữu nghị anh em giữa các nước cộng sản chỉ là chiêu bài cho sự thống trị của một đảng cộng sản nước lớn đối với đảng cộng sản nước nhỏ, và đảng cộng sản nào cũng đặt quyền lợi của mình lên trên hết. Chẳng hạn năm 1945, chính các lãnh tụ cộng sản Pháp trong chính phủ liên hiệp đã bỏ phiếu tán đồng chính sách tái lập chế độ thuộc địa và chấp thuận ngân khoản cho quân viễn chinh Pháp trở lại Đông dương. Về nước năm 1953, là một người cộng sản chính thống, đảng viên cộng sản Pháp, Saloth Sar đã không gia nhập đảng Nhân dân cách mạng Campuchia mà phải gia nhập Đông dương cộng sản Đảng. Người chấp nhận đơn gia nhập của Saloth Sar là Phạm Văn Ba, sau 1975 làm Đại sứ Việt nam tại Phnom Penh. Chi bộ cộng sản của Saloth Sar lúc đó hoạt động ở gần biên giới phía đông Campuchia, gồm cả người Miên lẫn người Việt, dưới sự lãnh đạo của một cán bộ Việt nam. Theo Khiêu Thirith, em dâu Saloth Sar kể lại thì cán bộ Việt nam đã bắt những sinh viên từ Paris về làm những cộng tác vệ sinh và cần vụ và thời gian này chắc chắn đã để lại cho Saloth Sar nhiều kỷ niệm khó quên. Một năm sau, hiệp định Genève ra đời, Pol Pot cay đắng nhìn sự tan rã của phong trào cộng sản Campuchia và sự đấu tranh của họ bị Việt nam và các nước cộng sản đàn anh như Liên xô và Trung hoa quên lãng. Đồng thời, khi ký thoả ước ngừng bắn với Delteil, Tạ Quang Bửu của Việt nam đã mặc nhiên thay mặt cả ba lực lượng cộng sản Việt Miên Lào. Cảm thấy bị bỏ rơi năm 1954, bị kìm hãm trong những năm dưới thời Sihanouk, cộng sản Campuchia lại thấy bị bội phản lần nữa khi phe cộng sản ở Việt nam ký hiệp định ngừng chiến 1973, trong đó không quân Hoa kỳ sẽ chấm dứt hoạt động ở Việt nam, nhưng vẫn được tự do oanh tạc trên lãnh thổ Campuchia. Vì thế, đối với những tay lãnh đạo mới của cộng sản Campuchia, Việt nam https://thuviensach.vn dù quốc gia hay cộng sản đều là kẻ thù, và những cán bộ lãnh đạo cũ của thời Đông dương cộng sản Đảng đều là những kẻ khả nghi là có thân xác Campuchia mà tâm hồn Việt nam. Trong nhóm đó, Siêu Hàng đã bội phản, về đầu thú Sihanouk, Tou Samouth có lẽ bị thanh toán sau khi đi Việt nam về năm 1963, Keo Meas bị bắt vào Tuol Sleng và bị xử tử. Người chủ tịch đảng đầu tiên Sơn Ngọc Minh tập kết đi Hà nội năm 1954. Theo Hà nội, Sơn Ngọc Minh bị Trung hoa và nhóm Pol Pot đánh thuộc độc chết khi sang thăm Bắc kinh năm 1972. Trong những năm của chính quyền Sihanouk, là một người khôn khéo, ông ta đã lợi dụng tình hình nội chiến ở Việt nam để củng cố quyền hành hơn là tìm cách gây hấn, việt kiều ở Campuchia hồi đó được yên ổn làm ăn. Nhưng sau khi ông ta bị lật đổ, mối hiếm khích cũ của hai dân tộc lại được các lãnh to của hai phe khơi ra khai thác và lợi dụng. Tuy ở hai chiến tuyến đối nghịch nhau, Lon Nol và Pol Pot đã có một số đặc điểm chung là sự thù hận Việt nam và giấc mơ tái lập một thời đại Angkor vàng son cũ. Cả hai đều có những đánh giá gần như không tưởng về khả năng của chính mình. Trong khi Pol Pot tính một người Campuchia giết được ba mươi người Việt, thì Lon Nol hy vọng với một quân đội ba mươi lăm ngàn quân trang bị yếu kém và thiếu huấn luyện có thể đánh đuổi được bộ đội Việt cộng ra khỏi biên giới. Tinh thần bài Việt nam của Lon Nol đã được bộc lộ công khai nhiều năm trước khi đảo chánh. Ông ta đã luôn gọi Nam Việt nam là Khmer Hạ và ông đã thiết lập “Viện khmer Mon”, mà tờ đặc san đầu liên có in bản đồ Campuchia trong đó lãnh thổ bao gồm đồng bằng sông Cửu Long và một phần đất của Thái lan. Ngay sau khi đảo chánh, Lon Nol ra lệnh thiết lập những trại tập trung để giam giữ kiều dân Việt nam. Chính phủ Campuchia lúc đó công nhận có giam giữ khoảng ba chục ngàn Việt kiều trong trại và bảy ngàn Việt kiều trong tù. Ngày 10-4-1970, Lon Nol cho lính bắn chết một số người Việt ở Prasaut và Chui Changwan. Hàng trăm xác người bị thả trôi trên sông Bassac. Vì áp lực quốc tế sau đó, Lon Nol phải chấm dứt hành động tàn sát và để cho tàu Hải quân Việt nam cộng hoà lên đón Việt kiều về. Số người còn ở lại, hoặc nhờ giấu được tung tích, hoặc sống trong vùng Khmer Đỏ kiểm soát sau này cũng bị Khmer Đỏ thanh toán hết. Trong thời gian đó vì https://thuviensach.vn còn phải nương tựa vào bộ đội Việt nam, nên Khmer Đỏ chỉ có thể tiêu diệt người Việt và chặt đứt những quan hệ với Việt nam một cách âm thầm. Trước hết Pol Pot từ chối thành lập một bộ chỉ huy quân sự hỗn hợp trên đất Miên. Sau đó, những cán bộ hồi kết từ Hà nội về bị thủ tiêu. Đến năm 1973, sau khi thấy đã đủ mạnh, Khmer Đỏ áp dụng những biện pháp cứng rắn hơn. Họ thành lập những hợp tác dọc theo biên giới, gom dân vào đó để kiểm soát chặt chẽ. Vòng ngoài những hợp tác họ đặt chông và mìn. Tiền tệ bị tiêu huỷ. Quân Việt nam bắt đầu bị trở ngại trong việc thu mua lúa gạo và di chuyển quân đội. Những cuộc chạm súng lẻ tẻ bắt đầu xảy ra. Nhưng trong thời gian đó, Việt nam đang bận tâm về kế hoạch chiếm miền Nam nên đã không phô bày những nạn rứt giữa hai nước cộng sản. Chỉ sau khi Bắc Việt đã chiếm được miền Nam và Pol Pot đã thắng được Lon Nol, những vấn đề cũ lại bộc lộ ra và ngày càng trầm trọng, đưa đến một cuộc chiến tương tàn giữa hai nước cộng sản mà mối liên hệ mới mấy năm trước đã được Việt nam mô tả là “tình hữu nghị trong sáng thuỷ chung, làm mẫu mực cho những quan hệ quốc tế”. Tài liệu tham khảo: - Việt nam sử lược, Trần Trọng Kim - Hồi ký của Đoàn Thêm - When the war was over, Elizabeth Becker, nhà xuất bản Schuster, Inc, New York - Brother Ennemy, Nayan Chanda, nhà xuất bản MacMilan Publishing Company New York - Việt nam Máu Lửa, Nghiêm Kế Tổ https://thuviensach.vn Hoàng Dung Chiến tranh Đông dương 3 P3 Sự thành lập Đảng cộng sản Campuchia Những điều kiện địa dư và lịch sử của những năm 1930 và 1940 đã gắn liền sự hình thành của đảng cộng sản Campuchia với Đảng cộng sản Việt nam. Sau cuộc cách mạng vô sản ở Liên xô thành công năm 1917, chủ nghĩa cộng sản rất có sức hấp dẫn đối với những dân tộc bị trị trong công cuộc giải phóng ách thực dân. Vì thế mà trong những phong trào cộng sản, ý thức hệ hầu như lúc nào cũng đi đôi với chủ nghĩa quốc gia, các đảng viên đầu tiên hay những tay lãnh đạo cộng sản đều xuất thân từ giai cấp trí thức, tư sản hay được tuyển mộ từ các học sinh trung học. Động cơ để họ gia nhập mới đầu phần lớn là do lòng yêu nước chống ngoại xâm hơn là ý thức hệ. Phong trào cộng sản Việt nam bắt đầu khi ông Hồ Chí Minh, trong lúc làm thông ngôn cho phái bộ Borodin năm 1924, thành lập Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu. Phái bộ này do Quốc tế cộng sản gửi qua làm cố vấn cho Quốc dân đảng, trong thời gian mà Tôn Dật Tiên chủ trương hoà giải với Liên xô. Đứng đầu phái bộ là Mikhail Borodin, một người Ấn độ tên Rao phụ tá, tướng Ga-lin người Đức cố vấn về quân sự, còn ông Hồ Chí Minh làm thông dịch viên cho phái bộ. Thời gian này, ông đã gửi một số thanh niên qua Liên xô để được huấn luyện. Đồng thời, ông cũng tổ chức một vài lớp học chính trị. Trong số những giảng viên, có Bành Bái và Lưu Thiếu Kỳ được mời đến dạy. Nhờ uy tín và sự khéo léo của Hồ Chí Minh, trong mấy năm đầu tiên, Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội vẫn giữ được một mặt ngoài thống nhất, nhưng vì cơ sở hoạt động thì ở Việt nam, còn các cấp lãnh đạo lại ở Trung hoa, nên đến năm 1927, khi tranh chấp Quốc Cộng ở Trung hoa bùng nổ Borodin bị trục xuất thì ông Hồ Chí Minh cũng phải rời Trung hoa, giao trách nhiệm lại cho Hồ Tùng Mậu và Lâm Đức Thụ. Từ đó, sự rạn nứt bắt đầu bộc lộ. Một số cán bộ được khuyến khích bởi quyết nghị của đại hội https://thuviensach.vn Quốc tế cộng sản năm 1928, theo đó những đảng cộng sản địa phương phải theo đuổi một đường lối cúng rắn, giáo điều và thiên tả hơn. Nói cách khác, những đảng cộng sản không cần phải liên minh với những đảng phái quốc gia khác, mà phải tận dụng và triển khai những bất mãn trong quần chúng để tiến hành cách mạng vô sản. Đồng thời trong nội bộ phải tăng cường số đại biểu của giai cấp công nhân, còn những thành phần trí thức, tiểu tư sản đều phải trải qua một quá trình lao động “vô sản hoá”. Lãnh đạo những phần tử cực đoan này là xứ uỷ Bắc Kỳ, gồm Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự. Nhóm này chủ trương rằng giai cấp thợ thuyền trong những công xưởng chỉ có thể được thúc đẩy bằng những yếu tố thực tiễn như tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc chứ không phải bởi những ý niệm ái quốc tiểu tư sản mơ hồ, và điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách thành lập một đảng cộng sản chính thống. Tuy nhiên, trong đại hội lần thứ nhất của Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội do Hồ Tùng Mậu tổ chức ở Quảng Châu năm 1929, đa số các đại biểu bác bỏ đề nghị đó. Trần Văn Cung, bí danh Tuấn Anh, tức giận trở về Hà nội, tách riêng ra thành lập đảng cộng sản Đông dương. Các đại biểu khác của Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội mới đầu làm ngơ, tiếp tục họp và bế mạc, coi như không có xứ uỷ Bắc Kỳ. Nhưng mấy tháng sau, họ thấy họ đã lầm lẫn vì đảng cộng sản Đông dương đã thu hút hết một số lớn những đảng viên trung kiên của hội, vì thế họ quyết định cải danh thành một đảng cộng sản khác lấy tên An Nam cộng sản Đảng. Tình hình càng rối loạn thêm khi những đảng viên cũ của đảng Tân Việt, một đảng tả phái gồm có Đặng Thái Mai, Tôn Quang Phiệt, cũng lập ra Đông dương cộng sản Liên đoàn. Ba đảng cộng sản này, một mặt tranh giành đảng viên của nhau mặt khác chỉ trích bôi nhọ lẫn nhau. Ngỡ ngàng trước những diễn biến kể trên, Văn phòng Quốc tế cộng sản ở Moscow vào tháng 10-1929 đã gửi thư chỉ trích những cấp lãnh đạo cũ của Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Văn phòng đứng hẳn về phe Trần Văn Cung, công nhận sự cần thiết phải thành lập một đảng cách mạng vô sản tiền phong hay đảng cộng sản. Văn phòng đề nghị một hội nghị hoà giải điều hành bởi một nhân viên của Quốc tế cộng sản. Đồng thời Văn https://thuviensach.vn phòng cử Trần Phú, một đảng viên cộng sản được ông Hồ Chí Minh gửi đi học ở trường “Đại học cộng sản của những người lao động Đông phương” hay trường chính trị Stalin ở Moscow về Thái lan gặp ông Hồ Chí Minh và truyền đạt những chỉ thị của Văn phòng. Những chỉ thị này và hai thông tư của Quốc tế cộng sản là “nghị quyết về vấn đề thành lập Đảng cộng sản Đông dương” và thư hướng dẫn hình thức hoạt động của Đảng cộng sản Đông dương. Ông Hồ Chí Minh đi Hồng Công và một hội nghị thống nhất cử hành vào cuối tháng 1-1930 tại một sân banh ở Hồng Công. Tới dự hội nghị, chỉ có đại diện của Đảng cộng sản Đông dương và An nam cộng sản Đảng. Nhờ có chỉ thị từ Moscow, hai đảng đồng ý sát nhập thành Đảng cộng sản Việt nam. Một Uỷ ban trung ương lâm thời được thành lập gồm chín Uỷ viên để điều hành mọi hoạt động cho tới khi đại hội đảng được triệu tập, Trần Phú được cử làm Tổng bí thư. Ông Hồ Chí Minh trở về làm việc cho Đông Phương Bộ của Quốc tế cộng sản ở Thái lan vào tháng 4-1930. Tuy nhiên, sau khi được báo cáo, Văn phòng Quốc tế cộng sản không bằng lòng với danh xưng đó, ra chỉ thị bắt phải đổi tên Việt nam cộng sản Đảng thành Đông dương cộng sản Đảng. Theo danh xưng, Đông dương cộng sản Đảng sẽ bao gồm cả ba nước Việt, Miên, Lào, nhưng trên thực tế, vào thời gian đó, chưa có một đảng viên cộng sản chính gốc nào người Lào hay Campuchia tham gia. Trần Phú làm Tổng bí thư chưa được bao lâu thì bị bắt trong biến cố Xô viết Nghệ Tĩnh và chết trong tù năm 1931. Quốc tế cộng sản gửi một số cán bộ khác mới được đào tạo từ trường chính trị Stalin về thay, trong đó có Lê Hồng Phong, Trần Văn Giàu, Nguyễn Thị Minh Khai. Lê Hồng Phong được cử đứng đầu “Ban chỉ huy ở ngoài”. Tới đại hội đảng lần đầu tiên của Đông dương cộng sản Đảng năm 1935 ở Ma Cao, thì Hà Huy Tập (bí danh Nhỏ) được cử làm Tổng bí thư. Chính trong đại hội đảng này, ý niệm về Liên bang Đông dương được đưa ra. Nhưng chỉ sau năm 1940, một số lãnh tụ kháng chiến của Campuchia từng theo Sơn Ngọc Thành, bị bắt và bị đày đi Côn Đảo, mới có dịp quen biết và học tập những đảng viên cộng sản Việt nam cũng bị tù ở đó, để trở nên những người cộng sản Campuchia đầu tiên. Trong số này có nhà sư Achar Man, lấy bí danh Sơn Ngọc Minh, được Việt nam đưa https://thuviensach.vn ra đứng đầu phong trào cộng sản Campuchia. Sau thế chiến thứ hai, thực dân Pháp trở lại Đông dương. Để kêu gọi lòng yêu nước trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, che giấu bản chất cộng sản, và lấy lòng quân Trung hoa lúc đó đang kéo vào giải giới quân Nhật ở Bắc Việt, Đông dương cộng sản Đảng tự tuyên bố giải tán ngày 11-11-1945 để thành lập mặt trận Việt Minh. Nhưng thật ra đảng vẫn lén lút hoạt động, dưới cái tên Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác do Trường Chinh đứng đầu. Tới năm 1951, sau khi thấy đã nắm vững và kiểm soát được phong trào kháng chiến, những người cộng sản chính thức tái ra mắt hoạt động cộng sản dưới nhãn hiệu Đảng Lao động Việt nam, do Hồ Chí Minh Chủ tịch Chủ tịch đảng và Trường Chinh Tổng bí thư. Hai phong trào cộng sản Lào và Campuchia cũng được tách ra, nhưng trên thực tế, vẫn do đảng Lao động Việt nam kiểm soát. Thái độ của Việt nam đối với hai đảng cộng sản anh em này vẫn luôn luôn đàn anh và trịch thượng. Trong “đề cương công tác Lào Miên” năm 1949 có viết nhìn bao quát ta thấy rằng Lào Miên đang ở một mức tiến hoá thấp hơn Việt nam... Bởi vậy cách mạng Lào Miên không thể là cách mạng xã hội hay cách mạng dân chủ mà chỉ là cách mạng dân tộc giải phóng nhưng vì tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của Việt nam đã cao hơn nên khẩu hiệu cách mạng Việt nam là độc lập và dân chủ đi đôi. Còn khẩu hiệu cách mạng Lào Miên thì chỉ độc lập là độc lập. Vì thế, Việt nam chỉ giúp Sơn Ngọc Minh và Souphanouvong thành lập các đảng Nhân dân cách mạng Khmer và Nhân dân cách mạng Lào. Luận cương của những đảng này do Việt nam viết và gửi qua để được phiên dịch và chấp thuận. Ngày 21-9-1951, đảng Nhân dân cách mạng Khmer được thành lập. Người triệu tập đại hội để thành lập đảng là hai cán bộ Việt nam, Nguyễn Thành Sơn và Lê Đức Thọ. Trong đại hội, Sơn Ngọc minh được cử giữ chức quyền Chủ tịch đảng. Luận cương của đảng này có đoạn đảng không phải là đảng tiền phong của giai cấp công nhân, nhưng là đảng tiền phong của những phần tử yêu nước và tiến bộ. Như thế đảng vẫn chưa hoàn toàn là một đảng cộng sản và đảng viên của đảng không nhất thiết phải là một người cộng sản. Vì lý do đó, sau khi ở Pháp về năm 1955, là một đảng viên cộng sản Pháp, Pol Pot đã không gia nhập đảng Nhân dân cách mạng https://thuviensach.vn mà tìm cách gia nhập Đông dương cộng sản Đảng Năm 1954, hiệp định Genève ra đời đánh dấu một bước thụt lùi cho phong trào cộng sản Campuchia. Khác với Việt nam được chủ quyền nửa quốc gia, Pathet Lào được hai tỉnh, cộng sản Campuchia bị bỏ quên, bắt buộc phải giải giới. Một nửa lực lượng theo lãnh tụ Sơn Ngọc Minh trà trộn vào bộ đội Việt nam theo tàu Ba lan đi Bắc Việt. Một nửa khác, khoảng một ngàn đảng viên và cảm tình viên lui vào bóng tối, đặt dưới quyền của Sieu Heng (đặc trách nông thôn) và Tou Samouth (đặc trách thành thị). Mấy năm sau Sieu Heng về đầu thú với Sihanouk, chỉ điểm cho chính quyền bắt bớ và tiêu diệt những cơ sở nông thôn. Phong trào cộng sản Campuchia suy yếu dần. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, một nhóm lãnh đạo mới bắt đầu xuất hiện. Những người này phần đông du học từ Pháp về, học thức hơn nhưng cũng cuồng tín hơn. Đó là Pol Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan, Hou Youn, Son Sen, Thioun Prasit... Pol Pot, tên thật là Saloth Sar, sinh năm 1925, xuất thân từ một gia đình địa chủ ở Komphong Thom, có một người chị làm cung nữ triều vua Monivong, và một người anh làm công chức trong ban nghi lễ hoàng cung. Sau khi tốt nghiệp tiểu học tại một trường ở Phnom Penh, vì thi vào trung học công lập bị rớt, anh ta trở về học trung học tại một trường tư thục ở Komphong Cham. Năm 1944, hết trung học, Sar về ở với người anh ở Phnom Penh. Đến năm 1949, có lẽ nhờ chạy chọt, Saloth Sar được học bổng qua Pháp học vô tuyến điện. Cùng thời gian đó, một học sinh khác tên Ieng Sary trở nên một học sinh tranh đấu. Cũng như Sơn Ngọc Thành, Ieng Sary sinh trưởng ở Việt nam, là một người Khmer Hạ, có cái tên Việt nam là Kim Trang. Học được mấy năm trung học ở Việt nam, anh ta làm khai sinh giả để bớt tuổi rồi xin vào học trường danh tiếng Sisowath. Những năm đó là những năm sau thế chiến, đảng Dân chủ của hoàng thân Youthevong đang nắm đa số trong Quốc hội. Đảng này qui tụ những đảng viên cũ của Sơn Ngọc Thành và những cựu học sinh Sisowath. Nhưng chẳng may ông hoàng có tài này lại chết rất trẻ vào năm 1947 và đảng này bị tan rã. Nhưng những kêu gọi đòi độc lập của đảng đã khơi động được lòng yêu nước của giới học sinh và một trong những lãnh tụ học sinh là https://thuviensach.vn Ieng Sary kêu gọi bãi trường và bãi công để đòi độc lập. Nhưng cuộc tranh đấu này không đi đến đâu và năm 1951, Ieng Sary cũng sang Pháp du học. Trước khi Saloth Sar và Ieng Sary sang Pháp, ở Paris đã có sẵn một nhóm trí thức thiên Cộng được gọi là “nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê” đứng đầu bởi Thioun Muỗm, người Campuchia đầu tiên tốt nghiệp trường Bách Khoa Paris, sau này thời Pol Pot về làm giám đốc các trường Cao đẳng. Em ông ta là Thioun Thioum, bác sĩ, sau là Bộ trưởng Y tế, Thioun Prasith, kỹ sư, sau phụ tá cho Ieng Sary ở Bộ ngoại giao. Dòng họ Thioun là một gia đình quý tộc nổi tiếng ở Phnom Penh, và gia đình này có một mối bất hoà sâu xa vời gia đình Sihanouk (theo ông hoàng Sihanouk, nguyên do mối bất hoà là ông đã từ chối không kết hôn với một người em của Thioun). Nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê ngoài anh em Thioun, Ieng Sary, Saloth Sar còn có Khieu Samphan, Hou Youn, Son Sen... Hou Youn năm 1955 đã trình luận án tiến sĩ “Nông dân Campuchia và những triển vọng hiện đại hoá”, vạch rõ rằng nông dân Campuchia không bị bóc lột bởi địa chủ như ở những nước Á Đông khác, mà bị bóc lột bởi những chủ nợ. Họ bị đánh thuế, bị thương gia chèn ép giá cả, và vì thiếu vốn, họ phải vay nợ với phân lời cắt cổ để mua nông cụ phân bón, do đó mà tiền kiếm được không có bao nhiêu. Theo Hou Youn, giải pháp duy nhất để phát triển nông nghiệp là một hệ thống tín dụng hữu hiệu do chính phủ quản trị. Hou Youn sau này trở nên một trong những lãnh tụ Khmer Đỏ, nhưng có lẽ vì phản đối chính sách di tản dân của Pol Pot nên bị thanh trừng năm 1975. Trong khi đó, luận án tiến sĩ “Kinh tế Campuchia và sự phát triển kỹ nghệ” của Khieu Samphan hoàn tất năm 1959 cũng công nhận việc giảm bớt áp lực nợ nần cho nông dân là yếu tố căn bản cho sự phát triển kinh tế. Từ đó, nông nghiệp sẽ được cơ giới hoá và tiến hành song song với sự phát triển kỹ nghệ. Khieu Samphan cũng đề cao vai trò thiết yếu của nhà nước trong việc diều hành và kiểm soát guồng máy kinh tế. Nhờ những sinh hoạt của nhóm mà Ieng Sary gặp Khieu Thirith, người nữ sinh đầu tiên tốt nghiệp trường trung học Sisowath đang học về văn chương Anh ở Đại học Sorbonne, và hai người đã kết hôn ở Paris. Chính trong đám cưới đó, Saloth Sar gặp được Khieu Ponnary, chị của Thirith. Năm 1950, https://thuviensach.vn Pol Pot và Ieng Sary gia nhập đảng cộng sản Pháp, trong khi vẫn sinh hoạt đều đặn với nhóm sinh viên thiên tả Campuchia. Khả năng chính trị của Saloth Sar nổi bật trong nhóm. Anh ta viết cho tờ “Sinh viên Campuchia”. Nội dung những bài viết đả kích Sihanouk nhiều hơn là đả kích chế độ thuộc địa. Sihanouk bị tố cáo là đã tiếp tay với Pháp để đàn áp phong trào giải phóng. Vì lập trường chính trị chống đối, học bổng của Saloth Sar bị cắt, chuyện học hành bị gián đoạn, anh ta kết hôn với Ponnary rồi về nước năm 1953, gia nhập Đông dương cộng sản Đảng. Một năm sau, hiệp định Genève ra đời. Hiệp định Genève là một thắng lợi lớn cho ông hoàng Sihanouk. Ông ta mặc nhiên trở nên một anh hùng giải phóng dân tộc. Mục tiêu độc lập đã đạt được, phong trào giải phóng Issarak tan rã, những người không cộng sản trở về ủng hộ chính quyền Sihanouk. Những người cộng sản, một nửa theo Sơn Ngọc Minh đi Hà nội, một nửa khác ở lại nằm vùng và khi Siêu Hàng hồi chánh năm 1959, thì chỉ còn có một số nhỏ cán bộ dưới sự chỉ huy của Tou Samouth hoạt động một cách yếu ớt ở Phnom Penh. Sau Saloth Sar, các trí thức tả phái ở Paris cũng lục tục về nước. Họ lập một trường tư thục lấy tên là Kamput Both (đứa con Campuchia) để hoạt động nằm vùng. Khieu Thirith, vợ Ieng Sary, có bằng cử nhân văn chương Anh dạy trường Sisowath. Hou Youn, Khieu Samphan cùng Hu Nim, một tiến sĩ luật khoa, dạy trường Luật. Son Sen dạy trường Sisowath và Viện Phật Học, sau đó được cử làm giám đốc học chính tại Viện quốc gia Sư phạm. Trong khi Saloth Sar hoạt động bí mật, củng cố tổ chức, tuyển mộ đảng viên, thì Keo Meas, bí thư thành uỷ Phnom Penh năm 1959 công khai ra mặt lập đảng Pracheachon (Nhân dân) để ứng cử Quốc hội. Thioun Mumm cũng về nước lập đảng Dân chủ. Nhưng cả hai đều bị thất cử, sau đó bị chính phủ Sihanouk đàn áp mạnh mẽ. Thioun Mumm phải trở về Pháp còn Keo Meas trốn sang Việt nam. Những năm đó, cùng với những tờ báo đối lập tả phái Nhân dân, Huynh Đệ (Mitlapheap) và Đoàn kết (Ekapheap), Khieu Samphan cho ra tờ báo tiếng Pháp Người quan sát (L’ observateur) để tuyên truyền trong giới sinh viên, trí thức. Tờ báo sống được đến ngày 13-7-1960 thì Sihanouk bắt đầu đàn áp, đóng cửa tất cả ba tờ báo, bắt giữ https://thuviensach.vn những người chủ trương. Họ được thả ra hai tháng sau, và đến cuối tháng 9, đại hội đảng lần đầu tiên của đảng cộng sản Campuchia được triệu tập. Đảng cộng sản Campuchia họp đại hội đảng lần đầu tiên tại một toa xe lửa trống ở nhà ga Phnom Penh từ ngày 28-9-1960 đến ngày 30-9-1960 với sự tham dự của 21 đại biểu. Đảng lấy tên là Đảng Lao động Campuchia. Đường lối của đảng cũng tương tự như đường lối của Đảng Lao động Việt nam. Đại hội đảng đề cử Tou Samouth giữ chức Tổng bí thư và bầu ra một ban thường vụ gồm năm người. Ngoài Tou Samouth, có Ngon Chia, một đảng viên cũ của đảng cộng sản Thái đứng hàng thứ hai, Saloth Sar đứng hàng thứ ba, Keo Meas thứ tư và Ieng Sary thứ năm. Ba năm sau, sau khi đi Hà nội về, Tou Samouth mất tích một cách bí mật, có lẽ bị Pol Pot thanh toán. Saloth Sar được đưa lên làm Tổng bí thư. Ieng Sary lên hàng thứ ba, Keo Meas bị loại. Hai Uỷ viên Thường vụ mới được bầu là Son Sen và Von Verth. Trong thời gian đó, Khieu Samphan, Hou Youn, Hu Nim vẫn tiếp tục hoạt động công khai. Có lúc, cả ba được mời vào làm bộ trưởng trong chính phủ Sihanouk. Năm 1963, khi Sihanouk bắt đầu đàn áp cộng sản, thì Saloth Sar, Son Sen cùng Trung ương Đảng trốn về vùng rừng núi Đông Bắc sát biên giới Việt nam. Tháng 4-1967, nông dân quận Samlaut tỉnh Battambang vì bị thu mua lúa gạo với giá quá rẻ và bị đánh thuế nặng nề nên nổi loạn. Quân đội của Lon Nol đàn áp mạnh mẽ. Sihanouk đổ lỗi cho Khieu Sam phan, Hou Youn, Hu Nim, cả ba đã phải theo Saloth Sar về vùng rừng núi Ratanakini. Nghĩ rằng thời cơ đã chín mùi, đảng cộng sản Campuchia bắt đầu cuộc đấu tranh vũ trang chống chính quyền. Cuộc đấu tranh này mới đầu còn bị Việt nam kìm hãm vì Bắc Việt vẫn còn lợi dụng được Sihanouk, nhưng sau cuộc đảo chính của tướng Lon Nol, Việt nam bắt đầu giúp đỡ một cách tích cực hơn và quân Khmer Đỏ cũng bắt đầu được sự ủng hộ trực tiếp của khối Cộng, nhất là Trung hoa. Nhờ những sự giúp đỡ đó, cũng như nhờ sự quyết tâm và tuyên truyền, họ đã hoàn toàn chiến thắng quân đội Lon Nol vào ngày 17-4-1975. Tài liệu tham khảo: - Year Zero, Francois Ponchaud. https://thuviensach.vn - War & Hope, Norodom Sihanouk. - Việt nam Máu Lửa, Nghiêm Kể Tố. - Giọt Nước Trong Biển Cả. Hoàng Văn Hoan. - Brother Enemy, Nayan Chanda. - The Communist Road to Power in Vietnam, William J. Duiker https://thuviensach.vn Hoàng Dung Chiến tranh Đông dương 3 P4 Chính quyền Campuchia dân chủ Ngày 17-4-1975, quân Khmer Đỏ tiến vào Phnom Penh, chính thức nắm chủ quyền cả nước Campuchia. Trên danh nghĩa, chính phủ Campuchia lúc đó vẫn là chính phủ Hoàng gia thống nhất quốc gia Campuchia, một liên minh giữa hai phe Sihanouk và Khmer Đỏ được thành lập năm 1970 tại Bắc kinh để đối phó lại chính phủ Cộng hoà của tướng Lon Nol. Chính phủ đó do Sihanouk Quốc trưởng, Pen Nouth Thủ tướng, Khieu Samphan Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng quốc phòng, Hu Nim Bộ trưởng Thông tin, Hou Youn Bộ trưởng Nội Vụ. Thật ra Sihanouk và Penn Nouth chỉ có hư vị. Từ 1970 đến 1975, Sihanouk đã phải ở lì tại Bấc Kinh, bị Ieng Sary lúc đó là trưởng phái bộ liên lạc giám sát chặt chẽ. Ông ta chỉ được về thăm mật khu Khmer Đỏ có một lần vào tháng 3-1973 sau khi nhờ Phạm Văn Đồng can thiệp với Trung hoa để áp lực với Ieng Sary. Sau ngày 17-4-1975, Sihanouk vẫn chưa được về nước ngay, mà phải đợi đến ngày 19-8-1975 Khieu Samphan và Ieng Thirith mới qua Bình Nhưỡng đón về. Còn Hou Youn khi vào Phnom Penh đã bị mất tích một cách bí mật, có lẽ bị thủ tiêu vì chống lại chính sách quá khích. Vừa vào đến Phnom Penh, Khmer Đỏ đã bắt đầu thanh toán các thành phần đối lập, phản cách mạng và thực hiện công tác di tản dân thành phố về nông thôn. Đảng cộng sản Campuchia, núp dưới cái tên “Tổ chức” (Angkar) bắt đầu củng cố quyền hành. Ban thường vụ Trung ương Đảng lúc đó gồm có Pol Pot, Nuon Chea, Ta Mok, So Phim, Ieng Sary, Von Verth, Son Sen và Takeu. Sau Pol Pot, nhân vật số hai Nuon Chea là một cán bộ cộng sản kỳ cựu, đã gia nhập đảng cộng sản Thái lan trước khi gia nhập đảng cộng sản Đông dương. Ở đại hội đảng năm 1960, Noun Chea đứng ở vị trí số hai. Sau khi Tổng bí thư Tou Samouth bị mất tích, Noun Chea vẫn đứng hàng thứ hai, để Pol Pot lên thay. Có lẽ vì không tham vọng và trung thành nên Nuon Chea được Pol Pot tin cẩn. Trong đảng, Nuon Chea đặc trách Vụ Tổ https://thuviensach.vn chức (chức vụ tương đương với Lê Đức Thọ của Việt nam lúc đó). Trước 1975, Nuon Chea là Tư lệnh phó Khmer Đỏ kiêm Chính uỷ toàn quân. Hai Uỷ viên khác là Ta Mok và So Phim là hai Bí thư Khu uỷ uy tín nhất. Von Verth trước 1975 là Bí thư Thành uỷ Phnom Penh, Ta Khu chỉ huy trưởng quân sự khu Tây Bắc. Tháng 7-1975, Pol Pot triệu tập đại hội các bí thư khu uỷ để thống nhất quân đội và phân định lại ranh giới. Quốc gia Campuchia được chia ra làm bảy khu. Đó là các khu Tây Nam (bí thư Ta Mok), Tây Bắc (Nhim Ros), Bắc (Khoy Thoàn), Đông (So Phim) Trung ương (Ke Pauk), Đông Bắc (Men San), Tây (Chu Chẹt). Trước đó, trong chiến tranh, các bí thư khu uỷ hành động độc lập và được coi như những lãnh chúa, kiêm nhiệm cả về hành chánh lẫn quân sự, toàn quyền sinh sát. Sau đại hội, tất cả các bí thư khu uỷ biểu quyết chấp thuận đường lối cộng sản quá khích của Pol Pot và đồng ý giao lại hai phần ba quân số cơ hữu của mỗi quân khu cho Trung ương, để thành lập một quân đội thống nhất, chính qui. Một phần ba còn lại trở thành lực lượng cơ hữu quân khu. Khmer Đỏ vẫn núp dưới cái tên Tổ chức và Pol Pot vẫn còn là một nhân vật bí mật. Còn Sihanouk và Pen Nouth tuy được mang danh Quốc trưởng và Thủ tướng nhưng chỉ là hư danh, không có một chút quyền hành và gần như bị giam lỏng. Ngày 5-1-1976, hiến pháp chính thức của Campuchia ra đời. Hiến pháp không có đoạn nào nói về những quyền tự do căn bản, mà chỉ ám chỉ đến chính sách cường bách lao động bằng câu “tuyệt đối không có nạn thất nghiệp”. Ngày 20-3-1976, Quốc hội Campuchia được bầu ra, đa số các đại biểu là bí thư các quân khu và chi khu, Nuon Chea được cử làm Chủ tịch Quốc hội. Theo hiến pháp, quốc gia Campuchia sẽ có một Hội đồng Chủ tịch nhà nước do Quốc hội bầu lên. Sihanouk, người Quốc trưởng được chỉ định, không còn con đường nào khác, nộp đơn từ chức. Quốc hội đề cử Khieu Samphan giữ chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, So Phim đệ nhất Phó chủ tịch, Nhim Ros đệ nhị Phó chủ tịch. Còn Sihanouk từ đó bị quản thúc. Ngày 12-4-1976, chính phủ chính thức của Khmer Đỏ ra mắt. Thủ tướng là Pol Pot, Ieng Sary Bộ trưởng ngoại giao, Son Sen Bộ trưởng quốc phòng, https://thuviensach.vn Von Verth Phó Thủ tướng đặc trách Kinh tế, Khẩy Toàn Bộ trưởng Kỹ nghệ, Hu Nam Bộ trưởng Thông tin, Thioun Thioeun Bộ trưởng Y Tế, Tauch Phoem Bộ trưởng Công chánh. Vợ Son Sen là Yun Yet Bộ trưởng Văn hoá giáo dục, vợ Ieng Sary là Thirith Bộ trưởng Xã hội. Trái với sự mong đợi của nhiều người, nhất là những người dân Campuchia, ngày 17-4-1975 đã không đánh dấu một kỷ nguyên hoà bình no ấm, mà nó đã bắt đầu một giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Campuchia. Là những người cộng sản cuồng tín, tập đoàn lãnh đạo Khmer Đỏ đã kết hợp những thực nghiệm xã hội chủ nghĩa đẫm máu của Stalin và Mao Trạch Đông với những kinh nghiệm lao động nô lệ của đời vua Jayavarman VII đến một mức độ cực đoan, gần như điên cuồng. Cũng công xã, cũng tập thể, cũng kinh tế chỉ huy, nhưng đường lối không tưởng tiến thẳng lên cộng sản chủ nghĩa của Campuchia đã đưa đến một thảm hoạ chưa từng thấy cho toàn dân tộc Campuchia. Dĩ nhiên công tác đầu tiên và chính yếu của một Đảng cộng sản khi mới nắm được chính quyền là nắm vững chuyên chính vô sản”, “tiêu diệt những phần tử phản cách mạng”. Nhưng hơn cả Stalin, Mao Trạch Đông và Hitler, đường lối quá khích của Khmer Đỏ đã gây ra thảm kịch tự diệt chủng hơn một phần tư dân số. Cũng như những người cộng sản Việt nam hay nói chữ “đỉnh cao trí tuệ”, “ba dòng thác cách mạng” cộng sản Campuchia gọi những thành phần đối nghịch cần tiêu diệt là “ba ngọn núi quyền lực phản động”. Ba ngọn núi kể trên lần lượt là đế quốc, phong kiến và tư sản mại bản. Nhưng sự suy diễn và xếp loại những thành phần này lại rất mơ hồ và lỏng lẻo. Đế quốc ngoài những viên chức hay sĩ quan, hạ sĩ quan chế độ cũ, còn là bất cứ người nào có liên quan đến ngoại quốc, như người gốc Việt, gốc Ấn, gốc Hoa, gốc Chàm. Cũng thế, phong kiến không chỉ có nghĩa những người liên quan đến hoàng tộc mà còn là những người tương đối có địa vị trong xã hội cũ như chuyên viên, trí thức, tăng ni... Còn tư sản mại bản là những thương gia, tiểu thương, nhất là những người cho vay nặng lãi. Những người đầu tiên Khmer Đỏ phải giải quyết ngay là những sĩ quan viên chức chế độ cũ. Họ bị kêu đi trình diện ngay trong ngày 17-4-1975. Trong danh sách “bảy tên phản bội” mà đài phát thanh Khmer Đỏ tuyên án https://thuviensach.vn tử hình trước khi vào Phnom Penh gồm có Lon Nol, Sirik Matak, Long Boret, tướng Fernandez, cựu Thủ tướng In Tam, cựu Quốc trưởng Cheng Keng, và ông Sơn Ngọc Thành, chỉ có hoàng thân Sirik Matak và Thủ tướng Long Boret còn ở lại. Cả hai đều từ chối lời mời của Đại sứ Dan cùng lên máy bay di tản. Hoàng thân Sirik Matak bị bắt sau khi tị nạn trong toà đại sứ Pháp, còn ông Long Boret thì chán nản, mệt mỏi, gọi điện thoại cho Khmer Đỏ chỉ đường cho họ đến nhà bắt. Dĩ nhiên cả hai bị giết ngay. Những sĩ quan cao cấp của quân Cộng hoà cũ sau khi khai lý lịch bị bắn chết ngay ở sân vận động thành phố, còn các viên chức dân sự thì bị xử tử ở Hội quán thể thao Phnom Penh. Trong số những người bị giết trong ngày đầu tiên có tướng Lon Non, em ruột Lon Nol, các tướng Chim Chuồn, Hem Keth Dong, phát ngôn viên quân sự Am Rong, các bộ trưởng trong chính phủ cũ, Chủ tịch Quốc hội Ung Bun Hor, cao tăng Phật Giáo Saundech Saugh. Riêng tại tỉnh Battambang, ngày 23-4-1975, Khmer Đỏ đem sáu xe vận tải chở các sĩ quan nói là đi đón Sihanouk nhưng lại đưa đến một địa điểm hoang vắng phục kích tàn sát hết, chỉ có bốn người chạy thoát trốn sang Thái lan. Đồng thời khoảng ba trăm hạ sĩ quan cũng bị giết tại một địa điểm khác. Sau các sĩ quan, hạ sĩ quan, về sau một số binh lính cùng những người thuộc “hai ngọn núi” phản động còn lại cũng dần dần bị bắt và thủ tiêu, trong lúc đang còn trên đường di chuyển, hoặc sau khi đã đến nơi định cư. Ngay từ ngày đầu tiên, song song với công tác tiêu diệt những phần tử phản cách mạng, cộng sản Campuchia bắt đầu thực hiện ngay một cuộc cách mạng thứ hai, cuộc cách mạng tiến thẳng lên cộng sản chủ nghĩa và xây dựng một quốc gia Campuchia “hùng cường thịnh vượng” trong vòng mười năm, bằng cách áp dụng một chính sách kinh tế tập trung, thiết lập một xã hội cộng sản nguyên thuỷ và cưỡng bách lao động toàn thể dân chúng. Họ phá bỏ hoàn toàn hệ thống kinh tế cũ, bãi bỏ tiền tệ, bãi bỏ tư hữu, tiêu diệt giai cấp tư sản và các thành phần buôn bán. Toàn thể dân chúng ở Phnom Penh cũng như ở các thành phố lớn như Battambang, Kompong Cham, Siem Reap, Kompong Thom... phải di tản về những vùng quê hẻo lánh xa xôi để tham gia lao động sản xuất. Chưa kịp hưởng một https://thuviensach.vn giây phút chào đón hoà bình, họ bắt buộc phải di tản ngay, vì theo Khmer Đỏ, “máy bay Mỹ sắp oanh tạc thành phố”. Đối với Khmer Đỏ, dân thành thị được coi như những thành phần khả nghi, phản động, ăn bám, trong chiến tranh đã không đóng góp được gì cho “cách mạng”. Tất cả mọi người kể cả thương binh, những người già yếu bệnh tật phải rời thành phố ngay lập tức. Con đường di chuyển được quyết định một cách độc đoán. Có những người phải đi bộ hàng tuần, có những người phải đi bộ hàng tháng mới đến nơi định cư. Nhiều người bị chết trên đường đi hoặc vì bì đói khát, bệnh tật, hoặc vì bị bất hay xử tử vì đủ mọi lý do. Suốt hơn bốn năm Khmer Đỏ nắm chính quyền một bầu không khí khủng bố và chết chóc bao phủ toàn quốc Campuchia. Ngay sau khi đến nơi định cư, những người dân thành thị di tản bị xếp ngay vào thành phần những “người mới” để phân biệt với những “người cũ” là những người địa phương từng ở dưới sự cai trị của Khmer Đỏ trước đó. “Người mới” phải ở cách biệt với “người cũ”. Nhiều khi, vì nhu cầu công lách họ phải đổi chỗ định cư luôn, và phải thi hành những công tác nặng nhọc nhất, dưới những điều kiện khắc nghiệt nhất, ở những nơi khí hậu và đất đai khó khăn như những vùng rừng núi, sình lầy. đời sống riêng tư bị cấm đoán và phương tiện y tế hầu như không có. Khẩu phần của người mới lúc nào cũng thiếu thốn (thường thì người cũ được hai bát cơm một bữa, người mới một bát rưỡi). Mỗi khi địa phương bị thiếu lương thực thì những người mới bị lãnh hậu quả trước tiên. Gia đình những người mới bị phân tán khắp nơi, tuỳ theo tuổi và nhu cầu, nhất là những thiếu niên dưới mười tám tuổi phải ở riêng với cha mẹ để khỏi bị “ô nhiễm ý thức hệ” cũ. Kể cả ông hoàng Sihanouk cũng có một số con cái bị phân tán, không biết lao động ở đâu và sau này chết nơi nào. Những người mới thường xuyên bị theo dõi, bị khai lý lịch, bị kiểm soát và có thể bị kết tội và xử tử bất cứ lúc nào. Nếu không bị bắt vì lý lịch, thì cũng có thể bị bắt và bị giết vì lười lao động, vì tỏ thái độ bất mãn hay có những quan hệ tình cảm bị cấm đoán. Người bị kết tội không cần phải ra toà, và để tiết kiệm đạn họ sẽ bị xử tử bằng búa, rìu, hay bị trùm túi nhựa cho đến khi bị nghẹt thở. Những người sống sót cùng những “người cũ” đều được đội ngũ hoá, được xếp thành tổ, xã, phường, quận... https://thuviensach.vn Về lao động sản xuất, họ được tổ chức thành những lực lượng”, “hợp tác”, công đoàn”, “nông trường”. Sau khi nhân dân đã được đội ngũ hoá như thế cả nước Campuchia trở nên một trại tập trung khổng lồ. Dân chúng phải làm việc mỗi ngày từ sáu giờ sáng đến tám chín giờ đêm. Sau đó còn phải họp tổ để kiểm điểm. Hầu như trong năm không có ngày lễ. Những ngày nghỉ được luật quy định là những ngày 10, 20, 30 trong tháng, nhưng điều này hiếm khi được thực hiện. Mục tiêu đội ngũ hoá cả nước này đã được Khieu Samphan hoạch định trong luận án tiến sĩ kinh tế tại Sorbonne năm 1959. Ông ta viết: “Sự tổ chức có phương pháp tiềm năng của quần chúng nông dân sẽ làm tăng hiệu năng sản xuất lên hàng trăm lần”, và biện pháp tiêu diệt tư hữu, cường bách lao động, ăn ở tập thể này ít ra đã được một người thán phục, đó là Mao Trạch Đông, tác giả “bước nhảy vọt vĩ đại” ở Trung hoa. Ông ta đã khen Pol Pot: chỉ trong một hành động mà các đồng chí đã thực hiện được những gì chúng tôi không làm được. Nhưng cũng không ai biết rõ hậu quả tai hại của đường lối này hơn Chu Ân Lai. Năm 1975, trên giường bệnh, ông ta đã khuyên Khieu Samphan và Ieng Thirith “Hãy tiến từ từ từng giai đoạn, chậm mà chắc”, lúc đó Khieu Samphan và Ieng Thirith chỉ nhìn nhau mỉm cười và không trả lời. Tương tự như Stalin trong những năm 1930 hay Mao Trạch Đông trong những năm 1960, chính sách quá khích của Khmer Đỏ đã đưa đến những hậu quả kinh tế tại hại. Hầu hết chuyên viên, trí thức đều đã bị giết hại hoặc bị tập trung, những nông trường do những cán bộ không có kinh nghiệm nông nghiệp chỉ huy, những công trình thuỷ lợi được xây dựng một cách ngu dốt, những nguyên tắc về quản trị và kế toán cơ bản không có khiến cho dù cả nước tập trung lao động đến kiệt quệ mà kết quả là mức sản xuất đã quá tồi tệ. Và rồi cũng giống như ở Liên xô, Trung quốc, Việt nam, để đổ lỗi cho những thất bại, cuộc thanh trừng nội bộ triền miên bắt đầu. Sau khi những thành phần thuộc “ba ngọn núi” phản động đã bị tiêu diệt hết, nạn nhân chính của những cuộc thanh trừng là những người bị nghi ngờ là tay sai ngoại bang cài vào phá hoại chế độ. Những nạn nhân đầu tiên thường bị gán là tay sai CIA phá hoại kinh tế, nhưng những nạn nhân về sau, thì bị https://thuviensach.vn cho là tay sai do Việt nam phá hoại cả kinh tế, chính trị lẫn quân sự. Điển hình cho những đợt thanh trừng này, chúng ta có thể thấy khi xét đến những thành phần tù nhân bị bắt vào Tuol Sleng. Toàn quốc Campuchia có nhiều trung tâm thẩm vấn nhưng Tuol Sleng, có nghĩa “Đồi độc dược” bí danh S21, là một trung tâm thẩm vấn nổi tiếng và điển hình, vì nó ở ngay Phnom Penh, đã giam giữ và thủ tiêu những nhân vật quan trọng, và vì đã để lại hồ sơ những can phạm rất đầy đủ so với các địa ngục trần gian khác như Đầm Đùn, Lý Bá Sơ, Phan Đăng Lưu, Lubyanka thì Tuol Sleng đã đạt đến tột cùng của sự tàn ác. Được thành lập năm 1976, cho đến cuối năm 1978, trung tâm này đã giam giữ khoảng 20,000 tù nhân. Tra tấn ở nơi đây đã trở nên một quy luật. Tài liệu ở Tuol Sleng có ghi rõ “công tác của ngành Công an đặc biệt là một công tác đấu tranh giai cấp. Dù bí mật của địch sâu kín đến mức nào, chúng ta cũng sẽ lôi ra cho được”. Nó cũng là một nghệ thuật. “Chúng ta sẽ phải làm tất cả những gì cần thiết để kẻ thù lúc nào cũng mơ hồ về vấn đề được sống hay chết, và còn hy vọng là có thể sống sót”, hay một khoa học: “Chúng ta không tra tấn quá nặng tay. Nếu chúng vẫn còn đau ngay cả khi không bị đánh, chúng ta sẽ thu thập rất ít. Nếu chúng bị tra tấn đến nỗi không mở miệng nổi, điều đó sẽ gây phiền phức cho Đảng”. Với đường lối tra tấn dã man này, những người bị bất đành phải ký tên nhận bừa tội lỗi để được chết sớm. Chỉ huy trại Tuol Sleng là Duch, trước kia là một giáo viên, tham gia phong trào cộng sản ở khu Tây Nam dưới quyền Tamok. Năm 1972 Duch phụ trách an ninh ở Phnom Penh dưới quyền Von Verth. Sau 1975, là chỉ huy trưởng Công an toàn quốc, chỉ dưới quyền Pol Pot và Son Sen. Theo thời gian, trại này bành trướng dần. Năm 1976, trung tâm chỉ có hai ngàn tù nhân, năm 1977 tăng lên sáu ngàn, năm 1978 lên tới mười hai ngàn. Những thành phần bị bắt và thủ tiêu cũng thay đổi. Mới đầu là những người ít nhiều có dính dáng đến chế độ cũ như giáo sư, bác sĩ, sinh viên, binh sĩ. Sau đó là những phần tử khả nghi phá hoại kinh tế như các công nhân, cán bộ chỉ huy và “kiều bào hải ngoại yêu nước” trở về phục vụ. Trong đợt này còn có Khoa Thoàn, Bộ trưởng Kinh tế và Nhím Ros, Bí thư Khu uỷ khu Tây Bắc vì không đạt chỉ tiêu sản xuất. Sau cùng là những người bị tố cáo https://thuviensach.vn có “thân xác Khmer và đầu óc Việt nam”, kể cả những cán bộ cao cấp như Keo Meas, Hu Năm, Von Verth. Việc thanh trừng Keo Meas mở đầu một giai đoạn cắt đứt những gì quan hệ với Việt nam một cách sâu rộng và công khai. Keo Meas là một đảng viên cộng sản kỳ cựu từ thời Đông dương cộng sản Đảng, từng là bí thư thành uỷ Phnom Penh trước Pol Pot. Năm 1958, vì xuất hiện công khai để tranh cử quốc hội nên Keo Meas bị lộ tông tích và bị mật vụ Sihanouk theo dõi, phải trốn sang Việt nam. Tới 1960 Keo Meas từ Việt nam lén lút trở về tham dự đại hội đảng lần thứ nhất và được bầu lên làm một trong năm Uỷ viên Thường vụ. Sau khi Tou Samouth chết, trong đại hội đảng lần thứ hai năm 1963, Keo Meas bị mất chức, nhưng ông ta vẫn còn uy tín với một số đồng chí cũ nên được giao phó trọng trách viết lịch sử đảng. Thời gian đó, phong trào cộng sản Campuchia đã có hai phe, phe các cựu đảng viên như Keo Meas vẫn coi ngày 30-9-1951 là ngày đầu tiên thành lập đảng cộng sản Campuchia. Phe thứ hai do Pol Pot đứng đầu, không muốn có dấu tích gì của Việt nam nên muốn lấy ngày 21-9-1960 là ngày kỷ niệm. Tuy phe Pol Pot mạnh hơn, nhưng trong chiến tranh đang cần có sự giúp đỡ của Việt nam, nên Keo Meas đã đưa ra một giải pháp dung hoà là lấy ngày 30.9, ngày thành lập đảng Nhân dân cách mạng làm ngày kỷ niệm, nhưng lại lấy năm 1960, năm thành lập đảng Lao động Campuchia là năm đầu tiên của phong trào cộng sản. Cuộc tranh chấp giữa hai phe trở nên công khai vào tháng 9-1976, khi Keo Meas viết trên tờ Cờ đỏ, cơ quan ngôn luận của Đoàn Thanh niên cộng sản, tái công nhận đảng cộng sản Campuchia được thành lập từ năm 1951 và đã được sự giúp đỡ của những đảng cộng sản anh em, nhất là của Việt nam. Trong khi đó, báo Cờ cách mạng, tờ báo chính thức của Trung ương đảng cộng sản, viết rằng đảng được thành lập năm 1960, theo một đường lối riêng biệt Khmer và hoàn toàn do tự lập. Cùng thời gian, Pol Pot tuyên bố tạm từ chức vì lý do sức khỏe, lui vào bóng tối lãnh đạo cuộc thanh trừng. Mấy ngày sau, Keo Meas bị bắt, và sau khi bị tra tấn, đành thú nhận rằng ý kiến dung hoà về ngày 21-9-1960 là một âm mưu nhằm phá hoại sự chính thống và hợp pháp của đảng cộng sản Campuchia. https://thuviensach.vn Sau vụ thanh toán Keo Meas, tập đoàn Pol Pot, Ngon Chia, Son Sen và Dịch càng tin chắc là Việt nam đang mưu toan phá hoại đảng và chế độ nhằm thôn tích Campuchia và thành lập Liên bang Đông dương. Nhất là sau đó, tháng 12-1976, Việt nam ký thông cáo thân hữu với Lào và nêu mục tiêu thiết lập “quan hệ đặc biệt” giữa ba nước. Nhưng tình hình biên giới giữa hai nước lúc đó tạm yên, vì nước đỡ đầu cho Campuchia, Trung hoa, sau cái chết của Mao Trạch Đông ngày 9-9-1976, đang chìm trong một cuộc đấu tranh nội bộ gay gắt. Mấy tháng sau, khi tình hình Trung hoa đã sáng tỏ, các nhà lãnh đạo mới ở Bắc kinh tái xác nhận sự ủng hộ đối với đường lối của đảng cộng sản Campuchia, Pol Pot mới ra lệnh phát động cuộc chiến tranh biên giới trên một qui mô rộng lớn hơn. Nhưng cuộc chiến tranh đó đã không giúp Pol Pot có được sự đoàn kết trong nội bộ đảng và nhân dân, mà chỉ gây thêm nghi ngờ và chia rẽ. Nhất là sau vụ thanh toán So Phim và quân đội quân khu Đông, chế độ Khmer Đỏ đã đi nhanh hơn trên con đường tự huỷ hoại, và chỉ hơn một năm sau, chế độ đó đã bị sụp đổ. Tài liệu tham khảo: - Campuchia, a country history, Bộ Lục quân Hoa kỳ 1989. - When The War Was Over, Elizabeth Becker, nhà xuất bản Simon, Shuster, New York. - Campuchia Year Zero của Francois Ponchaud, nhà xuất bản Holt, Rinehart and Winston, New York. - The Vietnam-Campuchea conflict, Foreign Languages Publishing, House, Hà nội. https://thuviensach.vn Hoàng Dung Chiến tranh Đông dương 3 P5 Tình hình nội bộ Việt nam - Cam pu chia - Trung hoa sau 1975 Sau chiến thắng của Khmer Đỏ và Việt nam vào giữa năm 1975, quan hệ giữa hai nước Việt nam và Campuchia bước vào một giai đoạn mới. Nắm được chính quyền, kẻ thù cũ đã bị đánh bại, cái mặt ngoài đoàn kết giữa hai đảng cộng sản không cần che giấu nữa, để cho những bất hoà tranh chấp cũ lại bộc lộ ra. Chiếm được chính quyền vào cùng một thời gian, cùng muốn thực hiện chủ nghĩa cộng sản, những lãnh tụ của cả hai đảng cộng sản đã đưa ra những chính sách kinh tế tai hại, những đường lối ngoại giao vụng về, khiến cho những rắc rối giữa hai nước đã phải giải quyết bằng súng đạn ngay trong những ngày đầu tiên. Một phần có lẽ dùng “bạo lực cách mạng” để giải quyết mọi vấn đề là phương cách hữu hiệu duy nhất mà cả hai phe cùng biết. Thêm vào đó, tình hình càng trầm trọng thêm và diễn ra ở một quy mô rộng lớn hơn, vì ngoài những tranh chấp biên giới và khác biệt ngoại giao giữa hai nước, sự sụp đổ của chính phủ miền Nam Việt nam và sự rút lui của quân đội Mỹ, đã tạo nên một khoảng trống làm thay đổi cán cân lực lượng, khiến cho Trung hoa càng ngày càng quan tâm đến tình hình trong vùng. Dù trong những năm đó, Trung hoa đang trải qua những tranh chấp quyền lực nội bộ đẫm máu, nhưng mối quan ngại về an ninh lãnh thổ không lúc nào bị suy giảm. Bị áp lực nặng nề của Liên xô ở biên giới phía Bắc, Trung hoa không bao giờ muốn có một nước Việt nam có khuynh hướng thân Nga ở biên giới phía Nam, nhất là Việt nam còn có mưu toan thống trị toàn cõi Đông dương để trở nên một thế lực quân sự hùng mạnh. Ỏ trong một hoàn cảnh tương tự như thế, đã từng biết rõ về khuynh hướng xâm lấn và bành trướng của Trung hoa từ hàng ngàn năm qua, nhất là người cộng sản Việt nam dù ngoài mặt luôn miệng nói anh em thân thiết, lại càng biết nhiều hơn về cộng sản Trung hoa, nên lúc nào cũng cảnh giác về mối đe doạ của nước láng giềng khổng lồ phương Bắc. Họ không thể https://thuviensach.vn đứng yên để Campuchia gây rối loạn ở biên giới tây nam. Riêng Campuchia, những định kiến và kinh nghiệm lịch sử đối với Việt nam dã ăn sâu trong đầu óc, khiến cho những lãnh tụ Khmer Đỏ rất nhạy cảm về vấn đề an ninh và sự toàn vẹn lãnh thổ. Những nghi ngờ cảnh giác đó, cộng với sự kiêu ngạo mù quáng của những nhà lãnh đạo cộng sản cả hai nước đã khiến cho những xích mích mới đầu lẻ tẻ ở biên giới, trở nên ngày càng nghiêm trọng đưa đến sự xâm lăng của bộ đội Việt nam vào lãnh thổ Campuchia và sự xua quân tàn phá những tỉnh biên giới phía bắc Việt nam của quân đội Trung hoa. Đối với cộng sản Campuchia, bao nhiên oán hờn nhẫn nhịn chất chứa bao năm qua được phần nào giải toả sau khi chiếm được chính quyền. Vừa vào được Phnom Penh, Pol Pot đã đưa ra một chỉ thị tám điểm trong đó có điểm trục xuất Việt kiều và tăng cường quân đội ở biên giới. Chỉ trong vòng ba tháng, gần hai trăm ngàn Việt kiều ở Campuchia bị cưỡng bách hồi hương, tràn về các tỉnh biên giới như Tây Ninh, An Giang và ngay trong đầu tháng 5, hải quân nhỏ bé của Campuchia đã được huy động đi chiếm những đảo ngoài khơi vịnh Thái lan. Ngày 4-5-1975, họ bắn phá đảo Phú Quốc. Một tuần sau, họ chiếm đảo Thổ Châu, tàn sát khoảng năm trăm cư dân trên đảo và sáng ngày 12-5-1975, họ tiến chiếm đảo Hòn Trọc (Hai). Đảo Hòn Trọc là hòn đảo nằm trong vùng tranh chấp giữa hai nước từ thời Pháp thuộc. Sau 1954, các chính phủ Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đã công bố chủ quyền trên đảo và để cho hải quân Việt nam cộng hoà bảo vệ. Vì yếu thế, nên dù Sihanouk có cực lực phản đối cũng không kết quả. Trong cơn say men chiến thắng, cũng chiều ngày 12-5-1975, bộ đội Khmer Đỏ bắt giữ chiếc tàu dân sự Mayaguez của Mỹ chạy gần đảo đó. Nhưng trước khi bị bắt, chiếc tàu đã đánh điện cầu cứu và chính phủ Mỹ biết tin về vụ bắt giữ chiếc tàu trước chính phủ Campuchia. Đang cay đắng về thất bại ở Việt nam, chính phủ Mỹ phản ứng mạnh mẽ. Tổng thống Ford ra tối hậu thư đòi Campuchia phải trả tự do cho chiếc tàu trong vòng hai mươi bốn giờ. Vì phương tiện truyền tin thô sơ, nên khi Bộ trưởng thông tin Hu Nam thay mặt chính phủ Campuchia ra lệnh bộ đội quân khu Tây Nam trả tự do cho chiếc tàu trên đài phát thanh Phnom Penh thì đã quá muộn. Thuỷ quân https://thuviensach.vn lục chiến Mỹ đã đổ bộ đảo Hòn Trọc và không quân Mỹ đã bắn phá hải cảng Kompong Som, Ieng Sary sau đó đổ thừa vụ bắt giữ này cho các đơn vị quân sự địa phương. Nhưng sau vụ này, xưởng lọc dầu duy nhất của Campuchia bị tiêu huỷ và hải quân vốn đã nhỏ bé của Campuchia bị tổn hại nặng nề. Hai tuần lễ sau, sau khi đã tạm thời ổn định được chính quyền, bộ đội Việt nam phản công chiếm lại đảo Thổ Châu, và ngày 2-6-1975, Nguyễn Văn Linh từ Sài gòn lên Phnom Penh phản kháng. Mười ngày sau, phái đoàn chính phủ Campuchia gồm Pol Pot, Ieng Sary, và Ngon Chia đi Hà nội thảo luận về vấn đề biên giới hai nước. Họ muốn cuộc thảo luận căn cứ trên bản tuyên bố của nước Việt nam dân chủ cộng hoà năm 1967 về vấn đề biên giới. Những năm đó là những năm Sihanouk nghiêng về Bắc Việt, và dù cảm thấy biên giới do Pháp quy định đã khiến Campuchia bị thiệt thòi, Sihanouk cũng chấp nhận biên giới đó để Việt nam khỏi lấn chiếm thêm. Lúc đó Bắc Việt đang cần sự ủng hộ của Sihanouk nên cũng tỏ ra mềm dẻo. Nhưng sau chiến thắng họ thấy không cần nhượng bộ nữa. Đồng thời cùng với ngày mà Pol Pot tới Hà nội, Việt nam tái chiếm đảo Hòn Trọc. Cuộc thương thuyết về biên giới không đi đến đâu, phái đoàn Campuchia rời Hà nội đi Bắc kinh. Thời gian đó tại Trung hoa, Chu Ân Lai đang bị bệnh, và phe quá khích của Giang Thanh đang thắng thế. Cùng chia sẻ mối quan tâm về đường lối thân Nga và tham vọng đất đai của Việt nam, và gần gũi hơn về đường lối quá khích tiến thẳng lên cộng sản chủ nghĩa, nên phái đoàn Campuchia được tiếp đón nồng nhiệt. Mao Trạch Đông, tác giả bước nhảy vọt năm 1958 đã hết lời ca ngợi Pol Pot. Sau đó, Trung hoa hứa viện trợ cho Campuchia một tỉ mỹ kim trong vòng năm năm. Đồng thời họ cũng bí mật cứu xét viện trợ quân sự cho Campuchia. Ngày 2-8-1975, một phái đoàn cao cấp của Đảng Lao động Việt nam do Lê Duẩn, Phạm Hùng và Xuân Thuỷ qua thăm Phnom Penh đáp lễ. Cuộc viếng thăm ngắn ngủi và lạnh nhạt. Có lẽ để lấy lòng Trung hoa, Việt nam tỏ ra mềm dẻo hơn, công nhận chủ quyền của Campuchia trên đảo Hòn Trọc và hứa sẽ trao trả lại. Đảo này được giao về Campuchia vào tháng 10- https://thuviensach.vn 1975. Theo Sihanouk, Việt nam lại tái chiếm đảo này năm 1978. Tình hình bang giao giữa hai nước sau đó dịu đi đôi chút, nhưng những bất hoà căn bản vẫn còn ngấm ngầm. Tháng 9-1975, khi Sihanouk và Khieu Samphan đến Hà nội dự lễ quốc khánh của Việt nam, Phạm Văn Đồng mời phái đoàn Campuchia dự tiệc “thân mật” với các phái đoàn Mặt trận giải phóng Miền Nam và Lào, Khieu Samphan từ chối tức khắc, sau đó giải thích với Sihanouk rằng đó là cái bẫy của Việt nam để tiến tới thành lập Liên bang Đông dương. Dịp quốc khánh đó cũng là dịp Trung hoa thăm dò lập trường của Việt nam. Trung hoa đã cử tướng Trần Tích Liên, Uỷ viên Bộ Chính trị và Tư lệnh Quân khu Bắc kinh làm trưởng phái đoàn. Việc bổ nhiệm đó mang một ý nghĩa chính trị đặc biệt, vì tướng Liên là tướng tư lệnh chỉ huy quân đội Trung hoa trong những trận đụng độ với Liên xô ở biên giới trong năm 1969. Trên đường đến Hà nội, tướng Liên ghé thăm nhà máy gang thép Thái Nguyên đang được Trung hoa giúp tái xây dựng, đọc diễn văn kêu gọi đấu tranh chống “bá quyền” (Liên xô). Khi đến Hà nội ngày 31-8-75, tướng Liên vẫn được Phạm Văn Đồng “ôm hôn thắm thiết”, nhưng bài diễn văn chống bá quyền bị đục bỏ trên báo chí và đài phát thanh Việt nam. Đài phát thanh Moscow lúc đó cực lực công kích hành động của tướng Liên, gọi đó là gây hấn và kém văn minh. Việt nam sau bao năm nhờ có viện trợ dồi dào của cả Liên xô và Trung hoa để có thể theo đuổi chiến tranh, đang rất cần viện trợ tái thiết, nên đã cố gắng dung hoà với cả hai nước. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, mục tiêu chiến lược của cả hai nước này đã thay đổi. Liên xô chỉ bằng lòng trợ giúp Việt nam nếu Việt nam chịu nằm trong quỹ đạo Liên xô, kể cả về kinh tế lẫn quân sự, để giúp Liên xô khống chế Trung hoa và có một đầu cầu quân sự trong vùng nam Thái Bình Dương. Còn Trung hoa lúc đó ngày càng thân thiện hơn với Hoa kỳ và đang coi Liên xô là kẻ thù số một, không thấy có nhu cầu phải giúp đỡ một nước Việt nam độc lập và không chịu về phe mình để chống lại Liên xô. Vì thế trong tháng 8-1975, khi Lê Thanh Nghị, Chủ tịch Uỷ ban kế hoạch nhà nước, người đã từng sang Trung hoa xin viện trợ nhiều lần đến nỗi bị đặt cho biệt danh “tên ăn mày” lại sang xin viện trợ. Lần này Trung hoa từ chối thẳng tay. https://thuviensach.vn Không nản chí, cuối tháng 9-1975 Lê Duẩn và Lê Thanh Nghị lại sang thêm một lần nữa. Cuộc tiếp đón mới đầu diễn ra thân thiện cho tới khi Đặng Tiểu Bình, lúc đó vừa được phục chức Phó Thủ tướng, sau khi bị thanh trừng lần thứ nhất, trong buổi tiệc tiếp tân đã đề cập đến “chủ nghĩa bá quyền” và ám chỉ rằng Việt nam nên liên kết với Trung hoa để chống lại Liên xô. Tuy nhiên, trong đáp từ, Lê Duẩn đã không đả động gì đến bá quyền mà còn cám ơn tất cả “những nước xã hội chủ nghĩa anh em” dĩ nhiên trong đó có Liên xô, trong cuộc đấu tranh chống đế quốc. Sự từ chối không liên kết với Trung hoa của Lê Duẩn đưa đến kết quả là Trung hoa từ chối viện trợ. Lê Duẩn cũng từ chối thảo thông cáo chung và huỷ bỏ tiệc liên hoan đáp lễ. Ngày 25-9-1975 Lê Duẩn đáp xe lửa đi Thiên Tân trở về nước. Một tháng sau, Lê Duẩn sang Liên xô. Trái với chuyến đi Trung hoa vừa rồi, tại đây Lê Duẩn ký với Liên xô một thông cáo chung trong đó Việt nam nhất trí với Liên xô trong đường lối đối ngoại. Đối với Trung hoa, kể từ ngày đó, Việt nam đã công khai đầu hàng chủ nghĩa bá quyền và đứng trong hàng ngũ đối lập với Trung hoa. Việt nam lúc đó đã ý thức được vị thế đối lập của mình với Trung hoa và sự liên kết giữa Trung quốc và Campuchia, nên đã lợi dụng thời gian mà cuộc tranh chấp quyền lực ở Trung hoa đi tới giai đoạn cực độ để củng cố hoàn cảnh của mình. Trước hết, họ loại Hoàng Văn Hoan, một nhân vật thân Bắc kinh ra khỏi Bộ Chính trị. Sau đó, họ bất thần triệu tập hội nghị sơ bộ ở Đà Lạt bàn về việc thống nhất hai miền Nam Bắc. Trưởng phái đoàn miền Bắc là Trường Chinh, nhân vật số hai của Đảng, còn trưởng phái đoàn miền Nam là Phạm Hùng, nhân vật thứ tư, dĩ nhiên hội nghị đưa đến kết quả nhất trí. Trung hoa chỉ có thể phản ứng lại một cách yếu ớt, bằng cách công bố chủ quyền của họ trên quần đảo Trường Sa. Việt nam vẫn không nao núng. Tháng 2-1976, để chuẩn bị bầu quốc hội cả nước, họ bắt tất cả nhân dân trong nước phải khai quốc tịch. Những người không nhận quốc tịch Việt nam bị mất hộ khẩu và khẩu phần. Dĩ nhiên, đại đa số Hoa kiều phải nhập tịch Việt nam. Lần này Trung hoa phản kháng dữ dội, nhưng Việt nam vẫn không nhượng bộ. Đây là những đụng chạm đầu tiên về vấn đề Hoa kiều ở Việt nam giữa hai chính phủ. Sau khi đã thắt chặt được sự kiểm soát nhân https://thuviensach.vn dân trong nước, Việt nam tìm cách củng cố an ninh sườn biên giới Tây Bắc. Ngày 2-12-1976, Lê Duẩn sang Viêng-chăn, cùng Kayson Phomvihane, Bí thư đảng cộng sản Lào ký một thông cáo chung. Thông cáo chung này hứa hẹn “tăng cường tình đoàn kết gắn bó giữa ba dân tộc Lào, Campuchia và Việt nam”. Đối với Campuchia, đây là bước đầu tiên của Việt nam trong kế hoạch thành lập Liên bang Đông dương. Cộng sản Lào, trong chiến tranh chống Pháp, đã dựa dẫm vào Việt nam mà phát triển, và trong chiến tranh Đông dương thứ hai, đã nhờ Việt nam mà chiếm được chính quyền. Sau 1975, Việt nam vẫn còn để lại Lào hơn bốn mươi ngàn bộ đội. Thông cáo chung giữa Việt nam và Lào đã gián tiếp hợp thức hoá sự hiện diện của quân đội Việt nam trên lãnh thổ Lào. Có được đồng minh như Lào làm trái độn, Việt nam đã bảo đảm được sự an toàn ở biên giới phía Tây, cô lập sự tiếp vận đường bộ giữa Trung hoa và Campuchia, và tạo thêm một mối đe doạ cho Campuchia từ biên giới phía Bắc. Hai tháng sau, trong lễ kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày chiến thắng, Ieng Sary ngoài việc nhấn mạnh đến sự độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ, đã ngầm chỉ trích Lào đã để bộ đội Việt nam trú đóng trên lãnh thổ của mình. Những tháng sau đó, vì vấn đề nội bộ, cả hai nước Việt nam và Campuchia đều muốn giải quyết vấn đề biên giới một cách ôn hoà. Tháng 5-1976, Phan Hiền tới Phnom Penh lại thảo luận về biên giới. Vấn đề gay go nhất là vấn đề lãnh hải. Trước kia, biên giới ngoài biển giữa hai nước được quy định theo lằn ranh Brevié, do Thống đốc Brevié năm 1939 đã vẽ ra một cách độc đoán. Lằn ranh đó là một đường thẳng vẽ từ biên giới đất liền, theo một góc 140 độ về hướng vịnh Thái lan. Khi đường thẳng đó đụng đảo Phú Quốc thì lại lệch ra ba cây số về hướng bắc để có thể gom đảo Phú Quốc vào Việt nam. Sau 1954, hải quân Việt nam cộng hoà đã vạch một lằn ranh khác lấn thêm về hướng bắc để gom thêm một số đảo, trong đó có đảo Hòn Trọc (Hai) vào Việt nam. Lúc đó, để lấy lòng Sihanouk đã giúp đỡ năm 1966 Bắc Việt đã công nhận ranh giới Brevié. Giờ đây, trong hội nghị, Phan Hiền đại diện chính phủ Việt nam bằng lòng nhường tất cả các đảo phía bắc lằn ranh Brevié cho Campuchia, nhưng vì vấn đề tài nguyên dầu hoả ở thềm lục địa, lại đòi hỏi phải thương thuyết lại https://thuviensach.vn về biên giới lãnh hải, căn cứ vào lằn ranh tuần tiễu cũ của hải quân Việt nam cộng hoà. Cũng như trong trường hợp tranh chấp với Trung hoa về Trường Sa, Việt nam lại nêu lý do là vì chú tâm vào chiến tranh lúc đó nên đã không chú trọng nhiều đến vấn đề biên giới. Một lần nữa, Campuchia lại tìm thấy một lý do để nghi kỵ về tham vọng đất đai của Việt nam, dù quốc gia hay cộng sản. Những nạn rứt đã không thể hàn gắn một cách hoà bình. Hai chính quyền cộng sản đành phải tìm cách củng cố thế lực theo những đường lối riêng biệt của mình. Sau những thất bại ngoại giao với hai lân bang cộng sản, Việt nam cảm thấy bị cô lập, họ bắt đầu thay đổi chính sách đối với các quốc gia ASEAN trong vùng. Mới hơn một năm trước, sau chiến thắng ngày 30-4, Việt nam đã đối xử với những nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á hay ASEAN một cách khinh miệt, coi những nước này như tay sai hay chư hầu của đế quốc. Hiệp hội này gồm các quốc gia Malaysia, Thái lan, Singapore, Phillipines, Indonesia và sau này thêm Brunei, được thành lập năm 1967, đã ít nhiều giúp đỡ Nam Việt nam trong chiến tranh. Sau khi Nam Việt nam bị đánh bại, thấy Hoa kỳ không thể được coi như một đồng minh đáng tin cậy, các nước kể trên nhận thấy chỉ nên trông cậy vào sức mình, kể cả về quốc phòng cũng như kinh tế. Kết quả là họ đã đạt được những thành quả kinh tế tốt đẹp đến nỗi được gọi là “phép lạ”. Hơn một năm sau chiến thắng, nhận thức được nền kinh tế èo một của mình so với các nước lân bang, đồng thời đang hy vọng có thể nhận được viện trợ từ các nước trong phe tự do, tháng 7-1976, Việt nam cử Phan Hiền đi viếng thăm thân hữu Phillipines, Malaysia, Singapore, Indonesia và Miến Điện. Phan Hiền đã tỏ ra rất mềm dẻo. Khi bị hỏi về những lời công kích những nước này trước kia của Việt nam, trên báo chí cũng như trên đài phát thanh, Phan Hiền đổ lỗi một cách gượng gạo là đó là ý kiến của những nhà báo chứ không phải lập trường chính phủ. Những tháng cuối năm 1976 được coi như đỉnh cao cho những tham vọng của những lãnh tụ cộng sản Việt nam. Những cao vọng đó được thể hiện trong đại hội Đảng cộng sản lần thứ tư vào tháng 12-1976, trong đó, họ đặt ra những kế hoạch vĩ đại dựa trên những mơ mộng về phép lạ của chủ https://thuviensach.vn nghĩa Mác, về tài ba quản lý kinh tế của những “đỉnh cao trí tuệ” và những ước tính chủ quan về số tiền viện trợ mà họ hy vọng sẽ nhận được từ Liên xô, Trung quốc, cùng các nước Tây Âu, Nhật bản và Hoa kỳ. Đối với hai nước cộng sản Trung hoa và Liên xô, Việt nam nghĩ rằng họ đã hy sinh quá nhiều tài nguyên cũng như sinh mạng cho sự an ninh và bành trướng của khối Cộng, cho nên họ có quyền được các nước cộng sản đàn anh, dù có sự tranh chấp ý thức hệ giữa hai nước cộng sản Nga Hoa, Việt nam vẫn hy vọng có thể tiếp tục chính sách đu dây như trong những năm chiến tranh để có thể nhận viện trợ của cả hai nước. Dù trong mấy tháng trước, Trung hoa còn tỏ ra lạnh nhạt, nhưng sau biến cố ngày mùng 6-10-1976 tại Bắc kinh, phe quá khích “lũ bốn người” đã bị tiêu diệt. Với sự hồi phục của phe ôn hoà và Đặng Tiểu Bình, Việt nam hy vọng Trung hoa sẽ theo đuổi một đường lối hoà hoãn hơn, nhất là sau khi thấy Việt nam tỏ ra độc lập đối với Liên xô. Tuy trong chuyến đi cuối năm 1975, Lê Duẩn đã công khai tuyên bố ủng hộ đường lối đối ngoại đối với phe tự do của Liên xô, nhưng Việt nam vẫn không muốn đứng hẳn trong quỹ đạo của họ. Việt nam đã để Pháp được giữ Toà lãnh sự ở Sài gòn, nhưng Liên xô bị từ chối. Các hãng thông tấn AP, Reuter, UPI đều có văn phòng tại Miền Nam nhưng hãng TASS thì không được. Trong năm 1976, những hành động độc lập lại lộ liễu hơn. Trong dịp tham dự Đại hội Đảng lần thứ hai mươi lăm của Xô viết vào tháng 3-1976, Lê Duẩn công khai đề cao sự độc lập và nhấn mạnh rằng mỗi đảng cộng sản có thể theo đuổi một đường lối riêng, phù hợp với những điều kiện của mỗi nước. Liên xô lại càng giận dữ khi Việt nam đã không chịu gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế Comecon của khối Cộng mà lại xin gia nhập Quỹ tiền tệ quốc tế của phe Tự do, vào tháng 9-1976. Hai tháng sau, tình trạng sóng gió giữa hai nước lại được thể hiện qua nghi thức ngoại giao. Ngày 6-11-1976, khi đại sứ Liên xô mở tiếp tân tại khách sạn Thắng lợi mừng quốc khánh, Phạm Văn Đồng đến dự nhưng dành cả buổi tối để nói chuyện với đại sứ Pháp mà không đếm xỉa gì tới đại sứ Chaplin của Nga. Bang giao giữa Việt nam và Liên xô càng suy đồi hơn trong đại hội Đảng lần thứ tư của Đảng cộng sản Việt nam vào cuối tháng 12-1976. Đại diện Liên xô là lý thuyết gia Suslov, cùng với các phái đoàn https://thuviensach.vn cộng sản Đông Âu, Suslov một lần nữa, vừa kín đáo vừa công khai, khuyến dụ Việt nam gia nhập Comecon. Một lần nữa, Việt nam từ chối, Suslov giận dữ trở về nước trước dự định. Tỏ ra độc lập đối với Liên xô, ngoài mục đích lấy lòng những lãnh tụ mới của Trung hoa, Việt nam còn hy vọng xin được tiền viện trợ của các nước Tây Âu và Hoa kỳ. Lúc đó, Hoa kỳ đã bầu một tổng thống tương đối chủ hoà là Carter. Còn ở châu Âu, ngoài những nước Bắc Âu như Thuỵ Điển đã công khai ủng hộ Bắc Việt trong chiến tranh, một số các nước khác cũng có ít nhiều bất đồng với Hoa kỳ. Trong hoàn cảnh quốc tế đó, với đầu óc chủ quan tự cho mình là quan trọng, các nhà lãnh đạo Việt nam lạc quan nghĩ rằng họ có thể nhận được viện trợ dồi dào từ khắp nơi. Với sự mù quáng đó, chỉ trong vòng hai năm, họ đã biến Việt nam thành một nước lẻ loi và có lợi tức đầu người thấp nhất thế giới. Sự mơ mộng của những lãnh tụ cộng sản già nua của Việt nam vừa đạt tới đỉnh cao đã bắt đầu tiêu tan ngay trong những tháng đầu năm 1977. Năm đó miền Bắc bị mất mùa. Tại miền Nam, chính sách kinh tế tập trung và đường lối quản lý vụng về của cán bộ miền Bắc đưa vào khiến cho mức sản xuất công nghiệp suy giảm hẳn so với trước kia. Bị ép buộc đóng thuế hay vào hợp tác, nông dân miền Nam không chịu tăng gia sản xuất, đưa đến cảnh Việt nam bị thiếu hụt lương thực. Tháng 3-1977, Việt nam phải kêu gọi Liên hiệp quốc và các quốc gia cộng sản thân hữu viện trợ khẩn cấp. Kết quả không đi đến đâu, không nước nào, kể cả Liên xô chịu giúp. Những cố gắng để hoà giải với hai nước lân bang cũng thất bại. Tháng 2- 1977, Thứ trưởng ngoại giao Hoàng Văn Lợi tới Phnom Penh đề nghị một hội nghị thượng đỉnh Đông dương. Đề nghị này chỉ gây thêm nghi ngờ và dĩ nhiên bị từ chối. Những tháng đầu năm 1977 là những tháng mà cả hai nước Việt nam và Campuchia nín thở chờ đợi những diễn biến trong nội tình chính trị Trung hoa sau cái chết của Mao Trạch Đông. Sau khi phe quá khích “bè lũ bốn tên” bị thanh toán, với phe ôn hoà trở lại chính quyền, Việt nam lạc quan hơn và Campuchia lo âu hơn vì Ieng Sary đã rất từng thân cận với Diêu Văn Nguyên, Chủ tịch Uỷ ban ngoại giao Trung ương Đảng, trong phe “Lũ https://thuviensach.vn bốn người” và ngày 30-9-1976, Ieng Sary còn gửi một điện văn sang Trung hoa, trong đó chúc mừng Hoa Quốc Phong và đảng cộng sản Trung hoa đã đập tan được “bè lũ phản cách mạng, chống chủ nghĩa xã hội của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình”. Vì sự ủng hộ của Trung hoa quá cần thiết, chưa đầy một tháng sau, Bộ ngoại giao Campuchia đã phải muối mặt gửi một điện văn khác cho Hoa Quốc Phong, lần này thì ca tụng Hoa Quốc Phong đã đập tan được lũ bốn người phản động và chống đảng”. Sau bốn tháng chấn chỉnh nội bộ, đường lối ngoại giao của Trung hoa bắt đầu sáng tỏ. Kết quả là, cũng như những chính phủ trước, họ vẫn coi Liên xô là kẻ thù số một, và trái với sự lo âu của Campuchia và hi vọng của Việt nam, Trung hoa vẫn tiếp lục ủng hộ đường lối đối ngoại chống Việt nam của Campuchia. Tháng 2-1977, Bắc kinh chính thức từ chối thư xin viện trợ của Việt nam và tháng 3, Ieng Sary yên lòng sang Bắc kinh nối lại mối quan hệ thân thiết cũ. Trong buổi tiệc tiếp tân do Lý Tiên Niệm khoan đãi phái đoàn Campuchia, sự hiện diện của tướng Vương Thăng Long, Tổng tham mưu phó quân đội Trung hoa cho thấy có sự hợp tác quân sự giữa hai nước. Tháng sau, như để cảnh cáo Việt nam, trong buổi tiếp tân tại Toà Đại sứ Campuchia kỷ niệm hai năm ngày chiến thắng, ngoại trưởng Hoàng Hoa công khai tuyên bố nước Campuchia Dân chủ đang bị kẻ thù phá hoại, và Trung hoa sẽ tiếp tục đường lối của Chủ tịch Mao Trạch Đông là sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu, chống lại những hành động can thiệp và gây hấn của những nước lân bang. Đã bảo đảm được sự hậu thuẫn của Trung hoa, hai tuần sau, đúng vào ngày Việt nam đang kỷ niệm hai năm chiến thắng, quân đội Campuchia mở một cuộc tấn công quy mô vào những làng xã và thị trấn dọc biên giới Việt nam thuộc tỉnh An Giang. Không bao giờ ngờ Campuchia sẽ mở cuộc tấn công lớn như thế, trong thời gian đó, Việt nam bắt đầu thi hành giai đoạn đầu của nghị quyết đại hội đảng lần thứ tư bằng cách gửi người đi xin viện trợ. Phan Hiền sang Paris gặp Holbrook, Võ Nguyên Giáp đi Đông Âu, Phạm Văn Đồng sang châu Âu. Phạm Văn Đồng bị thất vọng ngay trong những ngày đầu liên. Ở châu Âu, trừ Pháp và ba nước nhỏ Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy, các nước lớn như Tây Đức, Anh không chịu tiếp. Chuyến đi Pháp dự trù kéo dài ba luận https://thuviensach.vn bị rút ngắn còn có ba ngày. Trên đường đi, Phạm Văn Đồng phải ghé lại Moscow năm ngày. Thái độ muốn độc lập của Việt nam khiến cuộc tiếp xúc giữa Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Nga Kossygin lúc đó rất lạnh nhạt. Nhưng chỉ trong vòng hai tuần sau, bầu không khí đó đã thay đổi hẳn. Trong hai tuần đó, nhiều biến cố đã xẩy ra. Chuyến đi xin tiền Âu châu của Phạm Văn Đồng hoàn toàn thất bại. Pháp chỉ viện trợ một số tiền nhỏ, còn các nước Bắc Âu chỉ hứa hẹn lơ là. Tại Paris, cuộc hội đàm giữa Phan Hiền với Holbrook tan vỡ, và Quốc hội Mỹ đã biểu quyết cấm chính phủ không được viện trợ cho Việt nam. Tại Việt nam, Trung hoa đã tỏ thái độ bất thân thiện và Campuchia vừa mở một cuộc tấn công lớn đầu tiên ở biên giới. Bị lẻ loi, Việt nam không còn con đường nào khác là phải dựa vào Liên xô. Đầu tháng 5, Bộ Chính trị ra chỉ thị cho Phạm Văn Đồng phải ở lại Moscow để chờ Lê Đức Thọ từ Hà nội bí mật bay bên đó. Cả hai bắt đầu thảo luận với những nhà lãnh đạo đảng và chính phủ Liên xô về những điều kiện viện trợ. Một mặt cải thiện ngoại giao với Liên xô, mặt khác Việt nam vẫn chưa thể hy sinh mối quan hệ quan trọng với Trung hoa nên đầu tháng 6-1977, tướng Giáp sau khi đi Đông Âu và Liên xô về, đem theo một phái đoàn hùng hậu sang “viếng thăm thiện chí” Bắc kinh. Nhưng chuyến đi là một thất bại nhục nhã. Nhân vật tương đương của Trung hoa là Bộ trưởng quốc phòng Diệp Kiếm Anh không ra phi trường đón tiếp, và cũng chỉ để những cán bộ cấp thấp dự những cuộc hội đàm. Tướng Giáp gỡ thể diện bằng cách tuyên bố đã bắt được cố vấn Trung hoa trong trận đánh với Campuchia ở biên giới tháng trước. Tuy thế nhưng Việt nam vẫn cố gắng, vì nghĩ rằng viễn ảnh một liên minh Việt nam - Liên xô có thể làm Trung hoa thay đổi ý kiến, nên ngày 8-6- 1977, trên đường từ Moscow về nước. Phạm Văn Đồng lại ghé Bắc kinh. Lần này, nhờ có hỏi trước, nên Phạm văn Đồng được phó Thủ tướng Trung hoa Lý Tiên Niệm tiếp đón. Nhưng Phạm Văn Đồng chưa kịp nói gì về vấn đề viện trợ thì Lý Tiên Niệm đã nêu một danh sách dài những than phiền và phản kháng. Hai điều phản kháng quan trọng nhất là chính sách đối với người Hoa ở Việt nam và sự lật lọng của Hà nội về chủ quyền các quần đảo https://thuviensach.vn Hoàng Sa, Trường Sa. Trước kia, để có thể được Trung hoa giúp đỡ trong cuộc chiến tranh nội chiến, Việt nam đã công nhận chủ quyền của Trung hoa trên hai quần đảo, nhưng sau ngày 30-4-1975, Việt nam đã đem quân chiếm đóng quần đảo Trường Sa. Phạm Văn Đồng đã gượng gạo trả lời rằng trước kia vì bận chiến tranh với Hoa kỳ, và cần viện trợ của Trung hoa, nên Việt nam không để ý đến vấn đề những hải đảo. Kết quả của cuộc hội đàm là tình trạng bang giao của hai nước càng tồi tệ hơn. Ngược lại, sau cuộc hội đàm ở Moscow, bang giao hai nước Việt nam, Liên xô bước vào một khúc quanh mới. Mới mấy tháng trước bầu không khí còn lạnh nhạt. Giờ đây, Lê Duẩn hết lời ca tụng và tỏ lòng biết ơn Liên xô bằng cách nhấc nhở câu “uống nước phải nhớ nguồn”, và để kỷ niệm 60 năm Cách mạng Tháng Mười của Nga, Việt nam phát động “tháng Việt xô hữu nghị”. Tình hữu nghị này không phải là không có giá. Trước hết, Việt nam gia nhập ngân hàng quốc tế hợp tác kinh tế (IBEC) và Ngân hàng đầu tư quốc tế của Liên xô. Việt nam cũng bắt đầu gửi những vũ khí thặng dư sang Ethiopia và El Salvador. Từ tháng 7-1977, nhiều phái đoàn quân sự hùng hậu của Liên xô bay sang Việt nam thăm viếng và nghiên cứu những phi trường và hải cảng ở phía Nam như Đà Nẵng, Cam Ranh, Nha Trang, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ, bắt đầu một giai đoạn hợp tác quân sự mới. Sau khi đã tham khảo Liên xô, ngày 18-7-1977, phái đoàn đảng và chính phủ Việt nam do Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng cầm đầu, sang Viêng-chăn cùng Chủ tịch đảng Souphanouvong, Thủ tướng Kayson Phomvihan ký hiệp ước thân hữu và hợp tác, trong đó có đoạn “hợp tác chặt che để lăng cường khả năng phòng thủ và bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của hai nước”. Hiệp ước chỉ là một hình thức chính thức và công khai hoá sự hiện diện của các đơn vị sư đoàn 325, 304, 968... Đối với Campuchia, khi đã cùng Lào ký hiệp ước thân hữu, Việt nam đã tiến thêm một bước nữa trong việc thi hành kế hoạch dài hạn Liên bang Đông dương, và Campuchia càng thấy cần phải liên minh với Trung hoa. Quân đội các quân khu biên giới lại được lệnh báo động, chuẩn bị một cuộc tấn công tự vệ mới. Với sự thúc đẩy của Trung hoa, nhằm tăng cường mặt tràn ngoại giao và https://thuviensach.vn tuyên truyền, ngày 27-9-1977, Pol Pot lên đài phát thanh đọc một bài diễn văn dài năm tiếng đồng hồ, chính thức xác nhận vai trò lãnh đạo của mình và công nhận Tổ chức (Angkar) chính là đảng cộng sản Campuchia. Pol Pot đã không hề nhắc nhở gì đến vai trò của Việt nam trong việc thành lập đảng cũng như sự giúp đỡ của Việt nam trong chiến tranh. Ngược lại Pol Pot nhắc lại tình trạng mất đất thường xuyên xảy ra trong những thời đại trước, khi Campuchia còn bị những giai cấp bóc lột thống trị, và hứa sẽ “không cho phép bất cứ ai muốn vẽ lại bản đồ của xứ sở chúng ta”. Ba ngày trước đó, để đoàn kết nội bộ đảng và nhân dân, cũng như để chứng tỏ quyết tâm chống Việt nam đối với Trung hoa, quân đội quân khu Đông được lệnh tấn công vào lãnh thổ Việt nam thuộc tỉnh Tây Ninh, và một ngày sau khi ra mắt, Pol Pot lên đường đi Bắc kinh và Bình Nhưỡng, lần đầu tiên công du với tư cách là Chủ tịch đảng và Thủ tướng. Trong chuyến đi Trung hoa lần này, Pol Pot đã được tiếp đón trọng thể. Cờ và biểu ngữ giăng đầy Thiên An Môn, hàng trăm ngàn học sinh xếp hàng dọc theo đại lộ Trường An. Hoa Quốc Phong cùng hơn một nửa Uỷ viên Bộ Chính trị, trong đó có cả Đặng Tiểu Bình vừa được phục hồi chức vụ lần thứ hai, ra tận phi trường tiếp đón. Trong các bài diễn văn chính thức, cả hai nước đều ám chỉ đến sự đoàn kết chống lại tham vọng đất đai của Việt nam. Tuần lễ sau, trong lễ ăn mừng quốc khánh Trung hoa, Pol Pot đứng cạnh Hoa Quốc Phong trên khán đài ở Thiên An Môn để xem pháo bông. Trong hàng ngũ quan khách, người ta thấy có Hoàng Văn Hoan, tuy đã mất chức trong Bộ Chính trị, nhưng vẫn còn là Phó chủ tịch Quốc hội Việt nam. Việt nam lúc đó vẫn cho rằng thái độ thù nghịch của Trung hoa là do những lãnh tụ trung thành với đường lối của Mao như Uông Đông Hưng, Trần Tích Liên, Vũ Đệ, Hoàng Hoa..., và với sự phục chức lần thứ hai của Đặng Tiểu Bình vào tháng 7-1977, phe thực dụng sẽ thắng thế trở lại và sẽ mềm dẻo hơn đối với Việt nam. Vì thế mà sau trận tấn công quy mô thứ hai vào biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh, Việt nam vẫn tự hạn chế. Một mặt họ không cho bộ đội được vượt biên giới phản công, cất chức viên tư lệnh quá khích Trần Văn Trà, mặt khác, họ vẫn gửi điện văn chúc mừng lễ ra mắt Đảng cộng sản Campuchia và bí mật gửi Phan Hiền sang Bắc kinh nhờ Trung hoa https://thuviensach.vn dàn xếp cho được gặp phái đoàn Campuchia. Cuộc tiếp xúc không đi đến đâu, hai bên tố cáo nhau đã khiêu khích ở biên giới và đã có những hành vi dã man, tàn bạo. Sau khi Phan Hiền về nước, như để cảnh cáo Trung hoa đầu tháng 10-1977, Việt nam công khai loan báo cuộc viếng thăm của phái đoàn quân sự Liên xô do tướng Yepishev cầm đầu. Cùng thời gian đó, Trung hoa bắt đầu ồ ạt chở chiến cụ từ máy truyền tin đến đại bác 130 ly tới hải cảng Komphong Som để tăng cường cho quân đội Campuchia. Trung hoa cũng cắt giảm những chuyến bay từ Hà nội đi Quảng Châu xuống từ hai chuyến xuống còn một chuyến mỗi tuần. Những tháng cuối năm, những trận đánh ở biên giới Việt nam càng trở nên khốc hệt. Trước khi mở chiến dịch phản công vượt biên giới đại quy mô, ngày 21-4-1977, Lê Duẩn qua Trung quốc cầu hoà một lần chót. Lê Duẩn đã phân trần với Hoa Quốc Phong là mặc dù có những vấn đề khác biệt, Việt nam đã không bao giờ công khai chỉ trích Trung hoa. và cũng không bao giờ đứng hẳn về phía Liên xô để bài xích Trung hoa. Có lúc Lê Duẩn đã phải xuống giọng: “Chúng tôi như những đứa em nhỏ, luôn luôn sát cánh bên các người anh”. Tuy nhiên, những cố gắng của Lê Duẩn đã thất bại. Những khác biệt giữa hai bên trở nên công khai thù địch trong buổi tiếp tân do Hoa Quốc Phong khoản đãi, trong đó Hoa Quốc Phong tuyên bố sẽ liên minh với tất cả những quốc gia chống bá quyền. Đáp từ, Lê Duẩn cũng tuyên bổ cương quyết không để cho bất cứ một lực lượng đế quốc hay phản động nào vi phạm đến độc lập quốc gia, đồng thời, Lê Duẩn cũng công khai ca ngợi Liên xô. Trước thái độ đó, cả hai phe trung thành với Mao lẫn phe thực dụng trong Bộ Chính trị đảng cộng sản Trung hoa đều nhất trí ủng hộ Khmer Đỏ. Sự rạn nứt Việt - Hoa không còn cách nào hàn gắn. Việt nam phải đứng hẳn về phe Liên xô, tìm kế hoạch trục xuất người Việt gốc Hoa, và phản công chống lại Campuchia một cách quyết liệt hơn. Tài liệu tham khảo: - Brother Ennemy, Nayan Chanda, nhà xuất bản MacMilan Publishing Company New York https://thuviensach.vn - War & Hoe, Norodom Sihanouk Dossier Kampuchea I,II,III Le Courier du Vietnam, Hà nội https://thuviensach.vn Hoàng Dung Chiến tranh Đông dương 3 P6 Những cố gắng thiết lập ngoại giao với Hoa kỳ của Việt nam và Trung hoa Sau mấy chục năm chiến tranh và thù hận, nước “đầu sỏ tư bản” Hoa kỳ dần dần trở nên một mục tiêu thiết yếu để thiết lập quan hệ ngoại giao cho cả hai nước Trung hoa và Việt nam. Theo thời gian và hoàn cảnh lịch sử, ưu tiên để bình thường hoá ngoại giao với Hoa kỳ của cả hai nước ngày càng trở nên cấp bách, nhất là trong năm 1978. Đối với Trung hoa, Hoa kỳ đã là kẻ thù số một trong trận chiến tranh Triều tiên. Năm 1958, sau sự rạn nứt Nga - Hoa, Liên xô trở nên kẻ thù chính, Hoa kỳ xuống hàng thứ hai. Quan hệ với Hoa kỳ cởi mở hơn một chút sau chuyến viếng thăm Trung hoa của Tổng thống Nixon, nhưng giữa hai nước vẫn còn có một khó khăn căn bản là Đài toan. Tới năm Tổng thống Carter đắc cử, lập trường của Hoa kỳ về vấn đề Đài loan ngày càng mềm dẻo, cùng lúc với khuynh hướng thực tiễn của Đặng Tiểu Bình “dù mèo trắng hay mèo đen, cứ bắt được chuột là mèo tốt”, cũng ngày càng hoà giải hơn. Lúc mới đầu, triển vọng bang giao của Hoa kỳ với Việt nam tương đối tốt đẹp hơn là đối với Trung hoa, vì giữa hai nước, không có một khó khăn gay go nào như vấn đề Đài loan. Lúc đó, vấn đề những người mất tích trong chiến tranh chưa phải là một đề tài thời sự lớn, và ngay sau khi nhận chức, Tổng thống Carter đã muốn thiết lập ngoại giao bình thường với Việt nam. Do óc chủ quan, thiển cận và sự kiêu căng, các lãnh tụ Việt nam đã để mất cơ hội và làm tiêu tan thiện chí của Tổng thống Carter, khiến cho trong một khoảng thời gian dài hơn mười năm sau, Việt nam đã là một trong những nước cô lập về ngoại giao nhất thế giới và có một nền kinh tế yếu kém nhất trong vùng Đông Nam Á. Đầu năm 1976, nhân dân Mỹ đang mệt mỏi và thất vọng vì chiến tranh Việt nam và vụ Watergate nên đã bầu Carter, một Tổng thống ngoan đạo, trong sạch, nhiều thiện chí. Carter nghĩ rằng những ám ảnh về chiến tranh trong https://thuviensach.vn lòng nhân dân Mỹ có thể được giải toả phần nào bằng cách thiết lập ngoại giao với Việt nam và quên đi dĩ vãng. Mới hai tháng sau khi nhận chức, ông đã cử ngay một phái bộ đến Hà nội để thảo luận sơ bộ về vấn đề bình thường hoá bang giao. Thiện chí của Tổng thống Carter đã làm cho những lãnh tụ Việt nam càng hiểu lầm và càng thêm kiêu ngạo. Đã tạo nên “một chiến thắng thần thánh”, họ đã đánh giá quá cao vào khả năng và vị thế của mình. Họ tin là với khả năng siêu nhân của họ, cộng với sự ưu việt của chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, công việc “xây dựng đất nước to đẹp gấp mười” trong một thời gian ngắn không phải là điều khó khăn. Cộng với niềm tin rằng với “ba dòng thác cách mạng”, chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết, việc thiết lập quan hệ ngoại giao với tên đầu sỏ tư bản không cần thiết lắm. Sự sốt sắng của Tổng thống Carter được hiểu như một sự cầu cạnh. Phái bộ mà Tổng thống Carter gửi sang Việt nam năm 1977 gồm toàn những nhân vật bồ câu, trước kia phản chiến, trừ Dân Biểu Montgomerry, nhưng chính Dân biểu Montgomerry cũng đã khuyến cáo chính phủ là nên cải thiện bang giao với Việt nam. Đứng đầu phái bộ là Leonard Woodcock, chủ tịch nghiệp đoàn công nhân các hãng xe hơi. Trưởng phái đoàn thương thuyết Việt nam là Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền. Ngay trong buổi họp đầu tiên, Phan Hiền đã đưa ra vấn đề Mỹ phải viện trợ tái thiết như một điều kiện tiên quyết. Ông ta nêu một lá thư mật của Tổng thống Nixon gửi cho Phạm Văn Đồng năm 1973, trong đó Nixon hứa sẽ viện trợ Bắc Việt hơn ba tỉ đola nếu Bắc Việt chịu ngừng bắn. Woodcock trả lời hiệp định Paris đã vô hiệu vì Việt nam đã vi phạm nhiều điều khoản và Bắc Việt đã hoàn toàn chiến thắng. Phan Hiền trả lời nếu hiệp định đó coi như vô hiệu, thì điều 8 trong hiệp định Paris về số phận những người mất tích trong chiến tranh cũng vô hiệu luôn và Việt nam không còn trách nhiệm gì về vấn đề này nữa. Phái bộ Mỹ nói dư luận Mỹ sẽ không thể nào chấp nhận được lập luận này, vì đó là một hình thức tống tiền trên tù binh và xác chết. Nhưng Phan Hiền vẫn khăng khăng là nếu không có viện trợ, không có quan hệ ngoại giao. Thất vọng, Woodcock nói với Phan Hiền như một lời tiên tri, là phái đoàn của ông là một phái đoàn dễ thông cảm nhất, https://thuviensach.vn và nếu Việt nam để lỡ cơ hội này, triển vọng thiết lập bang giao sẽ bị đẩy lùi lại hàng chục năm. Cuộc họp tan vỡ, nhưng hai bên đồng ý sẽ gặp lại vào đầu tháng 5-1977 tại Paris. Trưởng phái đoàn của Mỹ trong buổi họp lần thứ hai là Richard C. Holbrook, Phụ tá ngoại trưởng đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương. Holbrook lúc đó là một viên chức ngoại giao trẻ, sáng giá đang được ngoại trưởng Vance nâng đỡ. Cả hai đều muốn giúp Carter trở nên Tổng thống của một kỷ nguyên ổn định và hoà bình, và cả hai đều cho là việc thiết lập ngoại giao với Việt nam sẽ góp phần bảo đảm cho sự an ninh và hoà bình toàn vùng Đông Nam Á. Trước khi đến Paris, Holbrook rất lạc quan, ông ta được Tổng thống Carter cho phép thông báo với Phan Hiền là Hoa kỳ sẽ bỏ phiếu thuận để cho Việt nam được vào Liên hiệp quốc, và nếu thiết lập được quan hệ ngoại giao, Hoa kỳ sẽ bãi bỏ lệnh cấm vận. Holbrook đã lầm, vừa bắt đầu cuộc họp, Phan Hiền đã đòi ngay tiền viện trợ tái thiết, và buổi họp bế tắc. Phan Hiền ra khỏi phòng họp công bố lá thư mật của Tổng thống Nixon với báo chí và nói rằng Hoa kỳ phải thực hiện lời hứa nếu muốn bang giao với Việt nam. Thất vọng, Holbrook chiều hôm đó gọi điện thoại cho Phan Hiền, nói là ông ta đã phạm một sai lầm rất lớn. Quả nhiên, tin về cuộc họp báo của Phan Hiền vừa tới Washington, Hạ viện Hoa kỳ lập tức can thiệp. Chiến tranh đã chấm dứt, phong trào phản chiến tan rã. Giờ đây gió đã xoay chiều, không còn một Quốc hội chủ hoà chống đối một Tổng thống diều hâu như trước. Hạ Viện biểu quyết ngay một đạo luật cấm chính phủ không được viện trợ cho Việt nam dưới bất cứ một hình thức nào. Nhưng phía chính quyền Việt nam, một mặt đã quen với đường lối “dân chủ tập trung” coi Quốc hội như một cơ quan trình diễn, mặt khác vẫn còn tin tưởng vào áp lực của “những người Mỹ tiến bộ”, nên lập trường vẫn không thay đổi. Trong buổi họp thứ hai tại Paris, ngày 2-6- 1977, Phan Hiền chỉ đưa ra một nhượng bộ nhỏ là để cho chính phủ Mỹ có thể hứa một cách kín đáo, không cần cho dân Mỹ biết. Dĩ nhiên điều đó không thể xảy ra. Cả hai phái đoàn về nước. Thời gian đó là thời gian Phạm Văn Đồng sau chuyến công du các nước https://thuviensach.vn Tây Âu thất bại, không nhận được một viện trợ đáng kể nào, đang ngồi chờ ở Moscow. Tiền bồi thường chiến tranh của Mỹ không có, viện trợ của Tây Âu không có, Campuchia vừa mở cuộc tấn công vào An Giang, còn Trung hoa từ chối viện trợ và đứng sau lưng Campuchia. Không còn con đường nào khác, Trung ương Đảng cộng sản Việt nam phải cử Lê Đức Thọ sang Moscow cùng Phạm Văn Đồng thảo luận về những điều kiện để được viện trợ mà Liên xô đòi hỏi. Sáu tháng sau, Holbrook lại gặp Phan Hiền tại Paris ngày 19-12-1977. Nhưng lần này Holbrook không còn lạc quan như trước nữa. Trước khi đi, Holbrook được sở Điều tra Liên bang FBI thông báo là có gián điệp cho Việt nam trong Bộ ngoại giao nên trong cuộc họp, Holbrook đã rất dè dặt. Lần này, Việt nam tỏ ra mềm dẻo hơn. Họ không đòi tiền bồi thường chiến tranh, mà muốn có tiền viện trợ kinh tế. Số tiền này có thể được hứa hẹn một cách kín đáo, để sau khi có quan hệ ngoại giao, chính phủ Mỹ sẽ đơn phương tuyên bố viện trợ. Dĩ nhiên Holbrook cũng không thể nào chấp nhận được điều kiện này. Cuộc họp lần thứ tư dự định vào tháng 12-1978 giữa hai phái đoàn bị bãi bỏ, vì FBI, sau một thời gian theo dõi đã bắt quả tang David Trương và Ronald Humphrey về tội gián điệp. Cả hai tay gián điệp tài tử này hy vọng lập công với Việt nam để cứu được người thân của mình. David Trương là con của luật sư Trương Đình Du, trước năm 1975 được xếp vào “thành phần thứ ba” và bị Tổng thống Thiệu bắt đi Côn Đảo. Sau 1975, Trương Đình Du được thả ra một thời gian ngắn rồi lại bị bắt lại, lần này thì phải ở với những cai tù nhiều lần khắc nghiệt hơn. David Trương, nhờ nhà giàu có, được đi du học trước năm 1975 và đã về hùa với đám phản chiến. Còn Humphrey là một viên chức làm việc cho cơ quan Thông tin Hoa kỳ, vì muốn cứu vị hôn thê của mình còn kẹt lại ở Việt nam nên đã sao chụp một số tài liệu mật đưa cho David Trương để chuyển về Hà nội. Thật ra những tài liệu đó có đóng dấu “Mật” nhưng không quan trọng lắm, chỉ gồm những báo cáo của những nhà ngoại giao Nam Tư và Ấn độ tại Hà nội, phúc trình của Uỷ ban Wookcock và chi tiết những chuyến bay Air France đến và đi khỏi thành phố Hồ Chí Minh trong tháng. Nhưng cũng chính vì những tài liệu đó không quan trọng, có thể công bố https://thuviensach.vn trước toà nên FBI đã có thể đưa cả hai ra toà. Cả hai đều vào tù. Đại sứ Việt nam tại Liên hiệp quốc là Đinh Bá Thi bị trục xuất. Trong hoàn cảnh đó, cuộc họp lần thứ tư giữa Holbrook và Phan Hiền bị bãi bỏ. David Trương sau khi ở tù đi định cư ở Hoà Lan, còn Đinh Bá Thi bị chết một cách ám muội ở Việt nam. Vụ án David Trương đã xảy ra vào một thời điểm không may cho những dự tính của Việt nam. Đầu năm 1978, Trung ương Đảng cộng sản Việt nam họp tại Sài gòn, thấy rằng việc đương đầu với Trung hoa là điều không thể tránh và đã quyết định dùng biện pháp mạnh đối với Campuchia. Nhưng muốn đương đầu với Trung hoa, Việt nam phải liên minh về quân sự với Liên xô. Và trước khi công khai ký hiệp ước hỗ tương phòng thủ với Liên xô, Việt nam thấy cần phải trấn an những nước Đông Nam Á và thiết lập ngoại giao được với Hoa kỳ. Một năm qua đi sau đại hội đảng lần thứ tư, Việt nam không còn nuôi ảo tưởng gì về số tiền trên ba tỉ bồi thường chiến tranh nữa, mà đã nhận ra rằng có được quan hệ ngoại giao với Hoa kỳ sẽ có lợi về nhiều mặt. Thứ nhất là về kinh tế, Hoa kỳ sẽ bãi bỏ lệnh cấm vận, mở đường cho những công ty Mỹ, Nhật, Tây Âu vào buôn bán, đầu tư, hay khai thác dầu hoả. Thứ hai là về ngoại giao, sự hiện diện của Hoa kỳ sẽ làm an lòng các nước ASEAN, làm Trung hoa phải ngần ngại trước khi gây hấn, và khiến Việt nam đỡ lệ thuộc nhiều vào Liên xô. Nhưng vụ án gián điệp đã làm cho những cuộc tiếp xúc với Hoa kỳ bị đình hoãn vô hạn định. Trong năm 1978, nhu cầu cần có liên lạc ngoại giao với Hoa kỳ càng trở nên cấp thiết. Không còn có thể làm cao được nữa, tháng 7-1978, Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền trong chuyến công du Nhật bản và châu Á, công khai tuyên bố bãi bỏ điều kiện đòi tiền viện trợ, và muốn có một cuộc tiếp xúc với Hoa kỳ vào tháng sau. Tuy nhiên Holbrook, bị mất mặt trong ba lần họp công khai ở Paris, không muốn họp công khai nữa, mà muốn dời cuộc họp vào tháng 9 tại New York để có thể họp một cách kín đáo, không ai để ý, lúc mà phái đoàn Việt nam và rất nhiều phái đoàn ngoại giao cao cấp các nước khác đến tham dự Đại hội đồng Liên hiệp quốc. Là một người cổ võ cho việc lập bang giao với Việt nam, Holbrook không biết rằng ý kiến trì hoãn đối thoại với Việt nam đã đẩy Việt nam vào một vị https://thuviensach.vn thế bất lợi trong cuộc tranh đua ngoại giao với Trung hoa. Vì lúc đó, cố vấn an ninh của Tổng thống Carter, Brzezinski đã bắt đầu để ý đến tình hình Đông Nam Á. Ngày 22-9-1978, Holbrook bay lên New York chính thức họp kín với phái đoàn Việt nam. Trưởng phái đoàn Việt nam lần này là Thứ trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Buổi họp chấm dứt nhanh chóng và Holbrook ngạc nhiên thấy phía Việt nam lại trở về vấn đề viện trợ. Năm ngày sau, trong buổi họp thứ hai, trong suốt hơn một giờ, Nguyễn Cơ Thạch vẫn mong muốn Hoa kỳ cam kết một số tiền, chỉ đến khi Holbrook nản chí sửa soạn ra về thì Nguyễn Cơ Thạch mới đổi giọng, bằng lòng thiết lập ngoại giao không điều kiện, nhưng đòi hai bên phải ký ngay một thông tư sơ bộ, còn những văn kiện ngoại giao chính thức sẽ được ký hai tuần sau, khi Ngoại trường Nguyễn Duy Trinh đến New York tham dự Đại hội đồng Liên hiệp quốc. Dù cho Holbrook không chịu ký một văn kiện nào, nhưng bầu không khí đã lạc quan trở lại, và công cuộc bình thường hoá bang giao coi như đã được giải quyết. Hai bên không ngờ là đã có những trở ngại khác. Một tuần sau, ngày 3-10-1978, cũng tại New York, có một buổi họp khác được triệu tập, lần này giữa hai phái đoàn của ngoại trưởng Vance và ngoại trưởng Trung hoa Hoàng Hoa. Cuộc hội đàm đó bế tắc vì Hoa kỳ vẫn muốn có liên lạc ngoại giao không chính thức và buôn bán vũ khí với Đài loan. Đồng thời tin tức về phong trào thuyền nhân bị tống xuất khỏi Việt nam, việc quân Việt nam tập trung dọc biên giới Campuchia đã khiến Tổng thống Carter phân vân. Cuối cùng, trong một cuộc họp tại Toà Bạch ốc, sau khi nghe Leonard Woodcock, người trưởng phái đoàn đầu tiên sang thăm thiện chí Việt nam, lúc đó là trưởng phái bộ liên lạc Hoa kỳ ở Bắc kinh, cho là bang giao với Việt nam trong lúc này sẽ nhận chìm triển vọng bang giao với Trung hoa. Tổng thống Carter quyết định trì hoãn ngày thiết lập bang giao với Việt nam để có thể dễ dàng thương thuyết với Trung hoa. Ngày 30-10-1978, Phụ tá Ngoại trường Oakley lên New York gặp Trần Quang Cơ, ông ta cho Trần Quang Cơ biết là việc bình thường hoá phải hoãn lại vì ba vấn đề: thuyền nhân tị nạn, tình trạng thù nghịch với Campuchia, và mối quan hệ giữa Việt nam và Liên xô. Dù cả hai bên đều https://thuviensach.vn có thiện chí, thời biểu của hai bên đã rất khác nhau, Việt nam không thể chờ được nữa. Cuộc tổng tấn công Campuchia phải bắt đầu cuối tháng 12, lúc chấm dứt mùa mưa và lúa đã chín. Mấy ngày sau, Nguyễn Cơ Thạch rời New York sang Moscow để ngày 3-11-1978 dự lễ ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác 25 năm liên minh kinh tế và quân sự với Liên xô. Trong khi đó, đối với Trung hoa, tuy Tổng thống Carter cũng coi việc thiết lập ngoại giao với Trung hoa là một vấn đề quan trọng, nhưng ông chỉ chú ý nhiều đến vấn đề này vào hơn một năm sau, khi những hành động khuynh đảo của Liên xô trên thế giới ngày càng phát triển và ảnh hưởng của cố vấn an ninh Brzezinski ngày càng mạnh. ngoại trưởng Vance chỉ đến thăm Trung hoa vào tháng 8-1977, sau khi ông đã gần như hoàn tất hiệp ước tài giảm binh bị SALT II với Liên xô. Chính sách của ngoại trưởng Vance là có đường lối ngoại giao quân bình với cả Trung hoa và Liên xô. Đối với Trung hoa, lập trường của Tổng thống Carter và Vance tương đối mềm dẻo hơn những người tiền nhiệm. Trước kia, Tổng thống Nixon và ngoại trưởng Kissinger muốn có toà đại sứ ở cả Trung hoa lẫn Đài loan, công nhận cả hai nước. Lúc này thì Vance đề nghị sẽ công nhận Bắc kinh như chính phủ duy nhất của Trung hoa và sẽ để cho hiệp ước liên minh phòng thủ với Đài loan chìm vào quên lãng. Nhưng lúc đó, trong Trung ương đảng cộng sản Trung hoa, phe Hoa Quốc Phong còn mạnh, sự thận trọng quá đáng của Vance, không muốn làm mất lòng Liên xô trong giai đoạn tế nhị hoàn tất thoả ước SALT, khiến Đặng Tiểu Bình bực tức, thấy cần phải tỏ ra cứng rắn nên sau khi ngoại trưởng Vance về nước, Đặng Tiểu Bình công khai tuyên bố chuyến đi của Vance là một bước thụt lùi cho triển vọng bang giao giữa hai nước. Không thương thuyết được với ngoại trưởng Vance, Trung hoa tìm thấy được một đồng minh, đó là cố vấn an ninh Brzezinski. Là một người gốc Ba lan, Brzezinski có một lập trường diều hâu hơn đối với Liên xô. Những năm đó là những năm mà Liên xô đã lấn lướt ở nhiều nơi như giúp đảo chánh ở Ethìopia, gửi quân Cuba sang Angola, giúp phiến loạn ở Trung Mỹ. Brzezinski không chia sẻ sự thận trọng của Vance. Ông ta lập luận rằng Liên xô đã không cần phải thận trọng trong những hành vi xâm lấn thì https://thuviensach.vn Hoa kỳ cũng không cần bị giới hạn và ràng buộc trong chính sách đối ngoại. Vì thế, Hoa kỳ cần có một liên kết chiến lược với Trung hoa để cầm chân Liên xô. Biết được sự rạn nứt giữa Văn phòng cố vấn an ninh và Bộ ngoại giao, sau chuyến đi thất bại của ngoại trưởng Vance, Trung hoa mời Brzezinski sang Bắc kinh vào tháng 11-1977. Bị sự phản đối của Vance, Brzezinski chỉ được Tổng thống Carter cho đi Bắc kinh vào tháng 3-1978. Trong thời gian chờ đợi, Brzezinski nhiều lần trao đổi quan điểm với Hàn Dũ, Trưởng Văn phòng đại diện Trung hoa tại Washington, và khi đi Bắc kinh, Brzezinski đã thuyết phục được Carter ký một chỉ thị, trong đó nói rõ Hoa kỳ và Trung hoa có những quan tâm chiến lược giống nhau, cùng chống lại những tham vọng bá quyền trên toàn thế giới hay cục bộ địa phương của bất cứ một cường quốc nào và Hoa kỳ cũng tỏ ra quan tâm về ý định của Liên xô nhằm dùng Việt nam để bao vây Trung hoa. Ngày 19-5-1978, khi tình hình bang giao Hoa Việt đang căng thẳng và Việt nam đang sửa soạn mở một cuộc tấn công mới vào Campuchia thì Brzezinski cùng nhiều viên chức cao cấp lên đường sang Trung hoa. Trong phái đoàn có Holbrook đại diện Bộ ngoại giao, Abramowitz phụ tá Bộ trưởng quốc phòng, Benjamin Hubernan cốvấn tổng thống về những vấn đề khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, trong những buổi họp quan trọng với Trung hoa, Brzezinski cố ý loại Holbrook ra khỏi những cuộc họp. Brzezinski chủ trương rằng một khi Hoa kỳ tỏ ra chống Liên xô mạnh hơn thì Trung hoa sẽ mềm dẻo hơn về vấn đề Đài loan. Trong những buổi họp với Đặng Tiểu Bình và ngoại trưởng Hoàng Hoa, Brzezinski hoàn toàn đồng ý với quan điểm của Trung hoa về mồi đe doạ của Liên xô và Việt nam. Hai bên thoả thuận sẽ hợp tác chặt chẽ hơn trong vấn đề viện trợ Afganistan, giúp đỡ các nước Đông Nam Á để ngăn chặn khuynh hướng bành trướng của xô Viết. Trong khi Brzezinski gặp Đặng Tiểu Bình thì Abramowitz trình bày cho các viên chức cao cấp quân sự Trung hoa những tin tức tình báo và không ảnh tồi mật về những vũ khí chiến lược và lực lượng quân sự của Liên xô đang bố trì dọc biên giới Trung hoa, còn Benjamin Huberman gợi ý về vấn đề hợp tác Hoa Mỹ trong vấn đề kỹ thuật và tình báo. https://thuviensach.vn Tuy hai nước đã gần nhau hơn trong lập trường chống Liên xô nhưng ảnh hưởng của phe Hoa Quốc Phong còn mạnh, nên vấn đề Đài loan vẫn chưa được giải quyết. Trong buổi họp tại New York đầu tháng 10-1978, ngoại trưởng Hoàng Hoa cực lực công kích Hoa kỳ vì Hoa kỳ vẫn còn muốn có liên lạc không chính thức và tiếp tục buôn bán võ khí với Đài loan. Tháng 11-1978 sau khi Việt nam đã ký hiệp ước với Liên xô, Bộ Chính trị Trung ương đảng cộng sản Trung hoa mở phiên họp khoáng đại ở Bắc kinh. Sau buổi họp, phe Đặng Tiểu Bình hoàn toàn thăng thế. Đặng Dĩnh Châu và Triệu Tử Dương được bầu vào Bộ Chính trị. Hoa Quốc Phong, Uông Đông Hưng, Hoàng Hoa bị mất chức. Đặng Tiểu Bình trở nên người uy quyền nhất Trung hoa. Bộ Chính trị mới hoàn toàn ủng hộ đường lối “bốn hiện đại” và lập trường mềm dẻo về vấn đề Đài loan của Đặng Tiểu Bình. Hai ngày sau khi Việt nam loan báo sự thành lập Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Campuchia. Woodcock gặp quyền ngoại trưởng Trung hoa Hàn Niệm Long. Bầu không khí thay đổi hẳn. Nếu trước kia Hoa kỳ đã không biết thời biểu cấp bách của Việt nam muốn lập quan hệ ngoại giao với Hoa kỳ trước khi công khai liên minh quân sự với Liên xô và xâm lăng Carnpuchia thì lần này Hoa kỳ cũng không thấy nhu cầu của Trung hoa cần có quan hệ ngoại giao gấp với Hoa kỳ để dằn mặt Liên xô trước khi xâm lăng trừng phạt Việt nam. Vì thế Wood cock rất ngạc nhiên khi thấy Đặng Tiểu Bình trong cuộc tiếp xúc ngày 13-12-1978, bất ngờ chấp nhận ngay dự thảo về bình thường hoá ngoại giao của Hoa kỳ, đồng thời muốn sang thăm Hoa kỳ sớm. Tổng thống Carter rất phấn khởi về tin này. Hai bên đã định là ngày chính thức công bố thông cáo chung về thiết lập quan hệ ngoại giao sẽ là ngày 1- 1-1979. Nhưng Carter sợ tin này có thể bị tiết lộ và Quốc hội có thể sẽ gây khó khăn, nên ông đề nghị công khai tuyên bố sớm hơn, vào ngày 15-12- 1978. Điều này càng làm cho những dự tính gây chiến với Việt nam của Trung hoa thêm thuận lợi nên Đặng Tiểu Bình bằng lòng ngay. Người bị bất ngờ về tin này là ngoại trưởng Vance, vì ông không muốn gặp khó khăn khi ông sẽ gặp ngoại trưởng Liên xô Gromyko vào cuối tháng. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao của Trung hoa với Hoa kỳ là một biến cố https://thuviensach.vn quan trọng trong tình hình chính trị thế giới lúc đó, và là một khúc quanh mới trong lịch sử Trung hoa. Kể từ ngày đó, đời sống của nhân dân Trung hoa tương đối dễ chịu nhiều hơn trước, và nền kinh tế của Trung hoa đã tiến nhẩy vọt. Cùng thời gian, những lãnh tụ cộng sản già nua của Việt nam vẫn u mê trong hào quang chiến thắng, vẫn nhìn về Liên xô như một thiên đường, vẫn tiếp tục “nắm vững chuyên chính vô sản”, đẩy mạnh kinh tế tập trung và tiếp tục bắt nhân dân Việt nam phải chịu đựng gian khổ và hy sinh máu xương thêm nữa để phục vụ cho đường lối và quyền lợi của họ. Tài liệu tham khảo: - Brother Ennemy, Nayan Chanda, nhà xuất bản MacMilan Publishing Company New York - When the war was over, Elizabeth Becker, nhà xuất bản Schuster, Inc, New York https://thuviensach.vn Hoàng Dung Chiến tranh Đông dương 3 P7 Chiến trường biên giới tây nam năm 1977 Đêm 30-4-1977, hai năm sau ngày bộ đội cộng sản chiến thắng tại miền Nam Việt nam, những đơn vị thuộc hai sư đoàn 210 và 250 thuộc quân khu Tây Nam Campuchia mở một cuộc tấn công quy mô cấp trung đoàn vào lãnh thổ quân khu 9 Việt nam thuộc tỉnh An Giang, bắt đầu cuộc chiến tranh hậu chiến, chiến tranh Đông dương thứ ba, hay cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa hai quốc gia cộng sản. Xét về tương quan lực lượng, ưu thế quân sự nghiêng hẳn về phía Việt nam. Dân số, quân số đông đảo hơn bội phần. Vũ khí, chiến cụ dồi dào, tối tân hơn. Binh sĩ thiện chiến, nhiều kinh nghiệm hơn. Ngay cả đồng minh Trung hoa của Campuchia cũng không tin Campuchia có thể thắng được một trận chiến quy ước với Việt nam. Đứng hậu thuẫn cho Campuchia trong chiến tranh chống Việt nam, Trung hoa chỉ muốn có một cuộc chiến tiêu hao và giới hạn, nhằm làm kiệt quệ tài nguyên và nhân lực của Việt nam, gây áp lực để Việt nam từ bỏ đường lối thân Liên xô và giảm bớt mối đe doạ từ biên giới phía Nam. Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo cộng sản Campuchia, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nhất là do lòng cuồng tín đến bệnh hoạn, đã ước tính sai khả năng của mình và của địch, đã tự chia rẽ và tự huỷ, để cho cuộc chiến tranh mới đầu lẻ tẻ, giới hạn sau đó lan rộng, đưa đến sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ. Sau 1975, miền Nam bị sụp đổ, Việt nam trở nên một quốc gia có dân số đứng hàng thứ mười ba trên thế giới, và một quân số đông hàng thứ tư, nhiều hơn quân số của tất cả sáu nước ASEAN cộng lại. Nhưng dù với một quân lực hùng hậu như thế, sau chiến thắng, các nhà cầm quyền Việt nam vẫn không cảm thấy an ninh mà lại thấy bị đe doạ bởi hai nước lân bang mới đây là đồng minh ở phía Bắc và phía Tây. Vì thế mà dù mang tiếng có hoà bình và ở trong một hoàn cảnh kinh tế tồi tệ, chính quyền Việt nam vẫn phải duy trì và phát triển một đạo quân khổng lồ từ hơn bảy trăm ngàn đến https://thuviensach.vn hơn một triệu. Về tổ chức, quân đội Việt nam, được tự gọi là Quân đội nhân dân Việt nam, gồm có ba binh chủng lục quân, hải quân và không quân. Lãnh thổ được chia làm các quân khu I, II, III, IV, V, VII, IX quân khu Thủ Đô, đặc khu Quảng Ninh và đặc khu thành phố Hồ Chí Minh. Lục quân gồm có chính quy, chủ lực quân khu và dân quân địa phương. Lực lượng chính quy, trực thuộc Bộ tổng tham mưu, sau 1975 được tổ chức thành bốn quân đoàn cơ động, sử dụng như những lực lượng tổng trừ bị. Bốn quân đoàn 1, 2, 3, 4 này, còn được gọi là những binh đoàn Quyết Thắng, Hương Giang, Tây Nguyên và Cửu Long. Sau 1979, số quân đoàn này được tăng lên thành sáu rồi tám. Mỗi quân đoàn có từ ba mươi ngàn đến bốn mươi ngàn quân, gồm có ba hay bốn sư đoàn bộ binh, cùng những đơn vị yểm trợ như pháo binh, thiết giáp, truyền tin, quân y... Ngoài những vũ khí mà quân đội Việt nam cộng hoà để lại, bộ đội Việt nam có khoảng hơn một ngàn xe tăng T34, T54, T55, T59, T62, năm trăm xe PTP76, khoảng sáu trăm súng đại bác, ba ngàn súng phòng không và các đơn vị tên lửa SAM. Chủ lực miền là những đơn vị cơ hữu của mỗi quân khu. Ngoài những sư đoàn chủ lực quân khu, mỗi tỉnh còn có một hay hai trung đoàn chủ lực tỉnh như những trung đoàn Vàm Cỏ, Sông Bé, Gia định, Bắc Thái... Lực lượng dân quân là những tỉnh đội, huyện đội, xã đội, có nhiệm vụ phòng thủ và trinh sát nhiều hơn. Ngoài ra, bộ binh Việt nam còn có những đơn vị đặc biệt như lực lượng đặc công, lữ đoàn 305 dù, quân đoàn 559 Công binh, sư đoàn 673 cao xạ, các đoàn vận tải v.v... Hải quân của quân đội Việt nam bắt đầu được thành lập từ những năm 1960, mới đầu là hai mươi lăm pháo thuyền của Trung hoa và ba mươi tàu tuần duyên do Liên xô viện trợ. Sau 1975, cùng với những thuyền bè do hải quân Việt nam cộng hoà để lại, hải quân Việt nam đã có hơn một ngàn tàu chiến lớn nhỏ. Vùng trách nhiệm duyên hải được chia làm năm vùng mà các Bộ tư lệnh đóng ở Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng, Vũng Tàu và Rạch Giá. Có hai hạm đội, hạm đội Hàm Tử phụ trách vùng biển phía bắc, hạm đội Bạch Đằng phụ trách vùng biển phía Nam của Đông Hải và vịnh Thái lan. Tư lệnh hải quân lúc đó là Hoàng Hữu Thái. Chính uỷ là Hoàng Trà. Họ https://thuviensach.vn cũng tổ chức những đơn vị được gọi là “hải quân đánh bộ”. Không quân Việt nam có quân số khoảng hai chục ngàn. Ngoài những phi cơ A37, F5 và một số phi cơ vận tải và trực thăng của không quân Việt nam cộng hoà để lại, là những phi cơ MiG 21, MiG 23 và những phi cơ trực thăng võ trang do Liên xô viện trợ. Tất cả có hơn một ngàn phi cơ, được chia thành những không đoàn chiến đấu, vận tải, trực thăng và huấn luyện. Ngoài ra còn có một không đoàn oanh tạc cơ. Bộ tư lệnh không quân trú đóng tại phi trường Bạch Mai. Năm 1979, Tư lệnh không quân là Đào Đình Luyện, Tư lệnh phòng không là Hoàng Văn Khanh. Tư lệnh radar Nguyễn Xuân Mậu. Cũng như quân đội của những nước cộng sản khác, quân đội Việt nam nằm trong sự kiểm soát chặt chẽ của đảng. Những chức vụ chỉ huy trong quân đội đều do những cán bộ quan trọng nắm giữ. Tuy ở những cấp từ trung đoàn trưởng trở xuống, đôi khi vì nhu cầu chiến trường, cán bộ có khả năng chỉ huy không đủ nên một số sĩ quan dù có ít thành tích chính trị vẫn được giao chức vụ chỉ huy, nhưng vẫn bị chính uỷ lấn lướt. Ngoài chính uỷ ra, mỗi đơn vị lại còn có chủ nhiệm phòng hay ban chính trị. Tuy quân số của Việt nam đứng vào hàng thứ tư, sau Trung hoa, Liên xô và Hoa kỳ (sau 1980, với quân số hơn hai triệu, đã vượt Hoa kỳ và nhây lên hàng thứ ba), và có một số lượng chiến cụ dồi dào như thế, quân đội Việt nam cũng có nhiều khuyết điểm. Trước hết là tình trạng tâm lý. Sau hơn hai chục năm chiến tranh, tinh thần quân đội lẫn nhân dân đều mỏi mệt. Ngoài những tân binh miền Nam bị bất đi nghĩa vụ một cách miễn cưỡng, tân binh miền Bắc cũng không còn dễ dàng để bị mù quáng tuyên truyền như trước nữa. Sau đó là tất cả phương tiện chiến tranh đều lệ thuộc vào Liên xô, từ những phi cơ tên lửa tối tân đến từng viên đạn súng cá nhân AK47, còn những vũ khí mà quân đội Việt nam cộng hoà bỏ lại dần dần bị phế thải vì thiếu bảo trì và không có cơ phận thay thế. Đội ngũ sĩ quan, phần lớn ít học, hồng nhiều hơn chuyên, nên chỉ mạnh về chiến tranh du kích và cổ điển, không thể hiện đại hoá. Bù đắp lại, họ có một đội quân đông đảo, hoả lực dồi dào, sự chỉ huy thống nhất, những cấp chỉ huy nhiều kinh nghiệm. Binh lính tuy không còn tin và chiến đấu cho xã hội chủ nghĩa, nhưng vẫn còn truyền thống dũng cảm, khôn ngoan và tự trọng. Trong cuộc chiến https://thuviensach.vn