🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Châu Phi Nghìn Trùng Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Lời giới thiệu Earnest Hemingway, sau khi nhận giải thưởng Nobel Văn chương, đã phát biểu và được tờ New York Times đăng tải ngày 7/11/1954 thế này: “Hôm nay tôi cũng sẽ hạnh phúc - hạnh phúc hơn nữa - nếu giải thưởng này được trao cho nhà văn nữ xuất sắc Isak Dinesen.” Vậy Isak Dinesen, người từng hai lần, vào các năm 1954 rồi 1957, được đề cử giải Nobel là ai? Bà tên thật là Karen Christentze Dinesen, hay Karen Blixen, sinh tại Đan Mạch ngày 17/4/1885 trong một gia đình có bên ngoại là thương nhân còn bên nội thuộc dòng dõi quý tộc địa chủ. Cha của bà là một nhà văn, nhà chính trị, cũng từng là quân nhân, đã tự tử lúc bà lên chín. Bắt đầu sáng tác thơ, kịch, truyện ngắn từ rất sớm nên tới năm 1903, bất chấp gia đình phản đối, Karen Blixen đăng kí theo học chuyên ngành Nghệ thuật tại Học viện Hoàng Gia Copenhagen. Thời trẻ, bà từng đi du lịch nhiều nơi: Anh, Pháp, Ý và có một số truyện ngắn được in. Năm 1912 tháng Chạp bà đính hôn cùng người anh họ kém một tuổi là Nam tước Bror Blixen-Finecke để rồi năm 1913 theo chồng tới Kenya và hai người làm đám cưới tháng Giêng năm 1914 tại Mombasa. Tới đây ta cũng cần điểm sơ qua bối cảnh châu Phi thời đó. Sau gần cả thế kỉ XIX với nhiều cuộc xung đột tranh giành lãnh thổ, tới năm 1900 thực dân Anh đã khống chế được phần lớn Đông Phi và cho xây đường sắt hòng khai phá vùng đất màu mỡ này. Dân bản xứ mất đất và bị dồn vào các vùng chật hẹp gọi là Khu bảo tồn, nơi đất đai cằn cỗi và điều kiện sống eo hẹp làm dân số họ tụt giảm nhanh chóng từ bốn triệu xuống chỉ còn hai triệu rưỡi. Chính sách lưu dân của chế độ thực dân cũng ra đời vào thời điểm này. Hòng khai thác Đông Phi hiệu quả, chính phủ Anh cho tuyển mộ nhiều dân ngụ cư từ châu Âu qua làm ăn và vợ chồng Karen Blixen nằm trong số này. Khi ấy gia tộc bà đã cung cấp tài chính mua một đồn điền rộng sáu https://thuviensach.vn ngàn mẫu Anh gần Nairobi để hai vợ chồng đại diện đứng tên quản lí và kinh doanh. Qua tới châu Phi chẳng được bao lâu, năm 1915 bà phát hiện chồng phản bội mình dan díu với nhiều phụ nữ. Đồng thời bà cũng phát hiện mình bị chồng lây cho bệnh giang mai. Sau này Karen Blixen đề cập tới sự thể lúc ấy như sau: “Có hai điều bạn có thể làm trong tình huống ấy: Bắn chết người đàn ông đó hoặc chấp nhận nó.” Mọi nỗ lực hàn gắn tình vợ chồng đều bất thành, cuối cùng cặp đôi li thân vào năm 1921 sau khi Karen Blixen phát hiện chồng tiếp tục ngoại tình và vay nợ chồng chất. Dạo ấy trong một lá thư gửi người em trai bà đã viết: “Em đừng nghĩ chị đang chua xót… Chị tin là nếu mình có thể trụ vững ở đây và thành công trong phận sự đã nhận lãnh thì cuối cùng chị sẽ tìm lại được sức mạnh và bất chấp mọi sự thể, cuộc đời chị sẽ vẻ vang, giàu có và hạnh phúc.” Chính thức li dị chồng năm 1925, Karen Blixen tiếp tục bám trụ tại châu Phi, trải vô vàn khó khăn, các trận hạn hán, dịch bệnh, cho tới thời kì Đại Khủng Hoảng (1929-1939) lúc đồn điền bị phá sản và người tình, một tay súng săn bắn chuyên nghiệp đồng thời là chủ đồn điền người Anh tên Denys Finch-Hatton, tử nạn, bà mới trở về Đan Mạch sống cùng mẹ vào năm 1931. Năm 1934 Karen Blixen cho in tập Bảy câu chuyện Gô tích, tập truyện ngắn bà mà đã bắt tay vào sáng tác từ tám năm trước đó, bằng tiếng Anh. Tác giả phát biểu về nó thế này: “Mới gần đây tôi đã gặp thực tại trong một bóng dáng xấu xí khiến tôi không còn muốn lại phải tiếp xúc với nó nữa. Trong con người tôi đâu đó ẩn giấu một nỗi sợ tối tăm và tôi phải lánh trốn vào trí tưởng tượng giống như một đứa trẻ buồn khổ trốn vào cuốn sách cổ tích của mình.” Tập truyện đã được đón nhận rộng rãi, nhất là tại Mĩ. Năm 1937 thì tác phẩm Châu Phi nghìn trùng, với cấu trúc khiến người đọc liên tưởng tới một bi kịch cổ điển năm hồi, ra đời. Sách được tác giả viết https://thuviensach.vn bằng tiếng Anh trong sáu tháng của năm 1935, tại một khách sạn ở Skagen - điểm cực bắc Đan Mạch; bà bảo sống cùng mẹ không thể tập trung sáng tác được. Tại sao chỉ đến khi ấy bà mới bắt tay vào viết lại cuộc đời ở châu Phi của mình? Theo các nhà nghiên cứu dường như ấy là bởi Karen Blixen vẫn còn giữ mối liên kết đầy cảm xúc với tư liệu châu Phi và cần thêm thời gian để có khoảng lùi và chọn đúng giọng điệu cho sách. Năm 1933 khi được hỏi hà huống gì chẳng thấy viết về châu Phi, bà đã trả lời: “Nếu có khi nào tôi viết về châu Phi, sẽ không tránh khỏi việc cuốn sách chứa đựng vô vàn chua chát và oán thán cách người Anh xử sự với xứ sở và con người nơi đó, cũng như cách họ mặc sức triển khai nền văn minh cơ khí và vụ lợi của chúng ta tại đấy. Trên bất kì phương diện nào, cuốn sách sẽ chẳng phải tài liệu tuyên truyền chính trị mà là tiếng nức nở lòng tôi, với đầy chua chát trước chế độ nông nô cũng nhiều như của nhà văn Turgheniev trong Bút kí người đi săn”. Quả thế thật, sau hai năm kể từ câu trả lời nói trên Karen Blixen đã tìm được giọng văn mỉa mai xa xôi và để người đọc tự đưa ra nhận xét về con người và sự kiện ở châu Phi mà bà mô tả. Lựa chọn đúng đắn này đã khiến sách được đón nhận rộng rãi. Một trong những nguyên nhân cuốn sách được nồng nhiệt đón nhận còn là bởi nó như một ẩn dụ của thời đại lúc ấy với mô tả cuộc vật lộn của một cá nhân cùng số phận giữa chiến tranh và hạn hán, nền kinh tế biến động, nỗi đau mất mát người thân và sự sụp đổ một cuộc sống lí tưởng. Ở ngay trang đầu tác giả nhắc lại phương châm sống của giới quý tộc Ba Tư thời xưa nhưng có lẽ cũng là của chính Karen Blixen: Hãy cưỡi ngựa, bắn cung, nói sự thật. Điều này có thể được hiểu nôm na như là: Hãy dấn thân, hãy trải nghiệm, hãy mô tả. Tác giả muốn nhấn mạnh bà dùng những chuẩn mực trên khi kể chuyện. Sống ở châu Phi cần biết cưỡi ngựa, bắn (súng hay cung), còn kể sự thật là để độc giả tin mình. Người đọc hoàn toàn có thể nhận ra đề từ này là một tổng kết về chính phần đời mười bảy năm ở châu Phi của tác giả. https://thuviensach.vn Cuốn sách này ra đời khi bố mẹ tôi còn rất nhỏ. Sinh năm 1885, bản thân tác giả phỏng chừng cũng thuộc hàng các cụ của tôi. Những bản dịch ở một số ngôn ngữ khác nhau mà tôi đối chiếu trong quá trình làm việc đa phần cũng đều có “tuổi đời” lớn hơn cả tôi. Nói vậy để thấy bạn đọc Việt thiệt thòi quá, chậm chân quá với Châu Phi nghìn trùng. Suốt cả gần thế kỉ, nói đến văn học Đan Mạch chúng ta dường như chỉ biết tới Hans Christian Andersen và mãi gần đây mới được đọc Søren Kierkegaard. Thông qua Châu Phi nghìn trùng, tôi mong muốn mang đến cho bạn đọc Việt một viên ngọc sáng nữa của văn chương Đan Mạch và đó chính là động lực lớn giúp tôi hoàn thành dịch phẩm này. Người dịch giới thiệu https://thuviensach.vn Hãy cưỡi ngựa, bắn cung, nói sự thật* https://thuviensach.vn PHẦN I KAMANTE VÀ LULU Từ những cánh rừng và vùng cao, chúng tôi tới, tới nơi đây* https://thuviensach.vn 1 Đồn điền dưới chân rặng Ngong Tôi có một đồn điền tại châu Phi, dưới chân rặng Ngong*. Miền cao nguyên này, cách một trăm dặm về hướng bắc, có đường Xích Đạo chạy qua, và đồn điền nằm trên mực nước biển hơn sáu ngàn bộ*. Ban ngày bạn thấy như đang ở trên cao, giữa không trung, gần phía mặt trời, còn sáng sớm hay buổi tối khí trời lại trong trẻo và dễ chịu, ban đêm thì lạnh. Vị trí địa lí và độ cao nơi đây đã phối tạo nên thứ khung cảnh có một không hai chốn trần gian. Đất đai không chỗ nào màu mỡ, cây cối chẳng đâu sum suê, nơi đây là châu Phi chưng cất qua suốt sáu ngàn bộ, tựa như phần cốt tủy cô đặc của một khối lục địa vậy. Cảnh sắc nhuộm màu khô cháy, giống của gốm. Cây cối có tán lá thưa mỏng, cấu trúc khác ở châu Âu; không có tán dạng nón hay tròn mà vươn ngang ra nhiều lớp, và điều này ngoài việc khiến mấy cây cao đơn độc nom như biểu tượng của chiến thắng hay có khí thế hào hùng hoặc lãng mạn tựa một đoàn thuyền nhiều cột buồm mà mọi cánh buồm đều cuộn cả lên, còn đem lại cho bìa rừng chốn đây một diện mạo lạ thường với hết thảy cây lá đều nhẹ rung. Trên mặt cỏ bình nguyên bát ngát, lác đác vài cây gai già trơ trụi, cong queo, còn cỏ thì thơm nồng như cỏ xạ hương hay dâu thơm; có những nơi mùi hương gắt đến nhức mũi. Tất cả các loài hoa bạn bắt gặp trên bình nguyên, hay hoa của những loại dây leo trong rừng tự nhiên, đều nhỏ xíu như hoa ở các vùng đồi thoải, chỉ ở giai đoạn bước vào mùa mưa dầm, trên bình nguyên chợt vươn lên hằng hà sa số bông loa kèn to, tỏa mùi thơm ngào ngạt. Tầm nhìn tại xứ này thoáng rộng ngút tầm mắt. Nơi đây, hết thảy những gì đập vào mắt bạn đều toát lên cái vĩ đại, sự tự do, cùng vẻ quý phái chẳng đâu bì. Phong vị chủ đạo của miền này, và của cuộc sống bạn chốn đây, là khí trời. Nhìn lại đoạn thời gian trú tạm nơi cao nguyên châu Phi, lòng bạn thảng https://thuviensach.vn thốt bởi xúc cảm được sống giữa không trung. Chất chứa cái hùng vĩ, cái không trọng lượng của những đụn mây chất ngất liên tục biến đổi và trôi dạt, bầu trời tuy hiếm khi có màu khác lơ hay tím nhạt song lại mang một sinh lực xanh để tô lên non cao rừng cả ở khoảng cách gần thứ màu sắc tươi tắn, thăm thẳm. Ban trưa, không khí tựa một sinh thể, ngùn ngụt như ngọn lửa; nó lóng lánh, cuồn cuộn và lấp lóa giống dòng nước, nó phản chiếu, nhân đôi vạn vật và tạo ra các ảo tượng phi thường. Trên đây, giữa không trung, bạn hô hấp rất dễ dàng, hít vào người lòng tự tin trước cuộc sống cùng tâm trạng nhẹ nhõm. Nơi vùng cao này, buổi sáng bạn thức giấc và tự nhủ: Ta đang được sống ở đúng chỗ phải sống. Trải dài theo hướng Bắc-Nam, rặng Ngong đội chiếc vương miện bốn đỉnh cao sang nom như bốn con sóng bất động, có màu xanh thẫm hơn, in trên nền trời. Nó vươn cao tám ngàn bộ trên mực nước biển, và cao hơn vùng phụ cận mạn Đông hai ngàn bộ; nhưng về phía Tây, mức chênh còn nhiều hơn thế, sườn cũng dốc hơn, thế núi như lao thẳng đứng xuống thung lũng Great Rift. Gió xứ cao nguyên này luôn thổi theo hướng Bắc-Đông Bắc. Dưới mạn duyên hải châu Phi hay Ả Rập, người ta gọi nó là Gió Mùa hay Gió Đông, con ngựa kéo ưa thích của quốc vương Salomon. Lên tới đây, ta cảm giác ngọn gió ấy chỉ như sức cản không khí, khi Trái Đất lao đi trong không gian. Gió thổi thẳng vào rặng Ngong, và triền núi là vị trí lý tưởng cho một chiếc tàu lượn cất cánh và được các luồng gió đưa lên tới đỉnh. Mây, đồng hành với gió, va vào sườn núi và bám lơ lửng tại đó, hoặc bị mắc lại ở đỉnh núi rồi tan thành mưa. Song nếu dong theo những lối cao hơn và tránh thoát được rặng đá ngầm kia, mây sẽ tan biến về hướng Tây, bên trên sa mạc bỏng cháy của thung lũng Great Rift. Đã bao phen tôi rời nhà theo bước những đám rước kỳ vĩ nọ, và kinh ngạc thấy những hình khối giăng giăng ngạo nghễ ấy, ngay khi vượt qua rặng núi, liền hút bóng giữa trời biếc. https://thuviensach.vn Nhìn từ đồn điền, rặng núi thay hình đổi dạng nhiều lần trong ngày, đôi khi ta thấy nó sát sạt gần, thời điểm khác lại vời vợi xa. Vào chiều muộn, khi trời trở tối, thoạt nhìn bạn như thấy có một đường viền mảnh, màu bạc, vẽ bao lấy bóng núi đen trên nền trời; và rồi, khi màn đêm buông, bốn đỉnh như bằng phẳng và mềm mại hơn, tựa như rặng sơn mạch tự giãn mình và trải rộng ra. Từ trên rặng Ngong bạn có một tầm nhìn vô song: phương Nam là các bình nguyên mênh mông, xứ sở rộng lớn của hoang thú trải đến tận Kilimanjaro, hướng Đông và Bắc là vùng đất tựa như công viên gồm khu vực chân núi cùng những cánh rừng phía sau, và cả dải đất nhấp nhô của Khu bảo tồn Kikuyu kéo tít tắp tới Mount Kenya* cách cả trăm dặm, một bức tranh khảm các ô vuông nhỏ những nương ngô, rừng chuối, đồng cỏ, đó đây bốc lên vài tia khói xanh của xóm nhỏ người bản xứ, một nhúm mô đất chuột chũi đùn lên. Nhưng tụt sâu theo hướng Tây là quang cảnh khô cằn tựa mặt trăng của miền trũng châu Phi. Sa mạc nâu điểm xuyết vài đốm xanh những bụi cây gai, các lòng sông uốn khúc được vẽ bằng những vệt lượn xanh rì; đấy là các vạt rừng cây Mimosa cao lớn, tán rộng, gai như mũi đinh, cũng là nơi loài xương rồng sinh trưởng và chỗ cư ngụ của lũ hươu cao cổ cùng bầy tê giác. Bản thân vùng núi này, một khi tiến nhập, bạn sẽ thấy vô cùng rộng lớn, đẹp tựa tranh và đầy huyền bí, với hình thế đa dạng từ những thung lũng trải dài, các bụi cây lúp xúp, những triền dốc xanh và các vách đá hiểm trở. Lên cao hơn, dưới một đỉnh núi, thậm chí mọc cả một vạt rừng tre. Trong núi có nhiều suối và khe nước, nơi tôi từng hạ trại kề bên. Hồi tôi sống ở đó, trong rặng Ngong có trâu rừng, linh dương và tê giác, các cụ già bản xứ vẫn nhớ cái thuở chốn đây còn có cả voi, và tôi luôn thấy lòng trìu nặng mỗi lúc nghĩ tới việc toàn bộ vùng núi Ngong đã không được quy hoạch thành Khu bảo tồn động vật hoang dã. Chỉ một bộ phận nhỏ của nó được khoanh thành Vùng bảo tồn thú hoang, ranh giới phân định bằng cột mốc đặt trên đỉnh Nam. Một khi xứ thuộc địa phát triển phồn thịnh, và https://thuviensach.vn thủ đô Nairobi trở nên một thành phố lớn, rặng Ngong lẽ ra có thể trở thành một vườn bách thú vô song của nó. Song trong những năm cuối tôi sống trên đất châu Phi, cứ tới Chủ nhật là đám thị dân trẻ Nairobi nhao cả lên núi, bằng xe gắn máy, và xả đạn vào mọi thứ bắt gặp, và tôi tin lũ đại thú* sẽ rời khỏi rặng núi, xuyên qua những dải đất sỏi đá mọc đầy bụi gai rậm rạp hòng lánh về phía Nam. Bạn có thể nhàn tản cất bước ngay trên sống núi hay tại bốn đỉnh; cỏ mọc le te như trong vườn nhà; đây đó những tảng đá xám nhô lên phá vỡ mặt cỏ xanh. chạy dọc sống núi; lên xuống bám theo nét lượn các đỉnh; tựa một vệt chữ chi mờ mờ; là lối hẹp thú đi. Một sớm, trong dịp hạ trại qua đêm trên núi; tôi leo lên đi dọc lối này và bắt gặp dấu chân cùng phân còn mới của một bầy linh dương. Những con thú to lớn hiền lành ấy hẳn đã có mặt trên sống núi buổi bình minh; nối nhau đi thành một hàng dài, và bạn chẳng thể hình dung ra nguyên do nào khác ngoài việc chúng tới chỉ để ngó xuống ngắm miền đất nằm trũng sâu hai bên sườn. Đồn điền của tôi trồng cà phê. Vùng này hơi quá cao đối với cây cà phê; và chăm cây cho sinh trưởng quả thật vô cùng gian nan; đồn điền chẳng bao giờ giúp chúng tôi trở nên phong lưu cả. Vậy nhưng quản lí đồn điền cà phê lại là một việc đầu tắt mặt tối; không lúc nào ngơi tay và luôn có chuyện phải làm: nói chung bạn thường xuyên không đủ thời gian thực hiện mọi công việc cho đúng tiến độ. Giữa cái hoang vu; vô phép tắc khắp miền này, một vùng đất được quy hoạch và trồng trọt quy củ nom thật thích mắt. Sau này, khi có dịp bay trên bầu trời châu Phi; và đã quen thuộc hình ảnh đồn điền từ trên không; tôi vẫn tràn trề thán phục mỗi khi ngắm mảnh đồn điền xanh thắm nằm giữa cả miền xám xịt và tôi nhận ra tâm trí con người luôn khao khát các hình thù cân đối biết nhường nào. Cả vùng Nairobi; nhất là ở mạn Bắc, đều có khung cảnh tương tự; và đây là chốn cư ngụ của những con người dốc lòng trăn trở, bàn bạc cho gieo trồng, chăm sóc hay thu hái cà phê; đêm xuống https://thuviensach.vn lại chong chong nung nấu các dự định cải tạo xưởng chế biến cà phê của mình. Trồng cà phê là việc trường kì và không như những gì bạn mường tượng giữa tuổi xuân tràn trề hi vọng.Trong cơn mưa như trút, bạn đem từ nhà ươm các cây non mơn mởn đựng trong hộp; và với tất tật nhân công đồn điền đều có mặt ngoài đồng, chứng kiến chúng được đặt xuống những hố đào ngay hàng thẳng lối trên đất ướt; nơi chúng sẽ sinh trưởng, rồi lấy đủ thứ cành lá chặt từ bờ bụi bao kín xung quanh che chắn nắng, bởi hưởng râm mát là đặc quyền của mọi thứ non trẻ. Thật ra phải mất bốn tới năm năm đằng đẵng để cây ra trái, và trong suốt thời gian đó bạn sẽ phải chống chọi với hạn hán hay dịch bệnh, rồi các giống cỏ dại bản địa táo tợn sẽ mọc tốt um trên đồng cỏ xuyến chi, với vỏ hạt thuôn dài và xù xì bám lên áo quần và tất của bạn. Một số cây bị trồng sai quy cách, rễ cái quặt lại, sẽ chết đúng lúc bắt đầu trổ bông. Mỗi mẫu Anh trồng được khoảng hơn sáu trăm cây cà phê*, còn tôi sở hữu sáu trăm mẫu cà phê; đàn bò đồn điền kiên nhẫn kéo những đường cày nhiều nghìn dặm từ đầu này tới đầu kia các cánh đồng, giữa những hàng cây, trông chờ các món hoa lợi đang tới. Cảnh sắc đồn điền cà phê thật tuyệt mĩ vào một số thời điểm. Đầu mùa mưa, khắp đồn điền trổ hoa làm nên khung cảnh rực rỡ, hao hao một đám mây bằng đá phấn, giữa màn mưa lâm thâm mịt mờ, trên cả vùng rộng sáu trăm mẫu. Hoa cà phê thơm hắc, giống hoa mận gai. Hay dịp cả cánh đồng ửng đỏ bởi vô vàn chùm quả chín, đàn bà và đám trẻ nít, họ gọi chúng là Toto, toàn bộ được huy động ra thu hái cùng cánh đàn ông; rồi các đoàn xe bò, bốn hay hai bánh, sẽ chuyển thành quả xuống xưởng chế biến mé bờ sông. Tại đây máy móc của chúng tôi chưa bao giờ gần đạt tới chuẩn mực lẽ ra chúng phải thế, nhưng bởi khu xưởng được tự hoạch định và cất lên nên chúng tôi rất xem trọng nó. Xưởng này từng một lần cháy rụi và phải dựng lại. Cỗ máy sấy đồ sộ quay rầm rầm cái bụng thép chứa đầy cà phê tạo ra thứ âm thanh rào rào như sỏi bị sóng biển dồi cọ vào nhau. Có những bận cà phê khô có thể lấy ra lại rơi vào lúc đã nửa đêm. Thời khắc ấy đẹp tựa tranh, với cơ man đèn bão trong gian xưởng tối đen rộng lớn, tứ bề https://thuviensach.vn vương đầy mạng nhện cùng vỏ hạt cà phê, và các khuôn mặt đen nhánh, háo hức, bừng sáng dưới ánh đèn, vây quanh máy sấy; bạn cảm giác cả xưởng máy sáng lóe giữa đêm tối Phi châu mênh mông, giống một món châu báu lấp lóe sáng trên tai người da đen vậy. Sau đó cà phê được tách vỏ, phân loại và tuyển chọn, bằng tay, rồi đóng vào bao, khâu kín lại bằng cây kim thợ chế yên cương vẫn dùng. Mọi việc xong xuôi vào rạng sáng, lúc trời còn tối mịt, và tôi nằm vùi trên giường nghe tiếng đoàn xe chở hàng, ngất ngưởng các bao cà phê, mười hai bao một tấn, mỗi chiếc thắng mười sáu bò, rậm rịch khởi hành ngược theo con dốc dài ở xưởng chế biến để tới sân ga xe lửa tại Nairobi, với đủ giọng la lối hòa cùng tiếng bánh lăn lọc cọc, đám dong bò tất tả chạy bên xe. Lòng tôi nhẹ nhõm nghĩ tới chuyện suốt cuộc hành trình đoàn xe sẽ chỉ phải leo độc con dốc đó, bởi đồn điền nằm cao hơn Nairobi cả ngàn bộ. Chiều tối, tôi vẩn vơ ra đón đoàn xe trở về, một chú Toto kiệt sức đi trước nhất, lũ bò mệt lả rũ đầu bước trước các cỗ xe rỗng, đám dong xe rã rượi lê những cây roi vạch xuống lớp bụi đường. Giờ phần chúng tôi đã xong mọi thứ. Mẻ cà phê sắp ra tới biển trong một đến hai ngày tới, và hiện tại chỉ còn có thể nuôi hi vọng sẽ gặp vận may trong các phiên đấu giá lớn tại London. Tôi có cả thảy sáu ngàn mẫu, do đó ngoài diện tích canh tác cà phê, quỹ đất dôi dư còn rất nhiều. Một phần đồn điền là rừng tự nhiên, ngoài ra có chừng một ngàn mẫu đất của lưu dân mà họ gọi là các shamba. Lưu dân là người bản xứ cùng gia đình sống trên các thửa đất rộng vài mẫu Anh trong đồn điền của người da trắng, và đổi lại hằng năm phải làm việc cho điền chủ một số ngày nhất định. Tôi nghĩ lưu dân của mình nhìn nhận mối quan hệ này dưới một góc độ khác, do chỗ nhiều người từng sinh ra ở đồn điền, cha ông họ cũng vậy, nên họ ắt xem tôi như một thứ lưu dân siêu cấp trên đất đai của họ. Tràn trề sức sống hơn hẳn các phần đất còn lại của đồn điền, mảnh đất của lưu dân còn biến hóa tùy theo mùa vụ. Bạn bước dọc các khoảng trống hẹp trên nền đất rắn đanh trong ruộng lúc ngô mọc cao vượt quá đầu như bước giữa một đám chiến binh lêu nghêu, xanh rì, sột soạt và https://thuviensach.vn rồi chúng lại được thu hoạch. Đậu chín trên đồng, được phụ nữ thu hoạch đem đập tách hạt, thân cây và vỏ được gom lại đốt, vì vậy khi tới vụ, đó đây khắp đồn điền xuất hiện nhiều cột khói mỏng xanh lơ. Dân Kikuyu còn trồng khoai lang có lá tựa lá nho và mọc lan trên mặt đất thành một lớp thảm vừa rậm vừa rối cùng lổm ngổm cơ man bí ngô trái lớn, xanh vàng loang lổ đủ kiểu. Mỗi khi dạo giữa các shamba của người Kikuyu, thứ trước tiên đập vào mắt bạn là dáng lom khom của một bà lão bé nhỏ đang đào xới mảnh đất của mình, giống hình ảnh một con đà điểu chúi đầu trong cát. Mỗi gia đình người Kikuyu sở hữu vài lều tròn, nhỏ, mái nón, để ở và làm kho chứa. Khoảng giữa các lều có nền đất rắn như bê tông luôn là địa điểm náo nhiệt: đây là chỗ ngô được xay, dê được vắt sữa, trẻ con cùng gà qué ríu rít chạy nhảy. Có dạo tôi thường đi bắn gà gô ở các ruộng khoai lang quanh nhà lưu dân trong buổi chiều tà xanh ngắt, giữa tiếng bồ câu gù vang trên những ngọn cây cao vút, tán xòe phất phơ trong gió, đứng đây đó, thứ sót lại của cánh rừng già từng một thời bao phủ cả đồn điền. Đồn điền tôi có vài ngàn mẫu đồng cỏ. Ở đó cỏ mọc cao, dập dờn đuổi nhau tựa lớp lớp sóng biển mỗi khi gió lớn và là nơi các chú nhóc mục đồng người Kikuyu chăn đàn bò của cha. Mùa lạnh, chúng mang theo những chiếc giỏ đan bằng liễu gai đựng than hồng lấy từ lều nhà, và đôi khi gây ra các vụ cháy cỏ lớn làm thiệt hại tới nguồn thức ăn của gia súc đồn điền. Những năm khô hạn, lũ ngựa vằn và linh dương mò tận xuống đồng cỏ của đồn điền. Nairobi là thành thị của chúng tôi, tọa lạc cách đó mười hai dặm, trên một vùng đất thấp bằng phẳng nằm lọt giữa cả miền núi non trùng điệp. Ở đây có dinh Toàn Quyền và các trụ sở hành chính cai quản cả đất nước. Chẳng thể có chuyện một thành thị không đóng bất cứ vai trò gì với cuộc sống bạn. Thậm chí bất chấp việc ta có những chuyện tốt đẹp hay xấu xa để nói về nó, chốn phố thị luôn thu hút tâm trí ta bằng một định luật hấp dẫn tâm hồn. Quầng sáng phía trên bầu trời đêm thành phố mà tôi có thể nhìn https://thuviensach.vn thấy từ vài vị trí tại đồn điền khiến lòng tôi suy nghĩ vẩn vơ, nhớ về các đô thị lớn châu Âu. Dạo tôi mới tới châu Phi, ở đây chưa có ô tô, và chúng tôi hoặc cưỡi ngựa hoặc ngồi bên trong cỗ xe đóng ba cặp la chạy xuống Nairobi rồi gửi ngựa hay la ở khu chuồng của công ty Vận Tải Cao Nguyên. Suốt quãng thời gian tôi sống ở xứ này, Nairobi là nơi pha tạp, với lác đác vài tòa dinh thự mới tráng lệ bằng đá, mọi cửa hàng đều quây bằng tôn múi cũ nát, cùng các văn phòng và nhà dân, hết thảy đều nằm sau những hàng dài bạch đàn trồng dọc các con phố trơ trụi, bụi bặm. Trụ sở Tòa Án Tối Cao, Bộ Đảm Trách Các Vấn Đề Dân Bản Xứ, và Cục Ihú Y là những ngôi nhà tồi tàn, và tôi rất khâm phục công chức nơi đây, họ, ngay cả trong các nhiệm sở nhỏ hẹp, nóng thiêu đốt và tối như hũ nút ấy, vẫn khả dĩ chu toàn chức phận được giao. Dẫu có thế Nairobi vẫn là chốn thị thành; tại đây bạn có thể mua sắm, nghe được tin tức, ăn trưa hay tối ở các khách sạn hay khiêu vũ tại Câu lạc bộ. Đây là chốn sôi động, vận động không ngừng nghỉ tựa dòng nước, vẫn tiếp tục lớn lên như những gì non trẻ, mỗi năm mỗi thay da đổi thịt, thậm chí chỉ sau một chuyến đi săn dài ngày. Dinh Toàn Quyền mới, một tòa nhà thâm nghiêm mát rượi có phòng khiêu vũ tráng lệ cùng khu vườn xinh xắn vừa được xây, mấy khách sạn lớn mọc lên, những ngày hội canh nông đầy ấn tượng cùng các triển lãm hoa lộng lẫy được tổ chức, nhóm người được gọi là giới thượng lưu của xứ thuộc địa chúng tôi lâu lâu lại khiến cả thành phố sôi động bằng các màn kịch mê lô tiết tấu nhoáng nhoàng. Nairobi nói với bạn rằng: “Cứ mặc sức tận hưởng ta và thời gian. Tuổi xuân chỉ đến có một lần* - hãy cùng nhau* đạp qua mọi phép tắc và cứ vô độ đi”. Nhìn chung tôi và Nairobi rất hợp, và một bận lúc đang lái xe qua thành phố tôi thầm nghĩ: Thế giới của mình chẳng thể thiếu những con phố Nairobi. So với khu phố người châu Âu, địa bàn cư ngụ của dân bản địa và người nhập cư da màu rộng hơn nhiều. https://thuviensach.vn Thị trấn Swaheli, nằm trên đường tới Câu lạc bộ Muthaiga*, ở phương diện nào cũng đầy tai tiếng, là một địa phương nhộn nhịp, dơ bẩn, lòe loẹt, và ở bất kì giờ khắc nào cũng có một số chuyện gì đó đang xảy ra. Nó được dựng lên chủ yếu từ những thùng đựng parafiin đập dẹp, với đủ mức độ gỉ sét, nhìn tựa đá san hô, một thứ kết cấu hóa thạch mà hồn cốt của văn minh tiến bộ luôn trốn chạy. Thị trấn Somali còn cách Nairobi xa hơn, tôi nghĩ ngọn nguồn là bởi tập tục người Somali muốn giữ phụ nữ ở chỗ biệt lập. Dạo đó nơi đây có mấy cô nàng Somali cực kì thông minh và quyến rũ mà cả trấn đều biết tên, tới sống trong phố chợ* Nairobi và đã xỏ mũi sở cảnh sát Nairobi làm họ nhiều phen khốn đốn. Có điều trấn lại vắng bóng những cô gái Somali chân chất, nết na. Phơi mình trước những cơn gió lộng, không một bóng mát và tứ thời bụi mù, thị trấn ắt gợi nhắc người Somali về những miền sa mạc quê hương. Dân châu Âu dẫu sống nhiều năm, thậm chí qua vài thế hệ, tại một địa phương, cũng chẳng thể quen với ngoại cảnh khác biệt hoàn toàn quê nhà họ như các chủng tộc nay đây mai đó. Những ngôi nhà của người Somali nằm lộn xộn, chẳng hề có hàng lối, trên mặt đất trơ trụi, nom tạm bợ như được gắn kết bằng nhúm đinh mười phân hầu đứng vững qua chỉ một tuần. Khi bước vào một căn nhà như thế, bạn sẽ kinh ngạc khám phá ra bên trong sạch sẽ tinh tươm, nức mùi hương trầm Ả Rập, có thảm hay các bức trướng lộng lẫy, bày nhiều bình bằng đồng hay bạc, và những cây gươm cán ngà lưỡi bằng thép tốt. Phụ nữ Somali có phong thái trang nghiêm và dịu dàng, mến khách và vui vẻ, giọng cười như tiếng chuông bạc. Thông qua Farah Aden, người đầy tớ Somali gắn bó với tôi suốt quãng thời gian tại châu Phi, tôi cảm thấy thoải mái như ở nhà mỗi lúc ghé thăm ngôi làng Somali, và cũng được tham dự nhiều dịp hội hè của họ. Một đám cưới long trọng của người Somali là buổi lễ hội truyền thống huy hoàng. Nơi buồng cô dâu, là khách quý nên tôi được đưa tới, trên tường cũng như giường cưới, có nhiều tấm vải cổ xưa được dệt hay thêu các sắc màu tươi và đằm, còn cô dâu trẻ trung mắt đen láy, thân hình ngay đơ như chiếc gậy https://thuviensach.vn chỉ huy của ngài thống chế, dưới nặng trịch các lớp lụa là, đồ trang sức vàng ròng và hổ phách. Trên khắp cả nước, thương lái hay đầu mối thu gom gia súc thường là dân Somali. Để vận chuyển hàng hóa, làng họ nuôi nhiều giống lừa thân nhỏ, lông xám. Tại đây tôi còn thấy cả lạc đà, thứ sản phẩm ngạo nghễ được sa mạc tôi rèn, có thể đạp qua mọi gian khổ trần gian, giống như cây xương rồng, giống như người Somali. Dân Somali tự chuốc phiền bởi các hiềm thù sắc tộc tệ hại. Về mặt này, họ cảm nhận và diễn dịch rất khác người. Farah thuộc bộ tộc Habr Yunis, bởi thế trên phương diện cá nhân tôi đứng về phe này khi có xung đột. Có đận trong trấn Somali đã nổ ra một trận chiến lớn đích thực giữa hai bộ tộc Dulba Hantis và Habr Chaolo, với tiếng súng trường, các đám cháy, và cả chục hay một tá người thiệt mạng trước khi chính phủ can thiệp. Farah có người bạn trẻ cùng bộ tộc tên là Sayid, một thanh niên nhã nhặn từng ghé đồn điền thăm Farah, vậy nên tôi lấy làm buồn khi nghe mấy cậu gia nhân kể rằng trong dịp Sayid tới chơi một gia đình Habr Chaolo, có một người của bộ tộc Dulba Hantis đang trong cơn tức khí đi ngang, bắn bừa hai phát xuyên qua tường khiến anh này gãy chân. Tôi ngỏ ý chia buồn với Farah về vận đen của bạn anh. “Chuyện gì? Sayid ấy hả?” Farah oán trách kêu lên. “Vậy còn may chán đấy. Hà huống gì nó phải tới uống trà ở nhà một tên Habr Chaolo?” Người Ấn ở Nairobi chi phối khu vực buôn bán rộng lớn trong phố chợ, còn mấy thương nhân hàng đầu của họ, Jevanjee, Suleiman Virjee, Allidina Visram, thì sở hữu những biệt thự nhỏ ở ngay ngoại vi thành phố. Họ thảy đều ưa các kiến trúc hay đồ vật bằng đá - cầu thang, lan can, lọ bình, được cắt gọt khá vụng, giống những hình khối con trẻ ghép nên bằng thứ gạch đồ chơi màu hồng, từ loại đá tương đối mềm ở xứ này. Thông minh, từng bôn ba nhiều nơi, và rất bặt thiệp, họ thường tổ chức những buổi tiệc trà trong vườn nhà, có phục vụ bánh pastry Ấn được làm theo kiểu riêng của mấy biệt thự này. Có điều người Ấn ở châu Phi là những thương nhân tham lam https://thuviensach.vn vô độ tới nỗi bạn chẳng bao giờ biết mình đang đối diện với một cá nhân hay đầu não một công ty. Từng có dịp tới nhà của Suleiman Virjee, vào ngày nọ khi thấy lá cờ treo ở lưng chừng cây cột trên nóc khu nhà kho đồ sộ của ông, tôi quay qua hỏi Farah: “Suleiman Virjee qua đời rồi sao?” “Dở sống dở chết,” anh đáp. “Họ treo cờ ở lưng chừng cột bởi ông ta đang hấp hối à?” tôi hỏi. “Suleiman đã bỏ mạng, còn Virjee vẫn sống,” Farah đáp. Trước khi tiếp nhận đồn điền, tôi rất ham săn bắn và tham dự nhiều chuyến đi săn dài ngày. Song từ khi chuyển qua việc canh nông, tôi đã đem súng săn cất đi. Bộ tộc Masai*, láng giếng sống bên kia sông của đồn điền, là dân du cư chuyên chăn nuôi gia súc. Thỉnh thoảng có người trong tộc này tìm đến nhà tôi than phiền chuyện một con sư tử tác oai tác quái quắp mất bò để nhờ tiêu diệt ác thú, và tôi luôn nhận lời nếu có thể. Lâu lâu, vào thứ Bảy, tôi ra thảo nguyên Orungi săn một hai con ngựa vằn làm nguồn thịt cho nhân công đồn điền, với cả bầy trẻ Kikuyu đầy lạc quan rồng rắn theo sau. Tại đồn điền tôi còn bắn gà gô hay gà sao, chúng đều rất ngon. Tuy nhiên trong nhiều năm tôi không hề tham gia các chuyến viễn hành săn bắn bên ngoài. Dẫu vậy, nơi đồn điền, chúng tôi vẫn luận bàn về các cuộc đi săn mình từng góp mặt. Những địa điểm đóng trại hằn sâu vào tâm tưởng bạn như thể bạn từng sống cả quãng đời dài tại đó. Bạn sẽ nhớ vệt lượn bánh xe ngựa của mình trên lớp cỏ thảo nguyên, như nhớ đường nét khuôn mặt một người bạn thân. Trải qua bao chuyến viễn hành săn bắn, tôi từng có dịp bắt gặp cả đàn trâu một trăm hai mươi chín con, những sinh vật thép đen sì, đồ sộ, mang cặp sừng khỏe khoắn khuỳnh ngang, bước ra từ màn sương buổi sớm dưới vòm trời màu đồng, như thể không phải đang xuất hiện mà là được gửi ra, từng con một, sau khi đã chế tạo xong xuôi ngay trước mắt tôi. Tôi đã chứng kiến cảnh cả bầy voi đi ngang cánh rừng tự nhiên rậm rạp, nơi mặt trời rắc rải các đốm nắng, mảng nắng qua lớp lớp cây leo chằng chịt, bằng nhịp chân đều đặn chẳng khác nào đang kéo tới một cuộc hẹn ở tận cùng thế https://thuviensach.vn giới. Cảnh tượng tựa như, ở tỉ lệ phóng đại nhiều lần, hoa văn trên mép viền một tấm thảm Ba Tư cổ xưa, tuyệt mĩ, được nhuộm các màu xanh, vàng cùng nâu đen. Tôi từng nhiều bận lặng ngắm bước tiến cắt ngang miền đồng thảo của đàn hươu cao cổ, với vẻ yêu kiều rất thực vật và kì lạ không gì hòng bắt chước nổi của chúng, dường như đó không phải bầy thú mà là một đám hoa hiếm gặp khổng lồ, lốm đốm, cuống dài, đang thủng thẳng cất bước. Tôi cũng có dịp bám theo hai con tê giác đang giữa chuyến đi dạo buổi sáng, khụt khà khụt khịt trong không khí ban mai lạnh buốt mũi; nom chúng tựa hai khối đá tảng vuông vức đang nô giỡn giữa con thung dài, tận hưởng cuộc sống bên nhau. Tôi từng thấy loài sư tử cao sang dưới ánh trăng tà, trước lúc vầng hồng ló rạng, đang băng ngang qua thảo nguyên màu xám để về nhà từ cuộc giết chóc, vạch một lằn sậm trên mặt cỏ bạc, mặt còn đỏ tới tận tai. Và tôi cũng bắt gặp chú vào giờ chợp mắt xế trưa, đang nghỉ ngơi thư thái giữa gia đình, tại bãi cỏ non, dưới bóng mát mong manh tựa-mùa-xuân của cây keo tán rộng nơi khu vườn châu Phi của mình. Thả hồn vào những điều này là suối nguồn phơi phới cho những thời khắc nhàm chán chốn đồn điền. Và các loài thú lớn vẫn ở ngoài kia, tại vương quốc của riêng chúng; tôi có thể tới ngó thêm bận nữa nếu thích. Sự gần gặn với chúng đem lại cho đồn điền ánh sáng và niềm phấn chấn. Còn Farah, dẫu theo thời gian đã trở nên chí thú việc đồn điền, cùng mấy ông già bản xứ chuyên theo phục vụ các chuyến đi săn của tôi, vẫn luôn sống trong hi vọng về các chuyến săn bắn khác. Giữa hoang dã tôi đã học cách tránh làm ra những cử động đột ngột. Các loài vật bạn đối mặt đều nhút nhát, cảnh giác và có biệt tài lẩn trốn lúc bạn ít ngờ nhất. Chẳng con vật nuôi nào có thể im lìm tuyệt đối giống hoang thú. Con người của văn minh đã đánh mất khả năng giữ cho mình bất động, và phải học điều này từ hoang dã trước khi được nó chấp nhận. Thứ đầu tiên người săn bắn phải học là nghệ thuật di chuyển nhẹ nhàng, tránh giật cục, ở thợ săn đem theo máy ảnh thì kĩ năng này càng thiết yếu hơn. Nhất cử nhất động ở người đi săn không được tùy tiện mà phải hòa nhập với gió, https://thuviensach.vn màu cũng như mùi và nhịp điệu tổng thể của cảnh vật xung quanh. Đôi khi đấy là một chuyển động lặp đi lặp lại buộc người đi săn cũng phải tuân theo. Một khi đã nắm được nhịp điệu của châu Phi, bạn sẽ nhận ra nó nằm trong mọi thứ âm điệu nơi đây. Điều học được từ các loài thú ở xứ sở này cũng bổ ích cho tôi khi giao thiệp với người bản địa. Yêu phụ nữ và nữ tính là bản tính nam giới; yêu đàn ông và nam tính là bản tính nữ giới; còn mềm lòng trước những đất nước và chủng tộc phương Nam lại là một phẩm tính của dân Bắc Âu. Giống người Norman hẳn cũng đã bị các đất nước xa lạ chinh phục; khởi đầu là Pháp rồi tới Anh. Các quý tộc Anh; nhân vật của tiểu thuyết và lịch sử thế kỉ mười tám; khi mải miết ngao du ở Ý; Hi Lạp hay Tây Ban Nha, dẫu chẳng sở hữu chút xíu chất phương Nam nào trong căn tính; vẫn bị nét mê hoặc của vạn vật hoàn toàn khác biệt với chính họ tại đây cuốn hút và níu giữ. Các họa sĩ; triết gia; thi sĩ người Đức hay Bắc Âu thời xưa; ngay lần đầu đặt chân tới Florence và Rome; đã khụy xuống sùng bái miền đất phương Nam. Ở những con người vốn thiếu phần nhẫn nại ấy xuất hiện nết kiên nhẫn phi logic và nghịch thường trước một xứ sở xa lạ. Tương tự việc người đàn bà hầu như vô phương chọc tức nổi một quý ông đích thực; hay chừng nào còn là đấng tu mi nam tử thì phái mạnh đâu cách nào quá ư đê mạt; tuyệt tình tuyệt nghĩa trước một phụ nữ, giống dân tóc hung đỏ xốc nổi; nôn nóng phương Bắc đã có sự nhẫn nại vô bờ đối với các đất nước và chủng tộc miền chí tuyến. Chẳng thể chịu đựng cái vô lí nơi bản quán hay từ thân quyến của chính mình; nhưng họ lại dễ dàng chấp nhận các đợt khô hạn ở cao nguyên châu Phi; các ca cảm nắng; dịch tả trâu bò* lây lan trong đàn gia súc; và tình trạng kém cỏi ở những đầy tớ người bản xứ bằng thái độ nhún nhường, nhẫn nhịn. Họ buông bỏ ý niệm phẩm cách cá nhân bởi nhận thức được các triển vọng vô hạn của sự hợp tác giữa những con người phi tương thích. Dân Nam Âu hay những người mang dòng máu pha trộn https://thuviensach.vn không có được phẩm chất này; họ chê trách, hoặc khinh miệt nó. Những mẫu đàn ông giàu nam tính chế giễu tình nhân suốt ngày than vắn thở dài của mình, hay kiểu phụ nữ thiên về lí trí không sao nhẫn nại nổi trước bạn trai của mình, cũng khinh miệt Griselda* như vậy. Cá nhân mình, ngay từ vài tuần đầu sống tại Phi châu, tôi đã lập tức đem lòng quý mến người bản xứ. Tình cảm chân thật này tôi dành cho mọi lứa tuổi và giới tính. Khám phá ra giống loài da đen là sự nới rộng đầy ngoạn mục thế giới của tôi. Người có lòng yêu thương bẩm sinh với loài vật song lớn lên trong môi trường không muông thú, và chỉ sau này mới bắt đầu tiếp xúc chúng; hay người có thiên hướng yêu thương hoa cỏ và cây cối nhưng hai mươi tuổi mới lần đầu được đặt chân vào rừng; hoặc người có khiếu thẩm âm lần đầu được nghe tiếng nhạc lúc đã khôn lớn; các trường hợp đó có lẽ cũng cảm nhận tương tự như tôi. Từ khi tiếp xúc người bản xứ, tôi điều chỉnh nhịp sống bản thân để hòa vào bản hợp tấu của họ. Cha tôi, một sĩ quan từng phục vụ trong quân đội Đan Mạch và Pháp, dạo còn là một chàng trung úy trẻ đồn trú ở Düppel*, từng viết thư về nhà thế này: “Trở lại Dủppel, con chỉ huy cả một hàng quân dài. Chức phận cực nhọc nhưng cũng tuyệt vời. Tình yêu chiến trận cũng mê đắm giống mọi thứ tình yêu khác, chúng ta yêu người lính hệt như đắm say các thiếu nữ, nghĩa là đến điên dại, và như các cô gái thảy đều rõ, tình yêu này chẳng hề bài xích tình yêu kia. Song tình yêu phụ nữ mỗi thời điểm chỉ có thể hướng tới một đối tượng, còn với những người lính nó dành cho cả quân đoàn và nếu được thì càng đông càng tốt.” Nhận định này cũng xác đáng cho mối quan hệ giữa tôi và người bản xứ. Thật chẳng dễ thấu tỏ được dân bản địa. Họ thính nhạy và lẩn rất nhanh; nếu bị bạn làm cho sự hãi, họ sẽ rút vào thế giới riêng, chỉ trong tích tắc, giống các loài thú hoang biến mất ngay trước mắt, như chưa từng hiện diện, bởi một cử động đột ngột ở bạn. Trước khi trở nên thân thiết, bạn gần như chẳng cách nào nhận được một câu trả lời đích xác từ người bản xứ. Trước một câu hỏi thẳng chẳng hạn anh có bao nhiêu con bò, họ đáp lảng tránh, https://thuviensach.vn “cũng bằng con số hôm qua tôi nói cho bà.” Lối trả lời này không làm người châu Âu hài lòng, mà kiểu hỏi kia hẳn cũng chả khiến người bản địa thích thú. Nếu bị dồn ép hoặc cật vấn để buộc phải đưa ra lời giải thích về cách ứng xử của mình, họ sẽ tìm mọi cách quanh co và dùng chuyện hư cấu hài hước, lố bịch nào đó đánh lạc hướng ta. Ngay cả lũ nhỏ ở đây, trong tình huống như vậy, cũng có đủ phẩm chất của một tay chơi Poker lão luyện, chẳng thèm bận tâm bạn đánh giá quá cao hay quá thấp lá bài trong tay họ, miễn là bạn còn chưa biết họ thực sự đang giữ những lá bài nào. Nếu quả tình ta có xâm nhập được vào cuộc sống người bản địa, họ sẽ hành xử như bầy kiến lúc bị chọc que vào tổ; chúng sửa sang chỗ hư hại với một năng lượng không bao giờ cạn, khẩn trương và lẳng lặng, như hòng xóa sạch dấu vết một việc làm sai trái. Ta không biết, cũng chẳng thể hình dung, họ e ngại mối hiểm họa nào đến từ phía chúng ta. Cá nhân tôi nghĩ cách họ e sợ ta gần với kiểu sợ một tiếng ồn chói tai chợt ré lên, hơn là sợ hãi một nỗi đớn đau hoặc cái chết. Tuy nhiên điều này cũng khó nói, do chỗ người bản xứ rất tài giả vờ. Trong các shamba, lúc sớm tinh mơ, đôi khi bạn bắt gặp một nàng gà gô chạy lệt xệt trước vó ngựa như thể bị gãy cánh, và đang sợ bị lũ chó chộp được. Thế nhưng ả gà không gãy cánh, cũng chẳng hề hãi sợ chó, nó có thể tùy thời bay vọt lên ngay trước mũi chó nếu muốn, chỉ là nó có một ổ gà con gần đâu đó, và đang gắng đánh lạc hướng chú ý của chúng ta. Giống như cô nàng gà gô kia, có lẽ người bản xứ tỏ vẻ sợ hãi chúng ta bởi một nỗi khiếp đảm sâu xa hơn mà ta chẳng cách nào phỏng đoán được căn nguyên. Cũng có lẽ, rốt cuộc, cách cư xử của họ trước chúng ta là một thứ trò đùa oái oăm, và những con người e dè kia chẳng hề hãi sợ ta chút nào. So với dân da trắng, người bản xứ ít nhạy cảm hơn nhiều trước các mối hiểm nguy trong cuộc sống. Đôi bận, trong một chuyến đi săn hay ngay tại đồn điền, ở thời khắc dầu sôi lửa bỏng, bắt gặp những ánh mắt của người bản xứ đồng hành, tôi cảm nhận sự khác biệt lớn lao giữa đôi bên và họ đang kinh ngạc trước nỗi lo lắng về mối hiểm nguy của tôi. Sự thể khiến tôi nghĩ, chẳng hề giống ta, họ cảm nhận cuộc đời như thể môi trường sống của riêng mình, https://thuviensach.vn tựa như các loài cá nước sâu suốt đời vô phương nhận thức nỗi sợ đuối nước. Sự vững tâm ấy, thứ nghệ thuật bơi lội ấy, họ có, tôi nghĩ, do chỗ gìn giữ được một tri thức mà ta đã thất truyền từ tổ tiên xa xưa; trong số năm châu, châu Phi là chốn sẽ dạy nó cho bạn: rằng thần linh và quỷ dữ chỉ là một, đó là đấng linh thiêng đời đời, không phải có hai mà chỉ có một đấng tối thượng tự thân mà có, và người bản xứ không lẫn lộn Ba Ngôi cũng như phân chia linh thể của Ba Ngôi*. Bằng các chuyến đi săn, hay thông qua lao động nơi đồn điền, mối dây liên hệ giữa tôi và những người bản địa được tạo dựng và phát triển thành quan hệ cá nhân bền vững. Chúng tôi là bạn tốt của nhau. Tôi chấp nhận thực tế chẳng bao giờ biết rõ hay hiểu họ ngọn ngành trong khi họ lại thông tỏ về tôi và biết các quyết định của tôi trước cả thời điểm tôi đi đến những quyết định ấy. Có dạo tôi sở hữu một trang trại nhỏ ở Gil-Gil*, sống trong lều, di chuyển giữa chỗ đó và đồn điền Ngong* bằng tàu hỏa. Ở Gil-Gil, lắm bận lúc trời chớm mưa, tôi thình lình quyết định quay về nhà. Vậy mà lúc tới Kikuyu, ga tàu cách đồn điền mươi dặm, đã có một người của tôi ở đó cùng con la cho tôi cưỡi. Khi được hỏi do đâu biết tôi sẽ về, họ nhìn tránh qua phía khác, vẻ lúng túng ngỡ như hốt hoảng hay ngao ngán, tựa thái độ ở chúng ta nếu bị một người điếc đặc khăng khăng đòi cắt nghĩa một bản giao hưởng. Khi một người bản xứ cảm thấy an toàn lúc ở bên ta, chẳng còn nơm nớp về các cử động đột ngột hay tiếng ồn bất chợt ta gây ra, họ sẽ chuyện trò cởi mở hơn nhiều so với giữa người châu Âu với nhau. Dẫu chưa đáng tin hoàn toàn, nhưng nhìn chung họ khá thành thực. Sở hữu một danh thơm, tức có uy tín, là điều cực kì hệ trọng trong thế giới người bản xứ. Dường như họ đã cùng nhau, tại một thời điểm nào đó, đánh giá về bạn, và kết luận khi ấy sau này sẽ không được xem xét lại. Đôi khi cuộc sống ở đồn điền thật hiu quạnh, và trong tĩnh mịch của đêm đen khi từng phút, từng phút thời gian trôi qua trên chiếc đồng hồ treo tường và cùng với đó từng giọt, từng giọt sống như đang chảy khỏi bạn, https://thuviensach.vn bạn chỉ ước gì có một người da trắng để cùng chuyện trò. Song bao giờ tôi cũng cảm nhận được sự hiện hữu câm lặng, chở che của những người bản xứ, đang song hành với tôi, trên một cõi giới khác. Các trao đổi giữa hai cõi chúng tôi chỉ là những âm vọng. Dân bản địa là châu Phi bằng xương bằng thịt. Ngọn núi lửa hùng vĩ Longonot nằm im lìm trên thung lũng Rift, giống cây Mimosa tán rộng mọc dọc các triền sông, loài voi hay hươu cao cổ, hết thảy đều chẳng thể thuần Phi hơn được người bản địa, những dáng hình nhỏ bé giữa khung cảnh bao la. Tất cả thứ kể trên đều chỉ là các biểu đạt khác nhau của cùng một ý tưởng, các biến thể từ cùng một chủ đề. Đó không phải một tập hợp tương hợp các phần tử bất đồng, mà là tập hợp không đồng nhất của các phần tử tương hợp, như lá sồi và quả sồi đều từ cây sồi. Chính dân da trắng chúng ta, chân mang ủng, luôn sấp sấp ngửa ngửa, lại thường là hình ảnh bất tương hợp ở đây. Người bản xứ hòa hợp làm một với xứ sở này, và khi những con người cao, gầy, mắt huyền, da đen nhẫy, di chuyển, luôn theo hàng dọc một người nên ngay cả các mạch máu giao thông chính của họ cũng chỉ là các lối mòn vừa bước một chân, hoặc làm đất, hay chăn dắt đàn mục súc, hoặc nhảy múa tại lễ hội, hay kể bạn nghe một câu chuyện, thì đó chính là châu Phi đang đi lại, làm lụng, nhảy múa hay giúp bạn giải khuây. Trên miệt cao nguyên bạn sẽ nhớ tới mấy câu thơ sau: Tôi luôn gặp Nét thanh cao nơi dân bản địa, và cái vô vị ở kẻ nhập cư.* Vật đổi sao dời, xứ thuộc địa giờ đã biến chuyển khác xa dạo tôi còn ở đó. Hi vọng những điều tôi viết lại đây, ở mức độ chính xác nhất có thể, về các nếm trải tại đồn điền, và với đất nước này cùng một số cư dân của thảo nguyên và đại ngàn, khả dĩ mang lại chút thích thú nào đó về mặt lịch sử. https://thuviensach.vn 2 Chú nhóc bản xứ Kamante là một chú nhóc Kikuyu, con một gia đình lưu dân đồn điền. Tôi vẫn biết rành những đứa trẻ con lưu dân, bởi chúng không chỉ làm công cho tôi, mà còn thường lùa dê tới mấy trảng cỏ quanh nhà tôi, với niềm tin sẽ gặp chuyện thú vị xảy ra tại đây. Nhưng Kamante hẳn đã sống ở đồn điền được vài năm cho tới ngày tôi gặp cậu, đây âu cũng bởi lối sống thui thủi, giống một con thú bị ốm ở cậu. Tôi chạm trán Kamante lần đầu lúc cưỡi ngựa băng qua vùng đồng thảo của đồn điền, là nơi cậu đang chăn dắt bầy dê nhà. Kamante là đối tượng thảm thương nhất bạn bắt gặp trên đời: đầu to, người loắt choắt ốm o, khuỷu tay và đầu gối lồi ra như mấu gỗ trên que củi, từ đùi xuống tận gót chân đầy vết loét sâu, chảy mủ. Giữa thảo nguyên, nom cậu bé nhỏ lạ thường khiến ta bàng hoàng bởi sao khôn xiết khổ đau khả dĩ tụ vào chỉ một điểm thế này. Khi tôi dừng ngựa bắt chuyện, cậu không buồn đáp, như thể chẳng hề thấy tôi. Trên khuôn mặt choắt lại, thảm não và nhẫn nhục tới cùng cực, đôi mắt cậu lờ đờ, mờ đục tựa mắt vong nhân. Kamante nom như chẳng thể sống qua nổi vài tuần, và bạn đồ chừng lũ kền kền, loài vật luôn quanh quẩn gần cái chết nơi thảo nguyên, đang lượn vòng đâu đó giữa không trung màu xám hừng hực trên đầu cậu. Tôi bảo Kamante sáng hôm sau tới nhà để tôi thử chạy chữa cho. Hầu như sáng nào cũng vậy, từ chín đến mười giờ, tôi đóng vai bác sĩ cho người ở đồn điền và hệt mọi lang băm lừng danh tôi đón tiếp từ hai tới cả tá người đau ốm. Người Kikuyu thích ứng tốt ở các tình huống bất ngờ và nhanh quen với điều không mong đợi. Đây là điểm khác biệt với dân da trắng mà phần đông đều tìm mọi cách phòng thủ trước cái chưa biết cũng như cú đòn đột https://thuviensach.vn kích của định mệnh. Sống thuận hòa cùng vận mệnh, cả đời nằm trong bàn tay nó, với người da đen vận mệnh, ở một chừng mực nhất định, chính là mái ấm, là bóng tối quen thuộc trong lều, là tầng đất sâu tơi xốp cho bộ rễ của mình. Anh ta đối mặt mọi bất định ở đời với sự điềm tĩnh trác tuyệt. Trong bảng liệt kê các phẩm chất anh trông đợi ở chủ nhân, bác sĩ hay thánh thần, trí tưởng tượng, tôi tin, sẽ ở hàng đầu. Có lẽ bằng vào thế mạnh phẩm chất như vậy, đức vua Haroun ai Raschid* đã là vị quân vương mẫu mực của các con tim châu Phi và Ả Rập; với ngài không ai phỏng đoán được điều kế tiếp, hay điểm yếu ở đâu. Khi đề cập phẩm tính của thánh thần, giống trong Nghìn lẻ một đêm hay ở mấy chương cuối sách Job, kinh Cựu Ước, người dân châu Phi luôn nói về cùng một năng lực khiến họ thán phục, ấy là sức mạnh vô biên của trí tưởng tượng. Nhờ ở đặc điểm này của người dân nơi đây, tôi được biết đến rộng rãi, hay có thể nói đã giành được tiếng tăm trong vai trò thầy thuốc. Trên chuyến tàu thủy đưa tôi lần đầu tới châu Phi, có một khoa học gia xuất sắc người Đức mang theo hơn một trăm con chuột xám và chuột lang, trong hành trình thứ hai mươi ba của mình đi nghiên cứu liệu pháp chữa chứng mất ngủ. Nhà khoa học kể cái khó của mình khi làm việc cùng bệnh nhân bản xứ không bao giờ bởi họ thiếu can đảm, lúc đối diện đau đớn hay một vết cắt mổ lớn đa phần họ chỉ e dè chút đỉnh, mà ở ác cảm cố hữu trước tính nguyên tắc, tính hệ thống hay sự lặp đi lặp lại của quá trình chữa trị, điều mà nhà khoa học người Đức không sao hiểu nổi. Tuy nhiên khi đã biết người bản xứ, chính đây lại là phẩm chất tôi ưa nhất ở họ. Họ có lòng dũng cảm đích thực: ấy là niềm thích thú thuần nhất với hiểm nguy, tiếng đáp chân chính của con người trước lời tuyên cáo từ số phận, âm vọng từ Trái Đất khi thiên đường cất tiếng gọi. Lắm khi tôi nghĩ, trong thâm tâm họ sợ chúng ta chính ở lối thông thái rởm. Sa vào tay những kẻ ra vẻ mô phạm, họ sẽ chết vì buồn chán. Người bệnh của tôi chờ ở khoảnh hiên lát gạch trước nhà. Họ ngồi xổm, những bộ xương già nua với cơn ho xé ngực và nước mắt giàn giụa, lũ trai tráng càn rỡ thân hình mảnh dẻ trơn láng và mắt đen miệng thâm, các bà https://thuviensach.vn mẹ đeo dưới cổ đứa con đang sốt bừng bừng như búp hoa héo úa. Tôi luôn phải chữa những ca bỏng nặng, vì người Kikuyu thường ngủ quanh đống lửa trong lều, và các thanh củi hay than đang cháy có thể đổ sụp vào họ, nhiều đận khi thuốc men cạn kiệt, tôi phát hiện mật ong là thứ thuốc mỡ trị bỏng chẳng hề tồi. Không khí ngoài hiên sôi động tựa như ở các sòng bạc châu Âu. Song lúc tôi từ trong bước ra, mạch thì thào hưng phấn kia chợt ngưng bặt, nhưng sự im lặng khi ấy thai nghén các khả năng bởi giờ là thời khắc điều gì đó sẽ xảy đến. Tuy nhiên họ luôn chờ tôi lựa chọn người được khám đầu tiên. Chẳng biết bao lăm về nghề thuốc, đầu chỉ có mỗi dúm kiến thức hạn hẹp học ở khóa sơ cứu, song danh tiếng bác sĩ của tôi vẫn được lan truyền bởi vài cơ may chữa trị thành công trong khi lại chẳng bị hủy hoại sau các sai lầm thảm khốc mắc phải. Giả như giờ tôi đảm bảo sẽ chữa khỏi cho tất tật bệnh nhân, chắc gì đám con bệnh vòng trong vòng ngoài kia lại chẳng thưa thớt đi? Khi ấy hẳn tôi sẽ đạt được uy tín về chuyên môn, đây quả đúng là một bác sĩ tài ba đến từ rặng Volaia*, nhưng liệu họ có còn tin Đấng Tối Cao vẫn ở bên tôi? Bởi ấy là Đấng họ am tường qua vô số năm hạn hán, qua bầy sư tử rình rập trên thảo nguyên giữa đêm, qua lũ báo lởn vởn quanh nhà khi bên trong chỉ có mỗi trẻ nhỏ, qua các đàn châu chấu từ nơi nao chẳng tỏ tấn công xứ này không tha dù chỉ một cọng cỏ. Họ cũng thấu đáo Ngài qua những giờ phút hân hoan chẳng thể tin nổi lúc bầy đàn đen kịt ấy bay qua các nương ngô mà không hề đậu xuống, hoặc dịp xuân về mưa sẽ đến sớm đến nhiều, mang hoa thơm cùng vụ mùa bội thu cho các cánh đồng và thảo nguyên. Vậy nên một khi đụng tới các vấn đề thực sự trọng đại của cuộc sống, vị thầy thuốc giỏi giang núi Volaia chỉ là dạng ngoại nhân. Buổi sáng sau hôm gặp gỡ đầu tiên ấy, Kamante khiến tôi ngỡ ngàng khi xuất hiện tại hiên nhà. Cậu đứng đó, hơi tách khỏi ba, bốn bệnh nhân khác, dáng người thẳng, bộ mặt giống kẻ sắp chết, tựa như sau cùng Kamante đã https://thuviensach.vn tìm được chút cảm giác quyến luyến đời, và giờ quyết tận dụng cơ hội sau cùng này bấu víu vào nó. Theo thời gian Kamante chứng tỏ mình là một bệnh nhân mẫu mực. Đến khám đúng yêu cầu không chút sơ sót, cậu theo dõi thời gian để tuân thủ chu trình tái khám sau mỗi ba hoặc bốn ngày, một điều cá biệt với dân bản xứ. Kamante bình thản chịu đựng đau đớn khi chữa trị theo cách tôi chưa từng thấy. Vì các khía cạnh kể trên, tôi hoàn toàn có thể tuyên dương cậu như một hình mẫu cho người khác noi theo, nếu Kamante chẳng cùng lúc mang đến cho tôi nhiều day dứt. Rất hi hữu, vô cùng hiếm hoi tôi mới được hạnh ngộ một sinh vật hoang dã, một con người tách biệt trọn vẹn nhường ấy với thế giới, và bằng thái độ cam chịu tột cùng, đã khép chặt mình trước cuộc sống xung quanh. Sẽ đáp lời khi tôi gặng hỏi, có điều Kamante chẳng bao giờ tự nguyện hé môi hay đoái nhìn đến tôi. Cậu tuyệt nhiên không mang lòng trắc ẩn, và luôn giữ nét cười khinh khi vẻ ta đây chẳng vậy trước những giọt nước mắt ở các bệnh nhi được rửa và băng bó vết thương, dù không ngó ngàng gì tới chúng. Kamante chẳng màng giao du với thế giới xung quanh dưới bất cứ hình thức nào, với nó cậu hẳn từng có các mối liên hệ vô cùng tàn khốc. Lòng quả cảm khi đối diện nỗi đau ở cậu là của một lão chiến binh. Chẳng gì có thể tệ hại đến mức gây cho cậu kinh ngạc được nữa: Kamante, bằng trải nghiệm và triết lí sống, đã được chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất rồi. Kamante làm tất cả những điều này với vẻ ngạo nghễ nhắc tôi nhớ tới lời tuyên tín của Prometheus*: “Đau đớn là tế bào ta cũng như căm ghét là thành tố ngươi. Cứ xé xác ta ra đi, ta nào có bận lòng.” Hoặc, “Hãy giở trò ghê gớm nhất ra đi, Ngươi toàn năng cơ mà.” Nhưng ở một chú bé cỡ tuổi Kamante, nó lại khiến bạn hoang mang và đau lòng. Rồi Chúa sẽ nghĩ sao, tôi nhủ thầm, khi gặp phải thái độ này ở một đứa trẻ? Tôi nhớ rõ mồn một lần đầu Kamante nhìn và tự nguyện nói với tôi. Đó hẳn là sau một thời gian chúng tôi quen biết, bởi tôi đã từ bỏ kiểu chữa trị ban đầu, và đang thử liệu pháp đắp nóng học được từ sách. Trong tâm trạng https://thuviensach.vn hăm hở áp dụng cách thức mới, tôi đã đắp miếng thuốc hơ quá nóng lên vết thương và lúc đang quấn băng bên ngoài thì Kamante chợt nói: “Msabu” rồi nhướn mắt liếc tôi. Người bản xứ dùng từ Hindu này để gọi phụ nữ da trắng; tuy nhiên họ phát âm hơi khác và biến nó thành một từ châu Phi; với âm sắc bất đồng. Qua miệng Kamante, nó như tiếng kêu cứu, nhưng cũng là lời cảnh báo, từ người bạn thủy chung can gián ta làm điều không xứng với mình. Sau đó tôi nghiền ngẫm lại chuyện ấy với một niềm hi vọng. Tôi đã có khát vọng của một bác sĩ; và lấy làm ân hận đã ấp thuốc quá nóng lên cậu, song đồng thời lại mừng rỡ bởi đó là cái nhìn câu thông đầu tiên giữa đứa trẻ hoang dã và tôi. Con người cam chịu đến cùng cực, tuyệt nhiên chẳng trông mong nhận lãnh gì khác ngoài khổ đau kia, đã không mong đợi nỗi đau ấy đến từ tôi. Tuy nhiên việc chạy chữa cho cậu diễn tiến chẳng mấy khả quan. Suốt một thời gian dài tôi gắng rửa sạch và băng bó chân cho cậu, nhưng căn bệnh vượt quá khả năng của tôi. Đôi lần tình trạng có khá lên chút đỉnh, có điều rồi các vết loét lại xuất hiện ở những chỗ mới. Rốt cuộc tôi quyết định đưa Kamante tới nhà thương của Hội truyền giáo Scotland. Quyết định lần này của tôi, rốt cục, hàm chứa đủ độ chết chóc và tiềm tàng quá nhiều khả năng để khiến Kamante có phản ứng, cậu không muốn đi. Kinh nghiệm và triết lí sống ngăn Kamante cưỡng chống bất kể thứ gì, vậy mà khi được tôi lái xe chở tới Hội truyền giáo, và giao vào dãy nhà bệnh xá dài hun hút thì cậu run lên cầm cập giữa môi trường hoàn toàn xa lạ và bí ẩn. Tôi là hàng xóm của hai Hội truyền giáo. Ngôi nhà thờ của Hội truyền giáo Tin lành Scotland; cách mười hai dặm phía Tây Bắc, nằm cao hơn đồn điền năm trăm bộ; còn Hội truyền giáo Công giáo La Mã của Pháp tọa lạc mười dặm về phía Đông, trên một vùng đất bằng, lại thấp hơn chỗ tôi năm trăm bộ. Dẫu chẳng hề tán đồng các Hội truyền giáo, nhưng ở phương diện cá nhân, tôi làm bạn với cả đôi bên, và lấy làm tiếc khi họ phải sống trong tình trạng thù nghịch lẫn nhau. https://thuviensach.vn Các cha cố người Pháp là bạn bè chí thiết của tôi. Tôi thường cùng Farah cưỡi ngựa tới chịu lễ misa ở chỗ họ vào sáng Chủ nhật, một phần để lại được nói tiếng Pháp, phần nữa vì chặng đường tới Hội truyền giáo đẹp tuyệt. Số là già nửa chặng đường này xuyên qua khu rừng keo già thuộc sở Lâm nghiệp, và hương hoa keo mặn mà, tinh khôi giữa buổi sớm mai đem đến cho ta cảm giác ngọt ngào, sảng khoái. Ta luôn ngỡ ngàng khi chứng kiến giáo đường Công giáo La Mã mang được thứ khí thế đặc thù đến bất cứ địa phương nào nó tọa lạc. Các cha cố, được giáo dân bản xứ trợ giúp, đã tự thiết kế rồi cất lên giáo đường này và đương nhiên họ rất tự hào về nó. Tọa lạc trên một khoảng đất rộng nằm giữa đồn điền cà phê lâu đời nhất và được chăm sóc rất khéo của xứ thuộc địa, ngôi nhà thờ màu xám, đồ sộ, tráng lệ, đỉnh có tháp chuông, vươn cao bên trên các bậc tam cấp và lớp hàng rào. Hai bên cánh nhà thờ là khu nhà ăn mái vòm cùng tổ hợp kiến trúc của tu viện trong đó trường học hay xưởng xay xát đều nằm dưới mé bờ sông, và để tới được con đường dẫn lên nhà thờ, bạn phải vượt qua một nhịp cầu cong. Cầu xây rặt bằng đá xám, khi phóng ngựa qua, bạn nom nó oai nghiêm đâu ra đó giữa cảnh vật xung quanh, chẳng khác nào đang ngự ở miền Nam Thụy Sĩ hay mạn Bắc Ý vậy. Lễ misa xong xuôi, với thái độ thân thiết, các cha chờ tôi ở cửa nhà thờ để mời “một li vang con con*” trong nhà ăn rộng rãi và mát mẻ bên kia sân; thật diệu kì khi nghe họ thuật vanh vách tất tật những gì đang diễn ra trên khắp xứ thuộc địa, thậm chí ở cả những góc nẻo xa xôi nhất. Họ cũng sẽ hút kì hết bất cứ tin tức nào bạn mang trong người, tựa một bầy ong nâu nhỏ bé, linh lợi, có lông trên người, vì các cha đều để râu rậm dài, đang bu trên một bông hoa đầy mật ngọt. Trong khi hào hứng đến thế với cõi thế tục xứ thuộc địa, các cha vẫn luôn mang phong thái riêng của những người Pháp bị lưu đày, nhẫn nhục và vui vẻ tuân phục các sắp đặt của Đấng Tạo Hóa huyền bí. Giá như không có đấng bề trên ấy, bạn cảm thấy hết thảy tuyệt chẳng thể nằm tại chốn đây, cả nhà thờ đá xám có tháp chuông cao vút, cả những mái vòm, cả trường học hay bất kì bộ phận nào của khu đồn điền hoặc cơ sở truyền giáo này. Bởi một khi lời phóng thích được tuyên, https://thuviensach.vn mọi thứ này sẽ bỏ mặc sự tình cho xứ thuộc địa và theo đường ong trực chỉ bay về Paris ngay tắp lự. Quản hai con ngựa trong thời gian tôi ở giáo đường rồi nhà ăn, trên đường về Farah sẽ nhận thấy tâm trạng phấn chấn ở tôi. Bản thân là một tín đồ Hồi giáo ngoan đạo, không động đến rượu, nhưng anh vẫn chấp nhận lễ misa và uống vang là các nghi thức phù hợp cho tôn giáo của tôi. Các cha xứ người Pháp thảng hoặc cũng cưỡi mô tô tới đồn điền và dùng bữa trưa ở đây. Họ trích dẫn Lafontaine cũng như cho tôi lời khuyên bổ ích trong canh tác cà phê. Tôi không quen thân Hội truyền giáo Tin lành Scotland như thế. Cơ sở của họ có một tầm nhìn ngoạn mục bao quát toàn bộ địa hạt dân Kikuyu cư trú, tuy vậy Hội truyền giáo này lại mang cho tôi ấn tượng về sự mù lòa, cứ như nó chẳng thấy được gì. Khi ấy nhà thờ Tin lành Scotland đang ra công khoác các áo váy Âu châu lên người bản xứ, điều tôi nghĩ, nhìn từ mọi góc độ, chẳng mang lại ích lợi gì cho họ. Tuy nhiên, trong thời gian tôi sống tại châu Phi, Hội truyền giáo này có một bệnh xá rất tốt do bác sĩ Arthur, một thầy thuốc thông minh, đầy lòng nhân ái cai quản. Họ đã cứu mạng nhiều cư dân đồn điền. Các y bác sĩ giữ Kamante ba tháng tại Hội truyền giáo Tin lành Scotland. Trong quãng thời gian đó tôi có nhìn thấy cậu một bận. Lần ấy đang cưỡi ngựa ra ga xe lửa Kikuyu, tới đoạn đường chạy song song bệnh xá, tôi bắt gặp Kamante đứng ngoài trời, hơi tách biệt khỏi mấy tốp bệnh nhân khác. Lúc này cậu đã bình phục đáng kể để có thể chạy nhảy. Nom thấy tôi, cậu bèn tiến sát lại bờ rào rồi cứ thế chạy theo cho đến hết đoạn đường song song. Giống chú ngựa con trên bãi chăn thả lúc bạn phóng ngựa qua, Kamante lẽo đẽo chạy phía trong hàng rào, mắt bám vào ngựa tôi nhưng chẳng thốt nửa lời. Tới góc ranh giới khuôn viên bệnh xá, Kamante buộc phải dừng bước, và trong khi ngựa sải vó tôi ngoái lại thấy cậu vẫn đứng sững, nhướn lên dõi theo, dáng tựa chú ngựa con lúc bạn rời xa nó. Thấy https://thuviensach.vn tôi vẫy tay chào, thoạt tiên Kamante chẳng hề phản ứng, rồi cậu vụt giơ thẳng tay lên trời như cột cần máy bơm nước, song chỉ một lần duy nhất. Kamante quay lại nhà tôi vào sáng Chủ nhật Phục Sinh, cầm theo lá thư của bệnh xá thông báo bệnh cậu giờ đã khỏi và thể trạng cũng khá hơn rất nhiều. Hẳn đã biết chút gì đó ở nội dung thư, nên Kamante chăm chú dõi theo sắc mặt tôi lúc đọc, nhưng cậu không muốn bàn đến điều ấy bởi trong đầu đang chất chứa nhiều chuyện quan trọng hơn. Luôn khư khư thái độ chừng mực hoặc dè dặt giữ kẽ, ấy thế mà lần này mặt cậu ngời lên vẻ hân hoan chiến thắng bị kìm nén. Dân sở tại chuộng các hiệu ứng kịch tính. Kamante đã cẩn thận quấn kín hai ống chân tới tận đầu gối bằng dải băng cũ để tạo bất ngờ cho tôi. Rõ ràng cậu nhìn nhận mức độ trọng đại của thời khắc này, không từ góc độ may mắn của bản thân, mà hào hiệp coi đây như cơ hội mang lại niềm vui cho tôi. Kamante hẳn vẫn nhớ bao phen tôi phiền não trước những thất bại liên miên trong quá trình chữa bệnh cho cậu, và biết kết quả điều trị ở bệnh xá sẽ gây sửng sốt. Cậu từ tốn tháo dần lớp băng từ đầu gối xuống gót để lộ ra làn da chần nhẵn nhụi, chỉ lờ mờ các vết sẹo xám. Sau khi rất khoái chí, theo cung cách cực kì thản nhiên của mình, thưởng thức sự kinh ngạc và niềm thích thú ở tôi, Kamante tiếp tục gây ấn tượng bằng lời tuyên bố trịnh trọng mình đã là người Thiên Chúa giáo. “Cháu giờ cũng như cô rồi,” cậu bảo. Kamante còn nói thêm tôi nên cho cậu một rupee để ăn mừng vì hôm nay là ngày Chúa sống dậy. Sau đó Kamante đi gặp gia đình. Mẹ cậu là một góa phụ sống trong đồn điền, cách đó khá xa. Về sau bà mẹ có kể lại, hôm ấy Kamante đã đi ngược thói thường, dốc ruột dốc gan thuật cho mẹ nghe về những con người và cung cách kì lạ cậu gặp tại bệnh xá. Nhưng sau khi ghé qua túp lều của mẹ, Kamante quay lại nhà tôi như thể từ đây cậu nghiễm nhiên thuộc về chốn này. Từ đấy Kamante làm việc cho tôi tới tận ngày tôi rời khỏi châu Phi, trong khoảng mười hai năm. https://thuviensach.vn Dạo mới gặp nom Kamante chỉ như sáu tuổi, nhưng cậu có một người em trạc tám tuổi và cả hai đều công nhận Kamante là anh nên tôi đồ rằng cậu bị còi cọc vì ốm đau kinh niên và hồi ấy Kamante hẳn khoảng chín tuổi. Giờ cậu đã lớn hơn, có điều nhìn vẫn như một chú lùn, hoặc dị dạng sao đó, dù ta chẳng thể nào chỉ ra đích xác điểm gì khiến cậu như vậy. Theo thời gian khuôn mặt xương xẩu ở Kamante dần tròn trịa, đi đứng cũng dễ dàng, và cá nhân tôi không nghĩ cậu xấu, nhưng cũng có lẽ bởi ấy là cặp mắt của người tạo tác dành cho sản phẩm của mình. Riêng chân cậu tứ thời vẫn như hai xe điếu. Với ngoại hình kì dị nửa vui mắt, nửa ma quái, chỉ cần được chỉnh sửa chút ít là Kamante khả dĩ lên ngồi được trên nóc nhà thờ Đức Bà Paris mà ngó xuống. Toát lên thứ cốt cách năng nổ và sáng dạ, Kamante như một mảng màu lệch tông trên bức tranh và cậu tô điểm thêm một nét đẹp hội họa vào đội ngũ gia nhân của tôi. Đầu óc cậu chẳng bao giờ thật sự bình thường, hay ít nhất theo cách nói của dân da trắng, Kamante khá lập dị. Kamante là người trầm tư, cả nghĩ. Có lẽ những năm dài cơ cực đã phát triển trong cậu xu hướng suy ngẫm và rút ra kết luận riêng từ mọi điều mắt thấy tai nghe. Suốt đời Kamante sống tách biệt, theo cách riêng của cậu. Thậm chí ở cùng một việc, cậu cũng thực hiện khác mọi người. Tôi có một lớp học buổi tối, dành cho cư dân đồn điền, do thầy giáo người bản xứ giảng dạy. Các thầy đều ở Hội truyền giáo tới và trong thời gian sống tại đây tôi đã mời thầy của cả ba Hội truyền giáo, Công giáo La Mã, Anh giáo, Tin lành Scotland. Đó là bởi việc dạy người bản xứ đều tuyệt đối dựa theo kinh sách và theo tôi biết ngoài Kinh Thánh hay mấy cuốn Thánh ca chẳng có sách nào được dịch ra tiếng Swaheli* cả. Trong giai đoạn ở châu Phi, tôi dự định dịch cho người bản xứ các mẩu truyện ngụ ngôn Aesop nhưng rồi chẳng bao giờ có thời gian để hoàn thành. Dẫu vậy với tôi, lớp học vẫn là điểm đến ưa thích tại đồn điền, là tâm điểm đời sống tinh thần của chúng tôi, và tôi đã trải qua những buổi tối êm đềm trong gian lớp vốn là một căn nhà kho dài, cũ kĩ, quây tôn múi. https://thuviensach.vn Kamante tới đó cùng tôi nhưng chẳng chịu ngồi chung băng ghế với các trẻ khác mà lánh ra xa, như cố tình nhắm mắt bịt tai từ chối học, để hả hê trước cái khờ khạo ở những kẻ cam nguyện cho người ta lôi đến đây, và để lắng nghe. Song trong không gian riêng tư ở căn bếp nhà, tôi bắt gặp Kamante cóp nhặt từ trí nhớ, rất chậm chạp và ngây ngô, các chữ cái và con số quan sát được trên tấm bảng đen lớp học. Tôi nghĩ dẫu muốn cậu cũng không thể tới lớp cùng các học sinh khác; ngay từ những năm đầu đời ở Kamante đã có gì đó bị lệch lạc, khóa chặt nên giờ trong mắt cậu điều bình thường chẳng còn bình thường nữa rồi. Kamante nhận thức được nét dị biệt này ở bản thân và với cái vĩ đại đầy kiêu ngạo nơi tâm hồn một chú lùn đích thực, khi nhận ra bản thân khác biệt toàn thế giới, cậu liền mặc nhiên coi cả thế giới đều méo mó. Khôn ranh và riết róng chuyện tiền bạc, Kamante có nhiều thương vụ mua bán dê khá khôn ngoan với những người Kikuyu khác. Cậu cũng lấy vợ sớm, dẫu kết hôn là sự kiện tốn kém trong thế giới của họ. Cùng lúc tôi lại nghe cậu triết lí rốt ráo và độc đáo về sự vô nghĩa của tiền. Cậu có quan điểm kì dị về cuộc sống: làm chủ nhưng chẳng hề xem trọng nó. Kamante không có khả năng khen ngợi. Cậu có thể thừa nhận và đánh giá cao trí khôn loài vật, song suốt thời gian quen biết, tôi chỉ nghe cậu đề cập với thái độ tán thưởng về đầu óc khôn ngoan của độc một người là cô gái Somali chuyển tới sống trong đồn điền vài năm sau. Kamante dành một nụ cười mai mỉa cho tất cả các tình huống, nhưng chủ yếu nhắm vào mọi sự tự tin hay ba hoa khoác lác của kẻ khác. Có thiên hướng dễ sinh ác ý, dân sở tại thường hả hê trước thất bại, hỏng hóc và điều này gây tổn thương, phẫn nộ cho người châu Âu. Nâng thói này lên mức toàn thiện toàn mĩ hiếm thấy, thậm chí thành một kiểu tự trào chẳng lẫn vào đâu, Kamante thích thú trước những nỗi thất vọng và tai họa của bản thân, gần hệt như của kẻ khác. Tôi cũng gặp dạng tâm tính này ở các bà già bản xứ từng sưởi ấm bên bao nhiêu đống lửa, những người có chung dòng máu với Số Mệnh, luôn thông cảm đón nhận những trò mai mỉa từ nó, như đến từ chị em gái mình. Mỗi https://thuviensach.vn sáng Chủ nhật, tôi thường vẫn để gia nhân bán thuốc lá dạng bột hít, ở đây họ gọi là tombacco, cho các bà già bản xứ, lúc chính tôi còn nằm vùi trên giường. Vậy nên cứ tới Chủ nhật, quanh nhà tôi lại tụ tập đám đông khách hàng kì khôi, hao hao một sân nuôi láo nháo đầy gà vịt già, trụi lủi lông, da nhăn nheo, gầy trơ xương; và tiếng họ lào kháo, người bản xứ rất hiếm khi cao giọng, luồn qua song vào tận phòng tôi ngủ. Sáng Chủ nhật nọ, mạch trò chuyện sống động và từ tốn của người Kikuyu hốt nhiên rộ thành những đợt sóng cồn và tường nước của náo nhiệt cười đùa; hẳn ngoài kia đang xảy ra một biến cố khôi hài, và tôi bèn gọi Farah tới để hỏi. Farah chẳng hào hứng thuật lại vì nguyên do là chính anh đã quên khuấy mua thuốc bột hít khiến đám bà già lặn lội đường xa tới đều, như cách họ nói, boori - công cốc. Sự việc này sau đó trở thành giai thoại của các cụ bà người Kikuyu. Thảng hoặc, khi giáp mặt trên lối mòn giữa nương ngô, một bà cụ sẽ chặn tôi lại, trỏ ngón tay cong queo khẳng khiu vào tôi, và với bộ mặt già nua tăm tối đang tan vào tiếng cười làm hết thảy vết nhăn xếp thành nếp thẳng, tựa như có một sợi dây bí mật đâu đó đang được kéo căng, bà nhắc tôi nhớ lại cái Chủ nhật khi mình và mấy chị em nhóm thuốc hít, lặn lội tới nhà, để rốt cuộc té ngửa ra tôi đã quên bẵng không chuẩn bị thuốc, và tuyệt chẳng có một hạt bụi thuốc nào ở đấy cả - Ha ha, Msabu ơi là Msabu! Người da trắng thường chê dân Kikuyu ăn ở bạc bẽo nhưng, dù từ góc độ nào, Kamante đều chẳng phải kẻ vô ơn; cậu thậm chí nói lên lòng tri ân của mình. Nhiều năm sau buổi đầu tương ngộ, Kamante vẫn hết lần này tới lần khác, trái ngược cung cách cư xử quen thuộc, thể hiện những nghĩa cử đỡ đần tôi mà chẳng quản có được nhờ hay không, và khi được hỏi cớ sao làm vậy, cậu bảo nếu không có tôi cậu đã chết rục từ lâu rồi. Kamante cũng bày tỏ ân tình theo một kiểu khác: đối xử tốt, sẵn lòng hỗ trợ, hay có lẽ chính xác hơn là rộng lượng chín bỏ làm mười với riêng tôi. Nguyên nhân âu cũng bởi Kamante nghĩ cậu và tôi là đồng đạo. Tôi cho dưới mắt cậu, giữa một thế giới rặt lũ ngốc, tôi là một trong những kẻ lố bịch hơn cả. Từ ngày tới làm và gắn bó số phận mình với số phận tôi, tôi cảm nhận được ánh nhìn chăm chú, thấu suốt của Kamante dõi theo mình, và toàn bộ lối sống* https://thuviensach.vn của tôi trở thành đối tượng của một sự phê phán hiển nhiên, phi thiên kiến; tôi tin, ngay từ đầu, cậu đã nhìn nhận nỗi phiền lụy tôi chuốc lấy khi nhọc công chữa trị cho cậu là do thứ đầu óc dị hợm thâm căn cố đế. Dẫu vậy cậu luôn cực kì quan tâm, thông cảm, và ráng sức khai thông cái mông muội ở tôi. Đôi lần tôi bắt gặp Kamante phải đầu tư thời gian và suy nghĩ cho tình trạng rầy rà này, nhằm sửa soạn và minh họa các chỉ dẫn của mình, để chúng trở nên dễ hiểu cho tôi. Khởi đầu cuộc sống trong nhà tôi ở chân quản chó, sau đó Kamante trở thành trợ lí y tế. Thông qua công việc này, nhận ra Kamante có đôi tay thật khéo, dẫu bạn sẽ chẳng nhận định như vậy nếu thấy chúng, tôi bèn gửi cậu xuống giúp việc dưới bếp, làm chân phụ bếp* cho Esa, ông đầu bếp sau này bị sát hại của tôi. Sau cái chết của Esa, cậu thay thế ông, và từ đó trong suốt thời gian làm cho tôi, Kamante đảm đương việc nấu nướng. Dân bản địa thường chẳng mấy khi động lòng trắc ẩn trước loài vật, tuy nhiên cũng như trong nhiều vấn đề khác, Kamante không vậy. Cậu là một quản chó rất đáng tin cậy, luôn đồng cảm với bầy chó và thường báo cho tôi lũ chúng muốn gì, thiếu gì, hay nghĩ gì. Cậu giữ chó không bị nhiễm rận, một ách nạn tại châu Phi, và nhiều bận giữa đêm, cậu và tôi, bị những tiếng chó tru đánh thức, dưới ánh đèn bão, bắt từ lông chúng từng con Siafu, loài kiến gộc sát thủ chuyên độc hành và chén sạch mọi thứ gặp trên đường. Hồi nằm ở bệnh xá Hội truyền giáo, Kamante hẳn đã chú tâm quan sát, dù với cậu đó luôn là ánh nhìn chẳng gợn chút trọng thị hay thành kiến, bởi cậu là một trợ tá y tế chu đáo và giàu sáng tạo. Sau khi thôi làm tại phòng khám, cậu nhiều phen rời gian bếp xen ngang vào việc khám chữa, và cho tôi những lời khuyên bổ ích. Nhưng trong vai trò đầu bếp Kamante là ngoại lệ và thách thức mọi nỗ lực xếp hạng. Ở đây Tự Nhiên đã có bước nhảy vọt phá vỡ thang bậc phát triển tuần tự của năng lực và tài năng để tạo nên một điều huyền diệu chẳng thể cắt nghĩa, như thường thấy trong các trường hợp của thiên tài. Dưới bếp, tại vương quốc của nghệ thuật ẩm thực, Kamante có đầy đủ đặc điểm của thiên https://thuviensach.vn tài, kể cả kiểu số phận đen đủi, sự bất lực của cá nhân bất chấp năng lực họ sở hữu, mà thiên tài vẫn thường phải gánh. Giá sinh ra ở châu Âu, được một người thầy giỏi giang dạy dỗ đến nơi đến chốn, Kamante hẳn sẽ nổi đình nổi đám, lưu danh sử sách như một dị nhân. Ngay giữa xứ châu Phi xa xôi cách trở này, cậu cũng thành danh và trong địa hạt nghệ thuật của mình, tâm thế cậu là thứ tâm thế của một bậc thầy. Rất hứng thú nấu nướng, trong dịp đầu tiên quay lại châu Âu, tôi đã theo học một đầu bếp Pháp tại nhà hàng danh tiếng bởi nghĩ sẽ vui biết bao nếu tự mình làm được các món ngon lành giữa châu Phi. Khi ấy vị đầu bếp nọ, Monsieur Perrochet, bởi lòng nhiệt thành tôi dành cho môn nghệ thuật này, đã mời tôi hợp tác cùng kinh doanh nhà hàng. Nay tìm ra Kamante, một tâm hồn đồng điệu, để cùng chế biến món ăn, thì niềm đam mê kia lần nữa lại cuốn tôi đi. Cùng nấu với cậu mở ra cho tôi một chân trời mới. Chẳng gì, tôi nhủ thầm, diệu kỳ hơn thứ bản năng bẩm sinh với nghệ thuật bếp núc của chúng ta ở con người hoang dã kia. Điều này khiến tôi có cái nhìn khác về nền văn minh chúng ta; sau cùng, trên một số khía cạnh, văn minh mang yếu tố siêu phàm, tiền định. Cảm giác của tôi giống của một người tìm thấy lại đức tin vào Chúa trời do được nhà não tướng học chỉ cho nếp nhăn chức năng hùng biện thần học nơi não người; nếu sự tồn tại của nếp nhăn ấy được chứng minh, sự đúng đắn của bản thân thần học cũng được chứng minh, và cuối cùng chính sự tồn tại của Chúa. Ở phạm trù nấu nướng, Kamante có đôi tay trác tuyệt. Các thủ thuật tài tình và thành tựu kiệt xuất* của công việc bếp núc rặt là trò trẻ con dưới bàn tay đen đủi, cong queo của cậu: chúng tự biết hết thảy mọi kiểu trứng tráng, bánh nướng nhân thịt, nước sốt hay sốt mayonnaise. Kamante có biệt tài khiến mọi thứ trở nên dễ như trở bàn tay giống chuyện cổ tích Chúa hài đồng lấy đất sét nặn hình bầy chim rồi bảo chúng vỗ cánh bay. Khinh bỉ mọi dụng cụ phức tạp, dường như khó chịu vì chúng hoạt động quá độc lập, cậu bỏ xó chiếc máy đánh trứng tôi giao đến han gỉ để dùng con dao xén cỏ ngoài vườn mà lòng trắng trứng cậu đánh vẫn bồng bềnh như mấy nùi mây sáng. Bằng con mắt tinh tường, thấu suốt, từ cả một sân nuôi Kamante có https://thuviensach.vn thể chọn ra con gà béo nhất hay ang áng khối lượng quả trứng trong lòng bàn tay cũng biết nó đẻ đã mấy ngày. Luôn tìm tòi cách cải thiện thực đơn nhà, bằng cách nào đó Kamante xin được từ người bạn đang làm thuê cho một vị bác sĩ tại vùng xa, hạt giống thứ rau diếp rất thơm mà chính tôi bỏ công nhiều năm dò tìm vẫn vô hiệu. Kamante có một trí nhớ tuyệt vời cho các công thức nấu nướng. Không biết đọc, lại mù tịt tiếng Anh, nên các sách dạy nấu ăn vô nghĩa với Kamante; tuy thế cậu hẳn lưu giữ mọi điều được thụ huấn trong cái đầu kém phần tao nhã theo một hệ thống riêng mà tôi vĩnh viễn chẳng tỏ tường. Đặt tên món ăn theo sự kiện xảy ra trong ngày học cách làm chúng, Kamante có thể nói về nước-xốt-tia-sét-đánh-trúng-cây hay nước-xốt-ngựa-xám-bị-chết mà chẳng hề lẫn lộn. Duy nhất có một thứ tôi gắng khắc ghi vào não cậu mà vẫn thất bại là thứ tự các món trong bữa, thành thử mỗi khi có khách tới ăn tối, tôi phải đưa cho cậu một thực đơn bằng hình vẽ: đầu tiên là hình đĩa súp, tới hình cá, rồi hình gà gô hay bông atisô. Tôi chẳng mấy tin khiếm khuyết này do trí nhớ kém, mà nghĩ thâm tâm cậu vẫn cho mọi thứ đều có chừng có mực của nó nên quyết không uổng phí thời gian vào những điều hoàn toàn nhảm nhí như vậy. Làm việc cùng yêu nghiệt thật lí thú. Gian bếp vốn là của tôi, nhưng trong quá trình cùng nấu nướng, dần dà tôi có cảm giác không chỉ bếp mà toàn bộ không gian làm việc chung giờ đã chuyển vào tay Kamante. Bởi tại đây cậu thông hiểu đến chân tơ kẽ tóc những gì tôi trông đợi ở cậu, và đôi khi còn thực hiện các mong muốn ấy trước khi tôi kịp nói ra; phần mình tôi vô phương thấu suốt bằng cách nào hay nguyên cớ do đâu cậu làm được như vậy. Tôi thấy thật kì lạ khi một người có thể xuất sắc nhường ấy trong thứ nghệ thuật họ chẳng thấu đáo ý nghĩa thực sự, thậm chí không chỉ không đồng cảm mà còn rẻ rúng. Kamante có lẽ chẳng hề biết món ăn của chúng ta ngon lành ra sao, và bất chấp quá trình khai hóa đang diễn ra cũng như mối liên hệ hiện tại với nền văn minh, từ sâu thẳm trái tim, cậu là người Kikuyu thuần chất luôn bám rễ https://thuviensach.vn sâu vào các tập tục bộ lạc cũng như niềm xác tín ở chúng, như thể đấy là lối sống duy nhất xứng đáng với con người. Họa hoằn cậu cũng nếm món mình nấu, nhưng mang bộ mặt ngờ vực, giống mụ phù thủy đang thử một hớp từ vạc thuốc của mình. Cậu khư khư bám lấy món bắp ngô quốc hồn quốc túy. Thậm chí đôi lần trí óc mẫn tiệp bỏ rơi cậu, và Kamante tìm đến mời tôi một món cao lương mĩ vị của người Kikuyu, khoai lang nướng hay tảng mỡ cừu, hệt chú chó nhà sống cùng người nhiều năm nhả khúc xương xuống trước mặt bạn như một món quà. Tôi cảm nhận, thâm tâm cậu luôn coi việc ta tự chuốc lấy các phiền hà, cực nhọc trong ẩm thực là hoàn toàn rồ dại. Đôi phen tôi gắng tìm hiểu quan điểm Kamante về chủ đề này, nhưng dù thẳng ruột ngựa trong nhiều đề tài, cậu lại rất mực kín đáo ở một số chuyện khác, thế nên hai chúng tôi đành tiếp tục sát cánh bên nhau trong bếp, gác quan điểm về tầm quan trọng của việc nấu ăn trong mắt kẻ đối diện qua một bên. Tôi thu xếp cho Kamante tới học việc bếp núc tại câu lạc bộ Muthaiga, rồi mỗi bận được thưởng thức một món ngon ở nhà bạn bè tại Nairobi tôi lại gửi cậu cho đầu bếp của họ. Ngay khi Kamante kết thúc giai đoạn học hỏi, bếp nhà tôi liền nức tiếng khắp xứ thuộc địa vì nhiều món ngon khiến tôi nở mày nở mặt. Tôi mong có khán giả thưởng thức nghệ thuật của mình, và mừng rỡ khi bằng hữu tới nhà ăn tối, nhưng Kamante chẳng để tấm lời tán thưởng của bất kì ai. Tuy nhiên cậu nhớ tất tật khẩu vị những người bạn thường lui tới nhà. “Với Bwana* Berkeley Cole cháu sẽ chuẩn bị món cá nấu cùng vang trắng,” cậu nói vẻ nghiêm trọng như nói về một kẻ loạn trí, “ông ấy còn gửi cô cả rượu vang trắng nấu cá nữa đây này.” Nhằm lấy ý kiến từ một thực khách sành sỏi, tôi mời người bạn già, ngài Charles Bulpett từ Nairobi đến dùng bữa tối. Ông Bulpett là lữ khách lịch lãm lớp xưa, những người cách Phineas Fogg* chỉ một thế hệ; ông từng bôn ba khắp địa cầu, tới nơi đâu cũng nếm thử các món ăn địa phương đặc sắc nhất, và chẳng đếm xỉa chuyện sống dai sống dài miễn sao được tận hưởng phút giây hiện tại. Nhiều cuốn sách về thể thao và leo núi năm mươi năm trước đề cập các thành tích điền kinh cũng như những chuyến leo núi của https://thuviensach.vn ông ở Thụy Sĩ hay Mexico, và ở một cuốn thuật lại những vụ cá cược đình đám tựa đề Trời cho Trời lấy bạn có thể đọc về vụ đánh cuộc ông bơi qua sông Thames trong phục trang tối mũ ống lêu đêu - nhưng sau đó, lãng mạn hơn nữa, ông còn bơi qua eo biển Hellespont* giống chàng Leander* hay ngài Nam tước Byron*. Tôi rất cao hứng khi ông tới đồn điền dự bữa tối thân mật*; quả thật hạnh phúc khi được chiêu đãi người mình quý mến bằng các món ngon tự tay bạn nấu. Để đáp lại ông chia sẻ các suy ngẫm về thực phẩm cũng như vô vàn điều khác trên đời, và bảo chưa ở đâu ông được dùng bữa tối ngon hơn đây. Vương Công xứ Wales* đem lại cho tôi niềm vinh hạnh lớn khi ghé thăm dùng bữa tối ở đồn điền, và hết mực tán thưởng món nước xốt Cumberland*. Đó là lần duy nhất Kamante hào hứng lắng nghe tôi thuật lại lời lẽ tán dương món cậu nấu, vì người bản xứ luôn coi trọng vua chúa và thích tán chuyện họ. Nhiều tháng sau, muốn được nghe lại câu chuyện, cậu bất đồ đặt một câu hỏi chẳng khác gì trong sách tập đọc tiếng Pháp, “Cái ông con vị Sultan ấy có ưa món xốt thịt lợn không? Ông ta đã xơi sạch món đó chứ?” Kamante dành tình cảm cho tôi cả ở bên ngoài gian bếp. Cậu muốn giúp tôi với những quan điểm điều hơn lẽ thiệt của mình. Có lần, vào quá nửa đêm, Kamante bỗng dưng lẳng lặng, như lúc đang làm việc, cầm cây đèn bão đi vào phòng tôi ngủ. Khi ấy hẳn Kamante mới tới ở nhà tôi, bởi cậu hẵng còn loắt choắt lắm. Kamante đứng cạnh giường, với đôi tai xòe to nom giống một chú dơi đen sì bay lạc vào phòng, hay như một đốm lửa ma trơi châu Phi bởi ngọn đèn trên tay. Cậu nói rất nghiêm trọng, “Msabu, cháu nghĩ tốt hơn cả cô cần trở dậy.” Ngồi trên giường lòng tôi hoang mang nghĩ nếu có chuyện gì nghiêm trọng ắt Farah đã phải tới tìm mình rồi chứ, tuy nhiên khi tôi nhắc lại yêu cầu đi đi cho tôi còn ngủ thì Kamante vẫn đứng chôn chân chẳng nhúc nhích. “Msabu,” cậu nhắc lại, “cháu cho là tốt nhất cô nên dậy đi. Cháu cho là Chúa đang tới đấy.” Nghe vậy rốt cục tôi rời khỏi giường và hỏi cậu vì sao nghĩ như thế. Kamante nghiêm trang dẫn tôi vào phòng ăn nhìn ra hướng Tây, về phía rặng núi. Qua khung cửa sổ, tôi bắt gặp một https://thuviensach.vn hiện tượng kì lạ. Trong núi đang có một đám cháy rừng rực, lửa cháy vạch một đường từ đỉnh núi xuống tới bình nguyên. Nhìn từ trong nhà ra, đường lửa ấy cơ hồ thẳng đứng, giống một bóng người khổng lồ đang di chuyển lại phía chúng tôi. Sau một lúc lặng ngắm, tôi cất lời giảng giải trấn an Kamante đứng kế bên, vì nghĩ cậu đích thị đang hồn vía lên mây. Nhưng dường như cậu chẳng để vào tai những lời tôi giải thích; Kamante rõ ràng cho rằng phận sự của mình đã hoàn tất sau khi đánh thức được tôi. “À vâng,” cậu bảo, “có thể vậy. Song cháu cho rằng tốt nhất cô nên dậy phòng khi đây thực sự là Chúa giáng thế.” https://thuviensach.vn 3 Kẻ hoang dã trong nhà dân nhập cư Có một năm các trận mưa dầm không về. Nó là kí ức thê thảm, khủng khiếp mà nông phu đã sống qua sẽ chẳng thể nào quên. Nhiều năm sau, giữa một địa phương xa châu Phi hàng vạn dặm, trong khí hậu ẩm ướt phương Bắc, anh sẽ choàng tỉnh giữa đêm bởi tiếng lộp độp của một trận mưa rào bất chợt, và kêu lên, “Mưa rồi, cuối cùng cũng mưa rồi.” Bình thường những cơn mưa dầm bắt đầu vào tuần cuối tháng Ba và kéo dài tới trung tuần tháng Sáu. Càng gần mùa mưa, khí hậu mỗi ngày một nóng và khô hơn, cả đất trời hầm hập giống ở châu Âu trước một cơn bão lớn, có điều gay gắt hơn. Đây là lúc bộ tộc Masai, láng giềng bên kia sông của chúng tôi, châm lửa đốt thảo nguyên khô nỏ để có các thảm cỏ biếc cho bầy gia súc khi những trận mưa đầu mùa kéo tới. Cùng ngọn lửa, bầu không khí miền đồng thảo cũng nhảy múa, các lớp khói xám trải dài và nhuốm sắc cầu vồng lan tỏa cuồn cuộn trên cỏ; sức nóng cùng mùi cháy khét như từ bếp lò phả tận tới vùng đất đai canh tác của chúng tôi. Những đám mây khổng lồ tụ lại rồi lại tan biến trên bầu trời; một cơn mưa lắc rắc nơi xa tít vạch nên đường xiên chéo xanh nhạt phía chân trời. Vạn vật chỉ có một ý niệm. Vào buổi chiều hôm, ngay trước lúc vầng dương khuất dạng, cảnh vật xung quanh vây lấy bạn, rặng sơn mạch trở nên gần gặn hơn, hùng vĩ và uy nghi trong sắc lơ thẩm và xanh lá ngời ngời của nó. Vài giờ đồng hồ sau, bạn bước ra ngoài, sao trời đã đi đâu cả, và bạn cảm thấy trời đêm dịu dàng, thăm thẳm kia đang thai nghén món quà cứu tế. https://thuviensach.vn Khi có tiếng hú gấp gáp quẩn quanh giữa không trung thì đó là gió trên ngọn cao cây rừng, chứ không phải mưa. Khi tiếng ù ù vang khắp bốn bể thì đó là gió trong những bụi cây và đám cỏ mọc cao, chứ không phải mưa. Khi tiếng rào rào hay soán soạt nổi lên trên mặt đất thì đó là gió trong các nương ngô, nơi ấy tiếng khua đông rất giống tiếng mưa khiến bạn cứ nhầm hết lần này tới lần khác, thậm chí còn thấy lòng phơi phới, như rốt cuộc sắp được thưởng ngoạn trên sân khấu một tiết mục mong mỏi đã lâu, chứ không phải mưa. Song lúc Trái Đất đáp lời, giống một tấm hướng âm, bằng giọng gầm sâu thẳm tốt tươi và cả thế gian quanh bạn, ở mọi hướng cũng như phía trên phía dưới, đều cất tiếng ca, thì đó là mưa. Nó giống việc được quay về với Biển sau cả thời gian dài xa cách hay như vòng tay ôm siết của tình nhân. Nhưng có một năm những cơn mưa dầm không kéo về. Sự thể như thể lúc này toàn bộ vũ trụ ngoảnh mặt đi với bạn. Trời mát mẻ hơn, một vài ngày thậm chí còn lạnh, tuy nhiên không có chút dấu vết hơi ẩm nào trong không khí. Mọi thứ trở nên khô và cứng hơn, tựa như tất thảy sinh lực và nét duyên dáng đã thoái lui khỏi thế giới. Đó không phải dạng thời tiết tốt hay xấu mà là thứ trái ngược mọi loại thời tiết, chẳng khác nào thời tiết đã bị trì hoãn không hẹn ngày tái ngộ*. Một làn gió vô vọng, hiu hiu thoảng trên đầu bạn, màu sắc cảnh vật phai nhạt đi; cả mùi hương cũng rời bỏ các cánh đồng và rừng cây. Cảm giác đang phải sống trong cơn ghẻ lạnh của thần linh đè nặng lên bạn. Ở đằng Nam, các thảo nguyên khô cháy nằm hoang tàn, đen đúa với những vệt tro dài màu xám và trắng. Ngày lại ngày, chúng tôi chờ đợi cơn mưa trong vô vọng và những viễn cảnh mai sau cũng như niềm hi vọng của đồn điền càng lúc càng mờ mịt, rồi tan biến. Mọi cực nhọc cày bừa, tỉa cây, trồng cấy trong những tháng ngày qua thành ra công sức của lũ ngốc. Công việc đồn điền dần đình đốn rồi ngừng trệ hoàn toàn. Trên thảo nguyên cũng như trong rặng núi, các nguồn nước đều cạn khô, và nhiều loài vịt và ngỗng mới lạ tìm tới đầm nước của tôi. Còn tại một cái https://thuviensach.vn đầm khác nằm ở rìa đồn điền, vào những sớm tinh mơ hay lúc hoàng hôn, ngựa vằn đi thành một hàng dài cả hai ba trăm con kéo đến uống nước; các chú ngựa con, nép sát vào mẹ, chẳng hề hãi sợ gì khi tôi cưỡi ngựa len lỏi giữa chúng. Nhưng vì quyền lợi lũ gia súc đồn điền, chúng tôi luôn cố xua chúng đi xa, bởi nước các ao đầm đang cạn dần. Ngay cả thế đi nữa, đây vẫn là địa điểm thật dễ chịu bởi các bụi cói mọc từ bùn làm nên cả vạt xanh giữa khung cảnh tứ bề rặt một màu nâu. Người bản xứ trở nên câm lặng dưới cái hạn, tôi chẳng thể moi nổi ở họ dù chỉ một từ về viễn cảnh tương lai dẫu bạn sẽ nghĩ họ hẳn phải biết nhiều hơn ta về các dấu hiệu thời tiết. Sự tồn tại của họ đang lâm nguy, mất chín phần mười đàn gia súc trong các năm đại hạn chẳng phải chuyện chưa từng nghe thấy hay chưa từng xảy ra với cha ông họ. Shamba của họ khô nẻ, chỉ còn lơ thơ ít khoai lang hay ngô đã héo rũ. Sau một thời gian tôi cũng học được cung cách của người bản xứ và thôi kể lể hay than thở về tình trạng khốn đốn hiện tại, giống như một kẻ bị ruồng bỏ. Nhưng tôi là dân châu Âu, lại ở đất nước này chưa đủ lâu để hấp thụ dạng tâm tính hoàn toàn cam chịu như dân bản địa hay của một số người châu Âu sống qua nhiều thập niên tại đây. Tuổi trẻ cùng bản năng tự vệ khiến tôi, nếu còn chưa bị cuốn trong đám bụi đường đồn điền hay bay theo làn khói thảo nguyên, phải quyết dồn năng lượng của mình vào thứ gì đó. Tôi khởi sự cắm cúi viết những truyện thần tiên và lãng mạn vào các buổi tối, để đẩy tâm trí mình đi xa, tới những miền đất, thời đại khác. Tôi có đem vài truyện trong số này kể cho một người bạn tới nghỉ lại ở đồn điền. Khi tôi đứng lên bước ra hiên, có một cơn gió dữ đang thổi bên ngoài, trời trong và được nạm bằng muôn vì sao sáng, vạn vật khô khốc. Hồi đầu chỉ viết lách vào ban tối, về sau tôi thường ngồi sáng tác cả vào buổi sáng, khoảng thời gian lẽ ra phải có mặt trên ruộng đồng. Ngoài đó, thật nan giải khi phải quyết định cày hết nương ngô lên rồi trồng lại, hay có nhất thiết vặt bỏ trái cà phê đã héo rũ để cứu cây chăng. Ngày lại ngày, tôi trì hoãn đưa ra các quyết định. https://thuviensach.vn Tôi thường ngồi làm việc tại phòng ăn, bên đống giấy má la liệt trên bàn, bởi xen giữa truyện đang viết, tôi còn phải làm sổ sách đồn điền, xem xét các dự toán, trả lời mấy tin nhắn ngắn ngủi, ảm đạm từ viên quản lí. Mấy cậu gia nhân hỏi tôi đang làm gì, khi nghe bảo tôi đang thử viết một cuốn sách, họ nhìn nhận đó như nỗ lực tối hậu hòng vực đồn điền qua giai đoạn chông gai này, rồi trở nên hứng thú với nó. Sau đó họ hỏi thăm sách đã làm tới đâu, và sẽ vào phòng đứng rất lâu ngóng xem tiến độ. Vào những buổi tối, trong gian phòng ốp gỗ ấy, đầu các gia nhân tiệp với màu sậm ván tường đến độ dường như chỉ còn mấy tấm áo choàng trắng lốp đính trên tường bầu bạn cùng tôi. Phòng ăn của tôi nằm ở chái Tây, có ba cửa sổ rộng trông ra thềm gạch, trảng cỏ vườn nhà và cánh rừng. Mặt đất thoai thoải dốc xuống dòng sông, ranh giới giữa tôi và tộc người Masai. Dẫu từ nhà chẳng thấy được con sông, nhưng bạn vẫn có thể lia mắt theo nét uốn khúc của nó dựa vào hàng cây keo cao lớn, xanh tốt, mọc đôi bờ. Sang tới bên kia, vùng đất rừng lại nâng cao dần, và phía sau cánh rừng là miền đồng thảo xanh rì, rộng lớn trải dài tận tới chân rặng Ngong. “Giả như đức tin tôi đủ mạnh để khiến núi phải chuyển dời thì ngọn núi tôi muốn dời tới đây chính là núi Ngong*.” Gió thổi từ hướng Đông nên các cánh cửa phòng ăn khuất gió và luôn để ngỏ. Đây cũng là lí do người bản xứ ưa chái Tây ngôi nhà; họ luôn vòng qua mé này để ngó nghiêng những gì diễn ra bên trong. Cũng cùng lí do trên, các chú bé mục đồng bản xứ thường xua đàn dê qua chái Tây rồi để chúng gặm cỏ trên trảng cỏ trong vườn. Bầy trẻ mục đồng lang thang khắp đồn điền, cùng bầy dê cừu đang đi tìm cỏ của cha chúng, phần nào đã là chiếc cầu nối giữa cuộc sống trong ngôi nhà văn minh của tôi và cuộc sống hoang dã bên ngoài. Đám gia nhân chẳng tin và cũng không thích chúng bước vào các phòng, nhưng lũ trẻ thật sự yêu và háo hức trước nền văn minh; với chúng văn minh chẳng hề chứa đựng mối hiểm nguy nào, bởi chúng có thể rời khỏi nó bất cứ khi nào https://thuviensach.vn muốn. Với chúng, biểu tượng trung tâm của nó là chiếc đồng hồ cúc cu cũ của Đức treo ở phòng ăn. Một chiếc đồng hồ tuyệt đối là thứ xa xỉ phẩm nơi cao nguyên châu Phi. Căn cứ vào vị trí mặt trời, quanh năm suốt tháng bạn luôn có thể đoán biết hiện là mấy giờ, và bởi không có việc gì liên quan tới tàu hỏa, lại tùy ý thu xếp cuộc sống đồn điền, đồng hồ thành ra chẳng còn quan trọng gì nữa. Song đó là một chiếc đồng hồ tuyệt đẹp. Từ giữa chùm hoa hồng, cứ mỗi tiếng đồng hồ; một chú chim cu lại đẩy tung cánh cửa nhỏ nhào ra kêu váng lên báo giờ. Lần nào sự xuất hiện của nó cũng làm đám trẻ đồn điền vui sướng. Chúng dựa theo mặt trời phán đoán chính xác được thời điểm đồng hồ báo chính ngọ, và cứ mười hai giờ thiếu mười lăm tôi lại thấy cả lũ lau nhau xua đàn dê chúng không được phép bỏ lại, tiến về ngôi nhà từ mọi hướng. Đầu trẻ và đầu dê rẽ bụi rậm và cỏ rừng mọc ngút ngàn giống đầu ếch nhái rẽ nước ao chuôm. Chúng bỏ lại bầy gia súc nơi trảng cỏ vườn và im lìm tiến vào nhà trên những bàn chân trần; đứa lớn quãng mười tuổi còn nhỏ nhất chỉ chừng hai. Cả bọn cư xử ngoan ngoãn, tuân thủ một thứ lễ nghi chúng tự định ra cho các cuộc thăm viếng: đó là có thể di chuyển tự do trong nhà với điều kiện không chạm vào thứ gì, không ngồi xuống hoặc phát ngôn trừ phi được hỏi. Khi con chim lao ra, một trạng thái ngất ngây và những tiếng cười cố nén lan trong cả đám. Đôi khi có một chú mục đồng nhỏ xíu, chẳng nhận thức được chút trách nhiệm nào với lũ dê, ngay tảng sáng đã một mình trở lại đứng hồi lâu trước chiếc đồng hồ, khi ấy còn đóng chặt và yên lặng, ê a tỏ bày tình yêu với nó bằng tiếng Kikuyu rồi nghiêm trang lui bước ra ngoài. Các gia nhân cười bầy trẻ mục đồng và giải thích cho tôi lũ trẻ quá ngờ nghệch đến nỗi tin con chim đó sống. Giờ tới lượt chính mấy cậu gia nhân cũng vào xem hoạt động của chiếc máy chữ. Buổi tối, có những bận Kamante đứng dán lưng vào tường cả tiếng đồng hồ, đôi mắt cậu đưa qua đưa lại như hai viên kẹo đen dưới hàng mi, như thể định nghiên cứu kĩ càng chiếc máy đến độ có thể tháo tung ra thành nhiều mảnh rồi đem lắp lại. https://thuviensach.vn Một tối, khi ngẩng lên tôi bắt gặp cặp mắt thăm thẳm đầy chăm chú ấy và sau một thoáng cậu nói: “Msabu có thực sự tự tin sẽ viết được một cuốn sách không?” Tôi đáp nào biết được. Để mường tượng ra việc trò chuyện với Kamante, bạn hãy, trước chỉ mỗi dăm ba từ nhát gừng, chèn thêm vào một khoảng im lặng kéo dài, đầy ý nghĩa và trách nhiệm. Người bản xứ đều là các bậc thầy trong nghệ thuật ngắt đoạn dạng đó và bằng cách này bày tỏ quan điểm về cuộc đối thoại. Giờ Kamante cũng làm ra khoảng ngưng bặt lâu như thế rồi bảo: “Cháu thì không tin chuyện ấy.” Chẳng còn ai khác để bàn về cuốn sách, tôi bỏ trang bản thảo xuống rồi hỏi cậu nguyên cớ gì mà nói vậy. Té ra Kamante đã suy nghĩ và chuẩn bị cho chuyện này; cậu giấu sẵn pho Odyssey* sau lưng, và tới lúc đó đặt nó lên bàn. “Msabu xem đi,” cậu nói, “đây là một cuốn sách tốt, trang này đính chặt trang kia từ đầu chí cuối. Thậm chí nếu cô giơ lên rũ mạnh, nó cũng chả bung ra. Cái ông soạn ra sách này thật thông thái. Còn thứ cô đang soạn,” cậu tiếp tục, vẻ khinh miệt pha kiểu xót thương thân tình, “chỗ đây mấy tờ và kia mấy tờ. Khi ai đó quên đóng cửa là sách bay tứ tung, thậm chí rơi cả xuống sàn nhà làm cô bực mình. Nó đâu thể nào là một cuốn sách tốt cơ chứ.” Tôi giải thích ở châu Âu người ta sẽ có thể sắp xếp mọi thứ lại với nhau. “Sách của cô liệu có nặng được như cuốn này không?”Kamante hỏi, tay ước lượng cuốn Odyssey. Thấy tôi lưỡng lự, cậu trao sách cho tôi tự xem xét. “Không,” tôi nói, “sách của tôi sẽ không nặng bằng, song trong thư viện, như cháu biết đấy, có cả các cuốn còn nhẹ hơn.” https://thuviensach.vn “Và cũng cứng chắc ngang ngửa chứ?” cậu hỏi. Tôi đáp để làm ra cuốn sách cứng chắc tương đương sẽ tốn nhiều tiền. Kamante đứng lặng hồi lâu rồi bày tỏ một niềm hi vọng lớn hơn về cuốn sách của tôi, và có lẽ cả nỗi hối hận cho những hồ nghi của mình, bằng việc nhặt mấy trang bản thảo vương vãi trên sàn, đặt chúng lên bàn. Cậu vẫn chưa bỏ đi mà đứng cạnh bàn chờ đợi, rồi lại nghiêm trang hỏi: “Msabu, trong các cuốn sách có thứ gì vậy?” Để giải thích tôi kể cho Kamante câu chuyện trong Odyssey về người anh hùng và tên khổng lồ Polyphemus, cũng như chuyện Odysseus tự xưng là Không Có Ai, đã chọc mù mắt Polyphemus và bám dưới bụng con cừu đực đào tẩu ra sao. Kamante thích thú lắng nghe, bình phẩm con cừu đực đó hẳn cũng giống cừu của ông Long vùng Ehnentaita mà cậu đã thấy tận mắt ở hội chợ triển lãm gia súc tổ chức tại Nairobi. Rồi cậu quay lại với Polyphemus, hỏi gã có đen như người Kikuyu chăng. Khi tôi đáp không, cậu muốn biết Odysseus có thuộc bộ tộc hay gia đình nhà tôi không. “Thế Odysseus,” Kamante nói, “phát âm cái tên Không Có Ai bằng tiếng của anh ta như thế nào? Cô nói thử đi.” “Outis*,” tôi đáp. “Anh ta xưng là Outis, trong thứ tiếng ấy nghĩa là Không Có Ai.” “Hẳn cô cũng đang soạn một câu chuyện giống thế hả?” Kamante căn vặn tôi. “Không,” tôi bảo, “người ta có thể viết bất cứ thứ gì mình muốn. Ví như cô có thể viết về cháu.” Từ đầu tới giờ luôn cởi mở, đến đây Kamante bỗng dưng rụt lại, đưa mắt nhìn xuống thân thể mình, đoạn hạ giọng hỏi tôi định viết về phần nào của cậu. https://thuviensach.vn “Chẳng hạn chuyện cháu bị bệnh, dạo ở ngoài thảo nguyên cùng đàn cừu,” tôi bảo, “cháu nghĩ sao?” Cậu đảo mắt khắp phòng, hết ngước lên lại nhìn xuống, cuối cùng mập mờ đáp: “Sejui” - cháu không biết. “Hồi đó cháu sợ à?” tôi hỏi cậu. Sau một lúc ngắt quãng, cậu trả lời dứt khoát: “Vâng, đứa trẻ nào trên thảo nguyên cũng có lúc sợ.” “Cháu sợ điều gì?” tôi hỏi. Kamante đứng yên lặng một thoáng, gương mặt trở nên tập trung và sâu kín, ánh mắt như đang nhìn vào trong tâm mình. Rồi cậu quay sang tôi, hơi nhăn mặt: “Sợ Outis,” cậu đáp. “Lũ trẻ thảo nguyên đều sợ Outis” Vài ngày sau, tôi nghe thấy Kamante giảng giải cho mấy gia nhân chuyện các trang sách tôi đang viết có thể được đính lại với nhau ở châu Âu, và nếu chi bộn tiền thì thậm chí có thể khiến sách rắn chắc ngang quyển Odyssey, khi nói tới đây cuốn Odyssey lại được đem ra cho mọi người tham khảo. Tuy nhiên, Kamante tỏ ý chẳng tin họ có thể làm sách của tôi cũng có màu xanh da trời. Kamante sở hữu một biệt tài rất đắc dụng cho cậu khi sống trong nhà tôi. Đó là cậu có thể khóc, tôi tin chắc vậy, bất cứ khi nào muốn. Lúc nào bị tôi nghiêm khắc quở mắng, cậu đứng thẳng như phỗng, ngây độn ngó mặt tôi, vẻ chăm chú và buồn bã tận gan ruột, thứ sắc diện người bản xứ tạo được chỉ trong tích tắc; sau đó mắt cậu rưng rưng và nước mắt, hết giọt này tới giọt khác, sẽ ứa ra, lăn trên gò má. Tôi biết đó thuần túy chỉ là nước mắt cá sấu, và nếu những người khác làm vậy sẽ chẳng thể tác động mảy may đến tôi. Nhưng trường hợp Kamante lại khác. Khuôn mặt bèn bẹt, đần ra kia, những khi đó, lại sa xuống cái thế giới tối tăm, lẻ loi vô bờ cậu từng trú ngụ nhiều năm. Hẳn cậu đã nhỏ những giọt nước mắt to, https://thuviensach.vn câm lặng ấy giữa thảo nguyên, có lũ cừu vây quanh, tự hồi còn bé xíu. Những giọt nước mắt ấy khiến tôi day dứt, và khoác cho các tội lỗi đang bị trách mắng kia một diện mạo khác, biến chúng thành ra nhỏ nhặt, làm cho tôi chẳng còn lòng dạ nào tiếp tục đả động tới nữa. Từ một góc độ nhất định, điều này quả có gây thất vọng. Tuy nhiên tôi vẫn tin chắc, bằng vào sức mạnh cảm thông giữa con người với con người của hai chúng tôi, thâm tâm Kamante biết tôi nhìn thấu những giọt nước mắt hối lỗi ấy và không coi chúng nặng hơn giá trị của chính chúng, thực ra bản thân cậu cũng coi đó như thứ nghi thức trước các thế lực mạnh mẽ hơn chứ chẳng phải một trò điêu trá. Kamante thường đề cập tới bản thân như một người Thiên Chúa giáo. Không rõ cậu gán cho danh xưng ấy ý nghĩa gì, nhưng vài phen tôi thử dạy giáo lí theo lối hỏi-đáp cho Kamante thì được giải thích rằng cậu cũng tin thứ tôi tin thế nên, bởi tôi phải biết bản thân mình tin vào gì, việc truy vấn cậu chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tôi nhận ra lời đáp này còn hơn một nỗ lực lảng tránh, nó ít nhiều là một cương lĩnh hay tuyên tín cụ thể. Đã nộp mình phục sự vị Chúa của người da trắng, Kamante xác định sẽ thực thi bất cứ mệnh lệnh nào nhưng cậu không nguyện lãnh trách nhiệm chứng minh tính hợp lí của cả hệ thống bởi biết đâu nó cũng vô lí như các hệ thống khác của dân da trắng. Thi thoảng, khi có những bất đồng giữa lối cư xử của tôi và các răn dạy ở Hội truyền giáo Scotland, nơi cậu được cải đạo, Kamante bèn hỏi tôi bên nào phải. Việc người bản xứ không hề mang thiên kiến là thực tế gây sửng sốt, do chỗ bạn cứ ngỡ sẽ gặp các kiêng kị u tối ở những con người man sơ này. Tôi tin đó là bởi họ quảng giao với các chủng tộc và bộ lạc khác nhau, và bởi dân bản xứ Đông Phi tiếp xúc nhiều, đầu tiên là các nhà buôn ngà voi và nô lệ xưa, rồi trong thời đại chúng ta là dân khai khẩn cùng thợ săn đại thú người da trắng. Hầu hết người ở đây, kể cả trẻ mục đồng trong thảo nguyên, đều từng giáp mặt đủ loại dân tứ xứ: người Anh, người Do thái, người Boer*, người Ả Rập, người Somali gốc Ấn, người Swaheli*, người https://thuviensach.vn Masai và Kawirondo* - tất thảy đều bất đồng và cũng rất khác biệt họ, như người đảo Sicily so với dân Eskimo vậy. Người bản xứ lịch duyệt hơn dân khẩn hoang có gốc gác ngoại ô hay tỉnh lẻ hoặc dân truyền giáo từng lớn lên trong một cộng đồng thuần nhất với một hệ quan điểm bất biến. Phần nhiều những hiểu lầm giữa dân da trắng và người bản xứ phát sinh từ thực tế này. Việc người bản xứ coi bạn là đại diện của Thiên Chúa giáo là dạng trải nghiệm gây nhiều thấp thỏm, hoang mang. Một thanh niên Kikuyu tên Kitau, từ trong Khu bảo tồn Kikuyu tới làm cho tôi. Đấy là một chàng trai hay tư lự, một gia nhân tinh ý và ân cần khiến tôi khá hài lòng. Một ngày nọ, sau ba tháng làm việc, Kitau đề nghị tôi viết một lá thư giới thiệu để anh đến làm cho ông bạn già Ali bin Salim, thủ hiến vùng duyên hải, sống tại Mombasa*mà anh từng gặp tại nhà tôi. Chẳng muốn Kitau bỏ đi lúc vừa quen việc, tôi nói sẽ tăng lương cho anh. Không, anh ta bảo, tôi đi không phải để kiếm đồng lương cao hơn, mà bởi không thể ở lại dược nữa. Kitau kể rằng anh đã quyết, từ hồi còn sống trong Khu bảo tồn, là mình sẽ trở thành một người Thiên Chúa giáo hoặc Hồi giáo, chỉ có điều chưa rõ theo đạo nào. Bởi vậy anh tới đây làm cho tôi, vì tôi là người Thiên Chúa giáo, để sống trong nhà tôi ba tháng hầu quan sát testude - cung cách và thói quen - của người Thiên Chúa giáo. Tiếp theo anh sẽ đến sống ba tháng với thủ hiến Ali ở Mombasa và nghiên cứu testude của người Hồi giáo; rồi anh ta sẽ quyết định. Thậm chí Đức Tổng giám mục, tôi tin chắc, khi thấy những sự thật như vậy phơi bày trước mắt, cũng sẽ phải thốt lên, hay chí ít là nghĩ, như tôi từng khi ấy: “Lạy Chúa, Kitau ơi, lẽ ra anh phải nói điều này với tôi ngay từ dạo mới đến chứ.” Người Hồi giáo không ăn thịt các con vật không được một người Hồi giáo cắt cổ theo cách thức chính thống. Lề luật này thường là trở ngại trong các chuyến đi săn dài ngày, khi bạn chỉ mang theo được một lượng nhỏ nhu yếu phẩm, còn thực phẩm cho người làm phải dựa vào nguồn thịt thú bắn được. Khi bạn hạ gục một con linh dương, những người làm Hồi giáo sẽ phóng https://thuviensach.vn như bay tới, để kịp cắt cổ trước khi nó chết, còn bạn hồi hộp quan sát họ, bằng cặp mắt cháy bỏng, bởi nếu họ đứng thõng tay gục đầu cạnh con vật, nghĩa là con linh dương đã đi tong trước khi họ tới kịp, và bạn sẽ phải tìm con linh dương khác, hoặc các phu vác súng cho bạn sẽ chết đói. Dạo chiến tranh vừa nổ ra*, vào buổi tối trước ngày cùng đoàn xe bò kéo khởi hành, tôi tình cờ được diện kiến vị hoàng thân Hồi giáo ở Kijabe* và có thỉnh cầu ngài, nếu có thể, hãy miễn trừ luật lệ này cho đoàn người của tôi trong chuyến đi sắp tới. Đức hoàng thân còn thanh niên, nhưng khôn ngoan, và ngài tiếp chuyện Farah và Ismail rồi phán rằng: “Quý công nương đây là môn đồ của Jesus Christ. Khi bóp cò súng trường của mình, công nương sẽ nói, hay chí ít trong tim bà ấy sẽ nói: nhân danh Chúa, điều đó khiến các viên đạn của công nương tương đương lưỡi dao của người Hồi giáo chính thống. Trong suốt cuộc hành trình, các anh có thể ăn thịt những con vật mà quý công nương bắn được.” Uy tín đạo Thiên Chúa ở châu Phi sa sút do các giáo phái trong nội bộ thiếu khoan dung lẫn nhau. Vào các đêm Giáng Sinh ở châu Phi, tôi thường đánh xe tới Hội truyền giáo Pháp quốc để dự Thánh Lễ Nửa Đêm. Thời tiết độ đó thường oi bức, khi xe đi xuyên qua rừng keo, bạn đã nghe thấy tiếng chuông của Hội truyền giáo văng vẳng từ xa trong không khí trong lành, nóng nực. Lúc xe tới nơi, một đám đông hân hoan, náo nhiệt đã tập hợp quanh ngôi giáo đường: các chủ hàng quán người Pháp và Ý tại Nairobi cùng gia đình đã tề tựu; tốp mấy xơ ở trường học của tu viện nữ cũng có mặt, và cộng đồng con chiên bản xứ xúng xính trang phục sặc sỡ nữa. Nhà thờ xứ to đẹp sáng bừng bởi hàng trăm ngọn nến cùng nhiều tấm phim màu tuyệt đẹp do các cha cố tự tay làm rồi đem dán lên kính cửa sổ. https://thuviensach.vn Năm đầu Kamante về sống ở nhà tôi, tới Giáng Sinh tôi bảo sẽ mang cậu theo dự lễ, với tư cách một giáo hữu Thiên Chúa giáo, rồi mô tả cho nghe những thứ đẹp đẽ sẽ được thấy ở đó, theo kiểu các cha cố thường giảng giải. Kamante lắng nghe ngọn ngành, vẻ háo hức, rồi đi đóng bộ cánh đẹp nhất. Song lúc chiếc xe đón đã đỗ trước cửa thì Kamante quay trở ra, thái độ cực kì bất an, thông báo chẳng thể nào đồng hành cùng tôi được. Dẫu cậu chẳng muốn nêu lí do, và lảng tránh các câu hỏi nhưng rốt cuộc vấn đề cũng sáng tỏ. Không, cậu ngàn vạn lần chẳng thể tới đó bởi giờ cậu nhận ra nơi tôi định đưa cậu tới là Hội truyền giáo Pháp, địa điểm hồi còn ở bệnh xá họ đã cực lực cảnh báo cậu. Tôi giảng giải đấy hoàn toàn chỉ là sự hiểu nhầm, cậu nhất thiết phải tới đấy. Nghe thấy vậy Kamante hóa đá trước mắt tôi, cậu chết điếng, mắt trợn trừng chỉ còn lòng trắng, mồ hôi tứa ra trên mặt. “Không, không được đâu Msabu,” cậu lí nhí, “cháu sẽ không đi với cô đâu. Bên trong cái nhà thờ to tướng ấy, cháu biết rành quá mà, có một Msabu mbaia sana,” - vô cùng xấu xa. Tôi rất phiền lòng khi nghe vậy, nhưng bụng bảo dạ phải quyết kéo Kamante cùng đi để cậu được chính Đức mẹ đồng trinh khai sáng. Các cha cố có một bức tượng Đức mẹ làm từ giấy bồi, to ngang kích cỡ người thật, sơn phủ màu thiên thanh và trắng, đặt trong thánh đường và người bản xứ thường bị các bức tượng thu hút trong khi họ lại rất khó thẩm thấu ý tưởng một bức tranh. Tôi hứa sẽ bảo vệ Kamante rồi đưa cậu đi cùng, và ngay khi theo sát gót tôi bước vào nhà thờ, cậu liền quên ráo những nghi ngại của mình. Tình cờ đó lại là thánh lễ Giáng Sinh tuyệt nhất được cử hành từ trước tới giờ ở Hội truyền giáo này. Thánh đường có một hang Bê-lem lớn - hang Chúa sinh ra đời, gồm cả Thánh gia*, vừa tận Paris chuyển qua, được chiếu rọi bằng muôn sao lấp lánh trên trời xanh, xung quanh là hàng trăm món đồ chơi hình con vật như đàn bò bằng gỗ, bầy cừu bằng những nùi bông trắng muốt, và chẳng quản đến chuyện vặt vãnh liên quan đến kích cỡ, chúng hẳn khơi gợi được niềm ngất ngây trong con tim Kikuyu. https://thuviensach.vn Sau khi trở thành giáo hữu Thiên Chúa giáo, Kamante không còn sợ động vào xác chết nữa. Trước đó cậu ghê sợ việc này, và khi có một người được cáng về thềm nhà tôi rồi chết tại đấy, Kamante giống những người khác, tuy chẳng lảng ra ngoài trảng cỏ như họ nhưng cũng không hề góp một tay mang cái xác đi mà chỉ đứng bất động trên hè, như một bức tượng đen nhỏ bé. Tôi chẳng tỏ cớ sao dân Kikuyu, vốn không hề sợ chết lại thất đảm chuyện phải đụng vào xác chết đến thế, trong khi dân da trắng sợ chết lại chẳng hề ngần ngại việc này. Ở đây một lần nữa, bạn nhận ra lối cảm nhận thực tại ở họ khác của chúng ta. Nhưng tất tật nông gia đều biết đây là một địa hạt bạn không thể chỉ thị cho người bản xứ, và bạn sẽ tránh được rắc rối nếu lập tức từ bỏ ý định ấy, bởi họ sẽ thà chết còn hơn thay đổi lề thói của mình. Giờ thì tâm lí e sợ trong tim Kamante đã biến mất, cậu còn tỏ ra khinh miệt nỗi khiếp hãi xác chết ở đồng bào mình. Về điểm này cậu thậm chí còn có chút phô trương, như để khoe khoang quyền năng vị Chúa của mình. Trong thời gian cùng sống ở đồn điền, tôi tình cờ có vài dịp kiểm chứng sức mạnh đức tin ở cậu, đó là ba lần Kamante và tôi phải chia nhau mỗi người một đầu khiêng xác chết. Đầu tiên là một cô gái Kikuyu bị xe bò chẹt qua bên ngoài nhà tôi. Người thứ hai là một thanh niên Kikuyu thiệt mạng do ngã cây rừng. Người thứ ba là một ông già da trắng tới trú tại đồn điền, góp phần mình vào cuộc sống của nó, rồi qua đời tại đây. Ông là một đồng hương của tôi, ông già mù lòa Knudsen, người Đan Mạch. Một hôm tại Nairobi, ông dò dẫm tìm tới trước xe tôi, tự giới thiệu rồi xin tôi cấp cho một mái nhà trên đất của tôi, bởi khắp địa cầu ông chẳng còn nơi nào nương náu nữa. Dạo ấy tôi đang cắt giảm số nhân viên da trắng tại đồn điền, nên có một gian nhà trệt nhỏ bỏ trống và ông chuyển tới đây sống trong sáu tháng. Đấy là nhân dạng dị thường giữa đồn điền miệt cao nguyên: một sinh vật quá đậm chất đại dương đến nỗi như thể chúng tôi đang chung sống với một con hải âu già, cánh bị xén cụt. Thân tàn ma dại bởi sóng gió đời và https://thuviensach.vn bệnh tật rượu chè, người ông vẹo vọ cong queo, mái tóc hung đỏ bạc trắng thành ra một thứ màu kì dị, tựa như ông rải tro lên đầu, hoặc cơ hồ môi trường biển đã đánh dấu và ướp muối ông vậy. Nhưng trong ông vẫn bùng cháy một ngọn lửa vĩnh cửu mà chẳng thứ tro nào có thể dập lụi. Xuất thân từ một gia đình làm nghề chài lưới đã nhiều đời ở Đan Mạch, ông vốn dĩ là thủy thủ, sau rồi gia nhập lớp người đầu tiên thám hiểm châu Phi, dầu gì các ngọn gió cũng đã đưa đẩy ông lưu lạc tới đây. Trong đời từng theo đuổi vô số nghề, ông già Knudsen ưa làm các công việc có dính dấp đến sóng nước, cá mú hoặc chim chóc, nhưng lại chẳng nên cơm nên cháo ở bất cứ lĩnh vực nào. Có lần ông kể mình từng sở hữu một cơ sở đánh bắt hải sản trên hồ Victoria*, có nhiều dặm lưới đánh cá thượng thặng cùng một chiếc canô, song đã trắng tay trong thời chiến tranh. Trong lời Knudsen thuật lại tấn thảm kịch này có một thời khắc đen tối của hiểu lầm chết người, hay của sự phản bội từ phía một người bạn. Tôi chẳng rõ đâu là thực, bởi câu chuyện luôn bất đồng trong từng lần kể, và mỗi khi đi tới điểm này tâm trạng ông lão Knudsen lại trở nên cực kì khích động. Bề gì đi nữa, có một sự thật hiển nhiên tôi chứng kiến, trong thời gian ông Knudsen ở tại đồn điền: để đền bù cho những mất mát của ông, chính phủ trợ cấp cho ông mỗi ngày một silinh. Mọi điều này ông kể cho tôi trong các dịp ghé chơi nhà. Ông thường lánh tới chỗ tôi bởi không có được cảm giác an ổn trong gian nhà nhỏ của mình. Các chú nhóc bản xứ tôi gửi qua bên đó giúp việc, hết đứa này tới đứa khác, đều chẳng chóng thì chầy bỏ đi bởi khiếp đảm cái cách, vì đui mù và hung tợn, ông đâm bổ vào chúng hay hung hăng khua khoắng cây gậy dò đường. Nhưng những lúc hứng chí, ông sẽ ngồi ở hàng hiên nhà tôi, trước li cà phê, và hát tôi nghe các bài ngợi ca quê cha đất tổ tiếng Đan Mạch, bằng cả một bầu nhiệt huyết. Chúng tôi kiếm tìm mọi sự vụ tầm thường, nhỏ nhặt ở đồn điền làm đề tài trao đổi chỉ bởi thích được nói tiếng mẹ đẻ. Tuy nhiên không phải bao giờ tôi cũng đủ kiên nhẫn với ông, do chỗ một khi ông đã đến thì rất khó khiến ông dừng câu chuyện dông dài mà bỏ đi; trong các buổi gặp thường ngày giữa chúng tôi, ở ông có gì đó rất giống ông lão https://thuviensach.vn thủy thủ trong bài thơ cùng tên*, hay chàng thủy thủ Simbad trong Nghìn lẻ một đêm. Knudsen là nghệ sĩ đan lưới bậc thầy, những tấm lưới tốt nhất thế giới, ông bảo tôi vậy, và ở đây, nơi gian nhà nhỏ giữa đồn điền, ông ngồi chế kibokos - thứ roi của người bản xứ được làm từ da hà mã. Knudsen mua da hà mã từ người bản địa hay từ các tá điền trên vùng hồ Naivasha* và nếu may mắn, từ một con hà mã, ông có thể chế ra năm chục kibokos. Tôi vẫn còn giữ một chiếc roi ngựa tuyệt đẹp được ông tặng. Việc làm roi khiến quanh nhà ông hôi hám khủng khiếp, chẳng khác gì bên tổ chim già chuyên ăn xác chết. Về sau, dạo tôi đào một cái đầm trong đồn điền, hầu như lúc nào ông cũng quanh quẩn bên bờ đầm, đứng trầm tư, bóng trải dài dưới chân, giống một con chim biển giữa vườn thú. Lồng ngực hom hem của ông già Knudsen chứa một trái tim hồn nhiên, nồng nàn, nóng nảy và hoang dại của một cậu bé bừng bừng tính hiếu chiến tinh thuần; ông là một kẻ hiếp đáp và gây gổ hạng nhất. Quả rất hi hữu bạn mới gặp được một người chất chứa nhiều nghịch thù không khoan nhượng ở trong lòng đến thế. Lúc nào cũng bừng bừng phẫn nộ với hầu hết con người và tổ chức mà ông có việc phải dính dấp đến, Knudsen cầu khấn thánh thần trút mưa lửa và lưu huỳnh xuống đầu họ, và đòi “vẽ bản mặt lũ ác quỷ lên tường” bằng phong cách Michelangelo*, theo lối nói người Đan Mạch. Ông rất khoái trá mỗi khi khích bác được người ta xung đột nhau, giống trẻ nít xua hai con chó cắn nhau hay suỵt chó cắn mèo. Ta chẳng thể không sửng sốt khi chứng kiến tâm hồn ông Knudsen, sau bấy nhiêu năm bão tố cuộc đời, và cả khi cuối cùng, như cách thường nói, bị thổi dạt vào một con rạch kín gió, nơi có lẽ ông sẽ phải nằm yên đấy với mấy cánh buồm rũ xuống, vẫn gào thét kiếm tìm sự đối kháng cùng nghịch cảnh, như tâm hồn một chú bé. Nó khiến ta phải nghiêng mình, như trước hào khí ở một chiến binh Berserk*. Chỉ đề cập tới bản thân ở ngôi thứ ba, ông tự xưng là “Già Knudsen,” và luôn khoe khoang cực độ về chiến tích bản thân. Chẳng gì trên đời mà Già https://thuviensach.vn Knudsen chưa khai phá cũng như hoàn tất, chẳng tên trùm nào chưa bị Già đánh bại. Khi kẻ khác âu lo việc họ, ông đóng vai người bi quan yếm thế, chuyên tiên liệu một kết cục bi thảm sắp xảy ra đến nơi và họ hoàn toàn xứng đáng phải nhận lãnh mọi chuyện. Nhưng ở việc mình, ông lại là kẻ lạc quan mãnh liệt. Trước lúc qua đời không lâu, ông giãi bày cùng tôi, sau khi đòi hứa phải giữ bí mật, một kế hoạch kinh thiên động địa. Nó sẽ đưa Già Knudsen, rốt cuộc, thành nhà triệu phú và làm muối mặt lũ kẻ thù. Ông sẽ nạo vét hàng trăm ngàn tấn phân mà các loài chim nước thải xuống hồ Naivasha từ thuở hồng hoang tới nay. Trong một nỗ lực tột bậc cuối cùng, từ đồn điền ông đã tới hồ Naivasha để nghiên cứu và trù liệu chi tiết cho dự định này. Già Kudsen đã chết trong ánh sáng huy hoàng của dự án. Nó chất chứa đủ mọi yếu tố thiết thân với trái tim ông: nước sâu, chim chóc, kho tàng ẩn giấu; thậm chí ở đó còn hàm chứa cả hương vị của điều không thể nói với phụ nữ. Trên đỉnh cao vinh quang của dự án, ông thấy, bằng tuệ nhãn, dáng hình đắc thắng của Già Knudsen, tay cầm cây đinh ba đang chỉ huy những con sóng. Tôi chẳng nhớ đã bao giờ được nghe ông giải thích làm sao xúc được phân chim từ lòng hồ lên. Những kì tích xán lạn, các thành tựu lẫy lừng cùng đức cao vọng trọng của Già Knudsen trong mọi lĩnh vực, như những gì ông thuật cho tôi, trái ngược hoàn toàn sự yếu ớt, bất lực ở ông lão đang kể lể về chúng; sau cùng bạn cảm thấy mình đang giao thiệp với hai phẩm cách riêng rẽ và bất đồng tận bản chất. Vóc dáng vĩ đại, tâm trạng muôn phần hoan hỉ và bất khả chiến bại của Già Knudsen, người hùng của mọi cuộc phiêu lưu, sừng sững ở hậu cảnh, còn kẻ tôi quen, già nua, tàn tạ, lưng còng, đang kể không biết mệt về vị anh hùng kia, chỉ là tôi tớ của anh ta. Con người tầm thường, nhỏ bé này đã xác định mục tiêu cuộc đời mình, thậm chí cho đến phút lâm chung, là ủng hộ, ca ngợi Già Knudsen. Ngoài Chúa ra chỉ người này thực sự nhìn thấy Già Knudsen, thế nên ông chẳng thể khoan thứ cho lòng bất tin dị giáo ở bất kể ai. Duy nhất có một lần tôi nghe ông sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất. Vài tháng trước khi chết, Knudsen bị một cơn đau tim kịch phát, cũng căn https://thuviensach.vn bệnh này cuối cùng đã giết chết ông. Cả tuần chẳng thấy bóng dáng Knudsen đâu, tôi tìm xuống căn nhà nhỏ xem có chuyện gì và bắt gặp ông nằm sõng soài trên giường, giữa mùi hôi thối da hà mã, trong gian phòng tuềnh toàng, bừa bãi. Mặt ông xám tựa tro, đôi mắt đục trũng sâu. Nghe tôi hỏi, Knudsen chẳng hề trả lời hay hé môi. Chỉ mãi sau, lúc tôi đã dợm đứng lên định về, ông chợt thì thào, giọng khan đặc, “Tôi ốm quá.” Lúc ấy không phải Già Knudsen, con người vĩnh viễn chẳng đổ bệnh hay bị đánh bại đang nói, mà là kẻ tôi tớ, người duy nhất một lần cho phép mình bộc lộ nỗi khốn khổ, đớn đau của bản thân. Ngán cảnh sống đìu hiu ở đồn điền, thỉnh thoảng Già Knudsen khóa trái cửa, biến mất khỏi tầm mắt chúng tôi. Tôi nghĩ phần lớn đó là các dịp ông nhận được tin bạn cũ, một nhà tiên phong nào đó của quá khứ hiển hách, vừa đến Nairobi, ông sẽ mất tăm, tầm dăm bữa nửa tháng, đến khi chúng tôi cơ hồ quên khuấy sự tồn tại của ông, và luôn quay về trong tình trạng đau ốm bệnh hoạn, kiệt sức tàn hơi, đến nỗi lê lết, trầy trật lắm mới mở nổi khóa nhà. Rồi ông mất mặt trong nhà vài ngày. Tôi tin những dịp này ông ngại gặp tôi, vì cho tôi chẳng đồng tình với những cuộc bỏ trốn ấy, và sẽ lợi dụng tình trạng sức cùng lực kiệt ở ông mà đắc thế. Dẫu đôi khi cất tiếng hát ngợi ca cô vợ trẻ của thủy thủ - những nhân vật mang tình yêu con sóng, nhưng thâm tâm Già Knudsen chẳng hề tin phụ nữ, và nhìn nhận họ, bởi bản năng, là kẻ thù của đàn ông và trên nguyên tắc, sinh ra là để ngáng đường vui thú của ông. Ngày Knudsen chết, cũng là sau khi ông vắng bóng hai tuần và chẳng ai ở đồn điền chứng kiến thời điểm ông quay về. Tuy nhiên lần đó ông hẳn định phá lệ bởi nơi ông gục ngã là lối mòn chạy xuyên qua rẫy cà phê trên đường từ nhà mình tới tìm tôi. Kamante và tôi bắt gặp ông nằm sóng sượt trên lối nhỏ ấy vào buổi xế chiều, khi cả hai ra hái nấm mọc trong những trảng cỏ non mới nhú ngoài thảo nguyên, vì độ ấy là tháng Tư, đầu mùa mưa dầm. https://thuviensach.vn Kamante quả là đối tượng thích hợp nhất để phát hiện ra xác ông, bởi cậu là người bản xứ duy nhất ở đồn điền tỏ ra thương cảm Già Knudsen. Thậm chí cậu còn quan tâm đến Già Knudsen, như kẻ lập dị để tâm tới kẻ lập dị khác, và lâu lâu lại tự động đem trứng qua biếu hay trông chừng mấy chú Toto của Già Knudsen lẩn đi mất. Ông lão nằm ngửa, cái mũ lăn ra cách đó một đoạn, đôi mắt mở hé, gương mặt diềm đạm. Tôi thầm nghĩ: Cuối cùng ra ông ở đây sao, Già Knudsen. Muốn đưa ông trở lại gian nhà nhỏ, nhưng tôi biết chẳng ích gì nếu gọi mấy người Kikuyu quanh đó, hoặc đang làm trên shamba gần bên; họ sẽ lập tức bỏ chạy khi phát hiện nguyên do. Tôi bèn sai Kamante về nhà kéo Farah tới hỗ trợ, song cậu bé chẳng hề nhúc nhích. “Sao cô chủ lại muốn cháu chạy đi?” Kamante hỏi. “Cháu cũng thấy đấy,” tôi bảo, “mình ta chẳng thể vác Bwana già đi được, còn dân Kikuyu các cháu lại là lũ ngốc sợ khuân người chết.” Kamante phô ra một nụ cười mỉa mai. “Msabu lại quên,” cậu nói, “cháu là một tín hữu Thiên Chúa giáo rồi.” Kamante khiêng chân còn tôi đằng đầu, cả hai đưa ông lão về gian nhà. Chốc chốc chúng tôi phải dừng lại, đặt ông xuống để nghỉ và Kamante lại đứng nghiêm, cúi nhìn xuống chân Già Knudsen. Tôi nghĩ đây là nghi thức ở Hội truyền giáo Scotland khi có ai đó chết. Sau khi đặt ông vào giường, Kamante đi quanh phòng rồi vào bếp tìm một chiếc khăn che mặt cho ông, cậu chỉ thấy một tờ báo cũ. “Tại bệnh xá người Thiên Chúa giáo làm thế này,” Kamante giảng giải cho tôi. Rất lâu sau này, Kamante vẫn còn khoái chí khi nghĩ tới bằng chứng cho cái ngốc nghếch ở tôi. Đang cùng làm bếp, một niềm vui thầm kín bất đồ ập về khiến cậu bỗng phá lên cười. “Msabu còn nhớ không,” Kamante bảo, “cái bận cô quên cháu là một người Thiên Chúa giáo, và tưởng cháu sẽ e sợ không dám giúp cô khuân Msungu Msei?” - ông già da trắng. https://thuviensach.vn Là người Thiên Chúa giáo, Kamante chẳng còn sợ rắn nữa. Tôi nghe cậu tuyên bố với những đứa trẻ khác rằng người Thiên Chúa giáo bất cứ khi nào cũng có thể dận gót nát đầu con rắn to nhất*. Chưa thấy cậu làm thế bao giờ, nhưng tôi từng chứng kiến cảnh Kamante đứng im ngay cạnh căn lều của đầu bếp, nét mặt lạnh lùng, tay chắp sau lưng, lúc một con rắn hổ mang thò ra trên nóc lều. Tất cả lũ nhỏ làm việc trong nhà tôi chạy tán loạn quanh túp lều, giống đám vỏ trấu trước cơn gió dữ, la hét điên dại, trong khi Farah vào nhà lôi súng săn của tôi ra bắn chết rắn. Khi sự việc kết thúc, các đợt sóng cồn đã lắng dịu, Nyore, con trai anh xà ích, hỏi Kamante: “Sao mày không dận gót lên con rắn to kềnh gớm ghiếc ấy cho nát đầu nó ra?” “Vì nó nằm tận trên mái,” Kamante bảo. Một dạo, tôi có tập bắn cung. Tuy khỏe mạnh;,nhưng ban đầu tôi cũng khá chật vật để giương cây cung Wanderobo* mà Farah kiếm cho; dầu gì cuối cùng, sau thời gian dài rèn luyện, tôi cũng sử dụng nó thuần thục như một cung thủ. Hồi ấy Kamante còn rất nhỏ, thường xem cảnh tập bắn cung trên trảng cỏ gần nhà, và tỏ ra hoài nghi các dự định của tôi, rồi một ngày cậu căn vặn: “Cô vẫn là người Thiên Chúa giáo lúc buông dây cung chứ? Cháu cho người Thiên Chúa giáo là phải bắn súng.” Tôi cho cậu xem một minh họa cho câu chuyện Đứa con trai của Hagar ở cuốn Truyện tranh Kinh Thánh của mình: “Đức Chúa Trời vừa giúp đứa trẻ; nó lớn lên, ở trong đồng vắng, có tài bắn cung*” “Vậy ra,” Kamante bảo, “chú bé ấy giống cô.” Kamante rất mát tay chữa trị súc vật bị bệnh, cũng như bệnh nhân bản xứ của tôi. Cậu gỡ các dị vật cắm vào chân chó, và có lần thậm chí chữa khỏi cho một con bị rắn cắn. https://thuviensach.vn Một dạo nhà tôi có nuôi con cò bị gãy một bên cánh. Đó là một tính cách rất cương cường. Cò ta thường đi tha thẩn các phòng và mỗi bận vào tới phòng ngủ tôi, nó liền lao vào cuộc chiến tay đôi ác liệt, nạt nộ và đập cánh, như thể với kiếm, cùng bóng mình trong tấm gương. Nó bám gót Kamante đi lại giữa các nhà trong xóm, và quả chẳng thể nào không tin con vật đang cố tình bắt chước bước chân cứng nhắc, đều đặn của cậu. Cả hai bước cùng nhịp. Lũ trẻ bản xứ, với con mắt châm biếm, không khỏi thích thú hò la mỗi khi thấy cặp đôi kì khôi đi ngang. Kamante hiểu nguyên do, nhưng cậu chẳng bao giờ quá để tâm tới việc người khác nghĩ sao về mình. Cậu sai mấy đứa nhỏ bắt ốc sên trong đầm lầy về cho cò. Kamante còn quán xuyến cả Lulu nữa. https://thuviensach.vn 4 Một nàng linh dương Như Kamante đến chỗ tôi từ miền đồng thảo, Lulu đến từ những cánh rừng. Khu bảo tồn rừng Ngong nằm phía Đông đồn điền, khi xưa hầu hết diện tích là rừng nguyên sinh. Quả đáng buồn khi thấy những cánh rừng già ở đây bị đốn hạ, rồi đem bạch đàn hay ngân hoa trồng thế vào; lẽ ra đó phải là một miền đất kì thú, một công viên vô song cho Nairobi. Mỗi khu rừng nguyên sinh châu Phi là một vùng đất bí ẩn. Bạn như tiến nhập vào những tầng sâu của một tấm thảm cổ, theo thời gian chỗ thì nhạt đi hay tối sậm lên, song sắc xanh lục luôn tràn trề đến diệu kì. Chẳng còn thấy bầu trời, nhưng xuyên qua tán lá, ánh dương trong đây đùa giỡn đủ kiểu lạ thường. Những vạt nấm xám màu, giống chòm râu dài bám trên các thân cây, cùng những giống dây leo chằng chịt lòng thòng khắp nơi, tạo nên một không khí ẩn mật, thâm sâu cho đại ngàn nguyên sinh. Chủ nhật, rỗi việc đồn điền, tôi thường cưỡi ngựa tới đây cùng Farah, rong ruổi lên xuống những triền dốc hay băng qua các con suối rừng uốn khúc. Không khí rừng già mát rười rượi tựa nước và ngát hương các loài thực vật. Đầu mùa mưa dầm, lúc các giống cây leo trổ hoa, bạn sẽ ruổi ngựa xuyên qua hết vùng thơm lừng này sang một vùng thơm ngát khác. Có một loại thụy hương châu Phi, nở ra thứ hoa li ti, dinh dính, màu kem, dạng chùm với mùi thơm ngọt ngào nức mũi, giống hương hoa tử đinh hương, hay hoa loa kèn dại ở thung lũng. Đây đó bạn bắt gặp các khúc gỗ có bộng mà người Kikuyu dùng dây da treo trên một nhánh cây, để ong kéo về làm tổ lấy mật. Một đận, khi quành ở khúc ngoặt trong rừng, chúng tôi nhìn thấy một chú báo ngồi ngay giữa đường, tựa như tấm thảm sống. Trên cao trong đây có một bộ tộc luôn chí chóe chẳng lúc nào chịu yên: loài khỉ xám nhỏ. Khi đám khỉ chuyền cành phía trên con đường, thứ mùi hôi https://thuviensach.vn khăn khẳn, giống mùi chuột của chúng lưu lại mãi trong không khí. Đang cưỡi ngựa, thình lình trên đầu bạn rào rào tiếng di chuyển vun vút, ấy là lúc bầy khỉ đang băng ngang, theo đường riêng của chúng. Nếu dừng ngựa đứng yên một chặp, mắt bạn có thể chộp được một chú khỉ trong bầy đang ngồi bất động trên cây, và lát sau sẽ phát giác ra cả khoảnh rừng quanh mình nhan nhản gia đình chú, lúc lỉu như quả trên cành, các bóng nhỏ màu xám hay tối sẫm tùy vào cách ánh mặt trời rọi tới, con nào con nấy đuôi lòng thòng đằng sau. Lũ khỉ phát ra thứ âm thanh lạ lùng, giống chúm môi hôn gió kèm theo một tiếng ho nhỏ; nếu từ dưới mặt đất bắt chước âm thanh này, bạn sẽ thấy cả lũ ngó nghiêng dáo dác với bộ dạng như đóng kịch, nhưng nếu bạn đột ngột cử động thì chỉ một giây cả đám sẽ mất dạng, và bạn có thể dỏng tai theo tiếng oàm oạp xa dần khi chúng rẽ ngọn cây biến vào rừng giống bầy cá lẩn vào những con sóng. Giữa rừng Ngong tôi cũng từng bắt gặp, trên lối mòn xuyên qua lớp cây cối rậm rạp, giữa một buổi trưa vô cùng nóng nực, một chú lợn thuộc nòi Lợn rừng lớn cực kì hiếm gặp. Chú vụt băng ngang, cùng con cái và ba con non, nhanh như tên bắn, các hình cắt to nhỏ hệt nhau từ một loại giấy sẫm màu in trên nền xanh ngập nắng. Đấy là một hình ảnh huyền diệu, giống bóng nước dưới đáy hồ trong rừng hay cảnh tượng xảy ra đã cả ngàn năm trước. Lulu thuộc thứ chi có vằn đốm, đây có lẽ là loại linh dương kiều diễm nhất châu Phi. Linh dương vằn đốm nhỉnh hơn hoẵng chút đỉnh, nhút nhát và luôn lẩn lút thành thử hiếm khi bị bắt gặp như các giống linh dương thảo nguyên khác. Chúng thường sống trong rừng cây thân gỗ hay những miền cây bụi mọc lúp xúp. Có điều linh dương vằn đốm lại ưa sống trong rặng Ngong cùng vùng phụ cận, bởi vậy nếu bạn hạ trại trong núi để đi săn vào sáng sớm, hay giữa chiều tà, sẽ có cơ bắt gặp chúng rời các bụi cây bước ra trảng trống, và tấm áo khoác chúng ngời lên sắc đỏ đồng thau dưới nắng. Các con đực còn có thêm cặp sừng cong thanh thoát. Lulu trở thành thành viên trong nhà tôi theo cách sau: https://thuviensach.vn Một sáng tôi lái xe từ đồn điền xuống Nairobi. Trước đó ít lâu, xưởng chế biến cà phê ở đồn điền bị cháy nên tôi phải nhiều đận ngược xuôi thành phố làm thủ tục nhận tiền bảo hiểm và sớm ấy đầu óc tôi đang xoay mòng mòng với các con số cùng dự toán. Khi đang lái xe dọc quốc lô Ngong, tôi thấy mấy chú lỏi Kikuyu bên lề hét gọi mình, giơ cao một con linh dương bé xíu cho xem. Biết chúng hẳn vừa vớ được con vật và giờ đang muốn bán cho mình đây, song bởi đã trễ giờ hẹn ở Nairobi và chẳng còn bụng dạ nào nghĩ tới những việc như vậy, thành thử tôi vẫn cứ bon bon. Chiều trên đường về, lúc lái xe qua chỗ ban sáng, tôi lại nghe tiếng la to từ bên lề. Lũ trẻ vẫn còn đấy, thấm mệt và nản chí bởi suốt hôm đó hẳn đã gắng xoay xở chào mời con vật cho những người qua lại, giờ chỉ mong bán phứt cho xong nợ trước khi mặt trời lặn nên lại giơ con linh dương lên cao câu dụ tôi. Nhưng vừa có một ngày vất vả ở thành phố, thêm việc điều đình bảo hiểm không như ý, tôi chẳng buồn dừng xe hay trao đổi gì mà cứ thế phóng ào qua. Về tới nhà, thậm chí không nghĩ ngợi gì, tôi chỉ ăn tối rồi lên giường. Lúc bắt đầu gà gật bỗng tôi choàng tỉnh bởi một nỗi hãi hùng. Hình ảnh mấy thằng nhóc và con linh dương nhỏ giờ hiển hiện trước mắt như một bức tranh, và tôi sợ hãi ngồi bật dậy, hơi thở thắt nghẹn như bị ai siết cổ. Điều gì, tôi nghĩ bụng, sẽ xảy đến cho con vật bị đám trẻ đứng chầu chờ cả ngày nóng nực giơ ngược mấy chân lên như thế? Nó còn quá nhỏ để tự kiếm ăn được. Chính tôi đã lái xe đi qua đó tới hai lần trong cùng một ngày, vừa đóng vai thầy tế vừa là người Lê-vi* mà chẳng hề để tâm, và giờ đây con vật kia ở đâu? Rời khỏi giường trong tâm trạng thực sự hốt hoảng, tôi khua hết gia nhân dậy, bảo phải tìm cho ra con linh dương và mang về cho tôi vào sáng mai, nếu không tất tật sẽ bị đuổi việc. Họ hiểu ngay ra tình thế. Hai cậu gia nhân ban ngày ngồi cùng xe với tôi, và chẳng hề tỏ ra đoái hoài tới lũ trẻ hay con linh dương, giờ liền đứng ra cung cấp cho mọi người địa điểm, thời gian sự việc cũng như thông tin nhà đám trẻ. Đấy là một đêm trăng sáng vằng vặc; tất tật gia nhân lên đường, vừa tỏa đi các hướng vừa https://thuviensach.vn bàn tán rôm rả; tôi nghe họ bảo nhau cố tìm cho ra con linh dương kẻo cả đám bị sa thải. Sớm hôm sau, lúc Farah mang trà lên cho tôi thì Juma cùng bước vào bế theo con linh dương. Đó là một con linh dương cái, chúng tôi đặt tên nó là Lulu, theo tiếng Swaheli nghĩa là ngọc trai. Dạo ấy Lulu chỉ lớn bằng con mèo, mang cặp mắt to, tĩnh lặng, màu tím. Chân Lulu mảnh mai tới độ bạn e chúng sẽ gãy gập vì phải co lại rồi duỗi ra mỗi bận Lulu nằm xuống hay đứng lên. Đôi tai nó mượt như lụa và cực kì biểu cảm. Mũi Lulu đen như một cây nấm. Những cái móng bé xíu khiến nó mang cốt cách một thiếu nữ Trung Hoa có đôi bàn chân bó vải, dưới mái trường thời xưa. Thật là một trải nghiệm hi hữu khi được ôm một tạo vật hoàn mỹ đến thế trong tay. Lulu mau chóng thích nghi với ngôi nhà cùng các cư dân của nó và xử sự như thể đang trong nhà mình. Vào những tuần đầu, mặt sàn trơn bóng ở các phòng là nỗi rầy rà của đời nó, và hễ cứ bước khỏi thảm là cả bốn cẳng chân nó lại bị trượt soài tứ phía. Điều tưởng chừng như một thảm họa này chẳng làm Lulu quá bận tâm, cuối cùng nó đã học được cách đi trên sàn với một tràng thanh âm như tiếng mấy ngón tay nhỏ giận dữ gõ lên bàn. Lulu cực kì sạch sẽ trong mọi nết ăn ở. Đã bướng bỉnh như một đứa trẻ, nhưng khi bị tôi ngăn cản làm những điều nó muốn, cung cách Lulu tỏ ra: Sao cũng được, miễn đừng cãi nhau. Kamante cho Lulu bú bình, và tối nào chú cũng khóa trái cửa nhốt nó lại vì màn đêm buông cũng là lúc lũ báo lẩn quất quanh nhà. Bởi thế Lulu luôn đeo dính, xoắn xuýt lấy Kamante. Thỉnh thoảng, khi chẳng được cậu bé chiều ý, Lulu húc mạnh cái đầu non tơ vào đôi chân khẳng khiu của cậu, và nó quá đỗi khả ái đến mức, khi nhìn hai sinh vật ấy bên nhau, bạn không thể không liên tưởng tới một minh họa mới và đảo ngược cho câu chuyện cổ tích Người đẹp và Quái vật. Với sức mạnh của vẻ đẹp và nét duyên dáng ấy, Lulu chiếm vị trí ăn trên ngồi trốc, và được tất cả trọng thị. https://thuviensach.vn Ở châu Phi tôi không nuôi loại chó nào ngoài nòi săn hươu xứ Scotland. Chẳng nòi chó nào quý phái và thanh lịch hơn được chúng. Cung cách của loài này cho thấy chúng hẳn đã sống bên con người nhiều thế kỷ để hiểu và thích ứng cùng cuộc sống chúng ta đến vậy. Hình loài săn hươu xứ Scotland có trên nhiều bức tranh hay tấm thảm xưa, và bằng dáng vẻ cùng phong cách, chúng khả dĩ biến phong cảnh xung quanh thành ra cảnh trong một bức thảm và mang lại cho cảnh vật thứ sắc thái thời phong kiến. Con đầu tiên trong gia tộc Săn hươu xứ Scotland của tôi tên gọi Dusk, vốn là món quà cưới, đã đồng hành cùng tôi từ khi bắt đầu cuộc đời ở châu Phi trên “con tàu Mayflower*”, hẳn có thể nói như vậy. Dusk can đảm và hào hiệp. Nó từng theo tôi, vào mấy tháng đầu cuộc chiến, tham gia chuyến tải hàng cho chính phủ trong Khu bảo tồn Masai. Nhưng sau đó vài năm Dusk bị ngựa vằn giết chết. Thời điểm Lulu tới sống trong nhà, tôi đang có hai đứa con của Dusk. Nòi Săn hươu xứ Scotland rất hòa hợp cảnh sắc và con người châu Phi. Đó có lẽ bởi độ cao, cả ba đối tượng trên đều mang khí chất vùng cao, vì tại Mombasa, nơi nằm ngang mực nước biển, giống này nom chẳng còn hài hòa đến vậy. Điều này dẫn đến sự thể là dường như phong cảnh hùng vĩ và bao la với thảo nguyên, núi đồi, sông suối kia vẫn chưa trọn vẹn cho đến khi có nòi Săn hươu góp mặt. Nòi này con nào cũng giỏi đi săn và thính hơi hơn các loại chó săn khác, song lúc săn đuổi chúng hoàn toàn dùng mắt và cảnh hai con Săn hươu phối hợp cùng săn mới tài tình làm sao. Mỗi khi cưỡi ngựa vào Khu bảo tồn động vật hoang dã - ở đây không được phép săn bắn - tôi thường mang theo bầy Săn hươu và chúng xua lũ ngựa vằn và linh dương đầu bò túa ra khắp thảo nguyên, như thể tất cả các vì sao đang chạy tán loạn trên bầu trời. Nếu có đám Săn hươu cùng săn ở khu Bảo tồn Masai, tôi sẽ chẳng bị lọt mất đầu thú đã trúng đạn nào. Giữa rừng già bản địa, nom chúng cũng tuyệt đẹp với sắc xám đen giữa bạt ngàn lục sẫm. Một con Săn hươu của tôi từng hạ được cả con đực già lực lưỡng dòng khỉ đầu chó. Trong cuộc đấu tay đôi ấy, mũi nó bị đập bẹt làm https://thuviensach.vn xấu cả nét bán diện quý phái nhưng cư dân đồn điền vẫn coi đây là thương tích đáng tự hào, vì khỉ đầu chó là loài chuyên phá phách, bị dân bản xứ thậm ghét. Nòi Săn hươu rất khôn, biết phân biệt trong các gia nhân của tôi ai theo đạo Hồi và không được phép chạm vào chó. Trong mấy năm đầu sống tại châu Phi, tôi có một lão bộc vác súng dân Somali tên là Ismail; ông đã qua đời dạo tôi vẫn còn ở đó. Ismail thuộc lớp phu vác súng già, giờ những con người như thế đã mai một. Ông được nuôi dạy bởi các tay thợ săn đại thú kiệt xuất thời đầu thế kỷ, hồi toàn bộ châu Phi còn là khu công viên đích thực của hươu nai. Hiểu biết của ông về thế giới văn minh chỉ gói gọn trong lĩnh vực săn bắt, và Ismail nói thứ tiếng Anh của giới đi săn: ông dùng từ lớn tướng hay trẻ trung khi đề cập tới khẩu súng trường của tôi. Sau ngày Ismail quay về quê nhà Somali*, tôi nhận được một lá thư ông đề gửi cho Blixen sư tử can trường, mở đầu thế này: Sư tử đáng kính ơi. Là một tín đồ nhất cử nhất động tuân thủ lề luật Hồi giáo, cả đời không được đụng chạm vào chó, Ismail luôn lo ngại lúc làm việc. Nhưng ông lại coi Dusk là trường hợp ngoại lệ và chẳng ngần ngại khi tôi cho nó cùng ngồi chen chúc trên cỗ xe lừa kéo. Thậm chí Ismail để Dusk ngủ chung lều. Bởi như ông bảo Dusk chỉ nhìn cũng nhận được ra người Hồi giáo, và chẳng bao giờ chạm vào ông. Thậm chí, Ismail quả quyết với tôi, Dusk có khả năng chỉ đưa mắt là phân định được một tín đồ Hồi giáo chân chính. Một bận ông bảo: “Hóa ra Dusk cùng thuộc bộ lạc của cô. Nó cười cợt cả người.” Giờ bầy chó của tôi cũng nhận ra uy quyền và chỗ đứng trong nhà của Lulu. Cái ngạo mạn ở các thợ săn vĩ đại tan ra như nước trước nó. Lulu đuổi chúng khỏi các bát sữa và những chỗ nằm ưa thích trước đống lửa. Tôi cột một cái chuông nhỏ vào vòng cổ Lulu, và mỗi bận nghe tiếng chuông leng keng ấy tiến lại gần, bầy chó nhịn nhục rời khỏi những cái giường ấm áp bên lò chuyển sang nằm mé khác của phòng. Ấy thế nhưng chẳng đối tượng nào có thể làm ra thái độ lành hiền vượt được Lulu khi bước vào và https://thuviensach.vn nằm xuống, theo kiểu một quý bà đích thực từ tốn chỉnh trang vạt váy quanh mình để không làm vướng lối ai. Nó uống sữa với bộ tịch lễ độ, tỉ mẩn, như thể bị một bà chủ quá tốt bụng nài ép. Lulu thường đòi được gãi sau tai, với một dáng điệu nhẫn nhịn duyên dáng, giống cô dâu mới thân mật cho phép anh chồng vuốt ve. Khi lớn hơn và bước vào giai đoạn rực rỡ nhất của tuổi thanh xuân, Lulu trở nên một nàng linh dương thon thả tuyệt vời, từ đầu tới chân đẹp đến độ chẳng thể hình dung. Trông nó như hình vẽ minh họa tỉ mỉ khúc ca về những con linh dương thông minh và dịu dàng bên sông Hằng của Henrich Heine*. Song le chẳng hề hiền hòa, thực ra trong Lulu có chứa, như người ta thường bảo, một con quỷ. Nó sở hữu, ở mức tột đỉnh, một tính cách phụ nữ điển hình là tỏ ra chỉ luôn tự vệ trong khi thật ra, với toàn bộ sức mạnh sẵn có, lại đang nhăm nhe tấn công. Công kích ai? Cả thế giới. Càng lớn Lulu càng trái tính trái nết; nó có thể lao tới tấn công cả ngựa của tôi nếu chú khiến nó không hài lòng. Tôi nhớ ông Hagenbeck ở Hamburg* từng chỉ ra trong tất tật chủng loại động vật, kể cả thú ăn thịt, đám hươu nai linh dương là ít đáng tin cậy nhất, và bạn có thể tin tưởng cả loài báo, nhưng nếu tin vào một con hươu non, sớm hay muộn cũng sẽ bị nó húc từ đằng sau. Lulu là niềm tự hào của cả nhà ngay cả những lúc cư xử như một cô ả đỏng đảnh, chẳng hề biết thẹn thực thụ, ấy vậy mà chúng tôi vẫn chẳng thể khiến nó bằng lòng. Lâu lâu Lulu lại bỏ đi mất dạng nhiều giờ, hoặc suốt chiều. Thỉnh thoảng, những lúc nội tâm tức tối và bất mãn thế giới xung quanh đạt tới cực điểm, nhằm làm dịu con tim chính mình nó sẽ nhảy thứ vũ điệu sát phạt trên trảng cỏ trước nhà, nom giống như một lời khấn khứa ngắn gọn và dích dắc tới quỷ sa tăng. “Ôi Lulu,” tôi nghĩ; “ta biết rành mi khỏe, bật vượt được cả đầu mình nữa. Giờ mi đang giận điên, mong tất thảy bọn ta tiêu vong cho rảnh nợ; nếu được không khéo mi giết cả đám chứ chẳng chơi. Nhưng không như mi tưởng là bọn ta đặt ra đủ thứ chướng ngại rồi bắt mi nhảy qua đâu. Cô ả https://thuviensach.vn giỏi nhảy kia ơi, bọn ta nào có thể làm vậy? Chẳng ai tạo ra bất kì trở ngại nào cho mi. Sức mạnh tuyệt đỉnh kia ở trong người mi, cả các chướng ngại cũng vậy luôn, Lulu ạ, có điều thời điểm chín chắn của mi chưa tới.” Một tối Lulu không trở về và chúng tôi bỏ công sục sạo trong vô vọng suốt cả tuần. Đấy là một cú đòn trí mạng giáng vào tất cả mọi người. Ngôi nhà đánh mất âm sắc trong trẻo của nó và giờ như chẳng còn đẹp đẽ gì hơn các nhà khác. Tôi nghĩ tới lũ báo rình mò bên sông và một tối chia sẻ điều này cho Kamante. Như thường lệ cậu chờ một thời gian rồi mới trả lời, nhằm tiêu hóa cái thiếu sáng suốt ở tôi. Mãi đến vài ngày sau Kamante tìm tôi đề cập chuyện này. “Msabu, cô tin Lulu đã chết rồi,” cậu bảo. Tôi không thích nói huỵch toẹt ra như vậy, nhưng bảo cậu mình đang băn khoăn sao Lulu chẳng quay về. “Lulu,” Kamante nói; “không chết. Song nó đã lấy chồng.” Đây là tin vui bất ngờ và tôi hỏi sao cậu biết. “Đúng vậy,” Kamante nói; “nó đã lấy chồng. Nó sống trong rừng với Bwana,”- chồng; hay chủ nhân. “Nhưng nó không quên con người. Hầu như sáng nào Lulu cũng quay về. Cháu rải ngô nghiền cho nó ở sau bếp, thế là cứ trước lúc mặt trời mọc nó lại từ rừng ra ăn. Chồng nó cùng đi, có điều không quen nên chỉ lảng vảng quanh cái cây to màu trắng bên kia trảng cỏ chứ chả dám bén mảng lại gần nhà.” Tôi bảo Kamante dịp tới thấy Lulu về nhớ gọi tôi. Mấy ngày sau, trước khi hửng sáng, cậu vào nhà gọi tôi ra. Đó là một sớm mai tuyệt đẹp. Mấy ngôi sao cuối cùng đã bỏ đi trong lúc chúng tôi chờ đợi, bầu trời quang đãng và yên bình nhưng thế giới của chúng tôi vẫn tối tăm và hết sức tĩnh mịch, cỏ ướt sũng, gần các gốc cây, chỗ đất thoai thoải, lớp sương khiến cỏ như được mạ một lớp bạc xỉn màu. Khí trời buổi ban mai lành lạnh, gầy cảm giác buốt nhôn nhốt mà nếu ở các https://thuviensach.vn xứ phương Bắc có nghĩa là sương giá sắp về. Dẫu đã thường nếm trải, tôi nghĩ, vẫn chẳng sao tin nổi, giữa cái mát mẻ âm u nhường này, chỉ vài tiếng đồng hồ nữa thôi, bạn sẽ khó lòng chịu nổi sức nóng vầng dương và ánh chói bầu trời. Sương xám phủ lên rặng núi và kì lạ làm sao cũng mang luôn dáng hình dải sơn mạch; nếu đàn trâu rừng giờ đang gặm cỏ giữa lưng chừng núi hẳn sẽ bị lạnh cóng, như ở giữa biển mây vậy. Mái vòm vô tận trên đầu chúng tôi từ từ được một thứ chất trong ngần điền đầy tựa chiếc cốc thủy tinh chứa rượu vang. Đột nhiên, lúc bắt được ánh dương đầu tiên, mấy chóp núi chuyển hồng phơn phớt. Thật chậm rãi, khi Trái Đất quay dần về phía mặt trời, vùng chân núi thoai thoải rậm rì cỏ mọc nhuốm sắc vàng mong manh, tiếp đến là các cánh rừng Masai bên dưới. Và giờ tới những ngọn cao cây rừng nằm phía bờ sông bên này của chúng tôi cũng hồng lên màu đồng thau. Đây là thời điểm bầy chim câu thân to, sắc tía, làm tổ ở bờ sông bên kia, bay qua kiếm ăn trên rặng cửu lí hương trong rừng của tôi. Mỗi năm chúng chỉ trú ngụ nơi đây một thời gian ngắn. Bầy chim ào ào kéo tới nhanh đến kinh ngạc, hệt như đợt công kích của một đoàn khinh kị bay. Vì lẽ này bạn bè tôi ở Nairobi đâm mê mẩn thú săn chim câu buổi rạng đông ở đồn điền và để đi bắn cho kịp lúc mặt trời vừa mọc, họ thường phải rời nhà mình sớm tới độ khi quành vào con đường trước nhà tôi các xe vẫn phải bật đèn sáng lòa. Đứng giữa bóng tối trong suốt thế này, ngước nhìn về các đỉnh cao đúc bằng vàng ròng cùng bầu trời quang đãng trên kia, bạn sẽ cảm giác hệt như vừa đang bước dưới đáy biển, giữa các dòng hải lưu, vừa ngóng trông lên mặt nước đại dương. Một chú chim cất tiếng hót, rồi đâu đó gần đây trong rừng, tôi chợt nghe tiếng chuông leng keng. Có thế chứ, vui quá Lulu đã trở lại và đang dạo chơi giữa chốn quen! Nó tới gần hơn, dựa vào tiếng chuông tôi có thể bắt theo chuyển động của Lulu; nó bước đi, dừng lại, lại bước tiếp. Một khúc ngoặt kề bên lều của gia nhân đưa Lulu hiện ra ngay trước mặt chúng tôi. Việc gặp linh dương sát cạnh nhà thế này bỗng chốc thành điều phi thường https://thuviensach.vn và niềm thích thú. Lulu đứng sững, có vẻ nó đã chuẩn bị tinh thần trông thấy Kamante chứ không phải tôi. Song nó không hề bỏ chạy mà nhìn tôi chẳng chút sợ hãi hay vương vấn kí ức về mối bất hòa giữa hai bên trong quá khứ hay việc nó bạc bẽo đột ngột bỏ đi không hề báo trước. Lulu của rừng già thành ra một sinh thể độc lập, cao cả. Một biến hóa sâu thẳm giờ đã bao trùm, làm chủ nó. Nếu tôi tình cờ quen biết một cô công chúa tha hương, vào lúc còn đang đòi vương quyền, rồi gặp lại nàng ở tư cách nữ hoàng sau khi giành được hoàng vị, thì cuộc hạnh ngộ giữa chúng tôi cũng sẽ giống thế này. Lulu tỏ ra rộng lượng không thua vua Louis Philippe, khi ngài tuyên bố hoàng đế nước Pháp chẳng còn nhớ gì đến các mối thù của công tước Orleans*. Hiện tại Lulu trọn vẹn là chính nó. Thái độ hung hăng hiếu chiến xưa giờ đã biến đi hoàn toàn: vì ai, hà cớ gì phải tấn công cơ chứ? Nó đứng đó, im lìm với thứ quyền lực thiêng liêng được Chúa trời ban tặng. Vẫn còn nhớ chủ đủ để không thấy hãi sợ, Lulu chú mục vào tôi cả phút; đôi mắt khói tím của nó tuyệt nhiên không biểu lộ gì, cũng chẳng hề chớp. Tôi nhớ ra các nam hay nữ thần cũng có chớp mắt bao giờ, và cảm giác mình đang đứng đối diện thần Hera mắt bò*. Nó nhẹ nhàng bứt một nhành cỏ khi đi ngang qua chỗ tôi, duyên dáng nhảy một bước ngắn, rồi nhởn nhơ bước ra phía sau bếp, chỗ Kamante đã rắc ngô trên mặt đất. Kamante chọc một ngón tay vào tay tôi, chỉ ra phía rừng. Theo đó tôi thấy, dưới cây cửu lí hương cao vút ở bìa rừng, một chú linh dương, một bóng nhỏ màu hung có cặp sừng duyên dáng, đang đứng bất động hệt như thân cây. Kamante quan sát chú linh dương một chặp, đoạn bật cười. “Cô trông mà xem,” cậu bảo, “Lulu đã bảo chồng cứ tiến lại ngôi nhà chẳng có gì phải sợ cả, nhưng anh chàng nào dám. Sớm nào bụng cũng bảo dạ hôm nay ta sẽ tới đó, song khi thấy căn nhà và con người, cậu chàng lại có một cục đá lạnh toát trong bụng,” - tình trạng này xảy ra phổ biến trong người bản xứ và thường cản trở công việc đồn điền, “nên rốt cuộc chỉ dừng bước cạnh cái cây.” https://thuviensach.vn Suốt một quãng thời gian dài, Lulu thường quay về nhà vào buổi sớm. Tiếng chuông trong trẻo của nó báo hiệu mặt trời đã mọc trên rặng núi, và tôi thường nằm trên giường đợi chờ tiếng chuông ấy. Đôi khi Lulu biến mất một hoặc hai tuần khiến chúng tôi nhớ nhung và bắt đầu đề cập đến những người lên núi săn bắn. Nhưng rồi đám gia nhân một lần nữa lại báo tin: “Lulu đang ở đây,” như thể đấy là cô con gái đã lấy chồng giờ về chơi nhà vậy. Tôi cũng thấy bóng dáng chàng linh dương giữa những thân cây thêm vài bận nữa, có điều Kamante đã đúng, cậu chàng chẳng bao giờ đủ can đảm tiến lại ngôi nhà. Đến một ngày, từ Nairobi quay về, tôi bắt gặp Kamante nhăm nhăm đứng ngóng ngoài cửa bếp. Thấy tôi, cậu háo hức tiến tới thông báo hôm đó Lulu quay về đồn điền cùng Toto-con-của-nó. Vài bữa sau, nơi khoảng trống giữa mấy túp lều gia nhân, tôi vinh hạnh gặp lại Lulu, thái độ cực kì cảnh giác và chẳng dễ chọc, dưới chân có một chú linh dương nhỏ xíu đang bước chập chững hệt Lulu hồi đầu chúng tôi bắt gặp. Đó là thời điểm những cơn mưa tầm tã vừa qua đi, và trong suốt mấy tháng hè ấy, Lulu thường quanh quẩn gần nhà, cả buổi chiều hôm cũng như khi tảng sáng. Thậm chí cô nàng còn xuất hiện vào giữa trưa, trốn nắng dưới bóng rợp những mái lều. Con của Lulu không hề sợ đàn chó, và để mặc chúng đánh hơi khắp người, nhưng nó chẳng thể quen được người bản xứ hay chính tôi, thành thử hễ bao giờ chúng tôi gắng chạm vào nó là hai mẹ con liền lẩn mất. Bản thân Lulu, sau lần đầu bỏ nhà đi hoang, cũng không tới gần bất kì ai ở khoảng cách có thể chạm vào nó. Mặt khác Lulu lại rất thân thiện, hiểu chúng tôi thích nhìn đứa con, và sẵn lòng nhận viên đường từ một cánh tay đưa ra. Nó có thể bước đến cánh cửa phòng ăn rộng mở, thò đầu nhìn quanh quất không gian tranh tối tranh sáng trong các phòng, nhưng chẳng khi nào còn bước qua ngưỡng cửa ấy nữa. Lúc này đã mất cái chuông, Lulu luôn đến và đi trong thinh lặng. Mấy gia nhân đề nghị cho họ bắt con non nhốt lại rồi nuôi như từng làm với Lulu. Song tôi nghĩ đó là lối hồi đáp thô lỗ trước niềm tin tốt đẹp nó đặt https://thuviensach.vn vào chúng tôi. Ngoài ra, tôi nhìn nhận mối gắn kết tự nguyện giữa nhà tôi và con linh dương là điều hiếm hoi, đáng trân quý. Lulu đến từ hoang dã nhằm chứng tỏ chúng ta có thể sống thuận hòa cùng thế giới của nó và đưa nhà tôi hòa làm một vào cảnh sắc châu Phi khiến chẳng ai còn chỉ được ra đâu là điểm chỗ này kết thúc, đâu là chốn nơi kia bắt đầu. Lulu hẳn tỏ tường địa điểm có hang loài lợn rừng khổng lồ, hay từng thấy cảnh tê giác giao phối. Giữa rừng sâu châu Phi có giống cúccu hót vào chính ngọ những ngày oi nóng, tựa như tiếng trái tim xứ này thình thịch đập. Tôi chưa có phúc phận được mục kích loài chim ấy, cả những người quen của tôi cũng chưa ai từng được thấy, bởi vậy không ai có thể mô tả trông chúng ra sao. Song Lulu khéo chừng đã dạo bước trên lối mòn mướt xanh của loài hươu nai, bên dưới cành cây giống cúccu kia đậu. Tôi có đọc một cuốn sách về bà hoàng thái hậu Trung Hoa, chuyện Yahanola*, sau khi hạ sinh thái tử, lên kiệu vàng rời Tử Cấm Thành quay về thăm nhà. Tôi nghĩ, giờ căn nhà mình cũng giống nhà của cha mẹ nàng Yahanola dạo đó. Hai linh dương, một lớn một nhỏ, quanh quẩn cạnh nhà tôi suốt mùa hè năm ấy; trừ đôi bận hai hoặc ba tuần chúng mới tới, còn ngày nào chúng tôi cũng được gặp hai mẹ con. Khi một mùa mưa mới lại về, mấy cậu gia nhân báo cho tôi Lulu đã trở về cùng một đứa con khác. Tôi không được tận mắt thấy con non này, bởi khi ấy chúng chẳng còn lại gần ngôi nhà nữa, nhưng sau này tôi có lần bắt gặp cả ba con linh dương quây quần bên nhau giữa rừng. Mối gắn kết giữa Lulu cùng gia đình nó với ngôi nhà tôi kéo dài trong nhiều năm. Lũ linh dương thường quanh quẩn trong khu vực phụ cận ngôi nhà, chúng từ rừng đi ra và trở vào đó như thể vùng đất của tôi là một bộ phận của miền hoang dã. Thời điểm linh dương thường kéo đến là buổi hoàng hôn; lúc đầu chúng như mấy cái bóng đen ẩn hiện giữa các thân cây ở vạt rừng tối, song khi bước ra ngoài ăn cỏ trên trảng trống gần nhà, dưới bóng chiều chạng vạng, bộ lông chúng lại ngời lên tựa đồng thau. Một con https://thuviensach.vn trong bọn là Lulu, do chỗ nó tiến gần ngôi nhà nhất, dạo quanh bình thản, tai vểnh lên mỗi khi có một chiếc xe chạy tới hay lúc chúng tôi mở một ô cửa sổ, và lũ chó biết nó. Theo thời gian, màu da Lulu dần sẫm hơn. Một bận, trở về cùng một người bạn, vừa đậu xe trước nhà tôi bắt gặp ba con linh dương đang vây quanh đống muối được rải cho lũ bò trên thềm gạch. Điều kì lạ là ngoài Bwana của Lulu, con linh dương đực cao to, đứng nghển đầu dưới cây cửu lí hương hồi đầu, chẳng còn con đực nào khác tới nhà tôi. Có vẻ điều này có dây mơ rễ má đến một chế độ mẫu hệ trong rừng. Các thợ săn và nhà tự nhiên học ở xứ thuộc địa này đã quan tâm đến đám linh dương của tôi. Nhân viên bảo vệ đông vật hoang dã cũng tới đồn điền xem xét và tận mắt thấy chúng. Có phóng viên đã viết về lũ linh dương trên tờ Người đưa tin Đông Phi. Những năm được Lulu và gia đình nó ghé thăm là thời kì hạnh phúc nhất trong quãng đời ở châu Phi của tôi. Bởi thế, tôi đi đến việc nhìn nhận mối quan hệ với linh dương rừng già như một ân huệ lớn, một bằng chứng tình bạn từ Phi châu lục địa. Trọn vẹn xứ sở này nằm trong đó, những dấu hiệu tốt lành, những thỏa ước xưa cũ, có một khúc ca thế này: “Hãy gấp lên hỡi người yêu dấu, hãy nhẹ bước như con hoẵng con nai, trên các ngọn núi trầm hương*.” Trong những năm cuối ở châu Phi, càng ngày tôi càng ít thấy Lulu và gia đình. Suốt cả một năm trước khi tôi rời khỏi xứ sở này, chúng chẳng ghé thăm dẫu chỉ một lần. Tháng ngày bãi bể nương dâu, vùng đất mạn nam đồn điền của tôi đã được giao cho nông dân và tại đó rừng bị đốn sạch, nhà cửa mọc lên. Những xe máy kéo chạy dọc ngang nơi vốn dĩ trước kia là đồng bãi. Nhiều dân định cư da trắng mới qua là các nhà thể thao hăng say và những tiếng súng trường chói tai cứ luôn đì đoàng giữa khung cảnh Phi châu. Tôi chắc thú săn đã rút cả về phía Tây, vào các cánh rừng trong Khu bảo tồn Masai. Tôi chẳng rõ tuổi thọ linh dương là bao lâu, có lẽ Lulu cũng đã chết lâu rồi. https://thuviensach.vn Nhiều khi, rất nhiều khi, trong những thời khắc yên tĩnh buổi rạng đông, tôi mơ nghe được tiếng chuông của Lulu để rồi trong giấc ngủ, tim tôi tràn trề niềm vui, và khi tỉnh dậy lại mong chờ một điều kì lạ và ngọt ngào sắp xảy đến, ngay lúc ấy. Sau đó nằm trên giường, nghĩ đến Lulu, tôi tự hỏi liệu giữa rừng nó có từng mơ thấy tiếng chuông. Liệu trong tâm trí nó, những hình bóng con người và bầy chó có bao giờ thoáng qua, như những bóng rợp trên mặt nước. Nếu ta biết một bài hát của châu Phi, tôi nghĩ, về lũ hươu cao cổ, và vầng trăng non Phi châu trên lưng chúng, về những lưỡi cày trên đồng, về những khuôn mặt thợ hái cà phê nhễ nhại, liệu châu Phi có biết đến một bài hát về ta? Liệu bầu không khí lay động trên thảo nguyên có gợn lên sắc váy áo tôi, liệu đám trẻ có chế ra một trò chơi đặt tên tôi, liệu ánh trăng rằm vằng vặc rọi trên mặt sỏi đoạn đường xe chạy trước nhà có tạo ra cái bóng giống dáng tôi, liệu đàn đại bàng núi Ngong có lượn kiếm tìm tôi? Chẳng còn nghe gì về Lulu từ độ rời khỏi xứ, nhưng tôi có nhận được tin Kamante và mấy cậu gia nhân. Cách đây độ một tháng, tôi nhận được lá thư mới nhất của Kamante. Song các thông điệp ấy đến với tôi dưới hình thức lạ lùng, phi thực, giống những cái bóng hay ảo ảnh hơn là tin tức thực tại cuộc sống. Bởi Kamante không biết viết, và mù tịt tiếng Anh, khi cậu, hay những gia nhân khác, có ý muốn liên lạc với tôi, họ sẽ tìm tới một người Ấn hay người bản xứ hành nghề viết thư thuê đang ngồi bên một chiếc bàn có giấy bút và mực, ở ngoài bưu cục, rồi mô tả lá thư sẽ nói gì. Đám viết thuê chuyên nghiệp này cũng chỉ lõm bõm chút tiếng Anh, và hầu như chẳng tỏ cần phải viết ra sao, thế nhưng lại tự tin ta đây biết rành. Để khoe tài viết lách của mình, họ nhồi nhét vào lá thư vô số hoa hòe hoa sói khiến rất khó giải mã nó. Họ còn có thói viết bằng ba bốn thứ mực, mặc cho động cơ của việc này là gì chăng nữa nó gây ra ấn tượng người viết bị hết mực và đang phải chắt ra giọt cuối từ cả đống lọ. Tất thảy nỗ lực trên sản sinh ra một dạng thông điệp tưa tựa lời sấm đền Delphi*. Các bức thư bao hàm nỗi https://thuviensach.vn niềm sâu xa; bạn có thể cảm nhận trong đó một thông điệp sống còn đang đè nặng tâm tư người gửi, khiến anh ta cuốc bộ vượt cả chặng đường xa từ Khu bảo tồn Kikuyu ra tận bưu cục. Song lời nhắn nhủ này lại bị gói kín trong tăm tối. Mẩu giấy lấm lem, xấu xí vượt nhiều ngàn dặm để tới được tay bạn dường như gắng nói, thậm chí cố thét lên với bạn, nhưng lại chằng hề truyền tải được điều gì. Tuy nhiên trong vấn đề này, cũng như hầu hết mọi vấn đề, ở Kamante có sự khác biệt. Cậu luôn có cách thức liên lạc riêng: bỏ cả ba hay bốn lá thư vào cùng một phong bì, đánh dấu Lá thư thứ nhất, Lá thư thứ hai, cứ vậy. Tất cả chúng đều cùng một nội dung, lặp đi lặp lại. Bằng cách viết cùng nội dung, có thể cậu muốn tạo một ấn tượng sâu đậm hơn, cách này cậu vẫn thường dùng, lúc chuyện trò trực tiếp, nhằm giúp tôi tập trung hiểu hoặc ghi nhớ một điều cụ thể. Cũng có thể Kamante thấy khó mà không lặp đi lặp lại khi đang phải gắng truyền tin tới một người bạn qua cả khoảng cách vời vợi nhường ấy. Kamante thông báo đã lâu không còn được ai thuê mướn nữa. Tôi chẳng hề ngạc nhiên khi nghe tin này, bởi cậu thực sự là món trứng cá với đại chúng*. Tôi đã đào luyện ra một đầu bếp hoàng cung để rồi bỏ lại nơi xứ thuộc địa mới khai phá. Trường hợp của cậu giống như chuyện câu thần chú “Vừng ơi mở ra”. Giờ câu thần chú ấy bị lãng quên và cánh cửa đá giữ kho báu đã đóng chặt. Chẳng ai thấy tay bếp cừ khôi đầy hiểu biết, bước đi trong trầm mặc, mà chỉ nhìn ra một chú bé Kikuyu chân vòng kiềng, một chú lùn có khuôn mặt bẹt, vô cảm. Kamante đã nói những gì khi cuốc bộ tới Nairobi, đứng trước tay viết thuê tham lam, ngạo mạn người Ấn, hầu giãi bày ngọn ngành về bức thông điệp sẽ đi nửa vòng Trái Đất. Những dòng chữ rồng rắn lên xuống, câu cú lộn xộn rối rắm. Nhưng Kamante có một tâm hồn lớn mà người hiểu cậu sẽ vẫn nghe được ra âm điệu trong thứ âm nhạc khê khàn loạn nhịp, thậm chí chỉ như âm vọng tiếng đàn môi chàng chăn cừu David*. Đây là một “Lá thư thứ hai”: https://thuviensach.vn “Cháu đã không quên cô, Memsahib* ạ. Memsahib đáng tôn kính. Giờ đây tất thảy người làm của cô họ không bao giờ vui vẻ nữa bởi cô đang từ đất nước đó. Nếu là chim chúng cháu sẽ bay đến gặp cô. Rồi quay về. Đồn điền cũ của cô từng là địa điểm tốt cho bò bê người da đen. Giờ mọi người chẳng có bò dê cừu chẳng gì hết. Giờ trong tim tất tật lũ người xấu đều vui sướng vì kẻ ăn người làm của cô thành ra người nghèo. Giờ Chúa biết trong tim Người toàn bộ điều này ngõ hầu một lúc nào giúp đỡ người làm của cô.” Và trong một “Lá thư thứ ba” Kamante cho thấy cách người bản xứ nói những lời lẽ tốt đẹp với bạn: “Hãy viết và báo tin cho chúng cháu nếu cô quay lại. Bọn cháu nghĩ cô quay lại. Nguyên do vì sao? Chúng cháu nghĩ cô chẳng bao giờ có thể quên bọn cháu. Nguyên do vì sao? Chúng cháu nghĩ cô vẫn còn nhớ mặt bọn cháu, nhớ tên mẹ của bọn cháu.” Một người da trắng, khi muốn bày tỏ tình cảm dành cho bạn sẽ viết: Tớ không bao giờ quên cậu.” Người châu Phi họ lại nói: Chúng tôi không nghĩ về bạn như một người lúc nào đó có thể lãng quên chúng tôi.” https://thuviensach.vn PHẦN II MỘT TAI NẠN SÚNG Ở ĐỒN ĐIỀN https://thuviensach.vn 1 Vụ tai nạn súng Tối ngày mười chín tháng Chạp, trước khi ngủ tôi bước ra bên ngoài xem liệu trời có sắp mưa chăng. Tôi tin nhiều nông gia ở miệt cao nguyên này cũng làm vậy vào giờ đó. Đôi khi, ở một năm may mắn, chúng tôi sẽ nhận được vài trận mưa lớn dịp Giáng Sinh, và đó là điều tuyệt diệu cho lứa trái cà phê mới đậu sau đợt nở hoa trong những cơn mưa rào thoáng qua hồi tháng Mười. Tối ấy không có dấu hiệu nào của mưa. Trời quang, lặng thầm đắc thắng và rực rỡ với muôn sao. Trời sao vùng xích đạo phong phú hơn của các nước phương Bắc và được ngắm nhìn thường xuyên hơn bởi vào những buổi tối chúng ta ở ngoài trời nhiều hơn. Tại Bắc Âu, đêm mùa đông quá rét cho thú ngắm sao, còn mùa hè lại khó lòng nhìn ra chúng trên khung trời đêm tím nhạt màu hoa violet. Đêm miền nhiệt đới có không khí thân thiện của một giáo đường Công giáo La Mã so với các nhà thờ Tin lành phương Bắc chỉ cho bạn vào khi có lễ. Gian sảnh vô tận dưới mái vòm vĩ đại này là nơi vạn sự diễn ra, mọi người đến rồi đi. Với Ả Rập và châu Phi, nơi mặt trời ban trưa giết chết bạn, đêm là thời gian ta di chuyển và dành cho công việc. Ở đây các ngôi sao được đặt tên, chúng dẫn đường cho con người trong nhiều thế kỉ, đưa họ theo những vạch đường dài cắt qua sa mạc và đại dương, người này đi về phía Đông kẻ kia lại di chuyển hướng Tây, hoặc phía Bắc, phía Nam. Xe cộ vận hành trơn tru lúc đêm tối, và lái ôtô dưới trời sao thật lí thú làm sao; bạn dần dà có thói quen ấn định các chuyến ghé thăm bạn bè vào dịp trăng tròn kế tiếp. Bạn lên đường đi săn vào lúc trăng non, nhằm tận dụng được toàn bộ những đêm trăng tròn. Và rồi ta cảm thấy lạ lẫm lắm, khi có dịp về thăm châu Âu, thấy thân bằng cố hữu ở các thành thị chẳng hề sống theo chu kì chuyển động của trăng và gần như mù tịt về nó. Vầng trăng lưỡi liềm ló https://thuviensach.vn dạng chính là dấu hiệu cho chàng dẫn lạc đà chuyển hàng hóa của Khadija* khởi hành. Ngẩng mặt ngước nhìn trăng, chàng trai là một trong “những hiền triết lấy ánh trăng dệt nên cả hệ vũ trụ.” Hẳn phải thường say sưa nhìn ngắm trăng lắm mới khiến chàng đánh dấu địa điểm cần chiếm bằng hình mặt trăng. Tôi nức tiếng trong cộng đồng bản xứ, do chỗ nhiều lần ngẫu nhiên bắt gặp trước nhất vầng trăng non như một cánh cung bạc mong manh giữa trời hoàng hôn; đặc biệt có hai hay ba năm liên tiếp, tôi là người đầu tiên nhìn thấy trăng lưỡi liềm trong tháng Ramadan, tháng thiêng của người Hồi giáo. Người nông dân chậm rãi lia mắt theo đường chân trời. Trước tiên là đằng Đông, bởi từ đấy, nếu có, mưa sẽ tới, và kia là sao Giác tú thuộc chòm Trinh nữ. Rồi chuyển về hướng Nam, để chào đón chòm Thập tự phương Nam, lính gác cửa của thế giới rộng lớn, người bạn thủy chung và được yêu mến của lữ khách, còn cao hơn bên trên, ngay dưới vệt sáng dải Ngân Hà là hai ngôi Alpha và Beta thuộc chòm Bán nhân mã. Ở mạn Tây Nam, lồ lộ trên nền trời là ngôi Thiên lang nhấp nháy cạnh sao Canopus trầm tư, còn ở phía Tây, nằm bên trên đường viền mờ của rặng Ngong giờ như đã liền thành một dải, lấp lánh mấy viên kim cương sáng chói của chòm Thợ săn Rigel, Betelgeuze và Bellatrix. Chàng ngoảnh về phương Bắc sau cùng, bởi rốt cục chúng ta sẽ theo hướng ấy về nhà, để ngắm chòm Đại hùng điềm nhiên trồng cây chuối*, và trò đùa nghịch kia của chú gấu khiến trái tim Bắc Âu xa xứ vui vui. Người nằm mơ trong giấc ngủ đêm biết một thứ hạnh phúc đặc biệt mà thế giới ban ngày chẳng có, một trạng thái ngất ngây dễ chịu tận đáy lòng, như vị ngọt mật ong trên đầu lưỡi. Họ cũng biết vầng hào quang đích thực của giấc mơ nằm nơi bầu không khí tự do vô hạn của nó. Đó không phải thứ tự do của kẻ nắm quyền tối thượng bắt thế giới tuân theo ý thích bản thân, mà là cái tự do của nghệ sĩ, người chẳng có ước muốn và ước muốn cũng chẳng kiểm soát được anh. Niềm vui của người nằm mơ chân chính không https://thuviensach.vn