🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chặng Đường Mười Nghìn Ngày
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
TableofContents
Mục lục
Chương 1
Chương 2
Chương 3: Phần 1
Chương 3: Phần 2
Chương 4
Chương 5: Phần 1
Chương 5: Phần 2
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9: Phần 1
Chương 9: Phần 2
Chương 9: Phần 3
Chương 10: Phần 1
Chương 10: Phần 2
Chương 11
Chương 12: Phần 1
Chương 12: Phần 2
Chương 13: Phần 1
Chương 13: Phần 2
Chương 14: Phần 1
Chương 14: Phần 2
Chương 15: Phần 1
Chương 15: Phần 2
Chương 15: Phần 3
Chương 15: Phần 4
Chương 15: Phần 5
https://thuviensach.vn
Chương 16
Chương 17: Phần 1 Chương 17: Phần 2 Chương 18: Phần 1 Chương 18: Phần 2 Chương 18: Phần 3 Chương 19: Phần 1 Chương 19: Phần 2 Chương 20: Phần 1 Chương 20: Phần 2 Chương 21: Phần 1 Chương 21: Phần 2 (Hết)
https://thuviensach.vn
Mục lục
Chương 1
Chương 2
Chương 3: Phần 1
Chương 3: Phần 2
Chương 4
Chương 5: Phần 1
Chương 5: Phần 2
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9: Phần 1
Chương 9: Phần 2
Chương 9: Phần 3
Chương 10: Phần 1
Chương 10: Phần 2
Chương 11
Chương 12: Phần 1
Chương 12: Phần 2
Chương 13: Phần 1
Chương 13: Phần 2
Chương 14: Phần 1
Chương 14: Phần 2
Chương 15: Phần 1
Chương 15: Phần 2
Chương 15: Phần 3
Chương 15: Phần 4
Chương 15: Phần 5
Chương 16
Chương 17: Phần 1
Chương 17: Phần 2
Chương 18: Phần 1
Chương 18: Phần 2
Chương 18: Phần 3
Chương 19: Phần 1
Chương 19: Phần 2
Chương 20: Phần 1
Chương 20: Phần 2
Chương 21: Phần 1
https://thuviensach.vn
Chương 21: Phần 2 (Hết)
https://thuviensach.vn
CHẶNG ĐƯỜNG MƯỜI NGHÌN NGÀY
Hoàng Cầm
www.dtv-ebook.com
Chương 1
Kỷ niệm chín năm.
Quê tôi ở thôn Vĩnh Thượng, xã Sơn Công, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây (trước là tổng Sơn Lăng, phủ Ứng Hòa(1), tỉnh Hà Đông).
(1) Là những đơn vị hành chính thời Pháp thuộc: tổng tương đương với xã, phủ lớn hơn huyện, nay thống nhất là huyện.
Hơn bốn mươi năm tham gia cách mạng, đã có mặt ở khắp mọi miền đất nước nhưng tôi vẫn tự hào về quê mình - một vùng giàu đẹp khiêm nhường. Ở đấy, có cánh đồng cấy được hai vụ chiêm mùa; có những vạt bãi rộng phẳng, đất tơi xốp và màu mỡ bởi phù sa sông Đáy bao quanh hàng năm bồi đắp, rất thuận lợi cho việc phát triển hoa màu, cây công nghiệp như rau đậu, ngô, khoai, mía, lạc và dâu tằm, vân vân.
Nhưng trước cách mạng tháng Tám năm 1945, hầu hết người dân quê tôi đều phải làm thuê, cấy mướn đầu tắt mặt tối quanh năm mà vẫn không đủ ăn. Khi liềm hái vừa gác thì cũng là lúc thóc trong bồ cạn vơi vì phải nộp tô, trả nợ cho một số ít địa chủ, phú nông là những người chiếm gần hết ruộng đất trong làng xã.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Lại cảnh vác rá đi vay, thậm chí phải bán cả lúa non với giá rẻ mạt để đổi lấy hạt thóc mang về sống cầm hơi, tiếp tục cuộc đời cấy rẽ, làm thuê với bao nỗi u uất ê chề, chờ mùa gặt sau có thóc mang trả họ. Cái kiếp luân hồi ấy khó ai mà thoát được!
https://thuviensach.vn
Tôi mồ côi mẹ lúc ba tuổi. Nhà nghèo, bố phải đi làm thuê gánh mướn để kiếm sống. Bọn nhà giàu lập mưu hại bố tôi, chúng muốn cướp mảnh đất nhỏ nhoi cuối cùng của ông bà để lại, xô đẩy gia đình tôi vào cảnh xẻ đàn tan nghé.
Ấy là vào một buổi sáng tinh mơ giữa năm 1930, lính đoan (lính chuyên đi thu thuế, bắt hàng lậu) bất thần ập đến, chúng vòng ra sau nhà lấy cây bới nhẹ mặt đất lôi lên một hũ rượu mang vào nhà giơ sát vào mặt bố tôi, dọa:
- Ê! Lão già này dám chống lệnh nhà nước hả?
Bố tôi lúc này tỏ ra bình tĩnh, đầu cúi chắp hai tay vái:
- Bẩm quan, oan cho con, chắc... có... kẻ... nào... bày... ra chuyện... này.
Không để bố tôi nói hết, tên lính đoan sấn sổ, mặt dữ tợn túm ngực áo bố tôi đẩy đi đẩy lại, dằn giọng:
- Không oan gì hết, phải tù sáu tháng ở Hỏa Lò Hà Nội, nộp phạt bốn mươi đồng vì tội tàng trữ rượu lậu trong nhà. Nếu không sẽ mất nhà và tù mọt xương.
Sau khi ở tù về bố tôi phải bán nhà được hai mươi đồng và bán chị tôi lấy hai mươi đồng để nộp phạt. Từ đó gia đình tôi bị dồn vào cảnh màn trời chiếu đất, không một tấc đất cắm dùi. Quẫn chí, bố tôi thắt cổ tự tử khi tôi mới mười hai tuổi. Nhưng gia đình phải giữ kín chờ đêm khuya bó chiếu đưa ra xa chôn cất, vì nếu khai báo bọn hào lý trong làng kiếm cớ gây xách nhiễu phiền hà, có khi phải để thối mới được chôn nếu không có tiền lo lót, mặc dầu đứng về lý mình ngay, chết vì nghèo túng. Đúng là nghèo đi đôi với khổ đủ điều, lẽ phải không thuộc về người nghèo.
Cũng từ đó tôi sống kiếp tôi đòi, phải đi ở đợ làm con nuôi cho một gia đình giàu có sáu năm liền với bao nỗi đắng cay tủi phận. Có một lần nhận
https://thuviensach.vn
ba đồng từ tay “bố mẹ nuôi” về bốc mộ cho cha, đến khi từ giã kiếp con nuôi họ đòi lại.
Chuyện vợ con cũng thật long đong, lận đận. Tục lệ xưa mười chín, hai mươi tuổi đã lấy chồng, lấy vợ, đã có con bế con bồng. Biết là khổ vì nhà nghèo nhưng chị tôi lo buồn ra mặt, thấy tôi đã hai mươi tuổi mà chưa có vợ sẽ trở thành “ông mãnh”(2) dân làng chê cười gán vào hạng “cao số” thì khổ thân, sau này có muốn cũng không được phải chịu cảnh cô đơn, chị tôi luôn luôn thúc giục tôi lấy vợ. Người đầu tiên chị tôi nhắm là một phụ nữ góa chồng, nhưng một tuần sau lý trưởng cưới cô về làm lẽ thứ ba. Không nản, chị tôi còn ướm hỏi hai, ba đám nữa, cũng là đàn bà góa nhưng đều không thành.
(2) Ông mãnh, bà cô tục xưa chỉ những người chết không vợ, không chồng. Những người cô đơn dưới âm phủ, rất không hay đối với những người thân đang sống trên trần gian.
Tình cảnh không lối thoát, tôi quyết định bỏ làng đi bất cứ phương trời góc biển nào, miễn là tìm được kế sinh nhai.
Tục xưa bỏ làng là xấu xa, thấp hèn, dân làng khinh rẻ, nên đêm trước khi rời xa quê tôi tự nhủ mình: Nguyện đã đi là không trở lại. Đã quyết là đi, đến đâu thì đến, làm việc gì cũng được, ở đợ, làm thuê, đi phu hay đăng lính, miễn sao thoát khỏi cảnh khốn cùng ở cái quê hương nghèo khổ, đầy nghiệt ngã này.
Tháng 8 năm 1940, tôi ra Hà Nội, dừng lại ở chợ Hôm, phố Huế. Tại đây tôi làm đủ nghề: gánh nước, kéo xe bò, vác gỗ, bổ củi thuê, nhưng cũng chỉ làm tạm bợ, chốc lát để lại cắp nón khoác bị sang nhà khác cầu xin việc.
Cứ thế bữa đói bữa no, ngày thất thểu qua các phố tìm việc, tối ngủ vất vưởng nơi đầu đường góc chợ, làm bạn với muỗi, chuột.
https://thuviensach.vn
Hai tháng qua đi thật nặng nề, chậm chạp, đã có lúc tôi gần như kiếm sống bằng cách ngửa tay cầu xin lòng thương cảm của khách qua đường phố. Đang tính chuyện phá lời nguyền, về làng trở lại kiếp sống tủi nhục, thì được tin chủ thầu người Pháp mộ phu đi làm đường, tôi ghi tên liền.
Nhưng rồi vẫn cảnh tủi cực lầm than. Con đường chúng tôi mở ngày ấy là đường số 7 bây giờ (nối thành phố Vinh với nước Lào). Cậy thế có tiền, bọn chủ thầu cho chúng có quyền, bắt dân phu phải làm hết mình, ai mỏi mệt trễ nải công việc là chúng chửi mắng, đánh đập, dùng roi vọt hối thúc phải quên mệt, quên đói, quên ốm đau tiếp tục đi làm. Lao động vất vả nặng nhọc nên đau yếu, bệnh tật, chết chóc diễn ra như cơm bữa. Ngày nào cũng có chuyện người sa chân xuống vực, người bị núi lở, đá đè; rồi phù thũng, ngộ độc ngã nước sốt rét, ghẻ lở chấy rận. Tôi vẫn được anh em xếp vào loại tuổi “bẻ gãy sừng trâu” vậy mà sang tháng thứ tư bị sốt rét rừng quật ngã, đến tháng thứ chín chịu không nổi cảnh đói rét, bệnh tật với công việc nặng nhọc, nguy hiểm, phải bỏ về, giã từ đời “dân phu lục lộ” cho Tây.
Trở lại Hà Đông với một tâm trạng phẫn chí đến cùng cực, thì có tin Pháp mộ lính, tôi lại đăng tên với ý nghĩ giản đơn như nhiều thanh niên nghèo hồi ấy - âu cũng là một nghề. Vào hôm trước, hôm sau bọn chỉ huy Pháp lùa chúng tôi lên xe đi qua Lai Châu. Đúng là lúc này bữa ăn hàng ngày không phải lo, nhưng hơn một năm ở lính (từ giữa 1943 đến đầu năm 1945), tôi dần dần hiểu ra cái kiếp nô lệ da vàng. Cũng là lính như nhau, nhưng lính Tây lương cao hơn, có quyền thế hơn, không phải lao công tạp dịch như lính người Việt. Tận mắt tôi thấy chúng tra khảo, hành hạ dã man một người thanh niên cũng nghèo khổ, cũng mất cha, mất mẹ, cũng cửa nhà tan nát như tôi cho đến chết với cái tội “làm Cộng sản” (!).
Sự tận mắt này đã thức tỉnh trong nếp nghĩ của tôi. Tuy chưa hiểu cặn kẽ các hành động của chúng lúc ấy là thống trị, đàn áp, là xâm lược nhưng cũng đủ lý do khiến tôi chán ngán, quyết định từ bỏ cuộc đời làm lính, trốn về xuôi tìm nghề khác.
https://thuviensach.vn
Những ngày đầu bỏ trốn tôi chỉ nghĩ và lo sợ bọn Tây truy lùng, bắt trở lại, nhưng đến khi về gần tới Hà Nội, thì câu hỏi thường trực trong tôi lại bật dậy: Mình sẽ sống tiếp như thế nào đây?
https://thuviensach.vn
CHẶNG ĐƯỜNG MƯỜI NGHÌN NGÀY
Hoàng Cầm
www.dtv-ebook.com
Chương 2
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp.
Hôm ấy vào khoảng chín giờ tối tôi đang ngồi vất vưởng ở góc chợ Hôm để nghĩ về ngày mai đi đâu làm gì, bỗng có tiếng súng nổ ở phía thành Hà Nội (nay là nơi làm việc của các cơ quan Bộ Quốc phòng) vọng lại, mỗi lúc một dữ dội, liên hồi, đèn điện vụt tắt súng tiếp tục nổ, khoảng hơn một tiếng sau thì im hẳn.
Thành phố chìm trong đêm, các cửa hiệu đóng cửa, đường phố không còn người và xe cộ qua lại.
Sáng sớm hôm sau tin truyền đi - Pháp đã đầu hàng Nhật.
Mặc dầu hôm nay không có việc làm có nghĩa là nhịn ăn, nhưng tôi vẫn thất thểu đi lậu xe điện (trốn vé) để xem ngắm sự tình, xem những nơi xảy ra trận đánh giữa Nhật và Pháp đêm qua.
Thành cũ, Đồn Thủy (nay là Bệnh viện 108), dinh Toàn quyền (nay là Phủ Chủ tịch trên đường Hùng Vương) đều có lính Nhật bồng súng gác. Lá cờ trắng giữa khoanh một hình tròn đỏ như màu máu cắm la liệt các công sở, trại lính của Pháp. Xác lính Pháp và lính khố đỏ (lính người Việt trong quân đội Pháp) còn rải rác để quanh đồn trại, như muốn khoe khoang thắng lợi của Nhật. Thỉnh thoảng một toán lính Nhật cầm súng cắm lưỡi lê dong bọn Tây, đầm mặt mày tái mét ngơ ngác đầy vẻ sợ hãi qua các đường phố đến nơi tập trung giam giữ.
Biết rằng Nhật cũng chẳng tốt gì, chính do chúng vơ vét thóc gạo, bắt dân ta phá ruộng đang trồng lúa để trồng đay phục vụ chiến tranh đã làm
https://thuviensach.vn
dân ta chết đói tới hai triệu người, nhưng nhìn thấy cảnh Pháp thua, tôi thấy hả dạ, thỏa nỗi những ngày nhẫn nhục làm lính cho chúng, bị chúng khinh rẻ.
Phần do nhận thức còn nông cạn, phần do đời sống lúc này thật khó khăn, tìm được việc làm đủ tiền cho một lon gạo trong lúc giao thời đâu có dễ khiến tôi chỉ dừng lại cái hả dạ đó. Lúc ấy tôi không hiểu rằng tôi đang đứng trước một thời cơ chuyển mình lớn lao của dân tộc, của đất nước. Vài tháng sau tin tức từ quê tôi từ các vùng lân cận do người nhà ra kể lại thôn xã nào cũng có cán bộ Việt Minh về hô hào chuẩn bị đánh Pháp, đuổi Nhật
giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Và ở Hà Nội, ngay phố Huế, chợ Hôm, Hàng Bài này cũng vậy. Hai tiếng: “Cách mạng” được truyền lan, đi đến đâu tôi cũng được nghe, được nhắc với tình cảm trân trọng.
Hà Nội những ngày tháng 8 sôi sục khí thế đấu tranh, đi đến đâu cũng bắt gặp khẩu hiệu, truyền đơn, cũng nghe mọi người bàn tán về Cách mạng. Một hôm tôi cố chen vào chợ để nghe cán bộ diễn thuyết. Anh còn rất trẻ, dáng thư sinh, nói năng hoạt bát, dễ nghe. Cuối buổi diễn thuyết anh nêu câu hỏi và giải thích liền; ngắn gọn mà dễ hiểu:
- Cách mạng là gì?
- Là đổi đời.
- Đổi đời là gì?
- Là thợ thuyền, dân nghèo cùng nhau nổi dậy đánh Pháp, đuổi Nhật đánh đổ chế độ vua quan, giành lại quyền sống cho mình.
Giành lại quyền sống. Ôi! Sao mà hợp với nguyện vọng của mình đến thế. Không chút nghi ngờ do dự, tôi đi tìm Cách mạng mong được đổi đời. Đúng là có tìm có thấy, Cách mạng không phải đâu xa, ngay quanh tôi, vẫn là những người thường gặp. Đầu tháng 8 tôi được tổ Thanh niên Cứu quốc
https://thuviensach.vn
do anh Lê Thám phụ trách kết nạp đoàn viên. Bước ngoặt của cuộc đời tôi bắt đầu từ đây.
Cái đêm đầu tiên được đứng trong đội ngũ Thanh niên Cứu quốc tôi không sao ngủ được vì vui sướng, từ nay hết bị người đời khinh rẻ. Trong tổ chức Thanh niên Cứu quốc lúc đó còn có các anh Lê Quân, Quang Liêm, Văn Xì, Hữu Thưởng, tất cả còn trẻ, đều là thanh niên, học sinh Hà Nội. Tuy gia cảnh, học vấn có khác nhau nhưng cùng chung chí hướng, thương yêu nhau như anh em một nhà, mà Lê Thám được xem như người anh cả.
Từ căng dán khẩu hiệu, rải truyền đơn, diễn thuyết, chúng tôi được trang bị vũ khí chuyển thành lực lượng tự vệ chiến đấu của thành phố. Lúc này lực lượng Cách mạng phát triển ngày càng đông nhưng thiếu thốn đủ thứ, thiếu lương thực, thuốc men, thiếu chăn màn quần áo và nhất là thiếu súng đạn, rất cần cho cuộc chiến đấu sắp đến gần. Một hôm chúng tôi có việc qua khu vực Hỏa Lò, phố Hàng Bông, Thợ Nhuộm, thấy từ khu kho quân nhu của Pháp, nay Nhật cai quản có một đoàn xe nhà binh đi ra chở đầy ắp những thứ mà Cách mạng đang cần, anh Lê Thám nảy ý định:
- Ta phải tìm cách đột nhập vào trong đó.
- Để làm gì - Tôi ngây thơ hỏi.
- Để lấy những thứ mà chúng ta đang cần. - Đưa mắt đảo nhanh bốn phía đề phòng có kẻ theo, anh bảo dừng lại, hạ thấp giọng. - Những thứ không phải cho chúng mình mà còn tiếp tế lên cho anh em mình ở chiến khu giải phóng Thái Nguyên, Tuyên Quang.
- Nhưng làm cách nào? - Tôi hỏi. Liền đó như muốn reo lên, nhưng đường phố người qua lại rất đông, lẫn vào đó có cả lính Nhật, nên tôi hạ giọng. - Đóng giả lính bảo an(1).
(1) Lính người Việt do Nhật tổ chức sau đảo chính Pháp.
https://thuviensach.vn
- Đúng rồi, một sáng kiến hay. - Anh Lê Thám biểu đương.
Ngay trong đêm toàn đội bắt tay vào chuẩn bị, vừa bí mật, vừa khẩn trương; vừa thu gom vừa may gấp, sáng hôm sau đã có quần áo lính bảo an chính hiệu để cho một tiểu đội mười người. Cả ngày hôm đó chúng tôi hẹn
kéo nhau đến một địa điểm an toàn mặc thử quần áo, duyệt thử đội ngũ, luyện cách đi đứng ra vào, ứng xử khi qua trạm gác sao cho thực đúng với cái chất bảo an địch không thể phát hiện trước khi khởi sự.
Để chắc ăn, ngày hôm sau đội còn cử người bám sát khu kho, nắm tình hình người, xe ra vào, tình hình canh gác, khám hỏi khi ra vào cổng gác.
Ngày thứ ba, đúng chín giờ, có một tốp lính bảo an quần áo chỉnh tề, hiên ngang đi đến khu kho, lính gác không cần nhận diện, chỉ lướt qua giấy công vụ, mở cổng cho vào. Nửa tiếng sau - khoảng hơn mười giờ tốp “bảo an” trở ra mang theo những thứ vừa được cấp phát: năm mươi súc vải, một trăm bộ quần áo.
Đó là tiểu đội tự vệ vũ trang do anh Lê Thám chỉ huy đã hoàn thành nhiệm vụ lấy của địch bồi dưỡng lực lượng ta. Toàn đội phấn khởi, tự tin, chúng tôi đã tính đến chuyện đột nhập vào kho vũ khí địch, đánh các bốt gác của lính bảo an để cướp súng đạn địch, trang bị cho ta. Vạn sự khởi đầu nan, việc đầu trót lọt, việc sau nhất định thành. Vả lại lúc này lực lượng tự vệ chiến đấu của thành phố phát triển rất nhanh đông tới bảy trăm người, sau ngày 19 tháng 8 tổ chức thành các chi đội.
Trong lúc mọi thành viên đang hào hứng hướng sự suy nghĩ, tìm tòi cho cách làm ăn này thì có lệnh của Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội - chuẩn bị đi làm nhiệm vụ bảo vệ cuộc mít tinh tổ chức tại Nhà hát Lớn (nay là Nhà hát thành phố) chiều ngày 17 tháng 8.
Với tôi không có băn khoăn gì khi nhận lệnh, vì dù sao cũng là lính mới. Nhưng một số anh em khác thì thắc mắc: Sao lại bảo vệ cuộc mít tinh do
https://thuviensach.vn
Tổng hội viên chức của Nhật đứng ra tổ chức.
Vừa lúc đó anh Lê Thám về, nét mặt phấn chấn, dáng điệu khẩn trương, vì thời gian còn rất ít, anh tranh thủ giải thích:
- Đúng là cuộc mít tinh chiều nay do Tổng hội viên chức thân Nhật tổ chức. Đồng bào sẽ đến và đến đông vì đang thèm tin tức, vì thế hễ nghe nói có diễn thuyết là mọi người tin sẽ có Việt Minh xuất hiện, hy vọng sẽ được nghe, được biết cái gì đó sẽ xảy ra nay mai. Vì vậy theo lệnh của Ủy ban Khởi nghĩa thành phố, chúng ta phải biến bị động thành chủ động, biến cuộc mít tinh do Tổng hội viên chức tổ chức thành cuộc mít tinh của ta. Nhiệm vụ của các tổ chức tự vệ chiến đấu chúng ta là vừa trấn áp địch, vừa bảo vệ an toàn cuộc mít tinh không cho chúng chống phá, vừa bảo vệ người của ta lên diễn thuyết vạch mặt kẻ thù, cổ động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa cướp chính quyền.
Ngừng một lát, nhìn đồng hồ, anh ra lệnh:
- Mỗi người cầm một lá cờ nhỏ giấu kín, theo tôi ra ngay địa điểm mít tinh, đứng lẫn vào với dân và làm theo hiệu lệnh chung trên kỳ đài.
Hai giờ chiều cuộc mít tinh khai mạc. Chúng tôi đứng tề chỉnh ở hàng trên, nhìn lên kỳ đài rất rõ. Một diễn giả mặc quần áo sang trọng đứng lên giới thiệu chương trình trước máy phóng thanh. Tiếp đến người thứ hai cũng quần áo sang trọng, đầu chải tóc hất ngược phía sau vừa đằng hắng lấy giọng, chưa kịp cất tiếng thì một đội viên tự vệ bên cạnh giương cao lá cờ đỏ sao vàng lên. Thế là hàng vạn người đứng dưới hô vang: “Cờ Việt Minh! Cờ Việt Minh! Hoan hô cờ Việt Minh! Hoan hô cờ Việt Minh!” Chúng tôi hô theo và nhanh chóng lấy cờ giấu trong túi ngực tung lên, các tổ tự vệ khác cũng làm như vậy, vừa gìơ cao lá cờ rẽ đám đông chạy từ chỗ này đến chỗ khác cổ vũ đồng bào và sẵn sàng trấn áp những kẻ trà trộn gây rối để cuộc mít tinh được tiếp tục theo hướng chỉ đạo của ta.
https://thuviensach.vn
Anh Lê Thám hất hàm ra hiệu, tất cả chúng tôi lại hướng về phía kỳ đài để thực hiện hiệu lệnh hướng dẫn phát ra từ trên đó.
Theo hiệu lệnh đã quy định, ba đội viên tuyên truyền xung phong xông lên, chĩa súng dồn “ban tổ chức” vào một góc, lập tức một đội viên tự vệ của chúng tôi tiến nhanh tới chân kỳ đài vung lưỡi dao bén sắc chém đứt dây lá cờ “quẻ ly” của chính quyền bù nhìn do Nhật dựng lên rơi nhanh, một lá cờ đỏ sao vàng rất to rộng xuất hiện trên bao lơn Nhà hát Lớn phủ kín khoảng giữa trước mặt nhà hát. Thế là hàng vạn người đứng dưới lại vỗ tay reo hò vang dậy cả một góc phố.
Khi có tiếng trên loa phóng thanh: “Thưa quốc dân đồng bào” thì trật tự được lập lại nhanh chóng, một không khí im lặng nghiêm trang lan nhanh đến mọi người. Không gian chỉ còn vang lên những lời diễn thuyết hào hùng phát ra từ các loa với lời kêu gọi ngắn gọn mà thôi thúc:
“Hỡi quốc dân đồng bào! Giặc Nhật xâm lược và thống trị nước ta. Chúng đã gây cho nhân dân ta bao đau thương, chết chóc. Nay chúng đã thua trận và hạ súng đầu hàng đồng minh. Thời cơ cho nhân dân ta vùng lên đánh đổ phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai để giành lại độc lập, tự do thực sự đã đến!
Đồng bào hãy nghe tiếng gọi của Việt Minh, vùng lên khởi nghĩa!”
Cuộc mít tinh theo lời kêu gọi của Ủy ban khởi nghĩa đã biến thành cuộc biểu tình khổng lồ diễu qua các phố. Theo sự hướng dẫn của các hội viên cứu quốc và các đội tự vệ chúng tôi, cuộc tuần hành đã diễu qua phố Tràng Tiền, đổ ra Bờ Hồ vòng lên Hàng Đào, Hàng Ngang qua chợ Đồng Xuân quay xuống vườn hoa Hàng Đậu, Cửa Bắc đến phủ toàn quyền, rẽ vòng sang Cửa Nam.
Cuộc tuần hành của hơn hai vạn nhân dân Hà Nội kéo dài đến chín giờ tối mới kết thúc. Trước khi giải tán ở ga xe điện Bờ Hồ, đoàn tuần hành còn
https://thuviensach.vn
đứng lại năm phút kính cẩn chào lá cờ Việt Nam và hô khẩu hiệu: - Việt Nam độc lập vạn tuế!
Đêm ấy về chúng tôi không sao ngủ được, phần vì vui quá, tự hào quá về việc làm đầy mưu trí, đã biến cuộc mít tinh do địch tổ chức để hô hào đánh lạc hướng đồng bào thành cuộc mít tinh tập họp biểu dương sức mạnh của ta, càng động viên khí thế hừng hực đấu tranh của nhân dân toàn thành phố; phần vì chúng tôi được nghe anh Lê Thám phổ biến tiếp nhiệm vụ phải làm trong những ngày tới. Cụ thể là gì và ở đâu trên chưa nói rõ vì phải giữ bí mật, chỉ biết rằng những việc phải làm mà trên sẽ giao là rất nặng nề và khẩn trương.
Đêm 18 như không khí của đêm 30 Tết, bận, lo nhưng trong lòng mỗi đội viên tự vệ chúng tôi cứ phơi phới. Mọi thứ cho nhiệm vụ đã đầy đủ, ai nấy thấp thỏm mong trời mau sáng. Nhiệm vụ của chúng tôi là vừa tham gia vừa bảo vệ cuộc mít tinh cũng tổ chức tại Nhà hát thành phố, sau đó tham gia đánh chiếm các công sở, của chính quyền bù nhìn, các trại lính bảo an.
19 tháng Tám đã đến!
Tiết trời thu thật đẹp. Mấy hôm trước còn vần vũ đầy mây, thỉnh thoảng có mưa, vậy mà hôm nay bỗng nắng ráo khô sạch, bầu trời cao xanh không một gợn mây.
Chúng tôi đi trong đội ngũ chỉnh tề, nhưng vẫn phải ghen lên khi nhìn thấy Đội thanh niên xung phong Hoàng Diệu đàng hoàng quá, hùng dũng và đẹp đẽ quá. Tới đầu phố Tràng Tiền anh em xếp hàng ba, súng khoác vai, khiên, mã tấu cầm tay, bước đều dưới lá cờ đỏ sao vàng rộng khổ may bằng sa tanh viền tua óng ánh, trên nền cờ thêu chữ bằng kim tuyến - “Đội thanh niên xung phong Hoàng Diệu”. Được biết lá cờ này do Hội Phụ nữ Cứu quốc thành phố vừa mới tặng.
https://thuviensach.vn
Đội tự vệ chiến đấu chúng tôi đứng hàng đầu bên trái quảng trường, nhìn lên lễ đài khá rõ. Đúng mười một giờ cuộc mít tinh bắt đầu với nghi thức mà cuộc mít tinh chiều 17 tháng 8 không có.
Sau phút mặc niệm tưởng nhớ các chiến sĩ Cách mạng đã hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, ba phát súng báo hiệu lễ chào cờ.
Lúc này sao trong tôi bỗng hồi hộp lâng lâng, vì thấy cái gì cũng mới lạ mà thân thiết quá chừng, ấm lòng quá chừng. Tôi đang triền miên suy nghĩ như vậy thì trên tầng cao nhà hát, hàng ngàn truyền đơn bay xuống như đàn chim trắng vỗ cánh tung bay, đón chào ngày Hội Cách mạng.
Tiếng vỗ tay vang dậy khi một diễn thuyết viên (sau này tôi được anh Lê Thám cho biết là đồng chí Nguyễn Huy Khôi) xuất hiện trước máy phóng thanh, đọc lời kêu gọi của Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội, về nhiệm vụ cần kíp lúc này là phải đập tan ách thống trị của phát xít Nhật, kiên quyết đối phó với dã tâm của bọn thực dân Pháp nuôi cuồng vọng khôi phục chính quyền của chúng ở Đông Dương. Trong tôi như có sức bật dậy khi nghe đoạn cuối lời kêu gọi: “Điều cần thiết nhất lúc này là chúng ta phải thành lập một Chính phủ cộng hòa dân chủ Việt Nam trong đó dân chúng được tham gia chính quyền để tự định đoạt số phận của mình.” Bỗng nhiên diễn thuyết viên đọc to hơn, giọng nhấn mạnh những ý mà đến nay đã gần nữa thế kỷ trôi qua tôi vẫn nhớ:
“Hỡi quốc dân đồng bào! Hãy tự tin, tự cường, hãy tỏ cho thế giới biết đến sức sống dồi dào, đến ý chí chiến đấu cường liệt của dân tộc Việt Nam luôn luôn vươn tới một cảnh đời phóng khoáng và độc lập, hãy cùng tôi hô những khẩu hiệu sau đây:
- Đánh đổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
- Thành lập Chính phủ Cộng hòa dân chủ Việt Nam!
- Việt Nam hoàn toàn độc lập!
https://thuviensach.vn
- Đả đảo bọn thực dân Pháp muốn khôi phục chủ quyền ở Đông Dương.”
Tiếng hưởng ứng vang dậy của hai mươi vạn quần chúng sau mỗi lần diễn thuyết viên hô.
Dưới sự hướng dẫn của Ủy ban Quân sự Cách mạng, cuộc mít tinh chuyển thành biểu tình vũ trang, vừa phối hợp tiến công, chế áp địch khi gặp tình huống gay cấn.
Đánh chiếm phủ Khâm sai(2).
(2) Nay là Nhà khách Chính phủ, số 10 đường Ngô Quyền.
Khi đoàn biểu tình đến gần, bọn cầm đầu “Ủy ban chính trị lâm thời” ra lệnh đóng chặt cửa và cho lính dàn sát hàng rào sắt sẵn sàng nổ súng vào đội quân khởi nghĩa.
Nhưng lính bảo an ở đây đã nghe theo lời kêu gọi của cán bộ Việt Minh. Tranh thủ thời cơ, một số đội viên tự vệ chiến đấu đã nhanh chóng leo qua hàng rào sắt, nhảy vào trong sân, đồng thời một số hội viên cứu quốc quân vòng lối sau nhảy vào phủ Khâm sai. Phối hợp khí thế bên ngoài, một số nhân mối của ta trong hàng ngũ lính bảo an tiếp tục vận động, lập tức cả anh em lính bảo an, cộng cả số mới được tăng cường hôm trước lên tới hai đại đội nhất loạt xin hàng, mang hết vũ khí khoảng hai trăm khẩu súng xếp thành một đống giữa sân. Lực lượng cách mạng có thêm sức mạnh, hạ lệnh cho lính gác mở cổng. Đội quân khởi nghĩa tiến vào sân, một đội viên cứu quốc trạc mười lăm tuổi mặc quần áo xanh công nhân được phân công từ trước trèo lên nóc nhà, hạ cờ quẻ ly xuống, kéo cờ đỏ sao vàng lên, lúc này trời gió mạnh, lá cờ được thế càng phần phật tung bay trước tiếng hò reo của quần chúng vang động lan xa.
Hai người trong Ủy ban Quân sự cách mạng (sau này được biết là đồng chí Nguyễn Khang và đồng chí Trần Tử Bình) đến thẳng nơi làm việc của
https://thuviensach.vn
“Ủy ban chính trị lâm thời” tuyên bố giải tán tổ chức này và hạ lệnh bắt giam những kẻ cầm đầu tổ chức phản động tay sai của Nhật.
Đánh chiếm trại bảo an binh(3).
(3) Nay là số 40 Hàng Bài.
Cuộc chiến đấu ở đây tuy không phải nổ súng nhưng diễn biến có phức tạp và gay go. Mãi vài ngày sau khi kết thúc trận đánh, nghe anh Lê Thám đi họp trên thành phố về kể lại, chúng tôi mới hiểu tường tận: Trước uy lực của đội quân Cách mạng, địch ở đây (lực lượng còn mạnh) buộc phải mở cửa. Lực lượng tự vệ của ta đã vào sân, nhanh chóng tản ra hình thành thế bao vây. Chỉ huy trại là một viên quan ba người Việt tên là Thụ. Khi Nhật hất cẳng Pháp, hắn bỏ chủ cũ, theo chủ mới, tiếp tục làm tay sai cho ngoại bang chống phá Cách mạng. Biết thế nào cũng bị Cách mạng tìm đến hỏi tội, nên hắn đã được Nhật hứa tiếp ứng khi có điện cầu viện, nhưng không biết ngày giờ nào ta vào.
Giờ này trước khí thế sôi sục của phong trào Cách mạng trong thành phố những ngày qua, trước lực lượng vũ trang Cách mạng đang đối mặt với hắn, biết không thể nào khác, nhận nộp vũ khí, nhưng hắn nhũn nhặn lý sự:
- Xin các ông chậm cho ít phút để trình lên cấp trên vì tôi chỉ là cấp thừa hành.
Biết đây là kế hoãn binh, chờ cầu viện, ta dứt khoát ra lệnh:
- Cấp trên của anh đã quy hàng và đã trao chính quyền cho Cách mạng rồi. Bây giờ đến lượt các anh.
Thụ chịu nhún nhưng vẫn xảo quyệt:
- Chúng tôi xin đi theo Cách mạng. Lúc đầu xin để nguyên như cũ.
https://thuviensach.vn
Ta tiến công liền:
- Ông phải nộp hết vũ khí cho quân Cách mạng! Đây là lệnh. Thụ vẫn hoãn binh:
- Chúng tôi đã nói là xin theo các ông rồi. Còn chuyện vũ khí và binh lính xin các ông hãy khoan cho.
Trong khi vừa đấu lý vừa thuyết phục, nhờ sự giúp đỡ của nhân mối do ta gài vào từ trước, các đơn vị tự vệ ta đã chiếm hầu hết các vị trí quan trọng trong trại, kể cả kho vũ khí. Quần chúng cách mạng ở bên ngoài dưới sự hướng dẫn của cán bộ đang đồng thanh từng đợt hét vang phẫn nộ đòi giải quyết nhanh chóng. Trước tình thế đó Thụ buộc phải làm theo yêu cầu của ta.
Cuộc đánh chiếm trại lính bảo an đã thành công. Đến chiều ngày 19, việc đánh chiếm các cơ quan đầu não then chốt của chính quyền bù nhìn đã xong (trừ đài phát thanh Bạch Mai, nhà băng Đông Dương - nay là trụ sở Ngân hàng Nhà nước), cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội căn bản kết thúc thắng lợi.
Những ngày sau đó, các đơn vị tự vệ chiến đấu cùng với Đội Thanh niên xung phong Hoàng Diệu chia nhau đi làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ các kho tàng, trụ sở làm việc của cơ quan chính quyền cách mạng mới được thành lập.
Đúng là cách mạng đồng nghĩa với đổi đời!
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tham gia bảo vệ Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, chúng tôi được lệnh chuyển ra đóng quân ở đình Soi Sử, Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây cũ.
https://thuviensach.vn
Như nhiều đơn vị tự vệ chiến đấu khác, đội tự vệ cứu quốc chúng tôi được bổ sung nhiều đội viên từ các đoàn thể cứu quốc phát triển thành Đại đội Giải phóng quân mang tên Đại đội Lê Thám vì vẫn anh Lê Thám làm đại đội trưởng. Số anh em cũ từ ngày còn là tổ Thanh niên Cứu quốc hoạt động bí mật nay phân ra các tiểu đội, trung đội mới thành lập, một số được phân công làm cán bộ chỉ huy, trong đó tôi được giao nhiệm vụ tiểu đội trưởng. Một tình cảm chan hòa, thân thương gắn bó tuy mới được hình thành nhưng sâu đậm, hình ảnh về cái tiểu đội sơ khai buổi đầu vẫn thường được nhắc đến một cách trân trọng, trìu mến mỗi khi chúng tôi rảnh rỗi. Chẳng thế mà có anh đã xếp vần tên của từng thành viên trong tiểu đội thành hai vế đối rồi khắc lên hai cột đình.
Thám, Hữu, Đào, Lan, Cầm, Thượng, Thúy
Thanh, Liêm, Miêu, Miễn, Thường, Vân, Xì.
Ý muốn nhắc rằng những kỷ niệm buổi ban đầu là thiêng liêng, nếu thế nào thì cũng không bao giờ quên nhau.
Thời gian này về tinh thần thì phấn chấn, thanh thản, đúng là cuộc đổi đời đang đến với mọi người, nhưng về vật chất thì thiếu thốn trăm bề. Nạn đói vẫn đang hoành hành đe dọa do sự bóc lột, vơ vét quá tham của Nhật, Pháp; tiếp đến đê sông Hồng vỡ hơn một trăm quãng làm ngập tám tỉnh Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình. Ngân hàng Đông Dương vẫn còn trong tay Pháp, Chính phủ cách mạng chỉ thu được trong kho bạc 1.233.000 đồng tiền Đông Dương mà quá nửa là tiền rách. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3/9/1945, Bác Hồ đã ban hành quyết định khẩn cấp cứu đói, là một loại giặc trong ba loại giặc phải chống lúc đó (giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm). Chính Người đã gương mẫu thực hiện cứu đói trước bằng cứ mười ngày nhịn ăn một bữa để lấy gạo góp phần cứu đói. Đời sống của Quân giải phóng cũng muôn vàn khó khăn, vì quá thiếu, hàng ngày khi đến giờ ăn, chúng tôi phải phân người chia đều cơm, thậm chí cả cháy cũng vậy.
https://thuviensach.vn
Một hôm trong bữa ăn, đến lượt chia cháy, tôi được ưu tiên miếng to hơn. Thấy thế Quang Liêm là tiểu đội phó (cựu sinh viên trường Luật) lừa giằng rồi vừa chạy vừa tranh thủ ăn. Đến khi bắt được thì Quang Liêm đang nhai miếng cuối cùng.
- Tao tặng mày, nuốt nốt đi. - Tôi nói.
- Không được, bữa chiều bắt nó phải trả lãi, một thành hai. - Cậu Miễn xen vào.
- Là Cách mạng rồi, sao còn lệ vay lãi? - Quang Liêm đối lại.
Cả bàn ăn cười ồ, bữa cơm kết thúc thật nhanh, chẳng ai có cảm giác là mình vừa ăn cơm vì bụng vẫn lép, đói vẫn hoàn đói. Trong hoàn cảnh như vậy mà cái vui, cái lạc quan yêu đời vẫn trùm lên tất cả, ai cũng sẵn sàng chấp nhận sự đói thiếu đó.
https://thuviensach.vn
CHẶNG ĐƯỜNG MƯỜI NGHÌN NGÀY
Hoàng Cầm
www.dtv-ebook.com
Chương 3: Phần 1
Những ngày đóng quân ở đình Soi Sở chúng tôi dồn hết tâm trí vào việc chuẩn bị cho Nam tiến mà trên đã giao. Vấn đề chỉ còn là ngày giờ cụ thể.
Ngày ấy Nam tiến là việc công khai, không phải giữ bí mật như đi B hoặc đi Nam hồi đánh Mỹ. Bài hát Nam bộ kháng chiến của nhạc sĩ Đỗ Nhuận chúng tôi thuộc rất nhanh, coi như bài tủ, đi đâu cũng hát: “Tiếng súng vang sông núi miền Nam, ầm đất nước Việt Nam, ta muốn băng mình tới phương Nam xé xác quân tham tàn...” Bài hát vừa cổ vũ tinh thần yêu nước mạnh mẽ đối với mọi người vừa thôi thúc tính hiếu kỳ, ưa phiêu lưu mạo hiểm của tuổi trẻ hồi đó, càng đi xa càng thỏa chí.
Hàng ngày ngoài hai buổi tập luyện quân sự, rảnh rỗi lúc nào là chúng tôi lại bàn chuyện Nam tiến, mang cả bản đồ ra đối chiếu các địa danh mà các đơn vị Nam tiến vào trước đã chiến đấu đánh Pháp, diệt Pháp để quên đi những giờ phút phải chờ đợi.
Nhất là khi được tin các đơn vị Nam tiến của ta, như: chi đội Một(1) vào Đông Nam Bộ đã đánh địch ở cầu Bình Lợi, ngã ba Xuân Lộc, như chi đội Hà Nội đánh địch ở Buôn Ma Thuột, ở đèo Phượng Hoàng trên đường 21 không cho chúng đánh xuống Ninh Hòa, Nha Trang, là chúng tôi ngồi đứng không yên.
(1) Chi đội tương đương như trung đoàn hiện nay, được tổ chức theo bốn cấp: đại đội (tương đương với tiểu đoàn), trung đội (tương đương với đại đội), phân đội (tương đương với trung đội).
Sự háo hức Nam tiến được báo trước và có chuẩn bị của chúng tôi đã không thành sự thật!
https://thuviensach.vn
Đó là vào một buổi sáng đầu tháng 11 năm 1945, anh Phạm Ngọc Mậu(2) được cấp trên phái xuống thăm và phổ biến nhiệm vụ mới. Chợt thấy, chúng tôi ùa nhanh ra vây quanh anh ngay giữa sân đình tranh nhau hỏi tin tức: Các đơn vị Nam tiến hiện nay thế nào, đã đến nơi chưa, đánh
được mấy trận, ở đâu? Tại sao mặt trận Buôn Ma Thuột, mặt trận Nha Trang lại bị thủng? Hình như anh không chuẩn bị nói những điều chúng tôi hỏi, những tin tức chúng tôi cần biết và biết cụ thể? Anh chỉ chung chung trả lời:
(2) Anh Phạm Ngọc Mậu sau này là Thượng tướng Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị.
- Quân ta đã vào đến nơi rồi, chi đội Hà Nội cùng với các đơn vị Nam tiến của tỉnh Nghệ An, Quảng Ngãi đang vây hãm địch ở thị xã Buôn Ma Thuột, chặn chúng ở đèo Phượng Hoàng.
Không ai khởi xướng, tất cả đều vỗ tay hoan hô, đồng thanh hát bài Nam Bộ kháng chiến, vừa hát vừa gõ nhịp bằng tay rất đều với khí thế phấn khởi và sẵn sàng.
Đợi khi đơn vị ngồi vào vị trí quy định, tất cả trật tự theo lệnh chung, anh Mậu bước ra nói chuyện, như tâm sự thì đúng hơn. Ngay từ lời mở đầu, linh cảm như mách bảo người nghe thấy có cái gì khác thường, không như dự đoán của mọi người. Càng về sau anh chuyển suy nghĩ của chúng tôi sang một hướng khác thật đột ngột, bằng một câu kết thật vui:
- Không Nam tiến thì Tây tiến. - Lướt nhìn nhanh hàng quân như thăm dò, anh hắng giọng nhấn mạnh. - Chỉ khác hướng chứ không khác nhiệm vụ.
Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau dò hỏi: Tây tiến là đâu, làm nhiệm vụ gì.
Hơi sững lại vì cái hướng thỏa chí tang bồng đã hình thành trong nếp nghĩ bấy lâu nay không được thỏa nguyện. Nhưng ngày ấy tinh thần yêu
https://thuviensach.vn
nước trỗi dậy mạnh mẽ trong lớp trẻ chúng tôi, gạt nhanh đi những cái gì là riêng tư, sẵn sàng đi vào nhiệm vụ mới.
Tây tiến mà sau đó chúng tôi được phổ biến là tỉnh Sơn La và Lai Châu - một vùng suối sâu, đèo cao, rừng rậm, dân thưa và đói nhưng lại lắm giặc giã, bất an. Ở Sơn La lúc ấy cơ sở Đảng và đoàn thể cứu quốc yếu nên ta phái một đại đội và hai trung đội từ Sơn Tây, Phú Thọ lên phối hợp với tự vệ địa phương cướp chính quyền. Còn ở Lai Châu, ta chưa tổ chức được các đoàn thể cứu quốc, chưa có cơ sở Đảng, chính quyền còn nằm trong tay bọn Quốc dân đảng và tay sai Nhật. Tháng 10 năm 1945, đại diện Chính phủ lên thương lượng lập chính quyền cách mạng nhưng không thành công.
Hai tiểu đoàn Pháp chạy dạt sang Vân Nam (Trung Quốc) sau ngày Nhật đảo chính (9/3) nay trở lại Lai Châu. Tên thổ ty Đèo Văn Long đưa Pháp về chiếm thị xã vào đầu tháng 11 năm 1945, lăm le chờ thêm tàn quân của A léc-xăng-đri (tướng chỉ huy quân Pháp miền Bắc Đông Dương) tăng viện cũng từ Vân Nam tràn về, chiếm đóng trở lại hai tỉnh phía tây này.
Nhận thức được âm mưu thâm hiểm của kẻ địch, tháng 11 năm 1945, Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Tây Bắc và giao cho Bộ Tổng Tham mưu điều động lực lượng, tổ chức chiến đấu.
Tình hình thật khẩn trương. Trên thực tế lúc này, ở hai đầu đất nước, Sài Gòn và Lai Châu đang trực tiếp đương đầu với quân đội Pháp trở lại xâm lược lần thứ hai. Nhưng đồng bào Lai Châu thiệt thòi là không được biết, không hình dung cái cảnh tưng bừng đón nhận cuộc sống độc lập, tự do dù chỉ một giờ.
Thực hiện mệnh lệnh điều quân của Bộ Tổng Tham mưu mà anh Phạm Ngọc Mậu vừa trực tiếp xuống giao, đại đội Lê Thám chúng tôi khẩn trương chuẩn bị, ai quê Hà Nội được về thăm, hai mươi tư giờ sau phải có mặt, còn những người lính gia đình ở xa như tôi thì nằm liền tại đơn vị để kịp ngày lên đường. Từ đình Soi Sở rẽ sang Xuân Mai theo đường số 6
https://thuviensach.vn
ngược thị xã Hòa Bình, vượt Dốc Cun đến Mộc Châu bắt vào đường số 41 (nay là đường số 6) chúng tôi tới Sơn La vào đầu tháng 12 năm 1945.
Lại nhắc đến đường số 41! Với đồng đội của tôi - những chàng trai trẻ Hà Nội mới lên lần đầu chỉ có cảm tưởng chung sao đường dài và lắm dốc thế! Còn với tôi lại khác, nỗi buồn và niềm vui xen lẫn theo suốt chặng đường hành quân. Cách đây không lâu, bị bọn chỉ huy quân đội Pháp đưa đi trên đường này làm lính thú sống kiếp lưu đày, hàng ngày nhận những khinh miệt của người da trắng. Vậy mà hôm nay mới chỉ sau mấy tháng cuộc đời đã khác. Tôi đã đứng trong đội ngũ vệ quốc quân đi trên con đường của ta, sống giữa tình đồng đội bình đẳng, chan hòa và nhân ái. Thật bất ngờ và xúc động.
Sơn La, cái thị xã yên tĩnh, nhỏ bé bỗng nhộn nhịp hẳn lên, đầy ắp những đơn vị theo lệnh điều quân của cấp trên đã có mặt trước chúng tôi. Đó là các đại đội vệ quốc quân của tinh Bắc Giang, Hà Nội, Sơn Tây, Nam Định, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hà Nam, Ninh Bình, cùng với hai đại đội, hai trung đội của Sơn Tây, Phú Thọ lên trước tham gia cướp chính quyền, sau đó tổ chức thành chi đội 90 Sơn La (sau đồi thành trung đoàn 148) do anh Lê Trọng Tấn làm chi đội trưởng, sau thêm các anh Hoàng Mười, Phùng Thế Tài.
Tình hình lúc này thật căng thẳng. Đến giữa tháng 12 năm 1946, có thêm tàn quân của A-léc-xăng-đri từ Vân Nam về tăng viện lên tới 5.000 tên, quân Pháp mở nhiều cuộc hành quân tái chiếm. Từ Lai Châu theo đường số 41 thọc xuống Tuần Châu, Tuần Giáo, chi đội Sơn La bước vào chiến đấu chống trả quyết liệt với quân Pháp suốt ba ngày đêm ở Chiềng Pắc, không cho chúng thực hiện ý định chiếm khu vực này; tập kích địch ở Chiềng Cang, Chiềng Khuông, chặn không cho chúng đánh về hướng Sơn La, đồng thời lần lượt quét bọn Quốc dân đảng tay sai của Tưởng Giới Thạch ở hữu ngạn sông Đà.
https://thuviensach.vn
Cũng thời gian này, trung đội tôi được lệnh tách khỏi đội hình đại đội, cấp tốc lên Quỳnh Nhai với nhiệm vụ chặn quân Pháp có thể từ phía Lai Châu dùng thuyền, mảng thả xuôi theo sông Đà đánh vào Sơn La từ hướng đông bắc. Lúc này tôi được giao quyền trung đội trưởng.
Do kiến thức quân sự quá ấu trĩ, chúng tôi chẳng hề để ý tìm hiểu địch, ta cụ thể như thế nào, địa hình, địa vật và dân tình ra sao, lòng yêu nước là chất men say, là sức mạnh, nhận lệnh là đi liền, chẳng biết khó khăn nguy hiểm là gì.
Thực ra bối cảnh lúc đó rất phức tạp. Sơn La đã yếu, thì Quỳnh Nhai - một huyện địa đầu phía bắc (giáp Lai Châu) của tỉnh là địa phương yếu nhất, gần như chưa có gì. Chỉ vẻn vẹn có ba cán bộ huyện, trong đó có anh Liêm chưa phải Đảng viên được cử xuống làm nhiệm vụ dẫn đường và phiên dịch tiếng Thái khi đơn vị tiếp xúc làm công tác vận động quần chúng.
Nhưng Quỳnh Nhai là một vị trí quân sự xung yếu nằm bên tả ngạn sông Đà, trong đợt tiến công mở rộng vùng chiếm đóng, đầu tháng 12 địch đã có một mũi từ Phong Thổ (Lai Châu) thọc xuống Quỳnh Nhai, có ý thăm dò địa thế và lực lượng ta, chuẩn bị chiếm đóng tiếp sau.
Quãng đường Sơn La - Quỳnh Nhai dài trên sáu mươi lăm ki-lô-mét mà chúng tôi phải đi nhiều ngày. Vượt sông Đà sang Mường La quẹo hướng Bắc. Từ đây cứ vạch lá, cắt rừng mà đi, tránh mọi con đường sẵn có, kể cả đường mòn, cốt bịt mắt địch không cho chúng phát hiện dấu vết. Sang ngày thứ năm thì đơn vị mới đến địa điểm quy định. Thật là tốc độ con rùa! Nhưng điều đáng buồn và kèm theo cả nỗi lo - là không hoàn thành nhiệm vụ, vì địch đã đến Quỳnh Nhai trước chúng tôi hai ngày. Lý do đến chậm còn vì dọc đường chúng tôi mải đánh bọn Quốc dân đảng, ham lấy súng đạn của chúng.
https://thuviensach.vn
Nhân đây xin lưu ý bạn đọc, dù lúc ấy chúng tôi có đến trước cả chục ngày cũng không bớt khó khăn, không tăng thêm lực.
Với một trung đội, vũ khí lại thiếu, chỉ vài ba khẩu súng trường kiểu cổ, đạn lại ít, họa may cầm chân địch vài ba ngày, diệt dăm bảy tên địch là đạt yêu cầu, còn be bờ không cho địch đánh xuống Sơn La thì quả là khó.
Xin được trở lại câu chuyện - những ngày ở Quỳnh Nhai.
Phát hiện thấy dấu vết đối phương, địch bu lại bao vây, hất chúng tôi lên núi, thấy hướng đông sáng, chúng tôi leo tiếp.
Nhưng qua mười ngày vẫn không vượt khỏi. Càng lên cao, rừng cây càng rậm rạp, sương mù đặc quánh che phủ, chẳng còn phân biệt được ngày đêm, buộc phải tụt xuống quay lại đường cũ. Khi lên chồn chân, lúc xuống mỏi gối, nhưng tốc độ có nhanh hơn. Sau này đọc thơ Tây tiến của Quang Dũng, tôi mến phục anh đã nói hộ chúng tôi về những ngày bị địch dồn lên núi:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời,
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”
Đúng! Lần đầu chúng tôi đối mặt với thiên nhiên nghiệt ngã miền Tây, đã vượt qua và có cả mất mát.
https://thuviensach.vn
Xuống đến chân núi, chúng tôi bí mật tổ chức đột nhập vào đồn địch lấy thuyền rồi nhanh chóng trở về hữu ngạn sông Đà, tạm dừng lại Bắc Ma, Bản Uẩn. Không có ý định ban đầu nhưng đến nơi thấy vùng này dân đông, đời sống khá, địa thế chiến đấu tốt nên quyết định trụ lại. Thoạt đầu đến ở nhà tổng đoàn vì thấy nhà cửa rộng, thóc gạo lại nhiều có thể vận động họ giúp đỡ. Được vài hôm thấy chủ nhà lúc nào cũng giương mắt cú vọ theo dõi chúng tôi, vểnh tai nghe chúng tôi bàn chuyện, chỉ vui lấy lòng bề ngoài. Thấy vậy, tôi quyết định tách ra, phân tán nhỏ từng tổ đóng rải ra từng gia đình, giúp đỡ nhân dân tăng gia sản xuất, và tuyên truyền vận động gây cơ sở trong nhân dân. Vừa tổ chức sắp xếp lực lượng vừa tổ chức chiến đấu, trước hết là tìm cách bắt lính gác lấy súng.
Một tổ được phái đến điều tra, các hoạt động của số lính từ Quỳnh Nhai đưa sang gác phía bên này sông. Sau khi nắm được quy luật thay gác đổi gác, tôi cử một nửa tiểu đội gồm những anh em biết võ phục sẵn, chờ phiên đổi gác cuối cùng trong ngày là khởi sự. Yên ắng và nhanh gọn, anh em đã tóm được bốn tên, thu bốn súng. Trận thắng lần đầu và cũng là trận thắng cuối cùng đánh theo kiểu này, anh em phấn khởi, cả đêm hôm đó thật vui. Đủ các thứ chuyện được ôn lại, nhớ lại có cả chuyện tiếp tục bắt lính gác. Nhưng làm gì có chuyện đó nữa, vì hôm sau địch lùng sục xung quanh và trạm gác này cũng không còn nữa.
Cuối tháng 3, địch từ Lai Châu mở nhiều mũi tiến công xuống Sơn La, trận chiến đấu giữa ta và địch càng trở nên ác liệt. Các đơn vị của trung đoàn Sơn La chặn đánh quyết liệt với quân Pháp trên hướng đường số 41, đèo Pha Đin, ta diệt 50 lính Pháp ở Bản Mo, Mường Sài, nhưng vì địch đông, lực lượng ta có hạn, chúng lần lượt chọc thủng các tuyến chốt chặn của ta, đánh chiếm Thuận Châu, Mường Hung, Sốp Cốp, Chiềng Cang (bắc Sơn La) sau là Chiềng Khiêng, Bản Hót uy hiếp nam tỉnh Sơn La. Ở Quỳnh Nhai, địch theo đường sông Đà đánh xuống Mường La, càn quét các vùng xung quanh mở rộng khu vực kiểm soát, uy hiếp Sơn La từ hướng đông bắc, chia cắt giữa chúng tôi với trung đoàn.
https://thuviensach.vn
Thế là trung đội tôi bị bao vây, mất liên lạc với cấp trên từ đây. Khoảng cách không xa, nhưng lúc đó đâu có phương tiện thông tin hiện đại như bây giờ. Muốn tổ chức liên lạc bằng chạy bộ cũng không đơn giản. Cần người xung phong nhận nhiệm vụ có ngay, nhưng biết chúng tôi ở đâu mà tìm. Muốn hỏi, đi cả ngày đường cũng không tìm đâu ra người mà hỏi.
Lúc đầu anh em hoang mang, cá biệt có anh em than thở: “Thế là rắn đã mất đầu!” Nhưng rồi chúng tôi tự chấn chỉnh, tự động viên ổn định tư tưởng cho nhau. Ta vẫn đang tồn tại, có dân che chở, giúp đỡ, lực lượng còn và có thêm súng so với lúc mới lên.
Từ những suy nghĩ ấy, chúng tôi xốc lại đội hình, luôn thay đổi hoạt động, không ở đâu lâu một chỗ, không công khai đối đầu với địch, mà lúc tập trung, lúc phân tán, nay ở Xuân Nha, Ma Téng, mai xuống Mường Hinh, Tạ Bú, tập kích vào những đơn vị nhỏ lẻ, phục kích đón lõng đánh các toán nhỏ tuần tra, những tốp cảnh giới những chòi gác. Cứ thế nay diệt một tên địch, mai thu một khẩu súng, dăm chục viên đạn, vài ba quả lựu đạn; ngày kia tiếp nhận thêm đội viên mới người địa phương tự nguyện tham gia vì được anh em trong đơn vị tuyên truyền vận động.
Niềm vui về thành tích “năng nhặt chặt bị” này cứ ngấm dần, tạo thành lòng tin giúp chúng tôi vượt khó khăn tiến lên.
Nhưng trung đội vẫn không quên nỗi buồn, nó cứ canh cánh bên lòng. Đó là trường hợp anh Liêm, người con của Quỳnh Nhai, người trợ thủ đắc lực của đơn vị những ngày đầu khi vào trận. Anh bị Tây bắt do có sự sơ suất của chúng tôi. Hôm ấy là một ngày cuối tháng 3, đơn vị chuyển quân đến Mường Hịch để vừa chiến đấu chống địch càn quét bảo vệ nhân dân, bảo vệ mùa màng, vừa làm công tác vận động quần chúng tham gia kháng chiến. Theo kế hoạch toàn đơn vị ém quân ở sườn núi sau bản đề phòng địch đánh úp, anh Liêm cùng với cơ sở địa phương vào các nhà dân giải thích chính sách vận động quần chúng tham gia kháng chiến, ủng hộ bộ đội. Là người địa phương, anh Liêm làm nhiệm vụ này rất có kết quả. Đi đến
https://thuviensach.vn
đâu quần chúng cũng dễ gần, dễ trò chuyện, dễ tiếp thu những điều giải thích rất mộc mạc dễ hiểu của anh. Trong sự che chở, đùm bọc và giúp đỡ của nhân dân đối với đơn vị, anh là người có công lớn. Bất thần địch ập tới (sau này tôi được biết do tên tổng đoàn đã bí mật cho người đi báo Tây) bắt anh Liêm. Thấy động dưới bản, tôi cho đơn vị vận động xuống thấp nổ súng tiến công, địch hoảng hốt vừa bắn trả vừa rút chạy. Linh tính biết anh Liêm gặp nguy, tôi lệnh cho một tiểu đội rẽ trái chạy vượt lên, cứu anh Liêm. Nhưng đã muộn, đến nơi địch rút và anh Liêm cũng không còn nữa! Đồng bào nói Tây nó bắt cán bộ Liêm rồi. Tôi sững lại như muốn khóc. Vì mất anh là một thiệt thòi lớn cho đơn vị lúc này. Đêm đó và cả những ngày sau, tôi như người hụt hẫng, buồn thương nuối tiếc anh Liêm cứ luôn ở bên tôi, nhiều đêm không sao ngủ được. Tôi tự trách mình sơ suất, nếu hôm đó tổ chức cảnh giới tốt, có một tổ đi cùng anh Liêm thì đâu đến nỗi này! Mãi đến năm 1990, anh Liêm từ Sơn La về Hà Nội gặp tôi, báo đã thoát tù trở về. Gần năm mươi năm mới gặp lại nhau, cả hai đã già, đều trở thành ông nội, ông ngoại. Nhưng những giờ phút gặp lại không ngờ này khiến chúng tôi trẻ lại, bao kỷ niệm cũ dồn nén được bung ra, trong đó vẫn xoay quanh những ký ức khó quên về những ngày sống ở Quỳnh Nhai. Tôi nhận lỗi do sơ suất để anh bị địch bắt, phải sống những ngày gian truân. Anh không nói, chỉ cười thật sảng khoái: “Gặp lại nhau thế này là quý rồi!” Đó là điều anh đã cảm thông, gỡ cho tôi nỗi ân hận, day dứt bấy lâu.
https://thuviensach.vn
CHẶNG ĐƯỜNG MƯỜI NGHÌN NGÀY
Hoàng Cầm
www.dtv-ebook.com
Chương 3: Phần 2
Đầu tháng 5, từ Tạ Bú chúng tôi tìm được đường về sở chỉ huy trung đoàn lúc này vẫn còn ở khu vực thị xã Sơn La, trong lúc cũng đang thu quân chuyển hướng hoạt động xuống phía nam. Thật hú vía! Chỉ chậm một ngày nữa là chúng tôi lại tiếp tục chịu cảnh đứa con nhỏ bị lạc mẹ.
Anh Tấn và cả cơ quan trung đoàn bộ ra tận mép đường đón đơn vị. Vừa nhìn thấy, anh bước nhanh tới cầm tay lắc mạnh và ôm ghì lấy tôi. Các anh xếp thành hàng vỗ tay hoan hô, cho đến khi hàng quân qua khỏi mới thôi.
Trên đường về sở chỉ huy, anh Tấn tranh thủ hỏi han:
- Cậu có sao không, sức khỏe thế nào?
- Báo cáo anh, vẫn nguyên vẹn, bệnh sốt rét hình như phải kiêng tôi. - Bọn mình cứ tưởng các cậu đã hy sinh.
Anh đang định nói tiếp, tôi xen vào:
- Báo cáo anh có, nhưng không hết.
- Hy sinh ở đâu, trận đánh nào?
- Báo cáo anh, ở khu rừng già Quỳnh Nhai khi bị địch vây và khi bò vào lấy thuyền địch để vượt sông.
Anh Tấn xúc động, đầu hơi cúi, hai mắt đỏ hoe, chớp chớp cố ngăn không cho ngấn nước đọng thành hạt nơi đáy mắt.
https://thuviensach.vn
Hai chúng tôi đi trong yên lặng vào nhà - nơi anh Tấn làm việc. Nơi điều hành chỉ huy công việc của mặt trận Sơn La giản dị, thiếu thốn vô cùng. Anh phải sử dụng bản đồ hành chính, dùng trong các trường học vào việc chỉ huy chiến đấu.
Sau khi đưa tôi bát nước chè rót từ cái ấm đặt trên bếp vẫn còn bốc hơi nóng, anh Tấn nói:
- Thôi, bây giờ chúng ta có thì giờ để vào chuyện. - Anh nhấn mạnh chứ chưa vào việc. - Việc hãy để đó, chiến đấu còn lâu dài.
Lúc này giọng anh trầm lắng, chậm rãi chứ không gọn đanh như khi giao nhiệm vụ. Cả khuôn mặt nghiêm nghị thường ngày bây giờ biến đổi ẩn chứa nét buồn. Anh nói cả ban chỉ huy trung đoàn trong nếp nghĩ hàng ngày đâu có quên, các buổi giao ban chiến đấu vẫn điểm danh các đơn vị, trong đó có đơn vị cậu được anh em tặng mật danh “Trung đội viễn chinh của trung đoàn”. Nhưng chẳng có tin tức gì, cho đến hôm nay đã hơn hai tháng rồi. Anh dừng lại nhìn thẳng vào tôi hỏi:
- Có đúng thời gian như vậy không Hoàng Cầm?
- Báo cáo anh! Tính đến nay là hai tháng mười bảy ngày chúng tôi xa trung đoàn.
- Không phải xa, mà là các cậu bị bao vây, chiến đấu giữa vòng vây của quân thù.
- Dạ! - Tôi hơi lúng túng trả lời.
Anh Tấn lại thủ thỉ vào chuyện.
- Bọn mình thực sự day dứt vì không giúp được gì cho các cậu trong thời gian gặp khó khăn. Giờ đây nhìn thấy cậu mình càng ân hận về trách nhiệm của người chỉ huy. Vì tất cả đều mới quá, có nhiều việc không biết
https://thuviensach.vn
đâu mà định liệu trước, nếu có đặt ra thì không biết bắt đầu, thứ tự trước sau là gì. Chúng mình phải thông cảm, tha thứ cho nhau những khiếm khuyết không muốn có. Vừa rồi khi xuống đường đón đơn vị, câu thứ hai mình nói “tưởng các cậu hy sinh cả rồi” là ý nghĩ thật của tất cả bọn mình, vì sau một tháng không có tin tức trong khi được biết địch ở Quỳnh Nhai đang mở rộng khu chiếm đóng, đã đưa lực lượng xuôi theo sông Đà, tham gia uy hiếp Sơn La từ hướng nam.
Nghe anh kể, tôi thấy chính mình phải chủ động thông cảm, phải xin lỗi nhận khuyết điểm với cấp trên mới đúng. Lúc ấy các anh đâu có rảnh rang, mặt trận phía bắc thủng, địch chiếm Thuận Châu, cách thị xã không xa, còn phía nam, chiến sự đã diễn ra ở Hát Lót, Mai Sơn. Tình thế đặt ra cho các anh nhiều việc quá sức đủ thứ phải lo, phải trả lời, phải đáp ứng tức thì. Lo chỉ huy chiến đấu, lo lương thực, lo giải quyết thương binh, bệnh binh (nhất là lúc này sốt rét đang lan rộng như một thứ dịch khó chữa, quân số giảm nhanh, có người đã vĩnh viễn nằm lại vì không qua nổi một trận sốt ác tính).
Buổi nói chuyện thật đầm ấm, chứa chan tình đồng chí, kết thúc bằng bữa cơm mà trung đoàn trưởng đã có ý định “chiêu đãi” với “thực đơn” là măng rừng Tây Bắc nhưng nhạt muối và thiếu mỡ.
Ngày hôm sau anh lại cho gọi tôi lên từ rất sớm. Thị xã Sơn La còn mờ trong sương mai, cảnh vật mờ ảo.
Như đã sắp xếp sẵn, thấy tôi là anh bắt tay, mời ngồi và vào việc luôn. Anh nói đêm qua chỉ huy trung đoàn họp chủ yếu nghe ban tham mưu báo cáo về thành tích “viễn chinh” của các cậu - anh nhấn mạnh - phải nói là cánh quân thọc sâu mới đúng, vì lên Quỳnh Nhai là lên địa đầu của Sơn La, giáp Lai Châu là đi vào đất địch. Lên đó an toàn trở về là đã khá, đằng này các cậu còn chiến đấu, xây dựng lập thành tích, quân số từ một trung đội thiếu tăng thành hơn hai trung đội (đại đội thiếu), có thêm cả vũ khí. Anh dừng lại hỏi:
https://thuviensach.vn
- Tổng số vũ khí lấy được của địch là bao nhiêu?
- Báo cáo anh: 10 súng trường, 20 lựu đạn, 150 viên đạn.
- Ôi! Thật quý hơn vàng. - Anh biểu dương. - Còn việc của cậu, thì trung đoàn đã quyết định thăng vượt cấp - từ trung đội phó lên đại đội phó và quyền đại đội trưởng luôn.
Tôi chưa kịp trình bày nguyện vọng, thì anh chỉ thị:
- Về làm đại đội trưởng đại đội 230, tiểu đoàn 90 thuộc Trung đoàn 148 vừa mới thành lập theo quyết định của Bộ Tổng Tham mưu.
Mặt trận chuyển về nam.
Tháng 4 năm 1947, có thêm viện binh từ Pháp sang, nâng tổng số quân Pháp ở Việt Nam lên mười một vạn, quân Pháp mở cuộc hành quân lớn lên Tây Bắc, mở rộng vùng chiếm đóng, nối Tây Bắc với Hà Nội theo hai hướng: Từ Hà Nội lên, từ Yên Châu xuống hợp điểm với quân dù chiếm đóng Mộc Châu; đại bộ phận Trung đoàn 148 từ đông Mộc Châu phải vượt sông Đà rút về Lai Đồng, Thu Cúc tây nam tỉnh Phú Thọ.
Còn tôi lúc này được điều về đại đội 250, tiểu đoàn 86 đang đứng chân ở Bột Sộp giáp biên giới Lào trên đường đi Sầm Nưa, thì địch nhảy dù Mộc Châu bịt đường về. Đây là thời kỳ thứ hai chúng tôi mất liên lạc với trung đoàn, lọt vào giữa vòng vây của quân thù.
Thời gian này đại đội chúng tôi được gặp anh Bình Kim, Lê Thăng cũng đang hoạt động ở đây. Hai anh báo cáo về Bộ chỉ huy chiến khu Hai. Các anh Lê Hiến Mai, chính ủy, Hoàng Sâm tư lệnh hoan nghênh và động vỉên đơn vị ở lại với chiến khu, ở đâu cũng là vệ quốc đoàn, cũng làm nhiệm vụ chiến đấu.
https://thuviensach.vn
Theo kế hoạch, các đơn vị Tây tiến lùi lại (vì các anh đã trải qua thời kỳ chiến đấu gian khổ ở nước bạn Lào, lực lượng bị tiêu hao, quá mệt mỏi, cần được nghỉ để củng cố bồi dưỡng sức khỏe). Đại đội 250 chúng tôi được giao nhiệm vụ chặn địch tại khu vực tây Cô Ma, Tà Lao yểm trợ bộ phận tiền phương của sở chỉ huy Chiến khu Hai chuyển về Xân Nha, Hòa Bình.
Trận đánh thắng lợi, nhiệm vụ hoàn thành, được các anh trong Bộ tư lệnh Chiến khu Hai biểu dương, được đồng đội mến phục; nhiều anh em trong trung đoàn Tây tiến do bị đau yếu tụt lại mất liên lạc với đơn vị cũ cũng tình nguyện nhập quân số vào đại đội lực lượng tăng nhanh đến gần một tiểu đoàn, sự giao lưu cũ mới từ nhiều địa phương, nhiều mặt trận bổ sung nhiều điều mới lạ, thu nhận được nhiều kinh nghiệm hay trong chiến đấu, nhiều lẽ phải trong ứng xử đời thường. Tinh thần, tư tưởng của đại đội cũng có biến đổi. Lúc đầu khi lọt vào giữa vùng địch kiểm soát, không khỏi phân vân, lo lắng, lo chiến đấu trong thế lẻ loi, đơn độc, lúc nào cũng nghĩ tìm cách trở lại trung đoàn đã từng gắn bó từ những ngày đầu ở Mặt trận Sơn La. Nay lại khác, không ít anh em muốn tình nguyện ở lại làm lính Chiến khu Hai, vì chiến trường đã quen thuộc, đã hiểu địch, tình đồng chí thêm gắn bó; và một lý do riêng nữa phần đông anh em đều quê ở miền xuôi, về đây có điều kiện thăm gặp gia đình. Ngay cả tôi, anh em cũng khuyên nên ở lại, nhất là khi đơn vị chuyển về gần khu vực Chợ Bến, có anh em nửa đùa nửa thật vừa tranh thủ thăm dò; đường về quê đại đội trưởng quá gần, nếu ở lại có điều kiện xin hẳn về đó hoạt động để được gần nhà.
Thực tình tôi cũng mủi lòng, sau nghĩ lại thấy không ổn, nhưng biết nói thế nào cho anh em đồng tình với mình, thật khó. Một hôm nhiều anh em kéo đến thúc giục đòi tôi tỏ thái độ, bỗng tôi bột phát trả lời:
- Cũng như các cậu mình rất muốn ở lại, nhưng trung đoàn đã có lệnh gọi đại đội ta trở về.
https://thuviensach.vn
Câu giải thích ngắn gọn không chuẩn bị trước của tôi không ngờ lại có hiệu lực từ giờ phút này. Từ đó ý kiến bàn tán ở lại giảm dần sau hết hẳn. Mệnh lệnh mà, đã là mệnh lệnh thì chỉ có chấp hành.
Tháng 10 năm 1947, Mặt trận Mộc Châu tạm lắng, tôi báo Bộ tư lệnh Chiến khu Hai, xin cho đại đội trở lại đội hình Trung đoàn 148 Sơn La, được các anh đồng ý và tạo thuận lợi cho chuyến trở về của chúng tôi, như cung cấp tin tức, cử người dẫn đường. Một kế hoạch hành quân chiến đấu được vạch ra, nhưng để đảm bảo bí mật, chúng tôi chỉ phổ biến từng ngày. Từ tây Mộc Châu sang tây nam Phú Thọ không dài, vậy mà đoạn đường thực tế chúng tôi phải qua lại thật dài đến khó hiểu. Như người ném tạ lùi lại lấy đà, từ tây bắc Mộc Châu đại đội phải lùi xuống hướng tây nam vào vùng Bá Thước, Quan Hóa thuộc Thanh Hóa, rồi vọt lên men theo vùng giáp ranh Nho Quan, Ninh Bình, chếch tây vào địa phận Hòa Bình qua Yên Thủy, Tân Lạc, Mai Châu, vượt sông Đà sang vùng Thanh Sơn - Phú Thọ, mất hơn mười ngày mới tới đích.
Lại anh Lê Trọng Tấn trung đoàn trưởng ra đón chúng tôi.
Lần này không kìm nổi, nước mắt anh trào ra, lăn rõ trên hai gò má của anh dành cho buổi sum họp hôm nay. Anh và ban chỉ huy trung đoàn xuống thăm đơn vị, bắt tay từng người chúc mừng thắng lợi. Anh thân mật nói chuyện với đơn vị và kể những gì đã xảy ra sau khi đại đội chúng tôi bị địch vây, chặn không có đường về. Anh nói:
- Ngay sau khi trung đoàn kiểm điểm quân số và điểm đầu đơn vị trước khi giã từ Mộc Châu không thấy các cậu, trung đoàn đã cử một đơn vị quay trở lại tìm kiếm, nếu thấy là dẫn theo đường đã định, nhưng hai ngày sau vẫn biệt tăm. Khi trung đoàn trở về Phú Thọ tuần nào, tháng nào cũng phái các đơn vị tiếp tục đi tìm nhưng đều trở về không. Mới cách đây hai tuần, tức là sau hơn hai tháng đi tìm đều trở về không, buộc phải báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu là đại đội Hoàng Cầm mất tích thì hôm nay các cậu trở về.
https://thuviensach.vn
Cuối cùng anh thay mặt chỉ huy trung đoàn biểu dương:
- Cuộc “viễn chinh” lần thứ nhất từ Quỳnh Nhai trở về, quân số một trung đội thiếu, tăng hơn hai trung đội.
Cuộc “viễn chinh” lần thứ hai từ Mộc Châu trở về, quân số một đại đội tăng thêm hai trung đội, coi như một tiểu đoàn thiếu.
Tôi tranh thủ báo cáo lý do tăng quân số, chủ yếu là các anh em trong trung đoàn Tây tiến bị lạc, gặp đơn vị xin gia nhập để được tiếp tục chiến đấu. Vừa báo cáo, tôi vừa chỉ tay giới thiệu cụ thể với trung đoàn trưởng về số anh em này đang đứng phía bên trái hàng quân.
Nghe tôi giới thiệu xong, anh Tấn đến bắt tay cám ơn từng người. Các anh em trong đoàn Tây tiến vui mừng và xúc động, có anh em khóc!
Tháng 7 năm 1947, đại đội 250 chúng tôi được lệnh trở lại hoạt động ở vùng địch hậu Mộc Châu, khu du kích Mộc Hạ.
Quân Pháp từ Hòa Bình mở cuộc càn quét lớn vào Suối Rút, Đà Bắc. Đang phân tán làm công tác vận động quần chúng và tổ chức huấn luyện cho du kích các xã thì được tin Pháp tiến công, đại đội tôi khẩn trương tập trung vân động, vừa tổ chức phục kích đánh nhỏ, đánh lén làm giảm tốc độ hành quân của chúng để đồng bào kịp sơ tán, vừa bày sẵn trận phục kích bất ngờ ở Hướng Càn. Trong trận này địch bị thiệt hại nhiều(3), chúng phải dừng lại đối phó đánh trả đối phương, vừa giải quyết hậu quả nhưng phía ta cũng bị thương một số, trong đó có tôi. Bị thương nặng, hỏng tay phải, ngất tới ba phút. Tưởng chết, anh em lấy chăn gói kín, chuẩn bị khiêng đi chôn cất. Khi tỉnh dậy, tôi hỏi:
- Sao lại làm thế này?
(3) Ngày 28 tháng 7 năm 1947, địch bị đánh bất ngờ ở Hướng Càn, ta diệt nhiều lính ngụy thu nhiều vũ khí, lương thực. Ngay đêm đó đại đội 250
https://thuviensach.vn
phối hợp với du kích, công an địa phương bắt sống một tên phản động nguy hiểm, tri châu Mộc Châu và một số ở Hướng Càn.
- Tưởng anh hy sinh, chúng em...
- Mình đau quá ngất lịm chứ không chết.
Anh em kéo đến vội cởi chăn và cứ thế khóc òa:
- Xin lỗi chúng em không biết.
Vì vết thương quá nặng, tôi phải đi viện điều trị ba tháng mới hồi phục sức khỏe, duy có tay phải từ ngày đó đến nay vẫn để di chứng là không viết được, đành thay bằng tay trái, vì thế chữ vốn gà bới càng thêm gà bới.
Sau trận này tôi được Chính phủ tặng huân chương Quân công hạng ba.
Đầu năm 1948 tôi lại bị thương lần thứ ba, sức khỏe giảm, trên điều về làm phái viên quân sự của trung đoàn 148, nhiệm vụ xuống kiểm tra, giúp đỡ các đại đội địa phương Mộc Châu, Thanh Sơn, Thanh Thủy hoạt động ở tây nam Phú Thọ giáp với vùng địch chiếm Mộc Châu. Nhưng thường tôi không làm nhiệm vụ được giao mà trực tiếp xuống tổ chức chỉ huy các đại đội hợp đồng chiến đấu với ý nghĩ cần phải có thắng lớn mới xây dựng được phong trào của địa phương.
Bỗng một hôm tôi được lệnh trên gọi về giao nhiệm vụ tiểu đoàn phó. Tôi hơi ngỡ ngàng vì trước đó được anh em nói lại, là Bộ tư lệnh phân khu 4 nhiều lần nhắc: “Định đề bạt cậu lên tiểu đoàn phó từ lâu. Về thành tích chiến đấu, tinh thần dũng cảm thì không ai có ý kiến gì. Chỉ có một băn khoăn là trình độ văn hóa cậu kém.” (Đúng là văn hóa của tôi không phải là kém mà là quá kém, lúc này lớp một cũng chưa xong). Tôi không thắc mắc về nhận xét này, chỉ băn khoăn sao bây giờ lại đề bạt? Cậu bạn thân của tôi thuật lại lý do. Đó là một hôm anh Song Hào, chính ủy Khu 10 xuống kiểm tra đơn vị, có hỏi:
https://thuviensach.vn
- Hoàng Cầm đâu?
- Báo cáo anh Hoàng Cầm bị thương nhiều, điều về làm phái viên. - Cụ thể nhiệm vụ?
- Giúp đỡ xây dựng các đại đội, nhưng anh Hoàng Cầm thường tổ chức hai, ba đại đội cùng phối hợp vào hậu địch hoạt động.
- Có làm được không?
- Báo cáo làm tốt, anh trực tiếp chỉ huy các đại đội địa phương hoạt động, chiến đấu khá.
- Như vậy là chỉ huy tiểu đoàn rồi, sao không đề bạt.
Lý do tôi được đề bạt tiểu đoàn phó là như thế đấy.
https://thuviensach.vn
CHẶNG ĐƯỜNG MƯỜI NGHÌN NGÀY
Hoàng Cầm
www.dtv-ebook.com
Chương 4
Cuối năm 1949, đầu năm 1950 tiểu đoàn 130 chúng tôi lúc ấy thuộc Liên khu X, sau khi kết thúc đợt tập trung học chiến thuật công kiên (nay gọi là chiến thuật tiến công cứ điểm) được trên điều về đứng trong đội ngũ Trung đoàn 209 mang tên Sông Lô(1).
(1) Trung đoàn 209 lập công xuất sắc trong các trận đành địch trên sông Lô khi chúng tiến công lên Việt Bắc thu đông năm 1947.
Một niềm vui nữa lại đến. Từ Phú Thọ chúng tôi được lệnh chuẩn bị hành quân tham gia chiến dịch Biên Giới, còn gọi là chiến dịch Lê Hồng Phong II, dự định sẽ mở vào trung tuần tháng 9 năm 1950.
Trong chiến dịch này, Trung đoàn 209 và Trung đoàn 174 (chủ lực của Liên khu Việt Bắc) được giao nhiệm vụ diệt cụm cứ điểm Đông Khê - một cứ điểm mà địch gọi là “bậc thang quan trọng trên tuyến đường số 4 từ Lạng Sơn đi Cao Bằng”. Tiểu đoàn 130 do tôi làm tiểu đoàn trưởng được giao nhiệm vụ đánh chiếm Phủ Thiện - khu hành chính của huyện lỵ Đông Khê.
Giữa lúc đơn vị đang khẩn trương sôi nổi chuẩn bị chiến đấu thì một tin làm phấn chấn lòng người: Bác Hồ đã lên Cao Bằng để trực tiếp theo dõi, chỉ đạo chiến dịch.
Vì nguyên tắc giữ bí mật, không ai dám bàn tán, nhưng mọi người đều cảm thấy vinh dự, và háo hức muốn biết cụ thể về sự kiện “Bác đi chiến dịch”.
https://thuviensach.vn
Rồi bỗng một hôm, có điện từ trung đoàn gọi xuống lệnh tôi và đồng chí Tạ Đình Hiển chính trị viên tiểu đoàn (sau này là thiếu tướng Bộ tư lệnh Quân khu Thủ đô đã nghỉ hưu) yêu cầu chuẩn bị gấp tình hình mọi mặt, kế hoạch chuẩn bị chiến đấu cụ thể của đơn vị để báo cáo cấp trên.
Cấp trên là ai? Tôi không kịp hỏi, chỉ biết khi nhận điện trung đoàn nhấn mạnh cần chuẩn bị thật tốt, tốt nói tốt, chưa tốt nói chưa tốt, không được chung chung.
Hôm sau ngày 12 tháng 9, một đồng chí liên lạc của trên xuống dẫn hai chúng tôi đi theo con đường cắt rừng mới được tạo dựng đã hằn vết chân người. Đường quanh co uốn khúc nhưng được che bằng tán cây rừng thoáng mát, máy bay địch khó phát hiện. Một lúc sau lại rẽ sang một con đường nhỏ hơn, bí mật hơn, không để hằn vết mòn, vì đi đến đâu sửa lại ngụy trang đến đấy, không để lại cây đổ gãy, cỏ úa.
Trong lúc tôi đang phán đoán đây đã phải là đường vào nơi cấp trên ở chưa, thì đồng chí liên lạc quay lại ghé sát tai tôi nói nhỏ tỏ vẻ quan trọng:
- Chuẩn bị, sắp đến nơi rồi.
Một căn lán nhỏ xinh nằm giữa rừng sâu thuộc bản Nà Lau cạnh Sở chỉ huy chiến dịch, cách Đông Khê mười ki-lô-mét theo đường chim bay đang chìm trong chiều muông đã hiện ra trước mắt chúng tôi. Tất cả đều bằng cây rừng, lá rừng chặt từ xa mang về xây dựng, đơn giản mà chắc chắn, ẩn dưới tán rừng mà thoáng đãng.
Gần đến trước cửa, đồng chí liên lạc bảo tôi và anh Hiển: Các anh đứng ngoài này chờ để tôi vào báo cáo.
Lúc này trời đã nhá nhem tối. Không đầy một phút, tôi được lệnh vào. Hình như thượng cấp đã có chương trình nghe chúng tôi báo cáo.
https://thuviensach.vn
Bước vào cửa phòng tôi thấy có hai ba người ngồi trên một cái giường tự tạo bằng cây rừng, giữa là cây đèn dầu vặn nhỏ.
Bước thêm ba bước tôi sửng sốt chững lại. Tôi nhận ra ngay người ngồi giữa là Bác Hồ. Tôi đang hồi hộp lúng túng, chưa kịp chào thì Bác đã thân mật hỏi như đã biết chúng tôi từ trước:
- Chú là Hoàng Cầm và Tạ Đình Hiển của tiểu đoàn 130 đến báo cáo Bác phải không? - Rồi Bác nói tiếp. - Các chú ngồi luôn đây uống chén nước cho ấm bụng đã.
Vừa nói Bác vừa đưa chén nước mới rót cho chúng tôi. Tôi cảm động và ấp úng:
- Dạ, thưa Bác.
Ngọn đèn dầu vặn to, tôi nhìn rõ Bác hơn. Bác mặc bộ quần áo Vệ quốc đoàn màu cỏ úa, dáng rắn khỏe, mặc dầu so với ngày 2/9/1945 ngày Bác đọc Tuyên ngôn độc lập ở vườn hoa Ba Đình thì giờ đây Bác già hơn, tóc thưa và bạc nhiều.
Ngày ấy, trung đội tự vệ Thành chúng tôi được tham gia bảo vệ cuộc mít tinh, đứng ngay dưới chân kỳ đài, được nhìn rõ Bác, nhưng vì nhiệm vụ nên không dám ngắm kỹ Bác như lần này.
Giờ đây tôi vinh dự đang được ngồi đối diện với Bác trong căn lán dã chiến đơn sơ giữa nơi rừng sâu mà thấy ấm cúng, như con ngồi bên cha để báo cáo với Bác.
Sau khi hỏi sức khỏe, hỏi quê hương, gia đình, Bác bảo:
- Thời gian lúc này rất quý, Bác cháu ta tranh thủ làm việc để các chú còn về cùng đơn vị lo chuẩn bị tiếp.
https://thuviensach.vn
Tôi bắt đầu báo cáo những điều đã chuẩn bị theo điện hướng dẫn của trung đoàn. Bác nghe tôi báo cáo, tỏ vẻ hài lòng về quyết tâm chiến đấu của tiểu đoàn. Bác hỏi:
- Số quân của tiểu đoàn chú hiện có bao nhiêu chiến sĩ mới, bao nhiêu chiến sĩ cũ?
- Thưa Bác, hai phần ba là chiến sĩ mới.
- Cán bộ có đủ không?
- Dạ! Đủ ạ!
- Chú có tin trận này ta nhất định thắng không?
- Báo cáo Bác, tin ạ!
Bác lại hỏi:
- Chú Hiển có nói gì nữa không?
- Thưa Bác chúng cháu đã thống nhất để anh Hoàng Cầm báo cáo.
Đêm tĩnh mịch. Tiếng của Bác vừa đủ nghe, giọng đầm ấm tình cha con. Còn tôi ngồi yên lặng, nghiêm túc lắng nghe, lòng tin về trận thắng cứ dâng đầy. Bác nói tầm quan trọng của chiến dịch nay đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta; Bác phán tích cặn kẽ mà ngắn gọn thế địch, thế ta trong chiến dịch; Bác giải thích vì sao ta không lấy Cao Bằng làm hướng tiến công chủ yếu, mà lại chọn Đông Khê; Bác nhấn mạnh bí mật và nghi binh là rất quan trọng trong quân sự.
Kể lại dòng hồi ức này cách đây đã bốn mươi mốt năm, nhiều chi tiết không sao nhớ hết, nhưng nhờ độ lùi của thời gian đã giúp tôi hiểu biết, cảm thụ sâu sắc tư tưởng quân sự của Bác kính yêu, cùng những sự kiện lịch sử cứ sáng chói mãi theo năm tháng, gắn quyện hình ảnh Bác với mảnh
https://thuviensach.vn
đất Cao Bằng. Ở đây năm 1941, Bác chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám tại Pác Bó, vạch phương hướng tổng thể chỉ đạo chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Ở đây tháng 7 năm 1944, Bác đã kịp thời đình hoãn chủ trương phát động vũ trang khởi nghĩa chưa đúng thời cơ của Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng, bằng những nhận xét cụ thể mà khái quát nêu bước đi đúng cho một thời kỳ. Bác bảo bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa đến. Bác nhấn mạnh ngay cả điều kiện quân sự cho khởi nghĩa cũng chưa đủ, vì Ban lãnh đạo Khởi nghĩa chưa tuân theo “nguyên tắc tập trung lực lượng: cán bộ, vũ khí phân tán, thiếu hẳn một lực lượng nòng cốt”.
Về chỉ đạo chiến lược, quyết định khởi nghĩa, Bác chú ý đến thời cơ, đến các điều kiện cụ thể của khởi nghĩa.
Còn với chiến tranh giải phóng đất nước, Bác là người lãnh đạo tối cao nhưng luôn luôn theo sát các chiến dịch. Lần này Bác trực tiếp ra mặt trận, quan tâm đến mọi vấn đề của chiến dịch, nêu lên cả nguyên tắc quân sự để bảo đảm cho trận đánh thắng lợi.
Những vấn đề Bác nói rất giản dị mà sâu sắc.
Sau khi nghe tôi báo cáo kế hoạch tiến công Đông Khê từ hướng đông nam của tiểu đoàn 130, Bác nhắc thêm:
- Lần đầu tiến công cụm cứ điểm(2) có quân đông, có lô cốt hầm ngầm kiên cố, các chú có quyết tâm cao như thế là tốt, nhưng chưa đủ. Muốn tiêu diệt địch, các chú phải có biện pháp đánh bại các thủ đoạn của chúng; phải có cách phá hàng rào thép gai, bãi mìn, đánh sập lô cốt. Khi chiến đấu phải thực hiện tốt việc đoàn kết hiệp đồng trong nội bộ đơn vị, với đơn vị bạn và nhân dân. Bác hoan nghênh tinh thần sẵn sàng chiến đấu, ý chí quyết chiến,
https://thuviensach.vn
quyết thắng của các chú. Nhờ chú chuyển lời chúc sức khỏe của Bác đến toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị. Bác chúc các chú thắng lợi!
(2) Sau khi bị trung đoàn 174 tiến công tháng 5 năm 1950, Đông Khê từ một cứ điểm địch củng cố thành cụm cứ điểm mạnh, gồm hai điểm tựa lớn, bảy vị trí vành ngoài, có hầm ngầm cố thủ, lực lượng có hai đại đội thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn Lê dương số 3, một trung đội lưu động, một phân đội pháo 105 ly hai khẩu, quân số 350 tên.
Trên đường trở về đơn vị, tôi cảm thấy lòng lâng lâng, vui sướng. Được gặp Bác, được nghe lời chỉ bảo ân cần của Bác là một hạnh phúc lớn, điều mà tôi không dám nghĩ tới nhưng nay là sự thật, rất giản dị mà sâu lắng.
Về đến đơn vị tôi cho họp cán bộ để bàn kế hoạch triển khai thực hiện làm theo lời Bác. Cuộc họp chưa bắt đầu, anh em đã nóng lòng muốn nghe tôi thuật chuyện về chuyến đi gặp Bác như đã dự kiến trên đường trở về. Trước hết tôi kể về sức khỏe của Bác, những ý kiến của Bác giải thích về tầm quan trọng của chiến dịch. Bác bảo ta nổ súng đánh Đông Khê trước là đánh vào nơi quân địch tương đối yếu nhưng lại là vị trí rất quan trọng trên tuyến phòng thủ đường số 4 từ Lạng Sơn đi Cao Bằng. Mất Đông Khê khi ấy địch có thể sẽ giành lại Đông Khê đề giữ Cao Bằng hoặc phải đánh lên để đón quân Cao Bằng rút lui. Ta nhân lúc đó nhử thú dữ vào tròng mà khép vòng lưới thép. Quân viện của địch đã tan thì ta đánh Cao Bằng không phải là việc khó nữa, nếu chúng rút khỏi Cao Bằng thì đánh càng thuận lợi hơn.
Dư âm phấn khởi được Bác tiếp sức vẫn nóng bỏng trong tôi, khiến tôi thấy mình lúc này rất minh mẫn trong khi kể lại lời Bác dạy.
Cuối cùng tôi hạ thấp giọng và nói chậm hơn:
- Bác bảo rằng theo sự phân công của Trung ương Đảng, Bác lần này đi sát mặt trận để giúp đỡ Bộ chỉ huy chiến dịch. Các chú cùng Bác tham gia chiến dịch này, ai nấy cần cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình.
https://thuviensach.vn
Không khí cuộc họp trở nên trang nghiêm và xúc động khi nghe tôi nhắc lại lời nói thân tình, gần gũi của Bác, không chỉ riêng cho tiểu đoàn 180 chúng tôi mà còn cả với toàn thể cán bộ, chiến sĩ có mặt trên trận tuyến biên giới lúc đó.
Đây là trận đầu tiên đơn vị tiến công vào một cứ điểm kiên cố nhưng chúng tôi cảm thấy bình tĩnh, phấn khởi, tự tin. Lúc này các đơn vị đang ở ngay sát nách cứ điểm Đông Khê, để chờ lệnh nổ súng, vậy mà quân địch vẫn không hay rằng hướng tiến công của quân ta sắp tới là đâu: Đông Bắc, Tây Bắc hay là đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật nghi binh lừa địch do Bác chỉ đạo thật tài tình.
Ngày 12 tháng 9, theo lệnh của Bác, ta nổ súng đánh địch tại Pa Kha (Lao Cai), thì địch càng tin vào sự phán đoán của chúng là đúng: Hướng tiến công của Việt Minh trong thu đông này là Tây Bắc.
Bộ chỉ huy Pháp ký “Lệnh đặc biệt” hoàn thành đánh chiếm thị xã Thái Nguyên vào đầu tháng 10, để hạn chậm nhất 15 tháng 10 phải rút xong các đơn vị quân Pháp đồn trú tại Cao Bằng.
Thế nghĩa là địch không thấy nguy cơ Đông Khê sắp bị rơi vào tay đối phương, do đó Thất Khê, Lạng Sơn bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập, có muốn rút cũng không được. Chúng vẫn xúc tiến tham vọng đánh chiếm Thái Nguyên, để sau đó từ hai hướng bắc (biên giới), nam (Thái Nguyên) ép ta, dồn chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta vào một cái túi để cất vó, mau chóng kết thúc chiến tranh(!)
Bác vĩ đại của chúng ta hiểu rõ “nước cờ trên đây của kẻ địch chỉ là ảo vọng, nên từ trung tuần tháng 9, Người tạm dời nơi làm việc ở một khu căn cứ Tây Bắc Thái Nguyên lên biên giới. Khi mà Các-păng-chi-ê, tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương đang tất tả như con thoi hết Sài Gòn lại ra Hà Nội, cưỡi máy bay lên Lạng Sơn lệnh cho viên đại tá Công xtăng chỉ huy quân đội Pháp ở Liên khu biên giới Đông Bắc gấp rút thực thi
https://thuviensach.vn
“lệnh đặc biệt” nói trên, thì Bác đã rất ung dung thư thái “chống gậy lên non xem trận địa”, đang cài thế.
Sáu giờ sáng ngày 16 tháng 9 (trùng hợp với ngày Bộ chỉ huy quân đội Pháp thực hiện kế hoạch đánh chiếm thị xã Thái Nguyên để hỗ trợ cho quân Pháp rút khỏi Cao Bằng), đạn pháo ta theo lệnh Bác đã nổ vang tại cứ điểm Đông Khê.
Trận đánh quyết định mở màn chiến dịch bắt đầu.
Cuộc chiến đấu diễn ra liên tục suốt một ngày và một đêm, mãi mười giờ sáng ngày 17 chúng tôi mới chiếm được các đồn ngoại vi của cụm cứ điểm Đông Khê.
Ở hướng đông bắc, trung đoàn 174 chiến đấu cực kỳ dũng cảm, gương La Văn Cầu, chiến sĩ đánh bộc phá không do dự, nhờ đồng đội chặt cánh tay bị thương để khỏi bị vướng, tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ đã cổ vũ chúng tôi rất nhiều. Nhưng ở hướng đó đang gặp khó khăn, địch từ hầm cố thủ dồn lực lượng tổ chức phản kích đánh bật ta ra ngoài cứ điểm.
Ở hướng tiểu đoàn 130 chúng tôi, cả ngày 17 địch cũng liên tục phản kích hòng chiếm lại khu vực đã mất, ta và địch giành nhau từng tấc đất. Nhưng ta vẫn chiếm giữ toàn bộ khu Phủ Thiện, tạo thế áp sát vào đồn chính từ hướng đông nam.
Gặp tôi, Trần Cừ hậm hực:
- Thế này là không ổn! Ta bị địch phản kích là do hướng bắc chưa đánh tốt. Hiệp đồng kiểu này thì nguy đấy!
Đúng là nếu đêm qua trung đoàn 174 hoàn thành nhiệm vụ chắc chắn không có chuyện địch phản kích ngày hôm nay. Nhưng chiến đấu là một cuộc đọ sức quyết liệt, đâu phải dễ dàng, trơn tru như ta dự kiến. Địch cũng có phản ứng chứ, càng quyết liệt khi chúng bị dồn vào bước đường cùng. Ta
https://thuviensach.vn
không dự kiến hoặc dự kiến không hết là thuộc về khuyết điểm hoặc năng lực có hạn.
Tôi hoàn toàn thông cảm với tâm trạng của đại đội trưởng đại đội làm nhiệm vụ chủ công. Đơn vị của Trần Cừ bị thương vong nhiều do bị địch phản kích quyết liệt. Nhưng tôi vẫn nghiêm khắc:
- Chúng ta phải quyết tâm thực hiện lời Bác dạy. Đơn vị bạn cũng khó khăn chứ đâu riêng chỉ có đơn vị mình. Chính mình phải nỗ lực hơn nữa mới thực hiện được đoàn kết hiệp đồng hỗ trợ cho đơn vị bạn.
Nhắc đến lời Bác, Trần Cừ hối hận, đầu hơi cúi xuống.
Sau khi thông báo với Trần Cừ về diễn biến chung, tôi nói thêm:
- Bác vẫn theo dõi trận đánh và chỉ thị cho chúng ta, dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc phục, đánh cho kỳ thắng trận đầu.
Như có cái gì đó gần gũi mà thiêng liêng, sau khi nghe tôi nói những điều Bác căn dặn, Trần Cừ đứng thẳng người, với gương mặt phấn chấn, kiên quyết, tự tin, anh báo cáo:
- Dù khó khăn đến mấy, đại đội tôi hứa kiên quyết thực hiện.
Tôi siết chặt tay Trần Cừ và chúc đại đội hoàn thành xuất sắc đợt hai trận đánh.
Cả tôi và Trần Cừ đứng giữa cảnh đổ nát của trận địa sau một đêm đọ sức quyết liệt giữa ta và địch, không ai nói thêm điều gì nhưng lại có chung một điều suy nghĩ: Dù bất cứ tình thế nào cũng phải kiên quyết vượt qua, hoàn thành nhiệm vụ Bác giao.
Chỉ thị của Bác thật hết sức súc tích, trở thành tư tưởng chỉ đạo trận đánh đêm nay của chúng tôi.
https://thuviensach.vn
17 giờ ngày 17 tháng 9, chúng tôi nổ súng bắt đầu đợt hai của trận đánh quyết định, tiêu diệt cái cứ điểm kiên cố còn lại của cụm cứ điểm Đông Khê.
Cuộc chiến đấu diễn ra đúng như dự đoán, quyết liệt suốt đêm 17 cho đến mười giờ sáng ngày 18/9/1950.
Nhưng chúng tôi đã nghiêm chỉnh thực hiện đúng chỉ thị của Bác - thắng cho kỳ được trận đầu. Cụm cứ điểm Đông Khê đã hoàn toàn bị tiêu diệt, “cái bậc thang” trên tuyến đường số 4 Lạng Sơn đi Cao Bằng của địch đã bị đánh gãy.
Đại đội 866 mũi chủ công của tiểu đoàn 180 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhưng Trần Cừ người chỉ huy mưu trí, dũng cảm của đại đội không còn nữa!
Tôi vô cùng xúc động khi nhận được tin này. Không quản mệt nhọc, nguy hiểm, tôi đến ngay nơi Trần Cừ vừa ngã xuống.
Trần Cừ vẫn còn đó, trong tư thế áp mình vào lỗ châu mai, hai tay dang rộng, mười ngón xòe ra bám vào vách đứng của cái lô cốt thấp mà to ngang, “da dẻ” xù xì xám mốc. Gương mặt anh vẫn hiện lên đường nét quen thuộc cởi mở, lạc quan và kiên nghị.
Đứng trước thi hài Trần Cừ, tôi bật lên tiếng khóc thật to.
Không phải chỉ mình tôi mà cả ban chỉ huy tiểu đoàn, tất cả cán bộ, chiến sĩ còn lại của đại đội 336 đều khóc. Khóc vì tiếc thương một đồng chí giàu tình nhân ái, khiêm nhường, một đại đội trưởng sung sức, chiến đấu dũng cảm, thông minh, quyết đoán.
Tôi nhớ mãi câu nói cuối cùng của Trần Cừ: “Đại đội tôi hứa kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ đêm nay, dù có gặp bất kỳ khó khăn nào.”
https://thuviensach.vn
Anh hứa và anh đã làm. Không hoa mỹ, sáo rỗng. Đã nói là làm, đã làm là phải thành công, dù phải xả thân.
Tuy không được gặp Bác, nhưng được tin Bác đi chiến dịch, Bác trực tiếp đến gần theo dõi trận đánh Đông Khê, Trần Cừ lúc nào cũng nhắc tới Bác với một niềm tự hào: Bác là chỉ huy danh dự của tiểu đoàn ta. Tinh thần quyết chiến quyết thắng của Trần Cừ thể hiện tư tưởng “chỉ cho đánh thắng” của Bác.
Tôi được số anh em cán bộ, chiến sĩ còn sống trong trận đánh này kể lại khi chiến dịch kết thúc. Trần Cừ đã chỉ huy đại đội vượt qua bức tường đá cao dày như bức tường Thành Cổ, tiếp đó là hàng rào kẽm gai và bãi mìn, tiếp sát vào lô cốt thuộc khu đồn chính thì trời tảng sáng, lại bị hỏa lực từ trong hầm ngầm, lô cốt cố thủ bắn cản lại, anh em bị thương một số. Mũi tiến công bị chững lại. Lúc này anh bị thương vào chân, nhưng cố nén chịu, tiếp tục chỉ huy đơn vị tiến lên mục tiêu cần đánh phá, cố tiếp cận lô cốt trước mặt - nơi các họng súng của địch từ các lỗ châu mai đang bắn ra dữ dội. Ném nốt quả lựu đạn cuối cùng vào lỗ châu mai, đồng thời Trần Cừ đứng thắng người, áp cả thân mình vào lỗ châu mai, bịt hỏa điểm địch, bắt chúng câm họng chỉ trong vài giây cho bộ đội xung phong đánh chiếm.
Trần Cừ chủ động chấp nhận hy sinh, dùng thân mình cản hỏa lực địch, tạo thuận lợi cho toàn đơn vị tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê, góp phần cùng đơn vị bạn hoàn thành giành thắng lợi trận đánh quyết định của chiến dịch.
Bước phát triển của chiến dịch diễn ra đúng như Bác dự đoán, mất Đông Khê buộc địch phải cho quân đi ứng cứu lẫn nhau, tạo cơ hội cho ta tiêu diệt chúng trong vận động, như tư tưởng chỉ đạo tác chiến của Bác - là “nhử thú dữ vào tròng” để “khép vòng lưới thép” tiêu diệt chúng. Mất Đông Khê, binh đoàn Lơ-pa-giơ buộc phải làm ứng cứu bị ta tiêu diệt ở Nà Cạo cao điểm 477 trên đoạn đèo Bông Lau. Mất Đông Khê, binh đoàn Sắc-tông buộc phải rút khỏi Cao Bằng, bị ta tiêu diệt ở Cốc Xá gần điểm cao 477.
https://thuviensach.vn
Hai binh đoàn thiện chiến của địch bị tiêu diệt, thị xã Lạng Sơn bị uy hiếp.
Chỉ một trận Đông Khê, làm rung chuyển toàn bộ tuyến phòng thủ biên giới của địch, buộc chúng phải bỏ thị xã Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập, An Châu, Chũ, Lục Nam, con đường số 4 từ Cao Bằng đến sát Tiên Yên, con đường 13 từ Lục Nam - Chũ qua An Châu đến Đình Lập sạch bóng thù, nhân dân được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của quân xâm lược.
Chiến dịch Biên Giới toàn thắng.
Trong phạm vi hồi ức, tôi thấy không cần thiết bình giải về ý nghĩa chiến thắng lịch sử này cũng như sự chỉ đạo sáng suốt, tài giỏi của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và trực tiếp là Bộ chỉ huy chiến dịch. Vả lại các vấn đề này sách báo đã đề cập.
Là cán bộ chỉ huy, lần đầu được vinh dự tiếp nhận ánh sáng tư tưởng quân sự của Bác, nhưng không phải ngay từ đầu tôi đã thấy hết được tư tưởng sâu sắc của Người, mà phải có thời gian, thông qua thực tiễn chiến đấu. Với tôi, trước bất kỳ trận chiến đấu nào, chiến dịch nào kỷ niệm gặp Bác trước trận đánh quyết định vẫn hiện về. Và những lúc như thế, lời dạy của Bác trong chiến dịch Biên Giới luôn luôn là chỗ dựa để tôi suy nghĩ, nghiền ngẫm, vận dụng.
Kỷ niệm gặp Bác trước trận đánh quyết định trở thành ký ức không bao giờ quên, là điểm khởi đầu của dòng hồi ức của tôi về Bác, để rồi chính những hồi ức đó lại nhắc nhở tôi, soi sáng trong nếp nghĩ của tôi đi vào các trận chiến đấu, các chiến dịch Trung Du, Tây Bắc, Điện Biên phủ, Đồng Xoài, Phước Long. cho đến ngày 30/4/1975 tôi cùng đồng đội tiến vào Sài Gòn, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
https://thuviensach.vn
CHẶNG ĐƯỜNG MƯỜI NGHÌN NGÀY
Hoàng Cầm
www.dtv-ebook.com
Chương 5: Phần 1
Chúng tôi lại tiếp tục trên đường ra trận. Nhưng lần này là con đường rẽ ngoặt dẫn tới trận “Quyết chiến chiến lược - Điện Biên Phủ”.
Trong những ngày nô nức hành quân lên Tây Bắc, chúng tôi lại được đón nhận thư Bác:
“Thân ái gửi cán bộ và chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ.
Thu đông này các chú lại có thêm nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực địch, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào còn bị giặc đè nén.”
Bác lại nhắc: “Cần phải giữ quyết tâm trong mọi hoàn cảnh: quyết tâm tiêu diệt sinh lực địch, quyết tâm giữ vững chính sách, quyết tâm giành nhiều thắng lợi.” Chưa có thì cần phải xây dựng quyết tâm, có rồi thì “phải giữ vững”. Quyết tâm không bao giờ thừa đối với một trận chiến đấu, một chiến dịch nào.
Phải đến chiến dịch này tôi mới nhận biết thêm tư tưởng quyết tâm của Bác mang tính nguyên tắc cao trong quân đội, chứa đựng nội dung chỉ đạo cụ thể; đồng thời là cơ sở để ngườị chỉ huy có thêm sáng suốt, bản lĩnh, xử trí kịp thời, hợp lý các tình huống chiến đấu đặt ra.
Quyết tâm trong tư tưởng quân sự của Bác thực sự khích lệ chúng tôi trong suốt quá trình chiến dịch.
Hạ tuần tháng 12 năm 1953 từ một địa điểm giấu quân ở khu rừng thuộc tỉnh Yên Bái, Trung đoàn 209 nằm trong đội hình Đại đoàn 312 theo đường
https://thuviensach.vn
tắt hành quân liên tục suốt mấy đêm liền mới ra tới ngã ba Thượng Bằng La - con đường năm xưa đã dẫn chúng tôi đi vào chiến dịch Tây Bắc. Vừa đặt chân lên mặt đường, bắt gặp ngay cảnh “ngựa xe như nước” của các đoàn dân công, của các đơn vị hậu cần nườm nượp theo hướng tây mà tiến tới.
Khi hành quân qua Nà Sản thì nỗi hận trong tôi lại trỗi dậy.
Nà Sản nằm trên đường 41, cách thị xã Sơn La hai mươi ki-lô-mét về phía tây nam. Trong chiến dịch Tây Bắc Thu Đông năm 1952 bị ta tiến công tiêu diệt hàng loạt vị trí, số quân sống sót phải rút chạy, được bộ chỉ huy Pháp tập hợp về đây xây dựng thành tập đoàn cứ điểm lớn gồm 21 đồn bốt, điểm tựa với lực lượng hơn tám tiểu đoàn bố trí theo từng hàng lớp để đối phó với ta. Tập đoàn này được mệnh danh “pháo lũy” Nà Sản, “công trình Nà Sản - con đê ngăn sóng” một hình thức phòng thủ mới để đối phó với các cuộc tiến công của chủ lực ta(1).
(1) Cuối tháng 11, địch ở Nà Sản có tám tiểu đoàn và tám đại đội bộ binh, một tiểu đoàn pháo binh, một đại đội công binh, tổng quân số lên tới mười hai nghìn tên.
Cùng với Trung đoàn 102 (đại đoàn 308) đánh Pú Hồng (đêm 30/11) Trung đoàn 174 (đại đoàn 316) đánh Nà Sỉ (đêm 11/12), Trung đoàn 209 được giao nhiệm vụ diệt Bản Vây. Nhưng chúng tôi chẳng những không thắng mà còn bị thương vong khá nặng, chỉ vì chúng tôi chưa hiểu đầy đủ thủ đoạn chiến thuật mới của địch, không tính hết sự phối hợp hỏa lực giữa các cứ điểm trong cụm cứ điểm. Khi đơn vị bắt đầu nổ súng, phá xong hàng rào xung phong lên, thì các vị trí khác của địch dồn hết hỏa lực tập trung bắn tới. Lực lượng xung kích của trung đoàn xông lên mấy lần đều bị hất lại. Cuối cùng phải rút. Đêm hôm đó, trời rét, trăng lại sáng, chúng tôi rút ra đến đâu địch bắn đuổi theo đến đấy. Tất cả cơ quan trung đoàn bộ phải đi làm công tác vận chuyển thương binh. Nhìn bộ đội thương vong, nghĩ đến nhiệm vụ không hoàn thành, tôi phát khóc, vì thiếu kinh nghiệm để xảy ra thiệt hại như vậy.
https://thuviensach.vn
Hôm nay hành quân qua Nà Sản, tôi càng thấm thía lời dạy của Bác trong trận đánh Đông Khê: “Các chú muốn tiêu diệt địch thì phải có biện pháp đánh bại các thủ đoạn của chúng.”
Sự ân hận đó đã trở thành bài học trong phương pháp suy nghĩ quyết tâm, xử trí các tình huống đặt ra trong suốt thời gian tôi tham gia chiến đấu ở mặt trận Điện Biên Phủ với cương vị trung đoàn trưởng (trung đoàn 209, đại đoàn 312) cùng với các đồng chí Trần Quân Lập chính ủy, Thăng Bình
trung đoàn phó, Chu Phương Đới tham mưu trưởng, Kim Mỹ chủ nhiệm chính trị.
Trong đợt một của chiến dịch, Trung đoàn 209 chúng tôi cùng với Trung đoàn 142, sau sáu tiếng tiến công liên tục (từ 17 giờ ngày 13 tháng 3 đến 23 giờ 23 phút cùng ngày) đã san bằng cụm cứ điểm (gồm ba cứ điểm) Him Lam là trung tâm phòng ngự kiên cố vào bậc nhất của địch ở Điện Biên Phủ, cách trung tâm Mường Thanh hai ki-lô-mét rưỡi về phía đông bắc. Cùng với cứ điểm Độc Lập bị diệt đêm 14 tháng 3, ta đã mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm từ phía bắc và đông bắc, uy hiếp sân bay Mường Thanh bắt đầu từ đây. Nhân đây xin kể một vài chi tiết mà mãi sau này, nhân kỷ niệm ba mươi lăm năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, được đọc hồ sơ mới về Điện Biên Phủ của Mai-kơn Mắc-lia, phóng viên hãng vô tuyến truyền hình Canada CBC, mới rõ lúc ấy địch còn rất chủ quan ngạo mạn. Theo phóng viên này kể lại: “Ngày 12/3/1954, đại tá Đờ Cát-xtơ-ri (lúc này chưa được phong tướng) triệu tập các sĩ quan chỉ huy tới báo động về nguồn tin tình báo khẩn cấp: Cuộc tiến công của tướng Giáp sẽ bắt đầu vào năm giờ chiều ngày hôm sau. Nhưng các sĩ quan cảm thấy an tâm, chờ điều sẽ xảy ra, họ đang được tiếp tế tốt, kể cả 49.000 chai rượu vang.
Cuộc đụng độ sẽ thoát ra trước hết khỏi vòng vây tinh thần vì hình như ở Hà nội bị xáo động hơn là ở đây.”
Đúng là số phận bất hạnh bao giờ cũng dành cho những kẻ ngạo mạn. Đại tá Pi-rốt chỉ huy pháo binh trong ban tham mưu của Đờ Cát đã dùng
https://thuviensach.vn
lựu đạn tự sát sau khi được biết cụm cứ điểm Him Lam bị san bằng trong trận tiến công đầu tiên của đối phương, có pháo binh yểm trợ - điều mà y khẳng định trước đó là không thể có(!)
Sau chiến thắng Him Lam, Trung đoàn 209 bừng bừng khí thế tin tưởng, phấn khởi. Những bài học nóng hổi của trận đánh được vận dụng vào đợt hai của chiến dịch. Chúng tôi vui vẻ chấp nhận tư tưởng “đánh chắc thắng” của trên, ngày đêm xẻ núi thành hào, đắp hầm xây trận địa vững chắc, tham gia kéo pháo ra rồi lại kéo pháo vào để cho pháo ta đủ sức nhả đạn vào đầu thù.
Từ cái thế vững chắc đó, Trung đoàn 209 đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt của đợt hai chiến dịch là đánh chiếm cụm đồi Dl, D2, D3 không cho địch phản kích lấy lại, tạo được cái thế ngồi trên đầu Đờ Cát-xtơ-ri.
Cuối tháng 4 Trung đoàn 209 được giao nhiệm vụ đánh chiếm khu vực bàn đạp mở đầu đợt tiến công thứ ba của chiến dịch.
Khí thế của đơn vị đang có đà từ sau chiến thắng Him Lam, sau nhiều trận bẻ gãy các đợt phản kích của địch định chiếm lại cụm đồi D, nhưng chỉ huy trung đoàn chúng tôi vẫn thấy lo vì đây là những trận đánh nhằm kết thúc số phận của tập đoàn cứ điểm, kẻ địch sẽ chống trả quyết liệt.
Đảng ủy và ban chỉ huy trung đoàn họp bàn sôi nổi, cuối cùng đều nhất trí phải chuẩn bị tốt cả về tư tưởng và tổ chức chiến đấu. Tôi xuống hẳn với tiểu đoàn 154 làm nhiệm vụ chủ công để cùng anh em khẩn trương chuẩn bị, kịp thời cùng anh em bàn cách khắc phục khó khăn nảy sinh, vì thời gian lúc này đã rất khẩn trương.
Ngày 1 tháng 5 theo kế hoạch đã được trung đoàn phê chuẩn, tiểu đoàn 154 nổ súng tiến công một trong năm điểm cao mang tên 505.
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt đúng như dự đoán. 20 giờ 30 phút, tiểu đội đi đầu của đại đội 606 chiếm được bàn đạp cửa mở, bị hỏa lực địch từ
https://thuviensach.vn
nhiều phía (kể cả pháo ở Hồng Cúm) bắn cản dữ dội; 20 giờ 45 phút trung đội đầu cầu của đại đội này thực hành xung phong. Đây là trung đội còn lại của đại đội, vì phần lớn những người lọt vào cứ điểm của địch đều mang thương tích, loại khỏi lực lượng chiến đấu.
21 giờ 27 phút địch lại tổ chức phản kích. Phần lớn các chiến sĩ đều bị thương nặng, hoặc ù tai, hoặc điếc vì bom đạn địch.
Chúng tôi vẫn tiếp tục tổ chức chiến đấu. Đại đội 606 được lệnh dừng lại củng cố rồi lại tiếp tục tiến công; đại đội 618 được trung đoàn đưa từ phía sau lên tăng viện bước vào chiến đấu.
Cửa mở hẹp mà hỏa lực địch tập trung vào đó để cản ta.
Nhưng tất cả nhanh chóng vận động, vọt tiến, lọt được vào chiều sâu trận địa địch.
Đến 4 giờ 20 phút, tiểu đoàn 16 diệt gọn một đại đội địch còn lại, đánh chiếm hoàn toàn điểm cao 505, kết thúc trận đánh sau nhiều đợt tiến công kéo dài gần mười tiếng đồng hồ.
Đứng trên đỉnh cao 505, 505A mới thấy hết giá trị của các vị trí này - bằng phẳng, nằm cạnh đường 41, tiếp sau nó là hàng loạt các điểm cao khác nối nhau: 506, 507, 508, 509 chạy thẳng vào sân bay Mường Thanh và vào
sở chỉ huy trung tâm Mường Thanh không còn xa nữa, mới cắt nghĩa được vì sao cái giá đắt phải trả khi ta đánh chiếm được 505. Đây là năm cứ điểm đệm yểm trợ đồng thời là những vỏ thép bảo vệ sở chỉ huy trung tâm.
Ngày 5 tháng 5, trung đoàn lệnh các đồng chí Nguyễn Cẩm, Trần Quải, tiểu đoàn trưởng và chính trị viên tiểu đoàn 130, Đinh Đình Sành, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 166, Nguyễn Măng, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 154 và một số cán bộ đại đội, trong đó có Tạ Quốc Luật, đại đội trưởng, Công Bình chính trị viên đại đội 360 lên thực địa bàn kế hoạch tiến công tiếp tục. Vì đây là trận đánh then chốt nên cũng có mặt đầy đủ các đồng chí trong ban
https://thuviensach.vn
chỉ huy trung đoàn. Ngay trên trận địa vẫn còn cay nồng mù mịt khói bom, đạn pháo, đạn súng bắn thẳng của địch từ mọi phía vẫn nổ dữ dội trên nắp hầm, trên miệng hào giao thông, chúng tôi hạ quyết tâm:
- Bằng bất cứ giá nào cũng phải tiến công, tranh thủ mọi điều kiện để thực hiện liên tục tiến công.
- Mục tiêu chủ yếu cuối cùng là sở chỉ huy địch ở trung tâm Mường Thanh.
- Mang cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Bác cắm lên nóc hầm sở chỉ huy trung tâm, bắt sống tướng giặc Đờ Cát-xtơ-ri và toàn ban tham mưu của y, lập thành tích mừng thọ Bác.
- Nghiêm chỉnh chấp hành chính sách tù hàng binh.
Đúng là sở chỉ huy trung tâm địch đã ở trong tầm với, đứng trên điểm cao 505 vừa mới đánh chiếm, nhiều anh em phấn khởi reo lên: chúng ta sắp sửa “cắt tiết” Mường Thanh đến nơi rồi!
Nhưng chúng tôi thì vẫn lo, vì từ đây đến đó tuy ngắn nhưng không đơn giản, chỉ một sơ suất trong nắm địch, trong tổ chức chỉ huy, hợp đồng chiến đấu và tinh thần quyết tâm không được giữ vững, phát huy, rất có thể gây nhiều chuyện rắc rối.
Thời gian như chậm lại, ai cũng mong trời chóng tối, vì kế hoạch chiến đấu được quán triệt đến từng chiến sĩ. Chúng tôi hồi hộp theo dõi mặt trời lặn dần để đến giờ khởi sự.
Đêm nay 6 tháng 5, là một đêm đáng ghi nhớ đối với Trung đoàn 209, như cái đêm đánh Bản Vây (Nà Sản) trong chiến dịch Tây Bắc hồi tháng 12 năm 1952 vậy. Nhiệm vụ của trung đoàn là đánh chiếm điểm cao 507, để phối hợp với các đơn vị bạn nhổ nốt những cái đinh A1, C2. Tiểu đoàn 130 được giao trọng trách này nhưng đã không hoàn thành do tổ chức hỏa lực
https://thuviensach.vn
tiến công rời rạc, không kiềm chế được hỏa lực địch, nên bộ đội không xung phong lên được. Một nguyên nhân không kém phần quan trọng thuộc về tinh thần trách nhiệm, tác phong của người chỉ huy chúng tôi: đó là việc tổ chức theo dõi địch không chặt chẽ. Khi giao nhiệm vụ lúc chiều, là đánh địch trong tình huống không có rào kẽm gai, nhưng tối đến địch cho rải hàng rào kẽm gai bùng nhùng. Tuy chỉ là loại rào dã chiến, tạm thời, nhưng khi bộ đội ta đánh vào, bị bất ngờ, phải dừng lại khắc phục bằng cách bộc phá, đội hình bị ùn tắc. Đó chính là lúc địch có điều kiện tập trung hỏa lực sát thương ta.
Thế là nhiệm vụ tiến công đêm 6 không thành.
Không ngờ hận Bản Vây lại đến với chúng tôi!
Ngay đêm hôm đó, Đảng ủy trung đoàn họp, đề ra biện pháp củng cố trận địa dã chiến đề phòng địch phản kích khi trời sáng, ổn định tư tưởng bộ đội, giải quyết đưa nhanh thương binh về tuyến sau và bàn kế hoạch tiếp tục chiến đấu trong tình huống ban ngày.
Nếu chiều hôm trước chúng tôi mong trời chóng tối, thì đêm nay chúng tôi mong trời mau sáng để trả hận.
Ngày 7 tháng 5, mặt trời vừa ló rạng, tôi gọi điện lên anh Lê Trọng Tấn, đại đoàn trưởng đề nghị cho tiến công tiếp.
Từ đầu dây bên kia có tiếng anh Tấn:
- Còn đủ sức không?
- Báo cáo, đủ!
Vẫn có tiếng điện sôi qua ống nghe nhưng không có tiếng nói. Hay là có sự cố. Tôi vẫn áp chặt tai vào ống nghe hồi hộp chờ đợi. Khoảng năm giây sau lại có tiếng anh Tấn:
https://thuviensach.vn
- Hoàng Cầm đâu?
- Báo cáo tôi vẫn nghe?
- Cậu gọi thẳng lên Sở chỉ huy chiến dịch, xin ý kiến anh Văn (tức Đại tướng Võ Nguyên Giáp) vì việc này đại đoàn không đủ thẩm quyền.
Tôi liền quay điện thoại lên Sở chỉ huy chiến dịch, thì anh Văn nói là chờ lệnh Tổng công kích, cũng ở hướng ấy, tiến công một thể.
Tôi bỏ máy xuống. Biết bao giờ mới có lệnh Tổng công kích, trong khi ở hướng chúng tôi đã có thời cơ?
Cả tập thể ban chỉ huy ngồi quanh máy điện thoại theo dõi. Các anh thúc tôi tiếp tục trình bày, kiên nhẫn nhất định thành công. Tôi lại gọi điện lên Sở chỉ huy đại đoàn.
- Các cậu có cay cú không đấy? - Anh Tấn hỏi.
- Báo cáo anh không. - Ngừng lại để lấy hơi, tôi nói tiếp. - Trận đánh đêm qua không thành do khuyết điểm vì có sơ suất trong tổ chức hỏa lực, hiện chúng tôi đã có kế hoạch khắc phục.
- Mình đồng ý, nhưng đây là nguyên tắc, phải xin ý kiến anh Văn, cậu cầm máy chờ nhé.
Giây phút đợi lệnh lúc này sao mà hồi hộp và căng thẳng đến thế. Vẫn bình tĩnh áp ống nghe vào tai mà tôi thấy toàn thân nóng ran, bứt rứt như kiến đốt. Dưới khuyết điểm là trên có phần trách nhiệm. Việc kiểm tra đôn đốc không đến nơi đến chốn, tư tưởng nôn nóng chủ quan, coi thường phản ứng của địch nên mới đến nông nỗi này.
https://thuviensach.vn
Tôi cứ triền miên suy nghĩ, tự trách mình như thế, thì bỗng đầu dây bên kia có tiếng động nhắc máy.
- Hoàng Cầm đấy phải không. - Vẫn giọng nói quen thuộc của anh Tấn. - Dạ, tôi vẫn đang chờ lệnh.
- Bộ chỉ huy Mặt trận chuẩn y giờ nổ súng của trung đoàn, nhưng nhấn mạnh - cần phải chuẩn bị cho tốt, không được bỏ qua một công việc nhỏ nào có liên quan đến bảo đảm chắc thắng.
Tôi chưa kịp báo cáo tiếp công việc chuẩn bị, thì anh Tấn lại tiếp:
- Trên sẽ có kế hoạch phối hợp và sẽ chi viện hỏa lực cho trung đoàn. - Giọng bỗng to lên, anh nhấn mạnh. - Chỉ cần chúng ta không được chủ quan, gắng chút nữa là mọi việc ổn thỏa. Chúc trung đoàn thắng lợi.
Phấn khởi và cảm động. Cấp trên không những chuẩn y kế hoạch tác chiến của trung đoàn mà còn dành năm khẩu pháo chi viện. Tôi hứa với anh Tấn:
- Báo cáo anh có điều kiện chúng tôi phát triển qua sông Nậm Rốm, áp sát sở chỉ huy trung tâm Mường Thanh.
- Còn đủ sức không? - Anh Tấn hỏi.
- Dạ, đủ sức. - Tôi hứa.
- Nhớ đảm bảo chắc thắng. - Anh Tấn ra lệnh.
Bỏ máy nghe xuống tôi thấy mình xúc động, đầu óc nhẹ nhõm, lâng lâng. Tôi lệnh cho các tiểu đoàn 130, 154, 166 và các đơn vị hỏa lực gấp rút chuẩn bị nổ súng theo đúng giờ G.
https://thuviensach.vn
Trận đánh được bắt đầu vào lúc 14 giờ, mặt trời ngả về tây, cảnh vật trước mặt hiện lên rõ nét.
Trong lúc hỏa lực ta tập trung dồn dập vào trận địa địch, trung đội trưởng Chu Bá Thi vắt chăn lên hàng rào bùng nhùng, dẫn bộ binh xung phong, địch bắn cản, ta phải lùi lại. Lần thứ hai, ta vượt rào vọt tiến, ném thủ pháo vào các ụ súng địch.
Điểm cao 507 bị diệt, số địch còn lại rút về 508.
Thừa thắng tôi lệnh cho trung đoàn phó Thăng Bình trực tiếp chỉ huy tiểu đoàn 136 và chính trị viên tiểu đoàn Trần Quân phát triển đánh chiếm 508, 509 cho đại đội Tạ Quốc Luật nhanh chóng vượt cầu phao chặn địch không cho chúng rút qua và tiếp viện từ Mường Thanh ra.
Thế là tất cả các cứ điểm bên này sông Nậm Rốm đã lọt vào tay quân ta. Lúc này khoảng 16 giờ 30 phút. Trời nắng nóng, tôi phải xoay trần, mặc độc áo lót để chỉ huy đơn vị phát triển vào khu Mường Thanh.
https://thuviensach.vn
CHẶNG ĐƯỜNG MƯỜI NGHÌN NGÀY
Hoàng Cầm
www.dtv-ebook.com
Chương 5: Phần 2
Đang trong thế thuận lợi bỗng gặp phải hỏa lực trọng liên của địch từ bên kia cầu bắn sang rất dữ, không phải một khẩu mà là nhiều khẩu.
Đây lại là một bất ngờ, do việc nắm địch của chúng tôi chưa chắc. Đã đến lúc này không để tái diễn như đêm qua (6/5). Dù có hy sinh cũng phải quyết tâm vượt qua, phải diệt ngay cái ổ đề kháng quái ác này.
Nghĩ như vậy, tôi lệnh cho Tạ Quốc Luật nhanh chóng diệt trận địa đại liên địch, tạo thuận lợi cho các đơn vị tiếp tục phát triển vào khu trung tâm. Mười lăm phút sau tiếng súng đại liên của địch tắt hẳn, cùng lúc tôi nhận được báo cáo qua máy điện thoại, ta đã diệt được khẩu đại liên bốn nòng do một tên lính ngụy trạc hơn bốn mươi tuổi điều khiển.
Tôi cắt ngang báo cáo:
- Tên lính này còn sống không?
- Báo cáo còn, đơn vị đã giải thích chính sánh khoan hồng cho y. - Khai thác chưa?
- Báo cáo đã.
- Cái gì, nó đã khai những gì?
- Báo cáo? Nó chỉ hầm Đờ Cát cách đây khoảng trên hai trăm mét. - Đúng không?
https://thuviensach.vn
- Dạ, đúng, phía ấy thấp thoáng có cờ trắng vẫy.
Tim tôi đập nhanh vì sung sướng. Tôi muốn reo lên chia vui với mọi người: Mục tiêu cuối cùng của chiến dịch đã tới gần!
Tôi lệnh cho Tạ Quốc Luật phải phát triển tới đó ngay, tìm mọi cách bắt sống tướng Đờ Cát.
17 giờ, trời còn sáng, tên lính điều khiển khẩu đại liên bốn nòng khai đúng, sở chỉ huy trung tâm của địch hiện rõ trước mắt các chiến sĩ đại đội 360, Tạ Quốc Luật dẫn một tiểu đội bứt lên trước đứng trên nóc hầm và kêu gọi tướng Đờ Cát đầu hàng (Tạ Quốc Luật biết tiếng Pháp).
Vài phút sau tướng Đờ Cát và toàn ban tham mưu của ông ta thành hàng dọc hai tay giơ khỏi đầu từ cửa hầm lần lượt đi ra.
Nhận được tin do Tạ Quốc Luật báo cáo về, tôi vui sướng quá tim như muốn bung khỏi lồng ngực. Tay run run cầm máy điện thoại báo cáo tin vui này về bộ chỉ huy đại đoàn, đồng thời tôi lệnh cho chính trị viên tiểu đoàn 130 Trần Quân giải ngay Đờ Cát về sở chỉ huy trung đoàn.
Toàn thể ban chỉ huy Trung đoàn 209 có mặt đầy đủ để tiếp nhận sự đầu hàng của tướng Đờ Cát và toàn bộ ban tham mưu của tập đoàn cứ điểm.
Tại đây tôi có hỏi cung tướng Đờ Cát qua đồng chí Nho Khôi đội trưởng trinh sát của trung đoàn dịch (Nho Khôi có bằng tú tài, nói tiếng Pháp rất khá).
Mở đầu tôi hỏi:
- Tại sao các ông thua?
- Vì chỉ huy các phân khu ngoại vi để mất. - Đờ Cát trả lời.
https://thuviensach.vn
- Khu trung tâm Mường Thanh do ông trực tiếp chỉ huy sao cũng để mất?
Đờ Cát đầu hơi cúi, ngượng ngùng, vài giây sau mới trả lời:
- Ngày 6 và sáng 7 tháng 5 chúng tôi trù liệu tổ chức hai lực lượng rút chạy sang Lào.
- Sao không thực hiện.
- Không có một binh lính và sĩ quan nào tin là kế hoạch của chúng tôi thực hiện được.
- Tại sao ông lại cho máy bay thả truyền đơn thách thức tướng Giáp? - Tôi không làm việc này!
- Sao lại có truyền đơn? - Vừa hỏi, tôi vừa chuyển cho Nho Khôi tờ truyền đơn đưa cho Đờ Cát xem dưới có ký tên ông ta.
Đờ Cát nhún vai, tỏ vẻ khinh bỉ:
- Thưa ông, đây là Hà Nội tự làm.
- Trước khi rời khỏi hầm chỉ huy ông có báo tin này cho Hà Nội không? - Tôi có báo cho Hà Nội: “Thế là hết!”
- Hà Nội trả lời thế nào?
- Na-va thỏa thuận cho đầu hàng nhưng “không phất cờ trắng”(!) - Các ông thực hiện sự đầu hàng thế nào?
- Thưa ông nếu không có dấu hiệu cờ trắng thì chúng tôi đâu còn tồn tại đến giờ này. - Ông ta lại cúi đầu kèm theo là tiếng thở dài với vẻ mặt buồn
https://thuviensach.vn
chán, định nói tiếp, nhưng thấy khó.
Hiểu được tâm trạng của viên tướng mang dòng họ quý tộc Pháp, chúng tôi không hỏi nữa.
Trước mặt chúng tôi là toàn ban tham mưu của Đờ Cát với đủ lứa tuổi và hình hài khác nhau, nhưng có chung một dáng vẻ tiều tụy nét mặt hốc hác chán chường, quần áo xộc xệch bẩn thỉu mặc dù tên nào cũng tề chỉnh mang cấp hiệu trên ve áo.
Phút yên lặng trôi nhanh, tôi ra lệnh cho Đờ Cát báo cáo họ tên, cấp bậc, chức vụ từng người trong ban tham mưu của y.
Tất cả có hơn mười tên, mỗi tên phụ trách một phần việc, hậu cần, chỉ huy bộ binh, xe tăng, lực lượng phản kích, chỉ thiếu có Pi-rốt chỉ huy pháo binh đã tự sát sau khi cụm cứ điểm Him Lam bị mất. Tất cả đều học quân sự cơ bản qua trường võ bị Xanh-xia nổi tiếng của nước Pháp, đều trong quân ngũ lâu năm qua nhiều chiến trận. Đờ Cát-xtơ-ri được xếp loại tá có hạng, trước khi điều lên Điện Biên Phủ đã chỉ huy một trong bảy binh đoàn cơ động chiến lược của quân Pháp ở chiến trường Bắc Bộ, từng chạm trán với chúng tôi ở Vĩnh Yên, Phúc Yên trong chiến dịch Trung Du hồi cuối năm 1950 đầu năm 1951.
Đại tá La-gơ-le bạn thân của Đờ Cát, cũng dòng dõi quý tộc, tham gia chiến tranh thế giới thứ hai, từng chết hụt ở sa mạc Sahara, cưỡi một con lạc đà với khẩu súng trong tay, đâu phải sinh ra để thành con người chiến bại, sang Đông Dương ba lần và bây giờ bị bắt ở Điện Biên Phủ.
Còn Bi-gia đã chỉ huy tám trăm quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ vào sáng ngày 20/11/1954, khi vừa mới tan sương mù. Bi-gia cũng được xem là thành viên của ban tham mưu mặc dầu cấp bậc thấp nhất, nhưng được Đờ Cát tin cậy, phong cho cái chức “tổng chỉ huy các lực lượng phản kích”.
https://thuviensach.vn
Con “người hùng” này có cái may mắn, chục năm sau được nhận chức Bộ trưởng Quốc phòng Pháp. Tuy nhiên những gì là thảm kịch ở Điện Biên Phủ, Bi-gia vẫn không quên, vẫn kể rất đầy đủ khi nhà báo Mai-kơn Mắc lia đến ngỏ ý định viết thiên ký sự “Cuộc chiến tranh mười ngàn ngày”. Từ sau đợt hai của chiến dịch bắt đầu, quân sĩ hoang mang, những trận phản kích giảm dần, thì tổng chỉ huy các lực lượng phản kích Bi-gia thường ngày chi còn làm một việc chỉ huy trấn an tư tưởng: “Tôi vẫn nói cho binh sĩ tôi, chúng ta cố giữ lâu được một ngày nữa. Rồi người Mỹ sẽ đến!”
Và Bi-gia kể tiếp cái ý định cố gắng tuyệt vọng cuối cùng rút sang Lào định thực thi vào sáng 7 tháng 5 như sau: “Chúng tôi nhặt nhạnh vài vị chỉ huy tiểu đoàn và bàn đến việc tháo chạy. Họ nói: Không, không còn cái giá nào lúc này nữa đâu. Chúng tôi có thể chết xứng đáng. Chúng tôi làm sao mà có thể ra khỏi đây nổi một trăm mét thôi! Đờ Cát-xtơ-ri báo cho Hà Nội: ‘Thế là hết!’ Na-va trả lời qua máy vô tuyến điện thanh: ‘Đừng giơ cờ trắng, chỉ ngừng chiến đấu thôi!’”
Như vậy, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi vào lúc 17 giờ ngày 7/5/1954, khi Trung đoàn 209 chúng tôi tiến vào sở chỉ huy trung tâm Mường Thanh, bắt sống tướng giặc Đờ Cát-xtơ ri cùng toàn ban tham mưu của ông ta.
Lòng chảo Điện Biên Phủ bị hun nóng suốt năm mười lăm ngày đêm nay bắt đầu nguội vào lúc thời điểm đã chuyển vào hoàng hôn, mặt trời ngả dần sang phía tây - sắp khuất sau những dãy núi và chuyển sang bóng đêm
quen thuộc. Nhưng đêm nay là đêm hội chiến thắng. Từ khắp nơi, các đơn vị đổ về Mường Thanh, đủ thứ thắp sáng để mừng chiến thắng.
Mường Thanh tấp nập, chật ních những người. Hàng binh kéo ra, quân ta đổ vào, cả sở chỉ huy của tướng Đờ Cát đầy ắp người cũng như ngoài cánh đồng Điện Biên còn nguyên những khẩu pháo đang nằm rải rác.
https://thuviensach.vn
Nhưng mắt tôi vẫn dán mãi vào lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” do chiến sĩ Nguyễn Văn Minh dưới sự chỉ huy của Tạ Quốc Luật đại đội trưởng đại đội 360 vừa cắm lên nóc hầm Đờ Cát đang bay phần phật bởi một cơn giông bất chợt.
Sau ngày 7/5/1954 lịch sử, tôi vinh dự được Bộ chỉ huy Mặt trận cử làm trưởng đoàn chiến sĩ thi đua của Mặt trận về báo cáo thắng lợi vĩ đại này với Đảng, Chính phủ và Bác Hồ kính yêu.
Chúng tôi mang theo về các thứ huân chương, lon thiếu tướng của Đờ Cát, một lá cờ Pháp đã rách, một cái máy thu thanh nhỏ Đờ Cát đã dùng. Khi ra trận thì đi bộ, mang vác nặng nề, trèo đèo lội suối, luồn rừng vất vả, khi về thì rong ruổi “ngựa xe” - một chiếc xe tải quân sự do đồng chí Thông lái, cũng đã sướng lắm rồi. Tuy vậy cũng phải mất ngót tuần lễ chúng tôi mới về tới hậu phương Việt Bắc.
Dọc đường, lúc nào tôi cũng nghĩ về gặp Bác thì báo cáo với Bác điều gì. Hình ảnh Bác gọi lên báo cáo kế hoạch tiến công Đông Khê trong chiến dịch Biên Giới lại hiện về.
Vừa đến cơ quan Tổng cục Chính trị, anh Nguyễn Chí Thanh tổ chức đón đoàn chúng tôi rất trọng thể, có dựng cổng chào, kết hoa trên đường vào cơ quan. Và anh bố trí cho chúng tôi được nói chuyện ngay với Bác qua điện thoại.
Tôi vui sướng và thực sự hồi hộp:
- Báo cáo Bác, cháu phụ trách đoàn chiến sĩ thi đua từ mặt trận Điện Biên Phủ về mừng sinh nhật Bác.
- Ai bảo các chú bày vẽ việc này? - Bác nghiêm nghị hỏi.
Tôi đang ấp úng không biết trả lời thế nào thì đầu dây bên kia Bác đã gỡ bí:
https://thuviensach.vn
- Chú Hoàng Cầm đấy phải không?
- Vâng ạ! Thưa Bác, cháu là Hoàng Cầm đây ạ!
- Các chú ở trên đó có đói không?
- Báo cáo Bác, không đói nhưng thiếu ạ!
Bác hỏi tiếp:
- Có khổ không?
Anh Nguyễn Chí Thanh đứng gần, vui vẻ nhắc tôi “cứ nói thật với Bác là khổ lắm”.
- Báo cáo Bác, có khổ ạ!
Bác xen vào:
- Các chú có thuốc lào hút không?
- Báo cáo, có ạ!
Xin lưu ý bạn đọc về chuyện thuốc lào ở Điện Biên Phủ, tuy không phải là vấn đề cơ bản trong chiến đấu, nhưng lại là một nhu cầu thực tế không thể thiếu. Bộ đội ta lúc ấy đa số nông dân, nhiều người nghiện thuốc rất nặng, mà nghiện thì “đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”. Không có thuốc hút, người cứ bần thần, chẳng muốn làm gì.
Hiểu nhu cầu tuy nhỏ nhưng không thiếu ấy, Chính phủ và Bác đã chỉ thị cho cơ quan cung cấp ở hậu phương chú ý lo cho bộ đội khoản thuốc lào gửi lên mặt trận, cùng với súng đạn, gạo muối và thuốc men, nhưng do chiến đấu kéo dài, cảnh thiếu thuốc hút vẫn là vấn đề “thời sự” được nhắc đến hàng ngày.
https://thuviensach.vn
Từ đầu dây bên kia, giọng Bác chậm rãi, thân mật, ân cần:
- Bác được tin các chú về thăm Bác, nhưng hôm nay Bác bận họp Hội đồng Chính phủ, chưa gặp được; các chú cứ nghỉ ngơi cho khỏe, chờ họp xong Bác cháu ta sẽ gặp mặt càng vui.
Những điều Bác nói sao mà gần gũi, cảm động đến thế.
Do yêu cầu nhiệm vụ, tôi phải về trước, nên không được gặp Bác. Nhưng sau đó tôi có nhận được huy hiệu của Người gửi tặng.
Sau này, vào dịp Tết dương lịch năm 1964, Bác về thăm Sư đoàn 312, tôi có báo cáo với Bác rằng sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi được Bộ chỉ huy Mặt trận giao nhiệm vụ dẫn đầu đoàn chiến sĩ thi đua về chúc thọ Bác. Bác gật đầu:
- Hôm đó Bác đang bận họp, nên chỉ nói chuyện với chú qua điện thoại.
Tôi thật không ngờ! Một câu chuyện nhỏ đã qua mười năm, mặc dầu bận trăm công nghìn việc mà Bác vẫn nhớ rành rọt như vậy.
Còn tôi vẫn tâm niệm những lời dạy bảo ân cần của Bác qua các chiến dịch, trong chiến công bắt tướng Đờ Cát, đã có lời Bác dạy - quyết tâm không bao giờ thừa đối với bất cứ một trận chiến đấu, một chiến dịch nào.
https://thuviensach.vn
CHẶNG ĐƯỜNG MƯỜI NGHÌN NGÀY
Hoàng Cầm
www.dtv-ebook.com
Chương 6
Ở điểm nút hai chiến lược chiến tranh.
Lòng chảo Điện Biên Phủ nơi mà tướng Na-va tin là sẽ buộc đối phương bị dồn vào cái nơi ta (tức Pháp) sẽ vừa đánh họ được, lại vừa nói chuyện đàm phán trên thế mạnh với họ cũng được, nay đã đảo ngược. Chiến thắng Điện Biên Phủ và hàng vạn tù binh bị bắt sống là cái thế mạnh khi phái đoàn ta đến bàn hội nghị. Sau hơn hai tháng đàm phán, ngày 20 tháng 7 năm 1954 Chính phủ Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Hòa bình đã được lập lại ở Đông Dương trên cơ sở chính phủ Pháp tôn trọng chủ quyền, độc lập thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Thế là sau chín năm chiến đấu gian khổ và anh dũng, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam lần lượt vào tiếp quản những vùng quân Pháp rút đi theo đúng các điều khoản đã được thỏa thuận giữa hai bên Việt - Pháp.
Tháng 9 năm ấy, Sư đoàn 312 chúng tôi nhận lệnh từ Phú Thọ tiến về tiếp quản khu vực Bắc Ninh - Bắc Giang, cùng các đơn vị bạn buộc đối phương phải nghiêm chình thi hành hiệp định, nhanh chóng rút khỏi khu vực cuối cùng miền duyên hải Đông Bắc - Hồng Gai - Quảng Yên - Hải Phòng.
Các đơn vị trong sư đoàn lần lượt hành quân qua Vĩnh Yên, Phúc Yên sang bên kia sông Cầu, sông Đuống. Trước mắt chúng tôi một dải trung du đâu đâu cũng còn đầy vết tích tàn phá của bọn xâm lược. Vệ Linh, Thanh Lại, Đan Tảo, Mễ Thôn và những làng lân cận trong “vành đai trắng” suốt
https://thuviensach.vn
mấy năm liền hoang vắng, hầu như không một bóng người. Giặc Pháp vừa cấm ngăn không cho dân trong vùng đi lại làm ăn, vừa dùng bom đạn cày xới, xua hết dân đi nơi khác. Chúng cố tạo ra ở đây một “ranh giới chết” giữa vùng chúng tạm kiểm soát với vùng tự do của ta nhằm ngăn chặn quân chủ lực ta thâm nhập đồng bằng. Âm mưu thâm độc ấy đã biến hàng vạn héc ta ruộng màu mỡ thành đồng hoang lạnh ngắt.
Nhưng chỉ sau ngày ngừng bắn mấy hôm, “vành đai trắng” đã mất hẳn cái không khí vắng lạnh ghê người. Trong các thôn xóm, còn người nào ở lại bám đất đều đổ ra đồng khai hoang phục hóa. Dọc đường số 2, số 3 từ Tuyên Quang, Thái Nguyên đổ về xuôi, từng đoàn người gồng gánh kĩu kịt, lũ lượt hồi cư sau những tháng năm xa quê. Chiều đến, trên những cách đồng rậm rì đùn lên từng cột khói trắng - khói đốt cỏ làm tro bón ruộng. Cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên nóc những nếp nhà tranh vừa dựng lấy chỗ ở tạm. Đây đó đã thấy cất lên tiếng hát rộn ràng, trong trẻo của các cô gái, các cháu nhỏ, hòa lẫn tiếng cuốc đất phát cỏ nhộn nhịp ngoài đồng.
Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, đã đưa cách mạng nước ta sang giai đoạn mới.
Miền Bắc giải phóng đang bước vào thời kỳ hòa bình khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục.
Từ nhận thức chức năng của quân đội là chiến đấu, công tác và sản xuất, Đảng ủy và Bộ tư lệnh sư đoàn họp xác định ngoài nhiệm vụ xây dựng huấn luyện quân sự, các lực lượng của sư đoàn còn có trách nhiệm cùng nhân dân tham gia khôi phục kinh tế ở những nơi khó khăn, cần có lực lượng lao động tập trung trẻ khỏe. Tại nơi đóng quân, các chiến sĩ sư đoàn cùng đồng bào gỡ mìn, dọn dây thép gai trên “vành đai trắng”, quanh các đồn bốt địch, khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích, tát nước chống hạn, đào mương dẫn nước, cải tạo đồng ruộng. Các chiến sĩ của sư đoàn góp sức tham gia khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng, công trình thủy nông Bắc Hưng Hải.
https://thuviensach.vn
Hàng nghìn cán bộ chiến sĩ cửa sư đoàn đã chuyển ngành đi tham gia xây dựng khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo (Hà Nội), sứ Hải Dương, khu công nghiệp Việt Trì, mỏ a-pa-tít Lao Cai, cho đến
các nông trường Mộc Châu, Sơn La, Điện Biên Phủ và tham gia xây dựng sân bay Nội Bài.
Từ năm 1958, các đơn vị trong sư đoàn lần lượt bỏ công sức, trí tuệ tự xây dựng doanh trại của mình. Dọc đường quốc lộ số 2 từ Đa Phúc đến Phổ Yên, Lương Sơn, Lưu Xá, Phú Bình (Bắc Thái) trên những quả đồi hoang lúp xúp những cây sim mua cằn cỗi trước đây nay mỗi ngày lại có thêm khu nhà mới, mái ngói đỏ tươi tường vôi trắng xóa. Cuộc sống quân ngũ cũng có những thay đổi mới. Đã có sự thanh bình êm ả, có tối thứ bảy và ngày chủ nhật thư nhàn, thoải mái, có nơi tiếp đón gia đình lên thăm, có phòng riêng nhỏ xinh cho đôi vợ chồng trẻ hưởng tuần trăng mật. Đã có chế độ nghỉ phép và sĩ quan hết giờ làm việc được về ăn nghỉ tại nhà riêng gần khu doanh trại. Niềm vui lâng lâng mà sâu đậm ấy, rõ nét ấy, vây quanh và thâm nhập vào mình mà vẫn cứ ngỡ ngàng, vì cách đó ít lâu, những người lính chúng tôi phải vượt qua bao gian khổ, chịu đói, chịu rét vượt qua sông Thao đánh vào tuyến phòng thủ sông Đà của địch, vượt qua đèo Pha Đin tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, mấy ai nghĩ có ngày hôm nay.
Riêng tôi đã lập gia đình và sinh được năm cháu. Ngoài bận rộn công việc của một sư đoàn trưởng kiêm bí thư Đảng ủy sư đoàn, cũng đã có điều kiện hòa nhập vào cuộc sống đời thường với đủ thứ ước mơ khát vọng rất xa mà cũng rất gần. Có lúc thư nhàn nói chuyện thật riêng của hai người, có phút giây âu yếm cưng nựng con, thủ thỉ bao hy vọng khi con khôn lớn. Có giờ thanh thản nghe ca nhạc và sân khấu truyền thanh, cùng vợ con đến nhà hát xem biểu diễn văn nghệ, xem phim tình yêu.
Và có những chuyến nghỉ phép về thăm quê nội, quê ngoại, gặp mặt làng xóm, người thân hàn huyên kỷ niệm xưa.
https://thuviensach.vn
Những ngày thanh bình như thế đến với chúng tôi thật ngắn ngủi. Có một suy nghĩ khác, cuộc sống khác bắt đầu hình thành từ năm 1960, đan xen vào các công việc thường ngày, cứ tăng dần theo thời gian. Trong sinh hoạt chính trị đã có vấn đề nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu; trong xây dựng thao trường huấn luyện, kết cấu tưởng định diễn tập tham mưu và diễn tập thực binh đều đưa xen thực tế chiến trường miền Nam để cán bộ, chiến sĩ tập xử lý.
Mùa xuân 1963 chúng tôi được sống lại với không khí chuẩn bị chiến đấu năm xưa. Ngoài kia thị trấn Phổ Yên vẫn êm ả, con đường xe hỏa Hà Nội - Quán Triều song song với đường số 3 là cảnh “ngựa xe như nước”, thì trong doanh trại sư đoàn bộ đang tính toán kế hoạch hành quân, đưa một tiểu đoàn mạnh gồm sáu trăm cán bộ, chiến sĩ bí mật vượt sông Bến Hải vào tham gia chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên. Mùa xuân 1964, tiểu đoàn thứ hai của sư đoàn nhận nhiệm vụ vào chiến đấu tại chiến trường Khu 5.
Ngày 1/1/1964 Bác Hồ về thăm sư đoàn. Trước lúc ra về Bác ghi vào sổ vàng truyền thống của đơn vị:
“Toàn sư đoàn có nhiều tiến bộ. Chúc năm mới, Bác dặn mấy điểm:
1. Ra sức làm tròn nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và tham gia đấu tranh thống nhất nước nhà.
2. Thi đua thực hiện cuộc vận động xây dựng quân đội năm 1964.”
Chúng tôi đặc biệt chú ý đến điều Bác dặn, “luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho”.
Ngày 27/3/1964, Bác Hồ triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt, động viên toàn dân đoàn kết một lòng kiên quyết chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cùng ngày Đảng bộ sư đoàn chúng tôi họp đại hội lần thứ tư, tất cả đều nhất trí xác định toàn sư đoàn chuẩn bị đầy đủ mọi mặt, sẵn sàng lên đường chiến đấu.
https://thuviensach.vn
Đến lúc này cuộc sống hòa bình chỉ còn giữ lại ở cái dáng vẻ bề ngoài, chúng tôi thực sự đã bước vào trạng thái thời chiến.
Với cán bộ cao cấp chúng tôi, thì ngay từ năm 1955 đã được chuẩn bị tư tưởng về một cuộc chiến đấu mới đang được bắt đầu.
Trong các cuộc hội nghị quân chính, các đợt tập huấn và diễn tập tham mưu, được các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đến thăm hỏi động viên, nói chuyện, giao nhiệm vụ. Sau những lần như thế, trong nếp nghĩ của chúng tôi hình thành ngày một sáng rõ: Về chức năng nhiệm vụ của quân đội là ở chiến trường, mà chiến trường lúc ấy là miền Nam thân yêu đang bị bọn xâm lược Mỹ và tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm thống trị.
Riêng tôi đầu năm 1963 được trên đưa vào danh sách đi B(1) đợt đầu nhưng vì bị viêm dạ dày cấp nên tạm ở lại đi đợt sau.
(1) Đi vào miền Nam.
Từ đây tôi đã thực hiện một kế hoạch do mình đặt ra, là theo dõi sát sao tình hình chiến sự ở miền Nam, qua đó có thể rút ra bài học bổ ích. Đọc báo, nghe đài, qua các bản tin lưu hành nội bộ tôi thấy lực lượng của ta ở trong đó đánh cấp tiểu đoàn, trung đoàn còn ít, càng chưa thấy đánh địch nhiều trong công sự vững chắc. Hẳn là phải có nguyên nhân, nhưng làm sao mà biết được.
Qua hiện trạng này tôi tự nhủ, mình cần tìm đọc nhập tâm các tài liệu giáo khoa quân sự, tổng kết quân sự, hình thành hệ thống trong đầu óc các vấn đề, khi được vào phổ biến lại cho anh em trong đó vận dụng, may ra có ích.
Tháng 10 năm 1964, sau lần được dự buổi Bác Hồ gặp mặt thân mật số cán bộ cao cấp trước khi lên đường vào Nam chiến đấu ở nhà khách Bộ Quốc phòng 33 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội, ý thức sống thời chiến trong tôi càng trỗi dậy mạnh mẽ.
https://thuviensach.vn
Hôm đó anh Tố Hữu được Bác giới thiệu đọc bài thơ “Hãy nhớ lấy lời tôi” mà anh vừa sáng tác. Mọi người như được tiếp thêm lửa qua các vần thơ mà đến nay tôi vẫn nhớ:
“Anh đã chết, Anh Trỗi ơi có biết,
Máu kêu máu, ở trên đời tha thiết!
Du kích quân Ca-ra-cát đã vì Anh.
Bắt một tên giặc Mỹ giữa đô thành.
Anh đã chết, Anh chẳng còn thấy nữa.
Lửa kêu lửa, giữa miền Nam rực lửa.”
Từ buổi được gặp Bác, trở về sư đoàn tôi vẫn tiếp tục chuẩn bị một cách âm thầm nhưng cụ thể hơn, tích cực hơn.
Ngày nào tôi cũng dậy trước bốn giờ sáng tập đeo gạch đi từ Phổ Yên lên Đồng Quang và ngược lại, cứ thế kéo dài suốt hai tháng, thành quy luật, khiến công an huyện Phổ Yên sinh nghi, vào sư đoàn hỏi:
- Hình như trong đơn vị các anh có người mang hàng lậu? - Không có. - Đồng chí trực ban trả lời.
- Nhưng sáng nào cũng có người từ sư đoàn đi ra, đeo vật gì rất nặng.
- À đúng rồi, đấy là đại tá tư lệnh Hoàng Cầm tập hành quân mang nặng để chuẩn bị đi B đấy.
- Sao các anh không cho địa phương biết? - Đồng chí công an hỏi tiếp. - Nếu thế thì còn gì là bí mật quân sự nữa.
https://thuviensach.vn
Đoạn đối thoại trên do đồng chí trực ban thuật lại khi tôi vừa kết thúc buổi tập trở về.
Cuối tháng 12 là mùa chuyển quân lý tưởng, nhưng với tôi vẫn không thấy động tĩnh gì.
Không nản, tôi vẫn tiếp tục tập luyện theo chương trình đã định. Một hôm thấy tôi trở về, mồ hôi đẫm áo, vợ tôi vừa cười vừa trêu: - Ế rồi! Hàng kém phẩm chất, không ai dùng đâu!
https://thuviensach.vn
CHẶNG ĐƯỜNG MƯỜI NGHÌN NGÀY
Hoàng Cầm
www.dtv-ebook.com
Chương 7
Vào trận.
Ấy là vào lúc quá nửa đêm ngày 10/1/1965, có tiếng gõ cửa và tiếng gọi quen thuộc của đồng chí cảnh vệ.
Tôi dậy mở cửa thì có cả người thứ hai cùng đồng chí cảnh vệ bước vào. Đồng chí thiếu tá trang phục gọn gàng mang theo cả súng ngắn K59, dáng vẻ khẩn trương vừa giới thiệu mình là người của Cục Cán bộ vừa đưa cho tôi phong thư của anh Vịnh gửi và nói rất gọn với giọng nhấn mạnh:
- Anh Vịnh(1) cho tôi đưa xe lên đón anh về Hà Nội trước bốn giờ sáng.
(1) Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, Trưởng ban Thống nhất Trung ương Đảng.
Đọc thư anh Vịnh được biết các anh trong Thường trực Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ định tôi đi B. Giờ giấc có mặt ở Hà Nội như đồng chí thiếu tá đã báo.
- Không phải chuẩn bị gì? - Tôi hỏi đồng chí thiếu tá.
- Báo cáo anh, mọi thứ Bộ Tổng Tham mưu đã chuẩn bị đầy đủ.
Nhìn đồng hồ lúc này chứa đến hai giờ, tôi gọi vợ dậy báo tin, thì nhận được phản ứng tưởng tôi nói đùa.
- Bao nhiêu ngày chuẩn bị đều không đến lần, nay nửa đêm lại đi có mà hâm. - Rồi vợ tôi như đắc thắng hỏi dồn. - Ai gọi anh?
https://thuviensach.vn
Tôi ôn tồn nói:
- Đi thật mà, có lệnh đây - thư anh Vịnh cho người mang lên.
Đọc xong thư, đột ngột và xúc động vợ tôi khóc hơi to, phá cái yên tĩnh trong căn nhà, khiến chị gái tôi từ quê vừa lên thăm cháu khi chiều ngủ ở phòng bên thức giấc hỏi:
- Có gì mà cậu mợ to tiếng thế?
Cả cháu gái Hà cũng thức dậy chạy đến bên tôi, hỏi:
- Bố mẹ đánh nhau hay sao mà khóc.
Rồi cháu tung tăng chạy ra ngoài xem, vội vào ngay, ngây thơ reo lên:
- Không phải xe của đơn vị bố đâu. Xe này đẹp lắm, bố đi công tác nước ngoài hả bố?
Yên tĩnh đã trở lại, tôi nói với vợ:
- Gấp rồi, em có gì chuẩn bị cho anh lên đường không?
Vợ tôi bối rối và lúng túng, rồi chợt nghĩ nhanh:
- À, có cái này. - Vợ tôi vừa nói vừa đến bàn mở lồng bàn reo lên. - Có chân giò luộc sẵn, anh mang đi ăn đường.
Vừa nói vợ tôi vừa lấy giấy gói chân giò bỏ vào túi xách của tôi. (Khi vào Nam thuật lại chuyện này, anh em tặng cho cái tên Năm Giò heo sau đổi thành Năm Thạch - Thạch là tên con trai đầu của tôi.)
- Ăn sao được, mà có đói đâu!
Vợ tôi buồn, thất vọng lại càng lúng túng, bất lực.
https://thuviensach.vn