🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chân Trần, Chí Thép Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP Tác giả: James G. Zumwalt Người dịch: Đỗ Hùng Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh Nguồn: Vnmilitaryhistory Biên tập: Văn.Cường Tạo ebook: tran ngoc anh https://thuviensach.vn Giới Thiệu Câu chuyện của Trung tá Thủy quân Lục chiến - James G. Zumwalt - con trai Đô đốc chỉ huy trưởng lực lượng Hải quân Mỹ tại Việt Nam. James G. Zumwalt – Xuất thân trong một gia đình có truyền thống binh nghiệp, cựu Trung tá Thủy quân Lục chiến James Zumwalt từng chiến đấu tại Việt Nam, tham gia cuộc can thiệp quân sự của Mỹ Panama năm 1989 và Chiến dịch Bão táp Sa mạc tại vùng Vịnh, Iraq năm 1990 – 1991. Ông là con trai của Đô đốc Elmo Russell Zumwalt, Jr., Tư lệnh Hải quân Mỹ đặc trách lực lượng duyên hải và đường sông thời Chiến tranh Việt Nam. Tư lệnh Elmo Zumwalt, sau này là Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ, chính là người đã phát động chiến dịch rải chất độc hóa học tại Việt Nam trong suốt một giai đoạn rất dài của cuộc chiến, để lại nhiều di họa cho đất nước Việt Nam cũng như nước Mỹ và chính gia đình ông. Sau quãng đời binh nghiệp, ông James Zumwalt trở thành một diễn giả, tác giả của hàng loạt bài viết về quân sự và chính sách đối ngoại trên các báo và tạp chí nổi tiếng của Mỹ như USA Today, The https://thuviensach.vn Washington Post, The New York Times, The Washington Times, The LA Times, The Chicago Tribune, The San Diego Union, Parade… Ông hiện là chủ tịch công ty tư vấn an ninh mang tên cha mình – Admiral Zumwalt & Consultants, Inc. James Zumwalt viết: BARE FEET, IRON WILL (CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP) sau những chuyến trở lại Việt Nam, gặp, phỏng vấn và trò chuyện thẳng thắn với những người từng đứng bên kia chiến tuyến. Cuốn sách xuất bản ở Mỹ vào ngày 26/4/2010 đã tạo ra tiếng vang lớn và thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận Mỹ. Cuốn sách này dành tặng: — Anh trai tôi, Elmo, người đã xung phong sang Việt Nam với tinh thần trách nhiệm, danh dự và xả thân, để rồi phải mất sớm vì chính những mầm độc từ cuộc chiến ấy. — 58.000 người Mỹ đã bỏ mình trong cuộc chiến tranh Việt Nam. — Gần một triệu chiến binh Bắc Việt và Việt Cộng, những người đã chiến đấu vì một nước Việt Nam thống nhất, đã trải qua bao gian khó, khổ đau, bi kịch và hy sinh trong hành trình đến chiến thắng cuối cùng. — 254.000 quân nhân miền Nam Việt Nam đã chiến đấu bên cạnh người Mỹ. — Khoảng hai triệu công dân Việt Nam, những người tham chiến hoặc là nạn nhân của cuộc chiến tại Việt Nam, đã chấp nhận trả giá với niệm hy vọng một ngày mai các thế hệ con cháu có thể sống tự do, sau những đau khổ của cha ông. — Con gái Thea, với một tình yêu bất tận đã mang đến cho đời tôi niềm vui và niềm hạnh phúc tuyệt vời, mà ngay chính con cũng không nhận ra. — Con trai James, người đã tiếp nối truyền thống gia đình về trách nhiệm, danh dự và hy sinh cho đất nước, bất chấp nguy nan, đã mạo hiểm cả cuộc sống và một phần thân thể của mình để cứu người khi làm nhiệm vụ vô hiệu hóa vật nổ trên chiến trường trong thời đại mới. — Vợ tôi, Karin, người đã cho tôi biết ý nghĩa về sức mạnh của tình yêu và tiến trình hàn gắn, người vẫn còn đang tiếp thêm cho tôi nghị lực. — Mẹ tôi, người đã chịu đựng sự khắc nghiệt của chiến tranh trong những thập niên đầu đời khi mất đi thân phụ và về sau còn mất đi một đứa con trai vì chiến tranh. — Cha tôi, người với tấm gương chân thực của chính mình đã dạy cho tôi về bổn phận, danh dự và tinh thần hy sinh cho Tổ quốc. “Một số ý kiến của chính quyền Mỹ cho rằng nếu tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam một cách hợp lý, không có áp lực chính trị, thì người Mỹ đã chiến thắng. Trước khi trở lại Việt Nam vào năm 1994, tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng giờ đây tôi đã nghĩ khác. Chuyển biến trong tôi chỉ diễn ra sau khi tôi thấu hiểu được rằng người Việt Nam có một ý chí sắt đá để có thể chiến đấu đến chừng nào đạt được mục tiêu thống nhất đất nước mới thôi. Không nơi nào mà quyết tâm được thể hiện rõ như thái độ những người sống và chiến đấu dọc Đường mòn Hồ Chí Minh và địa đạo Củ Chi. Hiểu được quyết tâm duy trì Đường mòn cũng như bám trụ tại địa đạo Củ Chi chính là hiểu được “chí thép” của họ. Đó chính là ý chí thép đặc trưng và rất đặc biệt của người Việt Nam, vốn đã thôi thúc họ tiến lên để giành chiến thắng trong cuộc chiến trước người Mỹ - cuộc chiến mà nước Mỹ thiếu một quyết tâm tương xứng.” James G. Zumwalt https://thuviensach.vn LỜI TỰA CỦA THƯỢNG TƯỚNG PHAN TRUNG KIÊN Tôi đang cầm trên tay cuốn sách đặc biệt về cuộc chiến chống Mỹ thần kỳ của dân tộc. Nó đặc biệt vì chính tựa sách Chân trần Chí thép được đặt bởi một Trung tá Thủy quân Lục chiến Mỹ - Nay trở thành một người bạn thân thiết trong quá trình hòa giải và hàn gắn những nỗi đau thời hậu chiến, thúc đẩy quá trình thấu hiểu, hợp tác và hàn gắn vết thương chiến tranh giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Tác giả cuốn sách James G. Zumwalt là con trai của Zumwalt Tư lệnh Hải quân Mỹ - Chỉ huy trưởng lực lượng Hải quân Mỹ, là người đã ra lệnh rải chất độc da cam tại Việt Nam và chính con trai đầu của ông đã chết vì chất độc da cam. Đọc cuốn sách tôi có cảm nhận như sống lại thời chiến tranh chống Mỹ hào hùng của dân tộc. Những chi tiết quý báu, tư liệu phong phú, và nhận xét độc đáo của tác giả qua gần 200 cuộc phỏng vấn tại Việt Nam đã cho người đọc những câu chuyện sống động về ý chí kiên cường của thế hệ cha anh đã quyết lòng hy sinh vì độc lập tự do cho dân tộc. Tôi khâm phục sự trung thực và dũng cảm của tác giả khi bộc lộ những cái nhìn khác biệt với quan điểm thù hận thời tuổi trẻ của ông, và ở chính quyền Mỹ hồi đó. Thật không dễ để viết một cuốn sách thẳng thắn và sâu sắc như vậy. Tác giả đã cảm nhận ngoài ý chí kiên cường trong chiến đấu, Việt Nam là một dân tộc yêu chuộng hòa bình và mong muốn làm bạn với tất cả các dân tộc khác. Tôi tin rằng sẽ còn nhiều cuốn sách và tấm lòng từ những cựu chiến binh khác, vì quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã và đang thực sự trải nghiệm qua một giai đoạn mới. Công ty First New – Trí Việt đã kịp thời dịch cuốn sách này sang tiếng Việt, kỉ niệm ngày Giải phóng miền Nam để các thế hệ Việt Nam hôm nay hiểu rõ hơn sự anh dũng sáng tạo và ý chí sắt thép vô song đã làm nên chiến thắng của dân tộc. Tôi tin rằng ý chí kiên cường ấy sẽ vận động tích cực đưa đất nước chúng ta tiến lên mạnh mẽ trong thời đại ngày nay và tương lai. Hà Nội 30-3-2011 Thượng tướng Phan Trung Kiên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng CHXHCNVN Anh hùng LLVTND https://thuviensach.vn CUỐN SÁCH CỦA SỰ THỰC VÀ CHÍNH TRỰC Tôi thật xúc động khi đọc CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP vì tôi cảm nhận cuốn sách thực sự được viết bằng cả trái tim và lòng khát khao đi tìm chân lý và sự thật của tác giả - Trung tá Thủy quân Lục chiến James G. Zumwalt, người đã trực tiếp tham chiến ở chiến trường Việt Nam và người anh trai là Trung úy Elmo đã chết vì nhiễm chất độc da cam do chính cha mình – Tư lệnh Hải quân Mỹ Zumwalt đã ra lệnh rải chất độc khai hoang xuống chiến trường Việt Nam. Cũng như quyển Không Thể Chuộc Lỗi của Allen Hassan, thật hiếm khi đọc được cuốn sách hay và sống động như thế này do một cựu chiến binh Mỹ viết. Cuốn sách cung cấp cho chúng ta một cái nhìn khác qua lăng kính của một người ở bên kia chiến tuyến về những con người Việt Nam CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP, qua đó giúp bạn đọc hiểu thêm về ý chí kiên cường, tính mưu trí sáng tạo của thế hệ cha anh chúng ta trong cuộc chiến tranh giành độc lập. Mỗi trang sách đều toát lên tính nhân bản sâu sắc, tình thương yêu và sự cảm thông giữa con người với con người – cao hơn mọi định kiến, thù hằn. Tôi cảm ơn và trân trọng tình cảm mà tác giả dành cho mảnh đất và con người Việt Nam như một nỗ lực dứt bỏ nỗi ám ảnh của cuộc chiến tranh Việt Nam, nơi tác giả đã trực tiếp tham chiến và chứng kiến những vết thương mà cuộc chiến khốc liệt gây ra đã in hằn trong lịch sử cả hai dân tộc. Đây thật sự là một cuốn sách có giá trị và đáng đọc – để thấu hiểu thêm một thời máu lửa hào hùng của dân tộc – và chúng ta không được quên – về sự tàn ác của chiến tranh, và cái giá phải trả để giờ đây chúng ta có được những năm tháng của ngày hôm nay. Trung tướng Lê Thành Tâm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh https://thuviensach.vn LỜI GIỚI THIỆU Khi James G. Zumwalt viết “Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến duy nhất mà người Mỹ đối đầu với người Việt Nam. Để đảm bảo rằng bi kịch ấy không lặp lại, chúng ta cần phải thấu hiểu lẫn nhau. Bàn đạp để thực hiện điều đó là hai bên cần phải hiểu biết lẫn nhau hơn và thấu hiểu hơn nỗi chịu đựng của nhau”, thì có nghĩa là ông đã có cách lý giải thỏa đáng nhất của mình về cái mà ông coi là “vết hằn không bao giờ phai mờ cho nước Mỹ”. Việc đối diện với “cuộc chiến nội tâm” phải chăng là một cách để thế hệ cựu chiến binh ấy thừa nhận sự ám ảnh của di sản? Chỉ biết rằng, nếu cách đó đồng thời tạo ra cảm hứng cho một cuốn sách quý thế này thì đáng trân trọng biết bao! Tác giả của cuốn sách vốn xuất thân trong một gia đình truyền thống binh nghiệp, lại có hành trang thực tiễn của cả cha và con cùng là cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam, do đó những trang viết của James G. Zumwalt có nhiều sức thuyết phục bởi sự chân thực và cả những ám ảnh phải chịu đựng qua năm tháng thôi thúc ông đi-tìm-hiểu-viết. Ông viết với động cơ “để sai lầm trong cuộc chiến tranh tai Việt Nam không bao giờ xẩy ra với các thế hệ người Mỹ trong tương lai”, chứ không nhằm “đưa ra một phát ngôn chính trị”. Mặc dù thế người đọc vẫn thấy ở đoạn kết có những dòng cảm xúc vượt quá khuôn khổ cá nhân một nhà báo: “Có lẽ sai lầm lớn nhất của chúng ta tại Việt Nam là đã không nhận ra rằng chúng ta đang chiến đấu với “thế hệ vĩ đại nhất” của đất nước này – một thế hệ với quyết tâm thống nhất và duy trì sự tồn tại của dân tộc sẵn sàng đứng lên đánh đuổi hết quân ngoại xâm này đến quân ngoại xâm khác”. James G. Zumwalt muốn triết lý rằng trong chiến tranh “Tính phổ quát” là một nguyên tắc đơn giản, “nó thừa nhận khổ đau là một phạm trù phi chiến tuyến, để từ đấy, một khi cuộc chiến kết thúc, một mảnh đất màu mỡ có thể được cày xới để gieo lên hạt giống của tình hữu nghị. Đó là một nguyên tắc mà tôi, khi đang trải qua bi kịch cá nhân, đã không nhìn thấy được”. Như thế tôi tin đây không phải là cuốn sách duy nhất của ông về đề tài này và sẽ có nhiều cuốn sách hay nữa của nhiều người có “bi kịch” về Việt Nam, làm cầu nối cho sự thông hiểu và thiết lập tình hữu nghị. Với cuốn sách mang tên rất Việt Nam và sớm được Công ty First New – Trí Việt dịch ra tiếng Việt, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, thông điệp mà James G. Zumwalt mang đến là cho nhiều người thuộc cả nhiều bên chiến tuyến xưa, rằng: “tinh thần dân tộc và lòng tự hào luôn bùng cháy, thổi lên trong lòng mỗi người dân Việt Nam quyết tâm đánh đuổi ngoại bang. Tinh thần dân tộc, lòng tự hào và quyết tâm ấy phát triển thành một sức mạnh vĩ đại nhất – một CHÍ THÉP – giúp họ thực hiện được điều tưởng như không thể. Để cuối cùng, CHÍ THÉP đã đánh bại công nghệ của siêu cường hùng mạnh nhất thế giới”. Tôi đọc một mạch CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP, rồi sau đó lại một mạch và một mạch, mặc kệ ngoài kia trời bỏ sáng qua chiều và về khuya tự lúc nào. Như thế không phải cách của một Phó Giáo sư Trưởng khoa Lịch sử, mà là người cựu chiến binh tình cờ gặp lại ở đây những câu chuyện không dứt về đồng đội cũ, chiến trường xưa. Tuy không thích cách gọi “kẻ thù cũ” của ông, nhưng từng câu chuyện của khoảng 200 cuộc gặp cứ nối với nhau thành hiểu biết và cảm thông. Có một cách viết của James G. Zumwalt rất tự nhiên và chân thực, rất hay về bố cục 11 phần khá logic và 29 câu chuyện sống động được chọn dịch trong đó. Tuy có những câu chuyện còn có vẻ dang dở và nhiều ẩn dụ (Chẳng hạn các chuyện: Trong bụng dã thú; Trận chiến kết thúc nhưng cuộc chiến thực sự mới bắt đầu; Chạy tìm sự sống; Bay đến tự do; Sai lầm suýt chết…), nhưng nhìn chung là thú vị và rất thật, có tính điển hình và có cả chiều sâu, chuyện rất vui vì rất “lính”, rất nhân văn vì đó là chuyện của người Việt Nam trong chiến tranh yêu nước. Chính James G. Zumwalt qua sách này cũng đã góp “cái nhìn mới về cuộc chiến”. Đọc CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP như đang xem lại cuốn phim với đầy đủ những gam màu chân thực của cuộc sống thời chiến ở Trường Sơn, địa đạo Củ Chi, ở hai miền Nam – Bắc Việt Nam những năm gian khổ, ác liệt, những con người “chân trần” mà có “chí thép” đã sống, chiến đấu và chịu đựng. Chiến tranh đã đi qua mấy chục năm, hơn một thế hệ bấy nay đã và đang hăng say trên những giảng đường, những diễn đàn quốc tế, những vạt rừng, những cánh đồng, những bến cảng, công trường xây dựng… Nhưng không một thế hệ nào được bỏ quên quá khứ trong hành trình đi tới, bởi đó là di sản lịch sử https://thuviensach.vn của mỗi quốc gia dân tộc. Vì thế ta đồng tình với James G. Zumwalt khi ông đã dành những dòng cuối cuốn sách để viết bài thơ “Xin đừng quên” tưởng niệm những người hy sinh trong cuộc chiến vừa qua; và hơn thế, xin đừng quên tất cả những gì mà “Chân trần chí thép” đã hơn một lần nói đến trong cuốn sách hay này. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Thành phố Hồ Chí Minh 4 - 2011 PGS. TS. Hà Minh Hồng Trưởng Khoa Lịch sử, Trường Đại học KHXH & NV – ĐHQG TpHCM https://thuviensach.vn Lời Người Dịch THẤU HIỂU KẺ THÙ Gõ cửa nhà Mẹ Việt Nam Anh hùng Bùi Thị Mè vào một buổi chiều đầu năm, tôi không khỏi e ngại vì câu chuyện mà tôi mang đến gợi nhớ một quá khứ đáng tự hào nhưng đầy đau thương của bà. “Ba lần tiễn con đi. Hai lần khóc thầm lặng lẽ”. Bà Mè đã có hơn hai lần khóc thầm lặng lẽ, có những lúc nước mắt cạn khô trước nỗi mất mát vô bờ khi ba người con trai ngã xuống trên chiến trường gần như cùng lúc. Nhưng nỗi đau vô cùng ấy đã không làm người phụ nữ mảnh mai này gục ngã. Bà vẫn tiếp tục chiến đấu cho tới tận ngày non sông thống nhất. Chính ở những người phụ nữ như bà Mè, cựu chiến binh Mỹ James Zumwalt đã nhìn thấy một CHÍ THÉP. CHÍ THÉP ấy ẩn mình sau những đôi CHÂN TRẦN. Đó chính là sức mạnh đã giúp người Việt Nam vượt qua cuộc chiến kinh khiếp trước một kẻ thù vượt trội về công nghệ vũ khí. Chiến tranh đi qua, kẻ thắng, người bại đều trở về nhà. Nhưng cuộc chiến không kết thúc vào lúc tiếng súng ngưng. Nó vẫn còn tiếp diễn với nhiều người, đặc biệt là những người lính trở về từ chiến trường. Nỗi đau mất đi người thân, đồng đội hoặc một phần thân thể, nỗi ám ảnh về những nghịch cảnh bạo tàn của quá khứ như bóng ma cứ đeo đuổi mãi, khiến cho vết thương tâm hồn ngày càng trầm trọng thêm, khi mà vết thương thịt da đã được chữa lành. Nhiều người Mỹ trở về từ cuộc chiến đã mãi kẹt lại ở quá khứ, với những day dứt, hận thù, ám ảnh mà người ta từng gọi là “Hội chứng Việt Nam”. Ông James Zumwalt, sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống nhiều đời binh nghiệp, có nhiều hơn một lý do để tự giam hãm mình trong cuộc chiến của quá khứ, để cho những thù hận trầm tích theo tháng năm. Trong một thời gian dài, chừng hai mươi năm sau ngày Chiến tranh Việt Nam kết thúc, ông vẫn nhìn về phía Việt Nam, kẻ thù cũ của nước Mỹ và của chính bản thân ông, với một niềm hận thù dai dẳng. Cái chết của người anh trai vì căn bệnh ung thư, hậu quả của phơi nhiễm Chất độc Cam, càng khiến ông Zumwalt nung nấu lòng thù hận, với niềm tin xác quyết rằng chính người Việt Nam đã gây ra cho ông bi kịch gia đình ấy. Thế rồi, từ một chuyến đi khai mở vào năm 1994, cơ hội hàn gắn đã đến, trước hết là cho bản thân ông. Khi tiếp xúc với những con người từng ở bên kia chiến tuyến, mà tới tận lúc bấy giờ ông Zumwalt vẫn chưa nguôi ác cảm, người cựu chiến binh Mỹ dần nhận ra nhiều điều mới mẻ, mà ông gọi là những sự khai mở tâm hồn và nhận thức. Trước chuyến đi, ông chỉ tin rằng cuộc chiến của người Mỹ là chính nghĩa, nỗi đau mà người Mỹ hứng chịu từ cuộc chiến là duy nhất có ý nghĩa, và người Việt Nam phía bên kia chiến tuyến là kẻ thù tàn bạo, phải chịu trách nhiệm trước cuộc thua của người Mỹ và bi kịch gia đình ông. Giờ đây, qua những cuộc tiếp xúc từ các tướng lĩnh cấp cao như Võ Nguyên Giáp, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Huy Phan, tới những người dân thường, từ những trai làng xung phong ra trận tới những phụ nữ một lòng son sắt như bà Bùi Thị Mè, ông Zumwalt đã vỡ ra điều bất khả tri bấy lâu. Ông chợt nhận thấy rằng, nỗi đau mà chiến tranh gây ra không từ một phía nào, đặc biệt là đối với Việt Nam, khi phạm vi chiến cuộc bao phủ lên toàn bộ đất nước này, thì không chỉ các quân nhân và gia đình của họ, mà mọi người dân đều là nạn nhân của cuộc chiến. Một thời gian dài sau chiến tranh, những cựu quân nhân như ông Zumwalt vẫn không hiểu đâu là sức mạnh đã giúp người Việt Nam trong cuộc trường kỳ kháng chiến. Chỉ tới sau chuyến đi khai mở ấy, ông mới ngộ ra: “Một vài ý kiến tại Mỹ cho rằng nếu tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam một cách hợp lý, không có áp lực chính trị, thì người Mỹ đã chiến thắng. Trước khi trở lại Việt Nam vào năm 1994, tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng giờ đây tôi đã nghĩ khác. Chuyển biến trong tôi chỉ diễn ra sau khi tôi thấu hiểu được rằng người Việt Nam có một ý chí sắt đá để có thể chiến đấu đến chừng nào đạt được mục tiêu thống nhất đất nước mới thôi.” https://thuviensach.vn Người Mỹ đã không thực sự có được ý chí ấy khi họ bước vào cuộc chiến. Họ đã không được chuẩn bị như phía Việt Nam. Đối với mỗi quân nhân Mỹ, mỗi ngày trôi qua có nghĩa là thời gian quân ngũ của họ được rút ngắn bớt một ngày. Đối với người Việt Nam, cuộc chiến trước mặt có thể diễn tiến dài lâu, và họ sẵn sàng chiến đấu tới chừng nào đạt được mục đích thống nhất. Họ không bị ám ảnh bởi thời kỳ quân ngũ. Trong khi người Mỹ chỉ nghĩ tới chuyện về nhà, nghĩ tới “phía sau”; người Việt Nam, ngược lại, dồn hết tinh thần vào những gì ở phía trước. Chính sự khác biệt này đã giải thích cho kết cục của cuộc chiến. Khi thấu hiểu được nguồn cơn, thấu hiểu được kẻ thù cũ, ông Zumwalt mới tìm thấy cơ hội hàn gắn vết thương chiến tranh, trước hết là của chính ông, và sau đó là nhận thức về một mối quan hệ Việt – Mỹ cần được thúc đẩy. Người Mỹ đã được đọc và nghe rất nhiều về Chiến tranh Việt Nam. Nhưng với CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP, lần đầu tiên họ được nghe tiếng nói của những người từng ở phía bên kia chiến tuyến, trong một tập hợp có hệ thống mà ông Zumwalt đã mất hơn 10 năm tìm hiểu, từ chuyến di khai mở năm 1994, để cho ra đời cuốn sách này. Cuốn sách trước hết là một thông điệp cho chính người Mỹ, những người đang kẹt lại ở quá khứ, với những ám ảnh giày vò. Nó là phương thuốc để người Mỹ chữa lành vết thương mà chiến tranh để lại. Thấu hiểu kẻ thù là một tiến trình đầy thách thức, và chỉ có thể đắc thụ khi người ta có một thiện chí. Ông Zumwalt, từ trong ám ảnh, đã có một thiện chí đủ lớn để tìm tới những cuộc đối thoại với kẻ thù cũ, để từ đó tường minh những chân lý mà ông chưa hề ngộ ra trước đây, để từ đó, kẻ thù cũ đã trở thành bạn bè. CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP là một cuốn sách công phu và chân thành, nhưng nó cũng rất khó được đón nhận ở phía bên này hoặc bên kia, nếu người đọc không có một thiện chí tương đồng với người viết. Chiến tranh đã lùi xa, kẻ thù ở bên kia chiến tuyến đã là một khái niệm của quá khứ. Kẻ thù giờ đây chính là rào cản nội tại, có thể do chính mỗi con người chúng ta tự dựng lên, để ngăn cản chúng ta tiến tới một sự thấu hiểu. Nếu người Mỹ hiểu thấu đáo về người Việt Nam ngay từ đầu, có lẽ nhân loại đã tránh phải chứng kiến một trong những cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử. Chính vì thế mà giờ đây, khi cuộc chiến đã lùi xa, tiến trình thấu hiểu cần được thúc đẩy hơn, để từ đó có thể tránh được nguy cơ gặp lại quá khứ ở tương lai. Nhắc lại quá khứ không phải để đay nghiến lịch sử. Nhắc lại quá khứ - như tinh thần của CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP – là để hướng tới tương lai, một tương lai sự thấu hiểu và tin cậy lẫn nhau. Khi đến gặp bà Bùi Thị Mè, trong quá trình dịch cuốc sách này, tôi đã gợi nhắc lại câu chuyện buồn quá khứ với một sự e ngại rằng điều đó một lần nữa khiến bà tổn thương. Nhưng tôi sớm nhận thấy mình hồ đồ. Người phụ nữ đã quá 90 tuổi này rốt cuộc lại chính là người đã trấn an cho tôi khỏi những lấn cấn ấy. Bà nhắc lại quá khứ với một nụ cười đầy bao dung. Niềm đau vẫn trầm tích, nhưng bà không mắc kẹt lại ở quá khứ, như nhiều người Mỹ đã và đang. Mỗi ngày bà vẫn đôn đáo cho những cuộc tiếp xúc, những hoạt động hữu nghị và nhân đạo. Bà nói: “Nhiều người hỏi cô sao không nghỉ ngơi an hưởng tuổi già. Cô trả lời: những người con trai của cô từng hứa sẽ chiến đấu để thống nhất đất nước và sau đó sẽ ra sức xây dựng Tổ quốc đẹp giàu. Các anh chỉ mới hoàn thành vế đầu của lời hứa nên giờ cô phải làm phần việc còn lại”. Rồi bà cười. Một nụ cười thanh thản. Đỗ Hùng, Trưởng ban Quốc tế Báo Thanh niên https://thuviensach.vn LỜI CẢM ƠN Từ lâu tôi đã ấp ủ dự định viết cuốn sách này. Tuy nhiên, tôi thấy rằng đấy là một công việc vô cùng khó khăn. Để nuôi được một đứa trẻ lớn khôn đôi khi cần tới sự giúp sức của cả làng, nên tôi cho rằng để viết một cuốn sách cũng cần có một nhóm đảm trách. Sẽ là vô cùng thiếu sót nếu không nói về những thành viên của nhóm đã giúp tôi hoàn thành tâm nguyện. — Nguyễn Văn Phú, người anh em Việt Nam của tôi. Cuộc chiến tranh đã cướp đi của tôi một người anh trai rốt cuộc đã mang tặng tôi một cậu em. Phú cùng người thân chạy trốn khỏi Việt Nam và được gia đình tôi đưa vào Mỹ. Cậu ấy sau đó đã trở lại cố quốc và có những sự giúp đỡ vô giá trong việc liên hệ với chính quyền, phỏng vấn và dịch thuật… Chúng tôi đã cùng nhau đi dọc Việt Nam hai lần để tìm gặp các cựu chiến binh, nghe họ kể những câu chuyện đáng kinh ngạc về cuộc chiến cũng như cách nhìn cuộc chiến từ phía bên kia chiến tuyến. — Dennis Lowery, bạn và đồng nghiệp của tôi. Viết một cuốn sách giống như một hành trình với nhiều điểm khởi đầu và kết thúc, Dennis đã cho tôi động lực và sự cố vấn để tôi có thể hoàn tất cuốn sách này. Khi đã hoàn tất bản thảo CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP, tôi hầu như không còn nghị lực để xuất bản nó. Hiểu được ý nghĩa quan trọng của thông điệp ẩn trong cuốn sách, Dennis đã hối thúc tôi công bố và cũng là người đã hỗ trợ đắc lực cho tôi trong việc xuất bản. — Lê Đỗ Huy, người phụ trách hình ảnh của tôi. Huy đã dành nhiều thời gian thâm nhập vào các kho ảnh để tìm ra nhiều tấm ảnh in trong CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP. Sự đóng góp của anh vào các câu chuyện trong cuốn sách này là vô giá. — Chuck Searcy, một cựu binh từ chiến trường Việt Nam và là chỗ quen biết của tôi, hiện đang sống tại Việt Nam. Anh ấy không ngần ngại bất kỳ chướng ngại vật nào trên hành trình đi tìm sự thật. Một nhóm chỉ có thể làm việc tốt khi các thành viên trong nhóm đều làm việc tốt. Tôi rất may mắn và biết ơn khi đã có được những thành viên như thế. Cuốn sách này khó mà được hoàn thành nếu không có sự hỗ trợ của nhóm. Tôi muốn tri ân tất cả về sự cống hiến và giúp đỡ trong việc thực hiện hóa giấc mơ mà tôi hằng ấp ủ. James G. Zumwalt https://thuviensach.vn Phần Mở Đầu. Chiến Tranh Việt Nam Đã Để Lại Một Vết Hằn Không Bao Giờ Phai Mờ Cho Nước Mỹ Kể từ Nội chiến, nước Mỹ chưa bao giờ chứng kiến một cuộc chiến gây chia rẽ lòng người như thế. Hơn một thế hệ đã trưởng thành kể từ khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc nhưng nhiều người Mỹ vẫn còn bị ám ảnh bởi những ký ức về cuộc chiến ấy. Đối với người này, nỗi ám ảnh có thể là cái chết của một người thân yêu. Đối với người kia, đó có thể là sự mất mát đồng đội, mất đi cánh tay hoặc một phần nào đó của cuộc sống. Việc hiểu được cuộc chiến, cũng như tìm hiểu nguyên nhân vì sao một người hưởng ứng lời kêu gọi nhập ngũ đã không nhận được sự biết ơn của đất nước, là một quá trình đấu tranh nội tại. Chiến tranh Việt Nam đã để lại một vết thương sâu hoắm trong tâm hồn người Mỹ là điều không thể phủ nhận. Vết thương ấy rõ ràng còn mưng mủ, giữa những tranh cãi liên quan xuất hiện rất nhiều năm sau khi Sài Gòn sụp đổ. Từ lời thú nhận của cố Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara – trong cuốn HỒI TƯỞNG[1] – tới quyết định của Tổng thống Bill Clinton nối lại quan hệ ngoại giao đầy đủ với Việt Nam vào tháng 7 năm 1995 sau 40 năm gián đoạn, cuộc tranh cãi vẫn tiếp diễn. CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP chắc chắn sẽ đối mặt với nhiều bất đồng như thế. Tuy nhiên, tôi hy vọng rằng những người vẫn còn bị ám ảnh bởi cuộc chiến hoặc giả đang vật lộn để hiểu nó sẽ đọc cuốn sách này với một thái độ cởi mở. Tôi cảm thấy rất nhiều người trong chúng ta đã không dám chấp nhận một nguyên tắc cơ bản về Chiến tranh Việt Nam – điều mà chúng ta đã chấp nhận sau tất cả các cuộc chiến khác mà nước Mỹ tham gia. Nguyên tắc đó đã thúc đẩy chúng ta, với tư cách một dân tộc, có thể chào đón kẻ thù cũ để xây dựng mối quan hệ hữu nghị, qua đó hàn gắn vết thương chiến tranh. Chúng ta không giữ được cái nhìn ấy, có lẽ bởi đây là cuộc chiến đầu tiên mà nước Mỹ thất bại trong lịch sử. Trong chiến tranh, một điều không thể phủ nhận là cả hai phía đều tổn thất. Cả kẻ thắng lẫn người bại đều tổn thương không ít thì nhiều. Bi kịch, sự chịu đựng gian khó và khổ đau là không khu biệt đối với các chiến binh, bất kể họ đứng ở phía nào của chiến tuyến, không khu biệt đối với những gia đình đang chờ đợi người chiến binh trở về; và không khu biệt đối với người dân đã ủng hộ sự nghiệp của các chiến binh đó. “Tính phổ quát” là một nguyên tắc đơn giản, nó thừa nhận khổ đau là một phạm trù phi chiến tuyến, để từ đấy, một khi cuộc chiến kết thúc, một mảnh đất màu mỡ có thể được cày xới để gieo lên hạt giống của tình hữu nghị. Đó là một nguyên tắc mà tôi, khi đang trải qua bi kịch cá nhân, đã không nhìn thấy được. Hãy để tôi chia sẻ những động cơ thúc đẩy tôi viết cuốn sách này. Tôi cho rằng có những cựu chiến binh của cuộc chiến Việt Nam, giống như tôi, đã cảm thấy khó khăn trong việc thừa nhận rằng cuộc chiến cứ mãi ám ảnh. Tuy nhiên, đến khi tôi trở lại Việt Nam vào năm 1994, khi mà tôi có thể đối mặt với cuộc chiến nội tâm của mình về bi kịch cá nhân xuất phát từ cuộc chiến kia, tôi đã có được cảm hứng để viết CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP. Tôi nhận thức được rằng rất nhiều người Mỹ đã phải chịu đựng bi kịch từ cuộc chiến tranh Việt Nam lớn hơn tôi rất nhiều. Trải nghiệm trong đời của người này luôn khác với người kia, mất mát cũng thế. Về khía cạnh này, tổn thất mà gia đình và tôi gặp phải đã ảnh hưởng đến chúng tôi rất nhiều. Như một sự nghiệt ngã trớ trêu của số phận, chính những mệnh lệnh quân đội do cha tôi ban hành rốt cuộc đã gây nên cái chết cho anh trai tôi, đó chính là điều mà tôi muốn thừa nhận. Gia đình tôi có một truyền thông binh nghiệp đáng tự hào: hầu như mỗi cuộc chiến mà nước Mỹ tham gia kể từ Cách mạng Mỹ đến nay đều có ít nhất một người mang họ Zumwalt phục vụ. Bạn bè thân thiết không hề ngạc nhiên khi biết rằng tất cả các thành viên nam trong gia đình trực hệ của tôi đều xung phong phục vụ tại Việt Nam. https://thuviensach.vn Từ năm 1968 đến 1970, người cha giờ đã quá cố của tôi, Elmo R. Zumwalt, Jr., là Phó Đô đốc chỉ huy lực lượng hải quân tại Việt Nam. Trong vai trò “COMNAVFORV” (Commander Naval Forces Vietnam – Tư lệnh Hải lực tại Việt Nam), ông chỉ huy tất cả lực lượng duyên hải và đường sông của Hải quân Mỹ tham chiến tại Nam Việt Nam. Ngay khi cha tôi đến Việt Nam, thượng cấp trực tiếp của ông, Tướng Creighton Abrams, đã bày tỏ sự không hài lòng về vai trò của Hải quân trong cuộc chiến lúc ấy. Ông muốn Hải quân phải quyết liệt hơn nữa. Trên cơ sở đó, cha tôi đã vạch ra một chiến lược hung hãn hơn, với mục đích biến hệ thống kênh rạch miền Nam Việt Nam, vốn lâu nay bị Việt Cộng sử dụng làm đường chuyển quân, thành bãi chiến trường. (Từ “Việt Cộng” là một cách diễn đạt với hàm ý xấu được chính quyền Sài Gòn và sau đó là quân đội Mỹ sử dụng để chỉ những chiến binh cộng sản tại miền Nam chiến đấu nhằm lật đổ chính quyền. Dù cụm từ “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” (“People’s Liberation Armed Forces” – PLAF) là chính xác hơn, tôi vẫn dùng “Việt Cộng” bởi từ này quen thuộc hơn đối với người Mỹ. Tôi không có ý thiếu tôn trọng PLAF khi sử dụng từ đó). Chiến lược mới của cha tôi đã tạo ra những sự xáo trộn lớn cho Việt Cộng khi việc sử dụng hệ thống sông ngòi để tiếp vận và xâm nhập (từ phía Campuchia) sụt giảm nghiêm trọng. Tiếp tế của Việt Cộng suy giảm, thương vong của Lục quân Mỹ ở Đồng bằng Mê Koong (thường gọi là “Đồng bằng”) nhờ đó mà giảm theo. Duy trì sự hiện diện ổn định trong khu vực, người Mỹ đã có thể thúc đẩy tiến trình bình ổn Đồng bằng, làm gia tăng sự ủng hộ của dân chúng đối với chính quyền Sài Gòn và chính phủ Mỹ. Nhưng sự thành công của chiến lược này cũng phải trả giá. Trong khi thương vong của Lục quân Mỹ giảm thì phía Hải quân tổn thất gia tăng nghiêm trọng với lực lượng đường sông chiếm tới sáu phần trăm trong tổng thương vong hằng tháng. Điều này có nghĩa là nguy cơ bị giết hoặc bị thương đối với những người phục vụ “bên trong” (chiến đấu trong khu vực chiến sự ở Việt Nam) trên những chiếc thuyền tuần tra là ba-trên-bốn – tức cứ bốn người thì ba người đối mặt với nguy cơ – trong thời gian nghĩa vụ một năm. Cha tôi đã lập tức tìm kiếm phương pháp nâng cao an toàn cho lực lượng này. Hải quân chịu thương vong lớn là do đặc trưng của địa hình họ chiến đấu – sông nhỏ hẹp với cây cối um tùm hai bên. Đối với Việt Cộng, đó là môi trường lý tưởng cho các cuộc phục kích nhằm vào tàu tuần tra; đối với người Mỹ, đó là một địa hình ác mộng cho khả năng phòng thủ. Vùng cây cối rậm rạp ven sông là nơi trú ẩn và là lá chắn tốt cho Việt Cộng trong các cuộc phục kích, giúp họ có thể tấn công vào Hải quân Mỹ ở cự ly rất gần. Với yếu tố bất ngờ, Việt Cộng hầu như không cho thủy thủ đoàn cơ hội nào để phản công. Trong số những chiến binh đường sông dũng cảm của Mỹ hoạt động trong lực lượng “Hải quân nước nâu” (tức hệ thống đường sông nội địa ở Nam Việt Nam) có người anh trai của tôi, Trung úy Hải quân Elmo R. Zumwalt, III. Từng được biên chế về một vị trí khá nhàn trên khu trục hạm ở Norfolk, Virginia, Elmo tự cảm thấy có bổn phận phải phục vụ tại chiến trường Việt Nam. Anh không bao giờ hỏi ý kiến cha tôi về vấn đề này, bởi Elmo biết cha sẽ đưa ra những lập luận chặt chẽ để thuyết phục anh không nên đi. (Thời còn ở trường trung học và Học viện Hải quân, cha tôi đã được trao nhiều giải thưởng về tranh biện. Tôi và Elmo từ nhỏ đã biết rằng không bao giờ nên tranh luận với ông vì ông luôn là người chiến thắng bằng một vũ khí mà chúng tôi không thể có – lập luận chặt chẽ). Nếu Elmo hỏi ý kiến, cha tôi có thể sẽ không đưa ra những lý lẽ làm nản lòng anh, vì cha tôi hiểu người con trai này có một ý thức trách nhiệm lớn. Trong trường hợp này, cha tôi có thể nói với Elmo những lời thiên về tình cảm, chẳng hạn: “Tại sao lại để cho mẹ con phải lo nghĩ thêm nữa về việc có một đứa con đối mặt với bất trắc trên chiến trường, giữa lúc bà đã có một người chồng đang sống cận kề hiểm nguy như thế?” Elmo cho rằng cha tôi có thể sẽ khuyên anh nên chờ đến khi cha tôi hết thời hạn công tác ở Việt Nam thì anh mới tình nguyện sang đấy. Đó là một sự cân nhắc có cơ sở. Nhưng Elmo biết anh không chọn Hải quân như một sự nghiệp suốt đời. Nếu không xung phong đi lần này, anh có thể sẽ mất cơ hội duy nhất của mình. Elmo đã đến Việt Nam để đảm nhiệm vị trí chỉ huy duy nhất trong sự nghiệp hải quân ngắn ngủi – thuyền trưởng một tàu tuần tra đường sông, thường gọi là “tàu nhanh” – PCF-35 (viết tắt của Patrol Craft Fast – tàu tuần tra cao tốc). Là tư lệnh của tàu cao tốc, Elmo nằm dưới quyền chỉ huy của một guồng máy do cha tôi đứng đầu – đó là COMNAVFORV. Quan hệ gia đình không bao giờ mang lại một đặc ân nào đó trong nhiệm vụ, bởi cả cha và anh tôi đều không nhập nhằng chuyện gia đình và nghĩa vụ quốc gia. Tính cách của hai người là vậy. (Trong một phút trải lòng về sau, cha tôi thừa nhận mình từng có làm chệch đi một chút so với thông lệ https://thuviensach.vn trong quân đội, chỉ bởi anh Elmo phục vụ ở vùng chiến sự. Dù sự thiên lệch đó không có gì quan trọng, nhưng cha tôi vẫn cảm thấy có chút tội lỗi. “Mỗi buổi sáng”, cha tôi nhớ lại, “khi nhận được danh sách thương vong trong các chiến dịch của đêm hôm trước, với tên người được xếp theo thứ tự A, B, C, cha thường bắt đầu đọc danh sách từ cuối lên đầu”. Với họ “Zumwalt”, nếu Elmo nằm trong danh sách thương vong, tên anh chắc chắn sẽ ở hàng cuối. Tôi không nghĩ rằng có ai đó sẽ trách cha tôi về sự thiên vị này). Cha tôi là một người đàn ông đầy đam mê và thông tuệ. Tôi không tin có lúc nào đó ông đưa ra một quyết định quân sự mà không cân nhắc tới những tác hại của nó đối với người lính. Nhưng trong giai đoạn mới nắm quyền chỉ huy tại Việt Nam, có khi ông ở vào hoàn cảnh không thấy hết được tác động từ quyết định của mình. Dù quyết định ấy đã giúp đạt được mục tiêu giảm thương vong cho Hải quân Mỹ, ông không thể ngờ rằng nó cũng chính là nguyên nhân cướp đi mạng sống của người con trai cùng tên với ông. Khi cân nhắc các lựa chọn khả thi để giảm thương vong cho quân Mỹ, cha tôi nhận thấy rằng chỉ có một cách là triệt tiêu lợi thế bất ngờ của Việt Cộng – bằng cách phá đi hệ thống ẩn náu là những vùng bụi cây rậm rạp ven sông. Năm 1965, Lục quân Mỹ sử dụng một loại hóa chất diệt cỏ để làm rụng lá các vùng rừng gần Sài Gòn, vốn bị tình nghi là nơi kẻ thù hoạt động. Phương pháp này đã được mở rộng khi quân đội tiến tới đóng quân trong rừng. Các nhà sản xuất chất diệt cỏ đã cam đoan với chính phủ Mỹ rằng sản phẩm của họ không gây hại cho con người. Tin vào lời cam đoan đó, cha tôi đã ra lệnh rải thuốc dọc các bờ sông nơi quân của ông thường tuần tra bằng tàu thủy. Hiệu quả thấy được ngay tức thì – thương vong của Hải quân Mỹ giảm hơn năm lần – chỉ còn chưa đầy một phần trăm mỗi tháng. Dưới góc độ quân sự, quyết định sử dụng chất diệt cỏ là đúng đắn. Việc làm này đã cho phép hàng chục ngàn lính thủy, vốn đối mặt với nguy cơ thương vong cao, có thể trở về nhà. Nhưng phải rất nhiều năm sau thì những người này mới phát hiện ra rằng cuộc chiến sinh tồn của họ còn lâu mới kết thúc. Họ đã trở về nhà với một quả bom hóa học nổ chậm trong người. Chất diệt cỏ mà họ bị phơi nhiễm, Chất độc Cam[2], trái với cam đoan của các nhà sản xuất, là chất gây ung thư. (Mười sáu năm sau đó, cha tôi mới biết rằng các hãng sản xuất chẳng những sai lầm trong việc khẳng định tính vô hại của chất này đối với người, mà – trong vài trường hợp – họ còn nói khác đi so với những gì họ biết). Bị phơi nhiễm nặng Chất độc Cam trong thời gian phục vụ ở Việt Nam, nhiều cựu chiến binh đã chịu đựng hậu quả kinh khiếp về sức khỏe, với quả bom nổ chậm phát nổ sau quãng thời gian dài ngắn khác nhau. Đối với vài người, vụ nổ đến rất sớm, khi những đứa con do họ sinh ra sau thời gian phơi nhiễm gặp nhiều vấn đề về sức khỏe. Đối với số khác, thời điểm phát nổ đến muộn hơn, có khi phải mười, mười lăm, thậm chí hai mươi năm sau, khi nhiều loại ung thư, mà nay Bộ Cựu chiến binh đã thừa nhận là có liên quan tới Chất độc Cam, tấn công họ. Anh trai tôi nằm trong số những nạn nhân bị ung thư liên quan tới Chất độc Cam. Cha tôi đã dành tất cả thời gian giúp Elmo chống chọi với căn bệnh ung thư. Cùng nhau, họ tìm kiếm tất cả các giải pháp có thể. Ban đầu, họ tập trung vào các phương pháp y khoa để điều trị; về cuối, họ tìm mọi cách làm chậm sự phát triển chết chóc của căn bệnh. Sự gắn bó giữa họ là vô cùng mật thiết. Có thể nói tình cảm cha con giữa hai người không ai có thể sánh được. Tình cảm ấy đã được diễn tả khá đầy đủ trong lá thư mà Elmo viết cho cha tôi không bao lâu trước khi anh qua đời. Trong thư anh viết: “Ba thân yêu, cả ở Việt Nam lẫn đối với căn bệnh ung thư của con, chúng ta đã cùng nhau chiến đấu và cùng thất bại. Nhưng, chúng ta luôn biết rằng ngay khi lâm vào một trận chiến tuyệt vọng, tình yêu của chúng ta cũng không cho phép một sự thối chí, bất chấp nguy cơ lớn nhường nào, chúng ta cũng không từ bỏ… Con yêu ba vô ngần. Con muốn được chiến đấu bên cạnh ba biết bao. Ba luôn tạo ra sự khác biệt. Ba đã làm cho cuộc chiến cuối cùng của con, trên hành trình tới cõi chết, trở nên nhẹ nhõm và nhân văn hơn. Con yêu ba”. Vào ngày 13 tháng 8 năm 1988, cuộc chiến cuối cùng mà họ sát cánh bên nhau đã kết thúc. Ở tuổi 42, sau năm năm dũng cảm chiến đấu, Elmo qua đời. Cũng tương tự như cuộc chiến ở Việt Nam, anh đã anh dũng chống lại một kẻ thù giấu mặt, để rồi cuối cùng phải nhận lấy thất bại trước kẻ địch quyết đoán hơn. Sau cái chết của Elmo, cha tôi bắt đầu một sự nghiệp mới – thuyết phục chính phủ Mỹ thừa nhận những ảnh hưởng của Chất độc Cam lên sức khỏe con người và bồi thường tài chính cho các chiến binh Việt Nam bị ảnh hưởng. Một phần nào đó, cái chết của Elmo thúc đẩy cha tôi tham gia cuộc đấu tranh, nhưng mặt khác, việc https://thuviensach.vn tham gia của ông cũng xuất phát từ niềm tin thường trực trong ông, rằng trách nhiệm của các tư lệnh chiến trường đối với binh sĩ không kết thúc khi cuộc chiến đã chấm dứt. Trong thời bình, người cựu tư lệnh không được phép quên sự hy sinh của các chiến binh Hải, Lục, Không quân và Thủy quân Lục chiến trong thời chiến tranh. Nỗ lực của cha tôi cùng với nhiều người khác nhằm thúc đẩy thông qua một nghị quyết về vấn đề Chất độc Cam đã dẫn tới việc chính phủ Mỹ tìm thấy bằng chứng thống kê về mối liên quan giữa cựu chiến binh bị phơi nhiễm Chất độc Cam với một số căn bệnh mà họ mắc phải. Từ các phát hiện đó, Bộ Cựu chiến binh đã có chương trình bồi thường cho các cựu quân nhân này. Sự tham gia của cha tôi vào các hoạt động liên quan tới Chất độc Cam đã đưa ông trở lại Việt Nam vào tháng 9 năm 1994, trở thành vị tư lệnh cấp cao nhất của thời chiến tranh quay lại đây. Tôi có dịp tháp tùng ông trong chuyến đi ấy – cũng là chuyến trở lại Việt Nam đầu tiên của tôi kể từ sau cuộc chiến. Mục đích của cha tôi là tìm kiếm sự hợp tác từ Hà Nội để triển khai một cuộc nghiên cứu chung về Chất độc Cam. *** Khi nỗi đau trước cái chết của người anh trai do hậu quả Chiến tranh Việt Nam vẫn còn đầy đọa, việc trở lại đất nước nơi đã gieo mầm cho cái chết đó quả là một thử thách lớn đối với tôi. Trong thời gian chuẩn bị tới Việt Nam, tôi nhận thấy rằng cuộc chiến nội tâm phát khởi từ cái chết của anh vẫn đang âm ỉ. Đã sáu năm kể từ lúc anh qua đời, dù cố gắng nhưng tôi vẫn không thể chấp nhận thực tế này. Trên đường tới Việt Nam vào năm 1994, tôi không ngừng hồi tưởng về cuộc chiến, và về lần chúng tôi gặp nhau tại căn cứ thuyền cao tốc của anh ở Đà Nẵng vào năm 1969. Anh mới hai mươi ba tuổi; tôi hai mươi. Với tất cả sự ngây thơ của tuổi trẻ, chúng tôi cứ nghĩ rằng chẳng có gì đánh bại được mình, dù dấu hiệu của chết chóc và hiểm nguy hiển hiện khắp nơi: các thủy thủ đang chuyển đạn và quân nhu lên tàu chuẩn bị cho một cuộc tuần tra, nhiều thân tàu thủng lỗ chỗ do đạn địch từ các lần tuần tra trước đang được sửa chữa; các thủy thủ mới đến trình diện, thay thế cho số vừa ngã xuống trong vài ngày trước. Thế nhưng vào lúc ấy, ý nghĩ về cái chết dường như vẫn xa lạ đối với chúng tôi. Tôi chưa gặp Elmo trong vòng một năm trước đấy. Đó là khoảng thời gian xa cách lâu nhất của chúng tôi vào lúc ấy. Tôi vẫn nhớ cảm giác phấn khích khi được gặp lại anh. Ban đầu tôi định ôm hôn thật chặt; nhưng sau đó có phần do dự, khi chợt nhớ ra cả hai đều đang khoác quân phục. Tôi dừng lại, bước lùi vài bước, rồi chào anh theo nghi thức. Anh đáp lại, và chúng tôi ôm nhau. Hồi nhỏ chúng tôi thường gây gổ nhau, nhưng đến thời trung học và đại học, hai anh em lại rất thân thiết. Tạm xua đi những ký ức xưa để trở về hiện tại với chuyến đi đến Việt Nam của tôi vào tháng 9 năm 1994. Một lần nữa, nỗi đau, cảm giác trống rỗng sau cái chết của Elmo lại xâm chiếm tâm hồn. *** Khi máy bay hướng về Hà Nội, tôi tiếp tục suy nghĩ về cái chết của anh trai và hàng ngàn người đồng hương khác. Tôi muốn là điều gì đó cho họ. Một vài ngày sau, tôi gặp những kẻ thù cũ, những cựu quân nhân từng phục vụ Quân đội Bắc Việt (North Vietnamese Army – NVA) và Việt Cộng. Tôi nhớ ban đầu mình cảm thấy rất khó chịu. Nỗi giận dữ của tôi về việc những nhân vật này từng là thủ phạm gây ra cái chết của rất nhiều đồng đội người Mỹ không hề nguôi. Trong đầu tôi luôn có một niềm tin xác quyết rằng trong chiến tranh Việt Nam, lực lượng phi nghĩa đã chiến thắng phe chính nghĩa. Năm mươi tám ngàn người Mỹ đã mất mạng khi cố gắng ngăn chặn Cộng sản và bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam; trong đó có tới hai ngàn năm trăm người còn nằm lại đâu đó giữa các khu rừng già Đông Nam Á. Bi kịch, niềm đau, nỗi thống khổ mà kẻ thù này gieo xuống là vô cùng khủng khiếp. Tôi vẫn tin cuộc chiến tranh đó là một bức tranh trắng và đen – không có màu xám – và rằng những con người này đã gây ra cho nước Mỹ một nỗi đau kinh khiếp. Họ cũng đã gây ra cho tôi và gia đình tôi nỗi đau tột cùng. Trong khi các cựu quân nhân người Việt mà tôi gặp tỏ ra nhã nhặn và cởi mở thì trong tôi, cơn giận vẫn không ngừng dâng lên. Khi nhìn thẳng vào họ, tôi nghĩ rằng lẽ ra họ không được đứng trước mặt tôi với tư cách là người chiến thắng – bởi đó chỉ là số phận; định mệnh chống lại chúng ta mà thôi. Thế rồi, nhận thức của tôi, nỗi giận dữ của tôi, đã thay đổi nhanh chóng. Tôi nhớ rất rõ cái khoảng khắc của sự thay đổi ấy. Đó là ngày thứ ba của chuyến viếng thăm. Chúng tôi https://thuviensach.vn gặp Thiếu tướng Nguyễn Huy Phan, một người phục vụ trong ngành quân y và nói tiếng Anh trôi chảy. Ông nói năng nhỏ nh. Lúc đó tôi dường như cảm thấy nguôi giận trước thái độ rất lịch thiệp của ông – một sự đối lập lớn với hình ảnh bạo tàn mà tôi thường hình dung về người chiến binh Bắc Việt. Ông Phan chia buồn về cái chết của Elmo. Chúng tôi cùng nói chuyện về cuộc chiến và tác động của nó lên cuộc sống những người sống sót. Bác sĩ Phan có vẻ bị tác động trong buổi trò chuyện. Dù tỏ ra trầm ngâm, nhưng ánh mắt đã biểu lộ nỗi thống khổ nội tâm của ông. Khi mắt ông bắt đầu sẫm lại, tôi cảm nhận ra rằng người đàn ông này cũng có một bi kịch lớn trong cuộc đời. Tôi dần có thiện cảm với ông. Sau này, tôi đã biết được nỗi đau lớn của Bác sĩ Phan – ông đã mất đi người cha trước mũi súng của quân Pháp hồi chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và mất đi người em trai trong cuộc chiến lần thứ hai. Nỗi đau mất người em trai đã giày vò ông trong nhiều năm bởi gia đình không thể tìm thấy hài cốt – em trai của ông đơn giản chỉ là một cái tên trong danh sách rất dài những người lính Việt Nam mất tích khi đang tại ngũ. Phải mất tới mười bảy năm thì ông Phan và gia đình mới tìm ra hài cốt của người em trai và đưa về quê hương. Tôi xúc động trước câu chuyện của Bác sĩ Phan. Khi suy ngẫm về nó, tôi chợt thấy mình đã bắt đầu nhìn về cuộc chiến tranh với một nhận thức hoàn toàn mới. Vượt qua cảm giác tội lỗi, tôi nhận thấy rằng nỗi đau mất đi người thân không hề liên quan tới việc người đó đứng ở phía nào của chiến tuyến. Rõ ràng, nỗi đau mất em trai của ông Phan không hề nhẹ hơn nỗi đau mất anh trai của chính tôi. Lần đầu tiên, tôi không còn nhìn cuộc chiến này theo góc độ “trắng và đen” hay “thiện và ác”. Lần đầu tiên, tôi thấy trái tim mình cùng hòa nhịp với một kẻ thù mà tôi từng rất căm thù, khi nhận thấy rằng ông ta cũng chịu mất mát từ cuộc chiến đó. Cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng những người anh em của chúng ta, nhưng tôi cũng dần nhận ra rằng tôi còn may mắn hơn Bác sĩ Phan – ít ra là tôi còn được biết anh trai mình đã chết như thế nào, chết ở đâu và vào lúc nào. Tôi đã ở bên cạnh anh trai trong giờ phút lâm chung, biết được suy nghĩ sau cuối của anh; tôi biết được rằng anh đã đối mặt với tử thần trong cuộc chiến chống ung thư cũng dũng cảm như lúc anh đối mặt với quân thù trên chiến trường; tôi biết rõ phút lâm chung của anh rất bình yên khi anh trôi dần vào cõi vĩnh hằng trong khi đang ngủ. Còn Phan thì khác, ông phải chờ tới mười bảy năm trời mới tìm thấy một vài, chứ không phải tất cả, chi tiết về cái chết của người em trai. *** Trải nghiệm của tôi với Bác sĩ Phan không phải là điều duy nhất khiến tôi thay đổi nhận thức về cuộc chiến. Cũng trong chuyến đi Việt Nam ấy, tôi đã tới thăm một cơ sở chăm sóc người cụt tay chân, nơi có rất nhiều người bị thương trong chiến tranh vẫn còn phải tiếp tục chịu đựng đau khổ. Một vài người bị cụt hai chi, ba chi, bốn chi do các loại mìn, đạn pháo, bom gây ra. Hàng ngàn cựu quân nhân vẫn phải chờ đợi những đôi chân đôi tay nhân tạo để có thể đi lại một cách độc lập. Nhiều đã phải chờ đợi các thiết bị ấy từ khi cuộc chiến kết thúc. Năm 1992, theo đề nghị của một doanh nhân Mỹ gốc Việt. cha tôi đã tham gia vào nỗ lực thiết lập một cơ sở tại Việt Nam nhằm cung cấp chân tay nhân tạo và các thiết bị hỗ trợ cho các cựu quân nhân người Việt. Trong chuyến đi tháng 9 năm 1994, cha tôi đã trao tặng cho người nhận thứ 12.000 thuộc chương trình này. Đó là một khoảng khắc xúc động, khi cha tôi, lúc này đã 73 tuổi, nâng một người cụt cả hai chân ra khỏi ghế, đặt lên chiếc xe lăn mà cựu quân nhân này nhận được lần đầu tiên trong đời. *** Tôi cảm thấy rất lạ là – dù tôi rất yêu cha và hai chúng tôi rất gần gũi nhưng hai người chưa bao giờ nói chuyện với nhau, một cách riêng tư, về việc chúng tôi đã chịu đựng sự mất mát Elmo như thế nào. Tôi không nghĩ rằng sự im lặng đó là biểu hiện của thái độ coi nhẹ khổ đau thường có ở những thành viên nam của một gia đình giàu truyền thống quân sự. Tính cách ấy, một tính cách của người cha quân nhân do Robert Duval thủ vai trong phim “Santini vĩ đại”, rất đối lập với người cha mà tôi đã cùng sống. Tôi không hiểu tại sao chúng tôi không bao giờ nói chuyện về cái chết của Elmo. Có một sự im lặng được chấp nhận một cách vô thức giữa chúng tôi. Cũng có thể tôi sợ phải đối diện với một phản ứng đầy xúc cảm từ cha khi tôi đề cập chuyện đó với ông, và ngược lại – dù chúng tôi từng rơi nước mắt không hề che đậy trong những bi kịch khác của gia đình. https://thuviensach.vn Trong rất nhiều phẩm hạnh của cha tôi, thì phẩm hạnh lớn nhất đó là sự cảm thông đối với những người kém may mắn hơn. Ông dành phẩm hạnh ấy cho người khác, bất kể là bạn hay thù. Đó là phẩm hạnh khiến tôi khâm phục nhất trong con người đầy nhân ái này. *** Chứng kiến cảnh cha tôi nhấc người thương binh Việt Nam đặt vào xe lăn – và cả hai cùng cười – tôi mới vỡ lẽ rằng, dù cả hai chúng tôi đều giữ im lặng với nhau về cái chết của Elmo, nhưng cha dường như đã xua đuổi được “bóng ma” của bi kịch ấy. Sự xua đuổi đó có là một chủ ý hay không, tôi không bao giờ biết được – nhưng tôi biết rõ rằng những nỗ lực nhân đạo và lòng trắc ẩn đã giúp ông dần bỏ lại sau lưng những bi kịch của cuộc chiến tranh. Tôi sử dụng cụm “những bi kịch” vì tôi không chỉ nói về cái chết của anh Elmo, mà còn về những thủy thủ can trường khác dưới quyền chỉ huy của cha tôi đã không thể trở về nhà. (Suy ngẫm về ba cuộc chiến tranh đã từng tham gia, cha tôi có lần nói rằng Việt Nam là cuộc chiến khó khăn nhất đối với ông về mặt cá nhân, Không giống Chiến tranh Thế giới thứ II và Chiến tranh Triều Tiên, khi mà mối hiểm nguy xuất phát từ những quyết định của ông chia đều cho ông và các binh sĩ, thì tại Việt Nam, hiểm nguy chủ yếu dồn lên vai người lính. Ngay sau khi tới Việt Nam với vai trò tư lệnh, cha tôi bắt đầu cùng với các thủy thủ đi tuần và đánh trận. Một sĩ quan thuộc cấp của ông sau này viết: “Tôi nhớ rất rõ rằng ông đã hiện diện một cách lộ liễu trong vùng chiến sự”. Nhưng cha tôi đã không thể tiếp tục các hoạt động như thế sau khi tướng Abrams bày tỏ lo ngại về khả năng một vị tư lệnh cận chiến bị bắt hoặc thiệt mạng). Động lực để tôi viết cuốn sách này đến từ hai nguồn: lòng trắc ẩn, mà tôi đã được chứng kiến, của cha tôi dành cho kẻ thù cũ; và sự thấu hiểu về nỗi đau chung sau khi tôi gặp gỡ các cựu quân nhân Việt Nam như Bác sĩ Phan – những người cũng đã đánh mất một phần đời trên các chiến trường trong cuộc chiến ấy. Tôi không hề ngạc nhiên trước nguồn cảm hứng mà cha tôi truyền cho; nhưng tôi lại rất ngạc nhiên khi cảm hứng còn đến từ kẻ thù cũ – vì trước đây tôi chưa từng nghĩ rằng mình sẽ có ngày xúc động trước nỗi đau của họ. *** Trải nghiệm của tôi với Bác sĩ Phan cũng như lần tôi chứng kiến các cựu quân nhân Việt Nam bị thương tật vào năm 1994 đã lần đầu tiên cho tôi một lý do để suy ngẫm về nguyên tắc phi chiến tuyến của nỗi đau. Lần đầu tiên, tôi thấy rằng tác động của chiến tranh lên TẤT CẢ các nạn nhân là như nhau. Những người đàn ông và đàn bà, những binh sĩ và thường dân Việt Nam mà tôi có dịp gặp đã giúp tôi hiểu được rằng chiến tranh như một lưỡi dao sắc cạnh ở cả hai phía, làm cho bên nào cũng đớn đau. Họ giúp tôi hiểu rằng nỗi đau khổ mà chiến tranh gây ra là không biên giới. Đó là một nỗi đau phổ quát. Trong cuốn sách này, tôi không có dụng ý coi nhẹ nỗi đau và sự thất vọng của người Mỹ. Như tôi đã nói lúc đầu, trải nghiệm về cuộc sống của mỗi người là khác nhau, và bi kịch cũng như thế. Nhưng chiến tranh, với bản chất tàn bạo của nó, đã tạo ra những nạn nhân ở cả hai phía. Và khi chiến trường phủ lên toàn bộ một đất nước – như trong Chiến tranh Việt Nam – thì toàn bộ nhân dân của đất nước ấy đều là nạn nhân. *** Neil Sheehan, một phóng viên thời Chiến tranh Việt Nam, ban đầu đã ủng hộ quyết định tham chiến của Mỹ. Nhưng đến năm 1967 thì ông thay đổi lập trường. Về sau, ông viết cuốn SỰ DỐI TRÁ RỰC RỠ (A BRIGHT SHINING LIE) lên án sự can dự của nước Mỹ. Cuốn sách đã được trao giải Pulitzer. Là người ủng hộ nước Mỹ tham chiến, tôi đã không đồng tình với những chỉ trích của Sheehan nhằm vào Chính phủ. Hiện nay, tôi nhìn cuốn sách của Sheehan với một cặp mắt khác. Dù vẫn không tán đồng cách tố cáo vai trò của Mỹ ở Đông Nam Á, tôi thấy rằng mình khó có thể chấp thuận một cách mù quáng những chính sách mà nước Mỹ theo đuổi ở khu vực. Sự thay đổi thái độ của Sheehan về cuộc chiến tranh xuất phát từ trải nghiệm của chính ông tại khu vực này và các cuộc tiếp xúc với người Việt Nam, cũng giống như tôi rất nhiều năm về sau. Chính nhờ tiếp xúc trực tiếp với phía bên kia mà cuối cùng ông đã trở thành người phản đối cuộc chiến. Giờ đây, sau thời gian dài tìm hiểu người Việt Nam một cách trực tiếp, tôi bắt đầu hiểu rõ hơn thông https://thuviensach.vn điệp mà Sheehan gửi gắm trong cuốn sách. Chúng ta phải học từ những thông điệp của ông và có thể cả của tôi nữa, để sai lầm trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam không bao giờ xảy ra với các thế hệ người Mỹ trong tương lai. Sheehan còn viết một cuốn sách nữa về Việt Nam có nhan đề SAU CHIẾN TRANH: HÀ NỘI VÀ SÀI GÒN[3]. Cuốn sách là một cái nhìn so sánh đất nước này trong lần đầu tiên ông đặt chân tới vào năm 1962, trước thềm cuộc chiến tranh với người Mỹ, và năm 1989, khi người dân tại đây được thụ hưởng khoảng thời gian thái bình dài nhất của họ trong thế kỷ 20. Ông viết: “Chúng ta, những người Mỹ, vốn tự cho mình là ngoại lệ của lịch sử, cũng có thể mắc sai lầm như phần còn lại của nhân loại; chúng ta có thể thủ ác dễ dàng như khi hành thiện. Tất cả chúng ta đã quá kiêu ngạo trong thời kỳ xấc xược ấy. Chúng ta không thể hiểu được rằng chúng ta đã theo đuổi những điều không tưởng và đã gây ra một bi kịch tột cùng cho chính chúng ta cũng như cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác tại Đông Dương”. Sheehan đã đi đến một kết luận chống lại hoàn toàn những luận điệu của giới chức Mỹ trong suốt cuộc chiến, rằng Việt Nam chưa bao giờ là một mối đe dọa đối với nước Mỹ: “Họ đơn giản chỉ muốn chúng ta trở về nhà, và họ sẽ không bao giờ ngừng kháng cự, bất chấp họ và chúng ta phải trả giá thế nào, cho tới lúc chúng ta rút đi. Tôi mất năm năm để nghiệm ra điều đó”. Còn tôi thì phải mất nhiều thời gian hơn để đi đến cùng một kết luận – một kết luận mà tôi có được sau khi chuyên tâm tìm hiểu người Việt Nam. Trong cuốn sách của mình, Sheehan nhớ lại một khoảng khắc của chiến tranh, mà tôi cảm thấy rằng đã tạo nên ảnh hưởng đối với tôi. Trở lại Mỹ Tho ở Đồng bằng sông Mê Kông, Sheehan bắt gặp một sân bóng chuyền, gợi ông nhớ tới cố Đại tá John Vann, người đã chỉ huy quân Mỹ ở đấy: “Đó là một buổi chiều muộn và mành lưới được căng lên. Tôi dường như nghe tiếng cáu gắt của Vann: ‘Nào, hãy gọi hai đội bóng ra đây’, rồi tiếng la hét của các đại úy và trung úy trong trận đấu. Những người đó cùng trang lứa với tôi nên tôi dễ dàng đồng cảm với họ. Họ từng là những sĩ quan tận tụy, những người xuất sắc nhất mà Lục quân Mỹ có được, luôn sẵn sàng xung trận, luôn tin vào sự nghiệp và lý tưởng. Khi chúng tôi leo lên trực thăng cùng đội xung kích giữa tiếng gầm của động cơ và đám bụi bay mù mịt, chúng tôi thường nghĩ: ‘Rồi ngày chiến thắng sẽ đến, và có một vùng đất tốt hơn đang đợi chúng ta’. Chúng ta đã không chiến thắng, và do sự xuất hiện của chúng ta mà Việt Nam đã trở thành một mảnh đất đầy thương tích. Trong ánh chạng vạng trên sân bóng, tôi băn khoăn không biết những sĩ quan trẻ tuổi kia nghĩ gì về những con người can trường khác đang chui trong những căn hầm ngoài kia nếu họ biết sự thực về cuộc chiến mà họ phải tham gia”. *** Những chiến binh dũng cảm có mặt ở cả hai phía chiến tuyến. Tương tự, nỗi đau và sự mất mát cũng giáng xuống đầu cả hai phía. Suốt một thế hệ, qua sách và phim ảnh, chúng ta đã nghe rất nhiều câu chuyện từ phía người Mỹ; giờ đã đến lúc cùng lắng nghe câu chuyện từ phía Việt Nam. *** Cuốn sách này là tập hợp những thông tin từ gần 200 cuộc phỏng vấn với cựu cuộc chiến Việt Cộng và Bắc Việt cũng như một số dân thường Việt Nam. Những người được phỏng vấn bao gồm cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh quân Việt Cộng; Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn (lực lượng phụ trách xây dựng và duy trì Đường mòn Hồ Chí Minh); cùng nhiều sĩ quan cao, trung cấp và một số người có địa vị khác. Tôi được thoải mái tiếp cận những người được phỏng vấn. Dạng câu hỏi trong các cuộc phỏng vấn là tương tự nhau, nhưng mỗi cựu quân nhân đều có một câu chuyện độc đáo để kể. Giữa những câu chuyện riêng của mỗi người ấy, có một sợi chỉ xuyên suốt rất dễ nhận ra: đó là sức mạnh ý chí – họ đã quyết tâm giành chiến thắng bằng cách vượt qua bất cứ thách thức hoặc hiểm nguy nào. Trong Chiến tranh Việt Nam, người Mỹ dựa vào sức mạnh công nghệ vũ khí vượt trội; người Việt Nam phải dựa vào những thứ khác. Họ quay về truyền thống của mình – đó là truyền thống chống ngoại xâm có từ ngàn đời, khi đất nước liên tục bị xâm lăng. Trong cả nghìn năm ấy, tinh thần dân tộc và lòng tự hào luôn bùng cháy, thổi lên trong lòng mỗi người dân Việt Nam quyết tâm đánh đuổi https://thuviensach.vn ngoại bang. Tinh thần dân tộc, lòng tự hào và quyết tâm ấy phát triển thành một sức mạnh vĩ đại nhất – một CHÍ THÉP – giúp họ thực hiện được điều tưởng như không thể. Để cuối cùng, CHÍ THÉP đã đánh bại công nghệ của siêu cường hùng mạnh nhất thế giới. Điều đáng tiếc là chúng ta đã không hiểu được phẩm chất này của người Việt Nam. Chúng ta không nhận thấy, trong bản phân tích cuối cùng rằng chiến thắng không quyết định bởi công nghệ mà bởi quyết tâm của con người. Ý chí của họ không bao giờ sụt giảm dù họ thiếu công nghệ, dù họ phải chiến đấu với những đôi CHÂN TRẦN. Công nghệ vượt trội của họ, trên thực tế, chính là sức mạnh nội tâm để chịu đựng thách thức, khổ đau và gian khó khốc liệt nhất, buộc người Mỹ phải lâm vào cuộc chiến tranh dài nhất trong hai thế kỷ lịch sử của mình. Như vị tướng của Chiến tranh Thế giới thứ II George Patton từng nói: “Đánh nhau bằng vũ khí, chiến thắng bằng con người”. Hơn ba thập niên kể từ ngày Sài Gòn sụp đổ, đã đến lúc cần hiểu hơn về kẻ thù mà chúng ta từng đối mặt cũng như cái CHÍ THÉP của họ đã đóng vai trò như thế nào trong chiến thắng của Việt Nam và thất bại của Mỹ. Cách tốt nhất để làm điều đó là chia sẻ trải nghiệm của những con người đã sở hữu những phẩm chất ấy – những phẩm chất đã giúp họ sống, chiến đấu và chịu đựng trong suốt cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Mỹ. https://thuviensach.vn Phần 1. Quân Y Trong chiến tranh Việt Nam, mối quan tâm lớn nhất của mỗi người lính chiến là sự hỗ trợ y tế một khi bị thương trên chiến trường. Đối với lính Mỹ, sự hỗ trợ này nằm trong tầm tay. Việc cứu thương có ảnh hưởng tới nhuệ khí của quân đội nên sự chăm sóc y tế luôn được khẩn trương thực hiện. Việc chuyển thương bằng trực thăng cho phép binh lính Mỹ được chữa trị thường chỉ sau vài giờ. Người Việt Nam ở bên kia chiến tuyến cũng đặc biệt quan tâm tới y tế, nhưng họ lại không có những điều kiện tương tự để chăm sóc cho thương binh của mình. Thương binh phải mất hàng ngày, thậm chí hàng tuần mới được chăm sóc, thậm chí là không bao giờ. Ngay cả khi có cơ sở y tế, sự khan hiếm thuốc men và y cụ đã ngăn trở công việc điều trị của họ. Đội ngũ y tế phải tự nỗ lực để bù đắp cho thiếu thốn khi có thể, còn khi không thể thì người thương binh buộc phải chịu đựng. CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP bắt đầu với những câu chuyện chọn lọc, cho ta một cái nhìn vào bên trong các hoạt động y tế của phía Việt Nam. Có hai lý do để tôi bắt đầu cuốn sách bằng phần này. Thứ nhất, chúng cho phép người đọc có một trực cảm đối với những gian khó trên chiến trường. Thứ hai, đó là một lý do cá nhân, tôi muốn dành phần mở đầu cho những con người đã truyền cảm hứng cho tôi viết sách – các bác sĩ Lê Cao Đài (“Trong Bụng Dã Thú”) và Nguyễn Huy Phan (“Hàn Gắn Vết Thương Chiến Tranh”). Những ngày được gặp Bác sĩ Đài và Bác sĩ Phan trước khi họ mất đã giúp tôi hiểu rõ hơn rất nhiều về cuộc chiến tranh và những đau khổ mà nó gây ra cho người Việt Nam. Các cuộc gặp gỡ này đã giúp tôi rất nhiều trong tiến trình hàn gắn vết thương của chính mình. Và đây là những câu chuyện của họ… • TRONG BỤNG DÃ THÚ Không ai hiểu tầm quan trọng của y tế đối với lực lượng chiến đấu hơn Lê Cao Đài. Đang là sinh viên y khoa ở Hà Nội vào năm 1946, khi cuộc chiến tranh chống Pháp khởi sự, ông bị cuốn vào quân đội để phục vụ cho lực lượng kháng chiến của Hà Nội – quân Việt Minh – vì thiếu bác sĩ. Nâng cao kỹ năng theo cách nghề-dạy-nghề, Đài dần dần đáp ứng được đòi hỏi từ quân đội của Tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc chiến dài tám năm. Khi quân đội đang ăn mừng chiến thắng cuối cùng trước người Pháp tại Điện Biên Phủ thì Lê Cao Đài vẫn còn phải vật lộn để cứu sống những người vừa bị thương trong chiến dịch vĩ đại đó. *** Rồi cuộc chiến với người Mỹ bùng nổ, Lê Cao Đài một lần nữa đáp lời kêu gọi của non sông. Khi đang giữ chức trưởng khoa phẫu thuật tại một viện quân y năm 1966, Đài, lúc này 37 tuổi, xung phong vào miền Nam làm việc. Ông được lệnh tổ chức và điều hành một bệnh viện chiến trường. Tập hợp được 400 nhân viên y tế từ các bệnh viện, Đài đã lập nên một bệnh viện có tên gọi 211. Thông thường, tỉ lệ lý tưởng cho các bệnh viện là một nhân viên y tế trên mỗi bệnh nhân, nhưng Đài hiểu rõ điều này là không thể bởi bệnh nhân ở chiến trường sẽ tăng lên mỗi ngày. Dù lực lượng quân y đã được mở rộng đáng kể so với hồi đánh Pháp, nhưng thực tế thương vong do công nghệ vũ khí hiện đại và điều kiện chiến trường xa xôi đã khiến họ bị quá tải, phải làm việc tới mức tối đa. “Khi được lệnh vào Nam”, ông Đài kể, “mọi người đều háo hức. Chúng tôi không hề nghĩ rằng sẽ phải ở lại đó tới tám năm. Tôi nhớ hôm chuẩn bị lên đường cùng với một người bạn, anh này và vợ đã đến thăm gia đình tôi. Người vợ hỏi: ‘Các anh định ở trong đấy bao lâu?’. Tôi đáp sẽ ở lại chừng sáu tháng. Cô ấy khóc và bảo: ‘Thế mà nhà em nói sẽ ở lại tới một năm’. Và rốt cuộc, thay vì ở lại sáu tháng, tôi đã ở đó tám năm. Người đàn ông dự định ở lại một năm kia, đã nằm lại mãi mãi. Anh hy sinh tại miền Nam” Có một sự khác biệt về thời gian phục vụ tại Việt Nam đối với một binh sĩ Mỹ so với một người lính Việt Nam. Lính Mỹ thường chỉ tham chiến tại Việt Nam trong mười hai tháng. Việc biết trước ngày xuất https://thuviensach.vn ngũ về mặt nào đó có tác dụng nâng cao ý chí cho binh lính Mỹ - mỗi buổi mai thức dậy đánh dấu một ngày nữa trôi qua, cũng có nghĩa là thời gian phục vụ tại Việt Nam được trừ bớt một ngày. Có rất nhiều loại “dấu mốc” được đánh vào một thời điểm nào đó của quân kỳ, người lính có thể được gọi là “người sắp về” sau khi đã phục vụ quá bán thời gian mười hai tháng quân hạn. Nhưng đối với các chiến binh Việt Nam, không bao giờ có khái niệm “người sắp về”. Đối với họ, thời gian chinh chiến là vô hạn. Mặc dù thời gian phục vụ ở chiến trường của mỗi cá nhân khác nhau, nhưng trải nghiệm của Lê Cao Đài không phải là không đặc trưng. Để giảm nguy cơ mất hết toàn bộ nhân viên của bệnh viện trong trường hợp bị không kích khi đang di chuyển trên Đường mòn Hồ Chí Minh (một con đường tiếp vận bí mật trong rừng, trải dài hàng ngàn cây số xuyên Việt Nam, qua Lào, Campuchia, để Hà Nội chi viện cho các chiến dịch ở miền Nam), Đài chia đoàn Bệnh viện Quân y 211 ra làm ba nhóm. Hai nhóm đi bộ còn nhóm của Đài đi xe tải, cho tới khi Đông Hà (nằm ngay phía Nam vĩ tuyến 17 ở tỉnh Quảng Trị). Tại đây, họ bị không kích và mất hầu hết xe cộ nên bắt buộc phải đi bộ ở chặng đường còn lại. Đoàn của Bệnh viện Quân y 211 hoàn tất cuộc hành trình mà không hề sứt mẻ lực lượng. Vài người ốm nặng, chủ yếu là sốt rét và một số căn bệnh khác, buộc phải trở về Hà Nội, nhưng không có thương vong do súng đạn. Tuy nhiên, với các trang thiết bị y tế thì lại khác. “Đó là những thiết bị rất nặng”, ông Đài giải thích. “Tổng cộng có chừng một ngàn hộp được chuyên chở bằng xe đạp. Tôi tự mình cõng thiết bị phẩu thuật (sau khi bị không kích ở Đông Hà)… Nhưng phần lớn y cụ đều bị mất trong quá trình vận chuyển. Chỉ có chừng một phần mười tới đích… và cũng không còn nguyên bộ… Chẳng hạn, máy X-quang tới nơi nhưng thiếu mất cái ống, máy phát điện và các thiết bị X-quang tới nơi nhưng cái sau thiếu tấm che bằng chì”. Hầu hết các thiết bị đều thất lạc trên đường, còn những thứ đến đích thì đôi khi lại rất buồn cười. “Khi chúng tôi sắp rời Hà Nội, một nữ quân nhân đã chuyển từ guốc sang dùng dép cao su”, ông Đài kể tiếp, “Cô ấy bỏ đôi guốc cũ ấy vào trong hộp. (Dép cao su là một loại dép rất tiện lợi, với đế dép làm từ lốp xe còn quai làm từ săm xe. Đó là loại dép cơ bản của tất cả lính tráng Bắc Việt). Nhiều tháng sau, khi mở một hộp giấy để kiểm hàng thì cô ấy bắt gặp đôi guốc”. Một đôi guốc cũ đã vượt qua bao vụ ném bom và hàng loạt cuộc chuyển giao ở các binh trạm (là cơ sở quân sự hoạt động riêng lẻ và chịu trách nhiệm trong một khu vực) dọc Đường mòn Hồ Chí Minh, trong khi nhiều thiết bị y tế quan trọng thì lại rơi rớt. *** Hai tháng sau ngày khởi hành vào Nam, ba nhóm của Bệnh viện 211 gặp nhau ở Ngã ba Đông Dương, nơi giáp giới giữa Việt Nam, Campuchia và Lào. “Chúng tôi lập bệnh viện ngay giữa biên giới ba nước và ở đó khoảng sáu tháng”, ông Đài kể. “Chỗ này quá xa mặt trận. Vì thế chúng tôi phải dịch vào gần hơn. Tôi đã di chuyển rất nhiều trong suốt cuộc chiến. Nơi tôi ở lâu nhất cũng chỉ chừng một năm. Thường thì tôi chỉ ở một nơi trong khoảng hai tới ba tháng, hoặc cho tới lúc bị lộ. Khi người Mỹ tiến hành phun thuốc rụng lá (Chất độc Cam) trong khu rừng mà chúng tôi đóng trại, thì chúng tôi lại phải chuyển chỗ”. *** Sơ tán một bệnh viện với 400 nhân viên, cùng khoảng chừng 1.000 đến 1.800 người bệnh, là việc không hề dễ dàng. Bên cạnh các yêu cầu hậu cần cho cuộc dịch chuyển, việc thành lập cơ sở mới đòi hỏi rất nhiều nhân công. Một số cơ sở y tế được đặt trên mặt đất, với sự che chắn của cây bụi, nhưng phần lớn phương tiện đều được đặt dưới hầm. Điều này đòi hỏi người ta phải đào một loạt những hầm hở sâu một mét, mỗi cái có sức chứa chừng bốn đến năm người. Bên trên mặt đất nửa mét có mái tre hoặc tranh để che nắng mưa. Một hầm chữ A tránh bom có độ sâu hai mét, sức chứa chừng bốn đến năm người, được đào thông vào căn hầm này. Để lập được một bệnh viện với khoảng 1.000 bệnh nhân và 400 nhân viên đòi hỏi phải đào chừng 280 hầm hở và hầm chữ A. Hầu hết bệnh nhân không thể tham gia đào hầm, vì thế trách nhiệm lại dồn lên các nhân viên y tế và một ít lính bộ binh không đánh trận. Làm một căn cứ mới mất chừng một tháng. Các nguyên tắc được áp dụng trong việc xây dựng bệnh viện chiến trường đã tạo thêm gánh nặng cho https://thuviensach.vn đội ngũ nhân viên. Theo quy định, hầm trú ẩn được bố trí khá xa nhau, cự ly không quá ba mươi mét, để tránh việc một quả bom có thể làm sập hơn một hầm. Việc bố trí hầm cách biệt như thế khiến ông Đài rất khó thực hiện việc kiểm tra bênh nhân và nhân viên khắp bệnh viện mỗi ngày. Ông Đài giải thích: “Chúng tôi bố trí bệnh viện trong một khu vực rất rộng. Vì thế, nếu muốn đi thăm một bệnh nhân, đôi khi tôi phải mất một ngày mới tới nơi. Đi từ đầu này tới đầu kia bệnh viện thường hết một ngày”. *** An toàn là mối quan tâm thường trực. Bệnh viện thường nằm cách chiến trường một khoảng cách an toàn, nhưng đội ngũ nhân viên phải chịu trách nhiệm thường xuyên về vấn đề an ninh bởi họ ở xa các đơn vị quân đội khác. Ông Đài luôn luôn lập một vọng gác trên cây để theo dõi bầu trời do rừng cây rậm rạp khiến việc quan sát mặt đất rất khó khăn. Ông biết rằng kẻ địch thường sử dụng trực thăng để thả quân nhằm tiếp cận mục tiêu nhanh và trực tiếp. Duy trì việc quan sát bầu trời thường xuyên giúp bệnh viện có thể phát hiện sớm sự hiện diện của địch trong khu vực. Việc canh phòng vì thế trở thành nhiệm vụ hằng ngày của bệnh viện. Khi thấy trực thăng, người trinh sát, thông qua điện thoại hữu tuyến, thông báo với ông Đại về hướng cũng như cự ly. Cây cối rậm rạp tới mức nhiều khi người quan sát không thể biết được chiếc trực thăng, bị che khuất sau những rặng cây, sẽ thực sự đáp xuống hay chỉ bay ngang qua. Nhưng Đài không bao giờ bỏ qua một chi tiết nhỏ nào. Ông tin mọi chuyển động đó đều là nỗ lực của kẻ thù để đưa các đội biệt kích do thám vào khu vực. Sau khi được báo cáo về cự ly và phương hướng của máy bay, Đài thường hành động ngay lập tức. “Tôi có thể điều một nhóm người bảo vệ bệnh viện”, ông nói. “Đôi lúc họ phải chiến đấu. Có lúc họ mới bắn vài loạt thì đám biệt kích đã lùi ngay, gọi trực thăng tới để rút. Tôi đã thấy lính biệt kích rất nhiều lần. Do máy bay không thể đáp xuống vì rừng quá dày, người ta thường dùng dây thả từ trực thăng để lính đu xuống… Đôi khi chúng tôi thấy bốn năm gã đang đu dưới bụng trực thăng. (Đây là phương pháp SPIE – kỹ thuật đổ/rút quân phục vụ mục đích đặc biệt – được sử dụng để đổ/rút quân nhanh chóng mà không cần đáp trực thăng. Lính biệt kích mặc áo giáp được gắn vào một sợi dây bên dưới bụng trực thăng, từng đôi một. Trong trường hợp đổ quân, sau khi cất cánh từ căn cứ, họ đu lủng lẳng dưới bụng trực thăng để bay tới đích. Một khi tới nơi, máy bay hạ dần độ cao để một cặp lính biệt kích tiếp đất, cởi móc áo giáp ra rồi chạy vào rừng để yểm trợ cho cặp tiếp theo. Khi rút quân thì tiến trình đảo ngược lại). Đôi khi tôi chứng kiến mấy tay lính biệt kích chết bởi lúc trực thăng bốc lên, họ bị vướng vào cành cây cao và rơi xuống đất. Chúng tôi buộc phải tự bảo vệ mình. Nếu bị phát hiện, tôi phải ra lệnh rời đi. Lý do chúng tôi phải di chuyển rất đơn giản – chúng tôi biết chắc rằng một vụ ném bom B-52 sẽ được thực hiện trong cái đêm mà căn cứ bị phát hiện.” Có một lần, đơn vị của Đài đã bắn rơi một trực thăng Mỹ bay sát cơ sở của ông. Họ chỉ bắn súng trường để xua máy bay đi, không ngờ chiếc máy bay lại đâm xuống đất. “Tôi thấy dường như đạn không phá hỏng máy bay bao nhiêu”, ông kể. “Tại hiện trường, tôi thấy chỉ có một lỗ thủng nhỏ do đạn gây ra. Có lẽ nó đã làm đứt một sợi dây nào đó. Chiếc máy bay bị rơi chở chừng sáu người. Lúc chúng tôi đến thì không còn ai ở đó. Sau khi máy bay rơi, người Mỹ đã lập tức điều nhiều trực thăng khác tới giải cứu”. Ông Đài nhớ lại, trước khi rời Hà Nội để vào Nam, ông từng được nghe kể rất ngắn gọn về cuộc sống trong rừng rậm. “Thủ trưởng của tôi đã ở một năm tại miền Nam trước khi trở lại miền Bắc”, Đài kể. “Ông ấy bảo tôi rằng hãy cứ hình dung cuộc sống ở nơi đó như Robinson Crusoe trên hoang đảo ấy”. Chẳng bao lâu sau Đài nhận thấy rằng thượng cấp của mình đã không hề cường điệu. “Thiếu thốn đủ đường. Chúng tôi thậm chí không có dao phẫu thuật”. Để tồn tại và duy trì chức năng của một bệnh viện chiến trường, nhóm của ông Đài đã phải ứng biến trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Đài và các thành viên trong bệnh viện nhanh chóng tìm ra cách thức để bù khuyết cho thiếu thốn. Ông rất hài lòng trước sự tìm tòi sáng tạo của nhân viên trong việc sử dụng những thiết bị dường như chẳng liên quan gì tới y tế. Điều trớ trêu là những vật dụng không liên quan tới y tế mà họ sử dụng vào mục đích chữa bệnh ấy lại đến từ một nguồn rất dồi dào nhưng lại ngoài mong đợi – đó là Chính phủ Mỹ. https://thuviensach.vn Trong rất nhiều thiếu thốn mà Bệnh viện Quân y 211 đối mặt, thiếu thiết bị mổ là một bài toán nan giải. Ông Đài kể về việc xoay xở của đội ngũ nhân viên: “Chúng tôi sử dụng mảnh kim loại, thường là từ số bom không phát nổ của Mỹ. Chúng tôi lấy kim loại từ những quả bom đó để làm dao mổ và một số thiết bị khác. Chúng tôi cũng dùng kim loại từ vỏ đạn pháo, hoặc mảnh nhôm từ xác máy bay. Tất cả các nhu cầu về y tế được đáp ứng theo kiểu này – từ thiết bị phẫu thuật, hộp tiệt trùng y cụ, ống nghe…”. Ông Đài nhấn mạnh: “Chúng tôi không bỏ phí thứ gì mà người Mỹ cung cấp”. Bất cứ phế liệu nào cũng được tháo tung rồi chế tác để sử dụng vào việc này việc kia. Chẳng hạn như pháo sáng được người Mỹ thả xuống vào ban đêm để quan sát hoạt động của quân Bắc Việt bên dưới đã cung cấp vật liệu cho rất nhiều ứng dụng: ống pháo sáng được dùng làm ống nghe; dây dù được tách ra để làm chỉ khâu y tế; vải dù dùng để băng bó. Khi phát hiện máy bay rơi, người ta nhanh chóng đến tìm kiếm những vật liệu còn sót lại để dùng. Dây điện được tháo từ máy bay, sau đó tách vỏ cao su ra khỏi lõi kim loại. Vỏ cao su dùng làm ống truyền tĩnh mạch. “Người Mỹ giúp chúng tôi rất nhiều trong thời buổi thiếu thốn thiết bị”, ông Đài cười. Bệnh viện cũng thiếu ống tiêm. Một lần nữa, các nhân viên y tế dựa vào trí sáng tạo của mình. “Thoạt tiên, chúng tôi không có cách nào đựng thuốc để tiêm”, ông Đài giải thích. “Chúng tôi phải dùng lại nhiều lần ống tiêm thủy tinh. Sau khi tiêm kháng sinh hoặc một vài loại thuốc khác, chúng tôi giữ lại ống tiêm để dùng tiếp. Nhưng không thể giữ tất cả lại được… Vì thế, chúng tôi quyết định sản xuất ngay tại bệnh viện…Khi có một đơn vị mới từ Hà Nội vào, tôi hỏi sĩ quan chỉ huy rằng anh ấy có người thợ thủ công nào không. Anh ấy có ba người. Họ bảo tôi để làm ống tiêm thì chỉ cần thủy tinh hoặc chai lọ cũ là đủ. Từ đó, việc sản xuất ống tiêm trở nên rất dễ dàng. Vào giai đoạn này – từ năm 1967 đến 1968 – chúng tôi bắt đầu giải phóng một số vùng ở Campuchia. Bên trong và xung quanh các cơ sở quân sự ở Campuchia có rất nhiều chai bia và sôđa rỗng, một nguồn vật liệu tốt để làm ống tiêm. Những thợ thủ công kia nói với chúng tôi rằng điều quan trọng nhất là xây cái hầm lò để đun thủy tinh. May thay lúc đó không hiểu sao có một ít gạch trong kho. Không biết ai đã lệnh đưa gạch tới đây nhưng chúng tôi có hơn chục viên gạch để làm lò. Sức nóng của lò cũng là điều quan trọng. Rất dễ để có than củi ở trong rừng. Nhưng than củi không cho sức nóng tốt bằng than đá. Một người ở binh xưởng vũ khí rất rành về lĩnh vực này. Anh ấy nói có thể dùng than củi nhưng không phải loại thường. Đó là loại than củi được đốt trong điều kiện yếm khí. Loại than này cho nhiệt lượng cao. Chúng tôi đã làm theo chỉ dẫn của anh ấy. Sau khi đã có lò nung và loại than cần thiết, chúng tôi bắt đầu nấu chảy thủy tinh. Các thợ thủ công sau đó thổi thành ống tiêm… Chúng tôi đã vận dụng sự sáng tạo của mình để sản xuất ống tiêm trong suốt cuộc chiến”. Khi người Mỹ không cung cấp đủ vật liệu cần thiết đáp ứng nhu cầu của bệnh viện, ông Đài lại ứng biến – chẳng hạn khi thiếu chất cồn sát trùng dẫn đến tình trạng nhiễm trùng. “Chúng tôi có một ít thuốc khử trùng mang từ Bắc vào”. Đài nhớ lại. “Nhưng thiếu cồn trầm trọng. Vì thế tôi cử nhân viên tới gặp ‘người dân tộc’. (Người Việt Nam gọi các nhóm dân tộc ít người bản địa sống ở vùng rừng núi là “người dân tộc” hoặc đơn giản chỉ là “dân tộc”.) Họ biêt cách làm cồn. Họ thường nấu rượu – rượu gạo. Nhưng vấn đề khó khăn ở đây là chúng tôi không biêt cách ủ men. Vì thế chúng tôi tới gặp người dân tộc để tìm hiểu xem họ dùng lá cây gì để gây men. Sau đó, chúng tôi trồng sắn để lấy tinh bột phục vụ cho việc nấu cồn”. Đội ngũ nhân viên Bệnh viện Quân y 211 còn học cách sử dụng chất liệu thảo mộc để chữa bệnh từ người dân tộc. Một số thứ dùng để gây buồn ngủ; một số khác được sử dụng như vitamin. “Chúng tôi còn học từ đồng bào dân tộc cách để trị sốt rét – chẳng hạn như dùng giun đất”, ông Đài cho biết. “Chúng tôi nấu giun đất lên và lấy chất nhớt của nó để trị bệnh”. Những phương pháp này chưa có cơ sở lý luận khoa học, ông Đài nhìn nhận, nhưng người dân tộc thiểu số - dù có cuộc sống lạc hậu – xét về khía cạnh ứng dụng thảo mộc để chữa bệnh thì họ là bậc thầy. “Gần đây”, ông đưa dẫn chứng, “có một bài báo trên tạp chí ở Pháp cho biết cộng đồng y khoa đã nhìn nhận giá trị của loài giun đất”. https://thuviensach.vn Việc cung cấp điện năng tối thiểu cho bệnh viện cũng là thách thức lớn. Ở những nơi có suối nước, người ta có thể xây trạm thủy điện nhỏ. Nhưng thông thường, họ dựa vào máy phát chạy dầu. Ông Đài hồi tưởng, trước năm 1967, “không có dầu để chạy máy phát nên quân của chúng tôi phải phục kích các đoàn xe đối phương để cướp dầu”. Nhưng các trường hợp cấp cứu thì không thể chờ đợi dầu được. Bác sĩ phải phẫu thuật ngay khi người bị thương được đưa đến, dù lúc đó có dầu để chạy máy phát hay không. Vì thế, đối với đơn vị của ông Đài, nhiều khi phải dùng một nguồn năng lượng có sẵn – sức người. Người ta nối một chiếc xe đạp vào máy phát. Lúc Bác sĩ Đài đã sẵn sàng phẫu thuật cho bệnh nhân, một người có sức khỏe được cử ra đạp xe để làm chạy máy phát. Ban đầu đèn điện trong phòng mổ nhập nhòe khi máy phát hoạt động. Đến lúc người lính kia bắt được nhịp, đèn sáng ổn định hơn, và Bác sĩ Đài bắt tay vào phẫu thuật. Người lính đạp xe kia trở thành chiếc phao cứu sinh cho bệnh nhân, cung cấp điện thắp sáng trong phòng mổ cũng như vận hành các thiết bị liên quan. Khi người lính này mệt, người khác sẽ lên thay. “Đôi khi”, ông Đài kể, “tôi phẫu thuật suốt đêm với nguồn điện được cung cấp bằng hình thức ấy”. Việc thiếu điện còn gây ra nhiều vấn đề khác, chẳng hạn không thể dùng tủ lạnh để bảo quản máu. Những người lính khỏe mạnh không thể hiến máu vì họ phải giữ sức để chiến đấu ngoài mặt trận. Vì thế, trách nhiệm hiếm máu dồn lên vai các nhân viên bệnh viện. “Đội ngũ nhân viên y tế thường xuyên hiến máu”, ông Đài hồi tưởng. “Tôi cũng đã nhiều lần hiến máu cho bệnh nhân… Tôi thường hiến máu sau, chứ không phải trước, mỗi ca phẫu thuật”. (Vì lý do trên mà người ta phải thực hiện việc truyền máu trực tiếp từ người cho tới người nhận và không bao giờ vượt quá năm mươi đến một trăm mililít. Trước khi rời Hà Nội, các nhân viên đã được kiểm tra nhóm máu nên họ biết rằng mình có thể hiến cho ai và không thể hiến cho ai. Khi có người lính bất tỉnh và không xác định được nhóm máu của anh ta, một nhân viên nhóm máu O sẽ là người cho máu). Đội ngũ y tế ở đây còn đối mặt với tình trạng thiếu giấy trầm trọng. Ông Đài diễn giải: “Chúng tôi cần ghi chú tình hình sức khỏe bệnh nhân nhưng lại thiếu giấy. Ban đầu, không có mẩu giấy nào. Chúng tôi thường bóc nhãn chai lọ rồi viết vào mặt sau”. Mỗi năm, ông Đài thường tuyên dương các thành viên của bệnh viện vì những đóng góp cá nhân của họ, tặng họ giấy chứng nhận thành tích. Nhưng vì thiếu giấy trầm trọng, rốt cuộc ông đã sử dụng những tấm bằng khen để viết nhật ký sức khỏe bệnh nhân. Thế là đến lúc trao giải, ông phải vắt óc suy nghĩ phương cách mới. “Tôi chẻ tre ra và dùng mặt bên trong để viết bằng khen”, ông chia sẻ. Sự thiếu thốn thường trực và nghiêm trọng nhất đó là thực phẩm. Nhiệm vụ cung cấp thức ăn lại dồn lên đầu đội ngũ nhân viên y tế, vốn đã phải căng sức với công việc chăm sóc và bảo vệ an toàn cho bệnh nhân. Ông Đài kể: “Chúng tôi hầu như không được cung cấp lương thực, thực phẩm. Thế nên nhân viên phải tự xoay xở. Trong suốt tám năm, chúng tôi thường xuyên trồng sắn, chứ gạo nhận từ quân đội rất ít. Cùng với gạo, quân đội cũng cung cấp ít muối, bột ngọt. Nhưng chúng tôi phải trồng sắn để có cái ăn. Quân đội chu cấp gạo cho tất cả bệnh nhân là quá may mắn rồi. Chúng tôi còn tổ chức các nhóm săn và đánh cá để cái thiện bữa ăn. Đánh cá thì dùng lưới; còn đi săn thì dùng súng AK-47 (súng tiểu liên tự động). Chúng tôi săn lợn lòi, nai và khỉ. Khỉ là một phần thực phẩm dồi dào. Có lần, thậm chí chúng tôi còn giết thịt một con cọp. Chúng tôi cũng săn voi – rất nhiều voi. Trong năm đầu tiên ở miền Nam, chúng tôi giết mười tám con voi… Mỗi con voi cho hàng trăm cân thịt. Khi bắn hạ được một con voi, số thịt nào mà không bảo quản được thì phải ăn càng nhanh càng tốt. Mỗi con voi có thể cho chúng tôi thức ăn trong chừng một tháng. Thịt (voi) bắt đầu ôi và bốc mùi sau hai mươi bốn giờ nên phải tìm cách để bảo quản. Đôi lúc thịt được trữ trong dòng suối mát. Lúc khác, chúng tôi lại phơi khô. Lại có lúc chúng tôi muối thịt, dù muối ở chốn rừng núi rất khan hiếm”. Phát hiện con mồi chỉ là một trong nhiều vấn đề mà các thợ săn của ông Đài phải đối mặt. Sau khi giết con voi đầu tiên, họ gặp nhiều khó khăn khác: https://thuviensach.vn “Ban đầu chúng tôi hầu như không thể xẻ thịt voi được vì da chúng rất dày. Một bác sĩ phẫu thuật liền đề nghị mổ bụng voi ra, sau đó đứng vào trong bụng và cắt từ trong ra ngoài. Nhân viên của tôi đã đứng vào bụng voi để xẻ thịt, máu ngập tới mắt cá. Thật khủng khiếp”. Một số bộ phận của voi được ưa chuộng hơn những phần khác. “Những thứ ăn ngon nhất trong cơ thể voi”, ông Đài chia sẻ kinh nghiệm của một người sành ăn thịt voi, “là vòi và phần gần gan bàn chân”. Không thể lấy hết thịt từ cơ thể con thú. “Không phải lúc nào chúng tôi cũng có thể róc hết thịt”, Đài cho biết. “Khó mà xẻ thịt ở phía cơ thể con vật tiếp với mặt đất khi bị ngã xuống do trúng đạn. Phần thịt đó bị sức nặng toàn bộ cơ thể voi đè lên nên bị nén rất chặt, không cắt được”. Khi xẻ thịt voi được rồi, việc vận chuyển cũng là thách thức lớn. “Chúng tôi hối hả lấy càng nhiều thịt càng tốt”, ông Đài giải thích. “Có điều địa điểm nơi voi bị bắn thường ở rất xa bệnh viện – hầu hết đều cách xa chừng năm mươi cây số để tránh làm lộ cơ sở chữa bệnh. Mỗi khi bắn xong là xạ thủ phải trở về bệnh viện để gọi thêm người tới róc thịt và vận chuyển chiến lợi phẩm. Thời gian cho việc vận chuyển khá dài, đến nỗi nhiều lúc thịt bắt đầu bốc mùi khi về tới nơi”. Mùi vị thịt voi thật chẳng xứng với công sức mà người ta bỏ ra. “Thịt voi – tương tự thịt cọp – chẳng ngon lành gì”, ông Đài tâm sự. Dù thế, người ta vẫn cố lấy càng nhiều thứ càng tốt từ con vật bị giết – ngay cả xương cũng được tận dụng. Xương voi và cọp được nghiền nát rồi trộn với một số thứ khác để tạo nên loại rượu thuốc trị thấp khớp. Có một chuyến đi săn đã dẫn đến phát hiện thú vị. Không nhớ chính xác thời điểm (năm 1970 hay 1971), ông Đài chỉ nhớ rằng sự việc diễn ra ở vùng biên giới giữa Việt Nam và Campuchia. Lúc đó, nhóm đi săn gặp xác một chiếc trực thăng rơi. Họ đã lục soát để tìm các vật khả dụng và phát hiện sáu hay bảy bộ xương gì đấy. Chiếc máy bay này chở bốn hoặc năm lính biệt kích miền Nam cùng hai người Mỹ. Quan sát cây cối mọc um tùm tại hiện trường cũng như hiện trạng các bộ xương, đoàn thợ săn phỏng đoán máy bay đã rơi cách đấy chừng một hoặc hai năm. Dấu răng trên các bộ xương cũng như sự phân tán của chúng cho thấy các thi thể này từng bị thú rừng ăn thịt. Trên xương cổ tay của một bộ xương phía trong máy bay có chiếc đồng hồ Seiko. Dây đồng hồ khắc chữ “Buôn Mê Thuột”, một địa danh ở tỉnh Đắk Lắk. Tháo chiếc đồng hồ khỏi bộ xương, một thợ săn khẽ lắc nó. Vừa lắc xong, người này ngạc nhiên khi thấy chiếc đồng hồ hoạt động trở lại – dường như là một sự gợi nhắc nhẹ nhàng cho nhóm thợ săn rằng thời gian vẫn trôi trong cuộc đời của người này, rất lâu sau khi cái chết đến với người khác. *** Việc săn bắt và đánh cá không thể cung cấp đủ thức ăn cho đội ngũ nhân sự bệnh viện. Vì thế họ buộc phải làm ruộng. “Chúng tôi có một quy định”, ông Đài cho biết. “Mỗi đơn vị đều phải trồng sắn. Phải trồng tới một trăm hécta mỗi năm để có đủ lương thực cho đơn vị. Cách trồng sắn rất thô sơ. Đầu tiên, chúng tôi tìm những khu đất thích hợp trong rừng, tốt nhất là một khu đất phẳng, gần suối. Thông thường những nơi này có nhiều cây cối, chúng tôi phải đốn xuống và chờ đến khi xác cây khô vào tháng Ba hoặc tháng Tư – lúc mùa mưa bắt đầu. Đến lúc đó chúng tôi đốt xác cây để dọn sạch khu đất. Chúng tôi dọn hết các cây còn sót lại. Sau đó thì trồng sắn và lúa. Trỉa lúa là việc rất khó. Chúng tôi dùng hai cây gậy – người đi trước cầm gậy chọc xuống đất tạo thành hai lỗ. Người đi sau thả hạt lúa vào lỗ rồi nhanh chóng khỏa đất để lấp hạt lúa lại, bằng không chim sẽ ăn mất. Rồi chúng tôi chờ tới mùa mưa. Lúa chín và chúng tôi thu hoạch. Việc thu hoạch đều làm bằng tay – không dùng bất cứ công cụ nào, chẳng hạn cái hái, vì loại lúa này rất dễ rụng. Chúng tôi không cắt lúa cũng vì lý do an ninh nữa. Khi đang thu hoạch, máy bay có thể lượn trên đầu. Thế nên việc chừa lại cây lúa là để có chỗ ẩn nấp… Bất cứ nhân viên nào rảnh đều phải lặn lội nguyên ngày từ bệnh viện tới rẫy để thu hoạch… Họ tránh bị phát hiện bằng cách ngồi xổm giữa những bụi lúa, rồi lấy tay tuốt cho hạt lúa rời ra và bỏ vào chiếc giỏ mang sau lưng. Bằng cách này, họ tránh bị phát hiện”. Các khu canh tác thường nằm cách xa bệnh viện chừng hai mươi tới ba mươi cây số. Vì thế, khi họ đốt xác cây để dọn rẫy hay khi lúa chín, dù bị máy bay phát hiện thì cũng không hề gì, bởi phi công thường tưởng đó là ruộng của người dân tộc trong vùng. Nhưng cũng có khi lính Mỹ nhận ra, thế là ông Đài và https://thuviensach.vn đồng đội đành phải nhìn bao công lao của mình thành tro bụi khi ruộng bị phun hóa chất gây rụng lá. Trong trường hợp đó, thật khó để bòn mót được gì từ đồng lúa, nhưng họ vẫn cố gắng vớt vát đôi chút từ rẫy sắn. Do củ sắn nằm sâu dưới đất, họ cố gắng đào lấy củ trước khi chất độc thấm xuống. *** Lính Việt Nam trong khu vực thường tiếp xúc với các cộng đồng dân tộc ít người, vốn đã định cư ở đây hàng ngàn năm. Ông Đài nhớ lại chuyện liên quan tới một anh lính và cô gái người dân tộc trẻ đẹp. “Người dân tộc rất hồn nhiên”, ông nói. “Có lần chúng tôi dừng chân ở điểm phát lương thực cho bộ đội. Tôi chợt thấy một cô gái dân tộc đứng gần đấy tỏ vẻ rất giận dữ. Người dân tộc rất tốt bụng nhưng cũng dễ nổi nóng. Tôi liền tiến đến và hỏi điều gì khiến cô ấy bực mình như thế. Nhưng cô ta chỉ lặp đi lặp lại: ‘Một là một, hai cũng là một’. Cô ấy cứ nhắc đi nhắc lại câu đó, và sau mỗi lần nói thì nỗi giận dữ càng dâng lên. Tôi cố hỏi cô ta có điều gì phiền toái vậy và câu ‘Một là một, hai cũng là một’ nghĩa là gì. Cô ấy không muốn nói với tôi nhưng tôi cứ nài nỉ mãi. Cuối cùng cô ấy mới chịu nói. Số là có một anh lính bảo rằng nếu cô cho anh ta sờ vú thì anh ta sẽ tặng cô một chiếc kẹp tóc. Cô gái đồng ý và để cho anh ta làm điều đó. Anh ta tiến tới chạm tay vào cả hai vú của cô – nhưng chỉ đưa cho cô một chiếc kẹp. ‘Anh ta sờ hai bên’, cô gái nói. ‘Lẽ ra anh ta phải đưa cho tôi hai chiếc kẹp’. Khi cô gái kết thúc câu chuyện, tôi hỏi người nào đã làm điều đó với cô. Tôi nhìn quanh và phát hiện một anh lính trẻ đang nhìn chúng tôi rồi chợt quay mặt đi lảng tránh. Tôi biết đó là thủ phạm. Tôi gọi anh chàng và hỏi tại sao lại làm điều đó với người ta. Anh chàng còn rất trẻ, mép lún phún ria. Tôi nói với anh ta rằng làm như vậy là không nên. Và tôi bảo anh ta, giờ đã lỡ làm rồi thì cũng không nên ăn gian làm gì. Anh chàng bối rối thừa nhận: ‘Tại em chỉ có mỗi cái kẹp thôi’”. Người dân tộc nhiều khi là nguồn cung cấp một số vật dụng cần thiết. Để có được điều đó, người ta phải thực hiện đổi chác – thông qua một tiến trình thương lượng mà người dân tộc luôn tỏ ra rất thành thạo và giỏi sắp xếp. “Họ không dùng tiền mặt. Thậm chí họ không biết sử dụng tiền như thế nào, điều này không phải là trở ngại bởi lính tráng chúng tôi cũng chẳng có tiền. Vì vậy, chúng tôi thường trao đổi… Chẳng hạn, nếu anh muốn mua một con lợn, anh phải đưa cho họ một số thứ có giá trị tương đương. Có lần tôi đưa cho nhân viên chiếc đồng hồ và bảo cậu ta đi đổi một con lợn của đồng bào. Nhưng khi trở về, câu ta bảo không đổi được. Cậu ta kể rằng người dân tộc nói họ không thể đeo đồng hồ khi bơi dưới suối. À, thì ra chiếc đồng hồ Liên Xô này không có tính năng chống thấm. Người dân tộc thường xuống suối đánh cá và họ đủ thông minh để biết rằng chiếc đồng hồ đó không phù hợp”. Ông Đài nhớ lại một lần trao đổi khác: “Có hôm tôi đem mấy chiếc quần đùi đi đổi một con lợn. Tôi tới ngôi làng gần đấy. Người dân tộc mà tôi gặp bảo rằng ông ta sẵn sàng đổi lợn lấy quần đùi. Nhưng ông ta chỉ chịu đưa cho tôi con lợn bé tí. Tôi thấy có con lợn to hơn liền nói với ông ta rằng tôi muốn con kia. Ông ấy liền hét lên rằng nếu tôi đem tới chiếc quần rộng hơn thì ông ta mới chịu đổi con lợn lớn hơn”. Thời chiến tranh, một số người dân tộc được đưa ra Hà Nội để tham gia một khóa đào tạo về y tế do chính quyền Việt Nam triển khai. Ông Đài nhớ chuyện một người dân tộc đi chợ ở Hà Nội và lần đầu tiên làm quen với tiền mặt. Nhiều tờ tiền có mệnh giá khác nhau ở Việt Nam đều in hình lãnh tụ Hồ Chí Minh, và điều này gây bối rối cho người kia. Ông Đài kể: “Ông ta rất lúng túng khi sử dụng tiền. Ông ta kể: “Khi mua hàng, tôi đưa cho người bán một tờ giấy có hình Bác Hồ, nhưng rồi họ đưa trả lại cho tôi nhiều tờ giấy có hình Bác Hồ". Một câu chuyện liên quan tới người dân tộc đã cho ông Đài thấy rằng có những thứ hợp lý với người này thì lại bất hợp lý với người kia – tùy theo góc nhìn. Có một người dân tộc được tặng chiếc huy hiệu mang hình Hồ Chí Minh. Ông ta liền đeo ngược huy hiệu trên túi áo. Khi có người nói rằng đeo như vậy là sai, ông ta đã cự lại. Ông ta giải thích rằng đeo như thế mới đúng, bởi khi cúi xuống để nhìn vào hình Bác Hồ, ông ta thấy hình nằm ở một tư thế đúng – đầu ông và đầu Bác Hồ cùng hướng với nhau. Nếu đeo theo chiều kia, ông giải thích, thì khi cúi xuống nhìn huy hiệu ông ta sẽ thấy hình Bác Hồ ngược lại. Người dân tộc có nhiều truyền thống rất lạ. Một trong những truyền thống đó là tục cà răng. Họ tin tục này – thường được cha mẹ làm cho những đứa trẻ mới lên mười hai tuổi – sẽ giúp sống lâu, nếu không cà https://thuviensach.vn răng thì sẽ chết yểu. Bên cạnh đó còn có tục xăm mình, đặc biệt là xăm trên mặt, và tục xâu tai. (Người giàu có thường đeo bông tai bằng ngà, trong khi người nghèo thường xỏ một que tre). Khi làm quen với cuộc sống đô thị ở Hà Nội, một vài người dân tộc bắt đầu hoài nghi về các truyền thống lâu đời của mình. Chẳng bao lâu sau họ không còn cà răng và xâu tai nữa. Thời điểm Bệnh viện 211 lần đầu tiên vào miền Nam, các phụ nữ dân tộc thường để ngực trần. Ông Đài nhớ lại: “Có một gia đình dân tộc sống gần bệnh viện. Một ngày nọ tôi thấy những nữ thành viên của gia đình này bắt đầu mặc áo ngực. Tôi nhận ra rằng nữ nhân viên của tôi đã lấy áo ngực để đổi thực phẩm của bà con dân tộc”. *** Rất nhiều lần, ông Đài thực hiện nhiệm vụ trong những điều kiện rất nghiệt ngã: “Đôi khi tôi thức suốt đêm để phẫu thuật và ngủ vào ngày hôm sau. Nhiều lúc bom rơi xung quanh. Phòng phẫu thuật nằm lộ thiên nhưng trong tình huống quá nguy hiểm, chúng tôi chuyển xuống hầm… Một buổi chiều năm 1969, tôi bắt đầu cuộc phẫu thuật ở phòng mổ lộ thiên. Bỗng có tiếng trực thăng rất gần. Viên phi công chắc hẳn đã nhìn thấy chúng tôi và báo về căn cứ bởi sau đó một chốc tôi đã nghe tiếng phản lực gầm. Giai đoạn này chính quyền Sihanouk mới bị lật đổ ở Campuchia và người Mỹ thường ném bom dọc biên giới. Khi máy bay phản lực Mỹ vù qua trên đầu, chiếc trực thăng thả một quả bom khói để chỉ điểm vị trí của chúng tôi. Có một bác sĩ hỗ trợ tôi trong ca mổ. Khi vụ tấn công bắt đầu, chúng tôi chuyển bệnh nhân xuống hầm… Ống truyền máu và các thiết bị khác tạm thời được ngắt. Chúng tôi chuyển bệnh nhân chạy qua một giao thông hào nhỏ để đến hầm. Suốt thời gian đó, tôi vẫn đeo găng và không đụng vào thứ gì cả. Sau khi đã tới hầm, tôi tiếp tục mổ. Vừa lúc tôi kết thúc ca phẫu thuật, một chiếc máy bay đã phóng tên lửa phá tan phòng mổ ban đầu của chúng tôi”. Suốt tám năm làm nhiệm vụ ở miền Nam, ông Đài chỉ ra Bắc một lần. Tháng 10 năm 1970, ông được điều ra Hà Nội để dự hội thảo về phẫu thuật cho thương binh. Nhằm chữa trị tốt hơn cho người bị thương trên chiến trường, hội thảo đã được tổ chức để phân tích và đánh giá các kỹ thuật mổ của những bác sĩ chuyên điều trị chấn thương từ chiến trường. Có bảy người khác đi cùng ông Đài trong chuyến ra Bắc theo Đường mòn Hồ Chí Minh. “Chúng tôi đi bộ”, ông Đài nhớ lại. “Phải mất chừng hai tháng cho chuyến đi ra Bắc và hơn hai tháng để trở về Nam. Tôi ở lại Hà Nội trong hai tháng trước khi về Nam. Có rất nhiều binh trạm dọc Đường mòn, chúng tôi đi bộ từ trạm này tới trạm khác với sự dẫn đường của một người giao liên. Sau khi qua đêm ở một binh trạm, sáng hôm sau chúng tôi lên đường cùng một giao liên khác để đến điểm kế tiếp. Các binh trạm cấp thức ăn – chừng một nắm gạo – và nước uống cho chúng tôi trước khi chúng tôi lên đường. Cứ thế chúng tôi đi mãi…”. Con Đường mòn mà Đài đã đi hồi năm 1966 rất khác với chính nó khi ông trở ra Bắc bốn năm sau. Con đường của năm 1970 bớt ngoằn ngoèo hơn. Ông Đài không còn phải thực hiện hành trình rất dài mỗi ngày như chuyến đi trước kia. Thêm vào đó, các binh trạm giờ đây đóng gần nhau hơn, cho phép đoàn có nhiều điểm nghỉ ngơi hơn. “Mất chừng bảy đến tám tiếng để đi từ binh trạm này tới binh trạm kia”, ông Đài cho biết. “Nhưng càng về sau thì khoảng cách càng ngắn hơn nên chúng tôi chỉ đi chừng bốn hay năm tiếng… Tôi mang theo một bàn cờ nhỏ và mỗi lần dừng chân là chúng tôi chơi cờ… Con ngựa trên đường về nhà thường hối hả hơn lúc ra đi. Có ngày chúng tôi hoàn tất tới hai chặng giữa các binh trạm, thay vì chỉ một chặng… Khoảng sau mỗi ba hoặc bốn ngày, chúng tôi lại dừng chân lâu hơn để tắm rửa trước khi đi tiếp. Sau gần hai tháng đi bộ tới Quảng Bình, chúng tôi được xe tải chở ra Hà Nội”. Lúc bắt đầu chuyến trở về Bắc, ông Đài linh cảm chẳng lành. “Tôi có một linh cảm trước chuyến đi – một cảm giác rằng có chuyện gì đó không hay sẽ xẩy ra. Trong suốt hành trình, tôi cứ nghĩ về cuốn tiểu thuyết của một nhà văn Nga nha đề ‘Bão táp’ viết về Chiến tranh Thế giới thứ II. Trong cuốn sách, trước khi có điều xấu xẩy ra đến với nhân vật chính, anh ta thường có linh cảm… Vì thế tôi nghĩ về nhân vật https://thuviensach.vn chính của cuốn tiểu thuyết. Khi vừa khởi hành thì có một trận không kích. Chúng tôi nấp dọc vệ đường và, dù không bị thương, tôi lại nhớ đến nhân vật trong cuốn sách kia. Đến gần Hà Nội, tôi gặp một nhóm người đang đi theo chiều ngược lại, trong đó có vài người quen. Chúng tôi rất vui khi gặp lại nhau. Họ chuyển cho tôi năm, sáu lá thư đề tên tôi. Trong đêm đó tôi không đọc lá thư nào vì bận nói chuyện với mọi người. Mãi đến ngày hôm sau, khi các bạn tôi chia tay để tiếp tục Nam tiến, tôi mới bắt đầu đọc thư. Tôi rất ngạc nhiên là không có thư vợ tôi. Không hiểu tại sao. Chỉ toàn thư bạn bè thôi. Tôi mở một lá thư ra. Dòng đầu tiên đập vào mắt tôi là: ‘Cúng mình mới nhận được tin buồn. Xin chia buồn về chuyện con gái của bạn’. Một lần nữa tôi lại ngạc nhiên. Tôi đuổi theo những người bạn kia và hỏi họ điều gì đã xẩy ra với con gái tôi. Họ biết rằng tôi không hề hay chuyện bởi tôi đã không đọc hết những lá thư mà họ chuyển tới – và hy vọng sẽ không phải báo tin cho tôi. Sau đó họ kể rằng con tôi bị tai nạn. Con bé bị ngã từ trên một tòa nhà xuống và chết. Khi gặp lại vợ tôi, cô ấy đã kể lại câu chuyện và khóc rất nhiều”. Cô bé mười bốn tuổi ấy là đứa con duy nhất của ông Đài. *** Không có gì đáng ngạc nhiên khi những tin tức đó không đến được chỗ ông Đài. Hệ thống chuyển thư thời bấy giờ chủ yếu dựa vào những người vào Nam công tác, hoặc ngược lại. Đó là một quá trình dài và chậm – liên tục bị gián đoạn vì các trận ném bom, vì tật bệnh hoặc cái chết của người đưa thư, hoặc vì những di chuyển chiến thuật của đơn vị người nhận thư, v.v. “Mất rất nhiều thời gian thì thư mới tới nơi”, ông Đài giải thích. “Có khi phải mất tới sáu tháng hoặc hơn. Có lần, em trai tôi cưới vợ và viết thư để thông báo cho tôi. Tôi gửi thư chúc mừng đến cậu ấy. Nhưng mãi sau khi cậu ấy có đứa con đầu lòng thì mới nhận được thư mừng đám cưới. Thư rất dễ thất lạc trong quá trình vận chuyển kiểu này”. Ngày tháng đề trên thư là rất quan trọng đối với người nhận. Bác sĩ Đài nhớ lại rằng có một danh sách người hy sinh khi làm nhiệm vụ được chính quyền ở Hà Nội công bố, trong đó có một bác sĩ trùng tên với ông. “Vợ tôi tưởng tôi đã chết. Cô ấy khóc hàng tháng trời cho đến khi nhận được thư tôi” – thư đề ngày tháng sau thời điểm Bác sĩ Đài kia chết. Hệ thống chuyển thư có phần không đáng tin cậy ấy đã tạo điều kiện cho kẻ thù thực hiện chiến dịch tâm lý nhằm vào những gia đình đang sống ở miền Bắc không biết rõ về hiện trạng của người thân. “Tôi mang một lá thư của bạn tôi, anh Minh, về cho vợ anh ấy”, ông Đài kể. “Khi nhận thư, cô ấy rất vui. Tôi ở lại Hà Nội hai tháng. Trong tháng thứ hai, vợ cậu ấy tới gặp tôi khóc lóc. Cô ấy nài nỉ: ‘Anh hãy kể thật đi, anh Minh còn sống chứ?’. Tôi đáp: ‘Chắc chắn là thế. Anh đã đưa thư cho em rồi còn gì’. Cô ấy bảo: ‘Nhưng em lại được tin anh ấy bị địch bắt làm tù binh’. Tôi không tin có chuyện đó xẩy ra, bởi Bệnh viện 211, dù không xa chiến trường, nhưng vẫn nằm ở tuyến sau. Thật khó để bệnh viện bị tấn công. Nhưng cô vợ của Minh không tin tôi. Cô ấy bảo rằng mới có một nhóm trở về từ miền Nam mà không mang theo lá thư nào của Minh. Một lần nữa, tôi cố gắng giải thích nhưng cô ấy vẫn không tin. Tôi mới hỏi: ‘Làm sao em biết chuyện Minh bị bắt?’. Cô ấy đáp: ‘Em nghe trên đài phát thanh Sài Gòn. Họ công bố bức thư Minh gửi cho nhân dân miền Bắc, trong đó đề rõ tên anh ấy và những người đầu hàng khác’. Tôi liền đến trụ sở quân đội để hỏi thăm tình hình bệnh viện của tôi. Họ khẳng định mới nhận được thông tin từ bệnh viện và không có báo cáo nào về việc bệnh viện bị tấn công hoặc có ai bị bắt làm tù binh. Tôi trở lại hỏi một người chuyển thư nằm trong nhóm mới nhất vừa trở về từ miền Nam xem có chuyện gì xẩy ra dọc đường không. Anh ta kể mình vừa bị một nhóm biệt kích miền Nam tấn công. Để chạy thoát, anh ta phải bỏ lại ba lô đựng thư và những người lính miền Nam kia đã lấy được. Thế là mọi sự đã rõ”, ông Đài kết luận. “Quân miền Nam đã kiểm tra toàn bộ thư bắt được, sau đó lấy tên và địa chỉ của những người lính có trên thư để thực hiện cuộc chiến tranh tâm lý”. https://thuviensach.vn Tiếp xúc thường xuyên với người hấp hối, bị thương hoặc lâm trọng bệnh, ông Đài cho biết, nhìn chung, binh sĩ Việt Nam gặp nhiều vấn đề về sức khỏe. “Trong các năm từ 1966 đến 1968”, ông nói, “bệnh sốt rét hoành hành khắp miền Nam. Bất cứ ai lên Tây Nguyên đều bị sốt rét hành hạ từ ba tới sáu tháng. Chúng tôi thường xuyên tiếp nhận nhiều bệnh nhân sốt rét”. Một bác sĩ nổi tiếng, là chuyên gia trong lĩnh vực này, đã được điều vào Nam để tìm kiếm phương cách tốt nhất nhằm điều trị sốt rét. Trước khi hoàn thành cuộc nghiên cứu, ông cũng đã chết vì bệnh sốt rét. Tiêu chảy cũng là một vấn đề nghiêm trọng. “Trong ba năm đầu tiên ở miền Nam, tôi rất ngạc nhiên khi có nhiều người bị tiêu chảy đến thế”, ông Đài kể. “Rất nhiều bệnh nhân tử vong vì tiêu chảy cấp. Có người bị hôn mê, hoặc sốt cao. Tôi đã khám nghiệm tử thi nhiều người chết và phát hiện ra rằng ruột của họ mỏng như giấy… Nhiều người bị thủng ruột do tiêu chảy thường xuyên. Rõ ràng là tình hình đã vượt ngoài tầm kiểm soát. Thật kinh khủng… Đến năm 1970, dịch bệnh mới giảm hẳn”. “Cũng có nhiều loại bệnh do thiếu vitamin, chẳng hạn vitamin A và B”, ông Đài kể. “Thiếu vitamin B có thể khiến người ta chết vì bệnh tim… Thiếu vitamin A gây chứng khô mắt, dẫn đến mù. Ban đầu chúng tôi cho rằng đó là do thiếu ăn. Nhưng gần hai mươi năm sau, khi tham gia nghiên cứu về lĩnh vực này, tôi ngạc nhiên phát hiện – qua một công trình nghiên cứu – rằng nguyên nhân là do thiếu vitamin A… Tiểu đường và lỵ cũng khá phổ biến”. Thời đó có rất nhiều ca ung thư, nhiều nhất là ung thư gan. Những bệnh nhân này không thể được điều trị ở miền Nam mà phải chuyển về Hà Nội. Nhiều người đã chết trên đường đi. Ông Đài đưa ra một nguyên nhân dẫn đến tình trạng dịch sốt rét lan tràn đối với những người đang chiến đấu ở miền Nam. “Mãi về sau thì tôi mới bắt đầu nhận ra rằng giữa các năm 1966 và 1967, người ta đã phun Chất độc Cam rất nhiều. Người phơi nhiễm chất độc sẽ bị suy giảm hệ thống miễn dịch… Tôi tin rằng người nào muốn nghiên cứu vấn đề này ngày hôm nay vẫn có thể kiểm chứng bằng cách khám nghiệm xương của người chết hồi đó. Bằng cách này, người ta có thể đo được lượng hóa chất vẫn còn nằm trong mô xương”. *** Nhiều đội quân khác ẩn nấp trong các khu rừng xung quanh Bệnh viện 211. Một cách lặng lẽ, chúng phục kích Đài và nhân viên của ông. Đó không phải đội quân của những chiến binh hai chân, mà rất nhiều chân. Thêm vào nạn dịch bệnh gây bao khổ sở cho người lính sống trong rừng, các đội quân sâu bọ không bao giờ bỏ qua cho những ai lỡ bước chân vào lãnh địa của chúng. “Có rất nhiều loài sâu bọ ở trong rừng, rất ghê”, ông Đài nói. “Đôi khi chúng tôi đi vào chỗ có cả triệu con bét. Khi bị đốt, bạn thường lôi chúng ra nhưng đầu chúng vẫn ở lại trong da bạn. Thật kinh khủng… Có rất nhiều loại bét ở trong vùng. Một số loài sống dưới đất. Khi bạn đi qua, chúng nhảy lên chân bạn. Có loại bét sống trên lá cây và thường nhảy ra đốt những người đi ngang qua. Những con bét này thậm chí còn chui vào mũi bạn. Lúc ấy thì thật khủng khiếp. Thoạt tiên tôi chẳng biết gì về bét. Một hôm có bệnh nhân bị chảy máu mũi đến gặp tôi. Tôi không biết nguyên do nên chuyển qua cho một trợ lý khám mũi. Anh ta đã phát hiện ra một con bét… Sau khi đã bám chắc vào mũi, con vật dần lớn lên và có thể sống hàng tháng trong đó… Đôi khi chúng tôi thấy cả đàn bét di chuyển trong rừng. Chúng có mặt khắp nơi. Nếu bạn dừng lại để gỡ một con ra, con khác sẽ nhảy vào thế chỗ… Vì thế chúng tôi thường cố gắng đi thật nhanh trong những khu rừng có nhiều bét. Chúng tôi phát hiện ra rằng bét sở nước. Thế là chúng tôi lội xuống nước và chẳng bị lũ bét làm phiền nữa – có điều dưới nước thì nhiều đỉa”. *** Có một thứ không bao giờ thiếu đối với Bệnh viện 211 là thương binh. Chiến binh Bắc Việt trở thành https://thuviensach.vn nạn nhân của một danh sách vũ khí kinh khiếp trong quân kho của Mỹ. Bất kể là nạn nhân của pháo kích hay không kích, của súng nhỏ hay mìn, thương vong chiến trận được chuyển về bệnh viện hằng ngày. Ông Đài kể về tình trạng thương vong. “Có tất cả các loại thương tích”, ông nói. “Có loại do bom bi gây nên; ban đầu chúng tôi rất khó tìm ra mảnh bom để điều trị. Nếu bạn từng nhìn thấy một quả bom bi phát nổ, bạn sẽ không nghĩ rằng con người có thể sống sót trong phạm vi bán kính một trăm mét. Khi bom nổ, hàng trăm mảnh đạn nhỏ phóng ra. Đối với người lính ở trong hầm trú ẩn thì chẳng vấn đề gì. Nhưng với người không có chỗ nấp thì chắc chắn sẽ bị thương nặng”. Nằm trong số những laoi vũ khí đáng sợ nhất đối với các binh sĩ là mìn. “Có rất nhiều loại vũ khí khác nhau được người Mỹ sử dụng, trong đó có mìn”, ông Đài nói. “Một số loại mìn có từ tính; còn có loại sẽ nhảy lên cao và phát nổ khi người ta giẫm phải. (Loại mìn sát thương này có biệt danh “Bouncing Betty” – Betty nhảy nhót. Khi bị kích hoạt, lò xo bên trong sẽ bật lên ngay khi nạn nhân nhấc chân. Quả mìn nảy lên ngang tầm hông và phát nổ). Bộ đội được chỉ dẫn rằng khi lỡ giẩm phải quả mìn như thế thì đừng nhấc chân lên. Bằng cách này, dù mìn vẫn nổ, người lính có thể hạn chế được thương tích – có thể chỉ mất một chân. Nếu không làm thế, quả mìn phát nổ khi bay lên cao sẽ gây thương tích nghiêm trọng hơn – thậm chí làm chết người. Ngoài ra còn có mìn lá, có hình dạng và kích thước giống chiếc lá thật. Rất khó phát hiện loại mìn này. Chúng gây thương tích và chết chóc. Có một loại mìn được thả xuống từ máy bay, sau khi chạm đất, nó bắn hàng loạt sợi dây ra tứ phía. Bạn không thể thấy những sợi dây này - chúng rất mảnh. Khi bạn thấy quả mìn và bỏ chạy theo hướng khác, bạn có thể vấp vào một sợi dây và kích nổ mìn”. Đáng ngạc nhiên là bệnh nhân tại Bệnh viện 211 có tỉ lệ sống sót cao hơn các bệnh viện ở Hà Nội. Ông Đài tin điều này là có nguyên do: “Những người bị thương nặng nhất đã chết ở chiến trường trước khi được chuyển tới bệnh viện này. Sau chiến tranh, tôi đã thống kê tỷ lệ bệnh nhân chết do tất cả các loại chấn thương tại bệnh viện của chúng tôi. Tổng tỷ lệ tử vong thấp hơn những trường hợp bị thương ở Hà Nội và được đưa tới bệnh viện ở ngoài ấy. Lý do duy nhất giải thích cho hiện tượng này là những người bị thương nặng nhất đã không bao giờ đến được bệnh viện của chúng tôi”. Viêm nhiễm là một thách thức lớn đối với những người lính chiến bị thương được chuyển tới bệnh viện. “Đây là một vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Bệnh viện có một nhóm chuyên trách công tác nghiên cứu trị thương. Chúng tôi không theo phương pháp thông thường. Chẳng hạn, ban đầu chúng tôi đóng tất cả các vết thương lại – nhưng sau đó phát hiện ra rằng nếu làm như vậy ở bệnh viện chiến trường này, người bệnh sẽ dễ bị nhiễm trùng. Vì thế chúng tôi không đóng vết thương lại mà để hở. Đối với người bị thương do máy bay ném bom cũng thế. Nếu khâu vết thương và tìm cách khôi phục động mạch, chắc chắn sẽ bị nhiễm trùng. Cách tốt nhất là đóng hai đầu động mạch ở hai bờ vết thương nhưng để vết thương hở. Khi thực hiện điều này chúng tôi cồn có một phát hiện rất thú vị. Chúng tôi nhận thấy rằng nhờ đi bộ nhiều trên Đường mòn và trong rừng nên có nhiều trường hợp, cơ thể người lính phát triển các động mạch mới (gọi là “động mạch phụ”) có thể cung cấp máu ra tứ chi. Nhờ đó, khi đóng động mạch chính, mạch máu từ cơ và các bộ phận khác vẫn tiếp tục đưa máu đến chi… Khi phẫu thuật chân trong điều kiện bình thường và ngăn máu lưu thông qua động mạch, nguy cơ nhiễm trùng sẽ rất cao nếu máu không đi xuống các phần thấp của chi. Nhưng chúng tôi nhận thấy ở bộ đội của mình, do vận động thân thể nhiều, có các động mạch phụ đóng chức năng của động mạch, cung cấp máu cho phần còn lại của chi… Chúng tôi đã sử dụng các thủ thuật hết sức đơn giản”. Trong số những người bị thương mà bệnh viện của ông Đài cố gắng cứu sống, có cả tù binh Mỹ. “Chúng tôi điều trị cho hai tù binh Mỹ bị thương vào khoảng năm 1968 hay 1969 gì đấy. Những tù binh bị thương hoặc ngã bệnh được đưa tới chỗ tôi vì đây là bệnh viện lớn nhất trong vùng. Không may là cả hai người kia đều chết. https://thuviensach.vn Người đầu chết sau một hoặc hai ngày điều trị do vết thương ở lưng quá nặng, mất hoàn toàn phần xương cùng. Lúc mới đến, anh ta còn tỉnh táo nhưng tôi cũng như các nhân viên không ai nói được tiếng Anh nên chẳng hiểu anh ta nói gì trước khi chết. Chúng tôi không thể nói chuyện với anh ta. Chúng tôi đã chôn anh ta gần bệnh viện. Tù binh thứ hai đến nơi gần như cùng lúc, với một vết thương vùng bụng. Anh ta chết sau đó nhiều ngày, có thể là năm ngày”. Dù tên và nơi chôn các tù binh được ông Đài ghi lại, nhưng thật không may là những ghi chú đó đã bị thất lạc. Chuyện thất lạc xẩy ra khi vị trí bệnh viện bị một máy bay do thám phát hiện. Do phải hối hả chuyển tới chỗ mới, nhân viên của Đài đã vô tình vứt các ghi chú kia đi – thế nên không ai, ngoài Thượng đế, có thể biết được nơi chôn cất cũng như lai lịch những người lính Mỹ kia. *** Bảo đảm được một tỷ lệ sống sót đối với bệnh nhân khá cao nhưng Bệnh viện 211 cũng chịu mất mát trung bình mười người lính mỗi tháng. Những người qua đời được chôn cất sơ sài. Nhóm chôn cất dùng vải nhựa mà mỗi người lính được phát để bọc thi thể người chết lại, sau đó đặt vào quan tài tre. Vì lý do an ninh cũng như để khiến địch không thể biết được về tổn thất lực lượng của mình, nơi chôn cất được cào bằng. Không có một tấm bia hoặc sự đánh dấu nào trên những ngôi mộ. Ban đầu người ta thường đánh dấu trên thân cây gần đó. Nhưng một thời gian thì cây phát triển lên, rồi thời tiết khắc nghiệt khiến vết khắc trên cây không còn. Về sau, người ta áp dụng nguyên tắc không đánh dấu bên ngoài. Thay vào đó, một mảnh giấy ghi tên, ngày sinh, quê quán người chết được đặt trong chiếc lọ penicillin và bỏ vào quan tài. Người ta còn ghi vào sổ địa điểm chôn cất. Họ cũng làm điều tương tự đối với những tù binh Mỹ chết trong thời gian bị bắt. *** Giống như rất nhiều đồng đội của mình, ông Đài từng chứng kiến các vụ ném bom B-52. “Các đợt ném bom B-52 thường diễn ra một cách đều đặn, hầu như hằng đêm, và khoảng thời gian ngưng giữa hai đợt luôn bằng nhau. Vì thế, ngay sau đợt thứ hai, chúng tôi có thể tính toán một cách chính xác lúc nào sẽ có đợt thứ ba và các đợt kế tiếp. Nhờ đó mà có kế hoạch đối phó phù hợp. Có hai nguyên tắc phải tuân theo để đối phó với các đợt ném bom: thứ nhất, làm một hầm chứ A; thứ hai, chuẩn bị sẵn một cái xẻng trong hầm. Thường thì chúng tôi biết trước các dợt ném bom. Có bất ngờ chăng chỉ là khoảng nghỉ giữa hai đợt. Nhiều lúc các vụ ném bom diễn ra suốt đêm, nhưng khoảng cách giữa các đợt thường không đổi – có thể là ba mươi phút, có thể là năm mươi phút,… Sau mỗi đợt không kích, chúng tôi luôn gọi sang hầm bên cạnh để biết được mọi người có an toàn không. Hiếm khi các hầm trú ẩn bị bom rơi trúng. Hầu hết các ca chấn thương là do sức ép của bom khiến hầm sập. Chúng tôi gọi với sang hầm bên để xem những người ở đó thế nào khi một đợt bom đi qua. Nếu không có ai trả lời, chúng tôi sẽ vác xẻng chạy tới để đào họ lên. Mọi người vừa đào vừa xem đồng hồ để đảm bảo sẽ trở về hầm trú ẩn trước khi đợt máy bay kế tiếp ập tới. Nếu đã xác định được khoảng ngưng giữa hai đợt ném bom là ba mươi phút, thì sau hai mươi lăm phút, mọi người được lệnh phải xuống hầm. Trong hầm, chúng tôi ngồi và bịt tai lại để tránh bị chấn động và đợi đợt ném bom kế tiếp. Khi vụ ném bom đang diễn ra, không nên ngồi tựa lưng vào vách mà phải ngồi chính giữa hầm. Tư thế ngồi cũng rất đặc biệt: ngồi xổm, hai tay bịt tai, cánh tay nằm song song với mặt đất; tay chân phải ở cách xa nhau. Sở dĩ phải để tay chân ở vị trí cách xa nhau là để phòng trường hợp đất sụt xuống, tay và chân có thể tạo ra những ô trống chứa không khí. Chúng tôi không ngồi tựa lưng vào vách hầm để tránh bị thương do chấn động từ vụ nổ bom. Một quả bom nổ cách xa nhiều mét nhưng lan chấn của nó có thể làm cách hầm rung lên dữ dội, gây chấn thương. Sau mỗi đợt bom, chúng tôi tranh thủ thời gian ngưng oanh tạc để đi cứu bạn bè. Mỗi hầm chữ A đều có ống tre thông hơi để người trú bom có đủ dưỡng khí. Khi đào bới đất, chúng tôi giữ nguyên vị trí ống tre để thông khí. https://thuviensach.vn Nếu không phải đi cứu đồng đội giữa các đợt bom, mọi người sẽ tranh thủ nghỉ ngơi. Người hút thuốc; người kể chuyện tiếu lâm; người đi ra ngoài hầm hít thở. Đến khi tín hiệu báo động kéo dài năm phút được phát ra, mọi người trở lại hầm. Nếu có hầm sập ngay sau loạt bom đầu tiên thì những người giải cứu sẽ đối mặt với nhiều hiểm nguy, bởi họ không biết được khoảng ngưng giữa hai đợt bom là bao lâu. Nhưng sau hai đợt bom đầu tiên, chúng tôi biết rõ được khoảng thời gian ngưng đó”. Trong suy tưởng cuối cùng của mình về cuộc chiến tranh chống Mỹ, Lê Cao Đài hiểu rõ tại sao Hà Nội lại chiến thắng. Thắng lợi chỉ đến với phía nào có động cơ lớn nhất. Động cơ đó hiện diện ở những người miền Bắc, ông Đài khẳng định; nó không hề hiện diện ở người Mỹ. “Động lực trong cuộc chiến này chính là ước nguyện của tất cả người Việt Nam về thống nhất đất nước. Mọi người đều mong muốn điều đó. Ngược lại, đối với người Mỹ, xét ở góc độ một quốc gia, và đặc biệt là với những người tham chiến tại Việt Nam, chưa bao giờ có một sự thấu hiểu về việc họ đang chiến đấu vì cái gì. Ở phía chúng tôi, không bao giờ có một sự nghi ngờ hay do dự về điều mình phải làm – và sẽ làm. Đó chính là ước nguyện của mọi người dân về một nền hòa bình – về một nền hòa bình trong thống nhất”. Trước khi qua đời vào ngày 15 tháng 4 năm 2002, Bác sĩ Đài có cơ sở y tế riêng tại Hà Nội; ông đóng vai trò là một nhà tư vấn về bảo vệ môi trường và chuyển giao công nghệ. Ông làm việc trong các lĩnh vực môi trường liên quan đến chiến tranh, chẳng hạn như tình trạng ô nhiễm Chất độc Cam, một bi kịch vẫn còn tiếp tục đày đọa đất nước của ông rất lâu sau khi ông qua đời. • HÀN GẮN VẾT THƯƠNG CHIẾN TRANH Nguyễn Huy Phan có nhiều dịp chứng kiến tác động kinh khiếp của thương tích chiến trận. Là một bác sĩ phẫu thuật vào năm 1953, ông tham gia cuộc chiến chống Pháp; từ 1964 đến 1975, ông chiến đấu chống Mỹ; và năm 1979, ông phục vụ trong cuộc xung đột biên giới với người Trung Quốc. Những kinh nghiệm ấy khiến ông trở thành một người có uy tín khi nói chuyện về đề tài thương vong mà kho vũ khí chiến tranh khổng lồ gây ra đối với người lính. Qua nhiều năm, ông là người trực tiếp chứng kiến sự phát triển liên tục của các loại vũ khí gây thương vong và tàn phế cho con người – kết quả của sự phát triển công nghệ và hành trình không ngừng của con người nhằm tìm ra các phương cách thực hiện chiến tranh một cách hiệu quả. Trong hoàn cảnh công nghệ của đối phương liên tục được hoàn thiện, nhà phẫu thuật quân y cũng buộc phải không ngừng nâng cao kiến thức để có thể chữa trị hữu hiệu nhất các vết thương đặc thù do từng loại vũ khí gây nên. Trách nhiệm của ông Phan trong suốt cuộc chiến không chỉ là trị thương cho binh lính để họ có thể hồi phục và ra trận càng nhanh càng tốt, ông còn đảm nhiệm việc phân tích, nghiên cứu để cải tiến thời gian điều trị và chẩn đoán. Do phía người Mỹ liên tục đưa các công nghệ vũ khí mới vào chiến trường, trách nhiệm này chiếm hầu hết thời giờ của ông. Ông Phan tổ chức và lãnh đạo đội ngũ y tế nghiên cứu đặc điểm của vũ khí hiện đại để qua đó quyết định phương pháp chẩn đoán và chữa trị thích hợp nhất đối với từng loại vết thương cụ thể. Kết quả là ông đã có một kiến thức khá độc đáo trong việc xử trí vết thương chiến trường. Đó là nền tảng kiến thức đã giúp ông, cho tới ngày qua đời vào năm 1997, có một uy tín ở tầm thế giới về chữa trị một trong những loại thương tích đặc biệt nhất – và cũng gây ra nỗi kinh hoàng lớn nhất – mà một chiến binh có thể hứng chịu. Ông Phan trở thành nhà tiên phong trong lĩnh vực phẫu thuật tái tạo cơ quan sinh dục cho đàn ông. Kinh nghiệm là người thầy vĩ đại. Nhưng thật không may cho cộng đồng y tế Việt Nam, phần lớn kinh nghiệm đó đều liên quan đến chiến tranh. Cuộc chiến với người Pháp đã giúp Hà Nội có một đội ngũ y tế được huấn luyện thể lực tốt để hành quân cùng lính chiến. Cuộc chiến đó đã cho thấy sự thiếu hụt về hỗ trợ y tế cho quân đội, và sự thiếu hụt này đã được cố gắng bù đắp trong giai đoạn hòa bình ngắn ngủi mà Bắc Việt được hưởng trước cuộc xung đột với Mỹ. Ông Phan giải thích về điều này cũng như một số biện pháp khắc phục: “Sau năm 1954, có một giai đoạn hòa bình ngắn ngủi – từ 1954-1963. Trong thời kỳ đó, chính phủ gửi nhiều bác sĩ trẻ ra nước ngoài - ở châu Âu – để nâng cao kỹ năng và kiến thức. Chúng tôi có cơ hội tổ chức đội ngũ y tế chuyên trách trong quân đội. Vì thế, khi cuộc chiến với người Mỹ nổ ra, chúng tôi đã có chuyên gia trong nhiều lĩnh vực. Chẳng hạn, hồi kháng chiến chống Pháp, chúng tôi không có ngành phẫu thuật tạo hình; nhưng trong chiến tranh chống Mỹ, chúng tôi có đủ chuyên gia làm việc trong nhiều lĩnh https://thuviensach.vn vực, như huyết học, chỉnh hình, phẫu thuật tạo hình, v.v. Những người này được biên chế vào các nhóm phẫu thuật chuyên trách với đủ y cụ để thực hiện nghiệp vụ…Chúng tôi không chỉ có trường y tại Hà Nội mà còn có tại nhiều thành phố lớn khác. Những trường học này tiếp tục mở ra nhiều chuyên ngành nữa. Trong suốt cuộc chiến, các bác sĩ chuyên khoa trẻ nối tiếp nhau lên đường làm nhiệm vụ. Những người từng làm việc thường trực ở các đội quân y được đưa đi đào tạo lại trong thời gian vài tháng trước khi trở lại đơn vị. Dạng đào tạo hỗ trợ này giúp cung cấp cho chúng tôi một số lượng bác sĩ đủ để đáp ứng nhu cầu của quân đội. Trong cuộc chiến với người Mỹ, chúng tôi rất khó ở lâu một chỗ. Để theo chân bộ đội, chúng tôi thường tổ chức các đơn vị phẫu thuật lưu động. Tôi làm trưởng một bệnh viện phẫu thuật lưu động… Nhiều lần, việc di chuyển cả một bệnh viện là không thể nên chúng tôi tổ chức từng nhóm phẫu thuật chừng 20-30 hoặc 50-60 người, tùy theo nhiệm vụ cụ thể… nhằm hỗ trợ y tế cho tiền tuyến, làm việc ngay bên cạnh những người lính chiến, nơi chúng tôi có thể chăm sóc thương binh. Chúng tôi có một vài kinh nghiệm về bệnh viện lưu động từ thời chống Pháp. Nhưng thời chiến tranh Việt Nam, có nhiều đơn vị, nhiều đội hơn và rất nhiều bác sĩ chuyên khoa, bởi chúng tôi đã có khoảng thời gian gần mười năm được đào tạo bác sĩ chuyên khoa tại các nước anh em như Liên Xô, Hungary, Bulgaria. Chúng tôi cũng gửi nhiều bác sĩ đi học tập tại Berlin, Tiệp Khắc, Cuba và nhiều nơi khác; chương trình này tiếp tục được tiến hành suốt cuộc chiến chống Mỹ. Sau khi được đào tạo chuyên sâu, họ trở về Việt Nam để phục vụ cho quân đội. Vì thế chúng tôi có đủ bác sĩ chuyên khoa. Thời đó chúng tôi không phân biệt y tế dân sự và quân sự. Quân đội phối hợp với bên dân sự và bác sĩ phẫu thuật quân đội cũng chữa trị dân thường một khi người dân cần đến. Sĩ quan và bộ đội cũng được chữa trị trong bệnh viện dân sự. Khi quân y gặp khó khăn, bên y tế dân sự sẽ chia sẻ nhiệm vụ. Có một sự hợp tác toàn diện và sự thấu hiểu lẫn nhau giữa hai bộ phận này, và điều đó rất hữu ích. Nếu không hợp tác tốt, chúng tôi hẳn đã gặp nhiều khó khăn. Suốt thời chiến tranh, có thể nói rằng các bác sĩ chuyên khoa tốt nhất đều phục vụ trong quân đội. Tất cả các đơn vị của chúng tôi đều được chăm sóc y tế khá tốt nhờ sự hỗ trợ hậu cần rất mạnh từ một số nước anh em như Liên Xô, Trung Quốc, v.v. Họ cung cấp cho chúng tôi phương tiện làm việc, như y cụ, thuốc men – nhưng không cung cấp nhân sự; bác sĩ chuyên khoa của chúng tôi đảm trách hết mọi khâu. Có nước đề nghị cử người đến giúp đỡ nhưng chúng tôi từ chối. Điều này xuất phát từ tinh thần tự quyết, tinh thần trách nhiệm của chúng tôi với người dân nước mình và tư tưởng tự lập trong mọi hoạt động. Vì thế, chúng tôi từ chối những đề nghị đó. Bên phía đối phương, chính quyền Sài Gòn dựa dẫm vào sự giúp đỡ của Mỹ. Thậm chí binh lính nhiều nước khác còn tham chiến bên cạnh quân Mỹ. Ở bên này, chúng tôi chiến đấu một mình. Bệnh viện phẫu thuật lưu động có hơn 200 nhân viên y tế… Trong đó hai mươi lăm phần trăm là bác sĩ. Đôi khi bệnh viện tiếp nhận tới 500 thương binh trong một giai đoạn ngắn. Vì thế, chúng tôi phải hoạt động cả ngày lẫn đêm. Nhiều lúc, chúng tôi phẫu thuật suốt 24 tiếng đồng hồ mỗi ngày trong hai, ba ngày liên tiếp. Nhiều lúc điều kiện làm việc rất không bình thường – đôi khi dưới giao thông hào hoặc hầm trú ẩn”. Ông Phan và các đồng nghiệp đầy tâm huyết của ông liên tục tìm tòi để cải thiện kiến thức và kỹ năng mỗi khi có loại vũ khí mới gây ra thương vong trên chiến trường. Cách làm này rất hữu dụng sau khi Mỹ đưa vào sử dụng một loạt vũ khí đáng sợ được gọi là ‘CBU’, hay bom bi. Mỗi quả bom bi chứa khoảng 300 mảnh sắt, mỗi mảnh có đường kính nhỏ hơn 5,5 milimét. Khi phát nổ quả bom bắn mảnh kim loại theo nhiều hướng khác nhau. Người không may đứng trong phạm vi gần quả bom phát nổ sẽ không chết ngay lập tức, các mảnh kim loại li ti hoặc xuyên qua cơ thể người hoặc nằm lại trong đó. Mảnh bom để lại vết thương gần như không thể thấy được trên cơ thể nạn nhân khiến cho việc chữa trị rất khó khăn. Đối với vết thương không thể nhìn thấy rõ, rất khó để cho bác sĩ phẫu thuật chẩn đoán – dẫn đến khó khăn trong chữa trị. Sự chậm trễ trong chẩn bệnh làm gia tăng nguy cơ tử vong. Vết thương ở sọ là một thách thức lớn trong chẩn đoán. Có nhiều trường hợp, mảnh bom chỉ đâm thủng một bên hộp sọ. “Vết thương trong hộp sọ rất đặc biệt”, ông Phan giải thích, “vì nó giống y hệt trái bóng bi-da”. Xung lực của mảnh bom khiến nó bay tứ tung trong hộp sọ trước khi nằm yên một chỗ. https://thuviensach.vn “Mảnh bom đi qua hộp sọ, xuyên qua não và bay tứ tung”, ông Phan diễn giải tiếp. “Nó có một quỹ đạo dích dắc… Chúng tôi nhận được rất nhiều ca bị thương vùng sọ và mặt do bom bi gây ra. Đôi lúc chỉ một quả bom mà gây ra thương vong cho nhiều người – vết thương từ đầu tới chân. Ban quân y ngay từ đầu đã đặc biệt quan tâm tới loại vết thương này và đã tổ chức một nhóm bác sĩ đặc biệt để nghiên cứu. Tôi là một trong những người chịu trách nhiệm tìm giải pháp điều trị vết thương do bom bi gây ra. Tôi nghiên cứu vấn đề này với sự giúp đỡ của nhiều bộ phận khác nhau trong quân đội, trong đó có cả bên công binh. Chúng tôi mất ba, bốn tháng để nghiên cứu tìm giải pháp và cuối cùng đã tìm ra. Chúng tôi đã viết rất nhiều bài nghiên cứu về vấn đề này cũng như một số vấn đề khác. Trong giai đoạn 1968-1970, các bài viết đã được đưa tới nhiều nước để chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp ở những nơi ấy. Tôi là Tổng thư ký của nhóm bác sĩ này. Các bài viết tập trung mô tả cách thức khám và điều trị phẫu thuật đa chấn thương. Nhờ kinh nghiệm của chúng tôi mà các đồng minh có thể giảm được thương vong trên chiến trường. Trước khi có cuộc nghiên cứu của chúng tôi, việc chữa trị vô cùng khó khăn. Nhưng sau đó, chúng tôi đã trở thành chuyên gia trong lĩnh vực này; chúng tôi biết cách khám và điều rtij vết thương theo cách tốt nhất. Chúng tôi viết lại tất cả để làm cẩm nang cho giới bác sĩ phẫu thuật quân y. Các chuyên gia giỏi nhất, những người lãnh đạo trong các chuyên ngành khác nhau, đã chia sẻ kinh nghiệm, từ đó tìm ra giải pháp cho mỗi chuyên ngành. Chúng tôi có cẩm nang hướng dẫn để các bác sĩ trẻ áp dụng điều trị trong những trường hợp cụ thể”. *** Ông Phan tiếp tục nói về cách thức chẩn đoán đối với người bị thương do bom bi: “Trước khi bom bi xuất hiện, chưa hề có các loại chấn thương sọ não như thế… Với bom bi, chỗ mảnh bom găm vào nhỏ đến mức không thể thấy được. Do mảnh bom rất nhỏ nên vết thủng trên da cũng rất nhỏ. Thế rồi chúng tôi đã tìm ra một cách rất đơn giản – bóp vào vùng da của người bị thương xem có máu hoặc hơi thoát ra không. Bằng cách đó, bác sĩ nhanh chóng tìm ra được vết thủng trên da… Chúng tôi cứ bóp liên hồi vào từng vùng da. Vấn đề đã được giải quyết khá dễ dàng”. Cuối cùng, nhóm của ông Phan phát hiện ra rằng không nhất thiết phải lấy tất cả mảnh bom ra khỏi cơ thể. “Chúng tôi nhận thấy mảnh bom không gây nhiễm trùng”, ông Phan giải thích. “Vì thế chúng tôi để mảnh bom ở lại trong cơ thể người bị thương trong thời gian dài, đặc biệt là những mảnh bom nhỏ. Ban đầu, nhiều bác sĩ tìm cách lấy hết tất cả mảnh bom ra ngoài và đã gây ra nhiều vấn đề khác. Đến khi phát hiện ra rằng không cần thiết phải lấy tất cả mảnh bom, chúng tôi chỉ tập trung vào việc chữa trị vết thương”. Trong khi bom bi gây ra nhiều rắc rối và đòi hỏi cách chữa trị đặc thù thì các loại vết thương khác cũng đòi hỏi phải có phương cách trị liệu đặc biệt cũng như mất thời gian để hồi phục. Đáng nói nhất có thể kể tới bom napalm. “Vùng bỏng thường rất nghiêm trọng – bỏng tới ba hoặc bốn độ, rất sâu và nặng. Người bị thương phải nằm viện trong thời gian dài, việc chữa trị rất mất thời gian và tốn kém. Sau đó, khôi phục lại chức năng của các bộ phận bị ảnh hưởng là rất khó khăn bởi vết bỏng rất sâu và rất nghiêm trọng. Chúng tôi gặp khó khăn lớn với bom napalm. Việc bệnh nhân ở lâu trong bệnh viện cũng khiến họ đối mặt với nguy cơ nhiễm trùng cao… Bác sĩ mất nhiều thời gian để chăm sóc những vết bỏng này. Các vết bỏng gây ra đau đớn vô cùng…”. Từng chữa trị thương binh trong cả hai cuộc chiến với Pháp và Mỹ, Bác sĩ Phan nhận ra một sự thay đổi rất lớn về các loại vết thương phổ biến mà người lính phải chịu đựng trên chiến trường. “Suốt cuộc chiến chống Pháp, vết thương chủ yếu do vũ khí nhỏ gây ra; nhưng trong cuộc chiến chống Mỹ, phần lớn do bom và tên lửa từ trên không và ở một chừng mực nào đó là từ các khẩu pháo. Số ca bị thương do vũ khí nhỏ gây ra ít hơn rất nhiều”. Việc thiếu thốn y cụ, tiếp tế và sự chăm sóc y tế, v.v. là vấn đề rất nghiêm trọng đối với các lực lượng miền Bắc chiến đấu ở miền Nam, nhưng đôi khi ngay cả Hà Nội cũng đối mặt với khó khăn này. Tuy https://thuviensach.vn nhiên, theo ông Phan, thiếu thốn không gây khó khăn trong việc chữa trị cho từ binh Mỹ. “Tôi nhớ vào năm 1969 tới năm 1970, tôi có dịp phẫu thuật cho hai phi công bị bắn rơi máy bay ở miền Bắc. Tôi không nhớ tên họ - nguyên do thời đó là mỗi phi công ấy đều lấy một cái tên Việt Nam”. (Người ta thường lấy biệt danh Việt Nam để đặt cho các tù binh vì việc phát âm tên người Mỹ là rất khó khăn). “Một đơn vị quân y tiền phương mang hai phi công đến chỗ chúng tôi. Đây là hai ca rất khó, đòi hỏi phải có phương thức chữa trị đặc biệt. Tôi nhớ cả hai đều bị gãy chân sau khi nhảy khỏi máy bay… Một người có lẽ bị bắn ở ngoại ô Hà Nội còn người kia được đưa đến từ một nơi xa hơn. Cả hai đều không phải bị bắn rơi ở nội đô Hà Nội và đã được cấp cứu trước khi đến chỗ chúng tôi. Khi tới nơi, chân họ đã được băng nhưng vẫn cần chăm sóc đặc biệt. Lúc bấy giờ tôi là bác sĩ phẫu thuật tổng quát – một trong hai bác sĩ trưởng của bộ phận phẫu thuật tại bệnh viện quân y ở trung tâm thành phố. Tôi mang hàm trung tá. Tôi gặp hai phi công và hỏi họ đã bị thương như thế nào cũng như đã được chữa trị ra làm sao. Tôi chuyển họ tới phòng chụp X-quang rồi sau đó tiến hành phẫu thuật. Tiếp đó, họ được chuyển tới nhà tù Hỏa Lò, thường được biết đến với tên gọi ‘Hilton Hà Nội’. Họ ở đấy và nếu họ cần được chữa trị thì các bác sĩ khác sẽ tới tận nhà tù để chăm sóc. Nếu bác sĩ ở đấy gặp khó khăn thì chúng tôi sẽ tư vấn… Chúng tôi không theo đến cùng các ca này mà là các chuyên gia khác. Đó là nhiệm vụ của họ - một nhiệm vụ đặc biệt”. Tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng đối với binh sĩ Bắc Việt chiến đấu ở miền Nam đôi khi khiến họ phải sử dụng mưu mẹo chiến trường. Dung dịch muối là thứ luôn luôn thiếu. Người ta đã dùng nước dừa trộn với một vài thứ khác để thay thế. Về điều kiện y tế trên chiến trường, ông Phan kể: “Nhiễm trùng gây ra một số khó khăn, nhưng đấy không là trở ngại lớn bới chúng tôi rất có kinh nghiệm trong việc điều trị vết thương. Chúng tôi biết cách tốt nhất để điều trị vết thương do bom đạn là để cho chúng hở chứ không khâu lại. (Cách điều trị này được nhiều bác sĩ Mỹ hiện nay thực hiện)…Chúng tôi phẫu thuật một cách cẩn thận để tránh gây nhiễm trùng. Đôi khi có sai sót, nhưng chúng tôi thường xuyên tổ chức các buổi họp với sự tham gia của bác sĩ, chuyên gia phẫu thuật, y tá nhằm hạn chế sự cố. Sau khi mắc một sai sót, chúng tôi lập tức lập một nhóm nhỏ để mổ xẻ vấn đề, phân tích xem các khâu đã thực hiện ra làm sao. Chúng tôi mời chuyên gia giỏi từ các đơn vị khác tới họp chung. Trong suốt cuộc chiến, chúng tôi luôn họp đều đặn, đôi khi họp ngay sát mặt trận”. Kho vũ khí Mỹ cùng với những cơn mưa mảnh bom mà nó tạo ra đã khiến nhiều nạn nhân nam giới gặp phải loại thương tích rất đặc biệt – đứt dương vật. Dù loại vết thương này không đe dọa mạng sống nhưng nó khiến nạn nhân phải chịu đựng một sự đau đớn và tổn thương tâm lý vô cùng nghiêm trọng. Tình trạng này đã thúc đẩy ông Phan tìm ra phương cách khôi phục lại dương vật cho nạn nhân. Ông kể: “Trong suốt cuộc chiến, tôi đã xây dựng một chuyên khoa để xử lý vấn đề này bởi có quá nhiều ca bị mất dương vật… Tôi đã dành nhiều tháng trời nghiên cứu. Sau đó, tôi thực hiện việc phẫu thuật tái tạo dương vật và các bộ phận khác của cơ quan sinh dục cho nạn nhân. Mục đích của việc phẫu thuật không chỉ là đem lại thẩm mỹ mà còn tái tạo chức năng để về sau nạn nhân có thể có con cái. Sau khi được chữa trị, các nạn nhân đã cưới vợ và quan hệ tình dục bình thường. Tôi đã chia sẻ kinh nghiệm này với đồng nghiệp các nước. Chẳng hạn, năm 1979, tôi đã trình bày một báo cáo tại Paris nhận Hội nghị lần thứ 24 về Phẫu thuật thẩm mỹ tái tạo của Pháp. Tới thời điểm đó, tôi đã thực hiện hai mươi lăm cuộc phẫu thuật tái tạo toàn bộ dương vật và tôi đã trình bày tại Hội nghị. Kể từ đó, tôi đã phẫu thuật thêm mười ca nữa với kỹ thuật phức tạp hơn, chẳng hạn như vi phẫu”. Sau chiến tranh, vi phẫu để tái tạo cơ quan sinh dục trở nên dễ dàng – cho cả bác sĩ lẫn bệnh nhân. So sánh kỹ thuật tái tạo ngày nay với trường hợp đầu tiên mà mình phụ trách, ông Phan nói: “Thay vì phải tiến hành tới sáu cuộc phẫu thuật tái tạo và đòi hỏi thời gian nằm viện từ sáu tới bảy tháng, ngày nay người ta chỉ cần phẫu thuật một lần với công nghệ vi phẫu và bệnh nhân chỉ nằm viện trong ba tuần… Đôi khi chiến tranh tạo cho chúng tôi cơ hội hoàn thiện kỹ năng trong một số lĩnh vực đặc biệt cũng như tìm ra các kỹ thuật mới. Vì thế, ở một góc độ nào đó, nó có đóng góp vào sự phát triển của y khoa… Chúng tôi tái tạo dương vật bằng cách cắt một miếng ở thành bụng và cắt dây thần kinh từ tay. Chất liệu ở thành bụng và dây thần kinh sẽ được cấy vào khu vực sinh dục… Rồi sau đó chúng tôi cấy sụn vào để khôi phục cả hình dạng lẫn chức năng. Kết quả là bệnh nhân có thể đi tiểu đứng và quan hệ tình dục bình thường. Với sự phát triển của kỹ thuật mới thì điều này càng được thực hiện dễ dàng. Giờ đây, không chỉ khôi phục lại được dương vật mà còn cả khoái cảm nữa, nhờ việc cấy những dây thần kinh cẳng tay – còn được gọi là vành cẳng tay hay vành cẳng tay Trung Hoa… Chúng tôi cấy sụn, phục hồi ống tiểu… mọi https://thuviensach.vn thứ liên quan tới tái tạo được thực hiện chỉ trong một bước”. Trình độ phẫu thuật thẩm mỹ và tái tạo của Bác sĩ Phan đã được công nhận rộng rãi khi ông được giao nhiệm vụ làm thay đổi khuôn mặt của một điệp viên rất quan trọng trong chiến tranh Việt Nam, đó là Tư Mâu, người đã bị lộ dạng trong thời gian hoạt động bí mật ở Sài Gòn. Sau khi bị lộ, Tư Mâu đã trốn thoát nhưng do các hoạt động của chính quyền Hà Nội ở miền Nam đòi hỏi nên người ta đã quyết định tung ông trở lại Sài Gòn sau khi đã được Bác sĩ Phan phẫu thuật thay đổi ngoại hình. (Phan kể rằng ông đã phải phẫu thuật hai lần đối với Tư Mâu, do sau lần thứ nhất, người chỉ huy vẫn còn nhận ra ông ta). Hai thế hệ trong gia đình Bác sĩ Phan đều trải qua bi kịch của chiến tranh. Trong cuộc chiến chống Pháp, ông cụ thân sinh của Bác sĩ Phan dạy học ở Hà Nội. Khi thấy tỉnh Bắc Thái cần lập một ngôi trường, ông đã tới đây để giúp dựng trường. Ông được dân chúng trong làng rất tin yêu vì những việc làm cho cộng đồng. Một ngày nọ, vào năm 1950, khi bố của Phan đang dạy học, một đại đội lính Pháp tiến vào làng. Giữa lúc đang cùng học sinh chạy trốn, ông đã bị trúng đạn của máy bay Pháp. Ông và hai học trò chết ngay lập tức. Phải đến sau khi quân Pháp rút khỏi làng thì dân chúng mới tìm được xác nạn nhân trong đêm tối để đưa đi chôn. Lúc bố mất, Phan đang ở nơi khác và không thể trở về làng được. Trong số bốn anh em, chỉ có người em nhỏ tuổi nhất của Phan tên là Dương, lúc đó 16 tuổi, đang ở nhà với mẹ. Cái chết của bố đã thôi thúc Dương tình nguyện nhập ngũ để đánh Pháp. Khi bị từ chối do chưa đến tuổi, Dương sang Trung Quốc học. Mười sáu năm sau, Dương lại xung phong vào bộ đội – lần này là để đánh Mỹ. Ở tuổi 32, tuổi tác không còn là rào cản nữa. Là cha của một bé gái hai tuổi và một bé trai mới sinh, Dương lao vào chiến trường và anh đã không bao giờ gặp lại các con nữa. Một năm sau, năm 1967, anh hy sinh khi đang làm nhiệm vụ. Bi kịch trong cái chết của người em trai này càng trở nên nặng nề hơn khi gia đình Phan không biết được thông tin gì cũng như không biết hài cốt ở đâu. Trong văn hóa Việt Nam, việc thăm mộ người thân đã quá cố là một phong tục đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó còn có một mặt quan trọng khác liên quan tới vòng sinh tử: hài cốt được chôn tại nơi người chết đã chào đời; xương thịt người chết tan vào đất, nuôi sống hoa màu; hoa màu đó lại được thu hoạch để nuôi người đang sống. Nếu không tìm được hài cốt của Dương, Phan và gia đình người em trai sẽ không thể thực hiện được phong tục truyền thống này. Ông Phan đã thực hiện một cuộc tìm kiếm hài cốt người em trai suốt 17 năm. Với sự giúp đỡ từ một số đồng đội cũ của người em, cuộc tìm kiếm kết thúc vào năm 1984 trên một vùng đồng hoang gần Đà Nẵng. “Nhiều người cung cấp cho tôi thông tin về em trai”, ông Phan kể. “Một trong những khó khăn mà chúng tôi đối mặt là sau khi chiến tranh kết thúc, quá trình xây dựng nhà cửa hoặc làm đất canh tác đã dẫn tới việc nhiều ngôi mộ liệt sĩ bị chuyển liên tục. Hài cốt em tôi bị di dời tới ba lần trước khi chúng tôi tìm ra. Có một mẩu kim loại đánh dấu ở nơi chôn cất có ghi tên và ngày hy sinh của cậu ấy. Nơi chôn nằm cách tỉnh lộ chừng 50 tới 60 mét. Nhiều người khác được chôn xung quanh. Dù không phải là chuyên gia giám định pháp y, tôi nhanh chóng nhận ra những chiếc răng quen thuộc trong bộ hài cốt của cậu ấy. Hài cốt sau đó được đưa về Hà Nội. Vợ con cậu ấy rất vui và mỗi năm vẫn đều đặn đến thăm mộ. Cả họ và người em trai đã mất của tôi giờ đã thanh thản”, ông Phan kết luận. • BÁC SĨ ĐAU ĐỚN Trên cơ thể Võ Hoàng Lê hằn những vết thương của một người lính chiến. Ông đã bị thương tới sáu lần trong 43 năm binh nghiệp – trong đó có hai lần thời chống Pháp và bốn lần thời chống Mỹ. Những vết thương sau này cho thấy rõ sự đa dạng về vũ khí trong kho đạn dược của người Mỹ. Đối với Lê, năm 1967 không phải là một năm may mắn: trong một trận không kích, ông bị bom napalm làm cháy phỏng khuỷu tay phải; sau đó, trong một trận tấn công mặt đất, ông bị mảnh đạn phóng lựu M-79 văng trúng phần trên cánh tay trái; rồi trong một trận pháo kích, ông bị găm vài mảnh vào lưng do quả đạn nổ quá gần. Nhưng vết thương khủng khiếp nhất đến với Lê vào năm sau đó. Một quả đạn từ khẩu súng máy M-60 đã xuyên trúng tay ông, cắt đứt một phần bàn tay và ngón út. Khi Lê tới nơi chữa trị, người y tá ngần ngại trong việc cắt phần dưới bàn tay đang đu đưa của ông. Thế là Lê lôi con dao từ trong túi ra, không cần https://thuviensach.vn thuốc gây tê, cắt đứt phần tay vốn đã trở thành vô dụng. Các bạn có thể nghĩ rằng Lê là một lính bộ binh nơi tiền tuyến. Trên thực tế, nhiệm vụ cơ bản của ông không phải là cướp đi sự sống của người khác, mà là trong vai trò một bác sĩ phẫu thuật, tìm cách giữ gìn sự sống. Đóng quân ở địa đạo Củ Chi, một hệ thống địa đạo quy mô lớn nằm sát nách Sài Gòn, Lê hằng ngày phải tham gia vào cuộc chiến sinh tồn của bản thân và của bệnh nhân. Những vết thương trên cơ thể ông là chứng tích cho cuộc chiến kinh khiếp ở Củ Chi. Do bị cụt tay và không thể thực hiện phẫu thuật, Lê đành làm giám sát – một nhiệm vụ mà ông đảm trách cho tới ngày tàn chiến cuộc. Cuộc đời binh nghiệp của Lê không phải là không điển hình cho rất nhiều người phục vụ trong quân đội. Ông nhập ngũ năm 1947 và nhanh chóng được “thử thách bởi bom đạn”. Lúc mới mười bốn tuổi, Lê thấy mình có bổn phận phải tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp. Ở đơn vị quân y, ban đầu ông được đào tạo để trở thành y tá, rồi sau đó là bác sĩ. Hoàn thiện kỹ năng chủ yếu nhờ các khóa học thực nghiệm, Lê dần trở thành một chuyên gia phẫu thuật sọ não. Khi cuộc chiến chống Pháp kết thúc, ông ra Bắc nâng cao kỹ năng. Năm 1960, giữa lúc cuộc đấu tranh với Sài Gòn leo thang, ông lại được điều vào Nam. Chiến trường miền Nam trở thành nhà của Lê trong suốt mười lăm năm sau đó. Cuộc chiến chống Pháp và sau này là chống Mỹ đã gây ra bi kịch vô cùng to lớn đối với gia đình của Lê. Đến khi Sài Gòn sụp đổ vào năm 1975, bảy thành viên trong gia đình ông đã thiệt mạng. Cha của Lê là một trưởng thôn. Khi quân Pháp chiếm làng, họ đã bắt giam ông và ông đã chết trong tù vào năm 1947. Thi thể ông không bao giờ được trao trả về cho gia đình và cho đến tận hôm nay, Lê vẫn không thể tìm thấy hài cốt của cha. Mẹ của Lê có một số phận không khá hơn. Bà bị chính quyền ông Diệm bắt giam và tra tấn. Sau khi được thả một thời gian thì bà mất vào năm 1961. trong bốn anh chị em – gồm ba người anh em và một người chị - không ai sống sót qua chiến tranh. Tất cả đều gia nhập quân đội và chết trong cuộc chiến với Mỹ. Hài cốt của một người em trai giờ vẫn chưa được tìm thấy. Sau khi đã trả giá cho chiến thắng bằng chính sinh mạng của cha mẹ và anh chị em ruột, ông Lê rốt cuộc lại bị tước đi phần ruột thịt cuối cùng của mình vào năm 1969. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Thản, lớn hơn ông hai tuổi, cũng là một bác sĩ. Chung đơn vị với Lê, hai người gặp nhau ở miền Nam, cùng làm việc tại Bình Dương. Thông thường, trước mỗi đợt ném bom B-52 đều có lệnh báo động. Tuy nhiên, trong ngày định mệnh vào năm 1969 ấy, trận dội bom ập đến bất ngờ. “Vụ ném bom đến quá nhanh, chúng tôi vội lao vào nơi trú ẩn. Mỗi người được bố trí một hầm trú ẩn có đánh số. Tôi và vợ ở khác hầm. Ngay khi tôi vừa chui vào hầm thì một quả bom nổ rất gần. Vụ nổ gần đến mức một phần hầm chỗ tôi bị sập. Cơn chấn động bao trùm khiến tôi không nghe thấy gì hết. Khi trận bom vừa dứt, chúng tôi bò ra. Mọi người chạy tới những hầm bị sập để cứu người. Rất nhiều bom đã được ném xuống. Không may là có một căn hầm bị bom rơi gần trúng. Tôi biết vợ mình trong đó. Nhiều người chạy tới để tìm người sống sót. Phải mất một tiếng đồng hồ mới đào được những người bị vùi. Tôi cố gắng đào nhưng bị mọi người lôi ra. Cuối cùng thì kéo lên được ba người, trong đó có vợ tôi. Khám nghiệm các nạn nhân, chúng tôi có thể thấy được tác động của vụ nổ bom và sức ép của nó - máu trào ra từ miệng và mũi họ. Họ được cấp cứu và hồi sức tim phổi nhưng cả ba đều chết. Vợ tôi mơi ba mươi tám tuổi”. Suốt mười lăm năm hoạt động ở miền Nam, Lê chủ yếu làm việc tại Củ Chi. Chiến dịch phun thuốc rụng lá được tiến hành ráo riết ở đây đã buộc bệnh viện của ông phải chuyển vào lòng đất. “Chúng tôi chiến đấu trên mặt đất và khi kẻ thù tiến tới thì chui xuống hầm”, ông Lê giải thích. “Trong giai đoạn 1960-1968, chúng tôi gặp nhiều khó khăn do quân địch hoạt động mạnh. Một bệnh viện đã được lập hoàn toàn dưới lòng đất – gồm phòng mổ, phòng xét nghiệm, phòng thuốc và hồi sức, v.v. Chúng tôi khoét các phòng cách mặt đất khoảng ba đến bốn mét rồi lắp xà đỡ và tấm trần, thường được làm từ các tấm kim loại mà người Mỹ dùng làm thềm để máy bay ở sân bay. Sau đó dùng đất lấp lại và ngụy trang bằng cây bụi. Các phần của bệnh viện được nối với nhau bằng đường hầm. Bên trong đường hầm, chúng tôi còn đào giếng nước. Hộp đạn rỗng thì được dùng làm nhà vệ sinh. Ban đêm, chúng tôi mang hộp lên mặt đất để làm sạch. Mỗi phòng rộng không quá 2,5×3 mét. Làm hầm lớn hơn thì rất nguy hiểm vì dễ sập và dễ bị https://thuviensach.vn phát hiện. Phòng mổ đủ rộng để chứa một bác sĩ, một trợ lý, thiết bị phẫu thuật, bác sĩ gây mê và y tá. Đôi khi, đối với những cuộc đại phẫu như mổ dạ dày, chúng tôi cần hai trợ lý nên có cả thảy sáu người trong phòng. Máy phát cung cấp điện chiếu sáng để mổ nhưng trong trường hợp tiếng máy nổ có thể làm lộ bí mật, chúng tôi dùng đèn pin gắn trên mũ để phẫu thuật. Chúng tôi thường không có thuốc gây mê. Khi đó, chúng tôi dùng thuốc Novocain[4] đối với tiểu phẫu; với các ca phẫu thuật lớn, chúng tôi tiêm Novocain vào xương sống hoặc tĩnh mạch của tủy sống. Bệnh nhân vẫn thức nhưng không có cảm giác gì hết. Tuy nhiên, ngay cả Novocain cũng thiếu và chúng tôi buộc phải pha loãng. Khi điều này xẩy ra, tôi thông báo trước với bệnh nhân rằng hiện chỉ có đủ Novocain để gây tê đối với các cơ quan nội tạng, không đủ gây tê trên da nơi chúng tôi thực hiện vết rạch đầu tiên. Mổ dạ dày được tiến hành như thế. Trong nhiều ca, chúng tôi thiếu cả thuốc gây mê lẫn Novocain, nhưng do tình trạng khẩn cấp của bệnh nhân mà không thể trì hoãn việc phẫu thuật được. Một người lính có thể đang bị thương nặng và vết thương đang hoại tử trầm trọng, dần thối rữa ra và cần phải cưa một chi ngay lập tức mà không có bất cứ loại thuốc gây tê nào. Sau khi thông báo với bệnh nhân về việc không đủ điều kiện gây tê và mê, chúng tôi giải thích thêm rằng nếu không phẫu thuật ngay thì nhiễm trùng sẽ lan rộng và có thể chết. Đó là một việc làm cực kỳ khó – cho cả bác sĩ lẫn bệnh nhân. Nhưng không có lựa chọn nào khác – chúng tôi buộc phải thực hiện thôi. Nếu phải cưa một tay, chúng tôi buộc con uay cầm máu ngay trên chỗ sẽ cưa rồi dùng dao cắt thịt ở tay. Sau khi cắt đến tới xương, chúng tôi dùng cưa. Chúng tôi cố gắng hoàn tất việc cắt tay trong vòng mười lăm phút. Trong suốt ca phẫu thuật, bệnh nhân kêu gào liên tục và do quá đau đớn, nhiều lúc ngất đi. Đôi lúc bệnh nhân từ chối phẫu thuật không gây mê nhưng sau khi hiểu ra vấn đề, anh ta biết rằng không có lựa chọn nào khác. Đó là một cuộc vật lộn giữa sự sống và cái chết – và cuối cùng thì bệnh nhân thường chọn sự sống”. Ông Lê chỉ ra sự đối lập trong chăm sóc y tế cho bệnh nhân của ông và chăm sóc của người Mỹ: “Bệnh nhân của tôi phải chịu đựng rất ghê gớm trong phẫu thuật. Nơi này, chúng tôi bị địch vây hãm, phải chui xuống địa đạo, cách không xa Sài Gòn vốn luôn có sẵn các phương tiện y tế để làm giảm đớn đau và khổ sở đối với người bị thương ở bên phía kẻ thù. Thật là khủng khiếp khi phải chứng kiến bộ đội của mình phải chịu đớn đau kinh khiếp trong khi biết rằng cách đấy không xa, phương tiện y tế luôn có sẵn – nhưng không bao giờ tiếp cận được. Trong khi người lính của chúng tôi chịu đau đớn thì người bị thương bên phía kẻ thù lại được chữa trị tốt hơn”. Có lẽ sự tồi tệ kinh khiếp của điều kiện y tế mà người chiến binh phải chịu đựng trong một vài cảnh ngộ được Lê minh họa rõ nhất khi ông kể về phẫu thuật não: “Đôi khi chúng tôi phẫu thuật sọ não mà không có thuốc gây mê hoặc Novocain. Loại phẫu thuật này rất quan trọng trong việc cứu sống một bệnh nhân; chẳng hạn khi phải lấy đầu đạn ra khỏi hộp sọ người lính. Nếu còn ít Novocain, chúng tôi sẽ tiêm vào da đầu sau khi đã cạo tóc. Sau khi rạch da đầu, thách thức lớn là phải cắt xuyên qua hộp sọ để phẫu thuật trên não. Để làm điều này, cần phải khoan nhiều lỗ vào hộp sọ. Thông thường, người ta có một loại khoan y tế đặc biệt để giảm nguy cơ đâm thủng vào não. Chúng tôi không có loại khoan đó nên phải dùng khoan tay thông thường, vì thế thường phải đối mặt với nguy cơ đâm thủng não trong suốt cuộc phẫu thuật. Chúng tôi tẩm chất khử trùng lên mũi khoan trước kh bắt đầu. Hộp sọ có hai lớp – một lớp màu trắng và lớp kia màu hồng. Bác sĩ phải biết cần khoan sâu bao nhiêu là vừa. Chúng tôi phải dựa vào kinh nghiệm và kiến thức về độ dày các lớp hộp sọ để quyết định nên khoan sâu chừng nào. Nếu tôi viết một cuốn sách về chuyện này chắc độc giả sẽ không bao giờ tin – nhưng đó là sự thật. Sau khi khoan một dãy lỗ tạo thành hình tròn, chúng tôi sử dụng một công cụ đặc biệt – cái kềm – kẹp các mảnh xương sọ nằm giữa các lỗ khoan để hoặc tách các mảnh hộp sọ ra hoặc nới rộng các lỗ khoan. Đôi khi chúng tôi dùng kềm nha khoa. Thay cho kềm, một kỹ thuật khác được sử dụng là lấy dây thô làm cưa, đưa dây thô vào một lỗ và đưa đầu kia ra lỗ kế cận, sau đó cầm hai đầu dây kéo đi kéo lại để cắt mảnh xương ở giữa. Thủ thuật này được lặp lại liên tục để tách xương hộp sọ ra, từ đó có thể thấy não ở bên trong. https://thuviensach.vn Cuối cuộc phẫu thuật, rất khó kiếm được một mảnh hộp sọ đủ lớn để trám lại chỗ phẫu thuật do xương bị vỡ vụn và rơi vãi nhiều. Chúng tôi buộc phải để nguyên lỗ thủng như vậy và chỉ khâu phần da đầu bên ngoài lại. Làm như vậy, người ta có thể thấy phần da ở chỗ mảnh hộp sọ bị khuyết ‘phập phồng’ – như trái tim đang đập vậy. Những bệnh nhân này cần phẫu thuật thêm để đặt một mảnh kim loại trám vào chỗ não bị hở (vốn chỉ được bảo vệ tạm thời bởi một mảnh da đầu mỏng dính). Chúng tôi phải thường xuyên có những sáng kiến như thế để cứu chữa thương binh. Điều này cũng giống cách trị bệnh của người Ai Cập hàng ngàn năm trước. Một trong những kỹ thuật họ áp dụng là bắt người cụt chi nhúng miệng vết thương vào chảo dầu sôi. Làm thế để mạch máu ở chỗ vết thương co lại, kết quả là giảm chảy máu. Còn chúng tôi, để giảm chảy máu, thường buộc chặt dây xung quanh chỗ chi bị cưa – không phải bằng chỉ y tế mà bằng các sợi dây dù của lính Mỹ. Chúng tôi thường sáng tạo ra rất nhiều cách chữa bệnh. Nghệ và mật ong được bôi lên vết thương để khử trùng. Khi thực hiện mở khí quản, chúng tôi thiếu các ống y tế thông thường để đặt vào khí quản bệnh nhân, vì thế chúng tôi dùng ống tre non. Để cố định lại chỗ xương gẫy, chúng tôi tới nơi có xác máy bay rơi tìm đinh vít nhỏ về dùng. Các loại đinh vít này rất hữu dụng. Chúng tôi cũng dùng sọ dừa để làm chai truyền dịch. Ống thải của một chiếc trực thăng hoặc máy bay rơi cũng rất hữu ích, chúng tôi cắt chúng ra làm đôi để nẹp xương gãy”. Bệnh viện của ông Lê chứng kiến số lượng thương vong nghiêm trọng nhất trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968. “Bệnh viện chúng tôi chỉ là một cơ sở trung chuyển. Thương binh trước hết được chăm sóc tại đây nhưng sau đó sẽ được chuyển tới các bệnh viện cố định hơn để được điều trị đặc biệt. Đối với các ca mà chúng tôi chữa trị được, bệnh nhân sau khi khỏi sẽ trở lại chiến trường. Chúng tôi có thể xử lý một lúc sáu mươi tới bảy mươi bệnh nhân. Suốt đợt Tết đó, chúng tôi tiếp nhận tới một ngàn thương binh. Họ được chữa trị một thời gian rồi chuyển đến các bệnh viện tốt hơn. Chúng tôi thường đợi tới thời gian ngưng giữa các trận đánh để chuyển bệnh nhân đi”. Hầu như không có sự lựa chọn nào khác đối với bệnh nhân của ông Lê. Y tế thiếu thốn cộng với một lượng lớn thương binh luôn cận kề cái chết đã không cho phép Lê có được sự xa xỉ của việc hoãn điều trị tới một thời điểm thuận lợi hơn. Điều kiện y tế là một cơn ác mộng nhưng ông vẫn xác quyết rằng, “đó là cái giá mà chúng tôi trả cho chiến thắng”. • TRẬN CHIẾN KẾT THÚC, NHƯNG CUỘC CHIẾN THỰC SỰ MỚI BẮT ĐẦU Từng chiến đấu ở miền Nam hơn một năm, Trung úy Nguyễn Văn Khánh là một chiến binh dày dạn trận mạc. Ông chỉ huy một trung đội bộ binh thuộc Sư đoàn 312 vào năm 1967, chuẩn bị cho một cuộc nghênh đón bất ngờ đối với Thủy quân lục chiến Mỹ sắp đáp xuống một ngọn đồi ở Khe Sanh. Khe Sanh, tương tự Đường mòn Hồ Chí Minh, đã trở thành một nơi thử thách ý chí giữa người Mỹ và Bắc Việt. Một căn cứ chiến đấu mới được Mỹ lập nên ở Khe Sanh để chủ yếu phục vụ cho các chiến dịch ngăn chặn Đường mòn Hồ Chí Minh cũng như làm mồi nhử Tư lệnh quân Bắc Việt – Đại tướng Giáp – đưa quân tấn công vào căn cứ có vẻ như đơn lập này. (Khi gặp tướng Giáp vào tháng 9 năm 1994, tôi hỏi ông rằng có phải chiến lược ở Khe Sanh là một chủ ý nhằm lặp lại chiến dịch Điện Biên Phủ, nơi ông đã vây hãm quân Pháp, buộc họ phải đầu hàng. Ông nói rằng ông biết khả năng tăng cường không quân của Mỹ tại đây khiến việc lặp lại một trận Điện Biên Phủ là không thể - vì thế ở Khe Sanh, ông chỉ tìm cách gây tổn thất sinh lực lớn cho quân Mỹ để làm giảm ý chí chiến đấu của họ). Sự xuất hiện của một đơn vị cỡ Sư đoàn 312 khiến người Mỹ tin rằng mồi nhử của họ đã phát huy tác dụng. Khánh đến Khe Sanh vào tháng 3 năm 1967 nhằm đáp trả lại hành động lập căn cứ của quân Mỹ. Chính ngay tại đây, thời kỳ quân ngũ của ông đã bị rút ngắn – Khe Sanh trở thành trận đánh cuối cùng của ông chống lại người Mỹ. Vào một buổi sáng, trinh sát Sư đoàn 312 phát hiện một máy bay do thám của Mỹ, chiếc OV-10 https://thuviensach.vn Bronco, đang bay lượn trên đầu. Họ quyết định không bắn máy bay, thay vào đó tiếp tục ẩn nấp vì họ thấy rằng có thể dụ quân Mỹ vào trận phục kích. Tư lệnh Sư đoàn 312 hiểu rất rõ chiến thuật của người Mỹ; ông biết rằng sự xuất hiện của chiếc OV 10 có nghĩa là quân Mỹ đang tìm kiếm các địa điểm tốt để đổ quân. Khi chiếc OV-10 lượn qua hai ngọn đồi ngay giữa nơi đóng quân của Sư đoàn 312, Sư đoàn trưởng không muốn phía Mỹ biết rằng quân của ông đang ở đó cho đến khi một cuộc phục kích được thực hiện. Kế hoạch của ông là chờ tới khi người Mỹ đổ quân xuống mới phát động một cuộc tấn công tầm cỡ sư đoàn. Mục đích của Sư đoàn 312 không phải là chiếm các địa điểm của kẻ thù mà là gây ra thương vong lớn cho lực lượng Mỹ vốn đang vượt trội về quân số. Như dự đoán, Thủy quân lục chiến sau đó được chuyển tới hai ngọn đồi bằng trực thăng. Từ đỉnh ngọn đồi thứ ba cách đấy 400 mét, Khánh và trung đội của ông ẩn mình chờ đợi. Hai phần ba trung đội 22 người của ông là tân binh, chỉ mới 17-18 tuổi; nhưng Khánh biết rằng ông có thể đặt niềm tin vào họ. Sáng hôm đó có nhiều đợt Thủy quân lục chiến đến. Tuy nhiên, Khánh ngạc nhiên nhận thấy rằng đối phương không đào hầm hố hoặc thiết lập các công sự chiến đấu. Khi chiếc trực thăng cuối cùng rời đi, Tư lệnh Sư đoàn 312 phát lệnh tấn công. Chỉ sau vài phút, Thủy quân lục chiến trên các ngọn đồi kia đã rơi vào địa ngục. Được trang bị AK-47 cùng với B40 và B41 – đồng thời được pháo binh yểm trợ - Sư đoàn 312 đã khiến Thủy quân lục chiến bất ngờ. Vừa trườn tìm chỗ nấp, Thủy quân lục chiến vừa triển khai một nỗ lực phòng thủy nhanh chóng mà sau đó trở thành một trận đánh kéo dài sáu tiếng. Lúc Khánh chỉ huy đơn vị tấn công, Thủy quân lục chiến đã gọi pháo binh và không quân bắn yểm trợ. Hỏa lực quá mạnh của đối phương buộc trung đội của Khánh phải tháy đổi vị trí nhiều lần trong suốt cuộc chiến. Bốn giờ sau khi trận chiến bắt đầu, Khánh nằm trên mặt đất, tiếp tục chỉ huy đơn vị đánh mạnh vào Thủy quân lục chiến. Một quả đạn pháo rơi cách vị trí ông năm mét. Mảnh pháo xuyên qua cẳng chân bên trái khiến máu chảy không ngừng. Nhiều binh sĩ chạy đến trợ giúp Khánh, nhưng ông bảo họ hãy tới giúp đỡ hai người lính đang bị thương nặng cũng do quả đạn pháo này. Biết rằng mình sẽ sớm bất tỉnh, ông xé tay áo buộc chặt quanh chân để cầm máu. Rồi quên đi vết thương nặng ấy, ông tiếp tục chiến đấu. Đến khi ngưng trận, Khánh kiệt sức. Ông đuối dần, và lần đầu tiên, cảm thấy đau đớn vô cùng ở chỗ vết thương. Dây băng chỉ làm chậm chứ không ngăn chảy máu được. Từ nơi lỗ thủng ở chân, ông thấy ống xương bị gãy nghiêm trọng. Trận đánh kết thúc, Sư đoàn 312 bắt đầu một nhiệm vụ khó khăn là chuyển thương binh tới các điểm sơ cứu. Hai người lính thay nhau cõng Khánh trên lưng. Đường đến nơi sơ cứu chỉ chừng hai cây số nhưng cây bụi và đồi dốc đã khiến nhiệm vụ này vô cùng cam go. Chuyến đi mất khoảng ba tiếng đồng hồ. Một bác sĩ và ba y tá đón thương binh ở điểm tiếp nhận. Khám vết thương của Khánh, vị bác sĩ biết rằng ở đây ông không thể làm gì hơn cho bệnh nhân. Vết thương ở chân cần được mổ gấp – một ca phẫu thuật mà điểm tiếp nhận này thiếu phương tiện tối thiểu để thực hiện. Khánh cần được chuyển tới bệnh viện chiến trường chính. Không xe chuyên chở, bệnh nhân có thể đối mặt với một chuyến đi thập tử nhất sinh kéo dài nửa tháng trên băng ca. Vị bác sĩ biết rõ những nguy cơ trong một chuyến đi như thế đối với Khánh – nhưng không có sự lựa chọn nào khác. Phẫu thuật là hy vọng duy nhất. Sau khi băng bó vết thương và tiêm moóc-phin, bác sĩ lập tức cho chuyển Khánh đi. Một hình ảnh đối nghịch gai góc, giữa lúc Khánh được chuyển đi bằng băng ca thì Thủy quân lục chiến bị thương trong cùng trận đánh ấy đã được chăm sóc y tế đầy đủ, sau khi được sơ tán khỏi chiến trường hàng giờ trước đó. Suốt hành trình bằng cáng ấy, Khánh lúc tỉnh lúc mê. Trong những khoảnh khắc tỉnh táo ngắn ngủi, Khánh được cho ăn. Nhưng ông hầu như chẳng ăn gì mà chỉ uống nước. Ông bị giảm cân nghiêm trọng – từ 58 xuống còn 36 cân. Đáng ngại nhất là sự mất sắc của cái chân bị thương – cho thấy quá trình hoại tử bắt đầu. Khánh biết rằng nếu không được chăm sóc y tế kịp lúc, nhiễm trùng có thể lan ra toàn cơ thể. Tốt nhất thì bị mất chân; mà xấu nhất thì mất mạng. Ông đang chạy đua với thời gian. https://thuviensach.vn Khi nhóm tới bệnh viện chiến trường, Khánh tái đi nhanh chóng. Bác sĩ điều trị đưa ông tới ngay phòng mổ để cưa chiếc chân đang dần thối rữa. Tỉnh dậy sau ca phẫu thuật, Khánh liếc nhìn xuống chỗ trũng trên chăn do chiếc chân vừa bị cưa tạo nên. Hình ảnh chiếc chân cụt mà ông bắt gặp không khiến ông hoang mang. “Tôi cảm thấy may mắn khi mình vẫn còn sống”, ông nói. “Ngay từ buổi đầu nhập ngũ, tôi đã biết rằng nguy cơ chết chóc là rất cao. Giờ đây, tôi là một người may mắn – tôi sống sót. Rốt cuộc thì tôi chỉ mất một cái chân, tôi vẫn còn một cái nữa”. Bảy ngày sau ca phẫu thuật, Khánh được chuyển ra Bắc. Lần này ông lại di chuyển dọc Đường mòn Hồ Chí Minh, nơi ông từng đi bộ nhiều năm về trước. “Ít ra thì lần này tôi cũng không phải đi bộ mà được ngồi xe tải”, ông nói. Nằm trên võng sau thùng xe tải, Khánh hướng ra miền Bắc. Xe chỉ đi vào ban đêm và thực hiện hành trình khá suôn sẻ, thường mỗi đêm đi được một trăm cây số. “Hoàn cảnh của tôi thế mà có chút lợi đấy”, Khánh trầm ngâm. “Vì xe tải này trở thương binh nên nó luôn được ưu tiên lưu thông trên đường ra Bắc. Tôi cứ nghĩ bụng, ‘Mình mới may mắn làm sao’ ”. Chuyến đi kéo dài khoảng ba tuần. Nhưng cuộc di chuyển này cũng không tránh khỏi các rắc rối thường thấy đối với những người đi dọc Đường mòn – đoàn xe bị máy bay Mỹ tấn công ba lần. Mỗi lần như vậy, hiệu lệnh báo động được phát đi từ các trạm quan sát để thông báo máy bay Mỹ sắp tới. Thời điểm phát báo động đủ sớm để mọi người có thể xuống xe, chuyển thương binh vào điểm trú ẩn và giấu xe. Chuyến đi của Khánh kết thúc tại một bệnh viện ở Thanh Hóa, cách Hà Nội 150 cây số về phía Nam. Ông dưỡng bệnh ở đấy một tháng rưỡi. Trong vòng năm năm sau đó, ông dùng nạng để đi lại cho đến khi nhận được một cái chân giả. Năm 1989, ông nhận một chiếc chân nhân tạo mới, rất linh hoạt được sản xuất bởi đất nước từng cướp đi chiếc chân thật của ông. Ngày nay, Khánh luôn coi mình là một người may mắn. Ông, khác với nhiều đồng đội của mình, đã qua mặt cái chết ở Khe Sanh để tiếp tục sống và kể lại câu chuyện này. https://thuviensach.vn Phần 2 Vận May Của Người Sống Sót Trong chiến tranh Việt Nam, mỗi ngày là một cuộc chiến sinh tồn. Trên chiến trường, nhiều biến chuyển đóng vai trò quyết định đối với việc một cuộc chiến cuối cùng sẽ thành công hay thất bại. Nhận thức được rằng một số yếu tố trong phương trình sống sót là điều bất biến, người lính nhận thấy những điều khác cũng có thể có vai trò trong đó. Vì thế, sự sống sót đôi khi là chuyện may rủi. Lúc này điềm may không đến với người lính nhưng lúc khác nó lại xẩy ra – như những trường hợp sau đây cho thấy: CHẠY TÌM SỰ SỐNG Lê Minh Đạo tự cho mình là người may mắn. Trong khi chiến tranh Việt Nam cướp đi rất nhiều mạng sống của các gia đình ủng hộ chính quyền Hà Nội trong suốt cuộc chiến thì gia đình của Đạo vẫn còn nguyên vẹn. Bố và bố vợ, hai người anh em trai của ông Đạo, tất cả đều phục vụ quân đội và đều sống sót. Riêng Đạo thì có một lần suýt trở thành thành viên thiệt mạng duy nhất của gia đình. Trong khoảnh khắc ấy, Đạo và một người lính Mỹ đã cùng dồn chú ý vào một điểm – tính mạng của chính ông. Tháng 6 năm 1968, trung đoàn của Đạo đang hoạt động tại Đồng Khởi, tỉnh Bến Tre – một khu vực đã bị Chất độc Cam làm cho trơ trọi. Đơn vị Đạo lúc đó không hề biết là quân Mỹ đã thả thiết bị nghe lén xuống. Thiết bị nghe lén đã phát huy tác dụng, phát hiện ra trung đoàn của Đạo di chuyển qua đây. Khi Đạo và đồng đội dừng lại nghỉ ngơi, một chiếc máy bay trinh thám của Mỹ lượn tới. Trong lúc quần thảo trên bầu trời, phi công hẳn đã liên lạc về căn cứ, bởi chỉ vài phút sau thì máy bay tấn công ập đến. Bom, tên lửa, đạn súng máy tuôn xuống xối xả. Đạo cùng đồng đội vội vã chạy tìm nơi ẩn nấp. Sau một lúc, Đạo chợt thấy mình và đồng đội đang lao đầu vào một nơi trống trải. Giống như con đại bàng trông thấy mồi, một chiếc trực thăng sà xuống ngay trên đầu họ. Máy bay bay thấp đến nỗi Đạo có thể nhìn thấy bên trong qua cửa hông của nó. Tim nhảy dựng lên, Đạo vừa chạy vừa nhìn lên và trong khoảnh khắc, mắt ông bắt gặp đôi mắt người lính Mỹ đứng trên cửa máy bay. “Tôi thấy một người lính trẻ, vẻ mặt anh ta đầy phấn khích”, Đạo nhớ lại. “Tôi nhìn anh ta trong khi anh ta giương khẩu phóng lựu M-79 lên chuẩn bị bắn”. Đạo cuống lên khi người lính Mỹ chĩa khẩu M-79 thẳng về phía ông. Chỗ cây bụi gần nhất lúc ấy cũng cách Đạo hàng trăm mét, ông biết rằng mình không thể tới kịp nơi ẩn nấp được. Trái tim Đạo gần như ngừng đập khi ông nghe tiếng phụt của quả đạn được bắn đi từ khẩu M-79. Ông đứng chết trân nhìn viên đạn rơi cách mình hai mét, ngay giữa Đạo và một đồng đội. Khi Đạo sụp xuống như một phản xạ tự nhiên thì quả đạn lại không phát nổ. Ông dường không tin vào mắt mình khi thấy quả đạn nằm bất động trên mặt đất. Thật may mắn làm sao, đó là một quả đạn lép – tính mạng của Đạo đã được cứu. Nhưng lúc đó Đạo không có thời gian để nghĩ về vận may vì chiếc trực thăng đã quần lại để rượt đuổi tiếp. Đạo và đồng đội chạy tìm chỗ ẩn nấp. Trước khi máy bay hoàn tất vòng cua, hai người đàn ông đã kịp chạy vào rừng. Khi máy bay lướt qua trên đầu, Đạo tự nhiên mỉm cười. Ông hiểu cảm giác bẽ bàng của xạ thủ trẻ người Mỹ trên chiếc trực thăng kia khi để sổng con mồi. Số phận đã giúp Đạo được sống để tiếp tục chiến đấu – và cũng bằng cách ấy, đã giúp gia đình ông sống sót vẹn toàn qua cuộc chiến. • BỊ CHÔN SỐNG Phạm Tấn Thành, sinh năm 1932, tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm mười lăm tuổi. Trải nghiệm chiến đấu chống Mỹ đầu tiên của ông là lúc 34 tuổi, vào tháng 1 năm 1966, khi Lục quân Mỹ mở Chiến dịch Crimp. Nhiệm vụ của chiến dịch này là vây đánh du kích quân hoạt động ở khu vực Củ Chi. Và https://thuviensach.vn đấy là trải nghiệm đáng nhớ nhất đối với Thành. Là một đại úy phục vụ trong lực lượng Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ở địa đạo Củ Chi, Thành chỉ huy ba mươi người. Khi quân Mỹ tiến tới, đơn vị của Thành nổ súng và liên tục di chuyển để khiến đối phương bối rối. Đến lúc đơn vị tăng của Lục quân Mỹ mở đường tấn công, nhóm của Thành lùi lại và chui vào hầm trú ẩn nối với hệ thống địa đạo Củ Chi. Họ cố gắng bám trụ cho tới khi hỏa lực vượt trội của xe tăng buộc họ phải rút hẳn vào địa đạo. Thành cùng bốn đồng đội vừa kịp rút vào thì chiếc hầm trú ẩn ban nãy sập xuống sau khi bị xe tăng bắn trúng. Vụ nổ lập tức làm bít lối vào địa đạo, loại Thành cùng nhóm của ông ra khỏi cuộc chiến. Địa đạo bị bít một đầu, nhóm người tìm cách tới cửa bên kia để chui ra với hy vọng có thể đánh thốc vào sườn quân Mỹ. Họ nghe tiếng xe tăng di chuyển ầm ầm trên đầu. Trước đó, địa đạo đã bị bom dội trúng nên khi xe tăng chạy ở phía trên thì một đoạn hầm trước mặt Thành sập xuống. Lúc bấy giờ Thành và đồng đội đã bị bít lối ra cuối cùng. Họ bị giam hãm trong một đoạn đường hầm dài chừng 100 mét với lượng dưỡng khí ít ỏi. Kinh nghiệm từ thời chiến đấu chống Pháp dạy cho Thành phải giữ bình tĩnh giữa lúc nguy nan. Khi đã bị cắt đứt liên lạc với đơn vị, ông biết rằng mình cần phải hành động để trở lại với cuộc chiến. Ông quyết tâm tìm một lối ra, nhưng cũng chuẩn bị tinh thân sẵn sàng cho tình huống thất bại. Thiếu dụng cụ đào bới, Thành sử dụng nòng khẩu AK-47 thay cho cuốc chim để đào đất phía trên đầu. Các thành viên thay nhau đào theo cách này. Đó là công việc nhọc nhằn và mất thời gian. Sau khi một người đào đất xuống, người đứng kế tiếp sẽ đẩy đất ra phía sau. Thành rất tự hào khi trong hoàn cảnh ấy mà mọi người vẫn không hoảng loạn. Bị chia cắt với phần còn lại của thế giới trong một cái mồ dưới đất, phải làm việc trong bóng tối và không có đủ dưỡng khí là điều kiện rất dễ khiến những người đàn ông cứng rắn nhất cũng trở nên bấn loạn. Nhưng ở đây, dù còn rất trẻ, họ vẫn giữ được bình tĩnh. Thành không ngạc nhiên. Ông rất hiểu những người lính của mình và luôn tin tưởng rằng họ có thể phối hợp tốt cùng nhau trong hoàn cảnh như thế này. Dưỡng khí bên trong hầm cạn dần. Không có ánh sáng nên thật khó để biết được công việc đào bới đã tiến triển đến đâu. Tuy nhiên, họ cứ cắm cúi đào lên phía trên vì biết rằng đó là hướng đi duy nhất của họ. Khoảng một tiếng trôi qua. Giờ đến lượt Thành đào. Ông thay phiên người đồng đội nhưng ngay sau đó đã ngừng tay. Chú ý lắng nghe, Thành chợt nhận ra rằng chỉ vài phân nữa là lên tới mặt đất. Tuy nhiên, do không biết chắc quân Mỹ còn ở trên đấy hay không nên ông nghe ngóng một hồi rất lâu. Không có âm thanh gì lạ, ông cũng không biết sự tĩnh lặng này có nghĩa là gì. Liệu có phải quân Mỹ đang nằm im chờ nhóm của Thành trồi lên từ huyệt mộ - hay là đã rút đi rồi? Và chỉ cần một cú thọc mũi súng mạnh, Thành đã được hít thở dưỡng khí và bắt gặp một chiến trường im ắng. Không bị khuất phục bởi hoàn cảnh nguy nan, năm chiến sĩ lập tức trườn lên mặt đất, tập hợp lại và theo điều lệnh đối với những đơn vị bị chia cắt trong một trận chiến, họ tiếp tục chuẩn bị chiến đấu. • BAY ĐẾN TỰ DO Kể từ khi hoàn tất hành trình dọc Đường mòn Hồ Chí Minh vào năm 1964, Trung tá Phan Lương Trực hoạt động tại Quân khu 8, phía Đông Sài Gòn. Ở đây, ông trở nên thông thuộc hệ thống địa đạo Củ Chi, sử dụng nó để di chuyển khắp quân khu. Ông thường xuyên đi trinh sát, tận dụng hệ thống địa đạo để tiếp cận mục tiêu. Nhưng một chuyện xẩy ra vào năm 1968 suýt chút nữa đã cướp đi mạng sống của ông. Hầu hết các hoạt động bên ngoài địa đạo đều được tiến hành về đêm, nhưng đôi khi một vài nhiệm vụ đòi hỏi phải thực hiện ban ngày. Trực cùng một người lính được điều đi để trinh sát hoạt động của quân Mỹ. Họ đi dưới một địa đạo để tiến gần hơn tới mục tiêu, sau đó chui vào một đường hầm thứ cấp. Do vóc dáng hơi cao hơn người Việt Nam trung bình, ông Trực phải cúi gập người trong suốt lối đi khá dài này. Không được thoải mái, nhưng ông biết nếu đi trên mặt đất sẽ dễ dàng bị phát hiện giữa lúc đang cố https://thuviensach.vn gắng tiếp cận mục tiêu. Dù đường hầm tối, ông Trực vẫn không dùng đèn soi. Bốn năm sống dưới địa đạo đã giúp ông trở thành một người thành thạo, có thể đi lại dễ dàng trong bóng tối dưới đường hầm. Tới địa đạo thứ cấp, hai người tiếp tục tiến lên. Trực biết vị trí cửa ra vào còn cách vài trăm mét nữa. Khi cảm giác rằng mình đã tới nơi, ông đưa tay lên sờ soạng tìm tấm gỗ dùng làm nắp ngăn cách ánh sáng bên ngoài với đường hầm tối bên trong. Bàn tay đụng ngay tấm gỗ trên đỉnh đầu, Trực cảm thấy hãnh diện về khả năng định vị của mình. Ông từ từ đứng dậy, khẽ đẩy chiếc nắp gỗ hé lên và thò đầu ra quan sát xung quanh trước khi chui ra. Nhưng khi Trực vừa đứng lên, phơi mình trong ánh nắng mới len vào vùng tối dưới hầm, ông chợt giật mình khi có tiếng động mạnh phía trong đường hầm. Một âm thanh quang quác rộ lên, tiếp đó là tiếng vỗ cánh điên cuồng. Để cải thiện cuộc sống, người ta nuôi heo và gà dưới lòng địa đạo Củ Chi. Rõ ràng là có một con gà đã sổng truồng dưới hầm, chạy dọc địa đạo chính và tiến ra hầm thứ cấp. Trông thấy ánh sáng khi Trực vừa nhấc nắp hầm lên, con gà đã chộp lấy cơ hội để thực hiện bước cuối cùng trong hành trình đào thoát. Giật mình vì âm thanh quang quác, tay Trực đẩy mạnh nắp hầm, trong chốc lát tạo ra lối thoát cho con gà. Chớp lấy cơ hội, con gà bay ra ngoài, cánh của nó quyệt vào người Trực. Như choàng tỉnh, Trực bắt đầu lo lắng, không phải về việc làm mất con gà mà bởi một âm thanh rất quen thuộc mà ông sớm nhận ra là tiếng trực thăng. Thật là một thời khắc tồi tệ khi vừa mới mất gà thì trực thăng Mỹ ập đến. Ở thời kỳ đầu, nắp địa đạo được che phủ bằng cây bụi để người ra vào tránh bị phát hiện. Tuy nhiên, trong những năm sau đó, hóa chất làm trụi lá đã khiến cây cối héo khô. Trong khi bản thân nắp hầm vẫn được ngụy trang tốt thì những người chui ra từ bên trong sẽ dễ dàng bị phát hiện, buộc phải tức tốc chạy hàng trăm mét để tới trốn trong khu rừng gần nhất. Do con gà thoát ra giữa thành thiên bạch nhật nên chắc hẳn viên phi công trên chiếc trực thăng kia đã phát hiện ra. Trực đành đóng cửa hầm lại, trở về với thế giới tối tăm của mình và chờ đợi. Pha đào thoát của con gà đã khiến phi công chú ý, anh ta cho máy bay lượn vòng để quan sát. Sau một khoảng thời gian tưởng chừng như vô tận, âm thanh phát ra từ cánh quạt trực thăng rốt cuộc cũng tan dần. Trực tiếp tục đợi thêm một chặp nữa để biết chắc rằng chiếc máy bay không trở lại. Tới lúc đoan chắc máy bay đã rời xa, ông từ từ đẩy cửa lần thứ hai. Chỗ ẩn nắp của ông không hề hấn gì sau sự cố, và ông cùng đồng hành rời địa đạo, nhanh chóng biến vào vạt rừng gần đấy. Khi đã được cây rừng che chở, Trực nhìn đồng hồ. Đã gần mười phút trôi qua kể từ lúc chiếc trực thăng rời đi. Sự yên ắng khiến ông thêm tin tưởng rằng mình đã không bị phát hiện. Nhưng và lúc Trực và người đồng hành chuẩn bị tiếp cận mục tiêu, ông lại chợt nghe những âm thanh rất quen thuộc. Nghe tiếng rít của một quả đạn pháo 175 mm, Trực nhận ra rằng niềm tin ban nãy của mình là không đúng – trên thực tế, vị trí của ông đã bị con gà đào thoát tố cáo. Hai người bèn chạy trở lại miệng hầm giữa lúc mặt đất rung chuyển bởi những quả pháo 175 mm. người đồng hành của Trực đến được cửa hầm trước và nhanh chóng chui qua khe cửa hẹp. Trực kém may mắn hơn. Trong khi ông đang chờ đợi đến lượt mình trườn vào, một quả pháo đã phát nổ ở cự ly gần. Bị thương nặng, Trực nằm vật ra đất, phần trên cơ thể, cẳng chân và bàn chân lỗ chỗ mảnh đạn. Ông chìm vào hôn mê. Giữa lúc pháo 175 mm nổ rung chuyển mặt đất xung quanh Trực, có một bàn tay thò ra từ miệng hầm và kéo ông vào bên trong. Người đồng hành dìu Trực, lúc này đang bất tỉnh, tới hầm chính và sau đó đến bệnh viện trong địa đạo. Sau một tháng dưỡng bệnh, Trực trở lại địa đạo để chiến đấu. Nhưng theo ông được biết thì con gà kia đã không bao giờ trở lại. • SAI LẦM SUÝT CHẾT Quân Mỹ chủ động khích lệ thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đào ngũ theo một chương trình ân xá có tên gọi “Chiêu hồi”, hay “Open Arms” (Mở rộng vòng tay). Vào ngày 17 tháng 5 năm 1970, chương trình đó gần như đã thành công trong mục tiêu bắt giữ một sĩ quan cấp cao của Việt Cộng, Đại tá Nguyễn Văn Sĩ, Tư lệnh Khu 2. (Về mặt chiến trường, Hà Nội chia miền Nam Việt Nam https://thuviensach.vn thành ba quân khu và sáu vùng. Vùng 2 bao gồm phần lớn tỉnh Long An. Là một tư lệnh vùng, Sĩ báo cáo trực tiếp lên Tư lệnh Việt Cộng, Tướng Trần Văn Trà). *** Ngày 29 tháng 4 năm 1970, quân Mỹ mở rộng hoạt động ra bên ngoài Việt Nam, qua Campuchia. Mười ba chiến dịch mặt đất quy mô lớn đã được mở để quét sạch các cứ địa của quân Bắc Việt đặt trong phạm vi 19 dặm cách biên giới miền Nam Việt Nam. Đại tá Nguyễn Văn Sĩ đi về giữa Việt Nam và Campuchia để điều phối hoạt động của Việt Cộng trong khu vực. Trong các chuyến đi, ông luôn có hai vệ sĩ hộ tống. Theo quy định lúc bấy giờ, ông Sĩ, với tư cách là tư lệnh cấp cao, không được hoạt động trong cùng một khu vực quá hai hoặc ba ngày để tránh bị lộ. Ngay khi tới địa điểm mới, đội bảo vệ phải tìm ra một chỗ ẩn náu để phòng tình huống khẩn cấp. Thông thường, chỗ ẩn náu là một hố nhỏ được đào sâu vào lòng đất mà chỉ có Sĩ và nhóm bảo vệ biết được. Mặc dù Sĩ chỉ dừng chân tại một địa điểm không quá 48 tiếng đồng hồ nhưng đào hầm luôn là nhiệm vụ đầu tiên mà nhóm bảo vệ thực hiện khi tới nơi, cho dù việc đào hầm có chiếm một phần lớn thời gian hoạt động. Vài tuần sau khi quân Mỹ tấn công vào Campuchia, Sĩ lúc ấy đang hoạt động ở Svay Rieng, Campuchia. Ông và nhóm của mình đã qua mặt được các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa đóng cách đấy chỉ năm cây số. Đến Svay Rieng từ ba ngày trước, Sĩ phạm phải một sai lầm suýt chết người. Trái với điều lệnh quân đội, ông đã quyết định lưu lại tại một địa điểm quá khung thời gian cho phép là 48 – 72 tiếng. Sáng 17 tháng 5, Sĩ họp bàn kế hoạch với vị sĩ quan điều hành cho tới 1 giờ sáng. Mệt rã, hai người rời cuộc họp để đi ngủ. Quân lệnh không bao giờ cho phép hai sĩ quan cấp cao ở cùng một chỗ, ngoại trừ khi tham gia chiến dịch. Vì thế, họ đi theo hai hướng khác nhau để ngủ qua đêm. Đây là một cách thức để làm giảm nguy cơ mất cùng lúc hai chỉ huy cấp cao. Sau khi tới nơi ngủ với sự canh gác của nhóm bảo vệ, Sĩ ngủ thiếp đi. Ông thức dậy vào lúc 6 giờ sáng. Sau bữa sáng, Sĩ và các vệ sĩ tới đóng ở một nơi mới cách làng 300 mét. Tại đây, họ sẽ dễ dàng đến nơi ẩn nấp, và nhóm bảo vệ tranh thủ chợp mắt do đã thức trắng đêm hôm trước. Trong khi các vệ sĩ ngủ, Sĩ ngồi canh chừng. Ông chợt nghe tiếng máy bay trên đầu. Khi nó tới gần, ông nhận ra đó là một chiếc máy bay chỉ điểm. Sĩ bắt đầu nghi ngờ khi thấy chiếc máy bay cứ đảo vòng tìm kiếm. Ông đánh thức nhóm bảo vệ, lệnh cho họ lập tức lục soát toàn bộ khu vực xung quanh để hủy đi bất cứ dấu hiệu nào cho thấy họ ở đây. Sau đó cả ba chui vào nơi trú ẩn và chờ đợi. Sau chừng nửa tiếng, quân Mỹ đã có mặt khắp nơi. Biết rằng mình và đồng đội bị lọt vào giữa một trận càn lớn ở khu làng do quân đội Mỹ thực hiện nhưng Sĩ không ngờ rằng mục đích của chiến dịch này là nhằm tìm bắt ông. Từ nơi ẩn nấp, Sĩ và đồng đội không thể quan sát được hoạt động của địch; họ chỉ biết nằm im nghe ngóng. Tiếng binh lính hô tiến, lùi lẫn trong tiếng gầm rú của xe bọc thép đang quần thảo. Cả ba chẳng dám thò đầu ra khỏi nơi trú ẩn bởi sợ rằng quân Mỹ đang ở quá gần. Chờ đợi trong tư thế co quắp lại trong hầm là cực kỳ khó chịu, nhưng họ vẫn ở đấy, bất động. Tình trạng đó tiếp diễn trong nhiều giờ. Nỗi lo lớn nhất của Sĩ là quân Mỹ có chó đánh hơi. (Để chống lại chó đánh hơi, Việt Cộng sử dụng thủ thuật bôi xà phòng lên người – nhưng do Sĩ và đội bảo vệ không được báo động trước về sự có mặt của quân Mỹ nên họ chưa kịp thực hiện điều đó). Có lúc, Sĩ đã đại tiện ngay tại nơi trú ẩn. Sau đó, ông rất sợ bị chó đánh hơi được. Chẳng bao lâu, tiếng nói của binh lính Mỹ đã ở rất gần. Sĩ rút súng ngắn ra chĩa vào đầu. Ông thà tự bắn mình còn hơn rơi vào tay kẻ địch. Tới khoảng 6 giờ chiều, tiếng ồn bắt đầu tan. Tất cả yên tĩnh trở lại. Tuy nhiên, cả ba tiếp tục ở trong hố vì không biết chắc liệu tất cả lính Mỹ đã đi hết hay vẫn còn một nhóm nhỏ được bố trí ở lại mai phục. Cuối cùng, một người bảo vệ trồi ra khỏi miệng hố. Cẩn thận quan sát trong khu vực, anh biết chắc rằng https://thuviensach.vn quân Mỹ đã rời đi. Anh trở lại thông báo cho Sĩ. Nhẹ nhõm, cả nhóm nhanh chóng rời đi. Vừa rút lui, Sĩ vừa lo ngại cho sự an toàn của người sĩ quan điều hành. Ông không biết rõ liệu người kia có thoát khỏi bàn tay của quân Mỹ hay không. Hai ngày sau, ông biết về số phận của người kia. Sáng sớm ngày 17 tháng 5, người sĩ quan điều hành kia đã tới chỗ quân Việt Nam Cộng hòa để đầu hàng theo chương trình Chiêu hồi. Tóm được một sĩ quan cấp cao của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, quân Việt Nam Cộng hòa lập tức thông báo với người Mỹ, lúc bấy giờ đang đóng cách Svay Rieng 30 cây số. Một chiếc trực thăng Mỹ liền bay tới để chở người này về thẩm vấn tiếp. Người đó liền khai với quân Mỹ rằng ông ta đã họp với ông Sĩ ngay tại Svay Rieng chỉ vài giờ trước. Nhận định rằng Sĩ có thể đang ở trong vùng cũng như tầm quan trọng của việc bắt giữ ông, quân Mỹ đã phản ứng ngay, mở một đợt càn và lục soát khẩn cấp. Sau này Sĩ thổ lộ rằng ông chưa bao giờ có linh cảm về sự phản bội của viên sĩ quan điều hành trong buổi sáng hôm ấy. Điều mà Sĩ không biết đó là người sĩ quan kia vừa mới chuyển vợ từ Mỹ Tho lên Sài Gòn, rõ ràng là đang chuẩn bị cho một cuộc đào ngũ – sự phản bội mà Sĩ cho là một thất bại trong bản lĩnh tư tưởng của sĩ quan kia. Tính hiệu quả của chương trình Chiêu hồi vẫn còn nhiều tranh cãi nhưng có lẽ thành công lớn nhất đối với Mỹ là chương trình này đã gây ra một không khí lo sợ cho quân du kích. Như Sĩ nhìn nhận, nó tạo ra một mối đe dọa thường trực cho sự nghiệp của họ, bởi họ không bao giờ biết được người nào thiếu bản lĩnh chiến đấu. https://thuviensach.vn Phần 3. Bi Kịch Thường Dân Đã qua lâu rồi cái thời mà quân đội đánh nhau trên những chiến trường cách xa nơi dân thường sinh sống. Ranh giới chiến trường trong thế kỷ 20 và 21 là không có giới hạn; vạch xác định khu vực chiến trường ngày càng mờ đi và “tổn thất bên lề” ngày càng lớn hơn. Trong cuộc xung đột này, chiến tranh bao trùm toàn nước Việt Nam – từ nơi chiến trận ở miền Nam cho đến các cuộc dội bom ở miền Bắc. Khi mà ranh giới của chiến trường là vô hạn thì có một kết cục không thể tránh khỏi – không thể giới hạn ảnh hưởng chỉ trong phạm vi người lính chiến. Chừng nào chưa có loại vũ khí “thông minh” có thể phân biệt được người tham chiến và kẻ ngoài cuộc, chừng ấy dân thường vẫn còn chịu thương vong. Chiến tranh Việt Nam – một cuộc chiến mà thương vong dân thường lên tới hai triệu người – không là ngoại lệ, và có lẽ là một ví dụ rõ nhất. Sau đây là những câu chuyện riêng tư của thường dân Việt Nam – họ là bậc phụ huynh, là người anh chị em, là con cái – phải chịu mất mát và đổ vỡ từ cuộc chiến tranh vốn đã nhấn chìm đất nước của họ trong một thời gian quá dài. • KHÔNG NGÀY ĐOÀN TỤ Là một phụ nữ rất đẹp dù đã ngoài bảy mươi, những đường nét và khuôn mặt phúc hậu của bà Bùi Thị Mè dường như tương phản với cái bi kịch vẫn còn trĩu nặng trong trái tim bà. Chỉ có tấm huy chương mà bà đeo trên ngực chiếc áo dài, được đất nước trao tặng thể hiện sự biết ơn với sự hy sinh lớn lao của bà là gợi cho người ta biết rằng bà có một câu chuyện khổ đau để kể. Bà Mè và chồng, ông Nguyễn Văn Nhơn, là giáo viên. Giai đoạn 1942-1957, họ là một đôi vợ chồng hạnh phúc với bốn người con trai lớn – Sanh, Tài, Đại, Đạo – cùng hai con gái út. Trong nhiều năm, họ quản lý một trường học ở Chợ Lớn, ngoại ô Sài Gòn. Nhưng ngay sau khi đứa con út chào đời, Nguyễn Thị Bình, chính quyền Sài Gòn buộc họ đóng cửa trường. Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, giữa lúc người Pháp tỏ rõ ý định tái thuộc địa hóa Việt Nam, bà Mè và ông Nhơn gia nhập phong trào cách mạng đánh đuổi Pháp. Họ rất thất vọng khi chiến thắng Điện Biên Phủ trước người Pháp vào năm 1954 đã không dẫn tới thống nhất cho Việt Nam. Tiếp tục mở trường dạy học, họ quyết tâm làm hết sức mình vì mục tiêu thống nhất đất nước. Hướng đi ấy khiến họ càng trở nên khó chịu đối với chính quyền Sài Gòn. Đóng cửa trường học, gia đình chuyển vào Sài Gòn sống với người thân. Tại đây, họ bị từ chối giấy phép mở trường nên phải dạy trẻ ngay tại nhà. Năm 1960, khi biết rằng chính quyền Sài Gòn đang chuẩn bị bắt họ vì các hoạt động chống chính quyền, hai ông bà lên kế hoạch rời thành phố. Họ sợ rằng nếu để các con trai – từ mười hai đến mười tám tuổi - ở lại thì cảnh sát Sài Gòn sau này có thể bắt các con để buộc cha mẹ phải đầu hàng. Vì thế, họ quyết định mang theo các con trai, chỉ để lại hai con gái – mới ba và chín tuổi – cho người cô nuôi. Họ xuôi xuống đồng bằng sông Mê Kông. Chọn được chỗ ở miệt đồng bằng, bà Mè và chồng lại mở trường học tại tỉnh Trà Vinh, dùng làm cơ sở để triển khai hoạt động chống chính quyền Sài Gòn. Là nhà giáo, họ luôn nỗ lực để đảm bảo rằng con cái được thụ hưởng nền giáo dục tốt nhất có thể. Thế nên các con trai của họ được giáo dục tốt hơn nhiều so với bạn bè cùng trang lứa. Điều này đã dẫn tới một kết quả ngoài mong đợi cho gia đình; đó là những người con trai lớn đều nhanh chóng trở thành giáo viên. Cuối cùng, cả bốn người con trai đều đi dạy học, góp phần cải thiện thu nhập gia đình. Sự trợ giúp về tài chính của các con trai đã tạo điều kiện cho bà Mè và ông Nhơn dành nhiều thời gian hơn để thúc đẩy các mục tiêu cho phong trào Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thông qua “ngôi trường” mới của mình. Năm 1964, khi nhịp độ chiến tranh tại miền Nam dâng lên, bà Mè và chồng quyết định rời đồng bằng để chuyển đến vùng căn cứ của Mặt trận. Tổng hành dinh nằm trong rừng sâu bên ngoài Sài Gòn, cách xa các khu vực thường xuyên có quân chính phủ tuần tra. Nơi này nằm tại tỉnh Tây Ninh, được biết đến với tên gọi “Chiến khu R”. https://thuviensach.vn Họ đưa người con trai lớn nhất, cậu Sanh, đi cùng; những người con còn lại tiếp tục nghề dạy học. Trong khi cha mẹ tham gia các hoạt động của Mặt trận ở Chiến khu R cũng như nỗ lực tuyển thêm nhiều người vào lực lượng của mình thì Sanh chuyển nghề. Với tài hát hay và múa giỏi, cậu bắt đầu biểu diễn cho các khán giả ở Chiến khu R, và cậu trở nên rất nổi tiếng. Nhưng rồi vào năm 1967, cậu đã xung phong nhập ngũ để tham gia cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Chẳng bao lâu sau khi Sanh bước vào con đường binh nghiệp thì bà Mè và ông Nhơn lại nhận được thông tin về một quyết định khác. Là những nhà hoạt động cách mạng chống chính quyền Sài Gòn, họ không thể nói rằng quyết định đấy khiến họ ngạc nhiên. Tài gửi cho họ một lá thư. Cậu nhẹ nhàng giải thích cho cha mẹ biết rằng, điều mà họ cảm nhận được từ thẳm sâu trái tim là không thể tránh khỏi. Được chứng kiến sự dấn thân của cha mẹ đối với sự nghiệp của Mặt trận, cả ba người con trai còn lại đều tuyên bố đã quyết định gia nhập cuộc chiến chống lại chính quyền Sài Gòn. Tài, có lẽ là người nhạy cảm và ăn nói lưu loát nhất trong số các anh em trai, cảm thấy cần phải giải thích cặn kẽ cho cha mẹ lý do tại sao mình theo chân các anh em tham gia cuộc chiến chống Mỹ. Toàn bộ bức thư như sau: “Ngày 25-5-1967, Ba Má kính yêu! Viết thư này con xin báo tin cho Ba Má rõ là đầu tháng tư năm 1967, con đã làm đơn tình nguyện xin ra bộ đội chiến đấu và đã được chấp thuận. Đáng lý ra con phải viết thư trước cho Ba Má để nói rõ ý định của con, nhưng vì đường sá xa xôi cách trở và thời gian đi qua vùn vụt không thể chờ đợi, nên con định đến đơn vị con sẽ báo tin cho Ba Má rõ luôn thể. Mong Ba Má hiểu và tha lỗi cho con. Con biết, được tin Bé Năm, rồi đến con ra bộ đội, Ba Má sẽ rất lo, nhứt là Má. Vì có bà mẹ nào, nhứt là một bà mẹ Việt Nam, lại không lo lắng khi con mình xông pha và con cũng tin rằng Ba Má rất tự hào và vừa lòng với việc làm của tụi con. Xa Ba Má mấy năm nay, lúc nào con cũng nghĩ đến Ba Má, và càng nghĩ đến Ba Má con càng thấy cần phải nỗ lực phục vụ nhiều hơn cho cách mạng để Ba Má được vừa lòng và tự hào, vì có những đứa con đã không ngần ngại cống hiến tất cả tuổi thanh xuân cho sự nghiệp cách mạng cao cả. Con đã chọn lấy con đường cầm súng giết giặc vì chính con đường này là gay go nhứt nhưng cũng vinh quang nhứt. Và cũng chỉ con đường duy nhứt này là hợp lý và mới phát huy hết được khả năng sẵn có của con. Xin ra đơn vị chiến đấu, con không chỉ nghĩ đến giai đoạn đánh Mỹ trước mắt thôi đâu Ba Má ạ. Đường cách mạng còn rất dài, con còn phải đeo đuổi và cống hiến nhiều hơn nữa, không phải chỉ tuổi thanh xuân mà là cả cuộc đời con. Vì vậy mà ngay từ bây giờ, con nghĩ rằng cần phải tích cực cải tạo rèn luyện bản thân để phục vụ cho giai đoạn hiện tại rất vinh quang và cho cả tương lai đầy hứa hẹn. Mà nơi thử thách, rèn luyện tốt nhứt cho tuổi trẻ chúng con hiện nay chính là chiến trường. Và trên đường chiến đấu, nếu một trường hợp không may nào đó đến với con, con sẽ sẵn sàng nhận lấy vì con nghĩ rằng thà để cho những người thân thương tiếc nhưng tự hào vì con chớ quyết không để cho Ba Má có một đứa con hèn hạ, anh Hai và các em con có một đứa em, một người anh nhục nhã. Chưa lúc nào con ra đi đầy tự tin và nhiệt tâm như hiện nay. Ba Má hãy tin tưởng nơi con. Con xin hứa với Ba Má là trong những thư sau, con sẽ báo với Ba Má không những chỉ sức khỏe, ý nghĩ và tình cảm thôi, mà con sẽ báo cho Ba Má rõ thành tích và chiến công của con, của đồng đội và tập thể đơn vị con. Riêng về con, thể lực của con hiện nay rất dồi dào, đủ sức để đánh giặc nhiều năm nữa. Con đã được bổ sung vào một D bộ binh của T3. Bé Năm thì hiện đang ở một tiểu đoàn pháo binh của T3, em có viết thư cho con, tiến bộ và phấn khởi lắm. Bé Tư vẫn còn công tác ở Vĩnh Long. Em có hơi băn khoăn về công việc của mình. Con đã có viết thư động viên Bé Tư. https://thuviensach.vn Ba Má kính yêu! Viết thư này cho Ba Má đang lúc ta lắm thế chủ động tấn công địch dồn dập và có lẽ không bao lâu nữa con sẽ được đánh trận đầu tiên, con nguyện sẽ làm vừa lòng Ba Má, nguyện xứng đáng với sự chăm sóc dạy dỗ của Đảng và tập thể, xứng đáng là một chiến sĩ Giải phóng quân kiên cường. Con xin gởi đến Ba Má tất cả tấm lòng thương nhớ của một đứa con xa cách. Ba Má chuyển lời con thăm tất cả các cô, các bác, các chú ở chung được đầy đủ sức khỏe và đạt được nhiều thành tích trong công tác. Con của Ba Má! Nguyễn Huỳnh Tài[5]. Bà Mè nhận lá thư với xúc cảm lẫn lộn. Một mặt bà tự hào khi các con trai đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh chiến đấu cho lý tưởng, cũng như bà chấp nhận quyết định nhập ngũ của các con, mặt khác bà không khỏi phiền muộn. Bà biết các con đều chưa được huấn luyện chiến đấu là bao trên con đường chông gai trước mặt. Cuối năm 1967, cảm giác chung lúc đó là miền Nam có thể được giải phóng. Trong khi chuẩn bị cho cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968, bà Mè biết rằng các con sẽ tham gia vào chiến dịch này. Bà cảm thấy đỡ lo hơn khi bốn đứa con không phục vụ cùng đơn vị. Điều đó có nghĩa là không nhất thiết tất cả những đứa con của bà sẽ cùng tham gia một trận đánh khốc liệt. Như đã hứa, Tài tiếp tục trao đổi thư từ với mẹ để bà có thể biết được tình hình của cậu và những người anh em kia. Đôi khi anh em lại gặp nhau trên chiến trường – và những người kia thường nhắc Tài viết thư cho mẹ. Bà Mè luôn mong mỏi những lá thư vốn thường mất cả tháng trời mới tới tay người nhận. Biết rằng các con đang lăn lộn chiến đấu hằng ngày, bà luôn cố gắng tập trung vào công việc. Cuối tháng 2 năm 1968, bà Mè đang làm việc tại một khu khá hẻo lánh của Chiến khu R cùng với một nhóm đồng sự. Bà nhớ đó là một ngày đẹp trời và bà ngồi bên bàn làm việc trong căn lều mái lá. Một thượng cấp bước vào và, hơi do dự một chút, tiến tới chỗ bà. “Có tin xấu”, ông nói. “Tôi vừa được thông báo rằng Tài và Sanh đã ngã xuống trên chiến trường!”. Tài, mới 24 tuổi, mất vào tháng 12 tại tỉnh Cần Thơ, nhưng phải hai tháng sau thì tin tức mới tới được với bà Mè. Thật là họa vô đơn chí khi tin tức về cái chết của Tài đến đúng lúc với cái chết của đứa con lớn tuổi nhất, cậu Sanh, 26 tuổi. Sanh bị trúng đạn chết tại An Lạc, quận Bình Chánh nhiều ngày trước đó, trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Bà Mè run rẩy toàn thân. “Khi nghe tin, điều đầu tiên tôi nghĩ là chắc có gì đó nhầm lẫn. Làm sao tôi có thể mất hai đứa con trai cùng lúc? Nhưng khi nhận ra đó là sự thật, tôi thấy cơ thể mình nhẹ hẫng. Tôi chạy vào hầm trú ẩn và khóc. Nước mắt xối xả như mưa. Tôi cảm thấy như có ai đó đang cắt đi từng phần cơ thể của mình. Chồng tôi làm việc ở gần đấy đã tới an ủi tôi”. Bà Mè đã có sự chuẩn bị tinh thần cho việc có thể mất đi một người con, nhưng chưa hề chuẩn bị cho việc mất hai người con cùng lúc. Bà cũng chưa chuẩn bị cho những điều sẽ xẩy ra sau đó. Tuần kế tiếp, bà Mè trở lại làm việc, cố nén nỗi đau mất mát. Nhưng bà vẫn linh cảm có điều gì chẳng lành. Các đồng sự đôi khi nhìn bà rồi vội vã lảng đi. Bà liền tới chỗ người chỉ huy và khẩn nài: “Xin hãy nói cho tôi biết liệu còn tin gì xấu nữa không. Đừng có giấu. Tôi cần biết!”. Người chỉ huy ấn bà ngồi xuống, rồi nói rằng ngay sau khi nhận được tin hai người con của bà Mè mất, ông còn nhận được thêm tin báo rằng đứa con thứ ba của bà, tên là Đại, 22 tuổi, bị giết ở Vĩnh Long, trong khi đứa con thứ tư là Đạo, 20 tuổi, bị thương nặng. Nhiều đồng sự chạy tới an ủi bà Mè nhưng rồi cũng khóc lên trước những tin xấu mà bà mới nhận được. Trong khi đó, bà không thể nhỏ được giọt nước mắt nào – bà cảm thấy cả người tê dại. Người con trai tên Đạo rốt cuộc đã qua khỏi. Không muốn để bà Mè cùng ông Nhơn mất thêm người con thứ tư nếu cậu đi vào nơi hiểm nguy, viên chỉ huy của Đạo đã ra lệnh cho cậu về công tác cùng cha mẹ tại Chiến khu R. Người chỉ huy biết rằng mệnh lệnh của mình không đảm bảo rằng Đạo sẽ có một cuộc trở https://thuviensach.vn về an toàn – vì Chiến khu R thường xuyên là mục tiêu tấn công của máy bay. Nhưng ông biết rằng cha mẹ của Đạo sẽ cảm thấy yên tâm phần nào khi con trai ở cùng với họ. Thế là Đạo đi một mình, trực chỉ tỉnh Tây Ninh và Chiến khu R. Chuyến đi tới Chiến khu R kéo dài trong nhiều tuần. Suýt chút nữa thì chuyến đi đã kết thúc với việc bà Mè mất đi người con trai thứ tư, khi Đạo may mắn thoát chết trong một cuộc pháo kích trên đường tới căn cứ. Một tháng sau khi nhận được tin người con thứ ba tử trận, bà Mè bước ra khỏi phòng làm việc ở Chiến khu R với một nỗi kinh ngạc khi Đạo chạy tới chào mẹ. Dòng nước mắt dồn nén hôm nào giờ được dịp tuôn xối xả. Dòng nước mắt ấy, cũng như tình thương của người mẹ dành cho con trai, đã khiến bà Mè không nhận thấy sự thay đổi ngoại hình của Đạo khi bà ôm cậu trong vòng tay, không thấy rằng khuôn mặt con đã bị thương tích làm biến dạng. Một quả đạn M-79 phát nổ đã găm nhiều mảnh vào mặt và một mắt của Đạo. Ôm đứa con (trai) duy nhất còn lại trong tay, bà Mè nhớ lại ước nguyện đoàn tụ sau chiến tranh mà bốn anh em đã bày tỏ trước khi vào quân đội. Giờ thì bà Mè biết rằng ngày đoàn tụ đó chẳng bao giờ đến nữa. Sau những đau thương ấy, bà Mè được phong tặng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, một sự tôn vinh dành cho những người mẹ chịu nhiều mất mát về người thân – có thể là mất hết tất cả con cái hoặc từ bà người trở lên. “Là một người mẹ”, bà Mè nói, “tôi thấu hiểu tâm tư của những người có con đối mặt với hiểm nguy của chiến tranh, có con ngã xuống trên chiến trường và chẳng thể đưa con tới nơi an nghỉ cuối cùng. Tới hôm nay”, mắt bà Mè ngấn lệ, “tôi vẫn chưa thể tìm được hài cốt của một người con trai, và tôi biết mình sẽ không bao giờ tìm được”. Đáng ngạc nhiên là nỗi đau mất ba người con trai và một phần cơ thể của người con thứ tư không khiến bà Mè nung nấu lòng hận thù đối với người Mỹ vốn chịu trách nhiệm về bi kịch của gia đình bà. Trong khi hầu hết các bà mẹ có thể nổi giận, bà Mè lại khác. Bà cảm thông với những bà mẹ Mỹ không tìm thấy hài cốt đứa con đã ngã xuống trên chiến trường ở một vùng đất xa xôi. Có lẽ bà là người thấu hiểu nỗi đau ấy của những bà mẹ Mỹ hơn bất cứ người mẹ nào khác. *** Chuyện của bà Mè chỉ là một trong rất nhiều câu chuyện. Một góc trưng bày ở Bảo tàng Quân đội tại Hà Nội có danh sách những bà mẹ Việt Nam chịu nhiều mất mát về gia đình. Chưa phải toàn bộ, danh sách này liệt kê hàng chục bà mẹ, kết lại với nhau tạo nên một cảm giác mất mát khôn cùng về những người mẹ chịu cảnh người đầu bạc khó kẻ tóc xanh, về những người con đã mất vốn lẽ ra phải sống lâu hơn mẹ mình. Có rất nhiều người mẹ Việt Nam phải chịu nỗi đau mất mát như thế. Bà Nguyễn Thị Điểm[6] mất chồng và hai con trai; bà Trần Thị Tràng – mất chồng và năm người con, còn đứa con thứ sáu bị thương; bà Huỳnh Thị Tân – mất năm người con. Một báo cáo hậu chiến cho biết chỉ riêng tại Sài Gòn đã có hơn 1.400 bà mẹ mất ba con trở lên. Mất đi một người con là nỗi đau lớn cho bất cứ bà mẹ nào; và rõ ràng những bà mẹ chịu khổ đau nhất là những người phải chứng kiến toàn bộ thế hệ con cái của mình ngã xuống trên chiến trường Việt Nam. Mất đi người con trai duy nhất hay tất cả con trai thì nỗi đau vẫn vô cùng vô tận. Nếu bi kịch đơn thuần chỉ là con số thống kê thì có hai người mẹ đứng đầu về sự mất mát: mẹ Nguyễn Thị Thứ đã chứng kiến chiến tranh cướp đi chín người con, một người con rể và một người cháu; và mẹ Nguyễn Thị Rành, mất tám người con và hai đứa cháu. Nỗi đau mất mát lớn lao ấy vẫn không làm giảm quyết tâm hướng về chiến thắng của các mẹ. Thông điệp này đã được nêu rõ trong bức thư của một bà mẹ, bà Nguyễn Thị Loan, vào tháng 1 năm 1968. Sau khi mất đi người con trai nhỏ, Lê Viết Dũng, bà đã xin chính quyền cho phép người con trai còn lại của mình, Lê Viết Hùng, nhập ngũ để trả thù cho em. Nỗi chịu đựng âm thầm của những bà mẹ Việt Nam mấ con trong chiến tranh là vô cùng lớn lao. Nó nhắc tôi nhớ lại câu chuyện của một bà mẹ Pháp chờ đợi đứa con trai chở về từ chiến trường trong một cuộc chiến khác vào thế kỷ trước[7]. Người con trai duy nhất của bà – là tất cả những gì bà có trên cõi đời này – tham gia một trận đánh lớn trong Chiến tranh Pháp-Phổ. Bại trận, những người lính Pháp đào ngũ https://thuviensach.vn mất hết nhuệ khí kéo nhau đi qua làng. Người mẹ ấy đã đứng hàng giờ liền trên đường làng, xem từng gương mặt binh sĩ. Sau cùng, khi bóng tối đổ xuống con đường làng vắng vẻ và người lính đào ngũ cuối cùng đã đi qua, bà thốt lên: “Tạ ơn Chúa! Nó không phải là kẻ trốn chạy”. *** Nỗi đau mà một gia đình gánh chịu khi có nhiều anh em ruột cùng phục vụ trong một đơn vị và hy sinh là câu chuyện mà người Mỹ từng trải qua thời Thế chiến thứ hai. Ở Trân Châu Cảng, có tới hai mươi nhóm anh em ruột chết trong cuộc tấn công bất ngờ của người Nhật Bản. Sau đó chưa đầy một năm, bi kịch đã giáng xuống gia đình Sullivan với năm anh em ruột cùng tử trận khi con tàu chở họ bị trúng ngư lôi từ tàu ngầm Nhật Bản và chìm với gần như toàn bộ thủy thủ đoàn. Sau bi kịch Sullivan, Chính phủ Mỹ đã áp dụng quy định không bắt buộc đối với việc cho xuất ngũ đứa con duy nhất còn lại của một gia đình sau khi người anh em của anh ta tử trận. Đây là một quy định phổ biến thời chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, một chính sách như vậy là khó có tính thực tiễn – nếu như không muốn nói là bất khả - đối với phía Hà Nội, do họ thiếu nhân lực trầm trọng trong cuộc chiến. Kết quả là nhiều gia đình ủng hộ chính quyền Hà Nội – chẳng hạn như gia đình bà Mè – đã phải trả giá rất đắt. (Tình cảm mẹ con thì ở nền văn hóa nào cũng vậy. Khi ngồi nghe bà Mè kể về nỗi đau mất con, trong đầu tôi văng vẳng lời than khóc của một người mẹ mất con trai trong Nội chiến Mỹ. Louisa Meigs, vợ của một vị tướng Lục quân Mỹ, sau khi mất đi đứa con trai vào năm 1864, đã viết: “Khi thấy cỏ mọc xanh trên đầu con trai mình, trái tim tôi tràn ngập nỗi đau; tôi giống như một bà Rachael khóc con và khước từ mọi lời an ủi…”). • ĐỨA CON CỦA RỪNG Nguyễn Thị Bình là con gái út của bà Bùi Thị Mè và Nguyễn Văn Nhơn (thân sinh của ba người con trai chết trận trong chương “Không ngày đoàn tụ”). Ba năm sau khi Bình chào đời vào năm 1957, cha mẹ và các anh trai để cô cùng một người chị lại cho bà cô nuôi. Năm 1964, người cô sợ rằng chính quyền Sài Gòn có thể tìm bắt hai cô bé, lúc này đã mười ba và bảy tuổi, để làm con tin buộc cha mẹ chúng phải trở về. Thông qua một hệ thống liên lạc sử dụng những người truyền tin tình nguyện, người cô bày tỏ nỗi lo lắng tới cha mẹ hai cô bé đang công tác tại Chiến khu R. Họ đi đến quyết định để hai bé tới ở cùng cha mẹ tại căn cứ càng sớm càng tốt. Vào ngày trù định, một người giao liên tình nguyện tới nhà bà cô để đưa hai cô bé tới bến xe đò. Họ lên một chiếc xe đò thẳng tới Tây Ninh, nơi ông Nhơn đang nóng lòng chờ đợi. Khi tới nơi, mọi người chẳng có đủ thời gian để chào hỏi. Ông Nhơn hối hả dẫn ba người đi bộ vào rừng sâu, vào một thế giới khuất bóng mặt trời – và cũng khuất khỏi tầm mắt của kẻ thù trên cao – nhờ cây cối rậm rạp. Phải mất chọn một ngày mới tới được Chiến khu R. Hành trình gian khó nhưng Bình rất vui khi gặp cha và nóng lòng được gặp mẹ. Ông Nhơn dẫn mọi người đi qua những con đường nhỏ nhớp nháp, do người dân địa phương tạo ra để cho xe bò đi. Rất ít người ngoài cuộc biết đến sự tồn tại của phần lớn những con đường kiểu này. Lúc chập tối thì ông Nhơn và hai cô con gái đã đến doanh trại. Chiến khu R được thiết kế và tổ chức với đủ các điều kiện cần thiết phục vụ hoạt động hoạch định và triển khai chiến lược tổng thể của Mặt trận cho toàn cuộc chiến. Nó không chỉ có trung tâm chỉ huy và điều hành mà còn có cơ sở hỗ trợ để thực hiện các chức năng này. Nhằm tránh nguy cơ toàn bộ sở chỉ huy bị triệt phá, căn cứ được xây dựng dàn trải trên một khu vực rộng. Có một trường học cho trẻ em ở đây. Cùng với khoảng năm, sáu mươi đứa trẻ khác, Bình coi ngôi trường là nhà trong phần nửa quãng đời tuổi thơ của mình. Niềm mong mỏi được ở cạnh cha mẹ đã sớm bị dập tắt khi cô được dẫn tới ngôi trường mới – cũng là nhà mới. Trường có các lớp từ 1 tới 6. Lúc tới nơi, Bình mới bảy tuổi và được xếp vào lớp 1; người chị gái mười ba tuổi, đã quá tuổi đi học, được bố trí làm nữ hộ lý ở đâu đó tại Chiến khu R. Bình bị tách khỏi cả cha mẹ lẫn chị gái. Học sinh sống cùng nhau ở trường như một gia đình. Do phụ huynh luôn bận rộng tại Chiến khu R; và https://thuviensach.vn nơi họ sống, làm việc cách xa trường học nên hiếm khi họ thăm con cái – kể cả những cuộc viếng thăm chớp nhoáng. Khoảng ba tháng thì Bình mới được gặp cha mẹ một lần – thường là gặp bất ngờ chứ không hẹn trước. Việc quân địch tăng cường không kích và pháo kích cũng như mở các chiến dịch mặt đất trong khu vực đã khiến trường nhiều lần phải đóng cửa. Trong những dịp đó, trẻ con được trả về cho phụ huynh hoặc được tổ chức thành từng nhóm ba người và bố trí ở khắp nơi tại Chiến khu R dưới sự giám sát của người lớn để bảo đảm an toàn. Sự phân tán trẻ con như vậy là nhằm giảm nguy cơ tổn thất sinh mạng lớn trong trường hợp trường bị tán công. Trước khi rời Chiến khu R, Bình cảm thấy hàm ơn kế hoạch thông minh này – mà nếu không tuân thủ thì chắc cô đã lâm vào thảm họa. Cô thấy việc cha mẹ tới thăm con mà không báo trước là điều cực kỳ quan trọng. Những tháng đầu ở Chiến khu R là giai đoạn cực kỳ khó khăn. “Lúc mới đến”, cô hồi tưởng, “tôi sợ tất cả mọi thứ - kể cả những thứ có thật lẫn điều tưởng tượng: tôi sợ ma, thú rừng, côn trùng, rắn – và bom. Lần đầu tiên nghe tiếng bom, tôi đã lấy mền trùm kín đầu và run cầm cập. Sau vài tháng, tôi quen dần và cuối cùng chẳng sợ gì nữa”. Lúc mới tới Chiến khu R, Bình là một cô bé bảy tuổi nhút nhát; cô rời nơi này bảy năm sau, khi đã trở thành một thiếu nữ không biết sợ là gì, khi đã có đủ sự tự tin rằng mình có thể vượt qua mọi tai ương. Nhưng cuộc sống trong rừng chẳng bao giờ dễ dàng. Có năm giáo viên được bố trí làm việc ở trường. Thêm vào đó, có mười hai người khác hỗ trợ chăm sóc trẻ, chỉ dẫn trẻ cách vào rừng trú bom. “Chúng tôi luôn là mục tiêu của các trận không kích tại Chiến khu”, Bình giải thích. “Vì thế, điều đầu tiên người lớn dạy chúng tôi đó là đào giao thông hào và hầm trú ẩn. Ban đầu người lớn đào cho chúng tôi, về sau thì chúng tôi tự đào. Chúng tôi phải đào hầm thường xuyên do trường phải dời chỗ liên tục”. Tìm kiếm thức ăn cũng là một nhiệm vụ thường trực của trẻ. Bình kể: “Chúng tôi tự tìm kiếm thức ăn. Chỉ có gạo là được cấp. Nhưng lắm lúc gạo cũng thiếu nên chúng tôi phải tự tìm kiếm đồ ăn. Mọi người chỉ ăn hai bữa mỗi ngày, thường là không có bữa sáng. Mỗi khi đói, tất cả cùng vào rừng kiếm trái cây. Chúng tôi được dạy cách nhận biết những thứ ăn được và không ăn được. Chúng tôi có thể ăn nhiều loại lá cây. Đôi khi chúng tôi nhặt được sách viết cho lính Mỹ, trong đó miêu tả cặn kẽ các loại nấm ăn được, không ăn được. Lũ trẻ chúng tôi cũng được chỉ cách làm bãy bắt thú nhỏ. Chúng tôi ăn rắn và bọ cạp. Có hai loại bọ cạp trong rừng. Một loại rất độc. Đó là loài thân nhỏ, màu nâu. Loài kia khá lớn, dài khoảng một tấc, màu đen. Đây là những thứ ăn được, và thật may là chúng bò rất chậm. Bọ cạp núi rất dễ bắt. Chúng bò đầy nhóc quanh hầm trú ẩn. Có một ít thịt trong càng của nó, khoảng nửa thìa; thịt có vị giống tôm. Càng là bộ phận duy nhất có thể ăn được. Lần đầu thấy bọ cạp tôi rất sợ, nhưng rồi tôi nhanh chóng học cách xua đi sợ hãi. Mấy cậu nhóc trong lớp hay bắt bọ cạp dọa con gái. Nhưng chúng tôi luôn được dạy phải can đảm bởi hầu hết đều phải tự lo cho bản thân. Cũng có nhiều lúc lũ con trai bày cho chúng tôi cách kiếm thức ăn”. Do giáo viên không có được sự hỗ trợ cần thiết về giảng dạy nên số lượng môn học trong trường khá hạn chế. “Chúng tôi chỉ học văn và toán”, Bình kể tiếp. “Không có đủ giáo viên để dạy thêm cái gì nữa, và cũng chẳng có cuốn sách nào”. Khi máy bay ném bom, số học sinh mới đến thường rất lo lắng cho cha mẹ. Phần lớn trẻ em đều may mắn khi cha mẹ không hề gì. Nhưng một vài em thì không có được may mắn ấy. Bình kể: “Thông thường, tất cả học sinh trong trường đều biết tin cha mẹ của một bạn học chết trước khi bạn đó biết; nhưng chúng tôi giữ im lặng. Người lớn thường an ủi và chăm sóc đứa trẻ đó trước khi thông báo về cái chết. Sau khi đứa trẻ biết tin, chúng tôi cố gắng không nhắc lại chuyện buồn. Tất cả mọi người thường quá bận rộn với những việc phải làm hằng ngày để sống sót đến mức không có thời gian để nghĩ tới chuyện khác – kể cả bi kịch gia đình. Nhưng chúng tôi luôn cố gắng chăm nom đứa trẻ bất hạnh ấy và giúp nó nguôi ngoai. Mọi người sống gần gũi và cư xử với nhau như một đại gia đình. Chúng tôi làm bất cứ việc gì mà chúng tôi thấy cần thiết”. https://thuviensach.vn Không mất cha mẹ ở Chiến khu R nhưng Bình cũng không thoát khỏi bi kịch cá nhân. Tháng 2 năm 1968, cô bé được giáo viên và bạn bè chăm sóc đặc biệt, một sự quan tâm chỉ dành cho những ai mất đi người thân. Cô bé biết có điều gì đó bất ổn nhưng chẳng biết đó là gì. Lúc đầu cứ tưởng rằng cha hoặc mẹ đã chết hoặc bị thương, rồi cô cảm thấy nhẹ nhõm khi được thông báo đi gặp phụ huynh. “Tôi linh cảm có điều gì đó bất ổn nhưng chẳng ai nói cho tôi biết về cái chết của ba người anh. Tôi được đưa tới ở với cha mẹ một thời gian. Một đêm nọ, khi tôi sắp ngủ thì có mấy người bạn của cha mẹ tới. Lúc ấy ông bà tưởng tôi đã ngủ rồi. Tôi giữ im lặng tuyệt đối để nghe họ trò chuyện. Tôi nghe những người kia chia buồn và bắt đầu nói về cái chết của các anh. Lúc bấy giờ tôi mới biết điều gì đã xẩy ra. Tôi khóc lặng lẽ nhưng chẳng bao giờ nói với cha mẹ về nỗi mất mát đó. Tôi ở với họ chừng một tuần hoặc mười ngày thì đi”. Chiến khu R bị ném bom thường xuyên, nhưng trước giờ ngôi trường lại chưa bao giờ trúng bom cả. Tuy nhiên, vào đầu năm 1971, điều mà phụ huynh lo sợ nhất đã ập đến. Bình vẫn còn lưu giữ ký ức kinh hoàng; nhưng rất nhiều bạn học của cô thì không thể. “Tôi bị sốt rét và được đưa tới bệnh viện”, cô kể. “Cha mẹ tôi cũng bị sốt rét, vì thế chúng tôi ở bên nhau. Lúc ấy cả nhà đang ở trong căn hầm dành cho bệnh nhân. Đột nhiên máy bay ập tới ném bom mà không hề có báo động trước. Lúc ấy việc dạy học đang diễn ra dưới các căn hầm có mái chữ A được làm bằng gỗ và che lớp đất dày chừng hai tấc – trường không có hầm trú bom. Chúng tôi phải chuyển chỗ liên tục nên không có thời gian đào hầm trú ẩn lớn. Hôm đó trường trúng bom. Đó là lần đầu tiên bom rơi trúng trường học. Mười ba trẻ và hai người lớn chết. Tôi quen tất cả các nạn nhân… Khi máy bay gia tăng ném bom Chiến khu R, người ta đã quyết định gửi trẻ em ra miền Bắc”. Trong hành trình ra Bắc dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh, trẻ em được chia thành từng nhóm từ mười sáu tới mười tám người, với ba người lớn đi theo. Những trẻ nhỏ tuổi nhất và sức khỏe kém nhất được phân bố đều cho các nhóm. Mỗi nhóm được đánh số và một lịch trình được phổ biến với ngày khởi hành được định sẵn. Ngày khởi hành của các nhóm được sắp xếp chênh nhau chừng 10-15 ngày. Cái chết của mười ba đứa trẻ trước đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân tán nguy cơ thương vong ra các nhóm khác nhau. Một bi kịch như thế không được phép lặp lại đối với hành trình ra Bắc; đó là mệnh lệnh. “Chúng tôi biết thời điểm xuất phát trước một tháng”, Bình kể. “Trước lúc khởi hành, trẻ con được ở với cha mẹ hai tuần. Chia tay cha mẹ cũng không có gì nặng nề lắm bởi tới lúc ấy, bọn trẻ đã quen với việc sống xa cha mẹ. Tuy nhiên, với phụ huynh thì lại khác. Cha tôi không muốn để tôi ra Bắc vì tôi thường xuyên lên cơn sốt rét và ông sợ tôi sẽ chết dọc đường. Đó là thời khắc vô cùng khó khăn cho ông”. Nỗi lo lắng của người cha đối với chuyến đi sắp tới của Bình là dễ hiểu. Không ít người lính khỏe mạnh hơn con ông nhiều đã chết khi đi dọc Đường mòn. Với cái chết của một nửa số con cái cùng với một người con không còn lành lặn, bi kịch mà chiến tranh gieo lên gia đình ông đã quá khủng khiếp rồi. Trước khi đi, trẻ em được hướng dẫn nên mang theo thứ gì và gói ghém ra làm sao. “Chúng tôi phải đem theo một cái võng, mùng chống muỗi, một chiếc mền mỏng và vài thứ khác. Mọi thứ đều được nhét vào ba lô làm bằng cách gấp một mảnh vải lại và khâu xung quanh. Để tạo thành hình ba lô, người ta thường lấy viên sỏi đặt vào hai góc đáy và lấy dây thép siết lại. Dây đeo được đính vào góc ba lô. Người ta cũng thường lồng vào trong một túi nhựa để giữ đồ vật khỏi bị ướt. Chúng tôi mang theo nhiều túi nhựa”. Sau thời gian ở cùng cha mẹ, Bình trở lại với các bạn trong nhóm. Họ tập hợp vào lúc 5 giờ sáng ngày 19 tháng 5 năm 1971 để bắt đầu hành trình tới ngôi nhà mới. “Chúng tôi không hề lo lắng hoặc hồi hộp vào lúc xuất phát”, Bình kể tiếp. “Tất cả đều đã quen với thay đổi. Nhưng tôi nhớ là hồi đó mình cũng nhớ nhà – không hẳn là nhớ cha mẹ mà là nhớ ‘ngôi nhà’ ở trong rừng… Sau một thời gian dài, chúng tôi đã quen với cuộc sống ở đó… Tất cả đều có cảm giác sẽ nhớ miền Nam”. Ngay sau khi xuất phát, Bình nhanh chóng được ngầm nhìn vẻ đẹp của núi rừng. Hoa nở rực rỡ, điểm sắc cho những vạt rừng tươi đẹp. https://thuviensach.vn “Mỗi ngày chúng tôi lại đến một binh trạm mới”, cô kể. “Đôi lúc nhóm chỉ mất nửa ngày để đi hết một chặng; lúc khác thì mất nhiều thời gian hơn. Nhanh chậm là tùy vào sức khỏe. Điều kỳ lạ là trong suốt chuyến đi tôi không bao giờ lên cơn sốt rét, trong khi hồi ở Chiến khu R thì tuần nào cũng bị. Có lẽ do tôi đã trưởng thành hơn và sung sức hơn. Những người khác vốn chưa hề bị sốt rét lại hay ốm đau dọc đường. Đối với họ, lẽ ra hành trình chỉ mất ba tháng, thì đằng này phải mất tới bốn, năm tháng. Khi xẩy ra ốm đau, người bệnh sẽ được để lại các binh trạm”. Người ốm ở lại binh trạm cho tới khi đủ khỏe mới đi tiếp bằng cách nhập vào các nhóm Bắc tiến kế tiếp. Rất nhiều nhóm bị hao hụt do có thành viên bị bệnh. “Có một nhóm khi tới nơi chỉ còn bốn người”, Bình kể. “Tôi có một người bạn bị rớt lại, phải theo một nhóm khác ra Bắc”. Khi đến binh trạm, các thành viên nghỉ ngơi, ăn uống và ngủ sớm để sáng hôm sau khởi hành sớm. Một người dẫn đường của binh trạm, được gọi là “giao liên”, sẽ dẫn nhóm tới nửa đường. Tại đây, giao liên của binh trạm kế tiếp sẽ đón họ. Buổi sáng ở các binh trạm có một thủ tục quen thuộc trước khi xuất phát. “Mọi người được cấp cơm”, Bình kể tiếp. “Cơm gói trong những tấm vải cắt từ dù của quân Mỹ. Cơm đại hội lăn tròn và nén lại thật chặt. Làm như vậy cơm sẽ lâu thiu”. Cha Bình có chuẩn bị một ít cá kho cho cô để ăn với cơm. Các binh trạm chỉ tiếp cơm nên mọi người phải hái măng rừng để ăn kèm. Tuy nhiên, do bộ đội đi lại trên Đường mòn quá nhiều nên măng tre cũng bị hái sạch. Một quãng dài rừng núi chẳng còn gì ăn được. “Lá sắn ăn được nhưng ăn nhiều thì bị ngộ độc”, Bình giải thích. “Do không tìm được thức ăn, chúng tôi lấy lá sắn nấu canh với muối. Một vài lần hiếm hoi ở binh trạm có dưa muối. Họ cho vào chảo lớn nấu cho chúng tôi ăn”. Thú rừng cũng không có để săn bắn. “Suốt chuyến đi chúng tôi chẳng thấy một con thú nào”, Bình nhớ lại. “Có vẻ như chúng đã bị bom đạn giết sạch rồi”. Bình có ấn tượng tốt về những người giao liên, họ luôn nghe ngóng xem có máy bay do thám hay không. Nếu nghe tiếng máy bay (nhiều lúc không thể nhìn thấy do rừng rậm), người giao liên liền dự đoán khu vực do thám rồi dẫn mọi người tránh đi. Đó là một cách làm thông minh bởi những khu vực do thám thường bị ném bom ngay sau đó. Người giao liên có thể cho mọi người dừng lại để chờ nguy hiểm qua đi hoặc đi nhanh hơn để vượt qua một khu vực đầy bất trắc. “Ở những nơi chúng tôi đi qua trên Đường mòn không có hầm trú ẩn”, Bình cho biết, “vì thế mọi người thường ẩn nấp dưới gốc cây hoặc tảng đá lớn. Hầu như ngày nào cũng có thả bom. Người Mỹ thả bom vì họ biết có Đường mòn ở đấy, chứ không hẳn là nhằm vào đoàn chúng tôi. Một vài trẻ em ở các nhóm khác thiệt mạng – nhưng không nhiều. Các giao liên rất hiểu hoạt động của không quân Mỹ nên thường hướng dẫn chúng tôi rất cặn kẽ… Họ luôn chọn những lộ trình tốt nhất có thể - đôi khi chúng tôi phải băng qua nơi không có lối mòn”. Hiếm khi các giao liên cho đoàn nghỉ ngơi – họ luôn giục mọi người tiến về phía trước. “Chúng tôi đi liên tục…họ không bao giờ chờ. Nhiều đứa trẻ phải chạy mới bắt kịp. Đôi khi người lớn không theo kịp trẻ con. Có lúc, một số người trong nhóm tới binh trạm trước cả tiếng đồng hồ so với số còn lại, nhưng không ai lạc đường… Chúng tôi luôn ngủ ở binh trạm, không bao giờ ngủ dọc Đường mòn. Chỉ khi nào bị lạc đường thì người ta mới phải ngủ dọc Đường mòn”. Bình nhớ lại lần chạm mặt với một người lính phía bên kia hai tuần sau ngày khởi hành: “Một lính biệt kích miền Nam bị bắt. Anh ta bị áp giải theo đoàn chúng tôi để ra Bắc; tay bị trói quặt ra sau. Tôi rất tò mò, suốt ngày cứ đi sát sau anh ta… Không ai nói chuyện với anh ta, kể cả người giao liên… Tôi chưa bao giờ gặp một binh sĩ kẻ thù nên rất chi tò mò”. Đây không phải là lần duy nhất Bình chạm mặt với lính biệt kích Việt Nam Cộng hòa. Cô nhớ lại một lần trực thăng thả biệt kích xuống rừng: https://thuviensach.vn “Biệt kích địch thường được trực thăng thả xuống để cài cắm vào khu vực Đường mòn. Tôi nhớ có lần trông thấy hai tay biệt kích vừa được thả xuống đã lập tức vẽ một ký hiệu lớn bày tỏ mong muốn đầu hàng. Sau đó, họ ẩn nấp và chờ bộ đội từ binh trạm ra. Các chiến sĩ của binh trạm đã tóm được họ. Hai người ấy có rất nhiều đồ ăn; bộ đội lấy hết và đưa cho chúng tôi”. (Năm 1961, Cục Tình báo Trung ương Mỹ triển khai chương trình bí mật, đưa biệt kích Việt Nam Cộng hòa đột nhập vào lãnh thổ Bắc Việt. Chiến dịch này, được Lầu Năm Góc tiếp quản năm 1964, đến năm 1968 đã thất bại nặng nề khi gần 500 lính biệt kích bị giết, bị bắt hoặc trở thành điệp viên hai mang. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara và cựu Tư lệnh các lực lượng Mỹ tại Việt Nam, tướng William C. Westmoreland, đã bị chỉ trích nặng nề về chiến dịch trên. Chương trình đã được đặc tả trong cuốn sách của Sedgwick Tourison nhan đề: QUÂN ĐỘI BÍ MẬT, CUỘC CHIẾN BÍ MẬT: CHIẾN DỊCH BI THẢM CỦA WASHINGTON Ở BẮC VIỆT. Lời kể của Bình giải thích tại sao một số lính biệt kích Việt Nam Cộng hòa không trở về). Trong phần lớn hành trình, giao liên men theo dọc bờ suối; không khí ở những nơi này rất mát mẻ. Trẻ con đôi khi có thể dừng lại để tắm tắp. Nhưng đi dọc bờ suối cũng rất nguy hiểm. “Khó khăn nhất là lúc mưa ập tới”, Bình giải thích. “Lũ quét cuồn cuộn dọc suối. Không có thời gian để chuẩn bị đối phó với lũ. Khi nghe tiếng ầm ầm thì cũng là lúc nước ập đến rồi. Những lúc đó chúng tôi thường trèo lên các tảng đá cao. Đang mùa khô nhưng đôi lúc có mưa lớn. Nhóm đã gặp lũ quét hai hay ba lần gì đó. Phần lớn chúng tôi không biết bơi nên thật là nguy hiểm. Sau khi lũ đi qua, dòng suối trở nên rộng hơn và khó vượt qua. Thế là người lớn phải buộc dây vào cây rồi cầm đầu dây còn lại băng qua sông, sau đó buộc vào thân cây ở bờ phía bên kia. Trẻ em một tay giữ ba lô, tay kia nắm dây để qua suối. Ba lô được cho vào một bọc nhựa để khi cần có thể làm phao cứu sinh. Chúng tôi được huấn luyện kỹ càng để có thể thích nghi với bất kỳ hoàn cảnh nào, vì thế tất cả trẻ con vượt sông suối mà không gặp vấn đề gì lớn. Nếu sợ thì sẽ gặp rắc rối. Còn nếu không sợ thì sẽ vượt qua bất cứ thách thức nào”. Ba tháng và một tuần kể từ ngày rời Chiến khu R, nhóm của Bình hoàn tất cuộc trường chinh. Họ tới Binh trạm 5 ở địa đầu tỉnh Quảng Bình, giáp với Lào vào ngày 27 tháng 8 năm 1971. Chặng đi tới Binh trạm 5 là chặng cuối cùng họ đi bộ. Nhóm hoàn tất phần còn lại của hành trình bằng xe tải. Khi đi bộ, lũ trẻ chỉ đi vào ban ngày; nhưng khi di chuyển bằng xe tải, nhóm chỉ đi vào ban đêm. Họ được đưa đến tỉnh Quảng Bình. Tới bờ sông Gianh, cả đoàn lên thuyền qua sông, rồi sau đó tới Vinh, từ đấy đi tàu ra Thường Tín, Hà Tây. Khi đến Thường Tín, trẻ em trong đoàn của Bình được đưa tới một khu trại đặc biệt trong vòng ba tháng. Tại đây, họ được gặp lại các bạn học thời Chiến khu R và chờ những người còn chưa đến. Đêm đầu tiên ở trại, họ được chiêu đãi một bữa tối đặc biệt – có thịt. Dù không có nhiều nhưng món ăn này làm tất cả thích thú. Mọi người cũng được khám sức khỏe và kiểm tra sốt rét. Khi tất cả trẻ con đã đến nơi, một trường học đặc biệt dành cho người miền Nam được mở. Do việc học ở miền Nam bị giới hạn và thường hay gián đoạn, người ta cho rằng trẻ em miền Nam không thể theo kịp trẻ ở miền Bắc, vốn được đi học đều đặn. Bình và các bạn học ở chung ký túc xá. Tại đây, trẻ được dạy các môn rất mới – địa lý, sinh học, lịch sử, v.v. Chính quyền cung cấp cho lũ trẻ áo quần và thực phẩm. Thêm vào đó, học sinh còn nhận được tiền tiêu vặt. Bình đã ở nơi đây trong suốt phần còn lại của cuộc chiến tranh. Khi trẻ em đến Hà Nội an toàn, chính quyền bắt đầu thông báo với phụ huynh ở miền Nam. Do đường bưu vận không ổn định, Bình phải đợi tới chín tháng mới nhận được tin từ cha mẹ nói rằng họ đã biết cô bé tới nơi bình an. Được chính quyền chăm sóc rất chu đáo nhưng lũ trẻ vẫn không nguôi nhớ nhà. Chúng mong mỏi được trở về miền Nam quê hương. Tình hình vào thời điểm lũ trẻ tới miền Bắc cũng làm dấy lên câu hỏi liệu sống ở Hà Nội có an toàn hơn Chiến khu R hay không. Bấy giờ tất cả mọi người đối mặt hai mối đe dọa lớn: máy bay B-52 và lũ. Do máy bay B-52 gia tăng ném bom miền Bắc, lũ trẻ lại được tách ra thành từng nhóm nhỏ sống với các gia đình địa phương. Năm 1974, Bình sung sướng khi được đón những vị khách bất ngờ - cha mẹ cô. Sau khi người Mỹ rút https://thuviensach.vn khỏi cuộc xung đột thì việc đi lại dọc Đường mòn trở nên nhanh chóng và dễ dàng. Không còn máy bay địch đe dọa, cha mẹ Bình đà thực hiện hành trình ra Bắc rất dễ so với chuyến đi khổ ải mà Bình từng trải qua. Hai người ra Hà Nội bởi cha Bình bị bệnh mắt nặng. Tới Hà Nội được một thời gian, ông tiếp tục sang Liên Xô để phẫu thuật và dự kiến sẽ dưỡng bệnh trong sáu tháng. Khi ông lên đường sang Moskva; mẹ Bình – bà Mè - ở với con gái. Thế rồi, cha của cô đã trở lại Hà Nội chỉ hai tuần sau khi phẫu thuật. Ông nóng lòng được trở về Chiến khu R khi nhận thấy chiến thắng ở miền Nam đang cận kề. Bình rất vui trong thời gian được ở với cha mẹ trước khi chia tay. Với sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975, Bình và các bạn học rất háo hức trở lại miền Nam. Nhưng tất cả đều thất vọng khi biết rằng phải học xong thì mới về được. Lũ con trai trở nên nóng nảy trong việc thuyết phục các giáo viên cho chúng trở về nhà, thậm chí chúng còn dọa đốt ký túc xá. Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1975, trường học giải tán và các học sinh được đưa xuống Hải Phòng để từ đó lên tàu thủy vào Sài Gòn. Bình gặp lại chị gái, người cũng ra Bắc vào năm 1974. Bốn năm trước, cô bé phải mất ba tháng để đi bộ dọc Đường mòn mà không bị bệnh tật gì; giờ đây cô chỉ mất vài ngày hành trình trên biển nhưng lại bị say sóng khủng khiếp. Tàu cập cảng Vũng Tàu, thành phố nằm phía Nam Sài Gòn, và hôm sau thì đến nhà máy đóng tàu Ba Son ở Sài Gòn. Cha mẹ tới đón Bình và người chị gái. Gia đình ngụ tại một khách sạn giữa Sài Gòn trong đêm đoàn tụ đầu tiên. Ngày hôm sau, có một gia đình chịu nhiều mất mát trong cuộc đấu tranh trường kỳ để thống nhất đất nước đã trở về ngôi nhà mà mười lăm năm trước đó họ buộc phải ra đi. Đó là một thời khắc đầy cảm xúc đối với Bình. Được trở về nhà là niềm hạnh phúc, nhưng đó cũng là một trải nghiệm đau đớn; cô biết rằng ba người anh trai của mình sẽ không bao giờ xuất hiện nơi ngưỡng cửa ngôi nhà nữa. • ĐÀO SÂU ĐỂ HỌC CAO Nước Mỹ có một lịch sử đầy may mắn. Từ khi độc lập, thường dân nước này, trong thời chiến, luôn được ngăn cách khỏi khói lửa chiến trường gây ra bởi một lực lượng chiếm đóng nước ngoài, ngoại trừ một lần duy nhất tính đến cuối thế kỷ 20. Ngoại lệ duy nhất đó là trong chiến tranh năm 1812, khi quân Anh đổ bộ vào đất Mỹ, bắn phá Nhà Trắng và nhiều dinh thự khác. Sự hôi tụ của yếu tố địa lý, quá trình phát triển khá chậm của công nghệ vũ khí tầm xa trong phần lớn lịch sử nhân loại, cùng việc phát triển khả năng tự vệ từ xa – hàng ngàn dặm bên ngoài biên giới quốc gia – đã giúp nước Mỹ che chắn cho dân thường khỏi phải chịu đựng sự khắc nghiệt của chiến tranh mà các nước khác phải hứng chịu. Có lẽ vận may ấy đã khiến chúng ta quên rằng chiến tranh thật là khốc liệt đối với dân thường một khi người dân ở ngay trong vùng chiến trận. Trong khi dân Mỹ theo dõi chiến tranh Việt Nam qua báo chí thì người Việt Nam phải sống chung với cuộc chiến đó mỗi ngày. Trong khi trẻ em Mỹ ngồi trên xe buýt tới lớp học có điện thắp sáng, máy điều hòa thì trẻ em Việt Nam phải đi bộ tới trường, khoác đồ ngụy trang và học ở dưới lòng đất. Trong khi trẻ em Mỹ được dạy học cách trang trí nhà cửa, trẻ em Việt Nam được dayh cách trị thương. Trong khi trẻ em Mỹ được ở bên cha mẹ lúc rảnh rỗi, trẻ em miền Nam Việt Nam buộc phải chia tay cha mẹ ruột để sống với cha mẹ nuôi ở miền Bắc – và rất nhiều người trong số họ không bao giờ có ngày đoàn tụ gia đình. Trong khi trẻ em Mỹ choàng tỉnh trong cơn ác mộng và chợt thấy đó không phải là sự thực thì trẻ em Việt Nam phải thường xuyên trải qua những cơn ác mộng có thật. Với việc không hề bị xâm chiếm kể từ năm 1812, người dân Mỹ đã dần trở nên vô cảm trước các tai họa mà một nước xâm lược có thể gây ra. Và không nghi ngờ gì, ít người Mỹ hiểu thấu đáo về nỗi đau mà cuộc chiến tranh này trút xuống đầu người dân Việt Nam. Đây là cuộc chiến mà trong đó, một thế hệ trẻ em được giáo dục trong những điều kiện không thể hình dung nổi đối với người Mỹ. Là một cô giáo, Nguyễn Thị Phúc Hòa hiểu rất rõ những gian khó này. Sinh năm 1945, bà từng dạy cấp hai và cấp ba ở tỉnh Quảng Bình trong phần lớn thời gian chiến tranh – từ 1964 đến 1972; đây là tỉnh thường xuyên bị máy bay Mỹ ném bom. Bà đã chứng kiến nhiều lớp học sinh sau ngày tốt nghiệp đã bước https://thuviensach.vn thẳng ra chiến trường và có rất nhiều người không bao giờ trở lại. Phòng học là những hầm chống đạn được đào sâu hai mét, đủ rộng để chứa 30-35 học sinh mà cô giáo Hòa thường dạy mỗi năm. Từ mặt đất, người ta chỉ có thể nhìn thấy mái lợp của lớp học. Phía bên dưới là trần làm bằng đất sét trộn rơm. Sau khi đắp vào khung trần, hỗn hợp này sẽ khô tại chỗ, tạo ra một lớp chắn lửa ngăn cách giữa mái lá và học sinh bên dưới. Ở phía đầu kia của công trình là lối đi vào một địa đạo ngoằn ngoèo kéo dài hàng trăm mét. Học sinh luôn được hướng dẫn cách sơ tán dọc các địa đạo để tới nơi an toàn khi có máy bay ném bom. Một hầm trú bom, nhỏ hơn nhiều so với lớp học, được đào gần đấy, thường là do phụ huynh và giáo viên đào. Học sinh cấp hai bắt đầu buổi học vào 6 giờ sáng mỗi ngày; buổi học kéo dài trong ba tiếng trước khi trở về với cha mẹ. Trẻ con thường đeo ngụy trang sau lưng khi đi bộ tới trường. Đồ ngụy trang được thiết kế với một dụng cụ đặc biệt để cắm lá cây vào. Học sinh được hướng dẫn đeo tấm ngụy trang và mỗi khi có máy bay thì nằm úp mặt xuống đất. Khi làm như vậy, các nhành cây phía sau sẽ xòe ra che cho học sinh, nhìn từ máy bay sẽ dễ lầm tưởng đấy là một bụi cây tự nhiên. (Bà Hòa tâm sự, rằng dù bà tin lính Mỹ không cố ý nhằm bắn vào học sinh nhưng bà có cảm giác là “họ sẵn sàng bắn vào bất cứ vật gì di động vì cho rằng đó có thể là kẻ thù”). Học sinh cấp ba học từ 6 giờ đến 10 giờ sáng. Lứa học sinh này ở lại trường với giáo viên theo hình thức nhà chung chứ không về nhà với cha mẹ. Sau buổi học, học sinh tham gia các hoạt động cần thiết để tự chu cấp cho tập thể của mình, chẳng hạn làm nông. Sau ba năm cấp ba, học sinh tốt nghiệp. Những cậu bé, giờ đã trở thành thanh niên, nhập ngũ để phụng sự đất nước. Do thiếu cơ sở y tế trong làng, bà Hòa còn dạy cho trẻ cách sơ cứu. Bà lồng vào chương trình rất nhiều bài giảng, nhiều ví dụ về các vấn đề thường gặp hằng ngày, chẳng hạn lấy bát úp vào vết thủng ở bụng để không cho ruột chảy ra ngoài. Để cầm máu, trẻ được dạy cách đắp lá cây; để cấp cứu khi gãy chân, trẻ dùng một thanh tre nẹp lại. Bà Hòa kể lại: “Đôi khi máy bay Mỹ thả thùng hàng đồ chơi và nhiều thứ khác, như bút chẳng hạn. Chúng tôi lượm hết. Nhưng rồi có một ngày người ta nói (sai) rằng quân Mỹ đã tẩm hóa chất chết người vào các vật này. Thế là chúng tôi đốt hết”. Khi mối lo ngại về an toàn cho trẻ con trong các đợt ném bom gia tăng, người ta bắt đầu thực hiện kế hoạch sơ tán. Chương trình này đã được khởi động ở Vĩnh Linh vào năm 1968. Chính quyền làm việc với dân ở các làng phía Bắc để chọn ra những phụ huynh sẵn sàng làm cha mẹ nuôi cho trẻ em Vĩnh Linh. Bên cạnh nỗi buồn phải gửi con đi xa, các bậc cha mẹ Vĩnh Linh không bao giờ được biết nhân thân các gia đình cha mẹ nuôi – họ chỉ được xác nhận rằng con của họ sẽ tới ở tại làng nào mà thôi. Cha mẹ ruột thường nhận được thông báo về tình hình con cái dựa trên những thông tin cha mẹ nuôi cung cấp. Phải mất nhiều năm thì các gia đình này mới được đoàn tụ. Trong nhiều trường hợp, họ không bao giờ đoàn tụ được do trẻ em chết hoặc thông tin về nơi ở của trẻ bị thất lạc. Dù trường nơi bà Hòa dạy chưa bao giờ bị máy bay Mỹ bắn trúng nhưng bà ước tính rằng có từ bảy tới mười học sinh của bà đã thiệt mạng trong giai đoạn 1966-1970. • GIÁNG SINH ÁC MỘNG Ở HÀ NỘI Với những ai sống ở Hà Nội thời chiến tranh, “Khâm Thiên” có một ý nghĩa rất đặc biệt. Đó là biểu tượng của những khổ đau và mất mát lớn lao mà dân thường phải hứng chịu trong các đợt ném bom dịp Giáng sinh 1972. Ngày 13 tháng 12 năm 1972, hòa đàm Paris bế tắc. Washington cho rằng Hà Nội chỉ lợi dụng thời gian ngưng ném bom, vốn được coi là một kết quả của nghị trình, để tiếp tục đưa quan vào miền Nam. Tổng thống Nixon muốn chuyển tới Hà Nội một thông điệp cứng rắn để đưa người Việt Nam trở lại bàn đàm phán. Ngày 18 tháng 12 năm 1972, ông Nixon ra lệnh mở chiến dịch Linebacker II1, mà sau đó được biết tới với tên gọi “Trận oanh tạc Giáng sinh” nhằm và Hà Nội và Hải Phòng. Chiến dịch được Không lực Mỹ https://thuviensach.vn tiến hành cho tới ngày 29 tháng 12. Linebacker II là một cuộc huy động máy bay lớn nhất trong lịch sử tính đến thời điểm ấy. Áp dụng chiến lược luân phiên phi công lái cùng một chiếc máy bay, Không lực Mỹ đã oanh kích cả ngày lẫn đêm. Ban ngày là máy bay cường kích chiến thuật; ban đêm là B-52 và F-11[8]. Suốt mười một ngày của chiến dịch, một loạt mục tiêu quân sự như sân bay, trận địa pháo cao xạ và tên lửa phòng không, đường sắt, kho bãi liên tục bị không kích. Tổn thất mà đợt ném bom này gieo lên Hà Nội và Hải Phòng không chỉ dừng lại ở các mục tiêu quân sự. Một hệ quả không may của chiến tranh đó là tổn thương bên lề - tức những tổn hại rơi vào các mục tiêu không nằm trong chủ ý tấn công – luôn xuất hiện. Buổi tối 26 tháng 12, máy bay Mỹ đã gây ra tổn thương bên lề vô cùng nghiêm trọng đối với cư dân Hà Nội khi ba mươi chín quả bom rơi xuống phố Khâm Thiên. *** Dù đã có lệnh sơ tán khỏi thành phố nhưng Phùng Thị Tiệm, 50 tuổi, vẫn ở lại vì bà đảm trách việc bảo vệ trị an dọc phố Khâm Thiên. “Tất cả mọi người sơ tán khỏi thành phố theo lệnh chính quyền. Đó là ngày hôm sau lễ Giáng sinh và ai cũng nghĩ người Mỹ sẽ không ném bom vào dịp này. Nhiều người đã trở về Hà Nội để lấy thực phẩm và các vật dụng khác trước khi tới nơi sơ tán. Thế nên lúc xẩy ra vụ ném bom, phố Khâm Thiên rất đông người. Lúc 5 giờ chiều, chính quyền thông báo máy bay Mỹ sắp ném bom. Một số người làm việc trong nhà máy ở Hà Nội đã không thể sơ tán do tính chất quan trọng của công việc. Khi nghe còi báo động, chúng tôi lập tức chui xuống hầm trú ẩn. Còi rúc lên vào tầm 10 giờ 15 tối, lúc tôi đang ở nhà. Tôi liền chạy ra ngoài kêu gào mọi người tìm chỗ ẩn nấp. Tôi lao đi cùng chồng và đứa con trai (bảy tuổi). Tôi và nhà tôi chui xuống một hầm trú ẩn dành cho hai người còn con tôi chui vào một hầm khác. Nhiều người đào hầm trong nhà; một số người khác sử dụng hầm do chính quyền đào dọc phố”. Thời chiến, có ba loại hầm tại Hà Nội: 1. Phần lớn là hầm nhỏ, hình tròn dành cho hai người được xây dựng đơn giản bằng cách đặt một ống thoát nước bằng bê tông vào lòng đất theo chiều thẳng đứng. Miệng ống ngang bằng với mặt đất. Sau khi chui vào hầm, người ở trong sẽ kéo tấm bê tông dày chừng năm tới sáu phân để đậy lại. Nắp đậy có hai lỗ để người ta có thể nắm và kéo trượt qua đầu. Những lỗ này còn có chức năng thông khí. Hầm trú ẩn thường nằm cách nhau chừng mười mét dọc đường phố Hà Nội. 2. Loại thứ hai là hầm trú ẩn hình tam giác có độ sâu chừng một mét. Phần lớn hầm hào ở những địa phương khác đều sâu hơn nhưng đất tại Hà Nội đào sâu dễ gặp nước. Đào càng sâu thì nguy cơ tường sập do ẩm ướt càng cao. Đầu tiên người ta đào một cái hầm hở cạn, sau đó dùng một dàn mái hình chữ A làm bằng tre và bùn khô chụp lên trên. Mỗi đường phố có một ít hầm kiểu này, chứa chừng mười người mỗi hầm. Loại hầm này rõ ràng không có tác dụng bảo vệ người trú ẩn trong trường hợp bom rơi trúng hoặc ngay bên cạnh, mà chỉ có thể chắn mảnh bom từ xa lia tới. 3. Loại thứ ba là đường hào dích dắc có độ sâu tương đương hầm tam giác. Kiểu hầm này cũng có mái làm bằng tre và bùn khô. Đây là kiểu hầm chứa nhiều người nhất, có thể lên tới ba mươi người. Không có chuyện định trước ai sẽ trú ở hầm nào. Mọi người chỉ việc nhảy ào vào căn hầm gần nhất khi có máy bay. Bom bắt đầu rơi từ khoảng 10 giờ 45 đêm hôm đó… Khi máy bay ném bom, tôi cố gắng định vị xem bom rơi chỗ nào… Tiếng nổ mỗi lúc một gần. Một trong những quả cuối cùng rơi cách hầm tôi chừng hai – ba chục mét, thổi bay mái hầm. Ngay lúc đó, tôi đứng dậy. Thấy bụi mù trời (do nhà sập)… Sau khi bom ngớt, chúng tôi chạy tới các ngôi nhà sập hoặc những nơi có tiếng kêu… Tôi hối hả giúp chuyển người bị thương lên xe cấp cứu. Chúng tôi nghe tiếng kêu của một đôi vợ chồng già nhưng chẳng làm gì được vì một tòa nhà bốn tầng đã đổ sập lên phía trên họ. Chúng tôi cố sức tìm cách đưa họ ra nhưng đống đổ nát quá lớn. Tiếng kêu sau đó ngừng bặt. Ngày hôm sau chúng tôi thấy xác họ sau khi một chiếc máy cẩu dọn https://thuviensach.vn hết đống đổ nát phía trên. Rất nhiều trường hợp người bị vùi trong đống đổ nát và phải dùng tới cần cẩu mới đưa họ ra được. “Phải ba tiếng đồng hồ sau tôi mới gặp con trai và biết nó không hề gì”. Về cảnh tàn phá ngày hôm ấy, bà Tiềm nhớ lại, “Chúng tôi không khóc được. Nước mắt khô hết rồi. Hôm đó nếu gặp một phi công Mỹ thì tôi hẳn đã giết hắn ta”. Đại tá Lê Kim, một cựu chiến binh thời đánh Pháp và là nhà báo, đã ở Hà Nội vào cái ngày phố Khâm Thiên bị ném bom. “Tôi làm việc ở tòa soạn”, ông kể. “Nhà tôi nằm cách đấy hai cây số, phía bên kia phố Khâm Thiên. Ngày nay thì đường phố đã hoàn toàn khác thời đó. Hồi chiến tranh, đó là một khu vực đông đúc và nghèo nàn với chỉ dăm ba tòa nhà cao tầng. Vào buổi sáng và chiều đã có lệnh sơ tán. Buổi chiều, chính quyền cử nhân viên xuống xem dân chúng có chấp hành lệnh sơ tán trước đó hay không. Lúc bấy giờ tôi cứ băn khoăn không hiểu tại sao lại có lệnh sơ tán đặc biệt như vậy. Phải tới sau chiến tranh tôi mới biết Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dự đoán sẽ có các cuộc oanh kích Hà Nội bằng máy bay B-52 trong nỗ lực cuối cùng để kết thúc chiến tranh. Hồ Chủ tịch thậm chí còn đề nghị Đại tướng Giáp đưa tất cả pháo cao xạ và tên lửa phòng không từ khu phi quân sự (về bố trí tại Hà Nội) để bắn B-52 – nhưng ông Giáp không muốn để các đơn vị bộ đội không có gì bảo vệ. Nhà tôi là giáo viên. Bà ấy và hai con sơ tán trong khi tôi ở lại làm việc … rồi trở về nhà. Chỉ có tôi và đứa cháu trai ở nhà. Vào buổi tối, máy bay B-52 ném bom Hà Nội và Đông Anh cách đấy mười ba cây số, nơi vợ con tôi vừa sơ tán tới, dù không có mục tiêu quân sự nào ở đó. Đợt ném bom kéo dài nhiều ngày. Trong đêm đầu tiên, một máy bay B-52 bị bắn rơi và viên phi công bị bắt. Ngày hôm sau, tôi tới gặp phi công. Tôi hỏi tên, anh ta trả lời là Richard Johnson. Chúng tôi dẫn anh ta đi dọc các con phố bị B-52 tàn phá. Anh ta nói rằng mình chỉ làm theo mệnh lệnh. Tôi cười và nói với anh ta rằng đừng băn khoăn về điều đó bởi những người gây ra tội ác này là Richard Nixon và Lyndon Johnson. Tôi nói với anh ta rằng thật là trớ trêu khi tên anh ta lại là sự kết hợp giữa tên của hai vị tổng thống kia. Mấy ngày sau tình hình trở nên xấu đi. Là một nhà báo, thật ức khi không thể đánh trận bằng ngòi bút. Cây bút không thể nhằm bắn vào máy bay B-52, nhưng khẩu súng thì có thể. Tôi làm việc tại tòa soạn tới nửa đêm vì chúng tôi quy định hạn chót cho bài vở là 3 giờ sáng. Khi tôi đang đạp xe về nhà thì B-52 lại ập đến. Hầm trú ẩn được đào cách nhau vài mét dọc đường phố Hà Nội nên mỗi khi có máy bay là mọi người lập tức chạy tìm những căn hầm trống. Trong những ngày đầu, nhiều nhà cửa đã bị tàn phá và có một ít thương vong. Tổn thất lớn nhất là vào ngày 26 tháng 12 năm 1972. Người ta kháo nhau rằng phi công Mỹ thờ Chúa Jesus nên sẽ không ném bom Hà Nội vào dịp Giáng sinh. Tin vào điều đó, nhiều người đã trở lại phố Khâm Thiên. Khi loa phóng thanh khuyến cáo sơ tán thì hầu hết lại cứ tiếp tục công việc của mình. Đêm hôm đó, Hà Nội bị cúp điện; còi báo động nổi lên và đài phát thanh thông báo máy bay Mỹ ở cách Hà Nội 80 cây số, ngay sau đó là 50 cây số. Mọi người chạy đi trú. Bản tin phát thanh sau đó thông báo máy bay cách 30 cây số, không ai được ở bên ngoài và dân quân sẵn sàng chiến đấu. (Dân quân được lệnh mang theo vũ khí và nấp trong các hầm hở để bắn máy bay tầm thấp). Sau bản tin phát thanh cuối cùng, chúng tôi bắt đầu nghe tiếng pháo cao xạ từ xa – vài phút sau, loạt bom đầu tiên được thả xuống. Nhiều quả bom rơi cách xa cả ba chục cây số, chúng tôi vẫn nghe chấn động tại Hà Nội… Một chốc sau, tiếng pháo cao xạ át cả tiếng bom rơi… Một chiếc B-52 bị bắn trúng và cháy rực trên bầu trời Hà Nội. Nghe tin này, nhiều đứa trẻ chui ra khỏi hầm vỗ tay. Chúng quá phấn khích đến mức vọt ra khỏi hầm giữa lúc pháo cao xạ đang bắn. Sau đó, tôi nghe tiếng bom nhưng không nghĩ rằng phố Khâm Thiên bị đánh. Tôi nhảy lên xe đạp cùng một người bạn tới tận nơi chứng kiến. Đường phố bị bom xới tung nên chúng tôi không thể vào trong. Một phía khu phố bị phá hủy nghiêm trọng, phía còn lại bị ít hơn. Khói bao phủ khắp nơi. Ngày hôm sau, không khí trở nên hôi hám vô cùng và tiếp tục như vậy trong bốn ngày, do thi thể đang phân hủy. https://thuviensach.vn Chiến thuật ném bom rải thảm diễn ra dồn dập, từ Bệnh viện Bạch Mai tới phố Khâm Thiên. Đợt ném bom thật kinh khủng… Kham Thiên là phố đông đúc nhất Hà Nội. Nó nằm cách xa các cơ sở quân sự nên dân chúng tin rằng ở đấy an toàn… nhưng rồi chúng tôi tổn thất nặng nề nhất lại là ở nơi đây… Nhiều máy bay bị bắn rơi và phi công bị bắt. Viên phi công cuối cùng mà tôi gặp là Harry Ewell, người đã bị Phạm Tuân bắn rơi. (Đại tá Kim không chắc lắm về tên họ của phi công. Tôi cũng không tìm thấy tên họ “Ewell” nào trong cơ sở dữ liệu tù binh). Tôi đã chứng kiến cuộc đối thoại giữa Harry Ewell và Phạm Tuân sau khi Ewell bị bắt. Hai người khá đối lập nhau – Phạm Tuân là một chàng trai trẻ độc thân; Harry Ewell lớn tuổi hơn, đã có vợ và bảy đứa con. Bất chấp hoàn cảnh lúc bấy giờ, cuộc gặp giữa hai người đàn ông không hề hằn học… Tên của Harry Ewell làm tôi nhớ tới một vị tổng thống, ông Harry Truman, người đã ra lệnh ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản. Nhờ sự trùng hợp với tên của các vị tổng thống mà đến nay tôi vẫn còn nhớ tên những viên phi công ấy”. Ông Nguyễn Văn Tùng, 46 tuổi, có sáu con trai và hai con gái. Con trai lớn nhất của ông là Nguyễn Văn Giang, 26 tuổi, đã có bốn năm quân ngũ, chiến đấu tại Khe Sanh và lái xe tải tiếp vận dọc Đường mòn Hồ Chí Minh. Giang giải ngũ năm 1971 sau khi bị bệnh khiến cơ thể sưng tấy. Anh được chuyển về Hà Nội sống với cha mẹ để điều trị. Sau khi về Hà Nội, Giang lập gia đình với Cao Thị Đức, 23 tuổi. Khi sức khỏe hồi phục, Giang trở lại lái xe tải dọc Đường mòn Hồ Chí Minh, trong vai trò là thanh niên xung phong chứ không phải quân nhân. Hôm Giáng sinh năm 1972 và một phần của ngày hôm sau, Giang chất hàng lên xe để chuẩn bị cho hành trình vào buổi tối. Nhưng rồi số phận đã dẫn tới một kết cục đau đớn, chiếc xe tải sau đó đã chạy dọc Đường mòn Hồ Chí Minh – còn Giang thì không thể. Đôi mắt ngấn lệ, ông Tùng kể về những giờ phút cuối cùng của đứa con trai. “Con trai tôi trở về nhà ngủ (để lấy sức cho chuyến đi)”, ông giải thích. “Nhà tôi, hai đứa con gái và hai đứa con trai thì đã đi sơ tán”. Ông Tùng, vợ của Giang và ba con trai còn lại của ông ở lại cùng nhau trong ngôi nhà giữa lúc Giang nằm ngủ. Khi còi báo động nổi lên, Giang cùng mọi người chạy đi trú bom. Tới lúc quan sát thấy Giang và con dâu, cũng như ba người con trai kia đã an toàn, ông Tùng mới chui vào hầm. Ông thấy ba người con trai chui vào một hầm trú nhỏ, còn Giang cùng với vợ nhảy vào đường hầm dích dắc; bản thân ông cũng chui được vào một căn hầm. “Tôi ở một mình trong căn hầm dành cho hai người”, ông hồi tưởng. “Máy bay thả bom cấp tập chung quanh, khiến căn hầm sập một phần. Bùn đất và mảnh vỡ rơi đầy người tôi. Khi bom ngớt, tôi không thể đẩy nắp hầm để ra ngoài. Nhưng tôi biết có các đội chuyên trách đi khắp thành phố sau mỗi trận bom để cứu người. Lúc khoảng 3 giờ sáng ngày hôm sau, có một người chọc gậy qua cái lỗ ở hầm tôi để xem còn ai bên trong không. Tôi nắm lấy đầu gậy để anh ta biết có người. Họ liền tìm cách đẩy nắp và phải xoay vần cơ thể tôi để lôi ra. Mất khoảng mười lăm phút họ mới kéo tôi ra được”. Khi ông Tùng vừa được kéo ra, đã có mặt ba người con trai ở đấy. Họ bảo rằng không thấy vợ chồng Giang ở đâu. Ông Tùng nhìn về phía căn hầm nơi Giang cùng vợ đã chui vào. Ông kinh hãi khi thấy nó đã bị phá hủy hoàn toàn. “Có tới hai hố bom, một hố ngay trên nóc hầm. Tôi cùng ba người con tìm kiếm dấu vết của những người trú ẩn trong hầm đó. Nhưng chả tìm được gì”. Ông Tùng và các con tiếp tục tìm kiếm xung quanh và phát hiện ra một điều khủng khiếp. “Tôi bắt gặp một thi thể nằm cách căn hầm mà Giang đã nấp chừng một trăm thước”, ông Tùng kể. “Dù khuôn mặt người chết đã bị phá nát nhưng qua vóc dáng và chiếc đồng hồ trên tay tôi có thể nhận ra con mình”. “Chúng tôi mang thi thể nó về nhà, liệm vào trong quan tài do chính quyền cấp và sau đó đưa đi an táng”. Thi thể người con dâu của ông – cũng như phần lớn những người trú ẩn trong căn hầm đó – đến nay vẫn chưa được tìm thấy; sức nổ của hai quả bom đã nghiền nát và thổi bay xương thịt họ. Người ta nói rằng có tới hai mươi bảy người trong căn hầm vào thời điểm nó bị trúng bom. https://thuviensach.vn Điều đau đớn hơn nữa đối với ông Tùng là người con dâu đã có thai sáu tháng, sắp sinh đứa cháu đầu tiên cho ông. *** Một ngày cuối tháng 12 năm 1972, Đặng Ngọc Long, 26 tuổi, đứng bên bậu cửa trên phố Hàng Ngang, quận Hoàn Kiếm ở Hà Nội, lặng lẽ ngắm nhìn khung cảnh đường phố. “Tôi thấy mọi người hối hả sơ tán. Nơi đây trở thành thành phố ma khi có tới 80% dân rời đi. Lần sơ tán này lớn hơn các lần trước, vốn nhiều nhất thì chỉ có 30% người lánh nạn. Hôm đó trời rất lạnh. Thật là buồn khi thấy mọi người ra đi. Người Việt vốn luôn gắn mình với cội rễ, thường muốn gắn bó lâu dài với nơi mình chôn nhau cắt rốn. Giờ thì mọi người phải khăn gói ra đi. Tôi buồn – nhưng cũng rất tự hào. Tôi biết rằng họ ra đi để tìm sự sống – để duy trì giống nòi. Các gia đình khi rời thành phố thường được tách ra để giảm nguy cơ tổn thất; ai cũng buồn và lo lắng trước cảnh chia ly này”. Khu vực nơi Long sinh sống không bị đánh bom, nhưng cô thường xuyên lo lắng cho người bà con và bạn bè sống trong nơi bị oanh tạc. “Anh chị em và cha mẹ tôi sống ở nhiều nơi trong thành phố và cả những vùng xung quanh”, Long giải thích. “Nếu biết có vụ ném bom trong phạm vi cách xa 30 cây số, tôi luôn hướng mắt nhìn về phía người thân đang sống và rất lo cho sự an nguy của họ”. Chính phủ khuyến cáo tất cả dân cư nếu không có việc cần kíp phải ở lại thì hãy rời khỏi thành phố. Chỉ những người tham gia vào công tác bảo vệ Thủ đô hoặc các dịch vụ duy trì sự hoạt động của thành phố thì được chỉ đạo ở lại. Những cuộc sơ tán diễn ra liên tục. Khi Long nhìn xuống đường phố, cô thấy từng đoàn dân di tản, với xe đạp chất đầy đồ đạc, hối hả rời thành phố. Long cùng chồng, dù không thuộc diện cần thiết phải ở lại, vẫn quyết định không di tản. Họ đã cũng nhau hứng chịu những đợt bom khủng khiếp kể từ khi các đợt không kích thành phố bắt đầu. “Lần đầu thấy máy bay ném bom, chúng tôi rất hãi”, Long nhớ lại. “Nhưng dần dà rồi cũng quen. Nhiều người quen với tiếng bom tới mức lúc máy bay xuất hiện họ cũng không thèm xuống hầm trú. Hồi đó ngày nào cũng nghe còi báo động. Lượng bom ném xuống mỗi ngày mỗi khác nhau. Ngày thì rất nhiều, ngày thì rất ít; đôi khi có báo động giả mà không có cuộc ném bom nào. Giai đoạn 1970-1971, người ta đào hầm tròn dành cho hai tới ba người dọc đường phố Hà Nội”, Long kể. “Hình ảnh những chiếc hầm đã truyền cảm hứng tới việc nấu nướng của chúng tôi. Hồi đó học sinh không có đủ gạo ăn nên chúng tôi tận dụng bột mì ẩm để làm bánh cho các em. Loại bánh này có hình dáng giống hệt chiếc (nắp) hầm hình tròn”. Những cư dân ở lại Hà Nội phải chấp hành lệnh trú ẩn mỗi khi có báo động. Có lẽ đây là cách duy nhất để họ biểu thị sự bất khuất trước người Mỹ, nhưng trong suốt cuộc chiến, Long và chồng chưa bao giờ trú ẩn dưới hầm. Họ luôn ở trong nhà, phó mặc mọi chuyện cho số phận. Long và chồng luôn gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn – một truyền thống mà họ muốn con cái sẽ tiếp nối. Cặp vợ chồng trẻ vừa mới kết hôn vào Giáng sinh năm 1971. Vào lúc diễn ra chiến dịch không kích, Long đã mang thai đứa con đầu lòng được chín tháng. Tuy nhiên, điều đó cũng không khiến cô phải tìm hầm trú ẩn mỗi khi bị máy bay ném bom. Ngày Giáng sinh 1972, có một khoảng thời gian tạm ngưng ném bom khiến nhiều người dân lầm tưởng, dẫn đến mất cảnh giác. Nhiều cư dân đã di tản trước đây kéo nhau trở lại thành phố sau khi Tổng thống Nixon tuyên bố có thể ngưng ném bom trong ngày Giáng sinh. Dân Hà Nội cho rằng thời gian ngưng ném bom có thể kéo dài tới hôm sau. Suy đoán này đã dẫn tới tổn thất lớn về sinh mạng. Phần lớn những người trở về vào ngày 26 tháng 12 là dân di tản trẻ tuổi. Hành trình quay lại thành phố quá khó khăn đối với người quá già hoặc quá trẻ. Vì thế, những ai sung sức phải lãnh trách nhiệm trở về Hà Nội để lấy thêm thực phẩm và các vật dụng khác cũng như kiểm tra lại nhà cửa. “Tôi không thể diễn tả hết được tất cả những chịu đựng, hy sinh ấy”, Long nói. “Làm sao có thể sống https://thuviensach.vn trong cảnh nguy nan như thế được? Bởi vì chúng tôi đầy lòng tự trọng nên phải tự bươn chải để sinh tồn. Thiếu đủ thứ, thiếu thực phẩm, điện và rất nhiều nhu yếu phẩm khác. Đối với dân nông thôn thì tình hình còn tệ hơn vì họ không có được những tiện nghi như người Hà Nội. Chúng tôi sống với nỗi lo sợ, mong ngóng người thân yêu được an toàn. Chúng tôi không chỉ thiếu vật chất mà còn chịu tổn thương tinh thần. Số thanh niên di tản phải đi bộ cả trăm cây số để trở về thành phố. Khi họ tới nơi, đường phố đã bị tàn phá; rất khó để đi lại nơi này nơi kia. Nhưng mọi người vẫn sát cánh bên nhau để sinh tồn”. Đầu ngày 26 tháng 12, Long bắt đầu cảm thấy đau bụng. Tới 5 giờ chiều, cô nhận thấy rằng mình sắp sinh. Người chồng giúp vợ ngồi lên yên sau xe đạp. Trong khi chồng hối hả đạp xe thì Long tìm cách giữ thăng bằng, bụng quặn đau. Người chồng đưa Long tới Bệnh xá Ngô Quyền. Đây không phải là bệnh viện chính mà chỉ là một cơ sở tạm thời dành cho sản khoa. Vào giai đoạn máy bay gia tăng ném bom, người ta đã quyết định phân tán các bộ phận y tế từ bệnh viện trung tâm ra nhiều nơi khác nhau để tránh nguy cơ bị mất toàn bộ bệnh viện một khi bom dội trúng. Các cơ sở này được đặt khắp thành phố. Bệnh xá Ngô Quyền bao gồm một ngôi nhà trệt với một phòng sinh và phòng bệnh nhân. Khu vực chăm sóc sản phụ được thiết kế đặc biệt dưới lòng đất – nơi mà Long sẽ phải làm quen trước khi lâm bồn. Không được phép ở lại với vợ, người chồng phải trở về nhà hồi hộp ngóng tin đứa con sắp chào đời, để lại Long cho bác sĩ và hai y tá ở bệnh xá chăm sóc. Ban đầu Long được đưa vào một căn phòng cùng với năm phụ nữ khác – và một số trẻ sơ sinh tương ứng. Số sản phụ và trẻ sơ sinh ở đây gợi cho Long hiểu rằng tất cả những người này đã mẹ tròn con vuông, đang hồi sức và chờ ngày xuất viện cùng với đứa con mới chào đời. Nằm ở khu vực nổi, Long cảm thấy bụng quặn lên. Trong cơn đau đớn, cô cũng thấy may mắn khi mấy đứa bé sơ sinh xung quanh không quấy khóc. Sau một cơn đau kế tiếp, cô liếc nhìn đồng hồ treo tường. Đã 8 giờ tối. Giữa lúc Long chuẩn bị đối mặt với cơn đau kế tiếp, không khí yên tĩnh bị phá vỡ. Tiếng cói báo động rúc lên. Điện ở Bệnh xá Ngô Quyền – và trên toàn thành phố - liền bị cúp. Khi các y tá châm đèn dầu lên, cũng là lúc Long cảm thấy sinh linh bé nhỏ trong cơ thể cô đang tìm cách chui ra. Lúc 8 giờ 15 tối, cô sinh một bé trai khỏe mạnh nặng 3,1 ký. Ca sinh nở này là một trải nghiệm đầy đau đớn cho cả mẹ lẫn con. Cửa âm đạo của Long bị rách, xuất huyết rất nặng. Một y tá bảo rằng cần phải khâu vết rách cửa mình, nhưng không có thuốc tê. Thêm vào đó, chỉ khâu tự tiêu và kim khâu y tế cũng thiếu, thế nên người ta buộc phải lấy kim và chỉ thường để khâu. Khi hai y tá đang thao tác, Long quan sát thấy sự đối lập rõ rệt nơi họ. Một người thì rất trẻ, có vẻ không được đào tạo bài bản; người kia, khoảng ngoài 50, đeo kính dày, tỏ ra rất kinh nghiệm. Khi cuộc phẫu thuật đang tiến triển, Long thấy khó chịu do người y tá lớn tuổi mắt kém, đặc biệt là trong điều kiện chỉ có một ngọn đèn dầu soi sáng căn phòng. Long cảm thấy thảm họa sắp sửa xảy đến. Thật không may, nỗi lo sợ của cô là hoàn toàn có căn cứ. Người y tá già phải căng mắt để đặt mũi khâu đúng chỗ. Tuy nhiên, chỉ sau một hoặc hai mũi khâu, bà nhận ra rằng nơi đây thiếu ánh sáng nên bà gọi cô y tá trẻ kia tới giúp sức. “Dù không hề khóc trong suốt ca sinh nở”, Long nhớ lại, “nhưng lúc bấy giờ, mỗi khi cảm thấy mũi kim xuyên qua cơ thể, tôi lại kêu gào lên trong đau đớn. Cả phòng đều nghe tiếng gào của tôi. Những phụ nữ khác tỏ ra rất lo lắng và hồi hộp. Tôi cảm thấy mũi kim xuyên qua thịt da, sau đó là sợi chỉ, cứ thế, lặp đi lặp lại. Sau chừng hai chục phút, với mười mũi kim xuyên qua, các y tá bảo tôi rằng cần phải khâu lại vì các mũi khâu kia đã sai”. Ca phẫu thuật này là nhằm khâu lại vết rách ở môi bé và môi lớn nằm về cả hai phía âm đạo. Nhưng do thiếu ánh sáng, các y tá đã khâu môi lớn bên trái với môi bé bên phải âm đạo lại với nhau. Do đó, cần phải rút chỉ ra, điều này khiến vết thương ra máu nhiều hơn. Sau khi rút hết chỉ khâu, hai y tá bắt đầu lại công https://thuviensach.vn việc. Điều kiện ở đó hoàn toàn bất lợi cho phẫu thuật. Thiếu thốc tê, ánh sáng, thời tiết giá lạnh, còi báo động rúc lên từng chặp và tiếng loa phóng thanh liên hồi thông báo về cự ly máy bay ném bom đang tiến về thành phố - tất cả những thứ này khiến cho một ca tiểu phẫu đơn giản trở nên cực kỳ phức tạp. Khi tiến trình tái phẫu bắt đầu, Long lại liên hồi thét lên trong đau đớn. Sau hơn hai mươi mũi kim nữa, các y tá cuối cùng thông báo ca phẫu thuật đã kết thúc thành công. Tuy nhiên, sau đó các biến chứng đã phát sinh nhanh chóng. Quanh các vết rách đã xuất hiện sưng tấy. Để ngăn ngừa nhiễm trùng, một y tá đã dùng khăn nhúng nước sôi, vắt khô rồi áp vào. Nước quá nóng nên người ta phải dùng kẹp để gắp khăn ra. Nữ y tá tiếp tục dùng khăn nhúng nước nóng áp lên khu vực sưng tấy nơi âm hộ. Mỗi lần như thế là bệnh nhân lại gào lên vì đau đớn. “Cách làm này thậm chí còn gây đau đớn hơn cả việc phẫu thuật khâu vết rách”, Long cho biết. Phẫu thuật xong, cô được chuyển tới nằm nghỉ trên bàn. “Lúc bấy giờ tôi mệt lả, nghĩ rằng có thể nằm nghỉ ở đây một lúc. Nhưng ngay sau đó thì còi báo động lại nổi lên và tôi được chuyển xuống hầm. Bình thường, tôi có thể được nằm dưỡng sức ở trên mặt đất – nhưng cuộc tấn công sắp xảy ra đã khước từ của tôi tiện nghi giản dị đó”. Người ta đã đào một hệ thống hầm ngầm ngay dưới bệnh xá phụ sản để sử dụng trong trường hợp khẩn cấp. Một cái lỗ được khoét ngay trên sàn nhà làm cửa ra vào, vị trí lỗ nằm góc phòng. Người ta khoét vào lòng đất để làm bậc tam cấp. Cửa chỉ cho phép một người chui qua mỗi lần. Nhờ ánh đèn lờ mờ từ căn phòng phía trên hắt xuống, Long cố sức tự đi xuống hầm. Mỗi bước đi là một trải nghiệm đau đớn, dư âm của ca phẫu thuật ban nãy. “Để tránh hai đùi cọ xát vào nhau, tôi dạng hai chân bước đi như con gấu”, Long nhớ lại. Các bậc tam cấp dẫn xuống độ sâu chừng 1,5 mét. Khi xuống tới bên dưới, Long thấy mình đang đứng trong một “hầm cóc” hở. Từ giữa hầm, cô thấy bốn hầm chui tỏa ra theo bốn hướng – đủ dài cho một người chui vào. Miệng mỗi hầm cao chừng tám tấc, nằm cách sàn hầm chính một khoảng cách ngang đầu gối. Kiểu hầm này rõ ràng đóng chức năng như một phòng sinh trong trường hợp có máy bay ném bom. Các hầm được bố trí cho phép y tá ở ngay giữa tâm hầm cóc có thể xoay quanh 360 độ để chăm sóc cho bất cứ ai trong bốn thai phụ đang lâm bồn xung quanh. Loại hầm này được thiết kế để mang những sinh linh bé bỏng vào đời trong điều kiện cực kỳ khắc nghiệt, nhưng Long lại có cái nhìn khác. “Ở đó rất lạnh”, cô nói. “Trong hầm rất thiếu ôxy. Bốn hầm khoét xung quanh gợi cho tôi liên tưởng tới cái chết nhiều hơn là sự sống. Mỗi hầm giống như một quan tài chứ không phải phòng sinh”. Trước khi chui vào hốc của mình, Long thấy hai trong số ba hốc xung quanh đều đã có người. Một sản phụ, cũng vừa sinh xong trong ngày, đang nằm dưỡng sức ở một hốc; hốc còn lại là bốn trẻ sơ sinh quấn chăn nằm ngủ chung trong một cái hộp, trong đó có con trai của cô. Lúc 9 giờ 45 tối, Long đã nằm gọn trong hốc của mình, mắt nhìn lên trần bằng đất chỉ cách mặt cô vài phân. “Tôi nằm xuống và lắng im nghe ngóng”, cô kể. “Tôi nghe tiếng bom rơi và đất rung lên. Bụi và đá sỏi rơi đầy mặt. Tôi sợ rằng đất sẽ sụp xuống, vùi lấp tôi và con. Ngột ngạt và cực kỳ khó chịu. Lưng đau, âm hộ đau, chân tê cóng đi vì giá rét, tôi nằm trên tấm chiếu mỏng trải lên nền đất cứng. Ở đó rất ẩm ướt. Tôi chẳng thể ngủ được. Tôi gần như mê man. Thỉnh thoảng y tá lại đến để kiểm tra tình hình. Con trai tôi bắt đầu gào khóc như còi báo động. Trận ném bom đêm ấy là khủng khiếp nhất tại Hà Nội từ trước tới nay. Đó cũng là đêm kinh hoàng nhất trong cuộc đời tôi”. Dù bom ngưng vào lúc chừng 11 giờ 30 tối, Long vẫn chưa được rời hầm. Cô phải ở đấy tới 7 giờ sáng hôm sau, giấc ngủ cứ chập chờn. Buổi sáng, cô được đưa lên mặt đất và đặt trên giường. Do vẫn còn đau đớn nên cô phải ở lại bệnh viện hai ngày hai đêm nữa. Trong thời gian nằm viện còn lại, Long tiếp tục nghe còi báo động thường xuyên. Mỗi khi còi rúc lên, https://thuviensach.vn cô lập tức bồng con và đi kiểu chân gấu một cách thuần thục xuống hầm trú ẩn. Quy định của bệnh viện là những sản phụ như Long phải lưu lại ít nhất bốn ngày. Nhưng không thể chịu được điều kiện tại đây, chỉ sau hai ngày, cô đã ký giấy cam đoan xuất viện. Sau đó cô nhắn chồng tới đưa về. Người chồng từng dùng xe đạp để chở bà vợ mang thai tới bệnh viện, nhưng sau khi gia đình có thêm một thành viên nữa thì cần phải có một phương tiện chuyên chở khác. Anh kiếm một chiếc xích lô đạp tới bệnh viện. (Xích lô là loại xe chở thuê phổ biến ở Việt Nam. Đó là loại phương tiện lai giữa xe đạp và xe ba gác, có một ghế ngồi kiểu xe ba gác, với hai bánh trước và phía sau là một nửa chiếc xe đạp. Người lái ngồi trên yên xe, ngay đằng sau ghế ba gác, để đạp và điều khiển xe). Những sự kiện đêm đó đã hằn nhiều vết sẹo lên cơ thể và tâm hồn của Long cùng đứa con trai. Phải mất sáu năm sau Long mới nguôi ngoai cảm giác đau đớn, tâm lý lo sợ mà cô đã trải qua trong cái đêm tháng 12 năm đó, cũng như cô mới đủ can đảm để có đứa con thứ hai. Đối với cậu con trai, Quân, vấn đề còn trầm trọng hơn. Thực tế khắc nghiệt của một đất nước chịu chiến tranh đã giáng lên đầu cậu ngay lúc vừa chào đời. Tiếng hét của cậu đêm ấy và những đêm sau nữa trong chuỗi sự kiện ném bom dịp Giáng sinh cùng với tiếng còi báo động rúc liên hồi đã khiến người ta đặt cho cậu biệt danh Quân “còi”. Mãi tới tuổi thanh niên, Quân vẫn còn bị hội chứng mộng du, mất ngủ và lo âu. Những âm thanh bất ngờ và lớn dễ dàng khiến cậu hồi hộp. Tới hôm nay, cậu vẫn còn sợ những nơi lạnh và tối. Có lẽ trẻ em chính là những người hứng chịu nhiều hậu quả nhất trong chiến tranh. Trần Công Tấn, một nhà báo làm việc cho Hà Nội, đã chứng kiến rất nhiều thảm kịch trong cuộc xung đột Việt Nam. Với Tấn, khía cạnh kinh khiếp nhất của cuộc chiến đó chính là việc phải chứng kiến tác động của nó giáng lên đầu trẻ em. “Nó buộc trẻ em phải lớn thật nhanh”, ông đúc kết. “Nó khiến một đứa trẻ từ lúc còn rất nhỏ phải học bài học thực tiễn về sự sống và cái chết”. “Tháng 12 năm 1972, Hà Nội – đặc biệt là phố Khâm Thiên ở trung tâm thành phố - đã hứng chịu mười hai ngày dội bom. Trẻ con phải nấp dưới hầm bên cạnh người giám hộ. Có lần, khi bom tạm lắng và một nhóm người trông trẻ sợ rằng đợt bom kế tiếp sẽ rơi gần nơi mình ẩn nấp nên đã quyết định chuyển trẻ con tới một địa điểm an toàn hơn. Có cô giữ trẻ đã đặt một bé gái một tuổi xuống đất để chạy tới giúp đỡ nạn nhân bị thương. Cách đó vài thước, xác chết nằm la liệt – đó là tất cả những nạn nhân của đợt bom vừa qua sắp được chuyển tới nơi quy tập. Đứa bé bò qua các thi thể. Có lẽ nghĩ đó là những người đang ngủ, nó dùng tay lay lay một xác chết. Không thể đánh thức người kia, đứa bé rụt tay lại – và lúc này hai tay bé đầy máu. Trông thấy đứa trẻ đã bò đi xa, cô phụ trách chạy tới bế nó lên. Khi đó, đứa bé giơ hai bàn tay của mình về phía cô giữ trẻ. Đó là một đứa trẻ còn quá nhỏ, và nhìn khuôn mặt bé có thể thấy được tất cả. ‘Liệu nó có hiểu được những điều đang xảy ra xung quanh, làm sao có thể giải thích cho bé?’ ” – Tấn trầm ngâm. *** Theo hồ sơ của chính quyền Hà Nội, đợt dội bom ở phố Khâm Thiên đã giết chết 283 thường dân, 55 trong số đó là trẻ em. Bên cạnh đó là 266 dân thường bị thương, bao gồm 31 trẻ nhỏ. Tổng cộng có 178 trẻ mồ côi. Cái chết của rất nhiều sinh linh bé nhỏ đã được ghi lại bằng phim ảnh trong hệ thống lưu trữ của Hà Nội. Một trong những bằng chứng đau lòng nhất là đoạn phim được thực hiện ngay sau trận ném bom phố Khâm Thiên. Đoạn phim đặc tả sự tàn phá khủng khiếp của đợt không kích. Phố Khâm Thiên chỉ còn sót lại vài ngôi nhà. Dinh thự bị nghiền nát. Khi máy quay đang tố cáo sự tàn phá, mắt người xem chợt dừng lại trước một cảnh tượng thảm khốc. Nhô ra dưới đống gạch đổ là phần thân trên của một em bé. Một cậu trai chừng chín tuổi bị đống đổ nát đè bẹp cả cơ thể bất động. https://thuviensach.vn Đôi tay cậu mở rộng ra, có vẻ như đang ôm vật gì đó vào thời điểm trước khi chết. Khi máy quay tiếp tục lướt qua, người ta đã biết được cậu bé đang cố làm gì vào thời khắc cuối cùng trong cuộc đời ngắn ngủi ấy. Trên mặt đất, cách đôi tay cậu bé chừng nửa mét là một chiếc lồng chim bị dập nát. Trong khi các khối bê tông đổ xuống đã giết chết cậu bé, thì hai con chim yến nhỏ vẫn còn sống trong khoảng lồng còn lại. Nỗ lực cuối cùng của cậu bé là một hành động của yêu thương – cố sức cứu sống hai chú chim yến nhỏ. Bên cạnh thương vong, tổn thất về tài sản cũng rất lớn. Các hồ sơ ghi nhận 533 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn và 1.200 ngôi nhà hư hại nặng. Cư dân phố Khâm Thiên khẳng định không có một mục tiêu quân sự đáng kể nào tại khu vực này trong thời điểm ném bom – mục tiêu khả dĩ gần nhất đó là nhà ga xe lửa cách đấy hơn 200 mét. Nhưng ngày cả nhà ga ấy cũng đã bị bom phá hủy năm ngày trước đó rồi. Sau bao mất mát ấy, rất nhiều người dân Khâm Thiên sống sót đã tha thứ cho những phi công Mỹ thực hiện cuộc ném bom. Họ không tin rằng bi kịch của họ là kết quả của một hành động chủ ý từ những kẻ tấn công mà là, như một nạn nhân đã diễn tả giản dị, “đó là một tai nạn không may trong một cuộc chiến không may”. https://thuviensach.vn Phần 4. Kiên Trì Đối với người Mỹ chiến đấu tại Việt Nam, thời gian là tất cả; với người Việt Nam, thời gian chẳng có ý nghĩa gì. Trong khi lính Mỹ thường đếm những ngày qua đi để biết rằng mình còn phục vụ tại Việt Nam bao lâu nữa, các binh sĩ Việt Nam không bao giờ biết thời gian tại ngũ của họ sẽ kéo dài tới lúc nào. Đối với một số người, cái chết hoặc việc mất đi chân tay có thể khiến họ chấm dứt binh nghiệp; nhưng phần lớn vẫn phải lăn lộn trên chiến trường trong năm năm hoặc dài hơn. Quan trọng đối với người Việt Nam lúc này không phải là vấn đề ngày tháng và thời gian. Quan trọng nhất là phải gắng sống sót hôm nay để ngày mai tiếp tục chiến đấu. Điều đó đã tôi luyện các binh sĩ Việt Nam lòng kiên nhẫn. Người lính biết rằng nếu cơ hội không đến ngày hôm nay thì phải chờ; và khi cơ hội đến, cũng cần phải kiên nhẫn trong việc thực hiện một cuộc tấn công để đảm bảo thắng lợi cuối cùng. Những câu chuyện sau cho ta một cái nhìn xuyên suốt tinh thần của người Việt Nam, về việc họ sử dụng lòng kiên trì như một thứ vũ khí chống lại kẻ thù cũng như họ làm thế nào để phát huy tính kiên nhẫn cho thành công của các trận đánh. • KHI TRỜI HỬNG SÁNG Không một nhóm đơn lẻ nào khiến lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa lo ngại bằng đặc công Bắc Việt. Các binh sĩ đặc công đã được đối thủ của họ trên chiến trường nể phục. Họ luôn tạo ra nhiều mối đe dọa đột kích nhằm vào quân Mỹ, trong đó đặc biệt đáng chú ý là khả năng siêu việt trong việc âm thầm đột nhập vào những nơi được canh gác cẩn mật nhất. Trong vài trường hợp, lính đặc công mất cả ngày để đột nhập và thoát ra khỏi căn cứ mà kẻ thù không hề hay biết. Họ luôn làm việc theo nhóm với số thành viên tùy thuộc vào nhiệm vụ, và người ta có thể cho rằng, nếu đem ra cân đo đong đếm, đặc công là lực lượng gây ra nhiều tổn thất cho các nỗ lực chiến tranh của người Mỹ hơn bất kỳ một đơn vị chiến đấu đơn lẻ nào khác. Năm 1972, Đại tá Tống Viết Dương chỉ huy Trung đoàn Đặc công 113[9] – lực lượng gồm hai ngàn người – được huấn luyện đặc biệt về chiến tranh phi quy ước. Ông đã phái một nhóm đặc công thực hiện cuộc tấn công nhằm vào kho đạn lớn nhất của kẻ thù, nằm tại Long Bình gần Biên Hòa Căn cứ Long Bình rất lớn, bao trùm một diện tích chừng năm cây số vuông. Nhiều loại đạn dược được trữ ở đây, từ đạn súng nhỏ tới đạn pháo và cả vũ khí của máy bay. Tất cả số vũ khí đạn dược này sẽ được phân bổ tới các căn cứ quân sự khắp miền Nam. Ý thức được rằng một kho vũ khí quan trọng như thế rất dễ trở thành mục tiêu tấn công, quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã tìm cách làm cho Long Bình trở nên bất khả xâm phạm. Họ nghĩ đã thực hiện được điều đó. Căn cứ được bao bọc bởi chín hàng rào kẽm cao hai mét, bên trên chằng chịt gai. Từ hàng rào thứ nhất (ngoài cùng) tới hàng rào trong cùng trải dài hàng trăm mét. Khoảng giữa là những gò đất và vùng ngập nước. Khoảng cách giữa hàng rào thứ nhất và hàng rào thứ hai lớn hơn nhiều cự ly giữa các hàng rào còn lại. Ngay bên trong vành đai ngoài của doanh trại là các tháp canh nằm cách nhau 200 tới 500 mét. Cách bố trí này tạo cho phe phòng thủ có thể dễ dàng bắn chéo cánh sẻ vào quân đột nhập. Mỗi chốt đều có người canh gác 24/24. Ban đêm, đèn pha trên tháp canh liên tục quét cả bên ngoài lẫn bên trong vành đai ngoài cùng từ chập tối tới lúc trời sáng. Nhiều hộp thiếc được buộc vào các hàng rào phía trong để kẻ đột nhập nào sơ ý đụng phải sẽ phát ra âm thanh. Giữa các hàng rào còn có vô số mìn sát thương. Vị trí đặt mìn được thay đổi liên tục để đối phương không tài nào đoán biết được. Bẫy pháo sáng cũng được cài nhiều nơi. Khi bị kích hoạt, ống phóng sẽ bắn pháo sáng lên độ cao hàng trăm mét, rồi một chiếc dù bung ra giúp pháo sáng rơi xuống từ từ, và trong lúc rơi nó soi rọi một vùng rộng lớn. Các kho đạn ở Long Bình được bố trí phân tán trên một khu vực rộng lớn để tránh trường hợp một kho phát nổ sẽ tạo ra hiệu ứng dây chuyền. Ninh lính liên tục tuần tra xung quanh bằng xe cơ giới, mỗi đợt tuần tra cách nhau năm phút. Bên cạnh đó, lính tuần đi bộ cùng với chó đánh hơi cũng thường xuyên hỗ trợ lực lượng tuần tra cơ giới. Mìn bên trong các hàng rào thép gai tạo cảm giác an toàn cho những người phòng thủ, nhưng cũng gián https://thuviensach.vn tiếp tạo thuận lợi cho phe xâm nhập. Do có mìn nằm giữa các hàng rào nên người ta không thể vào đấy để cắt cỏ - thế nên cỏ mọc rất um tùm. Cỏ cao tạo ra tấm ngụy trang lý tưởng cho những kẻ đột nhập vào căn cứ. Do quá tự tin vào mạng lưới bảo vệ, binh tướng ở trong doanh trại để cho cỏ mọc tự do từ vành đai ngoài cùng vào tận trong cùng, giúp cho người đột nhập có thể ẩn nấp trong suốt hành trình của mình. Đại tá Dương biết rõ lối tiếp cận này. Những vụ tấn công vào một căn cứ tầm cỡ như Long Bình hiếm khi đến từ một quyết định tức thời; thông thường, chúng chỉ được tiến hành sau hàng tháng – thậm chí một năm trời – tính toán. Suốt giai đoạn lên kế hoạch, thông tin tình báo về các mục tiêu tiềm năng được thu thập. Đối với trường hợp Long Bình, căn cứ này cũng chỉ là một trong rất nhiều mục tiêu được tính đến và quyết định tấn công chỉ được đưa ra sau hai năm do thám. “Nếu chỉ nhằm vào Long Bình thôi thì chẳng khác gì bỏ tất cả trứng vào một rổ”, ông Dương giải thích. Cần nhiều thời gian để thu thập tin tức tình báo về một số mục tiêu khả kích trước khi quyết định đâu là đích ngắm ưu tiên. Ông Dương giải thích rằng sở dĩ Long Bình được chọn là vì hai lý do: “Đó là mục tiêu dễ tiếp cận nhất và với quy mô của nó, chúng tôi có thể gây tổn thất nặng nề nhất cho hệ thống kho vũ khí của đối phương”. Ông Dương so sánh việc sử dụng thông tin thu thập được từ một mục tiêu cũng giống như người ta thu hoạch lúa: “Gặt lúa xong thì anh không thể đem ra ăn hết được. Nếu ăn hết thì mai mốt sẽ chết đói. Tin tình báo cũng như lúa gạo, cần phải được thu thập và để dành để có thể dùng trong một thời điểm thích hợp. Ban ngày, chúng tôi cử người tới căn cứ để lấy tin và họ luôn vào được bên trong. Đôi khi chúng tôi có thể cài người vào căn cứ. Có nhiều cách để thực hiện điều đó. Chúng tôi cho người giả vờ tới gặp bạn hoặc người thân trong căn cứ nhưng thực ra là để quan sát và thu thập thông tin cần thiết, chẳng hạn cự ly và vị trí các khu nhà kho. Hoặc đôi khi một sĩ quan miền Nam làm việc cho chúng tôi tới Long Bình nhận hàng và chúng tôi gửi kèm nhân viên tình báo theo. Cũng có lúc người của chúng tôi trà trộn vào công nhân địa phương làm việc ở căn cứ, chẳng hạn tài xế và dân bốc vác, vốn là những cơ sở tin cậy. Những công nhân này còn tự nguyện cung cấp thông tin, chẳng hạn địa điểm nào theo họ là xung yếu nhất. Cũng có khi sĩ quan trung thành của chính quyền Sài Gòn vô tình cung cấp thông tin cho chúng tôi”. Sau một thời gian đủ dài, tất cả thông tin về tổng kho Long Bình đã được thu thập đủ và căn cứ này được xác định là mục tiêu ưu tiên của Trung đoàn 113. Nhiều ngày trước khi cuộc tấn công thực sự diễn ra, một buổi “tập khô” đã được lên kế hoạch và thực hiện. Đây là đòi hỏi cơ bản trong quá trình chuẩn bị tấn công những mục tiêu quan trọng. Cuộc chạy thử do một tổ trinh sát gồm hai người đảm trách, nhằm tránh nguy cơ tổn thất toàn đội đặc công. Việc này có rất nhiều mục tiêu như: thử hệ thống vành đai phòng thủ và an ninh của căn cứ, thiết lập lối vào ra căn cứ và xác định thời gian thực tế có thể tiếp cận các mục tiêu được định sẵn bên trong căn cứ để đặt thuốc nổ. Tổ trinh sát hai người thực hiện tất cả những hoạt động mà đội đặc công sẽ tiến hành thực sự, với chỉ một khác biệt quan trọng duy nhất – họ không mang theo chất nổ. Vài ngày sau, khi cuộc tấn công thực sự được tiến hành, hai trinh sát này sẽ dẫn đường cho đồng đội tiến vào khu căn cứ. Khi màn đêm buông xuống, tổ trinh sát hai người khởi sự cuộc “tập khô” nhằm vào tổng kho Long Bình. Một cách chậm rãi, hai người dễ dàng tiếp cận vành đai ngoài cùng nhờ sự che phủ của cỏ. Khi tới hàng rào, họ không cắt dây kẽm – một nhiệm vụ chỉ được thực hiện trong cuộc tấn công thực sự. Thay vào đó, họ tìm cách kéo các sợi dây ra, tạo khoảng hở vừa đủ để chui vào trong, sau đó phục hồi lại nguyên trạng. Nếu cắt dây kẽm gai thì sẽ để lại dấu vết cho thấy rằng căn cứ có thể đã bị đột nhập; cuộc tấn công thực sự sẽ thiếu đi yếu tố bất ngờ. Vượt được hàng rào ngoài cùng, đội trinh sát chậm rãi trườn qua bãi mìn trong khi vẫn luôn tìm cách bị lính trên tháp canh phát hiện. Mìn và bẫy pháo sáng được định vị và vô hiệu hóa bằng cách găm một cái đinh vào. Vừa xử lý các thiết bị này, nhóm vừa chậm chạp tiến về hàng rào kế tiếp. Sau khi vượt qua mỗi hàng rào, họ lặp lại các thao tác như định vị và vô hiệu hóa mìn cùng pháo sáng ở khu vực giữa các hàng rào, để từ đó mở một lộ trình xuyên qua hệ thống hàng rào bảo vệ khu căn cứ. Cuộc “tập khô” bắt đầu từ 8 tối; mục tiêu của nhóm là đi được nửa chặng đường giữa hàng rào thứ năm https://thuviensach.vn và sáu vào lúc 11 giờ khuya. Tiến độ đã được thực hiện đúng. Vẫn còn nhiều giờ nữa mặt trời mới mọc nhưng nhóm không mạo hiểm tiến quá gần tới phía trong căn cứ lúc bình minh lên. Thế nên lợi dụng cỏ cao, hai thành viên đào mỗi người một lỗ dưới đất và trườn xuống đó nằm đợi. Khi hừng đông, các hoạt động thường nhật bắt đầu diễn ra bên trong căn cứ Long Bình – có một điều là những người phòng thủ ở đấy không biết rằng có kẻ đã đột nhập ngay bên hông họ. Đội trinh sát lặng lẽ nằm ở nơi ẩn nấp suốt ngày, chỉ cách quân địch vài mét. Sau khi màn đêm buông xuống, nhóm tiếp tục tiến lên để vượt qua những hàng rào còn lại. Đến quá nửa đêm, họ trườn qua hàng rào cuối cùng, tiến vào khu nhà kho. Tại đây, họ tranh thủ tính cự ly giữa các mục tiêu và xác định khoảng thời gian cần để tiếp cận chúng. Nhiệm vụ hoàn tất, nhóm rút lui lặng lẽ y như lúc đột nhập, trườn qua chín hàng rào đúng theo lộ trình khi họ đến. Vào lúc bình minh, tổ tiền trạm trở về đơn vị an toàn, báo cáo mọi việc với nhóm đặc công chịu trách nhiệm thực hiện cuộc tấn công tống kho Long Bình. Ngay khi tổ tiền trạm vừa rút khỏi Long Bình, một trinh sát được điều đến chốt tại một địa điểm bí mật với cự ly đảm bảo an toàn, để từ đó có thể liên tục theo dõi hoạt động của tổng kho cũng như quan sát lối đi mà nhóm đột nhập vừa thiết lập. Bước đi này là nhằm biết chắc rằng phía bên kia không có hành động nào ảnh hưởng tới lộ trình ấy trước khi cuộc tấn công thực sự diễn ra. Để đáp ứng tiến độ, đội đặc công đã khởi sự vào buổi tối trước cuộc tấn công hai ngày, vào lúc tám giờ. Hai trinh sát cũ dẫn đầu cuộc tái đột nhập vào căn cứ Long Bình. Lần này, có năm tổ đặc công theo sau họ - mỗi tổ mang theo thuốc nổ và thiết bị hẹn giờ. Có hai mươi người tham gia vào chiến dịch. Mỗi tổ gồm ba hoặc bốn người, tùy thuộc vào mục tiêu tấn công được giao. Mục tiêu càng lớn thì càng cần nhiều chất nổ, vì thế cần thiết phải tăng thêm người để mang thêm thuốc nổ. Khi tới hàng rào ngoài cùng, đội đặc công liền cắt dây thép để tạo ra một lỗ đủ lớn cho một người chui qua. Người chui sau cùng có nhiệm vụ nối lại các dây thép để tránh bị lộ. Nhóm dẫn đầu tiếp tục tiến theo lộ trình mà họ đã thực hiện mấy ngày trước đó, và họ tiếp tục kiểm tra mọi thứ để đảm bảo rằng không có quả mìn nào mới được cài lên trên lối đi ấy. Sau khi đội đặc nhiệm xuất phát tiến về căn cứ Long Bình, Đại tá Dương không còn liên lạc với họ nữa. Các thành viên của đội trao đổi với nhau bằng cách dùng ngón tay ra hiệu. Khi tới khoảng giữa hàng rào thứ năm và thứ sáu, đội dừng lại và đào hố. Trời vừa hửng sáng, họ đã có chỗ ẩn nấp kín đáo. Đội đặc công nằm im suốt ngày, âm thầm chờ đợi màn đêm buông xuống. Đến khi trời tối, họ lại tiếp tục hành trình. Chừng nửa đêm, toàn đội lọt qua hàng rào cuối cùng. Giờ đây, mỗi một thành viên sẽ tập trung cho nhiệm vụ của mình và vẫn cẩn trọng không để lọt vào mắt lính gác trong căn cứ. Chất nổ được gắn với thiết bị hẹn giờ MI-8. Thiết bị chỉ bé bằng ngón tay này cho phép cài thời gian phát nổ chậm hàng tiếng đồng hồ để nhóm đặc công có đủ thời giờ rút về nơi an toàn. Sau khi hẹn giờ nổ là ba tiếng đồng hồ, đội đặc công bắt đầu rút. Toàn đội tập hợp bên ngoài hàng rào trong cùng trước khi cùng nhau rút đi. Thời gian chậm trễ cho phép chỉ là năm phút – không hơn. Nhưng người đã tập hợp trước sẽ không tiếp tục chờ trong trường hợp có một tổ nào đó trở ra chậm. Chiến dịch diễn ra suôn sẻ - các tổ chiến đấu đều hoàn tất nhiệm vụ và có mặt ở điểm hẹn đúng giờ. Cuộc rút lui bắt đầu với mỗi thành viên bám theo dấu vết người bò ngay trước mình trên đúng lộ trình mà họ đã đột nhập: một người để lại dấu chân hoặc dấu tay và mười chín người còn lại đặt chân và tay đúng vào dấu người đi đầu tiên để lại. Do lộ trình đã được khai thông nhiều lần, giờ đây nhóm rút lui nhanh hơn so với lúc họ đột nhập. Sau khi ra được bên ngoài, các thành viên đội đặc công trực chỉ sở chỉ huy trung đoàn. Tại đây, đội báo cáo với ông Dương rằng họ đã hoàn thành nhiệm vụ. *** https://thuviensach.vn Khi trời vừa hửng sáng, Đại tá Dương cùng người chỉ huy đội đặc công đứng trên một gò đất cao nhìn về căn cứ Long Bình. Cả hai liên tục xem đồng hồ. Không khí yên tĩnh sau đó đã bị phá vỡ. Một tiếng nổ lớn, nối tiếp là những tiếng nổ lớn khác khi các khối chất nổ do nhóm đặc công cài vào phát hỏa – tiếp theo đó là các loạt nổ liên hồi từ đạn dược ở trong kho. Bình minh như đến sớm hơn vào buổi sáng ấy, khi có tới 30.000 tấn chất nổ phát hỏa soi sáng cả bầu trời. Mặt đất dưới chân hai người rung chuyển sau mỗi một tiếng nổ. Sự chấn động lan xa tới ba mươi cây số. Khi ánh ngày chan hòa, ông Dương thấy một quầng khói lớn cuộn lên từ căn cứ Long Bình. Hài lòng với kết quả đạt được, ông cùng đồng sự nhanh chóng rút vào rừng. Cả hai không nói gì, những chuỗi tiếng nổ không ngớt đã nói thay lời họ. Hai năm lên kế hoạch đã thu được thành công lớn. Kẻ thù đã hứng chịu một đòn nặng nề và điều mà Dương còn hài lòng hơn nữa đó là ông không mất một người lính đặc công nào. • XIN CHÀO BÚP BÊ Thắng thua trên chiến trường thường phản ánh chất lượng của thông tin tình báo thu được. Trong chiến tranh Việt Nam, cả hai phía đều tận dụng mọi cơ hội để thu thập tin tức tình báo. Thông tin liên tục được thu thập, phân tích và đánh giá. Mục đích cuối cùng là biết được càng nhiều càng tốt về khả năng chiến đấu của kẻ thù – về sức mạnh, điểm yếu, chiến lược, kế hoạch, chí khí, v.v. Nhiều khi thông tin thu được là rất chính xác; nhưng đôi lúc thì không. Phía có được thông tin chính xác sẽ dễ dàng đối phó với kẻ địch; thông tin không chính xác, ngược lại, sẽ gây ra thảm họa cho những ai tin vào nó. Nhưng đó là tất cả những điều phải có của trò chơi tìm hiểu kẻ thù và sử dụng tin tức tình báo để chiếm ưu thế. Câu chuyện của Đại tá Trần Văn Sáng đáng quan tâm vì ba lẽ. Trước hết, nó xảy ra vào giai đoạn đầu của cuộc chiến khi Hà Nội nỗ lực tìm hiểu khả năng chiến đấu của quân Mỹ. Thứ hai, đấy là một mẩu thông tin kỳ lạ nhất được thu thập trên chiến trường và được sử dụng như một tin tức tình báo có giá trị. Thứ ba, đấy là một phương cách tình cờ cho phép Bắc Việt về lâu dài có thể đánh giá một cách chính xác điểm yếu trong cái vẻ ngoài hùng dũng của lính Mỹ. Vào thời điểm mà thông tin ấy được thu thập, Bắc Việt đang nóng lòng muốn biết đâu là “gót chân Achilles” của đối phương. Họ đã tìm ra, và qua đó tái tạo lại sự tự tin về khả năng đánh bại một lực lượng mạnh hơn mình. *** Cuối năm 1965, quân của Đại tá Sáng đụng độ với một trong những đơn vị xuất sắc nhất của quân đội Mỹ, Sư đoàn Không vận 101[10], tại Plei Me. Sau một trận đánh và sau khi Sư 101 rút đi, lực lượng của ông Sáng lập tức lục soát chiến trường. Thủ tục này nhằm tìm kiếm những vật khả dĩ có thể cung cấp thông tin tình báo mà kẻ thù đã để lại. Cuộc tìm kiếm thu được kết quả lạ lùng – một con búp bê bơm hơi, mà khi thổi phồng lên thì giống hệt hình phụ nữ. Phát hiện như thế thoạt tiên có vẻ vô giá trị. Tuy nhiên, có một sĩ quan tình báo Việt Nam lại nghĩ khác. Theo ông, con búp bê bơm hơi có thể cho thấy nội tâm của các binh sĩ thuộc loại tinh nhuệ nhất bên phía Mỹ - đặc biệt là khả năng chịu đựng của họ khi tham gia một cuộc chiến dai dẳng. Từ cuộc sống của mình, ông Sáng thấy người Việt Nam hầu như sống cả đời trong chiến tranh. Lịch sử khắc nghiệt ấy tạo cho binh lính Việt Nam khả năng chịu đựng vô hạn. Các lực lượng chiếm đóng tại Việt Nam – dù là người Nhật Bản, người Pháp hay người Mỹ - đều đã cướp đi của người lính Việt Nam rất nhiều thứ, không chỉ tuổi trẻ mà cả cơ hội xây dựng gia đình. Ngay cả những người đã thành hôn cũng phải sống xa nhà và gia đình. Tuy nhiên, người lính Việt Nam sẵn sàng hy sinh tất cả những điều này – bởi vì không có cái giá nào là quá đắt cho mục tiêu thống nhất đất nước. Người ta sẵn sàng chấp nhận xa cách lâu dài cho tới ngày chiến thắng cuối cùng. Viên sĩ quan tình báo Việt Nam đánh giá rằng con búp bê bơm hơi nằm trên chiến trường cho thấy người lính Mỹ không thể hy sinh những điều mà người lính Việt Nam sẵn sàng hy sinh. Không giống như binh lính Việt Nam để lại người thân yêu ở hậu phương để chiến đấu tới ngày chiến thắng, lính Mỹ, vốn https://thuviensach.vn thường chỉ có thời gian phục vụ một năm tại Việt Nam, không thể làm được điều ấy. Đối với viên sĩ quan tình báo nọ, con búp bê bơm hơi là bằng chứng về một điểm yếu – rằng người lính Mỹ không thể phục vụ một năm tại Việt Nam nếu không có người vợ hoặc bạn tình “nhân tạo” ở bên cạnh. Tâm trí của người lính Mỹ tập trung vào ngôi nhà và gia đình của mình hơn là chiến đấu và chiến thắng. Đây là điều cần phải được lợi dụng – và tất cả những gì người Việt Nam cần làm đó là phải kiên trì. Một khi cuộc chiến kéo dài, người Mỹ sẽ mất ý chí chiến đấu. Người Việt Nam tin rằng, trong tinh thần người Mỹ vắng bóng lòng quyết tâm để đi đến cùng cuộc chiến – và điều này cần được khơi ra. Con búp bê bơm hơi, chiếc bật lửa với hình phụ nữ khỏa thân vốn được sử dụng rộng rãi trong quân đội Mỹ, tất cả đều cho thấy người Mỹ quá bận tâm với những gì họ đã để lại hậu phương mà không bận tâm tới tiền tuyến. Trong khi lính Mỹ chỉ nghĩ tới ngày rời Việt Nam, người Việt Nam lại chỉ nghĩ tới việc đánh đuổi lính Mỹ. Từ góc độ của người Việt Nam, hai chiều hướng tinh thần ấy hợp lại sẽ tạo nên chiến thắng cho Hà Nội. Kể từ đó ông Sáng và đồng đội không còn coi người Mỹ là những chiến binh bất khả chiến bại. Ngược lại, họ nhận thấy ở người Mỹ những gã trai dễ tổn thương, đang ngày đêm hướng về gia đình và người thân – lối suy nghĩ làm yếu đi khả năng thực hiện nhiệm vụ đặt ra trước mắt họ. Đó là lần đầu tiên ông Sáng nhận thấy rằng người Mỹ có thể bị đánh bại. https://thuviensach.vn Phần 5. Sáng Tạo Trước khi những toán quân Mỹ đầu tiên xuất hiện, người Việt Nam nhận ra rằng chiến thắng sẽ được quyết định qua việc Hà Nội làm thế nào để đối phó với kẻ thù có công nghệ và vũ khí vượt trội – đó là nhiệm vụ cực kỳ cam go đối với một đất nước khá hạn chế về nguồn lực. Những người Việt Nam đã tìm cách bổ khuyết cho sự thiếu thốn nguồn lực vật chất bằng óc sáng tạo tuyệt vời của họ. Họ đã thể hiện sự khéo léo đáng kinh ngạc trên chiến trường một cách thường xuyên để đối phó với những lợi thế quân sự của người Mỹ. Dưới đất, sự khéo léo được thể hiện trong chiến lược “Bám thắt lưng địch mà đánh”. Cụm từ này có nghĩa đen là: Áp thật sát để chiến đấu, khiến cho kẻ thù không còn sử dụng lợi thế về không quân và pháo binh bởi việc dùng hai loại phương tiện kia có thể gây nguy hiểm cho chính lực lượng của kẻ thù. Trên trời, sự khéo léo chính là việc áp dụng những chiến thuật và chiến lược đánh trận để giành thắng lợi trước một lực lượng không quân hoàn toàn áp đảo. Trong những câu chuyện sau đây, điểm nhấn là không chiến. Điểm nhấn này sẽ làm sáng tỏ câu hỏi người Việt Nam đã sử dụng sự khéo léo của mình hiệu quả như thế nào – trong một cuộc chiến mà về mặt công nghệ người Mỹ hoàn toàn vượt trội. • BAY TRÊN VÙNG TRỜI ĐẦY BẤT TRẮC Trong khi Mỹ luôn tìm cách duy trì ưu thế trên bầu trời Bắc Việt, Hà Nội lại quyết tâm biến không phận của mình trở nên đầy bất trắc đối với phi công Mỹ. Người Việt Nam đã thực hiện quyết tâm đó thông qua một hệ thống phòng không độc đáo và ngày càng hiệu quả. Cuộc cách mạng phòng không bắt đầu bằng một tiền đề giản đơn: Bầu trời dù rộng lớn, nhưng nếu có đủ đạn chì để bắn vào đó, người ta sẽ thu được kết quả. Và trong câu chuyện lạ lùng được kể dưới đây, thậm chí người ta không cần bắn viên đạn nào cũng có thể làm rơi máy bay. Máy bay bắt đầu đánh phá miền Bắc vào ngày 5 tháng 8 năm 1964. “Chúng tôi sử dụng mọi thứ để bắn vào máy bay Mỹ”, Đại tá Nguyễn Văn, một lính phòng không lúc bấy giờ mới phục vụ quân đội năm đầu, giải thích. “Chúng tôi dùng súng trường. Sau đó đến loại súng phòng không 57mm. Rồi chúng tôi được trang bị tên lửa đất đối không, và loại vũ khí mới này đã kết hợp rất hiệu quả với các hệ thống phòng không truyền thống. Có tên lửa rồi nhưng chúng tôi vẫn duy trì phương châm là tất cả mọi người – bộ đội, dân quân, bất cứ ai có thể cầm súng – cùng bắn máy bay địch. Người nước ngoài chắc rất khó hình dung được việc dùng súng trường để bắn máy bay. Trên thực tế thì chúng tôi đã làm điều đó lần đầu tiên vào năm 1947 trước người Pháp. Sau khi thu được một số kết quả, chúng tôi tiếp tục dùng súng trường bắn máy bay Mỹ”. Hệ thống phòng không được bố trí theo từng cụm, phối hợp tác chiến trên không và trên mặt đất. Hai kiểu phối hợp này nhằm tạo ra bức tường lửa ở những nơi mà máy bay địch đi qua. Trên mặt đất, người ta bố trí ba hoặc bốn khẩu súng phối hợp với nhau. Ở trên không, các loại vũ khí khác nhau sẽ bao quát những tầm cao khác nhau, tùy thuộc vào hiệu quả của từng loại: súng trường nhỏ như AK-47 tập trung vào độ cao dưới 300 mét; súng máy thì từ 300 tới 1.000 mét; pháo cao xạ và tên lửa đối không bao quát độ cao trên 1.000 mét. “Việc bố trí các dàn tên lửa là tùy theo nhiệm vụ trong một khu vực nhất định”, ông Văn giải thích thêm, “nhưng thường thì, nếu tại một khu vực có quá ít dân quân, chúng tôi sẽ bố trí một đơn vị tên lửa để bù lại”. Ông Văn nhớ lại trận đánh đầu tiên. “Suốt cuộc đời chinh chiến, có những thứ mà người lính luôn nhớ rõ”, ông Văn nói. “Trận đánh đầu tiên là một trong những thứ đó. Nó luôn để lại ấn tượng mạnh. Trận chiến đầu tiên của tôi là vào ngày 3 https://thuviensach.vn tháng 4 năm 1965”. Lúc bấy giờ, Văn chỉ huy một khẩu đội pháo cao xạ bảo vệ cầu Hàm Rồng. Cầu Hàm Rồng bắc qua sông Mã ở Thanh Hóa là một cây cầu rất khó xây dựng, đòi hỏi những kỹ thuật cầu đường đặc biệt. Cầu được khánh thành năm 1964 với một ít sự giúp đỡ của Trung Quốc. Cuộc không kích do 30 máy bay A-1 và A-4 thực hiện, với sự hỗ trợ của chiến đấu cơ F-4 và F-8 từ các tàu sân bay HANCOCK (CVA-19) và USS CORAL SEA (CVA-43). Mặc dù chiếc cầu bị phá hủy nhưng không quân Mỹ cũng bị tổn thất. Hai chiếc máy bay xuất phát từ tàu HANCOCK bị bắn rơi: một chiếc A 1H và một chiếc A-4C. “Trong suốt cuộc chiến, chúng tôi luôn bám sát trận địa pháo”, ông Văn kể tiếp. “Chúng tôi không bao giờ đi xa hơn mười lăm mét. Chúng tôi ăn tại chỗ; có giá sách ở ngay trận địa pháo để đọc. Chúng tôi luôn ở đó để đảm bảo sẵn sàng nghênh địch. Gần cầu có một nhà máy điện, xưởng xay xát và một nhà máy phân hóa học. Có nhà máy ở đấy tức là có dân thường ở đấy. Vì có dân thường nên nhiều người cho rằng quân Mỹ sẽ không tấn công. Nhưng chúng tôi lại được chỉ thị rằng những cơ sở này nằm trong danh sách mục tiêu của Mỹ. Trong thời gian gần đấy, địch đã tấn công một khu vực tương tự ở Quảng Bình nên chúng tôi luôn giữ tinh thần sẵn sàng. Và rồi cuộc không kích diễn ra. Đó không phải là một trận đánh duy nhất; cuộc chiến kéo dài suốt hai ngày, mùng 3 và 4 tháng 4. Tất cả mọi người đều nhằm thẳng máy bay địch mà bắn khi chúng ập tới thả bom. Một phần xưởng xay xát và nhà máy điện bị phá hủy. Bởi đây là trận chiến đầu tiên của đời tôi nên tôi có phần bối rối trước các hoạt động của khẩu đội. Nhưng cảm giác đó sớm biến mất khi giao tranh trở nên dữ dội hơn. Có tới 43 máy bay Mỹ bị bắn rơi trong vòng hai ngày. Tôi không biết khẩu đội của mình bắn rơi bao nhiêu chiếc bởi tất cả mọi người đều nhằm bắn vào máy bay”. (Rõ ràng tài liệu Mỹ không ghi nhận 43 máy bay rơi trong sự kiện này. Luôn luôn có sự khác nhau giữa con số máy bay mà phía Hà Nội tuyên bố đã bắn rơi và con số người Mỹ báo cáo. Các tổn thất về máy bay không phải luôn luôn được Washington thừa nhận ngay tức thì bởi trong một số trường hợp, nỗ lực tìm kiếm phi công vẫn còn đang tiếp diễn. Chỉ đến khi tất cả các phi công có máy bay bị bắn rơi được tìm thấy hoặc được xác định là mất tích [MIA] thì con số máy bay tổn thất mới chính thức được Washington thừa nhận. Tới tận hôm nay, người Mỹ và người Việt Nam vẫn còn bất đồng với nhau về các con số. Nếu con số mà người Mỹ công bố là chính xác thì cũng có thể có một cách giải thích hợp lý đối với các tuyên bố của Hà Nội. Có thể các cán bộ tuyên truyền hăng hái đã thổi phồng số liệu máy bay bị bắn rơi chứ không phải là thành quả thực sự của những dàn súng phòng không. Nhưng cũng có thể đa số máy bay bị bắn cháy được báo cáo là xuất phát từ những lý do chính đáng hơn. Bên phía Hà Nội, họ thực sự không thể nào thống kê chính xác được số máy bay địch rơi trong mỗi sự kiện. Với thực tế là có rất nhiều người cùng nhằm bắn vào một máy bay, khi chiếc máy bay đó bị bắn rơi, ai cũng khẳng định mình đã bắn trúng. Nếu mười khẩu đội pháo cùng bắn rơi một máy bay, con số báo cáo sau đó có thể là mười chiếc rơi. Nếu một chiếc máy bay trúng đạn vỡ tung trên trời và các mảnh vỡ phân tán trong một khu vực rộng lớn thì mỗi một địa điểm mảnh vỡ rơi trên mặt đất được phát hiện sau đó có thể được báo cáo tương ứng với một máy bay rơi. Vì thế, cái được cho là nhiều máy bay rơi đôi khi chỉ là những địa điểm rơi của các mảnh vỡ từ một chiếc máy bay duy nhất. (Ngay cả ban lãnh đạo Đảng Cộng sản cũng đôi khi nghi ngờ về tính chính xác của các báo cáo. Khi tướng Giáp báo cáo trước ban lãnh đạo Đảng về chiếc B-52 đầu tiên bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội, ông đã được đề nghị đích thân tới hiện trường để xác minh). Việc triển khai các trận địa pháo hay tên lửa nhằm đối phó một mục tiêu cụ thể nào đó được quyết định tùy theo tình hình mỗi ngày. “Chúng tôi không bao giờ coi tên lửa quan trọng hơn hay kém hơn súng phòng không”, ông Văn nói. “Số lượng các tên lửa SA-2 còn lại không bao giờ ảnh hưởng tới quyết định của chúng tôi về việc có sử dụng loại vũ khí này hay không. Ngay cả khi chỉ còn một quả, nhưng nếu chiến thuật hôm đó đòi hỏi, chúng tôi cũng phải triển khai. Tuy nhiên, thông thường thì trước mỗi chiến dịch, chúng tôi đều dự tính cần có bao nhiêu tên lửa để sau đó lên kế hoạch phù hợp”. https://thuviensach.vn Trong cuộc chiến mang hình hài một ván cờ di động và chống di động, hệ thống phòng không không là ngoại lệ. Cuộc cờ đó đa phát triển lên một tầm cao mới vào ngày 24 tháng 7 năm 1965, khi Bắc Việt bắt đầu triển khai tên lửa đất đối không SA-2 vào hệ thống phòng không. Các phi công Mỹ đã hoàn toàn bị bất ngờ. Ông Văn giải thích: “Đây là lần đầu tiên chúng tôi sử dụng SA-2 và loại vũ khí này đã đem về thành công lớn. Các phi công Mỹ rất kinh ngạc. Lúc bấy giờ chúng tôi bắn một phi đội F-4 ở cách Hà Nội chừng 60 cây số về phía Tây. Ba chiếc rơi. Chúng tôi lập tức loan tin về thành công này trên đài phát thanh. Ngày 24 tháng 7 đã được chọn làm ngày truyền thống của lực lượng phòng không là để nhớ tới sự kiện này”. Sau cuộc tấn công ngày 24 tháng 7 năm 1965, vào ngày hôm sau còn có một cuộc không kích nữa. “Người Mỹ ném bom ngay đúng vị trí hôm trước để trả thù vụ tập kích tên lửa”, ông Văn nói. “Nhưng lần này chúng tôi không dùng tên lửa mà chỉ dùng súng cao xạ. Quyết định chỉ dùng súng được đưa ra sau khi chúng tôi nhận định rằng máy bay Mỹ sẽ trở lại và bay ở độ cao thấp – quá thấp nên tên lửa không phát huy tác dụng. Chúng tôi đã bắn cháy năm máy bay. Sau cuộc không kích đó, chúng tôi biết người Mỹ sẽ tiếp tục truy tìm các căn cứ tên lửa. Vì thế, chúng tôi đã làm những trận địa tên lửa giả toàn bằng tre. Chúng tôi thậm chí còn triển khai quân gần đấy để đánh lừa họ”. Sự bối rối của người Mỹ trước các trận địa tên lửa giả vài năm sau đã được tướng William W. Maimer, Phó Tư lệnh Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự của Mỹ tại Việt Nam về không quân (MACV), thừa nhận: “Số lượng các căn cứ tên lửa đất đối không (SAM) khá ổn định trong suốt một thời gian dài, khoảng 175 hay 200 căn cứ. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng con số này là một mối đe dọa thực sự bởi có thể nhiều căn cứ được xây dựng hôm nay nhưng hôm sau lại bỏ trống. Dù chúng tôi đã tăng cường do thám nhưng cũng rất khó để biết được có bao nhiêu căn cứ hoạt động thực sự”. Tên lửa SA-2 được chuyển đến Hà Nội nhiều tháng trước khi được triển khai thực sự vào tháng 7 dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia và kỹ thuật viên Liên Xô. Giới chuyên gia Xô viết nhận định người Việt Nam cần được đào tạo ít nhất một năm để có thể vận hành tốt loại tên lửa này. Tuy nhiên, nhóm người Việt Nam đầu tiên được Liên Xô đào tạo đã trở nên thành thạo rất nhanh. Những người này sau đó trở thành lực lượng hướng dẫn chuyên nghiệp cho các thế hệ vận hành tên lửa tương lai. “Phía Liên Xô bảo rằng chúng tôi cần một năm huấn luyện”, ông Văn kể. “Nhưng khi khóa đào tạo mới bắt đầu, chúng tôi sớm nhận ra rằng vận hành loại tên lửa này không quá khó. Mọi người dự tính chỉ cần bốn tháng để hoàn thiện các kỹ năng. Rốt cuộc chúng tôi chỉ mất có ba tháng”. Phía Liên Xô chỉ dạy người Việt Nam cách thức vận hành các dàn tên lửa chứ họ không trực tiếp tham gia chiến đấu. “Chuyên gia Liên Xô có mặt trong những lúc xảy ra chiến sự, nhưng họ luôn đứng cách xa trận địa tên lửa”, ông Văn chỉ rõ. “Họ giúp chúng tôi khắc phục bất cứ lỗi kỹ thuật nào xảy ra trong lúc chiến đấu nhưng không nhất thiết họ phải có mặt tại trận địa. Chúng tôi được họ giúp đỡ rất nhiều”. Sự xuất hiện của tên lửa SA-2 trong cuộc chiến đã khiến các phi công Mỹ đối mặt với nhiều hiểm nguy hơn. Một ước lượng trong thời kỳ đầu cho hay tỷ lệ chính xác của SA-2 là cứ 100 quả tên lửa được bắn đi thì có 61 máy bay rơi. (Tỷ lệ này một lần nữa lại không khớp với báo cáo của người Mỹ). Ông Văn kể về quá trình tuyển chọn kỹ thuật viên vận hành tên lửa SA-2: “Mỗi khi cần lập thêm một nhóm học viên vận hành tên lửa, chúng tôi lại chọn các chiến sĩ từ nhiều đơn vị - vận tải, pháo binh, v.v. Họ được tuyển dụng từ nhiều chuyên ngành khác nhau”. Điều này xuất phát từ niềm tin rằng mỗi người lính là một bộ phận của đội ngũ phòng không, bất kể người đó thuộc ngành nào, và họ cần được trang bị thêm kiến thức về chiến thuật không chiến của Mỹ. Việc bắt kịp năng lực và chiến thuật không quân của Mỹ là một thách thức thực sự cho những người làm công tác huấn luyện bên phía Việt Nam. “Người Mỹ có rất nhiều loại máy bay và vận dụng nhiều chiến thuật khác nhau”, ông Văn giải thích. “Họ liên tục thay đổi chiến thuật để khiến chúng tôi bối rối, vì thế chúng tôi cũng phải điều chỉnh cách đánh. Đôi khi chúng tôi điều chỉnh tầm cao; lúc khác lại điều chỉnh cách đánh chặn. Dù người Mỹ thay đổi như thế nào đi chăng nữa thì chúng tôi cũng có thể điều https://thuviensach.vn chỉnh cách đánh phù hợp. Trong vài trường hợp, người Mỹ không thay đổi gì bởi chiến thuật đang áp dụng đã khá hiệu quả. Chẳng hạn, chúng tôi đã từng bắn vào máy bay SR-71 nhưng chưa bao giờ thành công”. (SR-71 là một loại máy bay do thám của Mỹ đã phát huy hiệu quả cao trong hàng chục năm hoạt động. Tầm bay của nó rất cao, các loại tên lửa trong kho vũ khí của Hà Nội không thể với tới được). Trong ván cờ phòng không mà hai bên đã chơi, rất nhiều phương pháp và đối pháp đã được đưa vào áp dụng để giành lợi thế. Một đối pháp được áp dụng đó là đánh vào rađa hỗ trợ tên lửa SA-2. Sau khi quả tên lửa SA-2 được phóng đi, rađa mặt đất sẽ quyết định đường bay của nó. Rađa này phát ra xung điều khiển có tác dụng “lái” tên lửa tới mục tiêu. Cách thức này giúp tên lửa có độ chính xác cao nhưng đồng thời cũng tạo ra kẽ hở. Do dàn rađa mặt đất phải phát sóng để dẫn đường cho tên lửa nên phi công Mỹ đã triển khai một đối pháp hiệu quả. Thiết bị điện tử đặc biệt gắn trên máy bay cho phép phi công phát hiện được các xung điều khiển ngay khi nó vừa được phát ra từ mặt đất, từ đó có thể dò tìm đến dàn rađa. Có thể vào thời điểm máy bay dò ra nơi đặt rađa thì tên lửa đất đối không đã được bắn đi, nhưng nếu phi công thành công trong việc phá hủy rađa trước khi tên lửa bay tới mục tiêu thì cũng có thể khiến quả SA-2 vừa được phóng ra ấy “bị mù” – biến một quả tên lửa đang được điều khiển thành một viên đạn không được điều khiển. Do rađa và dàn tên lửa SA-2 thường được đặt chung một chỗ, phi công có thể phá hủy cả hai cùng lúc. Trong hoàn cảnh ấy, người đi săn – tức dàn tên lửa – đã trở thành kẻ bị săn tìm. Sau khi bị mất nhiều dàn SA-2, người Việt Nam bắt đầu nhận diện được chiến thuật mà phía Mỹ đang áp dụng. Từ đó, họ đã đưa ra đối pháp của mình để triệt phá chiến thuật của Mỹ. Với việc người Mỹ lợi dụng các xung điều khiển của rađa đối phương đê phát hiện mục tiêu, phía Việt Nam thấy rằng muốn chống lại đối pháp đó thì họ phải triệt tiêu lợi thế của kẻ thù. Nhưng nếu không sử dụng xung điều khiển, tên lửa phòng không sẽ bị mù. Làm thế nào để các xung điều khiển không bị người Mỹ lợi dụng mà vẫn có thể dẫn đường tên lửa SA-2 tới mục tiêu? Và người ta đã đi đến quyết định rằng, thay vì cho rađa phóng xung điều khiển đồng thời với việc phóng tên lửa, vốn có thể giúp phi công có thời gian tối đa để định vị và tấn công căn cứ rađa, những người vận hành có thể phóng tên lửa trước mà không phát xung điều khiển – tức là phóng tên lửa theo hình thức phi điều khiển. Sau khi quả SA-2 đạt được một độ cao nhất định nào đó thì người vận hành mới bật rađa, cho phát ra xung điều khiển, qua đó biến một quả đạn “mù” thành một tên lửa có điều khiển. Thường thì chỉ đến chặng cuối hành trình của tên lửa, người vận hành mới bắt đầu phát xung điều khiển dẫn nó tới mục tiêu. Cách thức này không giúp dẫn đường tên lửa trong chặng đầu nhưng nó lại điều khiển ở giai đoạn quan trọng nhất – khi tên lửa tiếp cận mục tiêu. Bằng cách ấy, nó khiến phi công Mỹ không có đủ thời gian để định vị nơi phát ra xung điều khiển để từ đó tiêu diệt mục tiêu. Người Việt Nam còn triển khai nhiều phương pháp khác. “Rất nhiều lần người Mỹ tìm cách gây nhiễu hệ thống rađa tên lửa của chúng tôi”, ông Văn cho biết. “Khi họ làm vậy, chúng tôi quyết định không sử dụng rađa SA-2 nữa mà dùng loại khác, chẳng hạn rađa dùng cho súng phòng không. Chúng tôi biết rằng người Mỹ không có khả năng gây nhiễu đồng thời tất cả các loại rađa khác nhau. Việc phát triển các chiến thuật để đối phó với sự vượt trội về công nghệ của họ là một nhiệm vụ thường trực. Rốt cuộc, ngay cả Liên Xô cũng phải học những chiến thuật này của chúng tôi. Về mặt công nghệ, người Liên Xô là thầy của chúng tôi; nhưng về mặt thủ thuật, chúng tôi là thầy của họ”. Người Việt Nam biết rõ rằng nỗ lực phòng không của họ có thể thu được thành công nhờ vào việc nắm bắt chiến thuật của phi công Mỹ. “Người Mỹ thường xuyên sử dụng một chiến thuật đặc biệt”, ông Văn kể. “Máy bay của họ cất cánh từ tàu sân bay, sau đó bay dọc bờ biển, tìm đến một cửa sông lớn rồi theo dòng sông xâm nhập vào đất liền, khi bay trên mặt nước họ thường hạ độ cao tới mức thấp nhất. Thế là chúng tôi bố trí các đơn vị phòng không trong một cự ly đủ gần để có thể bắn thẳng vào vùng máy bay bay trên mặt sông. Đơn vị phòng không của chúng tôi đóng bên cạnh khu dân cư địa phương, thường là nằm cả hai bên bờ sông. Người dân địa phương cũng dùng súng trường để bắn máy bay. Trong vòng một năm, một trung đội phòng không đã bắn rơi hai máy bay”. Ngay cả dân thường cũng tìm hiểu chiến thuật không quân của Mỹ. Đại tá Lê Thành Chơn, một sĩ quan https://thuviensach.vn không quân Bắc Việt phụ trách dẫn đường và nghiên cứu chiến thuật của quân Mỹ, kể lại: “Chúng tôi áp dụng rất nhiều phương pháp để chống người Mỹ. Có khi chúng tôi lập một điểm phòng không trên cầu hoặc trên mái nhà. Đến lúc người Mỹ sử dụng nhiều máy bay F-111, người dân đã quan sát chiến thuật và hành trình của loại máy bay này. Khi có tin báo máy bay đang đến, họ chốt tại các gò đất cao ngay bên dưới đường bay để bắn. Phương cách này đã thu được kết quả với việc người dân dùng vũ khí nhỏ bắn hạ được một chiếc F-111”. Một người đặc biệt am tường hệ thống phòng không của Hà Nội là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. “Chúng tôi chiến đấu phòng không với quyết tâm, trí thông minh và tính sáng tạo cao”, Đại tướng giải thích. Những phẩm chất này, theo ông, được thể hiện rõ nhất trong nỗ lực bắn hạ máy bay B-52 vốn bay rất cao. “Làm sao để bắn B-52”, ông phân tích. “Vẫn là nhờ vào quyết tâm, trí thông minh và sáng tạo… Đó thực sự là thách thức lớn. Loại máy bay này có thiết bị gây nhiễu sóng, làm giảm khả năng chiến đấu của chúng tôi. Nhưng chúng tôi đã thích ứng với điều đó. Đôi khi phải mất mười một quả tên lửa mới bắn được một chiếc máy bay; nhưng lúc khác chúng tôi thành công với chỉ hai quả tên lửa. Đó chính là lòng can đảm và trí thông minh – trí thông minh xuất phát từ cấp chỉ huy cao nhất cũng như những đơn vị ở chiến trường – và thậm chí đôi khi nó xuất phát từ một người. Chúng tôi khẳng định rằng đây là cuộc chiến toàn dân”. Việc B-52 ném bom Hà Nội đã khiến nhiều dân thường phải sơ tán. Người con trai của ông Giáp nằm trong số đó. Vị đại tướng đã chia sẻ câu chuyện về việc người con trai của mình, sau khi được sơ tán khỏi thành phố để đảm bảo an toàn, đã bắt gặp một chiếc B-52 rơi. Lục lọi trong đống xác máy bay, người con trai tướng Giáp tìm thấy một số vật dụng và sau đó mang về cho cha ở Hà Nội. “Con trai tôi mang về hai bộ tài liệu”, ông Giáp nói. “Một tập rất dày, của Bộ Quốc phòng, trên bìa có dòng chữ in ‘Lưu hành nội bộ, không được đưa ra khỏi Bộ Quốc phòng’. Khi nhận được tài liệu này, tôi liền viết thêm ở bên dưới: ‘Ngoại trừ Bộ Quốc phòng Việt Nam’. Tài liệu thứ hai rất dài và trong đó có các mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy Không quân. Mệnh lệnh chỉ đạo đánh phá các cơ sở phòng không, cả thật lẫn giả, cùng nhiều mục tiêu khác ở trong và xung quanh Hà Nội. Phi công được lệnh rút lui an toàn sau khi hoàn tất nhiệm vụ. Nhưng tôi đã thêm vào rằng các phi công không thể rút lui an toàn – thay vào đó họ phải tới Hà Nội Hilton”. Vị đại tướng kể một câu chuyện để chứng minh cho trường hợp “chỉ một người” cũng có thể hạ máy bay. “Khi mới bắt đầu bắn phá miền Bắc, Không quân Mỹ sử dụng chiến thuật bay thấp. Ban đầu chúng tôi gặp khó khăn. Có lần tôi đã tới gần vĩ tuyến 17 để gặp những người bắn rơi máy bay bằng súng trường hoặc súng máy. Trong nhóm đó có một nữ sinh mười tám tuổi. Cô ấy kể ngày nào cũng quan sát máy bay và cô đã nhận ra rằng những chiếc máy bay khi tới một điểm giữa hai ngọn núi liền hạ tới một độ cao nào đó. Cô liền chọn một điểm thích hợp và đợi khi máy bay hạ xuống độ cao đó thì nổ súng bắn rơi. Cô ấy bảo rằng đó là một quy luật đơn giản. Tôi nói rằng cô ấy là một nhà triết học thực thụ - vì nhà triết học luôn biết các quy luật. Sau đó tôi đã kể câu chuyện ấy với Chủ tịch Hồ Chí Minh”. *** Đại tá Chơn cũng kể lại một trong những trường hợp làm rơi máy bay Mỹ đáng kinh ngạc nhất trong cuộc chiến – sự kiện mà người ta chẳng cần bắn một viên đạn nào cả. “Chúng tôi triển khai chiến thuật sử dụng khí cầu cho hệ thống phòng không”, ông Chơn cho hay. Những chiếc khí cầu này có đường kính từ hai tới bốn mét, được làm bằng cao su và bơm loại khí nhẹ hơn không khí. Chúng tôi thả hàng ngàn khí cầu tại một số điểm nhất định, ở độ cao khác nhau, từ 180 đến 200 mét, với dây nối xuống đất để giữ ổn định. Địa điểm được chọn để triển khai khí cầu là những nơi được dự đoán nằm trong không trình hoạt động của phi công Mỹ, hoặc nơi mà người Việt Nam muốn dụ đối phương tới. Trong trường hợp sau, khí cầu được sử dụng ban ngày. Chúng được sắp xếp để buộc phi công Mỹ khi sử dụng chiến thuật tiếp cận thấp phải bay theo một lối khác so với dự định. Khi tiến vào khu vực này, phi công sẽ gặp quá nhiều khí cầu nên không thể bắn rơi hết được. Vì thế anh ta buộc phải lượn máy bay lên https://thuviensach.vn một hành lang duy nhất không có khí cầu – là một lối đi mà những người dưới mặt đất đã tính toán kỹ. Hành lang bay này sẽ dẫn phi công tới đúng khu vực nơi pháo cao xạ và tên lửa phòng không đang đợi sẵn. Người ta còn thả khí cầu ở những nơi phi công Mỹ thường sử dụng chiến thuật tiếp cận thấp đối với một số mục tiêu cụ thể. Ở những nơi này, nhiều khí cầu được thả lên trời để ngăn đường tiếp cận của phi công. Người ta thả khí cầu vào ban đêm với mục đích tạo ra một khu vực nguy hiểm ngay trong đường bay của những chiếc máy bay tốc độ cao. Một khi máy bay tới quá gần, quả khí cầu có thể bị cuốn vào trong động cơ phản lực, khiến máy bay rơi. Theo ông Chơn, chiến thuật này đã thành công ít nhất một lần vào năm 1967, trên bầu trời thị trấn Phủ Lý ở tỉnh Hà Nam, nằm về phía Nam Hà Nội trên vùng đồng bằng sông Hồng. “Chúng tôi bố trí khí cầu để tạo ra một vùng bao phủ khá dài”, ông Chơn mô tả. “Ban đêm chúng tôi thả khí cầu lên và đến sáng thì kéo xuống. Quả khí cầu cao nhất nằm ở độ cao khoảng 200 mét, thấp nhất là 50 mét. Cự ly giữa các quả cầu không quá 50 mét. Đêm nọ, có một chiếc A-6 của Mỹ bay vào vùng trời này và một quả khí cầu bị cuốn vào động cơ. Máy bay rơi. Chiến thuật này chỉ thành công một lần bởi sau đó các phi công đã tìm cách tiếp cận ở tầm cao hơn”. Ông Chơn nói rằng chiếc máy bay đó bay quá thấp nên phi công không kịp nhảy ra. “Chúng tôi sử dụng tất cả các chiến thuật khả dĩ để chống Mỹ”, ông Chơn giải thích. “Trong trường hợp này, do chúng tôi lặp đi lặp lại một chiến thuật nên người Mỹ đã biết đường tránh”. Khi tiến hành nghiên cứu, ban đầu người ta đã định đặt thuốc nổ vào khí cầu. Tuy nhiên, phương pháp này đã không được áp dụng. Chiến thuật sử dụng khí cầu rốt cuộc đã bị bỏ, xuất phát từ một quyết định ngoài mong đợi. “Một anh lính phụ trách việc thả khí cầu vào ban đêm và kéo xuống vào buổi sáng rốt cuộc đã nản”, ông Chơn giải thích. “Anh ta cảm thấy rằng tất cả những việc mình làm chẳng đem lại kết quả gì nhiều. Cho đến cuối năm 1967, đơn vị của anh ta đã góp phần bảo vệ nhà máy điện Yên Phụ bằng cách thả bóng ngăn những chiếc A-4 bay thấp, mang bom từ Hàng không mẫu hạm vào đánh nhà máy điện duy nhất của Hà Nội”. Rốt cuộc nhà máy điện cũng bị trúng bom. Nhưng ông Chơn khẳng định nhà máy điện chỉ mất điện có 6 giờ và nó vẫn bảo đảm điện cho Thủ đô suốt cuộc chiến tranh. Ông Văn rất tự hào về việc đất nước ông, dù thiếu công nghệ, vẫn đạt được thành công trong nỗ lực phòng không trước một siêu cường thế giới. “Người Việt Nam từng có một lịch sử chiến tranh rất lâu dài”, ông diễn giải. “Vì thế, chúng tôi có nhiều kinh nghiệm. Chiến đấu hàng chục năm chống người Nhật Bản và người Pháp, rồi sau đó là người Mỹ nên đối với chúng tôi đó như là một lẽ thường. Người ngoài cuộc sẽ khó mà hiểu được làm sao chúng tôi có thể hoàn thành những sứ mệnh ấy”. • KHÔNG CHIẾN TRÊN BẦU TRỜI NỘI BÀI Ông Lê Thành Chơn luôn tỏ ra rất tự tin. Sau khi đã trải qua hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ, có lẽ ông có quyền tự tin như thế. Sinh năm 1942, ông gia nhập Việt Minh từ năm mười hai tuổi. Những bạo tàn mà quân Pháp giáng xuống đầu người dân đã nung nấu trong Chơn quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước mình. Từng tham gia công tác trinh sát, ông Chơn nhớ lại lần đầu tiên chứng kiến trực tiếp hành động dã man của quân Pháp mà không thể làm gì được do sợ lộ bí mật đơn vị: “Có lần, lính lê dương Pháp trói dựng đứng một phụ nữ Việt Nam rồi mổ bụng bà để moi gan. Lần khác, tôi thấy lính Pháp đá dồn dập vào một phụ nữ mang thai”. Sau khi quân Pháp thất trận, Chơn ra Hà Nội, để lại một người mẹ và hai em gái ở miền Nam. Sự dịch chuyển này đã dẫn đến những ngã rẽ trong gia đình nhiều năm về sau, tương tự như thời Nội chiến Mỹ, khi anh em ruột chiến đấu cho chính quyền miền Nam còn bản thân Chơn phục vụ miền Bắc. “Nhiều gia đình có con cái ở hai chiến tuyến”, ông Chơn giải thích. “Sự khác biệt ở đây là, trong khi tại miền Bắc, chúng https://thuviensach.vn tôi chiến đấu cho lý tưởng thì tại miền Nam, người ta bị ép phải đi lính”. Năm 1958, Chơn vào Trường Không quân ở Cát Bi, Hải Phòng, học lái YAK-18 (cùng với phi công huấn luyện). Đầu năm 1962, ông được gửi sang Trung Quốc học ba năm về điều hành bay và kỹ thuật chiến đấu hiện đại. Đối với Chơn, đó là khoảng thời gian lãng phí. “Trên thực tế, khi trở về Việt Nam, tôi không thể sử dụng các kỹ thuật của Trung Quốc để chống người Mỹ”, ông nhớ lại. “Chương trình huấn luyện không chiến của Trug Quốc dựa vào những kinh nghiệm chống Mỹ mà họ có được thời chiến tranh Triều Tiên. Tuy nhiên, thời chiến tranh Triều Tiên thì Mỹ làm gì có công nghệ máy bay tân tiến như tại Việt Nam”. Một trong những khác biệt nữa đó là, trong chiến tranh Triều Tiên, cuộc chiến trên không là sự đối đầu giữa các lực lượng không quân cân bằng, trong khi tại chiến tranh Việt Nam, quân Bắc Việt ít máy bay hơn nhiều so với Mỹ. Ông Chơn cũng chê phi công Liên Xô. Ông cho biết khi máy bay Mỹ sắp oanh kích Hà Nội, các cố vấn Liên Xô tỏ ra rất lo lắng. Chơn rất ngạc nhiên khi những phi công không tham chiến này tỏ ra lo sợ, bởi lâu nay ông thường tin rằng người Liên Xô được huấn luyện rất kỹ về điều đó. Mới làm quan sát viên mà đã hồi hộp rồi thì không biết khi trở thành phi công đánh trận sẽ thế nào, Chơn băn khoăn. Được các đồng minh đào tạo phi công, nhưng chính người Việt Nam đã tự phát triển các chiến thuật đánh Mỹ. Ông Chơn, lúc bấy giờ mới là thiếu tá không quân, dành nhiều thời gian để tìm hiểu chiến thuật của Mỹ và sáng tạo ra các đối pháp. Ông tin rằng chìa khóa thành công trong việc đối đầu với người Mỹ chính là khả năng triển khai đấu pháp “bất kỳ khi nào chúng tôi muốn” chứ không để người Mỹ làm chủ thế trận. Ông đã trở thành một sĩ quan dẫn đường trong chiến thuật không chiến. Ông Chơn thừa nhận việc không quân miền Bắc tổn thất nặng nề trong thời kỳ đầu “là do phi công được huấn luyện theo cách đánh của người Trung Quốc; nhưng rồi chúng tôi bắt đầu sử dụng chiến thuật của chính mình”. Chấp nhận đối mặt với cả sự vượt trội về công nghệ lẫn khả năng triển khai quân nhanh chóng của Không lực Mỹ, phi công Việt Nam tập trung áp dụng các chiến thuật vốn đã thu được thành công trên mặt đất – “chiến thuật đánh chớp nhoáng”. Ông Chơn cho biết các phi công được dạy, nếu có thể thì nên tránh lộ diện khi gặp quân địch vượt trội về số lượng, hãy chờ đến lúc được chuẩn bị kỹ càng khả năng chiến đấu cũng như tận dụng yếu tố khách quan để chiếm lợi thế. Phi công được huấn luyện tận dụng các yếu tố như mây, mặt trời, thậm chí núi non trong trường hợp bay thấp. Ông Chơn nói rằng việc triển khai thành công các chiến thuật này đã dẫn tới chiến thắng vào tháng 9 năm 1966 trong cuộc đụng đầu với máy bay Mỹ. *** Tháng 9 năm 1966, một nhóm máy bay gồm mười hai chiếc F-105 của Không quân Mỹ định tấn công hai chiếc MIG-17 đóng ở sân bay Nội Bài gần Hà Nội. Nhưng có một điều người Mỹ không hề biết, đó là hai chiếc máy bay mục tiêu kia đã được chuyển đến một căn cứ không quân khác ở Hà Bắc trước khi quân Mỹ dự định oanh kích. Khi tiến tới bầu trời Nội Bài, phi đội máy bay Mỹ tách ra ba tốp, mỗi tốp bốn chiếc. Có hai ngọn núi nằm ở phía Bắc sân bay; chếch về hướng Tây Bắc là núi Tản Viên cao 893 mét; về hướng Đông Bắc là Tam Đảo cao 1.020 mét. Hai ngọn núi này cách nhau chừng 40 cây số. Một tốp máy bay Mỹ tiếp cận sân bay Nội Bài từ hướng Tây Nam ở độ cao 1.500 mét. Một tốp khác, lợi dụng ngọn núi Tản Viên để tránh bị phát hiện, tiếp cận mục tiêu từ phía Đông Bắc của ngọn núi ở độ cao 600 mét. Tốp thứ ba lợi dụng Tam Đảo làm lợi thế để tiếp cận mục tiêu từ hướng Tây Bắc ở độ cao 500 mét. Khi toàn bộ máy bay Mỹ tập trung vào sân bay Nội Bài, hai chiếc MIG bốc lên từ sân bay ở Hà Bắc để thực hiện một cú đánh bất ngờ nhằm vào tốp F-105 thứ ba. Chúng tiếp cận tốp thứ ba từ hướng Đông Nam dãy Tam Đảo. Khi đang đột kích từ phía sau lưng mục tiêu thì những chiếc MIG bị phát hiện. Tốp F-105 liền thả thùng xăng phụ để đón đánh hai chiếc MIG. Nhưng, theo ông Chơn, khi các chiếc F-105 kịp xoay xở thì chiếc MIG thứ nhất đã ở phía trên lưng tốp thứ ba rồi. Đạn của chiếc MIG bắn trúng một máy bay Mỹ, buộc phi công phải nhảy dù. https://thuviensach.vn Tương tự, chiếc MIG thứ hai đưa một chiếc F-105 vào tầm ngắm. Nó cũng lập tức ghi điểm khi chiếc máy bay Mỹ thứ hai bị bắn rơi. Hai chiếc MIG phóng vù đi ngay tức thì. Cả hai viên phi công Mỹ đều bị bắt sống trên mặt đất. (Ông Chơn cho biết một trong hai phi công là Thiếu tá Jim Cutler; người còn lại chỉ được biết qua cái tên “Damon”). Ông Chơn nói rằng thành công này là nhờ vào khả năng làm mất thế chủ động của phi công Mỹ, buộc người Mỹ phải đối đầu với những chiếc MIG một cách thụ động. https://thuviensach.vn Phần 6. Mất Tích Trên Chiến Trường Có lẽ không vấn đề nào liên quan đến chiến tranh Việt Nam lại khơi gợi nhiều xúc cảm bằng câu chuyện về những người vẫn còn bị coi là mất tích trong khi làm nhiệm vụ (Missing In Action – MIA). Hầu hết người Mỹ đều biết rõ về MIA, nhưng chủ yếu là những mất mát bên phía mình. Họ hầu như không hề biết về vấn đề MIA bên phía Việt Nam – kể cả những nỗ lực của chính quyền Hà Nội trong việc giải quyết các trường hợp MIA của Mỹ lẫn những tác động của nó đối với người Việt Nam, và rộng hơn, toàn bộ vấn đề MIA. Loạt chuyện sau đây tập trung vào phương diện này. Các cựu chiến binh Việt Nam hiểu rất rõ về vấn đề MIA của Mỹ - một số người thậm chí còn biết rõ trường hợp thương vong và mất tích đầu tiên của lính Mỹ là vào ngày tháng nào. Vì thế, kèm theo sau đây là câu chuyện về trường hợp mất tích đầu tiên của lính Mỹ và lời cảnh báo ít được quan tâm mà người này đã gửi tới thượng cấp trước ngày định mệnh. • ĐẠI BÀNG GÃY CÁNH Là phóng viên chiến trường, ông Trần Công Tấn đã chứng kiến nhiều khía cạnh của cuộc chiến tranh. Từ Hà Nội ở miền Bắc tới Đồng Hới và Nhân Trạch ở miền Trung, ông đã ghi chép lại các chuyến đi và những quan sát của mình trong hàng chục cuốn nhật ký chiến tranh. Ông đặc biệt quan tâm tới các trận không kích và phi công của những máy bay bị bắn rơi. Đôi khi, theo các trang nhật ký tiết lộ, những phi công đó sống sót và bị bắt; nhưng đôi khi họ lại thiệt mạng. Rút một cuốn nhật ký ra, ông Tấn đưa lên mũi ngửi và nhăn mặt: “Nó vẫn còn mùi khói lửa” – nhiều thập niên sau khi ra đời, những trang nhật ký ấy vẫn còn phảng phất mùi vị của chiến tranh. *** Một mục nhật ký ghi lại cuộc không kích do mười hai chiếc F-105 thực hiện vào tuần đầu tiên của tháng 2 năm 1965 ở Đồng Hới, một thị trấn với chừng 50.000 người. Một số mục tiêu quân sự bị trúng bom, nhiều nhà cửa và khu chợ của thị trấn cũng bị tàn phá. Một chiếc F-105 bị trúng đạn cao xạ và người phi công buộc phải nhảy ra. Chiếc máy bay đâm chúi xuống đất chỉ cách trận địa pháo 700 mét. Bộ đội ngay lập tức tỏa ra bắt phi công. Viên phi công là Thiếu tá Robert H. Schumaker. Anh này nói được tiếng Pháp, nên những người nói được tiếng Pháp lập tức tới thẩm vấn. Nhưng rồi cuộc tra hỏi đã bị gián đoạn khi dân làng giận dữ vây quanh viên phi công. Sợ rằng không thể kìm giữ được dân làng, những người bắt giữ đã nhanh chóng chuyển tù binh đi nơi khác. (Hồ sơ của Bộ Quốc phòng Mỹ cho hay Robert H. Schumaker được trả tự do cùng các tù nhân khác vào năm 1973.). *** Nhật ký của Tấn còn đề cập tới một phi công trẻ người Mỹ nữa; anh này kém may mắn hơn. Sau khi Schumaker bị bắt, một nhóm năm máy bay của Hải quân Mỹ, trong đó có chiếc do Trung úy Edward Andrew Dickson lái, tấn công một phi trường gần Đồng Hới. Theo ông Tấn, tốp máy bay lướt qua trên đầu những chiếc thuyền gần bờ trên đường tiếp cận mục tiêu. Sau khi hoàn tất vụ không kích, máy bay trở ra biển, xả súng xuống đoàn thuyền. Máy bay bay rất thấp, cách mặt biển chỉ chừng 50 mét. Ở độ cao như vậy, chúng trở thành mục tiêu của lưới lửa bủa ra từ các trận địa cao xạ trên bờ cũng như súng trường trên thuyền. Máy bay của Dickson trúng đạn. Nó loạng choạng rồi đâm xuống biển. Trước khi máy bay biến mất, một chiếc dù bung ra. Đoàn thuyền liền vào cuộc truy tìm viên phi công nhưng không thấy. Vài ngày sau, ngư dân làng Nhân Trạch, tỉnh Quảng Bình, phát hiện ra một điều rùng rợn. Xác một viên phi công Mỹ dạt lên bờ, trên người vẫn còn đính chặt chiếc dù. Theo quan sát lúc đó thì người này bị https://thuviensach.vn thương nặng khi bật ra khỏi máy bay và các vết thương đã giết chết anh ta. Thi thể người này không còn nguyên vẹn do quá trình phân hủy xảy ra nhanh chống trong điều kiện nắng nóng, sóng biển mạnh cùng với sự tấn công của sinh vật biển. Người ta tìm thấy nhiều vật dụng trên người viên phi công, trong đó có một khẩu súng ngắn, tiền Mỹ, hình ảnh gia đình, một chiếc đồng hồ, một lá cờ Mỹ nho nhỏ, một thẻ quân nhân và một mảnh kim loại khắc thông tin nhân thân. Mặt sau lá cờ Mỹ có một thông điệp được viết bằng nhiều thứ tiếng: “Tôi là một người Mỹ. Hãy giúp tôi thức ăn và nơi ở. Hãy giúp đưa tôi trở về nước Mỹ. Chính phủ chúng tôi sẽ tưởng thưởng cho quý vị”. (Đây là một thông điệp được các phi công Mỹ mang theo bên mình để có thể cầu cứu sự giúp đỡ từ dân thường trong trường hợp máy bay bị bắn rơi). Ông Tấn đã phác họa hình viên phi công trong cuốn nhật ký của mình. Từ thẻ quân nhân người chết, ông ghi lại những thông tin sau: “Tên: Edward A. Dickson Số: 9520447 Cấp bậc: Trung úy, Hải quân Mỹ Ngày sinh: 3 tháng 9 năm 1937 Nhóm máu: A” Người ta đào một hố sâu hai mét gần một cây dừa trên bãi biển, cách nơi người chết dạt vào chừng năm mươi mét để an táng. Ông Tấn quan sát dân làng khiêng thi thể từ bờ biển, đặt xuống huyệt chôn rồi đánh dấu bằng một tấm bia gỗ khắc tên Dickson. Bà Nay, một người dân địa phương có chồng chết trong cuộc chiến chống Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, cắm hương lên ngôi mộ. Trang nhật ký cho biết vừa cắm hương, bà vừa cầu nguyện cho người lính trẻ nước Mỹ phải nằm xuống ở một nơi rất xa quê nhà: “Cầu cho hương hồn chú được trở về với gia đình bên Mỹ”. Hồi đó tôi đã tìm hiểu tại văn phòng phụ trách quân nhân mất tích (MIA) ở Hà Nội và câu trả lời là Dickson vẫn còn nằm trong danh sách MIA. Khi được hỏi về những thông tin chi tiết liên quan tới nơi chôn cất, Tấn bảo rằng ông nhớ rất rõ bởi nơi đó có những đặc điểm rất dễ nhận ra. Ông phác họa một sơ đồ về bãi biển Nhân Trạch. Ông nói địa điểm này rất dễ nhận ra bởi có một con lạch chạy xuyên qua giữa bãi biển tạo thành một bán đảo nhỏ. Hồi đó cây dừa nơi Dickson được chôn cao chừng năm mươi thước. Tôi đã thử đối chiếu bản miêu tả của Tấn với một bản đồ quân sự thì thấy ông đã chỉ chính xác. Một con lạch, tạo nên bán đảo nhỏ như đã nói, được thể hiện rõ ràng trong một bản đồ cũ. Khi đi dọc Quốc lộ 1 từ Sài Gòn ra Hà Nội sau lần phỏng vẫn ông Tấn – người lái xe đã dẫn tôi tới Nhân Trạch – và tôi quyết định tìm kiếm xem có nhận ra được nơi chôn cất hay không. Nỗ lực thất bại. Khi tôi tới nơi, người trưởng thôn ở đó bảo rằng cần phải xin phép chính quyền Hà Nội mới có thể thực hiện việc tìm kiếm. Vị trưởng thông còn cho biết Đội tìm kiếm quân nhân mất tích Mỹ đã tới Nhân Trạch trước đó ba tháng sau khi nhận được thông tin về việc một phi công Mỹ từng được chôn cất tại bãi biển này nhưng rốt cuộc chẳng tìm thấy gì cả. Thời gian đã xóa đi mọi dấu vết của ngôi mộ. Đến Hà Nội vào ngày 19 tháng 6 năm 1995, tôi liên hệ với văn phòng MIA của Mỹ để thông báo về trang nhật ký của ông Tấn, trong đó có kể việc chôn cất Trung úy Dickson. Như người trưởng thôn đã kể và văn phòng MIA tái khẳng định, tổ tìm kiếm đã tới Nhân Trạch nhưng chẳng thể tìm thấy mộ Dickson. Dù thế, thông tin của ông Tấn trở thành bằng chứng đầu tiên về vụ chôn cất. Văn phòng MIA nói rằng họ sẽ liên hệ với Tấn để hỏi xem liệu ông có thể giúp họ thực hiện một cuộc tìm kiếm nữa hay không. Vài ngày sau, tôi ghé thăm Phòng lưu trữ của quân đội ở Hà Nội để xem hình ảnh chiến trường trong Chiến tranh Việt Nam. Căn phòng chứa hàng ngàn bộ ảnh chiến trường được chụp thời chiến tranh. Không thể kiểm tra hết tất cả các tập ảnh, tôi nhờ người phụ trách chọn hai bộ ảnh để xem. Bà ấy mang đến hai tập ảnh đặt xuống trước mặt tôi. Khi vừa mở xem bộ đầu tiên, một tấm hình đặc biệt đập vào mắt tôi. Trong hình, một nhóm dân làng Việt Nam đang đứng trên bãi biển kiểm tra thi thể một phi công Mỹ nằm trên cát https://thuviensach.vn