🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cha tôi tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ - George W. Bush
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
Lời giới thiệu
Lời mở đầu
Sự khởi đầu
Chiến tranh
Đi về miền Tây
Dấn thân vào con đường chính trị
Người đàn ông của gia đình - Nghị sĩ trong Hạ Viện Làm việc trong ngành ngoại giao
Người đứng thứ hai
Trong khoảnh khắc một nhịp tim
Đường tới nhà trắng
Tổng thống thứ 41
Những năm tháng khó khăn nhất
Cuộc sống sau nhiệm kỳ tổng thống
Lời cảm ơn
LỜI GIỚI THIỆU
B
ạn đọc đang cầm trên tay cuốn sách Cha tôi - Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ của tác giả George W. Bush do Nhà xuất bản Lao Động và Công ty sách Bách Việt liên kết ấn hành. Cuốn sách viết về George H. W. Bush - Tổng thống đầu tiên của dòng họ Bush có tầm ảnh hưởng sâu sắc trong cuộc đời và sự nghiệp của George W. Bush cũng như những thành viên còn lại trong gia đình. Đối với cha mình, George W. Bush luôn giữ một niềm tôn kính tuyệt đối. Ý định viết về cha mình nảy sinh từ lời gợi ý của phu nhân Dorie McCullogh Lawson “Vì mục đích lịch sử, tôi nghĩ ngài nên viết một cuốn sách về cha mình”, nhưng George W. Bush không tham vọng viết nên một cuốn sách nổi tiếng để nói về những thành công trên thương trường cũng như những năm tháng cha ông tại nhiệm.
Cha tôi - Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ kể về cuộc sống đời thường của George H. W. Bush với vị trí một người con, một người chồng, một người cha, một người ông trong gia đình. Với những câu chuyện bình dị, chân thật, George W. Bush đã vẽ lên bức chân dung của cha mình với tình cảm trìu mến qua cái cách ông yêu thương, dạy bảo, truyền cảm hứng cho các con những phẩm chất cao quý được gìn giữ để làm nên thành công của gia tộc Bush. Đó là học cách để trở nên độc lập, làm việc chăm chỉ, và để kết bạn. Đó là sự sẻ chia, sự tận tâm phục vụ cộng đồng.
Cha tôi - Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ đúng như George W. Bush nói, “là một cuốn truyện tình - chân dung về một cá nhân phi thường, người mà tôi được ban phước lành để gọi là Cha”. Tuy nhiên đây là cuốn sách của G. W. Bush viết về cha mình nên chắc chắn không tránh khỏi có những nhận định và đánh giá mang tính chủ quan, từ một phía, đặc biệt là những vấn đề về chính trị và quan hệ ngoại giao của nhiều nước trên thế giới. Chúng tôi coi đây là một tài liệu tham khảo, nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của đông đảo độc giả hiện nay.
Xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc.
George W. Bush
LỜI MỞ ĐẦU
V
ài tháng sau khi chúng tôi rời Nhà Trắng, Laura và tôi đã mời Tim Lawson cùng Phu nhân Dorie McCullogh Lawson đến trang trại của chúng tôi tại Crawford, bang Texas. Tôi đã nhờ Tim - một họa sĩ thực thụ, chứ không phải một người nghiệp dư như tôi - vẽ cảnh quan một số địa điểm mà chúng tôi yêu thích. Khi Tim quan sát các thảo nguyên rộng lớn và những gốc sồi sống trên mảnh đất màu mỡ thì Dorie và tôi nói chuyện về thân phụ của bà, ông David Mc Cullough. Tôi đã nói với bà ấy rằng được gặp thân phụ của bà là một điều đặc biệt trong nhiệm kỳ tổng thống của tôi, ông là một nhà sử học uyên bác và đã được nhận giải Pulitzer cho cuốn tiểu sử về Tổng thống John Adams.
Sau khi cung cấp cho tôi một số thông tin về sức khỏe và công việc của thân phụ, Dorie nói rằng, “Ngài nên biết rằng điều mà cha tôi cảm thấy đáng tiếc nhất khi nghiên cứu về John Adams đó là không hề có ghi chép cụ thể nào về ông, bởi con trai ông là John Quincy Adams”.
Dĩ nhiên bà ấy biết sự tương đồng giữa tôi và John Quincy: Chúng tôi đều là con trai của hai vị tổng thống và đều trở thành tổng thống. “Vì mục đích lịch sử”, bà ấy nói, “Tôi nghĩ ngài nên viết một cuốn sách về cha mình”.
Tại thời điểm này, tôi đang hoàn thành hồi ký về nhiệm kỳ tổng thống của mình. Nhưng ý tưởng của Dorie gieo một hạt giống. Cuối
cùng, nó đã đâm chồi nảy lộc thành cuốn sách này.
Nhiều năm qua đi, tôi đồ rằng sẽ có rất nhiều sách phân tích về Geore Herbert Walker Bush, về con người và nhiệm kỳ tổng thống của ông. Nhiều cuốn trong đó có thể theo chiều hướng khách quan. Nhưng cuốn sách này thì không. Đây là một cuốn truyện tình - chân dung về một cá nhân phi thường, người mà tôi được ban phước lành để gọi là Cha. Tôi không có ý định sẽ miêu tả toàn bộ các khía cạnh trong cuộc sống của ông hoặc những năm ông tại nhiệm. Tôi thật sự hy vọng sẽ thể hiện được lý do tại sao George H.W. Bush thật sự là một vị tổng thống tuyệt vời và là một người cha còn tuyệt vời hơn nữa.
Tôi gửi tình yêu vào cuốn sách này. Tôi hy vọng rằng các bạn sẽ thấy thú vị khi đọc nó.
SỰ KHỞI ĐẦU
C
uối Jean tháng Becker, 5 năm một 2014, đầu bếp tôi đã lâu nhận năm của được cha cuộc tôi. gọi Bà từ đi thẳng vào vấn đề. “Cha anh muốn nhảy dù vào dịp sinh nhật lần thứ 90 của ông ấy. Anh nghĩ sao?”
Khoảng mười tám tháng trước, Jean đã gọi điện để kiểm tra việc sắp xếp tang lễ cho cha tôi. Ông đã nằm viện gần một tháng vì viêm phổi, và đã có rất nhiều người lo ngại rằng người đàn ông khả kính này sắp về cõi vĩnh hằng. Ông không thể đi lại, và luôn mệt mỏi. Trong các cuộc điện thoại giữa tôi với cha, ông chưa bao giờ phàn nàn. Thương hại bản thân không tồn tại trong gen của George Bush. Bây giờ ông đang hy vọng sẽ hoàn thành một cuộc nhảy dù khác - lần thứ tám trong đời, để nhớ lại việc ông đã làm sau khi chiếc oanh kích cơ do ông điều khiển bị lực lượng pháo phòng không của Nhật bắn hạ trên biển Thái Bình Dương năm 1944.
“Bà có chắc đó là điều cha tôi muốn?”, tôi hỏi lại.
“Chắc chắn rồi”, bà trả lời.
“Các bác sĩ nói sao?”
“Một số đồng ý, còn một số thì không.”
“Mẹ tôi thì sao?”
“Bà lo lắng. Bà biết rằng ông muốn làm điều đó. Nhưng bà e ngại chuyến nhảy dù sẽ làm ông mệt và sẽ không thể thưởng thức bữa tiệc sinh nhật mà bà đã lên kế hoạch tổ chức tối hôm đó”.
Sau một hồi suy nghĩ, bà nói, “Tôi nghĩ ông ấy nên thực hiện điều đó”.
“Tại sao?”
“Bởi vì nó sẽ khiến ông ấy cảm thấy mình trẻ hơn.”
Sự thật là theo quan điểm của tôi thì đây không phải một vấn đề lớn. Sau khi nhảy dù vào dịp sinh nhật lần thứ tám mươi sáu, cha tôi đã thông báo rằng ông sẽ thực hiện một cuộc nhảy dù khác vào dịp sinh nhật lần thứ chín mươi. Và George H.W. Bush là một người đã nói là làm.
Khoảng vài tuần sau đó, Laura và tôi đã đến buổi sinh nhật tại Kennebunkport, bang Maine. Các bước chuẩn bị cho cuộc nhảy dù đã sẵn sàng, buổi tiệc đã được lên kế hoạch, và mẹ tôi đã ở trên tàu. Buổi chiều trước khi nhảy dù, tôi ngồi cạnh cha trên bậc thềm ngôi nhà thân yêu của ông ở Walker’s Point, tại một bãi đá nhô ra biển Đại Tây Dương. Tôi đã vẽ phong cảnh trên biển và mặc một chiếc quần hộp nhiều túi bị những giọt màu vẽ thấm xuống. Sau vài phút yên bình, chúng tôi lặng lẽ nhìn ra biển.
“Cha nghĩ sao?”, tôi hỏi.
“Cảnh thật tuyệt”, ông trả lời, mắt vẫn nhìn ra biển. Dường như ông đã nói hết những gì muốn nói.
Chúng tôi ngồi yên lặng thêm một vài phút nữa. Có phải ông đang suy nghĩ về việc nhảy dù, hay về cuộc sống, về ân điển của Chúa? Tôi không muốn xen ngang.
Một lát sau ông nói, “Chiếc quần này có giặt sạch được không?”.
Tôi cười, như tôi đã cùng cha cười vui trong suốt cả cuộc đời. Hài hước là tính cách điển hình của ông. Ông không lo lắng về việc nhảy dù hay cuộc sống của ông. Ông sống yên bình. Và ông biết chia sẻ niềm hân hoan của mình với người khác.
Buổi sáng sinh nhật của cha, ngày 12 tháng 6, bình minh lạnh lẽo và xám xịt. Gió thổi nhẹ, khoảng mười lăm dặm một giờ. Thoạt tiên, chúng tôi lo lắng vì trời nhiều mây có thể khiến kế hoạch phải thay đổi. May thay, những người lính nhảy dù kỳ cựu điều phối cuộc nhảy dù này, được biết đến như là Nhóm Tất Cả Là Cựu Chiến Binh, đã quả quyết rằng tầm nhìn vừa đủ. Chuyến bay sẽ diễn ra như kế hoạch.
Phi hành đoàn khởi động chiếc trực thăng Bell 429 đang đậu trên bãi cỏ xanh tươi tốt phía ngoài cabin hai tầng bằng gỗ, nơi được sử dụng như văn phòng của cha tôi ở Walker’s Point. Cha trùm kín người trong trang phục bay màu đen được may vừa với số đo, trên đó gắn một tấm thẻ mang số “41@90”. Thói quen trước mỗi chuyến bay của ông bao gồm xem xét kỹ điều kiện thời tiết lần cuối, kiểm tra dây an toàn, trả lời phỏng vấn của con gái tôi, Jenna, phóng viên của chương trình truyền hình TODAY. Thậm chí khi cha tôi chuẩn bị nhảy dù, ông vẫn sẵn sàng dành thời gian để giúp đỡ cô cháu gái.
“Ông ước gì vào ngày sinh nhật lần thứ chín mươi?”
“Ông ước tất cả các cháu của ông đều hạnh phúc”, ông trả lời. “Ông hy vọng các cháu sẽ có một cuộc sống như ông đã sống trong chín mươi năm qua - tràn đầy niềm vui”.
Ông có thêm một điều ước: “Hãy chắc chắn rằng cái dù sẽ mở ra”.
Gia đình tôi và bạn bè tập trung cùng nhau tại nơi cha tiếp đất: Bãi cỏ tại nhà thờ thánh Ann nơi cha mẹ tôi thường đi lễ, đây cũng là nơi cha tôi đã hạ cánh xuống trong lần nhảy dù cách đây năm năm và là nơi cha mẹ tôi đã làm lễ cưới ba mươi chín năm trước. (Như mẹ tôi nói, nếu chuyến nhảy dù không thành công, ít nhất chúng tôi không phải đi quá xa để làm lễ an táng). Khoảng mười giờ bốn lăm phút sáng, một trong những thành viên của đội nhảy dù tiếp cận tôi.
“Thưa tổng thống”, anh ta nói, “Cha ngài đã cất cánh”.
Một vài phút sau, chúng tôi nhìn thấy một chấm nhỏ trên bầu trời - máy bay đã lên độ cao gần 2.000 mét. Sau khi trực thăng bay một đường tròn quanh nhà thờ, chúng tôi nhìn thấy một vài chiếc dù bật mở. Hai trong số đó là dù của người quay phim tư liệu. Một chiếc dù khác lớn hơn, màu đỏ, trắng, và xanh cùng với cha tôi và chuyên gia nhảy dù Mike Elliott, người đã ba lần nhảy dù cùng cha và đây là cú nhảy dù thứ 10.227 của ông. Đám đông reo lên khi chiếc dù đôi bay hướng về phía chúng tôi.
“Chắc chắn họ sẽ bay vào vùng không khí nóng”, em trai tôi, Marvin, nói với một chút lo lắng.
Và cậu ấy đã đúng. Gió thổi chiếc dù ra khỏi vùng hạ cánh. Mike đã xoay mạnh chiếc dù trong lần điều chỉnh cuối cùng trước khi tiếp đất. Cha đập mạnh xuống đất, bị dù kéo đi vài mét, và cuối cùng cắm mặt xuống thảm cỏ.
Đám đông im bặt. Ông có dậy được không? Ông có đau không? Không ai di chuyển cho đến khi phi hành đoàn trực dưới mặt đất nhấc ông lên xe lăn. Các cháu của ông đồng thanh hát bài Chúc mừng sinh nhật để giấu đi nỗi lo lắng đang ập tới.
Cuối cùng sau khi hàng núi đồng phục được cởi bỏ. George H.W. Bush đã nở một nụ cười tươi rói trên khuôn mặt.
Tôi nắm tay mẹ, và chúng tôi đi về phía cha. Bà cúi xuống và trao cho cha một nụ hôn. Tôi theo sau, bắt tay và ôm chặt ông.
“Cảm giác của cha thế nào?”, tôi hỏi.
“Lạnh”, ông nói.
“Con rất tự hào về cha”, tôi nói. “Đó là một bước nhảy tuyệt vời.”
Ông chỉ tay vào đối tác của mình và nói, “Mike đã làm tất cả mọi việc”.
Khoảnh khắc này thể hiện rõ nhất tính cách của Geore Bush. Ông táo bạo và dũng cảm, luôn luôn tìm kiếm những cuộc phiêu lưu và thách thức mới. Ông khiêm tốn và nhanh chóng chia sẻ uy tín với cộng sự. Ông biết cách tránh sự chú ý thái quá tới mình và tránh khoe khoang thành tích cá nhân. Ông tin tưởng người khác và khơi gợi lòng trung thành của họ. Và trên tất cả, ông đã tìm thấy niềm vui trong gia đình lẫn đức tin của mình. Không có gì làm ông hạnh phúc
hơn được sống bên vợ, con và các cháu của mình ở một nơi mà ông đã có thật nhiều kỷ niệm tuyệt vời.
Sau chuyến nhảy dù, cha trở về Walker’s Point để dùng bữa, chợp mắt, và chuẩn bị đón tiếp 250 thành viên gia đình, bạn bè, và những cựu quản lý từng phục vụ trong chính quyền Bush tới tham dự bữa tiệc sinh nhật đêm hôm đó. Ông tự thưởng cho mình một ly Bloody Mary trong bữa trưa. Sau đó, ông nhận được một cuộc điện đàm từ một người bạn - Arnold Schwarzenegger, ngôi sao điện ảnh và cựu Thống đốc bang California.
“Chúc mừng sinh nhật”, Arnold nói, “người gây được ấn tượng nhất ở tuổi chín mươi mà tôi biết”.
Tôi đồng ý với nhận định của Arnold. George H.W. Bush là một tấm gương cho nhiều người trên nhiều phương diện khác nhau. Ông đã quyết tâm có một cuộc sống trọn vẹn nhất - cho đến cuối đời.
Walker’s Point, địa điểm nhảy dù vào dịp sinh nhật thứ chín mươi của cha tôi, là một nơi thích hợp để bắt đầu câu chuyện của George Herbert Walker Bush. Nơi đây có mười một cảnh quan tuyệt đẹp bao gồm một ghềnh đá nhô ra Đại Tây Dương ngoài khơi bờ biển phía đông nam của Maine gần thị trấn Kennebunkport. Vùng đất này đã được mua từ những năm đầu thế kỷ XX bởi ông nội của cha tôi, cũng có tên George Herbert Walker. Thường được gia đình và bạn bè gọi là Bert, G.H. Walker là một đối thủ cạnh tranh sừng sỏ trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống. Thời thanh niên, ông tham gia giải mã cầu và giành danh hiệu vô địch quyền Anh hạng nặng bang
Missouri. Về sau, ông trở thành một tay golf xuất sắc - nhà sáng lập giải thi đấu nghiệp dư Walker Cup giữa Mỹ và Anh.
Tính cạnh tranh của Bert Walker còn được lan rộng trong giới kinh doanh, nơi ông nổi tiếng là một doanh nhân bất khuất. Ông khởi nghiệp công ty đầu tư riêng của mình ở quê nhà St. Louis khi hai mươi lăm tuổi. Sau một vài năm kinh doanh thuận lợi, ông chuyển đến một phạm vi lớn hơn, tại thành phố New York. Ở đó, ông đã hợp tác với một nhà đầu tư giàu kinh nghiệm, William Averell Harriman, và trở thành Chủ tịch của W.A. Harriman & Company. Bert Walker không lo ngại các rủi ro tài chính, và ông chắc chắn không ngại chi tiền. Ông sở hữu một chiếc du thuyền, vài chiếc Rolls - Royce, và hàng loạt căn hộ tại bờ Đông - bao gồm cả Walker’s Point, nơi duy nhất đến nay vẫn còn thuộc sở hữu của gia đình tôi.
Là một người cha, ông đối xử cứng rắn với các con trai. Con trai út của ông, Lou, một lần đã xuất hiện trong tình trạng say rượu tại một giải vô địch tennis đôi nam nữ tại Kennebunkport. Khi đó cả gia đình đều đến xem trận đấu. Bert Walker, đang đứng bên sân cổ vũ trong phục sức chỉnh tề và thắt cả cà vạt, đã phát hiện ra hành vi bê tha của con trai mình và lôi con trai ra khỏi sân. Lúc trở về Walker’s Point, Lou bị triệu tập vào văn phòng gặp cha. Bert Walker đã nói rằng hành động say rượu là vết nhơ lên danh tiếng của gia đình. Sau đó ông đưa ra một quyết định: Thay vì việc trở lại kỳ học tiếp theo ở Yale, Lou sẽ phải mất một năm để làm việc tại mỏ than Pennsylvania. Xuất hiện trong tình trạng say rượu tại một trận quần vợt là điều thô lỗ và thiếu tôn trọng, và đó là những phẩm chất không thể được tha thứ đối với con trai của Bert Walker.
Hoàn toàn tương phản với cách ông đối xử với con trai, Bert Walker dành cho con gái tình thương yêu vô hạn. Ông dành sự ấm áp đặc biệt tới cô con gái nhỏ, Dorothy, ra đời tại Kennebunk năm 1901. Đổi lại, Dorothy Walker cũng rất tự hào về cha mình. Bằng cách nào đó, bà đã được thừa hưởng những phẩm chất tốt nhất của cha mình và làm mềm mại những nét gai góc trong tính cách của ông. Cuối cùng bà đã truyền lại những phẩm chất đó cho con trai mình là George Herbert Walker Bush.
Giống như cha của mình, tính cạnh tranh của Dorothy Walker là không có giới hạn. Mẹ tôi từng đặt mệnh danh cho bà tôi là “con người hiện còn đang sống hiếu thắng nhất”, một danh hiệu mà bà đạt được khi theo đuổi từ môn quần vợt (bà tôi là tuyển thủ quốc gia nổi bật trong cộng đồng quần vợt nghiệp dư dành cho phụ nữ) đến trò chơi cờ Tiddlywinks. Bà đã từng thách thức một người bạn cùng bơi từ Walker’s Point đến Câu lạc bộ sông Kennebunk, với khoảng cách hơn một dặm. Nghĩ rằng bà nói đùa, người bạn đó khi bơi được vài trăm mét đã dừng lại. Bà tôi vẫn tiếp tục bơi hết quãng đường trong dòng nước lạnh như băng của Đại Tây Dương. Trong số kỳ tích huyền thoại nhất của bà, bà từng tham gia chơi một trận bóng mềm khi mang thai ở tháng thứ chín, và vừa chạy về sân nhà vừa đập cú bóng cuối cùng, sau đó thông báo rằng bà bắt đầu đau đẻ khi vừa cán đích.
Bà tôi nung nấu nhiệt tâm để chiến thắng với sự khiêm tốn tuyệt đối, và yêu cầu tất cả những người con của mình cũng làm điều tương tự. Bà mong đợi niềm vinh dự khi chiến thắng, tinh thần thượng võ khi thất bại, và cam kết phải “làm tốt nhất” trong tất cả các công việc. Bà dạy các con không kiêu căng vì thành tích cá
nhân và biết ghi nhận sự giúp đỡ của người khác. Không nên vi phạm những luật lệ hà khắc của bà. Theo quan điểm của bà, “tính kiêu ngạo không phải là một điều cuốn hút và những người tự tin về bản thân không cần quá tự mãn về mình”. “Chẳng ai ưa một người khoác lác”, bà hay nói vậy.
Khi cha tôi còn là một đứa trẻ sống ở Greenwich, Connecticut, bà nội tôi đã hỏi ông về một trận đấu bóng chày ông từng chơi.
“Rất tuyệt”, ông trả lời, “Con đã chiến thắng ”.
“Tốt lắm, George”, bà đáp.
Sau đó bà thắc mắc. “Nhưng cả đội đã chơi thế nào?”
Một lần khác, cha tôi giải thích rằng đội của ông đã thua một trận quần vợt vì ông không được vào thi đấu.
“Con không được chơi”, bà tôi phản đối. “Nếu con tập luyện chăm chỉ hơn, có thể con sẽ được vào trận”.
Bài học vỡ lòng của bà nội về tính khiêm tốn đã theo cha tôi trong suốt cuộc đời. Cho đến cuộc vận động tranh cử của ông vào năm 1988, tôi đã đi cùng cha đến Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia tại Washington, DC. Ông đã đến đây để chia sẻ hiểu biết của mình về tình hình thế giới và trả lời một số câu hỏi của khán giả. George Bush rất am tường các vấn đề chính sách. Cách giải quyết của ông đối với các câu hỏi về mối quan hệ với Liên Xô và Trung Mỹ cũng hết sức khôn khéo. Để tạo không khí kết thúc vui vẻ, người điều hành cuộc phỏng vấn đã hỏi, “Vì sao ngài đeo cà vạt màu đỏ?”.
Cha tôi đã không lường trước câu hỏi này. Từ phía ghế ngồi của tôi bên cạnh khán đài, tôi có thể thấy ông đang bối rối tìm câu trả lời. Tôi khẽ trả lời cho khán giả, “Bởi vì tôi đã đánh đổ nước sốt lên chiếc màu xanh rồi”.
Gương mặt cha tôi giãn ra, và căn phòng rộn tiếng cười trong khoảnh khắc lúng túng của cha tôi. Ngay sau đó, ông nhanh chóng phá vỡ khoảnh khắc bằng cách thốt lên, “Đó là lý do bạn nên có một đứa con trai”. Đó là nét điển hình của cha tôi. Đối với tôi, bịa chuyện về nước sốt không có gì là ghê gớm cả. Tôi chỉ muốn cứu ông khỏi tình thế bối rối. Nhưng George Bush lại quá khiêm tốn nên đã không sử dụng một câu chuyện bịa.
Dorothy Walker Bush là một người có đức tin mạnh mẽ. Bà đọc Kinh Thánh cho những đứa con của bà trước mỗi bữa sáng. Một trong những đoạn mà bà yêu thích đó là châm ngôn 27:2: “Hãy để cho người khác khen ngợi con, chứ không phải chính miệng con làm thế”. Vào tất cả các ngày Chủ nhật, bà muốn cả gia đình sẽ đến nhà thờ, thông thường là nhà thờ Chirst ở Greenwhich hoặc nhà thờ Thánh Ann ở Kennebunkport.
Cho dù tôn giáo đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống của bà, bà không bao giờ sử dụng lòng tin của mình để đánh giá khắc nghiệt về tôn giáo khác. Đức tin của bà chắc chắn và bền vững, và nó giúp bà có tấm lòng biết yêu thương. Khi tôi nghĩ về bà, tôi luôn liên tưởng đến hai từ thiên sứ và thánh thiện. Một trong những kỷ niệm yêu thích nhất thời thơ ấu của tôi đó là đến thăm bà và ông tôi ở Greenwich. Bà cù vào lưng tôi khi chúng tôi quỳ xuống cầu nguyện trước khi ngủ: “Giờ con sẽ nằm xuống và ngủ”.
Bà nội dành một tình yêu đặc biệt cho cha tôi. Như lời anh trai cha tôi là Jonathan từng cho biết: “Bà yêu tất cả các con của mình, nhưng bà yêu cha cháu hơn cả”. Bác ấy tiếp tục, “Điều rất đặc biệt là, không ai trong chúng tôi cảm thấy ghen tức về điều đó, tất cả đều yêu ông ấy”. Có rất nhiều câu chuyện như vậy kể về bà nội và cha tôi. Khi Dorothy Walker Bush qua đời ở tuổi chín mươi mốt, cha tôi đã gọi bà là “ngọn hải đăng của gia đình... một ngọn nến thu hút bướm đêm vỗ cánh xung quanh”. Trong tất cả những điều ảnh hưởng tới cuộc sống của cha tôi, không có ai định hình tính cách con người của cha nhiều bằng mẹ của ông.
Mùa thu năm 1919, một khoảng thời gian ngắn sau khi tổ chức lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười tám, Dorothy Walker gặp Prescott Bush tại quê hương của bà tại St. Louis. Ông cao hơn 1m95 và nặng 90kg, cơ thể không có chút mỡ thừa. Mái tóc đen bóng, giọng trầm ấm, và nụ cười tỏa nắng. Ông đã đến nhà bà tôi để thăm chị gái của bà, Nancy, người mà ông đã gặp gần đây tại Câu lạc bộ xã hội St. Louis. Khi ông trông thấy Dorothy Walker đi vào phòng sau một trận tennis vào buổi chiều, ông đã bị mê hoặc. Chẳng bao lâu sau, bà cũng phải lòng ông.
Giống như Dorothy Walker, Prescott Bush cũng lớn lên ở miền Trung Tây. Cha ông, S.P. Bush, điều hành một công ty sản xuất Thép Buckeye ở Columbus, Ohio. Là một người đam mê thể thao cuồng nhiệt, S.P. đã giúp tổ chức một giải bóng chày địa phương, ông đóng vai trò như một trợ lý huấn luyện viên của đội bóng bang Ohio, và đồng sáng lập Câu lạc bộ Scioto Country, nơi có sân golf do Donald Ross, kiến trúc sư sân golf tài ba thiết kế, nơi Bobby
Jones chiến thắng giải đấu golf Mỹ mở rộng năm 1926 và cũng là nơi tập luyện thời trẻ của huyền thoại Jack Nicklaus.
Sau thời thơ ấu tại Columbus, Prescott Bush đi đến miền đông để học tại trường nội trú ở St. George vùng Rhode Island. Ông đã rất xuất sắc trong trường học, và, giống như cha mình, ông cũng là một vận động viên xuất sắc. Hai môn thể thao giỏi nhất của ông là bóng chày và golf. Ông nội Prescott của tôi chưa giành được giải Gấu Vàng nhưng là người chơi golf giỏi nhất trong gia đình. Ông đã luôn giữ mức điểm chênh lệch số gậy tiêu chuẩn bằng không trong suốt cuộc đời, hoàn thành giải Mỹ mở rộng dành cho người cao tuổi, và nhiều lần có số lần đánh bóng thấp hơn số tuổi.
Khi học đại học, Prescott Bush đã chọn Yale. (Ông của ông, James Smith Bush đã khởi đầu truyền thống học ở Yale cho cả gia đình). Là một ngôi sao chơi ở vị trí tấn công số một trong đội bóng chày, ông còn được đội chơi golf chọn làm thành viên tham dự trận thi đấu khó khăn nhất. Mùa xuân, ông thường ra sân golf vào buổi sáng và đến sân bóng chày vào buổi chiều. Ông cũng có một chất giọng tuyệt hảo. Ông đã hát cùng Câu lạc bộ Yale Glee và Whiffenpoofs. Mặc dù nhiều nét của Prescott Bush được di truyền tới đời chúng tôi, nhưng nhánh của cha tôi trên cây phả hệ Bush không thừa hưởng được giọng ca tài năng của ông.
Năm 1916, trước khi bắt đầu vào năm học cuối tại trường đại học, ông tôi là một trong số ít các sinh viên của Yale tình nguyện tham gia Tổ chức Phòng vệ Quốc gia Connecticut. Khi Mỹ bước vào Thế chiến thứ nhất, Trung úy Bush được điều đến Pháp với nhiệm vụ là một sĩ quan pháo binh. Ông đã chiến đấu ngoài mặt trận mười tuần dưới sự chỉ huy của tướng John “Black Jack” Pershing. Khi
quân Đức đầu hàng, ông đảm trách vai trò quan trọng trong lực lượng đồn trú trước khi trở về quê hương với quân hàm đại úy. Quyết định xung phong vào quân đội của ông đã gây ấn tượng sâu sắc cho cha tôi, người sẽ phải đối mặt với sự lựa chọn tương tự trong thế hệ tiếp theo.
Sau chiến tranh, Prescott Bush nhận làm phụ tá quản lý cho công ty Simmons Hardware tại St. Louis, nơi ông đã gặp Dorothy Walker. Họ kết hôn vào tháng 8 năm 1921 tại nhà thờ Thánh Ann ở Kennebunkport. (Tôi ngờ rằng họ đã có thể hình dung ra một chuyến nhảy dù vào thời điểm này của chín mươi ba năm sau). Như một món quà dành cho đôi vợ chồng mới cưới, Bert Walker đã xây cho họ một căn nhà gỗ một tầng trên vùng đất thuộc Walker‘s Point. Ngôi nhà đó vẫn tồn tại và hiện giờ đang được chị gái tôi, Dorothy, người có cùng tên với bà nội của chúng tôi, sử dụng.
Bà nội tôi dành những năm đầu sau hôn nhân cho những chuyến đi. Prescott Bush đã thuyên chuyển công việc kinh doanh từ St. Louis tới Kingsport, bang Tennessee; và Columbus, bang Ohio. Cuối cùng ông đã đảm nhận trọng trách điều hành công ty Rubber Stedman Products tại miền Nam Braintree, bang Massachusetts, trên đường Adams, con đường được đặt theo tên của gia đình chính khách của Tổng thống John và John Quincy Adams. Nơi đây, vào ngày 12 tháng 6 năm 1924, George Herbert Walker Bush đã chào đời.
Không lâu sau, Prescott Bush tiếp tục thuyên chuyển công tác. Năm 1925, ông đã đảm nhận một công việc mới ở công ty Rubber U.S tại thành phố New York. Ông chuyển gia đình tới Greenwich, Connecticut, khoảng bốn mươi lăm dặm về phía đông bắc
Manhattan. Greenwich là nơi cha tôi lớn lên và ông bà nội tôi đã sống đến hết cuộc đời ở đó.
Một bài học mà cha tôi và tôi đã học được từ Prescott Bush đó là giá trị của việc kết bạn và giữ bạn. Trong suốt khoảng thời gian ở Yale, Prescott Bush đã kết bạn với Roland Harriman, được biết đến với cái tên Bunny (Tôi chưa bao giờ hiểu được tại sao một người đàn ông lại có biệt danh là “Bunny”, có nghĩa là Thỏ). Một khoảng thời gian ngắn sau khi ông tôi đến New York, Bunny đã nảy ra ý tưởng cùng ông tôi tham gia đầu tư nhà đất tại W.A. Harriman, nơi mà anh trai ông, Averell, đã sáng lập ra và Bert Walker làm chủ tịch. Ông tôi đã chấp nhận lời đề nghị. Niềm tin của ông đối với Bunny đã vượt qua những e ngại như ông từng cảm thấy khi làm việc cùng nhạc mẫu. Một tình bạn bền vững đã mở ra cánh cửa cho ba mươi năm làm việc ở lĩnh vực đầu tư ngân hàng của ông tôi. Cuối cùng ông đã trở thành đối tác hàng đầu của công ty, và sáp nhập công ty với Brown Brothers để trở thành Brown Brothers Harriman, một trong những công ty thành công và được kính trọng bậc nhất trên phố Wall. Công ty cũng chia thành hai đảng, Averell Harriman, một thành viên Đảng Dân chủ, sau đó đã trở thành Thống đốc New York, và là thành viên chủ chốt của hai chính quyền Roosevelt và Truman, trong khi Prescott Bush cùng con trai và các cháu trai đã bắt đầu hoạt động với tư cách là thành viên của Đảng Cộng hòa.
Prescott Bush đã dạy các con của ông rằng thước đo của một cuộc sống có ý nghĩa không phải ở vấn đề tiền bạc mà là nhân cách. Ông nhấn mạnh rằng thành công về mặt tài chính luôn đi cùng với trách nhiệm phục vụ cộng đồng và quốc gia tạo ra sự thịnh vượng. Mặc dù rất bận rộn với công việc ở phố Wall, ông luôn dành thời
gian để tìm hiểu nguyên nhân của các vấn đề đang tác động đến mình. Ông là một lãnh đạo thế hệ đầu và là nguồn gây quỹ tài trợ lớn của USO, một tổ chức hỗ trợ quân đội và cựu chiến binh. Ông là một nhà quản lý làm việc trong Hiệp hội Golf Mỹ, và cuối cùng trở thành Chủ tịch (vị trí mà nhạc mẫu của ông, Bert Walker, cũng đã nắm giữ trước đây), và ông là một người ủng hộ mạnh mẽ của Quỹ United Nergo College (tổ chức từ thiện hỗ trợ học bổng cho học sinh da màu học cao đẳng). Trong hai thập kỷ, ông trở thành điều phối viên các cuộc họp của đại diện thị trấn Greenwich, một công việc không lương và tốn nhiều thời gian. Trong khi các bạn của ông tham gia những bữa tiệc hoặc chơi bài, thì ông trực điện thoại để thuyết phục các chủ nhà đất nhượng quyền xây dựng hạ tầng tại Merritt Parkway, một đại lộ quan trọng nối liền Connecticut và New York. Sự tận tâm phục vụ cộng đồng là một trong những giá trị quan trọng nhất mà Prescott Bush đã truyền lại cho các con của ông - để cha tôi truyền lại cho tôi và các anh chị em trong gia đình.
Prescott Bush tuân thủ một tín điều rằng nói lời thì phải giữ lời. Năm 1963, Nelson Rockefeller ly hôn với vợ để kết hôn với một cựu tình nguyện viên của một chiến dịch tranh cử, người đã rời bỏ chồng và các con của cô ấy để đến với ông. Tuy ông tôi và Rockefeller cùng là thành viên một đảng chính trị, nhưng ông tôi đã tuyên bố trong một bài diễn văn tại trường nữ sinh Greenwich, như tờ Times đã miêu tả là “một trong những bài diễn văn đả kích nhiều nhất trong lịch sử”. Ông tôi đặt câu hỏi liệu một thống đốc bang có thể “chăm sóc đời sống của người dân được không khi người lãnh đạo của bang đó - một người tài năng có thể được đề cử cho chức vị Tổng thống Mỹ - có thể rời bỏ một người vợ tốt, mẹ của những đứa con đã trưởng thành của anh ta, ly hôn với cô ấy, sau đó thuyết phục
một phụ nữ trẻ hơn, là mẹ của bốn đứa con nhỏ, rời bỏ chồng và con cô ta để kết hôn với mình.” Rõ ràng Prescott Bush đã không ngần ngại khi trình bày quan điểm của ông. Tôi có thể tưởng tượng được điều ông sẽ nhận xét nếu ông nhìn thấy những vấn đề của cuộc sống thời nay.
Tuy có phần nghiêm khắc về vấn đề đạo đức, nhưng ông là người rất yêu đời. Ông rất thích hát, thời điểm ông vui nhất là lúc được hát cùng với gia đình hoặc luyện tập các bản tứ tấu do chính mình phối. Ông hay cười to và thích những lời nói đùa vui vẻ, mặc dù điều đó có thể thẳng thắn. Hơn một lần, ông đã xông ra khỏi phòng bởi cảm thấy khó chịu khi có người kể những câu chuyện gây cười tục tĩu. Năm 1959, ông tôi được đề cử là một ứng viên cho chức chủ tịch Câu lạc bộ Alfalfa, một tổ chức tập hợp xã hội ở Washington. Bài diễn văn chấp thuận tham gia của ông đã nhận được hưởng ứng rất mạnh mẽ.
“Đối với các nhân viên, tôi đã yêu cầu sự tận tâm trong công việc giống như tôi đã thực hiện”, ông nói. “Quả thực, tất cả mọi người trong văn phòng của tôi đều chỉ cần dưới tám mươi lần đánh bóng khi chơi golf. Tiếp nối truyền thống tuyệt vời từ thời Thomas Jefferson, chúng tôi đã cố gắng để chứng minh một chân lý rằng chính quyền sẽ làm việc tốt nhất khi cai trị ít nhất”. Lúc bàn về sự hy sinh của bà tôi khi chuyển đến Washington, ông đã diễn giải câu nói của Nathan Hale trong tiếc nuối: “Tôi tiếc là mình chỉ có duy nhất một người vợ để hy sinh cho tổ quốc”. Những năm sau, cha tôi, em trai tôi, Jeb, và tôi, tất cả đều nối bước ông trở thành các ứng viên chủ tịch của Câu lạc bộ Alfalfa.
Cha tôi rất sùng bái ông nội. Bằng nhiều cách, ông đã lấy cuộc đời của ông nội làm khuôn mẫu cho mình: tình nguyện ra chiến trường, kinh doanh xuất sắc, và sau đó đảm nhận trách nhiệm phụng sự công dân. Tôi vẫn nhớ sự hãnh diện đã hiện rõ trên khuôn mặt của cha khi ông nói với bạn bè rằng cha ông là Thượng nghị sĩ Mỹ. Tôi ngờ rằng một trong những suy nghĩ đầu tiên của ông sau khi ông thực hiện lễ tuyên thệ nhậm chức Tổng thống năm 1989 là làm cách nào nhanh nhất để chia sẻ khoảnh khắc đó với cha của ông. Điều này cũng giống như tình cảm mà tôi đã dành cho cha mình khi ôm lấy ông tại buổi lễ nhậm chức tổng thống của tôi vào năm 2001 và 2005.
Khi còn là một đứa trẻ, cha tôi rất thích chia sẻ với anh trai của ông, Pres (Prescott Bush Jr, được đặt giống tên ông nội tôi). Bất cứ khi nào nhận được một món quà hoặc một thứ đồ chơi, cha tôi đều sẽ chạy đi tìm Pres, cho ông ấy xem, và nói, “Chúng ta chia đôi đi”. Khi có một chiếc xe mới, ông đã cố gắng để chia sẻ với Pres bằng cách để bác ấy đạp một bên bàn đạp. Ông nội tôi đã từng gọi cha tôi là “Một nửa”.
Prescott và Dorothy Bush tập trung vào việc dạy dỗ con cái nghiêm khắc. Cha tôi đã dành tám năm học đầu tiên tại trường Greenwich Country Day, một trường tư thục được thành lập bởi các gia đình ở địa phương. Những trải nghiệm học tập đầu đời của ông khác hoàn toàn so với tôi. Tại Greenwich Country Day, rất nhiều trẻ em đến trường bằng xe hơi do quản gia lái. Tại trường Tiểu học Sam Houston tại Midland, Texas, hầu hết trẻ em đều đi bộ hoặc đi xe đạp đến trường.
Những năm học phổ thông, hai người con trai cả được Prescott và Dorothy Bush gửi đến học viện Phillips ở Andover, Massachusetts. Bà nội tôi đã chọn trường này vì học vấn uyên bác của những giáo viên ở đây và cũng bởi họ muốn những người con trai của mình quen biết với các chàng trai khác đến từ nhiều vùng đất nước.
Andover chứng tỏ là một trải nghiệm đáng giá, nó ứng nghiệm với tôi khi tôi học ở đây một thế hệ sau. Cả cha tôi và tôi đều đạt được rất nhiều lợi ích từ kỷ luật và thách thức của quá trình học. Và tất cả chúng tôi đều rút ra những bài học quan trọng ngoài lớp học. Như là một thanh niên lần đầu tiên tự lập, chúng tôi đều được học để trở nên độc lập, làm việc chăm chỉ, và để kết bạn.
Tại Andover, cha tôi đã thể hiện được khả năng lãnh đạo thiên bẩm. Mọi người bị ông cuốn hút và đều muốn theo ông. Các thành viên trong đội của ông chọn ông là đội trưởng đội bóng chày, bóng đá và cả người quản lý đội bóng chày. Ông đứng đầu trong trường về nỗ lực gây quỹ từ thiện cho nhà nguyện và được bầu làm Chủ tịch của khối học sinh năm cuối cấp.
Tuy cha tôi được mệnh danh là người đàn ông vĩ đại tại trường học nhưng ông không đặt danh tiếng của mình lên mọi thứ. Một ngày nọ, một cậu học sinh trẻ tên Bruce Gelb bị các học sinh nam khóa trên vây quanh, có thể bởi vì đó là một trong số ít những học sinh người Do Thái của trường. Khi cha tôi trông thấy các nam sinh khóa trên đánh cậu ta, ông đã bảo họ dừng tay. Họ đã nghe theo. George Bush luôn làm việc theo cách của riêng mình và chẳng bao giờ suy nghĩ nhiều về nó. Nhưng Bruce Gelb thì luôn nhớ rằng chỉ có cha tôi là một trong những nam sinh nổi tiếng nhất trường đã
không vờ như không trông thấy những gì mà ông đã phải chịu đựng. Vì thế ông đã trở thành một người hỗ trợ đắc lực cho cha tôi trong suốt cuộc đời, và cha tôi sau đó cũng đã bổ nhiệm ông vào vị trí quan trọng trong chính phủ, như Đại sứ tại Bỉ và Giám đốc của Sở Thông tin Hoa Kỳ.
Andover luôn nhấn mạnh một phương châm: “Phần kết phụ thuộc vào phần khởi đầu”. George Bush đã được ban phước khi có một khởi đầu tốt. Gia đình yêu thương ông, cung cấp cho ông một nền giáo dục tuyệt vời, và truyền lại cho ông những phẩm chất đáng quý. Ông đã có nhiều bạn bè, gây được ấn tượng với giáo viên, và nổi trội trong các môn thể thao. Ông cũng đã vươn lên những bước tiếp theo, được nhận vào học tại Yale, nơi tiếp bước dấu chân của cha ông.
Ít lâu sau, vào Chủ nhật, ngày mùng 7 tháng 12 năm 1941, mọi thứ đã thay đổi. Cha tôi và vài thành viên trong lớp đang đi băng qua khuôn viên Andover gần phòng cầu nguyện thì hay tin người Nhật đã tấn công Trân Châu Cảng. Ngày tiếp theo, nhiều hàng dài tình nguyện viên đứng chờ bên ngoài khu tuyển quân trên toàn quốc.
Hầu hết các chàng trai bằng tuổi cha tôi thời ấy đều phải đứng trước hai sự lựa chọn: ra chiến trường hay tiếp tục cuộc sống với kế hoạch đã đặt ra. Mọi lời khuyên mà cha tôi nhận được đều dẫn tới cùng một đích. Người đọc diễn văn trong buổi lễ phát bằng của năm học cuối cấp là Henry Stimson, Thư ký thời chiến của Tổng thống Roosevelt và là một cựu sinh viên của Andover. Ông đã thúc giục các sinh viên tốt nghiệp tiếp tục đi học đại học, ông chắc chắn rằng họ sẽ có cơ hội tham gia quân đội vào thời gian sau. Prescott Bush
đã đồng ý mạnh mẽ, ông xin cha mình cho đến Yale và tìm con đường riêng để phụng sự tổ quốc từ đây.
Có một lý do khác khiến cha tôi thích sống gần gũi với gia đình mình hơn. Đó là trong kỳ nghỉ lễ Giáng sinh vào năm học cuối tại trường phổ thông, ông đã đi khiêu vũ ở một câu lạc bộ tại Greenwich. Khi đang nói chuyện với bạn bè, ông bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của một cô gái đi ngang qua. Đó là Barbara Pierce, khi ấy mười sáu tuổi, còn cha tôi mười bảy tuổi. Cha tôi đã mời cô nhảy, thế nhưng có một rắc rối xảy ra. Họ không biết nhảy điệu waltz. Vì thế họ đã phải ra ngoài khi mọi người nhảy điệu này và chỉ nói chuyện với nhau. Ông đã nắm được một số thông tin về cô, cô đến từ Rye, New York, cô đang trọ tại một trường nội trú ở phía nam Carolina. Họ rất tâm đầu ý hợp và cùng nhau hẹn ngày hôm sau gặp lại trong bữa tiệc giáng sinh tại Câu lạc bộ Apawamis ở Rye.
Buổi tối hôm đó, ban nhạc đã không chơi điệu waltz và tất nhiên, George H.W. Bush cùng Barbara lên sàn nhảy. Ngay lập tức, có một sự đồng cảm giữa họ, và họ đã đồng ý sẽ giữ liên lạc với nhau. Họ lại gặp nhau tại một bữa tiệc mừng lễ trưởng thành của học sinh trường Andover, sau đó, cha tôi đã trao cho cô ấy một nụ hôn tạm biệt. (Barbara khẳng định đó là nụ hôn đầu tiên trong đời cô ấy). Đến giờ, cha mẹ tôi chẳng còn nhớ nhiều về những gì mà họ đã nói với nhau trong những ngày đầu tiên ấy, nhưng có một điều, đó là họ đã làm cho nhau cười rất nhiều. Không lâu sau đó, họ yêu nhau.
Có một điều mà cả hai người đã bàn luận với nhau đó là quyết định của cha tôi trong việc gia nhập quân đội. Như cách mà cha tôi bày tỏ với mẹ, ông cảm thấy bị xúc phạm với cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Sinh mạng của hơn 2.400 người vô tội bị cướp đi, điều
này khơi gợi trong cha niềm căm phẫn của chính nghĩa, điều mà nhiều người Mỹ trong đó có tôi, đã phải trải qua sau cuộc tấn công của khủng bố vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Ông cảm nhận được đó là bổn phận. Cha tôi, ông luôn nhấn mạnh rằng, chúng ta đã được hưởng những điều an lành, chúng ta phải cố gìn giữ nó.
Theo Kinh Thánh, “Ai đã được nhận nhiều thì sẽ phải cho nhiều”. George Bush nhận ra rằng ông đã được cho rất nhiều. Sức khỏe bề ngoài cho phép ông nhập ngũ, và bổn phận trong thâm tâm cũng thôi thúc ông. Cha nói với mẹ tôi rằng, ông ấy đã quyết tâm gia nhập quân đội với vai trò là một phi công của binh chủng Hải quân.
Tới thời điểm này trong cuộc đời, George Bush chưa phải đối mặt với nhiều quyết định khó khăn. Ông chưa bao giờ cãi lời cha mình. Nhưng ông đã quyết, và không lưỡng lự. Sau buổi lễ nhận bằng tốt nghiệp trung học, cha tôi đã nhìn vào mắt của ông nội và nói, “Con sẽ nhập ngũ”. Ông nội đáp lại bằng cách bắt tay cha. Ông tôn trọng quyết định của cha tôi, thời khắc đó đánh dấu sự ủng hộ tuyệt đối của ông tôi dành cho cha.
Cha tôi đã nhập ngũ ngày 12 tháng 7 năm 1942, vào đúng sinh nhật thứ mười tám của ông. Hai tháng sau đó, ông nội tôi đã đưa cha ra ga Penn ở New York, ông lên đường đến phía bắc Carolina để bắt đầu nhập ngũ. Khi cha tôi đứng trên ga chuẩn bị lên tàu, Prescott Bush đã trao cho cha tôi một cái ôm. Đó là lần đầu tiên trong cuộc đời, cha nhìn thấy ông nội khóc.
CHIẾN TRANH
M
ỗi mình. phi công Đối với thường tôi, nhớ đó là chuyến chuyến bay bay đầu với tiên chiếc của Cessna 170 ở căn cứ Không quân Moody tại Valdosta, Georgia năm 1968. Đối với cha tôi, đó là chiếc máy bay có khoang lái mở Stearman N2S - 3 tại căn cứ Không quân của lực lượng Hải quân Wold - Chamberlain, Minneapolis năm 1942. Các học viên trẻ ở đây gọi chiếc máy bay này là “Hiểm họa da vàng” vì nó được sơn màu vàng và vô cùng nguy hiểm khi bay trên bầu trời. Nó còn được gọi bằng một cái tên khác là “Máy giặt”, gợi ra hình ảnh những học viên bị quay cho tơi tả khi luyện tập để trở thành phi công.
Cha tôi mô tả lại chuyến bay đầu tiên ông lái một mình là “một trong những điều đáng sợ nhất” trong cuộc đời ông. Tôi biết chính xác điều ông nói. Đó là một cảm giác không thể diễn tả nổi bằng lời khi ngồi trong buồng lái, lao nhanh xuôi đường băng, và cất cánh lên không trung. Chiếc máy bay không quan tâm bạn đến từ đâu, bạn học ở trường nào, hay cha mẹ bạn là ai. Vấn đề ở đây là liệu bạn có đủ những kỹ năng để lái nó không mà thôi - những kỹ năng cần thiết, như cách mà Tom Wolfe đã gọi. Thiếu úy George Bush bay hầu như mỗi ngày qua vùng Minnesota trong tiết trời đông lạnh giá. Ông lái một cách thoải mái trên không và xuất sắc khi hạ cánh ngay cả đó là trên tuyết, trên băng - điều đòi hỏi kỹ năng rất điêu luyện, và vô cùng hữu ích tại khu vực Nam Thái Bình Dương.
Rất nhiều phi công nói rằng, việc học lái máy bay làm cho họ cảm thấy mình cao hơn. Trong trường hợp của cha tôi, thì đó là điều hoàn toàn đúng. Vào thời điểm viên sĩ quan chỉ huy trao cho ông chiếc huy chương vàng về thành tích bay tại căn cứ Không quân của lực lượng Hải quân Corpus Christi tháng 6 năm 1943, ông nhận ra mình đã cao thêm khoảng 5cm so với khi mới nhập ngũ, tổng chiều cao của ông lúc đó khoảng 1m89. Ông vẫn chưa đủ mười chín tuổi, và điều này có nghĩa ông là phi công trẻ nhất trong Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ.
Sau những năm học ở trường hàng không, cha có một thời gian ngắn được nghỉ phép trước khi nhận nhiệm vụ tiếp theo. Cha đã dành thời gian này cho gia đình ở Maine, bà tôi lại rất hào phóng khi mời một vị khách đặc biệt tới nhà, đó là Barbara Pierce, sinh viên Đại học Smith đang trong giai đoạn nghỉ hè. Cha mẹ tôi luôn ở bên nhau suốt thời gian hai tuần ở Maine. Và khi kỳ nghỉ gần kết thúc, họ quyết định đính hôn bí mật.
Bí mật này không giữ được lâu. Vào tháng 12 năm 1943, chẳng bao lâu trước khi buổi lễ hạ thủy cho chiếc tàu sân bay USS San Jacinto, con tàu sẽ mang cha tôi ra chiến trường, cha mẹ tôi đã quyết định thông báo cho gia đình về kế hoạch kết hôn. Cả hai rất đỗi ngạc nhiên khi cả gia đình đều đã biết việc này. Tình cảm của họ dành cho nhau quá rõ ràng. Giống như cha đã từng viết cho mẹ “Anh yêu em, tình yêu quý giá của anh, bằng cả con tim của anh, cả cuộc sống của anh dành trọn cho em, em là tất cả đời anh. Anh vui mừng không thể nào diễn tả được khi một ngày nào đó chúng mình sẽ là của nhau. Rồi những đứa con của chúng mình sẽ thật may mắn khi có một người mẹ tuyệt vời như em” (Đó là bức thư duy nhất
trong thời chiến còn sót lại, phần còn lại của bức thư đã bị mất sau nhiều lần cha mẹ chuyển nhà). Sau buổi lễ kỷ niệm hôm ấy, bà tôi đã đưa cho cha một chiếc nhẫn đính hôn - một chiếc nhẫn ngọc bích lấp lánh ánh sao, nó từng thuộc về chị gái của bà, Nancy. Và vào cuối ngày hôm ấy, cha đã tặng nó cho người vợ sắp cưới của ông, Barbara. Đến hôm nay bà vẫn còn đeo nó (dẫu cho bà luôn nghi ngờ đó chỉ là chiếc nhẫn bằng thủy tinh xanh bình thường).
* * *
Tháng 1 năm 1944, sau khi đã hoàn thành một năm xuất sắc, và một nửa quá trình huấn luyện, Thiếu úy Bush nhận nhiệm vụ trên con tàu sân bay USS San Jacinto. Tàu sân bay San Jac được đặt tên theo trận chiến Đại tướng Sam Houston đã đánh thắng Santa Anna, lãnh đạo người Mexico. Như một điềm báo cho cuộc đời phía trước của cha tôi, tàu sân bay mang theo hai lá cờ, cờ Sao và Sọc của nước Mỹ và cờ Ngôi sao cô đơn của bang Texas.
Người phi công trẻ của lực lượng Hải quân đã gia nhập nhóm phi công sau này làm nên phi đội VT - 51. Jack Guy đến từ vùng quê Georgia, ông rời bỏ công việc nhân viên ngân hàng để tòng quân. Lou Grab lớn lên ở Sacramento, bang California, là con của chủ một trạm xăng. Stan Butchart là người bản địa ở Spokane, Washington, luôn luôn mơ ước trở thành phi công. Những người bạn trong phi đội có ít điểm tương đồng. Tại Andover, George Bush đã học được rằng ông có thể kết bạn với nhiều người ở các vùng miền khác nhau của đất nước. Trong quân đội, ông đã học được rằng, ông có thể kết bạn với nhiều người thuộc mọi tầng lớp khác nhau.
Cha tôi có một biệt tài có thể khiến cho người khác bật cười. Ông đặt những cái tên khác nhau cho mọi người (Nghe có vẻ gần gũi quen thuộc?). Stan Butchart là “Butch”, Jack Guy là “Jackoguy”, được nối bằng chữ cái đầu của tên đệm. Cha tôi kiếm một cái tên đặc biệt cho riêng ông. Trong thời gian huấn luyện ở bờ biển Marryland, ông đang lái máy bay bay rà rà trên mặt biển thì nhìn thấy một đám xiếc đang chuẩn bị bên dưới. Rõ ràng động vật chẳng biết nhiều về máy bay hải quân, tiếng động cơ khiến chúng kinh hãi, một trong số những con voi chạy tán loạn khắp thị trấn. Từ hôm đó, những người bạn thân của cha đặt cho ông cái tên “Voi Ellie”. Ông đáp lại bằng cách giả tiếng kêu của voi mà ông đã học được trong thời chiến. Tôi chưa bao giờ được nghe ông giả tiếng voi, dẫu cho ông có thể làm việc đó một cách dễ dàng khi ông đã trở thành Chủ tịch Ủy ban Quốc gia của Đảng Cộng hòa.
Chiếc máy bay khiến cho con voi của rạp xiếc hoảng sợ là chiến cơ mang tên TBF/TBM Báo Thù - Avenger, một máy bay thả ngư lôi. Avenger là loại máy bay một động cơ lớn nhất của lực lượng Hải quân và là máy bay vận tải. Nó có thể chở một phi công, hai phi hành viên và bốn quả bom mỗi quả nặng gần hai tấn. Để chở được hàng tấn đạn dược, chiếc máy bay này được thiết kế khoang chứa rộng, khiến cho nó có cái tên rất truyền cảm là “Con gà tây chửa”.
Avenger là chiến cơ hạng nặng, đòi hỏi phi công có những tố chất đặc biệt mới có thể điều khiển được. Công việc khó khăn nhất là hạ cánh trên boong tàu vừa nhỏ hẹp vừa nhấp nhô của tàu sân bay. Một cú hạ cánh chính xác đòi hỏi người lái phải có sự tập trung cao độ, sự chính xác và phối hợp đồng đội tốt. Phi công chọn góc hạ cánh chính xác, tuân theo những chỉ dẫn của nhân viên mặt đất, sau
đó phải móc máy bay vào một trong những cái chốt của tàu sân bay để tránh trường hợp máy bay bị trượt khỏi boong tàu. Khi làm tổng thống, tôi từng làm hành khách trong chiếc máy bay phản lực S - 3B Viking hạ cánh trên tàu sân bay USS Abraham Lincoln. Tôi vốn đã dành sự kính trọng những phi công ở tàu sân bay, thế nhưng sau lần hạ cánh này, sự kính trọng tăng lên gấp đôi.
Mùa xuân năm 1922, tàu sân bay San Jac được điều đến vùng biển Thái Bình Dương. Cha tôi ở trong buồng lái của chiếc Avenger chuẩn bị bay lần đầu tiên ra khỏi tàu sân bay mới. Ông viết thư cho mẹ “niềm vui không thể diễn tả nổi khi thấy cỗ máy hoạt động”. Ngày 20 tháng 4 năm 1944, từ Norfolk, Virginia, tàu sân bay này đã đi qua kênh đào Panama, ra đến Trân Châu Cảng, khu vực giữa vùng biển Thái Bình Dương. Nhân viên trên tàu đã thấy những mảnh tro tàn còn sót lại của hai con tàu sân bay USS Utah và Arizona, như một lời cảnh báo vừa mới phát ra, rằng họ đang ở trong vùng chiến sự, và sắp phải đối diện với kẻ thù.
Nhiều tháng sau đó, Trân Châu Cảng đã trở thành nơi giao tranh ác liệt, khi cơ quan đầu não Nhật Bản mở rộng vùng chiến sự ra khắp khu vực Thái Bình Dương. Mùa xuân năm 1942, chỉ còn Úc và New Zealand tham gia quân Đồng minh. Thế trận đã bắt đầu thay đổi từ tháng 5 năm đó, khi cả quân Mỹ và Úc ngăn được sự tiến quân của Nhật trong trận chiến trên đảo San Hô. Một tháng sau, nước Mỹ đã giành chiến thắng quan trọng đầu tiên trong trận Midway. Lực lượng Hải quân bắt đầu chiến dịch chiếm các hòn đảo nhằm mục đích lần lượt giải thoát cho những đảo bị quân Nhật chiếm đóng, mục tiêu cuối cùng là tấn công Nhật Bản.
Nhiệm vụ đầu tiên của tàu sân bay San Jac là đánh vào căn cứ của Nhật trên đảo Wake. Nhiệm vụ này đã thành công, nhưng sự thật khốc liệt của cuộc chiến đã giáng đòn trở lại đội nhà. Người bạn cùng phòng của cha, cũng là người bạn thân nhất của ông, Jim Wykes, đã ở ngoài vùng màn hình rada. Đội tìm kiếm không thể xác định được vị trí của ông ấy. Ông ấy cùng hai người đồng đội được ghi tên vào danh sách những người mất tích. Không lâu sau điều này được xác nhận rõ ràng là họ không trở về nữa. Cha tôi tiếc thương người bạn của ông. Ông luôn biết cái chết là một phần của cuộc chiến, nhưng sự mất mát này với ông như nỗi đau mất đi người thân.
Một vài ngày sau đó, ông đã viết một bức thư bằng cả tấm lòng của mình gửi cho mẹ của Jim. Ông viết: “Cháu biết rất rõ về con trai bác và cháu thật may mắn vì được trở thành một trong những người bạn tri kỷ của cậu ấy”. Ông viết tiếp: “Với bản chất tốt bụng, cùng với nhiều đức tính khác, cậu ấy đã giành được tình bạn và sự kính trọng của mỗi sĩ quan và người lính trong phi đội”. Ông tiếp tục: “Bác đã mất đi người con thương mến, chúng cháu thì mất đi một người bạn thân yêu”.
Đó là bức thư đầu tiên trong rất nhiều bức thư sau này cha tôi viết cho gia đình của những đồng đội khi họ ngã xuống trong cuộc chiến. Nhiều thập kỷ sau, ông cũng viết những bức thư tương tự với tư cách là tổng thống. Và tôi cũng vậy. Tất nhiên những bức thư chẳng thể bù đắp cho sự ra đi của một con người yêu dấu. Thế nhưng, hành động đơn giản này lại bày tỏ mối quan tâm của bạn đối với những gia đình mất người thân trong cuộc chiến. Và phần nào giúp họ vơi đi nỗi thống khổ.
Sau cuộc giao tranh trên đảo Wake, tàu sân bay San Jac lại tiếp tục hành trình tiến về đảo Saipan. Trung tuần tháng 6, con tàu bất ngờ bị tấn công bởi những chiếc máy bay Nhật Bản. Khi máy phóng chiến cơ tung chiếc Avenger của cha trên không, bình dầu bỗng chảy nhỏ giọt. Máy bay không khởi động được. Lựa chọn duy nhất là hạ cánh xuống nước. Thiếu úy Bush đã điều khiển chiến cơ bay ra ngoài đại dương, cho chạm đuôi xuống trước và trượt trên mặt nước. Cha tôi và phi hành đoàn leo ra ngoài cánh máy bay, sau đó thả phao cứu sinh xuống nước, và chèo nhanh ra xa bởi những quả bom trong máy bay sẽ nổ khi ở dưới nước. Một tàu khu trục của hải quân Mỹ, chiếc C.K. Bronson, sau đó đã cứu họ lên bằng lưới kéo hàng. Đó chưa phải là lần cuối George Bush phải nói lời cảm ơn chiếc phao cứu sinh.
Lái máy bay rất nguy hiểm, nhưng cuộc sống trên tàu cũng nguy hiểm không kém. Một đêm, cha tôi đang trực trên boong tàu thì có một chiếc máy bay đang tiến tới để hạ cánh. Người phi công đã tính sai khoảng cách, và không thể gài máy bay vào cái móc trên tàu, làm cho máy bay đâm sầm vào một nòng pháo. Phi công này, cùng với những đồng đội của ông và một số người đứng xung quanh, bị chết. Cha tôi nhìn thấy một cái chân đứt lìa của phi công bắn lên co giật trên boong tàu cho tới khi người làm tạp vụ nhờ các thủy thủ dọn dẹp đống hỗn độn đó và để chuẩn bị sẵn sàng cho máy bay khác hạ cánh.
Những trải nghiệm này chắc hẳn đã ăn sâu trong tâm trí của chàng thanh niên mới hai mươi tuổi. Càng học được nhiều về những tàn khốc của Thế chiến thứ hai, tôi càng thấy ngưỡng mộ
cha, và những con người cùng thời với cha cũng thực hiện nghĩa vụ quân sự giống ông.
Trong tất cả những ngày đau thương mà George H.W. Bush đã trải qua của cuộc đời, ngày mùng 2 tháng 9 năm 1944 là ngày kịch tính hơn cả. Hôm đó các phi công đã phải thức dậy sớm vì họ có nhiệm vụ đưa tháp truyền hình ra đảo ChiCi Jima, một căn cứ được phòng thủ vững chắc. Công trình xây dựng này là đầu mối liên lạc quan trọng nhất ở quần đảo Bonin, khu vực then chốt trong việc bảo vệ trung tâm của đế chế Nhật Bản.
Cha tôi dường như lúc nào cũng bay cùng với hai đồng đội của ông, tay súng Leo Nadeau và nhân viên điện đài John Delaney. Nhưng ngày hôm đó, Trung úy Ted White xin được làm một tay súng trên máy bay. White, nhân viên hậu cần và cựu sinh viên Đại học Yale, muốn biết hệ thống vũ khí hoạt động ra sao. Cha tôi đã cảnh báo ông ấy về một chuyến bay đầy gian nan. Ngày hôm trước, họ đã mang súng hạng nặng lên đảo Chichi Jima. White đã nài nỉ xin đi, cha tôi đồng ý, và thuyền trưởng, Đại úy Don Melvin tán thành.
Khoảng 7 giờ 15 phút sáng, bốn chiến cơ Avenger rời tàu sân bay San Jac bay thành đội hình hướng về đảo Chichi Jima. Những chiến cơ Hellcat bay yểm trợ phía trên. Máy bay chiến đấu của cha, cùng với tay súng White, và Dalaney người giữ điện đài, là chiếc máy bay thứ ba trong đội bay hướng về phía mục tiêu. Khi họ chuẩn bị hạ cánh, những tay súng phòng không Nhật Bản trên đảo bắt đầu xả súng. Những đường đạn bay ngang trời, những viên đạn nổ bao phủ bầu trời bằng khói đen mù mịt. Bỗng nhiên, chiếc Avenger lắc mạnh và bay lảo đảo về phía trước. Nó đã bị trúng đạn. Khói tràn ra
từ khoang máy bay, lửa bắt đầu cháy dọc theo hai bên cánh và hướng về phía bình chứa xăng.
Cha tôi quyết tâm phải hoàn thành nhiệm vụ. Ông tiếp tục cho máy bay lao xuống với tốc độ 200 dặm một giờ, rải bom trúng mục tiêu, và lái máy bay nghiêng xa khỏi hòn đảo. Ông hy vọng rằng chiếc máy bay có thể hạ cánh xuống nước, nhưng toàn thân máy bay đã bốc cháy, không còn thời gian nữa. Cách duy nhất là nhảy ra khỏi máy bay.
“Nhảy dù đi”, ông ấy la hét bảo đồng đội của mình qua hệ thống liên lạc giữa hai bộ phận.
Sau đó ông chuyển hướng máy bay một chút để giảm áp lực lên cửa buồng lái. Ông tưởng rằng hai đồng đội, Delaney và White, đã nhảy. Với những giây còn lại, ông cố gắng cởi bỏ bộ áo giáp, lao ra khỏi khoang tàu, và kéo cái dây dù trên lưng.
Cú nhảy đã không diễn ra như kế hoạch. Đầu ông bị rạch một vết dài còn cái dù bị phần đuôi máy bay xé toạc. Ông lao xuống biển đầy khó khăn và bị nhấn chìm xuống nước. Khi ngoi lên, đầu ông chảy máu, ông nôn mửa vì vừa uống phải nhiều nước mặn, hơn nữa ông còn bị thương do trúng đạn của một tay súng người Bồ Đào Nha. Ông bơi rất nhanh ra xa khỏi hòn đảo cách mình một vài dặm.
Rồi ông thấy Doug West, một trong những phi công lái Avenger, anh ta đang dùng tay cố gắng đẩy một cái gì đó về phía ông. Đó là một chiếc phao cứu sinh màu vàng có thể tự nổi. Một phi công nào đó đã thả chiếc phao xuống khi anh ta thấy chiếc máy bay gặp nạn. Ông cố gắng bơi lên phao và bắt đầu chèo bằng hai tay. Trước mặt
ông, nhiều phi công Mỹ đã nằm xuống tránh những ngọn lửa bắn ra từ các làn đạn, thứ đang dội xuống những con thuyền nhỏ mà quân Nhật đã chuẩn bị sẵn để bắt giữ các phi công bị rơi xuống từ máy bay.
Khoảng ba giờ tiếp theo, dưới cái ánh nắng thiêu đốt của mùa hè, ông đã chèo ngược dòng nước và cầu nguyện để được cứu thoát. Bằng cách nào đó, trong hoàn cảnh ấy ông vẫn có thể tìm được động lực để tiếp tục hy vọng. Tôi sẽ chẳng bao giờ biết đích xác lúc đó ông đang nghĩ gì. Tôi nghĩ chắc ông đã nghĩ lại bài học sinh tồn mà ông nội tôi từng dạy ông - hoặc là ông đã cố gắng hết sức có thể, không bao giờ từ bỏ khi vẫn còn cơ hội sống sót, và tin rằng, Chúa sẽ che chở ông bằng cách nào đấy.
Mỏi mệt vì chèo lái quá lâu, cuối cùng, ông cũng nhìn thấy một chấm đen ở trên mặt nước. Lúc đầu ông nghĩ rằng mình đã tưởng tượng ra nó, nhưng cuối cùng, ông đã nhận ra đó là một ống kính tiềm vọng. Nỗi sợ hãi lại ập đến bởi nó có thể là của một chiếc tàu ngầm Nhật Bản. Khi con tàu đến gần hơn và nổi trên mặt nước, ông nhận ra biểu tượng của Hải quân Mỹ. Chiếc tàu ngầm USS Finback đã giải cứu cha tôi vài phút trước 12 giờ trưa. Hai thủy thủ đã nắm chặt hai cánh tay của cha tôi, kéo ông ra khỏi chiếc phao cứu sinh và đưa lên tàu. “Chào mừng lên tàu, thưa ngài”, một người lính đã nói sau khi ghi tên cha tôi vào danh sách. “Rất vui khi được lên tàu”, ông đáp lại, rõ ràng như một lời tuyên bố sống sót.
Trong một bối cảnh đáng ghi nhớ trong lịch sử, Thiếu úy Bill Edwards đã chụp được khoảnh khắc khi cha tôi được kéo lên tàu, bằng một chiếc máy quay phim cầm tay hiệu Kodak. Nhiều thập kỷ sau, khán giả cả nước đã thấy cảnh tượng buổi sáng hôm đó ở biển
Thái Bình Dương: những thủy thủ người Mỹ giải cứu một chàng thanh niên hai mươi tuổi, người sau này trở thành Tổng thống của nước Mỹ và là cha của một vị tổng thống khác.
Những ngày sau khi máy bay cha tôi lái bị bắn rơi, cha đã suy nghĩ rất nhiều, về hai người đồng đội của ông, Delaney và White. Không ai trong số họ được tìm thấy. Trên tàu sân bay Finback, cha tôi gặp nhiều ác mộng về thảm họa máy bay rơi. Ông tỉnh dậy sau cơn ác mộng và luôn luôn tự hỏi liệu mình có thể làm gì hơn nữa cho hai người đồng đội. Ngày hôm sau khi cha tôi được cứu, ông đã viết một bức thư cho cha mẹ và nói lên cảm nghĩ của mình: “Con có trách nhiệm nặng nề đối với số phận của những đồng đội đã hy sinh”. Cuối cùng cha tôi nhận được thông tin những người chứng kiến vụ máy bay rơi đã nhìn thấy một trong các đồng đội của ông nhảy dù ra khỏi máy bay, rơi xuống và thiệt mạng khi chiếc dù không thể mở. Người đồng đội còn lại chắc hẳn đã hy sinh trên máy bay.
Cha tôi đã viết nhiều bức thư gửi tới gia đình của Delaney và White. Ông đã bày tỏ sự thông cảm và nói mình ước mong có thể làm nhiều hơn cho họ. Chị gái của Del, Mary Jane đã hồi đáp lại sau đó. “Cậu nói rằng bằng cách nào đấy cậu muốn giúp tôi phải không?”, cô ấy nói. “Có một cách đấy, đó là cậu hãy dừng ngay suy nghĩ rằng phải có trách nhiệm trong tai nạn máy bay và với những người bạn của cậu. Có lẽ tôi đã nghĩ cậu cũng có phần trách nhiệm nếu như em trai tôi không thường kể rằng cậu là một trong những người bạn tốt nhất của nó trong phi đội”.
Dù đã đọc được những dòng hồi đáp này, cha tôi luôn nghĩ mình phải có trách nhiệm về sự ra đi của hai đồng đội. Nhiều thập kỷ sau, ông vẫn giữ liên lạc với hai gia đình này. Khi cha tôi được bầu làm
tổng thống hơn 40 năm sau vụ việc máy bay rơi, ông đã mời riêng chị em của Delaney và White đến thăm Nhà Trắng. Trong buổi trả lời phỏng vấn với Jenna vào lần sinh nhật thứ chín mươi của mình, khoảng 70 năm kể từ sau vụ máy bay bị bắn rơi, cháu Jenna đã hỏi liệu có phải ông vẫn nghĩ về những người đồng đội đã ngã xuống trong cuộc chiến không.
“Lúc nào ông cũng nghĩ về họ”, ông trả lời.
Cha tôi đã làm việc khoảng một tháng trên con tàu Finback trước khi quay lại phi đội. Mặc dù không có nhiều nhiệm vụ chính thức, nhưng ông vẫn lăn xả vào cuộc sống trong tàu ngầm. Cha kết bạn với những thủy thủ và học hỏi về hoạt động của tàu ngầm. Một trong những nhiệm vụ khác của cha là tình nguyện kiểm duyệt thư tín nhằm ngăn chặn rò rỉ thông tin bí mật quân sự. Ông đã đọc những bức thư của những chàng nông dân hỏi về vụ thu hoạch nơi nông trại và của những thủy thủ cô đơn tha thiết muốn đoàn tụ với người thương nơi quê nhà. Quân đội đã cho ông những bài học mà ở Andover và Yale đều không dạy.
Ông còn tình nguyện trực ca trên tàu Finback, trong đó có cả ca đêm. Nhiều năm sau đó, ông vẫn nhớ những khi yên lặng một mình trên boong tàu, dưới vòm trời đêm tối đen như mực giữa Thái Bình Dương, đó là những giây phút quan trọng rọi sáng tâm can ông. Ông suy nghĩ rất nhiều về lòng biết ơn gia đình. Ông cũng bày tỏ lòng cảm tạ Chúa vì đã đáp lại lời thỉnh nguyện của ông trong những lúc ông cần đến ngài nhất. Và ông mơ về Barbara, người bạn gái ông yêu và đã định ngày hôn lễ.
Sau thời gian sống trên tàu Finback, cha tôi có cơ hội về nhà nghỉ phép. Mặc dù tôi tin chắc cha tôi mong đợi ngày gặp lại Barbara và gia đình biết bao nhiêu, nhưng ông cảm thấy có bổn phận phải quay lại phi đội. Ông đã tái hợp với những đồng đội trên tàu sân bay San Jac vào đầu tháng 11. Đến tháng 12, họ có một tháng nghỉ phép.
Đại úy Bush về đến ga xe lửa Rye, New York, trong buổi tối Giáng sinh năm 1944. Khi bước xuống sân ga, ông nhìn thấy người phụ nữ mà mình hình dung trong tâm tưởng suốt những tháng lênh đênh trên biển. Mẹ và cha tôi đã lên kế hoạch kết hôn với nhau khi chiến tranh kết thúc. Nhưng nhiều tháng sống cách xa nhau, họ đã thống nhất sẽ tổ chức hỗn lễ ngay sau khi cha tôi trở về nhà. Báo hỷ gấp gáp, họ phải tự tay viết ngày tháng lên những tấm thiệp mời: Ngày 6 tháng 1 năm 1945.
Khi được hỏi trong lần sinh nhật lần thứ chín mươi, giây phút hạnh phúc nhất trong cuộc đời ông là gì, cha tôi đã nói rằng, đó là khi ông kết hôn với mẹ tôi. Cha mẹ tôi đã có một lễ cưới thời chiến theo phong cách cổ điển: cha tôi đã mặc bộ quân phục màu xanh hải quân, còn mẹ tôi mặc váy trắng đẹp tuyệt với tấm mạng che mặt mượn của bà Dorothy Walker Bush. Một số người bạn đồng ngũ, cùng với em trai của cha tôi, chú Jonathan, giúp mời khách vào tiệc cưới. Anh trai cha, Pres, vừa mới cưới trước đó một tuần, nhận lời làm phù rể. Cha tôi đã đồng ý nhảy với mẹ tôi nhưng ông nói đây là lần đầu cũng là lần cuối ông nhảy trước đám đông. Rõ ràng cha chưa hình dung được sẽ có ngày ông phải khiêu vũ tới mười hai lần, đó là trong buổi dạ hội mừng lễ nhậm chức tổng thống của ông.
Sau kỳ nghỉ trăng mật ngắn ở Sea Island, bang George, cha tôi quay trở lại đơn vị. Nhiệm vụ của ông là chuẩn bị cho giai đoạn cuối của cuộc chiến, đổ bộ vào đất liền của Nhật Bản. Trước đó người Nhật đã bảo vệ những hòn đảo của họ một cách quả cảm, do đó, cuộc hành quân lần này được dự báo sẽ đổ máu. Khi cha tôi tập luyện ở căn cứ quân sự tại Maine, hôm đó là ngày 12 tháng 4 năm 1945, ông nghe tin qua đài phát thanh rằng Tổng thống Roosevelt đã qua đời. Mặc dù cha tôi không đồng tình với một số chính sách đối nội của Tổng thống Roosevelt vì đã mở rộng phạm vi hoạt động của chính quyền liên bang theo cách đầy kịch tính, nhưng cha tôi luôn dành sự tôn kính cho vị tổng tư lệnh của mình, cha tôi đã khóc thương cho sự ra đi của nhà lãnh đạo quốc gia trong thời khắc chiến trận nguy nan.
Phó Tổng thống Harry Truman đã tuyên thệ nhậm chức trong ngày hôm đó. Sau này khi ngồi vào vị trí bên chiếc bàn làm việc dành cho tổng thống, tôi rất khó hình dung ra áp lực to lớn đè nặng trên vai ông khi phải tiếp quản đất nước trong thời khắc sắp xảy ra hai chiến dịch quân sự lớn bất ngờ, và sau đó là chương trình bí mật phát triển vũ khí hạt nhân. Trong vòng vài tháng, Truman đã phải đối mặt với một trong những quyết định đau đớn nhất mà chưa tổng thống nào phải trải qua. Khi cuộc ném bom trên diện rộng xuống thành phố Tokyo bị thất bại không thể phá vỡ tuyến phòng vệ của quân đội Nhật Bản, Truman đã ra chỉ thị thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Ông ấy biết rằng cái giá mà loài người phải trả sẽ rất khủng khiếp. Việc sử dụng loại vũ khí mới có sức công phá tàn khốc đã thủ tiêu ý chí chiến đấu của quân Nhật. Cha tôi luôn ủng hộ quyết định này của Tổng thống Harry Truma.
Mẹ và cha tôi đã chuyển đến Virginia Beach, nơi cha đóng quân trước khi chờ quyết định xuất ngũ. Tại đây họ nghe tin quân đội Nhật Bản đã đầu hàng. Họ đã xuống đường cùng với những anh em đồng đội và gia đình của họ để ăn mừng sự kiện đáng nhớ này. Sau đó họ đến nhà thờ để cảm tạ Chúa.
Vào ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, một năm sau ngày người Nhật thua trận trên đảo Chichi Jima, phái đoàn Nhật Bản đã ký bản tuyên bố chính thức đầu hàng Mỹ trên chiếc tàu USS Missouri. Tới thời điểm đó, các giấy tờ lưu trữ cho thấy cha tôi đã bay hơn 1.200 giờ cho lực lượng hải quân, thực hiện 58 trận không chiến, thực hiện 126 lần hạ cánh thành công. Thế nhưng có một chuyến bay vô cùng đặc biệt mà cả gia đình tôi đều nhớ. Đó là, nhân dịp kỷ niệm chiến tranh chấm dứt, cha tôi đã điều khiển chiến cơ Avenger của mình bay trên vùng trời Walker’s Point nơi có ngôi nhà và gia đình thân thương. Người thân của cha đứng dưới đều reo vui và khóc. Vào ngày 18 tháng 9 năm 1945, tức đúng ba năm ba tháng kể từ ngày nhập ngũ đúng vào sinh nhật lần thứ mười tám của mình, George H.W. Bush đã xuất ngũ, rời khỏi lực lượng Hải quân trong sự tôn kính của tất cả mọi người. Cha tôi đã dấn thân vào cuộc chiến. Ông đã sống sót trở về. Và người Mỹ đã chiến thắng.
Giống như nhiều cựu chiến binh khác, cha tôi thường không kể nhiều về chiến tranh. Ông không muốn hồi tưởng lại những chi tiết khủng khiếp của cuộc chiến, cũng không tự coi bản thân là một anh hùng. Trong ý nghĩ của mình, ông coi đó là bổn phận phải hoàn thành và giờ đây ông chỉ muốn dành nhiều thời gian để sống. Ông cũng tin rằng, những gì ông đã làm được chẳng đáng là bao so với những người đã hy sinh tính mạng. Ông cho rằng kể với gia đình và
bạn bè những câu chuyện chiến tranh cùng những trải nghiệm riêng tư là việc làm gây tổn thương tới những người đã hy sinh.
Mẹ tôi, trái lại, luôn sẵn lòng kể về những câu chuyện của cha tôi trong chiến tranh. Mẹ và tôi thường ngồi trên sàn nhà và giở những trang sổ lưu niệm mà mẹ đã làm trong những năm tháng cha tôi phục vụ trong quân đội. Có những bức ảnh chụp những người bạn thân của ông trên tàu San Jac, rồi những chiếc vỏ sò ông đã mang về từ một hòn đảo giữa Thái Bình Dương tuyệt đẹp, và một mẩu nhỏ cắt từ chiếc phao cứu sinh bằng cao su đã cứu mạng ông. Tôi từng yêu cầu cha kể cho tôi nghe về những câu chuyện này, nhưng ông không kể. Tôi đã mất nhiều năm để tìm hiểu về ảnh hưởng của chiến tranh đối với cuộc đời ông.
Cuộc chiến này khiến cha tôi và nhiều người khác cùng thế hệ với ông phải trưởng thành một cách vội vàng. Ở độ tuổi hai mươi mốt, ông đã tham chiến và chứng kiến những người bạn ngã xuống. Ông đã mạo hiểm tính mạng của mình, và nhiều lần suýt chết. Cha tôi biết kiểm soát những áp lực và hiểm nguy. Ông đã phát hiện ra cảm giác hài lòng chỉ đến khi phục vụ quên mình vì tổ quốc, đó cũng là động lực thôi thúc ông trong cả cuộc đời.
Năm 2002, cha tôi đã bắt quay lại nơi máy bay của ông từng bị bắn rơi, cùng với người dẫn chương trình thời sự của CNN, Paula Zahn và nhà sử học James Bradley - tác giả của cuốn sách Flyboys, một cuốn sách rất hay về các phi công Mỹ đã bị bắn hạ trên đảo Chichi Jima. Trước khi đặt chân lên hòn đảo này, người đàn ông bảy mươi tám tuổi, người từng là phi công trẻ tuổi nhất của lực lượng Hải quân, đã thả hai vòng hoa xuống đại dương để tưởng nhớ hai
người đồng đội, Delaney và White. Khi ông lên đảo, 2.000 người dân đảo đã ra chào đón ông.
Trên hòn đảo này, cha tôi đã gặp một người đàn ông từng thuộc lực lượng phòng vệ đảo Chichi Jima của quân đội Nhật Bản trong ngày máy bay của cha tôi bị bắn hạ. Người đàn ông này đã chứng kiến sự ngược đãi, hành quyết và tục ăn thịt những phi công Mỹ bị bắt giữ. Anh trai của ông ta bị giết trong vụ tấn công bằng bom nguyên tử vào thành phố Hiroshima, thế nhưng ông không thù hận người Mỹ. Trái lại, những hành động của chính phủ Nhật Bản trong suốt cuộc chiến tranh đã làm ông hết sức phẫn nộ đến mức ông đã đổi tên theo tên của một lính thủy đánh bộ bị hành quyết trên đảo Chichi Jima. Ông làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Tokyo, giúp cải thiện mối quan hệ giữa hai quốc gia.
Khi hai người trước đây từng là kẻ thù đứng bên nhau, mái đầu họ đã bạc phơ, người đàn ông kể cho cha tôi về ngày chiếc máy bay của cha bị bắn rơi. Ông ấy quả quyết rằng, quân Nhật đã cho thuyền ra bắt những phi công bị rơi xuống biển, và cha tôi cũng có thể phải kết thúc cuộc đời trong cảm giác kinh hoàng giống như nhiều tù binh Mỹ khác. Ông ấy mô tả những chiếc thuyền ấy đã quay trở lại như thế nào khi bị máy bay chiến đấu bắn phá tới tấp từ bên trên. Khi tàu Finback nổi lên giữa họng súng của kẻ thù để kéo cha tôi lên tàu, một sĩ quan Nhật trong đội của ông ấy đã tỏ ra rất ngạc nhiên vì người Mỹ đã huy động quá nhiều nguồn lực chỉ để cứu một phi công. Do đó có một điều mà tôi dám chắc rằng, người đàn ông này nói: Chính phủ Nhật Bản sẽ chẳng bao giờ làm những điều tương tự như thế đối với lính của họ. Thật khác với nước Mỹ. Người Mỹ có
một truyền thống đáng tự hào là không bao giờ bỏ lại lính của mình trên chiến trường - chúng ta không bao giờ nên làm như vậy.
Ngay từ những ngày đầu tiên, George Bush đã là một người đàn ông đề cao giá trị về tính can đảm, lòng trung thành, và sự tận tâm phục vụ. Đó là những đặc điểm mà ông bà nội tôi đã truyền lại trong con người cha. Và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, đặc biệt là những người khoác lên mình bộ đồng phục của quốc gia, thấm nhuần lý tưởng này. Một quốc gia mà cha tôi đã làm mọi thứ, và dám xả thân mình để bảo vệ nó. Và cũng là một quốc gia một ngày nào đó mà chính bản thân ông sẽ đứng lên lãnh đạo.
ĐI VỀ MIỀN TÂY
M
ột lại lần, sống tôi với đã nhau hỏi mẹ hạnh tôi là phúc làm trong cách nào gần mà bảy cha mươi mẹ năm qua. “Để đến với nhau, cả cha và mẹ luôn sẵn sàng đi ba phần tư quãng đường để đến với nhau”, bà nói. Ý của bà là cả hai cam kết giữ gìn cuộc hôn nhân của họ nhiều hơn cả những gì họ dành cho bản thân. Cả hai đều sẵn sàng thay đổi nhu cầu riêng để làm hài lòng người kia.
Suốt cuộc đời, cả mẹ và cha đã dành cho nhau một tình yêu không vụ lợi. Trong những năm đầu của cuộc hôn nhân, mẹ tôi đã vì cha mà hy sinh rất nhiều. Suy cho cùng, bà đã luôn sẵn sàng để cùng cha đi hết ba phần tư quãng đường trên khắp đất nước.
Việc chuyển từ New Haven, Connecticut, nơi cha tôi tốt nghiệp Đại học Yale năm 1948, đến Tây Texas có tính quyết định tới cuộc đời của cha mẹ tôi. Khi cha tôi lái chiếc xe Studebaker màu đỏ của ông rời xa khỏi những cơ hội tốt đẹp đang chờ đợi trên phố Wall, George H.W. Bush đã bất chấp những thông lệ cũ, chấp nhận rủi ro, và hành động theo bản năng độc lập của mình. Cha mẹ tôi ý thức rằng có thể họ sẽ phải sống và phát triển trong môi trường rất khắc nghiệt cùng với những người xa lạ. Họ đã đặt chân sang một ngành công nghiệp cạnh tranh khét tiếng đang bùng nổ nhanh chóng nhưng nguy cơ phá sản cao. Họ đã đặt nền móng cho một cuộc hôn nhân bền vững - mối quan hệ đối tác lâu dài suốt cả cuộc đời, trải qua muôn vàn thử thách, khắc nghiệt, tạo ra những niềm hạnh phúc tuyệt vời, và trở thành tấm gương, là nguồn cảm hứng cho anh chị
em chúng tôi. Họ đã cho tôi một món quà nữa. Suốt cuộc đời này, tôi vô cùng biết ơn George và Barbara Bush vì họ đã nuôi dưỡng tôi tại Tây Texas.
Vào tháng 11 năm 1945, George H.W. Bush kết thúc giai đoạn binh nghiệp để ghi danh tại Yale. Giống như nhiều thế hệ trước của gia đình, thời đại học của ông đã bị trì hoãn bởi chiến tranh. Nhiều tân sinh viên đã làm cha mẹ. Hai đấng sinh thành của tôi lên chức cha mẹ vào ngày 6 tháng 7 năm 1946, khi tôi được sinh ra tại Bệnh viện Grace - New Haven. Cha mẹ đã đặt tên tôi là George Walker Bush, theo tên của cha và cụ nội, không có chữ Herbert. Tôi nhớ rằng mình đã từng hỏi mẹ tại sao tên tôi không có chữ Junior1. “Con trai, hầu hết biểu mẫu đều không dài để ghi đủ chữ thứ 5 trong tên”, bà trả lời. Tôi chỉ ra đời sau khi bà tôi, Dorothy Walker Bush, cho mẹ tôi uống một liều thuốc bổ làm từ dầu quả thầu dầu (Đó là trải nghiệm đầu tiên của tôi với ngành kinh doanh dầu).
1 Thường viết tắt là “Jnr, Jr, Jun”: Dùng sau một tên người để chỉ một người con trai cùng tên với cha anh ta hoặc người trẻ tuổi hơn trong hai người trùng tên với nhau trong trường học...
Cha mẹ tôi chỉ sống cách ông bà tôi ở Greenwich khoảng một giờ, nhưng cuộc sống ở New Haven mang lại nhiều cảm xúc hơn so với khi sống tại nhà của Prescott và Dorothy Bush ở Grove Lane. Khi mới đến vùng đất này, cha mẹ tôi thuê một căn hộ nhỏ trên phố Chapel và sống cùng với chú chó xù màu đen của họ, tên là Turbo. Khi tôi ra đời, họ đã phải chuyển đi vì chủ nhà cho phép nuôi chó nhưng không cho phép nuôi trẻ sơ sinh. Sau đó, họ tìm được một chỗ ở mới trên phố Edwards, nơi chủ nhà cho nuôi trẻ sơ sinh nhưng lại không cho nuôi chó. May mắn thay, tôi đã được ở lại và
Turbo đến sống tại Grove Lane. Trong năm cuối cùng ở New Haven, cha mẹ tôi chuyển đến một ngôi nhà lớn trên đại lộ Hillhouse, nơi có cả tá gia đình có trẻ em. Mẹ vẫn cười vì tã của tôi treo trên dây phơi chắn ngang khoảng không nhìn ra từ nhà của Chủ tịch Đại học Yale, người sống bên cạnh nhà tôi.
Cha mẹ tôi đã tận hưởng những năm họ sống ở New Haven. Những áp lực trong quá trình học đại học không là gì so với những điều cha tôi đã phải trải qua trong chiến tranh. Điều đó không có nghĩa là cha tôi có thể vượt qua dễ dàng. Như thường lệ, George Bush luôn để bản thân hoàn toàn đắm chìm vào công việc học tập. Ông đã rất chăm chỉ trong lớp học, giành được học vị xuất sắc Phi Beta Kappa và hoàn thành chương trình đại học trong hai năm rưỡi. Ông là thành viên của Hội sinh viên Delta Kappa Epsilon. Ông rất cởi mở và có nhiều bạn. Vào ngày Lễ Tạ ơn đầu tiên của họ tại Yale, cha biết rằng một số bạn cùng lớp của mình không thể về đoàn tụ với gia đình. Vì vậy, ông đã mời mười người bạn đến ăn tối. Mẹ tôi đã nhắc nhở cha rằng trong nhà không có phòng ăn. Nhưng điều đó chẳng quan trọng. Cha mẹ tôi và bạn bè của họ ngồi trên ghế bành và sàn nhà, cùng thưởng thức món gà tây Tạ ơn do mẹ tôi nấu. Bữa ăn không được sắp đặt trước này giống như điềm dự báo những gì sắp đến. Trong nhiều năm sau, ngôi nhà của cha mẹ tôi mở rộng cửa chào đón nhiều gia đình và bạn bè. Tuy mẹ tôi đôi khi than phiền về dòng khách bất tận đến chơi nhà, nhưng bà luôn là một nữ chủ nhân hòa nhã.
Cha tôi không chỉ kết bạn, mà ông còn là người biết giữ bạn. Nhiều thập niên sau, ông vẫn liên lạc thường xuyên với bạn bè thời đại học. Một người bạn của ông là Lud Ashley đến từ Toledo, bang
Ohio. Giống như cha tôi, Lud cũng bước vào con đường chính trị. Khác với cha, Lud là Đảng viên Đảng Dân chủ Tự do. Tại Washington, họ đã ở hai phía đối diện trong một số các vấn đề chính trị nóng bỏng nhất thời đại của họ. Nhưng điều đó không ảnh hưởng đến tình bạn. Họ dành thời gian cho nhau và chia sẻ niềm vui giống như hồi cùng học ở Yale trong những năm 1940. Khi một người từng là bạn của George Bush, người đó sẽ mãi mãi làm bạn với ông suốt cuộc đời.
Sở thích của cha tôi khi học đại học đã được phát hiện vào một buổi chiều mùa xuân tại sân cỏ đại học Yale. Như sau này ông cho biết, ông theo học chuyên ngành chính là kinh tế học và chuyên ngành phụ là chơi bóng chày. Ông là đội trưởng của đội bóng và, giống như cha mình, ông đã chơi ở vị trí chủ chốt. Mẹ và tôi tham dự gần như tất cả các trận trên sân nhà của ông. Trong thời gian mang thai, bà ngồi ở vị trí đặc biệt được thiết kế riêng cho Cựu Giáo sư Luật Yale, William Howard Taft. Bà rất thích ghi điểm số, và một trong những thói quen yêu thích của tôi khi còn là một chàng trai nhỏ ở Texas là đọc điểm số trong cuộc thi đấu của cha cho mẹ viết. Đội bóng chày của Yale tham dự Cúp thế giới các trường đại học vào năm 1947 và 1948. Họ giành ngôi á quân, xếp sau trường California - Berkeley vào năm thứ nhất và sau Đại học Nam California USC năm tiếp theo. (Thông tin thêm dành cho những người hâm mộ môn bóng chày, đội Gấu Cal được dẫn dắt bởi Jackie Jensen, vô địch giải MVP Mỹ năm 1958, và đội Ngựa USC được quản lý bởi huyền thoại bóng chày Rod Dedeaux.)
Khoảnh khắc nổi tiếng nhất của cha tôi khi đang là cầu thủ chơi bóng tại trường đại học diễn ra trên chính khoảnh đất ném bóng. Tại
đây, ông đã gặp huyền thoại bóng chày Babe Ruth vào mùa xuân của năm học cuối và nhận được bản sao cuốn tự truyện có chữ ký của Babe dành cho thư viện Đại học Yale. Một nhiếp ảnh gia đã chụp một bức ảnh mà sau này trở thành biểu tượng: một huyền thoại giã từ sự nghiệp và một huyền thoại khác đang ở ngưỡng cửa sự nghiệp.
Thật khó tưởng tượng cha đã làm thế nào để quản lý được mọi việc - một sinh viên giỏi nhất trường, một vận động viên ngôi sao, một người đàn ông có vô số bạn bè, một người chồng và một người cha tận tâm. Mẹ tôi đã nhận xét đó là do tính cách của cha, “Cha con làm việc chăm chỉ”. Đó là sự thật. George Bush không lãng phí thời gian. Ông dành từng phút mỗi ngày trong cuộc đời mình cho các hoạt động khác nhau.
Tuy khoảnh khắc quý giá nhất của cha tôi trên sân bóng chày là được chơi cùng Babe Ruth, nhưng thần tượng bóng chày của cha lại là Lou Gehrig. Cha ngưỡng mộ tài năng, lòng kiên trì, và đức khiêm tốn của Gehrig. Ông mơ ước được theo chân Gehrig như một vận động viên chơi tại các giải đấu lớn. Sau trận đấu ở Yale, đã có một vài nhận định được đưa ra. Trong khi khả năng chạy cánh của cha tôi rất tuyệt vời, ông lại không có lực đánh đủ mạnh để chơi ở các giải lớn. Huấn luyện viên, Ethan Allen, nhận xét ngắn gọn theo kiểu cổ điển về cha tôi: “Chạy trên sân tốt, nhưng không đánh được bóng”.
Cha tôi cũng đã loại trừ nhiều sự lựa chọn khác trong nghề nghiệp. Vào tháng 6 năm 1948, ông bất ngờ nhận được thư của một người bạn thời thơ ấu, Gerry Bemiss. Bemiss hẳn đã biết cha là thành viên của đoàn mục sư. Trong khi cha tôi luôn là một người mộ
đạo, ông đã không bao giờ hình dung mình sẽ gây dựng sự nghiệp trong giới tăng lữ. “Khi nhìn tấm vải, tôi chưa bao giờ hình dung ra chiếc áo thầy tu - chỉ nghĩ về nó như một chiếc khăn trải bàn”, ông viết.
Một lựa chọn khác của cha tôi là làm việc cho chú của mình, George Herbert Walker Jr., hay còn gọi là ông Herbie. Herbie rất quý cha tôi. Trong những năm sau đó, tôi đã cảm nhận thấy sự quan tâm của ông với cha tôi như tình yêu ông trao cho con trai của mình. Ông bảo đảm với cha tôi rằng ông sẽ dành cho cha tôi một vị trí tốt trong một công ty tại phố Wall của mình. Cùng thời gian đó, Giám đốc Điều hành của Brown Brothers Harriman, công ty của Prescott Bush, cũng đã tiếp cận để mời cha tôi về làm việc.
Chẳng có gì ngạc nhiên khi mà George H.W. Bush được săn đón nhiều, bởi có rất ít người vừa là anh hùng thời chiến, vừa đạt được học vị xuất sắc Phi Beta Kappa, và làm đội trưởng đội bóng chày. Cha đã nhận lời mời vào làm việc tại phố Wall một cách nghiêm túc. Ông tôn trọng công việc mà cha mình đã làm, và muốn sử dụng tấm bằng kinh tế học vào thực tế. Ngoài ra, một công việc trong ngành tài chính có thể sẽ đảm bảo cuộc sống đầy đủ vật chất cho mẹ và tôi.
Tuy nhiên, điều gì đó thúc đẩy cha tôi sang một hướng khác. Phố Wall tượng trưng cho một con đường quá cũ. Sau khi từng bay trên chiến cơ thả bom, hạ cánh trên hàng không mẫu hạm, và tiếp xúc với vô số những con người thuộc mọi tầng lớp xã hội, ý tưởng hằng ngày bắt tàu đi từ Connecticut để đến nhiệm sở và làm việc bàn giấy tại New York dường như không còn thú vị đối với ông. Ông muốn được xây dựng một cái gì đó của riêng mình hơn là làm việc văn
phòng. Ông muốn làm một điều khác biệt với cuộc sống trước đây của mình. Và ông không ngại chấp nhận rủi ro.
Cha cũng muốn chứng minh rằng ông có thể thành công mà không có sự giúp đỡ từ gia đình. Tính độc lập đã ăn vào máu ông. Ông cố của ông, Obadiah Bush, đã đi đến phía tây với danh phận người Mỹ đi tìm vàng trong cơn sốt vàng. Ông nội của ông, G.H Walker, đã rời khỏi công ty gia đình ở St Louis để tự mình lập nghiệp ở New York. Cha của ông, Prescott Bush, tự hào rằng mình đã không nhận một xu nào từ cha mẹ.
Đó chính xác là những câu hỏi về những gì cần làm. Cha mẹ tôi đã đọc cuốn sách The Farm của Louis Bromfield, cuốn sách giới thiệu về những kinh nghiệm của người Mỹ để làm giàu trên mảnh đất trang trại riêng của mình. Cha mẹ tôi ấp ủ các ý tưởng này trong một thời gian nhưng quyết định cuối cùng họ nhận ra rằng các kinh nghiệm đó không phù hợp với họ. Tôi khó có thể tưởng tượng ra cảnh mẹ tôi vắt sữa bò.
Vào tháng 2 năm 1948, ông của cha tôi, S.P. Bush, mất. Cha tôi cùng gia đình và bạn bè đi trên một chuyến bay tới Columbus để dự tang. Trên đường đi, ông đã nói chuyện với Neil Mallon, một người bạn thân của Prescott Bush từ thời còn học ở Yale. Neil điều hành một công ty có tên Dresser Industries, đó là công ty bán thiết bị khoan và cung cấp vật tư cho các nhà khai thác dầu. Neil đề cập tới việc cha tôi nên xem xét làm việc cho Dresser. Cha tôi có thể học cách làm thế nào một doanh nghiệp vận hành từ con số không: quản lý kiểm kê, kiểm soát doanh số bán hàng và giới thiệu sản phẩm ra thị trường. Ông có thể mắt thấy tai nghe một ngành công nghiệp hấp dẫn, đó là kinh doanh dầu. Có một điều lưu ý: Ông sẽ phải tới khắp
các mỏ dầu của toàn bộ lưu vực Permian - một khu vực bị cô lập, bụi bặm, cực nóng ở Tây Texas, nơi cư trú của các chủ trang trại với những đồn điền chăn nuôi rộng lớn và những công nhân trên giàn khoan, cùng rất nhiều dầu.
Đây là cơ hội hấp dẫn cha. Ông đã đọc các bài viết về sự bùng nổ dầu ở Texas, nơi các doanh nhân thành công như H.L. Hunt và Clint Murchison có được vận may. Ông rất thích quãng thời gian ngắn ngủi ở Corpus Christi trong suốt chuyến bay huấn luyện thời ông còn trong lực lượng Hải quân. Và có một điều chắc chắn: ông sẽ tự mình xoay xở. Prescott Bush và G.H. Walker có cái bóng rất lớn, nhưng nó không vươn xa đến Odessa, Texas.
Ngay sau lễ tốt nghiệp, Neil giới thiệu cho cha tôi công việc ở công ty con của Dresser mang tên Ideco, công ty thiết bị Derrick quốc tế. Ông đã chấp nhận. Không có gì ngạc nhiên khi cha tôi có vị trí tốt vì mối quan hệ của gia đình. Tôi được hưởng lợi từ mối quan hệ này trong cuộc đời mình. Tôi thật may mắn khi có bạn bè và người thân trong gia đình tạo cơ hội cho tôi. Nhưng mối liên kết này cũng có giới hạn. Mặc dù họ tạo cơ hội giúp đỡ nhưng cũng không đảm bảo sẽ thành công.
Trong trường hợp của cha tôi, Neil Mallon đã giúp cha tôi có một công việc bán hàng thiết bị tại một nhà kho Ideco tại Odessa với mức lương 375 đô la một tháng. Nhiệm vụ của một nhân viên bán hàng bao gồm lau dọn các tầng, sắp xếp hàng tồn kho, điều khiển giắc cắm. Ông sẽ gặp gỡ nhiều người thú vị và suy nghĩ liệu ông có thích kinh doanh dầu hay không. Ngoài ra, chẳng có gì bảo đảm.
Lần thứ hai trong cuộc sống thời trẻ của mình, George H.W. Bush đã có một quyết định táo bạo và thay đổi cuộc sống. Là một học sinh trung học, ông đã từ bỏ sự an toàn trong các trường đại học để phục vụ cho chiến tranh. Bây giờ ông đã để lại sau lưng cuộc sống tiện nghi ở Greenwich, Connecticut và đưa người vợ trẻ và con trai mới sinh đến Tây Texas.
George Bush đã không đưa ra quyết định một mình. Barbara Bush cũng quyết định cùng với ông. Di chuyển đến Tây Texas không phải là một quyết định dễ dàng đối với mẹ tôi. Bà đã trưởng thành trong gia đình tương đối giàu có ở hạt Westchester, New York. Cha bà, Marvin Pierce, đến từ tiểu bang Ohio, nơi ông ấy đã từng là một vận động viên ngôi sao tại trường Đại học Miami. Ông ấy là một người cao lớn, thân hình vạm vỡ, một người có nguyên tắc làm việc rất nghiêm khắc và nét quyến rũ của người vùng Trung Tây để xây dựng một sự nghiệp thành công, trở thành Chủ tịch Tổng công ty McCall, tại thời điểm đó nó là một trong những công ty xuất bản lớn nhất nước Mỹ.
Mẹ của bà, Pauline Robinson Pierce, hậu duệ của James E. Robinson, một Chánh án Tòa án tối cao bang Ohio. Bà ấy thừa hưởng vị trí của gia đình trong hệ thống xã hội và tiêu tiền hoang phí để có cuộc sống mà “mọi thứ đều phải tốt nhất”. Bà ấy giám sát con cái rất chặt chẽ; bà ấy đã mua toàn bộ quần áo cho mẹ tôi và quyết định trường trung học lẫn đại học cho mẹ. Bà ấy cưng chiều hết mực chị gái của mẹ tôi, Martha - một người mẫu thường xuất hiện trên tạp chí thời trang Vogue. Bà Pierce đặt niềm tin vào một cuộc sống được thanh lọc tinh tế.
Tôi có thể tưởng tượng nỗi sợ hãi của bà ấy khi con gái mình có ý tưởng sống ở Tây Texas, nơi chỉ có một thứ duy nhất được thanh lọc là dầu.
May mắn thay, cha tôi đã không phải thuyết phục Pauline Pierce. Ông chỉ cần thiết thuyết phục mẹ. Đó không phải một sự ép buộc. Sau này mẹ nói với tôi, “mẹ còn trẻ và đang yêu. Mẹ đã có thể đi bất cứ nơi nào mà cha con muốn đi”.
Tôi nghĩ rằng mẹ thích đi vì bản thân hơn là hy sinh vì cha. “Giáng sinh là một cơn ác mộng”, bà nói với tôi. “Cả nhà sẽ dành đêm Giáng sinh tại Greenwich với gia đình bên nội Bush. Rồi, vào buổi sáng Giáng sinh với gia đình bên ngoại ở Rye. Sau đó trở lại Greenwich cho bữa trưa Giáng sinh.” Chuyển nhà về miền Tây sẽ giúp bà giảm áp lực của việc làm con trong hai gia đình.
Mặc dù bà có thể không nhận ra rằng vào thời điểm đó, bà có tính độc lập. Nếu không, bà sẽ không trở thành đối tác phù hợp trong việc tìm kiếm cuộc phiêu lưu mới. Tôi chỉ có thể đoán rằng cuộc sống của cha sẽ trở nên khác đi nếu có người vợ thiếu tinh thần cởi mở thích nghi trước những thay đổi. Lịch sử có thể đã khác.
Một trong các câu chuyện gia đình mà tôi yêu thích xảy ra không lâu sau khi cha mẹ tôi kết hôn. Đó là chuyện mẹ châm một điếu thuốc, và ông tôi Prescott Bush hỏi đùa, “Cha đã cho phép con hút thuốc chưa?”.
Trước khi có thể kìm lại được, mẹ tôi đáp trả, “Vâng, người con kết hôn không phải là cha, phải không?”.
Thường chẳng ai nói với ông của tôi như thế. Lời đáp lại sắc nét vừa bật ra. May mắn là ông tôi đáp lại với một nụ cười lớn. Chỉ có một điều chắc chắn: Barbara Bush sẵn sàng nói lên suy nghĩ của mình. Đó là điều mà bà thực hiện khá thường xuyên trong những năm sau đó. Đầu óc lanh lợi và sự tự tin đã giúp bà được hàng triệu người Mỹ yêu mến. Việc bà nói lên suy nghĩ của mình khác nhiều so với những đệ nhất phu nhân khác. Nhưng kết quả của việc giao tiếp thẳng thắn đó của bà đã giúp nhiều người Mỹ hiểu và yêu thương chồng mình. Nhiều người nói thẳng với tôi rằng bất cứ ai kết hôn với Barbara Bush hẳn phải là một người đàn ông tốt phúc.
Mùa hè năm 1948, George H.W. Bush có hai nhiệm vụ trước mắt: một là bắt đầu công việc của ông, và hai là tìm nơi cho mẹ và tôi sống. Trong khi ông tìm nhà ở Odessa, Texas, chúng tôi ở lại với ông cố của tôi, G.H. Walker, tại nhà nghỉ mát của ông ở Kennebunkport, Maine.
Cuộc sống ở Walker’s Point thoải mái hơn ở Tây Texas. Trong những ngày đó, Odessa là một thị trấn dưới ba mươi nghìn dân, nằm cách thành phố chị em của nó, Midland, 20 dặm và hơn 350 dặm từ sân bay chính gần nhất tại Dallas. Hầu hết các con đường không lát đá. Vài tòa nhà cao hơn một tầng, đường chân trời có các giàn khoan dầu nằm rải rác. Nhiệt độ mùa hè thường lên tới ba con số2, đôi khi trước buổi trưa, và hạn hán kéo dài rất phổ biến. Địa hình phẳng không mang lại sự thoải mái dễ chịu, cũng chẳng có bất kỳ bóng râm tự nhiên nào, vì Tây Texas không có cây bản địa. Và những cơn gió thổi mạnh hơn, thường mang theo những đợt sóng của bụi bẩn.
2 Theo thang nhiệt độ Fahrenheit (F) đang được sử dụng rộng rãi ở Mỹ.
Tên của Odessa được đặt theo tên của thành phố Ukraina giáp với Biển Đen, và ngay từ đầu, nó như một thành phố xa lạ đối với cha tôi. Ông không quen biết bất kỳ ai khi mới đến. Người ông gặp đều giống như những người trong quân ngũ hơn là những người hàng xóm. Odessa là một thị trấn cổ, người dân đều làm việc ở các mỏ dầu, họ là những người thợ cơ khí sửa chữa thiết bị và những người làm công trên giàn khoan. Một trong những đồng nghiệp của cha tôi đã từng hỏi ông rằng ông đã từng đi học đại học hay chưa. Cha trả lời thành thật ông vừa tốt nghiệp Đại học Yale. Người đồng nghiệp nghĩ một lúc và nói: “Tôi chưa bao giờ nghe tới tên trường đó”. Thời trang ở Tây Texas cũng khác. Cha từng bước ra khỏi nhà khi ông chỉ mặc quần soóc ngang gối. Sau khi một số tài xế bấm còi inh ỏi nhìn ông, ông liền trở về nhà và cất hết quần soóc mãi mãi không mặc lại nữa. Thức ăn thậm chí cũng xa lạ. Cha tôi luôn nhớ lần đầu tiên ông nhìn thấy một người nào đó đã gọi món ăn đặc trưng của Tây Texas: bít tết gà chiên.
Cha tìm được một ngôi nhà trên đường Số 7 phía Đông. Điều đáng mừng là nó có phòng tắm và nhà vệ sinh bên trong, khác với hầu hết các ngôi nhà còn lại trên con đường này có nhà tắm và vệ sinh tách xa nơi ở. Tin xấu là chúng tôi phải dùng chung nhà vệ sinh với hai phụ nữ sống ở phía bên kia tòa nhà, đó là một cặp mẹ và con gái cùng kiếm sống bằng cách mua vui cho khách hàng nam giới hằng đêm. So với ngôi nhà này thì phòng số 13 bên cạnh nhà của Chủ tịch Đại học Yale dường như không đến nỗi tồi tệ.
Cuộc sống ở miền Tây Texas đòi hỏi chúng tôi phải thay đổi nhiều. Ít lâu sau khi tôi cùng mẹ đến ở với cha tại Odessa, mẹ thức giấc lúc nửa đêm khi ngửi thấy mùi khí đốt. Nghĩ rằng ngôi nhà có thể bị nổ, bà chộp lấy tôi và đẩy tôi ra ngoài đường. Người hàng xóm chứng kiến cảnh chúng tôi tháo chạy khỏi ngôi nhà đã vui vẻ giải thích rằng sự thay đổi của hướng gió đã mang mùi của mỏ dầu bay tới đây. Không có vấn đề gì. Tất cả chúng tôi có thể tiếp tục đi ngủ. Kinh nghiệm này của mẹ xác nhận một sự thật về Tây Texas: Cuộc sống xoay quanh dầu. Dầu ở dưới đất, ở trong không khí, và len lỏi vào tâm trí của tất cả những người đang coi nơi này là nhà.
Chìa khóa cho sự thành công của cha mẹ tôi khi đến một môi trường mới là thái độ của họ. Họ không nhìn nhận cuộc sống ở miền Tây Texas như một cuộc sống đầy gian khổ khiến họ phải chịu đựng; họ nắm lấy nó như một cuộc phiêu lưu mạo hiểm đầu tiên giống nhiều cặp vợ chồng khác. Họ quan tâm đến mọi người và kết bạn với nhiều người. Trong quá trình đó, họ nhận ra rằng họ không cần tài xế riêng hay quản gia người Pháp để có thể hưởng thụ cuộc sống. Họ có nhau. Và họ có thể cùng nhau xử lý bất kỳ tình huống nào.
Cả ba chúng tôi đã đón Giáng sinh năm 1948 tại Odessa. Vào đêm Giáng sinh, công ty của cha tổ chức một bữa tiệc cho khách hàng. Cha tình nguyện pha chế đồ uống. Để thể hiện tinh thần ngày lễ, ông đã nâng một ly có pha hầu hết các loại rượu. Đến cuối buổi chiều, những người phục vụ quầy rượu đã giúp đưa ông vào phía sau chiếc xe tải nhỏ của công ty. Một trong những đồng nghiệp của ông đã đưa ông về nhà, và đẩy ông lăn vào bãi cỏ trước nhà. Gia đình nhà Bush đã thích nghi hoàn toàn với bụi rậm miền Tây Texas.
* * *
Mẹ không bao giờ muốn cha quên câu chuyện trong bữa tiệc Giáng sinh của Odessa, vì nó là điển hình cho cách làm việc của ông: Khi cam kết sẽ làm một cái gì đó, ông sẽ làm tất cả. Nếu George Bush được phân công quét các kho hàng, người quản lý sẽ nhìn thấy sàn sạch nhất mà ông ta chưa bao giờ nhìn thấy. Nếu phải sơn giàn khoan, ông sẽ mang đến một chiếc áo khoác vào buổi sáng thứ Bảy để đảm bảo các công việc thực hiện đúng. Cha tôi làm việc rất chăm chỉ, và ông thích nhìn thấy kết quả của những nỗ lực của mình. Những bài học của bà nội tôi đã ăn sâu vào suy nghĩ của ông: cố gắng làm hết sức mình. Không kiêu ngạo. Không bao giờ phàn nàn.
Sau một thời gian, những người quản lý nhận ra rằng thực tập sinh của họ có khả năng làm những việc lớn hơn. Vậy là vào năm 1949, khi tôi ba tuổi, cha được chuyển đến California. Ở đó, ông làm việc bảy ngày một tuần trong nhà máy bơm dầu, sau đó trở thành một nhân viên chào hàng cho các công ty con của công ty Dresser, rao bán mũi khoan và thiết bị khác. Chúng tôi sống ở bốn thành phố khác nhau trong năm đó: Whittier, Ventura, Bakersfield, and Compton. Ở Whittier và Ventura, chúng tôi đã thuê phòng tại các khách sạn địa phương cho đợt nghỉ dài. Ở Bakersfield, chúng tôi sống một tháng trong một ngôi nhà màu trắng rộng 88 mét vuông. Ở Compton, chúng tôi sống trong một căn hộ thuộc khu liên hợp ở Santa Fe Gardens. (Thật đáng buồn, khu liên hợp này đã bị lên án nhiều năm nay vì ma túy và bạo lực.)
Lối sống nay đây mai đó của chúng tôi tại California nói lên sự kiên cường của mẹ, người phải liên tục đóng gói và dỡ đồ đạc ra,
cũng như chăm sóc tôi. Trên hết, bà đã mang thai em gái tôi, Robin, em ra đời vào dịp Giáng sinh năm 1949. Chúng tôi sống ở Compton trong thời gian này. Mẹ tôi muốn chắc chắn rằng ai đó có thể trông nom tôi khi bà ở bệnh viện, vì vậy bà hỏi hàng xóm của chúng tôi, người mà bà coi là bạn bè. Hàng xóm đã đồng ý. Không bao lâu trước khi mẹ chuyển dạ, bà biết được là người hàng xóm ấy đã mang con chạy trốn vì bị người chồng nát rượu bạo hành quá nhiều lần. Có quá nhiều vấn đề với người trông giữ tôi. Bằng cách nào đó mẹ đã tìm được một người thay thế (không ai nhớ người đó là ai), và em gái Robin của tôi được sinh ra vào ngày 20 tháng 12 năm 1949.
Robin đã được đặt theo tên của bà tôi, Pauline Robinson Pierce, người đã mất trong tai nạn xe cộ ba tháng trước. Ông tôi không chịu để cho mẹ tôi đến tham dự tang lễ vì sợ rằng chuyến đi sẽ gây nguy hiểm cho em bé. Thật khó khăn cho mẹ khi không được ở bên cạnh cha mình - người mà bà quý mến - trong thời gian ông ấy đau buồn nhất.
Những năm tháng ở California cũng không dễ dàng đối với cha tôi. Phần lớn thời gian ông dành để di chuyển trên đường. Ông ước tính rằng mình phải lái xe đi quãng đường một ngàn dặm mỗi tuần. Không phải là người giảo hoạt, nhưng ông đã phát triển một phương pháp kinh doanh hiệu quả. Ông vun đắp các mối quan hệ cá nhân, như cách ông đã làm trong trường học và quân đội. Theo thời gian, ông đã mang đến cho khách hàng những thứ còn quý hơn cả mũi khoan: Ông đã giành được sự tin tưởng của họ.
Mùa xuân năm 1950, cha tôi nhận được tin rằng Dresser đã chuyển ông trở lại Tây Texas. Ông có thể chọn sống ở một trong hai
nơi: Odessa hoặc Midland. Là một người cha hai mươi lăm tuổi của hai đứa con, ông muốn ổn định cuộc sống. Cha và mẹ đã chọn sống ở Midland, khi đó là trụ sở của 215 công ty dầu với khoảng 21.000 người dân. Chúng tôi sẽ coi Midland là nhà trong chín năm tiếp theo. Đây là thành phố đầu tiên mà tôi nhớ mình đã sống, và nó sẽ mãi mãi là quê hương của tôi.
* * *
Midland, Texas, được lấy tên từ vị trí của khoảng giữa Fort Worth với El Paso Texas và trên tuyến đường sắt Thái Bình Dương. Giống như Odessa, Midland đẩy bạn đến cảm giác của cuộc sống với những cực điểm. Tôi nhớ cha tôi đi vào sân sau của ngôi nhà chúng tôi đang sống ở Midland và phải chiến đấu với một con nhện độc lớn trên mái hiên bằng một cây chổi. Những sinh vật nhiều lông thường chạy rất nhanh. Cha đã phải vận dụng tất cả kỹ năng của một tiền vệ bóng chày để tránh những tổn hại có thể xảy đến với tổ ấm bình yên của mình.
Trong khi Midland và Odessa có địa hình tương tự nhau, thì dân cư ở hai thành phố này lại rất khác nhau. Hầu hết mọi người ở Odessa làm cho công nghiệp dầu khí; còn người ở Midland làm văn phòng. Giống như Odessa, Midland là một thành phố cảng, và thật khó để tìm được nhà ở. Chúng tôi đã sống một thời gian ngắn tại một khách sạn, sau đó chuyển vào một ngôi nhà 78 mét vuông mới ở vùng ngoại ô thị trấn. Các khu phố được gọi là Dãy phố Trứng Lễ Phục sinh, bởi các kiến trúc sư đã lựa chọn màu sơn rực rỡ để giúp cư dân phân biệt nhà. Trứng Phục sinh của chúng tôi tọa lạc tại số 405 đường Đông Phong (East Maple), có màu xanh dương.
Midland vào những năm 1950 có nét cá tính đa sắc. Có những người túng quẫn trong một ngày và giàu lên ngay sau đó. Có những gia đình làm trang trại nhiều đời trên mảnh đất này trước khi diễn ra các cuộc đình công của công nhân mỏ dầu. Có những người Texas từ các vùng khác của bang, đặc biệt là sinh viên tốt nghiệp của trường Đại học Texas và Đại học Texas A & M. Cha tôi là một phần trong số rất ít sinh viên tốt nghiệp từ nhóm các trường đại học tinh hoa nhất đã từ chối cơ hội phía bờ Đông để cọ xát trong nghề thầu khoán ở vùng có trữ lượng dầu lớn. Có những chuyên gia mang đến các dịch vụ hỗ trợ cho ngành công nghiệp dầu: bác sĩ, chủ ngân hàng, luật sư, giáo viên, và các nhà xây dựng, trong đó có một người đàn ông tên là Harold Welch có cô con gái duy nhất, Laura Lane, người mà tôi sẽ kết hôn vào nhiều năm sau đó tại nhà thờ First United của những người theo Hội Giám lý vùng Midland.
Midland là một vùng đất đầy cạnh tranh. Những người làm trong ngành dầu phải đánh bại hàng xóm của họ để giành hợp đồng thuê đất và quyền sử dụng đất. Sự không chắc chắn của ngành kinh doanh đã có ảnh hưởng công bằng. Bất cứ ai cũng có thể thắng lớn; ai cũng thể khoan một lỗ thăm dò. Ngành kinh doanh đòi hỏi sự chăm chỉ và đầu tư cho khoa học, nên mỗi người bán dầu luôn mong chờ vận may. Tuy nhiên, Midland cũng thúc đẩy ý thức cộng đồng. Mọi người liên kết với nhau trong môi trường khắc nghiệt và bị cô lập.
Cuộc sống ở miền Tây Texas rất đơn giản, giống như tên của các thị trấn dọc theo con đường đầy bụi của nó: Big Lake (chỉ một hồ nước), Big Spring (chỉ một ít nước), và No Trees (thậm chí không một giọt nước). Tôi và những người bạn thân thường ở ngoài trời cả
ngày, chơi bóng chày hay bóng đá. Vào những ngày thứ Sáu mùa thu, từng dòng người nối nhau vào sân vận động Memorial Midland để xem đội Midland High Bulldogs. Một trong những cầu thủ tôi yêu thích là Midland Wahoo McDaniel, người sau này là ngôi sao của đội Sooners Oklahoma, New York Jets, và các trận đấu vật chuyên nghiệp. Vào các buổi sáng Chủ nhật, hầu hết mọi người đến nhà thờ. Bây giờ nhìn lại, tôi có thể thấy lý do tại sao cha mẹ tôi thích Midland nhiều như vậy. Sự hòa trộn của tinh thần cạnh tranh và cộng đồng chính là những gì cha đã được dạy bảo từ nhỏ. Ông đã mang những giá trị đã học được từ quê nhà và gieo chúng xuống giữa sa mạc Texas.
Một vài tháng sau khi chúng tôi tới Midland, cha tôi bất ngờ nhận được lá thư từ Tom McCance, một nhà điều hành tại Brown Brothers Harriman. Công ty này tiếp tục mời cha tôi làm việc. Kiến thức của cha về ngành dầu khí ở Texas sẽ trở nên có giá ở phố Wall. Lời đề nghị này có thể tạo một lối thoát hoàn hảo. Cha mẹ tôi có thể nói rằng họ thích cuộc sống ở Tây Texas, họ đã học được nhiều điều mới lạ và nay sẵn sàng để quay trở lại cội nguồn của mình. Nhưng họ đã không làm như vậy. Cha tôi cảm ơn sự hào phóng của ông McCance, nhưng cha từ chối lời đề nghị làm việc. Ông đã đặt cược sự nghiệp của mình ở Tây Texas.
Những kỷ niệm ấm áp nhất của tôi trong những năm ở Midland là khoảng thời gian tôi ở bên cha. Ông luôn bận rộn với công việc gây dựng công ty và những chuyến công tác. Ông tích cực hoạt động trong cộng đồng, giảng dạy ở lớp học Chủ nhật tại nhà thờ First Presbyterian và là trưởng nhóm tài xế quyên góp gây quỹ cho United Way và Hội nam thanh niên Công giáo (YMCA). Tuy nhiên,
tôi không bao giờ cảm thấy ông đang đi vắng. Ông luôn cố gắng hết sức giành nhiều thời gian nhất trong khả năng có thể cho các con. Như em trai của tôi, Jeb, đã nói, George H.W. Bush đã sáng tạo ra cụm từ mới, thời gian ông dành cho gia đình là “thời gian chất lượng”. Đi làm về, ông tháo găng tay ra và chơi bóng chày với tôi ngay trong sân nhà của chúng tôi tại 1412 Đại lộ Tây Ohio, nơi chúng tôi chuyển tới từ năm 1951. Ngôi nhà đó hiện là Ngôi nhà Thời thơ ấu của George W. Bush. (Tôi đã luôn thắc mắc tại sao bảo tàng không gọi đó là Ngôi nhà của George H.W. Bush đồng thời là nơi George W. Bush sống thời thơ ấu).
Vào những ngày cuối tuần, cha và bạn bè của ông đưa tôi đi săn chim bồ câu - thú vui vào ngày nghỉ của những người ở miền Tây Texas. Tôi mang theo khẩu 410 được cha tặng dịp Giáng sinh sau khi tôi thuyết phục cha rằng tôi đã nắm vững những bài học sử dụng súng an toàn. Chúng tôi thường tập trung quanh một hồ nước ở giữa vùng đất khô, làm bánh kẹp trong lò nướng xách tay và chờ đến khi mặt trời lặn với hy vọng chim bồ câu sẽ bay đến đây khi chúng khát nước. Cha cũng đưa tôi đến các giếng dầu, nơi tôi có thể đến gần để xem giàn khoan và những chiếc máy bơm đang vận hành. Những chuyến đi đã kích thích tôi quan tâm tới việc kinh doanh dầu, lĩnh vực mà sau này tôi đã theo đuổi nó bằng cách trở thành một nhà kinh doanh dầu độc lập giữa thập kỷ 70.
Nhà của chúng tôi trở thành trung tâm của các hoạt động. Một hôm cha đưa về một kỹ sư từ Nam Tư ông đã gặp khi kinh doanh dầu. Ông ấy ở lại nhà chúng tôi một tuần, cha tôi dẫn ông ấy đi xem các giếng dầu ở Tây Texas. Có một mùa hè ở Midland, em trai của cha tôi, Bucky, ít hơn cha tôi mười bốn tuổi, và bạn cùng học với chú
ấy, Fay Vincent – người sau này trở thành Ủy viên hội đồng Liên đoàn Bóng chày chuyên nghiệp, tới sống với chúng tôi để làm công nhân giàn khoan dầu.
Cha mẹ tôi liên tục mời hàng xóm đến tiệc thịt nướng ngoài trời ở sân sau hoặc thưởng thức các loại rượu pha nước trái cây. Tôi nhớ vào một dịp Giáng sinh, tôi nhận được quà là một chiếc tù và, tôi đã thổi nó nhiều quá, vì thế cha tôi đã lấy lại và đập vỡ nó. Vài ngày sau, một trong những người hàng xóm của tôi mua được chiếc tù và giống như thế, đã gọi điện tới nhà tôi cho tới khi cha tôi nhấc máy trả lời, sau đó thổi còi vào điện thoại. Một lần khác, cha tôi bày trò trêu đùa người bạn tốt và là đồng môn của cha ở Đại học Yale, Earle Craig, người rất thích ăn hành tăm khi uống rượu martini. Một đêm, cha tôi bỏ mấy củ hành bằng cao su vào ly martini của chú ấy. Khi Bá tước (nhiều người bạn gọi vui Earle Craig là Earl Craig, tức Bá tước Craig) ăn hết củ hành bằng cao su một cách đầy kịch tính, tất cả những người bạn đứng xung quanh phá lên cười sằng sặc. Chú Earle lúc đó mới biết mình bị trêu. Cuộc sống ở Midland đã đong đầy tình bằng hữu và vô tư như vậy.
Tôi không nhớ nhiều về các cuộc trò chuyện của chúng tôi trong những năm đó, nhưng có thể dám chắc hầu hết thời gian, tôi nói chuyện với cha về trường học hoặc các môn thể thao. Cha tôi không phải là người thích giảng giải về chính trị và triết học. Ông dạy chúng tôi bằng cách làm gương cho chúng tôi noi theo. Nếu tôi thắc mắc, cha luôn có câu trả lời. Ông luôn đưa ra lời khuyên hữu ích.
Khi mới sáu tuổi, tôi cùng một số người bạn tới một cửa hàng bách hóa ở Midland. Tôi nhìn thấy những chú lính đồ chơi bằng nhựa trong một cái lọ đặt trên kệ hàng. Tôi quyết định lấy chúng cho
vào túi và ra khỏi cửa hàng mà không trả tiền. Vào cuối ngày hôm đó, cha thấy tôi chơi những chú lính đồ chơi ăn cắp ở sân trước.
“Chào con trai”, ông nói. ”Con đang làm gì ở đây?”
“Con chơi lính”, tôi nói.
“Con lấy những chú lính này ở đâu?”, ông hỏi.
Tôi do dự. Ông hỏi một lần nữa.
Sau khi do dự một chút, tôi thú nhận. ”Con đã lấy chúng từ cửa hàng bách hóa”, tôi nói.
“Đi với cha”, ông nói. Chúng tôi ra xe và lái xe tới cửa hàng. Cha bảo tôi tự đi vào cửa hàng một mình, đem trả lại những chú lính và xin lỗi người quản lý vì đã đánh cắp chúng. Tôi đã làm theo những gì ông yêu cầu và cảm thấy hối hận về việc mình đã làm. Khi tôi trở lại xe, cha không nói thêm một lời nào. Ông biết mình đã làm xong những việc cần làm.
Hầu hết công việc chăm sóc các em tôi và tôi đều do mẹ đảm nhận. Mẹ lái xe đưa tôi đến sân tập bóng chày và ghi lại điểm số trong trận đấu của tôi, giống như khi bà ghi điểm số cho các trận bóng của cha. Mẹ trở thành mẹ nuôi của cả nhóm hướng đạo sinh, đi theo chúng tôi lên rừng quốc gia Carlsbad Caverns và sa mạc Sandhills Monahans. Mẹ luôn chào đón bạn bè của tôi đến ăn trưa hoặc ăn tối trong khoảng thời gian kết thúc giờ tập bóng chày chờ sang giờ tập bóng đá. Bà thiết lập kỷ luật khi cần thiết. Không như cha tôi, bà không tin tưởng tính hiệu quả của việc tế nhị và kín đáo với trẻ nhỏ. Một trong những kỷ luật bà thường áp đặt khi tôi còn nhỏ là rửa miệng bằng xà phòng khi tôi nói hoặc làm một điều gì đó
“bẩn thỉu”, ví dụ như khi mẹ bắt gặp tôi đi tiểu vào hàng rào. Hầu hết thời gian, bà để tôi tự do vui chơi và là một cậu bé có tinh thần tự do.
Cách cha mẹ nuôi dạy con cái phản ánh thái độ của cả thế hệ. Cha tôi dành nhiều thời gian cho chúng tôi hơn cha của ông dành cho ông, nhưng ông thời đó không dành hết tâm trí cho con cái như những người làm cha thời nay. Và họ cũng chẳng bộc lộ nhiều cảm xúc gần gũi với con như thời nay. Khi tôi còn nhỏ, cha không ôm hôn chúng tôi, và cha cũng không nói “Cha yêu con”. Nhưng ông chẳng cần nói ra. Chúng tôi luôn biết rằng cha yêu chúng tôi vô điều kiện.
Chúng tôi biết rằng cha mẹ tôi rất yêu nhau. Trong sáu mươi chín năm, tôi đã quan sát cuộc hôn nhân của cha mẹ tôi, tôi không bao giờ nghe thấy họ nói nhau nặng lời. Chắc chắn, có một chút xích mích và bất đồng quan điểm. Nhưng tôi chưa bao giờ cảm nhận thấy sự tức giận hay thất vọng nào. Sự hòa hợp, yêu thương của họ là nguồn gốc của sự vững vàng khi tôi còn nhỏ, và là nguồn cảm hứng cho tôi khi tôi quyết định cưới Laura.
Vào khoảng thời gian đó, các em của tôi và tôi không nhận ra chúng tôi vô cùng may mắn. Những người khác thì nhận ra điều đó. Tại buổi lễ kỷ niệm năm mươi năm tốt nghiệp trường phổ thông của Laura, người bạn thời thơ ấu của tôi, Mike Proctor, kéo tôi sang một bên để trò chuyện. Mike sống ở cùng một con phố với chúng tôi đến khi chúng tôi trưởng thành. Chúng tôi bằng tuổi nhau và học cùng lớp. Mike dành nhiều thời gian ở nhà chúng tôi. Chúng tôi đạp xe cùng nhau, chơi đá bóng với nhau và cùng là thành viên đội thiếu niên hướng đạo sinh. Không như tôi, gia đình của Mike có nhiều vấn đề nghiêm trọng.
Tại buổi họp mặt, Mike nói, “Có một việc mà tôi muốn nói với cậu từ lâu rồi. Tôi cần cậu giúp tôi một việc”.
“Tất nhiên rồi, Mike”, tôi nói. ”Chuyện gì vậy?”
“Hãy chuyển tới mẹ cậu lời cảm ơn của tôi.”
Cậu ấy tiếp tục, “Lúc đó, có lẽ cậu không nhận ra gia đình tôi không hạnh phúc. Chính lòng tốt của mẹ cậu đã cho tôi thấy một gia đình thật sự là như thế nào”.
Ngày hôm sau, tôi gọi điện cho mẹ và nói với bà những gì Mike đã nói. Tôi có thể nói rằng lời cảm ơn của Mike đã chạm tới trái tim bà.
“Nói với Mike là mẹ gửi tình yêu của mẹ cho cậu ấy”, bà nói.
Khi em gái tôi, Robin, được ba tuổi, mẹ nhận thấy em không khỏe. Khi mẹ hỏi em muốn làm gì, Robin nói chỉ muốn ngồi trên giường hoặc nằm trên bãi cỏ. Điều đó không bình thường với một đứa bé ba tuổi, vì vậy mẹ đã đưa Robin tới bác sĩ gia đình của chúng tôi ở Midland, Dorothy Wyvell.
Bác sĩ Wyvell đã tiến hành một số xét nghiệm. Mẹ lo lắng rằng kết quả không tốt khi bác sĩ gọi điện mời mẹ tôi quay trở lại phòng khám, và đi cùng với cha. Bậc phụ huynh nào cũng có thể tưởng tượng được nỗi đau khi bác sĩ thông báo về bệnh của con. Bác sĩ Wyvell nói với cha mẹ tôi rằng kết quả xét nghiệm máu của Robin cho thấy em tôi đã bị bệnh bạch cầu. Không chỉ gây bệnh cho em tôi mà số lượng tế bào máu trắng của em ấy đã cao vượt mức cho phép, chỉ số cao nhất mà bác sĩ Wyvell từng thấy.
Cha mẹ tôi biết là em bị bệnh, nhưng họ không thể tưởng tượng được tình trạng bệnh tật đến mức này. Cuối cùng cha tôi hỏi, “Bước tiếp theo là gì? Chúng tôi nên chăm sóc cháu như thế nào?”.
Khi bác sĩ Wyvell trả lời, đôi mắt của cô ấy đong đầy nước. Cô ấy không chỉ là bác sĩ của gia đình tôi; trong mối quan hệ khăng khít ở Midland, cô ấy còn là một người bạn. “Anh không thể làm được gì”, cô ấy nói. “Con bé có lẽ chỉ còn sống vài tuần nữa. Anh nên đưa con bé về nhà và làm mọi việc có thể làm để cho con bé thoải mái.”
Cha tôi không thể chấp nhận được rằng chẳng có hy vọng gì để cứu cô con gái nhỏ của mình. Ông về nhà và gọi điện cho anh trai của mẹ mình, bác sĩ John Walker, tại Memorial Sloan Kettering, bệnh viện ung thư tốt nhất ở New York. Bác của cha cho biết một số tiến bộ mới nhất trong y học có thể giúp Robin. Ông cũng khẳng định những gì bác sĩ Wyvell đã nói: bệnh bạch cầu ở trẻ em không có cách chữa trị.
Cha mẹ tôi đã đưa Robin đến New York. Họ biết đây là một canh bạc, nhưng họ không thể vứt bỏ con gái mình. Như bác sĩ Walker nói với cha tôi, “Cháu sẽ không bao giờ có thể đối mặt với chính mình nếu cháu không cố gắng để chữa trị cho con bé”.
Cha mẹ tôi chưa bao giờ thực sự nói với tôi những gì đang xảy ra. Họ chỉ nói rằng Robin bị ốm và rằng em ấy cùng mẹ cần đến New York gặp ông John để chữa bệnh. Cha tôi như con thoi qua lại giữa New York và Midland. Đôi khi bệnh thuyên giảm, em tôi được về nhà vài tuần. Sau đó con bé bị đau trở lại, và họ lại bay đi New York. Khi cha mẹ tôi đi, họ để tôi và em trai tôi, Jeb, mới sinh vài
tháng trước đó, ở lại với bạn bè và hàng xóm ở Midland. Họ đã thay thế cha mẹ chúng tôi mà không chút tính toán.
Cha mẹ đối diện với căn bệnh của Robin theo những cách khác nhau. Cha tôi hoạt động như một cơn lốc. Khi ở New York, ông gặp gỡ với bác sĩ, xem kết quả kiểm tra và hỏi về phương pháp điều trị mới. Ở Texas, ông ra từ sáng sớm, dừng lại ở nhà thờ cầu nguyện cho Robin, và sau đó quăng mình vào công việc. Nhìn lại những việc làm đó, tôi có thể thấy rằng hoạt động điên cuồng là cách ông đối phó với sự bất lực của bản thân. George Bush, phi công Hải quân, người bơi đến chiếc bè cứu sinh và chèo lái ra khỏi cõi chết, có thể cảm thấy không thể chịu đựng nổi khi chẳng thể làm bất cứ điều gì cho cô con gái nhỏ yêu thương.
Trái ngược với chuyến đi liên tục của cha tôi, mẹ tôi dành hầu hết thời gian bên giường bệnh của Robin, chơi với con bé, đọc sách cho con bé nghe, và cố gắng để giữ vững tinh thần. Bà ở với gia đình Walker tại New York, và các thành viên gia đình thường ghé qua bệnh viện để hỗ trợ. Ông cố của tôi, G.H. Walker - bảy mươi tám tuổi, đang sống những năm cuối đời - đã dành thời gian dạy Robin chơi bài. Em Robin gọi là trò chơi bài Poppy, biệt danh gia đình dành cho cha tôi.
Phương pháp điều trị của Robin rất đau đớn. Việc sử dụng hóa trị liệu và truyền máu làm cạn kiệt sức khỏe của con bé. Mẹ tôi đặt ra một quy định: không được khóc trước mặt Robin. Cha tôi có khoảng thời gian vô cùng khổ sở khi tuân thủ nguyên tắc này. Mẹ ngồi nhẫn nhịn bên cạnh và an ủi con gái mình khi con bé phải chịu đựng những cơn đau của quá trình điều trị. Như người viết tiểu sử Richard Ben Cramer đã mô tả hình ảnh mẹ tôi trong những ngày đó,
“Đó là sức mạnh phi thường - một hành động anh dũng của ý chí và tình yêu”.
Một ngày, khi Robin đang nghỉ ngơi, mẹ đi thăm ông bà nội ở Greenwich, Connecticut. Ông tôi, Prescott Bush, vừa được bầu vào Thượng viện Mỹ, đã đưa bà đi một quãng đường dài qua nghĩa trang Putnam ở Greenwich. Ông đã chỉ cho mẹ tôi thấy nơi chôn cất mà ông bà đã chọn là nơi an nghỉ cuối cùng của họ. Ở đó còn chỗ để đặt thêm một tấm bia mộ. Đó là cách ông muốn nói với mẹ tôi rằng ông bà sẽ chăm sóc cho Robin khi chuyện gì phải đến sẽ đến, và rằng ông muốn cháu gái của mình được an nghỉ bên cạnh ông bà. (Nhiều thập kỷ sau đó, cha mẹ tôi đã di dời phần mộ của Robin đến mảnh đất nghĩa trang gia đình trong khuôn viên sau này sẽ xây thư viện Tổng thống Bush cha tại College Station, Texas.
Cuối cùng chuyện đó cũng xảy đến vào ngày 11 tháng 10 năm 1953, Robin đã ra đi bình an sau bảy tháng điều trị. Trong những khoảnh khắc cuối cùng của con bé với cha tôi, Robin ngước nhìn ông với đôi mắt màu xanh tuyệt đẹp của mình và nói, “Con yêu cha hơn những gì con có thể nói”. Cha có thể đã nhắc đi nhắc lại lời nói đó trong suốt phần đời còn lại của mình.
* * *
Tôi còn nhớ như in ngày cha mẹ nói với tôi Robin đã qua đời. Một trong những giáo viên của tôi tại trường Tiểu học Sam Houston đã yêu cầu tôi và một người bạn cùng lớp mang máy ghi âm sang dãy nhà bên kia trường. Khi chúng tôi ra ngoài, tôi thấy cha mẹ tôi bước ra từ chiếc Oldmobile màu xanh hạt đậu của họ. Tôi không biết lý do tại sao họ lại tới đón tôi vào giữa buổi học. Khi tôi chạy
nhanh về phía chiếc xe, tôi nghĩ rằng mình sẽ nhìn thấy những ngọn tóc vàng của Robin ở ghế sau. Tôi rất vui mừng vì nghĩ rằng em tôi được trở về nhà. Nhưng khi tôi tới gần chiếc xe, con bé lại không ở đó. Mẹ ôm chặt tôi và nói rằng em đã rời xa chúng tôi mãi mãi. Trên đường về nhà, lần đầu tiên tôi thấy cha tôi khóc.
Sau cái chết của Robin, cha mẹ tôi bất ngờ thay đổi. Cha trở thành một người mạnh mẽ, giải quyết mọi việc tang lễ và hậu cần. Một trong những quyết định đầu tiên của cha mẹ là tặng thi thể của Robin cho nhóm bác sĩ Memorial Sloan Kettering. Các bác sĩ nói với cha mẹ tôi rằng họ có thể học hỏi từ việc nghiên cứu căn bệnh của con bé, và cha mẹ tôi hy vọng rằng cái chết của Robin có thể mang lại nhiều lợi ích cho những trẻ em đau khổ khác. Nghiên cứu ung thư ở trẻ em đã trở thành một mục tiêu trong cuộc sống của họ. Ngày nay, bệnh viện ung thư của trẻ em tại Trung tâm Ung thư MD Anderson ở Houston mang tên Robin của chúng tôi.
Sau bảy tháng cố gắng mạnh mẽ, mẹ tôi đã gục ngã. Bà phải chịu đựng những cơn trầm cảm trở thành căn bệnh bà thường gặp phải sau này. Ở tuổi hai mươi tám, mái tóc nâu đen của bà bắt đầu chuyển bạc.
Tuy còn quá nhỏ để hiểu một cách chính xác về sự ra đi của Robin, tôi cảm thấy rằng mẹ đã rất đau đớn. Sau đó bà nói với tôi rằng tôi đừng đi chơi với các bạn nữa để ở nhà với mẹ và cố gắng làm mẹ vui lên bằng những trò đùa. Cha tôi tìm cách để vực dậy tinh thần cho mẹ. Ông lên kế hoạch đưa gia đình đi thăm bạn bè và dần giúp mẹ tôi tiếp tục cuộc sống. Thay vì dằn vặt về sự ra đi của Robin, họ nhớ về khoảng thời gian đã được sống cùng con gái.
Sự ra đi của Robin không ảnh hưởng tới mối quan hệ của cha mẹ tôi, không giống như mối quan hệ của nhiều cặp vợ chồng bị phá vỡ khi một đứa con ra đi. Trong trường hợp của cha mẹ tôi, họ chia sẻ nỗi đau với nhau và cuộc hôn nhân của họ trở nên ổn định hơn. Khi họ cần nhau nhất, cả hai đều sẵn sàng để cùng nhau đi ba phần tư con đường.
Cha tôi không bao giờ nói nhiều về sự ra đi của Robin. Vào khoảng thời gian đó, mọi người không thảo luận về các chủ đề như thế. Một vài năm sau khi Robin qua đời, cha đã viết cho mẹ của ông một lá thư cảm động về cảm giác cô đơn của cha. ”Chúng con cần thấy một lọn tóc vàng khi cắt những mái tóc ngắn của tụi con trai. Chúng con cần một ngôi nhà búp bê trong đống đồ chơi đầy bóng, mũ và gậy”, ông viết. ”Chúng con cần một cô con gái.” Lời cầu nguyện của ông đã được trở thành hiện thực khi em gái tôi, Dorothy, chào đời vào năm 1959. Khi lần đầu tiên nhìn thấy bé trong bệnh viện, ông đã áp mặt lên cửa kính phòng hộ sinh và khóc.
Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1980, một nhà báo hỏi cha tôi liệu ông đã từng phải đối mặt bất kỳ “khó khăn cá nhân” nào hay chưa. Ẩn ý của câu hỏi là liệu một người có một cuộc sống đầy đủ như George Bush có trải qua những khó khăn như của người dân thường không.
Cha tôi có thể nói rằng ông đã bị bắn hạ bởi hỏa lực của địch trong Thế chiến thứ hai, hay rằng ông đã gần như chết vì nhiễm tụ cầu khuẩn ở trường trung học. Nhưng ông đã không kể những chuyện đó, mà nhìn chằm chằm vào phóng viên và hỏi: “Có bao giờ anh ngồi đó và nhìn con mình chết?”.
Nhà báo trả lời rằng, “Không”.
“Tôi đã trải qua điều đó trong sáu tháng”, cha nói.
Kết thúc cuộc phỏng vấn. Bất cứ ai đã từng mất đi một đứa con đều hiểu chính xác những gì ông muốn nói.
Cha tôi không bao giờ ngừng suy nghĩ về con gái mình. Tôi nhớ trong một thời gian dài, ông đã giữ khung ảnh khổ 3x5cm của con gái trên bàn làm việc của mình. Vào cuối cuộc đời mình, khi lập kế hoạch cho tang lễ của chính mình, cha hỏi mục sư của mình rằng liệu ông có thể gặp được Robin và mẹ của ông ở trên thiên đàng. Đó là hai người ông muốn gặp. Ông hỏi liệu Robin sẽ vẫn trông như một đứa trẻ, hay con bé vẫn “lớn lên” trong suốt sáu mươi năm kể từ khi ra đi. Điều đó còn là ẩn số tuyệt vời. Nhưng tôi nghĩ cha biết trong trái tim mình, ông sẽ được gặp lại cô con gái.
DẤN THÂN VÀO CON ĐƯỜNG CHÍNH TRỊ M
ới sống hai an mươi toàn lăm ở trường tuổi, George đại học Bush để đi chiến đã từ đấu bỏ cuộc bảo vệ tổ quốc với vai trò là một phi công hải quân trong suốt Thế chiến thứ hai. Ông đã từ bỏ công việc kiếm ra tiền ở phố Wall để học về kinh doanh dầu khí tại Tây Texas. Tinh thần phiêu lưu cùng lòng nhiệt huyết trước những thách thức mới đã khiến ông không thể đứng yên một chỗ. Trong vòng hai thập niên tiếp theo, cha đã thúc giục bản thân để dịch chuyển từ ranh giới này tới ranh giới khác. Trong sự nghiệp kinh doanh, ông đã có những bước tiến quan trọng như: từ một nhân viên bán hàng trở thành một doanh nhân, di chuyển từ thành phố nhỏ lên thành phố lớn, và từ kinh doanh dầu trên cạn đến khoan dầu ngoài khơi. Sự thành công trong lĩnh vực tài chính đã tạo động lực để cha tôi tiếp tục chuyển đổi bản thân một lần nữa, ông chuyển từ công ty tư nhân sang lĩnh vực dịch vụ công, từ làm chính trị địa phương đến sân khấu chính trị quốc gia. Không phải sự mạo hiểm nào cha tôi từng trải qua đều có cái kết tốt đẹp. Điều này đã dạy ông một bài học khác: “Nếu bạn không bỏ cuộc, cơ hội sẽ đến với bạn, không chỉ từ chiến thắng, mà còn đến từ sự thất bại”.
Khi còn làm cho Dresser Industries, George Bush từng chứng kiến việc kinh doanh dầu mỏ, và ông đã học hỏi được rất nhiều điều, những điều đó khiến ông rất muốn bước chân vào kinh doanh dầu mỏ bằng chính khả năng của mình. Và ngay sau đó ông đã tự đặt ra mục tiêu mới: trở thành một người kinh doanh dầu độc lập.
Trước khi cha tôi có thể tự bước đi trên con đường riêng, ông đã thông báo cho Neil Mallon rằng ông có kế hoạch rời khỏi Dresser. Như lời cha tôi kể lại, ông lo lắng trước cuộc gặp với Neil. Ông không muốn rời bỏ người đã giúp đỡ ông từ khi chập chững bước chân vào lĩnh vực kinh doanh. Khi cha tôi thông báo ông sẽ rời đi, Neil im lặng. Sau đó ông cầm tập giấy nhắc việc màu vàng lên và dành ba mươi phút để nói cho cha tôi biết rằng ông nên làm gì để bắt đầu khởi nghiệp kinh doanh. Cách giải quyết của Neil trong tình huống này là một ví dụ tuyệt vời cho cha tôi và tôi noi theo. Thay vì trách móc hay đứng trên lập trường của một người lãnh đạo thông minh, ông đã chọn cách động viên và cố vấn. Cha tôi vẫn biết ơn ông cho đến cuối cuộc đời. Cứ thử hỏi chú em trai tôi Neil Mallon Bush sẽ rõ điều này.
Cha tôi tiếp cận với một người bạn và cũng là người hàng xóm trước đây ở Dãy nhà Trứng Phục sinh, có tên John Overbey, với ý định bắt đầu một mối quan hệ với đối tác mới. Overbey tốt nghiệp trường Đại học Texas, rất am tường về các loại giấy phép và đặc quyền khai thác dầu mỏ, đặc biệt, Overbey rất nhanh nhạy khi tìm kiếm thông tin từ những chủ trang trại cũ, những người giám sát các công ty dầu mỏ và từ những người kinh doanh độc lập. Cha tôi có các kỹ năng khác.
Ông có những mối quan hệ tốt với các nhà đầu tư triển vọng, đặc biệt là tại bờ Đông.
Vào mùa xuân năm 1951, công ty dầu khí mang tên Bush - Overbey đã ra đời và đi vào hoạt động. Cha tôi thường xuyên di chuyển đến vùng bờ Đông để kiếm tiền. Những nhà đầu tư chính đầu tiên của công ty là các thành viên trong gia đình hoặc bạn bè,
gồm cả ông nội và chú của cha tôi là George Herbert Walker Jr., người đã rất hào hứng đặt cược vào đứa cháu trai yêu quý. Ông còn huy động tiền từ những nhà đầu tư như Eugene Meyer, tiếp đến là Chủ tịch của tờ báo Washington Post. Nhưng không may, tờ báo này đã không thường xuyên ủng hộ những người trong gia đình George Bush trong nhiều năm sau.
Cha tôi hăng hái huy động tiền vốn nhưng vô cùng thận trọng khi tiêu tiền. Bush - Overbey chỉ đầu tư những cổ phần nhỏ vào nhiều dự án, điều này có thể giảm thiểu rủi ro nhưng mang lại ít lợi nhuận. Hầu hết các buổi sáng, cha tôi đều đến văn phòng sớm, khởi động máy đánh chữ của mình, và viết thư cho những người mà ông từng gặp xung quanh thị trấn hoặc người ông gặp trong các chuyến đi, những người cho thuê tiềm năng, cũng như các nhà đầu tư. Trong nhiều năm sau, ông có thể đã áp dụng kỹ năng viết thư cần mẫn vào chính trị và ngoại giao. Tới nay, có hàng nghìn người trên thế giới có thể tìm thấy trong ngăn kéo bàn những lá thư cảm ơn do George Bush gửi tới.
Không quá xa văn phòng tại Bush - Overbey ở trung tâm thành phố là hãng Luật Liedtke và Liedtke. Bill và Hugh Liedtke là hai anh em đến từ Tulsa, bang Oklahoma, nơi cha của họ làm luật sư của tập đoàn Dầu mỏ vùng Vịnh. Người nhà Liedtke đã có kế hoạch xây dựng một công ty dầu mỏ độc lập, và họ cần đối tác có hoài bão lớn để giúp đỡ thực hiện kế hoạch này. George Bush là một ứng viên hoàn hảo, và cha tôi đã rất háo hức khi tham gia. John Overbey không thích cuộc sống đoàn thể, vì thế sau hai năm hợp tác với cha tôi, ông đã tự bước đi con đường của riêng mình và trở thành một doanh nhân dầu mỏ độc lập thành công.
Cha tôi đã đồng ý kêu gọi một nửa số tiền vốn cho công ty mới. Nhà Liedtke sẽ đầu tư nửa còn lại. Một lần nữa, cha tôi lại nhờ cậy chú của ông, Herbie, và bạn bè trên phố Wall. Họ từng nhận cổ tức đều đặn từ công ty cũ Bush - Overbey, và cha tôi đã thuyết phục họ rằng ông thậm chí có thể chi trả nhiều hơn thế nếu họ đầu tư vào công ty mới. Ông đã kêu gọi được nửa triệu đô la. Và nhà Liedtke cũng làm được như vậy.
Trước khi bắt đầu giao dịch, họ cần chọn tên mới cho công ty. Các đối tác của họ quyết định rằng tên của công ty nên bắt đầu bằng chữ A hoặc Z, để cái tên không bị chìm nghỉm vào giữa cuốn sổ danh bạ điện thoại. Tình cờ, khi đó có một phim tên là Viva Zapata, với sự tham gia diễn xuất của ngôi sao điện ảnh Marlon Brando, được trình chiếu tại các rạp trong nội thành Midland. Bộ phim kể về cuộc cách mạng táo bạo của một thủ lĩnh người Mexico để giành độc lập và đề cao tinh thần chiến đấu bất chấp rủi ro. Cộng thêm với việc tên của thủ lĩnh này bắt đầu bằng chữ cái thích hợp. Năm 1953, công ty dầu khí Zapata ra đời.
Không mất quá nhiều thời gian để công ty có thể vận hành đúng theo tên gọi táo bạo này. Hugh Liedtke đã đề xuất rằng Zapata sẽ chi 850.000 đô la để đầu tư vào khu vực mỏ Jameson tại hạt Coke. Một vài cuộc thăm dò gần đây của các công ty khai thác mỏ khác đã chứng minh rằng vùng đất này có chứa dầu, mặc dù không ai biết trữ lượng thật sự của nó. Đánh cược cả công ty vào một lần đầu tư không phải là chiến lược kinh doanh của Bush - Overbey. Tuy nhiên viễn cảnh thành công của một cuộc khám phá lớn đã khiến cha tôi ngày càng say mê lĩnh vực kinh doanh dầu khí này hơn.
Cuối cùng canh bạc này cũng đã được đền đáp. Cuối năm 1954, Zapata đã khoan được 71 hố, và cả 71 hố đều có dầu. Cuối cùng, họ đã đạt chỉ tiêu 127 hố và tất cả đều thu được dầu. Cha tôi cùng nhà Liedtke đã trả cả vốn lẫn lãi cho các nhà đầu tư và bước tiếp trên con đường kinh doanh hái ra tiền. George Bush quá khiêm tốn - và quá thông minh - nên ông không vung tiền qua cửa sổ. Ông còn có cả một gia đình lớn phải chăm lo, và ông biết kinh doanh dầu là nghề khó dự đoán tương lai. Gia đình tôi đã chuyển đến ngôi nhà mới rộng gần 300 mét vuông tại đường Sentinel vùng ngoại ô Midland. Ngôi nhà có hồ bơi và ngay sát công viên Cowden, nơi tôi đã có những cuộc thi đấu thủa thơ ấu. Đối với một đứa trẻ thì đây là điều tuyệt vời nhất mà chúng tôi có thể đạt được. Không lâu sau, George Bush có một ý tưởng kinh doanh khác, và chúng tôi lại phải chuyển đi một lần nữa.
* * *
Biển luôn luôn có sức mê hoặc đối với cha tôi. Địa điểm yêu thích nhất trên thế giới của ông là Walker’s Point tại Maine. Khi còn là một cậu bé, cha tôi dành thời gian của kỳ nghỉ hè để đi bơi, chèo thuyền, và câu cá tại Đại Tây Dương. Ông của ông, Bert Walker, đã giới thiệu cho ông biết về tàu thủy cao tốc, thứ mà sau này đã trở thành đam mê cả cuộc đời ông. Khi tám mươi tuổi, cha rất thích chiếc thuyền tốc độ có tên là Fidelity (Trung thành), có thể lái nó xuống nước và làm cho động cơ quay nhanh nhất có thể. Vào những năm 1950, tương lai của việc khai thác dầu khí ngoài khơi đang rất tươi sáng. Là một người kinh doanh dầu trẻ tuổi, George Bush đã bị hấp hẫn bởi kế hoạch khoan dầu dưới lòng đại dương.
Chuyến thăm dò dầu khí đầu tiên diễn ra tại một vùng nước nông ngoài khơi vịnh Mexico bắt đầu vào cuối thập niên 1930. Các nhà địa chất tin rằng những vùng nước càng sâu thì trữ lượng dầu càng nhiều. Việc tiếp cận các mỏ trữ lượng lớn đòi hỏi phải có một giàn khoan đủ lớn để tìm được và chạm đến đáy biển, đủ vững chắc để chống cự lại với sóng và gió, và có thể di chuyển linh hoạt để khai thác tại nhiều địa điểm khác nhau. Thiết bị này cần một khoản kinh phí đáng kể. Năm 1954, công ty dầu khí Zapata đã quyết định thành lập một công ty đầu tư mới, chi nhánh Zapata ngoài khơi, có nhiệm vụ là xây dựng các giàn khoan và di chuyển chúng ra khơi để khai thác dầu. Công ty con mới thành lập do George Bush đứng đầu.
Bước chuyển biến lớn đầu tiên của cha tôi là việc đánh cược vào một kỹ sư xuất sắc nhưng lập dị, R.G. LeTourneau. LeTourneau - trình độ học vấn chỉ đến hết lớp 7 và là người luôn vẽ bản phác thảo cơ khí trên giấy nháp thay vì ngay lập tức đi vào thiết kế chi tiết - đưa ra ý tưởng cho một giàn khoan dầu ngoài khơi. Không giống các mô hình khác được sử dụng trong thời gian đó, giàn khoan này gồm ba chân và có nhiều động cơ, với mục đích tăng độ vững chãi và tốc độ di chuyển. Cha tôi và anh em nhà Liedtke đã bị hấp dẫn bởi ý tưởng này, tuy nhiên chi phí để thực hiện lại quá cao: ba triệu đô la.
LeTourneau đủ tự tin với thiết kế của mình nên ông đề nghị xây dựng giàn khoan với điều kiện Zapata ứng trước cho ông bốn trăm nghìn đô và cho ông cổ phần trong công ty nếu giàn khoan hoạt động thành công. Sự mạo hiểm này đầy rủi ro, nhưng Zapata vẫn quyết định đặt cược vào kỹ sư kỳ dị này.