🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cha Mẹ Giỏi Con Thông Minh Ebooks Nhóm Zalo Myrna B. Shure CHA MẸ GIỎI CON THÔNG MINH Bản quyền tiếng Việt © 2007 Công ty Sách Alpha NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN Tạo ebook: Tô Hải Triều Phát hành: http://www.taisachhay.com Myrna B. Shure .................................................................................................................................................................... 2 CHA MẸ GIỎI CON THÔNG MINH ..................................................................................................................................... 2 ĐÔI ĐIỀU NHẮN NHỦ............................................................................................................................................................ 5 PHẦN 1. Xử lý cảm giác....................................................................................................................................................... 12 1. Giận dữ.................................................................................................................................................................................. 14 2. Vỡ mộng và thất vọng .................................................................................................................................................... 20 3. Căng thẳng, lo lắng, sợ hãi và tổn thương .............................................................................................................. 29 4. Đối mặt với mất mát ....................................................................................................................................................... 38 5. Quan tâm và thông cảm ................................................................................................................................................. 46 6. Tự tôn và ý thức kiềm chế ............................................................................................................................................ 58 PHẦN 2. Giải quyết và ngăn ngừa rắc rối .................................................................................................................... 64 7. Thời gian và thời điểm: thời gian đi ngủ, lần khân, can thiệp, mất kiên nhẫn ....................................... 67 8. Sở hữu ................................................................................................................................................................................... 74 9. Ngang bướng, mách lẻo và dối trá ............................................................................................................................ 81 10. Gây gổ, kẻ bắt nạt và nạn nhân ................................................................................................................................ 90 11. Làm tổn thương ............................................................................................................................................................. 96 12. Dạy con về an toàn, nguy hiểm và bạo lực ....................................................................................................... 105 PHẦN 3. Nuôi dưỡng mối quan hệ.............................................................................................................................. 118 13. Thắt chặt tình cảm gia đình .................................................................................................................................... 120 14. Mâu thuẫn giữa anh chị em ruột .......................................................................................................................... 126 15. Bạn bè .............................................................................................................................................................................. 135 PHẦN 4. Hình thành các kỹ năng sống...................................................................................................................... 143 16. Lắng nghe ....................................................................................................................................................................... 145 17. Trách nhiệm .................................................................................................................................................................. 152 18. Trường học, Bài tập về nhà, Học tập .................................................................................................................. 160 LỜI KẾT .................................................................................................................................................................................. 169 ĐÔI ĐIỀU NHẮN NHỦ Nói với tôi, tôi sẽ quên. Dạy cho tôi, tôi sẽ nhớ. Để tôi làm, tôi sẽ hiểu. – Thành ngữ Trung Hoa Đã tám giờ sáng. Bạn nghe thấy tiếng còi xe buýt của nhà trường vang lên ở khu nhà mình, thế mà cậu nhóc bảy tuổi nhà bạn thậm chí còn chưa mặc quần áo. Cô con gái bốn tuổi mếu máo trở về nhà, nức nở: “Tommy đánh con và làm hỏng đồ chơi mới của con”. Một khách hàng quan trọng gọi đến nhà cho bạn, và lúc bạn đang nghe điện thì cậu con trai sáu tuổi gọi bạn rất to để đi tìm giày, mặc dù bạn đã dặn con hàng trăm lần là không được quấy rầy người lớn khi đang có điện thoại. Ba ngày trước lễ Phục sinh, cô tiểu thư chín tuổi của bạn tuyên bố bé sẽ không cùng bạn đi thăm họ hàng vào ngày Chủ nhật. “Thầy giáo nói con quay cóp, nhưng con không làm thế!” − đứa con mười một tuổi của bạn phẫn nộ thét lên như vậy. Các con bạn thường cãi nhau về đồ chơi, giờ sử dụng máy tính, chơi game, hoặc các đồ vật khác như thế nào? Các em thường gây sự với bạn hay ai đó về một việc gì đó hoặc về tất cả mọi việc như thế nào? Bao lâu thì các em gây căng thẳng trong nhà một lần vì không chịu vâng lời, không làm những gì bạn bảo và cãi lại? Bạn có cảm thấy dường như mình đã cố gắng làm tất cả nhưng không giải quyết được vấn đề gì? Nếu bạn đang có ý định tìm cách khác để xử lý những tình huống như trên thì đây chính là cuốn sách bạn cần. Ba mươi năm nghiên cứu về gia đình và trường học cho tôi thấy rằng, những đứa trẻ có khả năng suy nghĩ thấu đáo, tự mình giải quyết thành công vấn đề hàng ngày sẽ ít gặp các vấn đề về hành vi hơn và học giỏi hơn những em không thể tư duy theo cách này. Trong hai cuốn sách Dạy con tư duy (Raising a thinking child) và Dạy tư duy cho trẻ vị thành niên (Raising a thinking preteen), tôi đã giới thiệu và giải thích một chương trình có tính thực tiễn, gồm nhiều bước, nhằm mục đích dạy trẻ các kỹ năng tư duy quan trọng, có tên là “Tôi có thể giải quyết rắc rối” (ICPS). Chương trình này mô tả các trò chơi, hoạt động và đoạn hội thoại cụ thể mà cha mẹ có thể sử dụng để dạy con mình phản ứng chín chắn và linh hoạt hơn trước những rắc rối, xung đột nảy sinh trong cuộc sống thường ngày. Tôi đã nhận được hàng ngàn bức thư, email và cuộc điện thoại cảm động của các bậc cha mẹ từng thử áp dụng chương trình ICPS. Một số đánh giá rằng chương trình này rất nhất quán và tiện ích, như một bà mẹ đã viết: “Cuốn Dạy con tư duy giống như một món quà đối với gia đình tôi. Đứa con gái sáu tuổi của tôi đã trở thành một người giải quyết vấn đề rất nhạy cảm, và dường như nó hiểu rất rõ nó là ai và đang nghĩ gì. Là cha mẹ, giờ đây vợ chồng tôi cảm thấy mình đang có phương pháp nuôi dạy vừa nhẹ nhàng vừa hiệu quả để hướng dẫn con mình cách giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống, từ chia sẻ đến áp lực đồng đẳng và hơn nữa để trở thành người lớn. Gia đình chúng tôi xin cảm ơn Tiến sĩ Shure vì những đóng góp tuyệt vời cho việc nuôi nấng con cái.” Một người khác lại tập trung vào khía cạnh cụ thể của chương trình: “Các con tôi đã giải quyết được nhiều mâu thuẫn hơn sau khi tôi thay đổi trọng tâm. Bằng cách liên tục áp dụng kỹ thuật trò chuyện của Tiến sĩ Shure, tôi đã chuyển cho các con trách nhiệm phải tự giải quyết hầu hết các vấn đề thường ngày của chúng.” Người mẹ này đã nhận ra rằng “kỹ thuật trò chuyện” mà tôi xây dựng nên là tâm điểm của phương pháp giải quyết rắc rối. Vậy kỹ thuật này có ý nghĩa như thế nào? Giả sử rằng cô em gái Patty bốn tuổi và cô chị gái Val tám tuổi đang cãi nhau về một bộ đồ chơi đất sét mà dì các em đã tặng cho Patty vào ngày sinh nhật. Patty bướng bỉnh tuyên bố với chị gái rằng chỗ đất sét đó là của mình nên Val không được phép chơi. Chỉ mấy phút mà hai cô bé đã la hét to đến mức mẹ chúng − Julia quyết định phải can thiệp. Sau đây là cách mà mẹ các em sử dụng “kỹ thuật trò chuyện” để giúp hai tiểu thư giải quyết mâu thuẫn sao cho cô nào cũng hài lòng. MẸ: Có chuyện gì đấy? PATTY: Đây là đất sét của con, thế mà chị Val đòi lấy hết. VAL: Con chỉ lấy có mỗi một tí. Patty chẳng bao giờ chịu chia sẻ cái gì cả, trong khi con có cái gì cũng chia cho nó. MẸ: Patty, hai con đang to tiếng với nhau đấy. Bây giờ con cảm thấy thế nào? PATTY: Giận lắm! MẸ: Val, con đang cảm thấy thế nào? VAL: Con điên mất! Patty quá ích kỷ. Không bao giờ chịu chia sẻ gì cả. MẸ: To tiếng với nhau cũng là một cách để giải quyết rắc rối này. Vậy điều gì sẽ xảy ra nào? PATTY: Bọn con sẽ đánh nhau. MẸ: Cả hai con nghĩ xem có cách nào khác để giải quyết vấn đề này, sao cho cả hai đều không cảm thấy khó chịu và không phải đánh nhau không? VAL: Em có thể lấy chỗ đất sét đỏ còn con lấy chỗ đất sét xanh, sau đó bọn con sẽ đổi cho nhau. MẸ: Patty, như vậy có được không? PATTY: Vâng, con sẽ làm một cái bánh và chị Val có thể dùng để ăn tráng miệng. VAL: Được, còn con sẽ làm phần kem phủ. Như các bạn thấy đấy, Julia không hề nói đến các cô con gái, mà thay vào đó cô đặt câu hỏi. Kỹ thuật này không chỉ trực tiếp giúp cả hai cô bé tự giải quyết vấn đề của riêng mình mà còn cho phép Julia biết được vấn đề là gì, xét trên quan điểm của lũ trẻ. Nó cũng cho Val cơ hội thể hiện cảm xúc của mình – rằng bé đang rất bực bội vì bé tin rằng thường ngày vẫn chia sẻ mọi thứ với Patty thế mà Patty lại không hề đền đáp lại. Cũng cần phải lưu ý rằng mỗi câu hỏi của Julia đều nhằm một mục đích riêng. Chẳng hạn, khi hỏi xem cả hai chị em cảm thấy thế nào, người mẹ đang giúp các con phát triển ý thức thông cảm. Một trong những lý do giải thích tại sao yếu tố cảm thông lại quan trọng đến vậy là, nếu không quan tâm đến cảm giác của chính mình, chúng ta không thể quan tâm đến cảm giác của người khác được. Khi Julia hỏi: “Vậy điều gì sẽ xảy ra nào?”, lũ trẻ được yêu cầu phải cân nhắc về hậu quả mà hành vi của các em sẽ gây ra. Cuối cùng, để giúp các con tự mình tìm ra giải pháp cho rắc rối trước mắt, chị hỏi: “Cả hai con thử nghĩ xem còn cách nào khác để giải quyết vấn đề này, sao cho cả hai đều không cảm thấy khó chịu và không phải đánh nhau?” Khác là một từ chìa khóa trong kỹ thuật trò chuyện. Bạn sẽ thấy ở một số chương trong cuốn sách này, có rất nhiều từ mà tôi cho in nghiêng nhằm thể hiện rằng chúng đang được sử dụng theo cách mới. Các từ khác – chẳng hạn như không, trước, và sau – đều trở thành từ chìa khóa khi dùng, chẳng hạn như trong những câu hỏi: “Ý kiến của con tốt hay không tốt nào?”, “Điều gì đã xảy ra trước khi con đánh bạn?”, “Sau đó thì điều gì sẽ xảy ra?”. Để lũ trẻ suy nghĩ về những câu hỏi đó, hãy sử dụng các từ khóa này và cả những từ khác nữa, điều thú vị sẽ xảy ra. Thay vì bỏ đi mà trong lòng giận dữ, bất lực, buồn chán, hoặc bị áp đảo, các em sẽ cảm thấy được trao quyền tự quyết và dễ chấp nhận giải pháp hơn. Theo kết quả nghiên cứu của tôi, trẻ em có xu hướng sẵn sàng thực hiện giải pháp các em tự nghĩ ra hơn là những giải pháp mà cha mẹ cho là tốt nhất. Vậy, phương pháp giải quyết vấn đề này khác gì với những phương pháp khác mà các bậc cha mẹ có thể sử dụng để giải quyết rắc rối xảy ra với con mình? Hãy trở lại với tình huống các cô con gái đang giận dữ của Julia, và giả sử như chị sử dụng điều mà các nhà tâm lý học gọi là “khẳng định quyền lực”, tôi thì gọi đơn giản là “phương pháp quyền lực”. Có thể chị sẽ nói: “Đưa chỗ đất sét đấy đây cho mẹ. Nếu hai con không nhường nhau, mẹ sẽ cất đi và sẽ chẳng đứa nào có đất sét hết”. Hoặc: “Mẹ không muốn nghe các con to tiếng với nhau chút nào nữa. Patricia! Không được ích kỷ như vậy!” Các biện pháp như quát mắng, ra lệnh, tịch thu những gì lũ trẻ muốn, hoặc thậm chí biện pháp cách ly cổ lỗ, có thể mang lại kết quả mong muốn là dừng trận chiến lại, chỉ làm hài lòng các bậc cha mẹ trong một thời gian rất ngắn. Đấy là vì “phương pháp quyền lực” đã bỏ qua một phần cực kỳ quan trọng trong “bức tranh”: bản thân lũ trẻ. Các em cảm thấy thế nào? Chắc chắn chúng vẫn giận dữ và chán nản như lúc trận chiến mới bắt đầu. Không chỉ vậy, các em còn không học được cách tự mình giải quyết vấn đề, và điều này rất dễ đồng nghĩa với việc khi thời gian cách ly đã hết, các em lại cãi nhau về bộ đồ chơi đất sét. Và ngày hôm sau, các em sẽ rất dễ cãi nhau về một thứ khác. Một điều nguy hiểm khác trong “phương pháp quyền lực” là dần dần, các em sẽ cảm thấy bị chế ngự nhiều đến mức trở nên lãnh đạm hoặc hằn học, và có thể sẽ trút sự chán nản đó lên đầu bạn bè. Các cách khác mà Julia có thể sử dụng là “phương pháp gợi ý” và “phương pháp giải thích” theo thuật ngữ của tôi. Nếu Julia sử dụng “phương pháp gợi ý”, chị sẽ bảo với các con điều gì nên làm chứ không phải là điều gì không nên làm. Chẳng hạn, có thể chị sẽ nói: “Con nên hỏi xin thứ mà con muốn”, hoặc “Con nên chia sẻ đồ chơi của mình”. Nếu sử dụng “phương pháp giải thích”, chị sẽ nói: “Nếu hai con không học cách chia sẻ, sẽ không có ai chơi với các con nữa, và các con sẽ không có ai làm bạn cả”. Phương pháp này hoạt động trên cơ sở giả sử rằng lũ trẻ hiểu được hành vi của mình có tác động như thế nào và ít khi thực hiện những hành vi làm tổn thương bản thân cũng như người khác. Theo phương pháp giải thích, Julia có thể áp dụng thông điệp “mẹ” vốn được sử dụng rất rộng rãi, chẳng hạn như: “Mẹ rất bực vì các con cứ cãi nhau như thế”. Trong khi hai phương pháp gợi ý và giải thích tỏ ra có hiệu quả tích cực hơn so với phương pháp quyền lực, các bậc cha mẹ sử dụng cả ba phương pháp này vẫn còn nghĩ cho con mình. Thay vì yêu cầu các con tự mình giải quyết vấn đề, họ độc thoại một chiều. Những người này đang bảo, chứ không phải đang trò chuyện với con mình, và rất có khả năng là các em đã bỏ ngoài tai những lời gợi ý, giải thích của cha mẹ. Hơn nữa, cuối cùng các bậc cha mẹ sẽ cáu tiết lên bởi vì con họ không nghe lời − điều này dẫn tới kết cục là không bên nào đạt được gì cả. Trên thực tế, trong ba phương pháp này, không có phương pháp nào khích lệ cha mẹ nhận ra hay hiểu được cảm giác của con mình; chúng cũng không chú trọng đến cảm giác của phụ huynh khi họ vấp phải những tình huống căng thẳng xảy ra với con họ. Sử dụng kỹ thuật trò chuyện như một phương pháp giải quyết vấn đề - phương pháp mà Julia đã áp dụng với hai cô con gái - sẽ giải quyết được cả mong muốn lẫn khả năng dễ bị tổn thương của cha mẹ và con cái. Kết quả sẽ là cả hai bên cùng giải quyết được vấn đề. Julia biết điều này. Chị là một phụ huynh biết suy nghĩ. Bản chất của một phụ huynh biết suy nghĩ là chủ động, chứ không phải thụ động. Dù con bạn có vướng phải rắc rối với anh chị em, bạn học, bạn bè hay với chính bạn, một phụ huynh biết suy nghĩ phải cân nhắc các trường hợp, quyết định xem phải phản ứng thế nào và giúp lũ trẻ xác định được cần phải nghĩ thế nào, chứ không phải là nghĩ cái gì, để từ đó các em có thể tự mình giải quyết vấn đề. Bây giờ, hãy xét trường hợp ba đứa trẻ năm tuổi đều muốn sử dụng một món đồ chơi rất hấp dẫn. Lenny nói với em trai: “Đưa cho anh cái tàu hoả! Nó là của anh và giờ đến lượt anh chơi”. Khi cậu em từ chối, Lenny giật lấy món đồ chơi và rời phòng. Sonja hỏi xin chị gái để được chơi búp bê một lúc. Khi bị chị từ chối, Sonja giận dỗi bỏ đi. Anthony xin em trai cho chơi với chiếc xe tải một lúc. Khi em từ chối, cậu bé hỏi: “Tại sao lại không được?” Cậu em trả lời: “Em cần nó, em đang dập một đám cháy”. Anthony đáp lại: “Anh có thể giúp em một tay. Để anh đi kiếm cái vòi và chúng ta sẽ cùng nhau dập lửa”. Vậy Athony khác với Lenny và Sonja ở điểm nào? Lenny phản ứng với thất vọng bằng cách hành động, trong trường hợp này là cướp lấy đồ chơi. Sonja mạo muội đưa ra đề nghị − được chơi với con búp bê một lúc – khi bị từ chối, cô bé đã từ bỏ và rút lui. Anthony không làm vậy. Khi nhận ra rằng giải pháp thứ nhất của mình không phát huy hiệu quả, cậu vận dụng tiếp giải pháp thứ hai. Trong khi Anthony có thể nghĩ đến việc đánh cậu em và cướp lấy món đồ chơi thì cậu bé đã không làm thế. Ý thức thông cảm của cậu bé đã không cho phép cậu làm như vậy. Thay vào đó, cậu tìm nhiều cách thương lượng để đạt được điều mình muốn mà không làm tổn thương cả mình lẫn em trai. Cậu bé có khả năng cân nhắc đến mong muốn của cả hai. Athony là một đứa trẻ biết suy nghĩ. Tất cả mọi trẻ em đều có thể học suy nghĩ theo cách của Anthony. Khả năng giải quyết rắc rối không chỉ tác động lâu dài đến hành động hiện tại của trẻ em mà như kết quả nghiên cứu của tôi, nó còn ảnh hưởng sâu sắc đến những hành động trong tương lai của các em, chẳng hạn như chống lại áp lực đồng đẳng để không tham gia vào những hành vi có hại như thử ma tuý, rượu, tình dục không an toàn và bạo lực. Và đi xa hơn nữa, đứa trẻ biết suy nghĩ sẽ có nhiều khả năng trở thành phụ huynh biết suy nghĩ. Khi viết cuốn Cha mẹ giỏi, con thông minh (Thinking Parent, Thinking Child), mục đích của tôi là giới thiệu tóm lược những rắc rối thường ngày đầy thách thức mà các bậc cha mẹ và con cái – từ lúc chuẩn bị đi học cho đến tuổi vị thành niên – phải đối mặt, cũng như những công cụ thực hành để biến các rắc rối đó thành giải pháp. Cuốn sách được sắp xếp theo chủ đề. Mỗi chương tập trung vào một vấn đề riêng – chẳng hạn như giận dữ, xâm phạm hoặc thông cảm – với những ví dụ minh họa cho từng vấn đề. Cách tổ chức này cho phép bạn xem xét từng đề tài theo nhiều khía cạnh khác nhau. Trong cuốn sách này, bạn sẽ học được cách dạy con mình kỹ năng đưa ra quyết định đúng đắn, đồng thời tự do sử dụng các kỹ năng đó. Bạn sẽ học được cách hướng dẫn con thay đổi hành vi hoặc trở nên bớt dữ dằn hơn, bớt rụt rè hơn, bớt sợ hãi hơn; biết hợp tác và thông cảm hơn; có khả năng thích nghi cũng như đối mặt với những chán nản, thất vọng trong cuộc sống. Bạn cũng sẽ thấy các kỹ năng giải quyết mâu thuẫn hỗ trợ con bạn trong việc học hành như thế nào. Và, bạn sẽ thấy con mình ngày càng biết cảm thông thật sự. Nhờ phương pháp giải quyết vấn đề, trẻ em sẽ bắt đầu hiểu rằng cha mẹ chúng cũng nhạy cảm. Một số chương sẽ khuyến khích bạn dùng chính hành vi của mình làm gương cho con cái. Chúng sẽ đặt ra cho bạn những câu hỏi mang tính gợi ý: Phạt cách ly thật sự có lợi như thế nào? Đánh đòn là giúp đỡ hay làm đau con? Chúng ta sẽ làm gì khi tôi nghĩ một đằng về vấn đề nào đó còn vợ/chồng tôi lại nghĩ một nẻo? Tôi có cần phải học cách lắng nghe không? Tôi làm chuyện này thế nào? Tôi phải nói gì với con tôi khi tôi không giữ lời hứa? Khi sử dụng cuốn sách này, bạn không chỉ có đủ tự tin để xử lý những rắc rối thường ngày mà còn học được cách làm thế nào để hàng ngày cho con cái tiếp xúc với kỹ thuật trò chuyện giải quyết vấn đề. Và bạn cũng được đảm bảo rằng, con bạn sẽ có những công cụ cần thiết để đối diện với cuộc đời, không chỉ trong hôm nay mà còn trong năm tới, mười năm tới và đến tận lúc trưởng thành. Ngay cả khi đã biết chương trình ICPS của tôi trong những cuốn sách trước, bạn cũng vẫn sẽ thấy rằng Cha mẹ giỏi, con thông minh là một nguồn tham khảo vô giá mà lại dễ sử dụng khi rắc rối xảy ra và chắc chắn chúng sẽ xảy ra. Mặc dù tôi hoàn toàn tin tưởng rằng phương pháp của mình hữu ích và hiệu quả, tôi vẫn không bao giờ phủ nhận hoàn toàn bất cứ một kỹ thuật nuôi dạy con cái nào. Chẳng hạn, tôi sẽ không bao giờ khuyên bạn đừng quát mắng con cái hay đừng thể hiện mình giận dữ. Làm vậy sẽ chẳng tự nhiên chút nào. Tất cả chúng ta đều phải bộc lộ cảm xúc của mình, và lũ trẻ phải học cách đối mặt với thực tế đó. Tuy nhiên, nếu như bạn luôn luôn hoặc gần như lúc nào cũng phản ứng bằng cách nổi giận và trừng phạt con bạn mỗi khi chúng làm điều gì đó trái ý, các em sẽ rất khó mà trở nên tự lập, biết suy nghĩ. Trong khi không hề bảo các bạn cần phải làm gì, tôi mang đến cho bạn những cách nhìn mới về vấn đề để giúp bạn quyết định xem điều gì là tốt nhất cho bản thân và gia đình. Tháng 11 năm 2000, nhà nghiên cứu Irving Sigel thuộc Đại học Princeton đã nói với tôi: “Mỗi khi người ta dạy trẻ em điều đã khám phá cho riêng mình, đứa trẻ sẽ không còn phát minh ra điều đó được nữa, và do vậy nó cũng hoàn toàn chẳng hiểu gì về điều đó cả”. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ giúp bạn tạo cơ hội cho con khám phá được cách tìm tòi và hiểu rõ về thế giới của chính bản thân mình. Và liệu một đứa trẻ còn có thể học cách nghĩ này ở đâu tốt hơn ở nhà? Theo Bonnie Aberson, nhà tâm thần học và tâm lý trường học đã thực hiện chương trình ICPS hơn 15 năm, “Trẻ em nên biết những tình huống khó khăn trong các môi trường khác, dù phức tạp đến mức nào, vẫn có thể giải quyết được trong gia đình tổ ấm, nơi mọi người được lắng nghe, chấp nhận. Chính mối giao tiếp cởi mở mang tính chấp thuận, mà ICPS củng cố, sẽ giúp tăng cường mối quan hệ và cảm giác được trao quyền sẽ góp phần giải quyết mọi vấn đề”. Không bao giờ là quá muộn để bắt đầu, nhưng cũng không bao giờ là quá sớm cả. Điều chúng ta sẽ thật sự nói với con em chúng ta là: “Bố mẹ quan tâm đến cảm giác của con, suy nghĩ của con, và bố mẹ muốn con cũng quan tâm nữa”. Chúng ta cũng sẽ khẳng định: “Bố mẹ tin con sẽ quyết định đúng”. Sau khi thử phương pháp giải quyết vấn đề mô tả trong cuốn Cha mẹ giỏi, con thông minh, tôi tin rằng bạn sẽ cảm thấy an toàn khi đặt niềm tin đó. PHẦN 1. Xử lý cảm giác Đứa trẻ nào có khả năng kiểm soát cuộc đời sẽ không để cho cuộc đời kiểm soát lại chính mình. Một hôm nào đó, ngay khi cô con gái vừa từ trường trở về nhà, bạn có thể biết điều kỳ diệu nào đó đã đến với con mình nhờ đọc được niềm hạnh phúc trong ánh mắt, trong bước chân, thậm chí trong dáng điệu của cô bé. Cô bé vui sướng đến mức gần như không thốt được nên lời khi nói với mẹ: “Mẹ còn nhớ bản báo cáo sách mà con phải viết không? Hôm nay cô giáo trả bài và cho con điểm cao nhé. Con được 10 điểm!” Niềm vui như thế thường rất dễ lan từ người này sang người khác. Bạn biết cách phải trả lời thế nào: “Thật là tuyệt vời! Mẹ mừng cho con đấy!” Vào ngày thường, cảm giác của con gái bạn khó nhận biết hơn. Cô bé nhìn e dè và không nói gì nhiều. Bạn không biết phải hỏi thế nào để giúp con mình cởi mở hơn, thậm chí còn không biết là cô bé có muốn nói chuyện hay không. Nếu bạn thúc ép, có thể con bạn sẽ thất vọng và khép mình hơn. Một hôm, con bạn về nhà trong tình trạng cực kỳ tồi tệ. Khi được hỏi, cô bé trả lời bằng giọng yếu ớt đến mức gần như không nghe thấy gì: “Jamie bảo rằng bạn ấy không muốn chơi thân với con nữa”. Bạn sẽ phải nói gì? Làm thế nào để giúp con bạn cảm thấy hơn? Cảm giác không chỉ có ở tất cả mọi người mà còn hiện hữu từ lúc người ta mới sinh ra. Chỉ cần quan sát một đứa trẻ sơ sinh đang được cho ăn và để ý theo dõi, ta có thể thấy những diễn biến cảm xúc trên gương mặt bé, ta sẽ biết khi đứa bé giận dữ, chán nản, ngạc nhiên, thỏa mãn hay sung sướng. Nhưng cảm giác cũng là thứ rất khó nắm bắt. Mặc dù cảm giác không miêu tả được (chúng ta không thể sờ mó hay ngửi cảm giác), nhưng rõ ràng nó có thật và cũng có thành phần vật lý: chúng ta có xu hướng cảm nhận được cảm xúc trong cơ thể mình. Một số người cảm nhận được sự sợ hãi trong lõm thượng vị; một số khác thì ở sau gáy. Mỗi chúng ta có một phản xạ khác nhau. Bước đầu tiên để giúp con bạn xử lý cảm giác là hãy xử lý cảm giác của chính bản thân bạn. Bạn có thể bắt đầu bằng nhận thức về những phản ứng cảm xúc của mình trước biến động cuộc sống. Bạn cảm thấy thế nào khi một điều tuyệt vời xảy ra, chẳng hạn như được thăng tiến trong công việc? Bạn cảm thấy thế nào khi bạn muốn một điều gì đó hoặc nghĩ rằng điều gì đó sẽ xảy ra nhưng nó lại không xảy ra? Bạn có nổi nóng, cảm thấy thất vọng và buồn chán? Bạn có đổ lỗi cho người khác, bỏ cuộc hay tìm cách cải thiện tình hình? Khi đã xác định được cảm giác và phản ứng của chính mình đối với những việc như vậy, bạn có thể giúp con xác định cảm giác và phản ứng của bé. Trẻ em học hỏi về cảm giác từ chúng ta. Chẳng hạn, khi cảm thấy hạnh phúc hoặc nhìn thấy con mình hạnh phúc hay buồn bã, chúng ta gọi tên chính xác của cảm giác: “Hôm nay trông con thật hạnh phúc!”, “Tại sao trông con buồn vậy?”. Dần dần, trẻ em sẽ học được cách sử dụng đúng từ diễn tả từng cảm giác bên trong. Gọi tên cảm xúc là một công cụ hữu hiệu. Khi mô tả được cảm giác của chính mình, trẻ em cảm thấy mình kiểm soát bản thân và thế giới riêng tốt hơn. Đấy là lý do tại sao người ta lại cần phải giúp trẻ em nhận biết được đầy đủ cung bậc cảm xúc. Khi được hỏi về cảm giác, nhiều trẻ sử dụng những từ ngữ như “tốt”, “kinh khủng”, “xấu”, “tồi tệ” hoặc “kinh hoàng”. Rất ít em trả lời “hạnh phúc”, “tự hào”, buồn chán”, “thất vọng”, “sợ hãi”. Xác định được từ ngữ mô tả cảm giác không chỉ giúp trẻ hiểu rõ hơn các em đang cảm thấy thế nào, mà nó còn có thể quyết định xem các em cần phải làm gì tiếp theo. Khi cảm thấy buồn chán, trẻ có thể sẽ hành động khác so với khi cảm thấy thất vọng. Nếu chỉ nghĩ rằng mình cảm thấy “tồi tệ”, “kinh khủng”, hoặc “khủng khiếp”, đứa trẻ sẽ không thể nào đưa ra được quyết định rõ ràng về bước phải làm tiếp theo. Bên cạnh việc giúp trẻ học cách đặt tên và nhận biết cảm giác, cũng cần phải giúp các em cảm thấy thoải mái khi thể hiện cảm xúc của mình. Khi tiến hành nghiên cứu về trẻ em, tôi nhận thấy rằng thời điểm trẻ (gồm cả bé trai và bé gái) cảm thấy thoải mái, các em sẽ thích nói về mọi loại cảm xúc của mình, kể cả những cảm xúc không thật sự tốt đẹp. Khi trẻ trở thành người giải quyết rắc rối giỏi, các em sẽ có khả năng tư duy về những hệ lụy có thể xảy ra khi thể hiện suy nghĩ và cảm giác của chính mình. Lúc đó, các em quyết định được việc kết hợp suy nghĩ và cảm giác đó với những yếu tố khác có đủ an toàn hay không − chẳng hạn như các em trò chuyện với bạn bè về một nỗi sợ hãi mà không phải lo rằng cuộc trò chuyện sẽ quay lại ám ảnh các em. Điều này mang đến cho các em ý thức về sức mạnh, bởi vì nó đã giúp các em quyết định điều gì sẽ nói với người khác và điều gì sẽ được giữ lại trong lòng. Các chương mà bạn sẽ đọc trong Phần I sẽ minh họa những phương pháp giúp con bạn đối diện với cảm giác đôi khi rất khó diễn đạt (đặc biệt là ở em trai) như thất vọng, vỡ mộng, buồn chán, sợ hãi và những cảm giác nhiều khi rất khó kiểm soát như giận dữ. Tôi cũng sẽ đi sâu khám phá những cảm giác khó nắm bắt hơn, đôi khi trở thành mãn tính, như căng thẳng và lo lắng dù chúng bắt nguồn từ việc đến trường lớp mới, làm bài thi, những áp lực cảm xúc có thể ảnh hưởng đến việc học hành, hoặc việc phải đối mặt với những tình huống không thể kiểm soát được, chẳng hạn như một căn bệnh mãn tính đe dọa tính mạng ai đó trong gia đình. Cuối cùng, tôi sẽ xem xét các cảm giác mang tính tàn phá như cảm giác mất mát − khi một người bạn chuyển đi, con vật cưng bị chết, hoặc một thành viên yêu dấu trong gia đình qua đời. Bạn cũng sẽ thấy việc học cách vượt qua những hoàn cảnh khó khăn như thế sẽ giúp con bạn thành người biết quan tâm, thông cảm để hiểu và chấp nhận cảm xúc của chính mình. Các em cũng sẽ hiểu rằng mình có thể kiểm soát những cảm xúc đó. Điều này giúp trẻ có cảm giác đang kiểm soát cuộc sống của mình − đồng nghĩa với việc các em sẽ dần bớt bị động trước cuộc sống. 1. Giận dữ Ôi, những cơn tam bành! Bạn cùng cậu con trai ba tuổi vừa bước vào cửa hàng rau quả thì cậu bé nhìn thấy một hộp ngũ cốc loại yêu thích. Con bạn với lấy cái hộp và nhìn thèm thuồng, nhưng bạn không muốn mua bởi vì món đó quá ngọt, và bạn chọn một loại khác ít đường hơn. Cậu bé giận dữ kéo ghì lấy chiếc xe đẩy. Cơn giận dữ ngày càng tăng, cậu bé đập chân đập tay, mặt đỏ lựng, và bạn cảm thấy nôn nao kinh khủng ở lõm thượng vị. Cậu bé lại sắp sửa nổi cơn tam bành một lần nữa. Cơn tam bành luôn xuất hiện vào những thời điểm tồi tệ nhất có thể. Bây giờ, con trai bạn đang gào khóc và bạn phải vạch ra những việc cần làm ngay. Bạn có thể van xin con đừng khóc nữa, nhưng chắc chắn cậu bé sẽ không nghe. Bạn có thể không đưa cậu bé đến sân chơi khi xong việc như đã hứa, nhưng điều này cũng chẳng làm nó bận tâm. Bạn có thể lờ đi và hy vọng mọi việc đâu sẽ vào đấy, nhưng bạn biết kết quả sẽ không như vậy. Bạn có thể nhượng bộ và cho cái hộp vào xe đẩy, nhưng bạn không muốn con mình lớn lên với ý nghĩ cứ khóc thật lực là đạt được điều mong muốn. Bạn có thể nổi giận trở lại − cao giọng, giật cái hộp khỏi tay con − nhưng làm sao bạn có thể kỳ vọng con mình học được cách kiểm soát cảm xúc trong khi chính bạn không làm được điều đó? Hơn nữa, trong các khả năng trên, không một khả năng nào tỏ ra hợp lý hay hiệu quả. Chẳng có phương pháp xử lý giận dữ nào hoàn hảo cả. Tuy nhiên, vẫn có cách để chống lại những cơn tam bành. Đó là không cho chúng cơ hội xuất hiện. Bạn có thể thực hiện điều này bằng cách chơi trò “giống và khác” với con mình. Một buổi chiều, khi bạn và con cảm thấy thật sự thoải mái và vui vẻ với nhau, hãy bảo con quan sát các động tác của cánh tay bạn. Trước hết, hãy dang rộng cánh tay và tạo thành các vòng tròn lớn. Sau đó, hãy vỗ tay thật lớn rồi hỏi con: “Các động tác mẹ vừa làm giống nhau hay khác nhau?” Khi con bạn trả lời “Khác”, hãy nghĩ ra hai động tác khác nhau mà bạn có thể dùng chân tạo ra để bé trả lời đúng một lần nữa. Sau đó, bạn bảo con hãy dùng cơ thể làm hai động tác và hỏi bạn xem hai động tác đó giống hay khác nhau. Bạn cũng có thể chơi trò này ở ngoài sân chơi. Bạn có thể nói: “Hãy nhìn vào hai bạn kia nhé. Áo các bạn đó màu giống nhau hay khác nhau?” Trò chơi này cũng áp dụng được khi xem tivi, lái xe hoặc đi bộ đến nhà bạn bè, nó có mục đích của trò chơi là dạy trẻ biết phân biệt từ giống và từ khác. Vậy điều này liên quan gì đến những cơn giận dữ? Lần sau khi bạn đến cửa hàng hoặc đang ở đâu đó và cảm nhận được cơn tam bành của con sắp nổ ra, bạn có thể nhẹ nhàng bảo trẻ: “Chúng ta hãy chơi trò ‘giống và khác’ nhé. Con có thể nghĩ ra một cách khác để nói cho mẹ biết con đang cảm thấy thế nào ngay lúc này được không?” Một em bé ba tuổi đã ngừng khóc ngay khi mẹ bé đặt câu hỏi nói trên. Bé nhớ lại trò chơi đã từng thực hiện với mẹ, nhoẻn miệng cười và nói: “Có chứ, con có thể dùng tay vẽ hình tròn đấy!”. Cơn tam bành chỉ còn là dĩ vãng. Một đứa trẻ khác, bốn tuổi, đang sắp sửa gào khóc trên sân chơi thì được mẹ hỏi: “Con có thể nghĩ ra một cách khác để nói cho mẹ biết con đang cảm thấy thế nào không?” Cô bé nhận ra từ khác, dừng khóc, cười gượng gạo một lúc rồi dịu xuống. Một cô bé năm tuổi đang gào lên đòi kem bỗng ngừng khóc khi mẹ đặt ra câu hỏi như trên, ngây ngô nói: “Nhưng kem sẽ giúp con lớn lên”. Người mẹ không thể nào nhịn được cười. Tập trung mọi quyết tâm để không phải nhượng bộ, cuối cùng cô đã giữ được thế của mình. Chỉ vài phút, đứa trẻ vừa gào khóc ầm ĩ đã chuyển ngay sang cười vui. "Con có thể nghĩ ra một cách khác để nói cho mẹ biết con đang cảm thấy thế nào không?” Hãy biến những cơn tam bành thành cơ hội để dạy con biết rằng nó được và có thể lựa chọn một trong số rất nhiều khả năng để thể hiện cảm giác của mình. Bằng cách đó, cả hai mẹ con sẽ kiểm soát được cảm xúc của mình tốt hơn. Chửi bới ầm ĩ! Một hôm, bé Darren tám tuổi đi học về với vẻ mặt rầu rĩ. Bé nói: “Con đánh nhau với một đứa trên xe buýt. Con ghét nó lắm. Nó là đồ nói dối khốn nạn”. Rosemary, mẹ cậu bé, chưa bao giờ nghe bé nói những từ như thế cả, và mặc dù rất thông cảm với tâm trạng con trai lúc đó chị vẫn ngay lập tức yêu cầu con không bao giờ được nói năng như thế nữa. Một lúc sau, khi bé nói chuyện điện thoại với bạn, chị nghe bé nói: “Cô giáo dạy toán của tớ là đồ chó”. “Darren!”, chị cắt ngang câu chuyện của cậu bé. “Không bao giờ được nói năng như thế nữa! Đi về phòng!”. Bé sập cánh cửa mạnh đến nỗi tưởng như ngôi nhà rung lên. Tối hôm đó, khi Rosemary hỏi cậu bé về bài tập khoa học ở nhà, bé trả lời: “Con không biết cái quái gì đang diễn ra ở lớp học đó nữa”. Rosemary hoàn toàn choáng váng. Chuyện gì đang xảy ra với con mình vậy? Bé chưa từng nói chuyện như thế bao giờ. Chị biết chắc một điều rằng trẻ phải tiếp xúc rất nhiều với các câu chửi thề trong bài hát, phim ảnh, thậm chí cả trên ti vi. Nhưng tại sao bé lại đột nhiên phát ra những từ chướng tai đến thế? Chị yêu cầu con ngừng lại, giải thích rằng chị không thích nghe những lời như vậy chút nào. Cậu bé trả lời: “Nhưng mọi người đều nói như vậy cả”. Sau đó, chị giải thích rằng những từ tục tĩu sẽ làm cho một số người cảm thấy khó chịu. Cậu bé đáp: “Bạn của con không thấy thế”. Và khi chị hỏi con xem tại sao lại dùng những từ thô lỗ như vậy, cậu bé nhún vai trả lời: “Vì kiểu nó phải thế!” Rosemary đành bó tay. Chị có thể làm được gì bây giờ? Rosemary cố nghĩ xem liệu có điều gì đang làm cậu bé khó chịu không mà phải dùng đến thứ ngôn ngữ khó nghe vậy. Chửi thề có thể là hậu quả của một rắc rối trong thực tế, chứ không phải là bản chất của trẻ. Chẳng hạn, bé Jerome mười tuổi vốn học rất giỏi toán bỗng nhiên không nắm được môn phân số và do đó cảm thấy rất thất vọng. Vì tự cao nên không chịu nhờ người khác giảng hộ, em bắt đầu trượt các kỳ thi toán. Cậu bé bắt đầu chửi thề, đặc biệt là trong các câu chuyện về nhà trường. Đây là một cách để em thể hiện sự cáu giận của mình. Khi bố mẹ phát hiện ra nguyên nhân dẫn tới rắc rối của Jerome, họ sắp xếp cho em được phụ đạo về môn phân số, nhờ đó không chỉ nâng thứ hạng của em lên mà còn giúp em chấm dứt việc chửi thề. Mặc dù vậy, những đứa trẻ như Darren nhiều lần chửi bậy và trở nên ngang bướng khi các em gặp cú sốc nào đó. Nếu nghi ngờ có vấn đề đang khiến con mình chửi bậy, bạn có thể hỏi: “Con nghĩ mẹ sẽ cảm thấy thế nào khi nghe con nói như thế?” “Con có thể nghĩ ra cách khác để nói cho mẹ [hoặc bạn bè] biết con đang cảm thấy thế nào không?” Khi được hỏi những câu này, Darren ngạc nhiên đến mức không còn chửi bậy nữa. Cậu bé cũng bắt đầu nhận ra rằng mẹ mình cũng có cảm xúc. Và cậu bé không bao giờ còn chửi bậy nữa. “Mẹ, con ghét mẹ!” Bé Paul chín tuổi vì mải chơi với bạn ở trường sau giờ học nên về nhà muộn và không kịp hoàn thành bài tập về nhà. Đây là lần thứ hai trong tuần Paul vi phạm kỷ luật học tập. Fran, mẹ cậu bé, rất bực vì chuyện này, do đó khi cậu bé vào ăn tối, chị nói: “Nếu còn tái phạm, con sẽ bị cấm đi chơi một tuần liền”. Paul cảm thấy rất khó chịu. Cậu bé nheo mắt lại, mặt đỏ ửng lên, và phản ứng thành lời: “Mẹ, con ghét mẹ!”. Fran có cảm giác nhói đau trong lòng. Ghét là một từ rất mạnh. Trong thâm tâm, Fran biết rằng Paul không định nói rằng bé ghét mẹ, hoặc giả sử có đi nữa thì cũng chỉ vào đúng giây phút đó mà thôi. Nhưng chị không thể phủ nhận được rằng chị đang cảm thấy đau lòng, choáng váng và giận dữ thế nào, và chị không thể che giấu được cảm xúc của mình. Nhưng chị cũng biết rằng Paul đang rất giận dữ, và chị không muốn vờ như không nhận thấy cảm giác của con trai. Chị biết không nên để khoảnh khắc này trôi qua mà không nói điều gì. Nhưng chị nên nói gì để tình hình trở nên tốt đẹp hơn chứ không phải là đổ thêm dầu vào lửa? Nếu chị nói: “Mẹ không hề ghét con”, có thể cậu bé sẽ không nghe, và dù có nghe đi nữa thì cậu cũng không quan tâm bởi vì lúc này lửa giận đang che mờ mắt cậu. Nếu chị tìm lý do giải thích tại sao việc học cách chịu trách nhiệm lại đóng vai trò quan trọng trong quá trình trưởng thành của con người, có thể cậu bé cũng không nghe, bởi vì lúc này cậu không muốn nghe về nghĩa vụ hay lý lẽ logic. Chị có thể nói: “Mẹ biết con nổi giận bởi vì không phải lúc nào người ta cũng làm được điều mình muốn”. Cách này tốt hơn bởi vì nó giúp Paul biết rằng mẹ hiểu bé đang giận như thế nào. Nhưng không phải vì thế mà cậu bé bớt thất vọng và bối rối hơn. Đây là cách tôi khuyên bạn nên dùng khi tình huống này xảy ra. Hãy hỏi con: “Con nghĩ mẹ cảm thấy thế nào khi con nói với mẹ như thế?” Paul rất ngạc nhiên khi mẹ Fran hỏi cậu bé câu này. Cậu bé đã liên tục nghĩ xem mẹ sẽ cảm thấy thế nào trước các hành động của cậu. Nhưng vì vẫn còn đang rất giận, cậu bé chỉ nhún vai nói: “Con không biết”. Và Fran hỏi tiếp: “Con có thể nghĩ ra cách khác để nói cho mẹ biết con đang cảm thấy thế nào được không?”. Vẫn đang giận, Paul bỏ ra ngoài. Nhưng khi nhớ lại cái nhìn đau khổ trên gương mặt mẹ, cậu bé quay lại, xin lỗi và nói với mẹ rằng cậu không hề cố tình làm thế. Giờ đây, khi cả Fran và Paul đều đã bình thường trở lại, Fran có thể giải quyết vấn đề đã khiến con trai chị nổi giận. Chị có thể hỏi: “Con nghĩ cần phải làm gì để hoàn thành bài tập về nhà đúng hạn?”. Paul không thể nào trả lời được câu hỏi này, bởi vì cậu chưa gặp phải trường hợp như thế bao giờ; và cậu bé cần suy nghĩ. Cuối cùng, Paul nói: “Lẽ ra con nên làm bài tập trước rồi mới đi chơi với bạn” . Khi bạn hỏi con những câu hỏi như thế, bé sẽ hiểu rằng vấn đề không phải là ở cảm giác của bé, mà là cách bé thể hiện ra cảm giác đó. Cuối cùng Paul cũng đánh giá được cách thể hiện cơn giận của bé khiến người khác đau lòng ra sao. Bé cũng học được cách nghĩ về việc người khác sẽ phản ứng trước cảm giác của mình thế nào. Khi cảm thấy giận dữ, bé tìm ra những cách thể hiện khác nhau. Chúng ta mắng mỏ con cái nhiều bao nhiêu thì con cái sẽ nói hỗn − hoặc muốn nói hỗn − với chúng ta nhiều bấy nhiêu. Cách nói chuyện mới của Fran với con trai không còn mang bóng dáng đe dọa trừng phạt cậu bé nữa. Và Paul cũng không còn phải “ghét” mẹ nữa. Con bạn giận dữ ư? Bé có thật sự hiểu hay không? Có thể đàn ông đến từ Sao Hỏa và phụ nữ đến từ Sao Kim , nhưng trẻ em, đặc biệt là các em còn bé, thường cho rằng mình thuộc về hành tinh của riêng các em. Hãy cùng theo dõi vài ví dụ của tôi. Một buổi sáng, khi bước vào lớp học mẫu giáo và nhìn thấy một em bé trông rất vui vẻ, hăng hái, tôi bèn lên tiếng chào: “Chào bé”. Cậu bé trả lời: “Cháu không phải là ‘Bé’. Cháu là Richard”. Lần khác, tôi đang đứng đợi taxi ở bên ngoài ga Penn (thành phố New York) thì nghe được gia đình đứng sau lưng nói chuyện về việc họ đã đi du lịch từ Boston đến thác Niagara và vừa đến New York. Tôi mỉm cười nói: “Các bạn đi chơi được nhiều thật đấy”. Cô bé sáu tuổi của gia đình đó quay lại “chỉnh” tôi: “Bọn cháu không đi chơi, bọn cháu chỉ đi tham quan thôi”. Cô bé nói bằng giọng rất nghiêm chỉnh, thể hiện hoàn hảo sự cụ thể trong ngôn từ mà trẻ em có thể có được. Ít nhất thì có vẻ như trẻ em sử dụng từ ngữ cụ thể hơn, đồng thời có cách nhìn thế giới khác chúng ta. Có lẽ đó là lý do tại sao chúng ta thường ra sức giải thích trẻ cần phải làm cái gì và tại sao phải làm thế, rồi sau đó lại cáu điên lên vì chúng không chịu làm theo ý mình. Điều chúng ta thường không nhận ra là có thể trẻ em thật sự không hiểu chúng ta đang yêu cầu các em cái gì. Đây là ví dụ về việc cha mẹ có thể hiểu lầm hành vi của trẻ: Bé Eli bốn tuổi giận dữ ném chiếc cốc từ trên bàn xuống sàn vì bé muốn xem ti vi trong khi mẹ lại bắt bé phải ngồi yên ở bàn. Khi chiếc cốc vỡ tan tành, mẹ bắt bé về phòng, quát lên: “Không bao giờ được làm như thế nữa! Con không thể suốt ngày đập đồ như vậy được! Con cố tình làm thế và mẹ rất bực với con. Con hiểu không?” Sợ hãi và vâng lời, Eli nói: “Vâng”. Người mẹ hài lòng khi thấy con đã nắm được bài học. Nhưng thực tế có phải vậy không? Khi nghĩ về tình huống này, tôi không chắc là như vậy. Theo tôi, dường như trên thực tế, một trong ba điều sau đây có thể đã xảy ra: • Eli đã học được bài học đó, vì vậy bé sẽ không ném đồ đạc đi nữa khi không đạt được mục đích; • Eli không hề nghe lời mẹ dạy; • Eli không thật sự hiểu những gì mẹ bé đang cố gắng truyền đạt. Trường hợp đầu tiên không chắc chắn lắm. Một mệnh lệnh mang tính đe dọa không thể làm trẻ thay đổi hành vi nhanh đến thế. Trường hợp thứ hai có vẻ khả dĩ hơn. Eli không thích bị mắng nên có thể bé sẽ không nghe những lời quát mắng của mẹ. Nhưng phương án khả thi nhất là phương án thứ ba. Hầu hết trẻ em bốn tuổi đều không phân biệt được ý nghĩa thực tế của điều đang xảy ra. Vì vậy, hoàn toàn có khả năng Eli không hiểu được tại sao đập vỡ một cái cốc lại nghiêm trọng đến thế. Giống như nhiều trẻ em khác cùng lứa tuổi, có thể bé sẽ nghĩ rằng nếu bé đang bê một khay đựng cốc và vô tình va vào ai đó, làm vỡ cả năm cái cốc thì “tội” sẽ nặng hơn nhiều so với việc cố tình ném vỡ một cái cốc trong lúc giận dữ. Tại sao? Bởi vì năm bao giờ cũng lớn hơn một. Vấn đề tương tự cũng xảy ra với bé Megan bốn tuổi khi bé giật đất sét của bạn bởi vì “Julie có nhiều hơn con”. Trên thực tế, cả hai cô bé đều có lượng đất sét bằng nhau. Nhưng Julie đã cán dẹt chỗ đất sét ra để nặn hình một chiếc bánh, vì thế nên trông nó có vẻ to hơn. Đối với Megan thì có vẻ như bé đã bị lừa. Lần tới khi hỏi bé: “Con đã hiểu chưa?”, bạn hãy cân nhắc đến khả năng có thể bé chưa hiểu, mặc dù bé nói là đã hiểu. Nhà tâm lý học Jean Piaget đã tiến hành nhiều cuộc thử nghiệm với con mình, từ đó rút ra được một số trò chơi có thể giúp chúng ta đánh giá được trẻ em nghĩ như thế nào về khái niệm “hơn” và “kém”, và tại sao chúng ta lại không hiểu được nhau mỗi khi cảm thấy giận dữ. Hãy xếp mười đồng xu thành hàng, đồng này cách đồng kia một quãng nhỏ. Sau đó, xếp tiếp mười đồng khác xuống bên dưới hàng xu ban đầu. Hãy hỏi con bạn: “Hai hàng đồng xu này có số lượng bằng nhau hay hàng nào có nhiều hơn?” Chắc chắn là bé sẽ trả lời chính xác: “Bằng nhau”. Bây giờ, trong lúc bé đang chơi, hãy xếp hàng dưới sao cho những đồng xu nằm sát nhau hơn và hỏi: “Hai hàng đồng xu này có số lượng bằng nhau hay hàng nào có nhiều hơn?”. Lần này, có thể bé trả lời: “Hàng trên có nhiều hơn”. Đấy là vì hàng trên nhìn dài hơn. Bé tập trung vào những gì bé nhìn thấy và vào bề ngoài của mọi vật − ngay cả khi bé nhìn thấy rằng bạn chẳng bỏ bớt đi đồng xu nào từ hàng dưới cả. Để giúp con mình thấy được điều gì đang thật sự diễn ra, hãy để bé tự mình xếp những đồng xu ở hàng dưới sát vào nhau, sau đó bạn hỏi bé xem số đồng xu có bị bớt đi hay được thêm vào hay không. Ngay cả như vậy thì có thể phải đến tận năm lên sáu hay bảy tuổi bé mới hiểu được rằng hai hàng đồng xu có số lượng bằng nhau. Lần sau, nếu con bạn nghĩ bé đang bị đối xử thiếu công bằng trong lúc bạn cho bé số đất sét bằng với số đất sét của bạn bé nhưng mẩu kia lại trông lớn hơn, bạn hãy thử cách này: Đưa cho bé xem hai cốc nước giống nhau chứa lượng nước bằng nhau. Hãy hỏi con bạn xem có cốc nào nhiều hơn không, hay hai cốc bằng nhau. Có thể bé sẽ đưa ra đáp án đúng: “Bằng nhau”. Sau đó, trong lúc bé đang quan sát, hãy rót nước từ một cốc sang một chiếc cốc khác cao hơn nhưng bé hơn. Có thể bé sẽ nghĩ rằng chiếc cốc cao hơn, bé hơn chứa nhiều nước hơn, bởi vì nó “cao hơn”. Sau đó, rót nước từ chiếc cốc cao trở lại chiếc cốc ban đầu. Lúc này, có thể bé sẽ trả lời “bằng nhau”. Giờ hãy vo tròn hai cục đất sét cho thật giống nhau. Trong lúc bé đang quan sát, hãy làm dẹt một cục sao cho nó trông có vẻ lớn hơn. Một số trẻ sẽ hiểu ra vấn đề, nhưng một số khác phải lớn thêm chút nữa mới hiểu được. Theo kết quả điều tra chi tiết trẻ em có cách nhìn nhận mọi việc khác hẳn người lớn. Nếu biết trẻ em có lối suy nghĩ khác, chúng ta có thể lý giải tốt hơn hành vi của các em. 2. Vỡ mộng và thất vọng “Con tôi ghét thất bại” Cậu con trai tám tuổi và cô con gái mười tuổi của bạn đang chơi cờ với nhau. Khi thua, cậu em hét lên: “Chị ăn gian!” Bạn bảo các con nên chơi lại ván khác. Lần này, con gái bạn thua. “Con thả cho em thắng đấy!”, cô bé nói, làm cậu em càng tức điên lên. Chơi bất cứ trò nào cũng vậy, hễ cứ cảm thấy sắp thua là cô con gái chín tuổi của bạn lại phá hỏng luôn trò chơi. “Đừng có lúc nào cũng điều khiển tớ như thế!” cô bé hét lên với bạn và ngừng chơi. Cậu con trai 12 tuổi của bạn luôn thấy lo mình sẽ là người thất bại − dù đang chơi đánh bài hay chơi bi − đến mức cậu bé không dám tham gia bất cứ trò chơi nào cả. Trong trường hợp này, bạn có rất nhiều điều để nói. Bạn có thể cố gắng thản nhiên và nói: “Lần sau con sẽ thắng thôi”, có điều bạn không thể đảm bảo cho điều này được. Lần sau chưa chắc con bạn đã thắng và lần sau nữa cũng vậy. Khi con bạn không còn tin bạn nữa thì bạn chính là người thất bại thảm hại. Bạn có thể nói: “Ngày mai con sẽ quên chuyện này thôi”, nhưng chưa chắc con bạn sẽ quên. Bạn cũng có thể an ủi con bằng cách nói: “Mẹ rất tiếc vì con đã thua. Mẹ biết rằng con đang rất buồn”. Nhưng như vậy thì cuộc nói chuyện giữa hai mẹ con sẽ chấm dứt ngay lập tức. Khi nói về cảm giác của con, bạn ngăn bé khám phá xem thất bại là gì mà khiến bé có cảm giác như vậy. Thậm chí, có thể bé không hề cảm thấy buồn chút nào; trong cách nghĩ của bé, thất bại mang ý nghĩa hoàn toàn khác so với cách nghĩ của bạn. Trở thành người thất bại tốt là một trải nghiệm để trưởng thành. Điều này đòi hỏi phải có thời gian. Khi trẻ không thích thất bại, thông thường nguyên nhân là do các em cảm giác không hay về bản thân, hoặc các em nghĩ có điều gì đó không đúng. Như lời một cậu bé giải thích cho tôi về việc cậu thua cờ cô em gái: “Cháu không nghĩ lại thua em mình”. Trong nhiều trường hợp trẻ em gặp vấn đề với cảm giác thất bại thường có nhu cầu quá mức về việc nắm quyền kiểm soát hoặc được cảm thấy mình mạnh mẽ. Những chiến thuật tôi nhắc đến ở trên không phải là có hại, cũng không phải vô tác dụng. Có điều, chúng không phát huy được hiệu quả vì không giải quyết tận gốc rễ vấn đề con bạn gặp phải. Trên thực tế, vấn đề không nằm ở chỗ thắng thua mà ở chỗ con bạn cảm thấy thế nào. Vậy bạn có thể làm gì để đạt được kết quả tốt hơn? Thay vì tập trung vào trò chơi hoặc đoán già đoán non, bạn nên hỏi xem cảm giác của con ra sao. Sau khi con bạn trả lời, hãy chuyển tâm điểm chú ý sang một người khác bằng cách đặt câu hỏi: “Con nghĩ chị con sẽ cảm thấy thế nào khi con nói chị thắng được là nhờ ăn gian?” Con bạn sẽ hiểu được rằng, chị nó cảm thấy buồn hoặc giận. Vậy là có bước khởi đầu tốt đẹp rồi. Giờ thì bạn hãy hỏi: “Chị con lúc thắng, lúc thua hay lúc nào cũng thắng?” Hầu như chắc chắn rằng con bạn sẽ thừa nhận cô chị chỉ thỉnh thoảng mới giành được một trận thắng mà thôi. Bạn hỏi tiếp: “Con có thể nói cách khác để khỏi làm cho chị buồn hay giận không?” Những câu hỏi kiểu này giúp con bạn hiểu được khái niệm thắng thua theo nghĩa rộng hơn, có cân nhắc đến cảm giác của bản thân lẫn người khác. Bằng cách này, trẻ sẽ học được cách trở thành người thất bại tốt và người thắng cuộc tốt. Khi bạn tập trung vào cảm giác của con, bé sẽ hiểu và chấp nhận rằng nếu thắng làm người ta cảm thấy dễ chịu thì thua cũng không làm người ta thay đổi chính mình. Như W. Timothy Gallwey đã viết trong cuốn sách kinh điển Trò tennis nội tại (The Inner Game of Tennis): “Về cơ bản, tập trung vào tennis không khác gì so với việc tập trung vào thực hiện bất cứ nhiệm vụ nào… và học cách đón nhận trở ngại trong cạnh tranh sẽ tự động nâng cao khả năng tìm kiếm lợi thế của mỗi người khi gặp khó khăn trong cuộc đời”. Gallwey cũng chỉ ra rằng giành chiến thắng trong trò chơi chỉ là hiện tượng bên ngoài; nó chẳng ảnh hưởng hay thay đổi gì đến con người bên trong chúng ta. Bạn cũng nên cho con tham gia một hoạt động mà bé dễ dàng nắm vững để bé tự tin ở chính mình. Giả sử cô con gái muốn giúp bạn làm bánh. Như vậy, không những bé học được một kỹ năng mới mà còn có khoảng thời gian đặc biệt bên bạn. Phải mất một thời gian trẻ mới hiểu được rằng yêu thương và chăm sóc phụ thuộc vào việc các em thắng hay thua. Cha mẹ nào giúp con cảm thấy tự tin hơn sẽ có cách nuôi dạy con thành người luôn lạc quan với bản thân và sống vui vẻ. Điều đó sẽ giải phóng các em, giúp các em chỉ còn sự tập trung vào niềm vui khi tham gia trò chơi. Như vậy, chẳng phải học thất bại cũng quan trọng như học thắng cuộc sao? Con bạn có nhất thiết phải là tâm điểm chú ý hay không? Con bạn muốn tham gia vào đội bóng rổ? Con bạn phấn đấu để có tên trong đội kịch của lớp, để được tham gia vào buổi hòa nhạc của trường? Thật tuyệt nếu những điều này là đúng. Trẻ em tham gia các hoạt động thể thao, kịch, văn nghệ… đều rất có lợi. Các hoạt động có tổ chức nói trên sẽ giúp trẻ: • Học được cách làm việc nhóm và tinh thần hợp tác; • Kết thêm bạn mới có cùng sở thích; • Đối diện với việc buồn chán khi thất bại; • Học cách chơi công bằng; • Thêm thông cảm với người khác khi ném trượt bóng khỏi rổ hay ngã trên băng; • Học cách kiểm soát thời gian để vừa hoạt động vừa hoàn thành bài tập về nhà. Tuy nhiên, đối với một số trẻ, việc trở thành “số 1” quan trọng đến mức làm mờ nhạt cả khát vọng được chơi hoặc tham gia với bạn bè. Các bậc cha mẹ thường bị chỉ trích khi đặt quá nặng vấn đề thắng thua. Chúng ta ai cũng đã từng đọc những câu chuyện về các bậc cha mẹ quá nhiệt tình cứ chạy theo đường biên, cãi nhau với huấn luyện viên và bị cấm tham gia do tranh cãi về các tình huống bóng cũng như các cú sút. Nhưng đôi khi áp lực thành tích lại đến từ bản thân trẻ em. Vậy, bạn sẽ nói thế nào nếu con mình quá quan tâm đến chuyện thắng thua hay trở thành ngôi sao? Sau đây là một số dấu hiệu: • Bé trở nên chán nản và giận dỗi khi mọi việc không xảy ra theo đúng ý mình; • Bé trở về nhà và bị căng thẳng vì áp lực phải trở nên xuất sắc hoặc vì phần thi quá khó; • Cuộc sống của bé ngày càng trở nên mất cân bằng, do đó bé có ít thời gian và không còn quan tâm đến bạn bè và/hoặc bài học ở trường; • Bé tuyên bố không muốn tham gia một chút nào vào môn thể thao/hoạt động đó; • Bé cảm thấy mình thất bại bởi vì không được nhận vai chính của vở kịch hoặc không ghi được nhiều điểm nhất trong trò chơi. Nếu con bạn có những biểu hiện như trên, có thể bạn cần phải giúp bé nhìn nhận tình huống theo một phương diện rộng lớn hơn. Chẳng hạn, nếu bé không nhận được vai chính của vở kịch, bạn có thể nói với bé những câu đại loại như: “Mười năm nữa rồi con sẽ quên chuyện này thôi mà”. Điều này có thể đúng, có thể không đúng. Nhưng vấn đề là nói chuyện về cảm giác của bé trong mười năm tới không thể nào giải quyết được cảm giác của bé hiện nay. Bạn có thể an ủi con rằng tình yêu của bạn dành cho bé không đổi, cho dù bé có ghi được bao nhiêu bàn thắng hay đóng vai gì đi nữa − như vậy bé không cần phải trở thành ngôi sao hay người xuất sắc nhất. Điều này rất quan trọng, bởi vì có thể bé đang khao khát sự chú ý mà bé nghĩ mình đang thiếu. Hoặc bé cảm thấy em trai mình được mọi người chú ý, khen ngợi nhiều hơn vì giỏi hơn bé trong một hoạt động nào đó. Hoặc có thể bé ghen tị với một bạn cùng lớp được một mình biểu diễn trong buổi hòa nhạc toàn trường bởi vì theo bé, bạn đó nổi tiếng hơn. Nhưng đấy cũng chỉ mới là bước đầu tiên. Điều bạn có thể làm tiếp theo là giúp trẻ chỉ quan tâm đến niềm vui mà thôi. Khi bé Tim chín tuổi không giành được một vị trí trong đội hình xuất phát của đội bóng đá kiểu Mỹ do huấn luyện viên bảo rằng cậu quá bé, Tim không hề muốn tham gia chút nào nữa. Trước hết, bố Tim an ủi bé rằng việc không giành được vị trí xuất phát không phải là lỗi của Tim, sau đó hỏi bé: “Vậy con còn chơi tốt môn nào mà con thích nữa không?”. Sau cuộc trò chuyện này, Tim phát hiện ra rằng bé còn giỏi cả bóng đá nữa. Bé còn phát hiện ra mình thật sự yêu thích môn thể thao này − bé rất thích được chạy khắp sân và đá bóng. Và vì tự thấy hài lòng với bản thân trên sân, bé rất dễ kết thêm bạn mới. Tim nhanh chóng nhận ra rằng chia sẻ niềm vui cùng bạn bè quan trọng hơn nhiều so với việc trở thành ngôi sao. Bất kể con bạn làm gì, hãy giúp bé cố gắng làm hết sức mình. Nhưng bạn cũng nên giúp con suy nghĩ về phần thưởng thực thụ trong mỗi hoạt động mà bé tham gia. Chấm dứt mè nheo Còn gì khó chịu hơn là phải nghe con cái mè nheo? Ngay khi vừa biết nói, trẻ đã hiểu rằng chúng có thể mè nheo khi không có được điều mình muốn, hoặc có nhưng không đúng thời gian, hoặc khi mọi việc không xảy ra theo ý chúng. Khi đã bám rễ sâu, thói quen này rất khó thay đổi. Đối với nhiều bậc phụ huynh, mè nheo giống như “cái gai trong mắt”, là hành vi thuộc loại khó chịu nhất. Nó tổng hợp các yếu tố làm người ta phát điên lên như: giọng nói, nét mặt, hình dáng cơ thể… Tất cả đều dễ khiến cho cha mẹ mất hết bình tĩnh. Mỗi phụ huynh đều muốn làm một điều gì đó để chấm dứt việc này. Bạn thử lờ đi khi cô con gái bắt đầu mè nheo, bảo bé ngừng ngay lại hoặc van xin bé hãy yên lặng, chấp nhận nhượng bộ. Tuy nhiên, vấn đề là không có cách nào trong số đó khiến bé từ bỏ thói quen mè nheo. Trên thực tế, nhượng bộ sẽ làm cho bé vô tình nhận ra rằng hễ muốn có cái gì, chỉ cần mè nheo là được. Trước khi đối phó với hành vi gây bực mình này, bạn hãy nghĩ xem tại sao con mình lại mè nheo. Một số trẻ làm thế không phải vì các em muốn quấy rầy, chẳng qua các em không biết phải xử sự thế nào mỗi khi buồn chán. Một số khác thì biết rằng mè nheo sẽ làm bạn khó chịu nên các em cố tình hành động như thế. Nhưng bất kể động cơ là gì các em cũng không hiểu hết, được tác động mà hành vi của mình gây ra cho người khác. Sự hiểu biết đó cần được mở rộng trên cơ sở tình thương yêu. Bạn có thể sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề để hoàn tất điều này; nó sẽ giúp con bạn suy nghĩ về những việc đang làm trên một góc nhìn mới. Trước hết, hãy hỏi bé: “Con cảm thấy thế nào khi em con hoặc bạn bè cứ mè nheo với con?”. Câu hỏi này có thể sẽ làm bé ngạc nhiên, bé sẽ liên tục suy nghĩ về việc giọng nói tác động đến người khác ra sao. Có thể đấy là lần đầu tiên bé để ý đến tác động của việc mè nheo đối với bản thân mình. Có thể bé sẽ nói mình không thích bị mè nheo như thế nào. Đó là khi bạn nên đặt câu hỏi: “Con nghĩ mẹ cảm thấy thế nào khi con liên tục mè nheo như vậy?” Lúc này, có thể bé đã nhận ra rằng nếu bé không thích bị mè nheo thì bạn cũng vậy. Sau đó, bạn hỏi tiếp: “Khi con mè nheo thì con có cảm giác thế nào?” Câu hỏi này cũng giúp con bạn giải quyết được một vấn đề khác mà bé chưa bao giờ nghĩ đến: bé mè nheo vì cảm giác bên trong bé. Một khi đã xác định được cảm giác của mình, bé sẽ không còn buông lỏng mình theo cảm giác nữa mà có trách nhiệm hơn trong việc thể hiện chúng. Bạn hãy hỏi: “Con có thể nghĩ được cách nào khác để cho mẹ biết con đang cảm thấy thế nào lúc này?” Điều này giúp bé nhận ra rằng bé đang đứng trước nhiều cách lựa chọn để thể hiện bản thân. Đến năm lên tám hoặc chín tuổi, nhiều trẻ em đã có thể tìm ra những giải pháp như: “Khi cháu muốn mè nheo, trước hết cháu tự nhủ mình phải bình tĩnh đã, sau đó cháu hỏi mình muốn gì bằng giọng thật nhẹ nhàng”. Bạn hãy hỏi tiếp: “Con nghĩ cảm giác của mẹ sẽ như thế nào nếu con làm vậy?”. Đến lúc này, con bạn sẽ nhận thấy rằng bạn đánh giá cao lời nói nhẹ nhàng của bé. Cuối cùng, bạn hỏi: “Con cảm thấy thế nào về điều đó?” Câu hỏi này giúp con bạn nhận ra rằng bé sẽ tự chủ tốt hơn khi kiểm soát được cảm xúc của mình. Nói như vậy không có nghĩa là tạo cho trẻ ý nghĩ rằng nếu không mè nheo nữa thì tự nhiên các em sẽ có được điều mình muốn. Nếu muốn thứ gì đó mà không thể có được vì bất cứ lý do nào, trẻ rất dễ lại tiếp tục mè nheo. Điều quan trọng là trẻ học cách giải quyết rắc rối để có được thứ mình muốn, đồng thời học cách đối mặt với sự chán nản khi không nhận được. Chẳng hạn, bé Rafael bốn tuổi muốn có một chiếc xe tải mới. Mẹ bé giải thích: “Mẹ không muốn mua xe tải mới cho con, bởi vì con cứ bẻ gẫy hết bánh của những chiếc xe trước đây”. Nhưng bé Rafael cứ tiếp tục mè nheo: “Mẹ ơi, con thật sự cần một chiếc xe mới. Lần này con sẽ không làm hỏng nữa đâu”. Ban đầu thì mẹ bé vẫn giữ vững lập trường. Nhưng khi nhìn thấy bé khổ sở thế nào, chị nhận ra rằng mình cần phải thử nghiệm một phương pháp mới. Chị hỏi: “Con làm gì để cho mẹ biết rằng con sẽ không tiếp tục bẻ gẫy bánh xe?” Rafael nghĩ một lúc, sau đó khẽ nói: “Mẹ mua cho con chiếc xe nhỏ thôi và con sẽ cho mẹ thấy là con không làm thế nữa”. Mẹ đồng ý. Chị mua cho cậu bé một chiếc xe tải nhỏ rẻ tiền và theo dõi xem Rafael chơi với nó thế nào. Khi nhận thấy cậu bé giữ lời, niềm tin của chị lại được khôi phục. Sau đó, chị mua cho bé chiếc xe mà bé muốn. Mấy năm sau, Rafael muốn có một chiếc máy vi tính trong phòng riêng. Khi bố mẹ không đồng ý, cậu bé lại giở bài mè nheo. Nhưng cậu bé nhanh chóng nhận ra rằng tình huống bây giờ hoàn toàn khác so với lúc vòi xin chiếc xe tải: bố mẹ bé không đủ tiền mua riêng cho bé một chiếc máy vi tính. Thay vì mè nheo, cậu bé cân nhắc các phương án sao cho mọi thành viên trong gia đình có thể dùng chung chiếc máy tính đang có. Thật hữu ích khi hiểu rằng thường thì bản thân mè nheo không phải là rắc rối, mà là kết quả của rắc rối. Giúp con luyện tính kiên cường Bé Robert bốn tuổi xin bạn Mac cho mượn chiếc xe tải mà Mac đang chơi. Mac từ chối, Robert đánh bạn luôn. Cậu bé không biết cách nào khác để đạt được điều mình muốn. Bé Sarah sáu tuổi hỏi xin Abbie để được ôm con búp bê của bạn một lát. Abbie không đồng ý, Sarah chịu thua và bỏ đi. Cô bé cũng không có ý tưởng nào khác để đạt được điều mình muốn. Bé Donnie tám tuổi không thể nào hoàn thành được trò chơi ghép hình nên bắt đầu ném các mảnh ghép khắp phòng. Con bạn đối mặt với tình trạng chán nản như thế nào? Bé khó chịu? Bỏ đi? Chửi rủa? Bỏ cuộc quá sớm? Hay đứng vững được và tìm ra cách khác hiệu quả hơn để giải quyết tình trạng chán nản? Khi bé Zachary bốn tuổi hỏi mượn bạn Seth chiếc xe kéo, Seth từ chối, giải thích rằng bé cần chiếc xe để chở đá, Zach nói: “Tớ sẽ trả lại ngay thôi”. Seth vẫn không đồng ý, Zachary không chửi mắng hay bỏ cuộc. Mặc dù có thể đã nghĩ đến việc đánh Seth hoặc cướp lấy chiếc xe nhưng bé không hề làm vậy, bởi vì bé cũng cân nhắc đến những gì sẽ xảy ra sau đó. Zach hiểu rằng có thể Seth sẽ giật lại chiếc xe, hai đứa sẽ đánh nhau, và bé sẽ mất đi một người bạn. Hơn thế nữa, bé cũng mất đi luôn cơ hội được chơi với chiếc xe. Vì vậy, là người giỏi giải quyết rắc rối, bé thử lại lần nữa. Tìm cách để cho cả mình lẫn bạn Seth đều hài lòng vì nhu cầu của cả hai được dung hòa, Zach nói: “Tớ sẽ giúp cậu chở đá!” Theo cách này, Seth vẫn có thể chơi với chiếc xe và Zach cũng được chơi. Lần này thì Seth đồng ý, và cả hai vui vẻ cùng nhau chơi với chiếc xe. Năng lực suy nghĩ của Zachary về cách giải quyết rắc rối đã dẫn cậu bé tới thành công thay vì nổi giận hay chán nản. Nếu như cô giáo dập tắt cách tư duy của Zachary bằng cách yêu cầu Seth cho Zachary mượn chiếc xe vì Seth đã được chơi trước rồi, hoặc khuyên hai cậu bé nên chơi cùng nhau hay trao đổi cho nhau, hoặc theo cách can thiệp của một số giáo viên và phụ huynh, tịch thu luôn chiếc xe để không bé nào được chơi cả, chắc hẳn Zachary đã bị tước mất cơ hội được đứng vững như bé đã làm. Với ví dụ trên, tôi không định nói lúc nào trẻ em cũng nên đạt được điều mình muốn ngay lập tức. Bé Mandy bốn tuổi muốn sơn móng tay chỉ mấy phút trước khi mẹ bé sửa soạn dọn bàn cho bữa trưa. Mẹ bé giải thích tại sao bé lại không thể sơn móng tay vào thời điểm đó và hỏi: “Con có thể nghĩ ra việc gì khác để làm trong lúc chờ đợi không?” Mandy nghĩ một lúc (bản thân việc này là một bước rất quan trọng), sau đó vui sướng hét lên: “Con sẽ đọc sách”. Nếu mẹ chỉ giải thích rằng cô cần chiếc bàn để dọn bữa trưa và khuyên bé nên “đọc sách”, rất có thể Mandy sẽ mè nheo: “Nhưng mà con muốn sơn móng tay”. Nhưng giống như Zachary, bé đã học được cách phải chờ đợi để đạt được điều mình muốn. Trong cuốn Dạy con không nản lòng (Raising Resilient Children), Robert Brooks và Sam Goldstein giúp chúng ta hiểu được tại sao một số trẻ lại kiên cường hơn hẳn những trẻ khác, và đấy là lý do khiến các em có khả năng vượt qua trở ngại tốt hơn. Theo các tác giả, một trong những phương pháp giúp trẻ thành công mà không bỏ cuộc là hãy cân nhắc quan điểm của người khác. Nói cách khác, nếu muốn con cái hiểu được quan điểm của mình, trước hết chúng ta phải cho trẻ thấy được rằng chúng ta cũng hiểu quan điểm của trẻ. Chẳng hạn, nếu chúng ta quát mắng những em gặp rắc rối với bài tập về nhà và chỉ nói: “Phải cố gắng nhiều hơn nữa” hoặc: “Phải chú tâm vào bài vở chứ”, rõ ràng là chúng ta đang để cho tâm trạng chán nản thúc đẩy mình; chúng ta không hề nghĩ đến việc con cái chúng ta sẽ đón nhận những lời này thế nào. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi hầu hết trẻ em đều không coi những nhận xét như thế là lời nhắc nhở hữu ích; các em chỉ thấy đó là lời phán xét và buộc tội. Và các em sẽ nhanh chóng để những lời như thế ra ngoài tai, lúc đó liệu bạn có trách các em được không? Muốn con cái hiểu quan điểm của mình, trước hết chúng ta phải cho trẻ thấy được rằng chúng ta cũng hiểu quan điểm của trẻ. Bố mẹ của James ngày càng lo bé không đủ kiên nhẫn để hoàn tất bài tập về nhà. Họ tự đặt mình vào vị trí của bé và cân nhắc xem bé muốn nghe những lời như thế nào. Trước hết, hai người công nhận rằng bài tập về nhà rất khó, và họ rất thông cảm với James khi gặp phải quá nhiều vấn đề khi làm bài tập. Khi James nhận thấy rằng bố mẹ không hề nghĩ xấu cho mình, bé bắt đầu sẵn sàng suy nghĩ xem có cách nào để giải quyết vấn đề hay không. Bé hăng hái xây dựng kế hoạch cho riêng mình: làm những bài khó nhất ngay khi vừa về nhà, thời điểm bé dồi dào năng lượng nhất. Vì kế hoạch này xuất phát từ bản thân bé nên James không cần ai thúc giục phải cố gắng nhiều hơn hay phải chú tâm vào bài vở nữa. Nếu thấy đang được chúng ta quan tâm, trẻ cũng sẽ tự quan tâm đến bản thân. Và khi chúng ta giúp trẻ tìm được thêm nhiều phương án giải quyết cho một vấn đề, trẻ sẽ tự nhủ phải cố gắng nhiều hơn và ít bỏ cuộc hơn. “Con tôi ao ước những thứ nó không có” Tất cả chúng ta ai cũng muốn sở hữu thứ mà mình không có. Người thì muốn mình mảnh mai hơn; người thì muốn tóc dài hơn một chút; hầu như ai cũng ước có nhiều tiền hơn nữa. Trẻ em cũng có nhiều mơ ước. Một số em muốn học giỏi hơn ở trường, chơi xuất sắc một môn thể thao hay một sở thích nào đó, hoặc thân hơn với anh chị em trong gia đình. Các em muốn được cao hơn, nhanh nhẹn hơn nổi tiếng hơn. Khi không đạt được điều mong muốn, chúng ta chán nản một thì trẻ em còn thất vọng gấp nhiều lần. Việc an ủi các em rằng dần dần rồi mọi chuyện sẽ đâu vào đó nhìn chung không phát huy tác dụng, bởi vì đối với trẻ em, tương lai là điều gì đó quá xa vời. Cuốn Nếu… (Những câu hỏi dành cho trò chơi của cuộc sống) của Evelyn McFarlane và James Saywell đề xuất với chúng ta một cách khác để thể hiện những gì chúng ta muốn có trong đời. Được viết cho người lớn, cuốn sách chứa đựng những câu hỏi nhằm khơi dậy trí tưởng tượng của mỗi người về ngôi nhà hoàn hảo cuộc sống hoàn hảo, và thế giới hoàn hảo. Trẻ em cũng có thể nghĩ về những điều này. Tôi lấy từ quyển sách ra một số câu hỏi phù hợp với từng lứa tuổi và đặt cho bốn cậu bé, là hai cặp anh em sinh đôi Allen và Manny mười hai tuổi, Lance và Bert mười một tuổi. Sau đây là câu trả lời của các em. Đối với câu hỏi: “Nếu có một điều ước, em sẽ ước điều gì?”, cả hai anh em sinh đôi (ở hai nơi không nghe thấy tiếng nhau) đều trả lời: “Được sống mãi không già”. Lance hy vọng rằng: “Mọi người trên thế giới đều được hạnh phúc và sống vui vẻ”, còn Bert thì ước luôn có hòa bình. Sau đó tôi hỏi: “Nếu em trở nên nổi tiếng vì một điều mà hiện nay em chưa làm được, đó là điều gì?” Allen mơ ước được lên phim, Manny muốn được trở thành cầu thủ bóng rổ. Cả Lance và Bert đều ước trở thành cầu thủ bóng chày nổi tiếng. Khi tôi hỏi các em sẽ làm gì nếu có khả năng tàng hình, Lance nói rằng em sẽ “lẻn vào sân bóng chày, đi vào phòng thay quần áo và nghe xem người ta nói gì”. Với mơ ước hoà bình, Bert sẽ “đi vào Nhà Trắng khi mọi người đang họp và nghe xem họ nói gì về chiến tranh”. Tiếp đó, tôi đặt một câu hỏi liên quan đến cuộc sống hiện tại: “Nếu có thể thay đổi một đặc điểm cá tính nào đó, em sẽ thay đổi điều gì?” Allen nói sẽ không chần chừ với việc làm bài tập nữa. Manny, Bert và Lance muốn mình không còn bị mất tự chủ khi ai đó trêu chọc. Tôi hỏi từng em xem các em làm thế nào để thay đổi được những điều đó. Allen nói: “Điều này rất khó bởi vì cháu muốn chơi với máy vi tính, và khi cháu dứt ra được thì đã đến giờ đi ngủ mất rồi”. Cậu bé ngừng một lúc, mỉm cười khẽ nói: “Cháu nghĩ rằng cháu nên làm bài tập ở nhà trước đã”. Allen và Manny thừa nhận rằng các em bị em gái “quấy phá suốt ngày”: “chẳng hạn như lúc cháu có bạn đến chơi” (Allen), và “khi cháu đang chơi game” (Manny). Allen nghĩ ra cách đóng cửa lại để em gái không vào quấy rầy được nữa, còn Manny thì quyết định chơi game lúc em gái không ở nhà. Lance, “kẻ bại trận” khi mẹ không cho phép cậu xem ti vi sau bữa tối, cũng nhận ra sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng: “Có lẽ cháu nên làm xong bài tập về nhà trước đã”. Điều thú vị là khi được hỏi nếu có thể, các em có còn muốn thay đổi điều gì ở bản thân nữa hay không, cả bốn cậu bé đều muốn mình cao hơn. Tại sao? Allen cho biết để em có thể “rướn xa hơn”, Manny có thể “với tới những thứ ở trên cao và nhảy cao hơn”, còn Lance nghĩ rằng em sẽ “bằng với những bạn khác”. Sau đó, tôi hỏi các em một câu hỏi quan trọng của riêng tôi: “Nếu thấp thì có lợi gì không?”. Allen im lặng một lúc rồi trả lời: “Như thế sẽ rất độc đáo”. Manny nghĩ rồi nói: “Cháu sẽ nhanh nhẹn hơn. Và cháu sẽ chui qua được nhiều thứ. Nó còn giúp cháu trở thành vận động viên quần vợt giỏi”. Lance mỉm cười, thì thầm: “Và cháu có thể vừa với những chỗ nhỏ hẹp”. Tìm ra điểm tích cực từ điều bất lợi như Lance vừa làm giúp chúng ta thôi trăn trở về những điều không thể đạt được, cũng như không còn thất vọng với những gì chúng ta đang có. Ao ước mình có thể cao hơn, bé Josua tám tuổi kể với tôi rằng bé cứ suốt ngày nhìn các bạn khác cao hơn và ước sao cũng cao bằng các bạn. Bé đã phải suy nghĩ rất nhiều về những điểm tốt của người thấp, nhưng sau khi được tôi khích lệ, cuối cùng bé nói: “Khi cháu bị bắt nạt và bạn kia không trả bóng lại cho cháu, cháu có thể chui qua chân bạn ấy và lấy lại bóng”. Sau đó, bé nói thêm: “Khi đá bóng, những bạn khác cao hơn không thể nào cản cháu được, vì các bạn nhìn lên trên cao và không thấy cháu”. Nói xong, cậu bé cười vang, thú nhận là chỉ “đùa thôi”, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là có lẽ lần đầu tiên trong đời Joshua đã cười vì mình thấp bé. Khi chơi trò “Nếu”, trẻ em không chỉ tìm thấy niềm vui trong việc tưởng tượng mà còn cảm thấy thoải mái hơn về những điều các em không thể thay đổi được. Trò chơi này cũng giúp các em xác định được điều gì có thể thay đổi và quyết tâm thực hiện thay đổi đó. Sẽ có nhiều điều quan trọng hơn cả mơ ước, nếu chúng ta cố gắng biến ước mơ thành hiện thực. 3. Căng thẳng, lo lắng, sợ hãi và tổn thương Bắt đầu đi học hoặc chuyển đến trường mới Con bạn chuẩn bị cho ngày đầu tiên đến trường. Nếu bạn chuyển nhà, có lẽ bé sẽ phải đi học ở một ngôi trường mới. Hoặc có thể bé chuẩn bị chuyển từ cấp tiểu học lên trung học. Điều may mắn là hầu hết trẻ em đều nhanh chóng thích nghi và dễ dàng chấp nhận thay đổi. Tuy nhiên, một số khác không như vậy. Nếu con bạn quá gắn bó với ngôi trường cũ hoặc quá quen với nếp sống ở nhà, quá trình chuyển đổi sẽ diễn ra chậm hơn hoặc khó khăn hơn so với dự tính. Điều quan trọng là bạn phải nhớ rằng, không có lịch trình cố định nào cho việc chuyển đổi cả. Chúng ta thích nghi thế nào với môi trường mới hoàn toàn phụ thuộc vào tính tình từng người. Bên cạnh đó, bạn cũng nên nhớ rằng trẻ em không có cái nhìn rộng như người lớn. Đối với các em, bắt đầu đi học hay chuyển trường cũng đồng nghĩa với việc thay đổi cả thế giới riêng của các em. Việc giúp trẻ có được bước khởi đầu tốt đẹp tại ngôi trường mới là điều cực kỳ quan trọng. Theo Lynn Huffman và các cộng sự trình bày trong báo cáo mới đây tại Mạng lưới thông tấn và Quỹ y tế tâm lý trẻ em, những em nào khi vào nhà trẻ mà cảm thấy khó chịu, sợ hãi hoặc giận dữ đều vì quá lo lắng nên không thể tạo dựng được quan hệ tốt đẹp với giáo viên và bạn cùng lớp. Vì vậy, các em không thể nào toàn tâm toàn ý học tập được. Sau đây là một vài chỉ dẫn để giúp con bạn giảm thiểu sự căng thẳng khi thay đổi. • Nếu có thể, hãy cùng con đến thăm trường để gặp giáo viên và nhân viên nhà trường trước ngày nhập học; • Kể cho con bạn một câu chuyện về việc bạn chuyển trường hay bắt đầu đi học. Trẻ em rất thích nghe chuyện khi chúng ta còn ở tuổi các em; • Đến cửa hàng và cho bé chọn lấy một số đồ dùng học tập, chẳng hạn như vở viết hay hộp ăn trưa. Khích lệ bé tìm thêm một thứ gì đó đặc biệt, chẳng hạn như hộp bút chì. Bằng cách này, các đồ dùng đó đều sẽ là của riêng bé; • Lên kế hoạch dắt bé đến trường hoặc ra bến xe buýt vào ngày đầu tiên, nếu điều kiện cho phép; • Giúp bé giải quyết các rắc rối khi kết bạn mới, đồng thời vẫn giữ liên hệ với bạn bè cũ; • Vì bạn là người luôn hiện diện trong cuộc đời con bạn, hãy nhớ luôn lắng nghe tâm tư và cảm giác của bé. Khích lệ bé đặt câu hỏi và bản thân bạn cũng nên đặt câu hỏi. Hãy bắt đầu bằng những chuyện vui. Một ông bố tôi quen đưa cô con gái Jodi lên năm tuổi đi mua đồ dùng học tập. Trên đường đi, anh bắt đầu hỏi chuyện con: BỐ: Jodi, con sắp đi nhà trẻ rồi. Hãy nói cho bố biết con thích gì ở trường? JODI: Đồ chơi. BỐ: Con còn thích thứ gì nữa không? JODI: Cô giáo. BỐ: Tốt lắm. Con đã tìm ra được hai thứ con thích ở trường. Con còn nghĩ ra được thứ gì mà con thích nữa không? JODI: Con cũng không biết nữa. BỐ: Bố cá là nếu nghĩ kỹ hơn, con sẽ tìm ra được nhiều điều hơn đấy. JODI: Vâng… con còn có thể vẽ và chơi cùng các bạn ở ngoài sân. Một điều quan trọng nữa là phải biết lắng nghe cảm giác của trẻ. Bất kể có hào hứng thế nào đối với việc đi học ở trường mới, bé vẫn dễ cảm thấy lo lắng. Thông thường, cảm xúc của chúng ta về mọi việc thường trộn lẫn vào nhau: khi mong đợi một điều gì đó, chúng ta vẫn hay cảm thấy lo lắng. Chúng ta nghĩ cảm xúc này có thể loại trừ cảm xúc kia, nhưng thực tế chúng vẫn song song tồn tại. Các cảm xúc lẫn lộn này là một phần của cuộc sống nhưng lại rất khó nói. Đây là cách mà bạn có thể giúp cô con gái năm tuổi của mình thể hiện và đối mặt với cảm giác cả tốt lẫn xấu: BỐ: Con đã nghĩ được những điều làm con thích khi đi học. Vậy có điều gì làm con không vui không? JODI: Con sợ không có bạn. BỐ: Con có thể nghĩ ra một cách gì đó để con có thể tìm được bạn mới không? JODI: Cho bạn chơi chung búp bê. BỐ: Tốt lắm. Con rất giỏi giải quyết rắc rối đấy. Giúp con nhìn nhận hai loại hình cảm giác sẽ tạo điều kiện cho bé kiểm soát được những cảm giác khó khăn. Nếu bạn nói trước với con về đầy đủ các loại hình cảm giác, bé sẽ sẵn sàng hơn ở ngôi trường mới. Căng thẳng khi thi cử và điều bạn có thể làm Con bạn có sợ các kỳ kiểm tra ở trường hay không? Một số trẻ rất sợ thi cử, ngay cả khi mới lên năm lên sáu tuổi. Nếu bạn nhìn thấy dấu hiệu sợ hãi bắt đầu xuất hiện, có thể bạn sẽ muốn hỏi con xem tại sao bé sợ. Nhưng chắc chắn bạn sẽ nghe thấy câu trả lời muôn thuở: “Con không biết”. Cứ bình tĩnh. Nếu bạn cảm thấy bối rối trước sự lo lắng của bé, con bạn sẽ nhận ra ngay. Nhưng cũng đừng nên xoa dịu nỗi sợ của bé bằng cách nói: “Rồi con sẽ làm tốt thôi”. Con bạn sẽ nhận thấy trong câu nói đó thiếu hẳn sự quan tâm đến cảm giác của bé. Một điều nữa cũng rất quan trọng là đừng nên thể hiện sự thất vọng khi con bị điểm kém. Thay vì nói cho con biết bạn cảm thấy thế nào về điểm thi, bạn nên để cho bé thể hiện cảm giác của bé về điều đó. Điều bạn cần làm tiếp theo là xác định xem tại sao bé lại sợ hãi và vấn đề thật sự là gì. Lo lắng về chuyện thi cử có thể nhiều nguyên nhân khác nhau, và thường thường, bạn phải cùng con trải qua kỳ thi thì mới tìm ra được nguồn gốc của vấn đề. Một số trẻ làm bài thi không tốt lắm, từ đó nảy sinh tâm lý sợ thi. Trong trường hợp này, bạn có thể thử dạy con một số mẹo đi thi, chẳng hạn những mẹo mà Joseph Casbarro nêu ra trong cuốn Lo lắng khi thi cử và những điều bạn có thể làm (Test Anxiety and What you can do about it). Trong số đó có những mẹo như đọc bài thi từ đầu đến cuối một lượt rồi mới làm; khi thi trắc nghiệm thì loại trừ những lựa chọn mà bé biết chắc chắn là sai, trả lời những câu dễ trước và nhớ theo dõi thời gian. Một khả năng khác là con bạn biết câu trả lời nhưng vẫn không làm được bài, vì thế bé sợ phải thử lại lần nữa. Hãy tìm hiểu xem có phải con bạn đọc câu hỏi quá nhanh không, hay không hiểu yêu cầu đề thi. Nhiều trẻ hiểu sai yêu cầu cũng như các câu hỏi của đề thi do không cẩn thận. Nếu con bạn gặp phải trường hợp này, hãy rèn luyện cho bé cách đọc chậm hơn và thận trọng hơn. Một số trẻ sợ thi ngay cả khi không hề trượt. Nguyên nhân có thể là do con bạn sợ mắc lỗi. Nếu vậy, hãy nói cho bé biết ai cũng có thể mắc lỗi cả. Một khả năng khác là con bạn sợ sẽ làm bạn thất vọng. Có thể bé cảm thấy mọi người đặt quá nặng vấn đề thành tích hoặc bé chỉ được khen khi làm bài tốt mà thôi. Một phụ huynh mà tôi biết đã mắng con vì đạt được 98/100 điểm trong kỳ thi môn toán. Thay vì tập trung vào điểm số cao mà bé đạt được, chị lại hỏi về chỗ sai của bé. Nhưng vấn đề có thể sẽ phức tạp hơn. Con bạn rối trí vì lịch học kín đặc và phải làm quá nhiều bài tập. Ngày nay, nhiều trẻ em đang phải tham gia quá nhiều thứ, quá sớm và quá nhanh, chẳng hạn như học nhạc, học khiêu vũ, học hướng đạo… trong lúc vẫn phải hoàn thành bài tập về nhà đúng hạn. Con bạn có thể thực hiện được bao nhiêu phần? Bạn có thể thực hiện được bao nhiêu phần? Người Hy Lạp cổ tin rằng: “Việc gì cũng phải điều độ”. Điều này cũng đúng với cả trẻ em. Được cha mẹ giúp đỡ, trẻ em tầm bảy tuổi đã có thể tự mình lập ra kế hoạch cho cả ngày. Sau đây là những việc mà bạn có thể giúp con: • Soạn danh sách tất cả các hoạt động mà con bạn đã tham gia và tất cả hoạt động mới làm bé quan tâm; • Bảo bé gạch đi những hoạt động mà bé đã hoặc muốn ngừng tham gia hoặc có thể ngừng tham gia; • Đối với những hoạt động còn lại, bảo con bạn vẽ một ngôi sao bên cạnh những hoạt động nào mà trong cuộc sống bé cần phải có; • Hãy để con tự lên kế hoạch với thời gian của bé. Tất nhiên là bao gồm cả thời gian làm bài tập về nhà và thời gian để chơi với bạn bè (rất quan trọng); • Hãy bảo con suy nghĩ xem liệu bé có đủ thời gian cho tất cả các hoạt động trong bản kế hoạch hay không. Sau khi hoàn tất bước này, hầu hết trẻ em đều nhận thấy cần phải đưa ra những lựa chọn quan trọng trong đời, chẳng hạn như làm thế nào để quyết định xem các hoạt động nào bé quan tâm nhiều hơn. Nếu con bạn nghĩ tham gia một hoạt động nào đó với mật độ mỗi tuần một giờ là đủ, bạn hãy để bé thử xem sao. Nếu con bạn thích dành thời gian để rèn luyện kỹ năng trong một lĩnh vực nào đó, cũng không sao cả. Điều quan trọng là các bé tự mình đưa ra quyết định. Trẻ sẽ học được cách lên lịch trình cho việc phải làm mà vẫn có thời gian cho những điều muốn làm. Chắc chắn, trẻ sẽ sát sao với kế hoạch của riêng mình (bởi bé có thể thay đổi kế hoạch khi cần để đáp ứng nhu cầu thực tế của bản thân) hơn là kế hoạch mà cha mẹ lập ra cho trẻ. Cân bằng, điều độ và kế hoạch riêng sẽ giúp con bạn tự tin hơn, bớt căng thẳng hơn, chuẩn bị tốt hơn cho các kỳ thi. Và con bạn bớt căng thẳng cũng đồng nghĩa với việc bạn bớt căng thẳng. Trẻ sẽ học được cách lên lịch trình cho việc phải làm mà vẫn có thời gian cho những điều muốn làm. Theo lời Maurice Elias thuộc Đại học Rutgers: “Chúng ta phải chuẩn bị cho con cái sẵn sàng trước những bài thi của cuộc đời, chứ không phải là cả đời chỉ lo việc làm bài thi”. Và nhờ đó, trẻ sẽ bớt lo lắng về những bài thi trượt. Bớt căng thẳng, học giỏi hơn Bé Toni mười một tuổi luôn đạt danh hiệu học sinh giỏi suốt mấy năm tiểu học. Nhưng khi vừa lên lớp 6, điểm của bé bắt đầu thấp dần, đặc biệt là môn toán. Đây là hiện tượng lạ, vì toán vốn là môn bé giỏi nhất và cũng rất thích học. Một điều bất thường nữa là bé bắt đầu than phiền đêm đến không thể nào chợp được mắt, có những cơn đau dạ dày và đau đầu nhẹ. Bé bắt đầu cắn móng tay − điều chưa bao giờ xảy ra. Toni đang bị căng thẳng. Sự căng thẳng trong cảm xúc chung ảnh hưởng thế nào đến quá trình học tập của trẻ? Theo Gene Carter, Giám đốc điều hành Hội Giám sát và Phát triển giáo trình, một tổ chức giáo dục quốc gia của Mỹ, nhiều trẻ em gặp phải rắc rối ở trường học vì lý do cảm xúc. Ông tin rằng học sinh không thể toàn tâm toàn ý học hành nếu các em cảm thấy căng thẳng hoặc bất lực. Nghiên cứu của tôi cũng ủng hộ điều này: những em nào có khả năng đưa ra quyết định đúng đắn trong đời sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn. Các em ít cảm thấy lo lắng và có thể tập trung tốt hơn vào việc học. Những em nào không thể giải quyết rắc rối xã giao hàng ngày nảy sinh với bạn học, anh chị em, thầy cô giáo hay cha mẹ đều rất dễ trở nên chán nản và cáu kỉnh. Thất bại nối tiếp thất bại sẽ khiến cho con bạn trở nên kích động hoặc ngược lại − bỏ cuộc quá sớm hay thậm chí còn rút lui khỏi những rắc rối không thể giải quyết nổi. Mặt khác, những em nào dễ dàng giao tiếp với bạn bè ở trường sẽ có khả năng tập trung tốt hơn cho việc học. Các em có thể lắng nghe, chú ý và kiên định với những nhiệm vụ khó khăn. Bạn có thể giúp con học cách nói lên suy nghĩ và cảm giác bằng cách đặt ra những câu hỏi như sau: “Hôm nay ở trường có điều gì làm con vui thế?” “Ở trường có chuyện gì làm con buồn không?” “Con có làm việc gì hay nói gì để bản thân con cảm thấy tốt hơn không?” Bất cứ căng thẳng cảm xúc nào làm con bạn mất tập trung học hành đều khiến bé trở nên lo lắng về chuyện trường lớp. Tuy nhiên, trẻ em có thể học được kỹ năng giải quyết các vấn đề về cảm xúc đang gây trở ngại cho bản thân các em. Chẳng hạn, khi nói chuyện với Toni, tôi hỏi bé xem ở trường có xảy ra chuyện gì khiến bé buồn hay không. Bé giải thích với tôi rằng các bạn suốt ngày trêu chọc bé vì quá gầy và có một vết chàm xấu xí trên mặt. Trong số đó, kẻ trêu chọc nhiều nhất lại học chung lớp toán với bé. Cô bé nói: “Cháu không thể nào tập trung vào bài tập được vì các bạn cứ làm cho cháu cảm thấy rất bất an”. Khi tôi hỏi bé có thể làm gì để giải quyết rắc rối này, bé nghĩ rất lâu. Toni quyết định bao giờ đến lượt bé đọc báo cáo sách trước lớp, bé sẽ thêm vào câu chuyện giả tưởng về một cô bé bị bạn cùng lớp trêu chọc vì quá gầy gò và xấu xí. Trong câu chuyện bé giải thích về cảm giác của cô bé. Bằng cách này, Toni không những không bỏ cuộc mà còn kiểm soát được tình thế. Những em từ trước đến giờ trêu chọc bé tự nhiên liên hệ câu chuyện với hành động của mình và bắt đầu nhìn bé bằng ánh mắt khác. Thời gian trôi qua, thậm chí bé còn kết thân được với một số bạn trêu bé trước đó. Khi rắc rối đã được giải quyết, bé cảm thấy thoải mái hơn để tập trung vào việc học. Có lẽ giải quyết những rắc rối về “người” cũng quan trọng tương đương như giải quyết những rắc rối trong toán học. Trẻ em sợ đến trường, bị trêu chọc, hoặc không thể kết bạn với những người mà các em muốn gần gũi, đều rất lo lắng suy nghĩ về bài tập sắp tới. Nếu hiểu được rằng có thể những em học kém toán không nhất thiết phải rèn thêm về môn toán, chúng ta sẽ tiến rất xa trong việc giúp đỡ các em tập trung và nâng cao chất lượng học tập. Rụt rè không dám tham gia? Con bạn không chơi cùng với bạn bè cùng trang lứa hoặc tỏ vẻ sợ phải tham gia nhóm, chỉ thích ngồi xem mọi người thay vì tự mình hòa nhập? Bé có quá sợ hãi khi phải đứng đọc bài trước lớp hay giơ tay trả lời câu hỏi của giáo viên? Nhiều trẻ em sẽ cảm thấy căng thẳng và tạm thời rút lui khỏi các hoạt động cũng như khỏi bạn bè khi gặp phải một tình huống mới, chẳng hạn như đi học ở trường khác, nhưng ngay khi lấy lại được cảm giác tự tin, các em sẽ hòa đồng và năng động trở lại. Tuy nhiên, một số em lại quá rụt rè, nhút nhát, hoặc sợ người khác đến mức không thể nào khẳng định được bản thân hoặc đứng lên đòi quyền lợi cho mình. Và nếu yêu cầu bị từ chối, các em có thể sẽ hờn dỗi và bỏ cuộc rất sớm. Mặc dù chờ đợi để có được điều mình muốn là một trong những kỹ năng quan trọng của cuộc sống nhưng trẻ em rụt rè và dễ rút lui lại thường chờ đợi quá lâu, bởi vì các em không thể, hoặc không muốn thử cố gắng một lần nữa. Chúng ta cần phải giúp đỡ các em vượt qua được nỗi sợ hãi đó. Bé Richie mười tuổi rất sợ phải tham gia với các bạn cùng lớp. Bé nghĩ rằng nếu bé sai ở điểm nào đó, các bạn sẽ cười nhạo hoặc cô giáo sẽ so sánh bé với những bạn trả lời đúng. Mẹ bé cầu xin bé hãy cố gắng và thậm chí còn hứa với bé rằng các bạn sẽ không cười nhạo bé và cô giáo sẽ không làm bé thấy khó xử, nhưng bé không thay đổi suy nghĩ. Cuối cùng, chị đưa ra điều kiện sẽ mua cho bé một con cún con mà bé muốn có từ lâu nếu bé chịu lên tiếng trong lớp. Nhưng con cún cũng không giải quyết được bản chất vấn đề là tại sao ở trường bé lại lo lắng đến vậy. Sau đây là một số gợi ý khi con bạn gặp phải vấn đề tương tự như bé Richie. Hãy đặt những câu hỏi như: “Có phải nguyên nhân là do con gặp rắc rối gì đó với cô giáo không?” “Con lo là có thể con sẽ gặp phải sai sót đúng không?” “Con có bối rối khi bị trêu chọc không?” “Các bạn có trêu con khi con nói to không?” Khi con bạn đã xác định được nguyên nhân gây ra sự khó chịu của bé, hãy hỏi bé cảm thấy thế nào khi được cô giáo gọi tên và hãy ghi nhận các cảm giác đó. Tiếp theo: • Nếu các bạn trêu chọc hoặc cười nhạo khi bé trả lời trong lớp, hãy yêu cầu bé kể ra những gì bé nên làm hoặc nói để các bạn dừng lại; • Nếu bé sợ phạm lỗi, hãy nói với bé rằng chuyện đó không có gì quan trọng cả. Hãy kể cho bé nghe một số lỗi mà bạn đã gặp phải, hoặc những lỗi của bạn khi còn ở tuổi bé; • Hãy đề nghị bé thử trả lời một câu hỏi. Để cho bé tự chọn đề tài, và hãy nói với bé về sự chờ đợi cho đến khi bé tìm được câu trả lời mà bé biết chắc là đáp án; • Nếu bé phải đọc to, hãy để cho bé tập đọc trước ở nhà, trong môi trường mà bé nghĩ là an toàn với sự hỗ trợ của bạn. Bé Jesse bảy tuổi lại thể hiện sự lo lắng dưới một dạng khác. Bé rất nhút nhát nên không dám tham gia chơi với các bạn khác, bởi vì trước đây những bạn mà bé xin được chơi cùng thường bảo bé những câu đại loại như: “Chưa đến lúc”, hoặc: “Bọn tớ không còn chỗ cho bất cứ ai nữa đâu”. Jesse đành bỏ cuộc và cảm thấy rất buồn bã, như bao trẻ em rụt rè và lo lắng khác. Mẹ Jesse áp dụng một kỹ thuật mà theo lời các bác sĩ là rất tốt cho bé: chơi trò nhập vai. Đóng vai một đứa trẻ, mẹ bảo Jesse hãy thể hiện cách bé hỏi xin các bạn khác để được chơi cùng như thế nào. Jesse lên tiếng: “Chào các bạn, tớ chơi cùng được chứ?”. Mẹ nhận thấy đầu bé hơi cúi xuống và giọng nói của bé nhẹ đến mức khó mà nghe thấy được. Mẹ nói: “Được rồi. Nhưng lần này hãy nhìn thẳng vào mẹ và nói to lên chút nữa để mẹ có thể nghe thấy lời con nhé”. Sau khi Jesse đã luyện tập được một lúc, mẹ cho cô chị gái lớn hơn bé một chút vào tập cùng. Dạy trẻ những kỹ năng xã giao như sử dụng ánh mắt và nói rõ ràng là một trong những cách để giúp trẻ vượt qua cảm giác rụt rè. Một cách khác nữa là đặt câu hỏi để giúp trẻ nghĩ ra những chiến lược cụ thể khác nếu như một giải pháp nào đó không phát huy hiệu quả. Bé Tanya bốn tuổi muốn được chơi ở góc búp bê tại trường mẫu giáo. Khi các bạn không mời bé chơi cùng, bé cứ lượn lờ xung quanh góc búp bê mà không biết phải làm sao để thể hiện mong muốn được tham gia của mình. Cô giáo giúp bé bằng cách lên tiếng: “Tanya muốn giúp các em thu xếp đồ vào va li”. Nhưng ngay cả khi các bạn đã đồng ý cho Tanya vào chơi cùng thì tâm lý bé vẫn chưa săn sàng. Cô giáo của Tanya rất lo lắng về điều này. Mẹ Tanya nói: “Mẹ có một câu đố dành cho con. Hãy thử nghĩ ra ba cách để đưa ‘cá sấu Allie’ (con búp bê mà bé yêu thích) đi bơi cùng con”. Các ý kiến của cô không được tính bởi vì cô muốn cho Tanya tự do nghĩ ra nhiều cách giải quyết vấn đề. Tanya rất thích nghĩ ra nhiều cách để dụ dỗ Allie đi bơi cùng bé, đặc biệt là ý nghĩ về việc bé sẽ sung sướng hét lên: “Bảo với bạn ấy là nếu bạn ấy chết đuối thì đã có con cứu”. Một hôm không lâu sau đó, Tanya đứng ngoài góc đặt búp bê ở trường mẫu giáo và bảo với các bạn: “Nếu các bạn cần một người lính cứu hỏa thì tớ sẽ làm lính cứu hỏa”. Ngay sau đấy, một bạn đã chỉ cho bé chỗ ngọn lửa giả. Tanya phấn khích đến nỗi bé về nhà với gương mặt rạng rỡ và tự hào tuyên bố: “Mẹ ơi, hôm nay con đã giải quyết được rắc rối!”. Mẹ của Heather rất bối rối vì mỗi khi chị có khách là cô con gái bảy tuổi lại kiên quyết rút lui về phòng, ngay cả khi bạn bè chị mang theo con đến chơi cùng Heather. Mẹ cố gắng thuyết phục bé rằng mọi người muốn gặp mặt bé thế nào, giải thích rằng có cả quà dành cho bé nữa, và nài nỉ bé hãy tham gia chơi cùng mọi người. Nhưng không gì thay đổi được ý định của Heather. Bé quá rụt rè nên không dám cởi mở với mọi người. Giáng sinh năm ngoái, mẹ Heather quyết định thử áp dụng phương pháp mới. Cô bảo với Heather: “Mẹ sẽ làm một hình người bằng bánh gừng cho ngày lễ Giáng sinh, và mẹ cần được con giúp đỡ”. Đến lúc đắp mặt, mẹ nói: “Con có thể đặt mắt, mũi, miệng ở bất cứ chỗ nào con muốn. Cứ thoải mái đi. Con chơi vui nhé”. Heather dùng đường tạo hình cái miệng và đặt lên trán của chiếc bánh hình người. Bé dùng các viên đường phèn đặt xuống dưới miệng anh ta. Sau đó, bé đặt chiếc mũi làm bằng cam thảo ngay dưới mắt phải. Heather cười to đến nỗi gần như không thể dừng lại được. Bé háo hức được khoe sáng tạo mới của mình đến mức không thể nào chờ được mọi người đến. Khi khách khứa đến, thay vì chạy về phòng mình như mọi khi, Heather chạy tới đón từng người khách vào nhà và dẫn họ tới xem tác phẩm của bé. Đến bữa tiệc tiếp theo, Heather đã quyết định tạo các mẫu thiết kế làm bánh và viết tặng mỗi vị khách một bài thơ. Mẹ không cần phải dỗ dành bé bằng những lời hứa hẹn về quà tặng, giải thích mọi người muốn được gặp mặt bé thế nào hay phải năn nỉ bé nữa. Nếu con bạn quá rụt rè không dám hòa nhập, hãy giúp bé cảm thấy thoải mái và bình tĩnh. Nếu bé cảm thấy tự tin về những phương pháp mới để hòa nhập cùng các bạn đóng kịch, hay háo hức về những sáng tạo của mình trước các vị khách đến thăm, bé sẽ có một bước tiến dài trên con đường giải phóng sợ hãi, lo lắng và sẵn sàng gia nhập thay vì rút lui. Khi gia đình có người ốm hay mắc bệnh mãn tính Khi bạn, vợ hoặc chồng bạn, hoặc con bạn bị một cơn cảm lạnh hoặc cúm quật ngã, bạn thường cảm thấy chán nản, lo lắng, thậm chí giận dữ. Mọi việc diễn ra chậm hơn, và thậm chí những công việc đơn giản nhất cũng trở nên vô cùng phức tạp. Nếp sống thường ngày bị đảo lộn. Khi trong gia đình có người bị tàn tật suốt đời hay mắc căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng, cảm giác của chúng ta sẽ như thế nào? Lo lắng, căng thẳng, thậm chí trầm cảm có thể bao trùm lên tất cả và dường như không thể nào chịu đựng nổi. Montel Williams, một phát thanh viên chương trình tọa đàm nổi tiếng ở Mỹ, mắc bệnh đa xơ cứng (MS), một dạng bệnh viêm ở hệ thần kinh trung ương, có nguy cơ đe dọa mạng sống. Tuy nhiên, Montel không cho phép mình buông xuôi tuyệt vọng hay đi đâu trong trạng thái sốc. Nhận ra mối liên hệ giữa vóc dáng cơ thể và sức khỏe, Montel đã tham gia một khoá rèn luyện để cơ thể trở nên đẹp hơn và bản thân ông cũng cảm thấy khỏe mạnh hơn. Ông thấy mình không chỉ làm điều này vì bản thân ông, mà còn vì bốn đứa con chín tuổi, mười tuổi, mười bốn tuổi và mười chín tuổi. Tôi đã có cơ hội được trò chuyện với Montel về rèn luyện cơ thể. Theo ông, thể lực khỏe mạnh đã giúp ông có cảm giác thoải mái về xúc cảm, mang đến cho ông thêm sức mạnh để sống cùng và vui chơi với các con. Ông giải thích: “Khi đã nghĩ đến sức khỏe và cảm xúc của bản thân, nó sẽ khiến anh quan tâm hơn đến những người mà anh yêu thương, chẳng hạn như vợ con”. Ông cảm thấy nguồn nội lực của ông − được tăng cường qua những bài tập mà ông và huấn luyện viên Wini Linguvic mô tả trong cuốn sách Thay đổi cơ thể (Body change) − đã có tác động mạnh mẽ lên gia đình ông. Với niềm tin là mình cần phải hết sức trung thực, Montel giải thích cặn kẽ với các con về căn bệnh của mình, kể cả việc chứng đa xơ cứng có thể khiến cơ thể ông ngày càng thoái hóa. Ông cũng nói cho các con biết rằng ông cần tập thể dục mỗi ngày một giờ vào buổi sáng, và trong thời gian đó không ai được phép quấy rầy ông. Montel hiểu rằng giải thích cho các con về tình trạng bệnh tật và nhu cầu của mình sẽ giúp chúng thông cảm hơn, không chỉ với bản thân ông mà còn với người khác nữa, chẳng hạn như những học sinh bị bắt nạt ở trường. Montel kể cho tôi nghe giờ đây con ông sẵn sàng giúp đỡ những người phải ngồi xe lăn, những người bước đi chậm chạp trên phố, hay những người đang gặp chuyện buồn như thế nào. Ông nói: “Chúng hiểu được rằng cho dù bây giờ tôi trông rất khỏe mạnh thì trong người tôi vẫn mang bệnh. Vì thế chúng đã sẵn sàng cho bất kỳ biến động nào trong tương lai”. Khi các con đã trở nên nhạy cảm hơn với mọi người nhờ căn bệnh của ông, Montel tin rằng ông cũng đã nhạy cảm hơn với các con. Ông cho biết: “Nó giúp tôi nhận thức được rõ hơn rất nhiều về nhu cầu của chúng so với khi tôi chưa bị bệnh”. Montel không thể đoán được ông sẽ mạnh khỏe và giữ được cảm giác thoải mái như hiện tại được bao lâu. Tuy nhiên, ông đang sống phần đời còn lại một cách có ý nghĩa nhất và với sự giúp đỡ của huấn luyện viên thể lực, ông đang làm mọi thứ có thể khi điều kiện vẫn còn cho phép. Bé Brandy Haller năm tuổi mắc bệnh tăng huyết áp phổi từ năm lên hai. Đây là một dạng bệnh phổi hiếm gặp, có nguy cơ gây tử vong, thường bị nhầm với chứng hen suyễn hoặc khó thở. Trong vòng ba năm qua, Brandy phải đeo ống bơm máu và thuốc vào tim suốt 24 giờ mỗi ngày, bảy ngày mỗi tuần. Tuy không hiểu được mức độ nguy hiểm của căn bệnh nhưng bé vẫn hiểu rằng không được để ống bơm bị ướt hay bị tuột, do vậy bé không thể ra bãi biển và đùa nghịch với cát và nước được. Nhưng với “chiếc bơm”, như lời bé gọi, Brandy vẫn vui vẻ, vẫn “cưỡi” trên xe đạp của bé và không than vãn điều gì. Trong khi hàng ngày nuôi hy vọng có một phương pháp chữa trị cho con mình, bố mẹ Brandy vẫn lạc quan và thực tế với cuộc sống thường nhật. Mẹ Brandy giải thích: “Mỗi ngày chúng tôi lại nhận thức sâu sắc hơn về hoàn cảnh thực tại. Chúng tôi không thể suy nghĩ về ngày mai hay về năm năm tới, hay về việc cháu muốn như thế nào khi lớn lên. Chúng tôi phải nhìn vào khía cạnh tích cực và cố gắng sống thật vui vẻ với hiện tại”. Giờ đây, Brandy đã đi nhà trẻ. Mặc dù các cô giáo đã được dặn kỹ về tình trạng và những nhu cầu đặc biệt của bé cùng những điều cần làm trong trường hợp khẩn cấp, bố mẹ Brandy vẫn biết rằng cho bé đi học là điều hết sức mạo hiểm. Nhưng họ quyết tâm giữ thái độ lạc quan. Mẹ bé nói: “Brandy rất quý mọi người. Tôi muốn bé được vui vẻ với mọi người, và nếu có rắc rối xảy ra thì chúng tôi sẽ giải quyết”. Những gia đình biết cách đối mặt với khó khăn như thế có thể khích lệ bất cứ ai trong chúng ta. Khi cảm thấy căng thẳng hay ức chế, hãy suy nghĩ về Montel, về gia đình của ông, về gia đình nhà Haller, chúng ta sẽ vượt qua được. Nếu họ duy trì tốt thái độ lạc quan và thấy rằng cuộc đời này rất đáng sống, chúng ta cũng sẽ làm được như thế. 4. Đối mặt với mất mát Cân nhắc lại việc ly hôn: Không phải lúc nào con bạn cũng bị tổn thương Con cái sống chung với cặp bố mẹ hục hặc có tốt hơn con cái sống chung với bố hoặc mẹ đã ly hôn hay không? Nhiều năm nay, chúng ta vẫn biết rằng trẻ em trong gia đình có bố mẹ ly hôn, đặc biệt là trẻ em trai, thường không quan tâm đến bạn bè, học hành sút kém và có nguy cơ lớn lên với những vết thương sâu sắc trong tâm hồn. Ngày nay, các bậc cha mẹ có thể yên tâm hơn về vấn đề này. Trong 30 năm, E. Mavis Hetherington đã tiến hành nghiên cứu đối với 2.500 trẻ em thuộc 1.400 gia đình để xem các em thích nghi thế nào điều kiện bố mẹ ly hôn (công trình đã được in trong cuốn Tốt hơn hay xấu đi (For Bestter or For Worse) của John Kelly. Bà nhận thấy 75-80% trẻ em có bố mẹ ly hôn tạo dựng được sự nghiệp, có nhiều mối quan hệ và thành công trong cuộc sống, bất kể bố mẹ các em có tái hôn hay không. Trong số 10% trẻ em sống chung với cả bố và mẹ nhưng có tuổi thơ không êm ấm, hầu hết đều xuất phát từ những gia đình thường xuyên có xung đột. Ngoài ra, những em xuất thân từ gia đình có bố mẹ ly hôn và gia đình bố mẹ không ly hôn nhưng thường xuyên xung đột về sau sẽ có xu hướng ly hôn cao hơn (36% có bố mẹ ly hôn, 29% từ gia đình có bố mẹ hay xung đột) so với các em từ gia đình có bố mẹ ít xung đột (18%). Mặc dù vậy, Hetherington cũng chỉ ra rằng, trẻ em có bố mẹ ly hôn sẽ dễ dàng thành công hơn trong cuộc sống gia đình của chính các em, nếu một trong hai người xuất thân từ gia đình có bố mẹ ít xung đột, bởi vì người này sẽ có khả năng hỗ trợ tốt hơn đối với những nhu cầu về cảm xúc của người. Hetherington công nhận, ban đầu ly hôn gây đau đớn rất nhiều cho hầu hết các gia đình, ngay cả khi một trong hai người, hoặc cả đôi, về sau cảm thấy bớt căng thẳng. Bà tin rằng bất chấp những gánh nặng mới về cảm xúc và tài chính, cuộc sống sau này của trẻ em phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng của bố/mẹ lên cuộc sống của các em cũng như vào sự nhạy cảm và hỗ trợ của bố/mẹ trước nhu cầu của các em. Jill, mẹ của hai anh em sinh đôi Ethan và Bob, ly hôn chồng lúc con mới lên ba tuổi, đã phải cố gắng rất nhiều để suy nghĩ về nhu cầu của các con cũng như bản thân mình. Chị tôn trọng cảm giác của con ngay từ ban đầu. Chẳng hạn, khi Ethan hỏi: “Tại sao bố không còn ở đây nữa hả mẹ?”, Jill trả lời giản dị và trung thực: “Bởi vì bố và mẹ không hợp nhau”. Khi hai cậu bé lên mười, chồng cũ của Jill thất nghiệp nên không còn đủ khả năng hỗ trợ các con tham gia giải khúc côn cầu được nữa. Jill hiểu trò khúc côn cầu có ý nghĩa với các con thế nào, vì vậy chị nhận làm thêm để có tiền trang trải khoản chi phí đó. Không một lời trách móc bố lũ trẻ, chị đã tìm được cách khác để đáp ứng nhu cầu của con. Trong suốt những năm tháng nuôi con, cả Jill và ông chồng cũ đều tuân thủ những nguyên tắc nhất định mà Hetherington và các chuyên gia khác đưa ra: • Trung thực; • Thể hiện cho con cái biết bạn vẫn yêu thương và chăm sóc chúng; • Giải thích cho con hiểu rằng những gì xảy ra không phải do lỗi của chúng; • Không trách móc hay chỉ trích người kia; • Cho phép người kia đến thăm con và tham gia vào cuộc sống của con theo một phương thức nhất định; • Hãy để cho trẻ thể hiện suy nghĩ và cảm giác của các em và hãy lắng nghe. Cho chúng biết rằng bạn đã hiểu; • Tôn trọng nhu cầu của con; • Liên lạc với vợ/chồng cũ để hai người có thể thống nhất về nguyên tắc cư xử cũng như không mua cùng một món quà cho con vào ngày sinh nhật hay ngày lễ tết; • Tôn trọng vợ/chồng cũ; đừng bao giờ tìm cách “chiếm ưu thế” với người kia; • Hãy để ý những lần con bạn có thái độ thiên vị với một trong hai người. Nếu bạn nghĩ điều này đang xảy ra, hãy nói với con. Bạn hãy yêu cầu con suy nghĩ xem bạn cảm giác thế nào và bản thân bé cảm giác thế nào. Bất kể bạn đối phó với tình trạng ly hôn tốt đến đâu, vẫn có những khoảng thời gian trong năm làm bạn cảm thấy bối rối, chẳng hạn như kỳ nghỉ, ngày lễ hay các dịp sinh nhật. Đây là những thời điểm mà người ta mong đợi nhất, và ai cũng có kỷ niệm về ngày còn bên nhau. Điều đặc biệt quan trọng là các cặp cha mẹ đã ly hôn phải hợp tác với nhau về mặt thời gian, hậu cần và quà tặng. Đến nay, Ethan và Bob đều đã là sinh viên đại học. Các em làm việc có trách nhiệm để chi trả tiền học phí, có bạn thân và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với cả bố lẫn mẹ. Khi mẹ tái hôn, các em rất hạnh phúc và ủng hộ. Có lẽ các cậu bé đã học được cách quan tâm đến người khác vì được người khác quan tâm đến mình. Khi bạn thân chuyển đi Bạn bè là người luôn sát cánh cùng chúng ta trong mọi việc, được ta quan tâm và tin tưởng. Chúng ta thường kể cho bạn bè nghe về rắc rối của mình và họ khiến chúng ta cảm thấy thoải mái hơn. Bạn bè có mặt lúc chúng ta cần và chúng ta có mặt lúc họ cần. Vậy điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta biết một người bạn sẽ chuyển đi nơi khác và sắp phải chia tay? Khi gia đình Gladwell biết rằng bạn của họ, gia đình Moran, phải chuyển nhà, mọi người đều hết sức sững sờ. Không chỉ các cô con gái của hai gia đình bằng tuổi nhau mà các bà mẹ cũng đã trở nên thân thiết. Martha Gladwell giải thích: “Tôi biết là họ chỉ chuyển đến chỗ mới cách đây một giờ chạy xe thôi, nhưng mọi thứ sẽ không còn như trước nữa. Bây giờ chúng tôi muốn làm việc gì vào lúc nào cũng được, chẳng hạn như đi xem phim hay làm bỏng ngô. Sau khi họ chuyển đi, mọi thứ sẽ phải được lên kế hoạch trước. Tôi cảm nhận được sự mất mát đối với bản thân tôi cũng như với các con tôi. Đến khi biết rằng họ sắp sửa chuyển đi, tôi mới nhận ra của chúng tôi đã thân thiết đến mức nào”. Martha có những cảm giác khác khó diễn tả hơn: cuộc sống của các bạn chị có sự thăng tiến, trong khi chị bị bỏ lại phía sau. Rồi chị nói thêm: “Nhưng tôi phải mạnh mẽ lên mới được. Tôi không muốn để các con nhìn thấy mình khóc”. Khi Martha hỏi xem các con sẽ nhớ điều gì nhất khi bạn bè chuyển đi, chị cả Kris mười hai tuổi khóc: “Cùng nhau đi xe buýt tới trường” và “được gặp nhau và chào nhau”. Bé Micky mười một tuổi nói rằng bé sẽ nhớ bạn khi bạn chuyển đến đó. Martha nói với hai chị em về tầm quan trọng của việc chấp nhận các cảm giác đó. Chị tránh không nói những câu đại loại như: “Dần dần rồi các con sẽ không thấy buồn nữa đâu”. Martha giải thích: “Thực tế không phải vậy. Tôi không biết sau này các con tôi sẽ cảm thấy thế nào. Do đó, một tuyên bố như thế sẽ chẳng thể nào giúp các cháu vượt qua được cảm giác buồn bã mà các cháu đang phải đối mặt hiện nay”. Giải pháp của Martha là lên kế hoạch sắp xếp lịch hẹn cho hai gia đình thường xuyên gặp nhau, cả trong những dịp chính thống như lễ tết và ngày sinh nhật lẫn những dịp không chính thống như đi mua sắm. Nếu như khoảng cách chia cắt những người bạn không xa đến nỗi không đi thăm nhau được, đây là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất mà bạn có thể áp dụng. Còn một cách nữa để giúp trẻ em ổn định cảm xúc về tình bạn đã mất, đó là đọc sách viết về đề tài này. Trong cuốn Amber Brown lên lớp 4 (Amber Brown goes Fourth), tác giả Paula Danziger kể câu chuyện về Amber Brown, một học sinh lớp bốn có người bạn thân nhất là Justin chuyển đi nơi khác. Hài hước mà sâu sắc, cuốn sách mô tả ban đầu Amber lo lắng về việc thiếu vắng Justin đến nỗi cô bé không nhận ra rằng một bạn khác cùng lớp là Brandi cũng cần có bạn mới không kém bé và rất muốn kết thân với bé. Dần dần, Amber trở nên cởi mở hơn với tình bạn mới và học được một bài học quan trọng: cho dù Brandi không phải là Justin thì bé và Brandi vẫn có thể trở thành những người bạn mới thân thiết. Cô bé Kira tám tuổi có bạn chuyển đi nơi khác rất thích câu chuyện này. Mặc dù bạn của bé chuyển đến một nơi không xa lắm, bé vẫn cảm thấy buồn. Bé giải thích: “Bạn ấy không còn ở trường cháu nữa, và bọn cháu không thể nào cùng nhau chơi trong giờ giải lao được nữa”. Mẹ Kira là Margaret đã giúp bé tự nghĩ ra những ý tưởng nhằm đối mặt với bước thay đổi quan trọng này trong đời cô bé. Trước hết, chị hỏi Kira xem bạn bè có thể liên lạc với nhau như thế nào nếu như phải sống ở hai nơi xa nhau. Kira đề xuất: “Họ có thể gọi điện thoại cho nhau, gửi email, chat với nhau hoặc gặp nhau ở đâu đấy vào một dịp đặc biệt trong năm”. Bạn của Kira đang đến thăm Kira, bổ sung ý kiến: “Gửi ảnh cho nhau để mỗi người đều biết người kia trông ra sao khi lớn lên”. Sau đó, Margaret hỏi con gái xem bé có thể giữ mối liên lạc với bạn bé như thế nào. Sau một lúc suy nghĩ, Kira đưa ra vài ý kiến: “Hẹn ngày đi chơi cùng nhau”, và “đi các nơi cùng nhau”. Trong khi xa cách về địa lý có thể làm tình bạn bớt thân thiết, nhiều khi còn biến mất theo thời gian thì việc giữ liên lạc, ít nhất là trong thời gian ban đầu, có thể khiến người ta dịu bớt cảm giác đau buồn. Nó cũng giúp người ta nhớ được điều mà Martha đã nhận ra sau khi gia đình Moran chuyển đi được vài tuần: “Thật khó mà quen với mất mát, nhưng có lẽ đây là phương pháp tốt để giúp con sẵn sàng đối mặt với những mất mát vĩnh viễn, chẳng hạn như khi ông bà qua đời. Nếm trải kinh nghiệm này sẽ giúp con tôi học được cách trân trọng những gì đang có. Tôi biết mình đã trải nghiệm điều đó”. Đây là một thông điệp quan trọng cho tất cả chúng ta. Khi cuộc sống làm chúng ta bất ngờ bằng những tình huống không ai dự tính trước, chúng ta có thể sử dụng những trải nghiệm này làm bậc thang để tiếp bước đi tới tương lai, làm cơ hội để trưởng thành và thích nghi. Chúng ta sẽ không bao giờ biết chắc được điều gì sắp xảy ra, nhưng chúng ta có thể tự tin vào khả năng giải quyết rắc rối của chính mình. Giúp con đối diện với cái chết của người thân Chết là một phần tự nhiên của cuộc sống. Mặc dù muốn con cái chúng ta không phải nếm trải cảm giác mất mát, nhưng rõ ràng là chúng ta không thể. Hiểu được ý nghĩa của việc mất đi người thân là một phần của hành trình học làm người. Đồng thời, chúng ta phải thừa nhận rằng khái niệm về chết chóc và mất mát của trẻ em khác chúng ta rất nhiều, và khi trẻ lớn lên thì khái niệm đó cũng dần thay đổi. Janis Keyser, đồng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu trẻ em, thanh thiếu niên và gia đình tang thương ở Philadelphia, Pennsylvania , cho biết: “Trong lúc tang gia bối rối và đau thương, người lớn có thể không để ý đến việc làm thế nào để chăm sóc và hỗ trợ con mình được tốt nhất”. Chị nói thêm rằng mặc dù trẻ em còn bé có thể chưa hiểu được ý nghĩa của từ “chết” ở thời điểm xảy ra sự kiện, nhưng cần phải sử dụng đúng từ và đừng nên thay thế bằng những từ khác để né tránh sự thật và giảm bớt đau buồn. Chị giải thích: “Trẻ em có xu hướng hiểu mọi việc theo nghĩa thực. Nếu bạn nói tránh đi với đứa con đang ở tuổi mẫu giáo: “Chúng ta mất ông rồi”, rất có thể bạn sẽ thấy con bạn đi tìm ông trong tủ đựng quần áo”. Những tuyên bố khác cũng vô nghĩa không kém, chẳng hạn như: “Chúa đón bố đi rồi”, hoặc: “Bố đang đi gặp Chúa”. Trẻ còn bé có thể nảy sinh lòng sợ Chúa hoặc không dám đi ngủ nữa. Keyser cũng khuyên bạn không nên đưa ra những lời giải thích như: “Bố bị ốm”, bởi vì lần sau khi trẻ bị cảm lạnh, có thể bé sẽ nảy sinh cảm giác sợ chết. Nếu bố bé chết vì bệnh, tốt hơn là hãy giải thích với bé: “Bố ốm nặng, nặng lắm, và các bác sĩ cũng không thể làm gì được”. Sau đây là cách một bà mẹ chuẩn bị tâm lý cho cô bé Lindsay tám tuổi trước cái chết của bà ngoại vì ung thư giai đoạn cuối. Chị nói với Lindsay: “Mẹ có một tin tốt và một tin xấu cho con. Tin tốt là bà sẽ không còn phải chịu đựng các cuộc phẫu thuật nữa vì chúng chẳng giúp ích được gì cho bà, và con cũng biết là bà đau đớn thế nào sau khi phẫu thuật rồi đấy. Tin xấu là các mầm bệnh có thể phát triển mạnh hơn. Các bác sĩ sẽ thử một loại thuốc mới, nhưng không biết là có hiệu quả hay không”. Khi Lindsay hỏi bà có thể đến xem trận đấu bóng của bé hay không, mẹ bé giải thích rằng bà không thể làm được nhiều việc mà trước đây vẫn thường làm nữa: “Bà ốm rất nặng, vì thế nên bà rất, rất mệt”. Khi Lindsay chuyển chủ đề, mẹ bé không nói về vấn đề đó nữa. Mẹ bé giải thích: “Theo nguyên tắc, tôi chỉ nói về bà khi mà Lindsay còn quan tâm. Và khi nói đến chuyện đó, tôi không nói thẳng với cháu là bà sắp chết, nhưng nếu cháu hỏi thì tôi cũng không nói dối. Tôi sẽ nói với cháu rằng có thể bà sắp mất, nhưng không ai biết là vào thời điểm nào”. Còn nhiều cách khác để làm dịu đi nỗi đau mất mát, chẳng hạn như giúp con bạn hiểu được rằng người thân đó vẫn sống mãi. Sau đây là một số lời khuyên mà Keyser và người đồng sự Rob Sheesley đưa ra: • Tìm hiểu xem con bạn có thể mô tả cảm giác của bé đến mức nào. Một số trẻ thích vẽ tranh hoặc làm thơ, trong khi số còn lại muốn thể hiện những thời điểm hạnh phúc mà các em có được với người thân; • Chia sẻ cảm giác của bạn với con. Nếu bé hỏi những câu đại loại như: “Tại sao bố không về nhà?”, bạn có thể trả lời: “Mẹ cũng nhớ bố lắm”; • Trả lời các câu hỏi của con, và nếu bé không hỏi thì đừng nói gì cả. Trả lời ngắn gọn và trung thực; • Hãy nói về các nghi lễ. Tưởng nhớ những điều mà cả gia đình đã từng cùng nhau làm vào ngày sinh nhật của người đã khuất hoặc vào các dịp lễ tết sẽ giúp cho hình ảnh người đó sống mãi; • Nhắc đến người đã khuất trong các câu chuyện thường ngày. Khi tôi cùng một người bạn đi đến chỗ hẹn sớm đến nỗi chúng tôi phải chờ những người khác, tôi nói: “Bố tôi luôn bảo: ‘Thà đến sớm ba mươi phút còn hơn đến muộn một phút’”. Bằng cách này, bố luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của tôi; • Đọc những cuốn sách lý giải tại sao chết lại là một phần của cuộc sống. Chẳng hạn, sách dành cho trẻ em từ bốn đến tám tuổi giải thích cái chết theo các hướng không gây lo lắng cho người đọc bao gồm những cuốn như Cuộc sống: Cách giải thích hợp lí cho trẻ về cái chết (Lifetimes: The Beautiful way to Explain Death to Children) của Bryan Mellonie và Robert Ingpen, và Khi khủng long chết (When Dinosaurs Die) của Laurie Krasny và Marc Brown. Bên cạnh những lời khuyên này, bạn hãy cố huy động sự hỗ trợ của cả gia đình. Bạn nên ưu tiên cho việc giúp đỡ con vượt qua giai đoạn đau buồn này mặc dù bản thân bạn cũng đang nếm trải cảm giác đau buồn, mất mát. Tham gia vào nhóm hỗ trợ là một trong những cách tìm ra nội lực của chính mình. Các nhóm này, theo lời Keyser là “có thể giúp bạn tạo ra cảm giác an toàn và bình thường cho các gia đình đang phải trải qua giai đoạn mất mát”. Kỷ niệm ngày giỗ mẹ và giỗ bố Đối với những em có bố hoặc mẹ đã mất, ngày giỗ mẹ và ngày giỗ bố là những thời điểm rất khó khăn, đặc biệt là ngày giỗ đầu. Không thể lờ dịp này đi được và không có lý do gì để chạy trốn nó cả. Thay vào đó, kế hoạch tốt nhất là hãy giúp con bạn học cách tưởng nhớ đấng thân sinh đã khuất trong tim. Lynne Hughes, Giám đốc điều hành kiêm sáng lập viên của Comfort Zone Camp , khu trại quốc gia cho trẻ em có tang, cho biết: “Trẻ em rất khó mà chịu đựng được nỗi đau mất cha mẹ. Nếu chúng ta có thể tìm được cách để giúp các em duy trì mối liên hệ với người thân thì Ngày của Mẹ và Ngày của Bố sẽ làm các em cảm thấy dễ chịu hơn”. Mất cả bố lẫn mẹ trước khi lên mười hai tuổi, Hughes biết được tầm quan trọng của việc giúp đỡ trẻ em đối mặt với mất mát và giá trị của việc duy trì liên hệ. Sau đây là một vài ý kiến mà chị đã chia sẻ với tôi: • Tìm các cách để tưởng nhớ đến bố/mẹ, kể những câu chuyện ý nghĩa và nhớ lại những lúc còn ở bên nhau; • Khích lệ trẻ em nói lên cảm giác và hãy chia sẻ cảm giác của bạn với các em. Hãy để các em dùng màu vẽ tranh thể hiện cảm giác, chẳng hạn như màu vàng là hạnh phúc, màu xanh dương là buồn, màu đỏ là giận dữ; • Tạo ra những thói quen trong gia đình như đi ăn ở nhà hàng mà bố thích hoặc điểm du lịch mà mẹ hay đến, những nơi mà sự hiện diện của người đã khuất đặc biệt rõ; • Tạo ra và trang trí chiếc “hộp đương đầu”. Hãy bảo con bạn viết ra giấymọi thứ mà bé có thể làm vào những ngày bé rất nhớ bố/mẹ (gửi email cho bạn bè, viết sổ lưu niệm, ăn kem ốc quế), sau đó thả các mẩu giấy đó vào trong hộp để sau này xem lại; • Khi có điều kiện, hãy mời bố/mẹ kế, ông bà, cô dì chú bác hoặc bạn thân của gia đình đến tham dự các hoạt động dành riêng cho “bố/mẹ và con” cũng như các hoạt động mà con bạn nhớ là đã từng làm với người đã khuất. Các gia đình ở Comfort Zone Camp đã sáng tạo ra nhiều cách khác để giúp trẻ đối diện với hoàn cảnh. Một bà mẹ đưa con đến vườn thú vào ngày mất của bố bởi vì ngày này năm trước, họ đã cùng nhau đến đây. Một ông bố cùng con kỷ niệm ngày mất của mẹ bằng cách dành riêng một khoảng thời gian cho mẹ: họ thu thập tranh ảnh và vật kỷ niệm, đặt vào một chiếc hộp đặc biệt, sau đó chôn gần gốc cây mà mẹ yêu thích. Ở những gia đình khác, trẻ em viết thông điệp rồi buộc vào bóng bay, thả vào không trung để gửi cho bố/mẹ đã mất. Hughes nói: “Bất kể bạn làm gì đều không quan trọng. Điều quan trọng là bạn có làm điều gì đó. Bạn không thể trốn tránh ngày đó và hy vọng rằng nó sẽ qua đi. Không bao giờ”. Năng động cũng là điều rất quan trọng. Nhiều giáo viên, đặc biệt là giáo viên bậc tiểu học, thường dành thời gian đứng lớp để tổ chức trước cho ngày giỗ bố hoặc mẹ của học sinh. Nếu vợ/chồng bạn đã mất, có lẽ bạn nên cho giáo viên biết về hoàn cảnh của con bạn và khuyến khích họ để cho trẻ biết rằng họ có thể làm một món quà dành tặng người đã khuất. Bạn cũng có thể nói chuyện với con xem bé có cảm giác như thế nào khi nghe các bạn nói về bố/mẹ mình và bé nói gì về bố/mẹ. Bé Jimmy lên mười lại hành động theo cách hoàn toàn khác trong ngày giỗ của mẹ bé, mất cách đây hai năm. Bé đi học về với vẻ lặng lẽ và thu mình. Khi mẹ kế hỏi bé xem có chuyện gì xảy ra, Jimmy không muốn nói bất cứ điều gì. Bé nói: “Chẳng có gì cả”. Nhưng người mẹ kế vẫn tỏ ra quan tâm. Chị hiểu rằng cảm giác mất mát của bé đang lớn dần lên khi ngày kỷ niệm đến gần, vì vậy chị nhẹ nhàng hỏi lại lần nữa. Lần này, Jimmy thừa nhận: “Con nhớ mẹ”. Một số phụ nữ có thể phản ứng theo hướng ghét bỏ, ghen tị. Nhưng mẹ kế của Jimmy đã dẹp cảm giác của chị sang một bên và cố gắng giúp bé hiểu được ý nghĩa đích thực của ngày kỷ niệm. Chị hỏi: “Điều gì khiến mẹ con trở nên đặc biệt với con?” Jimmy nghĩ một lúc và nói: “Bởi vì mẹ là người đã sinh ra con. Mẹ yêu thương con, lắng nghe con và cùng con làm mọi việc”. Mẹ kế của Jimmy trả lời: “Sinh con là điều rất quan trọng. Nhưng điều thật sự có ý nghĩa chính là con bây giờ. Cho dù dì không sinh ra con, con có nghĩ rằng dì rất quan tâm đến con, muốn lắng nghe con và cùng con làm mọi việc không?” Trước đây, Jimmy chưa bao giờ nghĩ đến điều này: mẹ kế của bé cũng nhạy cảm trước cảm xúc của bé và nghĩ về ngày giỗ mẹ bé. Cuối cùng, bé chấp nhận rằng bé và mẹ kế sẽ tìm ra cách để cùng nhau kỷ niệm ngày giỗ mẹ. Khi con vật cưng chết Chúng ngủ cùng giường với ta, ăn cùng bàn với ta, ngồi cùng ghế với ta và nép mình vào lòng ta. Khi trong nhà bạn có thêm chó, mèo, chim…, các con vật thường được cưng chiều đến mức chúng ta không thể tưởng tượng được cuộc sống gia đình thiếu chúng thì sẽ ra sao. Nuôi thú sẽ giúp ta dạy trẻ nhiều bài học quan trọng về cuộc sống, trong đó quan trọng bậc nhất là cách đối mặt với những vấn đề như ốm đau, già lão và chết. Rằng mọi sinh vật đều có lúc phải chết, rằng chết là một phần của cuộc sống, và chúng ta phải yêu thương, chăm sóc lẫn nhau khi còn sống, kể cả thú nuôi cũng vậy. Trẻ em lớn hơn có thể hiểu được rằng thú nuôi không sống lâu được như chúng ta. Trên thực tế, ngày đầu tiên khi con thú gia nhập cuộc sống gia đình bạn, đấy là cơ hội tốt để trò chuyện với trẻ em lớn về tuổi đời tự nhiên các loài động vật khác nhau thì có tuổi đời khác nhau như thế nào, và con thú cưng đó có thể sống được khoảng bao lâu. Nhưng còn những em nhỏ tuổi thì sao? Các em hiểu được điều gì? Mẹ của bé Carl bốn tuổi giải thích cho bé rằng đó chỉ là tai nạn khi chú chó Rocky của gia đình bị xe cán chết. Chị nói: “Chúng ta rất yêu Rocky. Chúng ta thật buồn khi nó chết đi. Chúng ta sẽ nuôi một chú chó khác thay thế vậy”. Mẹ Carl cố gắng an ủi con trai, chị tin rằng cách tốt nhất để cậu bé không nghĩ về con vật nuôi vừa chết là tìm một con khác thay thế. Nhưng giống như bao trẻ em khác cùng lứa, có lẽ Carl hiểu những điều mẹ nói theo cách hoàn toàn khác. Các nhà nghiên cứu Annemarie Roeper và Irv Sigel cho biết, một số trẻ em ở tuổi mẫu giáo không thể nào phân biệt được những sinh vật sống trong nhà với những sinh vật không thuộc về gia đình. Nếu Carl coi Rocky là một thành viên trong gia đình, có lẽ bé sẽ nghĩ: “Nếu mình bị xe cán chết, mẹ có tìm một cậu bé khác và quên mình đi hay không?” Để xác định được bé thật sự hiểu thế nào về cái chết của một con thú nuôi, hãy nói chuyện với con bạn. Chẳng hạn, hãy đặt những câu hỏi như: “Con nghĩ điều gì xảy ra khi Rocky bị xe cán chết?” “Con cảm thấy thế nào về điều này?” Khi được hỏi xem bé nghĩ điều gì đã xảy ra với con chó, một đứa trẻ bốn tuổi đã trả lời đơn giản: “Nó lên thiên đường rồi”. Đối với đứa trẻ này, thiên đường “ở trên cao”, mọi người và thú nuôi sau khi chết sẽ lên đó. Bé biết rằng con chó không còn chịu đau đớn nữa. Khi được hỏi cảm thấy thế nào, cậu bé trả lời: “Rất, rất buồn”. Mẹ bé nói với bé rằng chị hiểu, chị cũng cảm thấy buồn, và mọi người đều cảm thấy buồn. Hãy nói về con vật đã chết nếu con bạn muốn vậy, nhưng đừng cố gắng kéo dài cuộc trò chuyện nếu như con bạn đã đổi đề tài. Các câu hỏi và cuộc trò chuyện như vậy sẽ giúp bạn giải mã được kiến thức của con mình về cái chết, cho dù con bạn có hiểu được rằng bạn quan tâm đến cảm giác của bé hay không, và nuôi con vật khác có giúp bé quên con vật cũ hay không. Bạn sẽ nói gì nếu như con bạn đã sẵn sàng nuôi một con thú mới? Hãy gợi ý rằng bạn sẽ cùng con đến trại chăn nuôi, sau đó quan sát kỹ xem bé phản ứng thế nào. Nếu bé thích ngay một con cún tai to, có thể bé đã sẵn sàng nhận nuôi con thú mới. Nếu bé cứ đứng cạnh lồng và khóc, có thể là bé chưa sẵn sàng. Hãy chờ khoảng một tháng, sau đó thử lại lần nữa. Xét cho cùng, hầu hết trẻ em đều sẵn sàng chấp nhận nuôi một con thú mới làm bạn. Nếu bạn chờ đến khi bé thật sự sẵn sàng thì mặc dù con thú mới không thể thay thế được con vật nuôi cũ, nhưng nó sẽ trở thành một thành viên mới trong gia đình với sự độc đáo riêng của nó. 5. Quan tâm và thông cảm Chúng ta có chuyển những thông điệp khác nhau đến cho bé trai và bé gái? Chúng ta cho con trai và con gái đến trường với hy vọng rằng chúng sẽ tìm được môi trường học tập đầy hứng thú, nhưng những gì thật sự xảy ra trong lớp học thường khiến chúng ta ngạc nhiên và bực mình. Sau đây là một số kết quả nghiên cứu mà tôi có được: • Khi lên hai tuổi, bé gái thường bị ngắt lời khi đang nói hơn bé trai; • Ở nhà trẻ, bé trai được chú ý nhiều hơn bé gái; • Ngay khi vừa lên lớp một, giáo viên gọi bé trai nhiều hơn bé gái và cho phép các em nói nhiều hơn trong lớp; • Giáo viên tiểu học khen bé gái vì cách các em ăn mặc và buộc tóc, trong khi bé trai lại được kèm cặp và được khen vì cách các em giải toán và hoàn thành bài tập; • Bé trai được hỏi những câu có tính tư duy cao hơn, điều này cho thấy giáo viên tin rằng bé trai có khả năng tư duy trừu tượng tốt hơn bé gái; • Từ mẫu giáo đến phổ thông trung học, giáo viên chú ý nhiều hơn đến học sinh nam và cũng dành nhiều thời gian trò chuyện cùng các em hơn. Sau khi tổng hợp những điều này và các cuộc nghiên cứu khác về nhà trường và giới, các nhà nghiên cứu Janice Koch, Eli Newberger, Diane Ruble và Carol Lynn Martin đưa ra giả thuyết rằng có thể các bậc cha mẹ và thầy cô giáo một cách vô thức, đang chuyển những thông điệp khác nhau đến cho bé trai và bé gái. Có phải các thầy cô giáo đang vô tình thể hiện rằng bé trai có nhiều điều quan trọng để nói hơn bé gái? Sự bất bình đẳng này không chỉ diễn ra ở trường mà còn ở nhà nữa. Cả bố và mẹ đều khích lệ các hoạt động thể chất mạnh mẽ ở con trai hơn con gái và cũng không giám sát con trai chặt chẽ bằng con gái. Con gái được khuyến khích thể hiện sự phụ thuộc và những cảm xúc nhẹ nhàng hơn. Trong giai đoạn từ ba đến sáu tháng, các bà mẹ cười với con gái nhiều hơn với con trai, và ở trường, những người trông trẻ cũng cười với bé gái nhiều hơn. Các ông bố chuyển đến cho con trai nhiều mệnh lệnh và yêu cầu hơn, chẳng hạn như: “Mang cho bố quyển sách đó”. Đối với con gái, có nhiều khả năng các ông bố sẽ nói: “Con mang cho bố quyển sách đó được không?”. Không chỉ trò chuyện nhẹ nhàng với con gái khi đã lớn, lúc bé mới được mười tám tháng tuổi, các bậc cha mẹ đã đưa vào lời trò chuyện với bé gái rất nhiều từ ngữ thể hiện cảm xúc − cả cảm xúc tốt như hạnh phúc, tự hào lẫn cảm xúc không tốt như buồn bã và sợ hãi − hơn hẳn so với lúc trò chuyện với con trai. Khi các bậc cha mẹ nói chuyện với con trai về cảm xúc, họ chủ yếu thể hiện sự giận dữ. Và khi hướng dẫn con vượt qua xung đột, các bà mẹ có xu hướng xây dựng mối quan hệ hòa hảo với con gái nhưng lại chấp nhận sự phản kháng của con trai như một giải pháp. Tương tự, cả bố và mẹ đều phạt con theo các cách khác nhau: trong khi con trai dễ bị phạt vì tội đánh chị, đánh em hay giành giật đồ chơi thì con gái lại được bố mẹ giải thích tại sao không nên làm vậy. Có vẻ như chúng ta tập trung cảm xúc cho con gái và hành động cho con trai. Nhưng điều này không công bằng chút nào cả. Bé gái cũng quan tâm đến hành động, mặc dù các em không nói ra. Tương tự, chúng ta khuyến khích con gái thể hiện cảm xúc và mong chờ con trai kiểm soát cảm xúc. Trong cuốn Con trai đích thực (Real Boys), tác giả William Pollack giải thích rằng khi chúng ta bộc lộ sự giận dữ với con trai, có thể các bé sẽ học cách che giấu cảm xúc của mình. Một ông bố nói với tôi: “Nếu con trai tôi kể với bạn bè cháu cảm thấy thế nào, các bạn sẽ coi cháu là người yếu đuối”. Và nếu không có cơ hội nói về nỗi buồn và sự sợ hãi của mình, các bé trai sẽ không học được cách đối mặt với cảm xúc. Thay vào đó, các em sẽ học cách bỏ qua, né tránh, thậm chí lẩn trốn những cảm xúc đó. Các em sẽ ít chịu chìa tay ra giúp đỡ người khác trong cảnh khốn khó. Nhìn chung, mặc dù bé trai ít nói cho bạn biết về cảm xúc như bé gái nhưng các em vẫn có cảm xúc, và thường các em sẽ nói về chúng trong những khoảnh khắc êm đềm, bình yên. Theo kinh nghiệm của tôi, bé trai thuộc mọi lứa tuổi thích nói về những gì làm các em cảm thấy tự hào, buồn bã, chán nản và sợ hãi không khác gì các bé gái. Để tránh chuyển tải những thông điệp khác nhau tới cho bé trai và bé gái, cũng như nhốt chặt con cái trong những định kiến về giới tính, Nora Newcombe, nhà tâm lý học phát triển thuộc Đại học Temple ở Philadelphia, Pennsylvania, đã bổ sung thêm vào những ý kiến trước đó của Newberger và Pollack: • Khuyến khích con trai cũng như con gái trò chuyện về cảm giác của mọi người cũng như cảm giác của chính các em; • Đặt câu hỏi cho cả con trai và con gái về việc các nhân vật trong sách báo, trên ti vi, trong phim ảnh có cảm giác như thế nào. Khi bạn đọc truyện, dù là đọc cho trẻ sơ sinh, hãy nhấn mạnh những từ thể hiện cảm xúc như vui sướng, buồn bã, giận dữ cho con nghe, nhớ sử dụng nét mặt và giọng nói biểu cảm thích hợp. Hãy thực hiện điều này ngay cả khi con trai bạn không tỏ thái độ gì hoặc tỏ vẻ thờ ơ. Điều này rất quan trọng để giúp con bạn phát triển sự thông cảm với người khác lúc gặp khốn khó và cần giúp đỡ; • Hãy nói về các loại cảm xúc chứ không chỉ riêng cảm xúc tích cực cho cả con trai lẫn con gái. Việc bạn chia sẻ cảm xúc sẽ khích lệ con bạn chia sẻ theo; • Giúp con hiểu ra rằng có thể bé sẽ có nhiều cảm xúc lẫn lộn đối với một vấn đề, sau đó hãy tập trung vào mặt tốt để giúp bé giải phóng căng thẳng. Khi bạn giải thích rằng mâu thuẫn tình cảm là điều hết sức bình thường, hầu hết trẻ em đều hiểu. Bé Ben mười tuổi cảm thấy buồn bã, lo âu khi bé bị gãy chân và tỏ ra thất vọng vì không thể chơi bóng được, nhưng bé cũng cảm thấy hạnh phúc vì được mọi người quan tâm; • Dù là cha hay là mẹ thì bạn cũng nên sử dụng những từ ngữ mang tính hỗ trợ, khích lệ với cả con trai lẫn con gái; • Hãy giải thích cho con bạn tại sao đánh người khác và giành giật đồ chơi là điều không thể chấp nhận được. Trừng phạt bé trai vì tội gây sự chỉ khiến cho bé trở nên cục cằn mà thôi. Trong khi muốn con trai mình biết rằng cảm xúc của bé rất quan trọng, chúng ta cũng muốn cho con gái biết rằng chúng ta đánh giá cao suy nghĩ của bé. Hãy khen con gái bạn về các thành tích và ý tưởng chứ không nên chỉ khen ngợi vẻ ngoài của bé. Và khi con gái bạn đang nói, hãy cố gắng đừng cắt ngang lời bé. Bố mẹ cũng có cảm xúc Cậu con trai bốn tuổi của bạn cứ liên tục nhảy nhót trên ghế bành mà không cởi giày ra. Bạn rất thích ngắm nhìn gương mặt hạnh phúc của bé, bạn vui khi thấy bé sung sướng. Nhưng bạn muốn bé biết rằng bạn cũng có cảm xúc, và ngay lúc này bạn lo ngại rằng bé sẽ làm hỏng nệm ghế. Bạn rất muốn hét lên: “Bước xuống ngay, con sẽ làm bẩn hết ghế thôi!”, nhưng bạn biết rằng la hét không có tác dụng gì: con bạn sẽ chẳng quan tâm. Cô con gái sáu tuổi của bạn đang ngồi trên tấm thảm phòng khách và sơn móng tay. Bạn yêu việc bé tự tạo niềm vui cho mình và tự thể hiện mình qua nghệ thuật. Nhưng bạn cũng đã nói với bé bao nhiêu lần rằng bé không được sơn móng tay trên thảm, và rằng ngồi sơn ở đâu thì bé cũng phải lót báo xuống dưới. Vì vậy, bạn ngồi xuống cùng bé và giải thích tại sao bạn không muốn bé sơn trên thảm. Nhưng bạn không muốn cắt đứt nguồn năng lượng sáng tạo của bé. Bạn nói. Bé gật đầu. Nhưng bạn cũng không chắc là có lời nào của bạn lọt vào tai bé hay không. Vậy bạn nên làm gì bây giờ? Trước hết, hãy coi như con bạn không cố tình cãi lời bạn. Bé không muốn làm bẩn nệm ghế hay làm dính sơn móng tay lên thảm. Đơn giản là bé không hề nghĩ đến bạn chút nào mà thôi. Đấy mới chính là vấn đề. Sau đây là cách bạn có thể lái con vào câu chuyện vừa giúp bé đạt được mục đích, vừa hiểu được quan điểm của bạn: Khi con nhảy trên ghế bành, bạn hãy hỏi: “Nếu con nhảy trên ghế thì điều gì có thể sẽ xảy ra?” Một số trẻ có thể trả lời: “Con không biết”, hoặc hỗn láo hơn: “Con không quan tâm”. Hãy cố gắng để không bị kích động và nhẹ nhàng nói: “Mẹ biết rằng nếu con suy nghĩ kỹ hơn, con có thể nghĩ ra một số điều đấy”. Nếu con bạn nói: “Mẹ sẽ bắt con đi về phòng?”, bạn sẽ hướng dẫn bé mà không cần phải đặt câu hỏi: “Điều gì có thể xảy ra nếu con không nhìn thấy chỗ con đang nhảy?” Mục đích ở đây là để trẻ nhận ra tại sao chạy nhảy bên trong nhà lại không tốt. Điều đó hay hơn là để cho trẻ phản ứng lại mối đe dọa do bị quát mắng hoặc bị nhốt trong phòng. Trong trường hợp con bạn nói: “Con có thể bị đau” hoặc “Có thể con sẽ làm bẩn một số thứ”, bạn hãy hỏi: “Con cảm thấy thế nào về điều đó?” Hầu hết trẻ em đều trả lời: “Buồn”. Tiếp theo, bạn hãy hỏi: “Con nghĩ mẹ sẽ cảm thấy thế nào nếu điều đó xảy ra?” Hầu hết trẻ em đều trả lời: “Buồn” hoặc “Giận”. Cuối cùng, hãy đặt câu hỏi: “Con có thể nghĩ ra một nơi khác để nhảy (hoặc sơn móng tay) để điều đó không xảy ra nữa, và cả hai mẹ con mình đều không ai cảm thấy buồn hay giận cả?” Khi một ông bố mà tôi biết hỏi cô con gái bốn tuổi những câu này, cô bé đã nghĩ ra giải pháp của riêng mình: bên ngoài mới là nơi thích hợp với việc chạy nhảy, và cô bé bước ra ngoài với nụ cười trên môi. Ông bố cũng cười theo. Ông nhận ra nhu cầu của con gái mình, trong khi cô bé nhận ra rằng bố cũng có suy nghĩ riêng. Sau đây là một kịch bản khác. Hai đứa con mười tuổi và bảy tuổi của bạn đang chơi đuổi bắt trong phòng ăn, chạy thục mạng. Khi chúng chạy qua, chiếc bình trên bàn lắc lư và rơi xuống sàn, vỡ tan tành. Bạn giận sôi lên. Bạn phát vào mông cả hai đứa rồi bắt các con trở về phòng. Nhưng như vậy chẳng giải quyết được bao nhiêu. Giờ thì đứa này trách cứ đứa kia vì đã khiến cho cả đôi mắc lỗi. Cả hai đều giận bạn vì không chịu hiểu rằng chúng không hề cố tình làm vỡ chiếc bình. Còn bạn thì bực bội hai đứa con vì tội bất cẩn và thiếu thận trọng. Nếu con làm vỡ món đồ gì đó, bạn có thể đặt ra những câu hỏi như sau: “Phòng ăn có phải là nơi thích hợp cho việc chạy nhảy không?” “Điều gì xảy ra khi các con chạy?” “Con cảm thấy thế nào về những gì đã xảy ra?” “Con nghĩ mẹ cảm thấy thế nào về việc này?” “Đâu là chỗ chơi thích hợp?” “Lần sau nếu muốn chơi đuổi bắt trong nhà, các con sẽ làm thế nào?” Bằng cách này, trẻ em sẽ lớn lên và quen với việc cân nhắc mong muốn của bạn với hành động của chúng. Nhưng vấn đề vẫn chưa được giải quyết triệt để. Nhiều trẻ em vẫn chỉ nghĩ đến bản thân mà không để ý gì tới mong muốn của người khác. Sau đây là cách một ông bố đã giúp các cô con gái bé nhỏ của mình nhận ra mỗi người có cảm nhận khác nhau về cùng một vấn đề bằng cách đặt câu hỏi: “Thế này là thế nào?” BỐ: Hãy tưởng tượng câu chuyện về hai cô bé bằng tuổi các con nhé? Alice thích nghe nhạc thật to; điều này khiến bé cảm thấy rất dễ chịu. Em gái Mary thì cứ nghe nhạc lớn là khó chịu. Thế này là thế nào? EMILY: Có thể Alice đang nhớ lại sự ồn ào của tiếng nhạc nhảy trong buổi khiêu vũ toàn trường tuần trước. Bạn ấy thích được khiêu vũ trong tiếng nhạc thật lớn. TINA: Nhưng nếu Mary đang tập trung làm bài tập về nhà thì có thể là tiếng nhạc đang làm phiền bạn ấy. BỐ: Các con suy nghĩ tốt lắm. Giờ thì các con hãy tưởng tượng một câu chuyện giống như của bố đi. EMILY: Eve nhận được một trái bóng trong ngày sinh nhật và bạn ấy thật sự vui sướng. Carol cũng nhận được một trái nhưng bạn ấy lại thấy sợ. Eve thích bóng đá còn Carol lúc nào cũng lo sợ bị bóng rơi vào đầu. TINA: Jackie cảm thấy tự hào bởi vì bạn ấy nhận được vai chính trong vở kịch diễn trước toàn trường. Cindi thậm chí còn không muốn thử vai bởi vì bạn ấy sợ sẽ quên hết lời thoại. Bây giờ thì cả hai cô bé đều hiểu rằng mỗi người có cách cảm nhận khác nhau về cùng một vấn đề. Khi trong nhà xuất hiện bất đồng, ông bố này chỉ cần nhắc nhở con gái mình về câu chuyện của chính các bé và hỏi: “Thế này là thế nào?” Thường thì câu hỏi này không cần đến câu trả lời. Bạn cũng có thể chơi trò “Mọi người cảm nhận thế nào?” Cách chơi như sau: Hãy bắt đầu bằng một từ chỉ cảm giác tốt đẹp, chẳng hạn như vui sướng. Hãy hỏi con bạn: “Điều gì làm con vui sướng?” Sau đó hỏi tiếp: “Còn gì nữa không? Hãy cố nghĩ ra năm điều”. Sau khi con bạn trả lời, hãy nói: “Giờ thì nói cho mẹ biết điều gì có thể làm cho bạn Tom của con cảm thấy vui sướng? Còn bà nội thì sao? Bác sĩ Peters thì sao?” Khi con bạn trả lời xong, hãy nói: “Giờ thì hãy chơi khó hơn một chút. Điều gì có thể làm cho cả bạn con, bà nội và bác sĩ Peters cảm thấy vui sướng?” Có thể bé sẽ trả lời đại loại như: “Một chiếc kem ốc quế”. Sau đó bạn hỏi tiếp: “Điều gì có thể làm Tom thấy vui vẻ còn bà nội thì không?”, có thể con bạn sẽ trả lời: “Trò game”. Bạn có thể hỏi tiếp: “Vậy điều gì làm cho bà nội cảm thấy vui vẻ còn Tom thì không?” Có thể câu trả lời của con bạn sẽ là: “Đi đến viện bảo tàng”. Sau đó, bạn có thể tiếp tục trò chơi bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc khác, chẳng hạn như buồn, giận, thất vọng và lo âu. Những cuộc trò chuyện như thế sẽ khích lệ trẻ em phát triển năng lực cân nhắc giữa mong muốn của bản thân với mong muốn của người khác và tìm ra giải pháp phù hợp với cả hai bên. Đây là một trong những cách tốt nhất chúng ta nên trang bị cho con mình trước mọi mối quan hệ mà các em xây dựng được trong suốt cuộc đời. “Tốt bụng” nghĩa là gì? Đôi khi tôi nghĩ rằng dạy cho trẻ biết thế nào là công bằng còn dễ hơn dạy thế nào là tốt bụng. Đơn cử trường hợp của bé Bobby mười tuổi và em gái Ellie chín tuổi. Cả hai em đều biết rằng sau khi chơi game, mỗi em đều có trách nhiệm phải thu dọn đồ chơi. Không ai mong đợi người kia làm giúp mình việc gì cả. Nhưng khi học điều này, các em bắt đầu hiểu về từ “công bằng” quá máy móc, nhất cử nhất động đều theo dõi nhau. Chẳng hạn, khi đến phiên Ellie phải dọn dẹp phòng mình, bé dọn sạch tất cả mọi thứ trừ một cuốn sách mà anh Bobby đã lấy ra khỏi giá sách của bé, kiên quyết tuyên bố: “Anh ấy lôi ra thì anh ấy phải cất vào!” Cũng cứng rắn không kém, Bobby sẵn sàng lấy bơ ra khỏi tủ lạnh nhưng bắt Ellie phải cất vào, bởi vì “Em ấy là người ăn sau cùng!” Bố các em rất ngạc nhiên. Ông công nhận rằng mỗi đứa có một phần đúng nhưng cũng thắc mắc không biết các con lấy đâu ra lắm hơi sức để theo dõi nhau từng li từng tí như vậy. Dường như chúng đang hiểu từ “công bằng” theo một nghĩa hết sức cực đoan. Cứ hiểu méo mó như vậy có đáng hay không? Xét cho cùng thì công bằng đồng nghĩa với việc không động chạm đến tình cảm của ai cả. Nhưng đối với Bobby và Ellie, sự công bằng của các em đang có tác dụng ngược lại. Nghiên cứu của tôi cho thấy, khi lên bốn tuổi, hầu hết trẻ em đều hiểu rằng khi một em có đồ chơi còn em kia không có, công bằng nghĩa là em có đồ chơi phải tự mình thu dọn. Nhưng đến năm lên chín, lên mười trẻ sẽ hiểu lòng tốt còn cao hơn cả những nguyên tắc công bằng. Như vậy, cả Bobby và Ellie đều có thể phân biệt được điều này. Trong khi việc khăng khăng bắt anh trai phải cất cuốn sách đi tỏ ra không công bằng lắm thì việc tiện tay cất luôn cuốn sách lúc dọn phòng sẽ khiến cho Ellie trở thành người tốt bụng. Tương tự, Bobby có thể hiểu rằng mặc dù em gái mình cũng ăn bơ nhưng bé sẽ là người anh tốt nếu tự tay cất bơ sau khi kết thúc bữa ăn. Khoảng cách giữa công bằng và tốt bụng rất mong manh. Mặc dù không muốn khích lệ tính tủn mủn, vụn vặt, chúng ta cũng không nên bỏ qua thói vô trách nhiệm. Thay vì săm soi từng câu, từng chữ, từng hành động, hãy tập trung giúp trẻ hợp tác với nhau để chúng có thể hiểu rằng đôi khi cuốn sách để trên giường không phải là chuyện gì to tát đến mức phải mâu thuẫn với nhau, trong khi cất nó đi lại đơn giản hơn rất nhiều. Và thông thường thì tốt bụng khôn ngoan hơn là công bằng. Nhưng tốt bụng nghĩa là thế nào? Và ý nghĩa của nó đối với trẻ em có giống như đối với người lớn hay không? Al và Clara Baldwin, trước đây công tác tại Đại học Cornell, đã khảo sát định nghĩa từ “tốt bụng” đối với trẻ em từ tuổi mẫu giáo đến lớp tám và nhận thấy, đôi khi câu trả lời là “Không”. Lên tám tuổi, hầu hết trẻ em đều nhất trí với người lớn rằng một đứa trẻ sẽ trở nên dễ thương hơn khi tìm cách lấy lại quả bóng mà bạn em bị mất do lỡ đá đến trước mặt một đứa trẻ khác. Nhưng nhiều trẻ em ở tuổi đi mẫu giáo lại tin rằng trong hoàn cảnh nào thì đứa trẻ đó cũng dễ thương cả. Nguyên nhân là do các em không quan tâm đến cách đứa trẻ đó lấy quả bóng như thế nào, mà chỉ quan tâm đến việc đứa trẻ đó lấy được quả bóng mà thôi. Trong kịch bản tiếp theo, hầu hết trẻ em tám tuổi đều đồng ý với người lớn rằng một đứa trẻ tự nguyện cho em trai mình đồ chơi sẽ dễ thương hơn đứa trẻ cho em trai đồ chơi vì mẹ bảo phải làm thế. Nhưng nhiều trẻ ở tuổi đi mẫu giáo nghĩ rằng cả hai trường hợp đứa trẻ đều dễ thương vì đã cho em trai đồ chơi. Thông thường thì trẻ em còn bé không hiểu rằng mục đích, chứ không phải là kết quả, mới biện minh cho lòng tốt. Từ cuộc nghiên cứu của gia đình Baldwin, tôi đặt ra một số câu hỏi cụ thể để xem trẻ em định nghĩa thế nào về lòng tốt. Sally và Margy, cả hai bé cùng năm tuổi, có cùng ý kiến với người lớn về lòng tốt khi xét đến yếu tố mục đích và lựa chọn. Nhưng khi chúng tôi nói về tinh thần hy sinh, như bao trẻ em khác cùng độ tuổi, Sally và Margy lại suy nghĩ theo cách khác. Chẳng hạn, nhiều người lớn tin rằng trẻ em khi cho đứa trẻ khác món đồ mà bé đang chơi sẽ tốt bụng hơn là cho món mà bé không chơi. Nhưng Sally và Margy tin rằng kể cả cho người khác món đồ mà mình không chơi cũng là tốt bụng rồi. Sau đó, bố của Sally nói với bé: “Giả sử bạn con quên mang giày khiêu vũ đến lớp. Theo con, điều nào sẽ tốt hơn: Cho bạn sử dụng giày của mình, hay đưa cho bạn đôi giày khác mà con tình cờ mang theo?” Sally nghĩ rằng bé sẽ tốt bụng hơn nếu đưa cho bạn đôi giày phụ mang theo, chứ không phải là hy sinh đôi giày của mình, “bởi vì sau đó cả hai đều cần phải khiêu vũ”. Một lần nữa, Sally lại tập trung vào kết quả cuối cùng hơn là vào lý do hành động, mà trong trường hợp này là tinh thần hy sinh. Bé Freddi mười một tuổi cũng đồng ý với người lớn rằng giúp người khác làm điều gì đó mà không mong được trả ơn sẽ tốt bụng hơn là mong người khác trả ơn. Nhưng Freddi bổ sung một thực tế thú vị: “Nếu như cứ cho trẻ em mọi thứ mà không bao giờ nhận lại cái gì thì người đó sẽ bị coi là khờ khạo và bị người khác lợi dụng”. Rõ ràng, có thể trẻ em không phải lúc nào cũng suy nghĩ giống chúng ta về lòng tốt. Khi bực mình với con cái vì cho rằng chúng bất cẩn, hoặc khi con cái đánh đổi sự công bằng lấy lòng tốt, chúng ta nên cân nhắc xem trẻ nghĩ gì lúc chúng ta yêu cầu trẻ “hãy ngoan ngoãn”. “Giờ thì con hãy xin lỗi đi!” Nhưng bé có thật sự biết lỗi không? Đứa con trai bốn tuổi của bạn giành đồ chơi của em gái; đứa con năm tuổi gọi bạn của mẹ bằng tên; đứa con năm tuổi đánh em gái. Có rất nhiều cách để thay đổi loại hành vi này ở trẻ em. Cách phổ biến là nói với con: “Như vậy không tốt. Giờ thì con hãy nói xin lỗi đi!” Có thể con bạn sẽ nhanh chóng nghe theo và nói lời xin lỗi, và có thể bạn nghĩ rằng như thế là xong chuyện. Nhưng thực tế có phải vậy không? Nhiều đứa trẻ sẽ tự động nói: “Con xin lỗi”. Chúng đánh và trêu chọc người khác, sau đó xin lỗi để khỏi bị mắng. Trẻ em nhanh chóng hiểu rằng đây là cách phổ biến để giúp chúng thoát khỏi trừng phạt. Hãy tự hỏi mình: Con bạn có thật sự thấu hiểu hay không? Bé có thật sự cảm thấy buồn vì đã làm đau ai đó hoặc làm người khác cảm thấy không vui không? Đấy mới chính là mục tiêu, chứ không chỉ đơn thuần là lặp lại lời bạn. Để giúp trẻ học được cách thấu hiểu, hãy hỏi con bạn xem bạn bè, anh chị em của bé cảm thấy thế nào khi bé giật đồ chơi, đánh hoặc trêu chọc những người đó. Một bé bốn tuổi làm tôi ngạc nhiên khi trả lời: “Cháu cảm thấy buồn khi cháu đánh em trai”. Sau đó, hãy hỏi tiếp: “Con có thể làm gì để không cảm thấy buồn?” Việc trẻ nói lời xin lỗi khi được người lớn bảo chỉ xuất phát từ bên ngoài. Trẻ nào biết nghĩ về cả cảm giác của mình lẫn cảm giác của người khác sẽ không muốn làm bản thân và người khác bị tổn thương. Điều này mới xuất phát từ bên trong. Bài học tương tự cũng có thể áp dụng cho những tình huống như lấy cắp. Đôi khi trẻ em dính phải thói quen “mượn tạm” đồ: chúng nẫng vòng cổ từ phòng của chị gái hoặc ít tiền từ ngăn bàn của bạn. Bé Shelly mười một tuổi thường lấy bút và những vật dụng nho nhỏ khác của các bạn cùng lớp mà không hề hỏi xin. Mỗi lần bị bắt quả tang, bé lại bị đưa lên phòng hiệu trưởng và nhốt trong đó. Một hôm, bé nói với cô giáo rằng bé sẽ không lấy cắp nữa bởi vì bé không muốn bị bắt. Cô giáo rất ngạc nhiên. Thầy hiệu trưởng cũng vậy. Nhưng tôi thì không. Tôi tin rằng cô giáo và thầy hiệu trưởng chỉ tập trung vào mặt xấu của câu nói này: Shelly sẽ không ăn cắp nữa. Trong khi câu nói cho thấy Shelly chỉ nghĩ cho bản thân mình và những gì sẽ xảy ra với bé mà thôi. Bé không hề nghĩ đến các nạn nhân của mình, hay băn khoăn những người đó sẽ cảm thấy thế nào. Tôi phải tự hỏi Shelly có vui sướng lấy cắp trở lại hay không nếu bé tìm ra được cách để khỏi bị bắt. Việc trẻ nói lời xin lỗi khi được người lớn bảo chỉ xuất phát từ bên ngoài. Trẻ nào biết nghĩ về cả cảm giác của mình lẫn cảm giác của người khác sẽ không muốn làm bản thân và người khác bị tổn thương. Điều này mới xuất phát từ bên trong. Vậy làm thế nào để Shelly học được cách thông cảm với nạn nhân và không chỉ nghĩ cho riêng bản thân mình? Chúng ta có thể đặt ra cho bé những câu hỏi sau đây: “Điều gì xảy ra nếu con lấy đồ của mọi người mà không xin phép họ?” “Con nghĩ thế nào về điều này?” “Con cảm thấy thế nào nếu điều này xảy ra với con?” Và, nếu có thể: “Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn cùng lớp không có cuốn sách (hoặc bất cứ vật nào mà bé đã lấy cắp) để làm bài tập về nhà?” Trẻ em lên bốn tuổi đã có thể hiểu được rằng lấy cắp đồ sẽ làm người khác bị tổn thương. Khi tôi hỏi các em: “Điều gì có thể xảy ra nếu một đứa trẻ lấy ô của mẹ khi mẹ không để ý?”, một số em trả lời đơn giản: “Mẹ sẽ rất giận”, “Cháu sẽ bị đét đít”, hoặc “Mẹ sẽ nói rằng lấy trộm là không tốt”. Những em khác có thể thừa nhận: “Mẹ sẽ bị ướt nếu gặp mưa”. Vậy chẳng phải những đứa trẻ biết suy nghĩ cho nạn nhân của mình sẽ ít làm người khác tổn thương hơn sao, ngay cả khi các em không bao giờ bị bắt gặp? Những em này đã học được ý nghĩa thật sự của việc thấu hiểu. Một trong những cách để giúp trẻ học được điều này là cho các em thấy bạn có thể hiểu sai hành vi của trẻ, và cho trẻ thấy cảm giác thật sự của bạn khi điều đó xảy ra. Mẹ của bé Jason chín tuổi đã có cơ hội để làm điều này. Bé cùng mẹ ở cả ngày tại văn phòng của mẹ. Có thể thấy trước được rằng bé sẽ trở nên thừa thãi chân tay và bắt đầu tìm cách thu hút sự chú ý của mẹ. Mẹ cố gắng giải thích rằng mẹ đang rất bận và bảo bé hãy sang phòng bên để đọc số sách mà bé mang theo. Jason nói: “Con xin lỗi”, sau đó ngoan ngoãn rút lui. Mẹ nghĩ bé đã hiểu rằng nếu mình cứ quấy quả như thế thì mẹ sẽ không làm việc được, và chị thấy vui vì bé đã ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng Jason hiểu điều này theo cách hoàn toàn khác. Bé nghĩ mẹ “đuổi” mình đi vì “mẹ coi công việc quan trọng hơn mình”. Jason nghĩ ra một cách độc chiêu để giải quyết vấn đề. Thay vì đọc sách, bé viết cho mẹ một lá thư, nói rằng bé không có ý định cản trở mẹ làm việc đâu, bé chỉ muốn nói chuyện với mẹ một chút thôi. Trong khi trải suy nghĩ ra trang giấy, Jason bắt đầu nhận ra rằng sự thật là mẹ cần phải làm việc, điều này giải thích tại sao mẹ lại đến văn phòng, và bé cần tìm ra cách nào đó để dung hòa nhu cầu của mình với mong muốn của mẹ. Bé viết tất cả những suy nghĩ này vào bức thư. Khi đọc xong bức thư, mẹ rất xúc động và bắt đầu nhìn nhận hành vi của Jason theo một hướng mới. Chị tự nghĩ: “Có lẽ mình đã không chú ý nhiều lắm đến con trai”. Chị đề nghị hai mẹ con sẽ có cuộc trò chuyện đặc biệt trong lúc ăn trưa. Vào lúc đó, mẹ cho Jason biết rằng chị thật sự áy náy vì đã tỏ ra không quan tâm đến bé. Trong cuộc trò chuyện này, Jason bắt đầu hiểu được mong muốn của mẹ, cũng như mẹ bắt đầu hiểu được mong muốn của con trai. Khi cảm thấy có lỗi, trẻ em có thể suy nghĩ về cảm xúc và quan điểm của người khác. Những em nào chỉ nói: “Con xin lỗi” thì chỉ suy nghĩ về bản thân mình và tỏ ra nghe lời để khỏi bị người lớn trách mắng và ra lệnh mà thôi. Đây có phải là điều chúng ta thật sự muốn không? Dạy con biết giúp đỡ người khác và biết cho khi nhận Con bạn có hiểu được giá trị của đồng tiền? Con bạn có tiêu tiền quà sáng quá nhanh và sau đó xin thêm? Những rắc rối về tiền bạc có trở thành nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn giữa bạn và con. Một số gia đình cảm thấy rất khó khăn khi nói chuyện tiền nong. Nhưng hãy để con bạn hiểu về giá trị và ý nghĩa của đồng tiền càng sớm càng tốt. Bé Jamie tám tuổi đang tìm hiểu giá trị đồng tiền theo cách truyền thống. Bé tự tạo thu nhập cho bản thân. Bố mẹ bé rất sáng tạo trong việc này. Cứ đến sinh nhật, Jamie lại được bố mẹ yêu cầu chọn lấy ba món đồ chơi mà bé không dùng đến nữa, sau đó đặt chúng ra cửa. Họ để số đồ chơi ở đó ba ngày, bảo Jamie rằng trong thời gian đó bé có thể thay đổi ý định về bất cứ món nào hoặc toàn bộ cả ba món. Sau đó, bố mẹ bé bảo: “Con sẽ nhận được những món đồ chơi mới trong ngày sinh nhật. Con có nghĩ rằng có thể những bạn khác sẽ muốn có số đồ chơi mà con không còn thích nữa hay không?”. Khi Jamie đồng ý, họ mang số đồ chơi đến một cửa hàng ký gửi. Nếu số đồ chơi được bán đi, họ sẽ quay lại cửa hàng lấy hóa đơn, đến ngân hàng và gửi chỗ tiền đó vào tài khoản của Jamie. Bố mẹ bé đã giải thích với bé về việc tiết kiệm tiền để chi tiêu vào những khoản bé muốn bây giờ hoặc sau này. Họ bắt đầu làm vậy từ khi Jamie lên sáu tuổi. Điều tôi đặc biệt thích ở kế hoạch này là nó không chỉ dạy cho Jamie về việc tiết kiệm tiền và chuẩn bị cho tương lai mà còn giúp bé hiểu được ý nghĩa của việc san sẻ cho người khác. Có nhiều cách để giúp trẻ suy nghĩ về việc kiếm tiền, tiết kiệm và giúp đỡ người khác. Thông thường, các kỳ nghỉ chính là thời điểm tốt trong năm để khích lệ nếp suy nghĩ này ở trẻ. Nếu con bạn, giống như Jamie, đã quen với ý nghĩ quay vòng đồ chơi thì sẽ rất đơn giản khi đề nghị bé đem hiến tặng quần áo cũ cho một tổ chức nào đó đang cần, hoặc bé tự mình đề xuất với cả lớp mang đến một chiếc can và quyên góp cho phòng thực phẩm địa phương. Bất kể con bạn quyết định làm việc gì, bạn cũng nên nói chuyện về người mà bé đang giúp đỡ. Có thể bạn sẽ trò chuyện về việc tại sao một số người lại phải ngồi xe lăn, hoặc tại sao một số người lại cần được tặng quần áo từ những người không quen biết. Thậm chí bạn còn có thể nói về việc tại sao lại có người vô gia cư. Hãy để con bạn tự đề xuất những người cần giúp đỡ và tại sao họ lại cần được giúp đỡ. Loại hình trò chuyện này sẽ giúp bé thấu hiểu tốt hơn – đây là khả năng quan tâm chân thành đến những ai kém may mắn hơn. Và không có trẻ em nào là quá bé bỏng trong vấn đề này cả. Ngay cả một đứa trẻ bốn tuổi cũng vẽ được một bức tranh đặc biệt để tặng cho người thân đang nằm viện. Bạn nên trò chuyện với con mình về sở thích của mọi người, hoặc về công việc, hoặc về món ăn ưa thích. Khi đó, con bạn có thể nghĩ xem nên viết hay vẽ gì cho họ, dù chỉ nguệch ngoạc vài nét. Vào một kỳ nghỉ, đứa cháu họ lên bảy tuổi của tôi tặng cho tôi một món quà. Vì biết tôi thích tennis, cháu viết cho tôi câu chuyện sau: “Mơ ước thầm kín của Myrna là được trở thành quả bóng tennis, nhưng bạn ấy lại sợ đau mỗi khi bị vụt trúng. Vì vậy, bạn ấy đã làm một quả bóng tennis thật lớn để có thể chứa bạn ấy vào trong, nhờ vậy bạn ấy sẽ không bị đau mỗi khi bị vụt trúng. Sau đó, bạn ấy gặp một người đàn ông trong bộ đồ hình chiếc vợt tennis, và từ đó họ chơi cùng nhau suốt đời”. Câu chuyện này rất có ý nghĩa với tôi, bởi vì tôi biết cháu đang nghĩ về mình. Trẻ em cảm thấy hạnh phúc khi biết rằng người khác xúc động với món quà mà các em tặng. Và bạn cũng sẽ tự hào về con mình. Giúp con biết thông cảm với người tàn tật Có thể con bạn biết đứa bạn học cùng lớp hoặc hàng xóm bị tàn tật về thể chất hoặc về thần kinh. Bé có thấy vô cảm khi nhìn thấy một đứa trẻ phải ngồi xe lăn hoặc chống nạng hay không? Bé có nhìn chằm chằm vào một người nào đó đang có những hành vi không thể kiểm soát được, ví dụ như co giật các cơ? Hoặc con bạn có dửng dưng trước những hiện tượng đó không? Bé có muốn làm bạn với đứa trẻ tàn tật không? Hầu như chắc chắn rằng càng dành nhiều thời gian tiếp xúc với một đứa trẻ tàn tật, con bạn càng cảm thấy thoải mái. Khi trẻ em bắt đầu quen biết nhau và vui chơi cùng nhau, các em sẽ nhận ra những điểm tương đồng. Ở Philadelphia có một chương trình được lập ra để thúc đẩy việc này. Học sinh lớp ba và lớp bốn của Trường Trẻ em liệt não (HMS) được phân thành cặp với học sinh Trường Bằng hữu Germantown (GFS), một trường học độc lập của tổ chức Quaker, để chuẩn bị tổng duyệt cho buổi biểu diễn văn nghệ. Mindy Olimpi, điều phối viên các dịch vụ học sinh HMS, cho biết: “Mối quan hệ này giúp trẻ thấy được những gì trẻ em tàn tật có thể làm được, chứ không chỉ tập trung vào những gì các em không làm được”. Khi tham gia buổi tổng duyệt, tôi đã thấy trẻ em ở hai trường gắn kết và hợp tác với nhau như thế nào. Các em ngồi xe lăn quay xe theo tiếng nhạc, đôi khi được các em bình thường giúp đỡ, đôi khi tự làm lấy; các em cũng hát, hoặc nếu không hát được thì tạo ra âm thanh bằng một loại thiết bị hỗ trợ giao tiếp. Nhưng tôi ngạc nhiên không phải vì những gì các em làm được. Tôi ngạc nhiên vì nhìn thấy nụ cười của các em và vì cái cách mà các em gắn kết với nhau. Tôi có thể cảm nhận được mối thân tình giữa từng đôi bạn và ý nghĩa của mối thân tình đó với các em. Nhưng không phải đơn giản mà có được mối thân tình đó. Erica, một học sinh mười tuổi của trường GFS, cảm thấy “ban đầu hơi sợ một chút”, nhưng sau đó nhanh chóng nhận ra rằng các bạn HMS “ngày nào cũng phải đối mặt với khó khăn. Các bạn nhìn người khác và nghĩ ‘mình không thể nào làm được những gì mọi người làm’. Điều đó chắc rất khó. Bây giờ, cháu đã thấy bớt sợ hơn”. Bé hiểu rằng các bạn HMS có thể làm được nhiều việc, chẳng hạn như vẽ tranh trong lớp mỹ thuật, nếu không vẽ được bằng tay thì vẽ bằng ngón chân. Hầu hết học sinh HMS đều biết đọc và biết đếm. Bé cũng học được cách đánh giá những việc mình làm và hiểu được các bạn cùng lớp cảm thấy thế nào trong lúc đùa vui. Học sinh HMS cũng hiểu được những điều này. Bé Rhonda mười hai tuổi cảm thấy hơi căng thẳng khi các bạn GFS đến thăm, bởi vì “ban đầu cháu không biết là các bạn ấy có thích cháu hay không”. Nhưng sau khi nói ra cảm giác của mình, bé bắt đầu cảm thấy thoải mái hơn. Bé thích buổi giao lưu bởi vì “cháu được tham gia vào một cái gì đó và hòa đồng hơn một chút”. Với nụ cười chiến thắng trên môi, Rhonda nói tiếp: “Cháu thích buổi văn nghệ này và cháu thích hát, thích khiêu vũ”. Nhưng điều quan trọng nhất là: “Bọn cháu có thể làm mọi việc như những người khác. Chúng cháu là người bình thường”. Với xu hướng các lớp học mở rộng giao lưu ra toàn quốc, rất có khả năng con bạn hàng ngày tiếp xúc với một người bạn tàn tật, về thể chất hoặc thần kinh. Để giúp trẻ quan tâm và cảm thấy thoải mái, bạn có thể đặt ra những câu hỏi như sau: “Con nghĩ bạn ấy nghĩ gì khi đến trường?” “Các bạn trong lớp đối xử với bạn ấy thế nào?” “Con nghĩ bạn ấy cảm thấy thế nào về điều đó?” “Con sẽ làm gì hay nói gì nếu bạn ấy cần được giúp đỡ?” Những câu hỏi như vậy đã hỗ trợ cho bé Lily mười một tuổi trong việc giúp đỡ bạn Doug cùng lớp bị hội chứng Tourrette, một dạng rối loạn thần kinh khiến bệnh nhân bị co giật cơ hoặc nảy sinh hiện tượng thường xuyên xướng âm. Khi triệu chứng bệnh xảy ra, một số bạn không chỉ gọi Doug là “Mặt cao su” mà còn phàn nàn rằng bé hát quá to và lần nào cũng hát đi hát lại một điệp khúc đó. “Ôi không, đừng thế nữa mà!”, một bạn cùng lớp luôn thốt lên câu này trong giờ học nhạc khi Doug bắt đầu hát. Sau khi ngẫm nghĩ về những câu hỏi trên, Lily cảm thấy thông cảm hơn với Doug và nói với người bạn cùng lớp: “Như vậy là không công bằng. Hãy cho bạn ấy cơ hội đi. Có thể hôm nay bạn ấy sẽ hát bài khác”. Nghe được câu nói đầy tự tin này, Doug nảy sinh quyết tâm: bé đã hát được ít nhất năm nốt trong một bài hát mới. Sau đó, Doug nắm tay Lily và mỉm cười. Lily chỉ cần nhắc nhở thêm một lần nữa là các bạn đều ngừng trêu chọc Doug. Dù là thông qua chương trình có tổ chức như chương trình HMS-GFS ở Philadelphia hay bằng cách giúp trẻ cân nhắc về việc người khác suy nghĩ và cảm nhận thế nào, trẻ em bình thường sẽ nhận ra rằng trẻ khuyết tật cũng suy nghĩ, cảm nhận và hy vọng như mọi người. Về cơ bản, suy nghĩ bên trong các em đều giống nhau. Sau khi trò chuyện cùng Erica, Rhonda và Lily, tôi thật sự xúc động. Bạn cũng sẽ xúc động như vậy nếu bạn giúp con mình gần gũi với những người có hoàn cảnh khó khăn mà ban đầu có thể chúng ta chưa hiểu. 6. Tự tôn và ý thức kiềm chế Khen hay không khen Đứa con sáu tuổi của bạn vẽ hình một con chó. Khi bé khoe với bạn, bạn nói: “Đẹp lắm. Con đúng là một họa sĩ thực thụ”. Đứa con mười tuổi của bạn đạt điểm xuất sắc trong kỳ thi toán. Bạn nói: “Con thật là thông minh”. Đứa con mười hai tuổi của bạn ghi được bàn thắng cho đội bóng ngay trong trận đầu tiên ra quân. Bạn nói: “Giỏi lắm! Mẹ rất tự hào về con”. Những phản ứng như vậy đều rất tự nhiên. Khi nhìn thấy con mình tự hào với thành tích đạt được, chúng ta cũng cảm thấy tự hào theo. Chúng ta muốn củng cố hành vi của con. Điều đó giúp trẻ có động cơ để tiếp tục cố gắng và kiên trì theo đuổi mục tiêu. Nhưng kiểu khen này có thật sự khiến con bạn cảm thấy thoải mái? Câu trả lời hơi phức tạp so với những gì bạn mong đợi. Một mặt, tất nhiên là có. Chúng ta ai cũng muốn được khen, và trẻ em cần phải có đánh giá đúng đắn về những thành tựu của mình. Nhưng khen quá nhiều sẽ phản tác dụng. Thay vì cảm thấy tự hào về bản thân, trẻ sẽ trở nên lo lắng hơn. Giả sử Jamal được 10 điểm trong kỳ thi toán, và bố mẹ bé nói những câu đại loại như: “Con thật là thông minh. Bố/mẹ rất tự hào về con”. Thật là khó để đáp ứng được điều đó. Có thể bé sẽ nảy sinh lo lắng vì những gì bố mẹ mong đợi ở mình và nghĩ: “Điều gì sẽ xảy ra nếu lần sau mình chỉ được 9 điểm, hoặc 8 điểm? Liệu bố mẹ có còn nghĩ là mình thông minh nữa hay không?” Một bà mẹ nói với tôi: “Khi tôi còn bé, bố mẹ tôi luôn khen tôi thông minh, xinh đẹp và sáng tạo. Năm tôi lên mười, tôi rất sợ phải thử làm một điều gì đó mới mẻ. Tôi chỉ quanh quẩn với những gì mình có thể làm được. Như vậy bớt rủi ro hơn nhiều. Tôi sợ rằng mình sẽ thất bại và sẽ xấu hổ với bản thân mình, sợ làm bố mẹ thất vọng nữa”. Trẻ em rất nhạy cảm với những gì mà các em coi là giả dối. Khi bạn nói với con: “Con là một họa sĩ thực thụ”, bạn nói thật lòng mặc dù có thể hơi quá một chút. Nhưng trẻ em lại hiểu rất thật. Con bạn có thể sẽ nghĩ thầm: “Mẹ nói gì thế nhỉ? Mình biết thế nào là hoạ sĩ mà – họ vẽ tranh trong sách. Mình đâu có giỏi được như thế!” Sau đó, con bạn sẽ chẳng còn tin vào những gì bạn nói nữa. Nhưng có lẽ vấn đề đáng suy nghĩ nhất đối với việc khen quá nhiều là trẻ bắt đầu thể hiện chỉ để làm hài lòng bạn thay vì làm hài lòng bản thân. Trẻ bị thúc đẩy bởi những tác động bên ngoài như lời khen của bạn hơn là bởi khát vọng làm thật tốt hay niềm vui được làm việc đó. Sau đây là một số cách nói chuyện về những thành tựu của bé để bé cảm thấy mình đang được tán thưởng: “Con thật sự vất vả đấy. Con cảm thấy thế nào về việc con vừa làm?” “Hãy nói thêm cho mẹ nghe về bức tranh (hoặc bài thi, trận đấu) của con”. “Con nghĩ gì lúc vẽ con chó (hoặc làm bài thi, ghi bàn thắng)?” Bằng cách đưa ra những nhận xét như vậy, bạn sẽ giúp trẻ tập trung chú ý vào cảm giác và suy nghĩ của bản thân thay vì tập trung vào thành tựu. Khi bạn nhấn mạnh vào quá trình chứ không phải vào kết quả, con bạn sẽ hiểu được rằng nỗ lực mới là điều quan trọng. Có thể, khen con ngay lập tức là một thói quen rất khó thay đổi. Nhưng lần sau, nếu cảm thấy muốn thốt lên: “Thật là tuyệt vời”, hãy kìm lại ngay. Thay vào đó, hãy để con kể cho bạn nghe về những gì bé đã làm và cảm giác của bé như thế nào. Như vậy sẽ tốt hơn cho cả hai. Nơi thích hợp cho trẻ Con bạn có năng khiếu âm nhạc, có thể chơi bất kỳ nhạc cụ nào mà bé bắt gặp? Bé rất xuất sắc trong việc học hành? Bé là một ngôi sao thể dục? Có thể bạn có một đứa con khác không xuất sắc, giành được ít danh hiệu hơn và dường như không phải là ngôi sao của bất cứ môn gì. Nếu vậy, có lẽ bạn đang lo lắng rằng bé sẽ cảm thấy ghen tị với đứa có nhiều năng khiếu hơn. Gần đây, tôi có gặp Beth, một cô bé mười tuổi đạt hạng A ở lớp, rất giỏi môn bóng mềm và biết chơi đàn piano. Nhưng bé vẫn không thấy vui, chủ yếu là vì bé rất ghen tị với cậu em trai chơi giỏi violin đến mức đang theo học một nghệ sĩ bậc thầy. Bố mẹ Beth hiểu rằng con gái mình rất đặc biệt, tuy nhiên họ chưa biết làm thế nào để giúp bé nhận ra điều này cả. Sau đây là một vài gợi ý để giúp trẻ. Thay vì cho con đi theo bước chân của anh, chị, em xuất sắc hơn, hãy khuyến khích bé tìm lấy một sở thích như một loại nhạc cụ, một môn nghệ thuật, hay lĩnh vực khác ở trường. Đôi khi việc cha mẹ hỗ trợ con thực hiện một dự án đặc biệt nào đó, chẳng hạn như tham gia hội chợ khoa học, có thể khơi dậy sự quan tâm của bé đối với đề tài đó. Hãy sáng tạo khi suy nghĩ về các lựa chọn. Nếu những môn thông thường như bóng chày và bóng đá không thu hút được con bạn, hãy để bé làm quen với những môn thể thao thú vị khác như tennis, bowling, golf hay đấu kiếm. Hãy cho con bạn biết rằng bé không cần phải làm người hoàn hảo. Điều bạn muốn là con bạn tìm được một hoạt động mà trong đó bé cảm thấy tự tin ở bản thân. Đặt ra quá nhiều áp lực để buộc bé phải “giỏi”, phải chiến thắng hay phải tập luyện hàng ngày bằng mọi giá có thể sẽ dẫn tới tác dụng ngược lại: bé sẽ bắt đầu nghĩ xấu về hoạt động đó cũng như về bản thân, từ đó không còn hứng thú với nó nữa. Điều bố mẹ Beth làm là đưa con gái đến câu lạc bộ ở địa phương vào một sáng thứ bảy để bé có thể tham quan mọi lớp học đang được tổ chức ở đây. Thấy bé mải mê với xưởng gốm, bố mẹ bé đăng ký cho con gái một khóa. Giờ đây, xưởng gốm là nơi Beth yêu thích nhất: gương mặt bé sáng bừng lên mỗi khi đến giờ học. Bé không còn lo lắng về việc phải chuẩn bị hay trở thành người giỏi nhất nữa; bé chỉ thích sáng tác mà thôi. Điều quan trọng hơn, nhờ có gốm mà bé gặp được một nhóm bạn mới và kết thân với vài người trong số đó. Beth đã tìm thấy chỗ thích hợp của mình. Giờ đây khi nghe em trai tập violin, bé không còn cảm thấy ghen tị nữa. Bé nghĩ về chiếc bình tiếp theo mà bé sắp đưa lên khuôn xoay. Tinh hoa sáng tạo của riêng bé đang tuôn trào. “Có ai quan tâm đến con không?” Chúng ta ai cũng muốn con mình trở thành người biết quan tâm, chia sẻ và không làm người khác bị tổn thương. Nhưng tập trung quá nhiều vào việc dạy trẻ chia sẻ và quan tâm xem người khác cảm thấy thế nào có thể sẽ dẫn tới tác dụng ngược lại: trẻ sẽ nảy sinh suy nghĩ không biết người khác có quan tâm đến mình hay không. Khi bé Evan bốn tuổi đánh em trai, mẹ bé nói: “Evan, con không được đánh Roy. Roy không thích bị đánh đâu. Giờ thì con hãy xin lỗi đi”. Evan ngoan ngoãn xin lỗi. Một bà mẹ khác bước vào phòng của cậu con trai sáu tuổi đúng lúc cậu bé đang giành lấy đồ chơi từ tay bạn. Chị nói: “Con nên cho bạn chơi chung với chứ”. Cậu bé rất bối rối. Bé nghĩ rằng bé đã cho bạn chơi chung rồi, vấn đề là cậu bạn kia không chịu trả lại đồ chơi cho bé. Cả hai bà mẹ đều nghĩ rằng họ đang dạy con trai mình cách chú ý đến cảm giác của người khác. Nhưng trong cả hai trường hợp, các cậu bé đều có cảm giác không tốt về chính mình. Trước khi hướng sự chú ý của con mình đến cảm giác của người khác, bạn hãy tập trung vào cảm giác của bé đã. Để biết trẻ đang nghĩ gì, bạn hãy đặt ra một số câu hỏi: “Điều gì xảy ra ngay trước khi con đánh em (hoặc trước khi con giành đồ chơi)?” “Điều gì sẽ xảy ra sau đó?” “Con cảm thấy thế nào khi bắt đầu có mâu thuẫn?” Hỏi xem con cảm thấy thế nào là cách đặt vấn đề rất năng động. Nếu chúng ta muốn con cái quan tâm đến người khác, trước hết trẻ phải biết tự quan tâm đến bản thân đã. Trẻ em nào được đáp ứng nhu cầu và giải phóng căng thẳng nhờ có bố mẹ hỗ trợ đều không phải bận tâm về những nhu cầu đó và có thể quan tâm đến cảm xúc của người khác. Các em có thể cho và làm mọi thứ cho người khác bởi vì các em cảm thấy mình được chăm sóc, thấy an toàn và được đảm bảo. Và theo lời Nancy Eisenberg, tác giả cuốn Đứa trẻ biết quan tâm (The Caring Child) những đứa trẻ như vậy biết thông cảm hơn, hoà đồng hơn và có lòng tự tôn cao hơn. Sau đây là một vài cách chứng tỏ cho con bạn thấy bạn thật sự quan tâm đến bé: • Hạn chế những biện pháp mang tính kỷ luật làm trẻ sợ hãi hoặc cáu giận. Quát mắng, dọa nạt và dùng những biện pháp thể hiện quyền lực khác đều làm cho trẻ rất khó để ý đến suy nghĩ và cảm giác của bạn. Bên cạnh đó, vì phải chịu đựng áp lực như vậy, trẻ sẽ không thể nào tập trung vào những chỉ dẫn mà bạn muốn trẻ tuân theo; • Chia sẻ với con suy nghĩ và cảm giác của bạn về mọi việc, kể cả hiện tại cũng như lúc bạn còn thơ ấu. Bạn sẽ cho trẻ thấy được rằng suy nghĩ về cảm giác của bản thân bạn là điều quan trọng, vì thế trẻ tự suy nghĩ về cảm giác của mình cũng là điều rất quan trọng; • Hãy tôn trọng nhu cầu của trẻ. Như Paul Light mô tả trong cuốn Phát triển nhạy cảm xã hội (The Development of Social Sensitivity) một cậu bé giải thích rằng bé không thể tuân theo yêu cầu của mẹ tại một thời điểm nhất định nào đó, bởi vì bé đang bận việc mà lại phải nghe câu: “Làm ngay đi!” thì sẽ dễ dàng nghĩ rằng mẹ không hề quan tâm gì tới bé cả mà chỉ áp đặt mong muốn lên đầu bé thôi. Nếu bạn nghĩ con mình đang thật sự bận rộn và không lấy thế làm lý do để trì hoãn, hãy cho bé biết rằng bé có thể thực hiện điều mà bạn yêu cầu sau khi hoàn tất công việc đang làm dở. Bạn không muốn bị người khác quấy rầy lúc đang bận. Con bạn cũng vậy. Tuy nhiên, cũng có khả năng là con bạn không hề để tâm. Một cô bé lên sáu tuổi vì mải mê với trò chơi game nên lờ đi việc mẹ thông báo là bữa tối đã sẵn sàng. Bé tỏ ra không quan tâm tới việc cả nhà đang chờ mình. Trong trường hợp này, bạn có thể hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra nếu con không ra ăn tối ngay bây giờ?” Nếu bé trả lời “Con sẽ không được ăn tối”, điều có thể bé đã từng nghe trước đó, hãy hỏi tiếp: “Còn điều gì có thể xảy ra nữa?” Hãy cố gắng dẫn dắt con bạn đến một kết cục mang tính thấu hiểu hơn. Để giúp trẻ, bạn nên hỏi: “Điều gì có thể xảy ra với thức ăn nếu chúng ta để quá lâu rồi mới ăn?” Bạn cũng có thể bổ sung: “Bố mẹ muốn chúng ta cùng nhau ăn tối đầy đủ cả gia đình. Bố mẹ rất vui nếu con ăn cùng. Những người còn lại cảm thấy thế nào nếu chúng ta phải chờ đợi quá lâu rồi mới được ăn?” Sau đó, bạn hỏi thêm: “Con cảm thấy thế nào nếu điều đó xảy ra?” Những đứa trẻ có cảm giác “không ai quan tâm” đến mình cũng có thể cảm thấy rằng các em “không quan trọng” và lòng tự tôn bị giảm sút. Để được chú ý, các em có thể sẽ công kích và làm tổn thương người khác, quan tâm đến bản thân hơn là người bị các em làm tổn thương. Hoặc có thể các em sẽ rút lui và thu mình, sợ phải tiếp cận với những người “không quan tâm”. Cũng có thể các em sẽ tiếp tục thờ ơ, không quan tâm đến những người không quan tâm đến các em. Để giúp con bạn thấy thoải mái với cảm giác của mình, từ đó giúp bé biết quan tâm đến người khác, hãy hỏi xem bé cảm thấy thế nào về mọi thứ, ngay cả khi bé là người quát mắng hay tỏ ra thiếu quan tâm đến người khác. Bạn sẽ chuyển đến cho bé một thông điệp quan trọng: “Mẹ quan tâm đến cảm giác của con và muốn con cũng quan tâm đến người khác”. “Con có thể làm được!” Bạn tin rằng những điều tốt đẹp đến với bạn là nhờ bạn đã nỗ lực hết mình hay chỉ vì bạn may mắn? Nếu có người nào đó lờ bạn đi, bạn có cố gắng tìm hiểu lý do tại sao hay không, hay cho rằng chẳng thể nào thay đổi được tình thế nữa? Trong chúng ta, những người thành công nhờ may mắn hoặc nhờ những điều kiện ngoài tầm kiểm soát của mình chứ không phải là nhờ nỗ lực của bản thân, đều rất ít khi đấu tranh cho những gì mình mong muốn trong cuộc sống. Tương tự, những người đổ lỗi cho thất bại là do người khác, hoặc do hoàn cảnh, thay vì bắt tay vào hành động, đều rất dễ bỏ cuộc quá sớm vì tin rằng những gì xảy ra đều không thể kiểm soát được. Điều này cũng đúng với con cái chúng ta. Hãy thử xem xét trường hợp bốn học sinh lớp sáu chuẩn bị cho một đề tài khoa học. Hai em được điểm cao còn hai em kia được điểm thấp, nhưng mỗi em có cách nhìn nhận vấn đề khác nhau. John được điểm A cho đề tài khoa học và cảm thấy rất vui về điều này. Em biết rằng đó là nhờ em đã bỏ nhiều công sức chuẩn bị và xứng đáng với kết quả đó. Ben cũng được điểm A, nhưng em cho rằng em được vậy là nhờ đề tài quá dễ. Ben không cảm thấy tự hào như John bởi vì em không tin rằng mình có đóng góp gì vào thành công đó cả. Susan nhận được điểm F cho đề tài, nhưng em cảm thấy như vậy là đúng vì em chưa dành nhiều thời gian để chuẩn bị cho nó. Cody cũng bị điểm F, nhưng em tin rằng em trượt bởi đề tài quá khó và cô giáo − người mà theo em là chưa bao giờ thích em cả − lại không công bằng. Nói tóm lại, Cody nghĩ rằng mọi thứ đều chống lại em, vì thế em có làm gì đi nữa thì điểm cũng chẳng khá hơn chút nào. Mặc dù John và Susan nhận được hai mức điểm hoàn toàn khác nhau cho đề tài của mình nhưng cả hai đều nhận ra một điều: bất kể kết quả thế nào, các em cũng biết rằng mình có thể hành động để vươn tới mục tiêu. Ngược lại, Ben và Cody lại tin rằng mọi việc tình cờ xảy ra với mình mà thôi. Trong cuộc sống có những điều chúng ta không thể nào kiểm soát được nhưng chúng ta vẫn có thể xử lý những điều này theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, Richard rất thất vọng khi một cơn bão tuyết lớn tràn đến làm em phải hoãn trận bóng đá lại, nhưng em đã sắp xếp kế hoạch cho ngày hôm đó để ở nhà làm được thật nhiều việc và cuối ngày cảm thấy hài lòng. Bạn Bill cùng lớp thì nhăn nhó và than vãn suốt ngày bởi vì như lời em nói: “Mọi việc chẳng bao giờ thuận lợi cả”. Các nhà nghiên cứu Stephen Nowicki và Marshall Duke cho rằng trẻ em nào chủ động trong cuộc sống sẽ cảm thấy tự tin hơn vào bản thân, cố gắng nhiều hơn để đạt được mục tiêu, khó nản lòng hơn và có nhiều bạn bè hơn. Ngoài ra, các em cũng học giỏi hơn. Wendy Roedell, Ron Slaby và Halbert giải thích rằng trẻ em có cảm giác kiểm soát tốt sẽ dành nhiều thời gian hơn cho việc làm bài tập về nhà và nếu gặp bài tập khó thì cũng không dễ dàng bỏ cuộc. Theo kết quả nghiên cứu mà tôi tiến hành cùng các đồng nghiệp George Spivack và Jerryy Platt, em nào biết tìm ra cách giải quyết rắc rối nảy sinh với bạn bè và người có quyền lực sẽ dễ đạt được thành công và cảm thấy tự tin hơn trong cuộc sống. Mặt khác, trẻ nào cảm thấy mình yếu đuối và không thể thực hiện công việc sẽ từ chối giúp đỡ người khác bởi vì các em không tin minh đủ khả năng làm việc đó. Cũng có thể những em này không có sẵn nhiều giải pháp lắm, do vậy khi gặp thất bại, các em cảm thấy yếu đuối vì không có thêm lựa chọn nào khác. Sau đây là cách bạn có thể giúp con tin minh làm được mọi việc: • Hãy nói cho trẻ biết mỗi khi bé làm tốt điều gì đó, nhưng cũng đừng nên vung vãi lời khen khiến trẻ lo sẽ làm bạn thất vọng hoặc thể hiện mình chỉ nhằm làm bạn hài lòng; • Hãy để trẻ tự đưa ra quyết định mỗi khi có thể để bé nhận thức được vai trò của mình đối với những gì xảy ra và cố gắng nhiều hơn để lựa chọn đúng đắn; • Hãy giúp trẻ tìm thêm nhiều cách để đạt được mục đích nếu như những ý kiến ban đầu không phát huy được tác dụng. Hãy giúp trẻ hiểu được nỗ lực sẽ giúp bé đạt được kết quả thế nào, và những điều khác mà trẻ có thể làm khi không giành được thành tích như mong muốn. Điều này sẽ giúp trẻ tin mình có thể thay đổi được hoàn cảnh, thay vì nghĩ rằng mọi việc đã an bài với mình. PHẦN 2. Giải quyết và ngăn ngừa rắc rối Trẻ em nào có khả năng giải quyết rắc rối trước mắt của bản thân thì cũng sẽ có khả năng giải quyết những vấn đề quan trọng sau này. Bạn nhờ con gái rửa bát đĩa nhưng bé từ chối, và khi bạn nhờ lại lần nữa thì bé trả lời theo kiểu khiến bạn phát cáu lên được. Con trai bạn trở nên chán nản khi mọi việc không diễn ra theo ý bé và không kiên nhẫn chờ đợi để đạt được mục đích, nhưng bé có thể trì hoãn mãi mới làm điều mà bạn yêu cầu. Nghe có vẻ quen quen? Hiện tượng này cũng như các hành vi tương tự, xét trong chừng mực nào đó, là điều hoàn toàn bình thường. Hầu hết trẻ em đều có rất nhiều lần ra vành ra vẻ và thử thách lòng nhẫn nại của bạn. Các hành vi này cũng có thể trở nên khó chịu kinh khủng, đáng lo ngại hơn nếu không được kìm lại, đôi khi chúng sẽ dẫn tới một dạng gây gổ nghiêm trọng hơn khiến trẻ bị xã hội cô lập. Và những đứa trẻ hiếu chiến, thiếu kiên nhẫn, hấp tấp khi lớn lên sẽ có nguy cơ sử dụng ma tuý, quan hệ tình dục không an toàn và có hành vi bạo lực. Tất nhiên, không phải đứa trẻ nào hành động theo cách này về sau đều gặp phải những rắc rối nghiêm trọng. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn cần phải ngăn chặn các hành vi đó càng sớm càng tốt. Điều này không chỉ làm cho tuổi thơ con cái chúng ta được hạnh phúc hơn mà còn có thể tạo nên mối gắn kết bền chặt giữa phụ huynh và con cái, chuẩn bị cho bé con bước vào tuổi trưởng thành, khi con bắt đầu đối diện với những vấn đề phức tạp hơn. Trong Phần 1, tôi đã nói về việc giúp đỡ trẻ học cách xác định, thể hiện và xử lý cảm xúc, cũng như cách các em sử dụng các cảm xúc đó để tự kiểm soát đời mình. Trong Phần 2 này, tôi sẽ trình bày với các bạn về việc trẻ em có thể học cách sử dụng những kỹ năng đó trong đời sống hàng ngày như thế nào. Sau khi học xong, không những trẻ sẽ bớt đi những hành động gây phiền phức mà còn ít có nguy cơ gặp phải rắc rối nghiêm trọng trong cuộc sống sau này. Tôi sẽ cân nhắc nhiều bối cảnh khác nhau, nơi xung đột thường xuyên nảy sinh. Mâu thuẫn về giờ đi ngủ, bao giờ thì bắt đầu làm báo cáo đọc sách với thời hạn một tuần tính từ lúc này, và chọn thời điểm thích hợp để nhờ giúp đỡ, tất cả đều là những vấn đề liên quan đến thời gian. Một đề tài quen thuộc khác mà trẻ hay tranh cãi nhau là sở hữu: làm thế nào để sử dụng chung đồ chơi, thời gian và không gian sống. Để trẻ em hiểu được tại sao lại không nên khoác lác hay dối trá, các em cần phải tìm hiểu về khái niệm trung thực và hữu ích. Rồi còn chuyện ngang bướng nữa, dường như trẻ càng lớn thì càng trở nên khó bảo. Nếu như bạn nhận thấy mình nói câu: “Đừng có hỗn với mẹ!” quá nhiều lần, bạn sẽ đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Để giải quyết toàn bộ những vấn đề này, trẻ em cần học cách cân nhắc tình hình trên quan điểm của người khác. Bên cạnh đó còn có một chương về những vụ gây gổ. Làm thế nào để giải quyết tình huống trẻ bị một em khác đánh, xô đẩy, giật đồ chơi, hoặc trẻ làm tổn hại hay có ý định làm tổn hại một ai đó − cũng như những vụ cãi lộn, khi trẻ trêu chọc, xúc phạm hay lôi tên người khác ra chế nhạo. Gần đây, chúng tôi đang chú ý đến một dạng gây gổ khác: can thiệp vào mối quan hệ của người khác. Nó xảy ra khi người ta nói xấu sau lưng người khác, gieo rắc tin đồn, hoặc không cho trẻ con tham dự tiệc tùng. Loại hành vi làm người khác tổn thưởng này, được nhà tâm lý học Nicki Crick và các cộng sự ở Đại học Minnesota gọi bằng thuật ngữ “gây gổ quan hệ”, bắt đầu từ năm trẻ lên tám, chín tuổi (mặc dù những biểu hiện của nó có thể xuất hiện ngay từ hồi mẫu giáo). Nó xuất hiện ở trẻ em gái nhiều hơn trẻ em trai và khó thấy hơn so với các hành động gây gổ khác. Các thầy cô giáo và cha mẹ không phải lúc nào cũng nhận thức được về hành vi “ngầm” này. Nhưng dạng gây gổ cảm xúc này cũng gây đau đớn không kém – nếu không muốn nói là hơn – so với việc bị đá vào ống chân. Kiểu đau này dai dẳng hơn bởi vì nó gây tổn thương bên trong. Và khi trẻ em có cảm nhận không tốt từ bên trong, có thể các em sẽ tự thấy ghét mình rồi dần dần không muốn đến trường nữa. Tại sao một số trẻ em lại có khuynh hướng muốn chế ngự hay hành hạ những em yếu đuối hơn vốn không biết hoặc không thể tự vệ? Một số thì cố gắng để được tôn trọng theo cách duy nhất mà các em biết là hăm dọa. Một số muốn giành lại quyền kiểm soát đã bị mất. Điều này thường xảy ra ở những gia đình áp đặt mức kỷ luật hà khắc và cực đoan khiến trẻ phải giải thoát tâm lý chán nản bằng cách trút lên những bạn yếu hơn, an toàn hơn ở trường. Một số có thể bị ức hiếp và coi gây gổ là một phương pháp báo thù. Và điều gì xảy ra đối với những nạn nhân của việc gây gổ − những người bị tấn công bằng đòn đánh, lời nói hoặc cảm xúc? Theo báo cáo của nhà giáo dục John Hoover, các em phải chịu khổ sở không chỉ trong những năm đi học mà cót thể là suốt cả đời. Peter Smith và cộng sự đã phát hiện ra rằng trên thực tế, trẻ em bị đe dọa, xúc phạm, coi thường hoặc chế giễu ở trường, đặc biệt là những em không đối phó, rất có khả năng sau này vẫn tiếp tục làm nạn nhân ở nơi làm việc. Cả kẻ gây gổ lẫn nạn nhân đều cần được chú ý. Crick, Patricia Brennan và cộng sự thấy rằng gây gổ và hậu quả của nó đều không tự mất đi; cả thủ phạm lẫn nạn nhân về sau đều chịu những rối loạn tâm lý như lo lắng, trầm cảm, hoặc hành động bột phát và phạm tội. Theo nhà nghiên cứu Tonja Nansel và các cộng sự, trung bình cứ bảy học sinh ở Mỹ thì có một em (tương đương năm triệu em) hoặc là kẻ gây sự, hoặc là nạn nhân, hoặc là cả hai. Không có gì là ngạc nhiên khi những em nhỏ mà tôi phỏng vấn trong cuốn Dạy tư duy cho trẻ vị thành niên đã coi việc bị ức hiếp là mối lo ngại số một của các em. Cha mẹ các em cũng rất lo lắng, nhưng không phải là lo con mình trở thành kẻ ức hiếp mà lo con mình bị ức hiếp. Và trong nhiều trường hợp, đối tượng bị ức hiếp tỏ ra sợ hãi và âm thầm chịu đựng. Bạn cần phải làm gì? Rất nhiều điều. Hai nhà tâm lý học người Thuỵ Điển, Hakan Stattin và Margaret Kerr, nhận thấy, phản ứng của phụ huynh trước hành vi của con cái có thể đóng vai trò then chốt trong việc ngăn chặn xu hướng gây gổ và bạo lực. Họ chỉ ra ba cách để cha mẹ có thể giám sát con cái: 1. Cha mẹ có thể áp đặt nguyên tắc và giới hạn các hành vi và quan hệ của bé. Nhưng cách này có thể khiến trẻ giữ bí mật về những điều các em làm; 2. Cha mẹ có thể hỏi con hoặc bạn bè của con để có được thông tin. Nhưng trẻ thường coi những câu hỏi này là một dạng xâm phạm đời tư của các em; 3. Trẻ em sẽ tự động nói cho cha mẹ biết mình đang nghĩ gì mà không cần ai nhắc nhở, và hành vi này được gọi là “phơi bày ở trẻ thơ” (child disclosure). Kết quả rất rõ ràng: trẻ càng tự nguyện tự giác tiết lộ thông tin thì cha mẹ càng hiểu rõ về hành vi của con mình. Bên cạnh đó, trẻ em nào hay nói chuyện với cha mẹ cũng sẽ ít có những biểu hiện khó gần và mạo hiểm. Nhóm nghiên cứu nói trên kết luận rằng, mối quan hệ cha mẹ − con cái tốt đẹp là mối quan hệ hai chiều trên cơ sở qua lại và hợp tác. Cơ sở để ở trẻ hình thành “niềm tin vào cha mẹ” và “cảm thấy cha mẹ sẵn sàng lắng nghe, thông cảm và không chế giễu hay trừng phạt khi các em thổ lộ suy nghĩ”. Trong những chương tiếp theo, bạn sẽ thấy tại sao một số trẻ trò chuyện với cha mẹ rất thoải mái, trong khi số khác lại không. Tôi hy vọng bạn cũng sẽ có kết luận giống tôi là sự khác biệt giữa trẻ em sử dụng rượu, thuốc lá và ma tuý hay buông xuôi trước gây gổ và bạo lực và những em khác, ngay cả khi các em lớn lên trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn, đều ít nhiều liên quan đến cách suy nghĩ của các em. Nếu trẻ biết được ý nghĩa của việc làm tổn thương bản thân cũng như người khác, các em sẽ ít làm tổn thương hơn. Tôi muốn dạy các bạn về chính quá trình nhận thức này. Tôi cũng sẽ chỉ cho các bạn biện pháp giải quyết rắc rối khi trò chuyện với con về những hành vi gây phiền toái và có nguy cơ cao ban đầu. Sau những cuộc trò chuyện như vậy, thường thì bức tường im lặng sẽ bắt đầu sụp đổ. Khi có lòng tin, trẻ sẽ đáp lại bằng cách thổ lộ về việc các em đang làm gì, đang đi đâu và cùng với ai. Trẻ nào giải quyết được những vấn đề quan trọng với bản thân lúc này thì về sau cũng sẽ có khả năng ngăn ngừa rắc rối vượt ra ngoài tầm kiểm soát, dù là ở trường phổ thông, trung học hay cao hơn. 7. Thời gian và thời điểm: thời gian đi ngủ, lần khân, can thiệp, mất kiên nhẫn “Bây giờ đã thích hợp chưa?” – “Con có thể làm gì trong lúc chờ đợi?” Cậu con trai năm tuổi ngồi tẩy sơn móng tay khi bạn đợi bé để đi chơi công viên. Cô con gái tám tuổi muốn bạn cùng tô màu lúc bạn vừa ngồi vào thanh toán hóa đơn hàng tháng. Khi bạn bảo chờ, bé than: “Mẹ chẳng bao giờ giúp con cả”. Cô con gái mười một tuổi bắt đầu bấm điện thoại cho bạn đúng lúc gia đình bạn chuẩn bị ăn tối. Bạn phải làm gì? Bạn phải nói gì? Bạn muốn chơi cùng con, nhưng bạn cũng muốn bé chú ý đến các mong muốn của bạn, cũng như những gì diễn ra xung quanh chứ không chỉ nghĩ cho riêng bản thân. Để giải quyết những vấn đề quan trọng này, tôi đã xây dựng một trò chơi có tên là “thời điểm thích hợp/không thích hợp” mà trẻ rất thích. Hãy chơi trò này vào bất cứ lúc nào trong ngày chứ không chỉ ngay sau khi những tình huống tương tự như trên xảy ra, và hãy sử dụng các nhân vật tưởng tượng. Nếu con bạn quen với trò chơi này, các em sẽ có khả năng áp dụng chúng vào cuộc sống thực. Sau đây là cách một bà mẹ đã chơi cùng với hai cô con gái chín và mười một tuổi. MẸ: Chúng ta cùng chơi trò “thời điểm thích hợp/không thích hợp” nhé. Các con lắng nghe đây. Joanie mời bạn Patricia cùng tham gia chơi bóng, có điều Patricia vừa mới bị gãy chân xong. Liệu mời Patricia chơi bóng vào thời điểm như thế là thích hợp hay không thích hợp? LISA: Thật là ngốc. Chẳng thích hợp chút nào. MẸ: Đúng vậy. Hãy tỏ ra ngốc nghếch đi. Con hãy ví dụ một tình huống không thích hợp nào. LISA: Roseann nhờ mẹ giúp làm bài tập về nhà vào lúc ba giờ sáng. MẸ: Tốt lắm Lisa. Giờ đến lượt con, Bernice. BERNICE: Deedee hỏi mượn bạn chiếc áo len ngay khi bạn đó vừa bị mẹ mắng. MẸ: Các con nghĩ tốt lắm. Lisa, khi nào thì đúng lúc để nhờ mẹ giúp làm bài tập? LISA: Sau khi đi học về hoặc sau khi ăn tối xong. MẸ: Còn Bernice, bao giờ thì thích hợp để nhờ bạn bè giúp đỡ? BERNICE: Khi bạn bè đang vui vẻ. Hãy để cho con bạn nghĩ thêm một số tình huống ngớ ngẩn và không ngớ ngẩn nữa như trên. Sau đó, khi trẻ muốn điều gì đó lúc bạn đang bận hoặc vào thời điểm không thích hợp, bạn có thể nhắc con về trò chơi “thời điểm thích hợp/không thích hợp”. Ngay cả khi trẻ đã suy nghĩ về thời điểm thích hợp hay không thích hợp, có thể sẽ rất khó để các em chờ đợi đến lúc thích hợp. Thông thường, trẻ muốn đạt được điều các em muốn ngay lập tức. Điều này hoàn toàn bình thường nhưng lại rất dễ khiến cha mẹ nổi cáu. Nỗ lực giải thích cho trẻ rằng cần phải học cách kiên nhẫn thường không phát huy nhiều tác dụng lắm, vì trẻ không đủ kiên nhẫn để nghe chúng ta. Và khi chúng ta nói với trẻ rằng các em sẽ có hoặc sẽ được làm điều mình muốn “sau”, khoảng thời gian đó dường như vô tận đối với trẻ, bởi vì các em không nghĩ ra được sẽ phải làm gì trong lúc chờ đợi. Trò chơi “Có thể làm gì trong lúc chờ đợi?” sẽ giúp trẻ không còn thiếu kiên nhẫn nữa. Một lần nữa, hãy bắt đầu trò chơi bằng những nhân vật tưởng tượng. Mẹ Arthur nói với cậu con trai mười tuổi: “Johnny muốn anh trai chơi cờ với bé, nhưng anh lại đang làm bài tập toán. Con có thể nghĩ ra năm việc mà Johnny có thể làm trong lúc chờ đợi được không?” Arthur nhanh chóng đưa ra danh sách sau. Bé trả lời rằng Johnny có thể: • Làm bài tập về nhà của mình; • Chơi game; • Ăn bim bim; • Vẽ tranh; • Tập thổi sáo. Vì việc này quá dễ, Arthur tình nguyện bổ sung thêm: • Gọi điện cho bạn bè; • Lên mạng internet; • Sắp xếp bộ sưu tập tem. Lần tới Arthur muốn mẹ phải chú ý tới cận vào thời điểm không thích hợp, chị đã có thể nói với con: “Mẹ không nói chuyện với con bây giờ được bởi vì mẹ đang giúp em gái con làm bài tập về nhà. Con có thể làm gì trong lúc chờ đợi?” Arthur nghĩ một lúc rồi mỉm cười: bé đã nhớ ra trò chơi. Bé trả lời: “Con sẽ làm bài tập của mình”. Bạn có thể cho con chơi những trò này ngay từ năm trẻ lên bốn tuổi. Bé Janey vừa lên bốn tuổi muốn đi ra sân chơi khi vừa ăn sáng xong, nhưng mẹ bé phải gấp quần áo. Mẹ hỏi: “Con có thể làm gì trong lúc chờ đợi?” “Con sẽ chơi với con búp bê mới”, Janey trả lời, nhảy chân sáo vào phòng để lấy búp bê. Bé mặc quần áo đẹp cho búp bê để đi chơi và mang theo búp bê ra sân khi mẹ đã sẵn sàng. Những trò chơi như thế này cũng rất có ích khi vị khách đầu tiên đến dự buổi sinh nhật hay một bữa tiệc ở nhà bạn mang theo món quà được gói rất đẹp, và con bạn thốt lên với vẻ đầy háo hức: “Con mở ra bây giờ được không?” Nếu bạn muốn chờ khách đến đầy đủ rồi mới mở, bạn có thể bảo con suy nghĩ xem tại sao bây giờ chưa phải là thời điểm thích hợp và hỏi: “Con có thể làm gì trong lúc chờ đợi?” Khi trẻ đã đề xuất ý kiến của riêng mình, như Lisa, Bernice, Arthur và Janey, các em sẽ không còn trách móc nữa. Các em đang bận nghĩ ra những việc khác thay cho việc mè nheo những thứ không thể đạt được ngay. Chấm dứt cuộc chiến về giờ đi ngủ Một số trẻ em chìm ngay vào giấc ngủ mà không khóc lấy một tiếng: dường như các em thích bóng tối, thích cái giường và thích những việc quen làm khi đến giờ đi ngủ. Những đứa trẻ khác thì bám chặt lấy ánh sáng ban ngày, cực lực phản đối giờ đi ngủ và giấc ngủ. “Năm phút nữa thôi”, các em nài nỉ, nhưng khoảng thời gian này sẽ biến thành 20 phút, rồi 30 phút, rồi hơn nữa. Bạn có đọc cho con nghe thêm một cuốn sách, cho phép con chơi nốt trò game cuối cùng, hay cho con thêm một điều ước bất kể đó là điều gì? Nếu câu trả lời là “Có”, rõ ràng là bạn đang ngày càng trở nên bực bội và ước ao có một chiến lược mới. Hoặc có lúc nào bạn quát những câu đại loại như: “Đi ngủ ngay!”, hoặc đe dọa: “Nếu không đi ngủ ngay bây giờ, ngày mai con sẽ không được xem ti vi nữa!”, hoặc: “Con sẽ không làm bài thi được nếu con ngủ gật ở trường”. Hãy hiểu rằng sau một ngày dài đằng đẵng, con bạn cần hơi ấm của mẹ chứ không phải là bộ mặt giận dữ và những lời dọa nạt. Bạn càng cáu giận, con bạn càng cảm thấy bất an, và vì thế càng khó mà tìm đến giấc ngủ được. Sau đây là một vài gợi ý. Trước hết, hãy cố tìm hiểu xem điều gì đang làm con bạn bận tâm. Bé có đủ thời gian để hoàn tất mọi việc trước khi tắt đèn đi ngủ không? Với một đứa con 3-4 tuổi, có thể bạn muốn bắt đầu những việc thường ngày như tắm rửa, đánh răng, thay đồ ngủ sớm hơn nhiều so với bình thường. Nếu bạn muốn con đọc xong một cuốn truyện hay xem một chương trình ti vi trước khi đi ngủ, hãy bắt đầu những hoạt động này càng sớm càng tốt, bởi vì cắt ngang một chương trình nào đó sẽ gây khó chịu cho con bạn. Hãy để trẻ em lớn tự xác định cần bao nhiều thời gian cho các việc thông thường buổi tối để có thể bắt đầu vào thời điểm mà bạn chấp nhận, tất nhiên là với điều kiện đã hoàn thành bài tập về nhà. Và nếu con bạn vẫn không chịu ngủ vì muốn có thêm thời gian bên bạn, hãy cố gắng cùng con xác định xem hai mẹ con sẽ ở bên nhau như thế nào và vào lúc nào mỗi đêm. Chỉ riêng hành động này đã đủ để con bạn cảm nhận được sự quan tâm mà bé vẫn muốn có vào cuối ngày. Nếu con bạn vẫn muốn thức mặc dù đã đến giờ đi ngủ, sau đây là một số phương pháp mới để nói chuyện với bé. Buổi sáng, hãy hỏi xem bé cảm thấy thế nào. Nếu bé nói: “Mệt lắm”, bạn hỏi tiếp: “Buổi tối con nên làm gì để sáng sớm không thấy mệt mỏi nào?” Có thể bé sẽ trả lời: “Đi ngủ sớm hơn”. Nhưng hãy sẵn sàng là có thể đến tối, bé sẽ quên sạch cuộc trò chuyện ban sớm và lại xin thêm 30 phút nữa để đọc sách. Đấy là lúc bạn nên hỏi: “Con có nhớ cuộc nói chuyện sáng nay không, khi con nói rằng cách làm bớt mệt khi ngủ dậy là hãy đi ngủ sớm hơn tối hôm trước?”. Nếu trẻ né tránh, bạn hãy hỏi: “Con sẽ cảm thấy thế nào vào buổi sáng nếu như bây giờ con không chịu đi ngủ?”. Có thể, bạn sẽ phải lặp lại cuộc trò chuyện này vài buổi sáng và buổi tối liên tiếp cho đến khi trẻ liên hệ được hai yếu tố này. Rốt cục thì hầu hết trẻ em đều hiểu được vấn đề. Một khi trẻ đã hiểu được mối liên hệ nói trên, bạn có thể đặt ra những câu hỏi về thời điểm thích hợp/không thích hợp: “Bây giờ là thời điểm thích hợp hay không thích hợp cho việc đi ngủ?” “Đi ngủ đúng giờ là điều tốt hay không tốt?” “Điều gì sẽ xảy ra ở trường vào sáng mai nếu con thấy mệt mỏi?” “Con có muốn điều đó xảy ra hay không?” “Bao giờ là thời điểm thích hợp để đọc sách?” Khi bé Jen tám tuổi được hỏi những câu này, bé trả lời: “Nếu sáng mai con mệt, có thể con sẽ không làm tốt bài tập đọc được”. “Con có muốn điều đó xảy ra hay không?”, mẹ bé hỏi. Lần này Jen chỉ mỉm cười. Bé nói: “Tốt hơn hết là tối nay con nên đi ngủ đúng giờ”. Vậy nếu con bạn kiên quyết khẳng định: “Con có mệt đâu!” thì sao? Hãy cân nhắc một chút vì có thể bé đang nói thật: trong trường hợp này có lẽ bé đã chuẩn bị để đi ngủ muộn hơn. Tuy nhiên, hầu hết trẻ em đều không chịu thừa nhận mình đang mệt. Bạn càng cố giải thích rằng ngày mai con sẽ thấy mệt vì không chịu đi ngủ ngay bây giờ, trẻ càng trở nên ngang bướng. Nếu con bạn thật sự mệt mỏi, hãy để trẻ suy nghĩ về điều đó. Cố gắng cũng chẳng thể nào thay đổi được cách hành xử của trẻ. Đôi khi, có thêm anh chị trong nhà sẽ khiến cho cuộc chiến về giờ đi ngủ có thêm diện mạo mới, như bản thân tôi đã từng trải qua. Năm lên sáu tuổi, đột nhiên tôi nhận thấy ông anh trai mười hai tuổi được thức muộn hơn mình. Một thời gian, tôi thật sự tin rằng bố mẹ muốn đẩy tôi đi ngủ trước để cùng anh trai làm một việc gì đó mà không cho tôi tham gia. Bố mẹ tôi cố gắng giải thích rằng vì anh lớn hơn nên không cần ngủ nhiều như tôi, và rằng khi tôi lớn lên, tôi cũng được thức khuya như vậy. Nhưng không gì có thể thuyết phục được tôi. Cuối cùng, bố tôi nói: “Được rồi, Myrna, con cứ đi ngủ cùng lúc với anh. Rồi con sẽ thấy cảm giác ra sao”. “Con sẽ khỏe thôi”. Tôi nói, nghe có vẻ như rất chắc chắn. Và tôi cảm thấy khỏe thật, cho đến tận sáng hôm sau, khi tôi phải thức dậy. “Sáng nay con cảm thấy thế nào lúc tỉnh dậy?” Bố tôi hỏi khi cả nhà ngồi ăn tối. Không cần tôi trả lời, bố tôi đã thấy rằng ông không phải nhắc tôi đi ngủ đúng giờ một lần nào nữa. “Con sẽ làm sau” – chữa bệnh lần khân Dường như đối với nhiều trẻ em, lần khân đã trở thành căn bệnh bẩm sinh. Bất kể bạn yêu cầu con làm điều gì − thu dọn phòng riêng, hoàn thành việc nhà hay làm bài tập về nhà - câu trả lời luôn giống nhau: “Để đấy con làm sau”. Hầu hết chúng ta đôi khi cũng như vậy. Nhưng khi nào thì việc lần khân trở thành vấn đề, và chúng ta phải làm gì để khắc phục nó? Bé Lizzi mười hai tuổi muốn được làm thủ môn cho đội bóng, nhưng bé không được phép chơi thử khi chưa hoàn tất thủ tục khám sức khỏe. Mỗi khi mẹ tìm cách thu xếp hẹn gặp bác sĩ, Lizzie lại nói: “Để hôm khác”. Thời hạn nộp giấy khám sức khỏe qua mất, thế là Lizzie không được gia nhập đội. Đêm trước thời hạn nộp bài nghiên cứu xã hội chính khóa, bé Randi mười tuổi vẫn chưa bắt tay vào thực hiện, mặc dù đề tài được giao cách đó hai tuần. Tối nào bố cũng nhắc bé làm bài, nhưng bé lờ đi. Kết quả là Randi phải nhận một điểm F. Bé Thad bốn tuổi hứa sẽ dọn phòng ngay sau khi chơi game xong, nhưng bao giờ xong thì không biết. Mẹ dọa sẽ cất bộ trò chơi nếu như bé không thu dọn phòng trước bữa tối. Nhưng đến sáu giờ tối, vẫn chưa có món đồ chơi nào được cất đi cả. Nếu con bạn hành xử theo cách này, bạn sẽ cảm thấy rất khó chịu. Thậm chí bạn còn nảy ra ý định tự mình làm lấy mọi việc, nhưng chớ có mà làm vậy. Nếu như bạn bắt tay vào làm việc đó, trẻ sẽ tin rằng việc lần khân là có lý. Mặt khác, nếu bạn tìm cách lờ đi sự thật là trẻ đang lần khân, trẻ sẽ dễ dàng tin rằng chỉ cần làm ngơ trước những việc phải làm thì đâu sẽ vào đấy cả. Sau đây là một số lời khuyên nhằm giúp bạn chống lại vấn đề lần khân. Trước hết, hãy nói với trẻ về hậu quả của việc lần khân. Trong trường hợp của Lizzie, chiến thuật trì hoãn đã khiến bé phải chịu kết cục thất vọng, cay đắng. Một cuộc trò chuyện giữa hai mẹ con về việc làm thế nào để kịp những mốc thời gian quan trọng là đủ để Lizzie thay đổi hành vi. Randi cần phải học được cách hoàn thành những bài tập dài ngày. Với sự hỗ trợ của bố mẹ, bé bắt đầu lên kế hoạch sử dụng thời gian sao cho mọi bài tập về nhà đều được giải quyết từ sớm, chứ không đợi đến sát ngày nộp bài mới làm nữa (Để tìm hiểu thêm về việc lên kế hoạch cho thời gian làm bài tập về nhà, xin vui lòng xem Chương 18.) Một phương pháp hữu hiệu nữa để định hướng cho trẻ lần khân là chia công việc ra thành nhiều bước nhỏ. Chẳng hạn, thay vì bảo: “Tại sao con lại không cất số đồ chơi gần giường của con trước đi?”, bạn có thể hỏi: “Con muốn làm việc nào trước việc nào sau?”. Ngay cả trẻ ở tuổi mẫu giáo cũng có thể tự mình quyết định được phải làm việc nào trước và bao giờ thì làm. Trẻ em lớn hơn sẽ biết đánh dấu, tự mình viết giấy nhắc hoặc ghi ngày vào lịch để theo dõi bao giờ thì cần phải hoàn thành công việc. Có thể một số trẻ tìm cách trì hoãn bởi vì công việc thật sự buồn tẻ đối với các em. Nếu con bạn không bao giờ đổ rác, có lẽ là bé rất ghét mùi thùng rác. Trong trường hợp này, bạn sẽ giao một việc khác mà bé có thể thực hiện được. Cũng có thể con bạn muốn sử dụng sự trì hoãn như cách khẳng định sức mạnh, hoặc chứng tỏ cho bạn biết ai mới là người kiểm soát tình thế (nên nhớ rằng, có thể trẻ không nhận thức hết động cơ của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là không tồn tại). Cuối cùng, bạn không thể bắt được trẻ làm việc nhà hay hoàn thành bài tập. Có thể bạn sẽ muốn tìm xem có cách nào để nói chuyện khi trẻ không muốn làm điều mà bạn yêu cầu không. Nếu cảm thấy bị kiểm soát quá nhiều, có thể trẻ sẽ thấy cần phải giành lại quyền kiểm soát ở một chừng mực nào đó. Nếu con bạn vẫn tiếp tục trì hoãn mọi việc, hãy hỏi xem trẻ cảm thấy thế nào về nhiệm vụ đã trôi qua. Một số trẻ mắc chứng lần khân mãn tính rất sợ phải thất bại. Trong trường hợp này, các em cần được nghe câu: “Con đâu cần phải làm người hoàn hảo”. Bạn hãy kể cho trẻ nghe về những lần bạn thử sức ở những lĩnh vực mới và thất bại, hoặc không làm tốt như bạn từng hy vọng. Bạn cũng nói rằng: “Thử làm những việc mới cũng tốt, ngay cả khi kết quả không được như ý. Lúc nào con cũng có thể thử lại. Hoặc thử làm một cái gì đó mới hơn”. Với lời đảm bảo này, con bạn sẽ cảm thấy bớt căng thẳng rất nhiều, và bạn cũng vậy. “Con không thấy là mẹ đang nói chuyện điện thoại sao?” Bạn đang nói chuyện điện thoại, đang viết hóa đơn hàng tháng, đang đổ rác hoặc đang gội đầu, thì nghe con bạn nói: “Mẹ ơi, con cần mẹ”. Nghe giọng của con, bạn biết không có việc gì cần kíp cả, thực tế là bé chỉ muốn biết cái kéo nằm ở đâu thôi. Bạn đã bảo với con hàng ngàn lần rồi là đừng có quấy rầy khi mẹ đang có điện thoại. Vậy mà dường như bé chẳng bao giờ nhớ nổi cả. Bạn đã cố làm bé sao nhãng bằng cách chỉ cho bé ra xem ti vi, nhưng bé không muốn vậy. Bạn phải bỏ dở cuộc điện thoại và cố gắng giải thích cho bé tại sao lại không nên chen ngang, nhưng như thế sẽ làm người nghe ở đầu dây bên kia sốt ruột vì bạn vắng mặt quá lâu. Nói tóm lại, bạn thử mọi cách. Ít nhất thì bạn cũng nghĩ là mình đã cố gắng. Giờ thì hãy thử trò chơi “hai việc một lúc” và xem nó có phát huy tác dụng hay không nhé. Bạn có thể tiến hành chơi tại bữa tối, trong xe hơi hoặc lúc đang xếp hàng. Trẻ em thích như thế. Nếu con bạn đang ở tuổi mẫu giáo, hãy bắt đầu bằng cách tập trung vào hai từ giống và khác. Chẳng hạn, hãy tạo một động tác cơ thể và nói: “Mẹ vỗ lên đầu. Giờ thì mẹ giậm chân xuống đất. Mẹ vừa làm hai động tác giống nhau hay khác nhau?” Sau đó, hãy thêm từ không vào, chẳng hạn như nói: “Mẹ vỗ lên đầu. Mẹ không…?” Hãy để con bạn điền vào chỗ trống, chẳng hạn như “vỗ tay”. Khi con đã tỏ thái độ quan tâm, bạn có thể bổ sung những thứ như: “Mẹ nhìn thấy một cái cây. Con có nhìn thấy giống vậy không hay nhìn thấy cái khác? Con không nhìn thấy cái gì?” Tại bàn ăn tối, bạn hãy hỏi: “Đây là lọ muối. Đây là cái thìa. Chúng giống nhau hay khác nhau?” Tôi nhận thấy, trẻ em rất thích chơi với từ khác. Giờ thì bạn có thể nói: “Chúng ta sẽ chơi trò “hai việc một lúc” nhé. Mẹ có thể vỗ lên đầu và giậm chân cùng một lúc. Con có thể làm được những việc gì cùng một lúc?” Trẻ em thích suy nghĩ về những thứ như: “Con có thể vừa đi vừa nhai kẹo cao su” hoặc: “Con có thể vừa hát vừa nhảy cùng một lúc”. Giờ thì bạn hãy nói tiếp: “Mẹ không thể vừa đứng vừa ngồi cùng một lúc được. Những điều gì con không thể làm cùng lúc được?” Bé Philip bốn tuổi bịt mũi và nói: “Con không thể cùng lúc vừa bịt mũi vừa thở được”. Và chị gái tám tuổi của Philip nói: “Con không thể cùng lúc vừa làm bài tập vừa ngủ được”, sau đó nói thêm: “Con không thể cùng lúc vừa hát vừa uống nước được”. Những em này bị cuốn hút với trò chơi kể tên những việc không thể làm cùng lúc đến mức bắt cả bố mẹ chơi cùng. Lần tới Phil quấy rầy lúc mẹ đang bận điện thoại, chị chỉ việc hỏi: “Mẹ có thể cùng lúc vừa nói chuyện với con vừa trả lời điện thoại được không?”. Nhớ lại trò chơi, Phil mỉm cười. Sau đó mẹ nói thêm: “Con có nghĩ ra một việc gì khác để làm trong lúc chờ đợi hay không?” Phil trả lời: “Con có thể đi xem ti vi”. Lần tới Phil quấy rầy lúc mẹ đang bận điện thoại, chị chỉ việc hỏi: "Mẹ có thể cùng lúc vừa nói chuyện với con vừa trả lời điện thoại được không?” Nhớ lại trò chơi, Phil mỉm cười. Sau đó mẹ nói thêm: "Con có thể nghĩ ra một việc gì khác để làm trong lúc chờ đợi hay không?” Tất nhiên, nếu mẹ đề nghị điều này, có thể bé sẽ từ chối. Nhưng giờ thì bé không cần phải chống đối lại lời đề nghị này nữa, bởi vì tự bé nghĩ ra nó; ngược lại, bé còn cảm thấy tự hào vì đã nghĩ ra được việc để làm trong lúc chờ đợi. 8. Sở hữu Khi trẻ giành nhau đồ chơi “Đưa cái xe đây. Tớ có nó trước”. “Không, tớ chứ. Nó là của tớ”. “Không, của tớ”. “Cậu chẳng bao giờ cho tớ chơi cả”. Bất cứ cha mẹ nào cũng đã từng nghe con mình lâm vào những trận chiến như thế. Hoặc là trẻ giành giật đồ chơi của bạn, hoặc không chịu chia sẻ, hoặc tranh cãi về lượng thời gian chia sẻ đồ chơi. Đôi khi, chúng muốn độc chiếm một món đồ chơi ưa thích đến nỗi không chịu chia sẻ cho bất cứ ai. Thông thường, mục tiêu của chúng ta là giải quyết tranh chấp bằng cách thể hiện sự “công bằng”, có nghĩa là chúng ta cố gắng xác định ai là người sở hữu chiếc xe trước, bất kể người đó đã giữ trong bao lâu và bao giờ thì thích hợp nhất để chia sẻ. Nhưng như hầu hết các bậc cha mẹ nhận thấy công cuộc đi tìm công bằng thường tỏ ra không hiệu quả. Bạn càng hỏi xem đứa nào sở hữu cái xe trước, hoặc xem một đứa đã chơi được bao lâu rồi thì trẻ càng tranh cãi mạnh và trở nên giận dữ hơn. Đối với vấn đề ai sở hữu trước, có thể bạn sẽ không bao giờ biết được. Đôi khi, bạn chỉ muốn tịch thu chiếc xe đi và quát lên: “Nếu hai đứa không chịu nhường nhau thì sẽ chẳng đứa nào được chơi hết”. Hãy suy nghĩ một chút xem chiến lược nào sẽ phát huy tác dụng. Tịch thu đồ chơi cũng chẳng đảm bảo được rằng trẻ sẽ tự giải quyết được rắc rối. Chỉ có một điều duy nhất chắc chắn: ngay cả khi con bạn nghe theo và chia sẻ món đồ chơi thì cũng chẳng có điều gì thay đổi được suy nghĩ bên trong của trẻ bây giờ và sau này, khi gặp phải tình huống tương tự. Vậy bạn nên làm gì bây giờ? Nếu bạn là mẹ của cậu bé giành đồ chơi, bạn có thể hỏi một câu rất đơn giản: “Điều gì xảy ra sau khi con giành đồ chơi?” “Bạn ấy đánh con”, con bạn trả lời như vậy. “Nếu hai con muốn chơi cùng một món đồ chơi vào cùng một thời điểm, các con có thể làm gì để giải quyết vấn đề?” Khi được hỏi câu này, bé Brett bốn tuổi nói với anh trai: “Em sẽ đẩy xe còn anh đặt hành khách vào xe nhé”. Cả hai cùng cười. Đây là giải pháp hợp lý. Giờ thì bạn có thể nói: “Suy nghĩ tốt lắm”, hoặc: “Con giải quyết vấn đề rất giỏi”. Bằng cách tránh những lời nhận xét như: “Ý kiến hay đấy”, bạn sẽ khen con không phải vì trẻ nghĩ gì, mà vì thực tế là trẻ đã suy nghĩ. Nếu bạn khen một giải pháp cụ thể nào đó mà con bạn đã nghĩ ra, có thể bé sẽ bước đi và cảm thấy hài lòng vì bạn thích ý kiến đó, nhưng rồi sẽ không suy nghĩ gì thêm. Một tuần sau, khi vấn đề tương tự nảy sinh, bé sẽ lại áp dụng giải pháp đó nhưng chỉ khiến cho đứa trẻ kia bất đồng mà thôi. Sau đó thì sao? Bằng cách đưa ra giải pháp mới, không chỉ tránh được trò phân tranh quyền lực với mẹ và cuộc xung đột với anh trai, Brett còn có nhiều cơ hội được chơi với chiếc xe. Vậy không chia sẻ có bao giờ là giải pháp tốt hay không? Mặc dù chúng ta ai cũng muốn con trở nên hào phóng, nhưng đối với một đứa trẻ có món đồ chơi mà theo bé là rất quý giá, đặc biệt là đồ chơi dễ vỡ, hoặc món đồ chơi mới đến mức bé muốn giữ lại chơi một thời gian đã, người khác cần phải bày tỏ sự tôn trọng đối với điều mà bé muốn. Để cho trẻ biết rằng bạn hiểu thế nào về cảm giác của trẻ đối với chuyện này, bạn nên hỏi: “Lý do nào khiến con không muốn cho anh cùng chơi chiếc xe này?” Bé Rudy bốn tuổi trả lời: “Con sợ anh ấy sẽ làm long bánh xe ra”. Mẹ đáp: “Được rồi. Còn có thứ gì con có thể cho anh chơi chung mà không hỏng không?” Loại câu hỏi này cho trẻ thấy chúng ta tôn trọng cảm giác của trẻ thế nào và rất ít khả năng dẫn tới cuộc chiến quyền lực hay nước mắt. Chiến tranh đồ chơi Bạn đã bao giờ nghe những lời cãi cọ này chưa?: "Của tớ". "Không! Nó là của tớ! Đúng là của tớ!" Và khi điều này không có hiệu quả, trẻ sẽ la hét đến váng tai: "Tớ có nó trước!" và "Không! Tớ có nó trước!" Bạn có thể tịch thu món đồ chơi đi để trẻ không còn đánh nhau nữa. Nhưng điều đó chỉ làm cho trẻ thêm giận dữ. Bạn có thể bảo trẻ chơi chung để không đứa nào phải khóc cả. Nhưng ý kiến này như nước đổ lá khoai. Bạn hãy giải thích tại sao trẻ không nên giành nhau: "Sẽ có người bị tổn thương nếu bạn không công bằng". Nhưng trẻ đã nghe điều này hàng ngàn lần rồi. Ngàn lần như một, trẻ chẳng hề để tâm. Con cái giành giật, cãi cọ làm bạn phát điên. Cho đến khi bạn hét lên: "Không nếu, không và, không nhưng gì hết!" Khi trẻ muốn đánh nhau thay vì vui chơi, hãy bảo trẻ nghĩ xem còn cách nào khác hay không. Mượn không xin phép: Cầu cứu bố mẹ? Bé Cindy mười một tuổi về nhà và nhìn thấy Eve, cô em gái chín tuổi, lại mặc chiếc áo len của mình, mặc dù Cindy đã bảo Eva là không được mượn. Điều gì xảy ra sau đó? Cindy hét lên: “Tao đã bảo mày là không được vào tủ quần áo của tao cơ mà! Đừng có động vào đồ của tao! Cởi ra ngay! Nó là của tao!” Nhưng Eve chỉ ném ra một cái nhìn kiểu “đừng hòng”. Điều đó khiến Cindy giận điên lên, nói giọng khinh miệt: “Mày mặc cái áo đó trông ngố lắm. Tao mặc đẹp hơn nhiều!” “Nhưng em có cái váy hợp với nó”, Eve nói, chẳng hề tỏ ra sợ hãi trước cơn lôi đình của chị. “Còn chị thì không”. Cả hai cứ tiếp tục cãi nhau, câu sau cay độc hơn câu trước. Cuối cùng, Cindy mách mẹ, nhưng mẹ bảo với bé là đừng quá ích kỷ như vậy. Cindy nói: “Nhưng mẹ ơi, con mua chiếc áo đó bằng tiền riêng của con và…” “Đủ rồi,” mẹ trả lời; chị đã từng nghe điều này và rất mệt mỏi khi phải xử lý vụ tranh cãi “Hãy tự xử lý đi”. Cindy quay lại với em gái và hét lên: “Tao ước sao mày đừng có sinh ra trên cõi đời này!” Lúc này Eve cởi phắt chiếc áo ra, ném về phía Cindy và nói: “Áo của chị chẳng vừa tí nào. Lại xấu nữa. Còn chị thì béo ị ra”. Cindy cầm lấy chiếc áo và chạy về phòng. Nhưng bé đầm đìa nước mắt. Eve cũng vậy. Trẻ em ở tuổi này tranh chấp nhau đủ mọi chuyện: giày dép, dầu gội đầu, đồ trang sức, đĩa CD, băng video. Một số bậc cha mẹ, chẳng hạn như bố mẹ Cindy và Eve, có thể không muốn giải quyết. Những người khác hứa sẽ giải quyết rắc rối của con mình. Khi Dana than phiền rằng cô em gái cứ “mượn” đồ trang sức của bé, mẹ cam đoan sẽ xử lý vụ này ngay. Một ông bố cam đoan với con rằng ông sẽ nói chuyện với em trai bé về việc cứ lấy xe đạp của anh trai mà không xin phép. Còn một người khác thì hứa sẽ lấy lại đĩa CD cho cô con gái. Cầu cứu bố mẹ ư? Đáng tiếc, đấy chỉ là giải pháp nhất thời. Bố mẹ không phải lúc nào cũng ở bên cạnh để giải quyết những bất đồng giữa con cái. Sau đây là một số phương pháp lâu dài hơn nhằm giúp con bạn khi chúng tranh cãi với nhau về quyền sở hữu: • Cho trẻ ngồi cạnh nhau. Yêu cầu từng đứa nói cho bạn biết có chuyện gì và làm thế nào để giải quyết rắc rối; • Yêu cầu trẻ nghĩ xem giải pháp các em đưa ra có tốt hay không, và tại sao. Nếu trẻ cho rằng giải pháp đó không tốt, hãy yêu cầu trẻ nghĩ ra giải pháp khác làm vừa lòng cả hai. Sau khi suy ngẫm về cuộc chiến của hai cô con gái để giành nhau chiếc áo len, mẹ Cindy đã gặp Cindy và hỏi xem điều gì khiến cho bé giận dữ như vậy. Cindy nói: “Con ghét em cứ lấy đồ của con. Con không tiếc gì mà không cho em mượn đồ nếu như em hỏi ý kiến con trước. Con không thích cảm giác bị lợi dụng. Con chỉ muốn cân nhắc một lúc. Con sẽ làm điều đó vì em”. Mẹ Cindy bảo bé hãy nghĩ xem có cách nào để cho Eve biết được cảm giác của Cindy khi lấy đồ của chị mà không xin phép hay không. Cindy gõ cửa phòng em gái, và khi Eve mở ra, Cindy nói: “Em chỉ cần hỏi ý kiến chị trước là được”. Sau đó, bé xin lỗi vì đã không kiểm soát được bản thân. Hai cô bé đã trò chuyện rất lâu và cuối cùng cả hai đưa nhau về phòng Cindy. Cindy xếp ra ba chiếc áo len cho Eve mượn bất cứ lúc nào mà không cần phải xin phép. Nhưng nếu muốn mượn thêm bất cứ chiếc nào khác, Eve phải hỏi ý kiến chị. Eve rất hài lòng với giải pháp này. Nhìn gương mặt vui sướng của em gái, Cindy nhận ra rằng bé không hề muốn điều mình vừa nói trở thành hiện thực chút nào. Đó là khi bé ước sao cho Eve chưa từng được sinh ra trên cõi đời này. Tự mỉm cười, bé nghĩ nếu không có em gái thì lấy ai mà trao đổi quần áo cơ chứ! Mẹ Cindy cũng hiểu được một điều, chỉ bảo con “tự xử lý lấy” không thể nào giúp trẻ giải quyết được rắc rối. Nhưng giải phóng con khỏi những xáo động thường ngày của cuộc sống mà không cho con tham gia vào, như mẹ Dana đã làm khi chị “xử lý” vấn đề em gái Dana mượn nữ trang của chị mà không xin phép, cũng không dạy trẻ được điều gì. Làm vậy chỉ khiến trẻ không hề suy nghĩ gì về những vấn đề xảy ra với bản thân. Khi trẻ vị thành niên khăng khăng tuyên bố: “Đến lượt con!” Bố mẹ của Mathew và Holly vừa mua chiếc máy tính mới và đặt trong phòng chung để mọi người dùng. Họ làm vậy không chỉ vì không đủ tiền mua cho mỗi đứa con một chiếc máy riêng mà còn vì họ muốn giám sát các con lên mạng trong bao lâu và trò chuyện với ai. Điều này sẽ không thể nào thực hiện được nếu như trẻ sử dụng máy trong phòng riêng. Nhưng ông bố nói với tôi rằng món quà mới tuyệt vời này hóa ra lại gây nhiều rắc rối hơn mọi người tưởng. Ngay khi vừa từ trường về nhà, lũ trẻ đã đâm bổ vào máy tính: ai chạm đến chiếc máy trước sẽ được dùng nó. Và kẻ thắng cuộc luôn là Mathew, mười hai tuổi, lớn hơn cô em gái ba tuổi. Mỗi khi tuyên bố chủ quyền với chiếc máy, cậu bé ngồi lì suốt buổi chiều, bỏ mặc lời nài nỉ của Holly. Một hôm, khi đang ngồi trên xe buýt từ trường về nhà, Holly nảy ra một ý kiến mới: “Hôm nay đến lượt em sử dụng máy tính! Đúng không?” Mathew trả lời: “Chúng ta sẽ hỏi ý kiến mẹ”. Holly đáp: “Nhưng em nói trước mà!” Không nao núng, Mathew nói: “Mẹ mới có quyền quyết định. Chúng ta phải hỏi mẹ”. Khi về nhà, Holly chạy đến bên chiếc máy tính, ngồi luôn ở đó như khẳng định chủ quyền của mình. Mathew biết rằng không có cách gì để đẩy cô em đi nếu như không làm đau em hoặc áp dụng cách nào đó mà bé sẽ cảm thấy ân hận. Vì vậy, bé thực hiện điều tốt nhất có thể: nhờ mẹ. Bé nói: “Hôm nay Holly giành quyền sử dụng máy tính khi đang trên xe buýt về nhà. Như vậy là không công bằng. Không đúng như bọn con đã thỏa thuận là ai về trước dùng trước”. “Đến lượt con!”, Holly gào lên trong phòng chung. “Khi nào con dùng xong thì anh ấy mới được dùng”. Mẹ cố gắng dàn xếp sao cho cả hai đều được sử dụng như nhau. Chị nói với Holly rằng bé sẽ dùng máy tính đến năm giờ, sau đó đến lượt Mathew. Holly phụng phịu nghe lời. Tuy nhiên, khi chuông đồng hồ điểm năm giờ, bé mới nhận ra rằng mình toàn chơi game trên máy tính, trong khi bài tập về nhà vẫn chưa làm. Bé bối rối xin mẹ thêm thời gian. Tất nhiên là Mathew cho rằng như vậy là không công bằng. Do đó, mẹ đi đến thỏa hiệp mới: Holly sẽ dùng máy tính đến giờ ăn tối, còn sau đó Mathew sẽ dùng hết cả buổi tối. Holly kêu lên: “Như vậy không công bằng. Anh ấy sẽ được dùng nhiều hơn con. Với lại anh ấy chỉ toàn chơi game, còn con thì cần máy để làm bài tập”. Mẹ cao giọng đáp: “Mathew cũng cần máy tính để làm bài tập như con”. Chị đã quá mệt mỏi với vai trò cảnh sát. Holly đồng ý, nhưng vẫn tỏ ra hậm hực. Sau đó thì bố đi làm về. Bố lắng nghe quan điểm của từng đứa rồi nói: “Chúng ta đang có rắc rối ở đây. Các con có thể nghĩ ra cách nào giải quyết vấn đề này không?” Sau khi cả hai đã bình tĩnh lại, Mathew đề nghị: “Có lẽ chúng ta nên luân phiên nhau. Hôm nay anh sẽ dùng trước, ngày mai sẽ đến lượt em”. Holly không thích ý kiến này chút nào. Mặc dù rất muốn tự mình quyết định lấy nhưng bố vẫn hít thở thật sâu rồi nói: “Bố biết hai con có thể nghĩ ra một ý kiến gì đó. Cứ suy nghĩ đi rồi cho bố biết các con quyết định thế nào nhé”. Một vài giờ sau, hai anh em chạy ào vào phòng khách với một ý kiến mới. Người phát ngôn Mathew nói: “Trước hết, mỗi đứa bọn con sẽ chia nhau ra làm bài tập về nhà, sau đó sẽ tung đồng xu để xem ai được chơi trước”. Holly phụ họa: “Và khi hai anh em đều đã làm xong bài tập, chúng con sẽ chơi game cùng nhau”. Bây giờ, Mathew và Holly đều được sử dụng máy tính – riêng rẽ từng người và cả cùng nhau dùng chung. Nếu bạn gặp phải vấn đề này, có thể bạn sẽ giải quyết bằng cách mua cho mỗi đứa một chiếc. Nhưng nếu bạn giúp con học được cách không quá ích kỷ thì chẳng việc gì phải mua quá nhiều so với nhu cầu thực tế. Và hãy suy nghĩ về lợi ích của việc học cách sống khi chỉ có một chiếc máy tính: con bạn có thể chơi cùng nhau thay vì trốn biệt trong phòng riêng, chỉ gặp anh chị em mình vào bữa tối hoặc trên xe buýt. “Bước ngay ra khỏi phòng anh!” Bé Scott chín tuổi đang chơi với bạn thì cô em gái Tina bước vào phòng ngủ chung của hai anh em. Cảm thấy không gian và sự riêng tư của mình bị xâm phạm, bé lên giọng: “Sao cứ lúc nào anh đang chơi với bạn là em lại làm phiền thế nhỉ? Đi ra khỏi đây ngay!” Tina giải thích: “Nhưng đây cũng là phòng em mà”. Scott trả lời: “Đúng vậy, nhưng bọn anh ở đây trước”. Mâu thuẫn cứ thế tiếp diễn. Tina cố vớt vát: “Em chỉ chơi một mình thôi, không làm phiền anh đâu”. Không nao núng, Scott đáp: “Em sẽ làm mọi thứ rối tung lên thôi. Đi chỗ khác đi”. Kiểu nói chuyện thiếu quan tâm đến nhau như thế này nghe có quen không? Nếu đây là con bạn, có thể bạn sẽ nói: “Scott, em con muốn được chơi. Em sẽ không bày mọi thứ bừa ra đâu. Đây là phòng của hai anh em cơ mà”. Nhưng Scott sẽ nghĩ gì? Bé sẽ chẳng quan tâm xem em gái của mình muốn gì, thậm chí còn nghĩ rằng mẹ quan tâm đến quyền lợi của em gái hơn. Sau đây là cách mà bạn nên áp dụng để giúp trẻ giải quyết loại rắc rối này. Hãy hỏi từng đứa sao cho đứa kia cũng nghe thấy: “Con có cảm giác thế nào về rắc rối đang gặp phải?” “Con có thể nghĩ ra cách giải quyết vấn đề sao cho cả hai anh em đều thấy hài lòng không?” Khi được hỏi những câu này, Tina nói: “Nếu em được vào bây giờ thì khi bạn Mina của em đến chơi, anh cũng được vào”. “Được”, Scott trả lời, “nhưng em không được quấy rầy anh đâu đấy”. Con bạn có thỏa thuận được giải pháp cụ thể nào đó hay không không quan trọng, dù là chung nhau hay luân phiên sử dụng phòng. Điều quan trọng là một đứa đã tìm ra được giải pháp mà đứa kia chấp nhận. Đôi khi, ngay cả trong trường hợp mỗi đứa đều có phòng riêng, cảm giác bị xâm phạm vẫn có thể xảy ra. Ví dụ, bé Max mười một tuổi có một căn phòng hoàn toàn riêng, và bộ sưu tập mô hình ô tô quý giá của bé được đặt trân trọng trên bàn. Em trai Evan bảy tuổi lúc nào cũng muốn được vào phòng anh Max để chơi xe. Max quát lên: “Em sẽ làm hỏng chúng mất. Và đừng có mà vào đây nếu không được phép”. Evan ra ngoài, nhưng vài phút sau khi Max đi lấy bim bim thì bé lại quay lại. Lúc trở về phòng, Max thấy em trai đang ngồi trên giường và chơi với món đồ chơi Evan mang từ phòng mình sang. Max quát: “Em làm gì ở đây? Đây là phòng anh! Bước ngay ra khỏi phòng anh!” Quá thất vọng, Evan rời phòng. Mẹ và bố nghe thấy tiếng quát mắng và không muốn nhìn thấy Evan buồn rầu. Họ biết giải thích cho Max về việc bé đã làm Evan bị tổn thương thế nào cũng chẳng thay đổi được cách nói chuyện của Max với em trai trong lúc đang giận dữ. Họ cũng biết rằng bảo Evan hãy sử dụng đồ chơi của mình trong phòng riêng cũng chẳng khiến bé cảm thấy dễ chịu hơn hay giải quyết được vấn đề mấu chốt là Evan thật sự thích chơi trong phòng anh trai. Sau đây là đoạn trò chuyện giữa bố với hai anh em: BỐ: Max, có chuyện gì vậy? MAX: Evan cứ vào phòng con liên tục. Nó bày bừa đồ ra phòng và sẽ làm hỏng xe ô tô của con mất. Con ghét cảnh hễ cứ bước vào phòng là thấy em ở đó. EVAN: Nhưng anh ấy chẳng bao giờ chơi với con. BỐ: Evan, vậy vấn đề nằm ở chỗ anh không bao giờ chơi với con hay là con muốn chơi trong phòng của anh? EVAN: Con muốn anh ấy chơi với con. Con đâu có đụng đến mấy chiếc xe của anh ấy. BỐ: Max, khi Evan bước vào phòng con mà con không ở đó, con cảm thấy thế nào? MAX: Bực lắm ạ. BỐ: Con nghĩ Evan cảm thấy thế nào khi con quát em như vậy? MAX: Buồn ạ. BỐ: Max, vậy là con không bao giờ muốn cho em vào phòng của con, hay là chỉ không muốn em vào đó khi chưa được phép của con thôi? MAX: Con ghét em cứ vào phòng con khi con vắng mặt hoặc khi con đang làm bài tập về nhà. BỐ: Được rồi. Vậy con có thể nói với Evan thế nào để em biết được điều con muốn? MAX: Hãy hỏi ý kiến anh để anh sẽ quyết định xem anh có muốn cho em vào phòng hay không. BỐ: Còn Evan, con có nghĩ ra cách nào khác để làm cho anh Max chơi với con mà không bực mình không? EVAN: Anh Max ơi, tối nay chúng ta chơi cờ nhé? Chỉ một lúc thôi? MAX: Được, nhưng chỉ một lúc thôi đấy. Tối nay anh phải làm rất nhiều bài tập. Trẻ chơi ở đâu, trong phòng của Max hay trên bàn ăn, đều không quan trọng. Điều quan trọng là Evan đã học được cách tôn trọng mong muốn của anh trai đối với không gian và sự riêng tư. Dần dần, Evan nhận ra rằng anh trai cũng chơi với bé và đôi khi còn mời bé vào phòng nữa.