🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cây Nói Dối - Frances Hardinge & Miel G. (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Phiêu Lưu]
Ebooks
Nhóm Zalo
FRANCES HARDINGE Miel G. dịch
CÂY NÓI DỐI
ebook©vctvegroup
dựa theo bản in của
Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn 04-2019
Dành tặng bố
Vì lòng chính trực và trí tuệ thầm lặng của bố, và vì đã xem con như một người lớn từ trước cả khi con kịp trưởng thành.
Chương 1
NHỮNG NGƯỜI LƯU VONG
Con tàu lắc lư chao đảo, nhồi lên nhồi xuống không ngớt, giống như một người đang nghiến cái răng sâu. Faith cho rằng những hòn đảo hiện ra trong màn sương trông cũng giống như những chiếc răng. Không phải những chiếc răng trắng tinh sạch sẽ như vách đá Dover, mà là những chiếc răng mòn vẹt, sứt mẻ, nhô ra lồi lõm giữa cơn thịnh nộ xám xịt của biển cả. Tàu đưa thư xình xịch kiên trì lướt qua những ngọn sóng và nhuộm cả bầu trời phía sau bằng khói.
“Chim ó cá kìa,” Faith chỉ tay và rít lên qua hàm răng đang run cầm cập.
Howard, đứa em trai sáu tuổi của nó xoay người lại, nhưng chậm quá không kịp nhìn thấy con chim lớn có cái bụng màu trắng và đôi cánh màu nâu sẫm biến mất trong màn sương. Faith nhăn mặt khi cậu em cựa người trong lòng mình. Ít ra thì nó cũng đã không còn đòi bảo mẫu nữa.
“Tụi mình đang đi tới chỗ đó hả chị?” Howard hướng mắt về phía những hòn đảo kỳ quái phía trước.
“Đúng đó How.” Mưa vẫn rơi lộp độp trên mái gỗ mong manh trên đầu chúng. Những con gió lạnh lùa từ ngoài boong vào làm Faith rát cả mặt. Bất chấp tiếng ồn ào xung quanh, Faith vẫn có thể nghe được âm thanh yếu ớt từ bên trong cái sọt gỗ mình đang ngồi lên. Cử động sột soạt, lớp vảy phập phồng trượt lên nhau. Faith thấy tội khi nghĩ tới con rắn nước
nhỏ xíu của bố, yếu ớt và lạnh cóng, hoảng sợ nằm co cuộn bên trong trước mỗi lần boong tàu tròng trành.
Phía sau con bé, những tiếng hò hét cố át tiếng bọn mòng biển và tiếng phụt phụt phụt từ cái chân vịt lớn của con tàu. Cơn mưa bắt đầu nặng hơn và mọi người trên tàu đang tranh nhau chỗ có mái che phía đuôi tàu. Tàu này có khoang hành khách nhưng không có khoang hành lý. Bà Myrtle, mẹ của Faith, phải đấu tranh ghê lắm mới giành được một chỗ rộng kha khá đủ cho hành lý cả nhà.
Lén liếc nhanh ra sau lưng, Faith thấy bà Myrtle đang quơ tay chỉ huy hai phu hành lý xếp mấy cái va li và thùng gỗ của nhà Sunderly vào chỗ. Hôm nay trông bà có vẻ xanh xao mệt mỏi, khăn choàng quấn lên tận cằm, nhưng như mọi khi bà vẫn huyên thuyên ra lệnh và át tiếng mọi người, bằng tất cả sự ấm áp, duyên dáng, tự nhiên cùng với niềm tin của một phụ nữ đẹp vào lòng hào hiệp giúp đỡ của người khác.
“Cảm ơn, được rồi, để chỗ đó - tốt, tôi thật sự rất tiếc khi nghe thế nhưng như thế này chưa được - nếu anh không phiền, tôi muốn đặt nó nằm nghiêng - ồ, tôi thấy cái va li này của anh trông rất bền ấy chứ - tôi sợ thời tiết này làm hỏng mất các giấy tờ và dự án của chồng tôi - Mục sư Erasmus Sunderly, nhà tự nhiên học nổi tiếng - thế này thì tốt quá rồi! Mừng quá chuyện này không làm phiền anh.”
Ở đằng kia, cậu Miles mặt tròn đang ngồi chợp mắt trên ghế, tư thế thoải mái, thanh thản như chú cún con đang vùi mình trên thảm. Faith lướt mắt khỏi cậu, hướng đến hình dáng một người đàn ông cao lớn, yên lặng. Bố của Faith trong chiếc áo choàng mục sư màu đen, đầu đội nón rộng vành che khuất vầng trán cao và mũi khoằm.
Bố vẫn luôn là người Faith ngưỡng mộ. Ngay cả lúc này khi ông trầm
ngâm nhìn xa xăm vào chân trời xám, tách mình hoàn toàn với cơn mưa lạnh như trút nước, mùi rác ở đuôi tàu, khói than và tiếng ồn ào, nhốn nháo xung quanh. Hầu hết mấy tuần qua nó thấy ông trên bục giảng kinh nhiều hơn ở nhà, nên cảm giác thật khác biệt khi nhìn quanh và thấy bố đang ngồi ở đây. Hôm nay nó thấy tim mình nhói lên sự cảm thông. Bố nó đang không cảm thấy thoải mái, như một con sư tử phải biểu diễn dưới cơn mưa trút nước.
Theo lệnh của bà Myrtle, Faith đang ngồi trên cái sọt to nhất của cả nhà, để ngăn không cho ai kéo ra nữa. Thường thì nó luôn chìm vào khung cảnh xung quanh, vì chả ai thèm chú ý gì tới một con bé mười bốn tuổi mặt mày khắc khổ với bím tóc màu nâu bùn. Còn giờ thì nó phải rúm ró lại dưới mấy ánh nhìn quắc mắt bực bội, chịu bao nỗi hổ thẹn mà bà Myrtle chưa bao giờ cảm thấy.
Dáng người nhỏ nhắn của bà Myrtle đứng chắn cản không cho ai khác nhét thêm hành lý vào dưới mái che. Một người đàn ông cao to vạm vỡ, mũi gồ ghề, trông như sắp sửa mang rương của mình chen qua bà, nhưng bà chặn đứng ông ta ngay bằng cách quay lại mỉm cười.
Bà Myrtle chớp mắt hai lần, đôi mắt trong xanh to tròn của bà mở lớn, ánh nhìn thành khẩn như thể bà chỉ vừa thấy rõ được con người trước mặt mình đây thôi. Tuy chóp mũi ửng hồng và dáng vẻ mệt mỏi, nhưng nụ cười của bà vẫn toát ra vẻ dễ thương chất phác.
“Cám ơn ông đã thông cảm đến vậy,” bà nói. Giọng bà hơi vỡ ra, rất khẽ.
Đấy là một trong những chiêu bà Myrtle dùng để xử lý cánh mày râu, một thoáng yểu điệu mà bà có khả năng khoác lên dễ dàng tự nhiên như ta đưa tay phẩy quạt. Cứ mỗi lần chiêu này phát huy tác dụng là dạ dày Faith
xoắn lại. Như lúc này đây. Ông kia đỏ mặt, khẽ cúi chào rồi lùi lại, nhưng Faith có thể thấy ông ta vẫn còn ấm ức trong lòng. Thật ra, Faith nghi là cả nhà nó đã gây thù với hầu hết khách trên tàu này rồi.
Howard âm thầm tôn sùng mẹ và khi còn bé Faith cũng đã ngưỡng mộ mẹ nó như thế. Những lần ghé thăm phòng trẻ hiếm hoi của bà Myrtle gần như khiến nó phấn khích không chịu nổi, thậm chí Faith còn yêu thích cả cái công đoạn bị chà lau tắm rửa, mặc quần mặc áo sửa soạn loạn cả lên hòng chuẩn bị cho nó thật tinh tươm mỗi dịp mẹ con gặp nhau. Thời ấy bà Myrtle trông như đến từ một thế giới khác, nồng ấm, vui vẻ, xinh đẹp và không thể chạm tới được, như một nữ thần mặt trời với gu thời trang sắc sảo.
Tuy nhiên, một năm vừa qua bà Myrtle lại quyết định bắt đầu “kiểm soát” Faith, từ việc làm gián đoạn mấy giờ học của Faith mà không báo trước, để lôi nó đi cùng trong những chuyến thăm viếng hay công việc gì đó ở thị trấn, rồi lại một lần nữa bỏ rơi nó ở phòng trẻ hay phòng học. Trong một năm này, cái sự quá thường quá quen ấy đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, đã lột đi lớp sơn nhũ hào nhoáng từng lớp từng lớp một. Faith đã bắt đầu cảm thấy mình giống như một con búp bê rách rưới, bị túm lên hay quẳng xuống tùy theo những cung bậc cảm xúc bất chợt của một đứa trẻ nóng nảy tính khí thất thường.
Giờ thì đám đông đang tản đi. Bà Myrtle ngồi xuống trên ba cái rương xếp lên nhau cạnh sọt của Faith, vẻ tự mãn vô biên.
“Mẹ mong rằng chỗ ông Lambent sắp xếp cho chúng ta có phòng khách tử tế,” bà lên tiếng, “và người hầu cho đàng Hoàng. Còn đầu bếp thì không thể là người Pháp. Mẹ chẳng tài nào lo chuyện nhà cửa được khi mà đầu bếp của mẹ lại có thể muốn hiểu sai lời mẹ bất cứ khi nào họ
thích…”
Giọng bà Myrtle không phải khó nghe gì, nhưng nó cứ tuôn ra hoài, liên tu, bất tận. Cả ngày qua bà nói liên tục, nào là với tay xà ích đưa họ ra ga, mấy chú bảo vệ xếp hành lý của họ lên tàu đi Luân Đôn, rồi ông Poole, ông quản lý cáu kỉnh của nhà trọ lạnh lẽo nơi cả nhà nghỉ qua đêm và thuyền trưởng của chiếc tàu chở thư mù khói này.
“Mà sao chúng ta phải đi đến đó vậy ạ?” Howard bỗng hỏi ngang. Mắt thằng bé lờ đờ vì mệt mỏi. Nó đang ở ngã ba đường. Phía trước hoặc là phải chợp mắt hoặc là cáu nhặng lên.
“Cưng à, con biết mà.” Bà Myrtle ghé người qua cẩn thận vuốt mớ tóc ướt ra khỏi mắt Howard bằng một ngón tay đeo găng. “Trên hòn đảo đó có những cái hang rất quan trọng, người ta đã khám phá hàng chục mẫu hóa thạch kỳ lạ ở đó đấy. Không ai hiểu biết rõ về những mẫu hóa thạch này hơn bố của con đâu, vì thế họ mời bố con đến xem qua ấy mà.”
“Nhưng sao mình lại đi chứ ạ?” Howard vẫn khăng khăng. “Bố có đem chúng ta đến Trung Quốc đâu. Hay Ấn Độ. Hay châu Phi. Hay Môn Cổ nữa.” Nó đã cố hết sức phát âm hai tiếng Mông Cổ.
Quả là một câu hỏi hay, có lẽ cũng là câu hỏi mà nhiều người đang thắc mắc. Hôm qua một đống thiệp mang lời xin lỗi và hủy hẹn vào phút chót đã xuất hiện tại khắp các nhà trong giáo xứ chỗ gia đình Sunderly như những bông tuyết vuông vắn hối lỗi. Đến hôm nay thì thông tin về chuyến ra đi đột ngột của gia đình chắc đang lan như đám cháy rừng.
Nói cho ngay, chính Faith cũng muốn biết đáp án cho câu hỏi của Howard.
“Ồ, chúng ta chẳng bao giờ đến mấy chỗ đó được đâu!” bà Myrtle hờ hững bảo. “Nào rắn rít, bệnh tật, rồi còn cả những người ăn thịt chó nữa
chứ. Nơi này thì khác. Sẽ như một kỳ nghỉ ngắn ngày thôi mà.” “Có phải chúng ta phải ra đi vì cái ông Bọ Hung không hả mẹ?” Howard hỏi, mặt tập trung đến nhíu tít lại.
Ngài mục sư, nãy giờ không có vẻ gì là đang lắng nghe đến cuộc trò chuyện này, bỗng dưng hít thật sâu rồi thở hắt ra thành một tiếng rít khó chịu. Ông đứng dậy.
“Mưa ngớt dần rồi, và cái khoang này cũng chật chội quá,” ông thốt lên, rồi bỏ đi thẳng ra phía boong tàu.
Bà Myrtle cau mày rồi đưa mắt nhìn cậu Miles đang dụi mắt ngái ngủ. “Chắc tôi cũng phải, à, đi tới đi lui một chút đây.” Cậu Miles liếc nhìn chị gái, chân mày khẽ nhướng lên. Cậu vuốt vuốt hàng ria mép nơi khoé miệng, đoạn đi theo ông anh rể rời khỏi khoang hành khách. “Bố đi đâu thế ạ?” Howard hỏi với giọng the thé, rướn căng cần cổ nhìn ra phía boong tàu. “Con đi theo bố được không? Con mang súng theo nhé?”
Bà Myrtle thoáng nhắm mắt lại và mấp máy môi có vẻ như đang thầm cầu cho được kiên nhẫn. Rồi bà mở mắt ra và mỉm cười với Faith. “Ồ Faith ơi, con ngoan quá đi mất.” Cùng một kiểu nụ cười bà luôn dành cho Faith, thương yêu nhưng vương vẻ cam chịu mệt mỏi. “Có thể con không phải là bạn đồng hành sinh động nhất thật… nhưng chí ít con chẳng bao giờ thắc mắc gì.”
Faith cố nặn ra nụ cười nhạt. Con bé biết ông “Bọ Hung” Howard nhắc đến là ai, và đồ rằng câu hỏi của cậu em đã đánh quá gần đến tim đen rồi. Trong tháng qua cả gia đình đã phải sống trong màn sương mù mịt vì những điều không tiện nói ra. Nào là đưa mắt nhìn nhau, thì thào thậm
thụt, kín đáo thay đổi cung cách, tế nhị cất mắt quay đi. Faith để ý thấy hết bao sự thay đổi ấy, nhưng không tài nào đoán ra được lý do. Rồi một ngày kia, hôm Chủ nhật lúc cả nhà đang trên đường đi nhà thờ về, có một người đàn ông đội mũ nỉ màu nâu tiến đến tự giới thiệu, chủ yếu là gật gù và ngả đầu chào, cùng một nụ cười chẳng lên nổi đến hai mắt. Ông ta có viết một bài về loài bọ hung, và không biết liệu mục sư Erasmus Sunderly đáng kính có đồng ý viết lời tựa cho bài viết ấy chăng? Vị mục sư đáng kính không nhận lời, rồi trở nên khó chịu lạnh lùng ra mặt trước thái độ nằng nặc của người khách này. Ông khách lạ kia cứ cố “đeo bám làm quen” đi ngược lại mọi phép tắc, nên rốt cuộc mục sư đã nói thẳng như thế vào mặt ông ta.
Nụ cười của con người yêu thích bọ hung kia chảy xuống không còn vẻ dễ chịu nữa. Faith vẫn còn nhớ vẻ độc địa ngấm ngầm trong câu đáp của hắn.
“Xin lỗi vì tôi những tưởng phép lịch sự của ông sẽ ở ngang tầm với tri thức của ông. Chứ theo lời người ta đang đồn ấy mà, thưa mục sư, tôi còn tưởng rằng ông sẽ mừng quắn lên khi tìm được một người nào cùng làm khoa học vẫn còn muốn bắt tay với ông cơ.”
Nhớ lại những lời này, máu trong người Faith lại đông cứng. Con bé chưa bao giờ mơ đến chuyện sẽ có ngày nhìn thấy bố mình bị sỉ nhục thẳng mặt vậy. Tệ hơn nữa, mục sư đã quay đi mặc kệ con người lạ mặt kia trong sự im lặng tức tối, mà không hề đòi một lời giải thích. Màn sương lạnh lẽo từ bao nỗi hồ nghi trong Faith bắt đầu kết tinh. Ngoài kia có những lời đồn đại, và bố biết chúng nói gì, dù con bé chẳng biết.
Bà Myrtle lầm rồi. Faith đang đầy thắc mắc đây, những thắc mắc co cuộn vào nhau như con rắn nằm trong cái sọt.
Ồ, nhưng mình không thể. Mình không được chịu thua nhỏ kia. Trong tâm trí của Faith, luôn luôn là nhỏ kia. Con bé không bao giờ đặt cho nhỏ kia một cái tên khác, vì sợ làm thế là cho nó thêm sức mạnh khống chế mình. Nhỏ kia là một nỗi cám dỗ, Faith chỉ biết có thế. Nhỏ kia là một thứ gì đó mà Faith luôn muốn từ bỏ, chỉ là nó không bao giờ bỏ được. Nhỏ kia trái ngược hoàn toàn với những gì mà thế giới biết về Faith. Faith là một cô bé ngoan, hiền lành ngoan ngoãn. Cô bé Faith trầm tĩnh, tẻ nhạt, đáng tin cậy.
Chính những cơ hội bất ngờ là thứ mà Faith thấy khó cưỡng lại nhất. Một phong thư để ngỏ với lá thư thấp thoáng bên trong, vừa gọn gàng vừa khiêu khích. Một cánh cửa không khóa. Một cuộc đối thoại vô ý, không nghĩ đến việc sẽ có người nghe lỏm được.
Faith mang một nỗi khát khao trong mình, mà con gái thường không được phép như vậy. Con gái ở bàn ăn là phải ăn nhẹ nói khẽ, tâm trí cũng phải chấp nhận thỏa mãn với một chế độ thanh đạm mà thôi. Vài bài học cũ rích với mấy vị gia sư mệt mỏi, những buổi dạo mát chán ngắt, mấy trò giải trí không phải động não. Nhưng chừng đó không đủ. Bao nhiêu hiểu biết trên đời - bất kể là hiểu biết gì - đều kêu gọi Faith, và việc đánh cắp được những hiểu biết ấy mà không bị ai nhìn thấy mang lại nỗi thống khoái dịu ngọt chết người.
Tuy nhiên, ngay lúc này, lòng hiếu kỳ của nó đang có một mục tiêu mang tính cấp bách. Ngay thời điểm này đây, bố và cậu Miles có lẽ đang nói về tên Bọ Hung, và về lý do cho chuyến di cư đột ngột của cả nhà.
“Mẹ… cho con ra ngoài boong một lát nhé? Cái bao tử của con…” Faith gần như thuyết phục được cả bản thân nó. Đúng là bụng dạ nó đang nôn nao thật, nhưng là vì phấn khích, chứ không phải do những đợt tàu
nhồi.
“Ừ - nhưng có ai hỏi thì đừng trả lời gì hết đấy. Mang theo ô này, cẩn thận coi chừng ngã xuống nước, quay vào trước khi bị cảm đấy nhé.” Trong lúc bước từ từ dọc theo tay vịn, mưa phùn lất phất gõ nhịp trên ô, Faith tự thừa nhận mình lại chịu thua nhỏ kia nữa rồi. Cảm giác phấn khích bơm rượu nồng qua từng mạch máu và gọt giũa mọi giác quan thành sắc ngọt đến ghê người. Con bé từ từ đi ra khỏi tầm nhìn của bà Myrtle và Howard, rồi nhẩn nha nhẩn nhơ, ý thức tất tần tật mọi cái liếc mắt về phía mình. Dần dà những tia nhìn ấy rồi cũng chán và lại buông tha cho nó. Đến lúc rồi đây. Không có ai nhìn ngó gì cả. Faith thoăn thoắt khép nép băng qua boong tàu và lẩn mình vào đống thùng sọt ngổn ngang quanh chân ống khói ngả màu đang rùng rùng của con tàu. Không khí mang vị mặn của muối và tội lỗi, Faith cảm thấy sinh động hẳn lên. Nó di chuyển từ chỗ nấp này sang chỗ nấp khác, túm chân váy gọn vào để váy không xòe ra trong gió mà tiết lộ vị trí của nó. Hai bàn chân to bè vuông vức, vô cùng vụng về khi người ta ráng nhét chúng vào mấy đôi giày diêm dúa, giờ lại đứng im re trên ván tàu bằng sự khéo léo được tôi luyện.
Faith tìm được chỗ nấp giữa hai thùng gỗ mà từ đó nó có thể nhìn thấy bố và cậu cách chưa đầy ba mét. Được quan sát bố mà không bị phát hiện giống như một sự phạm thượng đặc biệt.
“Phải bỏ xứ ra đi!” mục sư thốt lên. “Thật hèn hạ quá, cậu Miles ạ. Lẽ ra tôi không nên để cậu thuyết phục tôi rời khỏi Kent mới phải. Mà sự ra đi của chúng ta có ích lợi gì đâu? Tin đồn giống như lũ chó dại. Chạy trốn chúng là chúng đuổi theo ngay.”
“Tin đồn đúng là lũ chó thật đấy, Erasmus.” Cậu Miles nheo mắt qua
mục kỉnh. “Và chúng đi săn theo bầy, thấy là vồ ngay. Anh cần phải xa rời xã hội một thời gian. Bây giờ anh đi rồi, chúng sẽ tìm thứ khác mà đuổi.” “Bằng cách lẩn trốn trong bóng tối, Miles à, tôi đã mớm mồi cho lũ chó đấy. Sự ra đi của tôi sẽ được sử dụng làm bằng chứng chống lại tôi.” “Có lẽ là vậy thật, Erasmus ạ,” cậu Miles đáp với vẻ nghiêm nghị bất thường, “nhưng anh thích bị đánh giá bởi những người chăn cừu trên một hòn đảo xa xôi, hay là giữa những con người tầm cỡ ở Anh quốc? Vụ khai quật ở đảo Vane là lý do tốt nhất tôi có thể đưa ra cho chuyến đi của anh, và tôi vẫn mừng là anh đã đồng ý với đề nghị của tôi.
“Sáng hôm qua bài báo đăng trên tờ Người đưa tin đã được đọc trên bàn ăn sáng khắp cả nước. Nếu anh ở lại, anh đã buộc mọi người trong giới của mình đưa ra quyết định nên ủng hộ hay phản bác anh rồi, mà theo cái cách tin đồn đang được phát tán ra ấy thì chắc anh sẽ không thích những quyết định của họ đâu.
“Erasmus này, một trong những tờ báo phổ biến và danh tiếng nhất nước đã lên án anh là kẻ dối trá và phường lừa đảo rồi đấy. Trừ phi anh muốn chị Myrtle và mấy đứa con anh phải hứng chịu bao lời gièm pha lẫn mấy phiên tòa của vụ bê bối này, anh không thể quay về Kent được. Cho đến khi anh được minh oan, chẳng có gì tốt đẹp đang chờ đợi anh ở đó đâu.”
Chương 2
ĐẢO VANE
Kẻ dối trá và phường lừa đảo.
Những từ này ong ong trong đầu Faith khi con bé tiếp tục dạo bước dưới mưa, mắt lơ đãng nhìn về những cụm đảo tàu đang lướt qua. Làm sao lại có người nghi bố nó là phường lừa đảo được chứ? Tính trung thực thẳng thừng đến gay gắt của ông là nỗi đau lẫn niềm tự hào của gia đình. Ta biết được chỗ đứng của mình trong lòng ông, ngay cả khi chỗ ấy là giữa vùng hoang lạnh. Mà không biết ý cậu Miles về “phường lừa đảo” là gì nhỉ?
Khi Faith quay lại chỗ khoang hành khách có mái che, bố và cậu Miles đã trở lại chỗ ngồi. Faith ngồi xuống cái sọt gỗ có con rắn bên trong, không dám nhìn vào mắt ai.
Cậu Miles nheo nheo mắt đọc cuốn niên giám lấm tấm nước mưa qua mục kỉnh, thong thả thư thái cứ như cả nhà đúng là đang đi nghỉ, đoạn, cậu đưa mắt nhìn ra đại dương bao la xung quanh.
“Kia kìa!” Cậu đưa tay chỉ. “Kia là đảo Vane đấy.”
Thoạt đầu hòn đảo hiện ra nhìn không lớn lắm, nhưng chẳng bao lâu sau Faith nhận ra là hòn đảo đang tiến lại mũi trước, như một con thuyền có mũi vát thon nhọn. Chỉ đến khi con phà đi vòng qua và bắt đầu chạy dọc theo mạn sườn phía dài hơn của hòn đảo thì Faith mới thấy đảo này lớn hơn tất cả những hòn đảo còn lại đến dường nào. Những đợt sóng đen
ngòm sừng sững va tung tóe vào mấy vách đá nâu sẫm, làm bắn lên những vòng cung bọt nước trắng xóa.
Không ai sống ở đây cả, ý nghĩ đầu tiên của Faith là vậy. Không ai lại chịu chọn sống nơi này. Đây chắc phải là chỗ những người ngoài lề xã hội trú ngụ. Đám tội phạm, chẳng hạn những kẻ bị kết án tù ở Úc. Hay những người đang bỏ trốn, như nhà mình đây.
Nhà mình là một đám lưu vong. Có lẽ rồi phải sống ở đây suốt đời mất. Con tàu băng qua những mũi đất lỗ chỗ và các vịnh thụt sâu vào trong nơi ẩn hiện mấy tòa nhà lẻ loi dọc theo dải đất ven bờ. Rồi tàu chạy chậm dần, vất vả đảo nước quay đi để lủi vào một vịnh rút sâu vào trong nơi có bến đỗ với một bức tường cao bao quanh, phía sau đấy là những dãy nhà với cửa sổ như hai mắt đen ngòm, những mái lợp đá phiến loáng lên trong nước mưa. Vài tá thuyền đánh cá đang neo đậu tròng trành nghiêng ngả, những cuộn thừng chằng chéo mờ ảo ma quái trong màn sương. Đám mòng biển ồn ào điếc cả tai, hùa nhau quang quác cùng một tông. Trên tàu chộn rộn, mọi người cùng thở phào nhẹ nhõm rồi chuẩn bị hành lý. Tàu vừa neo vào bến thì trời lại đổ mưa như trút. Lẫn trong tiếng quát tháo, tiếng quăng dây, tiếng di chuyển trên ván cầu xuống tàu, cậu Miles nhét ít tiền vào vài bàn tay, thế là hành lý nhà Sunderly được chuyển lên bờ.
“Đây có phải là mục sư Erasmus Sunderly và gia đình không ạ?” người đàn ông dáng gầy mặc chiếc áo choàng màu đen ướt sũng đứng trên bến tàu lên tiếng, nước mưa chảy tràn qua vành nón rộng. Ông này mày râu nhẵn nhụi, gương mặt dễ chịu, pha chút lo lắng, lúc này hơi tái xanh vì lạnh. “Ông Anthony Lambent gửi lời thăm gia đình.” Ông ta lịch sự cúi đầu chào và chìa ra lá thư ướt gần hết. Khi đó, Faith nhìn thấy phần cổ
cồn trắng ôm khít cổ ông ta và nhận ra ông này cũng là mục sư giống bố mình.
Bố của Faith đọc thư, đoạn gật đầu như tán thành rồi chìa tay bắt. “Anh… Tiberius Clay?”
“Phải, thưa ông.” Ông Clay kính cẩn bắt tay bố Faith. “Tôi là thầy phụ tá ở đảo Vane.” Faith hiểu thầy phụ tá kiểu như là người dưới quyền của cha sở, được mướn vào làm việc hỗ trợ cha sở hoặc mục sư nào có quá nhiều công việc hay quá đông giáo dân. “Ông Lambent nhờ tôi thay mặt gửi lời xin lỗi. Ông ấy rất muốn đích thân ra đón, nhưng cơn mưa bất chợt này…” Ông Clay cau mày ngước nhìn lên trời mây xám xịt như chì. “Mấy hố mới khoan có nguy cơ bị ngập nước, nên ông ấy phải đảm bảo cho tất cả được che chắn cẩn thận. Ấy thưa ông - cho phép tôi nhờ vài người phụ khiêng hành lý của ông nhé? Ông Lambent có cho xe tới chở hành lý của ông và gia đình về Bull Cove.”
Mục sư không mỉm cười, chỉ lẩm bẩm chấp thuận, nhưng không phải là khó chịu. Thái độ kính cẩn của viên thầy phụ tá rõ ràng là đã được lòng ông rồi.
Cả nhà đang khiến người ta chú ý, Faith biết chắc là vậy. Phải chăng vụ bê bối bí ẩn kia đã lan ra tới đảo Vane rồi? Không đâu, chắc chỉ do họ là người lạ, mang xuống đất liền cả đống hành lý thôi. Những lời xì xào thậm thụt loáng thoáng qua tai Faith, nhưng nó không nghe ra rõ. Nghe cứ như một mớ âm thanh hỗn loạn không liên quan gì với nhau.
Chật và chật vật, hành lý nhà Sunderly chất hết lên thành một đống méo mó cao ngất ngưởng trên nóc cái cỗ xe to đùng cũ kỹ rồi được chằng dây yên vị. Chỉ còn vừa đủ chỗ cho thầy phụ tá chen vào ngồi chung với gia đình mục sư. Cỗ xe lăn bánh, nảy tưng tưng trên con đường sỏi làm
răng Faith cứ đánh lập cập.
“Ông có phải nhà tự nhiên học không, ông Clay?” bà Myrtle hỏi, quyết chí lờ đi tiếng lộc cộc của bánh xe ngựa.
“Với sự hiện diện của quý ông đây, thì tôi chỉ dám gọi mình là tay mơ thôi ạ.” Clay đáp và khẽ cúi cái đầu ướt sũng nước mưa trước mục sư. “Tuy nhiên, những người thầy của tôi ở Cambridge cũng đã nhét được ít kiến thức địa chất và lịch sử tự nhiên vào đầu tôi.”
Faith không ngạc nhiên khi nghe chuyện này. Nhiều người bạn mục sư của bố cũng sa chân vào thế giới khoa học tự nhiên theo cách đó. Con trai của những người danh giá được trù bị trước để phụng sự cho Giáo hội thường được gửi đến những trường đại học danh tiếng, tại đó chúng được lãnh hội một nền giáo dục chỉn chu đúng kiểu quý ông - những tác phẩm kinh điển, tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh và chút xíu khoa học. Đôi khi một chút xíu đó thôi cũng đủ khiến cho chúng say mê.
“Đóng góp chính của tôi trong mỗi cuộc khai quật là làm người chụp ảnh - đây là việc tôi theo đuổi.” Giọng ông thầy phụ tá hào hứng khi nói đến sở thích của mình. “Than ôi, người phác thảo của ông Lambent không may bị trật cổ tay trong ngày đầu tiên, nên tôi cùng con trai đã giúp ghi nhận lại tất cả những khám phá bằng máy ảnh của tôi.”
Xe ngựa chạy ra khỏi “thị trấn”, mà trong mắt Faith thì giống như một ngôi làng hơn, rồi lần ngược lên trên con đường mòn ngoằn ngoèo lởm chởm. Mỗi lần xe xốc lên, bà Myrtle sợ hãi bám vào khung cửa sổ, làm mọi người cảm thấy căng thẳng theo.
“Dinh thự ngoài mũi đất kia là tòa tháp điện báo,” ông Clay chỉ. Faith chỉ nhìn lờ mờ ra một ống hình trụ màu nâu to to bẩn bẩn. Không lâu sau đó họ đi ngang qua một nhà thờ có ngọn tháp hình chóp nằm phía bên tay
trái. “Nhà mục sư nằm ngay phía sau nhà thờ này. Tôi rất mong ông sẽ cho tôi vinh dự ghé vào dùng trà trong lúc mọi người lưu trú ở Vane.” Xe ngựa chừng như phải chật vật đi ngược lên đồi, vừa đi vừa kẽo cà kẽo kẹt ầm ĩ làm Faith cứ tưởng có bánh xe nào đó sắp rơi ra. Cuối cùng xe rùng lên rồi dừng lại và hai tiếng vỗ đanh gọn lên nóc xe vang lên. “Phiền mọi người ạ.” Ông Clay mở cửa leo ra ngoài. Sau đó là cuộc đối thoại sôi nổi trên kia, bằng một thứ tiếng lẫn lộn Anh Pháp mà đôi tai chưa được huấn luyện của Faith không thể tách bạch ra được.
Gương mặt ông Clay lại xuất hiện ở cửa xe, vừa căng thẳng vừa lo lắng.
“Tôi thật sự xin lỗi. Có vẻ như chúng ta gặp phải tình thế tiến thoái lưỡng nan. Nhà ông thuê là ở Bull Cove, từ đây chúng ta chỉ có thể đi đến đó bằng con đường trũng dọc theo bờ biển, hoặc theo lối mòn băng qua ngọn đồi xuống phía bên kia. Tôi vừa mới nhận được tin là đường trũng bị ngập mất rồi. Có con đê chắn sóng, nhưng khi triều cường và sóng dữ thì…” Ông ta nhíu trán và đưa mắt đầy hối lỗi liếc lên bầu trời đang sa sầm.
“Tôi đồ rằng con đường cao là cuộc hành trình dài hơn và mệt mỏi hơn phỏng?” bà Myrtle hỏi gắt, một mắt nhìn sang Howard ủ rũ. Ông Clay cau mày. “Quả là… đường đó rất dốc thưa bà. Nói cho ngay thì, anh xà ích thông báo với tôi rằng con ngựa không chịu nổi cỗ xe này cùng với, ừm, tình trạng khối lượng hiện thời ạ.”
“Ông đang bảo là chúng tôi phải xuống xe đi bộ à?” bà Myrtle đanh người, chiếc cằm nhỏ xinh của bà nghếch lên.
“Mẹ ơi,” Faith khẽ gọi, thấy tình hình có vẻ bế tắc rồi, “con có ô đây, con không ngại đi bộ một tí đâu…”
“Không được!” bà Myrtle nạt, chỉ vừa đủ lớn tiếng để khiến Faith đỏ mặt. “Mẹ chuẩn bị là bà chủ mới trong nhà, mẹ không muốn xuất hiện lần đầu ướt mèm như con chuột lột. Và cả con cũng không được như thế!”
Faith cảm thấy làn sóng khó chịu lẫn giận dữ đang cuộn dâng trong lòng. Con bé những muốn gào lên, Vậy thì sao chứ? Báo chí đang xâu xé chúng ta ngay lúc này kia kìa - mẹ nghĩ người ta sẽ coi thường mình hơn nếu mình bị ướt sao?
Thầy phụ tá trông hơi bực. “Nếu vậy tôi e là xe ngựa phải đi hai chuyến thôi. Gần đây có căn chòi cũ - là đài quan sát để phát hiện mấy bãi nước có cá mòi. Hay là thùng bộng của nhà ta nên để lại đó đợi xe ngựa quay lại chuyến sau ạ? Tôi sẵn lòng ngồi lại trông chúng. ”
Mặt bà Myrtle sáng lên với vẻ cảm kích, nhưng lời đáp của bà bị chồng cắt ngang.
“Không thể chấp nhận được,” bố Faith tuyên bố. ” Xin lỗi anh, nhưng một số thùng này chứa những quần thể động-thực vật không thể thay thế được mà tôi phải đặt vào trong nhà ngay khi có thể, bằng không chúng sẽ tiêu hết. ”
“Được rồi, tôi sẵn lòng chờ trong chòi để tha cho ngựa tải trọng của tôi,” cậu Miles lên tiếng.
Ông Clay và cậu Miles leo xuống xe, rương bộng hành lý cá nhân của cả nhà được khuân xuống từng chiếc từng chiếc một, chỉ để lại những cái sọt chứa mẫu và mấy cái thùng trên nóc. Đã vậy rồi mà tay xà ích vẫn trừng mắt nhìn cách cỗ xe oằn xuống, mặt mày nhăn nhó rồi khoa tay chỉ trỏ rằng cỗ xe vẫn còn sà xuống quá thấp.
Bố Faith không rục rịch gì cho thấy là sẽ bước xuống xe cùng hai người đàn ông kia.
“Erasmus…” cậu Miles lên tiếng.
“Tôi phải ở lại bên mấy mẫu vật của tôi,” mục sư ngắt lời cậu Miles ngay lập tức.
“Hay ta để lại chỉ một sọt thôi ạ?” ông Clay ướm lời. “Có một thùng mang nhãn ‘mẫu cắt linh tinh’ có vẻ nặng hơn tất cả các thùng còn lại…” “Không, anh Clay ạ. ” Câu trả lời của mục sư vừa đanh gọn vừa lạnh lùng. “Cái thùng đó đặc biệt quan trọng. ”
Bố của Faith liếc nhìn các thành viên trong gia đình, mắt ông bình thản và xa cách. Tia nhìn của ông sượt qua bà Myrtle và Howard, rồi dừng lại ở Faith. Con bé đỏ mặt, biết là mình đang bị đánh giá về trọng lượng lẫn tầm quan trọng. Dạ dày nó thót xuống, như thể nó vừa được đặt lên một cái cân to tướng.
Faith thấy buồn nôn. Con bé không thể chịu được cảm giác xấu hổ khi phải nghe bố nó nói ra quyết định.
Nó không nhìn qua bố mẹ khi loạng choạng đứng lên. Lần này bà Myrtle không nói gì để ngăn cản con nữa. Cũng giống như Faith, bà đã nghe thấy quyết định câm lặng của mục sư, nên ngoan ngoãn tuân theo mệnh lệnh vô hình ấy.
“Cô Sunderly?” ông Clay thật ngạc nhiên khi nhìn thấy Faith leo xuống khỏi cỗ xe, ủng giẫm lên vũng bùn đang chờ sẵn.
“Cháu có ô ạ,” Faith nói thật nhanh, “với lại cháu đang muốn ít không khí trong lành nữa. ” Lời nói dối nho nhỏ giữ được cho nó chút thể diện. Tay xà ích xem lại độ cân bằng của cỗ xe và lần này ông ta gật đầu. Khi cỗ xe lộc cộc lăn bánh đi, Faith tránh ánh nhìn của những người bên cạnh, hai má nóng ran lên vì xấu hổ dù gió lạnh căm căm. Lâu nay con bé luôn
biết mình bị đánh giá thấp hơn Howard, thằng con cưng. Tuy nhiên, hiện giờ nó thấy mình bị xếp hạng đâu đó còn thấp hơn cả “những mẫu cắt linh tinh” nữa.
Cái chòi canh dựng trên sườn đồi nhìn thẳng ra biển, bề mặt lởm chỏm vì được chất lại bằng thứ đá địa phương đen đúa bóng loáng, mái lợp đá phiến xiên xiên và những ô cửa sổ không kính nho nhỏ. Sàn chòi bên trong vương vãi mấy vũng nước màu đất. Trên đầu mưa nhẹ hạt dần.
Cậu Miles và ông Clay kéo từng thùng từng bộng một vào bên trong, trong lúc Faith rũ rũ cái mũ vành nhỏ nước, cảm thấy tê tái và vô dụng. Chỉ đến khi nghe chiếc rương khóa kiên cố của bố chạm đất đánh thịch ngay chân nó thì tim Faith mới thót lên. Chìa khóa vẫn còn cắm trong ổ.
Rương này chứa toàn bộ giấy tờ cá nhân của bố. Những bản nhật trình, bài vở nghiên cứu và thư tín của ông. Có lẽ nó cũng chứa đầu mối về vụ bê bối bí ẩn đã đẩy cả nhà nó đến đây nữa.
Faith hắng giọng.
“Cậu - ông Clay - cái… khăn tay và quần áo của con bị ướt hết rồi. Cho con một lúc để…” Nó nhỏ giọng dần và chỉ tay vào cổ áo ướt sũng. “À - tất nhiên rồi!” ông Clay trông hơi lúng túng, vẻ thường gặp ở một quý ông khi có vấn đề bí hiểm gì đó liên quan đến quần áo phụ nữ chực xảy ra.
“Trông có vẻ mưa lại ngớt rồi đây,” cậu Miles nhận định. “Anh Clay này, chúng ta đi bộ một tí về phía vách đá nhé, để anh kể cho tôi nghe thêm về cuộc khai quật ấy mà?” Hai người đàn ông bước ra ngoài, và một lúc sau giọng nói của họ nhỏ dần.
Faith quỳ thụp xuống bên chiếc rương có khóa. Lần da bọc ngoài
rương trơn ánh dưới những ngón tay của Faith, con bé cân nhắc có nên cởi đôi găng tay trẻ con ướt mèm bó sát này ra không, nhưng nó biết làm thế sẽ rất mất thời gian. Chốt khóa rất cứng, nhưng cũng đầu hàng khi nó vội giằng mạnh. Chìa khóa xoay. Nắp mở ra, con bé thấy những xấp giấy màu kem nhằng nhịt nhiều nét chữ viết tay khác nhau. Faith không thấy lạnh gì nữa. Mặt nó nóng lên và hai tay râm ran.
Nó bắt đầu mở những lá thư, gỡ thư ra khỏi phong bì và giữ thư hai bên rìa để không làm chúng bị lem hay nhàu đi. Trao đổi về nghiên cứu khoa học. Thư của nhà xuất bản về những bài báo của ông. Thư mời của bảo tàng.
Quả là một nhiệm vụ lâu lắc chậm rì làm Faith quên béng đi thời gian. Cuối cùng nó cũng mở đến một lá thư mà lời lẽ trong đó khiến nó để ý. “… khiến đặt nghi vấn về độ trung thực không chỉ ở một mà tất cả các mẫu hóa thạch ông mang ra chia sẻ với cộng đồng khoa học và cũng là nền tảng cho danh tiếng của ông. Họ tuyên bố rằng những mẫu này nói nhân nhượng nhất thì là chúng được cố tình sửa đổi, còn nói thẳng ra thì là giả hoàn toàn. Mẫu hóa thạch New Falton, theo họ, là hai mẫu hóa thạch được nối lại công phu, có báo cáo tìm thấy dấu keo dán trên mấy khớp cánh…” Có tiếng gõ ngoài cửa, Faith nhảy dựng lên.
“Faith!” tiếng của cậu nó gọi. “Xe ngựa quay lại rồi kìa con!” “Chờ con chút ạ!” nó đáp vọng ra, vội vàng gấp lá thư lại. Khi làm thế, nó thấy một vệt dính màu xanh to đùng trên bao tay trắng
ướt mèm của mình. Faith hoảng kinh khi nhận ra rằng mình đã dây bẩn vào lá thư, để lại dấu hoen bằng ngón tay cái.
Chương 3
BULL COVE
Xe ngựa chạy lộc cộc trên con đường cao, Faith nắm chặt hai bàn tay lại để giấu vết mực lem trên găng. Nó căm ghét bản thân đến muốn ốm. Nếu bố nó đọc qua những lá thư, ông sẽ thấy ngay bằng chứng tội lỗi của nó. Còn ai ở một mình bên cái rương kia chứ? Ông sẽ suy được ngay ra rằng nó phải là kẻ chịu trách nhiệm.
Nó sẽ bị bắt. Nó đáng bị bắt lắm. Nó bị làm sao ấy nhỉ?
Ấy vậy mà nãy giờ đầu nó cứ gặm nhấm lời lẽ trong lá thư, sục sôi phẫn nộ thay cho bố mình. Làm sao lại có kẻ tin rằng những phát hiện của ông là giả được, nói gì đến mẫu hóa thạch New Falton nổi tiếng?
Ai cũng đã đồng ý đó là thật. Tất cả mọi người. Rất rất nhiều chuyên gia khả kính khác đã săm soi, đã chọc ngoáy, đã hớn hở, đã viết bài về cái mẫu này. Một bài báo đã đặt tên cho nó là “New Falton Nephilim”, dù bố Faith chẳng khi nào gọi nó bằng tên đó, và tuyên bố nó là “mẫu khám phá thập kỷ”. Làm thế nào tất cả bọn họ đều sai được?
Bố chắc phải có nhiều kẻ thù. Chắc là kẻ nào đó đang cố hủy hoại bố. Hoàng hôn xuống dần khi họ leo lên đỉnh đồi, rồi đổ dốc zigzag theo con đường gập ghềnh ngoằn ngoèo. Cuối cùng thì xe ngựa cũng đi chậm lại, Faith nhìn thấy quầng sáng vàng vọt qua lối cửa để mở. Đây là một ngôi nhà nông trang cũ kỹ, mái lợp đá phiến, nhà xây bằng đá nâu lởm chởm trông giống như đường thắng vỡ từng miếng. Bên này
khoảnh sân lát sỏi là mấy cái chuồng ngựa và nhà kho. Phía sau đấy là một nhà kính có mái vòm, mấy mảng kính trắng đục trong cảnh tranh tối tranh sáng. Xa xa sau kia là thảm cỏ, rồi đến rìa một rặng cây xù xì tối đen, và đường nét mờ mờ chắc hẳn là một tòa nhà khác.
Xe ngựa bắn nước tung tóe qua những vũng lầy trước khi dừng lại hẳn. Ông Clay nhảy xuống nắm tay giúp Faith leo ra khỏi xe trong lúc cậu Miles thưởng thêm tiền cho tay xà ích.
“Xin chào!” Thầy phụ tá vội vàng nghiêng đầu chào Faith và cậu Miles. “Tôi không để hai cậu cháu đứng ngoài mưa được!”
Một người hầu nam chạy ra và bắt đầu chuyển hành lý xuống xe. Nép dưới tán ô, cậu Miles và Faith chạy về phía cánh cửa đang mở. Một phụ nữ trung niên, gầy gò, né sang một bên nhường lối cho hai người vào nhà.
“Ông Miles Cattistock và cô Sunderly ạ? Tôi là Jane Vellet - quản gia ở đây.” Người phụ nữ có giọng nói trầm đục như đàn ông, cùng đôi mắt nhỏ lanh lợi, sắc sảo. Váy bà ta kẻ sọc màu xanh lá cây đậm, cài nút cao tận cổ.
Hành lang tối hơn mong đợi, ánh sáng duy nhất là từ hai lồng đèn treo cao ở ngưỡng cửa. Trần nhà có mấy cây xà làm bằng gỗ đen. Faith nghe thoang thoảng mùi dầu hỏa trong không khí và một số mùi khác nữa quyện vào nhau cho nó thấy ngôi nhà này đã cũ lắm rồi, đã định hình bản sắc cho riêng mình rồi, và không phải là nhà của nó.
Chẳng bao lâu sau, Faith đã ngồi trước lò sưởi đỏ hồng kế bên cậu Miles và bà Myrtle, với chén xúp nóng trong tay. Nếu bà Myrtle có cảm thấy hối hận khi đã bỏ con gái ở lại bên đường, thì bà cũng che giấu cảm xúc rất giỏi. Mặt bà ửng hồng và đầy quyết đoán, chắc là bà đã do thám nơi ở mới của gia đình và thấy nơi đây chẳng như mong đợi.
“Ở đây không hề có gas,” mẹ báo cho Faith biết, bằng giọng nói thầm
cho có. “Họ nói trong thị trấn thì có chứ ở đây chúng ta chỉ sống nhờ vào đèn dầu và nến thôi. Không có đầu bếp, chỉ có một quản gia, một cô giúp việc và một người hầu nam. Tất cả bọn họ đều làm việc cho người chủ thuê nhà trước đây - hai bà lão già yếu bệnh tật - nên được giữ lại. Hình như là bà quản gia và cô giúp việc ‘lo’ vụ nấu ăn ở đây. Nhưng làm sao họ có thể lo cho cả gia đình có năm người chứ? Và không có bảo mẫu cho Howard - này Faith, con phải trông nom em đấy, cho đến khi chúng ta tìm được người.”
“Bố đâu rồi ạ?” Faith tranh thủ hỏi mẹ khi bà dừng lại lấy hơi. “Bố đi ra ngoài tìm chỗ trồng mấy mẫu thực vật ngay khi vừa tới nơi,” bà Myrtle trả lời một cách mệt mỏi. “Hình như là nhà kính không đáp ứng được yêu cầu. Vì thế bố ra ngoài chỗ nhà kiểng một lúc lâu rồi, lo cho mấy cái cây của ông ấy.”
“Nhà kiểng ư?”
“Hình như nó là một cái tháp canh cũ.” Bà Myrtle hắng giọng khi quản gia đi ngang qua phòng. “Chị Vellet này, nhà kiểng là cái gì vậy?” “Nó được xây để làm tháp quan sát, thưa bà,” bà Vellet nhanh nhảu đáp, “để canh chừng hải đội của Napoléon ấy mà. Ở Vane này người ta không xây thành lũy như kiểu ở Aldemey đâu. Ông chủ của nhà này thời đó quyết định tự xây dựng hệ thống phòng thủ riêng, giống như một người Anh đúng nghĩa vậy.”
“Rồi nó có tác dụng gì không?” bà Myrtle hỏi tiếp.
“Ông ấy hết tiền trước khi xây xong cái tháp, thưa bà, rồi sau đó thì chiến tranh kết thúc,” bà Vellet đáp. “Chỗ đó được dùng làm kho chứa táo một thòi gian… nhưng nó bị dột.”
“Chỗ kỳ quặc để trồng một cái cây,” bà Myrtle trầm ngâm. Bà thở dài.
“Trong bất cứ trường hợp nào, không ai được phép làm gián đoạn ông ấy hay đi đến bất cứ chỗ nào gần nhà kiểng đấy nhé. Có vẻ như cây này lạ và mong manh kinh lắm, lơ mơ gà mờ mà nhìn qua một cái thôi là sẽ khiến lá cây rụng hết, hay cũng gần như thế.”
Faith tự hỏi không biết có phải bố đã thu mình lại trong cái tháp bỏ hoang vì đấy là nơi duy nhất ông có thể ở một mình chăng. Tim con bé nhói đau. Nó biết một số loài thú hiên ngang sẽ tách ra khỏi bầy khi chúng bị thương.
Ngay cả cuộc trò chuyện hăng say của bà Myrtle cũng ngớt dần. Chuyến hành trình dài làm người ta kiệt sức, như một cây cọ vẽ kéo từ đầu này sang đầu kia của tấm toan rộng. Khi thấy đầu Faith đang gà gật, con bé được lệnh đi ngủ.
“Con có cái phòng nhỏ nhất nhà,” bà Myrtle bảo con gái, “nhưng mà chịu thôi không có cách nào khác cả. Con không buồn chứ?” Bà Vellet lấy đi một cây nến và đề nghị đưa Faith về phòng. Khi họ đi qua hành lang, Faith liếc nhìn qua một cánh cửa và thấy phòng khách nhỏ đã bị bầy động vật của bố choán hết chỗ. Mấy con thằn lằn nhìn chằm chằm qua tấm kiếng. Con gấu túi già khụt khịt vặn vẹo mình trong lúc ngủ, mà thật sự thì mấy ngày này nó chỉ hoạt động có thế. Faith cau mày khi nhận ra mình không thấy con rắn đâu cả.
Có mấy chồng rương bộng của cả nhà xếp dựa vào một bên tường dọc hành lang. Không thể tin vào mắt mình, con bé thấy sọt có con rắn nằm ngay dưới đáy một chồng hành lý. Cái sọt bị bỏ quên ngoài hành lang lạnh ngắt này như thể nó chỉ là một cái hộp đựng nón.
Faith chạy tới ngồi xổm xuống bên cạnh, áp tai vào cái sọt. Chẳng nghe ra động tĩnh gì từ bên trong.
“Bà Vellet ơi - bà mang giúp cháu cái thùng này vào phòng của cháu nhé?”
Phòng của Faith ở đây rất nhỏ, không bằng phân nửa phòng của nó ở nhà. Ngọn lửa bập bùng trong lò sưởi phản chiếu ánh sáng lên bàn rửa tay với bồn đá cẩm thạch bị sứt mẻ, một tủ quần áo cũ và chiếc giường có bốn cột chống giăng màn có lẽ được làm từ thời quân chủ xa xưa nào lâu lắm. Trong bóng tối bên kia tủ quần áo con bé lờ mờ thấy một cái cửa khác có những cái then lớn phía trên.
“Cô có muốn tôi mang cho cô một ít sữa nóng trước khi cô ngủ không?” bà quản gia hỏi.
“Bà có con chuột chết nào không?” Mấy từ này vừa buột ra khỏi miệng Faith thì con bé nhận ra đây có lẽ không phải là lời đáp thích hợp nhất. “Bố cháu có một con rắn nước nhỏ!” nó vội vàng giải thích thêm và quan sát thấy bà Vellet nhướng chân mày lên thêm một chút. “Thịt ạ… vài mẩu thịt sống là được rồi ạ,” nó lắp bắp, đồ là ấn tượng đầu tiên về mình đang không được tốt cho lắm. “Với mấy miếng giẻ nữa ạ. Và… sữa nóng là hay nhất rồi, cám ơn bà.”
Chỉ khi còn một mình ở phòng con bé mới mở cái sọt và nhấc cái chuồng bên trong lên. Con rắn nhỏ buồn bã nằm xếp hình số tám ở dưới đáy, đen ánh trừ những vằn màu đồng và trắng. Những họa tiết này luôn làm cho Faith nghĩ tới ánh đèn cầy chiếu qua gỗ đen mun. Thời còn ở nhà mục sư, nó đã bỏ rất nhiều thời gian loanh quanh bên đống động vật hoang dã của bố, thậm chí nó còn thay bố chăm sóc chúng khi ông đi vắng, nhưng trong số đó nó thích nhất là con rắn. Bố mang con rắn từ Trung Quốc về cách đây tám năm.
Khi Faith với tay vào vuốt vuốt lưng con rắn, con bé thấy nhẹ người
khi con rắn khẽ động đậy. Ít nhất là nó vẫn còn sống. Nó đặt cái chuồng lên tủ quần áo, tránh xa luồng khí lạnh khô từ cửa sổ lùa vào, nhưng cũng không quá gần lò sưởi. Đây là loài rắn ôn đới, nóng quá nó sẽ chết mà lạnh quá cũng thế.
Bà Vellet quay trở lại và đưa cho Faith một mớ giẻ khô, chén thịt bò thừa, rồi lại bỏ đi. Faith nhét mớ giẻ vào trong chuồng giống như làm tổ, đổ đầy chén nước của con rắn bằng nước trong bình cạnh giường. Con rắn phớt lờ miếng thịt, nhưng lại đắm mình vào chén nước.
Chỉ khi Faith chắc chắn là con rắn không sắp trườn qua cửa tử thì nó mới sực nhớ đến vết mực trên chiếc găng tay. Nó thử lấy nước lạnh trong bình nước cạnh giường tẩy đi, nhưng vô ích. Cuối cùng nó giấu găng tay dưới nệm.
Quần áo của Faith là một lũ ngang ngược. Con bé không thể băng qua một con đường bụi bặm, không thể dầm mưa, không thể ngồi đu đưa trên ghế mây hay dựa vào bức tường vôi trắng mà không làm cho thứ gì đó bị hỏng, hay vấy bẩn, hay xù lông, hay nhàu mất lớp hồ cứng của mình. Quần áo của nó cứ luôn suýt soát trở thành nguồn cơn tội lỗi. Eliza đã mất hàng giờ chải hết bùn ra khỏi gấu váy của con đấy…
Tệ hại hơn, đám quần áo ấy là bầy phản phúc. Nếu Faith mà trốn ra ngoài, hay núp trong tủ chén, hay tì người vào cánh cửa đầy bụi bẩn để nghe lén, thì quần áo nó phơi bày ra hết. Ngay cả khi người nhà nó không để ý, thì đám người hầu cũng sẽ biết thôi.
Faith mệt đừ nhưng lại thấy khó ngủ. Mấy sợi lông ngựa đâm lên khỏi tấm phủ nệm và tấm trải giường. Tấm rèm giường không khép kín được nên để lùa luồng gió ẩm lạnh. Một ngày đằng đẵng đã in dấu vào trí óc của nó, khi nhắm mắt nó chỉ thấy những mảng trời xám xịt, biển sóng dập dồn.
Gió lùa làm cửa chớp và cánh cửa cài then rung lạch cạch, và đôi lúc phía sau tiếng gió rít rền ấy Faith nghe được một tiếng gầm văng vẳng, như âm thanh thoát ra từ họng thú. Nó biết rằng đó chỉ là gió lừa thính giác thôi, nhưng trí tưởng tượng của nó vẽ ra hình ảnh một con quái thú đen đúa khổng lồ nhô đầu ra khỏi mũi đất, rống vang giữa cơn bão.
Faith không biết bố có còn tự đày đọa ngoài nhà kiểng kia không. Đôi lúc nó thấy như giữa hai bố con nó có một sự liên kết, giống như rễ cây đước kín đáo giấu mình nối với những mầm con. Trong khoảnh khắc nó cố hình dung ra sợi dây liên kết này, rồi tự nhủ chắc có lẽ, bằng cách nào đó, bố sẽ cảm nhận được suy nghĩ của nó nếu Faith tập trung hết mức vào những suy nghĩ đó.
Con tin bố, Faith nói với bố trong tâm trí mình. Cho dù người ta có nói gì, con vẫn tin bố.
Faith giật mình thức dậy vì những tiếng bước chân vội vã nện xuống sàn gỗ. Nó mở mắt và khi nhìn lên tấm màn giăng lạ lẫm bên trên, ký ức trong nó ùa về.
Con bé vén mở rèm giường, tưởng sẽ thấy có ai đó đang chạy quanh phòng mình. Tiếng bước chân ban nãy nghe rất gần, cách đầu nó chỉ vài mét. Tất nhiên, chẳng có ai cả, nhưng khi lắng tai nó lại nghe thấy nữa, lần này thì hiểu ra cái tiếng kẽo kẹt đều đều kia. Là tiếng người đang chạy lên chạy xuống cầu thang.
Thang bộ dành cho người hầu! Phòng của nó chắc phải gần người hầu lắm đây, gần đến nỗi nó có thể nghe ra tiếng họ bên kia tường. Faith đứng dậy và đi do thám trong phòng, ép sát tai vào tường, thấy bùng lên cảm giác hân hoan khi phát hiện chỗ có thể nghe rõ nhất. Nó thậm chí có thể
nghe ra được tiếng trò chuyện thì thào xa xa.
Hầu hết người ta sẽ rất tức giận khi phát hiện ra điều này. Mục đích chính của cầu thang dành cho người hầu là để họ đi lại mà gia chủ không phải biết đến. Cầu thang đó có ích gì khi nó buộc bạn phải chú ý đến, rồi còn đánh thức bạn dậy lúc tờ mờ? Tuy nhiên với Faith, điều này không khó chịu chút nào; đây là cơ hội để lắng nghe thế giới vô hình của những người hầu.
Nhưng mà, dĩ nhiên, Faith sẽ không dành cơ hội này cho nhỏ đó đâu. Mấy cái then trên cánh cửa bí ẩn bên kia tủ quần áo hoen gỉ hết cả, nhưng dần dà Faith cũng vần chúng ra được. Cánh cửa bị kẹt, rồi bật mở sau cú giật mạnh, Faith chớp chớp mắt nhìn ra ánh nắng chói lòa. Này là một sân thượng nhỏ, những tấm đá phiến nhàn nhạt lốm đốm sương mai. Rào quanh sân thượng là lớp hàng rào bằng sắt uốn, trĩu đầy dây leo, che chắn nó khỏi mắt những người bên dưới. Mấy tượng em bé bằng đá trắng, lốm đốm vì nấm mốc và thời gian, chìa ra những giỏ hoa rủ đầy dạ yến thảo tím ngát. Phía đầu kia sân Faith có thể thấy cánh cổng phủ kín dây nho, rồi sau đấy là mấy bậc thang bằng đá, có lẽ là lối đi dẫn xuống đất.
Faith cảm nhận nụ cười lan dần trên mặt. Nếu trước nay nó thích lẻn ra ngoài, thì giờ nó đã có được cách riêng để ra vào nhà mà không bị ai trông thấy.
Con bé thay quần áo, rồi tiếp tục khám phá. Vừa đi xuống cầu thang chính nó vừa đếm từng bậc một, cố gắng nhớ bậc nào kêu cọt kẹt và bậc nào kín tiếng đáng tin. Faith còn thầm lưu ý then cài nào cần được kín đáo tra thêm dầu.
Không! Faith đang đầu hàng nhỏ đó kìa.
Nó sắp nhận bí tích Thêm Sức rồi, Faith tự nhắc mình, rồi thấy nỗi sợ hãi quen thuộc cuộn lên khi nghĩ đến đấy. Nó sẽ là người trưởng thành trong mắt Chúa và Giáo hội. Những tội lỗi của nó sẽ là do tại nó mà thôi. Tất nhiên lâu nay nó vẫn luôn cảm nhận được sự phán xét nơi cao kia đong đưa trên đầu mình, như một quả lắc to đùng nguy hiểm, nhưng cái tuổi chưa thành niên đã cho nó một thứ khiên chắn mong manh - một lý do bao biện. Còn bây giờ thì nó đã sắp cao được đến mức quả lắc kia có thể táng cho nó lăn quay chỉ bằng một lượt vung không biết khi nào. Mọi thói hư tật xấu của nó phải chấm dứt thôi.
Ấy nhưng mà, một giọng nói bỉ ổi thì thầm trong đầu Faith, ngôi nhà ở Bull Cove này cho thấy nhiều tiềm năng lắm đấy.
Bước vào phòng ăn ốp gỗ, tù mù, Faith thấy mẹ mình đang phàn nàn người giúp việc, một cô gái khoảng mười lăm tuổi khá xinh xắn, cứng đầu, tóc đen, khóe miệng luôn chực sẵn nụ cười khẩy.
“Không được, Jeanne, như vậy không được chút nào!” Bà Myrtle chỉ vào cái thớt trên tay cô hầu gái chứa hai ổ bánh mì dài ngồ ngộ, loại trước nay Faith chưa từng thấy bao giờ. “Khi tôi yêu cầu bánh mì và bơ thì tôi muốn mấy lát bánh được cắt từ một ổ bánh mì thật cơ, dày ơi là dày vào.” Bà Myrtle chìa ra ngón cái và ngón trỏ, cách nhau cỡ ba phân. “Làm theo đi, nhé.”
Cô hầu gái thoắt bĩu môi, vẻ không ưa, mặt như bất cần, rồi mang thớt bỏ đi.
“Nhà này gì đâu không!” bà Myrtle thốt lên. “Tối qua tôi không thể chợp mắt lấy một giây. Chắc chắn là phòng ốc không được cho thông thoáng rồi. Với lại cái âm thanh ầm ào gào rống đáng sợ suốt cả đêm là
quái gì thế nhỉ?”
“Hình như là con Bò Đen Vĩ Đại đấy chị ạ,” cậu Miles mắt ánh lên đáp lời bà chị. “Khi bão táp hoành hành thì con quái vật ấy lồng lên khỏi lòng đất mà gầm rú vào thiên đàng ấy mà. Hay nói cho đúng, thì đấy chỉ là hiện tượng hoàn toàn tự nhiên khi gió thổi qua mấy cái hốc biển thôi.”
“Hừ, tôi thấy tay chủ nhà này thật tệ khi cho chúng ta thuê chỗ này mà lại không đề cập đến thứ súc vật ma quỷ gào rú kia,” bà Myrtle gay gắt đáp lại.
“À, nhưng mà theo tinh thần dị đoan của dân địa phương ấy mà, thì trên đảo này không một phân đất nào là không có bóng ma đâu nhé,” cậu Miles cười cười nói thêm vào. “Hôm qua, Clay kể cho em nghe vài chuyện - phụ nữ hiện về kêu khóc này, những chuyến tàu ma này, và vân vân. Ô, với lại hình như đảo Vane là ổ của bọn buôn lậu trong thời chiến tranh với Pháp ấy. Người ta nói rằng có tên đã chôn một đống của cải trước khi chết, rồi năm mươi năm nay hồn ma của hắn cứ ra sức đưa đường dẫn lối dụ người ta đến đó.”
“Hồn ma này chắc không giỏi làm động tác cho người ta đoán chữ rồi,” Faith lẩm bẩm khi ngồi xuống bàn.
“Thôi, nói đến chuyện gần với dương gian hơn này, hình như sáng nay có hai tấm thiệp được đưa đến cho chúng ta.” Bà Myrtle liếc nhìn chồng. “Một là từ bác sĩ Jacklers đấy mình ạ - ông ấy bảo hy vọng được mạn phép ghé sang nhà ta lúc hai giờ chiều nay, để dẫn mình đi đến chỗ khai quật. Thiệp kia là từ ông Lambent thông báo rằng hội địa chất địa phương sẽ có cuộc họp lúc bốn giờ chiều nay ở nhà ông ấy, họ sẽ rất vui nếu mình có thể đến dự như khách mời danh dự. À, và cả nhà ta được mời đến dự buổi trà chiều. Ông ấy tình nguyện phái xe ngựa đến đón.”
Mục sư thoáng nhìn qua vợ với vẻ mặt u buồn, khẽ nghiêng đầu cho thấy ông có nghe, rồi tiếp tục bữa sáng trong lặng lẽ.
“Có lẽ tất cả chúng ta nên đến chỗ khai quật với bác sĩ Jacklers,” cậu Miles đề nghị với giọng tràn trề hy vọng. “Làm một buổi dã ngoại gia đình nào.”
“Được không ạ?” Faith nhìn bố mẹ với vẻ nài xin đầy hứng khởi. Trong thư viện của bố ở nhà mục sư, con bé đã bỏ hàng giờ ngồi nghiên cứu những quyển sách chuyên về các loài thú khổng lồ thời tiền sử, chăm chú vào những mẫu phác họa xương của những loài vật tuyệt chủng từ lâu. Nó hào hứng lắm khi nghĩ sẽ được tận mắt nhìn thấy khu khai quật thực tế.
Bà Myrtle nhìn chồng, ông lơ đãng nhìn quanh bàn ăn rồi hắng giọng. “Sao lại không nhỉ,” ông bảo.
Jeanne quay trở lại, nhẹ nhàng đặt thớt bánh mì xuống với vẻ ngây thơ cố ý, rồi lại đi ra. Ổ bánh mì dài bị chặt nát ra thành nhiều lát cỡ một phân, chẳng còn gì ra hồn. Mấy lát bánh tơi tả nằm trên đống mẩu vụn, vón cục lại với nhau bằng mấy bệt bơ.
“Jeanne!” bà Myrtle gọi với theo cô hầu gái vừa bỏ đi và hóa điếc đúng lúc. “Jeanne! Ôi quá đáng lắm rồi! Tôi sẽ phải làm cho ra lẽ với bà Vellet thôi - thề đấy!”
Từ trên kia vọng xuống tiếng thịch thịch nghèn nghẹt, âm thanh của bước chân nhỏ chạy loanh quanh, rồi sau đó là tiếng mấy cánh cửa đóng sập lại tìm tòi. Bà Myrtle cau mày, liếc về phía chồng, ông chồng nhăn mặt nhìn lên trần nhà với vẻ lạnh lùng không vui. Đáng lý ra vào giờ này Howard không được để ai nhìn thấy, và dứt khoát là không được để ai nghe thấy.
“Faith này,” bà Myrtle nhẹ giọng, “con ngoan mang bữa sáng lên ăn cùng em hôm nay nhé, rồi giúp em học bài luôn thể?” Bà thậm chí không buồn nhìn sang Faith để xem lời đáp thế nào.
Faith tiếc nuối đưa mắt chào tạm biệt đĩa cơm chiên, thịt muối, bánh mì nướng cùng mứt cam, rồi đứng lên khỏi ghế.
Bà Myrtle từng giảng giải cho Faith nghe cách phù hợp để ra lệnh cho người giúp việc. Ta chuyển thành câu hỏi cho lịch sự. Mang trà vào giùm nhé? Vui lòng nói với bà bếp được chứ? Nhưng thay vì lên giọng ở cuối câu, ta lại hạ giọng xuống, để cho thấy đấy không hẳn là câu hỏi, nên người hầu không được phép từ chối.
Faith nhận ra đấy là cách mà mẹ nó nói chuyện với nó.
Howard được sắp xếp ở chỗ có hai phòng liền nhau, một “phòng trẻ ban đêm” để ngủ và “phòng trẻ ban ngày” để chơi trò chơi, học bài và dùng bữa.
“Em ghét chỗ này,” thằng bé vừa nói vừa hớp một miếng nước ngâm bánh mì nướng. “Phòng này có chuột trong chỗ tối. Không có Cordle em ngủ không được.” “Cordle” là cách Howard phát âm đớt tên cô “Caudle”, cô bảo mẫu của thằng bé thường hay ngủ trong phòng nó lúc còn ở Kent. Faith thầm thích cái tên “Cordle” hơn và nghĩ là tên này nghe giống như một loài thú thần thoại nào đó.
Cả Faith cũng không ưa mấy cái phòng trẻ này lắm, nhưng vì những lý do khác. Trong một năm qua nó thấy mình như cái bập bênh, bị đưa qua đưa lại một cách vụng về giữa tuổi thơ và tuổi trưởng thành. Rõ rệt nhất là vào giờ dùng bữa. Có lúc nó sẽ thấy mình qua một đêm là lớn thành người lớn với vận tốc của cây đậu thần và được vinh dự ngồi ăn cùng bố mẹ
trong phòng ăn. Nhưng rồi, không một lời cảnh báo, nó lại thấy mình trở lại phòng trẻ cùng Howard, ngồi ăn cháo nhuyễn trong khi cái ghế bé teo rên xiết dưới sức nặng cơ thể nó.
Thức ăn cho trẻ con thì “đơn giản” và “bổ dưỡng”, thế thường có nghĩa là vô vị và được luộc đến nát bấy. Mấy phòng trẻ ban ngày đều có mùi như thế, mùi khoai tây, mùi nước gạo ép và thịt cừu non ninh nhừ. Thứ mùi khiến Faith thấy như mình đang khoác vào phiên bản chính mình thời trước mà giờ đã quá nhỏ so với tầm của nó. Khiến nó ngứa ngáy cả người.
“Tay kia!” Faith với tay sang, nhẹ nhàng lấy muỗng ăn cháo của Howard trong tay trái của thằng bé mà chuyển sang tay phải. Đây là cuộc chiến quen thuộc.
Phần khó khăn là sau bữa sáng, khi nó phải vật lộn nhét cho được thằng em vào cái áo khoác xanh. Howard căm thù cái áo khoác mà nó phải mặc trong khi học bài ấy. Ống tay áo bên trái bị may dính vào thân, giữ kẹt tay trái của thằng bé trong túi để nó không dùng đến được.
Việc Howard lì lợm muốn dùng tay trái, theo ý bà Myrtle, chỉ là “ý thích nhất thời” thôi - chẳng có gì đáng lo, miễn nó không được khuyến khích. Tuy nhiên cô bảo mẫu trước cô Cordle lại quá chiều thằng bé, khiến Howard nảy sinh vài “tật xấu”.
“Em biết mẹ sẽ bảo sao mà! Em phải học cách ăn và viết cho đúng trước khi em đến trường chứ!” Kế hoạch là đưa Howard vào trường nội trú khi nó lên tám.
Howard chun mũi, nó luôn làm thế mỗi khi nghe nhắc đến trường lớp. Faith nuốt xuống cục nghẹn vì chua chát và ganh tị.
“Em may mắn lắm đấy How à. Có những người sẽ rất biết ơn nếu được cơ hội đi học trường tốt đấy.” Faith không nói mình là một trong
những người đó. “Nghe này! Nếu em chịu mặc áo khoác vào và làm xong bài tập viết, thì sau đó tụi mình có thể ra khám phá ngoài vườn. Em có thể mang theo súng nhé!”
Đề nghị của con bé được coi là chấp nhận được.
Ở ngoài vườn, Howard chạy quanh “nhắm bắn” vào cửa sổ phía trên của ngôi nhà, chĩa khẩu súng gỗ be bé của nó mà la làng lên “Đoàng!”. Thằng nhỏ bắn mấy con quạ đen đang bình thản lót nhót nhảy đi khi nó hấp tấp tiến đến rồi xoải cánh lười biếng từ tốn bay vượt xa nó. Nó bắn vào mọi thứ trên con đường sình lầy lồi lõm dẫn ra biển.
Nếu trò của thằng bé bị nhìn thấy, chắc Faith sẽ bị rầy vì để cho em “chơi đến lả”. Luôn luôn tồn tại nỗi lo sợ rằng Howard, đứa con trai duy nhất sống sót, bị nhiễm phải cơn lạnh chết người nào đó. Faith đã phải chứng kiến năm đứa em trai để vuột sự sống ra khỏi tầm tay mà cuộn co người lại như những bông cúc úp cánh. Vài đứa mới chỉ là trẻ sơ sinh, mấy đứa khác kéo dài qua được vài kỳ sinh nhật. Hai đứa đầu tiên đều tên là Howard, rồi bố mẹ nó thử một đứa tên James và đến hai đứa tên Edward, vẫn cùng một kết quả đáng buồn. Điều này làm cho thằng bé Howard còn sống đây có vẻ sao mà quá mong manh, như thể thằng nhỏ đang nắm tay mấy đứa anh trai trên qua một tấm màn u ám.
Tuy nhiên, Faith hiểu em trai mình hơn hẳn bố mẹ. Nó hiểu thằng bé cần được chạy nhảy hoặc chơi đùa điên cuồng hết cỡ cho đến khi mệt lả, cũng như thằng nhỏ cần khẩu súng đồ chơi của nó vậy. Nó “bắn” hết những thứ làm nó sợ. Lúc này đây nó đang cố biến cái thế giới mới mẻ lạ lẫm này thành nơi có cảm giác an toàn.
Tia nhìn của Faith bị tòa tháp thấp bè nằm ven rìa vùng bụi cây thu hút.
Dưới ánh sáng ban ngày, con bé thấy nhà kiểng chỉ là một ngôi nhà một tầng lùn xịt, cửa sổ nứt nẻ chen đầy dây leo và vôi vữa, tường đá màu nâu bã trà.
Nơi này khêu gợi tính tò mò trong Faith, nhưng con bé đang có những mối lo cấp bách hơn. Đôi găng tay tội lỗi đang được cuộn tròn trong túi nó đây. Nó cần phải tẩu tán đôi găng này trước khi bị mấy người hầu phát hiện.
Lối mòn rẽ ra làm hai nhánh khi dẫn ra biển. Nhánh bên trái leo ngược đến đỉnh vách đá. Faith và Howard men theo nhánh bên phải, vòng vèo len lỏi xuống bãi biển đầy sỏi. Ra đến đây thì Howard chạy lăng quăng khắp nơi, bắn lung tung vào mấy người bắt sò đang thận trọng dò bước, nhô lên hai bên là những vách đá màu bùn nâu và bóng phản chiếu của thằng nhỏ trên cát ướt.
Có một căn nhà neo thuyền nhỏ trên bờ biển, bên trong là chiếc thuyền chèo, sau đó là đống đá cuội lổn nhổn. Khi Howard chạy đến dưới mái che, Faith lẩn vào trong nhà neo thuyền mà nhét đôi găng tay vào một khe hở hẹp tối đen giữa hai tảng đá. Ngay tập tức nó thấy nhẹ người hẳn. Không hiểu sao cảm giác tội lỗi lúc nào cũng nhức nhối hơn khi tồn tại một mối nguy bị phát giác.
Faith quay ra bờ biển. Nó quyết định mình cũng thấy thích chỗ này, vì màu sắc u ám cùng trời mây xám xịt đằng đẵng. Trong tâm trí nó những cuốn sách về lịch sử tự nhiên của bố lật mở ra, và nó tìm được từ ngữ cho những gì mình trông thấy. Những con nhạn biển cánh nhọn, bay vun vút, chao liệng trong không trung xam xám. Một con chim Alca lông hai màu trắng và đen cùng cái mỏ ngắn ngủn cụp xuống đang rỉa lông trên gờ đá lởm chởm, cỏ samphire, với mấy bông hoa trắng run run chen giữa đá.
Đưa mắt nhìn ra phía mũi đất xa xa, Faith có thể thấy những cuộn sóng tung lên trắng xoá khi chúng va vào vách đá. Đó đây con bé nhìn ra được những kẽ nứt đen ngòm cùng mấy miệng đá nẻ ra hình tam giác dưới chân vách đá.
“How, nhìn kìa!” Faith gọi lớn ngược chiều gió, rồi đưa tay chỉ. “Động biển đó!”
Howard chạy lại nheo nheo mắt nhìn theo hướng tay nó chỉ, rồi nhắm súng vào mấy động kia.
“Trong đó có quái vật không ta?” thằng nhỏ trầm ngâm hỏi. “Chắc có.”
“Mình chèo thuyền ra đó nhìn xem thử được không?”
Faith liếc lại con thuyền mái chèo be bé trong nhà neo thuyền, đoạn đưa mắt nhìn ước lượng vùng biển động. Mấy họng động đen ngòm kia làm nó tò mò quá.
“Chắc để hôm khác vậy,” nó đáp, nửa như tự nhủ, “nhưng bọn mình sẽ phải xin phép bố mẹ.”
Khi Howard đã mệt đừ ra thì Faith dẫn em đi ngược lên sườn dốc về phía căn nhà. Vừa nhìn thấy căn nhà kiểng màu đụn cát một lần nữa, nó ngừng lại.
Đêm trước, bố đã ở trong nhà kiểng này hàng giờ liền, để chăm sóc cho cái cây bí ẩn nào đấy. Lúc đó nó chỉ nghĩ là bố muốn được ở một mình thôi, nhưng giờ nó nhớ lại cái sọt mang nhãn “mẫu cắt linh tinh” đã cướp mất chỗ ngồi của nó trong cỗ xe ngựa ấy. Nghĩ lại thì, cái nhãn ấy mơ hồ đến lạ. Bố nó thì luôn tỉ mỉ chính xác kia mà.
“Howard này, hay mình đi tìm sư tử quanh nhà kiểng đi?”
Faith phải đi vòng căn nhà sang đến phía gần rặng cây thì mới tìm ra được cánh cửa gỗ nặng nề. Từ bên nhà chính không thể nhìn thấy nó, mà nỗi cám dỗ thì quá lớn. Nó nhấc then cửa già nua lên mà mở cửa ra.
Bên trong tối om om. Một thứ mùi lạ thoảng đến mũi nó, cùng chút the the như bạc hà làm mắt nó cay xè.
Faith ngước nhìn lên thì thấy những thanh xà tối tăm, mạng nhện chăng đầy xám xịt. Mái nhà còn nguyên si, nó ngạc nhiên khi nhận ra thế, và ngăn hết ánh mặt trời. Sao bố nó lại nuôi một mẫu cây quý hiếm nào đó ở cái nơi mà mặt trời chiếu không tới vậy nhỉ?
Faith thận trọng bước một bước vào trong nhà kiểng, ủng nó khẽ trượt đi trên nền đá nhờn nhờn tăm tối. Nó nhìn vào vùng âm u của căn phòng nhỏ hình tròn.
Có thứ gì đó cuộn thành đống nơi vách tường đầu kia, hình thù tròn tròn được bọc trong tấm vải bóng dầu, phần đế tròn của một chậu cây thò ra phía dưới lần vải. Hình thù ấy cao gần một tấc, nhỏ vừa đủ chứa trọn trong cái sọt.
Vừa lúc Faith mon men về phía hình thù kỳ lạ kia thì nó nhận ra tiếng la “Đoàng!” sau lưng nó nghe lớn hơn và hào hứng hơn. Trong cơn hoảng loạn tội lỗi nó phóng ngược ra lại vùng ánh sáng, nhanh tay khoá cánh cửa nhà kiểng lại sau lưng mình. Nó nhìn quanh, sợ sẽ nhìn thấy bố nó vừa đi dạo đâu đó xong quay về.
Nhưng không, nó chỉ thấy Howard đang chĩa súng vào bụi rậm. Một người đàn ông lạ mặt đang nặng nhọc giẫm qua đám dương xỉ. Ông này không phải là người hầu; Faith nhìn qua là biết ngay. Quần áo ông ta mòn hết cả, tóc tai không chải, râu ria bờm xờm. Một bên tay lủng lẳng thùng gàu bằng gỗ. Vậy là một kẻ xâm nhập, vẻ xa lạ của ông này làm
trong đầu Faith nổi trống báo động. Nó thấy từng cọng lông trên người dựng lên hết cả, như thể nó là một con thú đánh hơi thấy một loài thú khác.
Những mối lo sợ nó được dạy cho mười bốn năm qua giờ đây bùng lên bấn loạn. Một người đàn ông lạ mặt. Nó là đứa con gái, gần như là một phụ nữ, hơn ai hết nó phải không bao giờ được ở gần một tên đàn ông lạ mặt mà không có người bảo hộ hay làm chứng cho. Như thế là sẽ mở ra một vực thẳm cho hàng ngàn chuyện kinh khủng có thể xảy đến.
“Đoàng!” Howard quát lên. Người đàn ông dừng bước quay lại nhìn hai chị em.
Faith bế xốc Howard lên và hớt hải chạy về nhà. Nó lao qua cửa trước, xém chút là đâm sầm vào mẹ, bà vừa từ phòng khách đi ra. “Trời đất!” bà Myrtle nhướng mày. “Faith - có chuyện gì thế?” Faith đặt Howard xuống, rồi hổn hà hổn hển giải thích. Bà Myrtle vội nhào tới cuống quít bên Howard, thằng nhỏ thấy thế tưởng mình bị đau nên lập tức ré lên khóc.
“Coi chừng em nó đi Faith - mẹ đi nói với bố.”
Chặp sau, bố Faith sầm sập bước vào phòng khách, nơi Faith đang cố dỗ Howard.
“Người đàn ông ấy đâu?” bố nó hỏi.
“Gần căn nhà kiểng ạ,” Faith đáp.
“Hắn đến gần được chừng nào?” bố nó gặng. Faith chưa khi nào thấy bố mình lại kích động đến thế. Nó cảm nhận chút ấm áp nhen lên khi thấy bố quan tâm.
“Chừng mười mét ạ - ông ta đang đi ngang qua, xuống dưới đồi.”
Bà Vellet xuất hiện ngay sau khi ngài mục sư cho gọi. Hai má bà quản gia thoáng ửng hồng không vui vẻ gì, và Faith tự hỏi phải chăng bà Myrtle đã “làm cho ra lẽ” như đã hứa chăng.
“Nghe có vẻ như đấy là Tom Parris,” bà Vellet đáp ngay, khi nghe được phần Faith mô tả về người lạ mặt.
“Thế phiền chị nói cho tôi biết tại sao tay Parris này lại được phép đi vào khu vực nhà chúng tôi vậy?” giọng mục sư lạnh lùng. “Xin lỗi ạ, thưa ông,” bà quản gia liến thoắng đáp, “nhưng khu đất này là lối ngắn nhất dẫn xuống biển. Mà bãi biển này là nơi tốt nhất để bắt sò, vậy nên…” Bà ta xòe hai tay ra, với cái vẻ chẳng-phải-lỗi-do-tôi đang mỗi lúc một thêm quen thuộc. Là vậy đấy, và tôi chẳng làm gì được đâu. “Không ai được phép lảng vảng trong khu đất này nữa,” mục sư thông báo đanh gọn. “Tôi phải quan tâm đến sự an toàn của vợ con tôi và đến những mẫu vật giá trị trong căn nhà kính kia mà tôi không có ý định phó mặc cho lũ đạo chích hay đám vô công rồi nghề tò mò tọc mạch. Trong thời gian thuê nơi này, tôi sẽ xem tất cả những người lấn chân lên đất ở đây là bất hợp pháp hết. Nếu chị biết mấy người thích chúi mũi vào chuyện nhà người khác này, hãy báo cho họ biết là tôi sẽ bỏ tiền đặt bẫy đấy.”
Hắn đến gần được chừng nào? Mới đầu Faith cứ lấy làm biết ơn tưởng đấy là sự quan tâm đến an nguy của nó, hay của Howard. Tuy nhiên khi trấn tĩnh lại rồi, nó bắt đầu băn khoăn liệu bố nó có ý khác chăng. Hắn đến gần nhà kiểng được chừng nào?
Chương 4
HANG ĐỘNG CHẾT CHÓC
Hai giờ chiều, một cỗ xe đến trước nhà. Chừng một phút sau một người đàn ông trung niên trông chắc khỏe với hai má hồng hào, ria đen cùng hàm răng trắng được đưa vào phòng khách. Ông ta tự giới thiệu mình mình là bác sĩ Jacklers rồi bắt tay mục sư bằng một loạt những cú lắc thật chặt, như thể ông ta cố giật lìa cánh tay ra vậy.
“Xin chào mục sư! Thật rất hân hạnh được gặp ông - tôi đã đọc những bài viết của ông trên tờ nhật báo của Hội Hoàng gia!”
Vị bác sĩ bắt tay cậu Miles không chặt lắm, dù cậu đã nói mình cũng dính dáng chút đỉnh đến khoa học tự nhiên, và có lẽ bác sĩ tài hoa đây đã nghe nói đến cuốn tài liệu nghiên cứu về loài giáp xác hoá thạch của cậu. Bà Myrtle ho khan cắt ngang lời cậu Miles.
Khi Faith được giới thiệu, bác sĩ Jacklers dường như khựng lại một chút.
“Faith - à, tôi vẫn nhớ câu chuyện ấy chứ nhỉ! Tôi cứ tưởng…” Ông ta bỏ ngang, chìa tay ra, chỉ vừa ngang tầm xoa đầu một đứa nhỏ tưởng tượng. “Đã lâu thế rồi cơ à? Giờ cô trông gần như là thiếu nữ rồi còn gì!”
Faith nói cảm ơn, hơi có chút ngượng ngập. Nó biết chính xác ông này đề cập đến sự kiện gì, đó cũng là cái ngày nó nhớ mãi với bao hạnh phúc, bâng khuâng cùng ngượng ngùng.
Khi đấy nó lên bảy, lần duy nhất bố tự đề xuất cùng nó đi dạo dọc bãi
biển. Faith quanh quẩn theo chân bố, lòng lâng lâng vui sướng vì bố muốn dành thời gian với mình. Lần đầu tiên trong đời nó thái độ của ông vừa dễ dãi vừa nhân từ. Có đôi lúc ông cúi xuống nhặt sỏi cho vào giỏ, ông thậm chí còn ngừng tay cho nó thấy một trong mấy hòn sỏi đó. Hòn sỏi trắng tinh, có rãnh lõm rãnh lồi thành một hoa văn nào đó.
“Con nghĩ có thể tìm được mấy hòn đá như thế này không?” bố nó hỏi. Hân hoan vui sướng, Faith chạy đi mang về cho bố tất tần tật những hòn đá mà nó hy vọng là sẽ đặc biệt, mặc dù đa số chúng chỉ óng ánh vì nước biển rồi khi vào tay bố thì khô lại và xỉn màu. Đến lúc nọ bố quay ngoắt lại, rời xa vùng nước biển và vẫy Faith đi về phía chân vách đá. “Thử tìm quanh đây xem nào Faith.”
Trong lúc bố nó đứng nhìn chăm chăm ra biển khơi, Faith lại lục lọi quanh mấy tảng đá. Cuối cùng nó cũng nhìn thấy, một miếng đá phẳng mang hình xoắn ốc. Nó mang mảnh đá đến cho bố, thận trọng giữ trong cả hai tay, gần như là run lẩy bẩy với bao hy vọng lẫn nghi ngờ.
“Giỏi lắm Faith.” Bố nó quỳ thụp xuống. “Đây là mẫu hoá thạch đấy - một mẫu rất xinh nhé. Con hãy nhớ lấy giây phút này. Nhớ lấy lần đầu tiên con tìm được mẫu hoá thạch.”
Mãi lâu sau, Faith đọc thấy trên mấy bài báo về lần khám phá đó. Con bé Faith, tung tăng vẩn vơ ngoài bãi biển, mang về cho bố nó viên đá mà nó thấy đẹp, ngay lập tức bố nó nhận ra đấy là một mẫu hoá thạch vô cùng quan trọng. Cánh phóng viên thích câu chuyện này vô cùng, bàn luận về “sự hồn nhiên của con trẻ” và “sự ngây thơ chất phác mở ra cánh cửa dẫn tới những kỳ quan thiên nhiên”.
Bất cứ khi nào mục sư giới thiệu con gái mình với các đồng nghiệp quan tâm đến khoa học tự nhiên, những ai còn nhớ đến câu chuyện kia cứ
tưởng là sẽ gặp một hình ảnh bé con ngây thơ mắt to tròn. Khi phải đối diện với một chủng loại lóng ngóng vụng về chưa hẳn là thiếu nữ, thì họ hiếm khi biết phải phản ứng ra sao. Faith đã lọt ra khỏi bến bờ ấu niên thần thánh đầy an toàn, giờ đây nó đang bơi giữa vùng nước lạ, không hẳn thế này cũng không hẳn thế khác, như một nữ nhân ngư. Trừ khi nó lê mình được lên bờ đá hôn nhân, còn không nó vẫn cứ chơi vơi lắm.
“Thế nào rồi, thưa cô, từ đó đến giờ cô có tìm thấy được thêm mẫu hoá thạch nào không vậy?” bác sĩ Jacklers cất lời, cố làm giọng vui nhộn. Faith lắc đầu. Nỗi đau là ở đấy đấy. Mẫu hoá thạch nó tìm thấy kia cũng là mẫu cuối cùng nó tìm được. Bố nó từ đó chẳng bao giờ mang nó đi săn tìm hoá thạch nữa.
Như thể trong cái ngày tươi sáng mằn mặn vị muối đấy bố đã mở cửa ra cho nó, nhưng rồi lại đóng sập cửa lần nữa. Nó cứ mãi an ủi mình rằng cánh cửa đó sẽ không đóng mãi đâu, rằng vẻ xa cách của ông chỉ là do tính cách. Bố cho nó đọc sách trong thư phòng của ông, sao chép những ghi chú tốc ký rồi viết lại lời ông đọc, mấy việc này nó xem như là dấu hiệu cho thấy bố vẫn muốn nó dự phần vào thế giới riêng tư của ông, rằng cánh cửa kia rồi có lúc sẽ mở rộng ra trở lại.
Mắt nhìn của bác sĩ Jacklers rời khỏi Faith. Nó hiểu mà. Cũng như những hòn sỏi ướt nước kia, hào quang của nó đã bốc hơi mất.
Cơn háo hức của Howard về chuyến dã ngoại cả gia đình chìm nghỉm ngay khi thằng bé biết được là sẽ không có dính dáng gì đến việc đối đầu với sóng dữ.
“Nhưng bọn con tìm thấy chiếc thuyền nhỏ kia ở ngoài bờ biển, và chị Faith bảo là bọn con có thể đi thám hiểm mấy động biển cơ mà!”
“Faith nói đùa đấy con yêu!” bà Myrtle đưa mắt nhìn Faith chán chường ra mặt. “Dòng chảy đang quá mạnh. Này Howard, con không muốn thấy bố làm việc sao?”
Howard lo lắng nhìn sang bố và bấu chặt lấy tay Faith.
Trong lúc cả gia đình Sunderly diễu hành xuống sân ngoài, Faith thấy mình mẩy như nóng ran dưới những ánh mắt chằm chằm dò xét của đám gia nhân. Hai chân đi ủng của con bé cứ lóng ngóng còn cổ áo thì chật khít.
Faith có thể nghe thấy những tiếng cười khúc khích lanh canh khi cửa trước đóng lại. Bằng những bản năng được trui rèn vì tính cách cô độc, con bé đoán rằng đám người hầu đang cười nhạo cái cảnh nó quáng quàng chạy bổ vào nhà hồi nãy. Từ đầu đến giờ bố mẹ nó có vẻ rất chuyên tâm vào chiến dịch làm mọi kẻ ăn người ở trong nhà xa lánh, rồi giờ thì nó lại biến mình thành mồi ngon cho những lời chế giễu cho bõ ghét.
Nước triều đã rút, khiến việc đi theo con đường trũng quanh mũi đất được dễ dàng. Một bên đường là vách đá lởm chởm dựng đứng, phía bên kia là con đê chắn sóng dài, một bức tường rộng cao phải một mét rưỡi. Faith thắc mắc không biết những con sóng lớn phải dữ dội cỡ nào mới đe dọa được đến con đường, nghĩ đến đó nó thấy phấn chấn hơn chút.
“Vậy tính đến nay đã tìm được những gì rồi?” bố Faith hỏi. “Chúng tôi đang đào lên được mấy viên đá lửa nhân tạo, thưa mục sư, với cả những xương - xương hà mã lùn, cùng một cái răng mà tôi cho là răng voi ma mút.” Viên bác sĩ xoa xoa tay. “Tôi thì cứ mãi mong tìm được di tích về con người kia - biết đâu có được cả một hộp sọ. Tôi chuyên về xương sọ ấy mà, mục sư”.
“Nhưng… thú thật là, tôi rất mừng khi có ông đến đây để phân xử cho chúng tôi.” Tay bác sĩ liếc xéo sang bố Faith. “Tôi e là đám người chúng
tôi dự phần vào vụ khai quật này đang gấu ó giẫm chân lẫn nhau rồi. Lambent là một kẻ tay mơ với lại chẳng kiên nhẫn gì cả. Bọn tôi cố hết sức mới ngăn được ông này bạ đâu cho nổ tung đến đó. Nhưng cái hang nằm trong phần đất của ông ta, nên chúng tôi chẳng thể làm gì được nếu không có ông ta ở đấy. Rồi thêm cái ông thầy phụ tá đáng mến của chúng tôi nữa chứ…”
“Ông Clay ấy có vẻ rất dễ thương mà,” bà Myrtle nhận định. Câu này nghe giống như là câu hỏi thì hơn.
“Ồ, dễ thương thật chứ! Tuy nhiên, anh này lại có mấy quan điểm kỳ khôi, lạc hậu, từ cái thời của anh ta ấy.” Viên bác sĩ cười cũng lắm, nhưng nụ cười của ông ta có gì đó nghiên nghiến cay nghiệt. “Nhưng anh này cũng không bị gạt ra được, vì lẽ anh ta là người đã tìm ra cái hang. Hay nói đúng hơn là con chó của anh ta đã tìm ra hang đó. Con vật đáng thương lọt xuống cái giếng ngầm làm gãy mất một chân - bọn tôi trầy trật mãi mới lôi nó lên được. Còn về tôi, tôi đã đọc những bài viết gần đây nhất về việc săn tìm hang động, trong khi mấy người kia thì chưa, nên bọn họ cũng chẳng làm được gì mà không có tôi.” Bác sĩ cười buồn.
Faith chột dạ cục cựa. Bố nó được mời đến với tư cách là chuyên gia, nhưng nghe như mấy người ở đây thực ra chỉ muốn có kẻ dàn xếp cho tranh chấp giữa họ mà thôi.
Con đường quành vào đất liền, hơi dốc lên rồi bằng phẳng trở lại. Cỗ xe dừng bước. Faith cùng cả nhà xuống xe.
Vùng đất quanh đây nhấp nhô hiểm trở. Rải rác đó đây là những mô gò lởm chởm đá, đan xen giữa chúng là mấy lòng suối khô chồng chéo những khe những rãnh, về phía hướng ra biển, phần đất xuôi xuống trông có vẻ như một tổ hợp lung tung những vách đá nho nhỏ cùng những bậc
thềm bằng phẳng, như thể có tên khổng lồ nào đó nổi hứng đẽo ra những bậc thang ăn vào một bên sườn của hòn đảo.
Bác sĩ Jacklers dẫn nhà Sunderly đi dọc theo lối mòn đầy mạt cưa cho đến khi mọi người có thể nhìn xuống được con rãnh gần nhất. Trông xuống đấy thì Faith thấy một cụm mấy túp lều vải bạt. Niềm phấn khích mỗi lúc một dâng cao, con bé nhận ra mọi người đang đứng kề miệng một đường hầm cắt xuyên vào sườn mạn đồi giữa hai tảng đá lớn. Lối vào được gia cố bằng một thanh rầm gỗ, và nó chỉ nhìn ra được trong kia vài thanh chống bằng gỗ tối om om.
Một đường hầm dẫn vào quá khứ đây, con bé thầm nghĩ. Khi tay bác sĩ lớn tiếng gọi chào, năm người đàn ông trong trang phục lao động bám đầy đất cát liền dừng ngay việc đang làm mà lịch sự đứng yên.
Người đàn ông thứ sáu, ăn vận chỉn chu, ngước mắt nhìn lên và lấy tay che mắt, rồi đi ngược theo lối mòn hình zigzag lên gặp họ. “Ông Anthony Lambent,” viên bác sĩ chỉ giới thiệu được đến chừng đó thì ông chủ đất đã lừng lững trước mặt mọi người.
Lambent cao hơn mét tám, thậm chí còn có vẻ cao hơn thế nữa khi ông ta lao đến chỗ mọi người như một cơn gió lốc vàng hoe. Faith đoán ông này chắc khoảng ba mấy tuổi, nhưng sải chân của ông ta vẫn còn cuồn cuộn sức trẻ. Áo choàng xanh lục của ông ta lấm lem bùn đất, chiếc cà vạt màu vàng chóe xộc xệch.
“Chào mục sư!” ông ta quát lên như hô đánh trận, rồi vồ lấy tay mục sư. Bố của Faith khẽ rụt về, và hình như trong tích tắc có cân nhắc đến chuyện dùng gậy chống để tự vệ. Lambent hầu như không để cho bác sĩ kịp giới thiệu hết thì đã hối mọi người đi xuống đồi. “Đến đây nào, để tôi
chỉ đường cho mọi người xem!” Ở ông này có vẻ gì đó vừa bồn chồn vừa không yên, như một con ngựa có khả năng tung cước.
Bà Myrtle cau mày khi thận trọng nhón nhén bước xuống lối mòn, Faith đi theo với cùng sự dè dặt. Với những người không nhìn thấy được bàn chân mình thì lối này rất khó đi. Rốt cuộc rồi ông Lambent cũng thấy mình đã bỏ xa mấy vị khách đến chừng nào, nên đi ngược trở lại.
“Xin thứ lỗi cho tôi!” ông ta bảo. “Tôi là dạng người luôn tay luôn chân suốt - lúc nào cũng cứ phải dịch chuyển mới được.”
“Chẳng phải như thế sẽ gây khó khăn vô cùng cho việc ngủ sao?” bà Myrtle hỏi.
“Ô quả đúng thế - nhiều năm nay rồi chẳng mấy khi một đêm tôi ngủ được quá hai tiếng, dù các bác sĩ đã làm đủ mọi cách. Dám tôi đã phải nhờ đến cồn thuốc phiện rồi đấy chứ. May thay giờ đây tôi đã có được bà vợ yêu quý của tôi, bà nhà có khả năng trấn an kỳ diệu đối với tôi. Mỗi khi Agatha vừa bắt đầu mở miệng nói là tôi ngáp dài ngay.”
Faith đồ là “bà vợ yêu quý” của ông ta sẽ chẳng vui vì lời khen này đâu.
Khi mọi người xuống được đến chân đồi, Lambent nhìn thấy khẩu súng gỗ của Howard.
“Ô kìa!” Ông ta rướn đến, tì mặt gần hơn vào mặt của em trai Faith. “Ta có chàng lính nào ở đây sao? Hay là vận động viên thế? Cậu có phải người thợ săn gan dạ không, thưa cậu?”
Howard chết lặng, trố mắt nhìn lên bản mặt to lớn râu ria của Lambent mà rụt rè gật đầu.
“Quá lợi hại!” Lambent reo lên. “Cậu bắn gì vậy, thưa cậu?”
Howard mở miệng, rồi cứ há ra như thế. Hai mắt thằng bé mở lớn vì hoảng loạn và cũng vì tập trung cao độ. Vài âm thanh lí nhí từ họng thằng nhỏ thoát ra. Một số thanh âm ấy đang cố tạo thành lời.
“Sư… sư… sư…”
Faith nhận ra những dấu hiệu này và biết rằng tính nhút nhát cộng với nỗi sợ hãi đã bóp nghẹt giọng nói của Howard trong họng. Cứ nhiều người trố mắt nhìn nó chừng nào thì tình trạng ấy càng thêm xấu đi. Faith vội tiến tới đặt một tay trấn an lên vai thằng bé.
“Là sư tử đấy,” Faith đáp nhanh. “Howard bắn sư tử đấy mà.” Lambent ngả đầu ra sau cười lớn. “Cậu chàng cừ quá! Chắc là cậu đã sẵn sàng chu du quanh thế giới như cha cậu rồi phỏng?”
Howard chớp chớp mắt lo lắng, nhìn chằm chằm vào đầu tóc bờm xờm vàng hoe của Lambent.
“Crock!” Lambent gọi lớn.
Một thanh niên vai rộng, da ngăm, tiến đến chạm tay lên trán chào. Anh này gần như là cao bằng Lambent, nhưng lại cúi cúi đầu xuống để cho chiều cao của mình không trấn áp quá. Anh ta di chuyển với sự cân nhắc nhẹ nhàng của một người to lớn trong thế giới mong manh.
“Đây là anh đốc công của tôi, Ben Crock. Này Crock, làm ơn trông nom quý bà quý cô đây trong lúc tôi đưa các quý ông đi xem khu vực.” Ông ta mỉm cười nháy mắt hàm ý là “cậu chàng cừ quá” Howard kia cũng được xem là một trong số các “quý ông”.
Vậy đấy. Một ngọn đèn chứa nến nén được mang đến, rồi ông Lambent dẫn đường đi vào đường hầm, theo sau là mục sư, cậu Miles và thậm chí cả Howard, đang bám chặt lấy tay áo của ông cậu. Quý bà quý cô thì bị bỏ
lại phía sau để được trông nom. Faith thấy như có cánh cửa vừa đóng sầm vào mặt mình.
Giữa những túp lều vải bạt tiện dụng, một giàn khung gỗ được dựng lên và phủ quanh bằng loại vải dày, màu đỏ, có tua rua, khiến nó trông như một túp lều Bedouin be bé bốn bề mở toang. Bên trong đó là một chiếc đi văng, một cái bàn nhỏ với vài chiếc ghế, hai chiếc được vội vã phủi bụi đi để Faith và bà Myrtle an tọa. Một lớp bã trà dày cả phân lấp ló trong đáy chiếc tách sứ đặt trên bàn, là dấu vết từ một người khách khác. Rõ ràng đây là nơi khách nữ được tống vào.
Nhưng Faith thì chưa muốn ngồi xuống. Gì thì gì, nó đang có mặt tại một điểm khai quật cơ mà! Một công trình khai quật khoa học hẳn hoi. Con bé nhìn quanh, thứ gì cũng thích mê, thậm chí cả mấy cái vại chất đầy rác.
Noi đầu kia con rãnh, Faith có thể trông thấy Clay, đang gắn máy ảnh lên chân máy, trong khi đó một cậu bé chừng cỡ tuổi Faith đang giữ chặn chân máy. Con bé nhớ lại là ông Clay từng nhắc đến chuyện có một cậu con trai.
Trong túp lều gần nhất Faith nhìn thấy một chiếc bàn dài, chất đầy mấy cái hộp bèn bẹt bằng gỗ.
“Anh Crock này, cho em nhìn qua được không ạ?” Faith chỉ tay vào lều, háo hức quá chẳng biết ngượng là gì nữa.
“Faith, con không được làm phiền cậu Crock chứ!” bà Myrtle đưa mắt nhìn ra hiệu ngồi im, nhưng Faith không thể bị bắt ngồi im được, nhất là vào lúc này.
“Anh nhé!”
“Tôi thấy không sao đâu ạ.” Crock từ tốn mỉm cười với cả hai, rồi vén tấm bạt lều sang bên cho hai người bước vào. Bước gần đến bàn, Faith
thấy mấy chiếc hộp kia được sơn đánh dấu với những dãy con số bí ẩn và chứa những u mấu màu nâu óng cùng những mảnh nhọn của thứ trông như xương.
“Tốt nhất là đừng động vào chúng nhé, thưa cô,” Crock lặng lẽ khuyên. “Sẽ làm găng tay cô bẩn đi hết ấy. Chúng vẫn còn ướt vì…” “Keo,” Faith theo phản xạ nói nốt câu, rồi ngước lên nhìn Crock. “Móng ngựa nung hay thứ gì đó đại loại - để ngăn không cho xương lâu đời vỡ vụn ra khi chúng khô đi.” Con bé đã đọc về “keo” trong mấy cuốn sách của bố, nhưng đây là lần đầu tiên nó ngửi qua, và được trông thấy thứ keo này dính óng như mật đường trên những mảnh xương còn lâu đời hơn cả kim tự tháp.
“Đúng rồi, thưa cô.” Ben Crock chầm chậm chớp mắt. Đôi mắt nâu kiên nhẫn kia không thay đổi ánh nhìn, nhưng Faith cảm nhận được là anh ta đang âm thầm chỉnh lại nhận định trong đầu.
Faith nhìn qua mấy mảnh xương thì thấy có một mảnh được để rời ra khỏi đống còn lại. Con bé không ngăn được tiếng kêu thảng thốt. Mảnh xương kia một đầu vuốt nhọn hoắt. Đầu to hơn thì có một lỗ tròn xoe xuyên thẳng qua.
“Anh Crock này! Kia là cây kim ạ?”
“Đúng đấy thưa cô,” Crock nhanh nhảu đáp. “Được đẽo từ gạc nai bằng dụng cụ bằng đá, mấy ông kia nghĩ thế.”
“Kỷ Băng hà ư?”
“Bác sĩ Jacklers bảo vậy.”
Faith thấy mình đang mỉm cười. Việc được trả lời một cách đơn giản không rườm rà gì cho nó cảm giác nhẹ nhõm đến mức gần như chạm thấy
được.
Con bé nghĩ đến cây kim được đẽo ra từ thời kỳ xa xưa chỉ toàn băng giá ấy, khi mà vó guốc của tuần lộc còn hằn lên tuyết thậm chí ở nước Anh. Đúng là nó muốn được chạm vào thật, Faith nhận ra vậy. Nó muốn vươn tay qua hằng hà vô tận mà nắm lấy vật kia, như kẻ tạo ra nó đã từng nắm. Như thế cảm giác sẽ giống như là chạm vào một vì sao.
Chỉ đến khi cả hai bước ra khỏi lều thì bà Myrtle mới bắt kịp với Faith. “Faith,” bà rít lên, “con có phải vớ vẩn đến thế không chứ?”
Chẳng bao lâu sau, ông Lambent xông ra khỏi đường hầm cùng với những “quý ngài” khác. Howard trông bụi bặm lẫn hoang mang. “…nên mấy đường hầm của chúng tôi chưa đào tới được tận hang đâu,” ông Lambent thông báo, “nhưng không có gì mà một thùng thuốc nổ không thể giải quyết được cả. Để tôi cho các ông thấy cách bọn tôi đã từ bên trên hạ mình vào trong hang như thế nào nhé!”
Trong lúc bà Myrtle nán lại tại “lều Bedouin”, ông Lambent dẫn hết những người còn lại trong gia đình Sunderly đi ngược lên một lối đi zigzag dài hơn. Đến đỉnh đồi, Faith thấy mình đang nhìn xuống vùng đồng bằng trũng hốc rợp cỏ, mọc đầy những khóm cây bụi thâm thấp.
“Cẩn thận bước chân nhé!” ông Lambent hồ hởi khuyên. “Đây là nơi con chó của thầy phụ tá của chúng tôi bị lọt chân bất ngờ, mà có thể còn nhiều chỗ như thế lắm đấy!”
Phía trước kia, nơi hốc trũng rộng nhất, là một cái bệ lớn, bằng gỗ mới đốn. Faith nhận ra ngay giữa bệ là một cái lỗ hình chữ nhật. Bên trên lỗ đó là một giàn khung chắc chắn đỡ lấy một con quay to tướng có sợi xích dày quấn quanh, trông khá giống với cơ chế hạ gàu xuống giếng vậy. Tuy
nhiên, thay vì cái gàu, treo vào đấy là một thứ kiểu như cái chuồng không nắp, đáy hình vuông bằng kim loại cùng bốn bên cao cỡ một mét. “Tôi đã cho dời cái kết cấu cũ này từ một hầm mỏ bỏ hoang bên kia đảo sang đây đấy,” ông Lambent giải thích. “Phần kéo lên được anh chàng kia thực hiện.” Ông ta chỉ sang một con ngựa lực lưỡng có bộ cương gắn với đầu kia sợi xích. “Bọn tôi cần thứ kiểu như thế này - chỗ kia sâu cả đến mười mét ấy chứ.”
Tay bấu chặt tay Faith, Howard kiễng chân để nhìn lên miệng giếng. “A!” ông Lambent reo. “Chàng vận động viên trẻ tuổi của chúng ta đang ướm thử kia kìa! Có muốn đi một chặng không, thưa cậu?” Ông ta liếc sang mục sư. “Ông thấy sao, thưa mục sư? Cậu bé có muốn là một trong những người đầu tiên kể từ Thời Đồ đá được nhìn thấy mấy cái hang ấy không ạ? Chúng tôi có thể cho hạ cậu bé xuống chừng ba bốn mét cùng với một người ở đây và một ngọn đèn dầu, chỉ đủ sâu để cậu ấy có thể nhìn vào trong động thôi.”
Một tia sáng lặng thầm lóe lên trong mắt ngài mục sư. Ông nhìn sang Howard và Faith biết ý tưởng kia đang tượng hình. Con trai của ông, được nhìn thấy hang thời tiền sử khi cái hang vẫn còn chứa đựng trong mình bao bí ẩn. Sẽ giống như một dạng lễ rửa tội vậy. Mục sư gật đầu cho phép khẽ đến mức khó mà nhìn ra, và Faith cảm nhận thấy nỗi đau vì ghen tị và mất mát.
Faith mơ hồ nhận thức được anh chàng Ben Crock trông không vui ra mặt đang thì thào gì đấy vào tai ông Lambent. Nó loáng thoáng nghe ra hai chữ “con nít” và “rủi ro”. Nhưng anh ta cự cãi gì thì cũng bị vẫy tay bác hết.
Lambent vẫy gọi, nhưng Howard lại bám dính ống tay áo của Faith.
Hàm thằng bé lại động đậy, mặt lại đỏ ửng lên vì bực bội do lời lẽ muốn nói cứ mắc nghẹn trong họng.
“Em nó sẽ đi xuống nếu có con đi cùng đấy ạ,” Faith khẽ bảo với bố mình, thốt nhiên thôi. Nó không cưỡng lại được. Dĩ nhiên nó sẽ thích hơn nếu bố nó quay sang nó mà bảo rằng, Faith, bố muốn con nhìn thấy cái này, muốn con tham gia. Nhưng nếu nó chỉ có thể bám đuôi thằng em nhỏ của mình, thì vẫn còn hơn là không được gì cả.
Và mục sư cũng chẳng nghiêm mắt bắt nó im miệng. Có lẽ ông đã nhìn ra rằng Howard đang trông ít sợ sệt hơn khi nghĩ là có Faith theo cùng. Ông gật đầu. Faith rần rần cả người vì phấn khích trong khi mấy người kia sửa soạn cái rổ, mắc ngọn đèn dầu vào cái móc trên giàn giáo. Theo sự khăng khăng của Ben Crock họ cũng mắc dây thừng vào bốn bên, làm dây chằng để giữ cho cái rổ không bị quặt qua lại.
Một bên của chiếc chuồng-rổ đó được bắt bản lề như cánh cửa, và cửa được giữ cho mở ra để Howard và Faith leo vào.
“Ngồi xuống nhé - như thế sẽ an toàn hơn,” Crock lớn tiếng gọi, hai chị em làm theo. Nhìn thấy hàng chân mày nhíu tít của anh ta thì bụng dạ Faith có chút dợn lên vì sợ, nhưng nỗi phấn khích lại áp đảo hơn nhiều.
Faith choàng tay ôm lấy Howard khi sợi xích được nới ra và chuồng chứa hai chị em bắt đầu đi xuống. Cả hai xuống quá khung gỗ, giờ thì xung quanh đứa là đá màu đỏ nâu, uốn lượn, lỗ chỗ. Hai mắt Howard sáng quắc dưới ánh đèn dầu.
“Đây là cuộc phiêu lưu của hai chị em mình này, Howard!” Faith thì thầm. “Bọn mình đang đi ngược thời gian đấy nhé! Ngược lại xa thật xa, đến tận thời nơi này là chóp núi, chứ không phải hòn đảo đâu. Không có biển cả gì, chỉ toàn đất liền, phủ đầy những tuyết cao hơn cả nhà cơ. Voi
ma mút giẫm bước khắp nơi, khiến mặt đất rung chuyển. Từng đàn từng đàn tuần lộc, rung lắc gạc. Tê giác bờm xờm to như những chú ngựa lùn. Mèo tua tủa răng.”
Quá khứ đang bao quanh lấy con bé. Nó có thể ngửi thấy cả mùi. Cảm giác không có gì là chết chóc cả. Cảm giác rất sinh động, và quá khứ cũng rất tò mò về con bé như con bé muốn biết về quá khứ vậy.
Giếng đang nới rộng ra, như thể hai chị em đang đi xuống xuyên qua cổ chai. Ánh sáng từ ngọn đèn dầu hắt lên soi tỏ mấy vách lồi lõm của giếng, và ngay bên dưới kia là bóng tối.
Sợi xích kim loại phát ra âm thanh keng-keng-keng ê cả răng vang vọng xuống giếng. Rồi giữa nền nhạc đơn điệu ấy một tiếng coong khẽ vang lên, theo sau là một tiếng rắc thật to, khô khốc.
Chuồng treo rơi xuống.
Một giây hoàn toàn vô trọng lượng, một nỗi tuyệt vọng choáng váng tột cùng. Và rồi chuồng treo va rầm rập vào các vách, Howard thét vang. Nỗi kinh hoàng chất ngất táng thẳng vào Faith.
Chuồng treo đột ngột dừng lại, giật nảy một phát làm nó chao đi. Khi Howard đổ tới trước thì Faith vung một tay ra ôm lấy mình thằng bé, tay còn lại giữ chặt lấy thanh chắn ngang chuồng. Có gì đó thật nặng đập một phát đau điếng vào lưng nó kèm theo tiếng kim loại loảng xoảng. Là đầu kia của sợi xích được cột vào chuồng treo. Faith nhận thấy sợi dây chằng căng cứng, rên lên khi chuồng treo vung qua lại và nghiêng đi phía trên vực thẳm đen ngòm. Chỉ có mấy sợi thừng này là thứ ngăn hai chị em rơi thẳng xuống kia. Bên trên có tiếng quát tháo, nhưng âm thanh bị dội nên lời lẽ lùng nhùng nghe không rõ.
Giật nảy từng đợt, ngắc nga ngắc ngứ, chuồng treo bắt đầu lên cao trở
lại. Ngước nhìn lên Faith có thể thấy một rãnh trời hẹp cùng mấy cái đầu ngược sáng trên nền trời. Khi chuồng treo xoay đi, Faith có thể thấy mấy sợi thừng mỏng manh cọ xát vào vách đá và bắt đầu tưa đi.
“Nín nào nín nào Howard…” Nghe như lời kinh cầu. Tiếng nấc của Howard là thứ duy nhất có thật trên thế gian này.
Rãnh trời hẹp tiến xuống gần hơn. Những cánh tay với xuống chuồng treo. Faith ôm chặt dưới nách Howard mà kéo thằng bé lên cao hết cỡ. Hai cánh tay nó đau nhừ và lả dần đi dưới sức nặng của thằng bé, và rồi sức nặng ấy bỗng hẫng đi. Hai chân Howard vùng vẫy khi nó nhô lên, xém chút đá vào đầu cô chị.
Và rồi chuồng treo bắt đầu dâng lên nhanh hơn, những cánh tay lại với xuống, lần này là túm lấy bàn tay, cánh tay nó. Họ đã giữ được nó. Họ kéo nó lên ra khỏi hang, và rồi con bé ngồi trên nền cỏ, không tin nổi là mình đã sống sót.
Sau đấy là đủ thứ tiếng nạt nộ, đa phần là từ ông Lambent, đang thảng thốt và bừng bừng phẫn nộ. Lambent là quan tòa địa phương và chắc chắn sẽ trừng phạt ai đó, nhưng chẳng mấy chốc sau thì hóa ra sẽ không phải là những ai đang có mặt tại hiện trường. Kẻ đã bán ông ta cái kết cấu hầm mỏ cũ kia mới là mục tiêu chính cho cơn thịnh nộ của ông ta.
Howard đang rên rỉ. Thằng bé cần được khám qua, cần được lấy khăn lau nước mắt, rồi vỗ về, rồi ôm ấp, rồi được cho ăn kẹo. Ngài mục sư thì lạnh lùng phẫn nộ, nhưng dần dần cũng nguôi đi khi nghe lời xin lỗi. Dầu gì thì, ai có thể ngờ được sợi xích dày thế kia lại đứt cơ chứ? Với lại đã có dây chằng rồi thì cũng không có nguy hiểm gì đáng sợ cho lắm.
Faith loạng choạng đi đến chỗ Ben Crock, đang ngồi trên cỏ thở lấy hơi. Hai bàn tay anh ta mang mấy vết phồng rộp đỏ bầm vì thừng siết.
“Cảm ơn ạ,” con bé lặng lẽ nói, đưa mắt liếc nhanh sang hai bàn tay ấy. “Không một quý cô nào phải hứng chịu nỗi sợ như thế trong phiên nhiệm vụ của tôi cả,” anh ta chỉ nói có thế. “Tôi mong cô tha thứ cho tôi, thưa cô.”
Chương 5
ĐẦU LÂU VÀ VÁY PHỒNG
Gia đình Sunderly quay trở về nhà để thay trang phục, và cũng để tranh cãi về chuyện vừa xảy ra. Suốt một đỗi lâu có vẻ như bà Myrtle vì quá phẫn nộ mà sẽ khước từ không chịu đến dùng bữa trà chiều tại nhà ông Lambent. Chỉ đến khi được trấn an chừng một tá lần rằng mấy đứa con của bà không hề gặp tình huống nguy hiểm thực sự gì thì bà mới chịu nguôi ngoai.
Faith chẳng nói gì. Con bé vẫn nhớ đến nỗi kinh hoàng lộn ruột gan khi Howard như sắp sửa lọt khỏi chuồng treo tới nơi. Hoàn cảnh lúc đó có cảm giác rõ ràng là khá nguy hiểm đến tính mạng.
Bà Myrtle không rõ là Faith có bao gồm trong lời mời đến “các quý nương trong gia đình” hay không. Nếu đó là lời mời dùng bữa tối thì lẽ đương nhiên nó sẽ bị bỏ lại nhà cùng Howard ngay rồi. Tuy nhiên, trà chiều thì có hơi khác. Cuối cùng bà Myrtle quyết định rằng Faith có thể được tham gia, nhưng Faith nghi ngờ mẹ nó chỉ muốn có ai đó đi theo như kiểu hầu gái không chính thức thôi.
Vì tầm quan trọng của dịp này nên bà Myrtle đồng ý cho thắt cái “áo chẽn tập sự” của Faith chặt thêm một phân nữa. Tuy vậy, bà lại bác ngay khi Faith đề nghị được cho mặc chân váy dài hơn kiểu người lớn. Faith có biết mấy đứa con gái cùng tuổi với mình, và trong một năm qua nó đã chứng kiến gấu váy của bọn này từ từ kéo dài xuống. Đa số bọn chúng cũng đã thành thạo vận áo chẽn người lớn đàng hoàng rồi, bỏ lại Faith tự ti
về thứ áo chẽn trẻ con, lùng nhùng vướng víu của mình. Nhiều khi nó thắc mắc chẳng biết có phải bà Myrtle đang giữ nó mãi là con nít để huyễn hoặc bản thân, thay vì thừa nhận mình đã ở cái tuổi có con gái gần thành người lớn rồi.
Khi mọi người chuẩn bị lên đường, bà Myrtle để ý thấy đôi găng tay sợi móc trên tay Faith.
“Đôi găng trẻ con của con đâu?” bà hỏi.
“Con… không biết ạ,” Faith đỏ lựng lên. “Rõ là lúc ở trên tàu con có mang nó mà…” Nó ấp úng ám chỉ rằng đôi găng tay xấu số đã rơi xuống biển.
“Faith ơi là Faith!” Miệng bà Myrtle mím lại vì nóng nảy bực bội.
Nhà ông Lambent tọa lạc trên đỉnh một mũi đất, cách khu khai quật chưa đầy một dặm. Theo như tấm biển bằng gỗ bạc phếch kia, thì ngôi nhà có tên là “Vệt Sơn”. Ngôi nhà bốn tầng lầu gạch đỏ gồng mình chống chọi lại nắng mưa, nhưng hàng giậu cùng mấy cây nhỏ bao quanh thì đã đầu hàng gió giật, đều cúi rạp xuống gần đám cỏ dại cao. Có một chuồng ngựa lớn cùng chòi đậu cỗ xe. Chó săn sủa inh ỏi trong mấy chiếc cũi.
Lại trễ nải như thường lệ, bà Myrtle được dìu ra khỏi cỗ xe của ông Lambent. Chiếc váy phồng của bà, một lồng chim làm từ sụn cá voi cùng vải lanh để đẩy phồng phần sau váy, cứ cọt kẹt rung rinh, nhón nhén để lộ ra đôi giày thắt nơ duyên dáng bà mang.
Gia đình Sunderly vào vừa tới sảnh hành lang thì đã được ông Lambent đon đả.
“Vào trong này nào! Cho phép tôi giới thiệu nhà ta với mọi người nhé!”
Ông dẫn mọi người đi vào trong căn phòng trông cứ như phòng trưng bày chiến tích, sàn nhà ca rô trắng-đỏ lốm đốm những mảnh đá mài cùng lông chó. Gạc nai thò ra từ những tấm đế treo cao, phả xuống vách tường những cái bóng lĩa chĩa. Nào là mặt nạ châu Phi, tượng tạc từ đá ngọc thạch Trung Hoa, một cái ngà hải tượng, boomerang cùng nhiều thứ kỷ vật khác từ các miền đất xa lạ bí hiểm.
Khoảng hơn chục khách đang đúng trò chuyện, đa số là đàn ông. Faith nhận ra bác sĩ Jacklers cùng ông Clay, nhưng những người còn lại toàn lạ mặt cả.
Khi nhà Sunderly bước vào, Faith lo lắng liếc quanh phòng, rà soát từng khuôn mặt tìm kiếm dấu hiệu của sự lạnh lùng hay cau có nào đó. Nhưng không, khi bố nó được giới thiệu, nó chỉ thấy vẻ hăm hở, tính hiếu kỳ cùng lòng trân trọng. Nếu nọc độc của vụ tai tiếng kia có động đến thanh danh của bố nó thật, thì có vẻ như chẳng có ai hiện diện tại đây biết đến điều đó.
Như thường lệ, mấy trò xun xoe trôi tuột khỏi vẻ lạnh lùng xa cách của mục sư mà hút hết vào trong cung cách duyên dáng lăng xăng của bà Myrtle như là thấm vào chiếc khăn tay bằng ren vậy. Bà nhanh chóng biến mình thành người được các quý ông yêu thích, bằng cách tỏ ra rất dí dỏm nhưng lại không thông minh quá mức. Trong khi đó cậu Miles lại lôi ra vỏ ốc hóa thạch được cất trong hộp thuốc lá của mình mà khoe với mọi người, bất chấp bao cố gắng của bà Myrtle ngăn cậu lại.
Faith thấy mình đang đứng cạnh bác sĩ Jacklers, ông này rõ là không biết phải nói gì với nó.
“Kể cho cháu nghe về mấy cái đầu lâu đi ạ!” Faith nói khẽ. Quả là một lời đề nghị to gan, có lẽ là không phù hợp với phái nữ nữa kia, và nếu bà
Myrtle đang ở trong tầm nghe thì chắc Faith đã không dám hỏi thế rồi. Nhưng việc anh Crock hăng hái trả lời cho câu hỏi của nó đã khiến nó tăng thêm chút tự tin. Biết đâu luật lệ ở Vane này lại khác nhỉ? Biết đâu nó có thể thể hiện sự hứng thú về khoa học tự nhiên mà không bị cho là ngược đời thì sao?
“A, cô đang chiều ý một lão già đây mà!” Vị bác sĩ bật cười, khoe ra hàm răng trắng đều, chắc khỏe. Nhưng mà dĩ nhiên là ông ta cho phép mình được nuông chiều. “Tôi sở hữu một bộ sưu tập xương sọ - không phải vì tôi muốn dọa mấy quý cô xinh đẹp như cô đây đâu, mà vì tôi đang viết bài về bộ não con người và căn nguyên của trí tuệ ấy mà. Tôi cũng lấy số đo vòng đầu các bệnh nhân của tôi nữa đấy - ngay cả khi họ chỉ đến phòng khám vì sổ mũi nhức đầu thì tôi cũng bịa ra được lý do để vòng thước dây đo quanh sọ họ nữa.”
“Vậy ra ông là chuyên gia hộp sọ ạ?” Lời vừa buột khỏi mồm Faith là con bé thấy nụ cười trên mặt bác sĩ nhạt đi và nó biết mình vừa phạm phải sai lầm. Nãy giờ ông này say sưa với diễn giải của mình, vậy mà giờ nó lại phá hỏng mọi chuyện vì tỏ ra hiểu biết quá nhiều. “Đấy… phải đúng gọi như thế không ạ?” Nó biết là phải chứ, nhưng vẫn nuốt khan rõ mồn một rồi làm cho giọng mình ngắc ngứ. “Cháu… cháu nghĩ cháu nghe qua đâu đó rồi.”
“Phải.” Sự tự tin của viên bác sĩ dần dần quay lại trước vẻ rụt rè của Faith. “Chính xác là gọi như thế đấy, cô bé ạ. Cô khá lắm.” Trong lúc bác sĩ thao thao mô tả về bộ sưu tập xương sọ của mình, Faith lắng nghe cùng dạ dày quặn thắt. Nó đang tức tối chính mình vì đã dùng đến một thuật ngữ quá thông minh. Lúc này đây, đang có người nói chuyện với nó về khoa học đấy, nên nếu nó tỏ ra hiểu biết quá nhiều thì
ông ta sẽ ngừng ngay. Phải, ông ta đang giảng giải những thứ mà nó đã biết hết cả rồi cứ như là nó mới nhỏ bằng phân nửa tuổi hiện thời vậy, nhưng dù có thế nó cũng nên lấy làm mừng chứ.
Thời xưa, khi nó mới chín tuổi và bắt đầu đọc hiểu được mấy quyển sách của bố, Faith rất muốn khoe khoang kiến thức của mình. Cứ có khách đến nhà là nó sẽ luyên thuyên về những kiến thức mới phát hiện ra cùng những từ vựng mới mẻ nhất để nắm bắt trí tưởng tượng của mình. Nó chỉ muốn gây ấn tượng thôi - muốn chứng tỏ cho bố hay bất cứ ai khác biết rằng nó thông minh. Mỗi lần như thế, bao nỗ lực của nó thoạt đầu là được nghênh đón bằng tràng cười ngạc nhiên, rồi sau đó là những khoảng im lặng gượng gạo. Không ai thực sự tỏ ra khó chịu cả, nhưng một đỗi sau họ lại lịch sự lờ nó đi như thể nó là một vết bẩn trên khăn trải bàn thôi. Sau đó thì nó nằm khóc tới lúc thiếp đi, lòng biết rằng mình đâu có thông minh gì, mình chỉ có ngu, ngu và ngu thôi. Nó đã khiến mọi người bẽ mặt và phá hỏng mọi chuyện.
Sự hắt hủi ấy đã khiến Faith chùn bước. Nó không còn tranh đấu để được khen ngợi hay được nghiêm túc lắng nghe nữa. Giờ đây nó rất khiêm tốn, chỉ muốn được cho phép tham dự vào bất cứ phần nào trong một cuộc trò chuyện thú vị mà thôi. Dù là thế, cứ mỗi lần vờ giả ngốc, thì nó lại căm ghét bản thân cùng sự tuyệt vọng của mình.
“Hộp sọ càng lớn, não bộ càng to, trí khôn càng nhiều,” vị bác sĩ nói tiếp, hào hứng hẳn lên với đề tài của mình. “Cô chỉ cần nhìn vào sự khác nhau về kích cỡ hộp sọ của nam và nữ thôi là biết. Hộp sọ người nam lớn hơn, chứng tỏ cho thấy đó là cái ngai của trí tuệ.” Dường như bác sĩ ý thức được là mình đang không được tế nhị cho lắm. “Trí óc phụ nữ lại là thứ hoàn toàn khác,” ông ta vội nói thêm, “bản thân nó đã vô cùng thú vị rồi!
Nhưng nếu nhiều trí khôn quá thì sẽ làm hỏng nó đi và biến nó thành vô vị, như một tảng đá trong chén xúp vậy.”
Faith bừng mặt. Nó cay đắng thấy lòng tan nát và bị phản bội nặng nề. Khoa học đã phản bội nó. Lâu nay tận trong thâm tâm nó vẫn luôn tin rằng ngay cả khi người ta phê phán nó, thì khoa học sẽ không. Những quyển sách của bố nó đã rất dễ dàng mở ra khi tay nó chạm vào cơ mà. Những bài ghi chép của ông có né mình khỏi cái nhìn nhi nữ của nó đâu. Nhưng dường như khoa học đã cân đo nó, dán nhãn cho nó và thấy nó kém cỏi. Khoa học đã tuyên rằng nó không thể thông minh… và rằng nếu bằng một cách kỳ diệu nào đó mà nó thông minh thật, thì thế có nghĩa là nó có gì đó rất không ổn.
“A, tôi nhận ra điệp khúc này rồi!” một giọng phụ nữ ngay đằng sau Faith cất lên. “Bác sĩ Jacklers lại một lần nữa công khai nhạo báng chúng ta vì cái hộp sọ nhỏ bé của chúng ta đây mà!”
Là một quý bà lúc nãy được giới thiệu là “cô Hunter, cô quản lý bưu điện và nhân viên điện tín của chúng tôi”. Cô này thấp người, dáng gọn gàng tóc đen nhánh, cử chỉ bước chân nhanh nhẹn gợi cho Faith nghĩ đến con gà gô đỏ. Mấy ngón tay đeo găng múp míp của cô này cứ liên tục chỉnh vuốt quần áo mình, nhưng mắt nhìn của cô ta thì chằm chặp đánh giá.
“Xin ông thứ cho, thưa bác sĩ, tôi không có ý cắt cụt lời ông đâu.” Cô Hunter mỉm cười hờ hững. Faith không chắc có phải mình đã tưởng tượng ra chút xíu nhấn nhá nơi từ “cụt” kia không nữa.
Nhưng mà phản ứng của bác sĩ Jacklers thì không lẫn vào đâu được. Gương mặt hồng hào của ông ta biến thành gần như tím bầm và ông ta liếc ngang sang cô Hunter với ánh nhìn chất chứa cay đắng. Viên bác sĩ
vốn chẳng phải người cao ráo, nên Faith thắc mắc liệu câu nói vừa rồi của cô Hunter có phải là lời ngấm ngầm châm chọc về chiều cao của ông ấy hay không đây. Nhưng dù sao đi nữa Faith vẫn ngờ là mình đã lỡ mất điều gì đó ở đây.
“Tôi chỉ đang nói,” vị bác sĩ khăng khăng bằng giọng hơi gằn xuống, “rằng đấng Tạo Hóa đã tạo ra mỗi con người chúng ta phù hợp với từng vị trí ta được giao trên thế giới này…”
Nhưng đấy là câu nói định mệnh. Cuộc trò chuyện ngay lập tức bùng lên thành trận khẩu chiến về sự tiến hóa.
Những nhà tự nhiên học rất thích cãi cọ và tranh luận. Thời còn ở nhà mục sư, Faith đã quá quen với cảnh mấy vị khách của bố cười nói, châm chọc nhau khi dùng trà, đồng thời tranh cãi về những học thuyết đối nghịch như đang đua ngựa. Tuy nhiên, những bất đồng về sự tiến hóa thì lúc nào cũng khác. Đằng sau những bất đồng đó là nỗi sợ hãi đang lách tách lan ra, là cảm giác ram ráp như gỗ vụn.
Ngay lúc này cùng cảm giác ram ráp và căng thẳng ấy đang tràn ngập trong cuộc trò chuyện. Faith ngạc nhiên làm sao, khi một người luôn luôn ôn hòa, luôn luôn bặt thiệp như ông Clay lại là một trong những giọng nói sôi sục lớn tiếng nhất.
“Lamarck và Darwin đang dẫn thế giới vào một sai lầm to lớn!” ông tuyên bố. “Nếu chúng ta nói rằng các loài đều thay đổi, thì nghĩa là chúng ta đang nói chúng được tạo ra không hoàn hảo! Chúng ta chỉ trích chính Chúa trời đấy!”
“Nhưng, anh Clay này, thế những di tích về các thứ quái thú đã tuyệt chủng thì sao đây?” Lambent phản bác. “Voi răng mấu này! Gấu hang này! Bò rừng này! Khủng long này!”
“Tất cả đều bị giết sạch trong trận Đại Hồng Thủy rồi,” Clay đáp lời không một chút do dự, “hay trong những thảm họa tương tự ấy. Chúa trời đã nhiều lần thấy phải xóa sổ làm lại từ đầu, và cứ mỗi lần Ngài lại tạo ra nhiều giống loài mới để vui sống trong thế giới của Ngài.”
“Nhưng mà các mẫu hóa thạch - đa số chúng cũng phải ít nhất vài chục ngàn năm tuổi, trước cái thời Đại Hồng Thủy đó lâu lắm…” “Không thể nào đâu.” Giọng ông Clay như đinh đóng cột. “Chúng ta biết thế giới này bao nhiêu năm tuổi mà, dựa vào những ghi chép trong Kinh Thánh ấy. Không thể nào hơn sáu ngàn năm tuổi được.” Những quý ông già lão nhất gật gù tán đồng khi nghe những lời này. Mấy người kia trông khổ sở và có phần xấu hổ. Ông Clay dường như để ý thấy sự im lặng.
“Bác sĩ Jacklers,” ông ta kêu gọi, “chính anh cũng đã từng nói như thế thôi! Tôi nhớ anh có nói những điều tương tự với cha tôi…” “Có thể là thế, mười năm trước kia.” Bác sĩ Jackler trông không được thoải mái cho lắm. “Anh Clay này… mười năm qua mọi thứ đã thay đổi hết rồi.”
Faith là con gái của một nhà tự nhiên học và nó biết ý bác sĩ kia muốn nói gì. Thế giới đã thay đổi. Quá khứ của thế giới đã thay đổi, và cùng với đó mọi thứ cũng thay đổi theo. Ngày xửa ngày xưa, ai ai cũng biết câu chuyện về trái đất: rằng nó được tạo ra trong một tuần, và Con người được đưa xuống để trị vì nơi đó. Và lịch sử của thế giới nhất định không thể nhiều hơn vài ngàn năm được…
Nhưng rồi những quý ông làm khoa học đã phát hiện ra được đất đá mất bao lâu để cuộn xếp lại như bánh ngàn lớp. Họ đã tìm ra mẫu hóa thạch, cùng những sọ người méo mó kỳ lạ với xương trán vồ ra. Và rồi,
khi Faith được năm tuổi, một cuốn sách về sự tiến hóa có tên là về nguồn gốc các loài đã xuất hiện trên thế giới, và thế giới rung chuyển, như một con thuyền đâm vào cạn.
Thế rồi cái quá khứ không ai biết đến kia bắt đầu trải ra. Hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu năm… và thuở hồng hoang ấy càng lùi xa ra bao nhiêu, thì nhân loại huy hoàng càng lúc càng teo nhỏ lại. Con người không có mặt ngay lúc khởi thủy, và vạn vật không phải là quà tặng cho anh ta. Không hề, anh ta chỉ là người đến sau, tổ tiên anh ta đã phải tranh đấu vươn lên từ bùn lầy mà bò lên mặt đất.
Kinh Thánh không nói dối. Mỗi một nhà khoa học ngoan đạo, kính Chúa đều biết là thế. Nhưng mà đất đá, hóa thạch và xương cũng không nói dối, và họ bắt đầu thấy như chúng đang không kể cùng một câu chuyện.
“Chân lý không hề thay đổi!” một người đàn ông lớn tuổi lưng còng với mái tóc trắng rũ bết reo lên. “Chỉ có đầu óc của những kẻ hay nghi ngờ là thay đổi thôi! Mạn phép cho tôi nói ra rằng trong chúng ta đây còn có ngài mục sư Erasmus Sunderly, mà phát hiện vĩ đại nhất của ngài ấy là nhân chứng câm lặng cho chân lý trong Phúc Âm đấy!”
Bao cặp mắt đổ dồn vào bố của Faith, còn ông thì chẳng buồn ngước mắt lên nhìn.
“Tôi là một trong những người đầu tiên được mời đến để khám nghiệm cho mẫu vật New Falton mục sư tìm thấy,” ông già kia nói tiếp. “Khi tôi nhìn vào nó, thấy một vai người hóa thạch có hình dáng một đôi cánh mờ mờ vươn ra, thì tôi thấy…bàng hoàng. Ngay lập tức tôi biết đấy là gì. ‘Thứ này’ ‘tôi bảo, là một trong những Nephilim cổ xưa, và nó có thật như chính tôi đây. Tôi xin lấy danh tiếng của mình ra đảm bảo!’ ”
Một bên má của mục sư khẽ giật giật khi nghe đến hai chữ “danh tiếng”. Faith bỗng thấy tràn ngập cảm thông. Nó muốn vui vì bố nó có một người ủng hộ hết mình như vậy, nhưng mà lời tuyên bố của ông già kia lại có hơi chút tuyệt vọng. Nó khiến cho con bé thấy lo.
“Thưa các bằng hữu đáng mến,” ông Lambent nói, “tôi nghĩ đây không phải là cuộc trò chuyện dành cho sự hiện diện của cả hai phái đâu ạ.”
Sự hiện diện của cả hai phái tự động chia ra. Trong thoáng chốc không khí có chút căng thẳng, cảm giác của sự lịch sự ép buộc. Các quý bà nãy giờ là những người bạn duyên dáng, nhưng bây giờ thì các quý ông lại muốn họ rời đi mà thưởng thức trà chiều, để cánh đàn ông có thể hội họp khoa học mà tự do trò chuyện.
Tim Faith chùng xuống khi con bé thấy mình lẽo đẽo theo sau những quý bà khác. Đây là tương lai của mày này, một giọng nói tàn nhẫn trong đầu nó vang lên. Rời khỏi những cuộc hội họp khoa học mà mày không được phép tham dự.
Đi ra đến nửa chừng hành lang, sự chú ý của nó bị một cánh cửa bỏ ngỏ lôi kéo. Đằng sau cánh cửa ấy là một căn phòng bé xíu bốc mùi bụi bặm lẫn phoóc môn. Ánh sáng ngày từ những cửa sổ cao chiếu lấp lánh lên những tủ kiếng và lên mắt của những con thú nhồi. Tủ của những điều kỳ thú, thư phòng của một nhà tự nhiên học.
Faith liếc theo sau bà Myrtle và các quý bà kia, không một ai để ý gì đến con bé. Nó thấy bùng lên cảm giác nổi loạn, và một giọng hát quen thuộc vang bên tai. Nếu không được ngồi bàn ăn đàng hoàng, thì mình đi ăn vụng.
Con bé lỉnh vào trong căn phòng nhỏ, khéo léo đóng cửa lại sau lưng
không một tiếng cách.
Faith di chuyển quanh phòng, sung sướng mê mẩn, nhìn chằm chằm hộp này sang hộp kia. Trứng chim. Bươm bướm. Da bò sát hay cá sấu con phơi khô rồi ghim căng ra. Những cây ăn thịt ép mỏng như giấy, có gai nhọn như răng và nhị hoa như lưỡi. Từng mẫu vật một đều có cái nhãn be bé ghi chú tỉ mỉ.
Một con cầy mangut đông cứng vĩnh viễn giữa những vòng quấn hai màu đen vàng của một con rắn. Màu sắc cùng thớ vảy làm Faith nhớ đến con rắn của bố, và nó thấy có chút bất an.
Lúc nhìn vào những mẫu vật trưng bày trong cái tủ to nhất, Faith thấy dạ dày cuộn lên cảm giác cồn cào quái lạ. Một con lửng bạch tạng lấp ló giữa một con ruồi được bảo tồn trong cục thạch anh bóng loáng và một khúc rễ cây to chắc có hình thù na ná con người. Trong một hũ dưa muối to, một cặp heo con dính liền thân nổi lềnh bềnh trong giấc ngủ ngàn thu vàng vọt.
Tấm nhãn chính giữa đề: Những quái thể của thiên nhiên. Và thứ đó chính là mày, Faith nghĩ, thấy muốn phát ốm. Một bộ não phụ nữ nhỏ xíu nhét quá nhiều thứ bên trong. Có lẽ đây chính là điều không ổn với mình. Có lẽ đấy là lý do vì sao mình không thể ngăn bản thân thôi tò mò rình rập.
Faith vừa lẻn từ căn phòng ấy ra đến hành lang thì bà Myrtle xuất hiện, môi mím chặt, mặt nóng nảy.
“Tại sao con chậm chạp vậy hử?”
“Con xin lỗi mẹ - con bị lạc ấy mà…” Faith lí nhí dần đi, rồi mừng thầm khi thấy vẻ khó chịu của mẹ chuyển dần thành vẻ cam chịu mệt mỏi.
“Đây không phải lúc để lang thang hay mơ màng gì đâu nhé.” Bà Myrtle kéo kéo cổ áo vốn đã thẳng của Faith cho thẳng thêm chút nữa. “Mấy ‘quý bà’ kia sẽ cân đo đánh giá nhà mình đấy, nên quan trọng nhất là mình phải tạo được ấn tượng tốt. Chúng ta không được tỏ ra quá vồ vập - nếu chúng ta để bọn họ coi thường mình, thì đến ngày mai cả cái đảo này cũng sẽ làm thế ngay.”
Faith theo chân bà Myrtle đi vào căn phòng khách có giấy dán tường màu lục, nơi có nửa tá quý bà an tọa cùng bộ tách dùng trà bằng bạc đã được bày ra sẵn. Lò sưởi đốt nóng hừng hực. So với hơi ấm dễ chịu trong phòng trưng bày chiến lợi phẩm, thì căn phòng này ơi bức ngột ngạt.
Ngồi trên ghế cao bện từ cây liễu gai cạnh lò sưởi kia là một phụ nữ Faith chưa từng trông thấy trước đó. Bà ta có vầng trán cao, quyền quý, cùng mớ tóc vàng nhàn nhạt búi gọn ra sau. Mấy tấm chăn quây quanh bà này cho thấy bà là người tàn tật.
“Nào, xin mời vào - để người hầu của tôi có thể đóng cửa lại. Mấy ghế gần lò sưởi là những ghế ấm nhất. Tôi là Agatha Lambent.” Bà này có giọng nói trầm ấm, nhưng câu nào cũng uể oải xuống dần, như thể tự rũ xuống dưới sức nặng của mình.
Ở phòng trưng bày chiến lợi phẩm kia các quý ông hẳn đang tranh luận thả phanh. Trong khi đó, tại phòng tiếp khách này, mỗi quý bà lại lẳng lặng thả lỏng mà trở nên chân thật hơn, tiếm vào cái khoảng trống mà những quý ông bỏ lại. Họ bung ra, như những bông hoa, hay như dao nhọn, mà không để lộ biến đổi nào rõ rệt.
Faith có thể cảm nhận được mẹ mình đang nhanh chóng quan sát đánh giá. Mỗi người đều có chỗ của riêng họ trên một cầu thang vô hình. Ta dễ
biết vương tôn công tử ở trên xa mình, còn kẻ hầu người hạ thì ở tuốt bên dưới. Nhưng cầu thang có đến cả nghìn bậc, có những bậc cách nhau chỉ chút xíu xiu, và bà Myrtle lúc nào cũng muốn xác định chi li thứ bậc của từng người xê xích nhau ra sao.
Ánh nhìn xanh biếc của bà Myrtle quét nhanh khắp căn phòng cùng những người trong đấy. Bà Lambent giọng Anh như gia đình Sunderly, nhưng mấy lời lẩm bẩm chào hỏi của những quý bà khác lại phô ra giọng địa phương. Váy vóc của những quý bà địa phương này cũng là hàng tốt đấy, nhưng không hợp thời cho lắm. Đa số rõ là đang mặc loại váy phồng hình chuông cả trước lẫn sau, kiểu thời trang từng rất thịnh hai ba năm trước. Bà Myrtle, trong khi đó, lại vận loại váy phồng “bán phần” với thân trước thẳng băng kiểu mới nhất.
Faith thầm nhăn mặt khi thấy bà Myrtle vừa tự tin lướt tới trước vừa nhún người đáp lễ với điệu bộ tuy lịch sự nhưng có chút hạ cố. Con bé có thể thấy mẹ mình đang chiếm lấy vị trí chỉ thấp hơn bà Lambent một chút thôi, và hơi cao hơn những quý bà kia. Có thể họ là những nhân vật quan trọng trên hòn đảo này đấy, nhưng tất cả chỉ là dân tỉnh lẻ.
“Bà thật hảo tâm khi đã cho mời chúng tôi!” bà Myrtle bảo với bà Lambent. Và chúng tôi chịu đến cũng thật là có lòng, cung cách của bà như nói thêm bằng chất giọng ngọt ngào nhất.
Faith chọn một chỗ ngồi xuống và cố sức không rúm mình lại. Cái áo chẽn nâng ngực được thắt chặt kia khiến nó thấy mình ra dáng người lớn hơn nhiều, nhưng ngồi yên thật khó, hai quai đeo cứ thít vào vai.
Bà Myrtle nhỏ tuổi hơn phần lớn những người khác, nhưng bà lại không xuôi theo ý kiến của mấy người này. Thay vào đó, bà phản bác lại với những là, “À, nhưng tôi luôn thấy ở Luân Đôn…” hoặc, “Nhưng mà,
tôi nhớ có một vị ở Luân Đôn từng bảo tôi rằng…” Bà Myrtle lớn lên ở Luân Đôn trước khi kết hôn, và đấy là con át chủ bài của bà. Mẹ ơi thôi đi cho, Faith câm lặng van nài. Chúng ta phải khiến tất cả mọi người ghét bỏ ta sao ạ? Nhỡ chúng ta phải kẹt lại trên đảo này vài năm thì sao? Duy chỉ có cô Hunter tóc đen là có vẻ không nao núng gì trước cung cách của bà Myrtle, thay vào đó lại quan sát bà với vẻ háo hức, hăm hở của một kẻ đang xem một vở kịch thú vị.
Mình không thuộc về nơi này, Faith tự nhủ trong tuyệt vọng. Mình không thuộc về căn phòng những trà những nón những ngồi lê đôi mách thế này…
Faith ráng không lắng nghe lời mẹ mình, và những lời thì thào bực bội khó chịu đâu đó khác trong phòng. Thay vào đó nó đưa mắt lơ đãng nhìn quanh, nhận ra phòng này đầy những vật lặt vặt mang tính tôn giáo - mấy quyển sách kinh cầu, những tấm vải thêu lời kinh trong Thánh Vịnh, những kỷ vật nhắc nhở cái chết như đầu lâu bằng sứ và vòng hoa đen. Có lẽ bệnh tật của bà Lambent khiến cho đầu óc bà ta tập trung vào kiếp sau. Dễ thấy là bà này dường như quyết tâm không để mình phải xuống địa ngục vì thiếu đồ trang trí.
“Faith!” bà Myrtle rít.
Faith giật mình, nhận ra đôi mắt to của bà Lambent đang nghiêm nghị quan sát mình. Con bé đỏ mặt, ý thức được chắc là mình vừa mới bị hỏi câu gì đó.
“Mong bà thứ lỗi cho Faith - con bé vẫn còn chưa lại sức từ cuộc hành trình hôm qua ấy mà.” Bà Myrtle trao cho Faith cái nhìn còn lâu mới là ánh nhìn tha thứ.
“Chắc phải là mệt lắm nhỉ,” cô Hunter đồng tình. “Nhất là vì tôi biết
chị không mang người hầu nào theo cùng?” Nụ cười của cô này ngọt ngào quá mức cần thiết.
“Căn nhà mà chúng tôi thuê đã có đầy đủ người làm rồi,” bà Myrtle nhanh nhảu đáp trả.
“Ô, tôi chả trách gì chị đâu!” Cô Hunter xòe hai bàn tay múp míp vuông vắn của mình ra. “Gộp hai nhóm gia nhân với nhau khi nào cũng rắc rối vô cùng - chúng ta đều biết bọn đấy ngồi lê đôi mách thế nào rồi ấy mà!”
Tách của Faith chạm cạch vào đĩa trà. Lời của cô Hunter gần như là tiếng vọng những nghi ngờ của chính nó vậy. Gia đình Sunderly không mang theo người hầu vì họ không muốn mang chuyện đồn đại theo cùng.
“Tôi rất mong là chị sẽ thấy mình có được mọi thứ mình cần trên đảo Vane này,” cô Hunter thân thiện nói tiếp. “Chúng tôi không phải là không có kết nối xã hội đâu, với lại hầu hết những kiểu thời trang ở Luân Đôn rồi không sớm thì muộn cũng sẽ tới được chỗ chúng tôi thôi. Chúng tôi thậm chí… còn nhận báo chí từ Luân Đôn nữa cơ đấy. Thường thì sau một ngày, nhưng tin tức chứ có phải sữa đâu - vẫn còn mới chán.” Giọng điệu cô này khô khan, nhưng lúc này thì có kèm theo chĩa gai không lẫn vào đâu được. “Tôi đặc biệt rất thích đọc tờ Người đưa tin. Chị có khi nào đọc tờ đó không vậy, chị Sunderly?”
“Tôi thích xem tờ Thời báo hơn,” bà Myrtle đáp, vẻ cao ngạo không đáng có, thìa của bà đảo khuấy gấp gáp trong tách.
Faith cúi gằm đầu, cứ mong sao cho mặt mình không để lộ cảm xúc. Nó vừa khấp khởi hy vọng những lời đồn đại xấu xa về bố nó sẽ không đến được đảo Vane này. Tuy nhiên hàm ý lập lờ của cô Hunter kia là không nhầm vào đâu được.
Faith liếc sang mẹ, thấy hai má bà Myrtle đã tái xanh.
Mẹ biết. Lời kết tội chống lại bố - hẳn là lâu nay mẹ đã biết rồi. Rốt cuộc chúng ta cũng không thoát khỏi tờ Người đưa tin. Nó theo chân chúng ta đến tận đảo này. Cô Hunter kia chắc phải đã biết về vụ bê bối đó… rồi chẳng bao lâu sau mọi người khác cũng sẽ biết.
Chương 6
MẮT VÀNG ỆCH
Khi cỗ xe của ông Lambent đưa gia đình Sunderly về lại Bull Cove, Faith ra sức thu hết can đảm. Nó cần phải nói chuyện với bố. Cần phải cảnh báo cho ông về những lời của cô Hunter, và cũng để cho ông biết rằng dù có xảy ra chuyện gì đi nữa, thì nó vẫn đứng về phía ông. Chứ thấy ông cứ chịu đựng bao nhiêu chuyện một mình như thế này thật đau lòng quá.
Rốt cuộc cũng về đến nhà, và sau khi Jeanne cởi bỏ mũ nón áo khoác cho mọi người, cậu Miles châm một que mồi lửa và lần tay tìm tẩu thuốc, sửa soạn cho cuộc đi dạo hút thuốc như mọi khi.
Mục sư chặn cậu lại ngay cửa. “Miles - nếu cậu đi ra ngoài, nhớ đi gần nhà thôi. Hồi sớm nay tôi đã cho tay làm vườn giăng mấy cái bẫy cáo rồi.”
Cậu Miles ho sặc ra một trời khói thuốc.
“Erasmus - làm thế có phải không? Giữa trời tối thế này… nếu người ta không biết có nguy hiểm…”
“Tôi thì thấy để cho những kẻ đột nhập ban đêm vào lùng sục trong đất của mình lại càng chẳng thể gọi là ‘phải’ hay không nguy hiểm,” mục sư vặn lại. “Nào, giờ mọi người thôi cho, tôi phải ghé qua nhà kiểng đây.” Ông rảo bước ra vườn.
Một chặp sau mục sư quay lại, tay mang theo chiếc hộp gỗ nhỏ. Khi ông vào nhà, đang giẫm giẫm chân rũ đất khỏi giày, thì Faith lấy hết can
đảm.
“Thưa bố, con…”
“Mình này, không biết em có thể nói chuyện với mình được không?” Cùng lúc đó bà Myrtle lên tiếng, nhấn chìm giọng nói ngắc ngứ của Faith. Bà Myrtle mang vẻ mặt cảnh giác cẩn trọng mà bà vẫn luôn khoác vào mỗi khi bàn đến những vấn đề nhạy cảm với chồng mình. “Có chuyện em cần phải đề cập với mình.”
“Chờ đó đã,” mục sư cộc lốc đáp lại. Ông nhìn xuống cái hộp trong tay. “Chuyện gì cũng phải chờ. Lúc này đang có vấn đề cần tôi để ý đến - cần trọn tâm trí của tôi. Tôi sẽ ở trong thư viện, trong bất cứ trường hợp nào cũng không được quấy rầy.” Ngay ngày đầu tiên mục sư đã chọn thư viện làm thư phòng cho mình, nên giờ đây nơi đấy là thánh địa.
Bố của Faith đã thành bậc thầy trong nghệ thuật khiến cho lời của mình nghe như lời chốt hạ, quyết định của ông là không thể hoán đổi. Cửa thư viện đóng lại sau lưng ông. Cơ hội tuột mất.
Faith vào ăn tối cùng Howard, sau đó giúp thằng bé cầu nguyện rồi cho nó đi ngủ, lòng thầm hỏi sao mà nó lại trở thành gia sư lẫn bảo mẫu hai trong một thế này. Howard tuy buồn ngủ nhưng cứ níu cứng, vòng tay ôm chặt ngang người Faith mỗi khi nó định nhổm đi.
Trong lúc vừa vuốt nhẹ tóc em vừa hát dỗ cho em ngủ thì một âm thanh văng vẳng khiến Faith giật nảy mình cắt ngang luồng suy tưởng. Là một tiếng la thất thanh, cộc lốc, nghe không giống tiếng chồn mà lại như tiếng trẻ con hơn, từ đêm tối ngoài kia vọng vào. Cửa nẻo dưới nhà mở ra đóng lại. Rồi tiếng xì xào, tiếng báo động cùng những bước chân gấp gáp.
Faith lẻn khỏi phòng cậu em mà vội chạy xuống nhà, vừa lúc thấy được
mẹ, cậu cùng bà Vellet trong phòng khách, đang hạ giọng tranh cãi nhưng rất căng thẳng.
“Bà à, chúng ta phải kêu bác sĩ thôi…” bà Vellet nài nỉ.
“Tôi không thể cho làm thế mà không có sự đồng ý của nhà tôi…” bà Myrtle bồn chồn liếc về phía thư viện.
“Anh ta cấm à?” cậu Miles hỏi. “Erasmus có biết là có một đứa bé bị trọng thương ngay cửa nhà mình không thế?”
“Ông có dặn rồi - dặn rất nghiêm - rằng không được quấy rầy ông ấy,” giọng điệu bà Myrtle đầy hàm ý, và nét mặt của bà dường như khiến cho buồm thuyền cậu em trai xụi lơ mất gió. Dù thân cận là thế, nhưng cậu Miles không dám chọc giận mục sư. “Miles - có thể nào cậu…”
“Myrtle, nếu em có tiền mời bác sĩ đến là em đã cho mời ngay rồi, nhưng lúc này đây cơ bản là em không có khả năng.”
“Chị Vellet này…” bà Myrtle quay sang bà quản gia, “nếu thằng bé được mang vào trong bếp, có thể băng bó cho nó tại đó không?” “Vâng thưa bà.” Bà Vellet trông như thể đang có chút khó khăn trong việc giữ vẻ bình tĩnh thường khi. “Nhưng chúng ta chỉ làm được có thế thôi ạ.”
Cả ba người bận trò chuyện căng thẳng đến mức không để ý thấy được Faith đã lẻn sang thư viện.
Bố nhất định muốn biết chứ. Dĩ nhiên là bố muốn biết rồi. Nó gõ cửa. Im lặng, rồi một âm thanh khe khẽ, nghe như tiếng tằng hắng, nhưng chỉ khẽ như tiếng nói bị chặn lại.
Faith xoay nắm cửa mở cửa ra.
Ngọn đèn gas được chỉnh nhỏ xuống mức chỉ còn le lói, nhưng đèn đọc
sách bằng đồng trên bàn giấy phủ lên cảnh tượng một quầng sáng mờ ảo run rẩy. Bố Faith ngồi sau bàn, ngả lưng tì lên ghế. Khi Faith bước vào ông chỉ khẽ quay đầu về hướng nó, và cau mày.
Faith mở miệng tính xin lỗi, nhưng lời lẽ chết lặng trong họng. Tư thế ngồi của bố nó, khi nào cũng thẳng băng, thì giờ lại sụm xuống kỳ quặc. Chưa khi nào nó thấy mặt ông tái xanh, uể oải đến vậy. Nó sởn gai ốc.
Trong phòng có mùi ẩm ướt, nó nhận thấy thế, mùi lạnh lẽo mà nó từng ngửi thấy trong căn nhà kiểng. Lúc này thứ mùi ấy lần những ngón tay nho nhỏ lặnh băng xuống họng nó, xuyên qua gốc thần kinh trên từng cái răng của nó và qua đáy mắt nó. Không khí ngập tràn thứ mùi này.
“Bố ơi?”
Giọng của chính nó nghe lạ quá, như có những tiếng thở dài khe khẽ bám vào. Khi nó rón rén tiến đến, tiếng bước chân nó cũng nghèn nghẹt cùng một kiểu khẽ khàng lạ lùng đấy. Bốn bề không khí dường như tự khuấy đảo với những hơi thở nhỏ nhẹ không có nguồn phát ra.
Một cây bút run run giữa mấy ngón tay hờ hững của bố nó, mực tụ lại trên mặt giấy ngay dưới ngòi bút. Vài hàng chữ được nguệch ngoạc viết lên với nét chữ xiên xiên cẩu thả, không như nét chữ quen thuộc của mục sư.
Hai đồng tử của mục sư nhỏ xíu đen đặc. Dưới ánh đèn dầu nhìn như hai tròng trắng trong mắt ông đã ngả sang một sắc vàng đùng đục đáng ngại. Trong lúc Faith quan sát, những vằn những đốm trong mống mắt của mục sư dường như lay động chao đảo như thủy tảo…
“Bố!”
Đôi mắt ngả màu kia dán chặt vào nó, ánh nhìn chú mục dần. Rồi quai hàm bố nó nghiến lại và chân mày chầm chậm nhíu.
“Đi ra.” Chỉ là lời thì thầm thôi, nhưng chứa đựng nhiều nọc độc hơn tất thảy bao lần Faith từng nghe thấy trong giọng bố. “Đi ra!” Faith quay đi bỏ chạy ra khỏi phòng, tim nện thình thịch.
“Faith!” bà Myrtle xuất hiện ngoài hành lang, vừa đúng lúc trông thấy Faith khép cửa lại sau lưng nó. “Ồ - bố con làm xong việc tối nay rồi sao? Tạ ơn trời đất - mẹ phải nói chuyện với bố đây.”
“Không được!” Theo phản xạ Faith tì lưng vào cửa.
Dù không hiểu được những gì vừa chứng kiến, nhưng nó biết bố nó muốn giữ bí mật. Faith nhớ đến những câu chuyện về thứ á phiện kỳ lạ được hút lén, có khói thuốc len vào ý chí của mấy ông mà giam cầm trí óc họ. Lỡ như những rắc rối của bố nó đã đẩy ông biến thành kẻ hút thuốc phiện thì sao? Nó không được làm lộ bố mình. Ông đã đang phải đối mặt với đủ thứ quở trách tai tiếng lắm rồi.
“Con… con vào báo với bố về vụ thằng bé bị mắc bẫy cáo ấy mẹ,” Faith nói nhanh.
“Rồi bố nói sao?”
Faith ngập ngừng. Câu trả lời an toàn duy nhất là bảo rằng mình bị đuổi ra ngoài mà không được trả lời cho gì cả. Với lại cũng đúng là vậy mà. “Chúng ta cần cho mời bác sĩ ạ,” nó nghe thấy mình đáp lại. Bà Myrtle vội bỏ đi ra lệnh cho bà Vellet, vẻ nhẹ nhõm lộ rõ ra trên những đường nét tròn trĩnh đáng yêu của bà.
Faith choáng váng với sự liều lĩnh của chính mình. Lời nói dối của nó rồi sẽ bị vạch trần không chạy đi đâu được. Đầu óc nó xoáy tít nhờ đã luyện tập thoăn thoắt, cố tìm đường thoát thân, nhưng nó chẳng nghĩ ra được lời biện hộ hay giải thích nào. Nó không dám tưởng tượng ra việc
phải đối mặt với bố mình để nói với ông là mình đã đưa ra những chỉ thị trí trá nhân danh ông.
Bố phải hiểu thôi, nó tự nhủ. Nếu mình không làm thế, bố có thể bị phát giác, hoặc bị trách tội vì đã để cho thằng bé chảy máu. Mình đang bảo vệ cho bố mà.
Đồng thời, ý nghĩ rằng nó vừa chiếm được một phần nhỏ bé trong những bí mật ảo diệu của bố làm nó lóe lên một vầng hào quang lặng lẽ.
Vài phút sau, Faith trông ra qua cửa sổ và thấy cậu Miles, anh giúp việc cùng bà Vellet dìu một hình thù thấp bé hơn đi về phía ngôi nhà. Khi họ đến được nơi ánh sáng từ cửa sổ chiếu tới, Faith nhìn ra gương mặt cậu bé, cỡ chừng mười bốn tuổi. Cậu ta tái mét đến sợ, hai má óng ánh vì nước mắt, mặt nhăn tít vì đau. Miếng giẻ buộc xộc xệch quanh mắt cá cậu ta loang lổ sẫm màu. Trông thấy thế dạ dày nó cuộn lên thương xót.
Faith không được phép vào trong bếp. Tuy nhiên, khi ngồi trong phòng ăn gần bên, nó dễ dàng nghe ra tiếng cậu bé kia nấc lên vì đau, cùng những câu đối thoại hoảng hốt trong bếp.
“…Đừng, giữ yên miếng băng chứ!”
“Chị Vellet - ướt nhẹp rồi này! Rỉ hết qua kẽ tay tôi rồi đây!” Anh giúp việc tên Prythe chạy đến mang theo thêm nhiều miếng băng gạc tự chế. Lúc anh ta mở cửa bếp ra, Faith thoáng thấy cậu bé bị thương đang nằm trên thảm lò sưởi, Jeanne đang giữ rịt miếng giẻ đỏ ướt sũng quanh cổ chân cậu. Cậu bé chửi thề qua hàm răng nghiến chặt, mắt nhắm tít.
“Tôi không chứa cái loại lời lẽ này trong bếp tôi đâu nhé,” lời bà Vellet tuyên bố vọng ra khi cánh cửa đóng lại. “Nếu lúc này cậu chảy máu đến
chết, rồi bị lôi xuống địa ngục vì ăn nói dơ bẩn thì sao đây hử?” Cỗ xe của bác sĩ Jackler đến nơi trong vòng một giờ đồng hồ. Ông ta cúi chào bà Sunderly và bà Vellet, nhưng trán cau lại như tập trung chuyên môn thay vì nụ cười xã giao.
“Thằng nhỏ thế nào?” ông ta hỏi ngay. “Chắc là nghiêm trọng hử? Hừ, hy vọng là thế - tôi vừa mới rót ra vại bia tươi tẩm vị để cho nguội bớt trên bàn đầu giường tôi đấy, mà tôi ghét để nó bị bỏ phí vô ích lắm nhé.” Ông ta hỏi lấy chút cồn thuốc phiện để làm tê vết thương cho bệnh nhân, cùng một tách trà nóng để giúp mình ấm lại khỏi cái lạnh của cuộc hành trình. “Tôi chẳng khi nào thích làm việc với mấy ngón tay tê cóng cả, mà con người ta làm ấm tốt nhất là từ bên trong ra.”
Trong nhà trở nên bình tĩnh hơn sau khi bác sĩ đến. Một tiếng sau bác sĩ bước ra, tay đã rửa sạch còn đồ đạc lại gọn vào túi.
“Cậu nhỏ đáng thương như thế nào rồi ạ?” bà Myrtle bẽn lẽn hỏi. “À, phần răng bẫy không động đến xương, tạ ơn trời đất, nhưng chúng đâm thủng hai lỗ vào phần thịt bắp chân cậu nhỏ. Tôi đã rửa sạch rỉ sét cùng bụi đất khỏi chúng bằng hết khả năng, rồi chùi qua vết thương với axít carbolic.” Vị bác sĩ chừng như ý thức thấy bà Myrtle mặt trắng bệch cả ra khi nghe mấy lời mình, nên ông ta đổi đề tài. “Thằng bé đã được băng bó và chống thấm rồi, thôi để tôi đưa nó về nhà luôn vậy - tôi biết gia đình Parris mà.”
Một thoáng sau Faith nhận ra vì sao cái tên Parris lại nghe quen. Người đàn ông nó gặp trong rừng rồi bỏ chạy đi đấy có tên là Tom Parris, theo lời bà Vellet. Cậu bé bị thương cũng bằng như tuổi con trai ông này. Chắc cả gia đình đấy thích đi bắt sò.
Khi áo khoác của bác sĩ được mang đến, ông ta nhìn quanh rồi cau