🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cây Kim Rỗng - Maurice Leblanc full mobi pdf epub azw3 [Phiêu Lưu]
Ebooks
Nhóm Zalo
ARSÈNE LUPIN Siêu Trộm Hào Hoa Cây Kim Rỗng
Tác giả Maurice Leblanc
Người dịch Ngụy Thanh Tuyên Phát hành Đinh Tị Books
Nhà xuất bản Văn học
Ngày xuất bản 3/2020
ebook©vctvegroup
1. Phát súng
R
aymonde lắng tai nghe. Tiếng động lặp lại tới hai lần, đủ rõ để tách bạch khỏi mớ âm thanh hỗn độn mơ hồ trong màn đêm tĩnh lặng tột cùng, nhưng lại quá khẽ để đoán ra tiếng động ấy ở gần hay xa, quanh quẩn trong những bức tường của dinh thự đồ sộ miền thôn dã này, hay vọng tới từ bên ngoài, giữa những ngóc ngách tối tăm nơi hoa viên kia.
Cô nhẹ nhàng ngồi dậy. Cửa sổ phòng cô chỉ khép hờ: Cô đẩy cánh cửa mở toang ra. Ánh trăng phủ trên khung cảnh bình yên với những bãi cỏ, bụi cây, nơi phế tích còn sót lại của tu viện cũ nằm rải rác và nổi bật trong những dáng hình điêu tàn bi thảm, những chiếc cột gãy gục, những cổng vòm đổ nát, những mảnh mái hiên vỡ và những mảng vòm chống đã sập tự khi nào. Một làn gió nhẹ lửng lơ lướt trên vạn vật nơi bề mặt, nhẹ nhàng lùa qua những cành cây cao khẳng khiu bất động, nhưng lại khẽ lay những chiếc lộc non nhỏ xíu của mấy lùm bụi thấp.
Và, bất thình lình, cô lại nghe thấy âm thanh đó. Nó phát ra từ phía bên trái, ở ngay tầng dưới, nghĩa là trong phòng khánh tiết bên cánh tây lâu đài.
Dẫu vốn là người gan dạ và mạnh mẽ, cô gái vẫn thấy sợ. Cô khoác áo choàng ngủ và cầm lấy mấy que diêm.
“Raymonde, Raymonde!”
Có tiếng ai nhẹ như hơi thở cất lên gọi cô từ phòng kế bên, cửa phòng bên ấy ăn thông sang bên này, cánh cửa vẫn chưa đóng lại. Cô dò dẫm lần ra đó vừa lúc Suzanne, em họ cô, bước ra và ngã vào vòng tay cô. “Raymonde, là chị đấy à? Chị có nghe thấy…?”
“Có. Vậy là em chưa ngủ ư?”
“Chắc tiếng chó sủa đã làm em tỉnh giấc, cũng được một lúc lâu rồi. Nhưng bây giờ không thấy tiếng nó nữa. Mấy giờ rồi hả chị?”
“Khoảng bốn giờ.”
“Nghe kìa! Chắc chắn, có người đi trong phòng khánh tiết!” “Không có gì nguy hiểm cả đâu, cha em đang ở dưới đó mà, Suzanne.”
“Nhưng sẽ nguy hiểm cho ông, phòng của ông ngay cạnh phòng khách nhỏ.”
“Ngài Daval cũng ở dưới đó mà…”
“Ở đầu đằng kia lâu đài, ngài ấy không đời nào nghe thấy được đâu.”
Hai chị em do dự, không biết phải làm sao. Họ có nên hô hoán lên không? Hay hét to kêu cứu? Họ không dám, họ sợ cả giọng nói của chính mình. Nhưng Suzanne, lúc bấy giờ đã chạy ra cửa sổ, cố nén tiếng hét: “Nhìn kìa! Một người đàn ông! Gần đài phun nước!”
Một gã đàn ông đang rảo những bước gấp gáp. Hắn cắp dưới nách một thứ khá lớn, hai chị em không nhận ra đó vốn là cái gì? Nó đập vào chân và
làm vướng víu những bước đi của hắn. Họ thấy hắn tới gần nhà nguyện cũ nằm trong khu di tích tu viện, nhưng băng ngang qua nhà nguyện và rẽ sang hướng cái cửa ngách trên một bức tường có lỗ hổng. Cánh cửa hẳn đang mở, vì gã đàn ông nọ đột nhiên biến mất khỏi tầm mắt và hai chị em không hề nghe thấy tiếng kẽo kẹt thông thường của mấy tấm bản lề.
“Hắn từ phòng khánh tiết ra.” Suzanne thì thầm.
“Không, cầu thang và hành lang nhà ta phải dẫn hắn dịch về mé trái nhiều hơn mới đúng, trừ khi…”
Một ý nghĩ cùng nảy ra trong đầu họ. Họ nhoài người ra bên ngoài. Bên dưới họ, một cái thang dựng ngay trước nhà, chân thang ở lầu một⦾. Có ánh sáng lập lòe ngoài ban công đá. Và một gã khác, cũng mang theo thứ gì đó bên người, trèo qua lan can, trượt xuống cái thang và tẩu thoát theo cùng một lối với gã đầu tiên.
Suzanne, sợ đến suýt ngất, khuỵu gối xuống đất, lắp bắp nói: “Ta phải kêu lên, ta phải kêu cứu thôi…”
“Ai sẽ đến bây giờ? Cha em… mà nếu vẫn còn nhiều tên nữa trong nhà… thì bọn chúng sẽ xông cả vào ông ư?”
“Vậy… vậy thì… chúng ta có thể gọi những người hầu tới, chuông của chị rung đến tầng họ ở mà.”
“Phải, phải rồi, có lẽ thế sẽ hay hơn. Miễn là họ đến kịp lúc!”
Raymonde quờ tay, lần tìm chiếc chuông điện ở cạnh giường và nhấn nút. Họ nghe tiếng chuông kêu vang lên ở tầng trên và tưởng như âm thanh chói tai đó khiến bất kỳ ai ở bên dưới cũng nghe thấy rõ mồn một.
Hai chị em chờ đợi. Sự yên ắng trở nên đáng sợ và con gió nhẹ kia
không còn rung những chiếc lá trên mấy lùm bụi nữa.
“Em sợ… sợ quá!” Suzanne rên rỉ.
Và, đột nhiên, từ trong bóng tối sâu hun hút bên dưới họ vọng lên tiếng vật lộn, tiếng đồ đạc đổ vỡ loảng xoảng, tiếng thét, tiếng kêu la và tiếp đó, một tiếng rên khản đặc, kinh hoàng và đáng sợ, tiếng rú của một người đàn ông bị giết…
Raymonde nhảy ra phía cửa. Suzanne bíu chặt lấy cánh tay cô. “Không… không, đừng bỏ em lại một mình, em sợ lắm…”
Raymonde đẩy cô sang một bên rồi chạy vụt đi theo lối hành lang, Suzanne tấp tểnh chạy theo sau, người lảo đảo, hết va vào tường bên này lại ngã sang tường bên kia, miệng không ngừng la hét. Raymonde chạy ra
tới chỗ cầu thang, lao bổ xuống dưới, nhào vào cửa phòng khánh tiết và khựng lại, đứng như trời trồng ở ngưỡng cửa, vừa lúc Suzanne sụp xuống bên cạnh cô. Ngay trước mặt họ, chỉ cách chừng ba bước, một gã đàn ông đứng đó, tay cầm một chiếc đèn lồng. Hắn giơ chiếc đèn về phía hai cô gái, làm họ lóa mắt với ánh sáng phát ra từ đó, hắn ngắm gương mặt tái mét của họ một lúc lâu, và rồi, không một chút vội vàng, bằng những động tác bình thản nhất trên đời, hắn với lấy chiếc mũ của mình, rút một mảnh giấy và hai cọng rơm, chùi mấy dấu chân trên thảm, đi ra ban công, rồi quay lại phía các cô gái, khom người thật thấp, cúi đầu chào và biến mất.
Người đầu tiên chạy sang căn phòng nhỏ ngăn giữa phòng khánh tiết và phòng ngủ của bá tước de Gesvres là Suzanne. Nhưng, ngay ở lối vào, một cảnh tượng hãi hùng làm cô kinh sợ. Dưới ánh trăng chiếu xiên, cô nhìn thấy hai cái xác không hồn nằm gần nhau trên sàn nhà. Cô cúi rạp người xuống bên cạnh một trong hai người nọ.
“Cha! Cha ơi! Là cha phải không? Chuyện gì xảy ra với cha vậy?” Cô hoảng loạn gào khóc.
Một lúc sau, Bá tước de Gesvres khẽ cựa mình. Giọng yếu ớt, ông thều thào nói: “Đừng sợ… ta không bị thương. Còn Daval? Ông ấy còn sống chứ? Còn con dao… con dao đâu?…”
Hai người hầu cầm nến chạy tới. Raymonde lao tới chỗ người còn lại và nhận ra đó là Jean Daval, thư ký riêng và cũng là tâm phúc của ngài Bá tước. Một dòng máu nhỏ rỉ ra từ cổ ông. Gương mặt ông đã mang màu xám ngoét của cái chết.
Rồi cô đứng dậy, quay trở lại phòng khánh tiết, lấy khẩu súng trong tủ bày chiến cụ treo trên tường và bước ra ngoài ban công. Kể từ lúc gã đàn ông nọ đặt chân lên chiếc thang cho đến giờ, chắc chắn chưa quá năm mươi giây, hoặc cùng lắm là sáu mươi giây. Do đó, hắn chưa thể đi được xa, nhất là khi hắn lại còn thận trọng đẩy cái thang dịch ra, hòng ngăn người trong nhà chạy xuống bằng chính cái thang đó. Và chẳng mấy chốc, cô đã nhìn thấy hắn đang đi dọc chỗ nhà nguyện cũ đổ nát. Cô gác súng lên vai, bình tĩnh ngắm và bóp cò. Gã đàn ông ngã vật xuống.
“Thế là xong! Xong hẳn!” Một trong hai anh hầu nói. “Ta đã khử được tên này rồi. Tôi sẽ chạy xuống dưới đó!”
“Không, Victor, hắn đang ngồi dậy… anh nên xuống theo lối cầu thang và đi thẳng tới chỗ cái cửa ngách trên bức tường bao quanh lâu đài. Đó là lối duy nhất hắn có thể trốn ra.”
Victor vội vàng chạy đi ngay lập tức, nhưng anh ta chưa ra đến vườn hoa, gã đàn ông nọ đã lại ngã gục xuống. Raymonde gọi người hầu còn lại: “Albert, anh có thấy hắn ta dưới đó không? Ở gần hàng hiên chính chỗ nhà
nguyện ấy?”
“Thưa cô, có ạ. Hắn ta đang bò trên cỏ, hắn đã bị…”
“Đứng đây quan sát hắn cho tôi.”
“Hắn không cách nào thoát được đâu, bên phải nhà nguyện là bãi cỏ trống mà…”
“Còn Victor, anh canh ở cánh cửa phía bên trái.” Cô nói và cầm súng lên.
“Nhưng, chắc chắn, cô sẽ không xuống dưới đó chứ, thưa tiểu thư?”
“Có, có chứ!” Cô đáp, giọng kiên quyết và cử chỉ dứt khoát. “Cứ kệ tôi! Tôi vẫn còn một băng đạn nữa. Nếu hắn mà nhúc nhích…”
Cô bước ra ngoài. Một lát sau, Albert trông thấy cô tiến thẳng tới chỗ nhà nguyện đổ. Từ ô cửa, anh gọi với ra: “Hắn lê ra phía sau hàng hiên rồi. Tôi không nhìn thấy hắn đâu nữa. Tiểu thư, xin hãy cẩn thận…”
Raymonde đi vòng qua những hành lang cũ, hòng chặn đường rút lui của gã đàn ông nọ, và Albert chẳng mấy chốc đã mất dấu cô. Vài phút trôi qua, không thấy cô quay lại, anh bắt đầu sốt ruột và, vẫn tiếp tục dõi mắt ra chỗ khu di tích, thay vì đi xuống bằng cầu thang bộ, anh cố hết sức với lấy chiếc thang đứng. Khi với được cái thang, anh nhanh chóng tụt xuống và chạy thẳng đến hàng hiên gần chỗ trông thấy gã đàn ông nọ lần cuối. Chạy hơn ba mươi bước nữa, anh gặp Raymonde, đang tìm kiếm cùng với Victor.
“Thế nào rồi?” Anh hỏi.
“Không tóm được hắn.” Victor đáp.
“Còn cửa ngách?”
“Tôi tới đó rồi, chìa khóa đây.”
“Ấy vậy… hắn phải…”
“Ồ, chúng ta chắc chắn sẽ tóm được tên vô lại ấy thôi! Hắn sẽ rơi vào tay ta chỉ trong vòng mười phút.”
Bác nông dân và người con trai, bị tiếng súng đánh thức, từ khu nông trại phía đằng xa bên phải – nhưng vẫn nằm trong vòng bao bọc của các bức tường điền trang – cũng đã chạy sang tới đây. Họ không gặp ai trên đường.
“Chắc chắn rồi.” Albert nói. “Tên khốn ấy chưa thể nào ra khỏi nhà nguyện đổ này được đâu. Hắn có chui xuống lỗ, ta cũng sẽ moi hắn từ dưới tận đáy lên!”
Họ tiến hành một cuộc tìm kiếm hết sức bài bản: Họ lùa, đập, khua từng bụi cây, họ gỡ hết mấy đám thường xuân nặng trịch quấn quanh những thân cột. Họ kiểm tra xem nhà nguyện đã được khóa tử tế chưa và có ô cửa kính nào bị đập vỡ hay không. Họ đi quanh các hành lang và sục sạo khắp mọi ngõ ngách, từng xó xỉnh một. Cuộc tìm kiếm không có kết quả.
Nhưng họ phát hiện ra một thứ: Ở chỗ gã nọ ngã xuống sau phát súng của Raymonde, họ nhặt được một chiếc mũ tài xế bằng da thuộc rất mềm, ngoài ra, không còn gì khác.
Sáu giờ sáng, lực lượng hiến binh Ouville-la-Rivière được thông báo về vụ việc là ngay lập tức đến hiện trường, sau khi gửi thư hỏa tốc lên cơ quan công tố quận Dieppe trình bày chi tiết vụ án và khẳng định “đã tìm thấy mũ cùng con dao găm mà thủ phạm sử dụng khi gây án,” chắc chắn sẽ tóm được thủ phạm chính trong thời gian ngắn nhất.
Mười giờ sáng, có hai chiếc xe chạy xuống con dốc nhỏ dẫn vào lâu đài. Một chiếc là xe ngựa mui gập bốn chỗ kiểu cũ, chở trợ lý công tố viên và dự thẩm điều tra ở địa phương, cùng thư ký của mình. Chiếc còn lại, một cỗ xe độc mã hai chỗ xoàng xĩnh, có hai ký giả, đại diện của Tạp chí Rouen và một tòa báo lớn ở Paris.
Lâu đài cổ hiện ra trước mắt – đây một thời từng là khu nhà ở của các thầy phó tu viện Ambrumésy, bị cuộc Cách mạng Pháp năm nào tàn phá, rồi được Bá tước de Gesvres khôi phục và sở hữu cho tới giờ đã là hai mươi năm. Lâu đài gồm một tòa nhà chính, một tháp đồng hồ nhọn cao chót vót và hai chái, mỗi chái đều có một cầu thang với lan can đá lượn quanh. Phóng tầm mắt ra khỏi bờ tường bao quanh hoa viên, băng qua vùng đất được những vách đá Normandie cao vút nâng đỡ, bạn có thể thấy dải eo biển xanh biêng biếc thấp thoáng giữa hai ngôi làng Sainte Marguerite và Varengeville.
Nơi đây, Bá tước de Gesvres sống cùng Suzanne – một thiếu nữ tóc vàng xinh đẹp và mong manh – con gái rượu của mình và cô Raymonde de
Saint-Véran, cô cháu gái được ngài đưa về sống cùng hai năm trước, khi song thân cô qua đời cùng một ngày, bỏ Raymonde lại mồ côi một mình. Cuộc sống nơi lâu đài êm ả và bình lặng đều đều trôi. Thỉnh thoảng, có mấy người hàng xóm ghé lại thăm. Mùa hè tới, gần như ngày nào ngài Bá tước cũng dẫn hai cô gái tới Dieppe. Ngài có vóc người cao lớn với gương mặt điển trai, nghiêm nghị và mái tóc đang dần điểm bạc. Là người vô cùng giàu có, Bá tước đích thân quản lý khối tài sản đồ sộ và coi sóc những khu đất rộng lớn của mình, cùng sự trợ giúp của vị thư ký riêng, ngài Jean Daval.
Ngay khi vừa tới, ngài dự thẩm đã lập tức ghi lại những phát hiện đầu tiên của trung sĩ Quevillon bên lực lượng hiến binh. Tuy vẫn chưa bắt được thủ phạm nhưng người ta đã cho chặn hết tất cả những lối ra vào ngoài hoa viên. Trốn thoát là điều bất khả thi.
Sau đó, đoàn điều tra nho nhỏ ấy đi ngang qua đại sảnh đường và phòng ăn, cả hai đều nằm ở tầng trệt, và lên thẳng lầu một. Họ ngay lập tức chú ý đến trật tự hoàn hảo của những thứ được sắp xếp trong phòng khánh tiết. Đồ đạc, bàn ghế – chỗ nào vẫn ở nguyên chỗ nấy, hoàn toàn ngăn nắp, chẳng chút xê dịch hay mất mát. Hai bên tường treo những tấm thảm Vlaanderen⦾ dệt hình người tuyệt đẹp. Trên tấm ốp tường đối diện với ô cửa sổ là bốn bức họa sơn dầu cổ tuyệt mỹ, vẽ những cảnh thần thoại, được lồng khung theo phong cách đương đại. Đó là những bức tranh nổi tiếng của danh họa Rubens, được cậu của Bá tước de Gesvres – Hầu tước xứ Bobadilla, một nhà quý tộc người Tây Ban Nha, để lại cho ngài, cùng với những tấm thảm Vlaanderen dệt tay.
Ngài Filleul, dự thẩm⦾, nhận xét: “Nếu động cơ của vụ này là trộm cắp, thì dù sao đi nữa, phòng khánh tiết này không phải là đối tượng của
chúng.”
“Ai mà biết được?” Viên trợ lý công tố nói, người này vốn ít nói, nhưng một khi đã lên tiếng thì đều là để phản pháo quan điểm của viên dự thẩm điều tra.
“Thôi nào, thưa tôn ông thân mến, tên trộm phải nghĩ ngay đến việc cuỗm hết những bức họa và thảm thêu trứ danh kia rồi chứ.”
“Có lẽ là không có thời gian.”
“Để rồi xem.”
Đúng lúc đó, Bá tước de Gesvres bước vào, đi cùng là một vị bác sĩ. Ngài Bá tước, trông chẳng có vẻ gì như vừa bị tấn công, hoan nghênh hai vị quan chức. Rồi ngài mở cửa phòng khách nhỏ.
Căn phòng này, không ai được phép bước vào kể từ khi phát hiện ra vụ việc, trừ vị bác sĩ, khác hẳn với phòng khánh tiết vì nó vô cùng bừa bộn. Hai chiếc ghế bị đổ ngửa, nằm chỏng chơ, một cái bàn bị đập vỡ thành mấy mảnh và vài món đồ khác – một chiếc đồng hồ du lịch, một tệp đựng giấy tờ, một hộp văn phòng phẩm – nằm ngổn ngang dưới sàn nhà. Và trong đống giấy rải rác khắp phòng, có mấy tờ còn vương cả máu.
Vị bác sĩ lật tấm vải che thi thể lên. Ngài Jean Daval, người mặc bộ com lê nhung như thường ngày, chân đi giày đinh, nằm ngửa, một cánh tay gập lại dưới lưng. Cổ áo và cà vạt của ông đã được nới ra, còn áo sơ mi mở phanh cúc, để lộ một vết thương lớn ở ngực.
“Tử vong ngay tức khắc.” Bác sĩ cho biết. “Chỉ một nhát dao là đủ.”
“Không còn nghi ngờ gì nữa! Đó chính là con dao mà tôi đã thấy ở dưới bệ lò sưởi trong phòng khánh tiết, cạnh cái mũ da, đúng không?” Viên
dự thẩm nói.
“Đúng thế!” Bá tước de Gesvres nói. “Con dao được nhặt ở đây. Nó cất trong cùng một tủ bày vũ khí treo ở phòng khánh tiết mà cháu gái tôi, quý cô de Saint-Véran, đã lấy khẩu súng ấy! Còn cái mũ tài xế rõ ràng là của tên giết người.”
Ngài Filleul kiểm tra thêm một số chi tiết trong phòng, đặt một vài câu hỏi cho vị bác sĩ, rồi sau đó yêu cầu Bá tước de Gesvres kể lại cho mình những gì ngài đã nghe và nhìn thấy. Bá tước kể lại như sau:
“Jean Daval đánh thức tôi dậy. Tôi khi ấy đang ngủ, lúc lơ mơ hình như tôi đã nghe thấy tiếng động. Rồi khi mở mắt, tôi thấy Daval đang đứng dưới chân giường mình, tay cầm nến và đóng bộ đầy đủ, giống như bây giờ vậy, vì ông ấy thường làm việc đến khuya. Trông ông rất kích động và ông nói, với giọng thì thầm: ‘Có kẻ nào đó trong phòng khánh tiết.’ Bản thân tôi cũng nghe thấy tiếng động. Tôi trở dậy và khẽ đẩy cánh cửa dẫn đến phòng khách nhỏ này. Cùng lúc đó, cánh cửa ở đằng kia – cánh cửa mở sang phòng khánh tiết – mở tung ra và một gã đàn ông xuất hiện. Kẻ đó xông vào tôi và đánh thật mạnh vào thái dương tôi, làm tôi choáng váng, ngất đi. Tôi kể với ngài chuyện này không được chi tiết cho lắm, thưa ngài dự thẩm, vì lý do đơn giản rằng tôi chỉ nhớ được những sự kiện chính, mà những sự kiện này, việc nọ tiếp nối việc kia nhanh chóng quá, thật sự hết sức dồn dập.”
“Rồi sau đó?”
“Sau đó, tôi không biết nữa, tôi đã ngất đi mà. Khi tôi tỉnh dậy thì đã thấy Daval đang nằm sõng soài bên cạnh rồi, và bị tử thương.”
“Thoạt tiên, ngài không nghi ngờ ai à?”
“Không có ai cả.”
“Ngài không có kẻ thù ư?”
“Tôi chẳng biết.”
“Ngài Daval cũng không ư?”
“Daval à? Kẻ thù ư? Ông ấy là người tốt nhất trên đời. Quý ông Daval là thư ký của tôi hai mươi năm nay rồi, và có thể nói, còn là tri âm tri kỷ của tôi nữa, tôi chưa từng thấy ở ông ấy có điều gì khác ngoài yêu thương và tình hữu nghị.”
“Nhưng đã có một vụ trộm và đã có một vụ giết người: Chắc chắn phải có động cơ cho tất cả những việc này.”
“Động cơ? Sao chứ? Chỉ đơn thuần là một vụ trộm cắp thôi mà.” “Trộm cắp? Vậy là ngài đã bị đánh cắp thứ gì ư?”
“Không, chẳng có gì cả.”
“Thế nghĩa là…”
“Thế nghĩa là, nếu chúng không ăn cắp cái gì cả và chẳng có thứ gì bị thiếu, chí ít, chúng cũng đã mang món đồ nào đó đi.”
“Món đồ gì cơ?”
“Tôi không biết. Nhưng con và cháu gái tôi sẽ kể lại cho ngài, hai cô quả quyết rằng mình đã trông thấy hai gã đàn ông lần lượt băng ngang qua hoa viên và rằng hai gã đó lúc bấy giờ đang mang theo thứ gì nặng lắm.”
“Hai tiểu thư…”
“Hai tiểu thư có lẽ đã mơ ngủ, ngài nghĩ thế chăng? Có lẽ vì tôi đã vắt
kiệt sức của mình với những thẩm vấn và giả thiết suất từ sáng tới giờ, nên các cô nói là tôi tin ngay, chẳng nghi ngờ, suy xét… Tuy nhiên, đi hỏi thẳng hai cô gái là việc quá dễ mà.”
Hai chị em được vời đến phòng khánh tiết. Suzanne, vẫn còn tái mét và run rẩy, khó mà nói chuyện được. Raymonde, cứng cỏi, mạnh mẽ hơn và cũng xinh đẹp hơn, với ánh vàng lóe lên trong đôi mắt màu nâu lấp lánh, kể lại những sự kiện xảy ra trong tối đó và những gì mình đã làm.
“Vậy là, thưa tiểu thư, tôi có thể coi những bằng chứng cô cung cấp là đáng tin cậy chứ?”
“Chắc chắn! Những kẻ băng qua hoa viên đã mang theo những thứ gì đó đi cùng với chúng.”
“Còn kẻ thứ ba?”
“Hắn tay không, tẩu thoát từ đây.”
“Cô có thể mô tả hắn với chúng tôi được không?”
“Hắn chiếu đèn làm chúng tôi lóa mắt. Tất cả những gì tôi có thể kể lại cho ngài đây là hắn cao và lực lưỡng mà thôi.”
“Còn cô, cô cũng đồng ý như vậy chứ, thưa tiểu thư?” Ngài dự thẩm quay sang Suzanne de Gesvres hỏi.
“Vâng… mà đúng hơn là… không.” Suzanne ngẫm nghĩ, đáp. “Tôi nghĩ hắn gầy và tầm thước.”
Ngài Filleul mỉm cười, ông đã quá quen với những ý kiến và cách nhìn nhận không nhất quán của các nhân chứng về cùng một sự việc.
“Vậy là, chúng tôi có hai việc phải làm để giải quyết vụ án hết sức oái
oăm này. Thứ nhất là tìm ra gã đàn ông vừa cao vừa lùn, vừa mập vừa gầy trong phòng khánh tiết; và thứ hai là giải quyết hai gã đàn ông trong hoa viên, những gã bị tố là đã đem đồ ở trong phòng khánh tiết đi – những thứ vẫn còn nguyên ở đây!”
Ngài Filleul là một dự thẩm theo trường phái châm biếm, theo chính lời ông nói. Ông cũng là một dự thẩm đầy tham vọng và là người không từ chối khán giả cũng như cơ hội được biểu diễn những bí kíp của mình trước đông đảo quần chúng, minh chứng là số lượng người bước vào phòng khánh tiết ngày càng đông. Hai ký giả cũng đã tới cùng bác nông dân và người con trai, bác làm vườn và vợ bác, những người hầu trong lâu đài và cả hai người đánh xe ở Dieppe.
Ngài Filleul tiếp tục: “Còn những nghi vấn về cách người thứ ba biến mất nữa. Đây chính là khẩu súng mà tiểu thư đây đã bắn, và bắn từ ô cửa sổ này?”
“Đúng vậy. Người đàn ông đó đã đến chỗ bia mộ – tấm bia gần như bị vùi dưới những bụi mâm xôi, ở bên trái hàng hiên.”
“Nhưng hắn đã dậy được?”
“Nửa chừng thôi ạ. Vì Victor đã chạy xuống ngay lập tức để canh chỗ cửa ngách, còn tôi chạy theo anh ấy, chúng tôi để người hầu thứ hai, anh Albert, ở lại trông chừng ở đây.”
Bấy giờ, Albert đưa ra bằng chứng của mình và ngài dự thẩm kết luận:
“Vậy là, theo anh, kẻ bị thương sẽ không thể trốn thoát về phía bên trái, bởi anh bạn cùng làm với anh đang canh chỗ cửa ngách; hắn cũng không chạy về phía bên phải được, vì nếu thế anh đã trông thấy hắn băng ngang
qua bãi cỏ. Nói một cách logic thì vì vậy, hắn, ngay lúc này đây, đang nấp ở một chỗ có phạm vi tương đối hẹp nằm ngay trước mắt chúng ta.”
“Tôi tin chắc như vậy.”
“Và cô cũng thế, thưa tiểu thư?”
“Vâng.”
“Và tôi cũng vậy.” Victor nói.
Viên phó công tố kêu lên, bằng giọng điệu đầy giễu cợt: “Phạm vi điều tra khá hẹp. Chúng ta chỉ việc tiếp tục cuộc tìm kiếm bắt đầu từ bốn giờ trước thôi mà.”
“Có khi chúng ta may mắn hơn đấy.”
Ngài Filleul nhấc chiếc mũ dạ trên bệ lò sưởi lên xem xét, rồi vẫy tay gọi người đội trưởng bên lực lượng hiến binh lại, thì thầm: “Trung sĩ, hãy điều một người của anh tới Dieppe ngay lập tức. Nói cậu ta tới gặp ông Maigret, thợ làm mũ ở đường Barre, và bảo ông ấy nếu được, hãy cho cậu ta biết chiếc mũ này bán cho ai.”
Phạm vi điều tra – theo lời của phó công tố viên – chỉ giới hạn trong khu vực bên trong tường rào lâu đài, khoảng giữa tòa chính thất với bãi cỏ phía bên phải và góc tạo thành bởi bức tường ở bên trái với bức tường đối diện lâu đài, nghĩa là, một tứ giác vuông vức mỗi cạnh dài chừng một trăm mét, nơi tàn tích của Ambrumésy – một tu viện nổi tiếng thời Trung Cổ – nằm ngổn ngang.
Họ ngay lập tức trông thấy những dấu vết kẻ đào tẩu để lại trên bãi cỏ. Người ta thấy có mấy vệt máu đen, giờ gần như đã khô, vương ở hai chỗ. Phía sau chỗ rẽ cuối hàng hiên không còn gì để phải xem nữa, bởi mặt đất
ở chỗ này phủ đầy lá thông, vốn chẳng thể lưu lại được dấu vết nào. Nhưng, như vậy thì, gã đàn ông bị thương nọ làm cách nào lại có thể qua mặt được cả Raymonde, Victor và Albert? Chẳng có gì ngoài vài bụi cây mà những người hầu và mấy anh lính trong lực lượng hiến binh đã đập vào đập ra suốt từ bấy đến giờ, và vài bia mộ bằng đá cũng đã được kiểm tra kĩ lưỡng phía bên dưới. Ngài dự thẩm yêu cầu bác làm vườn, người giữ chìa khóa, mở cửa nhà nguyện – một viên ngọc quý đích thực của nghệ thuật điêu khắc, một thánh điện đá cổ mà cả thời gian lẫn các nhà cách mạng đều kính trọng – và, với những kiệt tác điêu khắc tinh xảo nơi mái hiên cùng những pho tượng nhỏ tạc hình người, nhà nguyện này luôn được xem như là một kỳ quan của phong cách Norman-Gothic. Nhà nguyện, bên trong rất giản dị, chẳng có món đồ trang trí nào khác ngoài bàn thờ bằng đá cẩm thạch, không có lấy một chỗ để trốn. Vả lại, muốn trốn thì kẻ nọ phải vào được bên trong. Mà vào bằng cách nào cơ chứ?
Cuộc điều tra kết thúc ở chỗ cửa ngách trên bức tường – cánh cửa dẫn khách tham quan vào quần thể tu viện đồ sộ một thời – giờ chỉ còn là di tích. Cánh cửa nhìn ra một con đường trũng, chạy giữa bờ tường hoa viên và một khu rừng có vài mỏ đá bỏ hoang. Ngài Filleul nhoài người ra phía trước: Trên lớp bụi đường có dấu lốp hơi chống trượt. Raymonde và Victor nhớ lại, sau phát súng, dường như họ đã nghe thấy tiếng máy nổ khùng khục của xe hơi.
Ngài dự thẩm đưa ra giả thuyết: “Kẻ bị thương nọ chắc chắn đã tẩu thoát cùng đồng bọn.”
“Không thể nào!” Victor kêu lên. “Tôi đứng canh ở đây khi tiểu thư và Albert vẫn còn trông thấy hắn mà.”
“Vớ vẩn! Hắn phải ở đâu đó, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong. Làm gì còn nước nào khác nữa!”
“Hắn đang ở đây.” Hai anh hầu khăng khăng đầy bướng bỉnh.
Ngài dự thẩm nhún vai và quay lại lâu đài, tâm trạng có ít nhiều ủ dột. Không nghi ngờ gì nữa, đây quả là một vụ án bất thường. Một vụ trộm mà chẳng có gì bị đánh cắp, một tù nhân vô hình: Còn gì đáng chán hơn nữa kia chứ?
Đã quá trưa. Bá tước de Gesvres mời các quan chức và hai nhà báo ở lại ăn cơm. Họ dùng bữa trong im lặng, rồi ngài Filleul quay lại phòng khánh tiết, thẩm vấn những người hầu. Có tiếng vó ngựa từ dưới sân vọng lên và, chỉ một lúc sau, anh lính hiến binh được điều đến Dieppe bước vào.
“Thế nào, cậu có gặp người thợ làm mũ không?” Ngài dự thẩm háo hức reo lên, những mong cuối cùng cũng nhận được vài tin tích cực.
“Tôi đã gặp ông Maigret rồi ạ. Chiếc mũ được bán cho một người đánh xe.”
“Một người đánh xe!”
“Vâng, một người đánh xe đã đỗ xe ngay trước cửa hàng và hỏi mua một chiếc mũ tài xế bằng da màu vàng cho một trong những người khách của anh ta. Đây là chiếc duy nhất còn lại. Anh ta trả tiền mua mà chẳng hỏi han gì về kích thước, rồi lái xe đi. Anh ta rất vội vàng.”
“Đó là loại xe gì vậy?”
“Là xe ngựa mui gập bốn chỗ ạ.”
“Chuyện xảy ra vào ngày nào?”
“Ngày nào á? Sao thế ạ? Ngày hôm nay, tám giờ sáng nay.” “Sáng nay ư? Cậu đang nói cái gì thế?”
“Chiếc mũ được mua vào sáng ngày hôm nay.”
“Nhưng chuyện này là không thể, bởi vì chiếc mũ được tìm thấy vào tối hôm qua ở trong hoa viên. Người ta tìm thấy nó ở đó, lúc hung thủ đánh rơi khi hắn bỏ chạy, và vì thế, nó chắc chắn phải được mua từ trước.”
“Người bán mũ bảo với tôi rằng chiếc mũ được mua vào sáng nay ạ.”
Một khoảnh khắc hoang mang bao trùm tất cả. Vị dự thẩm sửng sốt đứng đờ người ra, cố gắng hiểu vấn đề. Rồi đột nhiên, ông giật mình, như thể vừa có một tia sáng lóe lên trong đầu. “Mau tìm bắt tay lái xe đã đưa chúng ta đến đây sáng nay! Tay đánh xe bốn chỗ mui gập ấy! Đưa hắn tới đây ngay lập tức!”
Trung sĩ lực lượng hiến binh và cấp dưới của mình chạy ngay ra chuồng ngựa. Vài phút sau, trung sĩ quay trở lại một mình.
“Tay đánh xe đâu rồi?”
“Nhà bếp mang thức ăn cho anh ta, anh ta dùng bữa, rồi sau đó…” “Rồi sau đó thế nào?”
“Anh ta đi khỏi đây.”
“Đánh xe đi ư?”
“Không. Anh ta lấy cớ muốn tới gặp người nhà ở Ouville, và mượn xe đạp của người giữ ngựa. Đây là mũ và áo khoác của anh ta.”
“Nhưng hắn ta để đầu trần mà đi à?”
“Không, anh ta đội cái mũ lấy ở trong túi ra.”
“Một cái mũ?”
“Phải, một cái mũ da màu vàng, hình như thế.”
“Một cái mũ da màu vàng? Sao cơ? Không thể, nó đang ở đây kia mà!”
“Thật là như vậy đấy, thưa ngài dự thẩm, cái mũ của gã kia giống y hệt cái này.”
Vị phó công tố viên cười khẩy. “Vui hết sức! Buồn cười hết sức! Có tận hai cái mũ… Một cái, cái mũ thật, bằng chứng duy nhất của chúng ta đã bay khỏi đây trên đầu của tay đánh xe giả mạo! Cái còn lại, cái mũ giả, thì nằm trong tay ông. Ồ, gã nọ chơi chúng ta vố này ngọt thật!”
“Bắt lấy hắn! Điệu cổ hắn về đây!” Ngài Filleul gào lên. “Cho hai quân bên anh phi ngựa đi, trung sĩ Quevillon, và phi hết tốc lực!”
“Giờ thì hắn đã xa tít mù khơi rồi.” Vị phó công tố viên nói. “Hắn thích xa đến đâu thì xa, chúng ta vẫn phải tóm được hắn.”
“Hy vọng là vậy, nhưng ngài dự thẩm ạ, tôi cho rằng những nỗ lực của ông nên được ưu tiên tập trung ở đây. Ông không lấy làm phiền khi đọc mẩu giấy tôi tìm được trong túi áo khoác này chứ?”
“Áo khoác nào?”
“Áo của gã đánh xe.”
Nói rồi, viên phó công tố đưa cho ngài Filleul một mẩu giấy, gấp làm tư, có mấy chữ viết bằng bút chì, với ngôn từ có ít nhiều thô lỗ:
Thủ lĩnh mà chết thì cô ả nhà này cứ liệu hồn!
Dòng chữ làm mọi người náo động.
“Nói ít hiểu nhiều.” Viên phó công tố lẩm bẩm. “Giờ chúng ta nhận được cả lời cảnh cáo cơ đấy!”
“Thưa ngài Bá tước!” Viên dự thẩm nói. “Tôi xin ngài chớ lo lắng. Và cả các tiểu thư cũng vậy. Lời đe dọa này không quan trọng, vì phía cảnh sát đã có mặt tại hiện trường. Chúng tôi sẽ cho thực hiện mọi biện pháp phòng bị, và tôi sẽ chịu trách nhiệm về an nguy của mọi người. Còn các anh, thưa các quý ông!” Rồi ông quay sang hai ký giả, nói tiếp. “Tôi dựa cả vào những suy xét khôn ngoan của các anh. Các anh có mặt ở cuộc thẩm vấn này là vì tôi vốn hết sức chiều lòng cánh báo chí, và sẽ rất tệ nếu các anh lại trả ơn tôi bằng cách…”
Đang nói thì ông ngừng lại, như chợt nghĩ ra điều gì, đoạn, quay sang nhìn hai người đàn ông trẻ tuổi, lần lượt từ người này sang người kia, rồi lại quay về người đầu tiên và hỏi: “Anh đại diện cho báo nào vậy, thưa anh?”
“Thưa, là Tạp chí Rouen.”
“Anh có thẻ ký giả chứ?”
“Đây ạ.”
Tấm thẻ được trình ra. Không còn gì để nói nữa. Ngài Filleul quay sang ký giả còn lại. “Thế còn anh?”
“Tôi?”
“Phải, anh, anh thuộc báo nào?”
“Sao vậy, ngài dự thẩm? Tôi viết cho nhiều tờ lắm… ở khắp mọi nơi…”
“Thẻ ký giả của anh?”
“Tôi chả có cái nào.”
“Hả? Thế là thế nào?”
“Để được một tòa báo cấp thẻ ký giả, ngài phải thuộc biên chế của tòa báo đó.”
“Ái chà chà!”
“Chậc, tôi chỉ là cộng tác viên thường xuyên, là ký giả tự do. Tôi gửi bài đến báo nọ báo kia. Họ sẽ đăng hoặc bỏ, tùy hoàn cảnh.”
“Nếu vậy thì, tên anh là gì? Giấy tờ của anh đâu?”
“Tên của tôi cũng chẳng nói được gì cho ngài cả. Còn giấy tờ thì tôi chẳng có cái nào.”
“Anh chẳng có giấy tờ gì để chứng minh nghề nghiệp của mình hết!” “Tôi làm gì có nghề.”
“Nhưng nghe đây, thưa ngài!” Ngài dự thẩm đã có phần nổi nóng, mới to tiếng. “Ngài đừng hòng giấu tên sau khi đã dám bày trò gian trá chui vào đây và khai thác những thông tin mật của cảnh sát!”
“Xin phép cho tôi được lưu ý một điều, thưa ngài dự thẩm. Ngài đã không hỏi gì tôi khi tôi tới, và do đó tôi chẳng có gì để nói. Bên cạnh đó, tôi thấy cuộc điều tra này chẳng có vẻ gì là bí mật, khi tất cả mọi người đều có mặt ở đây… thậm chí còn có cả một trong những tên tội phạm!”
Cậu nói năng nhẹ nhàng, bằng giọng điệu lịch sự vô cùng tận. Cậu là một chàng trai khá trẻ tuổi, rất cao, rất thanh mảnh, ăn mặc chẳng có lấy một chút chải chuốt cho hợp thời, khi cả áo khoác lẫn quần tây cậu mặc đều quá nhỏ so với thân hình của mình. Cậu có gương mặt hồng hào tựa như một cô gái, vầng trán cao, rộng với mái tóc cắt ngắn, bộ râu quai nón rậm, vàng, cắt tỉa xuề xòa. Đôi mắt sáng, lấp lánh trí tuệ. Trông cậu chẳng có vẻ gì là ngượng ngùng, miệng luôn nở nụ cười thân ái, không gợn chút giễu cợt.
Ngài Filleul dữ dằn nhìn cậu đầy ngờ vực. Hai người lính hiến binh bước lên phía trước. Cậu thanh niên kêu lên, vẻ thích thú: “Ngài dự thẩm, rõ ràng ngài đang nghi ngờ tôi là tên đồng lõa. Nhưng, nếu như vậy thì, tại sao tôi không chuồn khỏi đây khi thời cơ tới chứ, theo bước anh bạn đồng phạm của tôi ấy?”
“Có thể anh đã hy vọng…”
“Bất kỳ hy vọng nào cũng là ngu xuẩn. Ngài dự thẩm ạ, nếu suy xét kĩ một chút thì ngài sẽ công nhận với tôi: Điều đó rất hợp lý thôi.”
Ngài Filleul nhìn thẳng vào mắt cậu, gay gắt nói: “Đùa đủ rồi đấy! Tên?”
“Isidore Beautrelet.”
“Nghề?”
“Học sinh lớp Đệ nhất⦾ ban Văn Triết, trường Trung học Janson-de Sailly⦾.”
Ngài Filleul trợn tròn mắt, sẵng giọng: “Anh đang nói cái gì đấy? Học sinh lớp Đệ nhất…”
“Trường Janson, đường Pompe, số…”
“Ồ, nghe đây!” Ngài Filleul kêu lên. “Anh đang cố lòe tôi! Không ăn thua gì đâu, anh biết đấy, làm sao mà lừa người ta mãi được!”
“Phải nói là… ngài dự thẩm ạ, thấy ngài ngạc nhiên mà tôi kinh ngạc quá. Ở đây có gì mà tôi lại không thể là học sinh của trường Trung học Janson được chứ? Có lẽ là bộ râu của tôi chăng? Yên tâm đi, đây là râu giả đấy!”
Isidore Beautrelet gỡ mấy lọn râu dán trên cằm ra, và gương mặt không râu của cậu thậm chí trông càng trẻ trung và hồng hào hơn – một gương mặt học sinh thực sự, rồi, với tiếng cười như của một đứa trẻ, để lộ hàm răng trắng, cậu hỏi: “Bây giờ ngài đã tin chưa? Ngài có cần thêm bằng chứng không? Đây, ngài có thể xem địa chỉ trên mấy bức thư cha tôi gửi: Gửi: Anh Isidore Beautrelet, học sinh nội trú, trường Trung học Janson-de Sailly…”
Tin hay không thì trong ngài Filleul cũng chẳng có vẻ thích thú với câu chuyện. Ngài cộc cằn hỏi: “Cậu làm trò gì ở đây?”
“Sao thế? Tôi… tôi tới học hỏi, mở mang đầu óc!”
“Việc ấy người ta làm ở trường học, trường của cậu là một ví dụ.”
“Ngài quên mất rồi, thưa ngài dự thẩm, hôm nay là ngày Hai mươi ba tháng Tư và chúng tôi nghỉ lễ Phục Sinh.”
“Thì sao?”
“Thì tôi hoàn toàn có quyền tận hưởng kỳ nghỉ của mình theo cách mà tôi thích.”
“Cha của cậu…”
“Cha tôi sống ở đầu kia đất nước, ở Savoy và chính ông ấy cũng khuyên tôi làm một chuyến du lịch nho nhỏ tới Bờ Bắc.”
“Với một bộ râu giả ư?”
“Ồ, không! Đó là ý của riêng tôi. Ở trường, chúng tôi nói nhiều về những chuyến phiêu lưu bí ẩn lắm, chúng tôi đọc truyện trinh thám, thấy trong đó, người ta cải trang khi hành sự. Chúng tôi tưởng tượng ra rất nhiều vụ án kinh khủng và phức tạp. Thế là tôi nghĩ ra một trò tiêu khiển bắt chước người ta cải trang, và tôi dán bộ râu giả này lên. Thêm vào đó, tôi có ưu điểm là làm gì cũng làm hết sức nghiêm túc, rồi tôi cải trang thành một ký giả ở Paris. Đó, tối qua, sau hơn một tuần đằng đẵng chẳng có chuyện gì vui thú, tôi đã có vinh hạnh được làm quen với anh đồng nghiệp ở Rouen này của tôi như vậy đó! Rồi sáng nay, khi anh ấy nghe được tin về vụ giết người ở Ambrumésy, anh đã hết sức thân mật rủ tôi đi cùng và đề nghị cùng chia nhau tiền xe.”
Isidore Beautrelet nói những lời đó bằng sự mộc mạc, thẳng thắn và không hề giả tạo, rất có duyên, làm ai nghe cũng thấy thích. Ngài Filleul, dẫu trong lòng còn bực bội và vương vất nghi ngờ, vẫn thấy dễ chịu khi nghe cậu nói. Ngài hỏi cậu bằng giọng đã ít cáu kỉnh hơn:
“Vậy cậu đã thỏa mãn với hành trình thám hiểm này của mình chưa?”
“Quá thích! Tôi chưa bao giờ được dịp góp mặt trong một vụ án kiểu này. Tôi thấy vụ này vô cùng hấp dẫn, chẳng hề kém thú vị tẹo nào.”
“Chẳng hề kém thú vị hơn những vụ phức tạp đầy bí ẩn mà các cậu đánh giá quá cao trong mấy quyển trinh thám đó…”
“Vâng, lý thú lắm, thưa ngài dự thẩm! Tôi biết không một cảm xúc nào có thể sánh bằng cảm xúc khi được nhìn thấy tất cả những sự kiện từ từ bước ra khỏi bóng tối, tụ lại với nhau và dần dần, từng chút một, hình thành nên một sự thật khả dĩ.”
“Sự thật khả dĩ! Cậu đi hơi nhanh quá rồi đấy, cậu trai! Cậu có ý muốn nói mình đã tìm ra một lời giải nho nhỏ cho câu đố này rồi chăng?”
“Ồ không!” Beautrelet phá lên cười, đáp. “Chỉ là… tôi thấy, ta có thể dựa vào một số điểm nhất định ở vụ án này để rút ra đôi chút nhận xét, những điểm còn lại, thậm chí còn rất rõ ràng, xác đáng… đủ để kết luận nữa cơ.”
“A ghê thật! Tôi thấy chuyện này giờ đã trở nên vô cùng gây tò mò rồi đấy! Hẳn là tôi sẽ được biết điều gì đó hay ho lắm đây! Vì tôi xin thú thật, cùng nỗi xấu hổ vô cùng to lớn, rằng tôi chẳng biết gì ráo!”
“Đó là bởi vì ngài không có thời gian để suy luận, thưa ngài dự thẩm. Cái quan trọng nhất chính là suy luận. Những sự kiện diễn ra hiếm khi không tự mang lời giải thích!”
“Và, theo cậu, những sự kiện chúng tôi vừa xác minh đã tự mang lời giải thích?”
“Không phải chính ngài cũng nghĩ thế sao? Bất luận thế nào, tôi không xác minh điều gì khác ngoài những điều đã được ghi trong báo cáo chính thức của các ngài.”
“Tốt! Vậy là nếu tôi hỏi cậu, món đồ nào bị lấy cắp khỏi căn phòng này.”
“Tôi sẽ trả lời rằng tôi biết.”
“Hoan hô! Quý ông của tôi còn biết rõ hơn cả chính chủ kia đấy. Bá tước de Gesvres có thể xác minh và đối chiếu mọi thứ, nhưng Isidore Beautrelet anh thì không có đâu. Chắc ngài mất hẳn một cái tủ sách ba ngăn và một pho tượng to bằng người thật mà chẳng ai để ý không chừng… Còn nếu tôi hỏi cậu tên của kẻ giết người thì sao?”
“Lại một lần nữa, tôi xin trả lời rằng tôi biết.”
Tất cả mọi người có mặt ở đó đều giật mình. Ngài phó công tố và anh ký giả xúm đến gần hơn. Bá tước de Gesvres và hai cô gái, quá ấn tượng với vẻ tự tin điềm tĩnh của Beautrelet, chăm chú lắng nghe.
“Cậu biết tên của kẻ giết người”
“Phải.”
“Và cả nơi hắn trốn nữa, chắc vậy?”
“Phải.”
Ngài Filleul xoa tay.
“Hên chưa! Vụ bắt bớ này sẽ mang lại vinh quang cho sự nghiệp của tôi đây. Và cậu có thể tỏ bày những tiết lộ giật mình đó cho tôi ngay bây giờ được chăng?”
“Được, bây giờ… hay nói đúng ra là, nếu ông không phiền, thì một hoặc hai giờ nữa, khi tôi được dự cuộc điều tra này của ông đến phút cuối.”
“Không, không, cậu trai ạ, ngay đây, ngay giờ phút này, xin cậu.”
Đúng lúc ấy, Raymonde de Saint-Véran, vốn không hề rời mắt khỏi Isidore Beautrelet từ lúc màn trình diễn hấp dẫn này bắt đầu, bước đến chỗ
ngài Filleul. “Thưa ngài dự thẩm…”
“Vâng, thưa tiểu thư?”
Cô ngần ngại chừng đôi ba giây, đôi mắt vẫn dán chặt vào Beautrelet, và rồi, cô nói với ngài Filleul: “Tôi muốn nhờ ngài hỏi quý anh đây lý do tại sao ngày hôm qua, anh ấy lại đi bộ dưới con đường trũng bên ngoài cửa ngách, ngài có bằng lòng không ạ?”
Quả là một đòn bất ngờ và đầy kịch tính. Isidore Beautrelet tỏ vẻ kinh ngạc. “Tôi ư, thưa tiểu thư? Tôi? Hôm qua cô thấy tôi?”
Raymonde vẫn trầm ngâm suy nghĩ, mắt dán chặt vào Beautrelet, như thể cô muốn củng cố lời kết tội của mình, và rồi cô nói, bằng giọng chắc chắn: “Lúc bốn giờ chiều qua, khi đang băng ngang qua khu rừng, tôi đã gặp một người đàn ông trẻ tuổi, cao bằng anh đây, ăn mặc giống anh đây và cũng có bộ râu tỉa theo cùng một kiểu, đi dưới con đường trũng, và tôi có ấn tượng rất rõ rằng anh ta đang cố tìm cách lẩn trốn.”
“Và đó là tôi?”
“Tôi không dám khẳng định chắc chắn, vì chỉ nhớ lờ mờ. Tuy nhiên… tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ vậy, nếu không thì… trên đời hiếm khi lại có hai người giống nhau tới mức kỳ lạ như thế.”
Ngài Filleul bối rối. Vừa mới bị một tên đồng bọn của lũ tội phạm lừa đẹp, liệu bây giờ, ngài có chịu để mình bị cậu học sinh trung học tự xưng này chơi cho một số nữa hay không? Dĩ nhiên, cung cách của cậu trai trẻ này bênh vực cho cậu: Cậu cư xử rất đàng hoàng, đĩnh đạc, không giống phường bất lương, nhưng ai mà biết được?
“Cậu có điều gì phải nói không, thưa cậu?”
“Cô đây đã nhầm, vì tôi có thể dễ dàng chứng minh ngay với ngài. Ngày hôm qua, ngay lúc mà cô ấy nói, tôi đang ở Veules.”
“Cậu sẽ phải chứng minh điều đó, nhất định là vậy. Bất luận thế nào, tình hình cũng không còn như cũ nữa. Trung sĩ, cho một người của anh giám sát quý ông đây.”
Gương mặt của Isidore Beautrelet tỏ rõ vẻ bực bội. “Có lâu không?” “Đủ để thu thập thông tin cần thiết.”
“Ngài dự thẩm, tôi cầu xin ngài hãy thực hiện nhanh chóng và suy xét chín chắn hết mức có thể.”
“Tại sao?”
“Cha tôi đã cao tuổi lắm rồi. Hai cha con tôi rất gắn bó với nhau… và tôi không muốn ông phải đau lòng vì chuyện của tôi.”
Giọng van vỉ thống thiết trong lời câu nói có gây ít nhiều ấn tượng xấu với ngài Filleul. Nó đẫm mùi cường điệu. Tuy nhiên, ngài vẫn hứa: “Tối nay, hoặc chậm nhất là ngày mai, tôi sẽ biết mình phải làm gì.”
Trời đã về chiều. Ngài dự thẩm quay lại chỗ di tích tụ viện, sau khi hạ lệnh cấm những kẻ tò mò, không phận sự bước vào, và rất kiên nhẫn, rất bài bản, ngài chia khu vực này ra từng ô, cho thăm dò lần lượt, đích thân ngài chỉ đạo cuộc tìm kiếm. Nhưng tới cuối ngày, ngài cũng chẳng tiến được bước nào xa hơn so với lúc bắt đầu; và ngài tuyên bố, trước cả một đạo quân ký giả – những người đã kịp tràn vào lâu đài trong quãng thời gian ngài ra sức tìm kiếm ở hiện trường:
“Kính thưa các quý ông, tất cả mọi việc diễn ra đều khiến chúng ta đi tới kết luận rằng kẻ bị thương đang ở đây, hoàn toàn trong tầm tay của
chúng ta, tất cả mọi chuyện, ngoại trừ một thực tế: Chúng ta vẫn chưa bắt được hắn – đó là sự thật không thể chối cãi. Do đó, theo thiển ý của chúng tôi, hắn chắc hẳn đã trốn thoát và chúng tôi sẽ cho tìm hắn ở ngoài kia.”
Tuy nhiên, để đề phòng, ngài và viên trung sĩ của lực lượng hiến binh sắp xếp lực lượng canh gác ngoài hoa viên thật cẩn mật. Rồi, sau khi đi kiểm tra lại hai phòng khánh tiết kĩ càng, thăm thú, khám xét mọi ngóc ngách trong tòa lâu đài và tổng hợp lại toàn bộ những thông tin cần thiết, ngài cùng ông phó công tố viên lên đường trở về Dieppe.
Màn đêm buông xuống. Do phòng khách nhỏ bắt buộc phải khóa lại, thi hài của ngài Jean Daval được chuyển đến một căn phòng khác. Hai người phụ nữ trong vùng tới canh thi hài, có Suzanne và Raymonde phụ giúp. Ở tầng
dưới, Isidore Beautrelet trẻ tuổi ngủ trên băng ghế dài trong thánh đường cũ, dưới sự giám sát của viên cảnh sát làng – người được chỉ định theo sát cậu. Phía bên ngoài, các anh lính hiến binh, bố con bác nông dân và mười hai người tá điền trong vùng vào vị trí canh gác được phân công ở khu di tích và dọc các bức tường.
Tất cả mọi thứ đều yên tĩnh cho đến mười một giờ đêm, nhưng lúc mười một giờ mười phút, có tiếng súng từ đầu bên kia tòa lâu đài vọng lại.
“Chú ý!” Viên trung sĩ gầm lên. “Hai người canh ở đây: anh, Fossier – và anh, Lecanu. Những người khác nhanh chân lên!”
Tất cả bọn họ lao lên và chạy về phía cánh trái tòa lâu đài. Một bóng người vội vàng bỏ chạy trong đêm tối. Rồi thình lình, tiếng súng thứ hai vang lên, kéo họ ra xa hơn, về phía gần rìa trang trại. Và, bất ngờ, khi cả đoàn người đến chỗ bờ giậu giáp vườn cây ăn quả, một ngọn lửa bùng lên ở phía bên phải khu nhà ở của tá điền, rồi những ngọn lửa khác cũng tiếp tục cháy lên dữ dội, nhóm thành một cột dày. Là kho thóc bị cháy. Rơm trong đó chất đầy ự đến tận nóc.
“Quân vô lại!” Viên trung sĩ hét lên. “Chúng phóng hỏa nhà kho. Mau bắt lấy chúng, anh em ơi! Chúng chưa chạy được xa đâu!”
Nhưng gió thổi ngọn lửa lan về phía tòa lâu đài và tình hình trở nên nguy cấp, điều cần thiết nhất lúc bấy giờ là ngăn chặn mối nguy. Tất cả bọn họ đều hăng hái gắng hết sức mình, dốc hết nhiệt huyết, bởi lẽ ngài Bá tước de Gesvres đã vội vã đến nơi xảy ra hỏa hoạn và khích lệ họ bằng lời hứa về một phần thưởng xứng đáng. Lúc ngọn lửa bị chế ngự hoàn toàn đã là hai giờ sáng. Có đi bắt kẻ gian thì cũng như không!
“Chúng ta sẽ kiểm tra khi trời đã sáng hẳn.” Viên trung sĩ nói. “Chắc chắn chúng có để lại dấu vết, chúng ta sẽ tìm thấy chúng.”
“Và tôi không lấy làm phiền chút nào nếu được biết nguyên do của cuộc tấn công này.” Bá tước de Gesvres thêm vào. “Phóng hỏa đốt mấy bó rơm kia đối với tôi mà nói, thật sự là một nước cờ vô ích.”
“Thưa ngài Bá tước, xin ngài hãy đi với tôi. Chắc tôi sẽ có thể nói cho ngài biết được nguyên do đấy ạ.”
Cả hai người cùng đi đến chỗ tàn tích của nhà nguyện cũ. Viên trung sĩ gọi to: “Lecanu! Fossier!”
Những anh lính hiến binh khác đã sục đi tìm hai đồng đội được cắt cử ở lại đây canh gác từ bao giờ. Cuối cùng, họ tìm thấy đồng đội của mình ở chỗ cách của ngách vài bước chân. Hai người nọ nằm sõng soài trên mặt đất: bị trói gô, miệng bị nhét giẻ và mắt bị băng bịt kín.
“Ngài Bá tước!” Viên trung sĩ lầm bầm với ngài de Gesvres, trong lúc các cấp dưới của mình được cởi trói. “Ngài Bá tước, chúng ta đã bị lừa như những đứa trẻ con.”
“Thế nào kia?”
“Mấy phát súng – vụ tấn công – vụ hỏa hoạn. Tất cả cũng chỉ là trò lừa bịp hòng kéo chúng ta xuống đây – một màn đánh lạc hướng! Suốt thời gian đó, chúng đã kịp trói gô hai người của tôi lại và đã xong chuyện.”
“Chuyện gì?”
“Mang kẻ bị thương đi, tất nhiên rồi!”
“Không phải ý anh muốn nói là anh nghĩ…?”
“Nghĩ? Còn phải nghĩ gì nữa khi chuyện đã hai năm rõ mười? Tôi sực nghĩ ra điều này mười phút trước, nhưng tôi quả là một kẻ ngốc khi không nghĩ tới nó sớm hơn. Đáng ra chúng ta đã tóm được cả ổ bọn chúng rồi.” Quevillon giẫm mạnh chân xuống đất trong cơn giận dữ bất ngờ ập tới. “Nhưng chỗ nào, quỷ tha ma bắt, chúng đi qua chỗ nào được chứ? Chúng mang hắn ra theo lối nào kia? Bởi, mẹ kiếp, cả ngày nay chúng ta đã quần nát khu này, và một người lớn không thể nấp trong những lùm cỏ được, nhất là khi hắn đang bị thương! Quả là một trò phù thủy, đúng là như thế rồi!”
Nhưng đó vẫn chưa phải là điều bất ngờ cuối cùng dành cho trung sĩ
Quevillon. Bình minh lên, khi mọi người bước vào thánh đường cũ nơi đang được dùng làm chỗ tạm giam cậu Isidore Beautrelet trẻ tuổi, họ nhận ra Isidore Beautrelet trẻ tuổi cũng đã biến mất.
Trên ghế, viên cảnh sát làng vẫn còn ngủ mê mệt, người đổ gục về trước. Bên cạnh viên cảnh sát là một chai nước cùng hai chiếc cốc. Ở đáy một chiếc cốc có chút cặn bột màu trắng.
Sau khi điều tra, người ta kết luận: Thứ nhất, cậu Isidore Beautrelet trẻ tuổi đã chuốc thuốc mê viên cảnh sát làng. Thứ hai, cậu ta trèo qua lối cửa thông gió trổ ở độ cao chừng hai mét rưỡi trên tường để bỏ trốn. Và cuối cùng, cậu ta chỉ có thể với tới ô cửa sổ đó khi dùng tấm lưng của chính người canh gác mình làm bệ đỡ. Chi tiết này mới hấp dẫn làm sao!
2. Isidore Beautrelet, học sinh trung học
T
rích tờ Đại Nhật báo:
TIN SỐT DẺO
BÁC SĨ DELATTRE BỊ BẮT CÓC.
Một tội ác điên rồ, táo tợn.
Vào thời điểm chuẩn bị cho in số báo mới, tòa soạn chúng tôi nhận được một tin mà chúng tôi không dám đảm bảo về độ xác thực, bởi tính chất khó tin của câu chuyện. Vì vậy, chúng tôi đã rất dè dặt khi cho đăng bản tin sau:
Tối hôm qua, bác sĩ Delattre, vị bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng, cùng vợ và con gái đi xem buổi biểu diễn vở Hernani ở nhà hát kịch
Comédie-Française. Vào lúc bắt đầu màn thứ ba, nghĩa là vào khoảng mười giờ, có người mở cửa ở chỗ ông ngồi và một quý ông đi cùng hai người khác bước vào, cúi xuống nói gì đó với vị bác sĩ, họ nói nhỏ, nhưng cũng đủ để bà Delattre nghe thấy:
“Thưa bác sĩ, tôi có một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn cần phải hoàn
thành và tôi sẽ rất lấy làm biết ơn ông nếu ông có thể giúp nhiệm vụ ấy của tôi được trở nên dễ dàng hơn.”
“Thưa ông, ông là ai đấy ạ?”
“Thézard, sĩ quan cảnh sát Quận 1 và tôi có chỉ thị phải đưa ông tới gặp ông Dudouis trên quận.”
“Nhưng…”
“Đừng nói gì cả, thưa bác sĩ, cũng đừng cự tuyệt – tôi khẩn thiết xin ông. Đã có vài sai lầm đáng tiếc xảy ra, và đó là lý do tại sao chúng ta phải yên lặng mà đi và đừng khiến ai chú ý. Ông sẽ được quay trở lại, tôi dám chắc như vậy, trước khi mở diễn kết thúc.”
Vị bác sĩ đứng dậy và đi cùng viên cảnh sát. Cuối đêm diễn, ông vẫn chưa quay trở lại. Bà Delattre lo lắng vô cùng, chạy đến trụ sở nơi viên cảnh sát kia làm việc. Ở đó, bà đã gặp ông Thézard thật và kinh sợ tột cùng khi phát hiện ra rằng người đã đưa chồng bà đi là một kẻ mạo danh.
Theo điều tra sơ bộ ban đầu, vị bác sĩ đã lên một chiếc xe hơi và chiếc xe này chạy về hướng Concorde.
Chúng tôi sẽ cung cấp cho quý độc giả thêm chi tiết về cuộc phiêu lưu lạ lùng này trong ấn bản thứ hai của chúng tôi.
Dẫu có vẻ lạ lùng, cuộc phiêu lưu này hoàn toàn có thật. Bên cạnh đó, việc phát hành không bị trì hoãn lâu và tờ Đại Nhật báo, nhân lúc xác nhận câu chuyện là có thật trong ấn bản buổi trưa của mình, đã viết thêm vài dòng kể lại kết thúc đầy kịch tính của cuộc phiêu lưu như sau:
CÂU CHUYỆN KẾT THÚC
VÀ SUY ĐOÁN BẮT ĐẦU
Bác sĩ Delattre được đưa trở lại số 78 đường Duret vào lúc chín giờ sáng nay bằng xe hơi và chiếc xe này đã ngay lập tức phóng đi với tốc độ tối đa.
Số 78 đường Duret là địa chỉ phòng phẫu thuật của bác sĩ Delattre, nơi ông vẫn tới mỗi sáng vào cùng giờ như trên. Khi chúng tôi đưa danh thiếp, vị bác sĩ vẫn vui vẻ đồng ý đón tiếp chúng tôi, dẫu ông đang gặp riêng Trưởng ban Điều tra.
“Tất cả những gì tôi có thể kể với các anh là tôi đã được người ta hết sức tôn trọng.” Ông trả lời câu hỏi của chúng tôi. “Ba người bạn đó của tôi là ba người lịch lãm nhất tôi từng được gặp, họ nói chuyện cực kỳ dí dỏm, thông minh và lễ độ: một phẩm chất không thể coi thường được, vì cuộc hành trình khá dài.”
“Dài bao lâu ạ?”
“Khoảng bốn giờ.”
“Mục đích của chuyến đi là gì thế ạ?”
“Tôi được đưa tới gặp một bệnh nhân, mà tình trạng của người nọ đòi hỏi phải phẫu thuật ngay lập tức.”
“Và cuộc phẫu thuật đã thành công?”
“Phải, nhưng diễn tiến về sau có thể rất nguy hiểm. Ở trên này, tôi có điều kiện và trách nhiệm đảm bảo cho sức khỏe của bệnh nhân. Còn ở dưới đó… với điều kiện hiện tại của anh ta…”
“Điều kiện rất kém?”
“Rất tồi tệ!… Một căn phòng trong quán trọ… Và hầu như chẳng có y cụ, thuốc men gì, lại hoàn toàn không thể tiếp cận để chăm sóc được.”
“Vậy thì cái gì có thể cứu anh ta được đâu?”
“Một phép màu… và thể trạng của anh ta, phải là một thể trạng
khỏe mạnh khác thường.”
“Và ông không thể chia sẻ thêm về bệnh nhân kỳ lạ này?”
“Không thể. Vì thứ nhất, tôi đã lập lời thề, và thứ hai, tôi được tặng mười nghìn franc cho ca mổ miễn phí này. Nếu tôi không giữ im lặng, số tiền đó sẽ bị lấy lại.”
“Nhất định là ông đang đùa! Ông có tin điều đó không?”
“Thực sự là tôi có tin. Tôi thấy những người đàn ông đó rất đứng đắn.”
Đó là những lời bác sĩ Delattre đã phát biểu với chúng tôi. Và mặt khác, chúng tôi biết ngài Trưởng ban Điều tra mặc dù đã cố hết sức nài nỉ nhưng vẫn chưa thể khai thác thêm được chút thông tin nào chính xác hơn từ vị bác sĩ về cuộc phẫu thuật mà ông đã thực hiện, về bệnh nhân mà ông đã chăm sóc hay nơi chiếc xe đó đã tới. Bởi vậy, đường đến sự thật thực lắm chông gai.
Sự thật đằng sau câu chuyện – mà ký giả thực hiện cuộc phỏng vấn phải thú nhận rằng mình bất lực, không thể khám phá ra – đang được những bộ óc ít nhiều sáng suốt đồn đoán rằng, họ nhận thấy có một mối liên kết với chuyện xảy ra ngày hôm trước ở lâu đài Ambrumésy, vốn đã được mô tả đến từng chi tiết nhỏ nhất trên tất cả các mặt báo lúc ấy. Rõ ràng, phải thừa nhận có một sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa việc biến mất của một tên trộm bị thương và cuộc bắt cóc một bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng.
Hơn nữa, cuộc điều tra của phía tòa án đã chứng minh giả thuyết đó chính xác. Lần theo dấu vết của tên đánh xe giả mạo, kẻ đã bỏ trốn bằng xe đạp, phía điều tra biết được kẻ này đã chạy tới rừng Arques cách đó mười
lăm cây số, và từ chỗ này, sau khi ném chiếc xe đạp xuống một con mương, hắn đến làng Saint-Nicolas. Ở đó, hắn đã gửi đi một bức điện có nội dung như sau:
A.L.N., trạm bưu điện số 45, Paris.
Tình hình nghiêm trọng. Cần mổ gấp. Đưa người nổi tiếng tới
quốc lộ 14.
Chứng cứ không thể chối cãi. Ngay khi nhận được tin, những tên đồng bọn ở Paris vội vàng thu xếp. Mười giờ tối hôm đó, chúng đưa người nổi tiếng tới quốc lộ 14. Con đường chạy qua bìa rừng Arques xuống Dieppe. Suốt thời gian đó, lợi dụng vụ hỏa hoạn mà chính chúng đã châm lửa đốt, băng cướp mang thủ lĩnh của mình ra khỏi điền trang và đưa hắn đến nhà trọ, chờ bác sĩ tới. Hai giờ sáng, ngài bác sĩ tới nơi và cuộc phẫu thuật được thực hiện luôn tại đó.
Không nghi ngờ gì về điều đó nữa. Chánh Thanh tra Ganimard – do trên Paris đặc biệt phái xuống, cùng thanh tra Folenfant – trợ lý của ông, xác nhận đêm hôm trước đã có một chiếc xe hơi chạy qua xã Pontoise, xã Gournay, xã Forges. Tương tự, người ta cũng xác nhận có một chiếc xe hơi chạy qua con đường từ Dieppe tới Ambrumésy. Và, dù dấu tích chiếc xe để lại đã mất sạch từ điểm cách lâu đài chừng hai cây số rưỡi, ít ra cũng đã thấy có rất nhiều dấu chân ở đoạn của ngách trên bức tường trong hoa viên đi ra khu di tích tu viện cũ. Bên cạnh đó, ngài Ganimard cho biết ổ khóa trên cánh cửa đã bị bẻ.
Vậy là mọi chuyện đã được giải thích. Chỉ còn việc xác định quán trọ
mà vị bác sĩ đề cập tới nữa là xong: Chuyện này với Chánh Thanh tra Ganimard – một nhà điều tra chuyên nghiệp, một viên cảnh sát lão luyện trong nghề và đầy kiên nhẫn – thật dễ như ăn cháo. Số lượng quán trọ có giới hạn và quán trọ này, do tình trạng sức khỏe của kẻ bị thương, chỉ có thể nằm ở một vị trí khá gần Ambrumésy. Ganimard và trung sĩ Quevillon nhanh chóng bắt tay vào việc. Họ tới và lục lọi tất cả những nơi được coi là quán trọ trong phạm vi năm trăm mét, một nghìn mét rồi năm nghìn mét. Nhưng, mặc cho xiết bao kỳ vọng, kẻ đang hấp hối kia tuyệt nhiên vẫn bóng chim tăm cá.
Ganimard quyết tâm hơn bất cứ ai. Ông tới ngủ lại ở lâu đài vào tối thứ Bảy, với dự định thực hiện một cuộc điều tra riêng vào Chủ nhật. Sáng Chủ nhật, ông được đội lính hiến binh cho biết: Suốt tối hôm trước, họ đã nhìn thấy một bóng người lướt dọc con đường trũng phía bên ngoài bức tường. Phải chăng đó là một tên trong đảng cướp quay lại để thám thính? Liệu có thể suy đoán rằng tên đầu sỏ vẫn chưa rời khỏi tu viện hoặc khu vực xung quanh tu viện không?
Tối hôm đó, Ganimard công khai điều một tổ hiến binh sang bên trang trại, còn mình cùng Folenfant ra bên ngoài bờ tường, đứng gác ở gần cửa ngách.
Gần nửa đêm, có một người đi ra khỏi khu rừng, lướt qua giữa hai người họ, chui qua cửa ngách và chạy vào hoa viên. Suốt ba giờ đồng hồ liền, họ thấy hắn lang thang quanh đống phế tích, hết lượn bên nọ lại lượn bên kia, hắn cúi xuống, hắn trèo lên những cây cột cũ, thỉnh thoảng, hắn lại đứng ngây người bất động mấy phút liền. Rồi hắn quay lại chỗ cửa ngách và lại lướt qua giữa hai vị thanh tra.
Ganimard tóm lấy cổ áo hắn, trong khi đó, Folenfant ôm ghì lấy người hắn. Hắn chẳng hề chống cự lấy một chút, trái lại, còn cực kỳ ngoan ngoãn để yên cho họ trói tay và giải mình tới tòa lâu đài. Tuy nhiên, khi họ cố tra khảo, hắn chỉ đáp đơn giản rằng hắn chẳng có nghĩa vụ phải trả lời họ về những việc hắn làm và hắn sẽ đợi ngài dự thẩm tới. Bởi vậy, họ đành trói chặt hắn vào chân giường ở căn phòng thông với phòng họ ngủ.
Chín giờ sáng ngày thứ Hai, ngay khi ngài Filleul tới, Ganimard liền thông báo cho mọi người biết về vụ bắt giữ đêm qua. Tù nhân được đưa xuống dưới tầng trệt. Người đó chính là Isidore Beautrelet.
“Cậu Isidore Beautrelet!” Ngài Filleul thốt lên với vẻ sung sướng vô ngần, ngài chìa cả hai tay ra mừng người mới tới. “Thật là một bất ngờ thú vị! Vị thám tử nghiệp dư xuất sắc của chúng ta ở đây! Thế nào kia? Đúng là món quà trời ban! Vận may bất ngờ! Ngài Chánh Thanh tra, xin cho phép tôi giới thiệu với ngài cậu Isidore Beautrelet, học sinh lớp Đệ nhất, trường Trung học Janson-de-Sailly.”
Ganimard có vẻ chưng hửng. Isidore cúi mình rất thấp, như chào một người đồng nghiệp đáng kính mà mình rất tôn trọng, rồi quay sang ngài Filleul. “Thưa ngài dự thẩm, có vẻ như ngài đã tìm được những thông tin cần thiết về tôi?”
“Và là những thông tin khiến tôi tuyệt đối vừa ý! Trước hết, cậu thực sự có mặt ở Veules-les-Roses vào thời điểm mà cô de Saint-Véran cho rằng mình đã trông thấy cậu ở dưới con đường trũng. Tôi dám cam đoan, nhất định chúng tôi sẽ tìm ra nhân thân của kẻ trông giống cậu kia. Kế đến, cậu đúng thật là Isidore Beautrelet, học sinh trung học và hơn nữa, cậu còn là một học sinh xuất sắc, chăm chỉ học tập và cư xử rất mẫu mực. Do cha cậu
sống ở miền quê, ông gửi gắm cậu cho ông Bernod. Hàng tháng, cậu vẫn tới thăm ông ấy và nhờ ông chuyển thư cho cha. Ông Bernod này không ngớt lời khen ngợi cậu.”
“Vậy là…”
“Vậy là cậu được tự do, cậu Isidore Beautrelet ạ.”
“Hoàn toàn tự do?”
“Hoàn toàn! Ồ, tôi phải đưa ra một điều kiện nhỏ, rất nhỏ, thế thôi. Cậu cũng hiểu rằng tôi không thể thả một quý ông đã chuốc thuốc mê cảnh sát và trốn ra ngoài bằng cửa sổ, rồi sau đó lại bị bắt quả tang xâm phạm tài sản tư nhân. Tôi không thể thả anh ta mà không có chút trao đổi nào đó.”
“Tôi đang chờ yêu cầu của ngài đây.”
“Chà, chúng ta sẽ tiếp tục cuộc trò chuyện dang dở lần trước và cậu sẽ kể cho tôi nghe xem cậu đã tiến xa được tới đâu trong cuộc điều tra của mình. Trong hai ngày tự do, cậu chắc hẳn phải đi được những bước rất xa?”
Và, khi Ganimard tỏ vẻ khinh thường kiểu hành xử như thế, quay lưng, toan bước ra ngoài, vị dự thẩm kêu lên: “Ồ không, không, ngài thanh tra, chỗ của ngài là ở đây. Tôi đảm bảo với ngài rằng những lời cậu Isidore Beautrelet đây sắp nói rất đáng chú ý. Theo thông tin tôi thu thập được, cậu Isidore Beautrelet nức tiếng ở trường Trung học Janson-de-Sailly là một người có khả năng quan sát tinh nhạy, không gì qua được mắt cậu. Và những bạn học của cậu, theo như tôi nghe được, đều coi cậu ấy là đối thủ của ngài và là kình địch của Herlock Sholmès⦾!”
“Thật vậy ư?” Ganimard mỉa mai đáp.
“Rất thật! Một trong số họ đã viết cho tôi như sau: ‘Nếu Beautrelet tuyên bố rằng cậu ấy biết, ngài nên tin cậu ấy. Và dù cậu ấy có nói gì đi chăng nữa thì ngài cũng đều có thể tin chắc rằng đó là những lời mô tả chính xác về sự thật.’ Cậu Isidore Beautrelet, bây giờ hoặc không bao giờ, đây chính là thời điểm để cậu xác minh niềm tin đó nơi bạn bè cậu. Tôi xin cậu, hãy đưa ra cho chúng tôi cái mô tả chính xác về sự thật ấy đi.”
Isidore mỉm cười lắng nghe và đáp: “Ngài dự thẩm, ngài thật là độc ác. Ngài lôi những cậu học sinh tội nghiệp đang cố hết sức tìm cách giải khuây ra chế giễu tôi. Tuy nhiên, kể ra ngài làm vậy cũng đúng, đáng đời tôi lắm, và tôi không dám để các quý ngài đây cười nhạo mình nữa đâu.”
“Thực tế là cậu chẳng biết gì rồi, cậu Isidore Beautrelet ạ.”
“Phải, với tất cả khiêm nhường, tôi xin thú nhận rằng tôi chẳng biết gì cả. Bởi lẽ, tôi không gọi việc mình tình cờ nghĩ ra hai hay ba điểm rõ ràng – mà tôi chắc chắn chính ngài cũng không thể bỏ sót – là biết điều gì đó.”
“Ví dụ?”
“Ví dụ như mục tiêu của vụ trộm.”
“A, tất nhiên rồi, cậu biết mục tiêu của vụ trộm ư?”
“Tôi biết chắc chắn, có vậy thôi! Thực ra mà nói, mục tiêu của vụ trộm là điều tôi tập trung suy nghĩ đầu tiên, bởi vì tôi nghĩ khúc mắc đó có vẻ dễ giải quyết hơn cả.”
“Dễ giải quyết hơn, thật á?”
“Sao thế? Tất nhiên rồi! Cùng lắm là vấn đề lập luận mà thôi.” “Không còn gì khác nữa ư?”
“Không hề.”
“Vậy lập luận của cậu như thế nào?”
“Chỉ là như thế này thôi, bỏ qua hết những dẫn giải không liên quan: Một mặt, đã có một vụ trộm, bởi vì cả hai tiểu thư đều công nhận và bởi vì họ thực sự đã nhìn thấy hai gã đàn ông ôm đồ đạc trong nhà chạy ra ngoài.”
“Đã có một vụ trộm.”
“Mặt khác, không thấy mất cái gì cả, bởi lẽ ngài Bá tước de Gesvres đã nói như vậy và ngài là người ở vị trí có thể khẳng định điều này chắc chắn hơn bất kỳ ai.”
“Không thấy mất cái gì cả.”
“Từ hai điều trên, tôi đi đến đáp án không thể khác được như sau: Cứ cho là đã có một vụ trộm và không thấy mất cái gì cả, đó là bởi vì vật chúng mang đi đã được thay thế bằng một vật giống y hệt. Xin cho phép tôi được nhanh chóng nói thêm rằng, lập luận này của tôi có thể không được thực tế chứng minh. Nhưng tôi vẫn giữ quan điểm rằng đó là giả thuyết đầu tiên chúng ta nên nghĩ tới và ta có thể loại trừ giả thuyết này sau một cuộc kiểm tra nghiêm túc.”
“Phải rồi… phải rồi…” Ngài dự thẩm lẩm bẩm, thích thú thấy rõ.
“Rồi…” Isidore nói tiếp. “Trong phòng này có thứ gì có thể khiến bọn cướp nổi lòng tham? Hai thứ. Đầu tiên là mấy tấm thảm treo tường. Nhưng tấm thảm không phải là thứ bị đánh tráo. Thảm dệt tay cổ không thể làm giả được: Đồ giả nhìn vào là thấy ngay. Chỉ còn lại bốn bức tranh của danh họa Rubens mà thôi.”
“Cậu đang nói cái gì vậy?”
“Tôi nói bốn bức họa Rubens treo trên tường kia là đồ giả.” “Không thể nào!”
“Chúng là giả, chắc chắn và không nghi ngờ gì nữa.”
“Tôi bảo cậu này, đó là điều không thể!”
“Ngài dự thẩm ạ, cách đây gần một năm, có một người đàn ông trẻ tuổi tự xưng là Charpenais đã tới lâu đài Ambrumésy và hỏi xin chép lại bốn bức tranh Rubens. Ngài Bá tước de Gesvres đã cho phép anh ta. Suốt năm tháng trời, ngày nào Charpenais cũng tới căn phòng này làm việc từ sáng cho đến tối mịt. Bốn bức tranh anh ta chép, cả vải bạt và khung tranh cũng giả nốt, đều đã được thay vào chỗ bốn bức tranh gốc mà Bá tước de Gesvres hưởng thừa kế từ cậu mình là Hầu tước Bobadilla.”
“Chứng minh đi!”
“Tôi không có bằng chứng nào để đưa ra ở đây cả. Bức tranh là giả bởi vì nó là giả, và tôi thậm chí còn thấy không cần thiết phải kiểm tra cả bốn bức tranh này.”
Ngài Filleul và Ganimard đưa mắt nhìn nhau với vẻ kinh ngạc không che giấu. Viên thanh tra không còn nghĩ tới việc bỏ ra ngoài nữa. Cuối cùng, ngài dự thẩm lên tiếng: “Chúng ta cần xin ý kiến Bá tước de Gesvres.”
Và Ganimard tán thành: “Phải, chúng ta phải hỏi ý ngài ấy.” Rồi họ cho người mời ngài bá tước tới phòng khánh tiết. Cậu học sinh trung học trẻ tuổi đã giành chiến thắng thật sự. Hai
chuyên gia, hai nhà điều tra chuyên nghiệp như ngài Filleul và Ganimard phải xét tới những suy luận của Beautrelet, cho thấy cậu được hai ông coi trọng. Nếu là người khác, hẳn họ sẽ thấy tự hào, nhưng dường như Beautrelet chẳng lấy đó làm thỏa mãn hay tự phụ, vẫn nguyên nụ cười không chút mỉa mai trên môi, cậu điềm tĩnh chờ đợi.
Ngài de Gesvres bước vào phòng.
“Ngài bá tước!” Vị dự thẩm nói. “Kết quả điều tra khiến chúng tôi phải đối mặt với một tình huống hoàn toàn không lường trước được, mà chúng tôi chỉ dám dè dặt đệ trình lên với ngài. Có thể – tôi nói là có thể thôi – bọn trộm, khi đột nhập vào nhà đã có chủ định ăn cắp bốn bức tranh của Rubens… hoặc ít nhất là thay thế chúng bằng bốn bản sao – bản sao mà có người nói rằng đã được một họa sĩ tên là Charpenais chép hồi năm ngoái. Liệu ngài có bằng lòng kiểm tra giúp những bức tranh, và cho chúng tôi biết ngài có thấy chúng là đồ thật hay không ạ?”
Trông ngài Bá tước như đang cố kìm nén để không lộ vẻ phật ý, ngài nhìn Isidore Beautrelet và ngài Filleul rồi đáp, mà chẳng buồn bước tới gần mấy bức tranh: “Ngài dự thẩm ạ, tôi hy vọng rằng sự thật này có thể mãi được giữ bí mật. Và nếu được như thế, tôi cũng chẳng ngần ngại nói ra: Bốn bức tranh đó là giả.”
“Vậy là ngài đã biết rồi?”
“Biết ngay từ đầu.”
“Vậy sao ngài không nói?”
“Chủ nhân của một danh tác sẽ không bao giờ hấp tấp công bố danh tác đó không phải… hay đúng hơn, không còn là thật nữa.”
“Nhưng, đó là cách duy nhất để tìm lại chúng.”
“Tôi nghĩ còn có một cách khác và là cách hay hơn.”
“Là cách nào?”
“Là đừng để bí mật đó bị lộ, đừng làm những kẻ trộm của tôi hoảng sợ và ta sẽ ngỏ lời muốn chuộc lại mấy bức tranh. Họ sẽ thấy đôi chút xấu hổ và ít nhiều khó khăn khi xử lý mấy bức tranh ấy.”
“Làm sao ngài liên lạc với họ được?”
Do ngài Bá tước không đáp, Isidore mới trả lời hộ: “Bằng cách đăng tin lên báo. Ta cho đăng một mẩu thông báo nhỏ trong mục rao vặt của tờ Thời Báo và tờ Buổi Sáng, với nội dung: Tôi sẵn sàng chuộc lại những bức tranh.”
Ngài Bá tước gật đầu tán đồng. Một lần nữa, cậu thanh niên lại mở mắt cho các bậc trưởng bối. Ngài Filleul thể hiện mình là người có tinh thần thượng võ.
“Không nghi ngờ gì nữa, quý anh thân mến của tôi ạ.” Ngài thốt lên. “Tôi bắt đầu cho rằng những bạn học của cậu không sai mấy đâu. Ôi trời! Một cặp mắt quan sát đáng nể! Một trực giác tuyệt vời! Nếu cứ thế này sẽ chẳng còn việc gì cho ngài Ganimard đây và tôi làm nữa cả.”
“Ồ, phần này chẳng có cái gì quá phức tạp cả!”
“Ý cậu muốn nói phần còn lại sẽ phức tạp hơn? Thực sự thì tôi nhớ, khi chúng tôi gặp cậu lần đầu tiên, trông cậu có vẻ như đã biết hết chân tướng sự việc rồi. Để xem nào, theo như tôi nhớ, cậu đã nói cậu cũng biết cả tên của kẻ sát nhân nữa.”
“Vâng, tôi cũng nhớ như vậy đấy ạ.”
“Chà, vậy thì ai đã giết Jean Daval? Kẻ đó còn sống không? Hắn ta trốn ở đâu?”
“Có chút hiểu nhầm giữa chúng ta đấy, ngài dự thẩm ạ, hay đúng hơn là ngài đã nhầm lẫn ngay từ đầu: Tên giết người và kẻ bỏ trốn là hai người khác nhau.”
“Thế nào kia?” Ngài Filleul kêu lên. “Kẻ mà ngài de Gesvres đã gặp và vật lộn với hắn ở phòng khách nhỏ, kẻ mà các tiểu thư của chúng ta đã nhìn thấy ở phòng khánh tiết và kẻ mà tiểu thư de Saint-Véran đã bắn, kẻ đã ngã xuống trong hoa viên và kẻ mà chúng ta đang tìm: ý cậu là hắn ta không phải người đã giết Jean Daval?”
“Đúng thế.”
“Phải chăng cậu đã phát hiện ra dấu vết của một người thứ ba – kẻ đã biến mất trước khi các quý cô chạy tới nơi?”
“Tôi chưa.”
“Vậy thì, tôi không hiểu… chà, ai là kẻ đã giết Jean Daval?” “Jean Daval đã bị…”
Beautrelet bỏ lửng câu nói, cậu suy nghĩ một lúc rồi tiếp: “Nhưng trước hết tôi phải chỉ cho ngài xem con đường mà tôi đã lần theo, từ đó, ta mới đi tới chỗ chắc chắn cũng như hiểu được nguyên nhân của vụ giết người… Không có cái đó, ngài sẽ thấy lời cáo buộc của tôi rất quái dị… Mà nó thì không – đúng vậy – nó không quái dị một chút nào hết. Có một chi tiết mà chúng ta không để ý, nhưng lại là một trong những chi tiết quan trọng nhất: Đó chính là ông Jean Daval kia, vào thời điểm ông ấy bị đâm, ông đã ăn
mặc rất chỉnh tề, còn đi cả giày đinh. Nói tóm lại, ông ấy ăn mặc như đang ở giữa ban ngày, như khi làm việc, với áo gi lê, cổ cồn đứng, cà vạt và dây đeo quần. Còn thời điểm xảy ra vụ án lại được xác định là vào lúc bốn giờ sáng.”
“Tôi đã chú ý đến điểm kỳ lạ này.” Ngài dự thẩm đáp. “Và ngài de Gesvres trả lời rằng Jean Daval thường làm việc tới tận khuya.”
“Có điều, những người hầu lại nói điều ngược lại. Họ cho biết, ông ấy thường lên giường đi ngủ từ rất sớm. Nhưng, nếu phải thừa nhận rằng ông ấy đã thức dậy, tại sao ông ấy phải làm nhàu chăn chiếu trên giường để khiến người ta tin rằng mình đã đi ngủ? Còn trường hợp ông ấy đã đi ngủ thật, vậy tại sao khi nghe thấy tiếng động, ông ấy lại còn mất công ăn mặc chỉnh tề từ đầu đến chân, thay vì xỏ với đôi dép ở ngay đấy rồi chạy ra? Tôi đã tới phòng ông ấy quan sát từ hôm đầu tiên, trong lúc ngài đang dùng bữa trưa. Đôi dép đi trong nhà của ông ấy đặt ngay dưới chân giường. Vậy điều gì đã ngăn ông ấy không xỏ chân vào đôi dép mà lại phải đóng đôi giày đinh nặng trịch kia?”
“Cho tới thời điểm này, tôi không thấy…”
“Cho tới thời điểm này, thực ra, ngài không thể thấy điều gì cả ngoại trừ những điều không bình thường. Tuy nhiên, tôi đã thấy nghi ngờ nhiều hơn khi biết chuyện họa sĩ Charpenais, người chép lại những bức tranh Rubens, đã được chính Jean Daval giới thiệu và tiến cử cho Bá tước de Gesvres.”
“Rồi sao?”
“Rồi, từ đó để đi đến kết luận rằng Jean Daval và Charpenais là đồng bọn cần một bước nữa. Tôi đã xong bước đó ngay lúc chúng ta nói
chuyện.”
“Tôi nghĩ là hơi nhanh quá đấy!”
“Thật vậy, cần có một vật chứng. Tôi phát hiện ra trong phòng của Daval, trên một tờ trong tập giấy thấm mà ông ấy dùng khi viết lách, có dòng địa chỉ sau: Ngài A.L.N, trạm bưu điện số 45, Paris. Ngài sẽ thấy nó vẫn còn nguyên ở đây, dòng chữ bị in lộn ngược trên tờ giấy thấm. Sau hôm ấy, người ta phát hiện ra bức điện mà tay đánh xe giả ở Saint-Nicolas gửi đi cũng tới cùng địa chỉ: A.L.N, trạm bưu điện số 45. Vật chứng có tồn tại: Jean Daval đã thư từ qua lại với băng nhóm đánh cắp những bức tranh.”
Ngài Filleul không phản đối.
“Đồng ý. Đã cấu thành tội đồng lõa. Vậy cậu rút ra được kết luận gì?”
“Đó là: Đầu tiên, kẻ bỏ trốn không phải là người giết Jean Daval bởi vì Jean Daval là đồng phạm của hắn.”
“Sau đó là gì?
“Ngài dự thẩm, tôi phải nhắc ngài nhớ lại câu đầu tiên mà ngài Bá tước thốt ra lúc ông ấy tỉnh lại sau khi bị ngất. Câu đó nằm trong lời khai của tiểu thư de Gesvres và được ghi trong báo cáo chính thức: ‘Ta không bị thương. Còn Daval? Ông ấy còn sống chứ? Còn con dao…’ Và tôi sẽ phải nhờ ngài xem xét câu đó cùng lời kể của ngài Bá tước, cũng đã được ghi lại trong báo cáo, về vụ tấn công: ‘Kẻ đó xông vào tôi và đánh thật mạnh vào thái dương tôi, làm tôi choáng váng, ngất đi.’ Làm sao ngài de Gesvres, lúc đó đã ngất xỉu, khi tỉnh dậy lại biết ông Daval bị đâm bằng dao cơ chứ?”
Isidore Beautrelet không chờ câu trả lời. Trông cậu dường như rất vội
vàng muốn tự giải đáp ngay và muốn tránh tất cả mọi lời bình luận. Cậu tiếp tục ngay lập tức: “Bởi vậy, Jean Daval chính là người đã dẫn ba tên trộm tới phòng khánh tiết này. Trong lúc ông ấy ở đây với kẻ mà bọn họ gọi là thủ lĩnh, họ nghe thấy có tiếng động trong phòng khách nhỏ. Daval
mở cửa. Nhận ra đó là ngài de Gesvres, ông ta liền lao vào ngài ấy, tay lăm lăm con dao. Ngài de Gesvres đã giật được con dao khỏi tay ông ta và dùng con dao đó tấn công lại ông ta. Rồi ngài ngã xuống vì lãnh trọn một đòn từ kẻ mà hai cô gái đã nhìn thấy vài phút sau đó.”
Một lần nữa, ngài Filleul và Ganimard đưa mắt nhìn nhau. Ganimard nghiêng đầu ra chiều sửng sốt. Vị dự thẩm nói: “Ngài Bá tước, liệu tôi có nên tin lời giải thích này là chính xác không?”
Ngài de Gesvres không đáp.
“Thôi nào, ngài Bá tước, tôi xin phép nói điều này, sự im lặng của ngài sẽ khiến cho chúng tôi phải giả định rằng…”
Bằng một giọng rất rõ ràng, ngài de Gesvres đáp: “Lời giải thích này chính xác tới từng chi tiết.”
Vị dự thẩm giật mình.
“Vậy… tôi không hiểu được tại sao ngài phải đánh lạc hướng phía cảnh sát? Tại sao ngài phải che đậy hành động phòng vệ chính đáng, hoàn toàn hợp pháp chứ?”
“Suốt hai mươi năm qua…” Ngài de Gesvres nói. “Daval phục vụ bên cạnh tôi, mang tới cho tôi những điều vô giá. Tôi tin tưởng ông ấy. Nếu ông ấy phản bội tôi, do cám dỗ hay vì nguyên nhân gì khác, ít nhất là vì những điều chúng tôi đã sẻ chia trong quá khứ, tôi thực sự không hề muốn
ai biết tới sự phản bội của ông ấy.”
“Ngài không muốn, tôi đồng ý, nhưng ngài không có quyền làm vậy.”
“Tôi không tán thành ý kiến của ngài, ngài dự thẩm ạ. Miễn không có người vô tội nào bị kết tội oan, tôi hoàn toàn có quyền không tố cáo một người vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Ông ấy đã mất rồi. Tôi coi cái chết là một hình phạt đích đáng.”
“Nhưng, thưa ngài Bá tước, sự thật giờ đã tỏ, ngài có thể nói ra.”
“Phải. Có hai bản thảo thư tay của ông ấy gửi đến đồng bọn của mình. Tôi đã lấy chúng khỏi cuốn sổ tay của Daval, vài phút sau khi ông ấy chết.”
“Thế động cơ của vụ trộm là gì?”
“Hãy tới số 18, đường Barre, ở Dieppe, đó là địa chỉ của một bà Verdier nào đó. Vì người phụ nữ đó – người ông ấy quen hai năm trước – và để chu cấp tiền bạc cho bà ta mà Daval trở thành kẻ trộm.”
Vậy là mọi chuyện đã rõ ràng. Tấn bi kịch bước ra khỏi bóng tối và dần dần lộ diện dưới ánh sáng sự thật.
“Chúng ta hãy tiếp tục.” Ngài Filleul nói sau khi Bá tước rời khỏi phòng.
“Xin thề danh dự.” Beautrelet hoan hỉ nói. “Hầu như tôi đã nói hết tất cả những gì cần phải nói.”
“Nhưng còn kẻ bị thương đã bỏ trốn?”
“Về chuyện đó, ngài dự thẩm ạ, ngài cũng biết ngang tôi mà. Ngài đã lần theo dấu vết hắn để lại trên bãi cỏ gần mấy hàng hiên, ngài đã…”
“Phải, phải, tôi biết. Nhưng, từ lúc đó, đồng bọn của hắn đã đưa hắn đi và điều tôi muốn biết là một vài manh mối về chuyện cái quán trọ đó…”
Isidore Beautrelet phá lên cười. “Quán trọ! Quán trọ không hề tồn tại! Chỉ là cái họ dựng lên thôi, một mánh khóe để đánh lạc hướng cảnh sát. Quả là một trò mưu trí vì có vẻ nó đã rất thành công.”
“Nhưng bác sĩ Delattre đã khai…”
“A, ra là thế!” Beautrelet kêu lên, giọng quả quyết. “Nếu chỉ là vì bác sĩ Delattre khai như thế thì chúng ta không phải tin ông ấy. Tại sao lại thế? Bác sĩ Delettre từ chối cung cấp mọi thông tin, nhưng lại nói với báo chí những chi tiết hết sức mập mờ liên quan đến chuyến phiêu lưu đó của mình. Ông ấy từ chối nói ra bất kỳ điều gì gây ảnh hưởng đến sự an toàn của bệnh nhân! Vậy mà đột nhiên ông ấy lại hướng các ngài chú ý tới một quán trọ! Ngài có thể chắc chắn rằng ông ấy nhắc đến quán trọ đó bởi vì người ta bảo ông ấy nói như thế. Ngài có thể chắc chắn rằng toàn bộ câu chuyện mà bác sĩ trình bày với chúng ta là kết quả của một lời đe dọa trả thù khủng khiếp. Bác sĩ có một người vợ và một cô con gái. Ông ấy yêu thương họ vô cùng, tới nỗi không dám trái lệnh những kẻ có sức mạnh khủng khiếp mà ông ấy đã được chứng kiến. Và đó là lý do tại sao ông ấy lại giúp sức cho ngài bằng cách cung cấp những manh mối quá cụ thể và chi tiết như vậy.”
“Quá cụ thể và chi tiết tới nỗi chẳng tìm thấy cái quán trọ đó ở đâu cả!”
“Quá cụ thể và chi tiết tới nỗi ngài không ngừng tìm kiếm cái quán trọ đó, ngài quyết tâm tìm ra cho bằng được cái quán trọ và đôi mắt của ngài đã bị hướng ra chỗ khác, xa khỏi chỗ duy nhất kẻ đó có thể nương náu, nơi bí ẩn mà hắn chưa từng rời khỏi, vì hắn không thể chạy được đi đầu ngay
từ đầu, từ giây phút bị tiểu thư de Saint-Véran bắn bị thương, hắn đã lẻn được vào trong đó, như con thú chui vào nơi ẩn nấp của mình.”
“Nhưng ở chỗ chết tiệt nào mới được?… Ở chốn âm ty nào kia chứ?” “Chỗ đống đổ nát của tu viện cũ.”
“Chỗ đổ nát ấy còn lại gì cơ chứ! Chỉ còn vài mẩu tường! Và vài cây cột gãy!”
“Nhưng đó chính là nơi hắn trốn mất tăm, ngài dự thẩm ạ!” Beautrelet hét lên. “Đó là nơi ngài phải tới tìm hắn! Chính là ở đó chứ không phải chỗ nào khác để ngài tìm ra Arsène Lupin!”
“Arsène Lupin!” Ngài Filleul gào tướng và đứng phắt dậy.
Một khoảng lặng khá trang nghiêm bao trùm, và giữa khoảng lặng ấy, âm tiết của cái tên khét tiếng đó nghe như được kéo dài ra. Liệu địch thủ bị bắn hạ mà vẫn vô hình, kẻ họ đang tìm kiếm trong tuyệt vọng suốt mấy hôm nay, có thể đúng là Arsène Lupin – tên đại bịp xuất chúng, ông vua của những tay đạo chích – hay không? Arsène Lupin, bị sa bẫy, bị bắt, với bất kỳ một vị dự thẩm nào, thì đó cũng có nghĩa là thăng tiến, là tiền bạc, là vinh quang tới ngay trong phút chốc!
Ganimard nãy giờ vẫn ngồi nguyên, chẳng hề nhúc nhích. Isidore nói với ông: “Ngài đồng ý với tôi hay là không ạ, thưa ngài thanh tra?”
“Tất nhiên là tôi đồng ý.”
“Ông cũng tin là chính hắn ta đã làm vụ này, không có lấy phút giây hoài nghi nào ư?”
“Không có lấy một giây! Có dấu ấn riêng của hắn đó. Cách thức
Arsène Lupin hành động khác một trời một vực với những kẻ khác. Ông chỉ cần mở to mắt ra mà thôi.”
“Ông cũng nghĩ vậy? Ông cũng nghĩ như vậy thật ư?” Ngài Filleul nói.
“Nghĩ cái gì nữa!” Cậu trai trẻ la lên. “Ngài nhìn mà xem, có một thực tế nho nhỏ thế này: Mấy chữ viết tắt mà những người kia thư từ với nhau là gì? Là A.L.N, tức là chữ cái đầu trong từ Arsène và hai chữ cái đầu và cuối trong từ Lupin.”
“A!” Ganimard nói. “Đúng là không gì qua được mắt cậu! Tôi xin lấy danh dự ra mà thề, cậu là một địch thủ đáng gờm và ông già Ganimard này xin cúi đầu trước cậu.”
Beautrelet đỏ mặt vì sung sướng và siết lấy bàn tay ngài Chánh Thanh tra chìa ra trước cậu. Ba người bước lại gần ban công và dõi mắt ra chỗ khu phế tích. Ngài Filleul lẩm bẩm: “Vậy là hắn ta phải ở đó.”
“Hắn ta ở đó.” Beautrelet uể oải nói. “Hắn ta đã ở đó ngay từ khi hắn ngã xuống. Hoàn toàn thực tế và hợp lý, hắn không thể trốn ra khỏi đây mà không bị quý cô de Saint-Véran và hai anh hầu trông thấy.”
“Cậu có bằng chứng không?”
“Những tên đồng bọn của hắn đã xóa sạch bằng chứng. Vào buổi sáng hôm đó, một trong số chúng đã cải trang thành người đánh xe và chở ông đến đây…”
“Để lấy lại cái mũ, thứ sẽ được dùng để nhận dạng hắn.”
“Rất đúng, nhưng quan trọng hơn hết là để kiểm tra tình hình và đi tìm tên đầu sỏ, cũng như nhìn tận mắt điều gì đã xảy ra với thủ lĩnh của mình.”
“Và hắn đã tìm ra?”
“Tôi cho là vậy, vì hắn đã biết chỗ ẩn nấp. Và tôi đồ rằng hắn cũng nhận thấy tình trạng nguy hiểm của tên đầu sỏ, bởi lẽ, do quá lo lắng, hắn đã khinh suất mà viết những dòng đe dọa: Thủ lĩnh mà chết thì cô ả nhà này cứ liệu hồn!”
“Nhưng sau đó, đồng bọn của hắn có thể đưa hắn đi mà?”
“Đi khi nào? Người của ngài chưa hề rời khỏi khu tàn tích. Mà chúng có thể đưa hắn đi đâu được? Cùng lắm là vài trăm mét vì chẳng ai cho một kẻ đang hấp hối đi xa… và rồi ngài sẽ tìm được hắn. Không, tôi xin cam đoan với ngài rằng hắn ở đó. Đồng đảng của hắn sẽ không bao giờ mang hắn ra khỏi chỗ ẩn náu an toàn nhất. Chính là ở đó – chỗ chúng đưa vị bác sĩ tới trong lúc các anh lính hiến binh đang chạy te tái như một lũ trẻ con để dập lửa.”
“Nhưng hắn sống thế nào đây? Làm sao hắn sống sót được? Muốn giữ được mạng sống, cậu cần phải có thức ăn và nước uống.”
“Chuyện đó thì tôi không nói được gì. Tôi không biết. Nhưng hắn ở đó. Tôi dám thề hắn đang ở đó. Bởi vì hắn không thể không ở chỗ đó được. Tôi đảm bảo, như thể tôi nhìn thấy hắn, như thể tôi sờ được vào hắn vậy. Hắn đang đó.”
Với ngón tay chỉ thẳng ra phía khu di tích, cậu vẽ trong không khí một vòng tròn nhỏ, vòng tròn mỗi lúc một nhỏ hơn, nhỏ hơn nữa, cho tới khi chỉ còn là một điểm. Và từ điểm đó, hai người bạn của cậu tuyệt vọng tìm kiếm, cả hai nhoài người ra ngoài khoảng không, cả hai cùng xúc động bởi cùng một niềm tin đặt nơi Beautrelet và run rẩy với lời thuyết phục mạnh mẽ mà cậu khiến họ phải nghe theo. Phải, Arsène Lupin ở đó. Theo lý
thuyết và trên thực tế, hắn ở đó: Giờ đây, không ai trong số họ còn có thể nghi ngờ điều ấy.
Có điều gì đó bi thảm, khiến người ta xúc động mạnh khi biết tay đạo chích lừng danh đang nằm trong một góc hầm tối tăm nào đó, bên dưới lòng đất, không ai giúp đỡ, sốt và kiệt sức.
“Vậy… ngộ nhỡ hắn chết?” Ngài Filleul hạ giọng, khẽ hỏi.
“Ngộ nhỡ hắn chết.” Beautrelet nói. “Và ngộ nhỡ đồng bọn của hắn biết chắc chắn điều đó, thì ngài sẽ phải lo cho sự an nguy của tiểu thư de Saint-Véran. Ngài dự thẩm ạ, đòn trả thù sẽ vô cùng khủng khiếp.”
Vài phút sau, mặc cho những lời nài nỉ khẩn thiết của ngài Filleul – người sẽ vô cùng hoan hỉ tranh thủ nhờ vả anh phụ tá tuyệt vời Isidore Beautrelet này – Beautrelet phải quay lại Dieppe để bắt chuyến tàu lên Paris ngay vì kỳ nghỉ của cậu đã kết thúc vào ngày hôm ấy. Cậu xuống tàu ở Paris lúc năm giờ, và đến tám giờ, cậu trở lại trường Trung học Janson cùng bạn bè của mình.
Ganimard, một phút sau cuộc tìm kiếm hoàn toàn vô vọng trong đống đổ nát của tu viện Ambrumésy, cũng quay về Paris trên chuyến tàu tốc hành chạy đêm. Lúc về tới căn hộ của mình ở đường Pergolèse, ông thấy một bức thư hỏa tốc của ai đó gửi cho mình:
Kính gửi ngài Chánh Thanh tra,
Nhận thấy mình vẫn còn một chút thời gian rảnh rỗi cuối ngày, tôi đã tranh thủ thu thập được thêm một vài thông tin mà chắc chắn
ngài sẽ quan tâm.
Arsène Lupin đã sống ở Paris suốt mười hai tháng qua dưới cái tên Étienne de Vaudreix. Đó là cái tên ngài sẽ gặp ở chuyên mục dành cho tầng lớp thượng lưu hoặc chuyên mục thể thao trên báo. Ông ta là một nhà du hành vĩ đại và thường vắng nhà trong khoảng thời gian dài. Trong suốt quãng thời gian vắng nhà đó, ông ta nói ông ta đi săn hổ ở Bengal hoặc cáo tuyết ở Siberia. Người ta nghĩ rằng ông ta bận công việc gì đó, mặc dù chẳng ai nói chính xác được
công việc ấy là gì.
Địa chỉ hiện tại của ông ta là số 38, đường Marbeuf, và tôi sẽ khiến ngài phải chú ý khi nhắc tới điều này: Đường Marbeuf rất gần với trạm bưu điện số 45. Từ hôm thứ Năm, ngày Hai mươi ba tháng Tư, một ngày trước hôm xảy ra vụ trộm ở Ambrumésu, Étienne de Vaudreix nọ bặt vô âm tín.
Xin gửi tới ngài lòng biết ơn chân thành nhất vì niềm thân ái và tin tưởng ngài đã dành cho tôi, thưa ngài Chánh Thanh tra.
Kính thư,
ISIDORE BEAUTRELET
Tái bút: Xin chớ nghĩ rằng tôi phải vướng vào rắc rối để lấy được thông tin này. Vào buổi sáng hôm xảy ra vụ việc, khi ngài Filleul đang thẩm vấn những người danh gia vọng tộc ở lâu đài, may mắn thay, tôi chợt nảy ra ý định liếc qua cái mũ của kẻ bỏ trốn, trước khi tay đánh xe giả tới đánh tráo nó. Hẳn ngài có thể hình dung được, chỉ cần tên của người thợ làm mũ là đã đủ để tôi tìm ra manh mối về nhân thân và địa chỉ của người mua.
Sáng hôm sau, Ganimard ghé qua nhà số 36, đường Marbeuf. Sau khi hỏi han người gác cổng, ông tự mở cửa căn hộ tầng trệt phía bên phải. Căn hộ rất rộng rãi, thoải mái, nội thất trang nhã, tuy nhiên, ông chẳng tìm thấy thứ gì trong đó ngoài đống tro tàn trong lò sưởi. Hai người bạn nào đó đã tới đây từ bốn hôm trước, để đốt hết tất cả mọi giấy tờ gây bất lợi.
Nhưng lúc ra về, Ganimard tình cờ đi ngang qua một bưu tá; anh ta mang thư tới cho ông Vaudreix. Chiều hôm đó, ủy viên công tố được thông báo về vụ việc và bức thư được đưa lên cơ quan điều tra theo lệnh. Bức thư có dấu bưu cục Mỹ và có đôi dòng như sau bằng tiếng Anh:
Kính gửi ngài,
Tôi viết bức thư này để xác nhận với ngài câu trả lời mà tôi đã
chuyển cho đại diện của ngài. Ngay khi sở hữu trong tay bốn bức tranh của ngài de Gesvres, ngài có thể gửi đi như đã thỏa thuận.
Ngài có thể gửi nốt chỗ còn lại, nếu ngài thành công – một khả
năng mà tôi thấy nghi ngờ.
Tôi có việc đột xuất phải tới châu Âu và tôi sẽ đến Paris cùng lúc với bức thư này. Ngài sẽ gặp tôi ở khách sạn Grand.
Trân trọng,
EPHRAIM B. HARLINGTON
Cùng ngày hôm đó, Ganimard xin lệnh bắt giữ và đưa ông E. B. Harlington, công dân Mỹ, tới đồn cảnh sát vì tội thông đồng và chứa chấp tài sản trộm cắp.
Vậy là, chỉ trong vòng hai mươi tư giờ đồng hồ, mọi nút thắt của vụ án đã được tháo gỡ, nhờ những manh mối thực sự bất ngờ do một cậu học sinh mười bảy tuổi cung cấp. Trong vòng hai mươi tư giờ đồng hồ, điều không thể lý giải đã trở nên thật đơn giản và rõ ràng. Trong vòng hai mươi tư giờ đồng hồ, mưu đồ giải cứu thủ lĩnh của những tên đồng bọn trong băng trộm đã bị phá hỏng. Việc bắt giữ Arsène Lupin đang bị thương và hấp hối không thành vấn đề nữa và chắc chắn sẽ được tiến hành ngay. Băng đảng của hắn đã rối loạn, địa chỉ cơ ngơi của hắn ở Paris và cái tên hắn dùng đã bị lộ. Lần đầu tiên, một trong những phi vụ khôn khéo và cẩn thận nhất của siêu đạo chích Arsène Lupin đã bị lật tẩy trước khi hắn ta kịp hoàn thành.
Dư luận dậy sóng với những ngạc nhiên, ngưỡng mộ và tò mò. Ký giả tờ Tạp chí Rouen đi cùng Beautrelet hôm đó đã viết một bài báo gây chú ý, mô tả cuộc điều tra đầu tiên của cậu học sinh trung học, nhấn mạnh vào sức cuốn hút, cung cách thanh tao và sự tự tin kín đáo của cậu. Còn thanh tra Ganimard và ngài Filleul, hai vị đã trót để lộ ra những sơ hở trong cơn bốc đồng còn mạnh hơn lòng tự hào nghề nghiệp của mình. Những sơ hở ấy bất ngờ làm nổi bật vai trò của Isidore Beautrelet trong dư luận. Với
đám đông, chỉ một mình cậu làm hết tất cả mọi việc. Chỉ một mình cậu xứng đáng được hưởng quả ngọt của chiến thắng.
Sự phấn khích của dư luận vô cùng mãnh liệt. Isidore Beautrelet qua một đêm tỉnh dậy đã thấy mình là anh hùng; và đám đông, đột ngột phát cuồng, khăng khăng đòi cho bằng được những thông tin đầy đủ nhất về chàng thần tượng mới xuất hiện. Các phóng viên sẵn sàng hành động để chiều lòng độc giả. Họ rầm rộ tiến công vào trường Trung học Janson-de
Sailly, họ chầu chực bên ngoài phòng học, chờ những học sinh nội trú tan lớp và thu thập tất cả mọi thông tin có liên quan tới Beautrelet, dù chỉ là tí chút. Bằng cách đó, người ta lại được biết thêm về danh tiếng và uy tín của cậu với các học sinh cùng trường, những người vẫn thường gọi cậu là đối thủ của Herlock Sholmès. Nhờ tài năng lập luận logic mà không cần thêm thông tin nào khác ngoài những dữ liệu thu thập được trên báo, hết lần này tới lần khác, cậu đã phá được những vụ án hết sức phức tạp, trước cả khi phía cảnh sát làm sáng tỏ.
Trường Janson còn có một trò tiêu khiển: Đưa ra những câu hỏi hóc búa và những vấn đề phức tạp để làm khó Beautrelet; rồi kinh ngạc khi chứng kiến Beautrelet – với sự quả quyết, khả năng phân tích và những suy luận tài tình – vẫn tìm được lối đi dù bao quanh là bóng đen bí ẩn dày đặc nhất. Mười ngày trước khi Jorisse – chủ tiệm tạp hóa – bị bắt, cậu đã cho mọi người thấy người ta có thể làm được những gì với cái ô nổi tiếng. Cũng cách đó, cậu tuyên bố ngay từ đầu về bí ẩn Saint-Cloud, rằng người gác cổng là kẻ duy nhất có khả năng gây ra vụ án mạng.
Nhưng thứ gây tò mò hơn tất thảy là quyển sách nhỏ được mấy cậu nam sinh ở trường chuyền tay nhau. Sách được đánh máy, do Beautrelet ký và được in làm mười bản. Tiêu đề của quyển sách như sau: Arsène Lupin
và các mánh lới – Cổ điển và độc đáo – giọng văn hóm hỉnh rất Ăng-lê song hành cùng lối châm biếm đặc trưng của Pháp.
Quyển sách nghiên cứu chuyên sâu về từng phi vụ của Arsène Lupin, nêu bật thao tác thực hiện các vụ trộm lẫy lừng, làm rõ những kỹ xảo, thủ đoạn hắn áp dụng, những chiến thuật đặc biệt, những lá thư hắn gửi cho báo chí, những lời đe dọa, những thông điệp báo trước cho nạn nhân về vụ trộm, nói tóm lại, tất cả những mánh khóe Arsène Lupin dùng để luộc nạn nhân hắn chọn, và đưa người đó vào một trạng thái tinh thần mà họ gần như tự nguyện đâm đầu vào âm mưu bày ra để gây bất lợi cho họ, rồi mọi chuyện diễn ra cùng sự ưng thuận của chính nạn nhân.
Trên phương diện là một tác phẩm phê bình, quyển sách rất công bằng, rất sắc sảo, rất sinh động và được ghi dấu bằng một sự hóm hỉnh vừa khéo léo vừa tàn nhẫn, tới nỗi những luật sư sẽ thích mê cậu ngay lập tức, những cảm thông của dư luận phải chuyển từ Lupin sang Beautrelet, và trong cuộc đối đầu giữa hai người họ, chiến thắng vang dội của cậu học sinh đã được
công bố ngay từ đầu.
Mặc dù vậy, cả ngài Filleul và công tố viên Paris có vẻ như vẫn tha thiết muốn dành cơ hội phá án cho cậu. Một mặt, họ không xác định được nhân thân của ông Harlington hay đưa ra được bằng chứng xác thực về mối liên hệ giữa ông ta với băng đảng của Arsène Lupin. Việc họ có bắt tay hợp tác với nhau hay không – ông ta vẫn ngoan cố, nhất mực giữ im lặng. Không những thế, sau khi kiểm tra chữ viết tay của ông ta, cũng không thể nói rõ được ông ta có phải là người đã viết bức thư bị tịch thu đó hay không. Một ông Harlington, mang theo một cái va li đựng quần áo nhỏ và một quyển sổ tay kẹp đầy tiền mặt, đã đăng ký phòng ở khách sạn Grand: Đó là tất cả những gì phía cảnh sát có thể tự tin công bố.
Mặt khác, ở Dieppe, ngài Filleul vẫn đứng chôn chân ở những chỗ mà Beautrelet đã khai khẩn cho ngài. Ngài không tiến thêm được bước nào. Chân tướng kẻ có ngoại hình giống Beautrelet mà tiểu thư de Saint-Véran trông thấy vào đêm trước hôm xảy ra vụ án vẫn là một bí ẩn. Vẫn là một màn đêm tối tăm bao trùm tất cả mọi thứ liên quan tới việc đánh tráo bốn bức tranh Rubens. Chuyện gì đã xảy ra với chúng? Và trong đêm ấy, chiếc xe hơi chở bốn bức tranh đó tẩu thoát theo con đường nào?
Người ta thu được bằng chứng cho thấy có một chiếc xe hơi đi ngang qua bốn xã Luneray, Yerville, Yvetot và Caudebec-en-Caux. Tới Caudebec en-Caux, chiếc xe vượt qua sông Seine lúc tảng sáng bằng phà hơi nước. Nhưng, khi điều tra kĩ hơn, người ta cho biết, chiếc xe hơi đó là xe không mui và không thể nào chất bốn bức tranh lớn trên đó mà người lái phà không trông thấy.
Rất có thể đó là cùng một chiếc xe, nhưng như vậy lại nảy ra câu hỏi lúc đầu: Điều gì đã xảy ra với bốn bức tranh Rubens?
Có quá nhiều câu hỏi mà ngài Filleul không tìm được đáp án. Hàng ngày, lính của ngài vẫn tới tìm kiếm ở khu vực hình tứ giác chỗ khu phế tích. Hầu như hàng ngày, ngài đến tận nơi chỉ đạo các cuộc tìm kiếm. Nhưng giữa việc đi tìm và việc tìm được nơi Lupin đang náu mình chờ chết – nếu quả thật ý kiến của Beautrelet đúng – có một hố sâu ngăn cách mà ngài dự thẩm đáng kính dường như không thể vượt qua.
Và như một lẽ tự nhiên, họ phải quay lại tham khảo ý kiến của Isidore Beautrelet lần nữa, vì cậu là người duy nhất đã xua tan đi bóng tối – một bóng tối khi vắng cậu lại ken đặc hơn và khó lòng xuyên thủng hơn bao giờ hết. Tại sao cậu không tiếp tục phá vụ án đó nữa? Cậu đã đi được một
quãng đường xa tới như thế, giờ chỉ cần có thêm một chút, cậu ắt sẽ thành công.
Câu hỏi đó được một ký giả của tờ Đại Nhật báo đặt ra cho cậu. Người này lấy được giấy phép vào trường Trung học Janson bằng cách xưng là Bernod, tên người bạn của phụ thân Beautrelet. Và Isidore đã trả lời rất khôn ngoan: “Thưa quý ngài kính mến, còn có những điều khác ngoài Lupin trên thế giới này, còn có những điều khác ngoài mấy câu chuyện về các tay đạo chích và các thám tử. Ví dụ như lấy bằng tú tài chẳng hạn. Bây giờ tôi đang chuẩn bị cho kỳ thi vào tháng Bảy sắp tới. Giờ là tháng năm rồi. Và tôi không muốn bị đánh trượt. Người cha đáng kính của tôi sẽ nói gì đây?”
“Nhưng ông sẽ nói gì nếu cậu giao Arsène Lupin vào tay cảnh sát?” “Chậc! Chuyện gì cũng có thời gian cả. Vào kỳ nghỉ tiếp theo…” “Vào lễ Hiện xuống⦾?”
“Phải, tôi sẽ ra trường vào thứ Bảy ngày mùng Sáu tháng Sáu, và đi luôn chuyến tàu đầu tiên xuống đó.”
“Và, tối ngày thứ Bảy hôm đó, Lupin sẽ bị bắt?”
“Ông có thể chờ tới Chủ nhật được không?” Beautrelet cười lớn, hỏi.
“Sao phải trì hoãn đến khi ấy?” Ký giả nọ thắc mắc, nghe chừng khá nghiêm túc.
Lòng tin cậy không lý giải được này dù chỉ mới hình thành ngày hôm qua thôi nhưng đã vô cùng mạnh mẽ, được tất cả mọi người, không trừ một ai, đặt nơi chàng trai trẻ, dẫu cho trên thực tế, những sự kiện đó cũng chỉ mới được chứng minh ở một mức độ nhất định. Không vấn đề: Người ta
tin cậu! Với cậu, không một điều gì là khó khăn. Người ta trông đợi nơi cậu những điều mà đáng lý ra, họ nên đặt hết vào những hiện tượng phi thường của thấu suốt và trực giác, của kinh nghiệm và kỹ năng. Ngày mùng Sáu tháng Sáu nằm chễm chệ trên tất cả các mặt báo. Vào ngày mùng Sáu tháng Sáu, Isidore Beautrelet sẽ bắt chuyến tàu tốc hành tới Dieppe, và Lupin sẽ bị tóm vào buổi tối cùng ngày.
“Trừ phi từ giờ cho tới lúc đó, anh ấy trốn ra ngoài được.” Những người ủng hộ siêu đạo chích còn sót lại phản bác.
“Không thể! Mọi ngóc ngách đều được canh phòng cẩn mật.”
“Vậy, trừ phi anh ấy mất vì bị thương.” Những người hâm mộ – những người cho rằng thà vị anh hùng của mình qua đời còn hơn là bị bắt – chống chế.
Và phe đối lập vặn lại tức thì: “Vớ vẩn! Nếu Lupin chết, giờ đồng bọn của hắn đã biết rồi, và chúng sẽ trả thù cho Lupin. Beautrelet nói vậy đó!”
Rồi ngày mùng Sáu tháng Sáu cũng tới. Nửa tá ký giả ào tới tìm Beautrelet ở nhà ga Saint-Lazare. Hai trong số họ muốn đi cùng cậu. Cậu phải năn nỉ họ ở lại.
Vậy là cậu khởi hành một mình. Buồng chỉ có mình cậu. Cậu rất mệt vì đằng đẵng mấy hôm liền thức đêm ôn tập, và nhanh chóng thiếp đi. Cậu
ngủ mê mệt. Trong cơn mơ, cậu có cảm tưởng đoàn tàu dừng lại ở những ga khác nhau và hành khách lên – xuống liên tục. Khi cậu thức giấc, quang cảnh vùng Rouen hiện ra trong tầm mắt, cậu vẫn đang ở một mình trong toa tàu. Nhưng, trên lưng chiếc ghế đối diện có một tờ giấy lớn, được ghim vào mặt vải bọc ghế màu xám. Tờ giấy viết:
Việc ai nấy lo. Lo phần mình đi. Không thì anh sẽ phải lãnh hậu
quả.
“Hay lắm!” Cậu xoa tay và thốt lên. “Tình hình phía đối thủ có vẻ đang tệ đi. Lời đe dọa vừa ngu ngốc vừa thô lỗ chẳng khác gì của tay đánh xe giả. Văn phong kiểu gì thể không biết! Ai cũng thấy đây không phải do Lupin soạn.”
Đoàn tàu chui vào đường hầm dẫn đến đô thành vùng Normandie cổ kính. Tàu vào ga, Isidore xuống sân đi lại cho giãn gân cốt và đỡ tê chân. Lúc toan quay lại buồng của mình, cậu buột miệng kêu lên. Bởi lẽ, khi đi ngang qua một quầy sách báo, Isidore lơ đãng đọc lướt mấy dòng chữ in trên trang nhất ấn bản đặc biệt của tờ Tạp chí Rouen, cậu bất giác nhận ra
điều đáng ngại.
TIN GIỜ CHÓT
Chúng tôi nhận được tin báo từ Dieppe qua điện thoại: Tối qua, lâu đài Ambrumésy bị kẻ gian đột nhập. Chúng đã trói và bịt miệng tiểu thư de Gesvres, và bắt cóc tiểu thư de Saint-Véran. Có dấu máu
cách lâu đài năm trăm mét và một chiếc khăn nhuốm máu cũng
được tìm thấy gần đó. Hoàn toàn có lý do để lo sợ cho tính mạng
của cô gái trẻ tội nghiệp.
Isidore Beautrelet ngồi im bất động suốt quãng đường tới Dieppe. Người đổ về phía trước, hai cùi chỏ chống lên hai đầu gối, hai tay bưng mặt, cậu trầm ngâm suy nghĩ.
Về tới Dieppe, cậu bắt một chuyến xe độc mã đến Ambrumésy. Ở cửa lâu đài, cậu gặp ngài dự thẩm – ngài xác nhận với cậu tin khủng khiếp đó.
“Ngài có biết gì hơn không ạ?” Beautrelet hỏi.
“Chẳng có gì cả. Tôi chỉ vừa mới đến.”
Vào lúc đó, trung sĩ lực lượng hiến binh tới gặp ngài Filleul và đưa cho ngài một mẩu giấy rách, nhàu nhĩ và đã bạc màu – anh nhặt được mẩu giấy đó cách chỗ chiếc khăn được tìm thấy không xa. Ngài Filleul cầm lấy, xem rồi đưa cho Beautrelet và nói: “Tôi không nghĩ thứ này giúp được gì nhiều
cho cuộc điều tra của chúng ta.”
Isidore lật qua lật lại tờ giấy. Trên đó chi chít những con số, dấu chấm và ký hiệu, được viết chính xác như dưới đây:
3. Thi thể
S
áu giờ chiều, sau khi hoàn thành tất cả những công việc mình phải làm, ngài Filleul cùng ông Brédoux – thư ký của ngài – đứng chờ xe quay trở lại quận Dieppe. Ngài trông bồn chồn, sốt ruột và lo lắng. Không chỉ một mà những hai lần, ngài hỏi: “Ông vẫn chưa nghe thấy cậu Beautrelet trẻ tuổi nói gì phải không, tôi đoán vậy?”
“Thưa ngài dự thẩm, tôi không dám trả lời có đâu.”
“Cậu ta ở chỗ quái nào được nhỉ? Suốt cả ngày hôm nay, tôi chẳng nhìn thấy mặt mũi cậu ta đâu!”
Chợt, như sực nghĩ ra điều gì, ngài đưa cặp hồ sơ cho Brédoux rồi vòng qua lâu đài, chạy vội ra khu phế tích. Isidore Beautrelet đang nằm gần hàng hiên, ngửa mặt lên trời, một tay gối dưới đầu, lưng dán lên nền đất toàn lá thông. Trông cậu như đang ngủ.
“Ôi trời, chàng trai trẻ, cậu đang làm gì ở đây thế? Cậu đang ngủ à?” “Tôi không ngủ. Tôi đang suy nghĩ.”
“Suốt từ sáng tới giờ ư?”
“Suốt từ sáng tới giờ.”
“Suy nghĩ gì suốt từ sáng tới giờ cơ chứ! Trước tiên là phải xem xét kĩ mọi thứ, quan sát, nghiên cứu các sự kiện, tìm kiếm manh mối, lập ra các mối liên kết. Sau đó, khi đã thu thập được hết các thông tin cần thiết thì mới suy nghĩ, phán đoán, ráp tất cả các mảnh ghép lại với nhau và tìm ra sự thật.”
“Phải, tôi biết… Đó là phương pháp thông thường, là một cách hay, tôi khẳng định thế… Phương pháp của tôi thì khác… Có thể diễn tả ý tưởng của tôi như thế này: Trước tiên, tôi suy nghĩ, tôi cố thử tìm cách thức chung của vụ án. Sau đó, tôi đặt ra một giả thuyết hợp lý và logic, phù hợp với cách thức chung kia. Rồi tôi kiểm tra các sự kiện xem chúng có chịu trùng với giả thuyết của tôi hay không.”
“Quả là một phương pháp buồn cười và phức tạp kinh khủng!”
“Đó là một phương pháp đáng tin cậy, ngài Filleul ạ, có thể nói là chắc ăn hơn phương pháp của ngài.”
“Thôi nào! Sự kiện là sự kiện.”
“Với những đối thủ thông thường của ngài thì, vâng, đúng vậy. Nhưng với một kẻ được trời phú cho chút xảo quyệt và thủ đoạn nhất định, sự kiện ta thấy là những sự kiện hắn lựa chọn và bày ra cho chúng ta. Dựa vào những manh mối trứ danh mà điều tra như ngài nói ư? Chà, hắn tha hồ sắp xếp theo ý hắn. Và khi đối phó với một kẻ như Arsène Lupin… chậc, ngài cũng thấy những cái bẫy của hắn có thể đưa ngài đến đâu rồi đấy. Tới những sai lầm và những kết luận ngớ ngẩn. Chính bản thân Herlock
Sholmès cũng từng sa bẫy.”
“Arsène Lupin đã chết!”
“Chuyện đó không thành vấn đề. Băng đảng của hắn vẫn còn và đồ đệ của một sự phụ như thế – bản thân chúng cũng chính là những bậc thầy.”
Ngài Filleul khoác vai Isidore và lôi cậu đi. “Đúng thế, chàng trai ạ, đúng thế! Ở đây còn có chuyện quan trọng hơn. Hãy nghe tôi nói này. Một mặt, Ganimard lúc này đang bận việc trên Paris và sẽ vắng mặt ở đây vài hôm. Mặt khác, Bá tước de Gesvres đã đánh điện cho Herlock Sholmès, ông ta hứa tuần tới sẽ đến giúp. Giờ, anh chàng trẻ tuổi ạ, cậu có nghĩ, nếu vào ngày hai người nổi tiếng đó tới đây, chúng ta có thể nói với bọn họ rằng ‘Vô cùng xin lỗi, thưa các quý ông, nhưng chúng tôi không chờ được. Việc đã xong xuôi cả rồi.’ là một niềm tự hào của cả hai ta hay không?”
Ngài Filleul không thể thú nhận sự bất lực của mình bằng cách nào thẳng thắn hơn được nữa. Beautrelet cố kìm lại nụ cười và, vờ như chưa nhìn thấu ngài dự thẩm đáng kính, cậu đáp: “Thưa ngài dự thẩm, tôi xin thú nhận, nếu tôi không có mặt tại cuộc điều tra của ngài lúc này, là bởi vì tôi hy vọng ngài sẽ bằng lòng kể cho tôi biết kết quả. Tôi có thể hỏi ngài đã điều tra được những gì rồi hay chăng?”
“Tối hôm qua, lúc mười một giờ đêm, ba người lính hiến binh mà trung sĩ Quevillon đã cắt cử ở lại canh gác lâu đài bỗng nhận được giấy báo của trung sĩ, lệnh cho họ phải gấp rút tới trình diện ở Ouville, nơi lực lượng đóng quân. Ngay lập tức họ lên ngựa phi nước đại đi Ouville, và khi họ có mặt ở đó…”
“Họ phát hiện ra mình đã bị lừa, rằng lệnh triệu tập đó là giả và họ chẳng còn việc gì để làm ngoài quay lại lâu đài Ambrumésy.”
“Chính xác là như vậy! Trung sĩ Quevillon cũng về cùng. Nhưng họ đã vắng mặt khỏi lâu đài suốt một tiếng rưỡi đồng hồ và trong thời gian đó, tội ác đã xảy ra.”
“Trong tình huống như thế nào ạ?”
“Tình huống rất đơn giản, thật sự là thế. Một chiếc thang trong khu nhà nông trại bị lấy ra và bắc vào lầu hai của lâu đài. Một ô kính bị cắt và cửa sổ dễ dàng mở ra được ngay. Hai gã đàn ông, mang theo đèn lồng – loại có thể che kín được – lẻn vào phòng của tiểu thư de Gesvres và bịt miệng cô lại trước khi cô kịp kêu cứu. Rồi, sau khi trói tiểu thư de Gesvres lại bằng dây thừng, chúng khẽ khàng mở cửa phòng nơi tiểu thư de Saint-Véran đang nằm ngủ. Tiểu thư de Gesvres nghe thấy một tiếng kêu nghèn nghẹt, sau đó là tiếng giãy giụa. Một lúc sau, cô trông thấy hai gã đàn ông mang chị họ của mình – cũng đã bị trói và bịt miệng – đi mất. Chúng chạy ngang qua trước mặt cô ấy và trèo ra ngoài theo lối cửa sổ. Rồi tiểu thư de Gesvres do quá hoảng sợ và kiệt sức, đã ngất xỉu.”
“Thế còn lũ chó thì sao? Tôi tưởng ngài Bá tước de Gesvres đã mua hai con chó ngao dữ tợn và được thả ra vào ban đêm kia mà?”
“Chúng chết mất rồi, bị đánh bả.”
“Ai đánh bả kia chứ? Ai mà lại gần chúng được?”
“Đó là một bí ẩn. Thực tế là đã có hai gã đàn ông băng qua khu di tích mà không gặp phải bất kỳ chướng ngại nào và thoát ra ngoài bằng cái cửa ngách mà chúng ta đã nghe nói đến quá nhiều. Chúng xuyên qua khu rừng nhỏ, men theo những mỏ đá bỏ hoang. Mãi tới lúc đi được cách lâu đài hơn
năm trăm mét, tới chỗ một gốc cây mà người trong vùng gọi là Đại Sồi, chúng mới dừng chân… và thực hiện tội ác của mình.”
“Nếu chúng tới với ý định giết chết tiểu thư de Saint-Véran, sao chúng lại không xuống tay hạ sát ngay trong phòng của cô ấy chứ?”
“Tôi không biết. Có thể chúng chỉ đi tới quyết định đó sau khi đã rời khỏi dinh thự này. Có lẽ cô gái đã xoay xở thể nào đó và thoát được khỏi mớ dây trói. Theo tôi thấy, cái khăn vốn được dùng để trói tay cô ấy. Trong trường hợp nào thì tai họa cũng đã xảy ra tại gốc cây Đại Sồi. Bằng chúng tôi thu thập được là không thể chối cãi.”
“Thế còn thi thể?”
“Vẫn chưa tìm thấy thi thể, nhưng cũng chẳng có gì quá ngạc nhiên với việc đó cả. Thực ra thì, lần theo dấu vết, tôi đã ra đến một nhà thờ ở Varengeville và một nghĩa trang cũ cheo leo trên vách đá. Chỗ đó là một vách đá dốc đứng, cao mấy trăm mét và biển nằm ngay bên dưới. Chỉ trong một, hoặc hai ngày tới, triều cường cao hơn thường lệ, biển sẽ trả thi thể về lại trên bờ.”
“Rõ ràng quá rồi. Mọi chuyện quá đơn giản.”
“Phải, mọi chuyện quá đơn giản và hoàn toàn không làm khó được tôi. Lupin đã chết, đồng bọn của hắn nghe thấy tin này và để trả thù, chúng sát hại tiểu thư de Saint-Véran. Đó là những sự kiện thậm chí không cần phải kiểm chứng. Nhưng còn Lupin?”
“Còn hắn thì sao?”
“Chuyện gì đã xảy ra với hắn? Rất có thể, đồng bọn của hắn đã đưa xác hắn ra nhân lúc bắt cóc cô gái; nhưng chúng ta có bằng chứng gì không? Chẳng có gì cả. Chẳng tìm được thêm manh mối hay bằng chứng về cả việc hắn trốn đâu đó trong khu di tích, về cái chết của hắn, hay về cuộc đời
hắn. Và đó là một bí ẩn thực sự, cậu Beautrelet thân yêu của tôi ạ. Vụ sát hại tiểu thư Raymonde chẳng giải quyết được gì cả. Trái lại, nó còn làm phức tạp vấn đề hơn lên. Chuyện gì đã xảy ra trong suốt hai tháng qua ở
lâu đài Ambrumésy? Nếu không giải được câu đố này, chàng trai trẻ ạ, những người khác sẽ xem thường chúng ta.”
“Mấy người kia sẽ tới vào hôm nào ạ?”
“Thứ Tư… cũng có thể là thứ Ba.”
Beautrelet im lặng, dường như đang tính toán gì đó trong đầu, rồi cậu tuyên bố: “Thưa ngài dự thẩm, hôm nay là thứ Bảy. Tôi phải quay về trường vào tối thứ Hai. Chà, nếu ngài bằng lòng hiện diện ở đây vào đúng mười giờ sáng thứ Hai, tôi sẽ cố gắng đưa cho ngài chìa khóa giải câu đố này.”
“Thật sao, cậu Beautrelet… Cậu nghĩ vậy thật? Cậu chắc chứ?” “Chí ít là tôi hy vọng như vậy.”
“Còn… giờ cậu sẽ đi đâu?”
“Tôi sẽ đi xem thử liệu những sự kiện xảy ra có ngoan ngoãn trùng với giả thuyết chung đang bắt đầu hiện rõ trong đầu tôi hay không.”
“Còn nếu chúng không trùng?”
“Chà, ngài dự thẩm ạ!” Beautrelet nói và cười lớn. “Vậy thì đó sẽ là lỗi của chúng và tôi sẽ phải tìm những sự kiện khác dễ uốn nắn hơn. Vậy, thứ Hai chứ?”
“Thứ Hai.”
Mấy phút sau, ngài Filleul lên xe về Dieppe, còn Beautrelet cưỡi chiếc
xe đạp mượn của bá tước de Gesvres chạy dọc theo con đường dẫn đến Yerville và Caudebec-en-Caux.
Đặc biệt, có một điểm mà chàng trai trẻ nóng lòng muốn làm rõ, bởi lẽ, cậu vừa nhận ra đó dường như là nhược điểm lớn nhất của kẻ thù. Vật thể có kích cỡ lớn như bốn bức tranh Rubens không thể dễ dàng mang đi xa được. Chắc chắn, chúng chỉ đang được giấu ở đâu đó thôi. Cứ cho rằng vẫn chưa thể tìm được bốn bức tranh đó vào lúc này, nhưng chẳng lẽ lại không tìm ra được tuyến đường mà bọn gian đã mang chúng đi tẩu tán hay sao?
Beautrelet phỏng đoán: Chắc chắn bốn bức tranh đã được chiếc xe hơi nọ mang đi, nhưng trước khi tới Caudebec, chúng được chuyển sang một chiếc xe khác. Chiếc xe này là chiếc vượt qua sông Seine, hoặc phía thượng nguồn, hoặc phía hạ lưu vùng Caudebec. Xuôi xuống phía hạ lưu, chuyến phà đầu tiên xuất phát từ Quillebeuf, tàu bè, hành khách qua lại thường xuyên, do đó, rất nguy hiểm. Ngược lên phía thượng nguồn, có chuyến phà từ La Maillerage, một thị trấn rộng lớn nhưng cô lập với bên ngoài, bị tách biệt hoàn toàn với trục đường chính.
Tới nửa đêm, Isidore đã băng qua một quãng đường dài tới sáu mươi, sáu mươi lăm cây số để tới La Maillerage và gõ cửa một quán trọ cạnh bờ sông. Cậu ngủ lại đó và, tới sáng, cậu bắt đầu hỏi thăm các thủy thủ trên phà.
Họ tra cuống vé trong sổ nhật ký hành trình. Không có chiếc xe hơi nào lên phà qua sông vào hôm thứ Năm ngày Hai mươi ba tháng Tư cả.
“Thế còn xe ngựa kéo thì sao?” Beautrelet gợi ý. “Xe bò? Xe chở hàng?”
“Không, cũng chẳng có.”
Isidore tiếp tục hỏi tất cả mọi người đó suốt cả buổi sáng. Đúng lúc cậu định bỏ cuộc và lên đường tới Quillebeuf, thì phục vụ quán trọ chỗ cậu nghỉ lại đêm qua nói: “Lúc tôi về đây sau nghi lễ là vào đúng buổi sáng mà anh đang nói đấy, tôi thấy có một cỗ xe chở hàng, nhưng nó không đi qua sông.”
“Thật ư?”
“Thật. Họ dừng ở bến tàu, rồi dỡ cỗ xe xuống một cái xuồng phẳng, cái người ta gọi là sà lan ấy.”
“Vậy, cỗ xe đó từ đâu tới?”
“Ồ, tôi biết ngay. Nó là của bác Vatinel, người đánh xe.”
“Thế ông ấy sống ở đâu?”
“Ở làng Louvetot.”
Beautrelet giở tấm bản đồ quân sự của mình ra xem. Làng Louvetot nằm ở ngã tư đường, chỗ đường đi từ Yvetot tới Caudebec cắt với một con đường nhỏ quanh co chạy xuyên rừng đến La Mailleraye!
Chưa tới sáu giờ chiều, Isidore đã tìm được bác đánh xe Vatinel trong một quán rượu. Bác Vatinel, một ông già người Normandie ranh mãnh, lúc nào cũng cảnh giác, không tin người lạ, nhưng lại không thể cưỡng nổi sức cám dỗ của những đồng vàng hay hơi men của một, hai cốc rượu. “Chà, đúng vậy, thưa cậu, mấy đứa đi xe hơi đó sáng hôm ấy đã hẹn tôi ra gặp ở ngã tư lúc năm giờ sáng. Bọn nó chất lên xe tôi bốn món đồ to, to lắm, cao đến thế này này. Một đứa trong nhóm bọn nó đi cùng với tôi và chúng tôi dỡ mấy món đó xuống sà lan.”
“Nghe cách bác nói, cứ như thể bác đã biết bọn họ từ trước vậy.”
“Ừ, nói là chỗ quen biết cũng đúng! Đó là lần thứ sáu họ thuê tôi chở cho rồi.”
Isidore giật mình. “Bác nói đó là lần thứ sáu? Vậy, bác bắt đầu chở cho họ từ khi nào?”
“Từ lâu rồi. Trước hôm đấy thì ngày nào cũng chở, chắc chắn! Nhưng là chở những thứ khác, mấy khối đá rất to… không thì nhỏ hơn, và hơi dài, được bọc giấy báo. Bọn nó khênh đồ đạc cẩn thận lắm, như thể khênh tượng Thánh ấy. Tôi chẳng biết mấy thứ đó là gì. À, mà tôi không được phép đụng vào đồ của chúng cơ! Nhưng cậu làm sao thế? Mặt cậu trắng bệch hết ra rồi kìa.”
“Không có gì cả đâu… tại trong phòng nóng quá.”
Beautrelet lảo đảo bước ra ngoài. Niềm vui cùng nỗi bất ngờ khi khám phá ra điều này khiến cậu choáng váng. Cậu yên lặng quay trở về Varengeville, ngủ lại ở làng. Sáng hôm sau, cậu dành một giờ đồng hồ ở văn phòng thị trưởng với một thầy giáo ở đó rồi trở về lâu đài. Về tới lâu đài, cậu nhận được một lá thư Nhờ ngài Bá tước de Gesvres chuyển giúp gửi cho mình. Bức thư chỉ có mỗi một dòng:
Cảnh cáo lần thứ hai. Câm họng. Nếu không…
“Chà!” Cậu lẩm bẩm. “Khéo mình phải có vài biện pháp phòng vệ để giữ mạng. Nếu không thì, như chúng nói đó…”
Lúc đó là chín giờ sáng, cậu lang thang trong khu phế tích rồi nằm
xuống gần hàng hiên và nhắm mắt lại.
“Ái chà, chàng trai trẻ, cậu thỏa mãn với kết quả chiến dịch vừa rồi của mình chứ?”
Là ngài Filleul.
“Rất hài lòng, thưa ngài dự thẩm.”
“Nói vậy có nghĩa là…?”
“Nói vậy có nghĩa là tôi sẵn sàng giữ lời hứa, dẫu cho có nhận được lá thư không mấy dễ chịu này.”
Cậu đưa lá thư cho ngài Filleul.
“Ối chà! Vớ vẩn, linh tinh hết sức!” Ngài dự thẩm kêu lên. “Tôi hy vọng cậu sẽ không để nó cản trở…”
“Cản trở việc kể cho ngài biết những gì tôi đã tìm hiểu được? Không, ngài dự thẩm ạ. Tôi đã nói là sẽ giữ lời. Chưa tới mười phút nữa thôi, ngài sẽ biết… một phần của sự thật.”
“Một phần?”
“Phải, theo tôi, chỗ trốn của Lupin ở đâu không thành vấn đề. Ngược lại là khác, chỗ còn lại mới quan trọng.”
“Cậu Beautrelet ạ, giờ cậu có làm gì cũng không khiến tôi ngạc nhiên nữa. Nhưng làm sao cậu có thể khám phá ra…?”
“Ồ, hết sức tự nhiên! Ngài có nhớ trong lá thư của ông già Harlington gửi tới ông Étienne de Vaudreix – hay đúng hơn là Lupin – viết gì không?”
“Lá thư bị tịch thu hồi đó?”
“Phải, có một câu luôn khiến tôi suy nghĩ. Sau khi đề cập tới việc đối tác chuyển cho mình những bức tranh theo như sắp xếp, ông ta viết tiếp: ‘Ngài có thể gửi nốt chỗ còn lại, nếu ngài thành công – một khả năng mà tôi thấy nghi ngờ.’ ”
“Rồi, tôi có nhớ.”
“Chỗ còn lại là cái gì cơ chứ? Một tác phẩm nghệ thuật? Một bảo vật quý giá? Lâu đài này chẳng còn cái gì quý giá ngoài bốn bức họa Rubens và mấy tấm thảm cổ. Châu báu chăng? Có rất ít, mà những món châu báu có ở đây cũng không đáng giá cho lắm. Trong trường hợp đó, nó có thể là cái gì được nhỉ? Mặt khác, người ta có thể lo ngại một kẻ tài giỏi phi thường như Lupin không thể gửi nốt được chỗ còn lại đi hay sao – như đã viết rõ ràng trong thư ấy? Có lẽ đó phải là một việc rất khó khăn, đặc biệt khác thường, rất đáng kinh ngạc – tôi dám nói như vậy, nhưng vẫn có thể thực hiện được và do đó chắc chắn đúng như tôi nghĩ, vì Lupin đã muốn ra tay.”
“Nhưng mà hắn đã thất bại, vì có bị mất cái gì đâu!”
“Hắn không thất bại, có bị mất cái gì đó!”
“Phải, có mấy bức họa Rubens… nhưng…”
“Mấy bức họa Rubens và còn có thứ gì đó nữa… thứ gì đó có thể bị đánh tráo bằng một thứ giống hệt, tương tự như ở trường hợp của bốn bức danh tác vậy. Cái gì đó quý hơn, hiếm hơn, giá trị hơn bốn bức họa Rubens nhiều.”
“Ái chà, cái gì được nhỉ? Cậu cứ dài dòng thế này làm tôi phát sốt lên được!”
Vừa nói chuyện, hai người vừa băng qua khu di tích, ra phía cái cửa ngách và lúc này đã bước vào bên trong nhà nguyện. Beautrelet đứng lại. “Ngài có thực sự muốn biết không, thưa ngài dự thẩm?”
“Tất nhiên là có.”
Beautrelet có cầm theo một cây gậy chống – một thanh gỗ cứng và có nhiều mắt. Bất thình lình, cậu vung mạnh gậy ra sau, rồi giáng xuống một pho tượng nhỏ trang trí ở trước nhà nguyện.
“Này! Cậu làm cái gì đó? Cậu điên rồi!” Ngài Filleul hét lớn, đoạn, ngài nhào tới nhặt những mảnh tượng vỡ. “Cậu điên thật rồi! Bức tượng Thánh cổ này là một tuyệt tác đó!”
“Này thì tuyệt tác!” Isidore nhại lại và vung gậy tiếp, làm Đức Mẹ đồng trinh Mary rơi xuống đất vỡ tan.
Ngài Filleul ôm ngang người cậu. “Cậu thanh niên, tôi không cho phép cậu…”
Một nhà hiền triết phương Đông ngã nhào xuống đất, kéo theo máng cỏ có cả Đức Mẹ và Chúa hài đồng…
“Cậu mà nhúc nhích là tôi bắn!”
Bá tước de Gesvres đã xuất hiện, tay lăm lăm khẩu súng, toàn bóp cò. Beautrelet phá lên cười thật to. “Phải rồi, thưa ngài Bá tước, ngài cứ bắn đi! Cứ tha hồ mà bắn vào mấy pho tượng này, như ở hội chợ ấy! Chờ một chút, cái ông này đang đưa tay ôm đầu…”
Thánh John Tẩy Giả rơi xuống, vỡ thành từng mảnh.
“Này!” Ngài Bá tước quát lớn, chĩa thẳng họng súng vào Beautrelet.
“Tên nhãi ranh phá hoại! Đây là những kiệt tác!”
“Đồ giả, thưa ngài Bá tước!”
“Cái gì? Cái gì cơ?” Ngài Filleul gào lên, và gạt mũi súng của Bá tước lệch khỏi phía Beautrelet.
“Tượng giả!” Beautrelet nhắc lại. “Toàn bằng bột giấy và thạch cao!” “Thật vớ vẩn! Không thể nào!”
“Xin cam đoan với ngài, toàn là vỏ thạch cao rỗng! Chấm hết!” Ngài Bá tước cúi xuống và nhặt một mảnh tượng vỡ lên.
“Xin ngài hãy nhìn tận mắt, thưa ngài Bá tước: Đây là thạch cao! Loại thạch cao hàng kém, mủn, cũ mốc được làm giả thành tượng đá… nhưng thật ra chỉ là thạch cao mà thôi! Chúng đổ khuôn thạch cao để làm giả những bức tượng này. Đây là tất cả những gì còn lại của các kiệt tác hoàn hảo thuộc sở hữu của ngài đó! Đây tất cả là những gì chúng làm chỉ trong vài ngày! Đây là tất cả những gì cái ông Charpenais, người đã chép lại bốn bức tranh Rubens, chuẩn bị từ một năm về trước.” Cậu quay sang, siết lấy cánh tay ngài Filleul. “Ngài nghĩ thế nào về chuyện này, thưa ngài dự thẩm? Không phải toàn bộ chuyện này rất tinh vi hay sao? Không phải rất cừ khôi hay sao? Không phải rất ngỡ ngàng hay sao? Nguyên cả cái nhà nguyện đã bị mang đi mất! Toàn bộ nhà nguyện phong cách Gothic này bị chúng nhặt đến từng tảng đá một. Toàn bộ những pho tượng tuyệt tác bằng đá đã bị đánh cắp và bị thay thế bằng những vỏ tượng bằng vữa trát tường! Một trong những mẫu vật vô song của thời kỳ nghệ thuật không gì sánh nổi đã bị lấy mất hết! Nhà nguyện – nói ngắn gọn – đã bị đánh cắp! Chuyện này không đáng gọi là kỳ tích sao? Ôi trời, ngài dự thẩm ơi, gã đó quả là