🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cây Hợp Hoan - Trương Hiền Lượng
Ebooks
Nhóm Zalo
Cây hợp hoan Trương Hiền Lượng
Mục lục
Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10
Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32
Chương 33
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 1
Chiếc xe ngựa cỡ lớn ì ạch leo qua cầu gỗ hình cánh cung. Đã đến nông trường sinh cơ lập nghiệp của chúng tôi.
Dưới cầu là lòng mương cạn khô về mùa lạnh. Hai bờ mương mọc đầy cỏ đông vàng úa, lá nhỏ như sợi chỉ, đứng im. Vài con dế trũi bị tiếng động giật mình, hoảng hốt chạy tán loạn. Chiếc cầu hết sức sơ sài, mặt cầu rải hoàng thổ, bị xe cộ qua lại nghiền thành bụi. Nền là một lớp cây lau thò ra lởm chởm hai bên, trông như chúng mọc lên từ lòng mương, làm cho mặt cầu rộng hơn nhiều so với thực tế. Mặc cho ba con ngựa loạng choạng, thở như kéo bễ, lỗ mũi phả ra từng làn hơi trắng như sữa, những cặp mắt đáng thương trợn trừng, người đánh xe vẫn không chịu xuống. Anh ta ngồi thẳng, hai khoeo chân cặp chặt ván thùng xe một cách thành thạo, cứ như thế đàng hoàng vượt qua chiếc cầu nguy hiểm.
Những con ngựa không khoẻ bằng tôi. Tôi cao một mét bảy mươi tám chỉ nặng bốn mươi tư cân, đúng là da bọc xương. Thầy thuốc của đội cải tạo tặc lưỡi khi tôi bước xuống cân.
- Giỏi! Anh sống được thế là giỏi.
Ông ta cho rằng việc tôi vẫn còn sống là một điều kỳ diệu. Ông ta có quyền chia sẻ niềm tự hào của tôi. Còn mấy con ngựa thì không ai chăm sóc. Chiếc đầu gồ ghề của chúng cắm trên cái cổ gầy, mắt thì hõm vào. Khi chúng dướn lên, từ cái miệng há hốc lộ ra những
chiếc răng bị mài vẹt, vàng khè. Con ngựa màu đỏ tía còn bị hàm thiếc cứa rách cả mép, một vệt máu rỉ ra từ vết thương, nhỏ từng giọt trên đường, nổi bật trên màu hoàng thổ.
Anh xà ích vẫn ngồi nghiêm chỉnh trên xe. Cặp mắt lạnh nhạt và hơi u uất đăm đăm nhìn ra xa, nơi hút tầm mắt. Thỉnh thoảng anh ta lại vung roi theo thói quen, và mỗi lần như vậy, mấy con ngựa cuống lên, tai vẫy rối rít, nhất là con ngựa màu tía bị thương, mặc dù anh xà ích không định vụt nó.
Chúng tôi hiểu vì sao anh xà ích im lặng. Mày đói rồi ư? Đói chứ! Đói chết chưa? Ơ, chưa. Chưa à? Vậy thì phải làm việc! Cái đói còn nguy hiểm hơn cái roi trong tay nhiều, nó đã đuổi sạch sự thương hại và niềm thông cảm trong con người.
Nhưng rốt cuộc tôi không im lặng được nữa. Tôi đưa mắt nhìn mấy con ngựa còn gầy hơn cả tôi, và cố lấy giọng nhẹ nhàng mà người ta vẫn dùng trong những năm đói kém để hỏi:
- Sư phụ Hỉ, trụ sở nông trường còn xa không? Rõ ràng là anh ta nghe rõ nhưng không trả lời, nét mặt không hề có ý khinh miệt, nhưng thái độ như vậy tức là khinh người quá. Anh ta mặc chiếc áo khoác cũ bằng vải đen, khuy dầy đặc, từ trên xuống dưới một dãy mười mấy chiếc, chẳng khác áo của quý tộc châu Âu thế kỷ mười tám. Tuy đi được là nhờ sức mấy con ngựa còm đáng thương, nhưng anh ta vẫn to ra uy phong lẫm liệt.
Tự nhiên tôi cảm thấy ngượng.
Khinh rẻ ư? Tôi chịu đựng đã quen rồi, không còn cảm thấy bị khinh rẻ nữa. Tôi vẫn nhơn nhơn. Hôm nay là ngày đầu tiên tôi rời đội cải tạo lao động, chuyển sang một cuộc sống mới, mà theo lời cán bộ quản giáo, tôi đã trở thành "Người lao động sống bằng sức của mình". Không có gì có thể làm tôi cụt hứng!
Thực ra, nông trường này kề bên nông trường lao cải, cách xa dân, ít nhất cũng hết tầm mắt vẫn chưa thấy một cái nhà. nó cách nông trường lao cải chỉ một con mương, nhưng xe ngựa đi từ chín giờ sáng, bây giờ mới tới đây. Nhìn mặt trời chếch về nam, có lẽ đã quá trưa. Ruộng đất bên này không khác gì bên kia, bầu trời bên này cũng thế. Vậy mà chỉ cách một con mương! Con mương là ranh giới giữa tự do và mất tự do.
Hai bên đường là ruộng lúa, chân rạ rất cao, dấu cắt lởm chởm, thấy rõ là liềm bị mẻ. Chẳng lẽ các công nhân nông trường lười đến nỗi không mài liềm? Nhưng cái mà tôi tiếc rẻ là hai bên đường không có ruộng ngô. Nếu có, chưa chừng mót được dăm bắp còn bỏ sót.
Tiếc thật, ở đây không có ruộng ngô!
Nắng ấm. Chân núi Tây bốc lên một màn sương như những ngày đẹp trời, phết lên dãy núi hình răng cưa một màu sữa. Không một đám mây. Bầu trời xanh treo trên ruộng đồng bát ngát. Mà màu xanh cũng tầng tầng lớp lớp. Đỉnh giữa màu xanh đậm rồi nhạt dần, cho đến tận đường chân trời thì chỉ còn là một màn khói mỏng. dưới bầu trời xanh, cánh đồng trơ trụi lại càng trơ trụi. Lúc này tôi thấy ngứa ngáy khắp người. Những con rận từ các nếp áo bò ra. Bọn chấy rận, khi chúng không cần người thì còn dễ thương, chúng làm cho tôi mất cảm giác cô độc và nghèo hèn vì vẫn còn sinh vật ngọ nguậy, mơn trớn. Con người tôi vẫn còn nuôi được cái gì đấy.
Chiếc xe ngựa đến ngã ba thì rẽ hướng bắc, vào con đường đất đầy vết xe. Tôi chợt nhận ra mấy người đồng hành của tôi không còn ở trên xe nữa. Nhìn lại, họ đang lúi húi tìm kiếm trên một mảnh ruộng, điệu bộ chẳng khác phải học thuộc một đọan cổ văn khó hiểu. Thật tai hại! Cặp mắt cận thị của tôi đã gây ra sự chậm trễ quá
đáng. Chắc chắn là họ đã phát hiện ra cái gì ăn được. Tôi rẽ lau, vượt một con kênh, nhảy qua một con mương, vắt chân lên cổ mà chạy. đến nơi thấy tay kia cầm con dao nhỏ. Hắn vừa liếc nhìn tôi vừa cười hi hi:
- Phúc đức quá!
"Phúc đức quá" là câu cửa miệng ở nông trường lao cải mỗi khi gặp vận may. Thí dụ, lĩnh suất ăn mà trong đó có một cục bột mì, suất bánh bằng quả cỏ nhỉnh hơn của người khác, được phân công làm một việc tương đối nhẹ nhàng mà lại có thể kiếm được cái gì ăn ở ngoài đồng, gặp lúc thầy thuốc có chuyện vui, cho một giấy phép nghỉ hoàn toàn hoặc nửa nghỉ nửa làm…người ta đêu gật gù "phúc đức quá!" Tiếng "quá" kéo dài ra, thấm đượm hương vị ngọt ngào, hệt như người Nga kêu "Hu..ra".
tôi liếc thấy củ cải trong tay hắn không nhỏ. thằng cha thường gặp may. "Chủ nhiệm kinh doanh" cũng là "phái hữu", nhưng nghe hắn thuật lại bản án của hắn, tôi nghĩ rằng không nên xếp hắn vào "phái hữu", mà phải liêt vào loại "phần tử thối nát" hoặc "thoái hoá biến chất" mới đúng. Hắn kêu hắn bị oan. Những lúc nói riêng, hắn nói là công ty bách hoá lôi hắn vào cho đủ chỉ tiêu, hoàn thành nhiệm vụ "chống phái hữu". Trong hội nghị "kiểm điểm sinh hoạt", hắn biết được kỵ tôi, cụ tôi, ông nội tôi, ông ngoại tôi đều có tên tuổi ở thời kỳ cận đại cũng như hiện đại, được biết bố tôi là tư sản có nhà máy hẳn hoi. Sau cuộc họp, hắn khẽ nói với tôi bằng một giọng háo hức "Cậu mới đúng là "phái hữu tư sản". Ăn chơi xả láng, ngọt bùi nếm đủ. Tớ ấy à, bé thì đi ăn xin, lớn lên đi lính, vậy mà thành "phái hữu tư sản" cái mả mẹ nó! Hừ, cứ cho tớ sống một ngày của tư sản, có bị qui là "phái hữu" cũng cam…
Mc dù vậy, hắn đối xử với tôi không khá hơn chút nào, ngược lại,
hắn luôn mỉa mai tôi với một thái độ hằn học, căm ghét đến xương tuỷ, để tỏ ra hắn có cái gì đấy ưu việt hơn tôi. Hắn nhiều tuổi hơn tôi, yếu hơn tôi, râu ria lơ thơ vàng hoe trên khuôn mặt vàng bủng, hai dòng nước mũi luôn chảy dài. Hắn không dám đánh nhau với tôi, nhưng hắn dùng những thứ hắn được tiếp tế, hoặc do may mà có ra khoe, hòng làm cho tôi thèm rỏ rãi. Hắn biết đấy là cách dày vò tôi có hiệu quả nhất. Trực giác bảo tôi không ưa hắn, nhưng tôi muốn tránh mà không thoát. Vì rằng cùng là "phái hữu", khi phân tổ phải ở chung. Lần được tha này, nhà hắn ở thành phố, và bản thân hắn bị sa thải, nên cùng chúng tôi đến nông trường lập nghiệp.
Đây là mảnh ruộng trồng củ cải vàng, nó khác với ruộng trồng củ cải xanh ở chỗ không đánh luống, mà vãi hạt đầy ruộng như khi trồng hạt cỏ. Chỗ nào vãi dầy thì củ nhỏ, khi thu hoạch thế nào cũng bỏ sót. Nhưng nó cũng bị đào đi bới lại nhiều lần, lại thêm đất lạnh cứng như đá, tôi ngồi xổm dùng tay bới rất nhiều chỗ có mầm nhú lên, nhưng không được củ nào.
"Chủ nhiệm kinh doanh" cạo sạch đất, chọn chỗ không xa tôi mấy, nhai củ cải rau ráu như gặm kem que, cố ý cho tôi thấy hắn đang ăn rất ngon.
- Củ này ngon. Chưa ngọt lắm… - hắn nuốt đánh ực, ,khen. Cái giống củ cải là phải đến khi trời lạnh nứt đất ra mới móc được. Tôi đã có kinh nghiệm, lại dò theo vết nứt lần nữa, nhưng không thấy. như vậy là trong vết nứt chỉ có một củ, và cũng có nghĩa là chỉ có một củ trong vết nứt. Chẳng nói cũng rõ, xác suất tìm thấy vô cùng nhỏ. Cái may của "chủ nhiệm kinh doanh" là ở đấy.
Nhưng hôm nay tôi không hề giận dỗi. Tôi đứng lên, bước đi khoan
thai qua mặt hắn với một nụ cười gượng gạo, theo đường tắt để đuổi kịp chiếc xe có hành lý của chúng tôi.
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 2
Đúng thế, hôm nay tôi rất vui.
Buổi sáng, tôi ăn bữa cơm cuối cùng ở nông trường lao cải. Vì rằng chúng tôi là những người tù được tha sắp đi lập nghiệp, nên không ăn cơm cùng đại đội nữa. ở cửa sổ nhà bếp, tôi gặp lại người quen. Anh là cán bộ giảng dạy của một trường đại học nổi tiếng ở Tây Bắc, quen nhau khi cùng nằm bệnh xá. Anh cũng đã được tha, đang đợi nông trường thu xếp cho đi.
- Anh Lân! Anh sắp đi đấy à?
Anh mặc bộ quần áo của nông trường lao cải, trước ngực có một vết bẩn to tướng do nước canh bắn vào, nhưng anh lại dùng những từ nho nhã nhất để chúc mừng tôi, bắt tay tôi như một thân sĩ. Nghi thức ấy đối với tôi y như chuyện ở một thế giới khác. Điều kỳ lạ chỉ một nghi thức thông thường ấy, vụt kéo tôi trở lại cái thế giới mà tôi vốn quen thuộc. Thế là tôi cố tận dụng phong thái một học giả trăm phần trăm để trò chuyện với anh bên cửa sổ ồn ào như chợ vỡ.
- Thế còn quyển sách thì sao? – tôi hỏi - Trả lại anh bằng cách nào? Gửi đến…
- Không cần! – một tay bưng bát cháo, tay kia anh khoát một cái, tư thế như đang dự buổi chiêu đãi coktail – Tặng anh đấy. có lẽ… - Anh đảo mắt nhìn bốn phía – Anh còn cần tìm hiểu trong quyển sách ấy. Vì sao chúng ta đến nông nỗi này!
- Chúng ta? Anh nói chúng ta, hay là… - Tôi cũng cẩn thận ngó
lại đám người đang lĩnh cơm. Một người tù cho rằng khi múc cháo, anh bếp cầm muỗng hơi nghiêng, đang làm ầm lên đòi múc lại – Hay là đất nước chúng ta?
- Nhớ lấy – anh dùng ngón tay giữa gõ nhẹ vào ngực tôi (ở đó cũng có một vết bẩn do cháo bắn vào) và với giọng điệu của một giáo sư, anh nói – số phận chúng ta gắn liền với số phận của đất nước!
Tôi rất thích những lời lẽ phong thái của anh.
Ở cái nơi mà thân thể mất hết tự do thì đôi cánh của tư tưởng lại tự do bay bổng. Tôi cố kéo dài sự thưởng thức món ăn tinh thần ấy, tuy mắt vẫn để ý cái cửa sổ. không nên đến lĩnh muộn quá, nhà bếp không chịu chờ đợi, cửa sẽ đóng lại. Mà nếu anh nài nỉ khiến họ rủ lòng thương thì họ cũng bớt lại một ít trong muỗng để trừng phạt. Tôi vừa canh chừng cái cửa sổ vừa trịnh trọng nói tiếp:
- Có điều, chương thứ nhất rất khó. Phép biện chứng ấy…dùng lý luận trừu tượng để trình bày quá trình hình thành giá trị cụ thể… - Thế thì đọc Hegel! – Anh ngạc nhiên bảo tôi, làm như tôi có cả một kho sách muốn đọc gì có nấy. Rồi anh nhíu cặp lông mày lại – Phải đọc Hegel, nhất định phải đọc Hegel! Học thuyết của Marx có quan hệ kế thừa với Hegel. Đọc Hegel thì chương Một "hàng hoá" sẽ dễ hiểu. Ngay cả chương Hai, chương Ba, thậm chí cả phần Hai "Sự chuyển hoá tiền tệ sang tư bản" cũng không thành vấn đề nữa. - Đúng, đúng! – tôi gật đầu một cách nhã nhặn như người ta thường thấy ở hành lang học viện. "Lời nói đầu" hấp dẫn tôi. Tiếc là trước đây tôi chỉ đọc văn học.
Câu chuyện đầy những lời tao nhã của chúng tôi kết thúc đúng lúc hào hứng nhất. Anh chào tôi, thận trọng bê bát cháo bước đi. Tôi chạy vội đến bên cửa sổ, thò ống bơ vào. Nhà bếp đang hạ cánh
cửa xuống.
- Đ. mẹ, mày đi đâu về thế?
- Tôi đi gói hành lý – Tôi vội nặn ra một bộ mặt tươi cười, khiêm tốn, lấy lòng anh ta – bữa cuối cùng của tôi ở đây đấy ạ. - Hừm! – anh bếp liếc ngang tôi một cái, cầm lấy cái ống bơ đổ vào đó một muỗng rồi thêm cho tôi hơn nửa muỗng nữa. - Xin cảm ơn, xin cảm ơn! – tôi gật đầu lia lịa.
- Hượm đã! – một bác đã có tuổi, hai tay ướt đẫm nước, đến bên cửa sổ thò đầu ra ngắm tôi – Làm sao chú mày bò ra được từ cái đống xác chết thế hả?
- Dạ, dạ…- Cái giọng thân tình của bác ta làm tôi đâm hoảng, nhen lên trong tôi một khát vọng mà tôi không dám tin là sẽ đạt được.
- Mẹ kiếp, không dễ gì được như vậy đâu, chú mày ạ! – nói rồi bác ta luồn tay dưới chiếc lồng bàn, lôi ra hai cái bánh mô mô, dùng tay đập lên bàn tay khẳng khiu như chân gà của tôi – Cầm lấy! – không đợi tôi nói lời cám ơn họ đã hạ cửa xuống đánh "sập" một cái. Họ có nhiều dịp để người ta cám ơn, nghe mãi cũng nhàm.
Đây mới thật là "phúc đức quá". Trong ống bơ có một muỗng cháo nấu với rau, trong tay có những hai cái mô mô, hai cái chứ không phải một. Hai cái là định suất cho cả ngày, sáng một, chiều một. Còn cháo thì như thế nào? Rất đặc, gần như cơm nát. Cháo đặc là điều chúng tôi dù có vắt óc suy nghĩ cũng không có cơ hội để ăn. Cháo nấu với rau, có thêm chút muối, càng khuấy lại càng nhừ. Nhà bếp nắm được quy luật, họ có thể tuỳ hứng hoặc họ định làm như thế, trước khi chia, họ khuấy cho phần đặc nổi hết lên trên. Những người xếp hàng đầu thế là vớ bở - "Phúc đức quá". Khi thì họ cứ để nguyên như vậy mà xúc từng muỗng, cháo đặc lắng dưới đáy, thế là
những người xếp hàng cuối trúng số độc đắc. Trường hợp sau là do nhà bếp bận, hoặc chưa kịp ăn trước, họ dành phần cháo đặc đáy thùng cho mình. Nói chung, nhà bếp rất muốn chúng tôi tranh nhau đến lĩnh, vì họ xong sớm, nghỉ sớm. Nhưng ai mà biết được, bữa nào tình hình thế nào, huống chi chúng tôi rất đông, nhà bếp có đến mười mấy cái thùng cháo cao xấp xỉ đầu người, không sao đoán được họ sẽ để lại thùng nào cho họ. Tóm lại, rình ăn cháo đặc khó ngang với nắm bắt tình hìng biến động kinh tế của thế giới, nó hoàn toàn ngẫu nhiên, trông vào may rủi.
Hôm nay số tôi gặp may.
Mà lại đúng vào cái ngày tôi mở đầu một cuộc sống mới. Đây là một điềm tốt.
Cho nên tôi sung sướng vô cùng.
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 3
Thực ra, ngày thường tôi được ăn nhiều hơn những người tù khác. Chỉ cần là ăn cháo, chứ không phải bánh quả cỏ, tôi đã hơn người khác khoảng một trăm mi li lít. Bí quyết là ở cái ống bơ. Mỗi khi lấy cháo từ chỗ cửa sổ về nhà ở, tay "chủ nhiệm kinh doanh" tay bê cái chậu mới tinh có vẽ chú mèo con đang rửa mặt, diễu qua mặt tôi với vẻ vênh vênh váo váo. Tôi thừa biết cháo trong chậu của hắn đầy đến đâu, ngang lưng con mèo. Có một lần, mọi người đi làm hết, chỉ còn mình tôi ở nhà nghỉ ốm, bèn lấy ống bơ của tôi ra, đổ nước đến đúng cái ngấn của cháo mà hàng ngày tôi vẫn lĩnh, rồi trút sang chậu của hắn. Cuộc thử nghiệm đã chứng minh: mỗi bữa tôi hơn hắn một trăm mili lít, ngấn nước cao hơn, đúng vào chỗ móng chân con mèo cầm khăn mặt.
Một trăm mili lít đó là do lợi dụng sai lầm của thị giác mà có. Kiến thức của tôi đã được dùng vào việc ấy.
Nhưng cái chậu cũng có tính ưu việt của nó: liếm sạch dễ dàng. Tay "chủ nhiệm kinh doanh" có cách húp riêng. Hắn không gục đầu vào chậu, mà úp chân lên mặt, lè lưỡi ra, hai tay xoay cái chậu cực kỳ khéo léo, khiến ta liên tưởng đến động tác thổi chai của thợ thuỷ tinh hoặc tư thế vỗ trống của dân Ugua. Chỉ ít lâu sau, cách ăn đó được áp dụng cho những người trong tổ, ăn bằng chậu.
Không thể liếm trong ống bơ. Thật đáng tiếc. Mỗi khi húp cạn, tôi chỉ có thể lấy nước tráng ống bơ cho sạch rồi húp. Không như chậu
men, ống bơ sắt tây mà không rửa sạch sẽ bị rỉ. Vì vậy, sau bữa ăn, tôi phải dùng khăn tay lau khô ống bơ, rồi phơi ở chỗ cửa sổ thoáng gió. Tay "Chủ nhiệm kinh doanh" không ưa việc làm ấy của tôi. Trong "Hội nghị kiểm điểm sinh hoạt", hắn chỉ trích tôi "không chịu sửa chữa thói xấu của giai cấp tư sản", "không hề có tác phong sinh hoạt của nhân dân lao động".
Tôi cũng ngượng thầm, cảm thấy lời chỉ trích của hắn không trái lẽ, nhưng cứ nghĩ đến được hơn một trăm mili lít, tôi cũng khuây khuây. Quan hệ giữa tôi và hắn, trước sau như thế. Hắn cho rằng hắn áp đảo tôi cả tinh thần lẫn vật chất, tôi cũng cho rằng cả tinh thần lẫn vật chất tôi đều áp đảo lại hắn.
Giờ đây tôi cho rằng cả tinh thần lẫn vật chất tôi đều đã áp đảo hắn. Buổi sáng, tôi ăn nhiều hơn hắn quá nửa muỗng cháo. Hơn nữa, hơn một muỗng rưỡi cháo của tôi lại là cháo đặc, cho nên đến lúc này tôi vẫn cảm thấy chưa tiêu hết trong dạ dày, đang tận tuỵ cung cấp calo cho tôi. Còn một muỗng của hắn, chẳng qua chỉ là cháo loãng. Hắn nhai củ cải rau ráu, nhưng trong túi hắn có bánh quả cỏ không? Không có. Khẳng định là không. Trong túi tôi là hai bánh quả cỏ rất có giá, tôi muốn lấy ra ăn lúc nào cũng được. Tôi không ăn bây giờ chỉ vì tôi không muốn ăn. có phúc không nên hưởng tận, vui quá thì sẽ hoá buồn. Bốn năm lao động cải tạo, đã dạy cho tôi cái triết lý ấy của cuộc đời.
- Đi thôi, xe đi xa rồi – Tôi chạy theo xe, vừa chạy vừa ngoái đầu gọi mấy người ở ruộng củ cải.
Tôi còn ưu việt hơn hắn một điểm nữa. Tôi ý thức được rằng, hôm nay tôi có thể rời con đường đất, hôm nay tôi có thể nhảy qua con mương ấy, con kênh ấy, hôm nay tôi có thể ra ruộng mót củ cải (còn mót được hay không lại là chuyện khác), hôm nay tôi có thể lúc nào
trở lại xe cũng được, hôm nay ý chí của tôi sẽ chi phối tôi, không còn bị trung đội trưởng, tiểu đội trưởng sai khiến, cũng không cần mọi việc đều phải báo cáo trung đội trưởng, tiểu đội trưởng. "Chủ nhiệm kinh doanh" tuy rằng cũng hành động như thế, hơn nữa hành động còn sớm hơn tôi, nhanh hơn tôi, nhưng hắn ta không vận dụng tự do một cách tự giác, cũng không ý thức được hắn đã có cái tự do ấy. Đây là hai tầm khác nhau về tinh thần.
Tôi cảm thấy cao thượng hơn hắn, hưởng thụ về mặt tinh thần nhiều hơn hắn. Tuy không mót được củ cải, nhưng tôi vẫn thấy thoả mãn, đuổi theo xe với niềm tự hào của thắng lợi tinh thần. Chỉ lát sau, chúng tôi đã đuổi kịp xe.
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 4
Chiếc xe từ từ lăn bánh. Vết thương trên mép con ngựa tía đã cầm máu, chỉ còn lại một vết đen. Vết thương nào rồi cũng lành miệng. Ngày mai con ngựa vẫn phải kéo xe như thường. Nó kéo xe, chảy máu, kéo xe, chảy máu…cho đến chết.
Anh xà ích vẫn ngồi ngay ngắn trên xe, vẻ ưu tư phảng phất. Anh ta không ngó ngàng gì đến chúng tôi, làm như không hề có ai ở bên. Sự im lặng của anh, làm tôi thiếu yên tâm. Anh là người được cử đi đón chúng tôi từ nông trường lao cải về nông trường này. Cho đến lúc này, chúng tôi vẫn không rõ anh là cán bộ hay công nhân. Anh đóng xe, điều khiển xe, chằng buộc hành lý..đều nhanh nhẹn, khéo léo. Anh rất kiệm lời, nói giọng Hà Châu, câu chữ cực kỳ ngắn gọn, dài nhất là hai ba từ, y như lúc nào cũng nặng trĩu suy tư. Anh chưa quát tháo ra lệnh, nhưng cũng chưa thấy anh tỏ ra thiện cảm, với chúng tôi. Anh lạnh lùng, nghiêm khắc, răng nghiến chặt mỗi khi vung roi, tỏ ra rất tàn nhẫn. Anh bốn mươi tuổi, nhưng tuổi thật thì chưa chắc đã đến ngần ấy. Người Tây Bắc thường già trước tuổi. Anh có thân hình cao to, vạm vỡ. Trên khuôn mặt rộng sạm đen, đường nét cặp mắt, cái mũi, đôi môi đều rất thô, y như một chân dung vẽ bằng bút sắt, gân guốc như đẽo bằng rìu.
Tôi lặng lẽ quan sát anh ta, phân tích nguyên nhân vì sao, mình
phấp phỏng không yên. Cuối cùng, mới vỡ lẽ là do tôi đã quen bị quản thúc, bị chửi bới. Tuy nhận thức được ngày hôm nay mình đã được tự do, trở thành "Người lao động sống bằng sức của mình", nhưng trong tiềm thức, tình trạng không có đe nẹt, chửi bới thì tôi chưa quen. Tôi nhất thiết phải đi theo sau người quản giáo.
Tôi cảm thấy nhục nhã, thế là, với một tâm trạng chống đối, tôi lùi lại cách anh ta mấy bước, đi theo bên đường.
Ngựa loạng choạng, xe lắc lư, vó ngựa gõ, bánh xe lăn trên con đường đất vắng vẻ. mấy người lập nghiêp chúng tôi đi theo xe, không ai nói một lời. Làn gió nhẹ lướt trên cánh đồng. Phía chân núi, một cơn lốc cuốn theo đất bụi màu vàng dựng thẳng đứng như cột chống trời. Từ lúc nào không rõ, hai con chim ưng xoè cánh lượn vòng trên đầu chúng tôi, miệng kêu kéc kéc.
Như để hoà với tiếng kéc kéc của đôi chím đói, anh xà ích đang như pho tượng đá, bỗng cất giọng cao vút và dài lê thê ơ…ơ…ơ…! Tiếp đó, anh cất tiếng hát, giọng não nùng. "Roi ngựa đã đứt, chàng ơi, Người đà cuồng chân. Chàng xa kể đã ba hôm…ời! Càng xa càng thấy nhớ thương, ơi chàng!"
Giọng nam cao của anh bị dồn ép, u uất, bật ra từ một sức nén mạnh mẽ. Những tiếng ơi ời vụt xuống trầm đục, như tiếng nức nở, tan dần trên cánh đồng hoang vắng, trải dài đến tận chân trời. Bài hát có giai điệu biến hoá nhiều vẻ, đầy sức sống, những âm tiết cuối còn run rẩy mãi, đến nỗi khi chúng đã lắng đi rồi, tôi vẫn cảm thấy sợi âm thanh cuối cùng còn bay lượn trên cánh đồng bát ngát, len
lỏi trong những mảnh ruộng còn trơ gốc rạ. làn điệu thì quyến rũ. Tôi đã từng nghe tiếng hát của nhiều danh ca. Kharusô và Salia thì không tìm đâu ra nhưng Chili và Paolo Poxuyn thì trước năm 1857, tôi vẫn thường nghe. Nhưng có thể nói rằng, chưa một bài hát nào làm tôi xúc động như thế này. Nó không chỉ là sự pha trộn một cách nhuần nhuyễn những nét đặc sắc của dân ca Trung Á với nét nhạc cổ kính phương đông, mà còn ở tính chất hoang sơ, chất phác, thê thảm đến mủi lòng của nó. Cái sức mạnh tinh thần nội tại ấy không thể học mà có, không thể luyện mà thành. Nó hoà hợp với mảnh đất bao la và gây cảm giác ngỡ ngàng cho con người. Nó là bài hát của mảnh đất này – cao nguyên hoàng thổ.
Tôi sững sờ.
Anh xà ích lại hát bằng cái giọng độc đáo của anh. " Ơi! Con thiêu thân đã lên trời…ời! Con ễnh ương chằn xuống đất. Nhớ anh đầu nửa đêm không ngủ. nhớ anh cuối nửa đêm thức hoài!..."
Anh hát ời thành ùi, không thành khôn. Chỉ có những người sinh ra và lớn lên ở cao nguyên mới diễn đạt được tình điệu của cao nguyên trọn vẹn đến như thế. Làn điệu, thổ âm hoà hợp với đất đai làm một. Nghe dân ca thành Naples, trong đầu đã hiện ra biển xanh. Nghe dân ca Hạ Uy Di, trước mắt đã thấy cây bằng lăng đón gió. Nhưng dưới chỉ là sự liên tưởng và tình cảm sống dậy qua lời ca. Lúc này đây, tôi cảm thấy đồng ruộng, đất đai, nắng gió, những đám mây do gió đem tới, bầu trời và những con chim ưng này…như vui sướng, sống động do lời ca mơn trớn, có sức quyến rũ đến mê mẩn. Vùng đất này bỗng trở nên đẹp đẽ, khiến tâm hồn tôi tràn ngập tình cảm êm dịu.
Điều quan trọng không phải là tiếng hát của anh, mà là tiếng hát đã thức dậy sự thiêng liêng của mảnh đất này, thức dậy trong tôi ý thơ ngủ say đã bao năm. Ô, hôm nay tôi đã là người tự do. Tôi hôn một ngàn lần mảnh đất này bằng cặp môi nứt nẻ và thâm đen vì thiếu máu.
Tôi nín thở nghe anh xà ích hát tiếp:
"Ơi!...Ngựa đã sang quê người,
Ơi chàng ơi!
Vó câu quần nát đất,
Em bỏ cả việc nhà,
Nhớ chàng đau đáu chàng ơi!"
Niềm thương nhớ là linh hồn của bài hát, một niềm thương da diết, mãnh liệt, bốc lửa, bó chặt lấy tim tôi. Ở đây, lời ca không phải là điều chủ yếu, tôi chỉ dựa vào làn điệu, vào luyến láy mà phỏng đoán ý nghĩa của lời ca. Nó nhớ nhung một người, hoặc không hắn là một người cụ thể, mà là tưởng tượng nào, đã khiến tôi, một kẻ bị dày vò đến xơ xác, vùng dậy, cũng muốn suy nghĩ…Lúc này, tôi mới thấy xót xa, sự xót xa của một con người chứ không phải của một con thú đói. Lũ chim ưng kiên nhẫn lượn theo chúng tôi. Mặt trời mùa đông đã ngả về tây.
Lời ca bỗng chuyển sang tươi mát và sôi nổi, tuy rằng trong đó vẫn còn lởn vởn cái bóng đen của sầu muộn:
Ơi chàng ơi!
Con mèo đen lên nằm lò bếp,
Cái đuôi dài miệng bát vắt ngang
Em ngả vào lòng chàng
Đôi môi chàng ấm trên khuôn mặt
Lúc này, tôi mới rõ đây là một bản tình ca. Thoạt nghe tôi sững sờ vì tiếng ca và làn điệu. Trí tưởng tượng lâu ngày không dùng đến y hệt con chim bị thương, bám vào cành cây héo chợt nghe trái phá nổ kinh hoàng bay đi, bay cho đến khi sức cùng lực kiệt. Qua cơn kinh hoàng, ngoái đầu nhìn lại, qua ánh chớp thấy gốc cây khô, cỏ đã nảy mầm. Lời ca gột sạch lớp bụi trong tâm hồn tôi qua những tháng năm ở đội lao động cải tạo, vì rằng nó phơi bầy nỗi ước mong không chút che đậy, không văn hoa. Tôi nhớ lại lời ca Ơi chàng ơi đắm đuối đến run rẩy, nhận ra rằng chưa có tình ca của dân tộc nào trên thế giới lại táo bạo, phóng khoáng, mạnh mẽ và đắm đuối đến như thế. Nào là "mặt trời của em". "con chim ưng của em", "con bồ câu của anh", "đóa hoa hồng của anh", vân vân và vân vân. Tất thảy đều mềm yếu, nhợt nhạt, thiếu khí phách. Và thế là dòng máu thanh xuân tuổi đời hai mươi lăm của tôi chảy căng huyết quản, mặc dù chúng đã teo lại do thiếu ăn. Máu dồn lên, những ảo ảnh thấp thoáng trong đầu, một cảm giác rân rân truyền khắp cơ thể…Tôi ứa nước mắt không biết tự lúc nào.
Ôi! Đây là ngày tự do đầu tiên của tôi.
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 5
Vậy mà cái ngày cực kỳ quan trọng, rất đáng kỷ niệm của tôi, ngày 1 tháng hai năm 1961, đối với người khác lại bình thường như bất cứ ngày nào trong ba trăm sáu mươi lăm ngày của một năm. Điều này khiến tôi hơi cụt hứng.
Anh xà ích Hỉ - tôi nghe thấy mọi người gọi anh ta là Hỉ - đánh xe về đến đầu thôn lúc mặt trời đã xế. Chúng tôi thấy chưa có dấu hiệu tiếp đón nào. Nơi này, chó gà không có một con. Chỉ có mấy ông lão ăn mặc rách rưới ngồi sưởi nắng bên cầu, khi chúng tôi đi qua cũng không buồn ngước mắt nhìn lên.
Nhà cửa trong thôn không khác nông trường lao cải, những dãy nhà bằng đất xếp hàng như ở trại lính, có điều, nhà ở đây ọp ẹp hơn. Vách đất đắp bằng đất phèn đã long ra nhiều chỗ. Nông trường lao cải có nhiều sức lao động, lúc nào cũng có thể đắp vá nếu tường bị lở. Ở đây bên cửa ra vào nhỏ hẹp đều có một hai đống củi ướt đẫm, đã ngả màu đen, hoặc có những dây phơi quần áo, ra vẻ là một điểm dân cư.
Xe lăn bánh trên mặt đất gồ ghề, qua dãy này đến dẫy khác. Không một bóng người. Chúng tôi như đến một làng bỏ hoang. - Mẹ kiếp, chết tiệt rồi sao?...đến chỗ nào bây giờ?
Ca sĩ ưu tú Hỉ, trở lại chân tướng của anh lái xe, quát tháo một hồi bằng những lời lẽ mà giấy mực không dám ghi lại. Rõ ràng là anh ta không biết thu xếp cho chúng tôi ở đâu, và xem ra anh ta chẳng thích thú gì nhiệm vụ đón tiếp này. Anh xuống xe, tay ghìm cương, vừa cho xe tiến lên, vừa ngó ngang ngó dọc. Cứ xem cách chào hỏi của mấy ông lão ở đầu cầu, cũng biết anh ta không phải là bí thư đội trưởng, thủ quĩ, kế toán, do đó, sự kính nể của chúng tôi đối với anh ta bị giảm sút rõ rệt. chúng tôi cũng không thèm hỏi han, mặc cho anh ta muốn đưa đến đâu thì đến. Đó là trách nhiệm của anh.
Đến dãy nhà cuối cùng thì không đi tiếp được nữa. Anh xà ích dừng ngựa trước một gian trông có vẻ là nhà kho, rút cái giá dưới thùng ra chống càng xe, tháo ngựa và dắt đi, không dặn lại chúng tôi nửa câu.
Chúng tôi đều tủi thân. Là công nhân mới của nông trường, chúng tôi đều đã là người "sống bằng sức lao động của mình", mà không ai đoái hoài, bụng thì đói. Tôi rất muốn lấy bánh mô mô ra ăn, nhưng lại thôi. Ăn là sự hưởng thụ cao nhất, phải trong một hoàn cảnh không ai quấy nhiễu, êm ả, nhấm nháp từng miếng một, mới thấm thía hương vị của thức ăn. Lúc này, tôi chưa có chỗ an thân, rất có thể lại phải chuyển đi. Nên ăn vào lúc này là cực kỳ lãng phí.
- Các bạn ạ, có lẽ ta ở đây – "Chủ nhiệm kinh doanh" đứng trước một cửa sổ đã cũ nát, ngó nghiêng khắp chỗ. Hắn luôn gặp may, ngay cả khi trong thâm tâm không chịu thừa nhận hắn là "phần tử phái hữu", hắn dối trá, chỉ rình có dịp là kiếm chút tự do cho riêng mình. Thí dụ, như bây giờ, giữa lúc chúng tôi chưa biết xoay xở ra sao thì hắn đã quan sát xong đâu đó tình hình xung quanh.
- Đây không phải là nông trường bộ, chẳng qua chỉ là một Đội.
Xem kìa, mả mẹ nó, nhà với chả cửa! Thua xa đội lao cải. Đội lao cải còn có bếp lò.
Chúng tôi ngó qua khung cửa sổ không kính, nhìn vào trong phòng. nền nhà trải cỏ khô mới chở về, ngoài ra, không có thứ gì khác. Đất vách màu vàng xỉn đã tróc từng mảng, trơ ra những cốt bằng thân cây sậy. Quả vậy, nhà chẳng ra nhà!
- Ngó qua cũng thấy vùng này nghèo – một anh vốn là cán bộ biên tập của một tờ báo ở Lan Châu nói, giống hệt vùng Định Tây mà tôi đã từng ở.
- Đất lành đâu có đến phần mình – một cựu trung uý từng là anh hùng ở Triều Tiên, chửi thề. Bị lao động cải tạo đến ba năm, vậy mà anh ta vẫn cho rằng mình lẽ ra phải được đối xử đặc biệt – Đ. mẹ, bất quá chỉ là ngoi lên tầng thứ mười bảy của mười tám tầng địa ngục!
- Thôi thôi, nói in ít chứ - Tay kế toán của một ngân hàng Thượng Hải tỏ ra cam chịu với số phận – Đã đến thì ở, dù sao thì không ai ăn đời ở kiếp nơi này, cứ nhịn là hơn!
Dần dà, mọi người bắt đầu kể tình hình xin việc do người nhà sắp xếp, với đôi chút hào hứng. Đúng thế, họ không ở lâu nơi này. Gia đình của họ ở Thượng Hải, Tây An, Lan Châu…Các bà vợ đang chạy chọt cho họ trở về các nông trường ngoại vi thành phố. Tay "Chủ nhiệm kinh doanh" cũng vậy, chỉ ít bữa nữa là hắn trở về ngoại ô thành phố của hắn. Họ có vợ con, nên được đoàn tụ với gia đình. Chính sách của nhà nước cho phép như thế. "Nghèo như nông thôn Định Tây" cũng vậy, "mười tám tầng địa ngục" cũng vậy, chẳng qua là bước quá độ, họ sẽ nhanh chóng lên thiên đàng. Riêng tôi, phải
ở đến bao giờ thì không thể đoán chắc được, có thể đến già, đến chết. mẹ tôi là một bà lão nghèo ở Bắc kinh, xoay xở sao nổi! Cái gia đình tư sản kiêm quan lại to bự của tôi, từ khi bị bom đạn của người Nhật thì không gượng dậy được nữa, cây đổ chồn chạy sạch, qua tám năm loạn lạc, y hệt như Hồng Lâu Mộng đã miêu tả. Như chim đói vào rừng, sau lưng là đồng không mông quạnh.
Tôi không đủ tư cách để cùng họ bàn về tương lai tươi đẹp. Tôi ngồi xổm, suy nghĩ mông lung. Hôm nay là ngày đầu tiên tôi được tự do, những triệu chứng đáng mừng – trừ chuyện mót, không được củ cải – cổ vũ tôi. Đã bò dậy từ đống xác chết, thì tôi có thể sống. Người chết mà sống lại thì kể từ ngày ấy là sống thừa. Tôi có thể sống hai mươi năm, ba mươi năm, bốn mươi năm, thậm chí năm mươi năm, sáu mươi, bảy mươi năm nữa, nhưng đó là sống thừa. Chao ôi, thật là dài kiếp sống thừa! Nhưng chỉ cần nghĩ rằng mình đã chết rồi, vậy mà xương thịt chưa nát, còn cử động được, còn nhìn thấy mặt trời, nghe thấy tiếng hát, thì như vậy là một điều may mắn, là một món hời tự nhiên vớ được, khốn khổ bần hàn đến mấy cũng không đáng kể. Gia đình thì sạch trơn như "đồng không mông quạnh", còn bản thân thì "mình trần thân trụi". Vì vậy, tuy có ngã lòng thật đấy, nhưng tôi không bất mãn. Tôi đã học được tính nhẫn nhục.
Khoảng nửa giờ sau, chúng tôi trông thấy nhiều người, vai vác xẻng từ ngoài đồng trở về. Dãy nhà ngoài cùng có tiếng lao xao. Tan buổi làm rồi. Một người đứng tuổi, thọt chân, từ đầu nhà rẽ lại chỗ chúng tôi.
- Đến rồi hả? – Bác ta không nhìn chúng tôi, chọn trong xâu chìa khoá cầm ở tay lấy ra một chiếc, mở cửa. Câu hỏi trống không
vừa rồi coi như thay cho lời chào, và đi luôn.
- Này, đội trường đâu rồi? – Anh trung uý đứng sau nói to. - Chúng tôi còn làm thủ tục, còn phải báo cáo "đã có mặt". Ra khỏi nông trường lao cải, anh ta nối lại thói quen trong quân đội. Thói quen là cái rất khó sửa.
- Đội trưởng lát nữa sẽ tới – bác thọt trả lời, cũng không ngoảnh đầu lại.
Còn chờ đợi gì nữa, đã phải sống thì cứ sống. Tôi là người đầu tiên trèo lên xe lấy bọc hành lý như tã mướp của tôi đem xuống. Đây là toàn bộ gia tài của tôi. Tôi kẹp nó vào nách, bước vào, vun cỏ khô cho thật dày chỗ sát chân tường và dùng mắt ước lượng, không để chỗ bên cạnh quá mỏng. Lang sói có đạo đức của lang sói, mình sống thì cũng phải để người khác sống.
Tôi đặt bọc quần áo vào chân tường, chỗ ấy là của tôi. - Các anh làm gì thế? Đội trưởng còn chưa tới kia mà! "Chủ nhiệm kinh doanh" giận dữ gào lên. Nếu chiếm được chân tường thì hắn đã không be be lên thế đâu! Hắn không lúc nào quên sục sạo để kiếm chút tự do, nhưng nếu chút xíu tự do ấy bị người khác hưởng mất, thì hắn sẵn sàng vứt bỏ tự do đó để đi tìm lãnh đạo. Tao không được thì mày cũng không được! Sáng nay, hắn sợ để trên sẽ bị rơi, nên là người đầu tiên đem hành lý ra xếp ngay trên ván sàn, ở dưới cùng. Giờ đây, khi hắn bê chăn chiếu vào thì cả ba chân tường đều đã có người chiếm chỗ. Xin lỗi, hắn cứ ngủ ở bên cửa mà uống gió bấc!
Mặc kệ hắn. Anh sống thì cũng phải để tôi sống. Hắn đầy đủ chăn chiếu, lại có chiếc áo ngoài bằng da cừu đã cũ. Theo nguyên tắc bình quân chủ nghĩa thì hắn nên ngủ bên cửa ra vào. Tôi mở cái túi lưới rách nát của mình, lấy tập Một quyển Tư bản luận của anh cán
bộ giảng dạy môn triết học cho, nhét xuống dưới túi làm gối, rồi nằm dài trên "giường" của tôi, coi như xung quanh không có người.
Chân tường là nơi tuyệt diệu! Ở nhà dựa vào mẹ, ra ngoài dựa vào tường! Câu ngạn ngữ sao mà trí tuệ! Trong phòng tập thể, anh chiếm được chân tường tức là đã giành được một nửa tự do, bớt đi một nửa bị quấy nhiễu. Một cái hộp các tông cũng không có như tôi, thì chân tường lại càng quan trọng. Cái kim sợi chỉ, bộ quần áo xơ mướp, hoặc "phúc đức quá" mà có cái gì ăn, thì chỉ việc nhét dưới lớp cỏ. nếu gia sản nhiều hơn một chút thì có thể sử dụng mặt tường, treo nó lên. Hay nhất là nếu muốn đọc sách, viết thư cho gia đình, hoặc nơi sâu kính của tâm hồn muốn bí mật hoạt động thì dứt khoát phải quay mặt vào tường. Khi đó cái thế giới hiện thực sẽ lùi ra xa, rất xa, để cho anh trầm tư mặc tưởng. Bốn năm ngủ tập thể đã dạy cho tôi hiểu vì sao các nhà sư bắt buộc phải qua thời kỳ "mặt đối mặt với bức tường".
Thật vậy, sự im lặng vĩnh cửu của bức tường sẽ dạy anh nhiều điều hay lẽ phải.
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 6
Chúng tôi thu xếp xong chỗ nằm, bụi vẫn còn bay lơ lửng khắp gian phòng thì bác thọt đã trở lại, nói là đội trưởng sai bác dẫn chúng tôi đi ăn cơm.
Hay quá! Đi ăn cơm!
Thôn xóm có sự sống. Mặt trời mùa đông đã xế, toả nắng như dát vàng. Các ô cửa sổ với những miếng kính chắp vá đủ loại, phản chiếu rực rỡ. Những ống khói nho nhỏ toả khói màu xanh đục. Khắp nơi đậm mùi ngải cứu và lau sậy. Cái không khí chẳng giống chút nào so với nông trường lao cải và phong cảnh thôn y chang như trong các tiểu thuyết đã mô tả, khiến tôi thấy vui vui. Nghèo cũng được, khổ cũng được, nhưng tôi đã được trở về với cuộc sống bình thường.
Nhà bếp rất nhỏ. Xem ra chẳng có mấy người ăn ở đây. Tôi hơi lo, vì rằng người ăn càng ít thì nhà bếp sẽ bóc lột càng dữ. Còn may là chúng tôi bây giờ đã là công nhân, được ăn trong nhà ăn. Bác thọt – bây giờ chúng tôi đã biết bác là thủ kho kiêm quản lý – thông báo cho nhà bếp về định lượng suất ăn của chúng tôi, trong khi đó tôi đưa mắt quan sát một lượt. Trên bàn cán mì, vuông vải còn dính khá nhiều bột. Loại người như tay "Chủ nhiệm kinh doanh" thậm ngu. Họ
không ngừng rên rỉ với gia đình, làm cho cả nhà cuống lên, tay đùm tay gói tiếp tế. Còn tôi thì sao? Tôi không nỡ bóc lột mẹ, vì vậy tôi bắt trí tuệ mình phải làm việc. Trí tuệ của tôi chỉ khoanh lại trong việc kiếm cái ăn thì chắc chắn sẽ kiếm được không ít hơn những thứ do người nhà họ gửi đến.
Mỗi người bốn lạng. Một cái bánh quả cỏ, một bát canh dưa. Tôi là người cuối cùng lấy cơm. Tôi vừa cười vừa gạ nhà bếp: - Tôi không nhận cái bánh thì bác cho tôi cạo lấy chỗ bột ở vuông vải nhé?
- Được – bác bếp ngạc nhiên, đưa cho tôi cái xẻng cơm – anh cứ cạo lấy.
Tôi cạo bột dính trên mặt vải rất cẩn thận, sạch đến mức đem giặt cũng không bằng, được đầy một ống bơ, ít nhất cũng nửa ký lô. "Phúc đức quá". Tuy có mùi tanh của chảo gang, nhưng vẫn ngon. Chỉ có con người tự do mới được vào bếp cạo bột ngô! Tự do thích thật!
Cơm xong thì đội trưởng đến, tay xách chiếc đèn bão. - Đủ rồi hả? Tốt, tốt!
Bác ta lần túi tìm diêm. Tôi vội đến cầm giúp cái đèn bão, châm lửa rồi treo ngay trên đầu tôi. Thế là một nửa chiếc đèn này đã thuộc về tôi. Tôi nhanh trí vì được rèn luyện qua cuộc sống lao động cải tạo mà không có sự giúp đỡ của gia đình. Còn những người như "chủ nhiệm kinh doanh" thì sống nhờ vào tiếp tế.
- Thưa bác đội trường, chúng tôi ngủ được chứ? – "Chủ nhiệm kinh doanh" nằm bên cửa ra vào, cất tiếng hỏi. hắn muốn xoay chuyển tình thế.
- Ngủ lúc nào thì ngủ. Tùy! – bác đội trưởng ngồi bệt xuống đất,
chân xếp bằng tròn, chưa hiểu ý "Chủ nhiệm kinh doanh". - Có phòng nào khá hơn không bác? – vị trung uý đã từng ở chiến trưởng Triều Tiên giọng bất mãn – Phòng này không có bếp! - Ở tạm vậy, đang cho thu xếp – bác đội trưởng ra vẻ không vui.
Bác ta đã đứng tuổi, tự xưng tên là Tạ. Dưới ánh sáng tù mù của cây đèn bão, chỉ thấy bác râu ria đầy mặt, dáng mệt mỏi, bộ quần áo cán bộ vá chằng vá đụp. Bác nói rằng muốn ngủ trên bếp lò thì phải đắp giường bếp, mà bây giờ là giữa mùa đông, có đắp cũng không chắc chắn. Sang xuân hẵng hay.
Như thế có nghĩa là sang xuân mới được ngủ trên bếp lò. Mà khi đó thì không có bếp cũng xong.
Mọi người hỏi thăm đội trưởng viết thư thì gửi ở đâu, nông trường bộ ở chỗ nào, giờ làm việc của phòng nhân sự ra sao, tìm ai để làm thủ tục nhập hộ? Đội trưởng Tạ hiểu đây là những người ở lâu dài. Bác ta nheo mắt nhìn tôi đang ngồi dưới bóng đèn, hỏi:
- Này, chú tên gì?
- Trương Vĩnh Lân – tôi khẽ nhúc nhích, lớp cỏ kêu soàn soạt. Bác ta cố đọc tờ giấy dưới ánh đèn.
- Nhà chú ở Bắc Kinh à? Hai mươi lăm tuổi à? - Vâng, ở Bắc Kinh. Vừa tròn hai mươi lăm.
- Chú trẻ nhất bọn. Thế nào, có về quê cũ không? - Tôi không về.
- Ừ, không về thì ở lại làm ăn cho tử tế - bác Tạ trở nên vui vẻ, dịu dàng nhìn tôi - ở đây cũng không đến nỗi tồi lắm đâu, còn khá hơn nơi cũ. Về lương thực, mỗi tháng mười hai kí rưỡi, hai gói thuốc
lá. Tiền công thì loại hai được mười tám đồng, loại một được hai mươi mốt đồng. Các anh hãy tạm lĩnh mười tám đồng, qua nửa năm, căn cứ vào sức lao động sẽ tính lại.
- Vâng, vâng – tôi gật đầum, tỏ ra thoả mãn.
Những người khác ngồi yên lắng nghe, ánh đèn leo lét trông họ như đeo mặt nạ.
Thực ra, ở đây chẳng có gì đáng phấn khởi. Cái gọi là tốt hơn nông trường lao cải chỉ là có lương, mà lương mười tám đồng thì chưa mua nổi năm cân củ cải. Lại nữa, quần áo không được phát. Định mức lương thực cũng như ở nông trường lao cải, bị xén đơn xén kép, được ăn vào miệng không quá mười kí. Mười hai kí rưỡi lương thực một tháng, bình thường cũng tạm đủ. Nhưng trong hoàn cảnh không có lương thực phụ, không dầu mỡ rau cỏ, mà lại phải lao động nặng, anh cứ thử ăn một tháng xem sao? Vậy mà phải ăn như vậy quanh năm suốt tháng. Năm 1960, định mức còn thấp hơn nữaở, mỗi tháng chỉ có bảy kí rưỡi. Tôi thoả mãn là vì trong câu chuyện, bác ta không cố ý dùng cái tên "đội trường cải tạo".
Bác ta lục lọi hơi lâu, móc ra một lô thuốc lá phát cho mỗi người hai bao nhãn hiệu Song Ngư, thu một hào sáu, tức là tám xu một bao. Đây mới là thuốc lá thứ thiệt, chứ không phải lá hướng dương, lá bắp cải, lá cà…hút thay thuốc. Với tôi, thuốc lá cũng quan trọng như lương thực. Thấy tay "Chủ nhiệm kinh doanh" không hút thuốc mà vẫn có phần, tôi đâm bực. Hắn sẽ "nhượng" cho anh với giá hai xu một điếu khi anh lên cơn nghiện. chủ nghĩa bình quân có cái tệ của nó.
- Hàng ngày, chín giờ ăn cơm, mười giờ ra đồng. Bốn giờ chiều
tan buổi làm. Đang giữa mùa đông, không có hoạt động gì khác. Vì vậy ngày mai các anh ra đồng, đến ngày nghỉ hẵng nghỉ. Nói xong, bác đứng lên, phủi đít quần định đi. Bác ta không nói "chủ nhật" mà nói "ngày nghỉ", không biết ngày nào mới là "ngày nghỉ"? - Bác đội trưởng, không có giường bếp thì đắp cái lò được không? Phòng này về đêm lạnh đến chết người đi được! Tay trung úy dùng chăn quấn quanh người nêu một đề nghị đặc biệt. Tập thể này cần một người dám nêu lên những vấn đề như vậy. - Lò thì phải đắp thôi, mấy cục đất là xong. Nhưng nông trường chỉ có than bùn, không c ó than đá – đội trưởng Tạ lồng bàn tay vào trong ống tay áo, bác cũng thấy lạnh – Còn cửa sổ cũng phải dán lại. Sáng mai các anh lên văn phòng lĩnh ít giấy báo cũ, rồi đến nhà bếp lấy hồ dán.
- Lò than bùn thì tôi biết đắp – tôi xung phong nhận việc. Trong túi tôi có hai cái mô mô, tôi vui lòng lao động nặng. - Ô, khác với lò đốt than đá đấy nhé – bác Tạ không ngờ tôi lại biết đắp lò, nhìn tôi ngạc nhiên – Thế này nhé, ngày mai chú ở nhà đắp lò, dán cửa sổ. Ừ, các anh phải có một tổ trưởng. Theo tôi, giao chức ấy cho chú Lân.
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 7
Buổi tối, tôi rất cẩn thận chui vào mền bông đã quấn thành ống, cẩn thận như khẽ luồn dùng đùng bằng châu ngọc vào hộp gấm. Tôi chỉ lo ngón chân thọc phải chỗ mền thủng, hoặc làm đứt chỉ, và cũng vì không dám mở phanh ra, nếu không, cỏ sẽ đâm vào lưng. Sau đó tôi thò tay vào túi áo bông trải trên mền, lấy ra hai cái bánh mô mô, ngửi hít một lúc, rồi dùng khăn mặt bọc lại, nhét dưới lớp cỏ. Ở nông trường lao cải, nửa đêm vẫn có tiếng chân tuần tra của trực ban.
Tức thì mặt thứ hai của con người tôi bắt đầu hoạt động. Tinh thần tôi bị hiện thực đau khổ và không sao hiểu nổi đập nát thành mảnh vụn, lúc này tập hợp lại như ghép những mảnh kính vỡ, chà xát tôi bằng những cạnh sắc như dao. Đêm khuya là lúc tôi tỉnh táo nhất.
Ban ngày, bản năng kiếm sống rượt đuổi tôi. Tôi xúc xiểm, lấy lòng lấy bề…giở đủ trò khôn vặt. Nhưng đến đêm, tôi giật mình vì sự ti tiện đủ kiểu và những ý nghĩ độc ác của mình ban ngày, giống như Lancley nhìn bức chân dung đã bị linh miêu phù phép trên đó, tôi thấy linh hồn tôi bị vẩn bụi. Dòng hồi ức mở ra từng cảnh trước mắt, tôi thẩm tra lại cuộc sống ban ngày của tôi mà căm ghét bản thân đến cùng cực. Tôi run lên, tự sỉ vả mình.
Sa đọa không đáng sợ, mà đáng sợ là sự tỉnh táo lúc sa đoạ.
Tôi cho rằng sư sa đoạ của con người không hoàn toàn dho hoàn cảnh bên ngoài tạo nên. Nếu là do khách quan thì hoá ra sức mạnh tinh thần hoàn toàn bất lực. thế giới này nếu chỉ thuần vật chất và sức mạnh, thì con người sẽ bị hạ xuống trình độ của muông thú. Các thánh đồ tôn giáo vì thần linh mà hiến thân, nhà thơ theo chủ nghĩa duy vật coi lý tưởng cao cả là thần. Tôi chưa chết có nghĩa là tôi đang sống. Mà mục đích của cuộc sống là gì? Lẽ nào chỉ là để sống? nếu không có gì cao hơn sự sống đó thì sống có ý nghĩa gì?
Nhưng hiện nay tôi phải chịu đựng tất cả, vượt qua tất cả để mà sống. Tôi nhớ đến một câu thơ của thi hào Nga Puskin:
Ôi, tất cả đã trở thành trống rỗng!
Tôi đâu có dừng ở chỗ trống rỗng, mà đã thối nát. Nhưng biết làm sao được? "Hy sinh" phải có mục đích rõ ràng. Cái lý tưởng còn mờ nhạt xưa kia đã bị phê phán tan biến ngay từ lúc nó chưa hình thành. Dù rằng tôi nghi ngờ chuyện phủ nhận sức mạnh trữ tình phi thường, mà có nó thì tinh thần con người trở nên cao thượng, nhưng tôi phải thừa nhận rằng, sự phủ định của hiện thực mạnh hơn mọi phê phán. Vậy thì, lý tưởng mới, mục đích của cuộc sống mới là gì?
Nghe nói tầng lớp người có hoàn cảnh xuất thân như tôi, mục đích của cả đời là cải tạo bản thân. Nhưng nói rằng "hy sinh" là để cải tạo mình, thì rõ ràng là không hợp lý. Vì rằng nói như vậy tức là chưa chết thì chưA được coi là cải tạo tốt, vậy thì việc cải tạo sẽ mất hết ý
nghĩa. Hôm nay tôi đã trở thành con người tự do. Nếu nói trừng phạt là để chuộc tội, vậy thì khi sự trừng phạt đã kết thúc, có nghĩa là tôi đã chuộc xong cái tội "phái hữu". nếu nói được tha là đánh dấu một giai đọan cải tạo, vậy sự cải tạo của tôi coi như đã xong. Từ nay trở đi tôi sống như thế nào? Đó là điều phải suy tính. Nhưng ở cái nông trường này không làm tôi lạc quan, bởi nó không phát huy được vốn liếng văn hoá của tôi, để kiểm tra xem tôi đã cải tạo đến mức độ nào.
Tuy đã được tự do, nhưng tôi vẫn cảm thấy không bám được vào chỗ nào của thực tại, vẫn như lơ lửng giữa trời…
Tôi nằm quay mặt vào tường. Từ chân tường bốc lên mùi ẩm ướt, mùi ổ chuột và cả mùi âm ấm của cỏ khô. Bên cạnh tôi, ông kế toán nghiến răng thâu đêm suốt sáng. Cái tiếng mài răng ken két không ngừng không nghỉ ấy tượng trưng cho tương lai cay đắng của chúng tôi. Sợi bông buốt như thép làm tôi bị lạnh cứng cả toàn thân. Câu hỏi "Vì sao mình đến nông nỗi này?" lại được đặt ra. Tôi thường tự hỏi câu này, vì nó như một câu đố khó. Khi tôi coi quãng đời trước khi bị lao động cải tạo là một giấc mơ, thì tôi cảm thấy bây giờ là một ác mộng, ngày hôm sau tỉnh dậy tôi lại lên lớp cho học viên về Đường Thi, Tống Từ, hoặc ngồi đọc Sechxpia bên bàn làm việc. Nhưng cái bụng mới là thày dạy của tôi về chủ nghĩa duy vật. Anh không chịu nhìn thẳng vào hiện thực thì cho anh chết đói!
Hoàn cảnh hiện nay của tôi là một hiện thực đanh thép! Đây là định mệnh ư? Vậy thì, đói rách có tính phổ biến đã đẩy hàng
triệu người vào chung số phận. Bên tai tôi lại vang lên câu nói của anh cán bộ giảng dạy triết học. Số phận cá nhân gắn chặt với vận mệnh của đất nước!
Tôi nắn khẽ bộ Tư bản luận dưới gối. "Có lẽ anh sẽ hiểu vì sao chúng ta đến nông nỗi này?" giờ đây quyển sách bắc cầu cho quan hệ của tôi với thế giới, chỉ nó mới kéo tôi quay trở lại cuộc sống tinh thần mà tôi quen thuộc, và từ những mô mô, củ cải, canh dưa… thăng hoa. Chỉ nó mới có thể tách tôi khỏi bầy thú đói.
Tấm mền đã được hơi ấm của tôi truyền sang. Tôi thấy ấm áp, mềm mại. Tôi cảm thấy tôi tồn tại. Tồn tại là gì nhỉ? ĐềCac đã nói "Tôi tư duy tức là tôi tồn tại". Sống là rất hay, suy nghĩ được lại càng hay, hay đến nỗi không muốn ngủ…
Nhưng tôi đã ngủ rồi.
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 8
Hôm sau, lúc tỉnh dậy tôi ngớ người ra. Quả nhiên vui quá hoá buồn, hai cái bánh đã bị chuột ăn sạch.
Đúng là chuột ăn chứ không phải mất cắp, vì chiếc khăn mặt cũng bị cắn thủng. Tôi khẽ vo tròn chiếc khăn rồi nhét vào túi quần. Tôi không dám hé răng, vì sợ tay "Chủ nhiệm kinh doanh" chế giễu.
Chín giờ mới ăn cơm. Tôi ngồi dựa vào tấm mền đã gấp lại, gần như xỉu đi. Giả dụ hai cái bánh không bị mất thì dù không ăn tôi cũng không thấy đói. Nhưng khi sự thiệt hại to lớn ấy xảy ra đã khoét sâu sự sợ hãi, khiến tôi cảm thấy đói ghê gớm. Cái đói đã trở thành một thực thể có sức nặng, có thể tích. Nó lao ngang lao dọc trong dạ dày, réo ùng ục, gào lên với mỗi sợi thần kinh, ăn, ăn, ăn… Tôi kiệt sức, không còn bụng dạ nào để suy tư, chỉ một ý nghĩ: nhất định phải bù lại hơn thế.
Lúc này, những mảnh tinh thần tụ tập lai trong đêm đã tan biến, tôi lại trở thành con sói: Tất cả để sống!
Mọi người lấy cơm ở nhà ăn về, lặng lẽ ngồi ăn tại chỗ của mình. Chiếc ống bơ đã mất ưu thế. Nhà bếp ở đây hình như không bị lầm lẫn, họ tin tưởng tuyệt đối vào cái muỗng của họ, không thêm cho tôi muỗng nào. nhưng không sao, tôi đã có cách.
Cơm xong, theo sự phân công của đội trưởng Tạ, một công nhân nông nghiệp có bộ mặt u ám dẫn mọi người theo đại đội ra đồng. Bác thọt lại đến, kẹp nách một cuộn giấy cũ. Bác quẳng cuộn giấy xuống, cho tôi biết hố đất ở đâu, gạch lấy ở đâu, xe cút kít ở đâu, rồi dẫn tôi đến nhà kho lĩnh một chiếc xẻng, một thùng đựng nước nhỏ, một con dao xây, và mấy thanh sắt làm ghi lò. Khi sắp đi, bác còn bảo tôi đến nhà ăn mà lấy hồ dán, bác đã nói với nhà bếp rồi. ngoài ra, nếu cần gì, có thể đến văn phòng tìm bác.
Đắp bếp lò cần hai người, một chính một phụ. Nhưng tôi tự nguyện không cần thợ phụ. Đất sét và gạch rất gần, ngay chỗ đầu hồi nhà tôi ở. Còn đất để xây thì đào ngay tại sân. Ở đây là đất chua mặn, không bị cứng lại. Còn nước thì cần ít thôi, nếu không thì việc sấy khô lò cũng mất khá nhiều thì giờ. Bác thọt vừa đi khỏi, tôi vớ lấy tờ báo chạy thẳng đến nhà ăn.
- Sư phụ, tôi đến lấy hồ dán – Tôi vui vẻ chào bác bếp, làm như hàng ngày tôi vẫn ăn uống no đủ.
- Chú vào mà lấy – Bác ta ngồi sưởi nắng bên cửa ra vào, đúng là đang no nê – Đừng lấy nhiều quá!
Tôi vung tờ báo nói với bác:
- Gói nhỏ là đủ ạ.
Trên bàn cán mì, có nửa chậu bột quả có trắng đen lẫn lộn, chuẩn bị sẵn cho tôi. Tôi trải tờ báo ra, trút hết chỗ bột, lèn chặt rồi gói lại đem về.
"Hồ dán!" Những người no đủ có bao giờ để ý là bột quả cỏ không có chất dính. Nếu trộn muối đem làm hồ dán thì lúc khô, giấy dán sẽ bong ra. Tôi chưa dán cửa sổ vội, cái mà tôi cần nhất bây giờ là lửa.
Khi còn ở nông trường lao cải, tôi đã từng phụ việc đắp lò cho một công trình sư cấp một về năng lượng của Trung Quốc, bác ấy cũng là "phái hữu". Bác dạy tôi đắp lò bếp sao cho đơn giản nhất. Bác còn bảo rằng, chỉ cần một cái xẻng, ngoài ra không cần thứ gì khác, là bác có thể làm ở chỗ dốc một cái bếp lửa rất đượm và ít tốn củi. Cửa thông gió,chiều sâu và đường dẫn khói, là ba điểm cần đến học vấn. Tôi chạy vào chạy ra, đào đất…mồ hôi nhễ nhại. Chưa đầy hai tiếng, chiếc lò rất nguyên thuỷ nhưng cũng rất khoa học đã được đắp xong.
Tôi không nghỉ một phút, đẩy xe cút kít đến cửa nhà ăn, lấy nửa xe than. Cả xe thì tôi không đẩy nổi. Trên đường về, thuận tay tôi rút mấy que củi khô ở một đống củi. Tôi run rẩy quẹt diêm, nhóm lửa. Khói và lửa lùa theo cửa thông gió. Lát sau, khói không còn nữa. ngọn lửa màu hồng nhạt réo theo đường thoát khói. Một lúc sau xoè ra như chiếc quạt trong lò, rừng rực như phun từ miệng núi lửa, đuổi nhau trong đường khói. Tôi xúc thêm một xẻng than hắt vào lò. Chiếc lò như có ma thuật bung ra làn khói đen kịt, nhưng lập tức chui tọt vào đường dẫn khói. Những lưỡi lửa vẫn ngoan cường liếm các kẽ than, vươn ra ngoài. Chưa đầy mười lăm phút sau, lửa chuyển dần sang màu đỏ sẫm, rồi đỏ tía. Đó chính là lửa của than bùn.
Bước thứ hai là không để ai trông thấy tôi làm gì ở trong nhà. Tôi đến văn phòng. Bác thọt đang ngồi im như bụt mọc. Tôi không thấy tức cười về nỗi người thì làm đến vã mồ hôi, kẻ thì chẳng làm gì cả. Tôi xin bác ta một nắm đinh nhỏ, mấy mảnh các tông, một cái kéo. Chỉ cần không phải là cái ăn, bác ta cho ngay. Tôi vội vã ra về, cắt
các tông thành những cái nẹp, rồi căng báo cũ lên mặt cửa sổ, tôi nẹp lại bằng những chiếc đinh.
Ra vẻ chỗ trú chân rồi đấy. Nói theo cách nói của đội trưởng Tạ, đây là "nhà".
Tôi làm việc theo các bước của vận trù học. Lúc này, lò đã rực lửa, khói không còn nữa. Tôi rửa sạch lưỡi xẻng rồi gác lên miệng lò, để ít bột quả cỏ vào ống bơ, cho nước vào khuấy đều rồi đổ lên lưỡi xẻng. Xẻng của vùng cao nguyên hoàng thổ là loại lưỡi phẳng, bột quả cỏ chảy lan ra bốn phía, các cạnh đều sủi bọt. Chưa đầy một phút, đã có một cái bánh nướng.
Tôi vất vả cả buổi để có giây phút đẹp đẽ này đây!
Tôi rán cái nào, ăn luôn cái ấy. mấy cái đầu, tôi chưa kịp thưởng thức mùi vị, nhưng càng về sau càng ngon. Nhân lúc đợi bánh chín, tôi tranh thủ lấp mấy cái hang chuột. không ngờ ở đây lại có chuột! Nông trường lao cải thì không có. Ở đó không có gì để chuột ăn được, ngược lại, chuột còn có nguy cơ bị ăn thịt.
Gian nhà ấm lên. Bụng tôi ấm lên, cơ thể tôi cũng ấm lên. Tôi ngồi mơ màng bên lò. Nhưng bây giờ chưa phải là lúc ngủ gật. Tôi lôi bao Song Ngư trong túi lưới ra, rút một điếu, nắn quanh một lượt. Hay quá, không có cọng lá ở trong. Nhặt hòn than dính dưới lưỡi xẻng, tôi châm thuốc. Tôi nuốt hết,không để một sợi khói thoát ra miệng hoặc lỗ mũi. Chỉ trong nháy mắt, một cảm giác đê mê, sảng khoái lan khắp cơ thể.
Nhưng không hiểu vì sao, nỗi đắng cay lại tràn ngập tim tôi.
Không nên nghĩ ngợi nhiều. Tôi biết, khi bụng no thì nỗi đau trong tim còn dữ dội hơn cái đói. Đói cũng khổ, mà no cũng khổ, nhưng cái đau về thể xác còn dễ chịu hơn nhiều nỗi đau về tinh thần. Tôi cẩn thận dụi tắt điếu thuốc , bỏ vào bao. Tôi phải tìm việc mà làm. Thu dọn đồ nghề xong, tôi lấy giấy báo gói chỗ bột quả cỏ còn lại, treo lên tường, thêm than vào lò, cầm lấy đôi bao tay đã vá víu chằng chịt, phủi đất bụi trên người rồi bước ra khỏi "nhà".
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 9
Mấy hôm nay trời đẹp. Cao nguyên hoàng thổ mênh mông màu vàng chanh. Thôn xóm rất ít cây cối, vài cây bạch dương đã trụi lá nhô lên bầu trời như khảm bạc. mặt trời ngả về tây. Hôm qua, vào giờ này anh chàng Hỉ đang hát. Giờ đây, khi bụng đã no, nhớ lại lời buồn thảm và phóng khoáng ấy khiến tôi liên tưởng đến vài đoạn trong bài thơ Hãy tỉnh lại, bác tiều ơi của Pabolo Neruda. Tôi thường có sự liên tưởng hơi kỳ quặc, tuy không đâu vào đâu, nhưng nó có liên hệ nội tại mơ hồ, gần như thần bí. Đương nhiên là khi bụng đã no, đủ loại liên tưởng mới nảy sinh trong đầu. Lúc này tôi cảm thấy giai điệu mang đậm màu sắc địa phương trong bài hát của anh Hỉ đã truyền cho tôi cái tinh thần hăm hở của những người khai hoang Bắc Mỹ mà Neruda ca ngợi. Lời ca ấy, những con chim ưng ấy, đồng ruộng thê lương hút tầm mắt ấy, những dãy núi nôi tiếp nhau liên miên bất tận chính là làn điệu của bài dân ca…Tất cả sống dậy trong tôi. Trong khoảnh khắc, tôi thấy mình đã trở nên đẹp đẽ và tràn trề sức sống.
Thế là, với một tâm trạng vui vẻ, tôi đi về phía chuồng ngựa. Tôi thích ngựa vì ngựa làm tôi liên tưởng đến sự tích anh hùng "Khai khẩn đất đai".
Nhưng đứng trước cửa chuồng ngựa lại có một số công nhân nông nghiệp đang đảo phân, trong đó có các tổ viên của tôi. "Chủ nhiệm kinh doanh", trung uý, kế toán và cán bộ biên tập toà soạn báo.
- Việc ở nhà xong rồi à? – Đội trưởng Tạ tay cầm xẻng, đứng trên đống phân, nhận ra tôi ngay. Ban ngày trông bác ta bé nhỏ hơn nhiều.
- Xong rồi ạ.
- Chú đến đây làm gì?
- Tôi… - tôi không muốn nói là đến xem ngựa. Ngựa thì có gì đáng xem? Bao nhiêu ý nghĩa khác nhau vọt ra khỏi đầu óc tôi. Cuối cùng chỉ còn lại một nhận thức, tôi là một công nhân nông nghiệp. Tôi đành nói – Tôi đến để làm việc.
- Tốt – đội trưởng Tạ vui vẻ cười – Chú bẩy phân cho đám phụ nữ này đập tơi ra.
Bác chỉ chỗ cho tôi. Té ra ở đây có cả phụ nữ.
Xưa nay tôi chưa bao giờ cùng làm với phụ nữ. Bốn năm lao động cải tạo tại nông trường lao cải, hầu như tôi không trông thấy đàn bà. Tôi cúi đầu rụt rè bước vào giữa đám phụ nữ, chưa biết nên làm như thế nào.
- Anh cầm lấy xẻng. Bẩy ra tảng nào, chúng tôi đập tảng ấy – một phụ nữ bảo tôi – Cũng đừng quá sức, trông anh gầy như que củi, không bẩy được tảng lớn thì bẩy tảng nhỏ.
Âm sắc mềm mại, những thổ âm vốn rất cứng được nói bằng một giọng uyển chuyển, đặc biệt là bằng một sự cảm thông qua ngữ điệu khiến tôi rất cảm động, đã lâu rồi tôi chưa bao giờ được nghe "đừng quá sức", mà bên tai tôi rặt những "mau, mau lên, chậm như rùa ấy". Nhưng tôi không dám nhìn thẳng vào cô. Không hiểu sao tôi đỏ mặt, vui vẻ nhủ thầm là tôi sẽ đập tơi cả phần của cô.
Tôi quan sát đống phân. Không có xẻng. Tôi quên bẵng chuyện vì sao tôi đến đây, gọi đội trưởng Tạ:
- Bác đội trưởng, không có xẻng bác ạ.
- Vậy chú đến đây làm gì? – câu khiển trách bất ngờ đối với tôi – Đi ăn cỗ phải đem theo đôi đũa nữa là…
Mấy chị đứng gần cười rúc rích không chút ác ý. Tôi đỏ lừ mặt, vừa thẹn vừa giận bác Tạ. Bác đúng là con người nhỏ mọn, vui giận thất thường.
Đang lúc chưa biết xoay sở ra sao thì cô gái lúc nãy đã dúi vào tay tôi chiếc chìa khoá.
- Này, anh về nhà tôi mà lấy. Ở sau cửa có một cái xẻng rất vừa tay.
Tôi lúng túng đón lấy chiếc chìa khóa, lúng búng trong miệng câu gì đó tôi cũng chẳng rõ. Cô lại bảo:
- Cửa thứ nhất dãy 1 khu Tây ấy. Gian đầu tiên ngay chỗ rẽ là đến.
- Cái buồng có treo biển "Quán ăn Mỹ" ấy – một chị cười khúc khích nói thêm.
- Cái nhà chị này, cửa nhà chị treo biển thì có – Cô không giận, còn mắng yêu chị kia.
Tôi chạy đi. Hai người phụ nữ vẫn chửi đùa nhau, cười rúc rích. Chiếc chìa khoá tự làm bằng đồng đỏ nhẵn bóng còn ấm hơi người. Có lẽ cô để nó ở túi trong. Tôi ngắm nghía vuốt ve , làm như nó là bàn tay cô.
Gian nhà cô ở giống như của người khác, ở cửa không hề có tấm biển "Quán ăn Mỹ". Bên cửa có một đống củi đã ngả màu đen, một sợi dây phơi quần áo. Tôi mở cửa. Gian nhà nhỏ hơn của chúng tôi, chiếc bếp – giường chiếm hết một nửa. Nền đất sạch như chùi. Tôi chưa bao giờ được thấy nền đất mà bằng phẳng y hệt nền láng bằng xi măng vậy. Không có đô đạc bằng gỗ. Bàn ghế đều bằng đất sét. Sát tường, trên chiếc bàn đất sét đặt một cái giá hai tầng như
cái rương. Tầng trên che một rèm vải hoa cũ. Tất cả đồ đạc bằng đất đều có góc cạnh, mặt nhẵn bóng. Mặt bàn bầy sóng đôi những vỏ chai, vỏ đồ hộp thay cho trang trí. Bếp giường trải tấm thảm cũ, chiếc bông đã vá, vài chiếc quần áo, có cả quần áo trẻ em, xêp ngay ngắn. Mép giường trang trí đủ màu sắc. Tôi lướt qua một lượt, toàn bộ ảnh của một số tạp chí Điện ảnh đại chúng và tranh cô gái Anna. Đuôi bếp – giường là lò, trên lò có một chảo gang đậy nắp bằng gỗ.
Lần đầu tiên tôi được vào nhà một người lạ. Tôi cảm thấy ấm lòng vì được người ta tin cậy. Nhưng bản năng trong tôi cũng thức dậy, tôi rất muốn giở nắp chảo, vén rèm tìm cái ăn. Những chỗ cất thức ăn đối với tôi đều có sức hấp dẫn khó cưỡng lại.
Quân trộm cắp!
Tôi vội vã cầm lấy cái xẻng dựng sau cánh cửa, trở lại nơi xúc phân. - Khoá cửa lại chưa? – cô ta hỏi.
Tôi cúi đầu trao trả chiếc chìa khoá.
- Khoá rồi.
Tôi vung xẻng bẩy phân. Một phụ nữ hát lên khe khẽ: Ba lần anh lượn trước nhà
Mà sao không thấy nàng ra mời vào!
- Đồ mẹ ranh, tớ thì… - Cô quay lai. Mắng chị kia một câu rất tục và hình ảnh đến nỗi đám phụ nữ cười ầm lên. Tôi ngạc nhiên, không hiểu chị kia đã xúc phạm cô ra sao, nên ngửng đầu lên nhìn. Cô đang mắng chị kia, lưng quay về phía tôi. Tôi chỉ nhìn thấy hai bím tóc đen nhánh kẹp lại làm một, buông thả sau lưng áo hoa. Lưng áo và chỗ khuỷu tya đều vá bằng những mụn vải hoa sẫm màu.
phân và nước đái ngựa trộn với đất bột, gọi là phân chuồng, rắn lại như đá trong mùa đông. Chúng tôi phải bẩy ra từng tảng, đập vụn,
trộn đều, dùng xe ngựa chở ra đồng đổ từng đống thành hàng ngang dọc rồi phủ lên một lớp đầy bột, đợi sang xuân mới rải ra ruộng.
tôi đã ăn nhiều bánh tráng, lại muốn làm giúp chị ta nhiều một chút nên rất hăng. Lát sau đã bẩy được một đống to tướng. - Từ từ thôi, anh ngô..ốc ơi! – Cô không nói "ngốc" mà nói "ngô..ốc", giọng dài ra, véo von như hát. Tôi đã thấy thân thân, nên chỉ mỉm cười. Tôi lại liếc nhìn cô, nhưng vì cô đang cắm cúi đập phấn, nên không nhìn rõ mặt.
- Nhào bột với nước rồi đem nấu cháo, càng ninh càng đặc. - Củ cải thái chỉ, hay tuyệt…
- Củ cải vàng không bằng củ cải đường. Củ cải đường ngọt lịm. - Củ cải đường có vị đắng, phải luộc qua…
Đám phụ nữ cười cợt mắng mỏ nhau, rồi chuyển sang bàn về kỹ thuật nấu nướng. Cô quay lại, tuyên bố dứt khoát:
- Thà rằng ăn một miếng đào tươi, còn hơn ăn nửa sọt lê thối. Thích ăn thì thổi thành cơm mà ăn.
- Hi hi! Ai mà bì được với chị. Chị mở "Quán ăn Mỹ" cơ mà! - Đừng có bẻm mép! – cô đứng lên – Các chị là không có tài! Bột quả cỏ cũng có thể đem thổi như cơm, tin không? - Tin, tin! Chị làm một bữa cho bọn tôi nếm thử… - Nếm! Chỉ sợ nếm rồi quên cả về nhà mình, thì ngủ ở giường nhà người khác. – Cô lại cười khúc khích. Cô rất hay cười. Đám phụ nữ lại trêu chọc nhau.
Anh chàng Hỉ nghênh ngang dong xe trở về. Vrừ..Vrừ…Anh ta vung roi đánh dứ trên đầu con ngựa còm, rồi ưỡn ngực ngồi thẳng trên càng xe.
- Sao bây giờ đã nghỉ rồi? – Đội trưởng Tạ ngừng xúc phân, hỏi
bằng một giọng lạnh nhạt. Đội trưởng cũng làm lụng như những người công nhân, tôi để ý thấy bác làm còn nhiều hơn. Cũng như tôi khi nãy, anh chàng Hỉ không ngờ có đội trưởng o đây. Anh ta vội nhảy xuống.
- Họ! – rồi dừng xe lại.
- Ngựa mệt rồi, đội trưởng ạ!
- Ngựa mệt hay là anh không muốn làm, hả? – đội trưởng nheo mắt, hỏi lại bằng một giọng mỉa mai. Trong con mắt tôi, người đội trưởng gầy guộc, phút chốc lớn vụt lên, anh chàng Hỉ thì như bé lại. Tôi thấy ái ngại cho anh ta. Anh ta khúm núm, khác hẳn ngày hôm qua.
- Anh muốn tôi tính sổ với anh phải không? – tôi thấy trong câu nói của đội trưởng có ẩn ý. Anh chàng Hỉ lại càng tỏ ra lúng túng, đi cũng dở, ở lại cũng dở. Con ngựa gầy sau lưng anh ta dùng cặp môi mềm lượm cỏ dưới đất.
Đột nhiên đội trưởng Tạ quát to:
- Tháo ngựa ra, cầm lấy xẻng. Đồ con lừa nhà anh, đêm nay không đập tơi hai khối phân thì, đ. Mẹ anh…
Đội trưởng Tạ quát tháo rất có nghề. Bác chửi bới giận dữ, còn người nghe thì thấy đó là tiếng cười. Anh chàng Hỉ che miệng cười thầm. Tôi lại hoá may. Đội trưởng Tạ vốn hay chửi bới tục tĩu, vừa rồi bác đối với tôi còn lịch sự chán.
Nhân lúc đội trưởng quát tháo, anh Hỉ cho xe vào nhà xe. Lát sau anh ta cầm cuốc chim đi ra.
- Cuốc chỗ nào đây, đội trưởng?
Anh ta không tỏ ra lấy lòng, mà trở lại tư thế mạnh bạo của một con người làm gì cũng được.
- Chỗ này! – đội trưởng Tạ chỉ chỗ trước mặt giọng mệt mỏi –
Có một tảng to, rắn lắm. Tôi hì hục cả buổi chưa bẩy được. - Phì phì! – anh Hỉ nhổ bọt vào lòng bàn tay – Bác lùi ra, để tôi! – nói rồi anh vung cuốc lên, "hự", một tiếng , bổ mạnh xuống. Trong khoảnh khắc, họ đã trở thành đôi bạn, kẻ cuốc người đập rất ăn ý.
Hừ, đúng là đồ bỏ đi! Tôi nghe rõ cô khẽ chửi, không rõ chửi ai. Tôi vẫn làm công việc của tôi. Những tảng phân lăn ra cô đập không kịp, tôi trở đầu cuốc đập giúp để cô dùng xẻng gạt ra. Khi thu dọn đã xong, tôi quay đi tiếp tục cuốc, và cũng là lúc cô rảnh tay. Cô chống cằm lên cán xẻng, hát khe khẽ:
Xin anh đừng cười
Em hát về hoa.
Cái buồn em đã đuổi xa
Ơ!...Khi em buồn em lên tiếng hát
Anh tưởng rằng em hát vì vui…
Về lý luận, tôi biết cô cũng như anh chàng Hỉ hôm qua đều hát điệu Hoa súng, loại dân ca giọng cao của các vùng ven sông Hoàng Niết thuộc các tỉnh Cam Túc, Thanh Hải, Ninh Hạ. Có điều, trước kia tôi chưa bao giờ được nghe. Bài cô hát hôm nay có chỗ khác với anh Hỉ hát hôm qua, cung bậc khoảng cách không lớn, âm cuối chuyển từ rê lên la. Tiếng địa phương Tây Bắc, sốt ruột có nghĩa là buồn, kêu có nghĩa là hát. Ở đây không có đồng ruộng, bốn phía đều là những đống phân, còn giọng của cô thì chưa qua luyện tập chính quy, nên còn mang dáng dấp thôn dã. Vậy mà tiếng hát của cô đã đưa tôi tới những triền núi xanh, và làm cho lòng tôi rộng mở. có điều, tôi cảm thấy hơi buồn, vì lời không bộc lộ ham muốn một cái gì, nhưng làn điệu thì rung lên bởi nỗi ước mong, vậy mà thái độ thì lại hờ hững, biểu hiện một tình cảm thê thảm đến rợn người. Đúng
là hờ hững. Nỗi buồn của tôi còn ở chỗ con người sáng tạo ra cái đẹp đến như vậy cho tôi hưởng thụ, mà bản thân họ thì lại không hề biết rằng họ sáng tạo cái đẹp. Thí dụ anh Hỉ đây đã gây cho tôi một ấn tượng không đẹp. Còn cô thì đang cúi đầu suy nghĩ, tâm trí để tận đâu đâu, không một nét tự hào.
Cả buổi chiều, chúng tôi đảo được khá nhiều phân, một đống lớn. Đội trưởng Tạ dạo quanh một lượt để kiểm tra thành tích. Bác đặc biệt hài lòng đám phụ nữ và tôi, tuyên bố:
- Nghỉ thôi!
Mọi người lẻ tẻ ra về, ai về nhà người ấy. Vì lịch sự tôi nói: - Cảm ơn cô. Tôi cầm hộ cô cái xẻng nhé.
Cô đang cạo lưỡi xẻng, ngoảnh lại nhìn tôi ngạc nhiên, hình như không quen với những lời lẽ xã giao ấy. Và lập tức, cô vội giằng lấy cái xẻng trên vai tôi, nói bằng một giọng kiên quyết nhưng thô bạo. - Anh đem nó lại thì kệ anh, gầy như con cá mắm ấy, mặt tái xanh tái xám đi rồi!...
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 10
Lúc trở về, các tổ viên của tôi rất bằng lòng về cái "nhà" của mình. "Chủ nhiệm kinh doanh" trước hết bê chậu rửa mặt lại cửa bếp lò. Hắn nói trong nhà nóng đến mức có thể tắm khan được.
khi ăn cơm, mọi người ngồi vây quanh bếp. Có lửa, hình như mọi người trở nên thân thiện với nhau hơn, lời nhiều hơn. Anh biên tập báo chu_a quên nghề của mình, ngày hôm nay anh ta hỏi được rất nhiều điều. nghe anh nói, nông trường này diện tích rất rộng, có tới mười mấy đội sản xuất rải theo triền núi từ Bắc xuống Nam. Đội chúng tôi là đội Một. Đội này cách đội kia ít nhất năm kilômét, cách nông trường bộ mười kilômét. Đội xa nhất ở sát chân núi, muốn đến đó phải mất một ngày đường. Nông trường bộ có cửa hàng mua bán, nhưng hiện nay chỉ có muối ăn, các thứ khác không có. Các công nhân nông trường gọi cửa hành là "Sở giao dịch muối". Muốn mua gì phải đi Trấn Nam Bảo, cách đây mười lăm kilômét, ở đấy có chợ của bà con nông dân, có lẽ là nơi phồn hoa nhất của cả vùng. Muốn ra thành phố thì phải đi xe lửa. Phía đông, cách mười lăm kilômét có ga xe lửa, tàu chậm dừng ở ga một phút, chuyến bốn giờ sáng hàng ngày. Đội này không có bí thư. Đội phó mắc bệnh phù thũng, nằm liệt giường. Đội trưởng Tạ nắm cả chính trị lẫn sản xuất. Các công nhân còn nói "Chỉ cần không đụng đến sợi lông chân của Đội trưởng Tạ" thì người ấy mới là người tốt. Đáng sợ nhất là cái đội
ở dưới chân núi. Đội ấy quản lý chặt, không được đi đâu, các công nhân gọi nó là "Cửa Quỷ", chuyên trừng trị những công nhân ương bướng.
Anh biên tập còn nói, công nhân nông trưởng này hầu hết là người bản địa và nông dân từ các tỉnh Cam Túc, Thiểm Tây chạy trưởng. Cơ sở của đội này là từ một thôn của công xã, đội trưởng Tạ vốn là bí thư của một đội sản xuất. Các đội khác đều mới thành lập, có đủ loại người, từ thanh niên Chiết Giang đến chi viện biên giới, bộ đội phục viên chuyển ngành, những người bị cải tạo bằng lao động, công nhân chuyển về do tinh giản biên chế…
- Chậc! Chậc! – lão kế toán chép miệng – Nông trường này còn phức tạp hơn đội lao cải!
- Mau chuồn khỏi nơi kiết xác này! – tay "Chủ nhiệm kinh doanh" vừa rửa chân vừa cằn nhằn – lao cải còn có thời hạn, ở đây thì không có thời hạn nào. Đây còn lao cải hơn cả lao cải.
Tôi không còn lòng dạ nào nghe họ bàn tán. Tôi như rỗng không, chỉ còn một cảm giác mệt mỏi, mệt đến đứt hơi, nhưng không ngủ được. Có khi, để được ăn thêm một miếng, anh phải tốn một số calo lớn hơn số calo mà miếng ăn ấy cung cấp. Tính toán thì cho là chả bõ, nhưng con người ta vẫn cứ mù quáng mà làm, vì vậy ngày càng yếu đi. Hôm nay tôi đã làm việc nhiều, hậu quả là mệt đến mức như cô gái kia đã nói "mặt tái xanh tái xám". Sự dày vò cơ thể suy nhược không phải ở bản thân sự suy nhược, mà là do anh hoàn toàn ý thức được, cảm thấy được những dấu hiệu nhỏ nhất của sự suy nhược. Vì rằng nó không phải là bệnh, nó không gây đau đớn, nó không kích thích anh ở một bộ phận nào đấy trên cơ thể, hoặc làm
anh hôn mê, nhưng chỗ nào nó cũng có mặt, không chỗ nào nó không tới. Khi tôi nhận ra rằng, mới hai mươi lăm tuổi, không bệnh tật gì, mà lại suy nhược đến như vậy, tôi quả thật đâm hoảng. Khi bế tắc, có người ăn nhờ cửa Phật, có người chán đời, có người ẩn trong rừng sâu. Đó là sự bế tắc mà con người được tự do lựa chọn. Khi tính năng động chủ quan đã mất, không còn khả năng lựa chọn, thì sự bế tắc mới triệt để. Loại bế tắc ấy không phải do ảnh hưởng hoặc kích thích của ngoại giới, mà là một sự biểu hiện tinh thần của chất lượng thể xác. Dầu cạn thì đèn tắt, nhưng ngọn đèn thì bao giờ cũng lụi dần dần. Cái ánh lửa leo lét như đom đóm ấy có thể soi cho anh nhìn thấy anh chết như thế nào? Và cũng có nghĩa là, nó dầy vò anh đến cùng. Chết không đáng sợ, nhất là trong lúc này, cái đáng sợ là tôi rất tỉnh táo, nhìn thấy toàn bộ quá trình tôi chết từng bước, nhìn thấy linh hồn tôi rút hết khỏi cơ thể như rút những sợi tơ…
Ôi, đường đi Lasa! - Tthủ phủ của Tây Tạng. Đi về cõi Phật, có nghĩa là chết.
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 11
Sáng hôm sau, lúc ngủ dậy tôi mới cảm thấy đói và ê ảm toàn thân. Kinh nghiệm cho tôi biết rằng, thế là có chuyển biến tôi. Cảm thấy đói và đau nhức là một biểu hiện của sức sống. Bằng mọi cách, tôi phải kiếm cớ để ở nhà.
Ăn sáng xong, tôi nói với các tổ viên là qua một đêm sử dụng, lò đã nứt nhiều chỗ, nếu không trét lại sẽ xả hơi than ra ngoài: - Không phải chuyện đùa, đừng có vừa thoát khỏi đội lao cải lại rơi xuống điện Diêm vương! Tôi bảo họ nói với đội trưởng Tạ cho tôi ở nhà sửa lò.
Tôi đã trở thành tổ trưởng, quan trọng hơn, cái lò đã trở thành của quý, được mọi người quan tâm. Anh trung uý nói:
- Được thôi, anh đừng đi. Tôi sẽ nói với ông đội trưởng rậm râu một câu.
Tôi đề phòng ông đội trưởng đâu có thả lỏng tôi vì một câu nói của họ. Tôi chậm rãi xách một thùng nước đem về cùng với vài xẻng đất. Quả nhiên vừa nhào xong, đội trưởng Tạ đã vác xẻng đi tới. - Quái quỷ thật! – Bác ta xem xét cái lò một lượt bằng con mắt nhà nghề, khen hết lời. Rồi bác ta ngồi xổm bên lò, hơ tay – Thì ra chú biết đắp kiểu lò này. Đơn giản, vừa tiết kiệm than vừa đượm
lửa.
- Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền – tôi cười, nói với bác ta chuyện tôi học đắp lò ở ai.
- Quái thật! Bọn "phái hữu" các anh toàn là những người giỏi – bác ta nhổ nước bọt lên nệm cỏ - dân chúng tôi ở đây, đời cụ đời kỵ đắp lò thế nào thì bây giờ cũng vẫn như thế. Phí cả bùn cả đất sét, dầy như tường thành hơi nóng không sao toả ra được!
Khi đã ấm người, bác ta, nước mắt nước mũi ràn rụa. Bác dùng lòng bàn tay vuốt mặt rồi chùi vào tay áo. Bàn tay to bè, đầy những vết nẻ. Quanh năm lao động ngoài trời đã khắc những nét rất sâu trên khuôn mặt và hai bàn tay của bác. Tôi chợt cảm nhận bác đã già yếu nét khoan dung của người già đã lộ rõ trên khuôn mặt đầy nếp nhăn, hiền hậu và gần gũi.
- Bác Tạ ạ, nếu cái lò nhà bác không tốt lắm, tôi sẽ sửa hộ - tôi nghĩ cách lấy lòng bác.
- Không cần – bác nói nhỏ nhẹ như kể chuyện nhà – Nhà tôi dùng bếp củi. Tiền đâu mà dùng bếp than. Chú không thấy những nhà khác à? Toàn là bếp củi, vừa để thổi cơm, vừa đốt lấy hơi nóng cho giường ngủ. Đêm, chỉ cần một nắm củi là ấm. Cái bếp của tôi là chú Hỉ đắp cho đấy. Thằng cha đó cũng giỏi!
- Anh Hỉ không phải là cán bộ? – Tôi vừa trát kẽ lò vừa hỏi – Hôm nọ đón chúng tôi, tưởng anh ấy là cán bộ?
- Cán bộ cái cóc khô! – Đội trưởng Tạ cười nhạt – hắn từ Cam Túc đến hồi đầu năm. Nghe hắn nói thì hồi nhỏ hắn đã là Mala ở chùa, không chịu học, bỏ đi lang thang. Lao động thì chịu khó. Có sức thì có lực mà! Tôi thích hắn là ở điểm này. Đi tha phương không đến nỗi đói. Hề hề..
Đội trưởng Tạ cười thành tiếng. Tôi chưa hiểu vì sao bác lại cười.
Ngừng một lát, bác nói tiếp:
- Tối nay phát lương. Ngày mai nghỉ. Các chú muốn đi đâu thì đi.
- Đi Trấn Nam Bảo được không?
Dù sao tôi còn trẻ, muốn được hưởng cái thú đi đây đi đó một tí. - Sao không được? Đi đâu thì đi.
Tôi nghĩ, không phải bác ta thuận miệng nói bừa, có thể cố ý cho tôi hiểu thân phận của tôi nay đã khác xưa. Nhưng, tôi vẫn không dám tin ở bác, một con người thô lỗ, lại biết thương người! Tôi liếc nhìn bác. Nét mặt bác vẫn như thế, im lặng ngồi sưởi. Dù sao, tôi rất cảm động vì câu nói của bác. Bác lại hỏi tôi trước kia công tác ở đâu, gia đình còn những ai, sau đó, hình như chợt nhớ ra điều gì, bác vác xẻng đi luôn.
- Tốt đấy, chú làm đi – bác nói – Đừng để nóng quá, cẩn thận hơi than, tốt nhất khoét một lỗ trên báo dán lên cửa sổ.
Bác không dặn tôi trét lò xong thì đi làm.
Bác vừa đi khỏi là tôi vội trét cho xong lò, rửa sạch lưỡi xẻng đặt lên miệng bếp, lấy gói bột trên tường xuống đem ống bơ ra, đổ bột vào, rồi nướng bánh như hôm qua.
Ăn hết chỗ bột, tôi rũ tờ báo gói rồi đóng đinh căng nó trên tường chỗ tôi nằm. Thế là tôi được một khoảng sạch sẽ bên người. Tôi không dám chạy đi xem ngựa nghẽo gì nữa. Tôi đốt nửa điếu thuốc còn lại hôm qua, khoan khoái nằm trên đệm cỏ phía tường đã dán báo.
Ngay bên đầu tôi, Castro đang sôi nổi hô hào cách mạng thế giới. Kennedy đang phát biểu về chính sách "Biên giới mới". Các nước phương Tây đang mê hoặc quần chúng bằng khẩu hiệu "Làm lợi cho đất nước", nơi nào đó đang bình tuyển "hoàng hậu bò sữa"…
Những điều đó đối với tôi cực kỳ xa xôi. Vậy thì, giờ đây tôi đang ở vào một hoàn cảnh sinh tồn như thế nào? Tôi cảm thấy, ở các nơi hẻo lánh, nghèo khổ, hoang dã, lạc hậu đến như thế này, ở cái nơi gần như bị đời bỏ quên, bị văn mình cho ra rìa, không báo chí nào thèm nhắc tới này, vậy mà lại có cái gì đó, rất mờ nhạt, khó có thể diễn đạt bằng lời, khiến tôi cảm thấy tươi mới, gần gũi và ấm lòng. Hồi nhỏ, ông nội tôi mà con người như kiểu cụ Lớn Cao, bác tôi và bố tôi như kiểu Ngô Tôn Phủ, mỗi khi tôi xuống nhà dưới chơi với đám kẻ ăn người ở, các cụ lại mắng tôi "Mày chỉ thích chơi với bọn khố rách áo ôm". Sau, tiếp xúc với những người trí thức, tôi xây dựng hình tượng nghệ thuật về nhân dân lao động toàn là áo trắng quần xanh, đội mũ bát giác, nét mặt hồng hào, thân hình béo tốt, khí phách hiên ngang, sải bước trên con đường thênh thang xán lạn. Khi lãnh đạo hô hào học tập "Nhân dân lao động" trong tôi chỉ như một khái niệm mơ hồ, thánh thật đấy, nhưng vẫn không sao hiểu nổi. Ở đây, coi như tôi đã ở giữa "nhân dân lao động". Trước hết, tôi lấy làm lạ về cái không khí lạc quan vô tư ở đây, điều mà nông trường lao cải không có.
Nghèo đến như thế, lạc hậu đến như thế mà vẫn lạc quan, vẫn vô tư, là điều đáng quý và không ai được phép bình phẩm, tuy rằng lạc quan và vô tư ấy được biểu hiện một cách quê mùa, nhưng chính vì
thế mà nó chất phác và ngây thơ. Nhớ lại những điều mắt thấy tai nghe trong ngày lao động hôm qua, tôi bất giác mỉm cười.
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 12
Trấn Nam Bảo khác xa như tôi tưởng. Tôi hối hận vì đã đi mươi lăm cây số đgài, đến nỗi gót chân đau nhức.
Gọi là thị trấn chẳng qua chỉ là một cái trại nhà tranh vách đất do các chủ chăn nuôi xây dựng nên, nằm dưới chân núi đầy đá, củ đậu và sa thạch. Xung quanh thị trấn lơ thơ vài đám lau sậy. tường vây đắp bằng hoàng thổ, dân cư chưa đến mười hộ, người còn it hơn một đội của chúng tôi. Cổng ra vào đã bị lấy đi, ra vào phải chui qua một cái lỗ lởm chởm xấu xí. Nhưng ở đây có bưu điện, có tín dụng, có cửa hàng, có đồn công an, mỗi thứ chiếm một gian, đều bằng đất. Vì vậy, có thể coi như một trung tâm chính trị, kinh tế. Hôm nay là ngày có phiên chợ, người nhiều hơn ngày thường. Những tiếng ồn ào khiến tôi nhớ lại những phim do Haolaiđao quay về Trung Đông, thí dụ quay cảnh phiên chợ Ả Rập trong phim Bích huyết hoàng sa.
Trước hết tôi đến bưu điện bỏ thư cho mẹ tôi. nói với người rằng tôi đã hết hạn tù, bây giờ là một công nhân đúng với nghĩa của nó, trở thành người lao động "sống bằng sức lao động" của mình. Tôi ăn khoẻ, rất béo, dãi nắng đen nhẻm, ai cũng bảo tôi là một thanh niên khoẻ mạnh có cỡ, giống hệt tấm áp phích của Liên Xô vẽ một công nhân luyện thép "Anh đã đóng góp gì cho tổ quốc?"
Tôi không có tiền, nhưng có nhiều lời hay ý đẹp gửi cho mẹ tôi.
Các tổ viên của tôi, kể cả "Chủ nhiệm kinh doanh" đều nhờ tôi gửi thư. Thư của họ rất dầy, có lẽ lại kể khổ với gia đình, đòi người nhà xin giấy phép di chuyển chỗ ở càng nhanh càng tốt.
Cánh cửa nhà bưu điện có dán một tờ quảng cáo phim Liên Xô Cánh buồm đỏ thắm, phim chiếu cách đây hơn một tuần lễ. Tôi biết đó là chuyện phim cải biên từ truyện cổ Grim. A, cánh buồm đỏ! Mi có thể đem lại hạnh phúc cho tôi như Axonhi không?
Tôi ra phố. Cái "phố" này, chưa đầy mười phút tôi đã đi được hai lượt. Trong cửa hàng bách hoá có mấy xấp vải bông phủ bụi, vài cái thảm đay, tất nhiên có cả muối ăn. Trên tường đất cáu bẩn có ghi thông báo "Tin vui mới về, táo Irac hai đồng nửa kílôgram". Giấy hồng điều đã ngả màu vàng xỉn. Hỏi thăm ông già đang sưởi bên bếp thì quả nhiên đó là chuyện cách đây nửa năm.
Chợ có khoảng hai chục nông dân bán hàng, quá nửa là những sọt đậu nành và củ cải vàng, có cả bánh cay trộn vỏ cao lương. Một lão nông dân dắt đến một con dê gầy nhỏ chỉ bằng con chó, lập tức bị đám công nhân xí nghiệp gầ đó mua luôn với giá rất cao là một trăm năm mươi đồng. Tôi ước lượng con dê đó chỉ được năm kílôgam thịt là cùng.
Tôi dõi theo mấy tay công nhân bế con dê đi ra, kỳ thật – họ không để con dê tự đi. Miệng tôi ứa nước bọt. Thịt là thứ tôi không bao giờ dám ngó ngàng tới.
Mục tiêu của tôi là củ cải. Đậu tương là loại thực phẩm cao cấp. Tôi đi tới một cái sọt củ cải còn tươi:
- Bao nhiêu tiền một cân hở bác?
- Một đồng và sáu hào – ông già vừa nói vừa giơ tay làm hiệu, sợ tôi không nghe rõ, hoặc sợ tôi giật mình.
Tôi không giật mình, bình tĩnh chỉ chỗ đậu tương bên cạnh: - Đậu tương thì sao?
- Hai đồng.
- Sao lại có kiểu mua bán như thế? Đậu tương quá đắt – tôi bĩu môi.
- Đắt? Ông trẻ ơi, ông cứ ra đồng chịu cực vài hôm, chỉ sợ ông bán còn đắt hơn lão.
- Bác đừng có dẻo mồm! – Tôi tuôn ra câu thổ ngữ mà tôi hoặc được ở chị phụ nữ - Nỗi khổ mà tôi phải hứng chịu, tám đời nhà anh cũng chưa từng trải qua, bác có tin không? – tôi trừng mắt nhìn ông lão.
- Hề hề…
Bác cười gượng, hình như không tin.
- Nói để cho bác rõ – tôi cười nhạt – tôi vừa ra khỏi nông trường lao cải.
- A à, vậy thì..vậy thì… - bác nông dân tỏ vẻ sợ hãi. - Thế nào? Đậu tương có hạ giá không? – tôi cố ý làm rối tung chuyện lên, chuyển giọng nói – Người ta đều đổi ba cân đậu tương lấy năm cân củ cải mà!
- Làm gì có giá đấy! – Nỗi sợ của bác nông dân chưa đến mức bán đậu tương cho tôi với giá hạ. Chính vì vậy bác lập tức chui vào cái bẫy tinh vi của tôi – Anh cứ đem ba cân đậu tương đến tôi sẽ đổi ngay cho anh năm cân củ cải.
- Thật không? – tôi bề ngoài làm ra vẻ bình tĩnh, nhưng trong bụng đã thấp thỏm, hỏi lại.
- Thật chứ! – bác nông dân tỏ ra kiên quyết, đáp với giọng khẳng định - Ba cân đậu tương lấy năm cân củ cải, sao lại không đổi.
- Được! – Tôi đặt gùi xuống – Bác cho tôi ba cân đậu tương. Tôi lấy tiền trả luôn. Hôm qua chúng tôi mỗi người lĩnh mười tám đồng. Sau một ngày làm, được phát lương cả tháng, hay thật! Bác nông dân lôi cái cân tự làm ra. Chúng tôi lại giằng co một lúc về chuyện chọn lựa. Cân xong, bác trút vào gùi của tôi. Xong xuôi đâu đấy, tôi bảo:
- Này, ba cân đậu của tôi đổi lấy năm cân củ cải của bác. Bác nông dân không chút đắn đo, cân năm cân củ cải cho tôi. Tôi trút đậu vào sọt của bác, rồi gùi củ cải ra về.
Tôi vênh váo vì sự xảo trá của mình đã thành công.
Khi ở nông trường lao cải, tôi thường làm quen với các nông dân đến mua bán đổi chác. Tôi nắm rất vững phương pháp tư tưởng của họ. Nhiều khi họ cố chấp đến kỳ lạ, khăng khăng đi vào ngõ cụt, chỉ nhớ một điểm mà không tính toán được toàn cục. Có lẽ điều đó khiến họ có ý thức quật cường không gì lay chuyển trong việc mưu cầu lợi ích cho bản thân họ, hoặc trong lao động. Nhưng hậu quả lớn nhất là họ có khả năng bị làm trò cười, bị xỏ mũi, khiến họ được cái nọ thì mất cái kia, dễ bị mắc lừa. Và tôi là một trong những người đã dùng sự láu cá để đùa bỡn họ.
Vậy tôi là loại người gì nhỉ?
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 13
Nắng ấm. Đá cuội và sa thạch lạo xạo dưới chân. Mười mấy dặm vuông không một bóng người, chỉ có mỗi mình tôi đang rảo bước trên ghềnh hoang. Chỉ-có-mỗi-mình-tôi, đó là tự do. Bốn năm ngủ tập trung, xếp hàng đi làm, xếp hàng ăn cơm, sau bốn năm lao động cật lực ấy, giờ chỉ-có-mỗi-mình hoạt động trong không gian rộng lớn thì thật là hạnh phúc!
Nước lũ từ trên núi tràn xuống, xói thành từng rãnh sâu, trông như những con đường đá cuội ngoằn ngoèo bò ngược trên đỉnh núi. Đá cuội đủ các cỡ, ánh lên màu thép dưới mặt trời. Ghềnh hoang dốc thoai thoải xuống đồng bằng, cảnh vật uy nghi, rắn rỏi, tất cả lặng như tờ, chỉ có loài dế trũi màu đất thấy tôi đi tới, chúng ngoảy đuôi chạy thục mạng, để lại những vết chân loạng quạng trên đường đi, hoặc ngẩng cao đầu, giương cặp mắt nhỏ xíu nhìn tôi như khiêu khích, dáng điệu thật tức cười! Mùa này không có hành dại, cũng không có nhục thung dung, nếu không, tôi muốn nhổ bao nhiêu tuỳ thích, chén no bụng. Chẳng phải tôi là người tự do rồi sao? Tôi đã được tự do rồi sao? Giờ đây khí trời cũng là của tôi. nhưng lúc này ghềnh hoang chỉ có cỏ lác và táo dại đã chết khô. Táo dại là loại cây mọc thành bụi và nhiều gai, thực ra gai là danh từ khoa học, nhưng cái từ "gai góc" khiến tôi chạnh lòng. Tôi nhún vai để chiếc gùi trên lưng nhích lên phía trên, sải bước vượt qua gai góc.
Cây tường vi xinh đẹp
Khi đã rụng hết hoa
In hệt như cây cỏ gai
Nhiều gai ít lá
Chông gai ư? Tôi đâu có sợ!
Chông gai ư? Coi như đồng hoa
Trên đời này, ai dày vò nổi ta!
Dù Diêm vương sai quỷ đầu trâu đến bắt
Ta khinh tất!
Vì củ cải ta đã có năm cân!
Thịch..thịch…thịch, tim đập dữ dội, tôi rảo bước qua ghềnh hoang, cái gùi trên lưng.
Trước mặt là con mương rộng hai mét. Buổi sáng đi qua, băng còn rắn như đá. Quá trưa, dưới tảng băng bỗng có những tăm nước đáng nghi: băng đang tan.
Nhưng con mương dài hút tầm mắt, lại không có cầu. Tôi tìm chỗ hẹp, nhặt hòn đất ném xuống mặt băng để thăm dò. Một tiếng "bụp", hòn đất vỡ ra, băng không rạn. Thử mạo hiểm xem sao?
Khoảng cách hai mét, nếu như khoẻ mạnh như trong thư viết cho mẹ, nếu như trên lưng không có cái gùi năm cân củ cải, tôi có thể nhảy qua. Nhưng tình hình ngược lại. Chân trước tôi vừa chạm mặt băng cách bờ ba mươi phân thì băng vỡ. Tôi lăn tòm xuống mương cùng với cái gùi. Mặt băng mỏng bị vỡ thành hình cái khuôn, khớp
với thân hình tôi.
Tôi không kịp nghĩ đến bản thân, đứng dậy trong nước chỉ sâu đến đầu gối, vội ngó vào gùi, chỉ còn lại hai ba củ!
Áo bông ướt đẫm. Không kịp xắn tay áo, tôi hối hả mò trong nước cho đến kh toàn thân lạnh cứng và đùi thì buốt như kim châm mà mới tìm được một nửa. Tôi ngẩn ngơ bò lên bờ mương, cho tất cả vào gùi.
Lên bờ, tôi run bắn lên như chó ngã xuống nước, khoác gùi ra về. Đi đã rất xa, tôi vẫn quay đầu nhìn lại, làm như củ cải dưới đáy mương biết nhảy lên bờ như những con nhái, biết đuổi theo và biết nhảy vào gùi tôi.
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 14
Nửa đêm, có lẽ tôi bị cảm lạnh, lên cơn sốt. Bên ngoài gió bấc thổi ù ù. Giấy dán cửa sổ kêu sột soạt từng chập, nghe như tiếng đệm của đàn phong cầm. Tôi bị choáng từng cơn. Từ khi bị suy nhược toàn thân, tôi phát hiện ra rằng các tiểu thuyết miêu tả cơn choáng đều là tả bậy. Nào là ngã vật xuống đánh "huỵch", nào là từ từ đổ xuống đi văng, phịa tất! Tôi cảm thấy choáng ngay cả khi nằm im trong chăn, hơn nữa, cơn choáng không làm tôi mê man, mà lay tỉnh tôi khi đang ngủ say. Lúc này, hình như đầu tôi to hơn ngày thường rất nhiều, nhưng máu trong đầu lại hình như cực ít, cực loãng, y như một vài giọt nước nhỏ trong bồn.
Tất nhiên không ai lấy nước cho tôi uống. Tôi phải chịu đựng, và tôi chịu đựng đã quen. Có khi tôi rất xúc động vì sự chịu đựng của bản thân mình, và cũng là nói, tôi xúc động vì tôi. Vào lúc nửa đêm, tôi xúc động với chính tôi. sức chịu đựng không như sức kéo, không thể đo bằng máy móc, vả lại, nó còn bao gồm cả hai mặt, vật chất và tinh thần. Có người chịu được nỗi đau tinh thần, nhưng không chịu được sự bần cùng về vật chất. Có người chịu đựng được sự thiếu thốn vật chất, nhưng không chịu được nỗi dau tinh thần. Tôi nhận ra, sức chịu đựng của tôi cả về vật chất lẫn tinh thần đều mạnh, chỉ cái chết mới giới hạn được nó.
Trời đã phú cho tôi sức chịu đựng ghê gớm ấy, lẽ nào lại muốn tôi tham sống sợ chết trong một trạng thái tinh thần suy sụp. Lẽ nào tôi không thể chuẩn bị sau này làm một việc gì đấy cho xã hội? Lúc này, tôi bắt đầu tự dày vò, mình lại trách mình. Củ cải được rồi lại mất, tôi coi như một sự trừng phạt và báo ứng của cõi u minh. Người nông dân rất cơ cực, vùng này xưa nay vẫn gọi nông dân là "kẻ khốn cùng". Đi ra đồng thì không gọi đi la1m, mà gọi là "đi chịu cực". một đồng sáu một cân củ cải không đắt, ở gần nông trường lao cải, mở miệng nói giá ít nhất cũng phải từ một đồng tám đến hai đồng. Cái đồng hồ của tôi chỉ đổi được ba mươi cân củ cải và một bát bột cao lương đã ẩm mốc. vậy mà tôi đã đánh lừa bác nông dân thật thà, mặt đây vết nhăn. Mà lại còn cho là mưu cao, thắng lớn!
Máu trong đầu tôi không ngừng quanh quẩn, dòng hồi ức quên lãng từ lâu lại hiện lên mờ ảo màu sữa, y như hình ảnh nổi lên từ đáy cốc khúc xạ. Trong căn phòng rộng, tường bồi giấy xanh da trời, có rèm che cửa sổ vẽ cây phong vĩ thảo, bên chiếc lò sưởi kiểu Pháp, một ông bác tôi ngồi ghế sôpha bọc da màu cánh gián, tôi ngồi trên đệm gấm Thục mềm mại. Bác tôi huơ huơ ly cocktail mà ông tự pha lấy, kể chuyện xây dựng cơ nghiệp của dòng họ Morgan. Theo lời ông kể, Morgan từ quê hương châu Âu lưu lạc sang Bắc Mỹ, nghèo đến nỗi chỉ có một chiếc quần. Về sau, hai vợ chồng mở cửa hiệu bán tạp hoá. Khi bán trứng, không bao giờ lão mó tay vào, mà bảo vợ cầm cho khách xem. Bàn tay vợ lão nhỏ, nên trông quả trứng như to hơn. Cái kiểu tính toán của lão là như thế, nên lão mới lập ra được một đế quốc kim tiền Morgan.
- Nghe rõ chưa? Buôn bán là phải tinh vi như thế. Nghề nghiệp không thể không tinh – vị giám đốc Sở Giao dịch Chứng khoán cầm
chiếc ly có chân rất cao, dạy tôi – Kẻ nào dồn kẻ khác vào thế bí thì sẽ làm nên, giỏi kiếm tiền mới là anh hùng!
…Dòng hồi ức cũng chìm xuống theo dòng máu trong đầu. Tôi nghĩ rằng, những tính toán của tôi có liên quan đến nguồn gốc tư sản của gia đình, dòng họ. Lão Morgan lợi dụng lầm lẫn của thị giác con người, biến quả trứng từ nhỏ thành to, tôi biết lợi dụng lầm lẫn của thị giác biến cháo từ nhiều thành ít. Lão Morgan biết tính toán. Tôi cũng tính toán rất tinh vi, dùng đinh thay thế bột quả cỏ, ba cân đậu tương đổi lấy năm cân củ cải – giống như việc buôn bán nước bọt ở Sở giao dịch – tôi kiếm luôn được hai đồng. Cố nhiên, giành lấy sống còn là bản năng của con người, nhưng giành bằng cách nào là do khí chất và do được dạy dỗ như thế nào của mỗi con người, quyết định. di truyền của cơ thể con người là tự nhiên, nhưng những điều kiện có được sau khi chào đời cũng có thể di truyền. Khi nhận ra rằng tuy không còn tư bản, nhưng dòng máu mình đã nhiễm đủ các loại tập tính của giai cấp tư sản, tôi đâm hoảng. năm 1957, tôi từng bị phê phán, tôi chống chế, tôi nghi ngờ, tuy rằng sau đó tôi nhận tất, nhưng khi sang thời kỳ "hạ thấp tiêu chuẩn" thì tôi lại được dãn ra hoàn toàn. Vậy mà giờ đây tôi cho rằng phê phán như thế là đúng, thậm chí sự phê phán có ác ý của tay "Chủ nhiệm kinh doanh" cũng đúng. Một người thuở nhỏ đi ăn xin, chắc chắn không thể có cảm tình với một "cậu ấm" tư sản sung sướng từ nhỏ. Tuy không tự giác nhưng tôi đúng là "phái hữu tư sản", sở dĩ nói là không tự giác, chính vì tiên thiên đã định như vậy.
Tôi khát, miệng cháy bỏng như ngậm lửa, nhưng không có cách nào khác, đó là sự trừng phạt! Tôi đọc thầm Thần Khúc của Dante:
Bước qua đây là cõi buồn thương
Bước qua đây là nơi tang tóc vĩnh hằng
Bước qua đây là thế giới
Của những người vô vọng.
Giai cấp tôi đã bị tiêu diệt. Tôi không xuống địa ngục thì ai xuống?
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 15
Sáng hôm sau, bầu trời màu chì bay đầy tuyết. Cái thôn hẻo lánh, bần cùng và lạc hậu này vẫn không bị thiên nhiên bỏ quên, rải một cách công bằng lớp tuyết đầu mùa trinh trắng. Trên nóc nhà, những ống khói bé tí tẹo nhả từng sợi khói như tranh vẽ minh hoạ trong truyện thần thoại.
Một trong cái hay của sự chịu đựng, là cơn sốt của tôi không chữa mà khỏi. Từ lâu tôi đã phát hiện ra rằng, bệnh tật nặng lên một phần đáng kể là do tác động của thần kinh con người. Nếu lúc nào cũng nghĩ đến bệnh tật, như những cặp tình nhân nhớ nhau, thì bệnh sẽ càng ngày càng nặng. Dứt khoát không thèm để ý đến nó – vả lại cũng không có cách nào khác. Nó không còn hứng thú lưu lại trong con người anh thì nó sẽ bỏ anh mà đi.
Bác thọt cà nhắc cà nhót thổi còi thông báo không đi làm. Giọng bác rất mảnh, nói như rao hàng "Nghỉ…thôi!" Tiếng "nghỉ" rất dài, tiếng "thôi" nhỏ mà cụt lủn, không hề có dư âm. Mỗi khi nghe thông báo, chúng tôi vui như mở cờ trong bụng.
Quần áo bông đã hong khô trên bếp lò. Tuy "Chủ nhiệm kinh doanh" cằn nhằn mãi về chuyện quần áo tôi toả mùi hôi khắp phòng. Tôi không thèm nói lại. nếu hắn ngã xuống nước thì hắn vẫn còn quần
áo mới, còn áo da cừu. Theo tôi, hắn đã trở thành tư sản. Quan hệ giai cấp đảo lộn hoàn toàn. Tai hại là quần áo bông, sau khi hong khô sẽ cứng như áo giáp, không giữ hơi ấm đã đành, lại còn khi cọ xát dễ làm cho da dẻ tôi vừa đau vừa ngứa vì tôi không có quần áo lót. Ăn sáng xong, tôi cởi phăng quần áo ra, dùng vỏ chăn quấn quanh người, hai tay thò ra chỗ rách, cầm lấy sách, lưng tựa vào vách. Với một tâm trạng hối lỗi chân thành, tôi đọc Tư bản luận. Buổi sáng tôi đọc say mê. Tôi đọc lại "Lời tựa" xuất bản lần 1, tiếp theo, tôi đọc "Lời bạt của lần tái bản" cho đến "Lời tựa của Ban biên tập lần xuất bản thứ tư". Tính logic trong luận chứng đã chứng minh cho sự suy nghĩ đêm qua của tôi: cái giai cấp đã sinh ra tôi, sớm muộn sẽ bị tiêu diệt! Còn tôi chẳng qua là người cuối cùng. Nhận thực được như vậy, tôi thấy dễ chịu hơn, và còn mang một tâm trạng bi tráng coi mình là vật hy sinh trên bàn tế trong thời đại mới, cá nhân tôi không có gì sai, nhưng tôi phải gánh chịu tội lỗi của mấy thế hệ, giống như lớp con cháu của những người nghiện rượu và bệnh giang mai, chịu tội thay những lớp người trước. Số phận là ở đấy! Tôi tránh không khỏi số kiếp!
Nhưng đến giữa trưa thì tôi không thể đọc tiếp được nữa. Với tôi, khổ nhất trong lúc không làm việc là không có gì ăn. Ngày thường đi làm, còn có thể chịu đựng được cái đói. Lúc ngồi không, cảm giác đói còn dữ dội hơn thực tế đói rất nhiều. Tôi rất tin Dublin trong Luyện Kim ký miêu tả những người thợ luyện kim bị đói trên núi, bị ảo giác đến nỗi nhìn người hoá ra gà quay! Đây không phải là thiên tài về tưởng tượng, chắc chắn là ông biết được điều đó qua lời kể của người bị đói. Khi đọc đến chỗ Hàng hoá như sắt, vải gai, tiểu mạch…ở trạng thái giá trị sử dụng hoặc thương phẩm, xuất hiện…
sự suy ngẫm của tôi tách xa y nghĩa của cả câu, mà chỉ lượn quanh từ "tiểu mạch". trước mắt tôi hiện ra bánh rán, bánh bao, bánh màn thầu, và cả bánh gatô, khiến tôi nuốt nước bọt ừng ực. Sau câu đó, có bảng liệt kê:
1 áo sơmi=)
10 bảng chè=)
40 bảng cà phê
20 mét vải gai
1 bao tiểu mạch
"Áo sơ mi, chè, cà phê, tiểu mạch" quả là bữa thịnh soạn! Thử nghĩ, mặc áo sơ mi trắng bong (chứ không phải là quấn vỏ chăn rách) trước mặt là cốc nước trà đen Lemon hoặc cà phê Brazil (mà không phải là ống bơ), cắt bánh ga tô (chứ không phải củ cải), thì thật là cuộc sống thần tiên. Tôi có một sức tưởng tượng rất hào nhoáng. Nó có thể tổng hợp lại tất cả những yến tiệc linh đình mà tôi từng tham dự, trông thấy hoặc đọc trong sách, thành bữa đại tiệc như trong thần thoại Hy Lạp. "Cứ bình tĩnh mà ăn, ta không cho phép kẻ nào đến quấy ngươi", Lúc này, những món ăn muôn hình muôn vẻ của bữa đại tiệc dụ dỗ tôi rời bỏ "tính chất bái vật giáo của thương phẩm và bí mật của nó", mà nó không rõ từ đâu, trong bầu không khí tĩnh mịch và lạnh giá này, một mùi thơm của món ăn lúc sực nức lúc thoang thoảng bay tới. Trong đầu tôi mà nghĩ đến món ăn gì thì lập tức sẽ có mùi vị món ăn đó ở đầu lưỡi, còn bụng tôi thì cứ quặn lên từng cơn.
Tay "chủ nhiệm kinh doanh" lại dở trò. Hắn lôi từ trong hòm gỗ ra một chiếc bánh mì đen. Hắn không mời tay trung uý, không mời tay
cán bộ biên tập, cả hai người nữa cùng đến lập nghiệp, hắn cũng không mời, mà chỉ mời tay kế toán đang ngủ bên cạnh tôi, cùng ăn với hắn. hắn biết rõ nguyên tắc xử thế của tay kế toán "Tôi không lấy của anh một xu, anh cũng đừng lấy của tôi một kẽm". như vậy là lào không ăn cái "mời" của hắn. Về điểm này, lão kế toán quả thật lẩm cẩm đến tức cười. Thí dụ, về đường ranh giới giữa hai chỗ nằm của chúng tôi, lão còn nhậy bén hơn giữa hai quốc gia quan hệ đang căng thẳng. Thật ra, chúng tôi sống với nhau còn dễ chịu. Nếu có cục bông nào của tôi dính vào gối lão, lão trịnh trọng đưa trả tôi bằng hai tay, cục bông vón mà làm như là ví tiền. Tôi không thể tưởng tượng loại người dụt dè, không dám làm mất lòng ai như lão, mà lại trở thành "phái hữu".
- Ăn đi! Không sao mà! – Tay "Chủ nhiệm kinh doanh" thận trọng bẻ cái bánh làm đôi, quăng sang gối lão kế toán. - Ấy…ấy…Đừng, đừng… - Lão nói tiếng Thượng Hải, hoảng hốt quăng trả lại, vội vã như ném trả cục than hồng. - Ăn đi mà! Cái nhà ông này…Chậc, chậc! – Tay "Chủ nhiệm kinh doanh" lại quẳng sang một cách khẳng khái. Chiếc bánh khô cứng đến mức quăng đi quăng lại mấy lần mà không rơi ra một hạt bột nào.
- Hì…thật đấy mà…Ông xơi đi! – Lão kế toán đâm hoảng, vội quăng trả lại tay "Chủ nhiệm kinh doanh".
- Chậc, tôi mời ông ăn thì ông cứ ăn. Lúc này thì ai chả đói? – Tay "chủ nhiệm kinh doanh" lại ném mạnh sang.
Lần này tay "Chủ nhiệm kinh doanh" đã ném không trúng, rất có thể là hắn ta cố ý, mẩu bánh rơi sang đệm cỏ của tôi, ngay sát chân.
Lão kế toán đưa cặp mắt kinh hoàng liếc nhanh sang mẩu bánh, nhấp nhổm như ngồi trong chậu rang. Nhặt lấy ném trả ư? Mẩu bánh là ở trên nệm cỏ của tôi. Cũng có thể lão thương hại tôi, nhân đó dành cho tôi. không nhặt lấy ném trả ư? Rõ ràng là tay "Chủ nhiệm kinh doanh" cho lão. Dù lão cho lại tôi, thì cái nợ nhân tình vẫn mang tên lão mà tay "chủ nhiệm kinh doanh" lại là một chủ nợ không dễ gì quỵt nổi.
Không khí trong phòng như đọng lại. Những người khác bề ngoài tỏ ra ai vẫn làm việc nấy, người mạng bít tất, kẻ thì viết thư, người lại nằm trong chăn im lìm nghĩ ngợi, nhưng rõ ràng tất cả đều vẫn để ý đến nửa cái bánh trên nệm cỏ của tôi. Tay cán bộ biên tập và anh trung uý đang sát phạt trên bàn cờ tự làm lấy, cũng tạm thời đình chiến. "Số phận" nửa cái bánh mì đen đã thu hút tâm trí mọi người.
Nửa cái bánh có hai lớp. vì cất đã lâu, lớp vỏ ngoài đã xỉn lại, rất giống màu sô cô la. Nó chễm chện trên nệm cỏ, ngạo nghễ dưới mắt không có ai, khiến tôi lúng túng. Tinh thần tôi, vốn "coi chông gai như đồng hoa", cũng bị dằn vặt. Hôm qua tôi đã ăn hết số củ cải còn lại, không gì có thể chống đỡ cơn thèm cuộn lên từ đáy lòng chứ không phải từ dạ dầy, không gì có thể ngăn chặn nước bọt cứ ứa ra trong miệng. Tôi ấm ức vì bị lâm vào cảnh trớ trêu tàn nhẫn, và do căm ghét bản thân vì một nhu cầu thuần tuý sinh lý, tự khinh sự bạc nhược của mình, và do nỗi thương cảm "vì sao đến nông nỗi này?"…Tôi ứa nước mắt.
Căn nhà im ắng như bỏ hoang. Mẩu tuyết trắng ngà dọi qua lớp giấy ở cửa sổ, khiến sắc mặt người nào cũng như đã chết. Lão kế toán
đi đến một quyết định: không ở trên lãnh thổ của mình thì không cần biết, đó là công việc của tôi. Lão ngồi im trên gối, mắt nhắm lại, hai tay lồng vào ống tay áo, y như nhà sư ngồi nhập đinh. Tay "Chủ nhiệm kinh doanh" vẫn tỏ ra bình tĩnh, vẫn ngồi xếp bằng tròn, nhưng mắt thì như dán chặt vào miếng bánh, nóng lòng chờ phút con mồi mắc bẫy.
Giữa lúc đó có tiếng chân giẫm trên tuyết lạo xạo từ xa đi tới, đồng thời một giọng hát thoải mái và lả lơi cất lên:
Tinh mơ nàng đến thăm chàng,
Đem theo một túi đường phèn tặng nhau
Tặng chàng, chàng chẳng lấy đâu!
Ra về, nước mắt rầu rầu hàng mi!
Mồng ba, sáng sớm thăm chàng
Chàng nay ngã bệnh trên giường nằm rên
Hai tay em vén rèm lên
Mặt chàng nhợt nhạt, chàng ơi là chàng!
Giọng hát của nữ. Thoạt nghe tôi đã nhận ra đó là tiếng của cô gái – người đưa chìa khoá cho tôi cách đây hai hôm.
Tiếng bước chân ngày càng gần, chiếu thẳng hướng cửa "nhà" chúng tôi. Mọi người đều lấy làm lạ, cũng nhìn ra cửa như bị thu hút bởi tiếng hát bất chợt từ một thế giới xa xăm nào đó vọng đến . Tay "Chủ nhiệm kinh doanh" cũng bớt căng thẳng, bất giác chuyển sang tư thế lắng nghe.
Lát sau, tiếng chân đã ở cửa, tiếp đó, cánh cửa bị xô đánh rầm. Cửa
mở toanh, nhưng một lát chưa thấy người vào.
Giây phút đó, mọi người đều chăm chăm ngóng ra cửa, y hệt một lũ ngốc chờ đợi phép lạ. Người bên ngoài hình như đã bớt do dự, bước lên ngưỡng cửa, hai tay vịn hai bên khung cửa, ngó vào trong: - Hì..hì..Các bác ở đây có ai là "phái hữu hát thơ" thì bảo người ấy đi làm.
- Ờ..ờ.. – tay "chủ nhiệm kinh doanh" ngoảnh lại, chỉ vào tôi, nhanh nhảu – Này, Trương Vĩnh Lân, gọi anh đi làm đấy! Nhưng từ giọng nói, nét mặt, tiếng cười rất đặc biệt của cô, tôi không hề thấy có ý gì giống như gọi tôi đi làm cả. Tôi rất sung sướng được cô đến giải thoát khỏi một chuyện khó xử. - Gọi tôi à? – Tôi vẫn còn phân vân, vì cô không nói "làm thơ" mà nói "hát thơ" – Làm việc gì thế? – Tôi hỏi tiếp.
- Hì, hì, tôi đoán đúng là anh – Cô vẫn vịn khung cửa, người hơi lắc lư – Nghe nói anh biết đắp lò nên đến bảo anh đi. Tại sao lại phải "đoán"? tại sao lại đoán đúng là tôi? Tôi thấy hình như có một sự quan tâm nào đó. Cô đâu biết tôi vui lòng làm việc cùng với cô, không ăn gì cũng được, làm việc còn dễ chịu hơn ngồi thừ một chỗ. Tôi nói:
- Cô về trước đi. Tôi mặc quần áo rồi đến sau. - Vậy anh đến ngay nhé. Tôi đợi ở nhà. Nhà tôi thì anh biết rồi đấy.
Cô khom người kéo sập cửa lại. Khi xỏ chân vào quần, tôi làm như vô ý đá văng nửa cái bánh sang lối đi giữa tôi và anh trung uý.
Trương Hiền Lượng
Cây hợp hoan
Dịch giả: Trần Đình Hiển
Chương 16
Ngoài trời là một thế giới màu trắng bạc. Tuyết đầu mùa san bằng dải bình nguyên bát ngát. Từ vườn cây đến thôn xóm đều biến mất vẻ riêng biệt vốn có. Phong cảnh đẹp đến mê hồn, khiến người ta không thể tưởng tượng là chỉ cách đây mấy phút một màn kịch bỉ ổi đã xảy ra, và con người ta lại có tâm địa xấu xa đến nỗi ngay cả bản thân họ cũng không hay ho gì.
Ôi thiên nhiên! Bằng sự im lặng, Người mỗi lúc lại dạy chúng tôi gột rửa tâm hồn mình.
Những vết chân của cô gái để lại trên tuyết trắng khiến người ta có cảm giác thanh thoát, ấm lòng. Cô đi một đường, khi về giẫm lên dấu chân khi đi. Những vết chân đều đặn, chững chạc không chút lộn xộn, chỗ rẽ lượn vòng rất đẹp, rất tinh tế, như một chuỗi hạt trân châu. Tôi thận trọng đặt chân lên dấu chân, như người ta dò tìm vật quý, từng hạt từng hạt…bỏ vào tim.
Tôi gõ cửa. Cô không nói mời vào hay vào đi, mà nói rất to: - Cứ đẩy ra, cửa mở mà!
Cô ngồi nghiêng trên giường, đang đùa với con. Cháu bé khoảng hơn hai tuổi, mặc chiếc áo bông cùng loại vải hoa như áo mẹ, trông
là con gái, nhưng tóc cắt ngắn, lông mày đậm, ra dáng con trai. Thấy tôi vào, cả hai mẹ con đều cười. nhưng khi thấy tôi cũng cười, cháu bé hoảng sợ rúc vào lòng mẹ. Tôi hơi mất hứng, cho rằng dáng dấp của mình có vẻ ngáo ộp, ngay đến nụ cười cũng trở nên đáng sợ.
- Lò xây ở đâu? – tôi hỏi – Nhà có dao xây không? Lại phải có đất sét và gạch…
- Vội gì anh? – Bàn tay thon thả của cô vuốt ve đứa bé. Cô cười bảo tôi – Anh cứ như cái quan tài ấy! Làm để chết à! Anh ngồi xuống đây!
Quan tài, nghe dễ sợ mà cũng tức cười! Tấm thân như cái quan tài của tôi đặt xuống chiếc ghế băng đắp bằng đất sét. Buồng cô không đốt lửa, nhưng ấm như "nhà" của chúng tôi, cái ấm toả khắp, không phải chỉ ấm một phía như sưởi bếp lò. Tác dụng của cái bếp ở nông thôn là ở chỗ đó. Nhìn thấy chiếc giường bếp nghèo nhưng sạch, tôi lại nhớ nhà. Nhà, không phải cái chỗ bọn tôi chui rúc mà đội trưởng Tạ vẫn gọi, mà là nhà thực sự. Qua bốn năm lao động bắt buộc một cách tàn khốc và nhiều lần suýt chết đói, tất cả cái gọi là hùng tâm tráng chí xa thực tế và những ảo tưởng lãng mạn, đều bị quẳng ra ngoài biển đông. Tôi nhớ mấy câu thơ trong Epghênhi Oneghin:
Có một nữ chủ nhân
Còn có một lon thịt bò nấu cải bẹ
Một lon thịt bò nấu cải bẹ!
Lý tưởng của tôi hiện nay là thế!
Cô tiếp tục vuốt ve đứa nhỏ, không nói gì với tôi. Tôi ngồi im lặng, đầu cúi gằm, một nỗi đau đớn vì thất vọng trào lên, không rõ thất vọng vì hy vọng ban đầu, hoặc thất vọng vì "nữ chủ nhân" và "lon thịt bò nấu cải bẹ", hoặc vì tất cả những hy vọng đã thành tuyệt vọng…Tóm lại, tôi bước vào căn phòng nhỏ bé đơn sơ, nhưng đầy ắp hương nồng khó diễn đạt thành lời, thì hình như tôi càng thấy rõ tình cảm đau xót của tôi hiện nay.
Không rõ cô có chú ý tới thái độ của tôi hay không? Cô dỗ đứa bé, đặt nó xuống giường rồi nhanh nhẹn nhảy xuống đất, mở vung lấy ra một cái bánh bột mì trắng, rất tự nhiên chìa ra trước mặt tôi: - Cho anh đấy!
Tôi giật mình, hốt hoảng nhìn cái bánh, rồi lại nhìn cô. Cô đứng trước mặt tôi, thái độ thản nhiên, nhưng sự dịu dàng và niềm thương xót thì không giấu được qua ánh mắt, tuyệt nhiên không có ý giễu cợt và rẻ rúng.
Tôi không dám cầm lấy cái bánh, vì nó quý giá quá ở thời buổi này, quý đến nỗi không ai dám tin rằng nó được cho không. Sự nghi ngờ vã niềm vui bất chợt quyên vào nhau, khiến mắt tôi hoa lên. Cháu bé gọi:
- Mẹ ơi! – Cánh tay nhỏ xíu quờ quạng, bò ra mép giường. Cô dúi vội cái bánh cho tôi, rồi quay lại bế cháu bé lên, mẹ con áp đầu vào nhau, cô vừa đung đưa cháu bé vừa hát:
Bắc chảo hấp, xay mẻ bột
Dượng đến chơi, đi làm cơm.
Bánh mì trắng, thì rất tiếc
Bánh mì đen thì mất mặt
Mời dượng ăn gà sống cưỡng
Gà sống gáy te te
Mời dượng ăn gà mái ghẹ
Gà mái còn để đẻ
Mời dượng ăn hai bánh tráng
Mời dượng húp bát bún thang
Em ăn luôn hai bát to đùng!
Cô hát chứ không kể vè như những phụ nữ khác, không những có nhịp điệu mà còn có cung bậc. Cung bậc được chuyển hoá mang tính nết trẻ thơ. Chất giọng trong sáng, làn điệu tươi mát, lời ca hiền hoà, tư thế bế con rún rẩy như đưa nôi trông rất hồn nhiên, cùng với tiếng cười khúc khích của cháu bé quyện vào nhau, chan hoà căn buồng nhỏ. Người nào chưa hết tính trẻ con mới hoà hợp được một cách tự nhiên với trẻ nhỏ, với bài hát dành cho trẻ. Ai cũng phải thừa nhận là cô rất thật thà. Cô cho tôi một thứ quý giá như thế mà rất tự nhiên, không tính toán, hoàn toàn do lòng tốt.
Tuy vậy, tôi rất ngượng, nói:
- Tôi không đói, để cho cháu bé! – Tôi chìa cái bánh về phía đứa nhỏ.
- Cháu ăn rồi! – cô nói – Anh ăn đi!
Nhưng cháu bé đã chìa tay ra đòi.
- Cho cháu! Cho cháu!
- Xá con, phải nghe lời chứ! – cô xoay cháu bé về phía giường, không cho tay cháu đủ tầm với đến cái bánh trong tay tôi, rồi mở nắp chảo, lấy ra một quả đậu hấp.
- Xá, cho con này. Gì đây con? Con ăn cái này nhé? Cháu bé cười, cầm lấy quả đậu rồi bóc vỏ bằng những ngón tay bé