🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Câu Chuyện Nghĩa Địa - Neil Gaiman full prc, pdf, epub, azw3 [Tiểu thuyết] Ebooks Nhóm Zalo NXB Văn học 2010 CÂU CHUYỆN NGHĨA ĐỊA Neil Gaiman Bod Owens là một cậu bé bình thường! Bod Owens tỏ ra là một cậu bé tuyệt đối bình thường nếu cậu không sống trong một nghĩa địa cổ, không được nuôi dạy bởi những hồn ma và không có một người bảo trợ chẳng thuộc thế giới của người sống hay người chết. Trong nghĩa địa, có vô vàn hiểm nguy và những cuộc phiêu lưu dành cho Bod - một Người Da Chàm và các Sát thủ bảo vệ báu vật dưới lòng đồi, một cánh cổng dẫn ra sa mạc nơi có Thành Quỷ, bầy dạ điểu và những con quỷ nhập tràng... Nhưng chẳng thà Bod cứ sử dụng thoải mái quyền tự-do-đi-lại-trong-nghĩa-địa còn hơn là rời khỏi đó để đương đầu với một mối họa luôn rình rập: Kẻ mặc áo choàng đen bí hiểm từng giết cả nhà cậu, kẻ mà ngay cả người bảo trợ cừ khôi của cậu cũng e ngại... Vừa kinh hoàng bí hiểm lại vừa trong sáng nên thơ, vừa đầy rẫy những cuộc phiêu lưu nghẹt thở lại vừa thấm đẫm những câu chuyện xúc động về tình yêu thương, Câu chuyện nghĩa địa, một kiệt tác mới của Neil Gaiman chắc chắn sẽ mê hoặc độc giả dù mọi lứa tuổi. Khúc xương lách cách Trên đống đá cuội Là con rối rách Chẳng ai thèm nuôi - ĐỒNG DAO CỔ Chương 1 KHÔNG AI CẢ ĐẾN NGHĨA ĐỊA TRONG BÓNG TỐI HIỆN RA một bàn tay, và bàn tay đó cầm một con dao. Con dao ấy có cán bằng xương đen bóng, với lưỡi dao sắc hơn bất kỳ lưỡi dao cạo nào. Nếu nó cắt vào da thịt, ta có thể thậm chí không biết là mình bị cắt, không biết ngay. Con dao đã thực hiện gần xong tất cả những việc nó được đem đến căn nhà này để thực hiện, và cả cán lẫn lưỡi dao dều ướt đẫm. Cánh cửa dẫn ra phố vẫn để ngỏ, hơi hé mở, qua lối này con dao cùng gã đàn ông đang cầm nó đã lách qua, và những dải sương đêm cũng theo đó luồn lách len lỏi vào trong nhà. Gã đàn ông tên Jack dừng lại trên chiếu nghỉ ở cầu thang. Bằng tay trái, hắn rút một chiếc khăn tay to trắng tinh từ trong túi áo choàng màu đen của mình, lau sạch sẽ cả lưỡi dao lẫn bàn tay phải xỏ găng đang nắm chặt con dao, rồi lại cất chiếc khăn tay đi. Cuộc săn lùng đã gần kết thúc. Hắn đã để người đàn bà nằm trên giường, người đàn ông trên sàn phòng ngủ, đứa bé lớn trong căn buồng màu sắc rực rỡ của nó, xung quanh đầy đồ chơi và những mô hình đang xây dở. Hắn chỉ còn phải lo liệu nốt đứa bé con, một đứa nhỏ mới lẫm chẫm biết đi. Chỉ một mạng nữa thôi, và nhiệm vụ của hắn sẽ được hoàn thành. Hắn co duỗi mấy ngón tay. Gã đàn ông tên Jack, trên hết, là tay chuyên nghiệp, hay ít ra thì hắn cũng tự nhủ như vậy, và hắn không cho phép mình được mỉm cười cho đến khi công việc đã xong xuôi. Hắn có mái tóc đen, cặp mắt đen, và hắn mang găng tay den làm bằng thứ da cừu mỏng nhất. Phòng của đứa bé nằm ở tầng trên cùng. Gã đàn ông tên Jack đi lên cầu thang, chân bước không một tiếng động trên sàn trải thảm. Rồi hắn đẩy cửa bước vào căn phòng áp mái. Hắn đi giày da đen, và chúng bóng lộn đến nỗi nom như hai chiếc gương tối sẫm: ta có thể thấy mặt trăng phản chiếu trên đó, một vầng trăng lưỡi liềm nhỏ xíu. Mặt trăng thật thì đang chiếu qua ô cửa sổ có hai cánh. Ánh trăng không sáng, lại bị màn sương che mờ, nhưng gã đàn ông tên Jack không cần nhiều ánh sáng. Ánh trăng là đủ rồi. Hắn chỉ cần có thế. Hắn có thể trông thấy hình dáng của đứa bé nằm trong nôi, đầu, chân tay, thân mình. Cái nôi có hai bên thành cao làm bằng các thanh gỗ mỏng, để ngăn đứa bé trèo ra ngoài. Jack cúi xuống, giơ cao bàn tay phải, bàn tay đang cầm con dao, và hắn nhằm vào vùng ngực... ... rồi hắn buông tay xuống. Hình thù trong cái nôi chỉ là một con gấu nhồi bông. Không thấy đứa bé đâu. Mắt gã đàn ông đã quen với ánh trăng mờ ảo nên hắn không muốn bật đèn. Và dù sao thì ánh sáng cũng chẳng quan trọng. Hắn có những kỹ năng khác. Gã đàn ông tên Jack hít ngửi không khí. Hắn phớt lờ những mùi đã theo hắn bay vào phòng, loại bỏ những mùi hắn có thể bỏ qua, chỉ tập trung vào mùi của thứ hắn đang tìm kiếm. Hắn có thể ngửi thấy mùi đứa trẻ: một thứ mùi như mùi sữa, giống như mùi bánh quy rắc sô cô la, cùng với mùi chua chua của cái tã ban đêm đã bị ướt. Hắn có thể ngửi thấy mùi đầu gội đầu trẻ em trên tóc đứa bé, và một thứ gì đó nho nhỏ, làm bằng cao su - một món đồ chơi, hắn tự nhủ, rồi sau đó nghĩ lại, không, một cái gì đó để ngậm - mà đứa bé đang cầm. Đứa bé đã ở đây. Nó không còn ở đây nữa. Gã đàn ông đánh hơi lần theo dấu vết xuống tầng dưới của căn nhà cao, hẹp. Hắn kiểm tra phòng tắm, bếp, tủ đựng khăn, và cuối cùng là gian sảnh ở tầng trệt, ở đó chẳng có gì ngoài mấy chiếc xe đạp của gia đình, một đống túi đi chợ trống không, một cái tã rơi, và những dải sương lạc đã lặng lẽ cuộn xoáy chui vào nhà qua cánh cửa mở ra phố. Gã đàn ông tên Jack liền thốt lên một âm thanh khe khẽ, một tiếng gầm gừ vừa bực tức vừa đắc thắng. Hắn tra dao vào cái vỏ ở túi trong chiếc áo choàng dài, rồi bước ra phố. Trời sáng trăng lại thêm cả ánh đèn đường, nhưng màn sương đã bao trùm tất cả, làm mờ ánh sáng, che lấp mọi âm thanh khiến cho màn đêm trở nên mờ ảo đầy nguy hiểm. Hắn nhìn xuôi xuống đồi về phía ánh đèn của những cửa hàng đã đóng cửa, rồi nhìn ngược lên phố nơi những ngôi nhà cao tầng cuối cùng chạy vòng quanh đồi và chìm dần vào bóng tối của khu nghĩa địa cũ. Gã đàn ông tên Jack hít hít không khí. Rồi, không chút vội vã, hắn bước lên đồi. º º º Ngay từ lúc mới biết đi, thằng bé đã trở thành niềm vui và nỗi tuyệt vọng của bố mẹ, vì chưa từng có thằng bé nào lại hay đi vơ vẩn, hay trèo lên các thứ, hay chui ra chui vào mọi chỗ như thế. Đêm đó, nó bị đánh thức bởi tiếng một vật gì đó ở tầng dưới đổ xuống đánh rầm. Khi đã thức giấc, chẳng mấy chốc nó đâm chán, và bắt đầu tìm cách chui ra khỏi nôi. Cái nôi có thành cao, giống như thành cái cũi của nó ở dưới nhà, nhưng nó dám chắc mình có thể trèo qua được. Nó chỉ cần một cái bậc... Nó liền lôi con gấu bông lớn màu vàng ra đặt ở góc nôi, rồi, nắm lấy thành nôi bằng hai bàn tay bé xíu, giẫm một chân lên bụng, một chân lên đầu con gấu, thằng bé đu mình đứng dậy, rồi nửa trèo, nửa rơi qua thành nôi ra ngoài. Nó ngã xuống đánh thịch một cái trên đống thú nhồi bông, có con là quà tặng sinh nhật của họ hàng nhân dịp nó đầy năm, cách đây chưa đầy sáu tháng, có con được thừa hưởng từ chị nó. Nó hơi ngạc nhiên khi bị ngã xuống sàn, nhưng nó không khóc: ta mà khóc thì sẽ có người đến đặt lại vào trong nôi liền. Nó bò ra khỏi phòng. Các bậc thang đi lên khá rắc rối, và thằng bé chưa nắm vững được cách trèo lên. Nhưng nó đã phát hiện ra rằng các bậc thang đi xuống lại rất đơn giản. Nó chỉ việc ngồi xuống và trượt từ bậc này xuống bậc kia trên cái mông đã được đệm bằng chiếc tã. Nó mút mút cái ti, chiếc núm vú giả bằng cao su mà dạo gần đây mẹ bảo nó đã lớn rồi, không cần đến nữa. Chiếc tã tuột ra trong quãng đường xuống cầu thang, và khi thằng bé đến được bậc cuôì cùng, trượt vào gian sảnh ở tầng dưới rồi đứng dậy, thì cái tã rơi mất. Nó bước ra khỏi cái tã. Nó chỉ mặc một chiếc áo ngủ trẻ em. Những bậc thang dẫn về phòng nó, phòng bố mẹ và chị nó dốc quá, nhưng cánh cửa dẫn ra phố lại đang mở và nom thật hấp dẫn... Thằng bé bước ra khỏi nhà, hơi ngập ngừng một chút. Màn sương cuộn quanh nó như một người bạn lâu ngày gặp lại. Và rồi, mới đầu còn loạng choạng, sau rồi với bước chân mỗi lúc một nhanh và vững vàng hơn, thằng bé chập chững đi lên đồi. º º º Càng gần đến đỉnh đồi, màn sương càng mỏng, vầng trăng lưỡi liềm tỏa sáng, tuy không thể so với ánh sáng ban ngày, nhưng ít ra cũng đủ để thấy được khu nghĩa địa, ít ra thì cũng đủ cho việc đó. Nhìn mà xem. Bạn có thể nhìn thấy ngôi nhà nguyện tang lễ bỏ hoang, hai cánh cổng sắt khóa chặt, dây trường xuân bám quanh cái mái hình chóp nhọn, một cây con mọc trên máng xối ngang mái nhà. Bạn có thể nhìn thấy những bia mộ, những cái huyệt, nhà mồ và những tấm biển tưởng niệm. Bạn có thể thỉnh thoảng trông thấy một con thỏ, chuột đồng hay chồn lủi đi rất nhanh khi nó chui ra khỏi bụi rậm và chạy ngang lối đi. Dưới ánh trăng, bạn sẽ nhìn thấy tất cả những thứ đó, nếu bạn có mặt ở nơi này vào cái đêm ấy. Nhưng có lẽ bạn sẽ không trông thấy người phụ nữ phốp pháp, nhợt nhạt, đang bước trên lối mòn gần cổng chính, và nếu bạn có nhìn thấy bà thì khi nhìn lại một lần nữa, kỹ càng hơn, bạn sẽ thấy rằng bà chỉ là ánh trăng, là màn sương, là một cái bóng. Nhưng người phụ nữ phốp pháp, nhợt nhạt ấy đang có mặt ở đó. Bà bước trên con đường dẫn đến cổng chính, đi qua một đống bia mộ đổ nát. Cổng đã khóa. Chúng luôn được khóa lúc bốn giờ chiều vào mùa đông, và tám giờ tối vào mùa hè. Những thanh rào sắt nhọn đầu bao quanh một phần nghĩa địa, và một bức tường gạch cao chắn phần còn lại. Chấn song ở cánh cổng được gắn sát nhau: người lớn không thể chui qua đó được, thậm chí một đứa trẻ mười tuổi cũng không... "Ông Owens!" người đàn bà da nhợt nhạt cất tiếng gọi, bằng một giọng có thể chỉ là tiếng gió xào xạc qua đám cỏ cao. "Ông Owens! Lại xem này!" Bà cúi xuống, chăm chú nhìn vật gì đó trên mặt đất, trong khi một mảng bóng tối hiện ra dưới ánh trăng và hiện rõ hình một người đàn ông tóc hoa râm, độ bốn mươi lăm tuổi. Ông nhìn bà vợ, nhìn vật mà bà đang ngắm nghía, và đưa tay lên gãi đầu. "Bà Owens này?" ông hỏi, bởi vì ông đến từ một thời kỳ trọng nghi thức hơn thời của chúng ta. "Đó có phải là cái mà tôi nghĩ không đấy?" Đúng lúc đó, cái vật mà ông đang nhìn hình như đã trông thấy bà Owens, vì nó mở miệng ra, để rơi cái núm vú giả đang ngậm xuống đất, và nó vươn nắm tay nhỏ xíu, mũm mĩm của mình ra, như thể đang cố hết sức nắm lấy ngón tay nhợt nhạt của bà Owens. "Nếu đó không phải một đứa bé," ông Owens nói, “thì tôi đúng là thằng ngốc rồi!” "Tất nhiên nó là một đứa bé," vợ ông đáp. "Và vấn đề là, chúng ta phải làm gì với nó đây?" "Đó đúng là vấn đề đấy, bà Owens à," ông chồng trả lời. "Thế nhưng nó không phải vấn đề của chúng ta. Vì đứa bé này rõ ràng là đang còn sống, và vì vậy nó chẳng liên quan gì đến chúng ta, nó không thuộc về thế giới của chúng ta." "Ông nhìn nó cười kìa!" bà Owens nói. "Nó có nụ cười mới đáng yêu làm sao," và bà đưa bàn tay trong suốt ra vuốt mái tóc vàng lơ thơ của đứa bé. Thằng bé cười khúc khích vẻ thích thú. Một cơn gió lạnh buốt thổi qua nghĩa địa, làm tan tác màn sương ở dưới những sườn đồi thấp hơn (vì nghĩa địa chiếm hết toàn bộ đỉnh đồi, và đường đi trong nghĩa địa uốn lượn lên xuống đỉnh đồi thành một vòng tròn). Có tiếng lách cách: ai đó ở cổng chính nghĩa địa đang nắm lấy cánh cổng, kéo, giật và lắc mạnh hai cánh cổng cũ cùng cái khóa và sợi xích nặng khóa hai cánh cổng lại với nhau. "Đấy," ông Owens nói, "gia đình thằng bé đến để đón nó vào vòng tay yêu thương của họ đây. Bà để cho nó yên đi," ông nói thêm, vì bà Owens đang vòng hai cánh tay trong suốt quanh đứa bé, âu yếm vỗ về nó. Bà Owens bảo, "Trông hắn chẳng có vẻ là gia đình của ai hết." Gã đàn ông mặc chiếc áo choàng đen đã thôi lắc cánh cổng chính, chuyển sang săm soi cánh cổng phụ nhỏ hơn. Cánh cổng này cũng khóa chặt. Năm ngoái ở nghĩa địa xảy ra mấy vụ phá hoại, và hội đồng thành phố đã có Biện pháp Giải quyết. "Thôi nào, bà Owens thân yêu. Để cho nó yên”, ông Owen nói khi trông thấy một con ma, và ông há hốc miệng, không nghĩ được câu gì để nói nữa. Bạn có thể cho rằng - và nếu bạn nghĩ như thế này thì bạn đã đúng - ông Owens lẽ ra chẳng nên kinh ngạc đến thế khi trông thấy một con ma, vì chính ông và bà Owens cũng là người chết, đã chết từ hàng trăm năm nay rồi; hơn nữa, toàn bộ, hoặc gần như toàn bộ sinh hoạt xã hội của họ đều là với những người cũng đã chết. Nhưng có sự khác biệt rõ ràng giữa đám dân cư của nghĩa địa với cái này: một hình thù kỳ lạ, chập chờn, thô sơ, có màu xam xám như màn hình ti vi lúc không có sóng, chỉ tuyền một nỗi kinh hoàng và những tình cảm trần trụi xuyên thẳng qua hai vợ chồng nhà Owens như thể đó là cảm xúc của chính họ vậy. Có ba hình thù tất cả, hai lớn, một nhỏ, nhưng chỉ có một hình là rõ nét, trông rõ hơn một đường viền mờ nhạt. Và hình thù đó đang kêu lên, Con tôi! Hắn đang muốn hại con tôi! Có tiếng rầm rầm. Gã đàn ông ở ngoài kia đang vần một cái thùng rác nặng bằng sắt ngang qua con hẻm đến bên bức tường gạch cao bao quanh một phần nghĩa địa. "Xin hãy bảo vệ con tôi!" con ma nói, và bà Owens đoán đó là một phụ nữ. Tất nhiên rồi, mẹ của đứa bé. "Hắn đã làm gì các vị thế?" bà Owens hỏi, nhưng bà không dám chắc con ma nghe được giọng bà. Mới chết, tội nghiệp, bà thầm nhủ. Bao giờ cũng dễ dàng hơn rất nhiều nếu được chết một cách nhẹ nhàng, để rồi đến đúng lúc thì sẽ thức dậy ở nơi mình được chôn, chấp nhận cái chết của mình và làm quen với những cư dân khác trong nghĩa địa. Nhưng con ma này chỉ toàn nỗi hoảng hốt và sợ hãi lo cho đứa con của mình, và nỗi hốt hoảng ấy, mà hai vợ chồng nhà Owens cảm thấy như một tiếng kêu lầm rầm, đã bắt đầu gây sự chú ý, vì những hình dáng nhợt nhạt khác đang từ khắp mọi nơi trong nghĩa địa kéo đến. "Ngươi là ai?" Caius Pompeius hỏi hình thù nọ. Tấm bia mộ của cụ giờ chỉ còn là một tảng đá dầm mưa đãi nắng, nhưng hai nghìn năm trước, cụ đã yêu cầu được chôn cất trên đỉnh đồi bên cạnh ngôi đền bằng cẩm thạch chứ không muốn thi thể mình được đưa về La Mã, và cụ là một trong những công dân lâu năm nhất của nghĩa địa. Cụ rất coi trọng các trách nhiệm của mình. "Ngươi có được chôn ở đây không?" "Tất nhiên là không rồi! Nhìn cũng biết chị ấy mới chết thôi." Bà Owens vòng tay ôm lấy hình người phụ nữ kia và khẽ nói với người ấy mấy lời, bằng giọng trầm trầm, bình tĩnh, an ủi. Có một tiếng thịch, rồi tiếng rầm rầm ở bức tường cao cạnh con hẻm. Cái thùng rác đã đổ xuống. Một gã đàn ông trèo lên nóc tường, hình dáng tối sẫm của hắn nổi bật hẳn lên dưới ánh đèn đường mờ sương. Hắn đứng yên một lát, rồi trèo xuống phía bên kia, tay bám nóc tường, chân đong đưa, rồi hắn buông tay để mình rơi tự do nốt vài mét xuống khu nghĩa địa. "Nhưng chị thân mến," bà Owens nói với hình người kia, trong số ba hình người đã hiện ra trong nghĩa địa, giờ chỉ còn một hình duy nhất ấy. "Hắn là người sống. Chúng tôi thì không. Làm sao chị lại cho rằng..." Đứa bé đang ngước nhìn họ vẻ tò mò. Nó với tay về phía một người, rồi người kia, nhưng chẳng quờ được gì ngoài không khí. Hình người phụ nữ đang mờ đi rất nhanh. "Được thôi," bà Owens nói, đáp lại một câu hỏi mà không ai khác nghe thấy. "Nếu làm được thì chúng tôi sẽ làm”. Rồi bà quay sang ông chồng đang đứng cạnh. "Thế còn ông thì sao, ông Owens? Ông có chịu làm bố thằng bé này không?" "Tôi có chịu làm cái gì cơ?" ông Owens hỏi, trán nhăn lại. "Chúng ta chưa bao giờ có con," vợ ông nói. "Và mẹ nó nhờ chúng ta bảo vệ nó. Ông có đồng ý không?" Gã đàn ông mặc áo choàng đen đã bị vấp ngã giữa đám dây trường xuân cùng đống bia mộ đổ vỡ. Giờ thì hắn đứng dậy, rồi đi về phía trước một cách thận trọng hơn, làm một con cú giật mình lặng lẽ bay lên. Hắn đã nhìn thấy đứa bé, và mắt hắn lóe lên vẻ đắc thắng. Ông Owens biết rõ vợ mình đang nghĩ gì khi bà nói bằng cái giọng như thế. Họ đã ở với nhau kể cả lúc sống lẫn lúc chết là hai trăm năm mươi năm rồi chứ có ít đâu. "Bà có chắc không?" ông hỏi. "Bà chắc chắn đấy chứ?" "Tôi chưa bao giờ cảm thấy chắc chắn hơn," bà Owens trả lời. "Thế thì được. Nếu bà làm mẹ nó thì tôi sẽ làm bố nó. "Chị đã nghe thấy chưa?" bà Owens hỏi hình người trong nghĩa địa, giờ chỉ rõ hơn chút xíu so với một đường viền mờ nhạt, giống như một tia chớp mùa hạ xa xăm, có hình dáng một phụ nữ. Hình người ấy nói gì đó với bà Owens mà không ai khác nghe được, rồi biến mất. "Chị ấy sẽ không quay lại đây đâu”, bà Owens nói. "Khi thức dậy thì chị ấy sẽ ở nghĩa địa của chính mình, hoặc là ở bất cứ nơi đâu mà chị ấy đang đến." Bà Owens cúi xuống bên đứa bé và chìa tay ra. "Lại đây nào”, bà âu yếm nói. "Lại đây với mẹ nào”. Khi gã đàn ông tên Jack bước trên lối đi cắt ngang nghĩa địa đến chỗ họ, dao lăm lăm trong tay, hắn thấy dường như dưới ánh trăng, một dải sương đã cuộn quanh đứa bé, rồi đứa bé biến mất: chỉ còn lại màn sương ẩm ướt, ánh trăng và lớp cỏ đang ngả nghiêng trong gió. Hắn chớp chớp mắt đánh hơi không khí. Có điều gì đó vừa xảy ra, nhưng hắn không biết là điều gì. Hắn gầm ghè trong họng như một con thú săn mồi, bực dọc và giận dữ. "Có ai ở đây không?" gã đàn ông tên Jack cất tiếng gọi, băn khoăn không biết có phải đứa bé đã trốn đằng sau một cái gì đó không. Giọng hắn khàn khàn, trầm dục, với một thoáng the thé kỳ lạ, như thể ngạc nhiên hay bối rối khi nghe thấy chính mình lên tiếng. Khu nghĩa địa vẫn giữ kín bí mật của mình. "Có ai ở đây không?" hắn lại gọi. Hắn hy vọng sẽ nghe thấy đứa bé khóc hoặc bi bô, hoặc nghe thấy tiếng nó cử động. Hắn không ngờ lại nghe thấy một giọng nói êm như nhung, hỏi lại. "Tôi giúp gì được ông không?" Gã đàn ông tên Jack vốn là người cao. Người đàn ông này còn cao hơn. Gã đàn ông tên Jack mặc quần áo sẫm màu. Quần áo của người đàn ông này còn sẫm màu hơn. Người nào để ý đến gã đàn ông tên Jack lúc hắn đang thực hiện công việc của mình - mà hắn không thích bị để ý - đều thường cảm thấy lo ngại, không yên, hoặc bỗng thấy sợ hãi không sao hiểu nổi. Gã đàn ông tên Jack ngước nhìn người lạ mặt nọ, và chính gã lại là kẻ cảm thấy lo ngại. "Tôi đang tìm một người," gã đàn ông tên Jack đáp, luồn tay phải vào túi áo khoác để giấu kín con dao, nhưng vẫn nắm nó trong tay phòng khi cần đến. "Trong một khu nghĩa địa bị khóa kín, giữa lúc đêm hôm ư?" người lạ mặt hỏi. "Chỉ là một đứa bé thôi," Jack nói. "Tôi đang đi qua đây thì nghe thấy tiếng trẻ con khóc, và khi nhìn qua cổng tôi đã trông thấy nó. Nếu là người khác thì họ cũng làm thế thôi, phải không?" "Tôi xin hoan nghênh tinh thần cộng đồng của ông”, người lạ mặt nói. "Nhưng nếu tìm được đứa bé này thì ông định đưa nó ra khỏi đây bằng cách nào? Ông không thể bế đứa bé trèo qua tường được”. "Tôi sẽ gọi cho đến khi có người đến giúp tôi ra," gã đàn ông tên Jack trả lời. Có tiếng chùm chìa khóa lách cách. "Vậy đấy, thế thì đó sẽ là tôi rồi," người lạ mặt nói. "Tôi sẽ phải mở cổng cho ông ra thôi." Người đó chọn một chiếc chìa lớn từ trong chùm rồi nói, "Đi theo tôi." Gã đàn ông tên Jack theo sau người lạ mặt. Hắn lôi con dao từ trong túi ra. "Hẳn ông là bảo vệ ở đây?" "Tôi ấy à? Nói theo một cách nào đó thì đúng thế”, người lạ mặt đáp. Họ đang đi về phía cánh cổng, và gã Jack dám chắc họ đang đi khỏi chỗ có đứa bé. Nhưng lão bảo vệ có chìa khóa. Hắn chỉ việc tặng cho lão một nhát dao trong bóng tối, rồi sẽ được tự do tìm kiếm đứa bé suốt đêm, nếu cần. Hắn giơ dao lên. "Nếu có một đứa bé thật," người lạ mặt nói, không hề ngoảnh lại, "thì nó sẽ không có trong nghĩa địa này. Chắn hẳn ông đã nhầm. Dù sao thì chuyện một đứa bé mò đến đây cũng khó có thể xảy ra. Có lẽ ông đã nghe thấy tiếng một con chim đêm, và nhìn thấy một con mèo hoặc con cáo. Ông biết đấy, ba mươi năm trước, khi lễ tang cuối cùng được tổ chức ở đây, họ đã chính thức tuyên bố nơi này là khu bảo tồn tự nhiên. Giờ thì hãy nghĩ cho kỹ, và cho tôi biết ông có chắc chắn là ông đã nhìn thấy một đứa bé không?” Gã đàn ông tên Jack ngẫm nghĩ. Người lạ mặt mở cánh cổng phụ. "Có lẽ là một con cáo," người ấy nói. "Chúng thường phát ra những tiếng kêu rất lạ, không phải là không có phần giống tiếng người khóc. Ông đã nhầm khi đến khu nghĩa địa này, thưa ông. Đứa bé ông tìm kiếm đang đợi ông ở đâu đó, nhưng nó không có ở đây”. Và người ấy để cho ý nghĩ đó bắt rễ trong đầu gã đàn ông tên Jack một hồi lâu, trước khi đẩy cánh cổng phụ mở ra bằng một điệu bộ hoa mỹ. "Rất vui đã được làm quen với ông” người đó nói. "Và tôi tin rằng ông sẽ tìm được tất cả những gì ông cần ở ngoài kia” Gã đàn ông tên Jack đứng ngoài cánh cổng nghĩa địa. Người lạ mặt đứng bên trong cổng, rồi người ấy khóa cổng lại và cất chiếc chìa đi. "Ông đi đâu vậy?" gã đàn ông tên Jack hỏi. "Còn có những cánh cổng khác” người lạ mặt đáp. "Ô tô của tôi đậu ở phía bên kia đồi. Đừng bận tâm đến tôi. Thậm chí ông còn không cần phải nhớ cuộc trò chuyện này nữa kia." "Không," gã đàn ông tên Jack thân thiện đáp lại. "Tôi không nhớ." Hắn chỉ nhớ rằng mình đã lang thang lên đồi, rằng cái mà hắn ngỡ là đứa bé hóa ra chỉ là một con cáo, rằng một người bảo vệ đầy thiện chí đã đưa hắn ra ngoài phố. Hắn đút con dao vào cái vỏ trong túi áo. "Thôi” hắn nói. "Xin chào ông." "Chúc ông buổi tối tốt lành," người lạ mặt mà Jack ngỡ là người bảo vệ đáp lại. Gã đàn ông tên Jack đi xuống đồi để đuổi theo đứa bé. º º º Từ trong bóng tối, người lạ mặt nhìn theo Jack cho đến khi hắn đã ra khỏi tầm mắt. Rồi người ấy đi xuyên qua bóng đêm, trèo lên cao hơn, đến tận khoảng đất bằng bên dưới đỉnh đồi, nơi có một đài tưởng niệm cùng một tảng đá phẳng đặt nằm trên mặt đất để tưởng nhớ hương hồn ngài Josiah Worthington, người nấu rượu của thành phố, chính trị gia, và sau này là nam tước, người mà ba trăm năm trước đã mua khu nghĩa địa cũ cùng khoảng đất xung quanh rồi đem tặng vĩnh viễn cho thành phố. Ngài Josiah đã tự dành cho mình vị trí tốt nhất trên đồi - một giảng đường thiên tạo, nơi người ta có thể nhìn thấy được toàn bộ thành phố và xa hơn thế - và đảm bảo chắc chắn rằng khu nghĩa địa luôn được duy trì làm nghĩa địa, mà chính vì điều đó các cư dân của nghĩa dịa hết sức biết ơn ngài, nhưng Nam tước Josiah Worthington luôn cảm thấy họ chưa bao giờ tỏ ra biết ơn cho đầy đủ. Tính cả thảy thì trong nghĩa địa có chừng mười ngàn linh hồn, nhưng phần lớn đều đang say giấc ngàn thu, không quan tâm gì đến những việc xảy ra hàng đêm ở đây, và trên giảng đường lúc này, dưới ánh trăng, chỉ có chưa đầy ba trăm người. Người lạ mặt đi đến chỗ họ một cách lặng lẽ chẳng khác nào màn sương, đứng quan sát cuộc họp từ trong bóng tối và không nói gì. Josiah Worthington đang phát biểu. Ngài nói, "Thưa bà thân mến. Sự ngoan cố của bà thật là... ờ, bà không thấy chuyện này nực cười đến thế nào ư?" "Không," bà Owens đáp. 'Tôi không thấy thế." Bà đang ngồi xếp bằng trên nền đất, đứa bé còn sống nằm ngủ trong lòng. Bà nâng niu đầu nó bằng hai bàn tay trong veo. "Thưa ngài, xin phép ngài, ý bà nhà tôi định nói là bà ấy không nhìn nhận chuyện này theo cách đó," ông Owens đang đứng cạnh bà nói. "Bà ấy chỉ coi đó là bổn phận của mình." Ông Owens đã từng gặp Josiah Worthington bằng xương bằng thịt khi họ đều còn sống, chính ông đã đóng mấy món đồ gỗ tinh xảo trong dinh thự của dòng họ Worthington ở gần Inglesham, và giờ ông vẫn còn thấy sợ ngài Nam tước. “Bổn phận của bà ấy?" Nam tước Josiah Worthington lắc đầu như muốn rũ một dải mạng nhện bám trên tóc. "Bổn phận của bà, thưa bà, là đối với nghĩa địa này, đối với cộng đồng này, cộng đồng những linh hồn, ma quỷ và các thứ khác đại loại thế, và bổn phận của bà là đem đứa bé này trả về nhà của nó càng sớm càng tốt - và nhà của nó không phải là ở đây." "Mẹ thằng bé đã trao nó cho tôi," bà Owens nói như thể đó là tất cả những gì cần được thốt ra. "Thưa bà thân mến..." "Tôi không phải là bà thân mến của ông," bà Owens nói và dứng dậy. "Thật tình tôi thậm chí còn không hiểu sao tôi lại phải ở đây, nói chuyện với mấy ông già xuẩn ngốc như các ông, trong khi thằng bé này sắp sửa tỉnh dậy, rồi nó sẽ thấy đói bụng và tôi biết tìm đâu ra thức ăn cho nó trong cái nghĩa địa này bây giờ?" "Đó chính là điều chúng tôi định nói đấy," Caius Pompeius nghiêm nghị nói. "Bà sẽ cho nó ăn gì đây? Bà sẽ làm cách nào chăm lo cho nó đây?" Mắt bà Owens lóe sáng. "Tôi có thể chăm sóc cho nó tốt không kém gì mẹ đẻ của nó," bà nói. "Mẹ nó đã trao nó cho tôi. Nhìn này: tôi đang ôm nó trong tay, phải không nào? Tôi đang chạm vào nó đấy thôi” "Nào, hãy tỏ ra biết điều một chút, Betsy," Má Slaughter, một bà già nhỏ bé với cái mũ to tướng và chiếc áo choàng mà má thường mặc khi còn sống và đã mặc khi được an táng. "Nó sẽ ở đâu bây giờ?" "Ở ngay đây” bà Owens đáp. "Chúng ta sẽ cho nó Quyền Tự do Đi lại Trong Nghĩa địa” Miệng Má Slaughter biến thành một chữ o nhỏ xíu. "Nhưng mà," má lên tiếng. Rồi má nói, "Thật là chuyện chưa từng thấy bao giờ”. "Thế thì sao nào? Đây đâu phải lần đầu chúng ta cho một người ngoài Quyền Tự do Đi lại Trong Nghĩa địa." "Đúng thế," Caius Pompeius nói. "Nhưng anh ta có phải người sống đâu." Khi nghe thấy vậy, người lạ mặt nhận ra dù muốn hay không mình đã bị kéo vào cuộc trò chuyện. Người ấy miễn cưỡng bước ra khỏi màn đêm, đứng tách xa khỏi những người khác như một mảng bóng tôi. "Không," người đó đồng tình. "Tôi không phải người sống. Nhưng tôi đồng ý với bà Owens." Josiah Worthington hỏi, "Thật thế sao, Silas?" "Đúng vậy. Dù vì điều tốt hay xấu - mà tôi tin chắc là vì lòng tốt - thì ông bà Owens cũng đã nhận bảo trợ đứa bé. Nhưng để nuôi dưỡng đứa bé này thì sẽ phải cần nhiều hơn hai linh hồn nhân hậu. Sẽ phải cần đến toàn thể nghĩa địa” Silas nói. "Thế còn thức ăn và những thứ khác thì sao?" "Tôi có thể ra khỏi nghĩa địa và quay lại. Tôi sẽ đem thức ăn về cho nó," Silas đáp. "Anh nói nghe hay lắm” Má Slaughter nói. "Nhưng anh đi đi về về, có ai biết được anh đi những đâu. Nếu anh bỏ đi cả tuần trời thì thằng bé chết đói mất." "Má quả là người khôn ngoan” Silas nói. "Tôi đã hiểu tại sao mọi người tôn trọng má đến thế." Anh ta không thể điều khiển trí não của người chết như từng làm với người sống, nhưng có thể dùng tất cả những lời tâng bốc và thuyết phục mà mình có được, bởi vì con người dù đã chết thì vẫn không miễn dịch được với hai thứ đó. Rồi anh đi đến một quyết định. "Được thôi. Nếu ông bà Owens nhận làm bố mẹ đứa bé thì tôi sẽ là người bảo trợ cho nó. Tôi sẽ ở lại đây, và nếu phải đi xa thì tôi sẽ đảm bảo có người thế chỗ tôi, đem thức ăn về và chăm sóc nó. Chúng ta có thể cho nó ở trong hầm mộ nhà thờ” "Nhưng mà," Josiah Worthington lớn tiếng. "Nhưng mà. Một đứa trẻ. Một đứa trẻ còn sống. Ý tôi là, ý tôi là, ý tôi là. Chết tiệt, đây là nghĩa địa chứ có phải nhà trẻ đâu." "Chính thế," Silas gật đầu. "Ngài nói rất đúng, thưa Nam tước Josiah. Chính tôi cũng không thể nói đúng hơn. Và nếu không vì lý do nào khác, thì chính vì lý do đó, điều tối quan trọng là đứa bé phải được nuôi nấng với sự hạn chế tối đa ảnh hưởng của nó đối với, xin nói mạn phép các vị, đối với cuộc sống của nghĩa địa." Nói đoạn Silas bước đến bên cạnh bà Owens, cúi nhìn đứa bé đang nằm ngủ trong vòng tay bà và nhướn mày. "Nó có tên chứ, bà Owens?" "Mẹ nó không cho tôi biết," bà đáp lại. "Cũng chẳng sao," Silas nói. "Dù gì thì bây giờ cái tên cũ của nó cũng chẳng có ích gì lắm. Có những kẻ ngoài kia đang muốn hại nó. Có lẽ chúng ta nên đặt cho nó một cái tên mới chăng?" Caius Pompeius bước đến ngắm nghía đứa bé. "Trông nó hơi giống ngài thống đốc Marctis của tôi. Hãy gọi nó là Marcus." Josiah Worthington nói, "Trông nó giống lão làm vườn Stebbins của tôi hơn. Nhưng tôi không gợi ý đặt tên nó là Stebbins đâu. Lão ta uống rượu như hũ chìm ấy." "Trông nó giống cậu cháu Harry của tôi” Má Slaughter nói, và đến lúc có vẻ như toàn thể nghĩa địa sắp sửa chêm vào, mỗi người góp một ý so sánh đứa bé với một người quen nào đó từ xa xưa lắm rồi, thì bà Owens lên tiếng. 'Trông nó chẳng giống ai cả, ngoại trừ chính nó” bà Owens nói. "Nó không giống ai cả." "Thế thì hãy gọi nó là Không Ai Cả, Nobody," Silas nói. "Nobody Owens." Đúng lúc ấy, như thể đáp lại cái tên mới, thằng bé mở to mắt thức giấc. Nó nhìn xung quanh, ngắm khuôn mặt những người chết, ngắm màn sương và vầng trăng. Rồi nó đưa mắt nhìn Silas. Cái nhìn của nó không hề dao động. Nó có vẻ hết sức nghiêm trang. "Nhưng ai lại đặt tên là Không Ai Cả!" Má Slaughter phẫn nộ kêu lên. "Đó là tên nó. Một cái tên hay” Silas nói với má. "Cái tên ấy sẽ giúp bảo vệ thằng bé." "Tôi không muốn gặp chuyện rắc rối đâu," Josiah Worthington nói. Đứa bé ngước lên nhìn ngài Nam tước, và rồi, vì đói, vì mệt, hay chỉ vì nhớ nhà, nhớ gia đình, nhớ thế giới cũ của mình, bộ mặt nhỏ xíu của nó co rúm lại và nó òa khóc. "Bà hãy để chúng tôi nói chuyện riêng," Caius Pompeius bảo bà Owens. "Chúng tôi sẽ bàn bạc việc này." Bà Owens đứng đợi ngoài nhà thờ. Bốn mươi năm trước, tòa nhà vốn là một nhà thờ nhỏ có mái nhọn này đã được tuyên bố là một công trình lịch sử được xếp hạng. Hội đồng thành phố quyết định rằng để tu sửa lại nhà thờ là quá tốn kém, vì nó chỉ là một nhà thờ nhỏ xíu trong một khu nghĩa địa đầy cỏ dại đã không còn hợp thời nữa, vậy là họ khóa cửa lại đợi cho nó sụp xuống. Dây trường xuân leo khắp tòa nhà, nhưng nó được xây dựng rất chắc chắn, và trong thế kỷ này thì vẫn chưa chịu đổ xuống. Thằng bé đã thiếp ngủ trong vòng tay bà Owens. Bà nhẹ nhàng đu đưa, hát cho nó nghe bài ru cổ mà mẹ bà đã hát ru bà khi bà còn bé, vào cái thời đàn ông mới bắt đầu đội tóc giả rắc phấn. Bài hát ấy như thế này: Hãy ngủ đi bé yêu của mẹ Ngủ cho đến khi con thức dậy Lớn lên con sẽ đuợc thấy thế gian Nếu mẹ không nhầm Hôn một người thương Nhảy một điệu vui Tìm thấy tên mình Cùng một kho báu đã bị chôn vùi... Bà Owens hát đến đó thì chợt nhận ra bà không còn nhớ bài hát kết thúc như thế nào nữa. Bà mang máng nhớ là câu cuối cùng có gì đó liên quan đến "mấy miếng thịt xông khói đầy lông” nhưng có lẽ đó lại là một bài hát khác hẳn, vì thế bà thôi không hát bài ấy nữa mà chuyển sang một bài về Chú Cuội ngồi trên Cung Trăng, rồi sau đó bà hát, bằng cái giọng nông thôn ấm áp của mình, một bài mới được sáng tác gần đây, về một chú bé mút ngón tay cái rồi rút ra một quả mận, và bà vừa bắt đầu bài balad dài dằng dặc về một chàng trai nông thôn không hiểu vì sao lại bị người yêu đầu độc bằng món lươn đốm, thì Silas đi từ cửa bên nhà thờ ra, mang theo một cál hộp các tông. "Đây, bà Owens," anh nói. “Cả đống thứ cần cho một chú bé đang lớn nhé. Chúng ta có thể để nó dưới hầm mộ, được đấy chứ?" Cái khóa móc bật mở trong tay Silas và anh đẩy cánh cửa sắt ra. Bà Owens bước vào trong, nghi ngại liếc nhìn những cái giá và những chiếc ghế gỗ dài cũ kỹ xếp đống dựa vào một bức tường. Ở góc nhà thờ có một đám hộp mốc meo chất đầy sổ sách cũ của giáo xứ, và ở góc khác, một cánh cửa mở ra cho thấy một bồn cầu giật nước thời Victoria, một cái chậu rửa chỉ có độc vòi nước lạnh. Đứa bé mở mắt nhìn quanh. "Chúng ta có thể cất thức ăn ở đây” Silas nói. "Dưới này mát, thức ăn sẽ để được lâu hơn” Anh thò tay vào trong hộp lôi ra một quả chuối. "Cái gì vậy?" bà Owens hỏi, liếc nhìn cái vật màu vàng đốm nâu vẻ nghi ngờ. "Đây là quả chuối. Một thứ quả miền nhiệt đới. Tôi nghĩ để ăn thì phải bóc vỏ ra," Silas nói, "như thế này này." Thằng bé - Không Ai Cả - cựa quậy trong tay bà Owens, vậy là bà đặt nó xuống sàn nhà lát đá. Nó lẫm chẫm bước nhanh đến bên Silas, túm ống quần anh và giữ chặt lấy. Silas đưa cho nó quả chuối. Bà Owens ngắm thằng bé ăn chuối. "Ch-u-ối," bà nói vẻ hồ nghi. "Chưa nghe bao giờ. Chưa bao giờ. Mùi vị của nó ra sao?" "Tôi có biết gì đâu” Silas đáp, anh chỉ dùng một thứ thức ăn duy nhất, và thứ ấy không phải là chuối. "Bà biết không, bà có thể dọn cho thằng bé một cái giường ở đây được đấy” "Tôi sẽ không làm thế trong khi ông Owens và tôi có một ngôi mộ nhỏ xinh ở ngay bên luống thủy tiên vàng. Ở đấy có khối chỗ cho thằng bé. Hơn nữa” bà nói thêm, sợ Silas sẽ nghĩ là bà đang từ chối lòng hiếu khách của anh, "tôi không muốn thằng bé làm phiền anh” "Có phiền gì đâu” Đứa bé đã ăn xong quả chuối. Những gì nó không ăn thì giờ nhoe nhoét khắp cả người. Nó toét miệng cười, má dính đầy chuối, ửng hồng như hai quả táo. "Chúi” nó vui sướng kêu lên. "Thằng bé mới tinh khôn làm sao” bà Owens nói. "Và bôi bẩn ra khắp nơi rồi! Nào, yên nào, thằng nhóc hay cựa quậy này..." và bà nhặt hết những mẩu chuối dính trên quần áo, tóc tai nó. Bà hỏi, "Anh nghĩ họ quyết định thế nào?" "Tôi không biết." "Tôi không thể bỏ nó được. Nhất là sau khi tôi đã hứa với mẹ nó." "Tuy đã từng làm rất nhiều việc trong đời," Silas nói, "nhưng tôi chưa bao giờ làm mẹ cả. Và tôi cũng không định bắt đầu làm mẹ vào lúc này đâu. Nhưng tôi có thể rời khỏi nơi này..” Bà Owens nói đơn giản, "Tôi thì không. Thân xác của tôi nằm ở đây. Cả ông nhà tôi cũng vậy. Tôi chẳng bao giờ rời đi đâu cả." "Có một nơi nào đó mà ta thuộc về kể cũng tốt" Silas nói. "Một nơi ta có thể gọi là nhà." Trong lời nói của anh không có vẻ khao khát. Giọng anh còn khô hơn cả sa mạc, và anh thốt ra những lời ấy như thể chỉ là đang nói lên một điều không thể tranh cãi. Và bà Owens cũng không tranh cãi. "Anh nghĩ chúng ta còn phải đợi lâu nữa không?" "Không lâu nữa đâu," Silas nói, nhưng anh đã nhầm. Ở giảng đường bên sườn đồi, cuộc tranh cãi vẫn tiếp tục. Việc hai vợ chồng nhà Owens, chứ không phải một con ma mới càn quấy nông nổi nào đó, lại vướng vào chuyện vớ vẩn này khiến mọi người rất chú ý, vì nhà Owens là những người đáng kính và được tôn trọng. Việc Silas tình nguyện làm người bảo trợ cho thằng bé cũng có một ảnh hưởng lớn - người dân trong nghĩa địa luôn có một nỗi kính sợ thận trọng đối với Silas, người có thể tồn tại ở vùng ranh giới giữa thế giới của họ và cái thế giới họ đã để lại phía sau. Thế nhưng, thế nhưng... Một khu nghĩa địa thường không theo chế độ dân chủ, nhưng cái chết lại là một nền dân chủ vĩ đại, và mỗi người chết đều có tiếng nói cùng ý kiến của riêng mình về việc đứa bé còn sống kia có được phép ở lại đây không, và đêm đó thì ai ai cũng muốn được phát biểu. Vào tiết thu muộn, trời thường lâu sáng. Dù trời vẫn còn tối, nhưng giờ đã có tiếng xe cộ đi từ dưới đồi lên, và khi người sống bắt đầu lái xe đi làm trong buổi bình minh tối đen mờ sương, thì những người chết lại bàn bạc về đứa bé đã lạc đến chỗ họ và họ nên làm gì với nó. Ba trăm giọng nói. Ba trăm ý kiến. Nehemiah Trot, thi sĩ, đến từ phía Tây Bắc đổ nát của nghĩa địa, bắt đầu hùng hồn trình bày suy nghĩ của mình, nhưng không ai có thể nói được những suy nghĩ ấy là gì vì một việc đã xảy ra; một việc khiến cho mọi cái miệng đang hùng hồn lên tiếng phải câm lặng, một việc chưa từng xảy ra trong lịch sử khu nghĩa địa này. Một con ngựa trắng khổng lồ, loại mà những người sành ngựa thường gọi là "ngựa xám” đi nước kiệu lên sườn đồi. Trước khi nhìn thấy, người ta đã nghe thấy tiếng vó nện cùng những tiếng rầm rầm khi con ngựa xông qua các bụi rậm nhỏ, xuyên qua đám mâm xôi, trường xuân và kim tước mọc trên sườn đồi. Nó to bằng một con ngựa thồ, ít nhất phải cao mười chín gang tay. Đó là con ngựa có thể chở trên lưng một hiệp sĩ giáp trụ đầy đủ xông vào giữa trận chiến, nhưng trên cái lưng không đóng yên của nó chỉ là một người phụ nữ mặc đồ xám từ đầu đến chân. Chiếc váy dài và khăn choàng của bà nom như được dệt bằng tơ cổ. Bà có gương mặt hết sức bình thản và thư thái. Người dân trong nghĩa địa đều biết bà, bởi vì mỗi người trong chúng ta khi cuối đời đều phải gặp Phu nhân Xám, và không ai có thể quên được bà. Con ngựa dừng lại bên đài tưởng niệm. Bầu trời đằng Đông đang bắt đầu sáng dần lên một ánh hào quang màu ngọc trai, ánh sáng trước bình minh khiến mọi người trong nghĩa địa thấy không yên và chỉ muốn quay về ngôi nhà ấm cúng dễ chịu của mình. Nhưng dù thế vẫn không ai nhúc nhích. Họ chăm chú ngắm nhìn Phu nhân Xám, người nào cũng cảm thấy nửa phấn khích, nửa sợ hãi. Người chết thường không còn mê tín nữa, nhưng họ nhìn bà như một thầy bói La Mã ngắm nhìn đàn quạ linh thiêng chao liệng, tìm kiếm một lời phán bảo thông thái hay một đầu mối nào đó. Và Phu nhân cất tiếng nói với họ. Bằng một giọng nói nghe như tiếng hàng trăm quả chuông bạc nhỏ xíu rung lên, Phu nhân chỉ nói, "Người chết cũng cần có lòng nhân hậu." Và bà mỉm cười. Con ngựa, từ nãy vẫn điềm tĩnh gặm và nhai một búi cỏ dày, bây giờ liền ngừng lại. Phu nhân chạm vào cổ con ngựa, và nó quay đi. Nó bước mấy bước dài, vó nện ầm vang, rồi phóng khỏi sườn đồi phi nước kiệu ngang qua bầu trời. Tiếng vó rầm rầm của nó biến thành tiếng sấm đổ lại từ đằng xa, và chỉ trong thoáng chốc nó đã biến mất. Ít ra thì đó cũng là những gì mà người dân nghĩa địa có mặt trên sườn đồi vào đêm đó quả quyết là đã xảy ra. Cuộc tranh cãi thế là kết thúc, và không cần phải biểu quyết, họ đã đi đến một quyết định. Đứa bé tên Nobody Owens sẽ có Quyền Tự do Đi lại Trong Nghĩa địa. Má Slaughter đi cùng Nam tước Josiah Worthington và ông Owens đến hầm mộ trong nhà thờ cũ, và họ báo tin cho bà Owens. Bà có vẻ không hề kinh ngạc trước phép màu vừa xảy ra. "Đúng thế” bà nói. "Trong số họ có những người chẳng có lấy được nửa xu trí khôn trong đầu. Nhưng bà ấy thì có. Tất nhiên là bà ấy có." º º º Trước lúc mặt trời mọc vào một buổi sáng xám xịt sấm chớp đùng đùng, đứa bé đã ngủ say trong ngôi mộ nhỏ xinh xắn của hai vợ chồng nhà Owens (vì ông Owens trước khi chết là một người sung túc, chủ phường thợ mộc trong vùng, và những thợ mộc trong phường muốn ông được an nghỉ một cách trang trọng.) Silas làm một chuyến đi cuối cùng trước lúc mặt trời mọc. Anh tìm thấy căn nhà cao bên sườn đồi, kiểm tra ba thi thể phát hiện được, và xem xét kỹ vết dao trên ba thi thể ấy. Khi đã thấy bằng lòng, anh ta bước ra ngoài trong buổi bình minh tăm tối, đầu óc quay cuồng bởi những điều khủng khiếp có thể xảy ra, rồi anh về nghĩa địa, quay về tòa tháp nhọn của nhà thờ nằm ngủ đợi cho hết ngày. Trong thành phố nhỏ dưới chân đồi, gã đàn ông tên Jack mỗi lúc một giận dữ hơn. Hắn đã chờ đợi cái đêm vừa qua suốt một thời gian dài, chờ đợi để hoàn thành công việc của hàng bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm ròng. Và mọi việc trong đêm đã khởi đầu một cách thuận lợi biết bao - ba mạng người, không ai kịp kêu lên một tiếng nào. Thế rồi... Thế rồi tất cả hỏng bét cả, hỏng bét đến phát điên lên được. Cái quái quỷ gì đã khiến hắn đi lên đồi trong khi rõ ràng là đứa bé đã đi xuống đồi? Đến khi hắn xuống đến chân đồi thì dấu vết của nó đã biến mất. Hẳn có kẻ nào đó đã tìm thấy đứa bé, bế nó đi, che giấu nó. Không còn cách giải thích nào khác. Một tiếng sét nổ, ầm vang và đột ngột tựa tiếng súng, rồi trời đổ mưa rào rào. Vốn là người rất cẩn thận, gã đàn ông tên Jack bắt đầu lên kế hoạch cho bước hành động tiếp theo - những cuộc thăm viếng mà hắn cần thực hiện đối với một số người nhất định trong thành phố, những người sẽ là tai mắt của hắn. Hắn không cần phải cho Hội đồng biết hắn đã thất bại. Trong khi nép mình dưới mái hiên một cửa hàng trong làn mưa buổi sáng tuôn rơi như nước mắt, hắn tự nhủ dù sao thì hắn cũng chưa thất bại. Chưa đâu. Còn hàng bao nhiêu năm nữa. Vẫn còn khối thời gian. Còn khối thời gian để hắn hoàn thành nốt phần việc dang dở này. Còn khối thời gian để cắt nốt mối dây ràng buộc cuối cùng. Chỉ đến khi tiếng còi cảnh sát vang lên, rồi đầu tiên là một chiếc xe cảnh sát, sau đó là một chiếc xe cứu thương, một chiếc xe cảnh sát không gắn biển còi hú ầm ĩ, nối đuôi nhau phóng qua chỗ hắn để đi lên đồi, thì gã đàn ông tên Jack mới miễn cưỡng dựng cao cổ áo, cúi đầu xuống bước vào buổi sáng xám xịt rồi biến mất. Con dao của hắn đã lại nằm trong túi áo, khô ráo và an toàn trong vỏ của nó, được bảo vệ khỏi cơn mưa tầm tã. Chương 2 NGƯỜI BẠN MỚI BOB LÀ MỘT ĐỨA TRẺ LẶNG LẼ, với đôi mắt xám nghiêm trang và mớ tóc nâu xỉn bù rối. Phần lớn thời gian nó tỏ ra khá ngoan ngoãn. Nó đã học nói, và khi bắt đầu nói được thì nó luôn mồm hỏi người dân trong nghĩa địa. Nó hay hỏi "Tại sao cháu chả được ra khỏi nghĩa địa?” hoặc là, "Làm sao, cháu làm được, như ông ấy vừa làm?" hoặc "Ai sống ở đây?". Người lớn cố hết sức trả lời nó, nhưng câu trả lời của họ thường không rành mạch, hoặc khó hiểu, hoặc mâu thuẫn, và khi ấy thì Bod lại xuống nhà thờ cũ nói chuyện với chú Silas. Nó sẽ đợi ở đó vào lúc mặt trời lặn, ngay trước khi chú Silas thức dậy. Bod luôn tin rằng người bảo trợ của nó sẽ giải thích mọi sự một cách rõ ràng, minh bạch và đơn giản để nó có thể hiểu được. "Cháu không được ra khỏi nghĩa địa - mà phải nói không đuợc, chứ không phải là chả đuợc, ngày nay người ta không nói như thế - vì chỉ ở trong nghĩa địa thì chúng ta mới có thể bảo vệ cháu. Đây là nơi cháu sống, nơi có những người yêu thương cháu. Ở ngoài kia cháu sẽ không được an toàn. Chưa đến lúc” "Nhưng chú có đi ra ngoài. Đêm nào chú cũng đi ra ngoài." "Chú lớn hơn cháu nhiều, nhóc ạ. Và cho dù đi đến đâu thì chú cũng được an toàn." "Cháu cũng có thể được an toàn chứ." "Chú ước gì có thể như thế. Nhưng chừng nào cháu còn ở trong nghĩa địa này thì chừng ấy cháu mới được an toàn thực sự." Hoặc là, "Làm sao cháu làm được như thế à? Có những kỹ năng có thể đạt được nhờ học tập hoặc rèn luyện, có những kỹ năng lại chỉ có thể đạt được theo thời gian. Cháu có thể có được những kỹ năng đó nếu cháu chịu khó học hành. Chẳng mấy chốc cháu sẽ thành thạo các phép Tàng hình, Xuyên tường và Mộng du. Nhưng có những kỹ năng mà người sống không thể có được, và để đạt được những kỹ năng ấy thì cháu phải đợi thêm ít lâu nữa. Nhưng chú dám chắc là đến đúng thời điểm thì ngay cả những kỹ năng ấy cháu cũng sẽ có được thôi." "Dù sao thì cháu cũng có Quyền Tự do Đi lại Trong Nghĩa địa," chú Silas bảo nó. "Vì vậy Nghĩa địa sẽ bảo vệ cháu. Ở đây, cháu có thể nhìn được trong bóng tối. Cháu có thể đi lại trên những con đường mà người sống không được đi. Khi người sống nhìn vào cháu họ sẽ không trông thấy cháu. Chú cũng có Quyền Tự do Đi lại Trong Nghĩa địa, nhưng trong trường hợp của chú thì đó chỉ là quyền được sống ở đây mà thôi." "Cháu muốn được như chú” Bod trề môi ra nói. "Không” chú Silas nghiêm nghị nói. "Cháu không muốn thế đâu." Hoặc là, "Ai nằm ở dây ư? Cháu biết đấy Bod, trong nhiều trường hợp, điều đó được khắc trên bia mộ. Cháu đã biết đọc chưa? Cháu đã biết bảng chữ cái chưa?" "Bảng gì cơ ạ?" Chú Silas lắc đầu, nhưng không nói gì. Ông bà Owens khi còn sống cũng chẳng phải người hay chữ, và trong nghĩa địa không có cuốn sách vỡ lòng nào. Đêm hôm sau, chú Silas xuất hiện trước ngôi mộ ấm cúng của gia đình Owens, mang theo ba cuốn sách to - hai cuốn là sách vỡ lòng với nhiều tranh vẽ sặc sỡ. (A là cái Ao, B là quả Bóng), còn cuốn kia là truyện Chú mèo đội mũ. Chú còn đem theo giấy và một hộp sáp màu. Rồi chú dẫn Bod đi quanh nghĩa địa, đặt những ngón tay nhỏ xíu của thằng bé lên các tấm bia và biển tên mới nhất, chữ khắc rõ nhất, rồi dạy nó cách nhận biết từng chữ trong bảng chữ cái, đầu tiên là chữ A hoa nom như cái tháp chuông. Chú Silas giao cho Bod một nhiệm vụ - đó là đi khắp nghĩa địa tìm cho bằng hết hai mươi sáu chữ cái - và Bod đã hoàn thành sứ mệnh một cách vô cùng kiêu hãnh, khi nó tìm thấy bia mộ của Ezekiel Ulmsley, đặt chìm vào bức tường bên của nhà thờ cũ. Chú Silas hết sức hài lòng. Ngày nào Bod cũng đem giấy bút ra nghĩa địa miệt mài chép lại những cái tên, từ ngữ và chữ số trên bia mộ, và đêm đêm, trước khi chú Silas đi ra ngoài, Bod lại nhờ chú giải thích những gì nó đã chép lại, nhờ chú dịch cả những câu La tinh mà ông bà Owens thường không hiểu nổi. Một ngày nắng ấm: những con ong nghệ bay quanh mấy đóa hoa dại mọc ở góc nghĩa địa, bám trên những bông kim tước và hoa chuông xanh, vo ve một cách lười nhác, trong khi Bod nằm dưới ánh nắng mùa xuân, ngắm một con bọ màu đồng bò ngang qua bia mộ của ngài G. Reeder, vợ của ngài, Dorcas, và con trai của ngài, Sebastian (Gidelis ad Mortemm – chung thủy cho đến chết). Bod đã chép lại những chữ khắc trên bia, và bây giờ khi nó đang chỉ nghĩ về con bọ, thì một giọng nói vang lên, "Này, cậu đang làm gì thế?" Bod ngước nhìn. Có ai đó đang ở phía bên kia bụi kim tước, quan sát nó. "Chả làm gì cả," Bod đáp. Nó lè lưỡi ra. Bộ mặt ở phía bên kia bụi kim tước nhăn nhúm lại thành một cái miệng máng xối hình đầu thú, lưỡi thè ra, mắt trợn tròn, rồi lại biến thành một cô bé. "Giỏi quá," Bod nói, nó thấy trò biến hóa ấy rất ấn tượng. "Tớ có thể làm những cái mặt hay lắm” cô bé nói. "Xem đây này." Cô bé dùng một ngón tay đẩy cho cái mũi hếch lên, nhe răng cười khoái trá, nheo mắt lại và phồng má ra. "Cậu có biết đây là mặt gì không?" "Không." "Là mặt lợn, ngốc ạ." "Ồ." Bod ngẫm nghĩ một lát. "Cậu định nói là giống như chữ L là Lợn ấy à?" "Tất nhiên là giống thế rồi. Đợi đây nhé” Cô bé đi vòng qua bụi kim tước và đến đứng cạnh Bod. Nó cũng đứng dậy. Cô bé lớn và cao hơn nó một chút, mặc bộ quần áo rực rỡ màu vàng, cam và hồng. Bod, trong tấm vải liệm màu xám, cảm thấy mình thật tồi tàn và nhếch nhác. "Cậu bao nhiêu tuổi?" cô bé hỏi. "Cậu làm gì ở đây? Cậu sống ở đây à? Tên cậu là gì?" "Tớ không biết” Bod đáp. "Cậu không biết tên mình là gì á?" cô bé nói. "Cậu phải biết chứ. Mọi người đều biết tên mình là gì mà. Đồ nói dối." "Tớ biết tên tớ," Bod nói. "Và tớ biết tớ làm gì ở dây. Nhưng tớ không biết cái câu hỏi kia." "Câu cậu bao nhiêu tuổi ấy à?" Bod gật đầu. "Ờ," cô bé nói, "thế lần sinh nhật gần đây nhất của cậu thì cậu bao nhiêu tuổi?" "Tớ không có sinh nhật” Bod nói. "Tớ chưa bao giờ làm sinh nhật!". "Tất cả mọi người đều có sinh nhật chứ. Ý cậu là cậu chưa bao giờ có bánh sinh nhật với nến và các thứ như thế à?" Bod lắc đầu. Cô bé tỏ ra thông cảm. "Tội nghiệp cậu. Tớ năm tuổi. Tớ cá là cậu cũng lên năm đấy." Bod hăng hái gật đầu. Nó sẽ không cãi lại người bạn mới của mình. Cô bé khiến nó thấy rất vui. Cô bé cho nó biết tên cô là Scarlett Amber Perkins, và cô sống trong một căn hộ không có vườn. Mẹ cô bé đang ngồi trên chiếc ghế dài bên cạnh nhà thờ dưới chân đồi đọc tạp chí, mẹ đã dặn Scarlett nửa tiếng nữa phải quay về, và bảo cô bé hãy chạy chơi một lát, nhưng không được gây rắc rối gì hay nói chuyện với người lạ. "Tớ là người lạ," Bod bảo. "Không phải” cô bé quả quyết. "Cậu là một cậu bé." Rồi cô bé nói tiếp, "Và cậu là bạn tớ. Vì thế cậu không thể là người lạ được." Bod ít khi cười, nhưng nghe thấy thế nó toét miệng cười sung sướng. "Tớ là bạn cậu," nó nói. "Tên cậu là gì?" "Bod. Là tên tắt của Nobody." Cô bé cười phá lên. "Tên cậu lạ thế," cô nói. "Thế cậu đang làm gì?" "Học bảng chữ cái," Bod trả lời. "Ở trên các tấm bia mộ. Tớ phải chép lại chúng." "Cho tớ học cùng được không?" Trong một thoáng Bod bỗng có cảm giác bảo hộ - những tấm bia mộ là của nó cơ mà, phải không? - nhưng rồi nó chợt nhận ra nghĩ như thế thì thật ngớ ngẩn, và có những việc nếu cùng làm với một người bạn dưới ánh mặt trời thì sẽ thật vui. Nó liền đáp, "Được thôi." Hai đứa cùng chép lại những cái tên trên bia mộ, Scarlett giúp Bod đọc những cái tên và từ lạ, Bod dịch nghĩa các câu tiếng Latinh cho Scarlett, nếu gặp được câu nó đã biết, và dường như chỉ một thoáng sau, chúng đã nghe thấy tiếng gọi từ dưới đồi vọng lên, "Scarlett!" Cô bé giúi đống giấy bút trả cho Bod. "Tớ phải đi đây," cô bé nói. "Tớ sẽ gặp lại cậu," Bod nói. "Cậu sẽ quay lại phải không?" "Nhà cậu ở đâu?" cô bé hỏi. "Ở đây," nó đáp. Và nó đứng nhìn theo trong khi cô bé chạy xuống đồi. Dọc đường về nhà, Scarlett kể cho mẹ nghe về cậu bé Không Ai Cả sống ở nghĩa địa đã chơi với cô bé, và tối hôm đó mẹ kể lại với bố Scarlett, và bố cô bé nói ông tin là vào tuổi này trẻ con hay có bạn tưởng tượng, đó là chuyện thường gặp, không có gì đáng lo, và họ thật may mắn vì có một khu bảo tồn thiên nhiên ngay gần nhà. Sau buổi gặp đầu tiên ấy, Scarlett không bao giờ trông thấy Bod trước cả. Vào những ngày khô ráo, bố hoặc mẹ thường dẫn cô bé đến nghĩa địa. Bố hoặc mẹ sẽ ngồi trên ghế dài đọc sách trong khi Scarlett lang thang ra xa lối đi chính, nom như một mảng màu xanh sáng, hoặc da cam hoặc hồng, và khám phá khu nghĩa địa. Và lần nào cũng vậy, rất nhanh sau đó, cô bé sẽ trông thấy một khuôn mặt nhỏ bé, nghiêm nghị với đôi mắt xám ngước lên nhìn mình từ bên dưới mớ tóc màu nâu xỉn, rồi Bod cùng cô bé sẽ chơi đùa với nhau ? Có lúc là chơi trốn tìm, có lúc là trèo lên cái này cái kia, hoặc chỉ ngồi im ngắm những con thỏ nhảy ra nhảy vào đằng sau ngôi nhà thờ cũ. Bod giới thiệu Scarlett với mấy người bạn khác của nó. Chuyện cô bé không thể nhìn thấy họ có vẻ như chẳng thành vấn đề. Bố mẹ Scarlett đã quả quyết với cô bé rằng Bod chỉ là tưởng tượng, và điều đó không có gì sai trái cả - thậm chí suốt mấy ngày liền, mẹ cô còn dọn chỗ trên bàn ăn cho Bod nữa - vì vậy cô bé không hề ngạc nhiên khi thấy Bod cũng có những người bạn tưởng tượng. Nó chuyển những lời bình phẩm của họ đến cho cô bé. "Bartleby bảo dung nhan của bạn chẳng khác nào trái mận khô," nó bảo với cô bé như vậy. "Mặt cậu ấy cũng thế. Mà sao cậu ấy nói nghe buồn cười thế? Cậu ấy định nói là quả cà chua bị bẹp phải không?" "Tớ nghĩ ở chỗ cậu ấy không có cà chua dâu," Bod nói. "Và hồi ấy người ta đều nói chuyện như thế cả." Scarlett rất vui. Cô bé thông minh nhưng cô độc, mẹ cô thì làm việc cho một trường đại học từ xa, dạy những người mà bà không bao giờ gặp trực tiếp, chấm những bài luận tiếng Anh được gửi đến qua máy vi tính rồi gửi lại những tin nhắn khuyên bảo hoặc động viên. Bố cô bé dạy môn vật lý hạt nhân, tuy nhiên Scarlett bảo với Bod rằng có quá nhiều người muốn dạy vật lý hạt nhân nhưng lại không có đủ người muốn học môn này, vì vậy gia đình Scarlett cứ phải chuyển từ thành phố có trường đại học này đến thành phố có trường đại học khác, ở thành phố nào bố cô bé cũng mong có chỗ dạy lâu dài, nhưng chẳng bao giờ được. "Vật lý hạt nhân là gì?" Bod hỏi. Scarlett nhún vai. “Ờ..”, cô bé nói. "Có những thứ gọi là nguyên tử, nhỏ tí tẹo đến nỗi mình không nhìn thấy được, tất cả bọn mình đều được tạo ra từ các nguyên tử ấy. Và còn những thứ nhỏ hơn cả nguyên tử nữa, đấy chính là vật lý hạt nhân” Bod gật đầu, nó nghĩ có lẽ bố của Scarlett cũng thích nghiên cứu những thứ tưởng tượng. Chiều nào Bod và Scarlett cũng cùng nhau lang thang trong nghĩa địa, đưa ngón tay lần theo những cái tên, chép lại chúng. Bod kể cho Scarlett nghe tất cả những gì nó biết về người nằm trong cái huyệt, lăng hoặc mộ, còn cô bé kể cho nó nghe những chuyện cô đã đọc hoặc học được. Đôi khi cô bé còn kể cho nó nghe về thế giới bên ngoài, về ô tô, xe buýt, ti vi và máy bay (Bod đã từng nhìn thấy máy bay bay cao tít trên đầu và cứ ngỡ chúng là những con chim màu bạc to tiếng, nhưng nó chưa bao giờ cảm thấy tò mò về chúng, mãi cho đến tận bây giờ), về phần mình, Bod cũng kể cho cô bé nghe về cái thời những người trong nghĩa địa còn sống - chuyện Sebastian Reeder đã đến Thành London và trông thấy Hoàng hậu, một người đàn bà béo mập đội mũ lông, luôn trừng mắt nhìn mọi người và không nói một chữ tiếng Anh nào. Sebastian Reeder không nhớ bà ta là hoàng hậu gì, nhưng cậu ta đoán bà ta không làm hoàng hậu lâu cho lắm. "Đó là hồi nào?" Scarlett hỏi. "Cậu ấy chết năm 1583, trên bia mộ của cậu ấy viết thế, tức là chuyện này phải xảy ra trước đấy." "Ai là người già nhất ở đây? Trong toàn nghĩa địa ấy?" Scarlett hỏi. Bod nhíu mày. "Chắc là Caius Pompeius. Cụ ấy đến đây một trăm năm sau khi người La Mã đầu tiên đặt chân đến nơi này. Cụ đã kể cho tớ nghe chuyện ấy. Cụ rất thích những con đường." "Vậy cụ ấy là người già nhất?" "Tớ nghĩ thế." "Bọn mình có thể dựng một căn nhà nhỏ trong cái nhà đá kia được không?" "Cậu không vào được dâu. Cửa khóa rồi. Tất cả đều bị khóa hết." "Thế cậu có vào được không?" "Tất nhiên là được." "Thế tại sao tớ không vào được?" "Vì khu nghĩa địa này” nó giải thích. "Tớ có Quyền Tự do Đi lại Trong Nghĩa địa. Tớ thích đi đâu cũng được” "Tớ muốn vào trong ngôi nhà đá ấy và dựng mấy căn nhà nhỏ." "Không được." "Cậu xấu tính thế." "Không phải." "Đồ xấu tính” "Tớ không xấu tính." Scarlett thọc tay vào túi áo khoác rồi đi xuống chân đồi mà không thèm chào tạm biệt, trong bụng tin chắc Bod cố tình từ chối mình nhưng cũng ngờ ngợ là mình đã đối xử một cách không công bằng, và điều đó làm cô bé càng bực dọc hơn. Tối hôm đó, trong lúc ăn cơm, cô bé hỏi bố mẹ xem có ai đến vùng này trước người La Mã không. "Con nghe kể về người La Mã ở đâu thế?" bố cô bé hỏi. "Ai mà chẳng biết về người La Mã ạ," Scarlett đáp với vẻ khinh khỉnh tột độ. "Thế có ai không ạ?" "Có người Xen tơ," mẹ cô bé đáp. "Họ đã đến đây trước. Họ định cư trước người La Mã. Chính người La Mã đã chinh phục đất của họ." Trên chiếc ghế dài bên cạnh nhà thờ cũ, Bod cũng đang có cuộc trò chuyện tương tự. "Người già nhất à?" chú Silas hỏi. "Nói thật thì Bod ạ, chú cũng không biết nữa. Người già nhất trong nghĩa địa mà chú từng gặp là Caius Pompeius. Nhưng trước khi người La Mã kéo đến thì ở đây đã có người rồi. Rất nhiều người, cách đây lâu lắm. Cháu học bảng chữ cái thế nào rồi?" "Cháu nghĩ là tốt ạ. Khi nào cháu được học các chữ liền nhau ạ?" Chú Silas ngừng một lát. "Chú dám chắc trong số những nhân tài được mai táng ở đây, ít nhất cũng phải có vài giáo viên," chú nói, sau một hồi lâu ngẫm nghĩ. "Chú sẽ đi hỏi xem sao." Bod rất phấn khích. Nó tưởng tượng rằng trong tương lai mình có thể đọc được tất cả mọi thứ, có thể khám phá và tìm hiểu mọi câu chuyện. Khi chú Silas rời khỏi nghĩa địa để lo liệu những việc riêng của mình, Bod đến chỗ cây liễu cạnh nhà thờ cũ, rồi gọi Caius Pompeius. Ông cụ người La Mã từ trong mộ bước ra, vừa đi vừa ngáp dài. "A. Phải rồi. Thằng bé còn sống", cụ nói. "Cháu khỏe không, chú bé còn sống?" Bod đáp, "Cháu rất khoẻ ạ, thưa cụ." "Tốt. Ta rất mừng." Mái tóc của ông già người La Mã bàng bạc dưới ánh trăng, và cụ khoác chiếc áo choàng toga vốn đã mặc khi được an táng, bên trong là một cái áo cùng đôi xà cạp bằng len dày, vì đây là một vùng đất lạnh giá nằm ở tận cùng thế giới. Nơi duy nhất lạnh hơn là vùng Caledonia (tên thời La mã của Scotland) ở phía Bắc, người ở đó là lũ mọi rợ giống loài thú hơn là con người, với bộ lông màu đỏ cam, quá man dại đến nỗi người La Mã không thèm chinh phục, và chẳng mấy chốc chúng đã bị giam cầm trong mùa đông vĩnh cửu của xứ sở đó. "Cụ có phải người già nhất không ạ?" Bod hỏi. "Người già nhất trong nghĩa địa ấy à? Chính thế. "Vậy cụ là người đầu tiên được chôn ở đây ạ?" Ông cụ ngần ngừ. "Gần như là người đầu tiên," Caius Pompeius đáp. "Trước người Xentơ, trên hòn đảo này còn có những tộc người khác. Một người trong số họ đã được chôn ở đây." "Thế ạ." Bod ngẫm nghĩ một lát. "Mộ ông ấy ở đâu ạ?" Caius chỉ lên đồi. "Ông ấy ở trên đỉnh đồi” Bod nói. Caius lắc đầu. "Không thì ở đâu ạ?" Ông cụ người La Mã đưa tay xoa đầu Bod. "Trong đồi," cụ đáp. "Trong lòng đồi. Ta được đưa đến đây đầu tiên, đi theo hộ tống linh cữu là bạn bè, các quan chức trong vùng và những người đóng thế đeo mặt nạ bằng sáp mang hình người vợ chết vì bệnh sốt ở Camu lodonum và người cha bị giết trong một trận ẩu đả ở biên giới Gauln của ta (Camulodoum là tên thời La Mã của Colchester, một thành phố thuộc Essex ở phía Đông nước Anh. Đây là thành phố đầu tiên ở Anh mà ngườỉ La Mã chinh phục được. Gaul là tên thời La Mã của một xứ ở Tây Âu, bao gồm những vùng ngày nay là Pháp, Bỉ, phía Tây Thụy Sĩ, một phần Hà Lan, và một phần Đức phía Tây mạng sông Rhine) Ba trăm năm sau khi ta chết, một người nông dân trong lúc đi tìm địa điểm thả cừu mới đã tìm thấy một tảng đá chắn trước miệng hang, ông ta liền vần nó ra chỗ khác rồi đi xuống lòng đồi, tưởng là dưới đó có châu báu. Một lát sau ông ta chạy ra, mái tóc lúc trước sẫm màu thì hóa ra bạc trắng như tóc ta..." "Ông ấy đã trông thấy gì ạ?" Caius không đáp, sau đó cụ nói, "Ông ta không chịu kể lại. Ông ta cũng không dám quay lại nữa. Người ta vần hòn đá chắn miệng hang lại, và lâu dần quên bẵng đi mất. Thế rồi, hai trăm năm trước, khi đang xây hầm mộ cho nhà Frobisher, họ lại tìm thấy nó. Vì mơ tưởng đến kho báu, chàng trai tìm thấy miệng hang đã không cho ai biết và trốn trong ngưỡng cửa, đằng sau quan tài của Ephraim Pettyfer, rồi đến đêm thì mò xuống dưới hang mà không ai trông thấy, hoặc là anh ta tưởng không ai trông thấy." "Khi chui lên thì tóc anh ta có bị bạc không ạ?" "Anh ta không trở lên nữa." "Ừm. Thế ạ. Thế ai được chôn ở dưới đấy ạ?" Caius lắc đầu. "Ta không biết, cậu Owens ạ. Nhưng ta có thể cảm nhận được người đó, khi nơi này vẫn còn trống trải. Khi ấy ta đã cảm thấy có một thứ gì đó đang chờ đợi, sâu tít trong lòng đồi." ''Ông ta đang đợi cái gì ạ?" "Ta chỉ có thể cảm thấy sự chờ đợi mà thôi” Caius Pompeius trả lời. º º º Scarlett, tay cầm cuốn truyện tranh khổ lớn, đang ngồi cạnh mẹ trên chiếc ghế dài màu xanh đặt gần cổng chính, và cô bé đọc truyện trong khi mẹ xem xét một bản phụ trương giáo dục. Cô bé tận hưởng ánh nắng xuân và cố hết sức phớt lờ chú nhóc đang vẫy tay gọi mình từ đằng sau một đài tưởng niệm phủ đầy dây trường xuân, rồi khi cô bé cương quyết không chịu nhìn về phía đài tưởng niệm đó nữa, thì thằng bé bật lên - bật lên thực sự, như con rối gắn lò xo trong hộp - đằng sau một tấm bia mộ (Joji G. Shoji, mất năm 1921, Tôi là người lạ và các bạn đã đón nhận tôi). Nó rối rít ra hiệu cho cô bé. Cô bé vẫn tảng lờ. Cuối cùng, cô đặt cuốn truyện xuống ghế. "Mẹ ơi? Con đi dạo một tí đây” "Đừng rời khỏi lối đi nhé, cưng." Cô bé men theo lối đi cho đến khi vòng qua một khúc quanh, và cô có thể trông thấy Bod đang đứng vẫy gọi cô trên đồi. Cô bé nhăn mặt với nó. "Tớ đã khám phá ra được mấy chuyện” Scarlett bảo. "Tớ cũng thế” Bod nói. "Trước người La Mã ở đây đã có người rồi” cô bé nói. "Trước người La Mã rất lâu. Họ sống, ý tớ là, khi họ chết thì người ta chôn họ vào trong lòng đồi, cùng với châu báu và các thứ tương tự như thế. Và người ta gọi chúng là gò chôn cất." "Ồ. Phải rồi," Bod nói. "Thảo nào. Thế cậu có muốn xem một cái gò chôn cất không?" "Ngay bây giờ à?" Scarlett có vẻ nghi ngờ. "Cậu không biết ở đây có gò chôn cất thật hay không chứ gì? Với lại cậu biết là tớ không đi theo cậu khắp mọi nơi được mà." Cô bé đã trông thấy Bod đi xuyên qua tường như một cái bóng. Để đáp lại, thằng bé giơ lên một chiếc chìa khóa to bằng sắt đã hoen gỉ. "Tớ lấy trong nhà thờ đấy," nó bảo. "Cái chìa này sẽ mở được tất tật các cánh cửa trên đồi. Họ dùng chung một chìa cho tất cả khóa. Như thế đỡ tốn công hơn." Cô bé theo nó trèo lên đồi. "Cậu nói thật đấy chứ?" Thằng bé gật đầu với nụ cười vui thích ở khóe miệng. "Đi nào," nó nói. º º º Đó là một ngày xuân hoàn hảo, trong không trung rộn rã tiếng chim hót cùng tiếng bầy ong vo ve. Những bông thủy tiên vàng ngả nghiêng trong làn gió nhẹ, và đây đó trên sườn đồi, mấy bông uất kim hương nở sớm cũng đang gật gù. Trên những sườn đồi xanh cỏ phủ một lớp hoa lưu ly xanh lơ như rắc phấn, điểm thêm những bông anh thảo lớn màu vàng nhạt. Hai đứa trẻ trèo lên đồi đi về phía cái lăng nhỏ của dòng họ Frobisher. Cái lăng có kiến trúc cổ, đơn giản, chỉ là một căn nhà nhỏ bỏ hoang xây bằng đá với cánh cổng sắt làm cửa ra vào. Bod dùng chìa khóa mở cổng, rồi hai đứa bước vào. "Nó là một cái hố," Bod nói. "Hoặc một cánh cửa Đằng sau một trong những cái quan tài kia kìa." Chúng tìm thấy miệng hang đằng sau một cái quan tài ở ngăn giá dưới cùng - chỉ vừa cho một người chui lọt. "Ở dưới ấy," Bod nói. "Bọn mình phải trèo xuống." Scarlett đột nhiên cảm thấy cuộc phiêu lưu mạo hiểm không còn hứng thú cho lắm nữa. Cô bé nói, "Ở dưới ấy thì bọn mình nhìn làm sao được. Tối lắm." "Tớ không cần ánh sáng," Bod nói. "Chừng nào tớ còn ở trong nghĩa địa thì tớ không cần ánh sáng." "Nhưng tớ cần," Scarlett nói. "Tối lắm." Bod nghĩ đến những điều nó có thể nói để làm cô bạn yên lòng, ví dụ như "ở dưới đấy chẳng có gì đáng sợ đâu” nhưng những chuyện về tóc bị bạc và người chui xuống không bao giờ trở lên khiến cho nó không thể nói những câu như vậy mà không bị lương tâm cắn rứt, vì thế nó bảo, "Tớ sẽ xuống. Cậu đợi tớ ở trên này." Scarlett nhíu mày. "Cậu không nên bỏ tớ lại chứ." "Tớ sẽ trèo xuống," Bod nói, "để xem có ai ở dưới ấy, rồi sẽ quay lên kể cho cậu nghe." Nó quay sang miệng hang, cúi xuống rồi chống hai bàn tay và đầu gối bò lồm cồm qua. Nó chui xuống một chỗ đủ cao để đứng thẳng lên được và nhìn thấy những bậc thang đẽo vào nền đá. "Tớ sẽ đi xuống các bậc thang bây giờ đây," nó nói vọng lên. "Cầu thang có dẫn sâu xuống dưới không?" "Tớ nghĩ là có." "Nếu cậu nắm tay chỉ đường cho tớ, thì tớ sẽ đi cùng cậu” cô bé nói. "Nếu cậu đảm bảo sẽ không để tớ bị làm sao." 'Tất nhiên rồi," Bod nói, và nó chưa dứt lời thì cô bé đã bò qua miệng hang đến chỗ nó. "Cậu đứng thẳng dậy được đấy," Bod bảo. Nó nắm tay cô bé. "Các bậc thang ở ngay đây thôi. Cậu đưa chân về phía trước là sẽ thấy. Đấy. Rồi, tớ đi trước nhé." "Cậu nhìn thấy đường đi thật à?" cô bé hỏi. 'Tối thật," Bod nói. "Nhưng tớ vẫn nhìn được." Nó dẫn Scarlett xuống cầu thang, đi sâu vào lòng đồi, vừa đi vừa miêu tả lại mọi thứ nó nhìn thấy. "Các bậc thang dẫn xuống dưới," nó nói. "Làm bằng đá. Xung quanh bọn mình cũng toàn là đá. Trên tường có bức tranh gì ấy." "Tranh vẽ gì?" "Tớ nghĩ một chữ B là Bò to tướng, đầy lông lá. Có cả sừng nữa. Rồi một cái gì đó trông giống như hoa văn, hình cái nút thắt to. Mà hình như nó được khắc vào đá, chứ không chỉ là vẽ thôi, cậu thấy không?" và nó cầm ngón tay cô bé đặt lên hình cái nút được khắc trên nền đá. "Tớ sờ thấy rồi!" cô bé reo lên. "Giờ thì các bậc thang rộng hơn rồi. Bọn mình đang đi xuống một căn phòng rộng, nhưng vẫn còn bậc thang dẫn xuống đấy. Đừng cử động nhé. Được rồi, bây giờ tớ đã ở giữa cậu và căn phòng rồi. Cậu bám tay trái vào tường ấy." Chúng tiếp tục đi xuống. "Chỉ một bậc nữa là bọn mình xuống đến nền đá rồi," Bod nói. "Sàn hơi gồ ghề đấy." Đó là một căn phòng hẹp. Trên sàn có đặt một phiến đá nhẵn, và ở góc phòng là một gờ đá thấp, trên có mấy vật nho nhỏ. Trên sàn có những khúc xương đã cao tuổi lắm rồi, nhưng dưới những bậc thang dẫn vào phòng, Bod trông thấy một xác chết nằm rúm ró, khoác chiếc áo choàng nâu dài mục nát - chắc hẳn là chàng trai đã mơ tưởng đến các kho báu, Bod đoán. Hẳn anh ta đã trượt chân ngã trong bóng tối. Một tiếng động vang lên quanh chúng, một tiếng lào rào xào xạc như con rắn đang trườn qua đám lá khô. Scarlett siết chặt tay Bod hơn. "Cái gì thế? Cậu có trông thấy gì không?" "Không." Scarlett thốt lên một tiếng kêu nửa hoảng hốt nửa rên rỉ sợ hãi, rồi Bod nhìn thấy một thứ, và không cần hỏi nó cũng biết cô bé cũng trông thấy vật đó. Một luồng sáng phát ra từ cuối căn phòng, và trong ánh sáng đó, một người đàn ông hiện ra, bước xuyên qua bức tường đá, và Bod nghe thấy một tiếng thét nghẹn lại trong họng Scarlett. Người đàn ông có vẻ được bảo quản tốt, nhưng nhìn vẫn giống một cái xác đã chết lâu lắm rồi. Da ông ta nom như được tô vẽ (theo ý của Bod) hoặc xăm trổ (theo ý của Scarlett) với những họa tiết và hoa văn màu tím ngắt. Trên cổ ông ta có đeo một chuỗi vòng làm bằng những chiếc răng dài, nhọn. "Ta là chủ nhân của nơi này!" người đó thốt lên bằng những từ ngữ có vẻ cổ xưa và được thốt ra gầm ghè đến nỗi gần như không nghe nổi. "Ta bảo vệ nơi này khỏi những kẻ muốn làm hại nó!" Hai mắt ông ta mở trừng trừng. Bod nhận ra đó là vì quanh mắt ông ta có hai vòng tròn lớn màu tím khiến mặt ông ta nom như mặt cú. "Ông là ai?" Bod hỏi. Vừa nói nó vừa nắm chặt tay Scarlett. Người Da Chàm hình như không nghe thấy câu hỏi. Ông ta hung dữ nhìn hai đứa bé. "Cút khỏi đây ngay!" ông ta thốt lên những lời xuyên thẳng vào đầu Bod, những lời nghe như một tiếng gầm gừ trầm đục. "Ông ta có định giết bọn mình không?" Scarlett hỏi. "Tớ nghĩ là không," Bod nói. Rồi nó nói với Người Da Chàm như đã được dạy, "Tôi có Quyền Tự do Đi lại Trong Nghĩa địa, và tôi có thể đi đến bất kỳ nơi nào tôi muốn." Người Da Chàm không phản ứng gì trước câu nói này, điều đó khiến Bod càng ngạc nhiên hơn, bởi vì ngay cả những cư dân khó tính nhất của nghĩa địa khi nghe thấy câu ấy cũng phải bình tĩnh lại. Bod hỏi, "Scarlett, cậu có nhìn thấy ông ta không?" "Tất nhiên là có. Ông ta khắp người đầy hình xăm trông sợ lắm, và ông ta muốn giết bọn mình. Bod, đuổi ông ta đi đi!" Bod nhìn thi thể của chàng trai trong chiếc áo choàng nâu. Bên cạnh anh ta có một cây đèn đã vỡ vì bị rơi xuống nền đá. "Anh ta đã bỏ chạy," Bod nói to. "Anh ta chạy vì sợ quá. Và anh ta đã trượt chân hoặc vấp vào bậc thang và ngã xuống." "Ai cơ?" "Người nằm trên sàn ấy." Giọng Scarlett trở nên bực dọc hơn, pha lẫn bối rối và hoảng sợ. "Người nào nằm trên sàn? Tối quá. Tớ chỉ nhìn thấy người có hình xăm kia thôi” Rồi sau đó, như để đảm bảo rằng hai đứa trẻ biết đến sự có mặt của mình, Người Da Chàm ngửa đầu về phía sau và phát ra một loạt tiếng hú, những tiếng gào thét từ sâu trong cổ họng khiến Scarlett nắm tay Bod chặt đến nỗi móng tay của cô bé ấn vào da thịt nó. Nhưng Bod lại không thấy sợ nữa. "Tớ xin lỗi vì đã bảo rằng họ chỉ là người tưởng tượng," Scarlett nói. "Bây giờ tớ tin rồi. Tất cả đều là người thật." Người Da Chàm giương cao một vật gì đó trên đầu. Nom nó giống như một lưỡi dao sắc bằng đá. "Kẻ nào dám xâm phạm tới nơi này sẽ phải chết!" ông ta gào lên bằng cái giọng gầm ghè của mình. Bod nhớ đến người nông dân đã bị bạc trắng cả tóc sau khi phát hiện ra căn hầm này, nhớ đến chuyện ông ta không bao giờ dám quay lại nghĩa địa hay kể cho người khác nghe những điều đã nhìn thây. "Không," Bod nói. "Tớ nghĩ cậu nói đúng. Tớ nghĩ người này đúng là như thế." "Là như thế nào?" "Là người tưởng tượng ấy." "Đừng có ngốc thế chứ," Scarlett nói. "Tớ nhìn thấy ông ta mà." "Đúng vậy," Bod đáp. "Mà cậu thì có nhìn được người chết đâu." Nó nhìn quanh căn buồng. "Ông có thể thôi đi được rồi đấy," nó nói. "Chúng tôi biết ông không phải người có thật." "Ta sẽ ăn gan hút tủy các ngươi!" Người Da Chàm gầm lên. "Còn lâu," Scarlett nói, kèm theo tiếng thở dài nhẹ nhõm. "Bod nói đúng." Rồi cô bé thêm vào, "Tớ nghĩ ông ta là bù nhìn." "Bù nhìn là cái gì?" Bod hỏi. "Một thứ mà nông dân đặt ở ngoài ruộng để dọa lũ chim quạ." "Tại sao họ làm thế?" Bod rất thích lũ quạ. Nó nghĩ chúng là những con chim rất hay, và nó thích cái cách chúng giúp nghĩa địa luôn gọn gàng sạch sẽ. "Tớ cũng không chắc. Tớ sẽ hỏi mẹ. Nhưng khi đi trên tàu tớ đã thấy một con bù nhìn và tớ đã hỏi đây là cái gì. Bọn quạ tưởng đấy là người thật. Nó chỉ là một thứ giả vờ, trông giống người nhưng không phải là người. Nó chỉ để dọa lũ quạ thôi." Bod nhìn quanh phòng. Nó nói, "Cho dù ông có là ai đi chăng nữa thì cũng chẳng ích gì đâu. Không dọa được bọn tôi đâu. Bọn tôi biết ông không có thật. Thôi đi." Người Da Chàm dừng lại. Ông ta bước đến chỗ phiến đá nhẵn rồi nằm xuống đó. Và ông ta biến mất. Scarlett thấy căn buồng lại chìm trong bóng tối. Nhưng trong bóng tối, cô bé lại nghe thấy những tiếng lạo xạo xào xạc, mỗi lúc một to hơn, như thể có vật gì đó đang bay quanh căn phòng hình tròn ấy. Một cái gì đó lên tiếng, CHÚNG TALÀ SÁT THỦ. Tóc gáy Bod dựng ngược lên. Giọng nói vang lên trong đầu nó là một thứ vô cùng già cỗi và khô khan, tựa như tiếng cành cây khô cọ vào cửa sổ nhà thờ, và Bod cảm thấy hình như có nhiều giọng nói đang đồng thanh lên tiếng. "Cậu nghe thấy không?" "Tớ chẳng nghe thấy gì cả, chỉ thấy tiếng lào xào thôi. Nó làm tớ thấy lạ lắm. Tớ thấy bồn chồn. Như có một chuyện gì rất khủng khiếp sắp xảy ra." "Chẳng có chuyện khủng khiếp nào sắp xảy ra hết," Bod nói. Rồi nó cất giọng hỏi căn phòng, "Các người là cái gì?" CHÚNG TA LÀ SÁT THỦ. CHÚNG TA CANH GIỮ VÀ BẢO VỆ. "Các người bảo vệ cái gì?" BẢO VỆ NƠI AN NGHỈ CỦA CHỦ NHÂN. ĐÂY LÀ NƠI LINH THIÊNG NHẤT TRONG NHỮNG NƠI LINH THIÊNG, VÀ NÓ ĐƯỢC SÁT THỦ BẢO VỆ. "Các người không đụng đến bọn ta được," Bođ nói. "Các người chỉ dọa bọn ta được thôi." Giọng nói xào xạc kia tỏ ra bực tức. SỢ HÃI LÀ MỘT VŨ KHÍ CỦASÁT THỦ. Bod nhìn xuống gờ đá. "Kia là kho báu của chủ nhân các người à? Một cái trâm cài cũ, một cái cốc, với một con dao bằng đá? Trông chẳng dáng gì." SÁT THỦ CANH GIỮ BÁU VẬT. TRÂM CÀI, CHIẾC CHÉN, CON DAO. CHÚNG TA CANH GIỮ CHÚNG CHO CHỦ NHÂN, ĐỢI ĐẾN KHI NGƯỜI QUAY LẠI. KHO BÁU SẼ TRỞ VỀ. NÓ LUÔN TRỞ VỀ. "Các người có bao nhiêu cả thảy?" Nhưng bọn Sát thủ không đáp lại. Trí óc Bod cảm thấy như bị bao phủ bởi một lớp mạng nhện, và nó lắc mạnh đầu hòng rũ sạch cảm giác ấy. Rồi nó siết chặt tay Scarlett. "Bọn mình nên đi thôi," nó nói. Nó dẫn cô bé đi qua cái xác trong chiếc áo nâu - và Bod nghĩ, thật ra, nếu người đó không hoảng sợ mà vấp ngã thì anh ta hẳn đã rất thất vọng với cuộc tìm kiếm kho báu của mình. Kho báu của mười ngàn năm trước chẳng phải là kho báu của ngày hôm nay nữa. Bod cẩn thận dẫn Scarlett đi lên cầu thang, xuyên qua lòng đồi, và quay về cái lăng cũ của dòng họ Frobisher, nhô lên trên đỉnh đồi như một khối đá đen. Ánh nắng cuối xuân chiếu qua những khe hở trong tòa nhà, xuyên qua các chấn song cửa, sáng rực đến sững người, làm Scarlett phải chớp chớp che mắt lại cho khỏi chói. Chim vẫn hót líu lo trong những bụi cây, một con ong nghệ vo ve bay qua, tất cả đều bình thưởng một cách kỳ lạ. Bod đẩy cửa lăng mở ra, rồi sau khi chúng đã ra ngoài, nó khóa lại cửa như cũ. Bộ quần áo sặc sỡ của Scarlett bám đầy đất bẩn và mạng nhện, bàn tay cùng khuôn mặt có nước da nâu của cô bé bạc đi vì bụi. Đâu đó dưới sườn đồi, có người nào đó - một số người nào đó - đang hét gọi. Hét gọi rất to. Hét gọi hoảng hốt. Ai đó gọi, "Scarlett? Scarlett Perkins?" vậy là Scar-lett đáp lại, "Vâng? Ai đấy ạ?" và cô bé chưa kịp bàn bạc với Bod về những gì chúng vừa nhìn thấy hoặc nói chuyện với nó về Người Da Chàm, thì một người phụ nữ mặc chiếc áo màu vàng dạ quang có chữ CẢNH SÁT trên lưng đã hiện ra, hỏi Scarlett có sao không, hỏi cô bé đã đi đâu, có ai định bắt cóc cô không, rồi người phụ nữ lôi ra một chiếc bộ đàm và thông báo đã tìm thấy đứa bé. Bod nhảy chân sáo theo họ bước xuống đồi. Cửa nhà thờ đang mở, và bố mẹ Scarlett đang đứng đợi trong đó cùng một bà cảnh sát, mẹ cô thì khóc còn bố lo lắng nói chuyện với ai đó qua điện thoại di động, cùng một bà cảnh sát. Không ai nhìn thấy Bod đứng nép vào một góc chờ đợi. Mọi người liên tục hỏi Scarlett chuyện gì đã xảy ra, và cô hết sức thật thà kể lại rằng một cậu bé tên là Không Ai Cả đã dẫn cô vào sâu trong lòng quả đồi, ở đó có một người đàn ông khắp mình xăm trổ tím ngắt hiện ra trong bóng tối nhưng thực ra ông ta chỉ là một con bù nhìn thôi. Họ cho cô bé một thanh kẹo sô cô la, lau mặt cho cô bé và hỏi xem người đàn ông xăm mình kia có đi xe máy không, trong khi bố mẹ của Scarlett, giờ đã hoàn hồn và không còn lo cho cô bé nữa, thì lại nổi giận với cô bé và với chính mình, rồi người nọ đổ lỗi cho người kia vì đã để cho cô con gái chạy chơi trong nghĩa địa, cho dù nó có là khu bảo tồn thiên nhiên đi chăng nữa, và rằng ngày nay đâu đâu cũng đầy rẫy nguy hiểm, nếu không để mắt đến con cái mình từng ly từng tí thì sẽ chẳng biết được chúng sẽ gặp phải những chuyện khủng khiếp gì. Nhất là một đứa bé như Scarlett. Mẹ của Scarlett bắt đầu khóc nức nở, làm Scarlett cũng khóc theo, rồi một bà cảnh sát cãi nhau với bố của Scarlett, ông bảo với bà ta rằng chính tiền thuế do ông đóng đã được dùng để trả lương cho bà ta, và bà ta đáp lại rằng bà ta cũng đóng thuế và có lẽ tiền thuế ấy đã được dùng để trả lương cho chính ông, trong khi Bod ngồi trong bóng tối ở góc nhà thờ, không ai nhìn thấy, kể cả Scarlett, và nó quan sát, lắng nghe cho đến khi không chịu nổi nữa. º º º Trong nghĩa địa đã chập choạng tối, và chú Silas tìm thấy Bod đang ngồi ở khu giảng đường, nhìn xuống thành phố bên dưới. Chú đứng cạnh nó mà không nói gì, đúng như phong cách quen thuộc của chú. "Đó không phải lỗi của bạn ấy," Bod nói. "Mà là lỗi của cháu. Thế mà bây giờ bạn ấy lại gặp rắc rối." "Cháu đã dẫn cô bé đi đâu?" chú Silas hỏi. "Xuống lòng quả đồi để xem ngôi mộ cổ nhất ạ. Nhưng ở đó chẳng có ai hết. Chỉ có một thứ giống như con rắn, tên là Sát thủ, đe dọa mọi người” "Ly kỳ quá nhỉ” Hai chú cháu cùng nhau đi xuống đồi, quan sát cánh cửa nhà thờ cũ lại bị khóa chặt và cảnh sát cùng Scarlett với bố mẹ cô bé rời đi, biến mất trong màn đêm. "Cô Borrows sẽ dạy cháu các chữ viết liền nhau," chú Silas nói. "Cháu đã đọc quyển Chú mèo đội mũ chưa?" "Rồi ạ," Bod đáp. "Cháu đọc từ lâu rồi. Chú đem thêm sách về cho cháu được không ạ?" "Được chứ," chú Silas nói. "Chú có nghĩ là cháu sẽ được gặp lại bạn ấy không?" "Cô bé ấy à? Chú không nghĩ cháu sẽ gặp lại cô bé nữa đâu." Nhưng chú Silas đã nhầm. Ba tuần sau, vào một buổi chiều xám xịt, Scarlett đi đến nghĩa địa, cùng cả bố lẫn mẹ. Bố mẹ một mực bắt cô bé phải ở trong tầm mắt, tuy nhiên họ đi cách cô bé một quãng. Chốc chốc mẹ của Scarlett lại kêu lên chuyện này thật là bệnh hoạn, và thật tốt là họ sắp sửa vĩnh viễn bỏ lại tất cả những điều này. Khi bố mẹ Scarlett quay sang nói chuyện với nhau, Bod liền lên tiếng, "Chào cậu." "Chào," Scarlett lí nhí đáp. "Tớ cứ nghĩ là sẽ không được gặp lại cậu nữa." "Tớ bảo bố mẹ là tớ sẽ không đi nếu bố mẹ không đưa tớ đến đây một lần cuối cùng” "Đi đâu cơ?" "Scotland. Ở đấy có trường đại học. Có chỗ cho bố tớ dạy vật lý hạt nhân." Hai đứa cùng nhau đi một quãng, cô bé trong chiếc áo khoác màu da cam rực rỡ còn cậu bé trong tấm vải liệm màu xám. "Scotland cách đây xa không?" "Có," cô bé đáp. "Ồ." "Tớ đã mong là cậu sẽ có ở đây. Để chào tạm biệt." "Lúc nào tớ cũng ở đây mà." "Nhưng cậu không phải người chết, phải không, Nobody Owens?" "Tất nhiên là không rồi." "Vậy đấy, cậu không thể ở đây cả đời được. Phải không? Một ngày kia cậu sẽ lớn lên, khi ấy cậu sẽ phải ra sống ở thế giới bên ngoài” Nó lắc đầu. "Ở ngoài ấy với tớ không an toàn” "Ai bảo thế?" "Chú Silas. Gia đình tớ. Tất cả mọi người” Cô bé không nói gì. Bố cô bé gọi, "Scarlett! Đi thôi, cưng. Đến giờ rồi. Con đã được đến nghĩa địa một lần cuốỉ. Giờ mình về nhà thôi” Scarlett nói với Bod, "Cậu rất dũng cảm. Cậu là người dũng cảm nhất tớ từng biết, và cậu là bạn tớ. Cho dù cậu có là người tưởng tượng đi chăng nữa thì cũng chẳng sao." Rồi cô bé chạy xuôi con đường, trở về với bố mẹ mình, trở về với thế giới bên ngoài. Chương 3 BẦY KHUYỂN BINH CỦA CHÚA TRONG MỖI KHU NGHĨA ĐỊA ĐỀU CÓ MỘT NGÔI MỘ thuộc bọn quỷ nhập tràng. Nếu đi lang thang trong nghĩa địa đủ lâu thì bạn sẽ tìm thấy nó - một ngôi mộ lớn, ẩm mốc, với tấm bia nứt rạn hoặc vỡ nát, xung quanh là những búi cỏ lởm chởm hoặc cây dại um tùm, và khi đến gần, bạn sẽ thấy nó toát lên cảm giác hoang phế. Tấm bia mộ cũng lạnh lẽo hơn những bia mộ khác, tên khắc trên bia thường không đọc nổi nữa. Nếu trên ngôi mộ có một bức tượng thì nó thường bị mất đầu, hoặc bị rêu phong và địa y bám dầy đến nỗi nom chẳng khác nào một cục nấm mốc khổng lồ. Nếu trong nghĩa địa có một nấm mồ nom như nó luôn bị phá hoại lặt vặt, đó chính là cánh cổng của quỷ nhập tràng. Nếu ngôi mộ ấy khiến cho bạn cảm thấy muốn được ở một nơi nào khác, đó chính là cánh cổng của quỷ nhập tràng. Trong nghĩa địa của Bod có một nấm mồ như thế. Trong nghĩa địa nào cũng có một nấm mồ như thế. º º º Chú Silas sắp rời nghĩa địa. Bod đã rất buồn bực khi mới nghe tin này. Giờ thì nó không buồn nữa. Nó đang tức giận vô cùng. "Nhưng tại sao ạ?" Bod hỏi. "Chú đã nói rồi. Chú cần tìm hiểu một số thông tin. Để làm được điều đó thì chú phải đi xa. Mà để đi xa được thì chú phải rời khỏi đây. Chú cháu mình đã nói về việc này rồi mà." ''Nhưng có việc gì quan trọng đến nỗi chú phải đi?" Đầu óc một chú bé lên sáu của Bod cố tưởng tượng xem điều gì có thể khiến chú Silas muốn rời bỏ nó, nhưng nó không thể. "Thật không công bằng!". Người bảo trợ của nó vẫn không bị lay chuyển. "Đây không phải chuyện công bằng hay không, No-body Owens ạ. Nó phải xảy ra như thế thôi” Bod chẳng hề thấy ấn tượng. "Chú là người trông nom cháu. Chú đã hứa rồi mà." "Với tư cách người bảo trợ, chú có trách nhiệm với cháu, đúng thế. Nhưng may mắn thay, chú không phải người duy nhất trên đời sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm ấy." "Chú định đi đâu thế?" "Ra ngoài. Đi xa. Có những điều cần khám phá mà chú không thể khám phá ở đây được." Bod khịt mũi bỏ đi, co chân đá những hòn sỏi tưởng tượng. Ở phía Tây Bắc nghĩa địa, cỏ dại mọc quá um tùm, người trông coi nghĩa địa cùng hội Bằng Hữu Của Nghĩa dịa không đủ sức chế ngự chúng nữa, và thằng bé liền lang thang đến đó, đánh thức mấy đứa trẻ sống vào thời Victoria, tất cả đều mất trước khi tròn mười tuổi, rồi chúng chơi trốn tìm dưới ánh trăng, trong khu rừng rậm đầy dây trường xuân ấy. Bod cố ra vẻ như chú Silas sẽ không rời đi, mọi sự sẽ không hề thay dổi, nhưng khi chúng chơi xong và nó chạy về ngôi nhà thờ cũ, thì Bod trông thấy hai thứ khiến nó phải đổi ý. Thứ đầu tiên là một chiếc túi. Ngay khi nhìn thấy, Bod đã biết đó là túi của chú Silas. Cái túi ít ra cũng phải một trăm năm mươi tuổi, một vật tuyệt đẹp làm bằng da đen bóng với những cái khóa bằng đồng và tay xách màu đen, loại túi mà một bác sĩ hoặc một ông chủ hiệu đám tang thời Victoria thường mang theo, bên trong đựng tất cả những gì họ cần. Bod chưa bao giờ nhìn thấy túi của chú Silas, nó thậm chí còn không biết chú Silas có một cái, nhưng cái túi như thế thì chỉ có thể thuộc về chú Silas mà thôi. Bod toan nhòm vào trong, nhưng túi đã bị khóa chặt bởi một chiếc khóa móc bằng đồng. Cái túi lại quá nặng, nó không thể nhấc lên được. Đó là thứ đầu tiên. Còn cái thứ hai thì đang ngồi trên chiếc ghế dài bên cạnh nhà thờ. "Bod," chú Silas nói, "đây là cô Lupescu." Cô Lupescu chẳng xinh đẹp chút nào. Mặt cô nhăn nhúm, nét mặt khó đăm đăm. Cô có mái tóc bạc, mặc dù khuôn mặt cô nom vẫn còn trẻ. Hai chiếc răng cửa của cô hơi xiên xẹo. Cô mặc cái áo mưa rộng thùng thình và mang trên cổ chiếc cà vạt đàn ông. "Chào cô ạ, thưa cô Lupescu," Bod nói. Cô Lupescu không nói gì. Cô khịt mũi. Rồi cô nhìn chú Silas và nói, "Vậy đấy. Thì ra đây là thằng bé đó." Cô đứng dậy khỏi ghế, đi vòng quanh Bod, lỗ mũi phình ra như thể muốn đánh hơi nó. Khi đã đi đủ một vòng, cô nói, "Trò phải đến báo cáo với ta vào lúc thức dậy và trước khi đi ngủ. Ta đã thuê một phòng ở ngôi nhà đằng kia." Cô chỉ về một mái nhà lờ mờ xa xa, từ chỗ họ đứng chỉ thoáng trông thấy được. "Nhưng ta sẽ ở trong nghĩa địa này. Ta đến đây với tư cách một nhà sử học, nghiên cứu lịch sử các nấm mộ cổ. Trò có hiểu không? Dạ?" "Bod," Bod nói. "Tên em là Bod. Không phải là trò." "Tên tắt của Nobody," cô nói. "Cái tên ngớ ngẩn. Hơn nữa, Bod là tên thân mật. Là biệt danh. Ta không ưa các biệt danh. Ta sẽ gọi trò là 'trò'. Trò phải gọi ta là 'cô Lupescu'" Bod nhìn chú Silas van vỉ, nhưng trên mặt chú không có một thoáng thông cảm nào. Chú xách túi lên rồi nói, "Cháu sẽ được cô Lupescu chăm sóc cẩn thận, Bod à. Chú dám chắc hai cô trò sẽ rất hòa thuận với nhau." "Không đâu!" Bod kêu lên. "Cô ấy gớm lắm!" "Cháu nói thế là rất bất lịch sự," chú Silas nói. "Cháu phải xin lỗi cô ấy đi." Bod không chịu, nhưng chú Silas đang nhìn nó chăm chú với chiếc túi màu đen trong tay, sẵn sàng rời đi mà không biết đến bao giờ mới quay về, vì vậy nó đành nói, "Em xin lỗi, thưa cô Lupescu." Mới đầu cô Lupescu không đáp lại. Cô chỉ khịt mũi. Rồi cô nói, "Ta đã đi một quãng đường dài để đến đây chăm sóc trò. Ta hy vọng trò xứng đáng với công sức ta bỏ ra." Bod không thể nghĩ đến chuyện ôm chú Silas, vì vậy nó chìa tay ra và chú Silas cúi xuống nhẹ nhàng bắt tay nó, bàn tay to lớn, xanh xao của chú nắm gọn lấy bàn tay nhỏ bé, đầy vết bẩn của nó. Rồi chú nhấc chiếc túi da màu đen lên như thể nó chẳng nặng chút nào, bước xuống lối đi và ra khỏi nghĩa địa. Bod kể lại mọi chuyện cho bố mẹ nghe. "Chú Silas đi rồi," nó bảo. "Chú ấy sẽ quay về thôi," ông Owens vui vẻ nói. "Con đừng lo, Bod à. Silas luôn xuất hiện vào lúc ta ít ngờ nhất, như người ta thường nói ấy." Bà Owens thì bảo, "Khi con mới ra đời chú ấy đã hứa với bố mẹ là nếu phải rời đi, chú ấy sẽ tìm người đem thức ăn về và để mắt coi chừng con, và chú ấy đã làm đúng như thế. Chúng ta có thể tin cậy chú ấy." Đúng là chú Silas đã đi kiếm và để thức ăn trong hầm mộ hàng đêm cho nó, nhưng theo như Bod nghĩ, thì đó là điều ít đáng kể nhất trong số những điều chú Silas làm cho nó. Chú cho nó những lời khuyên sáng suốt, rành mạch và luôn đúng đắn; chú hiểu biết hơn người dân trong nghĩa địa, vì nhờ những chuyến du hành hàng dêm