🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Câu Chuyện Do Thái 1 – Lịch Sử Thăng Trầm Của Một Dân Tộc
Ebooks
Nhóm Zalo
Cuốn sách này dành tặng Đại Sứ Quán Israel tại Việt Nam Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
LỜI GIỚI THIỆU
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới đa dạng, nhiều sắc màu. Có những dân tộc bị vùi dập xuống tận bùn đen, rồi ngậm ngùi cho đó là “số phận”. Có những dân tộc luôn sẵn sàng tiến về phía trước, chấp nhận thách thức và nhờ vậy đã thành công, có những phát kiến, đóng góp vĩ đại cho nhân loại.
Người Do Thái và Quốc gia Do Thái Israel là một trong số rất ít các ví dụ điển hình. Trên thế giới có lẽ chưa có trường hợp nào như người Do Thái, cả một dân tộc chịu cảnh “thiên di”, sống lưu vong, phiêu bạt khắp nơi trên thế giới trên 2000 năm nhưng vẫn phục quốc thành công với nguyên bản sắc và tôn giáo của mình. Không chỉ có vậy, với tổng số 16 triệu người, tức chiếm khoảng 0,2% dân số thế giới, người Do Thái đã đứng ở đỉnh cao trong rất nhiều lĩnh vực và có đóng góp to lớn cho nhân loại, thể hiện rõ nhất qua việc họ giành được khoảng 30% tổng giải thưởng Nobel trong các lĩnh vực khoa học, kinh tế và y học từ trước đến nay.
Với một cuốn khảo cứu hơn 300 trang dưới tiêu đề “Câu chuyện Do Thái: Lịch sử thăng trầm của một Dân tộc”, tác giả Đặng Hoàng Xa, người đã dành rất nhiều thời gian và tâm sức cho đề tài này, đã vẽ nên một bức tranh lịch sử sống động trải dài qua 4000 năm đầy bi thương, nhưng cũng đầy quả cảm của dân tộc Do Thái. Với óc quan sát tinh tế, cộng với tư duy logic của người làm khoa học, tác giả Đặng Hoàng Xa đã đưa ra cách nhìn đa chiều về các yếu tố tôn giáo, văn hóa, kinh tế, chính trị, lịch sử và có những lý giải khá thuyết phục về câu chuyện thành công của người Do Thái cũng như quá trình hình thành và xây dựng đất nước của Nhà nước Israel hiện đại ngày nay.
Tuy câu chuyện là của người Do Thái và Nhà nước Israel, nhưng qua đây chúng ta cũng thấy có nhiều nét tương đồng về tinh thần bất khuất, không chịu lùi bước trước gian khó của người Việt và người Do Thái. Cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu về đất nước, con người Israel. Cái còn lại là câu hỏi còn bỏ
ngỏ cho bạn đọc là liệu chúng ta có thể học gì để thành công trong công cuộc phát triển và bảo vệ đất nước như người Do Thái?
TS. Hoàng Anh Tuấn
Viện trưởng Viện Nghiên cứu
Chiến lược Ngoại giao
LỜI CẢM TẠ
Cuốn sách này “Câu chuyện Do Thái: Lịch sử thăng trầm của một Dân tộc”, với nội dung trải dài 4000 năm lịch sử của dân tộc Do Thái, không thể hoàn thành nếu không có sự tham khảo các nguồn tri
thức vô tận từ sách vở, các bài báo thời sự, chính trị, các luận văn nghiên cứu của các học giả các trường đại học. Danh sách của những tư liệu này có thể nói là quá dài để liệt kê ra đây. Cuốn sách cũng không thể đến tay bạn đọc nếu không có sự giúp đỡ và ủng hộ của bạn hữu xa gần.
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm tạ đến Bà Meirav Eilon Shahar – Đại sứ của Israel tại Việt Nam – đã cho tôi cảm hứng để đặt bút viết cuốn sách này về dân tộc Do Thái của Bà, một dân tộc mà tôi vô cùng ngưỡng mộ. Tôi xin cảm ơn người bạn của tôi – Amit Bachenheimer – đã giúp duyệt lại nội dung của cuốn sách. Xin cảm ơn sự ủng hộ nhiệt tình của các bạn trong Đại sứ quán Israel. Đối với tôi sự ủng hộ của các bạn là vô giá.
Tôi cũng xin gửi lời cảm tạ chân thành đến Tiến sĩ Hoàng Anh Tuấn – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao đã viết lời giới thiệu cho cuốn sách; Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng – Tổng giám đốc Công ty CP Sách Thái Hà và cũng là người bạn rất tận tụy của tôi – cùng các bạn, các em trong Công ty CP Sách Thái Hà, đã hết lòng giúp đỡ để đưa cuốn sách này tới tay bạn đọc.
Cuối cùng, đó là lời cảm ơn đến các bạn của tôi trong “Nhóm Nghiên cứu Do Thái & Israel” – Trần Trọng Thành, Vũ Trọng Đại và Trần Thị Thu Hương – đã cho những ý kiến và lời khuyên đáng quí.
LỜI NÓI ĐẦU
▪ Quốc gia chính thức hiện nay của người Do Thái là Israel, thủ đô là Jerusalem.
▪ Thời điểm thành lập Nhà nước Israel hiện đại: ngày 14 tháng Năm năm 1948.
▪ Biểu tượng Do Thái giáo và Nhà nước Israel: ngôi sao sáu cánh (ngôi sao David).
▪ Dân số Israel ngày nay: 8.180.000 (thống kê năm 2014).
I
Nguồn: http://www.ibanet.org/Article/Detail.aspx?ArticleUid=d240e809-c5e1-4bee-9a8f c0a9d208693e
Bản đồ Israel hiện đại
srael đứng ở ngã ba của châu Âu, châu Á và châu Phi. Về mặt địa
lý, Israel thuộc về châu Á. Lãnh thổ Israel nằm ở rìa phía Đông của Biển Địa Trung Hải thuộc bán đảo Ả Rập ngay giữa trung tâm của vùng Trung Đông(1). Vị trí địa lý của Israel là một nghịch
cảnh: một đất nước nhỏ mang tín ngưỡng Do Thái giáo, vây quanh là các láng giềng Ả Rập Hồi giáo đầy thù hận. Chính sự khác biệt và thù nghịch mang nặng màu sắc tôn giáo của các nước Ả Rập Hồi giáo láng giềng đối với Israel là một trong những lý do chính châm ngòi cho những bất ổn chính trị cho cả khu vực Trung Đông cả trăm năm nay.
Tại sao Israel ngày nay lại là một điểm “nóng” tại Trung Đông và là tâm điểm chú ý của toàn thế giới, cả về những xung đột đầy bạo lực cũng như những thành tựu về kinh tế, văn hóa và con người đến ngạc nhiên như thế?
Một vài học giả phương Tây nhận định rằng một phần ba nền văn minh phương Tây mang dấu ấn của tổ tiên Do Thái. Chúng ta có thể cảm nhận sức nặng của nhận định này từ những tên gọi như Abraham Lincolh(2) – tên của tổng thống thứ 16 của nước Mỹ, cho đến bức tượng nổi tiếng David(3)của điêu khắc gia người Ý Michaelangelo; từ tên tuổi các tư tưởng gia đã làm thay đổi tư duy của thế giới như Albert Einstein, Sigmund Freud; các chính trị gia lỗi lạc Henry Kissinger, Thủ tướng Áo Bruno Kreisky, Thủ tướng Pháp Pierre Mendès…; các văn sĩ nổi tiếng Franz Kafa, Isasc Asimov, Shai Agnon…; các nhạc sĩ cổ điển Isaac Stern, Yascha Heifetz, Arthur Rubinstain… Cho đến năm 2011 giải Nobel đã được trao cho trên 800 nhân vật và các tổ chức xã hội thì trong đó xấp xỉ trên 180 người là người gốc Do Thái, tức là chiếm 22% số nhân vật được coi là những trí tuệ hàng đầu của nhân loại. Ở nước Mỹ hiện nay có 1/3 triệu phú và 20% giáo sư các trường đại học hàng đầu thế giới là người Do Thái.
Những tên tuổi và những con số rất ấn tượng này phần nào đã nói lên tầm ảnh hưởng của trí tuệ Do Thái đối với văn minh phương Tây. Song trên thực tế ảnh hưởng thực sự của trí tuệ Do Thái cổ đối với văn minh phương Tây lại nằm ở một phạm vi sâu rộng hơn rất
nhiều, đặc biệt trong việc văn minh phương Tây tiếp nhận quan điểm của người Do Thái trong cách kiến giải những vấn đề sâu sắc của đời sống, đặt nền móng cho việc xây dựng một cơ cấu xã hội ổn định và hiệu quả. Ngay những văn kiện sáng lập của nước Mỹ, trong đó có Tuyên ngôn Độc lập, Hiến pháp và Tuyên ngôn Nhân quyền, đều dựa trên những nguyên tắc đạo đức của Kinh Torah. Hệ thống pháp luật của các tiểu bang, liên bang và các địa phương ở Mỹ cũng đều có nguồn gốc từ Kinh Torah.
Văn minh Do Thái không để lại những kiến trúc nổi tiếng như những kim tự tháp, điện Pantheon hoặc Vạn Lý Trường Thành, nhưng nó lưu lại mãi mãi một di sản phi vật thể vô giá mà ít có nền văn minh nào có thể sánh được về tầm ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đối với văn minh toàn nhân loại.
Với những ảnh hưởng sâu sắc như thế, chúng ta dễ mường tượng rằng đất nước, con người, và lịch sử Do Thái phải vô cùng ấn tượng và kỳ vĩ. Thực tế lại hoàn toàn trái ngược. Theo thời gian, người Do Thái là những kẻ đến muộn trên sân khấu lịch sử. Mảnh đất Canaan(4)cổ nhỏ bé là nơi định cư cuối cùng của người Do Thái khi quốc gia Israel được Liêp Hợp Quốc chấp nhận thành lập vào năm 1948 với diện tích ước chừng 15.000 km2. Còn lịch sử của dân tộc Do Thái, nhìn từ bên ngoài, có thể nói là rất khiêm nhường, cũng giống như lịch sử của muôn vàn những dân tộc nhược tiểu khác.
Vậy thì chìa khóa của những thành tựu của người Do Thái nằm ở đâu nếu không phải là nằm ở nơi những cổ vật quí giá hay ở kích thước địa lý của đất nước và lịch sử. Lần theo câu hỏi này chúng ta phát hiện ra rằng cái đã nâng người Do Thái từ tăm tối lên tới vĩ đại chính là sự khao khát của họ trong việc truy cầu những ý nghĩa lớn lao của cuộc sống. Trong các chương sau chúng ta sẽ cùng nhau ôn lại lịch sử lập quốc và sự hình thành của Do Thái giáo để tìm xem những ý nghĩa đó là gì.
Khác với các tôn giáo khác, điểm đặc biệt trong lịch sử hình thành Do Thái giáo là tôn giáo này gắn liền với lịch sử lập quốc đầy chông gai của dân tộc Do Thái. Không những vậy, đó còn là một lịch sử lập quốc chịu nhiều cay đắng. Năm lần bảy lượt bị nô lệ, quốc gia bị diệt vong, dân chúng bị xua đuổi lang thang kiếm sống khắp thế giới, vậy mà người dân Do Thái vẫn giữ được bản sắc dân tộc và bảo tồn được
tôn giáo của mình cho đến tận ngày nay. Trong khi đó, những nền văn minh cổ đại láng giềng xung quanh Israel như nền văn minh Ai Cập cổ đại, dân tộc đã xây dựng nên những kim tự tháp vĩ đại; Người Hy Lạp khởi đầu cho nền văn minh dân chủ, đã sản sinh cho thế giới những Plato(5), Aristotle(6) danh tiếng; Người La Mã với thời kỳ cổ đại hoàng kim, tất cả nay đã không còn. Những quốc gia văn minh cổ đại đó trong quá khứ đã từng xâm lăng giày xéo lên mảnh đất thiêng liêng của người Do Thái, cho đến nay tất cả chỉ còn lại là những dấu tích đổ nát và mãi mãi chỉ còn trong ký ức. Riêng dân tộc Do Thái, trải qua biết bao nhiêu chìm nổi, vẫn còn cho đến ngày nay, hiên ngang và kiêu hãnh.
Hãy đọc những câu thơ trong một bài thánh vịnh của vua David cách đây ba ngàn năm:
Thiên Chúa là mục tử tôi, tôi không mong muốn gì hơn, Thiên Chúa đặt tôi nằm nghỉ trên đồng cỏ xanh
Thiên Chúa dẫn tôi đi bên mặt nước yên tĩnh
Thiên Chúa khôi phục linh hồn tôi
Thiên Chúa dẫn tôi đi trên đường công chính vì danh Ngài Dù có bước qua thung lũng bóng tối của sự chết
tôi cũng không sợ cái ác vì Thiên Chúa đang ở với tôi…
Những lời thơ ấy được cất lên trong suốt hành trình gian nan của người dân Do Thái, trong nhà riêng, nơi thánh đường, trên đồng cỏ, trong những đêm thâu vắng lặng hay giữa tiếng reo hò của lễ hội, trong các trại tập trung u ám đầy chết chóc. Hồn thơ ấy là nơi trông cậy, là niềm hy vọng và sức mạnh tâm linh của một dân tộc lưu lạc.
Chúng ta hãy cùng nhau quay lại cuốn phim lịch sử, lần bước theo hành trình kinh ngạc của dân tộc đáng ngưỡng mộ này.
Đặng Hoàng Xa
2014
CHƯƠNG I
BẢN SẮC DO THÁI
“Tại Israel, để là một người thực tế, bạn phải tin vào phép lạ.” – David Ben-Gurion (Thủ tướng đầu tiên của Nhà nước Israel hiện đại)
T
ừ khi Nhà nước Israel tuyên bố độc lập vào năm 1948, những đánh giá lịch sử về Israel thường chỉ đặt trọng tâm xoay quanh của các cuộc chiến nẩy lửa, các xung đột Ả Rập- Israel không bao giờ hết và các cuộc đàm phán ngoại giao bế tắc.
Trọng tâm đó rất gây hiểu lầm. Israel đã trải qua nhiều cuộc chiến; Israel cũng luôn là mục tiêu của các cuộc tấn công khủng bố nhiều hơn bất kỳ một quốc gia nào khác; cũng là một thành viên tích cực
trong nỗ lực kiến tạo hòa bình của Trung Đông trong nhiều thập niên. Tuy nhiên, các xung đột và thương lượng, mặc dù thường xuất hiện với tần suất rất cao trên các tiêu đề truyền thông hàng ngày, chỉ là một phần nhỏ của câu chuyện. Cuốn sách này “Câu chuyện Do Thái: Lịch sử thăng trầm của một dân tộc” cho chúng ta nhìn thấy một bức tranh quan trọng hơn và bao quát hơn: thực tế của đất nước này và con người của nó là gì?
Câu trả lời là Israel hiện đại đã và đang xây dựng một hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa với một ý thức rõ ràng – mặc dù không hoàn hảo và chưa trọn vẹn. Đó là một quốc gia bình thường như mọi quốc gia khác, độc đáo, đặc sắc, và mang nhiều màu sắc khác
lạ.
Tuy rằng Israel hiện đại khởi nguồn từ một trong những nền móng xã hội và văn hóa lâu đời nhất trên trái đất, di sản cổ xưa của nó đã không giúp cho công cuộc xây dựng quốc gia Israel hiện đại dễ dàng hơn. Ngược lại, tôn giáo và chủ nghĩa duy vật, ngôn ngữ đa dạng, dân chúng với nhiều trình độ phát triển kinh tế, kinh nghiệm lịch sử khác nhau, trong số các yếu tố khác, đã khiến cho công cuộc xây dựng quốc gia của Israel đặc biệt phức tạp và đầy thử thách. Một mảnh đất nhỏ bé và khô cằn, tài nguyên thiên nhiên ít ỏi, bao quanh bởi các nước láng giềng thù địch, cùng với những câu chuyện thành công ngoạn mục đã làm cho Israel trở nên một đất nước như huyền thoại.
BẢN SẮC DO THÁI
VÀ ĐỊNH NGHĨA ISRAEL HIỆN ĐẠI
Ý tưởng cho rằng người Do Thái là “chỉ là” một nhóm tôn giáo là một khái niệm bắt đầu với cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, nhưng đã không gây ảnh hưởng ở Tây Âu cho đến giữa thế kỷ 19. Khái niệm này hoàn toàn không đứng vững trong các cộng đồng người Do Thái ở Đông Âu hay Trung Đông. Ở Tây Âu, những người có cảm tình với người Do Thái và những người Do Thái muốn mình hòa đồng với nền văn hóa của đa số, đã tìm cách mô tả người Do Thái như những công dân bình thường về mọi mặt ngoại trừ trong khu vực cá nhân hạn hẹp của tôn giáo. Không tự coi mình là một dân tộc đặc biệt với một nền văn hóa, ngôn ngữ, và bản sắc riêng biệt là một cách làm của người Do Thái trong cố gắng đạt tới bình đẳng và loại bỏ chủ nghĩa bài xích Do Thái. Nhưng cách tiếp cận này đã không phản ánh được thực tế lịch sử và mâu thuẫn với chính hình ảnh bản thân của họ.
Trong Thời Kỳ Thánh Kinh [3000 TCN – 538 TCN],(1)và cho đến thời điểm quốc gia Israel cổ đại bị người La Mã hủy diệt vào năm 70 CN, người Do Thái đã sinh hoạt như một quốc gia, được cho là đầu tiên trong lịch sử. Sau đó, suốt trong hơn 19 thế kỷ, người Do Thái lưu vong (gọi là Do Thái Diaspora), trên những vùng đất mà họ cư ngụ, đã hình thành nên một dân tộc tách biệt với những tổ chức quản lý phi-nhà nước theo cung cách riêng của mình, với ngôn ngữ duy
nhất, phong tục độc đáo, những ý tưởng khác lạ, và một nền văn hóa rất khác biệt, chưa kể đến những thứ như trang phục quần áo và nghệ thuật. Những từ như “Hebrew” và “Israeli”, sử dụng phổ biến hơn từ “Jews” - ngay trong thời hiện đại – đã phản ánh rằng bản sắc dân tộc
và con người Israel, đã tự mở rộng vượt ra ngoài phạm vi của tôn giáo.
Tôn giáo, như thế, chỉ là một dấu hiệu trong bản sắc người Do Thái, giống như một quốc gia trong tự nhiên. Không có mâu thuẫn nào giữa bản sắc tôn giáo và bản sắc dân tộc. Trong thế giới cổ đại và cũng ở ngay thời hiện đại, ở nhiều nơi, một tôn giáo khác biệt là một trong những điểm nổi bật chính của nhà nước quốc gia. Điều này đặc biệt đúng tại khu vực Trung Đông thời hiện đại, nơi mà Israel là một điển hình.
Trong suốt lịch sử, hành động đầu tiên đánh dấu rằng người Do Thái có một bản sắc dân tộc đặc biệt mạnh mẽ chính là việc họ đã từ chối các vị thần và các phong tục tôn giáo của ngay cả những dân tộc đã từng thống trị họ như người La Mã và sau đó người Kitô giáo và Hồi giáo. Trong nhiều trường hợp khác, có những dân tộc chấp nhận tôn giáo, ngôn ngữ, và bản sắc của những người cai trị hoặc hàng xóm để rồi cuối cùng biến mất khỏi lịch sử. Điều đó cho thấy rằng một bản năng yếu kém không có chỗ tồn tại trong thế giới của quyền lực. Cái bản sắc tôn giáo-dân tộc kéo dài của người Do Thái đã tỏ ra mạnh hơn so với hầu như bất kỳ một dân tộc nào khác trên trái đất.
Khả năng sinh tồn này đã được định hình không phải chỉ do đặc tính “bướng bỉnh” và “bất chấp” của người Do Thái, cũng không phải do những o ép đối với họ bằng vũ lực. Thay vào đó, người Do Thái đã hành động giống như một quốc gia hiện đại, dù rằng đã mất quyền kiểm soát hoặc hiện diện trong những vùng lãnh thổ đặc biệt. Thật vậy, việc ngăn cấm tôn giáo đối với người Do Thái bằng cách pha loãng tập tục của họ hay tích hợp từ tập tục của những dân tộc khác trong thời cổ đại đã dẫn đến cuộc nổi dậy thành công của người Do Thái vào năm 166 TCN chống lại người Syria dòng Seleucid để lập nên vương quốc Hasmoneans độc lập; và ngược lại là cuộc khởi nghĩa thất bại chống lại người La Mã và dẫn đến sự hủy diệt của Jerusalem vào năm 70, buộc người dân Do Thái sống cuộc đời lưu vong trong gần 2000 năm.
Sau khi dịch chuyển trung tâm sinh hoạt từ Vùng đất Israel đến
các cộng đồng Do Thái Diaspora, rời xa khỏi quê hương lịch sử ở Trung Đông, người Do Thái vẫn tiếp tục cố gắng sinh hoạt như một quốc gia, mặc dù buộc phải chấp nhận những thiệt thòi của lối sống tách biệt, đó là sự phân biệt đối xử và thậm chí bách hại dưới bàn tay của các nước láng giềng. Qua nhiều thế kỷ, trong khuôn khổ lãnh đạo của các giáo sĩ Do Thái, người Do Thái vẫn duy trì một hình thức chính phủ cộng đồng của riêng mình, cùng với pháp luật, lịch, ngôn ngữ, các quan điểm triết học, có thể nhìn thấy trong các văn bản lớn của giáo hội và đặc biệt là qua đồ ăn, tập quán, và trang phục quần áo.
Đây không phải là một hoạt động mang tính cục bộ. Các cộng đồng cá nhân của người Do Thái, ngay khi cách xa nhau ngàn vạn cây số và sống trong những điều kiện rất khác biệt, vẫn duy trì kết nối trong suốt thời gian dài thời Trung cổ và tiếp tục trong thời kỳ hiện đại. Thật vậy, đó chính là lý do giải thích tại sao người Do Thái vẫn có thể thành công trong việc duy trì thương mại ở tầm xa, giữ được những tập quán khá đồng nhất, và một đối thoại trí tuệ thống nhất.
Tất cả người Do Thái, ngay cả những người nghèo và ít học nhất sống ở các thôn xóm cô lập nhất, vẫn ý thức được nguồn gốc của họ tại Vùng đất Israel trong Thánh Kinh; nhiều người vẫn duy trì quan hệ với cộng đồng rất nhỏ người Do Thái đang còn sống ở đó và luôn tin rằng số phận sẽ dẫn họ trở về khi Đấng Cứu Thế xuất hiện.
Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (Zionism – Chủ nghĩa Zion) xuất hiện ở châu Âu vào cuối thế kỷ 19 đã cập nhật tất cả những ý tưởng hiện có trên tinh thần tự giác và chủ nghĩa dân tộc đương đại. Nó đề xuất câu trả lời cho “câu hỏi Do Thái”, rằng làm thế nào để người Do Thái, bao gồm cả những người có cuộc sống không bị bao bọc bởi giới luật tôn giáo, đáp ứng những thách thức và cơ hội của thế giới hiện đại? Câu trả lời là không phải sự đồng hóa, cũng không phải là sự tồn tại thuần túy tôn giáo có thể đáp ứng những thách thức của thế giới hiện đại, mà chính là sự tồn tại của quốc gia: đó là sự cần thiết tạo ra một nhà nước Do Thái ngay trên quê hương lịch sử. Các nhà Zionist cũng lập luận rằng việc thay thế sự kiên nhẫn của lòng tin bằng hành động của con người sẽ bảo tồn cuộc sống của chính những người Do Thái và sự thịnh vượng cho tôn giáo của họ.
Ở Đông Âu, nơi mà đại đa số người Do Thái châu Âu tập trung, trên thực tế một đời sống quốc gia của người Do Thái vẫn tồn tại trong suốt thế kỷ 19 và kéo dài sang thế kỷ 20 ở nhiều nơi. Hầu hết
người Do Thái châu Âu nói tiếng Yiddish, một ngôn ngữ có nguồn gốc từ tiếng Do Thái và tiếng Đức. Họ cầu nguyện hàng ngày trong các hội đường, lấy Vùng đất Israel là trung tâm tôn giáo, và sinh hoạt như một cộng đồng hoàn toàn tách biệt với các láng giềng. Vụ giết người hàng loạt của Đức Quốc Xã, cùng với sự đồng hóa cưỡng chế ở một số quốc gia châu Âu và Liên Xô cũ, đã kết thúc lối sống này.
Một bức tranh gần như song song ở Trung Đông. Ở đây, người Do Thái sống gần như hoàn toàn cô lập trong cộng đồng của họ, tuân theo các lề luật tôn giáo riêng, có trang phục và nghề nghiệp khác biệt, và nói một ngôn ngữ đặc biệt đó là Arabic-Hebrew hoặc Spanish Hebrew tương tự như tiếng Yiddish.
Với lịch sử như thế, nhận thức chung của nhiều người ngoài cuộc là người Do Thái luôn là người ngoài lề, không tự nguyện hội nhập hoàn toàn vào những cộng đồng đa số nơi họ sống. Đối với người Do Thái ở châu Âu Kitô giáo hoặc Trung Đông với đa số Hồi giáo, chưa bao giờ – hoặc chỉ rất gần đây – có bất kỳ lời đề nghị hội nhập hoàn toàn. Tuy nhiên, đại đa số người Do Thái không nhìn bản sắc khác biệt của họ với ý nghĩ tiêu cực mà vẫn coi mình đơn thuần là “hướng nội”. Nói cách khác, người Do Thái tự coi họ là một phần của cộng đồng Do Thái rất gắn kết của riêng mình, trong khi vẫn chia sẻ thế giới quan với các thành viên của các cộng đồng khác bất kể vị trí địa lý và hoàn cảnh kinh tế của họ.
Thật vậy, Israel hiện đại không phải là một tác phẩm tùy ý hoặc ngẫu nhiên – nó không chỉ đơn thuần là kết quả của những thảm họa, ví dụ như, Holocaust. Thay vào đó, nó là sự tiếp nối của một quá trình lịch sử lâu dài. Sự ra đời của Nhà nước Israel là không thể tránh khỏi và chỉ là một logic hợp lý cũng như bất kỳ nhà nước nào trên thế giới hiện nay, được tạo ra bởi một cộng đồng của những người có chung một thế giới quan, lịch sử, và ước muốn được chia sẻ số phận của mình.
Sự tồn tại của những cảm tình đối với Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái trong xã hội, tôn giáo và thế giới quan Do Thái có lẽ sẽ không đi tới đâu nếu không có một phong trào có tổ chức. Những nhà tư tưởng tiên phong giữa thế kỷ 19 – Moses Hess [1812-1875], Leon Pinsker [1821-1891], và những người khác – đã cung cấp cái nhìn thoáng qua về ý tưởng lãn mạn của một nhà nước Do Thái, nhưng Theodor Herzl [1860-1904] và Ben-Gurion [1886-1973] mới là những nhà cách
mạng đã đưa ý tưởng phục quốc trở thành hiện thực vào những năm 1890 khởi đầu với khái niệm “Vùng đất Israel” (Land of Israel).
Cuộc di cư rải rác của những người dân Do Thái lưu vong về lại Vùng đất Israel và tham gia với cộng đồng tôn giáo truyền thống đã có ở đó dẫn đến sự ra đời của Yishuv. Đây là tên gọi cộng đồng người Do Thái ở Vùng đất Israel giữa những năm 1880 và 1948, khi Israel tuyên bố trở thành một nhà nước độc lập. Cộng đồng Do Thái Yishuv đóng vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho một Nhà nước Israel đã được trù liệu. Trong khi truyền thống và lịch sử Do Thái là lớp nền móng đầu tiên trong việc định hình Nhà nước Israel hiện đại, Yishuv là lớp thứ hai.
Những thuộc tính văn hóa và cơ cấu kinh tế-chính trị được tạo ra trong thời kỳ Yishuv đã trở thành những thuộc tính cơ bản của nhà nước và xã hội Israel hiện đại sau này. Các đặc trưng tiền-nhà nước được biết đến nhất bao gồm: sự hồi sinh của ngôn ngữ Hebrew, sự thành lập các tổ chức tự vệ, việc thành lập một nền tảng kinh tế công nghiệp theo cấu trúc xã hội chủ nghĩa, sự phát triển của một hệ thống dịch vụ xã hội toàn diện, sự hòa hợp của một nền văn hóa nẩy sinh chủ yếu từ chất men trí thức của Đông Âu, việc lập ra các làng cộng đồng sáng tạo “Kibbutz” và các hợp tác xã “Moshav”, và việc xây dựng một khuôn khổ quốc gia căn bản là thế tục với các khía cạnh tôn giáo lớn. Nhiều yếu tố khác từ những năm Yishuv trong giai đoạn tiền-nhà nước vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến Israel rất lâu sau khi Nhà nước Israel được thành lập.
Hãy xem xét, ví dụ, vai trò của tôn giáo. Để nói rằng Israel là một nhà nước Do Thái không có nghĩa là chỉ đơn thuần là một bản tuyên bố về bản sắc tôn giáo. Nó trước tiên phải là một tuyên bố về bản sắc dân tộc. Đại đa số các nhà lãnh đạo Yishuv, và sau đó các nhà lãnh
đạo Israel, là thế tục (có nghĩa là không ràng buộc vào tôn giáo nào). Họ đồng thời công nhận tầm quan trọng của tôn giáo trong việc gắn kết người Do Thái lại với nhau, tôn trọng tín ngưỡng của các nhóm
thiểu số, nhưng cũng muốn đảm bảo rằng tôn giáo không có quá nhiều quyền lực đối với xã hội và văn hóa dân tộc.
Vì vậy, thế hệ lãnh đạo thống trị Yishuv và Nhà nước Israel ban đầu đã sớm đạt được một thỏa hiệp với các lãnh đạo tôn giáo - vào thời điểm đó là Chính Thống (Orthodox) – chấp nhận quyền lực của tôn giáo ở một số khía cạnh của xã hội. Ngày nay các tổ chức nhà
nước vẫn tuân theo luật lệ về chế độ ăn chay (Kosher) của người Do Thái; các cửa hàng thường đóng cửa vào ngày Sabbath (mặc dù thực tế này đã bị xói mòn theo thời gian); nhà nước nghỉ làm việc trong các ngày lễ tôn giáo của người Do Thái; kết hôn, ly hôn, và chôn cất được các giáo sĩ Do Thái điều khiển; sinh viên của các chủng viện Yeshiva(2) được hoãn nghĩa vụ quân sự. Thỏa hiệp này đảm bảo duy trì sự cân bằng quyền lực của cả hai phía thế tục và tôn giáo.
Tuy nhiên, thực tế thì Israel là một xã hội nghiêng về thế tục. Nói chính xác thì Israel được đặc trưng là một đất nước trong đó các khái niệm, phong tục và lịch sử có nguồn gốc tôn giáo đã được đặt vào trong một khuôn khổ thế tục và quốc gia. Trong một ý nghĩa tương tự, quá trình này cũng đã diễn ra trong nền văn minh phương Tây Kitô giáo.
Trong ba hoặc bốn thập niên đầu tiên của Nhà nước Israel độc lập, người Israel Do Thái tiếp tục tự cho rằng họ được phân chia rõ ràng thành hai nhóm tôn giáo và thế tục. Đến những năm 1990, tuy nhiên, người Israel Do Thái nhận ra sự tồn tại của một chuỗi rộng các quan điể m cũng như trình độ của việc thực hành tôn giáo. Khi xã hội đã trở thành thế tục hơn và ít ý thức hệ hơn, một thành phần khá lớn dân số gọi là “truyền thống” xuất hiện; họ vẫn duy trì các yếu tố của giới luật tôn giáo nhưng lại cam kết cho một lối sống cơ bản thế tục. Cách tiếp cận này đặc biệt mạnh trong nhóm người Do Thái Mizrahi là những người Do Thái đến từ Trung Đông và Bắc Phi.
Các đảng phái chính trị tôn giáo vẫn tồn tại sau sự ra đời của Chủ nghĩa Zion hiện đại. Tuy nhiên, các đảng phái này không tìm cách thay đổi thể chế. Thay vào đó, họ là các nhóm lợi ích với mục tiêu đơn thuần là cung cấp công ăn việc làm và kinh phí cho các cộng đồng của riêng họ, trong khi vẫn cố gắng giữ nguyên trạng trật tự của xã hội. Mục tiêu của họ, khi đó, là không thay đổi, nhưng tiếp tục. Kết quả là, các xung đột tôn giáo-thế tục, mặc dù đôi lúc nóng bỏng, đã giảm dần về tầm quan trọng theo thời gian.
Mặc dù có rất nhiều thách thức, Israel ngày nay có một hệ thống dân chủ đa nguyên được kiến trúc để có thể dung chứa các cộng đồng và các quan điểm khác nhau, mặc dù không đại diện về địa lý.
Hệ thống kinh tế của Israel trong nửa đầu thế kỷ 20 cũng đã được phát triển hòa điệu với các điều kiện đặc biệt trong khi phải đối mặt
với hoàn cảnh của một dân tộc thiếu vốn tài chính, thiếu các tổ chức hiện đại và cố gắng tạo dựng trong hoàn cảnh của một đất nước kém phát triển. Các công ty và doanh nghiệp nhà nước, ban đầu được hỗ
trợ vốn từ người Do Thái ở nước ngoài, là những công cụ đầu tiên đã giúp thiết lập nên nền kinh tế của Yishuv và tạo ra công ăn việc làm. Trong những thập niên đầu tiên sau khi trở thành nhà nước độc lập, nền kinh tế của Israel được các Histadrut (nghiệp đoàn) và các công ty liên kết của nó, chi phối phần lớn cũng như bởi các doanh nghiệp hợp tác xã.
Nhưng đến năm 1990, khi đất nước phát triển vượt quá mức mà cơ cấu kinh tế của hệ thống xã hội chủ nghĩa có thể chịu đựng, Israel đã thực hiện một quá trình chuyển đổi khéo léo từng bước sang cơ cấu dân chủ với mức độ tư nhân hóa lớn hơn. Israel cũng đã xây dựng một nền kinh tế dựa trên những điểm mạnh của mình – công nghệ máy tính, nông nghiệp, y tế, khoa học đời sống – mặc dù trong hoàn cảnh khó khăn về tài nguyên thiên nhiên, thương mại với các nước láng giềng Ả Rập rất hạn chế, và thiếu một thị trường nội địa rộng lớn. Giai cấp và các vấn đề kinh tế – thường là chủ đề chính trong sinh hoạt chính trị của các nước khác – không phải là vấn đề cốt lõi trong sinh hoạt chính trị Israel.
Một thách thức lớn khác là việc thành lập các lực lượng vũ trang và cơ cấu an ninh quốc gia để đối phó với các mối đe dọa hủy diệt từ các nước Ả Rập láng giềng, một hoàn cảnh hy hữu không thấy có trong số 200 quốc gia trong thế giới đương đại. Và nhiệm vụ này lại phải được thực hiện bởi một dân tộc hầu như không có chút kinh nghiệm quân sự nào trong quãng thời gian 2000 năm trước. Trong giai đoạn Yishuv, bốn lực lượng vũ trang ngầm đã được phát triển trong đó hai lực lượng đối lập với lãnh đạo Israel. Tuy nhiên việc giải thể thành công của hai lực lượng này hợp nhất vào các lực lượng vũ trang quốc gia sau khi Israel giành được độc lập đã cung cấp cho Israel một cơ cấu tổ chức quân sự lấy dân sự làm chủ đạo (civilian directed military) đã tồn tại khá ổn định suốt từ khi đó cho đến ngày nay.
Đảm bảo rằng quân đội phản ánh đúng nguyên tắc dân chủ của đất nước, hoạt động hiệu quả và gián đoạn tối thiểu đến đời sống kinh tế xã hội, và cuối cùng có thể bảo vệ Israel chống lại thù nghịch là một nhiệm vụ lớn. Một hệ thống quân sự độc đáo đã được thiết lập cách bằng cách kết hợp nghĩa vụ quân sự có thời hạn bắt buộc với
một lực lượng dự bị lớn và linh hoạt có thể được huy động bất cứ lúc nào. Thêm vào đó, Israel đã phát triển thành công một ngành công nghiệp quốc phòng tiên tiến để bù đắp cho sự vượt trội về số lượng của các lực lượng thù địch bên ngoài, cộng với một chiến lược quân sự thông minh sẵn sàng đối phó với các mối đe dọa tiềm năng trên tất cả các vùng biên giới của đất nước.
Hệ thống quân sự này trên thực tế qua các cuộc chiến đã chứng minh sự thành công vượt trội trong việc bảo vệ đất nước chống lại các mối đe dọa bên ngoài. Hơn nữa, nó bắt buộc phải như thế vì, như những bài học xương máu trong lịch sử Israel, chỉ cần một thất bại xảy ra thì có thể sẽ là dấu chấm hết của Nhà nước Israel, và tiếp theo sẽ lại là thảm sát và xua đuổi.
Tuy nhiên, mặc dù tầm quan trọng đặc biệt của các vấn đề an ninh quốc phòng, Israel lại không phải là một xã hội đặt quá nặng trọng tâm vào quân sự. Israel có quá nhiều những vấn đề khác phải quan tâm, đó là đảm bảo ổn định xã hội, việc hòa nhập của dân nhập cư, an sinh, và phát triển đất nước.
Trong 40 năm đầu tiên của nền độc lập Israel, các lực lượng quân đội chính quy của tất cả các nước láng giềng – trực tiếp như Ai Cập, Syria và Jordan và gián tiếp như Ả Rập Saudi và Iraq – là mối đe dọa chiến tranh hàng ngày. Bằng việc ký kết hiệp ước hòa bình với Ai Cập đầu tiên vào năm 1979 và sau đó với Jordan vào năm 1994, Israel đã loại bỏ hai trong số ba lực lượng thù địch Ả Rập chính mà Israel phải đối mặt. Sự yếu kém của Syria đã tự nhiên loại bỏ lực lượng thứ ba còn lại và làm giảm khả năng chiến tranh quy ước trên các vùng biên giới của Israel xuống bằng zero. Thêm vào đó, sự tan rã của nước Liên Xô cũ vào năm 1991, Iraq lo việc đối nội sau chiến tranh vùng Vịnh 1990-1991, các quốc gia Ả Rập thì bận tâm với Iran và mối đe dọa của cách mạng Hồi giáo, tất cả đã giúp Israel giảm thiểu nguy hiểm ở mặt trận này.
Tuy nhiên, vào năm 2011, tình hình có vẻ như đổi hướng. Các nhóm Hồi giáo cực đoan Hamas(3) ở dải Gaza và Hezbollah(4) ở biên giới phía Bắc đẩy mạnh chiến tranh tên lửa trên các vùng biên giới của Israel; cuộc nổi dậy năm 2011 tại Ai Cập có thể dẫn đến hủy bỏ hiệp ước hòa bình 1979; tiến trình hòa bình Israel-Palestine ngưng trệ; cùng với sự phát triển của cách mạng Hồi giáo, tất cả cho thấy các vấn đề an ninh của Israel còn rất xa mới đến hồi kết. Không nghi ngờ
gì nữa, các mối đe dọa đối với Israel vẫn ở mức cao so với bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Tuy nhiên, người Israel chủ yếu vẫn hướng tới giải pháp hòa giải với các quốc gia láng giềng như đã làm trong những thập niên trước.
Đối mặt với thực tế đó, tinh thần quốc gia của người dân Israel tỏ ra rất cao. Trong các cuộc thăm dò hàng năm, số người bày tỏ sự hài lòng với cuộc sống của họ và hy vọng vào tương lai đạt tới mức cao một cách khác thường. Gần 80% người Israel nói rằng họ sẽ chiến đấu cho đất nước, trái ngược với 60% của người Mỹ và 40% của người Anh. Tỷ lệ những người trẻ tuổi sẵn sàng tình nguyện tham gia các đơn vị chiến đấu đã thách thức mọi dự đoán bi quan về tính ích kỷ và thái độ hưởng lạc trong giới trẻ.
Một yếu tố khác đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của Israel là những người nhập cư Do Thái đến từ nhiều quốc gia và các nền văn hóa khác nhau đã hòa nhập thành công trong một xã hội thống nhất. Trước và sau độc lập của Israel vào năm 1948, những người nhập cư đến đầu tiên từ châu Âu, sau đó chủ yếu là từ Trung Đông, sau này từ Liên Xô cũ, và với số lượng nhỏ hơn, từ Ethiopia. Hầu hết những người nhập cư là người tị nạn nghèo, mất hết tài sản, cũng như bị chấn thương tâm lý do điều kiện sống khắc nghiệt và khủng bố ở các quốc gia họ đã bỏ trốn. Họ đã tìm thấy đời sống mới trên Vùng đất Israel. Họ hy vọng.
Xã hội Israel đã giúp những người nhập cư hòa nhập trên cơ sở bình đẳng, mặc dù dưới những áp lực kinh tế khủng khiếp của thời kỳ hậu độc lập, và ngay cả khi chính phủ Israel buộc phải tiến hành chính sách thắt lưng buộc bụng và chia khẩu phần. Tuy nhiên, sau đó đã phát sinh khiếu nại rằng quá trình hội nhập là cưỡng chế và có sự phân biệt đối xử giữa các sắc dân. Điều này đã trở thành một vấn đề chính trị và văn hóa khá nóng bỏng vào những năm 1980, tuy nhiên sau đó nó đã nhạt dần với sự ra đời của một thế hệ mới hòa nhập hơn và thường thông qua việc kết hôn giữa các sắc dân nhập cư khác nhau.
Mặc dù Israel được định nghĩa là một nhà nước Do Thái, nó lại hoạt động giống như một quốc gia Trung Đông truyền thống đa nguyên – với một tôn giáo nhà nước và các nhóm thiểu số tự trị một phần – hơn là một nhà nước châu Âu dân tộc chủ nghĩa (mono nationalist) của thế kỷ 20 đã xóa bỏ tất cả các nhóm thiểu số trong
quá trình cưỡng bức đồng hóa. Ở Israel, mỗi cộng đồng tôn giáo có quyền kiểm soát đối với các vấn đề riêng của cộng đồng mình về tình trạng cá nhân, có quyền duy trì văn hóa, tôn giáo, và, ở một mức độ nào đó, tự chủ về tư pháp.
Hệ thống nhà nước theo mô hình này của Israel, cũng như cách tiếp cận với tôn giáo nói chung, được thể hiện trong sự tồn tại của năm hệ thống trường học: hệ thống các trường nhà nước-thế tục, hệ thống các trường nhà nước-tôn giáo (Datim, hoặc Chính Thống hiện đại), hệ thống các trường Haredi (Chính Thống truyền thống), hệ thống các trường dùng ngôn ngữ Ả Rập (cho những người nói tiếng Ả Rập), và Shas(5)(các trường cho những người ủng hộ đảng chính trị này, chủ yếu là cho người Do Thái Mizrahi nghèo).
Israel nổi lên từ những năm trước và sau độc lập của mình với một thách thức chính trị, thế giới quan, kinh tế, văn hóa trộn lẫn từ nhiều yếu tố khác nhau. Trong số các ảnh hưởng chính là xã hội Do Thái truyền thống cùng với những cải cách Yishuv và những vay mượn từ các nền văn hóa Đông Âu, Tây Âu và Trung Đông. Bổ sung theo thời gian là các yếu tố văn hóa của Bắc Mỹ, Địa Trung Hải, và Nga hiện đại, cũng như một môi trường văn hóa Ả Rập tự trị. Pha trộn tất cả các yếu tố dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa này với nhau đã tạo nên một môi trường xã hội phong phú, những ý thức hệ chính trị đa dạng và nhiều giai tầng về địa vị xã hội.
CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ CÁC XUNG ĐỘT BÊN NGOÀI
Giống như nhiều quốc gia, Israel đã trải qua một giai đoạn anh hùng trước khi đạt đến một trật tự thể chế. Nhưng, không giống như các quốc gia khác, Israel vẫn tiếp tục cuộc chiến đấu cho sự sống còn trong suốt sự tồn tại của mình, và bất kỳ cuốn sách nào về Israel chắc chắn sẽ phải tốn rất nhiều giấy mực để mô tả những xung đột của Israel với các nước láng giềng và tác động của những xung đột ấy. Tuy nhiên, vấn đề này chỉ là một khía cạnh của Nhà nước Israel, và thực chất không gây nhiều ảnh hưởng và quan trọng như những người ngoài cuộc vẫn lầm tưởng.
Tuy nhiên, để thấu hiểu Israel, chúng ta cần hiểu rằng nhận thức về mối đe dọa hiện có vẫn luôn luôn như một bóng ma lơ lửng trong tâm thức mỗi người dân ở đất nước này. Đó là vì dấu ấn của các sự kiện đau thương ngày trước vẫn còn lưu lại đâu đó trong ký ức sống của mỗi người dân Do Thái - cuộc thảm sát người Do Thái châu Âu trong Holocaust, cuộc sống bấp bênh và xáo trộn của hầu như tất cả mọi gia đình Do Thái sống tại các nước Hồi giáo - cả hai trường hợp đều dẫn đến sự mất mát trong cuộc sống, gia đình, người thân, tài sản và tiền bạc. Chiến thắng lẫy lừng của Israel trong Cuộc chiến Sáu ngày chống lại Ai Cập, Jordan, và Syria năm 1967 không nên được ghi nhớ với lòng tự hào thái quá mà quên đi tình trạng ảm đạm của Israel trước cuộc chiến và điều gì sẽ xảy ra nếu Israel lại bị đánh bại, giống như những bài học cay đắng đã xảy ra trong quá khứ.
Từ những năm 1930 đến năm 1977, thời kỳ trước và sau Nhà nước Israel độc lập, Israel do Đảng Lao động(6) điều hành. Tầm nhìn và các tổ chức của Đảng Lao động - bao gồm cả Histadrut - có ảnh hưởng rất lớn vì Đảng Lao động là người dẫn đầu việc thay đổi từ Vùng đất Israel sang Nhà nước Israel, đã phác họa kế hoạch phát triển kinh tế của một nhà nước độc lập, và đã đóng một vai trò quyết định trong việc định hình bản chất của xã hội Israel. Trên danh nghĩa, vai trò cầm quyền của Đảng Lao động đã kết thúc vào năm 1977 sau những tổn thất của Israel trong Cuộc chiến Yom Kipper năm 1973, mặc dù Israel cuối cùng đánh bại hai quốc gia xâm lược là Ai Cập và Syria. Sự thay đổi lãnh đạo là do sự hỗ trợ của đa số Mizrahi dành cho Đảng Likud(7) bảo thủ và sự thất vọng ngày càng tăng với một thể chế bị coi là quá cố thủ và trì trệ. Người anh hùng được chọn làm thủ tướng mới là Menahem Begin, một người đàn ông mang nặng bản sắc của Đông Âu.
Nhìn lại, sự dịch chuyển chính trị năm 1977 và các sự kiện tiếp theo báo hiệu sự kết thúc của kỷ nguyên lập quốc anh hùng của Israel và sự chuyển dịch sang một cơ cấu xã hội mới, điển hình và vững bền
hơn cho một tương lai lâu dài. Chính vì sự tồn tại của Israel là một nhà nước đúng nghĩa với các yêu cầu về tiêu chuẩn hóa và thể chế hóa, các khái niệm xã hội chủ nghĩa và các tổ chức từ thời tiền-nhà
nước đã không còn tác dụng. Các khái niệm “tập thể” và “lý tưởng” đã từng mang lại chủ quyền cho Israel đã đến lúc phải nhường chỗ cho những tập quán mới mang tính cá nhân, vật chất hơn, điển hình của xã hội phương Tây. Đồng thời, đến lúc này người dân Israel cũng đã
hội nhập và trở nên đồng nhất hơn mặc dù có sự đa dạng hiện diện trong ba khuôn khổ: Ashkenazic(8)-Mizrahi(9), tôn giáo-thế tục, và Do Thái-Ả Rập.
Những sự phát triển xã hội này đồng thời xảy ra với (nhưng tương đối không liên quan) cuộc tranh luận quan trọng nhưng không chính thức giữa những năm 1967 và 1993 về việc làm thế nào để đối phó với xung đột Ả Rập-Israel đang diễn ra. Trong Cuộc chiến Sáu ngày năm 1967, Israel đã chiếm Bán đảo Sinai và dải Gaza từ Ai Cập, Bờ Tây và Đông Jerusalem từ Jordan và Cao nguyên Golan từ Syria. Phe Chính trị cánh tả (Political left – cấp tiến) của Israel cho rằng các quốc gia Ả Rập và Palestine (mặc dù không nhất thiết Tổ chức Giải phóng Palestine, PLO(10)) một ngày nào đó sẽ đàm phán nghiêm túc và khi điều đó xảy ra, Israel nên trả lại những vùng lãnh thổ đã chiếm được sau Cuộc chiến Sáu ngày năm 1967 để đổi lấy hòa bình.
Ngược lại, Phe Chính trị cánh hữu (Political right – bảo thủ) của Israel cho rằng một đề nghị hòa bình chân chính sẽ không bao giờ xảy ra và do đó Israel nên xem những vùng lãnh thổ này như một phần của di sản Do Thái và hỗ trợ định cư cho người Do Thái ở đó.
Phe Chính trị trung tâm (Political centre) là phe trung dung đứng giữa, kết hợp sự thiếu lòng tin của cánh hữu vào giá trị của các cuộc đàm phán với người Palestine và các quốc gia Ả Rập, với sự khẳng định của cánh tả rằng Israel nên giảm bớt sự hiện diện trong các khu vực ở Bờ Tây. Theo cách tiếp cận này, phe Chính trị trung tâm ủng hộ các hành động đơn phương như hàng rào Bờ Tây và kế hoạch đơn phương rút quân của Israel song song với việc tiếp tục các hành động quân sự như một phương tiện chiến đấu chống lại chủ nghĩa khủng bố.
Sự đồng thuận cơ bản (trưng cầu ý dân) của quốc dân là chống lại việc sáp nhập Bờ Tây, dải Gaza, hoặc Sinai, trong khi nhiều người, trong đó có nhiều người thuộc phe tả, ủng hộ sáp nhập Đông Jerusalem và Cao nguyên Golan vào Israel.
Bất kể quan điểm nào về việc cho phép hay khuyến khích định cư Do Thái tại các vùng lãnh thổ chiếm được, không phe nào trong chính trị Israel cố gắng hết sức để ngăn chặn nó. Sau hết, cả hai phe đều lập luận rằng nếu như có một thỏa thuận hòa bình nào đó trong tương
lai, thì các khu định cư vẫn có thể được tháo dỡ. Và chừng nào mà Israel không đạt được bất cứ một cuộc đàm phán hòa bình nghiêm túc với người Palestine - đang được dẫn dắt bởi PLO - thì khó mà có một quyết định nào khác cho tương lai.
Mặc dù tranh luận như vậy, mỗi khi xuất hiện một cơ hội hứa hẹn để tìm kiếm khả năng cho hòa bình, chính phủ Israel không bao giờ bỏ qua. Cơ hội đầu tiên đến khi Tổng thống Ai Cập Anwar al-Sadat ý thức rằng, vì lợi ích của mình, Ai Cập nên chấm dứt các xung đột với Israel. Menahem Begin, Thủ tướng Israel khi đó, đã háo hức đáp ứng tại Cuộc họp trại David vào năm 1978 bằng cách trao lại Bán đảo Sinai cho Ai Cập và đồng ý dỡ bỏ các khu định cư Do Thái ở đó để đổi lấy một hiệp ước hòa bình. Lãnh đạo của Chính trị cánh hữu của Israel, Đảng Quốc gia (National Camp), đã chứng tỏ khả năng linh hoạt rất thực dụng của chính phủ Israel trong cơ hội này.
Cuộc tranh luận nội bộ của Israel tiếp tục - nhưng chủ yếu vẫn là thảo luận trong nghị trường - cho đến Hiệp định Oslo năm 1993. Thỏa thuận Oslo 1993 là một thử nghiệm, mặc dù cũng là một rủi ro, để xem hòa bình có thể đạt được hay không. Israel đã trao trả phần lớn Bờ Tây và dải Gaza cho PLO. Ngược lại, cam kết của Nhà cầm quyền Palestine, là phải ngăn chặn hoạt động của các nhóm cực đoan chống lại Israel để chuẩn bị cho hòa bình và chấm dứt xung đột.
Câu hỏi đặt ra là: liệu đề nghị nhượng bộ, trong đó gồm cả việc trao trả lại hầu như tất cả các vùng lãnh thổ mà Israel đã chiếm được và công nhận nhà nước Palestine, có đem lại hòa bình hay không? Và gốc rễ xung đột Ả Rập-Israel có nằm trong việc Palestine và các nhà lãnh đạo Ả Rập từ chối công nhận sự tồn tại của Israel hay không?
Trong khi Israel tham gia vào thử nghiệm kéo dài bảy năm này từ năm 1993 đến năm 2000, các điều kiện của cuộc tranh luận nội bộ đã thay đổi. Những người Israel có quan điểm dao động từ “trung tâm đến cánh tả” cho rằng PLO, Nhà cầm quyền Palestine, và lãnh đạo Fatah Yasir Arafat - nếu được chấp nhận một nhà nước Palestine độc lập bao gồm Bờ Tây và dải Gaza – chắc chắn sẽ đàm phán một thỏa thuận hòa bình và giữ gìn nó. Phần thưởng không chỉ là hòa bình cho khu vực mà còn là khả năng tiến đến một “Trung Đông mới”, như nhà lãnh đạo kỳ cựu của Đảng Lao động Shimon Peres kỳ vọng, trong đó tất cả mọi người sẽ phát triển thịnh vượng.
Còn quan điểm chung từ “trung tâm đến cánh hữu” là nhượng bộ để đạt được một thỏa thuận hòa bình sẽ không có tác dụng và không những thế còn có khả năng sẽ nâng cao mức độ bạo lực và giúp các lực lượng thù địch mạnh hơn lên. Quan điểm này cho rằng khi các cuộc đàm phán cuối cùng diễn ra, hai bên sẽ không đồng ý, tiến trình hòa bình sẽ sụp đổ, và Israel sẽ rơi vào một tình trạng an ninh còn tồi tệ hơn nhiều so với trước đây. Còn trường hợp nếu hai bên đạt được một thỏa thuận nào đó thì nhà nước Palestine mới được thành lập sẽ lại được sử dụng làm căn cứ cho một vòng xung đột thứ hai nhằm xóa tên Israel khỏi bản đồ thế giới.
Trong thập niên 1990, sức nóng ngày càng dâng cao trong cuộc tranh luận mới này, được đổ thêm dầu do vụ ám sát Thủ tướng Yitzhak Rabin vào tháng Mười Một năm 1995. Nhà cầm quyền Palestine đôi khi cũng cố gắng ngăn chặn các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào thường dân Israel, nhưng mặt khác vẫn tiếp tục kích động thái độ và hành động chống lại Israel. Người Palestine đã thất bại trong việc chuẩn bị dân chúng cho một nền hòa bình thực sự, nhưng mặt khác vẫn bền bỉ yêu cầu lấy lại toàn bộ lãnh thổ bị Israel chiếm đóng. Tuy nhiên, vòng chung kết của cuộc đàm phán sẽ chứng minh kịch bản này hay kịch bản khác chiếm ưu thế.
Năm 2000, có bốn sự kiện xảy ra. Hoa Kỳ tổ chức hội nghị thượng đỉnh Trại David trong đó Arafat từ chối một khuôn khổ cho các cuộc đàm phán trong tương lai, và người Palestine đã quyết định tiếp tục bạo lực toàn diện. Tiếp theo, Nhà cầm quyền Palestine từ chối kế hoạch hòa bình của Tổng thống Bill Clinton, và chính phủ Syria từ chối thỏa thuận lấy lại Cao nguyên Golan để đổi lấy một hòa bình toàn diện.
Mặc dù được đề nghị một nhà nước Palestine độc lập với thủ đô là miền Đông Jerusalem, cùng với hầu như toàn bộ lãnh thổ trước năm 1967, và hơn 20 tỷ USD bồi thường, các nhà lãnh đạo Palestine đã từ chối những đề xuất này, thậm chí chỉ để làm cơ sở cho những đàm phán tiếp theo. Tương tự, Syria đề nghị lấy lại Cao nguyên Golan cho đến đường biên giới quốc tế công nhận năm 1923, cũng khăng khăng đòi thêm phần lãnh thổ mà họ đã chiếm đóng bất hợp pháp sau năm 1948. Vùng lãnh thổ này cho phép Syria tiếp cận Biển Galilee và một vùng đất chiến lược khác mà chỉ có giá trị cho Syria trong việc can thiệp vào nguồn cung cấp nước của Israel hay để khởi động các cuộc tấn công. Israel đã từ chối yêu cầu này.
Vào năm 2001, tất cả những sự kiện này đã thuyết phục đa số người Israel rằng hòa bình không phải là ở trong tầm tay và không thể giành được bằng bất kỳ nhượng bộ nào về phía họ. Vấn đề là sự tồn tại của Israel, chứ không phải là các chi tiết của một thỏa thuận hòa bình. Các kết quả bầu cử tiếp theo, đặc biệt là trong năm 2001 và 2003, cho thấy rằng hy vọng của người Israel (hoặc ảo tưởng, như nhiều người nghĩ) đã bốc hơi. Hầu hết không còn tin rằng chấp nhận rủi ro và nhượng bộ sẽ mang lại hòa bình. Đây là một sự thay đổi bước ngoặt trong nhận thức của người Israel về tiến trình hòa bình.
Bài học khác mà người Israel học được từ kinh nghiệm của tiến trình hòa bình trong thập niên 1990 đến từ sự nhận thức về việc rũ bỏ lời hứa của phương Tây. Hoa Kỳ và Châu Âu đã thúc giục Israel phải nhượng bộ và chấp nhận rủi ro, nhấn mạnh rằng hành động như vậy là cần thiết để chứng minh rằng Israel mong muốn hòa bình. Israel được bảo rằng nếu lời đề nghị hòa bình thất bại, phương Tây sẽ tăng cường hỗ trợ cho Israel, vì rằng các quốc gia phương Tây khi đó sẽ hiểu rằng Israel không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bảo vệ chính mình và từ chối những nhượng bộ xa hơn nữa.
Trong thực tế, điều ngược lại đã xảy ra. Mặc dù Israel đã rút quân khỏi miền nam Lebanon và sau đó khỏi dải Gaza, mặc dù sự hợp tác của Israel với Nhà cầm quyền Palestine, và những lời đề nghị hòa bình chưa từng có của Israel (bao gồm đề nghị trả lại Cao nguyên Golan và dải Gaza, phần lớn miền Đông Jerusalem, và gần như toàn bộ Bờ Tây, cùng với việc sẵn sàng chấp nhận một nhà nước Palestine độc lập), chỉ trích của phương Tây đối với Israel ngược lại tăng lên sau khi tiến trình hòa bình thất bại, và sự ủng hộ của phương Tây đối với Israel dường như giảm bớt.
Từ những kinh nghiệm của những năm 1990 và năm năm tiếp theo của bạo lực và khủng bố của các nhóm cực đoan nhằm vào Israel, Israel đã đạt tới một sự đồng thuận mới. Sự dịch chuyển quan điểm của hầu hết phe cánh tả và cánh hữu về phe Chính trị trung tâm đã định hình lại khung cảnh chính trị của Israel. Với những nghi ngờ về sự quan tâm của khối Ả Rập (hoặc ít nhất là Palestine và Syria) đối với giải pháp hòa bình và hoài nghi về thái độ của nước ngoài (phương Tây), Israel đã áp dụng một mô hình mới. Họ lấy một ý tưởng từ cánh tả - sẵn sàng rút khỏi những vùng lãnh thổ đã chiếm được vào năm 1967 và đồng ý chấp nhận một nhà nước Palestine - và một ý tưởng từ cánh hữu – hoài nghi rằng có một ai đó bên phía
Palestine thực sự là một đối tác vì hòa bình.
Các chính trị gia của cả hai truyền thống Chính trị cánh tả và Chính trị cánh hữu đã cùng chấp nhận khái niệm mới này. Họ đồng ý rằng hòa bình không phải là trong tầm tay và Israel vẫn đang ở trong một giai đoạn chuyển tiếp lâu dài. Israel cần phải tiếp tục hợp tác với Nhà cầm quyền Palestine để hạn chế kích động khủng bố và đảm bảo
rằng Nhà cầm quyền Palestine sẽ không sụp đổ - đặc biệt là sau khi Hamas nắm quyền kiểm soát dải Gaza. Tuy nhiên người Israel cũng ý thức được rằng Israel nên tiếp tục những nỗ lực này nhưng cũng không nên mang bất kỳ một ảo tưởng hay mong đợi nào.
Kể từ đó, dân chúng Israel đã bỏ phiếu cho các chính phủ kế tiếp ủng hộ nhượng toàn bộ dải Gaza, hầu hết Bờ Tây, và phần lớn miền Đông Jerusalem để đổi lấy một hòa bình trọn vẹn và lâu dài. Đồng thời, các chính phủ Israel cũng yêu cầu trước khi một thỏa thuận như vậy được hoàn tất, Nhà cầm quyền Palestine phải cung cấp bằng chứng thuyết phục về sự sẵn sàng nhượng bộ về phía họ.
Kế hoạch hòa bình 2009 của chính phủ liên minh Israel bao gồm cả hai Đảng Likud và Đảng Lao động kêu gọi công nhận Israel là một nhà nước Do Thái, tái định cư người tị nạn Palestine tại nhà nước Palestine mới, hạn chế các lực lượng quân sự của nhà nước Palestine, bảo đảm an ninh cho Israel, và nhất quyết rằng bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào cũng phải bao gồm việc kết thúc vĩnh viễn xung đột Israel Palestine thay vì chỉ là khúc dạo đầu cho một giai đoạn xung đột mới.
Trong khi Israel nghiêng về giải pháp hòa bình, các chính trị gia và dân chúng Israel không chấp nhận quan điểm cho rằng một thỏa thuận nhanh chóng là quan trọng hơn những rủi ro hoặc các điều kiện kèm theo. Đây là sự thật mặc dù rằng - hay chính xác hơn bởi vì - bản thân cuộc xung đột đã bước vào một giai đoạn mới. Thay vì phải đối mặt với các chế độ và các phong trào dân tộc Ả Rập như kẻ thù chính của mình, Israel hiện đang bị đe dọa bởi các thành phần Hồi giáo cực đoan. Các lực lượng Hồi giáo cách mạng - trong đó có Hezbollah và Hamas - và các chính phủ Iran và Syria cam kết sẽ hủy diệt Israel và từ chối hòa bình dưới mọi hình thức.
Israel chủ yếu nhìn nhận rằng các biến động chính trị của thế giới Ả Rập trong năm 2011, thường được ca ngợi ở phương Tây như các phong trào dân chủ, chỉ là đánh dấu một bước tiến của cách mạng
Hồi giáo. Israel kết luận, nếu chủ nghĩa cực đoan ở Trung Đông ngày một dâng cao, nhượng bộ sẽ làm nguy hiểm tăng gấp đôi, vì nhượng bộ sẽ cung cấp thêm cho các kẻ thù chính của Israel các lợi thế chiến lược.
Bên ngoài Trung Đông, Israel phải đối mặt với nhiều sự đối kháng từ các phương tiện truyền thông và giới trí thức phương Tây. Tuy nhiên, bức tranh không chỉ thuần là màu xám. Đất nước Israel
luôn duy trì được các mối quan hệ khá tốt với hầu hết các nền dân chủ phương Tây. Và mối quan hệ của Israel với các cường quốc như Nga và các quốc gia khác nổi lên từ Liên Xô cũ, Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều quốc gia thế giới thứ ba dường như tốt hơn nhiều so với những thập niên trước.
Tình hình an ninh nội bộ của Israel cũng tốt hơn so với trong quá khứ. Chiến lược của Israel chống lại Phong trào Intifada II (phong trào nổi dậy của người Palestine chống lại Israel) trong những năm 2000 -2005, và chống lại các hoạt động xuyên biên giới từ Hamas (ở dải Gaza) và Hezbollah (ở phương Bắc) đã đẩy tấn công khủng bố xuống mức thấp hơn so với các năm trước. Trong khi Israel không phải đối mặt với các mối đe dọa ở mức độ cao, về mặt tâm lý, người dân Israel đã tự điều chỉnh để biến tình trạng này như một phần của sinh hoạt hàng ngày. Đây là điều hiển nhiên trong những năm 2000 -2005, khi các cuộc tấn công khủng bố dữ dội vào thường dân Israel đã không gây ra bất kỳ suy sụp đáng kể nào trong tâm lý của xã hội.
Khả năng cho các cuộc tấn công tên lửa lớn từ Lebanon và dải Gaza vẫn còn, và việc sở hữu tiềm năng vũ khí hạt nhân của Iran là mối đe dọa mới, nhưng người dân Israel hiện đang tận hưởng một mức an ninh khá cao bằng những kinh nghiệm và mong đợi của họ. Mặc dù xung đột Ả Rập-Israel vẫn đang xảy ra, Israel vẫn rất thành công trong việc đem lại cho người dân sự an ninh cá nhân và tập thể. Nếu số liệu thống kê tội phạm ở các nước phương Tây được tính đến trong việc đánh giá mối đe dọa, người dân Israel ít phải đối mặt với nguy hiểm hơn rất nhiều so với cư dân của hầu hết các thành phố ở châu Âu và châu Mỹ.
NHỮNG THÁCH THỨC
TRONG VIỆC XÂY DỰNG QUỐC GIA
Những thách thức mà Israel phải đối mặt sau khi độc lập bao gồm không chỉ đảm bảo sự sống còn chiến lược của mình mà còn phải thiết lập cho mình một nhà nước dân chủ ổn định với một nền kinh tế công nghiệp tăng trưởng, nuôi dưỡng tinh thần dân chúng, duy trì hòa bình nội bộ và an sinh xã hội; trong khi các nước láng giềng Ả Rập giàu có đông dân, có thể nói, không bao giờ từ bỏ ý định xóa sổ Israel trên bản đồ thế giới. Ngoài những khó khăn đến từ mối đe dọa về sự tồn tại, sự thù địch của các nước láng giềng, vẫn còn rất nhiều rào cản đối với sự phát triển của Israel.
Trước hết, Israel thiếu tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho sản xuất, ngoại trừ phốt phát chất lượng cao ở biên giới phía Đông. Israel hầu như không có dầu và chỉ có một lượng nhỏ khí đốt tự nhiên. Nước cũng là một khó khăn khác: Israel phải đối mặt với tình trạng thiếu nước định kỳ. Cơ sở hạ tầng yếu kém. Không có mạng lưới đường bộ tốt; chỉ có một hệ thống đường sắt tối thiểu; không có kết nối giao thông với các nước láng giềng kể từ khi biên giới của họ đóng cửa với nhà nước Do Thái; và cuối cùng không một hệ thống phân phối nước quốc gia.
Thứ hai, rất ít người Do Thái lưu vong trở về Israel có kiến thức hoặc kinh nghiệm để giúp xây dựng một nhà nước hay một nền kinh tế hiện đại. Hầu hết là những người nghèo trở về chỉ với bộ quần áo trên người. Những người trẻ tuổi sống sót Holocaust không có cơ hội học hành. Người Do Thái từ các nước Trung Đông cũng ở trong một tình trạng tương tự, đến từ các nước phi công nghiệp.
Hợp tác xã và các tổ chức khác trong thời kỳ đầu là một trong những nỗ lực có ý thức trong hoạt động xây dựng quốc gia. Nếu, như một khẩu hiệu Zionist đề ra, những người nhập cư Do Thái đã về đây
để “xây dựng và được xây dựng”, thì họ cần phải có sự thay đổi về nhận thức: đó là chấp nhận sự cao quý của lao động chân tay và chấp nhận đặt lợi ích của đất nước lên trên lợi ích của mỗi cá nhân. Những người tình nguyện đang đổ sức ra xây dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa trên Vùng đất Israel nhìn thấy mình biến đổi từ người Do Thái bị ràng buộc bởi truyền thống trở thành những người tiên phong, những người lính, những người lao động dũng cảm. Mặc dù các khía cạnh lãng mạn và không tưởng của chương trình đầy tham vọng này
trong những ngày đầu đã không đạt được, nhưng phần lớn những mục tiêu về nghề nghiệp, tâm lý, và thực tế đã được ghi nhận.
Khi Israel giành được độc lập, về cơ bản đó là một quốc gia thuộc Thế giới thứ Ba. Những năm đầu đã được đánh dấu bởi các áp lực chiến lược, nhập cư lớn, tình trạng thiếu nhà ở và khan hiếm nhu yếu phẩm, tất cả khiến cho công cuộc xây dựng đất nước trở nên rất khó khăn. Một phần trăm dân số Israel đã bị chết trong Cuộc chiến Độc lập 1948-1949. Trong nhiều năm sau đó, chính sách chia khẩu phần được áp dụng (như chế độ tem phiếu của Việt Nam thời bao cấp), hàng trăm ngàn người tị nạn đến từ châu Âu và hàng trăm ngàn người khác đến từ Trung Đông, hầu hết với bộ quần áo trên người và một túi tiền trống rỗng.
Đây mới chỉ là phần mở đầu của danh sách các thách thức về kinh tế mà Israel phải đối mặt. Cộng thêm vào đó là sự đa dạng của ngôn ngữ và phong tục, không có nền tảng công nghiệp và khoa học-kỹ thuật, các đối tác thương mại tiềm năng bên ngoài bị các nước Ả Rập đe dọa tẩy chay kinh tế. Dân số Israel lại quá nhỏ và không có ảnh hưởng cho nên Israel không có thị trường nội địa cần thiết đủ để xây dựng một ngành công nghiệp nặng hoặc thậm chí sản xuất sản phẩm với qui mô lớn.
Đổi mới, công nghệ, và tính linh hoạt đã trở thành trọng tâm trong chiến lược xây dựng kinh tế. Ý tưởng là phải phát triển các giải pháp thích hợp đặc biệt cho Israel. Ví dụ, trong lĩnh vực nông nghiệp, vấn đề là làm thế nào để phát triển cây trồng nơi rất khan hiếm nước.
Một loạt các giải pháp kỹ thuật đã được triển khai - tưới nhỏ giọt, phủ nhựa cho cánh đồng, nhà kính, lai tạo cây trồng, và tương tự - để thúc đẩy sản xuất. Thị trường đã được tìm thấy ở châu Âu cho trái cây và rau quả trồng trong mùa đông. Một ngành công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng đã được tạo ra trên cơ sở tương tự.
Kinh nghiệm của Israel cho thấy Chủ nghĩa Xã hội Dân chủ (Democratic Socialism) là một lựa chọn rất phù hợp với thực tế Israel trong hoàn cảnh thiếu vốn. Tại Israel, cách tiếp cận rộng rãi chủ nghĩa xã hội (nhưng không hoàn toàn triệt để) đã được áp dụng trong những năm đầu. Để tạo việc làm và đặt nền móng cho một quốc gia thường đòi hỏi nhà nước phải gánh chịu tổn thất tài chính hoặc nếu không thì sẽ là rủi ro quá lớn cho các doanh nghiệp tư nhân. Do đó, một loạt các tổ chức quốc doanh (para state) và hợp tác xã được ưu
tiên thành lập thay vì các tổ chức cá thể. Những thập niên sau đó, tuy nhiên, thời gian đã thay đổi và những thành công của Israel đã vượt quá tầm cỡ và khả năng kiểm soát của những tổ chức này. Trong kinh nghiệm của các quốc gia phương Tây, các nhóm lợi ích, công đoàn, các đảng phái chính trị, và tính ì cố hữu có thể trở thành những lực cản mạnh mẽ ngăn chặn những thay đổi cần thiết. Nhưng trong những năm 1980, Israel đã làm được một kỳ tích qua việc chuyển dịch từ cơ chế nhà nước độc quyền quản lý sang tư nhân hóa một cách trơn tru về mặt chính trị và giảm thiểu tối đa tổn thất xã hội. Tinh thần kinh doanh theo hướng thị trường mở cũng được nuôi dưỡng. Những đặc điểm phát triển từ sớm vào thời kỳ Yishuv - sự đổi mới, sáng kiến khả năng thích ứng - tỏ ra cực kỳ hữu ích trong môi trường cá nhân, ý thức trách nhiệm, kinh tế, công nghệ và toàn cầu mới.
Ngày nay dân chúng Israel thường than vãn chi phí của những thay đổi kinh tế và xã hội. Họ liệt kê rất nhiều những thứ từ thời tiên phong đầu tiên đã bị mất: cảm giác về cộng đồng đi xuống, sùng kính lợi ích cá nhân thì tăng lên, rồi tham nhũng, hoài nghi, và chênh lệch thu nhập cá nhân ngày càng tăng. Đây là những xu hướng thường thấy ở các nước phương Tây, nhưng ở Israel mức độ nhẹ hơn. Những xu hướng này báo hiệu đã tới lúc phải thực hiện thể chế hóa trên phạm vi quốc gia. Tuy nhiên, các yếu tố của thời kỳ “anh hùng ca” của Israel vẫn còn khắc sâu trong cơ cấu xã hội.
Sáng tạo và ngẫu hứng là lực đẩy chính trong chiến lược phát triển liên tục, cũng như trong chiến lược an ninh quốc gia. Gần đây Israel tập trung rất mạnh vào khoa học, y học, công nghệ, an ninh, thiết bị nông nghiệp, và rộng hơn, đẩy mạnh sáng tạo kinh doanh thông qua nghiên cứu và phát triển, bao gồm các công ty khởi nghiệp (start-up). Mặc dù dân số rất nhỏ, với xấp xỉ hơn tám triệu người, Israel đã sở hữu một số lượng đáng ngạc nhiên các phát minh trong một loạt các lĩnh vực. Israel cũng đã nhanh chóng thích ứng với các điều kiện đang thay đổi, mở rộng thị trường mới, và gia nhập vào các lĩnh vực mới và sáng tạo.
Văn hóa của Israel là một sản phẩm tổng hợp và ngẫu hứng. Từ những chất liệu như lịch sử lâu đời của người Do Thái, Yishuv, từ những vay mượn và sự thích nghi của người Do Thái nhập cư từ vài chục quốc gia, kinh nghiệm của Israel, và ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa đương đại (bao gồm cả Tây Âu, Đông Âu và Trung Đông),
một kho tàng phong phú của các tác phẩm âm nhạc, múa, văn học và nghệ thuật đã xuất hiện.
Rất ít quốc gia trên thế giới, đặc biệt những quốc gia thành lập sau Thế Chiến II, đã thành công trong việc xây dựng xã hội dân chủ ổn định hoặc kinh tế tiên tiến. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều bất lợi hơn so với những nước khác, Israel đã vươn lên xếp hạng trong số các quốc gia tiên tiến về kinh tế, mức sống, tự do và xã hội. Trong năm 2010, vị trí này được xác nhận qua việc Israel được gia nhập Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) gồm các quốc gia có nền kinh tế tiên tiến và ổn định nhất.
Những thành tựu ấn tượng của Israel có thể được giải thích như thế nào? Cơ bản mà nói thì điều này đạt được chủ yếu là do những người sáng lập Nhà nước Israel mà tiêu biểu là Ben-Gurion đã lựa chọn và đi theo một đường lối chiến lược rất đúng đắn, và những người kế thừa của họ luôn sẵn sàng và dám thay đổi.
MỘT QUỐC GIA HIỆN ĐẠI
Tại Israel, cũng như ở tất cả các nước, các tầng lớp xã hội tồn tại. Nhưng trong một xã hội còn quá non trẻ như Israel, dựa trên tính cá nhân và chống lại chủ nghĩa truyền thống, thì tầng lớp xã hội không có tầm quan trọng về mặt chính trị. Mọi người không có xu hướng “gắn nhãn” mình vào một đám đông nào đó, và do đó việc phân chia giai tầng xã hội ở Israel không quá nặng như ở các nước khác.
Với sự suy giảm của các ý hệ tư tưởng, các khái niệm “phe tả” và “phe hữu” không bị phân biệt rõ ràng như vẫn tồn tại ở các nơi khác, ngoài các vấn đề liên quan đến các cuộc xung đột Ả Rập-Israel và Israel-Palestine. Sau những kinh nghiệm về tiến trình hòa bình trong thập niên 1990, khoảng cách của những ý kiến đã thu hẹp. Vẫn có những lòng trung thành về chính trị và các tranh luận sôi nổi, nhưng mặt khác ý thức về cộng đồng xã hội đã được nâng cao.
Các dấu hiệu dễ thấy nhất của sự phân chia là giữa người Do Thái và người Ả Rập, và riêng trong cộng đồng người Do Thái lại được chia nhỏ giữa các thành phần thế tục và một vài khu vực tôn giáo khác nhau. Một dấu hiệu phân chia khác là theo nguồn gốc dân tộc,
vẫn còn quan trọng, nhưng đang giảm dần: khoảng 40% các cuộc hôn nhân của người Do Thái là giữa một Ashkenazic và một đối tác Sephardic(11). Tương tự như vậy, làn sóng xấp xỉ một triệu dân nhập cư từ Liên Xô cũ cũng đã hòa nhập vào cộng đồng lớn của xã hội.
Những độc đáo của Israel ngày nay đã đem lại cho Israel rất nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với các nước công nghiệp khác mà nhiều người vẫn chưa nhận ra. Israel có một hệ thống bầu cử ổn định, một nền kinh tế thịnh vượng hòa điệu với thế kỷ 21, và một xã hội cởi mở, đa nguyên, và tự do. Nhiều khu vực của thế giới và của phương Tây vẫn nhìn Israel với một hình ảnh không lành mạnh, nói đúng hơn là “xấu xí”, không đúng với hình ảnh tốt đẹp thực có của đất nước và người dân ở xứ này.
Trên thực tế, có thể nói người Israel là những người có tinh thần phê và tự phê cao nhất trên thế giới. Họ sẵn sàng – và thường háo hức - xem xét lại tất cả mọi điều họ tin, nghĩ và làm. Nghệ sĩ hài nổi tiếng Israel Ephraim Kishon đã viết khi ông về tới Israel vào năm 1949: “Khi tầu gần cập bờ và trời rất nóng, mọi người bắt đầu chỉ trích chính phủ về thời tiết.” Xu hướng chỉ trích này dường như bào mòn, nhưng trên thực tế nó lại rất hữu ích trong việc thách thức các vấn đề và sửa chữa những yếu kém, mặc dù nó khiến người ngoài cuộc hiểu sai về mức độ bất mãn trong nước. Đó là một phần thiết yếu của sự cởi mở để cải thiện, thích ứng và đổi mới, những yếu tố cơ bản đem đến sự thành công của đất nước.
Về chính trị, các chiến binh ở cả hai đầu của đấu trường chính trị Israel cho rằng những nhượng bộ về vấn đề Israel- Palestine có thể là một điều cần thiết cho sự tồn tại nhưng cũng có thể là con đường dẫn đến tự vẫn. Có những phàn nàn gay gắt về quyền lực thường phóng
đại của các cộng đồng tôn giáo, về bản chất Zionist của nhà nước (chủ yếu là từ các nhà hoạt động Israel-Ả Rập), và về việc thể chế hóa một xã hội đã từng là tiên phong chuyển dịch sang một xã hội kiểu phương Tây, vật chất, và tiêu dùng. Danh sách phàn nàn vẫn kéo dài…
Cuối cùng, Israel đang hướng mọi tập trung về công việc làm ăn thương mại, cùng với mối quan tâm về việc phát triển một xã hội, văn hóa, kinh tế, và các khía cạnh khác của cuộc sống mà không quá xoay quanh những chủ đề liên quan đến chiến tranh và bang giao quốc tế. Israel đã trở thành một quốc gia Địa Trung Hải-Trung Đông với các đặc điểm hiện đại và truyền thống đi liền nhau, cùng với các khía
cạnh độc đáo và màu sắc không thấy có ở các quốc gia khác như Mỹ và châu Âu.
Trên tất cả, mặc dù là một quốc gia luôn bị đe dọa và đôi khi bị chửi rủa, một quốc gia phải đối mặt với các mối đe dọa thực sự và buộc phải dựa chủ yếu vào nguồn lực của mình, Israel không chỉ sống sót mà phải hướng tới hưng thịnh.
CHƯƠNG II
DO THÁI GIÁO (JUDAISM) “Shema Yisrael Adonai Eloheinu Adonai Echad”
“Nghe đây, hỡi Israel, Thiên Chúa là Thượng Đế của chúng ta, Thiên Chúa là Duy nhất”
TÓM LƯỢC
▪ Đất tổ của Do Thái giáo là vùng Canaan cổ (thuộc Palestine, Jordan, Israel ngày nay).
▪ Thời điểm sáng lập Do Thái giáo: 2000 TCN.
▪ Sáng tổ: Moses thế kỷ 15-14 TCN.
▪ Dân số Do Thái giáo ngày nay: 13-14 triệu tín đồ (thống kê năm 2012).
Bản đồ Canaan cổ với 12 chi tộc
LỊCH SỬ LẬP QUỐC
VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DO THÁI GIÁO
Nguồn: http://www.bible-people.info/Abraham-activities.htm
Abraham
Theo Sách Sáng Thế trong Kinh Thánh Hebrew(1)(Kinh Thánh Do Thái), Abraham là tổ phụ đầu tiên của người Do Thái và Ả Rập(2)với tên lúc sinh ra là Abram, có nghĩa là “người cha được tôn quí”. Abram sinh ra khoảng 2000 năm TCN tại thành Ur thuộc phía Bắc vùng Mesopotamia(3)cổ (vùng Lưỡng Hà) – nay là Đông-Nam Thổ Nhĩ Kỳ. Theo những chuyện kể trong Kinh Thánh thì các tổ phụ người Do Thái là dân du mục, thường xuyên di chuyển từ nơi này qua nơi khác tìm kiếm đồng cỏ và nước uống cho gia súc. Theo sử gia Josephus [37- 100] và các học giả Do Thái như Maimonides cũng như theo truyền thống Hồi giáo, Abraham rời bỏ quê hương ở Ur đi đến Harran, lưu lại một thời gian ngắn, rồi cùng vợ Sarai và người cháu tên Lot và các tôi tớ tiếp tục cuộc di cư đến xứ Canaan. Khi rời khỏi Harran, Abram không biết tương lai của mình sẽ ra sao. Tuy nhiên ông tin rằng Thiên Chúa muốn ông đi tới Canaan như đã có lần ông được nghe Thiên Chúa kêu gọi ông: “Này Abram, hãy đi khỏi xứ này, rời khỏi họ hàng của ngươi và nhà của cha ngươi. Hãy tới một xứ sở mà ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi trở thành một dân tộc vĩ đại. Ta sẽ chúc lành cho ngươi và làm cho tên của ngươi trở thành lớn lao. Qua ngươi, hết thảy các dân tộc trên thế gian sẽ được chúc phúc”. Tin vào lời gọi của Thiên Chúa, không chút ngần ngại, Abram mang theo gia đình cùng toàn thể tôi tớ và gia súc rời khỏi Harran lên đường đi Canaan, một vùng đất kéo ngang từ bờ sông Jordan tới biển Địa Trung Hải ngày nay. Theo Kinh Thánh, đó là một vùng đất đầy sữa và mật ong.
Hành trình của Abraham
Năm Abram 99 tuổi, Thiên Chúa hiện đến cùng ông và phán rằng: “ta là Thiên Chúa toàn năng, và Ta lập giao ước với ngươi. Ngươi sẽ là tổ phụ của nhiều dân tộc, và để đánh dấu giao ước này, ngươi sẽ đổi tên thành Abraham (có nghĩa là “cha của nhiều dân tộc”). Ta sẽ giữ lời hứa, và xứ Canaan sẽ thuộc về ngươi và dòng dõi của ngươi đời đời; và Ta sẽ là Thiên Chúa của họ”. Xứ Canaan về sau được gọi là “Miền Đất Hứa” là vì vậy. Trong Sách Sáng Thế, chân dung của Abraham được phác họa như là một người được Thiên Chúa tin cậy và yêu thương không ai sánh bằng. Lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa của Abraham được xem là sự chấp nhận giao ước với Thiên Chúa: tôn thờ Thượng Đế - Đức Jehovah(4)là Thiên Chúa duy nhất của vũ trụ.
Cuộc sống của những thế hệ sản sinh từ Abraham đã được dùng làm chất liệu để thể hiện cung cách Thiên Chúa định hình thế giới. Đối với Abraham, ông xem tín ngưỡng mình đang theo không phải là tôn giáo của con người lập nên, mà là tôn giáo của Thượng Đế ban cho con người. Thượng Đế và Giao ước của Ngài đưa ra cho Abraham là độc nhất vô nhị và trở thành tư duy trong suốt lịch sử bốn nghìn năm sau đó của những người xem ông là tổ phụ của dân tộc Do Thái. Mặc dù câu chuyện giữa Abraham và Thượng Đế chỉ là truyền thuyết, thậm chí Giao ước của Thượng Đế và dân Do Thái thông qua Abraham cũng là một truyền thuyết, song ý nghĩa của nó trong thực tế lại vô cùng lớn lao. Vì rằng cho đến ngày hôm nay mỗi người dân Do Thái vẫn nằm lòng ý tưởng được “Chúa chọn” này.
Lòng tin là dân tộc được Chúa chọn chính là hạt giống ban đầu được gieo vào tâm thức của mỗi người dân Do Thái trong khao khát rằng, dù cay đắng, dù khổ đau, dân tộc Do Thái cuối cùng cũng sẽ đạt đến vinh quang. Chính hạt giống này là chất xúc tác giúp cho trí tuệ Do Thái được tỏa sáng, lòng dũng cảm được hun đúc, và tính kiên trì nhẫn nại được rèn giũa không mệt mỏi trong suốt chiều dài 4000 năm lịch sử lập quốc Do Thái.
Sau khi Abraham chết, trách nhiệm lãnh đạo được truyền lại cho con trai của ông là Isaac, và rồi đến con trai của Isaac là Jacob. Jacob
về phần mình có 12 người con trai. Tất cả từ Abraham, Isaac, Jacob cho đến 12 người con trai của Jacob được gọi là “tổ phụ” (Patriarchs) tức là tổ tiên của dân tộc Israel. Chữ “Israel” lần đầu tiên được dùng trong Kinh Thánh có liên quan đến Jacob. Một đêm, Jacob vật lộn với một người lạ, và sau đó, chính người lạ ấy - hình bóng của Thượng Đế - đã chúc phúc và đặt cho ông cái tên Israel, có nghĩa là “Kẻ chiến đấu với Thượng Đế”. Kể từ đó, người Hebrew được gọi là người Israel.
100 năm sau Abraham, vào thời đại của Jacob, đất Canaan rơi vào cảnh mất mùa đói kém. Dân Do Thái lại phải tiếp tục di cư tìm kiếm những đồng cỏ mới. Lúc này, đất Ai Cập với phù sa sông Nil là vựa lúa của vùng Địa Trung Hải và là miền đất hứa cho các dân tộc quanh đó tìm đến khi gặp đói kém hoạn nạn. Toàn thể gia tộc Israel với nhân số khoảng 70 người dưới sự lãnh đạo của Jacob di cư sang Ai Cập và ở lại đó theo lời mời của Pharaoh(5) Ai Cập. Chuyến đi tị nạn tưởng chỉ một đôi vụ mùa, đâu ngờ kéo dài tới 400 năm. Mười hai người con trai của Jacob phát triển thành 12 chi tộc sống ở Goshen, vùng đất phì nhiêu của Ai Cập, thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Nhưng rồi thời thế lại thay đổi, 70 người di dân nay phát triển thành hàng trăm ngàn người, và trở thành mối lo ngại cho người Ai Cập rằng người Hebrew có thể phá hủy đế chế Ai Cập. Các Pharaoh về sau quay lưng lại ngược đãi người Do Thái, bóc lột họ như nô lệ và độc ác nhất là ra lệnh giết tất cả con trai vừa lọt lòng của họ để kìm hãm đà gia tăng dân số người Do Thái.
MOSES VÀ HÀNH TRÌNH VỀ MIỀN ĐẤT HỨA
Cũng lúc này, một ngẫu nhiên lại đến, như một phép màu, đã giải cứu dân Do Thái khỏi ách nô lệ. Đó là sự xuất hiện của Moses vào khoảng thế kỷ 15-14 TCN. Moses - người ban hành luật lệ Do Thái và là vị tiên tri(6) đầu tiên của Do Thái giáo cũng như Kitô giáo, Hồi giáo. Chuyện kể trong Kinh Thánh là nguồn thông tin duy nhất về cuộc đời của Moses. Lúc mới sinh ra từ một phụ nữ Do Thái, ông được ơn thiêng che chở để sống sót, làm con nuôi của một công chúa và được giáo dưỡng như một hoàng tử trong hoàng cung Ai Cập. Sau đó, vì bênh vực đồng bào của mình mà ông đã giết chết một người lính Ai
Cập và phải bỏ hoàng cung, trốn tránh qua vùng sa mạc Sinai khô cằn làm người chăn cừu. Theo Sách Xuất Hành 2-3 (Kinh Thánh Hebrew), một lần trong khi Moses dẫn cừu đi sâu vào vùng núi thiêng của Sinai, bỗng nhiên Thiên Chúa hiện ra ở giữa một bụi gai đang bốc cháy. Rồi Moses nghe tiếng Thiên Chúa nói, “Ta đã thấy nỗi thống khổ của dân ta ở Ai Cập, nơi họ đang bị đối xử như nô lệ. Ta sẽ giải phóng chúng khỏi đất nước tàn bạo đó, và ban cho chúng một mảnh đất khác tốt lành, đượm sữa và mật. Vì thế, ngươi, Moses, phải dẫn dắt dân ta ra khỏi Ai Cập về Miền Đất Hứa”.
Thế là Moses, cầm theo cây gậy linh thiêng của Thiên Chúa ban cho, cùng với vợ con lên đường trở lại Ai Cập đặng giải thoát dân Do Thái đang bị câu thúc. Biến cố ly kỳ này được ghi lại trong Sách Xuất Hành, mô tả chi tiết hành trình gian truân về Miền Đất Hứa (sử hiện đại gọi là The Exodus) của khoảng 40 vạn dân Do Thái, chạy trốn khỏi Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ (Red Sea), đi về hướng Đông qua nhiều sa mạc hoang vu và lưu lạc ở đó suốt 40 năm, cuối cùng sống sót trở về lại vùng đất Canaan mà Thượng Đế đã hứa cho họ từ thời Abraham. Riêng Moses, dù sống thọ đến 120 tuổi, Moses đã không được vào Miền Đất Hứa mà phải chết trong sa mạc.
Nguồn: www.dailymail.co.uk
Moses và Mười Điều Răn
Trong hành trình gian truân về Miền Đất Hứa, một sự kiện rất trọng đại đã xảy ra có liên quan đến “Mười Điều Răn” (The Ten Commandments) của Thiên Chúa. Đó là thời điểm khi người Do Thái dừng chân tại vùng núi thiêng Sinai. Từ ngọn núi này, Thiên Chúa đã truyền ban Lề luật cho dân Do Thái thông qua Moses. Mười Điều Răn tuyệt đối này, rất căn bản cho đời sống của người Do Thái giáo, được tìm thấ y trong Sách Xuất Hành 20:1-17 và Sách Đệ Nhị Luật 5:6-21 của Kinh Thánh Hebrew. Mười Điều Răn này có thể tóm lược như
sau:
1. Ta là Đấng tối cao, Thượng Đế của các ngươi. Ta đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập, khỏi nơi bị đọa đầy. Các ngươi không được có Thiên Chúa nào khác, ngoài ta.
2. Các ngươi không được tạc tượng vẽ hình để mà thờ.
3. Các ngươi không được dùng danh Thiên Chúa một các bất xứng.
4. Các ngươi phải giữ ngày nghỉ thứ bảy là ngày Sabbath và coi đó là ngày thánh.
5. Các ngươi phải tôn kính cha mẹ.
6. Các ngươi không được giết người.
7. Các ngươi không được ngoại tình.
8. Các ngươi không được trộm cắp.
9. Các ngươi không được làm chứng gian hại người.
10. Các ngươi không được ham muốn chiếm đoạt tài sản người khác.
Trước đây, Thượng Đế giao ước riêng với Abraham, còn lần này, Ngài giao ước với toàn thể dân tộc Do Thái qua những lần Moses lên đỉnh núi Sinai để trực tiếp gặp Ngài. Qua những lần gặp gỡ Thượng Đế, Moses chuyển giao lại cho dân tộc Do Thái các huấn thị của Ngài. Thượng Đế lúc này tỏ lộ danh xưng là “YHWH”, gọi là Jehovah, nghĩa là “Ta là kẻ ta là”. Và đặc điểm của giao ước lần này cũng rất rành rọt, đó là chừng nào dân Ngài chọn còn vâng lời Ngài, chừng đó nó sẽ được Ngài che chở.
Giao ước Abraham và lời mặc khải thiêng liêng của Thiên Chúa đã định hình nên cách sống và tư duy của người Do Thái, giúp cho dân Do Thái trở thành một dân tộc không thể gục ngã và cũng là một dân tộc được chúc phúc.
Căn bản thì các điều răn nhấn mạnh đến sự vâng lời và trung thành với Thiên Chúa và đến cách cư xử lễ độ đối với các thành viên trong cộng đồng. Những điều răn này được mô tả chi tiết trong các Sách Xuất Hành, Sách Lêvi, Sách Dân Số và Sách Đệ Nhị Luật trong Ngũ kinh Moses và trở thành phần quan trọng nhất trong Kinh Thánh Hebrew.
Trong nhiều thế kỷ, người Do Thái giáo luôn hướng về Thánh Kinh và Mười Điều Răn để tìm nguồn cảm hứng và sự dẫn dắt, đến độ Do Thái giáo được mệnh danh là tôn giáo của Lề luật và người Do Thái là dân tộc duy nhất quan tâm đến sự vâng phục Lề luật của Thượng Đế.
40 năm hành trình trong hoang mạc là thời kỳ tôi luyện cho người dânDo Thái. Làm sao một dân tộc quen sống trong cảnh sung túc rồi chịu làm nô lệ hàng trăm năm có đủ tính cách và bản lĩnh để có thể chinh phục vùng đất trước mặt và xây dựng một quốc gia hùng mạnh trong tương lai. Làm sao lời giao ước của Thượng Đế, vốn thuần túy chỉ là những hứa hẹn, được pháp chế hóa thành luật lệ và thiêng liêng hóa trong những ràng buộc mang tính tôn giáo. Để có khả năng tiếp nhận Miền Đất Hứa và xứng đáng làm người chủ của nó, dân Do Thái phải trải qua cuộc thanh tẩy trong đạo đức cùng thao luyện trong gian khổ. Chính những trui rèn này trong 40 năm lưu lạc tại hoang mạc đã giúp hình thành tính cách kiên cường và bất khuất cho người dân Do Thái trong suốt chiều dài tiếp theo của lịch sử 4000 năm lập quốc gian truân của dân tộc mình.
Những sự kiện và mục đích của việc xuất hành về Miền Đất Hứa trở thành tâm điểm và linh hồn của Do Thái giáo. Thiên Chúa đã hành động để cứu dân tộc được Ngài chọn, khải thị(7)cho các nhà lãnh đạo Do Thái tôn danh và luật thiêng của Ngài, và cuối cùng, đã giải thoát dân Do Thái khỏi vòng nô lệ một cách nhiệm màu, thoát khỏi Ai Cập, đưa họ trở về Miền Đất Hứa Canaan. Những tư liệu pháp lý liên quan đến sự kiện trên núi Sinai trở thành những tư liệu quan trọng nhất trong Kinh Thánh Hebrew. Theo Sách Sáng Thế, các nguyên lý căn bản của Do Thái giáo thực sự được mặc khải(8)tuần tự theo dòng dõi các tổ phụ, từ Adam đến Jacob. Tuy nhiên, Do Thái giáo thực sự được hình thành như là một tôn giáo chỉ khi Moses nhận lãnh Mười Điều Răn trên núi Sinai, cùng với hệ thống tư tế và các
nghi thức thờ phụng tại Đền Thờ Jerusalem sau khi dân tộc này được giải cứu khỏi Ai Cập.
Moses được mô tả trong Thánh Kinh là một lãnh tụ tôn giáo, người công bố luật pháp, nhà tiên tri đầu tiên của Do Thái giáo. Ông được xem là người viết Kinh Torah (năm sách đầu tiên của Kinh Thánh Hebrew, còn gọi là Ngũ thư Moses) trong quãng thời gian 40 năm trong sa mạc. Những mặc khải thiêng liêng này đã trở thành Điều luật của Thượng Đế về lề luật đạo đức, xã hội, hiến tế, nghi lễ và đã trở thành khuôn mẫu tiêu chuẩn trong cuộc sống và đạo đức của người Do Thái.
Moses và Kinh Torah đã trở thành hòn đá tảng trong việc đặt một nền móng tâm linh cho đất nước Israel ổn định và vững chắc ngày nay.
Moses còn được coi là một thiên tài quân sự và là một vị anh hùng dân tộc của người Do Thái. Buổi đầu sự nghiệp của ông khá giống với vua Cyrus Đại Đế - vị Hoàng đế khởi lập Đế quốc Ba Tư(9). Ông cùng với vua Cyrus Đại Đế đều đóng vai trò vô cùng lớn lao trong lịch sử của dân tộc mình.
Ngoài những Lề luật của Chúa, những năm tháng lưu lạc trong hoang mạc Sinai đã đem lại cho người Do Thái hai định chế tôn giáo khác, đó là Hòm Bia Giao Ước và Lều Hội Ngộ. Mười Điều Răn được viết trên hai phiến đá và được đặt trong một hòm bằng vàng gọi là “Hòm Bia Giao Ước”. Hòm Bia Giao Ước vì thế trở thành quan trọng đối với người Do Thái vì nó nhắc nhở họ về lời giao ước của Thiên Chúa rằng Ngài sẽ luôn luôn ở bên họ. Bởi vì dân Do Thái sống du mục cho nên họ làm một cái lều di động gọi là “Lều Hội Ngộ” (Tabernacle) mà họ có thể dựng lên bất cứ nơi nào như một chốn linh thiêng để Thiên Chúa hiện diện. Lều Hội Ngộ chính là tiền thân của Đền Thờ Jerusalem sau này. Tabernacle có kích thước 14x4x5m được làm bằng khung gỗ, phủ vải gai dày màu xanh, tím và đỏ. Họ đặt Hòm Bia Giao Ước trong cái Lều này, rồi mỗi ngày tập trung quanh Lều để hiến tế và cầu nguyện. Đây là nơi sùng bái quan trọng nhất đối với người Do Thái. Nhiều năm sau, khi người Do Thái đã định cư yên ổn ở Canaan, vua David cho xây một đền thờ tại Jerusalem để cất giữ Hòm Bia Giao Ước và thờ phụng Thiên Chúa. Lều Hội Ngộ từ đó không còn nữa.
Suốt 40 năm lưu lạc trong hoang mạc, đã có lần đoàn người tới được bên rìa Miền Đất Hứa Canaan. Nhưng những lần đó, dân Do Thái chỉ nhìn thấy Miền Đất Hứa như một bóng mây, thoáng đến rồi lại vụt bay đi mất. Sau những gian nan tưởng như bất tận, đoàn người lên tới khoảng 60 vạn người và chuyển sang một thế hệ mới, với tâm trạng mới và tính cách mới. Họ trở nên kỷ luật hơn, thiện chiến hơn, tư cách hơn, và chỉ thế hệ mới này mới đủ tiêu chuẩn vào Miền Đất Hứa. Cuối cùng, mang theo Lều Hội Ngộ cùng Hòm Bia Giao Ước trong đó đựng Mười Điều Răn, và mang theo lời truyền khẩu về Lề luật mà 300 năm sau ghi lại thành bộ Kinh Torah, đoàn người vượt sông Jordan vào Miền Đất Hứa Canaan. Dưới sự lãnh đạo của Joshua, một người thân cận của Moses, người Do Thái đã chinh phục vùng đất này và định cư ở đó. Trong khi những vùng đất chung quanh có vua chúa, thờ phụng nhiều thần linh bản địa bằng ngẫu tượng theo tôn giáo tự nhiên, thì chỉ một mình dân Do Thái thờ phụng Thượng Đế, biến niềm tin thành giới luật và thoát ra ngoài sự sùng bái quỉ thần và mê tín.
Hành trình về Miền Đất Hứa và các sự kiện trước đó, ngược trở lại thời gian của Tổ phụ Abraham, đối với người Do Thái, là một phép màu. Đây là một thực tế hiển nhiên: một nhóm người lẻ loi, tổ chức lỏng lẻo, làm sao lại có thể thoát khỏi sự truy đuổi gắt gao của đội quân của Pharaoh thiện chiến, thoát khỏi cái nóng đến thiêu đốt của sa mạc, khỏi cái đói cái khát đeo bám hàng ngày trong suốt 40 năm lang thang nơi hoang mạc, nếu không có bàn tay che chở của Thượng Đế. Người Do Thái đã cảm nhận được sự che chở màu nhiệm ấy của Ngài trên từng bước đi trong hành trình của họ. Ngay từ ban đầu, Thượng Đế là người đã dẫn đường, đã che chở và định hình dân tộc mà Ngài đã chọn, biến nó từ một nhóm người lẻ loi trở thành một dân tộc quật cường và tràn đầy sức mạnh. Và người Do Thái giáo ngược lại đã chăm sóc, giữ gìn, đã nuôi dưỡng lòng tin ấy, vào Thượng Đế, cho đến tận ngày nay.
ĐỊNH CƯ Ở MIỀN ĐẤT HỨA
CANAAN
Miền Đất Hứa Canaan được chia vùng cho 12 chi tộc sinh sống, còn Lều Hội Ngộ với Hòm Bia Giao Ước được đặt tại Shiloh. Lúc đầu, người Do Thái không có vua. Họ chỉ liên kết với nhau dựa vào những
điều răn của Thiên Chúa và chung sống dựa vào sự hiểu biết Thiên Chúa của họ. Từ khoảng năm 1200 TCN cho tới năm 1047 TCN, các bộ tộc người Do Thái sống bằng nghề canh nông và chăn nuôi, không có chính quyền trung ương và được phân xử bởi các thủ lĩnh, còn gọi là thẩm phán. Thẩm phán có trách nhiệm đặc biệt phân xử về đất đai, hôn nhân và các sự việc liên quan tới Lề luật. Đồng thời, họ còn lãnh đạo những cuộc hành quân phối hợp giữa các bộ tộc trong những trận đánh với các dân tộc chung quanh, đặc biệt với quân Philistine, tiền thân của người Palestinesau này. Tuy nhiên tình trạng tranh chấp và chia rẽ giữa các bộ tộc cùng với xung đột với các dân tộc bản địa xung quanh dần dà vượt ra ngoài tầm giải quyết của các thủ lĩnh. Đã tới lúc người Do Thái đòi hỏi cần phải có một chính quyền trung ương, dưới sự cai trị của một vị vua. Thế là Saul [1079 TCN - 1007 TCN] trở thành vị vua đầu tiên của Do Thái. Nối dõi Saul là con rể David [1040 TCN - 970 TCN] và sau đó là Solomon [970 TCN - 931 TCN], con trai của David.
Tôn giáo của người Do Thái có một bước ngoặt lớn dưới thời vua David, vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Israel. Qua David, Thượng Đế hoàn thành lời hứa với Abraham, biến Israel thành một dân tộc vĩ đại. David hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước Israel năm 1003 TCN với “Ngôi Sao David” được dùng làm biểu tượng cho dân tộc Do Thái, gồm hai hình tam giác đều đặt ngược nhau làm thành 12 tam giác nhỏ, tiêu biểu cho 12 chi tộc của dân tộc Do Thái. Cũng từ thế kỷ 17 trở đi, Ngôi Sao David đã được dùng làm biểu tượng của Do Thái giáo. David cũng được cho là tác giả của Sách Thánh Vịnh, dùng làm cốt lõi cho Kinh Nguyện Do Thái giáo suốt mấy ngàn năm. Vua David chọn Jerusalem làm thủ đô của vương quốc Do Thái thống nhất và với tài lãnh đạo quân sự và quản trị của mình, ông đã giúp Do Thái trở thành một vương quốc nhỏ phồn vinh và hùng mạnh của vùng Trung Đông cổ. Tên Jerusalem, theo truyền thuyết, bắt nguồn từ hai từ tiếng Do Thái cổ là “ir” nghĩa là thành phố và “shalom” – hòa bình, thể hiện ước mơ được bày tỏ trong ước vọng cao cả của người dân Do Thái: ước mơ về thành phố hòa bình. Ở Jerusalem ngày nay, việc người Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo được tự do tiến hành các hoạt động tôn giáo tại các nơi thiêng liêng của họ, cùng các cuộc tiếp xúc giữa các cộng đồng tôn giáo và chủng tộc hết sức đa dạng, có thể được xem như một mẫu hình của hòa bình và chung sống.
Vua David qua đời năm 970 TCN, nối ngôi là hoàng tử Solomon là một người đầy trí tuệ. Thời đại Solomon thịnh trị, thu phục được
lòng tin của lân bang, mở rộng ngoại thương tới các xứ xa. Về mặt kinh điển, Kinh Torah được ghi thành văn bản dưới triều Solomon. Về mặt xây dựng đất nước, Solomon đã phát triển Vương quốc thành một trung tâm buôn bán hùng mạnh và thịnh vượng, và năm 960 TCN khởi công xây dựng Đền Thờ Jerusalem, hoàn thành vào năm 825 TCN và được xem là kỳ quan đệ nhất của thế giới thời đó. Có thể nói thời đại David-Solomon là thời kỳ huy hoàng nhất của Israel. Nó vĩnh viễn là một hoài niệm đầy tự hào của dân Do Thái suốt mấy ngàn năm.
NHỮNG THĂNG TRẦM BAN ĐẦU
Khi các Đế quốc lần lượt nổi lên thì vùng đất Canaan trở thành địa điểm chiến lược. Nó trở thành một hành lang nằm giữa biển và sa mạc, cung cấp cho các đoàn thương buôn và các đạo quân chinh phục một con đường độc nhất xuyên giữa các quốc gia rộng lớn và hùng mạnh xung quanh. Thế kỷ này nối tiếp thế kỷ kia, ngàn năm này sang ngàn năm khác, những cuộc hành quân lũ lượt đi qua nó: các binh đội của vua Ai Cập, những đoàn bộ hành Ả Rập, xe trận từ Assyria(10)và kỵ binh từ Babylon(11), sau này người Ba Tư với Cyrus(12), Macedonia(13)với Đại đế Alexander và rồi tới lượt người Hi Lạp, La Mã, Parthia.
Năm 922 TCN, sau triều đại Solomon, một cuộc nổi loạn chia quốc gia Do Thái thành hai nước. Jeroboam, người không thuộc hoàng tộc David, lãnh đạo cuộc nổi loạn của 10 bộ tộc phương Bắc lập nên nước Israel lấy thủ đô là Samaria. Chỉ còn lại hai bộ tộc Judah và Benjamin trung thành với hoàng tộc David làm thành nước Judah ở phương Nam, nơi có Đền Thờ Jerusalem, lấy thủ đô là Jerusalem. Vương quốc Israel [930 TCN – 720 TCN] phương Bắc chỉ tồn tại được khoảng 200 năm. Năm 720 TCN, Vương quốc Israel bị Đế quốc Assyria, một cường quốc ở vùng Mesopotamia (vùng Lưỡng Hà) xâm chiếm, tọa lạc tại thượng nguồn sông Tigris với thủ đô là Niniveh. Tất cả 10 bộ tộc của quốc gia phương Bắc bị giết, bị lưu đày, và biến mất khỏi lịch sử. Vương quốc phương Nam Judah [930 TCN – 586 TCN] tồn tại lâu hơn trong sự lệ thuộc vào người Assyria rồi cuối cùng cũng bị các đạo quân xâm lăng Babylon hủy diệt vào năm 586 TCN. Thành phố Jerusalem bị tàn phá, Đền Thờ Jerusalem bị san thành bình địa, dân nước Judah hoặc bị giết hoặc bị lưu đày sang Mesopotamia, đặc
biệt là tới thủ phủ Babylon. Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc thời kỳ được sách vở gọi là “Đền Thờ thứ nhất” [825 TCN - 586 TCN].
Cuộc đi đày ở Babylon mang lại một số thay đổi quan trọng như Kinh Torah nổi lên với vai trò trung tâm trong đời sống tinh thần của người Do Thái; từ đây bắt đầu thời kỳ các học giả tôn giáo, các nhà hiền triết trỗi dậy trở thành lãnh tụ tinh thần của người Do Thái giáo.
Về việc phân chia giai đoạn, trong các sách lịch sử Do Thái, khoảng thời gian từ năm 3000 TCN – 538 TCN được gọi là Thời Kỳ Thánh Kinh, và bốn thế kỷ tiếp theo từ năm 538 TCN – 60 TCN được gọi là Thời Kỳ Tự Trị Do Thái.
THỜI KỲ TỰ TRỊ DO THÁI [538 TCN - 60 TCN]
Năm 538 TCN, sau khi người Ba Tư chinh phục đế chế Babylon, Hoàng đế Ba Tư là Cyrus đã ban hành chỉ dụ trả lại tự do cho người Do Thái đang sống ở Babylon, cho phép họ quay trở lại đất tổ Judah. Đền Thờ được xây dựng lại và cuộc sống của người Do Thái trên đất Israel được khôi phục. Trong lần trở về này, gần 40 nghìn người Do Thái quay trở lại vùng đất Israel. Tuy nhiên, một số lượng lớn người Do Thái vẫn tiếp tục ở lại Mesopotamia, nơi mà trong các thế kỷ sau, là nhà của những cộng đồng người Do Thái biệt xứ nổi bật nhất bên ngoài vùng đất Israel. Việc xây dựng lại Đền Thờ Jerusalem mất khoảng 20 năm; lễ khánh thành Đền Thờ vào năm 515 TCN đánh dấu bắt đầu thời kỳ mà sách vở gọi là “Đền Thờ thứ hai”. Trong bốn thế kỷ sau đó, người Do Thái được trao nhiều quyền tự trị dưới sự đô hộ của người Ba Tư và Hy Lạp.
Vào khoảng năm 500 TCN, Kinh Torah trở thành kinh sách căn bản của Do Thái giáo dưới triều Solomon , đặt ra những lề luật cho đời sống hàng ngày, giữ gìn văn hóa và lễ nghi Do Thái cho mãi đến tận ngày nay. Đây là một trong những cột mốc rất quan trọng trong lịch sử của Do Thái giáo.
Trong số những người Do Thái có ảnh hưởng nhất trở về Jerusalem từ Babylon có Ezra [480 TCN - 440 TCN]. Ezra là một thầy
tế lễ đã mang theo mình một bản Sách Thánh mà ông dùng để đọc cho các công dân thành Jerusalem đang được xây dựng lại. Ezra được cho là đã tiến hành qui điển hóa những cuốn sách được coi là lời vàng ngọc của Thượng Đế. Nên nhớ rằng người Do Thái được biết không những là một dân tộc của Lề luật mà còn là một dân tộc hình thành xung quanh một quyển kinh. Vì thế công việc qui điển hóa này của Ezra có ý nghĩa rất quan trọng. Từ lúc này, người Do Thái tin rằng Thượng Đế không nói qua các tiên tri nữa mà nói qua sách của Ngài.
…Tiếp theo sau sự thống trị của Ba Tư vào thế kỷ 5 TCN, Canaan liên tục đổi chủ qua Macedonia, rồi quốc gia Ai Cập của họ Ptolemy và Syria của họ Seleucus. Khi người của đế quốc Seleucid áp đặt nhiều biện pháp nhằm đàn áp tôn giáo và việc thực hành tôn giáo của người Do Thái, một cuộc khởi nghĩa của người Do Thái đã nổ ra vào năm 166 TCN dưới sự lãnh đạo của Maccabees (Hasmoneans). Một vương quốc Do Thái độc lập đã được thành lập dưới sự trị vì của các vua Do Thái triều đại Hasmoneans [140 TCN - 37 TCN], và kéo dài khoảng 80 năm.
THỜI KỲ NƯỚC NGOÀI CAI TRỊ [60 TCN - 1948]
Đây là thời kỳ lưu lạc và bươn chải của dân Do Thái, kéo dài gần 2000 năm từ thế kỷ 1 cho tới thế kỷ 19.
Từ năm 60 trở đi, vương quốc Hasmoneans bị suy yếu bởi các mâu thuẫn bên trong và dần rơi vào sự thống trị của người La Mã. Cuối thế kỷ thứ nhất, vào năm 66, mâu thuẫn giữa người Do Thái và người La Mã ở Judah đã lên đến đỉnh điểm và biến thành cuộc nổi dậy của người Do Thái chống lại La Mã. Ban đầu người Do Thái chiếm ưu thế, nhưng chiều hướng thay đổi vào năm 68. Người La Mã dưới sự lãnh đạo của vua La Mã Titus [39-81] đã dành lại quyền chủ động và vào mùa hè năm 70, quân La Mã đánh bại quân khởi nghĩa Do Thái tại Jerusalem. Hàng ngàn người Do Thái bị giết hoặc bị bắt làm nô lệ. Đền Thờ Jerusalem bị san bằng. Cuộc khởi nghĩa thất bại và một phần lớn người Do Thái bị lưu đày và phân tán đi khắp các miền của Đế quốc La Mã(14). Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ Đền Thờ thứ hai [515 TCN – 70 CN].
Năm 70 CN được đánh dấu là điểm dịch chuyển rất lớn trong lịch sử dân tộc Do Thái. Từ đây Đền Thờ Jerusalem không còn nữa. Do Thái giáo chuyển hướng.
Dưới sự cai trị của Đế quốc La Mã [70-313] và Đế quốc Byzantine(15)[313-636], cộng đồng Do Thái trên vùng đất này vẫn tiếp tục duy trì và phát triển các nền tảng giáo dục, văn hóa và luật pháp riêng của mình. Luật pháp Do Thái quan tâm đến mọi khía cạnh của cuộc sống, đã được ghi lại trong Kinh Mishna (thế kỷ 2) và được giải thích trong Kinh Talmud (thế kỷ 3-5). Các luật này, về sau có một số phần được sửa đổi lại cho phù hợp với hoàn cảnh, ngày nay vẫn được những người Do Thái giáo tuân thủ.
Sau đó, suốt từ thế kỷ 7 cho đến đầu thế kỷ 20, Canaan lần lượt rơi vào tay người Ả Rập [636-1091], sau đó là người Seljuk [1091- 1099], quân Thập Tự Chinh [1099-1291], quân Mamluk [1291-1516], người Thổ Nhĩ Kỳ thời Đế chế Ottoman [1517-1917], và cuối cùng là Anh Quốc [1917-1948].
DO THÁI DIASPORA (DO THÁI LƯU VONG)
Có thể nói cuộc xâm lăng Israel của người Assyria vào năm 721 TCN đã khởi đầu phong trào tị nạn của người Do Thái sang các quốc gia khác trên thế giới, hình thành nên các Cộng đồng Do Thái Diaspora (Cộng đồng Do Thái lưu vong). Có người bị ép buộc. Có người tự ý di cư. Dân tộc Do Thái lưu lạc, lang thang khắp Trung Đông, Địa Trung Hải và châu Âu qua nhiều thế kỷ. Phong trào tị nạn càng mạnh hơn vào cuối thế kỷ thứ nhất sau công lịch sau cuộc nổi dậy của người Do Thái chống lại người La Mã bị thất bại và quân La Mã phá hủy và san bằng Jerusalem.
Trong năm thế kỷ đầu tiên sau công lịch, trung tâm đời sống của người Do Thái chuyển từ vùng đất Israel sang Mesopotamia. Trong giai đoạn đầu thời Trung Cổ(16), vào thế kỷ 6 và 7, Babylon, Baghdad và Tây Ban Nha là những nơi được ưa thích cho sinh hoạt Do Thái giáo. Mặc dù sống lưu lạc, ở những nơi này, các hoạt động của người
Do Thái giáo trong việc nghiên cứu, thảo luận, bổ sung các điều luật, giới răn, và xây dựng Pháp điển (Talmud) được diễn ra rất mạnh mẽ.
Từ thế kỷ 8 cho đến 12, nhiều người Do Thái ở Mesopotamia và Ba Tư di chuyển bên trong lãnh thổ các vương quốc Hồi giáo, nhất là Yemen, Syria, Lebanon, Ai Cập, Maghreb. Người Do Thái ở Bắc Phi định cư ở bán đảo Iberia rồi Sicily. Người Do Thái từ Đế chế Byzantine định cư ở Nam Ý. Những làn sóng di cư Do Thái này tạo ra các cộng đồng Do Thái thành thị nhỏ khắp thế giới. Nếu lấy bản đồ thế giới, gắn đinh ghim đỏ lên những nơi có người Do Thái sinh sống năm 1170 thì tấm bản đồ đó sẽ rực một màu đỏ từ Anh, bán đảo Iberia cho tới Ấn Độ. Giai đoạn này, từ thế kỷ 8 cho đến thế kỷ 12, được coi là giai đoạn hoàng kim của lịch sử Do Thái trong đời sống lưu lạc. Việc làm ăn buôn bán của người Do Thái được phát triển mở mang, tất cả đều có mức sống cao, giáo dục cho tầng lớp trẻ rất được quan tâm và để lại một di sản trí tuệ bền vững và xuyên suốt qua nhiều thế kỷ sau này cho Do Thái giáo. Về sau, với sự sa sút của những khu vực này do cuộc chinh phạt Trung Đông của người Mông Cổ từ những năm 1220 tới những năm 1250, người Do Thái giáo chuyển hướng mở rộng di cư sang khắp các nước khác của châu Âu. Việc này kéo dài cho đến tận thế kỷ 13-15.
Riêng Tây Ban Nha, người Do Thái có mặt ở đây từ khoảng đầu thế kỷ 1. Khi Đế quốc La Mã cải đạo sang Kitô giáo vào cuối thế kỷ 4, người Do Thái giáo ở Tây Ban Nha được quyền lựa chọn giữa cải đạo và trục xuất. Nước Tây Ban Nha Hồi giáo suy vong vào đầu thế kỷ 8. Sự trỗi dậy tiếp theo của Kitô giáo dẫn đến khó khăn hơn cho người Do Thái giáo. Những bách hại và cưỡng bức cải đạo tăng lên. Hàng ngàn người Do Thái bị thảm sát năm 1391. Nhiều người chấp nhận cải đạo sang Kitô giáo. Áp lực tiếp tục tăng lên cho đến năm 1492 khi vua Ferdinand phát ra sắc lệnh trục xuất người Do Thái giáo và Hồi giáo khỏi Tây Ban Nha. Hàng ngàn người Do Thái một lần nữa lại phải trốn sang Bồ Đào Nha, Ý, Marocco, Balkan và Thổ Nhĩ Kỳ.
Trong suốt thời gian biệt xứ kéo dài mười mấy thế kỷ, hầu như người Do Thái ở đâu cũng bị khinh bỉ và đàn áp xua đuổi, từ Tây Âu Kitô giáo và Đông Âu Chính Thống giáo cho đến Trung Đông Hồi giáo và ngay trên chính quê nhà ở Canaan.
Người dân Do Thái lưu lạc khỏi đất tổ Israel buộc phải chấp nhận một khái niệm mới về Thượng Đế và những định chế thờ phụng khác.
Trước kia họ nghĩ Đức Jehovah là vị thần bản địa của họ, ngự trong Đền thánh tại Jerusalem. Bây giờ thành phố Jerusalem bị tàn phá, Đền Thờ bị san bằng, người dân sống rải rác đó đây trên những miền đất lạ. Cái ý niệm xưa kia không còn thích hợp nữa. Lúc này một phong trào được khơi dậy là việc phát triển những tổ chức của các nhà tiên tri. Trong những thăng trầm của xã hội Do Thái vào thế kỷ 8 TCN, phong trào tiên tri đã sản sinh ra bốn nhân vật kiệt xuất – Amos, Hosea, Isaiah và Micah – được nhớ đến không chỉ do những tiên đoán của họ mà còn cả thái độ can đảm lên án những bất công xã hội của thời đại họ. Văn chương và thơ ca nhiệt thành của họ đã giúp củng cố lòng tin cho người Do Thái và đưa người Do Thái quay về với Thượng Đế. Để đáp ứng với những thay đổi trong cuộc sống lưu lạc của người Do Thái, nhà tiên tri Isaiah tuyên bố rằng Đức Jehovah không chỉ là Thượng Đế của người Do Thái mà còn thực sự là một Thượng Đế đích thực cho mọi dân tộc trên thế giới. Và như thế người Do Thái có thể hướng đến cầu nguyện Thượng Đế ở bất kỳ nơi nào trên trái đất. Một định chế mới được lập ra, đó là Hội đường Do Thái giáo – synagogue (“synagogue” có nghĩa “nhà cầu nguyện”, “nhà hội họp”) là nơi sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ Do Thái giáo. Hội đường thường là một căn nhà lớn hình chữ nhật, mặt quay về hướng của Đền Thờ Jerusalem. Sinh hoạt tôn giáo chủ yếu tại hội đường là vào ngày Sabbath thứ bảy trong tuần, gồm có cầu nguyện và đọc Kinh Thánh bằng tiếng Hebrew, sau đó là bằng tiếng Aramaic(17), cuối cùng là bài giảng cho đoạn Kinh Thánh vừa đọc. Buổi cầu nguyện có thể thực hiện khi nào có một cuốn Sách Lề luật và 10 tín đồ Do Thái nam trưởng thành (trên 13 tuổi). Định chế này vẫn được tiếp tục cho đến ngày nay. Các buổi cầu nguyện như thế được hướng dẫn bởi các “rabbi”. Rabbi không phải là thầy tế lễ hay giáo sĩ theo nghĩa truyền thống. Theo nghĩa đen rabbi là “thầy tôi”. Họ là những người giáo dân có hứng thú nghiên cứu Kinh Thánh và tự nguyện giảng dạy giáo lý cho cộng đồng. Ở đây chúng ta có thể tạm dịch “rabbi” là “giáo sĩ Do Thái”.
Cũng cần nhắc lại một chút quan hệ về khía cạnh tôn giáo của Do Thái giáo với Kitô giáo và Hồi giáo . Kitô giáo khởi đầu như là một chi nhánh của Do Thái giáo, với Chúa Jesus và các tông đồ của Ngài là những người thực hành Do Thái giáo. Chúa Jesus là người Do Thái vùng Galilee, sinh vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất. Kitô giáo lấy Kinh Thánh, các hình thức thờ phụng, và học thuyết tận thế của mình trực tiếp từ Do Thái giáo. Những nhà thờ Kitô giáo được biết đến trong thời kỳ đầu chính là ở tại các Hội đường Do Thái giáo trên khắp Đế
quốc La Mã. Vào năm 323 , Hoàng đế La Mã Constantine I [272-337] trở thành vị hoàng đế duy nhất còn lại của Đế quốc La Mã. Do vợ và mẹ mình mà Constantine có xu hướng thiên về Kitô giáo và từng bước làm cho Kitô giáo trở thành quốc giáo. Điều này đã được hoàn thành vào cuối thế kỷ và sự trỗi dậy của Kitô giáo mang đến áp lực và thù nghịch với người Do Thái giáo trên khắp Đế quốc La Mã. Nguyên do của sự thù nghịch của Kitô giáo đối với Do Thái giáo bắt nguồn từ việc Do Thái giáo từ chối công nhận Chúa Jesus là vị cứu tinh và bị cho là chịu trách nhiệm trong cái chết của Chúa Jesus. Rạn nứt ngày càng nghiêm trọng đã dẫn đến sự ly khai của Kitô giáo khỏi Do Thái giáo.
Vào thế kỷ 7, Hồi giáo ra đời, khởi sinh từ các thành phố Mecca và Madinah xứ Ả Rập. Muhammad [570-632] là nhà sáng lập và tiên tri của Hồi giáo. Tuy nguyên thủy không phải là một nhánh ly khai từ Do Thái giáo hay Kitô giáo, Hồi giáo tự cho mình là sự tiếp nối và thay thế cho hai tôn giáo nói trên. Vì vậy người ta có thể tìm thấy trong Hồi giáo nhiều di sản từ Do Thái giáo và Kitô giáo như tín đồ Hồi giáo tin vào một dị bản của câu chuyện Sáng thế(18), họ cũng tin rằng người Ả Rập là dòng dõi của Abraham theo phổ hệ Ishmael. Cả ba tôn giáo Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, do đó, được gọi là các tôn giáo khơi nguồn từ Abraham.
Mâu thuẫn giữa Kitô giáo với Do Thái giáo và Hồi giáo lên đến đỉnh điểm vào thế kỷ 11 khi Giáo Hoàng Innocent II của Kitô giáo khởi đầu các cuộc Thập Tự Chinh vào năm 1096. Giáo Hoàng thúc giục các nhà cầm quyền Kitô giáo tấn công người Do Thái giáo và người Hồi giáo ở châu Âu và thu hồi các vùng thánh địa ở Palestine (tức Canaan) đang nằm dưới sự thống trị của người Hồi giáo. Các cộng đồng Do Thái giáo và Hồi giáo ở khắp châu Âu bị Thập Tự quân càn quét dữ dội đến nỗi nhiều người Do Thái giáo phải đào thoát sang Ba Lan hoặc các quốc gia Hồi giáo nơi mà nhà cầm quyền khoan dung hơn. Vào cuối thế kỷ 16, ước tính có hơn nửa triệu người Do Thái sống ở Ba Lan và trở thành cộng đồng người Do Thái giáo đông nhất trên thế giới thời bấy giờ. Từ khoảng thời gian này, người Do Thái giáo hoàn toàn bị tẩy chay hoặc chính thức bị trục xuất hầu hết ở mọi quốc gia châu Âu. Ở mọi nơi người Do Thái giáo bị dồn vào những khu ổ chuột rất tù túng và không ánh sáng gọi là Ghetto. Nhiều cuộc thảm sát người Do Thái giáo xảy ra.
Cuối thế kỷ 18, một làn gió mới đến từ Bắc Mỹ đã đem lại hy vọng
hồi sinh cho người Do Thái giáo. Ở Bắc Mỹ, quốc gia Hoa Kỳ được thành lập vào năm ngày 4 tháng Bảy năm 1776 đã cho ra đời một bản hiến pháp tiến bộ nhất của nhân loại qui định rằng mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, một quốc gia ngoại giáo tuyên bố rằng người Do Thái được quyền sống và mưu cầu hạnh phúc như những người khác. Ở nước Pháp, cuộc cách mạng 1789 và tiếp theo là tuyên ngôn nhân quyền được áp dụng gồm cho cả người Do Thái. Người Do Thái được nhận vào các trường đại học Tây Âu và được tham gia vào xã hội Tây Âu ở mọi tầng lớp.
Tuy thế, ở Đông Âu, cuộc sống người Do Thái giáo vẫn không có gì cải thiện. Ở Nga, người Do Thái bị o ép và bị dồn vào các khu định cư Do Thái tối tăm. Một cuộc xuất hành lớn từ Đông Âu lại diễn ra cuối thế kỷ 19 và đầu 20. Hàng ngàn hàng ngàn người Do Thái lánh nạn sang Mỹ.
DO THÁI GIÁO
Do Thái giáo không thể được định nghĩa chủ yếu về phương diện đức tin tôn giáo bởi vì có những người gọi là Do Thái giáo nhưng tự coi mình là vô thần. Do Thái giáo cũng không thể định nghĩa về phương diện ngôn ngữ hay sắc tộc. Người Do Thái nói và viết nhiều ngôn ngữ và đã tiếp nhận nhiều nền văn hóa của những vùng đất nơi họ cư ngụ. Mặc dù có sự khác nhau về thực hành tôn giáo, những người Do Thái vẫn có một điểm chung nhất là đều có lòng tin vào tính độc nhất vô nhị của Thượng Đế, là người đã điều khiển các biến cố lịch sử và, bằng phương cách nào đó, đã chọn dân tộc Do Thái làm dân của Ngài.
Theo người Do Thái, Do Thái giáo khởi nguồn từ Giao ước giữa Thiên Chúa và ông Abraham, tôn thờ Đức Jehovah, là Cha của các Tổ Phụ Abraham, Isaac và Israel (Jacob). Ngài cũng là Đấng, qua Moses, đã giải phóng dân Do Thái thoát ách nô lệ khỏi Ai Cập và mang họ vượt Biển Đỏ trở về quê hương an toàn. Tuy thế Do Thái giáo thực sự được hình thành như là một tôn giáo chỉ khi Moses nhận lãnh Mười Điều Răn trên núi Sinai, cùng với hệ thống tư tế và các nghi thức thờ phụng tại Đền Thờ Jerusalem sau khi dân tộc Do Thái được giải cứu khỏi Ai Cập. Vai trò của Moses trong việc hình thành Do Thái giáo là đã củng cố được sức mạnh dân tộc bằng cách đoàn kết toàn dân Do Thái trong niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất. Toàn dân Do Thái
chỉ có một tôn giáo gọi là “Đạo của người Do Thái” dựa trên căn bản một giao ước giữa Thiên Chúa và dân tộc Do Thái. Theo giao ước này thì dân tộc Do Thái chỉ tôn thờ một Thiên Chúa, ngược lại Thiên Chúa sẽ chọn Do Thái làm dân riêng của Ngài . Giao ước giữa Thiên Chúa và dân tộc Do Thái có thể được tóm tắt gọn lại là: Thiên Chúa ban ơn hoặc trừng phạt dân tộc Do Thái tùy thuộc vào sự trung thành của họ đối với Thiên Chúa. Quan niệm này về sự giao ước giữa Thiên Chúa và con người là một nét đặc thù của Do Thái giáo và sau này Kitô giáo. Kitô giáo cũng có một giao ước tương tự: Jesus là con của Thiên Chúa xuống trần thế làm người và chịu chết để chuộc tội thiên hạ. Ai tin Ngài sẽ được cứu rỗi, ai không tin sẽ bị đầy xuống hỏa ngục đời đời. Người Kitô Giáo gọi giao ước này là Tân Ước (New Covenant, New Testament) và gọi giao ước của Do Thái giáo là Cựu Ước (Old Testament).
Ngoài Giao ước giữa Thiên Chúa và dân tộc Do Thái, điều quan trọng nhất là Moses đã biến Do Thái giáo của các tổ phụ thành một “Tôn giáo của Luật”. Căn bản Thánh Kinh của Do Thái giáo là “Torah” có nghĩa là “Luật” được tóm tắt trong 10 Điều Răn như đã nói ở trên. Trong nhiều thế kỷ, người Do Thái giáo đã hướng về Thánh Kinh để tìm nguồn cảm hứng và sự dẫn dắt, đến độ Do Thái giáo được mệnh danh là tôn giáo của Lề luật và người Do Thái là dân tộc duy nhất quan tâm đến sự vâng phục Lề luật của Thượng Đế.
Khác với các tôn giáo khác, người Do Thái không tìm cách phát triển tràn lan tôn giáo của mình qua con đường truyền đạo như Kitô giáo, Hồi giáo hay Phật giáo, mà luôn tìm cách giữ gìn sao cho Do Thái giáo được “thuần khiết”. Chính vì vậy mà trong suốt gần 2000 năm lưu vong các giáo sĩ Do Thái giáo vẫn kiên tâm lặng lẽ giữ gìn những giá trị truyền thống của Do Thái giáo và giúp các cộng đồng Do Thái giáo gắn kết trong lòng tin không bao giờ suy suyển vào Thiên Chúa.
Về mặt thần học, Do Thái giáo là một tôn giáo độc thần (Monotheism) dựa trên những nguyên tắc và đạo đức đã được đề cập trong Kinh Thánh Hebrew, và cũng được giảng giải kỹ trong sách Talmud và các sách thánh khác. Trước khi Moses xuất hiện, tư tưởng về một Thiên Chúa Duy Nhất chỉ có ý nghĩa ám chỉ mà thôi. Từ thời Abraham đến thời Moses [2000-1250 TCN], người Semitic cổ(19)thờ Elohim được hiểu là Thượng Đế duy nhất của người Do Thái và là người sáng tạo nên vũ trụ như được nói trong Tanakh: “Lúc khởi đầu
Thượng Đế (Elohim) sáng tạo nên trời và đất” (Sách Sáng Thế 1:1). Sau này, khi Thượng Đế tỏ lộ danh xưng (tên riêng) là “YHWH” (gọi là “Yahweh” hay “Jehovah”) cho Moses trên núi Sinai, thì tên gọi Yahweh/Jehovah được dùng cho Thượng Đế trong ý tưởng thể hiện sự gần gũi của Thượng Đế với con người. Đó là một Thượng Đế hiện hữu, ghét cái ác và sẵn lòng cứu chuộc con người khỏi tội lỗi. Cho tới đời Moses, tư tưởng Độc Thần Giáo vẫn chưa thực sự thành hình. Phải đợi nhiều thế kỷ sau, khi các nhà thần học Do Thái đưa ra ý niệm rõ ràng hơn về một Thiên Chúa Duy Nhất, lúc đó Độc Thần Giáo mới thực sự ra đời.
KINH THÁNH HEBREW
Thần học Do Thái giáo đặt nền tảng trên Kinh Thánh Hebrew (The Hebrew Bible hay còn gọi là The Jewish Bible). Kinh Thánh (Bible) là thuật ngữ áp dụng cho các văn bản thiêng liêng của nhiều niềm tin khác nhau, nhưng thường là từ các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham. Những người lãnh đạo của các cộng đồng này tin rằng Kinh Thánh là các sách được linh truyền từ Thiên Chúa để thể hiện lịch sử uy quyền trong mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân của Ngài. Thuật ngữ “Kinh Thánh” được chia sẻ giữa Do Thái giáo và Kitô giáo, tuy nhiên nội dung các sưu tập của họ về các văn bản kinh điển không giống nhau.
Trong Do Thái giáo, Kinh Thánh Hebrew là thuật ngữ được các nhà học giả Kinh Thánh dùng để viện dẫn Tanakh - là phần chung của qui điển Kinh Thánh Do Thái giáo và Kitô giáo. Các tín đồ Kitô giáo gọi là Cựu Ước để phân biệt với Tân Ước do các tông đồ của Chúa Jesus (và những người thừa kế họ) viết ra. Từ “Tanakh” được tạo thành từ những chữ đầu trong tiếng Hebrew của ba bộ sách: Torah (Sách Lề luật), Nevi’im (các Sách Tiên tri) và Ketuvim (các Sách Văn chương). Toàn bộ Kinh Thánh Hebrew có 24 cuốn sách, trong đó Torah (Sách Lề luật) gồm năm cuốn, Nevi’im (các Sách Tiên tri) gồm tám cuốn, và Ketuvim (các Sách Văn chương) gồm 11 cuốn. Các sách văn chương có lẽ được viết trong hoặc sau thời kỳ lưu đày ở Babylon, tức là từ thế kỷ 13 TCN cho đến thế kỷ 6 TCN.
Kinh Torah, hay còn gọi là Ngũ thư Kinh Thánh hay Ngũ kinh Moses, là một cuốn kinh đặc biệt đối với người Do Thái vì nó chứa đựng lời của Thiên Chúa ban truyền lại cho người Hebrew qua Moses.
Sự mặc khải thiêng liêng này đã trở thành Điều luật của Thiên Chúa về đạo đức, xã hội, hiến tế và nghi lễ. Những lề luật này đã tạo nên khuôn mẫu tiêu chuẩn trong cuộc sống, hành vi và đạo đức của người Do Thái. Moses đã viết cuốn kinh này trong 40 năm lưu lạc ở sa mạc. Kinh Torah còn có tên gọi khác là “Torah Viết” với hàm ý là “Torah được viết ra”. Kinh Torah gồm năm cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh Hebrew. Đó là Sách Sáng Thế (Genesis), Sách Xuất Hành (Exodus), Sách Lêvi (Leviticus), Sách Dân Số (Numbers), Sách Đệ Nhị Luật (Deuteronomy).
▪ Sáng Thế là cuốn sách mở đầu nói về lịch sử của vũ trụ, nhân loại và đặc biệt là dân tộc Israel cho đến khi con trai thứ 12 của Jacob và gia đình sang Ai Cập. “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất...”.
▪ Xuất Hành là cuốn sách tiếp theo nói về sự xuất hiện của Moses và cuộc giải thoát của dân Do Thái khỏi Ai Cập, dưới sự dẫn dắt của Moses. Những mặc khải của Thiên Chúa tại núi Sinai và việc lập giao ước giữa Thiên Chúa với dân Do Thái thông qua Mười Điều Răn để trở thành “dân tộc được Chúa chọn”.
▪ Lêvi là phần tiếp nối của Sách Xuất Hành, viết tiếp cụ thể về những lề luật, qui định, nghi lễ và đạo đức dân Do Thái phải tuân giữ để cụ thể hóa việc trở thành “dân tộc được Chúa chọn”. Trọng tâm của cuốn sách này cũng nói về vai trò của hàng tư tế (các thầy Lêvi) trong dân tộc Do Thái nên người ta đã lấy tên Lêvi để đặt tên cho cuốn kinh.
▪ Dân Số là cuốn sách ghi những cuộc kiểm tra dân số của 12 chi tộc người Do Thái sau khi rời khỏi Ai Cập để đi đến Miền Đất Hứa.
▪ Đệ Nhị Luật là một bản Dân Luật và Luật Tôn giáo. Đệ Nhị Luật cũng tiếp tục ghi chép lại hành trình trong 40 năm của dân tộc Do Thái trong sa mạc, hướng đi mới cùng những lời tiên tri về tương lai của dân tộc Do Thái.
Kinh Torah chứa đựng những vấn đề lớn liên quan đến lịch sử Do Thái. Những lề luật và các điều răn ghi lại trong Sách Xuất Hành,
Sách Lêvi và Sách Đệ Nhị Luật hướng dẫn từ việc nhỏ nhất về vệ sinh thân thể tới cung cách hiến tế và nghi lễ, từ hôn nhân tới ăn uống kiêng khem (Kosher), các lễ lạt từ ngày Sabbath hàng tuần tới các ngày lễ trong năm , hướng dẫn con người cách sống, suy nghĩ, cách cư xử liên quan đến gia đình hàng xóm láng giềng. Các điều răn và hướng dẫn về xã hội và đạo đức thường thảo luận về những trách nhiệm phải tuân theo, ơn lành cho những ai vâng phục và hình phạt nếu vi phạm. Tất cả đều nhằm giúp con người đạt tới một cuộc sống thuần khiết trong hành trình của cuộc đời. Thí dụ như có những điều luật cụ thể và thực tế trong đời sống hàng ngày như:
▪ Phải thờ kính cha mẹ, kính trọng người già.
▪ Không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt đồng bào mình.
▪ Không được bóc lột đồng loại, không được cướp tiền công của người làm thuê.
▪ Không có hành vi xấu với người tàn tật.
▪ Không được quan hệ tình dục ngoài hôn nhân.
▪ Không được làm sai lệch công lý, không được thiên vị ai, không được nhận quà hối lộ vì quà hối lộ làm cho nhưng kẻ khôn ngoan hóa ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính….
Tất cả gồm 613 giới luật với chỉ dẫn chi tiết về những điều phải làm và những điều không được làm. 613 giới luật đó bao gồm 248 phát biểu tích cực về cách phải làm tương ứng với 248 bộ phận của thân thể; và 365 lời phát biểu về những điều không nên làm, tương ứng với 365 ngày một năm theo lịch Do Thái trên cơ sở âm lịch. Trong 613 giới luật này, một số điều răn chỉ được áp dụng cho nam giới hoặc nữ giới, một số điều chỉ dành cho các thầy tế lễ thời xưa, một số điều răn dành riêng cho nông dân trong vùng đất Israel. Nhiều điều răn chỉ được áp dụng khi Đền thờ Jerusalem còn chưa bị phá hủy, và ngày nay người ta chỉ phải tuân theo chưa tới 300 điều răn trong sách này. Vâng lời Thượng Đế tức là tuân giữ Lề luật của Ngài. Người Do Thái còn tin rằng bên cạnh Kinh Torah được Moses công
khai truyền cho dân Israel, còn có Kinh Torah được Moses truyền riêng cho các đệ tử thân tín, đó chính là phần huyền học, hay gọi bí pháp Kabbalah.
Kinh Torah được Moses viết xuống trong những năm lưu lạc trong sa mạc trên đường tìm về Miền Đất Hứa và trở thành kinh sách căn bản của Do Thái giáo vào năm 500 TCN dưới triều vua Solomon. Người Do Thái bắt đầu học Kinh Torah từ lúc nhỏ. Một thiếu niên Do
Thái, đến tuổi 13, được gọi là Bar-Mitzvah (con trai của Luật). Cậu được xem là người trưởng thành, và vào ngày Sabbath sau sinh nhật 13 tuổi, cậu có thể đọc Torah trong Hội đường. Thiếu nữ Do Thái thì trở thành Bat-Mitzvah (con gái của Luật) vào tuổi 12. Có thể nói Thượng Đế, Hội đường và Kinh Torah là ba thành phần bất khả phân ly trong đời sống tinh thần của người Do Thái giáo.
Đức tin của một số nhóm Do Thái giáo như nhóm Sadducee, nhóm Karaite là chỉ dựa vào các bản văn của Kinh Torah, nhưng hầu hết các tín hữu Do Thái giáo đều tin vào “Khẩu Luật”. Những truyền thống này được truyền miệng trong phái Pharisees ở thời kỳ cổ xưa
của đạo, sau đó được ghi chép lại thành văn bản và được các giáo sĩ Do Thái (rabbi) loan truyền rộng rãi. Các rabbi thường cắt nghĩa một điều luật trong Kinh Torah (Torah Viết) song song với một truyền thống được truyền miệng. Khi trong Kinh Torah có những từ ngữ chưa được giảng giải, những nghi thức không có hướng dẫn thì người Do Thái giả định rằng họ đã biết thông qua kiểu truyền miệng. Cách giải thích song song này dần dần trở thành khẩu luật. Kết quả là trong vài ba thế kỷ sau sự sụp đổ Đền thờ Jerusalem, nhiều phần trong khẩu luật được các giáo sĩ Do Thái giáo sưu tập và biên soạn lại thành một bộ sách rất quí giá khác gọi là Talmud (sách Pháp điển). Đây là một văn bản trung tâm của các giáo sĩ Do Thái giáo. Talmud gồm hai bộ: Mishna (sách Ôn Cố, còn gọi là Mishnah) được soạn vào thế kỷ 2, và Gemara được soạn vào thế kỷ 5. Mishna là bản tóm lược đầu tiên bằng văn bản của “Khẩu Luật” hay “Torah Nói” (Oral Torah) của Do Thái giáo, bao gồm những chú giải và những tranh luận được rabbi Judah Hanasi(20)sưu tập từ thời Ezra, và trở thành cột mốc vĩ đại về kinh điển trong lịch sử Do Thái giáo. Riêng bộ Gemara thì vượt trên cả những chú giải trong sách Mishna và Kinh Torah, đề cập tới mọi lĩnh vực trong đời sống của người Do Thái giáo trong những năm lưu lạc. Có hai phiên bản Gemara: một Gemara được cộng đồng Do Thái giáo ở Palestine biên soạn và một Gemara được biên soạn ở Babylon. Pháp điển Talmud là kết quả khi gộp chung Gemara và Mishna. Bộ
Talmud của Palestine được hoàn thành vào năm 425. Còn bộ Talmud của Babylon hoàn thành vào năm 500, có khối lượng gấp ba lần bộ Talmud của Palestine và có ảnh hưởng rất lớn với cộng đồng người Do Thái giáo. Toàn bộ Pháp điển Talmud bao gồm 63 bài luận, bao gồm những ý kiến của hàng ngàn giáo sĩ Do Thái trong nhiều chủ đề, bao gồm cả pháp luật, đạo đức, triết học, phong tục, lịch sử, thần học, truyền thuyết và nhiều chủ đề khác. Trong một số sách vở, thời kỳ thế kỷ 3-5 được gọi là “Thời kỳ Talmud”.
KINH TORAH - TRỤ CỘT CỦA DO THÁI GIÁO
Trong thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, hai trụ cột của Do Thái giáo là Đền Thờ Jerusalem và Kinh Torah. Trụ cột thứ nhất làm cho tín ngưỡng Do Thái cũng giống như các tín ngưỡng phổ biến khác ở Địa Trung Hải và Trung Đông. Trong cả hai thời kỳ của Đền Thờ thứ nhất (825 TCN - 586 TCN) và Đền Thờ thứ hai (515 TCN - 70 CN), lễ đền và hiến tế là điểm chung cho mọi tôn giáo trong đó có Do Thái giáo. Hành hương tới Jerusalem và dâng lễ vật ở Đền Thờ được coi là những nghĩa vụ tín ngưỡng cao nhất mà tất cả người Do Thái phải thực hiện.
Sự khác biệt nằm ở trụ cột thứ hai của Do Thái giáo, đó là Kinh Torah. Kinh Torah, gồm cả Toral Viết và Torah Nói, đã đặt nền móng căn bản cho bộ luật tôn giáo Do Thái - Halakha - trong những thế kỷ sau đó. Niềm tin vào sự tồn tại của một Chúa duy nhất và món quà Torah mà Chúa ban tặng cho người Do Thái thông qua Giao ước Moses làm cho Do Thái giáo rất khác biệt so với các tín ngưỡng khác. Torah Viết (Ngũ kinh Moses) đóng vai trò trung tâm trong việc định hình tất cả các khía cạnh của đời sống Do Thái trong và sau cuộc lưu đày Babylon [586 TCN - 538 TCN]. Còn Torah Nói (Talmud) phát triển dựa trên các cuộc thảo luận, phán quyết, phân xử của các thế hệ nhà tiên tri, học giả, nhà hiền triết, những người nổi lên như những lãnh tụ tôn giáo thế hệ mới trong thời kỳ Đền Thờ thứ hai. Bộ luật tôn giáo Do Thái - Halakha - quy định những điều người Do Thái được và không được làm, những điều họ nên và không nên làm trong mọi khía cạnh của cuộc sống thường nhật, từ việc thực hiện nghĩa vụ tôn giáo, lễ nghi cho tới quan hệ hôn nhân, từ ứng xử trong cộng đồng cho tới luật dân sự và hình sự.
Với việc người La Mã phá hủy Đền Thờ thứ hai vào năm 70 CN, Do Thái giáo từ lúc này vĩnh viễn mất đi một trong hai trụ cột và bắt đầu đi trên một con đường độc đáo. Học giả và giáo sĩ Do Thái giáo - các lãnh tụ tôn giáo nổi lên sau cuộc chiến tranh Do Thái-La Mã lần thứ nhất - thay thế lễ đền và hiến tế trong Đền Thờ bằng việc nghiên cứu Kinh Torah trong các Hội đường Do Thái giáo. Chức năng cốt lõi của Kinh Torah là dạy tôn giáo cho cả người lớn và trẻ em. Một người Do Thái mộ đạo phải là một người đọc và nghiên cứu Kinh Torah và đưa con mình tới trường để học Kinh Torah.
Một bước quan trọng trong việc học Kinh Torah là biến việc đọc kinh trở thành một đặc điểm trung tâm của Do Thái giáo khi Ezra khởi xướng việc đọc Kinh Torah nơi công cộng như là một nếp sống mới của đời sống Do Thái. Đó là vào khoảng thế kỷ 5 TCN. Kể từ đó, Kinh Torah được đọc và giải thích thường xuyên nơi công cộng. Trước thời Ezra, hầu hết những việc liên quan đến Kinh Torah thuộc kiểm soát độc quyền của các đại giáo chủ của các giáo phái.
Sự thành công đáng kinh ngạc của người Do Thái trong lịch sử đã trở thành điều bí ẩn và được nghiên cứu qua nhiều thế hệ và từ nhiều góc độ. Nhiều học giả cho rằng trọng tâm của Do Thái giáo chính là đọc sách, học tập, và làm theo những lề luật và các điều răn trong Kinh Torah. Kinh Torah hé lộ những lời dạy cụ thể giúp con người kéo dài cuộc sống, tăng cường sức khỏe thể chất, mang lại sự ổn định về tinh thần, giúp xây dựng gia đình và xã hội vững mạnh, và cung cấp sự khôn ngoan trong mọi quyết định của cuộc sống. Để có một bức tranh rõ hơn, trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ cùng nghiên cứu xem giáo dục Kinh Torah đã giúp định hình lịch sử, văn hóa và trí tuệ người Do Thái như thế nào.
GIÁO DỤC - MỘT CHUẨN MỰC CỦA DO THÁI GIÁO
Về mặt giáo dục, Kinh Torah chính là lực đẩy đằng sau sự phát triển các thể chế giáo dục Do Thái. Việc người La Mã phá hủy Đền Thờ thứ hai vào năm 70 CN, và việc thay thế lễ đền và hiến tế trong Đền Thờ bằng việc nghiên cứu Kinh Torah trong các Hội đường Do Thái giáo đã làm thay đổi tư duy giới lãnh đạo tôn giáo trong cộng đồng Do Thái, biến Do Thái giáo từ một tín ngưỡng dựa trên nghi lễ hiến tế
thành một tôn giáo với giáo dục là chuẩn mực chính yêu cầu tất cả người Do Thái phải đọc và nghiên cứu Kinh Torah bằng tiếng Hebrew, cũng như gửi con trai của mình từ 6 đến 7 tuổi tới trường tiểu học hoặc Hội đường để học Kinh Torah. Kinh Torah đề cao tầm quan trọng của việc học hành trong suốt cuộc đời, quy định nghĩa vụ người cha phải dạy con mình lề luật Do Thái giáo. Con trẻ Do Thái sẽ học cả lề luật lẫn việc làm của cha ông mình để có thể noi gương cha ông, và với nền tảng kiến thức pháp luật, họ sẽ không phạm tội, không bao biện bằng cách nói rằng mình không hiểu biết pháp luật. Truyền thống này vẫn tiếp tục cho đến tận ngày nay.
Trong các gia đình Do Thái giáo, việc dạy dỗ cho trẻ em bắt đầu từ việc dạy cho trẻ những lời cầu nguyện và những lời chúc phúc ngay khi trẻ còn học ở mầm non. Học cách cầu nguyện là một phần rất quan trọng với Do Thái giáo. Trong Do Thái giáo, có 18 lời cầu nguyện bắt đầu từ câu: “Nghe đây, hỡi Israel, Thiên Chúa là Thượng Đế của chúng ta, Thiên Chúa là Duy nhất” (“Shema Yisrael Adonai Eloheinu Adonai Echad”) và những lời cầu nguyện khác như Cầu nguyện cho sự sáng suốt của Chúa Thánh Thần, Cầu nguyện cho sự ăn năn, Cầu nguyện tha thứ mọi tội lỗi, Cầu nguyện cho sự hàn gắn mọi vết thương, Cầu nguyện cho một năm bội thu, Cầu nguyện cho sự gian trá sẽ bị hủy diệt, Cầu nguyện Đấng Cứu Thế sẽ đến, Cầu nguyện hòa bình của Thiên Chúa sẽ ở lại cùng dân tộc Do Thái… Những lời cầu nguyện này sẽ được cầu nguyện ba lần mỗi ngày.
Sau khi học xong các lời cầu nguyện, những đứa trẻ sẽ bắt đầu học chúc phúc. Chúng sẽ được khuyến khích cầu nguyện trước mỗi bữa ăn và cảm ơn Thượng Đế đã đem lại cho những thứ đồ ăn ngon lành. Mỗi tối trước khi đi ngủ, bố mẹ sẽ chúc cho con cái mình ngủ ngon và con trẻ, về phía mình, cũng chúc lành cho gia đình, nhà cửa, thậm chí cả những con vật nuôi trong nhà như chó mèo. Lành thay cho những lời chúc phúc đơn sơ như thế!.
Những lễ nghi này, lặp lại mỗi ngày, sẽ giúp cho đứa trẻ luôn ghi nhớ trong tâm thức của nó những điều tốt lành và lớn lên trong tình yêu thương giản dị và sâu đậm với Thiên Chúa, với gia đình và thế giới quanh mình. Chúng sẽ nhìn cuộc đời bằng con mắt bao dung và trang trọng. Do Thái giáo giải thích rằng con người sinh ra luôn có hai khuynh hướng đối lập: làm điều tốt lành và làm điều xấu. Kinh Torah chính là quà tặng của Thượng Đế giúp đỡ con người trong hành trình cuộc sống của họ; nghiên cứu và tuân theo lời Chúa giúp cho con
người phát triển khuynh hướng tốt và ngăn chặn khuynh hướng gây tội ác của chính mình.
Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, chúng ta hãy quay ngược trở lại lịch sử vào thời kỳ Đền Thờ thứ hai [515 TCN - 70 CN]. Giống hầu hết các tôn giáo ngày nay bao gồm cả Do Thái giáo, Do Thái giáo thời Đền Thờ thứ hai là một nhóm gồm nhiều tôn giáo: người Sadducees và người Pharisees là hai nhóm Do Thái chính, luôn tranh giành vị trí lãnh đạo; cùng với người Essenes, Sicarii, Zealot, Samaria và rất nhiều giáo phái Do Thái-Kitô giáo cùng chung sống ở vùng đất Israel. Thành viên của các giáo phái Do Thái gần như không khác biệt gì về mặt ngôn ngữ, ăn uống, trang phục, làm việc, cưới hỏi hay các vấn đề thường nhật khác. Nhưng mỗi nhóm ngày càng đặt ra các chuẩn mực tôn giáo khác biệt làm yêu cầu chính để gia nhập nhóm. Chính môi trường cạnh tranh tôn giáo, văn hóa giữa những người lãnh đạo Do Thái này đã đẩy mạnh phong trào giáo dục và tạo ra bước ngoặt mang tính cách mạng đưa đến việc hình thành một hệ thống giáo dục Do Thái rất độc đáo. Khoảng năm 63-65 CN, đại giáo chủ của phái Pharisees là Joshua B en Gamla ban hành sắc lệnh tôn giáo yêu cầu tất cả các ông bố Do Thái phải gửi con trai 6-7 tuổi tới trường tiểu học. Điều quan trọng là sắc lệnh này được ban hành dưới dạng “takkanah”, một điều luật tôn giáo bắt buộc mọi người cha Do Thái phải tuân theo. Từ thời điểm này, giáo dục tôn giáo (tức học đọc và nghiên cứu Kinh Torah) cho cả trẻ em và người lớn trở thành một chuẩn mực tôn giáo, và rồi mấy thế kỷ sau trở thành “đòn bẩy” quyết định trong sự phát triển trí tuệ của người Do Thái giáo cho đến tận ngày nay. Những nghiên cứu của các học giả phương Tây cho thấy rằng vào thế kỷ 1, người Do Thái sống trên mảnh đất Israel và Mesopotamia đa phần làm nghề nông và mù chữ. Nhưng nhờ đòn bẩy của giáo dục mà từ thế kỷ 8 trở về sau, trong khi dân trí của các dân tộc tại Trung Đông và Châu Âu còn thấp kém, người Do Thái đã trở thành một nhóm thiểu số biết đọc biết viết và làm những công việc đòi hỏi phải có hiểu biết và tay nghề như nghề thủ công, lái buôn, cho vay lãi, doanh nghiệp, ngân hàng, tài chính, luật sư, bác sỹ, học giả tại hàng trăm các đô thị rải rác khắp châu Âu, châu Phi và châu Á, từ Seville thuộc Tây Ban Nha tới Mangalore của Ấn Độ. Đặc biệt giai đoạn phát triển hoàng kim của các cộng đồng Do Thái lưu vong từ thế kỷ 8 cho đến thế kỷ 12 đã để lại cho Do Thái một di sản trí tuệ bền vững và xuyên suốt qua nhiều thế kỷ.
CÁC TRƯỜNG PHÁI DO THÁI GIÁO
Những thống kê mới nhất (tính đến đầu năm 2013) ước lượng có tới 13.854.800 người Do Thái trên thế giới, chiếm tỷ lệ 0,2% của dân số toàn thế giới. Tel Aviv có 3,2 triệu, New York (Hoa Kỳ) xấp xỉ 2 triệu
là những nơi có cộng đồng Do Thái lớn nhất so với bất cứ nơi nào trên thế giới. Do sống rải rác khắp nơi, người Do Thái giáo trên thế giới rất khác nhau về đức tin và tập tục.
Những người được gọi là Chính thống (Orthodox Jews) là nhóm đông nhất. Do Thái giáo Chính thống phấn đấu bảo tồn văn hóa và tôn giáo truyền thống Do Thái để gần với bản chất của Do Thái giáo theo Kinh Thánh và Sách Lề luật. Luật Kosher về kiêng cữ một số đồ ăn được nhấn mạnh, cùng với việc tuân thủ nghiêm ngặt ngày Sabbath. Ở Hội đường nam và nữ phải ngồi riêng và phải trùm đầu. Tiếng Hebrew là ngôn ngữ thờ phụng của Do Thái Chính thống giáo.
Ngoài ra có chi nhánh khác như Do Thái giáo Cải cách (Reform Judaism) thể hiện nỗ lực thông giải Do Thái giáo dưới ánh sáng của học vấn và tri thức hiện đại – và xa thêm nữa, có tiến trình của Do Thái giáo Cấp tiến. Một trong những phái triển đặc biệt của Do Thái giáo Cải cách là việc tấn phong phụ nữ làm rabbi. Do Thái giáo Bảo thủ (Conservative Judaism), khởi đầu vào thế kỷ 19, nỗ lực làm dịu phái Chính thống bằng cách nhấn mạnh các thành tố lịch sử tích cực của truyền thống Do Thái và thể hiện sự quan tâm lớn hơn trong việc nghiên cứu có tính khoa học đối với Kinh Thánh và những tư liệu do các rabbi giảng dạy.
Cũng có số lớn những người Do Thái thế tục (secular Jews) hoặc là không giữ đạo (non-observant Jews). Nhiều người trong số họ đề cao nền văn hóa và di sản Do Thái nhưng không chia sẻ những đức tin hoặc tập tục tôn giáo của các cộng đồng Do Thái giáo.
NGÀY LỄ VÀ CÁC LỄ NGHI
Ngày nghỉ nổi bật và quan trọng nhất trong tất cả các ngày nghỉ của Do Thái giáo là ngày Sabbath. Theo Kinh Thánh, Thượng Đế là Đấng đã sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài trong sáu ngày và ngày thứ bảy Ngài nghỉ ngơi. Vì thế Do Thái giáo cũng dành ngày thứ bảy cho việc
nghỉ ngơi, đoàn tụ cùng gia đình, bạn bè và thờ phụng. Ngày Sabbath, bắt đầu lúc mặt trời lặn chiều thứ sáu và kết thúc lúc mặt trời lặn chiều thứ bảy, là tâm điểm của việc giữ đạo. Trong ngày Sabbath, giao thông công cộng tạm ngừng hoạt động, các hoạt động buôn bán đóng cửa, không TV, không sử dụng các thiết bị điện sinh hoạt trong gia đình. Ngày Sabbath giống như là ngày người Do Thái giáo tập trung giữ cho tâm mình được nghỉ ngơi tĩnh lặng trong sự hiện diện của Thượng Đế. Vào tối thứ sáu, ngày Sabbath được mở đầu với nghi thức Kiddush, làm phép trên rượu vang hoặc bánh mỳ, sau đó đốt đèn và làm phép đèn cầy Sabbath, do phụ nữ trong nhà thực hiện. Theo truyền thống, thức ăn ngon nhất trong tuần được dọn ra vào bữa ăn tối thứ sáu. Sang sáng thứ bảy người Do Thái giáo Chính thống và Bảo thủ dự lễ ở Hội đường để nghe giảng một phần trong Kinh Torah. Cứ mỗi tuần một đoạn thì khoảng một năm là đọc hết cuốn Torah. Vào ngày đọc đoạn cuối cùng của Kinh Torah và chuẩn bị trở lại chương Sáng-thế để bắt đầu cho một vòng mới, người Do Thái giáo ăn mừng Simchar Torah, có nghĩa là “lễ mừng về luật pháp”. Vào ngày đó, họ rước những cuốn Kinh Torah và diễu hành quanh Hội đường, hát lời cảm tạ Thiên Chúa. Theo truyền thống, tín hữu Do Thái giáo cầu nguyện ba lần mỗi ngày và bốn lần trong ngày Sabbath hoặc các ngày lễ khác của Do Thái giáo. Trọng tâm của mỗi buổi cầu nguyện là “Amidah” hay còn gọi là “Shemoneh Esrei”, đây là lời nguyện chính bao gồm 19 lời chúc lành.
Ngoài ngày lễ Sabbath, Do Thái còn một số ngày lễ khác như Lễ Vượt Qua (Pesach), Lễ các Tuần (Shavuot), Mừng Năm Mới (Rosh Hashanah), Lễ Ăn Năn hay còn gọi là Lễ Đền Tội (Yom Kippur), Lễ Lều Tạm (Sukkot), Lễ Cung Hiến Đền Thờ (Chanukah), Lễ Gieo Quẻ (Purim), Lễ Bar-Mitzvah (Lễ Con Trai của Luật). Những ngày lễ này hoặc là để nhắc nhở những sự kiện lịch sử như Lễ Vượt Qua mừng sự giải thoát của người Do Thái khỏi ách nô lệ ở Ai Cập, Lễ Lều Tạm nhắc lại thời gian dân Do Thái sống trong những chiếc lều tạm trong sa mạc sau khi rời khỏi Ai Cập; hoặc được chọn thời gian theo chu kỳ gieo trồng, mưa và thu hoạch mùa màng của dân Do Thái. Trong sách Lêvi có dùng từ chag tiếng Hebrew để chỉ những ngày lễ của người Do Thái, mà từ chag này có nguồn gốc từ từ chagag có nghĩa là “chuyển động theo vòng tròn” hay “nhảy múa”. Ngụ ý chính là chỉ thời gian vui vẻ mà Thiên Chúa ấn định cho dân Người.
Nếu bạn đến thăm một ngôi nhà của người Do Thái, điều trước tiên bạn sẽ nhận thấy là ở trên thanh dọc phía bên phải của cánh cửa
ra vào có một hộp dài trang trí rất lạ mắt và làm từ nhiều nguyên liệu khác nhau như gốm, đá, đồng, bạc, gỗ… Bên trong hộp có chứa một mảnh giấy da cuộn tròn, gọi là “mezuzah”, có ghi những lời cầu nguyện “Shema Yisrael” từ Kinh Torah, bắt đầu bằng cụm từ “Shema Yisrael Adonai Eloheinu Adonai Echad” (“Nghe đây, hỡi Israel, Thiên Chúa là Thượng Đế của chúng ta, Thiên Chúa là duy nhất”). Tên của Thiên Chúa sẽ được viết vào mặt sau của miếng giấy da. Chiếc hộp có thể có nhiều kiểu dáng khác nhau và không mang ý nghĩa tâm linh, ý nghĩa tâm linh thực sự của mezuzah nằm trong miếng giấy da bên trong.
Việc treo mezuzah cũng như cầu nguyện cũng có những hướng dẫn nghiêm ngặt. Đầu tiên mezuzah được gắn trên thanh dọc phía bên phải của cánh cửa theo hướng đi vào trong phòng. Trước khi bước vào nhà, người Do Thái sẽ hôn lên tay phải và chạm vào mezuzah. Nhiều người ở các quốc gia lạc hậu và nhiều thành kiến thường giễu cợt và cho rằng mezuzah của người Do Thái không khác gì một lá bùa trừ ma quỉ - đó là một thành kiến hẹp hòi và nông cạn. Đối với người Do Thái, mỗi khi bước vào trong nhà, mezuzah trên cánh cửa giống như một lời nhắc nhở cho những người sống trong ngôi nhà rằng ngôi nhà này đã được dâng cho Thiên Chúa và những người trong nhà phải cam kết sống và tuân theo lời Thiên Chúa, phải làm những điều tốt. Mezuzah cũng được xem là vật để nhắc nhở Thiên Chúa bảo hộ cho ngôi nhà.
Tất cả những nghi lễ và phong tục này đã nói lên điều gì? Các học giả tôn giáo phương Tây nhận định rằng nghi lễ của Do Thái giáo mang chức năng “thần thánh hóa” mọi khía cạnh của cuộc sống. Người Do Thái giáo nhìn thế giới là “phản chiếu” hình ảnh của thánh thần, cụ thể là Đức Jehovah. Theo sách Talmud, ăn hay uống mà không cầu nguyện được ví như đã cướp đi tài sản của Thượng Đế. Lề luật Do Thái giáo dạy mọi người khi ăn thì nên chuẩn bị bữa ăn trong sự có mặt của Thượng Đế. Lề luật cũng dạy mọi người khi uống thì nên dùng rượu vang đỏ để dâng tặng ngày Sabbath. Và khi vui vẻ nhảy múa thì hãy nhảy múa xung quanh Kinh Torah.
Những lễ nghi thiêng liêng và cầu nguyện lặp lại hàng ngày, kéo dài suốt mấy ngàn năm lưu lạc, như một chất keo thiêng liêng đã gắn kết dân tộc Do Thái cho dù ở bất cứ nơi nào trên trái đất thành một khối sức mạnh dường như vô cùng, không bao giờ tan chảy. Trong mọi hành vi, mọi việc làm, mọi ý tứ của cuộc sống, người Do Thái
luôn tìm thấy ý nghĩa chân thực, trải dài hàng thế kỷ, trong sự khẳng định rằng Thượng Đế luôn dành lòng yêu thương lớn lao đến cho người dân của Ngài. Người dân Do Thái, với sự thành kính này, không bao giờ nản lòng trước thử thách, cũng không buông thả trong hòa bình.
CUỘC TRUY CẦU Ý NGHĨA CỦA CUỘC SỐNG
Trong phần mở đầu, chúng ta đã nói rằng chìa khóa để nâng người Do Thái từ tăm tối lên tới vĩ đại chính là sự khao khát của họ trong việc truy cầu những ý nghĩa lớn lao của cuộc sống. Từ những trình bày ở trên về lịch sử lập quốc và sự hình thành của Do Thái giáo chúng ta sẽ tóm lược ở đây những ý nghĩa đó là gì.
1. Ý nghĩa về Thượng Đế
• “Lúc khởi đầu Thượng Đế sáng tạo nên trời và đất…” Từ khởi đầu cho đến cuối cùng, cuộc truy cầu ý nghĩa cuộc sống của người Do Thái giáo đã bén rễ và ăn sâu trong những hiểu biết của họ về Đấng Tối Cao. Bản thân con người vốn nhỏ nhoi và yếu ớt, cho dù họ là ai, mang triết lý gì, vẫn cần phải tìm kiếm một hình tượng siêu nhiên nào đó để vịn dựa. Đối với các dân tộc Địa Trung Hải, mỗi sức mạnh thiên nhiên là một vị thần: họ có thần đất, thần biển, thần mặt trăng, thần mặt trời, thần sông, thần núi… Còn người Do Thái giáo chỉ tôn thờ duy nhất một Thượng Đế là Đấng Tối Cao đã sáng tạo ra muôn loài. Đó là một Thượng Đế quyền uy, nghiêm khắc và đầy lòng vị tha. Trong khi các vị thần trên đỉnh Olympus trong các truyện thần thoại Hy Lạp chỉ biết ăn chơi và hưởng thụ thì khái niệm “Thượng Đế” của người Do Thái giáo được dùng để biểu hiện một thực thể vừa có tính sáng thế, vừa có nhân cách. Đấng Thượng Đế ấy được mô tả như một hình tượng vừa đầy quyền năng, lại mang cả nhân cách vì có thể lắng nghe tường tận những ý nguyện nơi con người.
• Người Do Thái giáo đã chăm sóc, giữ gìn, đã nuôi dưỡng lòng tin ấy, vào Thượng Đế, cho đến tận ngày nay. Chính lòng tin ấy đã gắn kết dân tộc Do Thái thành một khối đoàn kết thống nhất, không bao
giờ bị rạn nứt, không bao giờ bị bào mòn theo thời gian.
2. Ý nghĩa về sự sáng thế
• Nói về sự sáng thế, người Hy Lạp tư duy rất mơ hồ. Còn triết học Ấn Độ thì coi vật chất như một thực thể ô trọc, sự cứu rỗi chỉ đạt tới khi con người giải thoát linh hồn ra khỏi cái vỏ bọc cơ thể vật chất tạm bợ. Kinh Thánh Hebrew có cái nhìn khác. Mở đầu với lời tuyên ngôn rất rõ ràng: “Lúc khởi đầu Thượng Đế sáng tạo nên trời và đất…” và kết thúc chương Sáng-thế Ký 1: “Thượng Đế thấy mọi việc Ngài đã làm ra là rất tốt đẹp.” Sự nhấn mạnh vào từ “rất” này đã nâng tầm nhìn của người Do Thái giáo, và cả văn minh phương Tây, lên một tầng cao mới, bao quát toàn bộ thế giới tự nhiên. Thậm chí khi chết, người Do Thái giáo vẫn không có ý nghĩ từ bỏ thân thể; bởi lẽ người Do Thái giáo (và cả Kitô giáo, Hồi giáo) luôn có lòng tin vững chắc vào sự phục sinh của thân xác.
3. Ý nghĩa về sự hiện hữu củacon người
• Trong nhân sinh quan của con người, hình ảnh bản thân là một yếu tố vô cùng quan trọng. Con người tự biết rất sâu sắc về khả năng rất giới hạn của họ: so với thần thánh, con người chỉ là “cát bụi”. Vì thế đánh giá được phẩm chất và giới hạn của chính mình là rất cần thiết trong ước vọng đạt tới sự hoàn thiện của bản thân. Một người hoàn hảo nếu bỏ đi tính nhu nhược sẽ trở nên thiếu tính hiện thực. Nếu bỏ đi sự cao quý thì khát vọng sẽ bị lu mờ. Nếu bỏ đi tội lỗi thì sự đa cảm sẽ không còn. Bỏ đi quyền tự quyết thì trách nhiệm sẽ bị thui chột. Cuối cùng, nếu bỏ đi tình yêu thương thì linh hồn không khác gì què quặt.
• Người Do Thái giáo, trong lịch sử trải dài 4000 năm, luôn khát khao tìm hiểu những tố chất của dân tộc mình, không phải vì những mục đích nghiên cứu học thuật. Họ muốn hiểu ngọn ngành bản sắc của dân tộc mình, cả tốt và xấu, để từ đó có thể phát huy cái đẹp tiềm ẩn trong mỗi con người đến tối đa, đến một tầng cao mà ở đó trí tuệ Do Thái được tỏa sáng.
• Câu hỏi mà nhiều người vẫn thắc mắc rằng tại sao người Do Thái lại
đặc biệt thông minh và trí tuệ có lẽ đã được minh bạch.
4. Ý nghĩa về lịch sử
• Lịch sử có ý nghĩa hay không tùy thuộc vào thái độ của chúng ta về trật tự xã hội cũng như sinh hoạt của cộng đồng trong trật tự đó. Nếu chúng ta cho rằng lịch sử không có ý nghĩa gì thì đương nhiên là các định chế chính trị, xã hội và văn hóa của cuộc sống không có gì đáng để ta phải bận tâm. Người Do Thái, ngược lại, nhìn về lịch sử tuyệt không thờ ơ và coi lịch sử là vô cùng quan trọng. Đối với người Ấn Độ, số phận con người nằm ngoài lịch sử. Với các dân tộc láng giềng xung quanh Israel, số phận con người ngược lại nằm trong lịch sử nhưng trong một định chế khô cứng vì họ cho rằng trật tự xã hội không bao giờ thay đổi được theo qui luật của tự nhiên. Cách nhìn nhận về lịch sử của người Do Thái có khác biệt vì họ có ý tưởng riêng về Thượng Đế. Với người Do Thái, ý muốn và quyền năng của Thượng Đế sẽ vượt qua những gì đang xảy ra trong lịch sử. Trong cách tư duy ấy , Do Thái giáo đã thành công khi tạo dựng được nền tảng cho một lương tâm xã hội, một nền tảng rất vững chắc và linh hoạt, đúng như định chuẩn của văn minh phương Tây. Trên nền tảng đó, khi sự việc xảy ra không đúng như nó nên có, sự thay đổi là cần thiết, giống như một bộ máy hoàn hảo, rất năng động, có thể tự sửa chữa, tự hàn gắn khi gặp trục trặc. Các nhà tiên tri Do Thái giáo chính là những kiến trúc sư đã tạo ra mô hình như thế. Được những giới luật bảo vệ, họ chính là lực lượng cải cách mà lịch sử không thể nào vượt qua.
5. Ý nghĩa về đạo đức
• Có một học giả Mỹ nói rằng con người là những sinh vật của xã hội. Thiếu người khác, họ không đủ để trở thành con người. Tuy nhiên nếu có sự hiện diện của người khác thì họ lại thường hành xử rất thô thiển. Thực tế hai mặt này dẫn đến nhu cầu về đạo đức.
• Đúng ra thì không ai thích luật lệ bất kể là luật lệ gì, nhưng nếu không có những ràng buộc về nguyên tắc thì xã hội con người sẽ rối tinh rối mù và dễ dàng vượt ra ngoài vòng kiểm soát. Với hiểu biết đó, người Do Thái đã biên soạn rất nghiêm túc luật lệ của họ nhằm qui
định những ràng buộc tối cần thiết cho đời sống. Bốn trong Mười Điều Răn đặt trọng tâm vào việc kiểm soát bốn khu vực nguy hiểm nhất trong quan hệ con người, đó là không giết người, không ngoại tình, không làm chứng gian hại người và không chiếm đoạt tài sản người khác. So sánh với Phật giáo thì những giới luật này tương tự với Ngũ giới của Phật giáo - không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không dùng chất gây nghiện. Đó phải chăng chính là sự tương đồng thiêng liêng giữa các tôn giáo khác nhau: mặc dù có thể không giống nhau về triết lý thần học, song các tôn giáo đều hướng con người đến một đời sống trong sạch, đến cái đẹp thánh thiện của cuộc sống.
• Có thể nói tầm quan trọng của Mười Điều Răn trong phương diện đạo đức của Kinh Thánh Hebrew không phải là nằm ở tính duy nhất mà là nằm ở tính phổ quát của nó. Mười Điều Răn không nói đến hình phạt của các giới luật, mà nhấn mạnh vào việc tuân thủ những giới luật đó.
6. Ý nghĩa về công lý
• Trong suốt hành trình lập quốc và hình thành Do Thái giáo, có thể nói các nhà tiên tri Do Thái đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng một bệ đỡ công lý cho đất nước. Đây là nơi qui tụ những tinh hoa bậc nhất của dân tộc Do Thái. Moses là nhà tiên tri đứng một mình trong thế hệ tiên tri đầu tiên. Tiếp theo sau là Elijah, Elisha, Nathan…, rồi sau là Amos, Hosea, Jeremiah, Isaiah và những người khác nữa.
• Tại sao lại nói vai trò của các nhà tiên tri rất quan trọng trong xã hội Do Thái giáo? Bởi vì một mặt nhà tiên tri được coi là người giao dịch trực tiếp mặt-đối-mặt với Thiên Chúa, nhận những lời khuyên dạy và
phán bảo của Ngài; mặt khác họ là những người chịu trách nhiệm thiết kế cấu trúc cho xã hội Do Thái, nhằm tạo nên một trật tự xã hội ổn định và hiệu quả nhất. Nguyên tắc bất di bất dịch của các nhà tiên tri Do Thái là: luôn luôn đặt công lý lên trên hết để đảm bảo sự ổn định chính trị của xã hội, bởi vì theo lẽ tự nhiên và công bằng thì những bất công trong xã hội không được phép tồn tại. Nói về mặt thần học điều này có thể hiểu là: Thượng Đế có chuẩn mực rất cao và tính thần thánh sẽ không bao giờ chấp nhận cái xấu và những điều
tầm thường xảy ra trên đất nước của Ngài.
• Các nhà tiên tri Do Thái đến từ các tầng lớp khác nhau, tuy nhiên họ đều có một tiếng nói chung dựa trên niềm tin rằng mỗi con người, bởi đức hạnh của nhân loại, đều là con của Thượng Đế, và do đó đều có quyền sống, quyền làm người mà bất cứ một ai, bất cứ một nhà cầm quyền nào cũng phải tôn trọng.
7. Ý nghĩa về sự thất bại và mất mát
• Từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 6 TCN, quốc gia Israel (ở phương Bắc) và Judah (ở phương Nam) lung lay trước nạn ngoại xâm từ Syria, Assyria, Ai Cập và Babylon. Người Do Thái giáo đứng trước hai lựa chọn: chấp nhận thất bại hoặc đứng lên chống ngoại xâm. Với một lực lượng mỏng manh và không chuẩn bị sẵn sàng, người Do Thái chỉ còn chấp nhận thất bại và chờ đợi Thượng Đế may ra sẽ giải cứu họ ở giây phút cuối cùng. Nhưng kịch bản này đã không đến, và thất bại đã không thể ngăn chặn. Năm 721 TCN, Assyria xóa sổ vương quốc phương Bắc của Canaan vĩnh viễn khỏi bản đồ thế giới. Quốc gia phương Nam Judah kéo dài tuổi thọ tới năm 587 TCN trong sự lệ thuộc vào người Assyria rồi cuối cùng cũng bị các đạo quân xâm lăng Babylon hủy diệt vào năm 568 TCN. Dân Do Thái và những người cầm đầu vương quốc Judah bị đày sang Babylon làm nô lệ. Nếu có một thời điểm nào đó trong lịch sử Do Thái giáo mà mọi ý nghĩa dường như cạn kiệt thì chính là lúc này. Người Do Thái giáo quằn quại trong đau khổ và tuyệt vọng. Đức tin của dân Do Thái đã trải qua một cuộc thử thách nặng nề khi họ chứng kiến cảnh Đền Thờ bị tàn phá và bị lưu đày sang Babylon. Các nhà tiên tri giải thích rằng đây là một hình phạt về tội bất trung với Giao ước, đã được cảnh báo nhiều lần. Không phải là Thiên Chúa bỏ rơi người Do Thái, nhưng là người Do Thái đã bỏ Ngài, khi họ tìm sự nương tựa nơi các thế lực ngoại bang và ngay cả khi việc thờ phụng của họ dường như chỉ mang tính chất hình thức trống rỗng.
• Thế nhưng trong hoàn cảnh hầu như tuyệt vọng ấy, các tiên tri thời lưu đày vẫn tiếp tục đào sâu hơn khía cạnh bền bỉ của niềm tin vào Thiên Chúa: tin không những có nghĩa là giữ vững lòng tin tưởng kể cả lúc gặp thử thách, tin còn có nghĩa là hy vọng ngay trong những hoàn cảnh trái ngược. Các tiên tri nhắc nhở dân Do Thái hãy bì nh
tâm tín thác vào Thiên Chúa: Thiên Chúa là đá tảng của sự tin cậy. Nếu không làm được điều này có nghĩa là người Do Thái đã mặc nhiên chấp nhận một logic là thượng đế của kẻ thắng mạnh hơn thượng đế của kẻ bại, cũng có nghĩa là dấu chấm hết cho lòng tin vào Thiên Chúa và cũng là dấu chấm hết cho dân tộc Do Thái.
• Các nhà tiên tri Do Thái đã từ chối logic đó và chính sự từ chối đó đã cứu vớt tương lai cho đất nước Do Thái. Một vị tiên tri Do Thái giáo vào thế kỷ 6 đã ghi lại rằng thượng đế của người Babylon Marduk đã không thể đánh bại được Đức Jehovah; và lịch sử vẫn thuộc về vương quốc của Ngài. Đức Jehovah muốn người Do Thái giáo phải học bài học từ thất bại và lưu đầy, nhưng trải nghiệm của họ sẽ cứu chuộc cho cả thế giới. Đó là bài học về giá trị thực sự của tự do, cái giá trị mà người Do Thái trước đây và rất nhiều dân tộc khác chưa từng thấu đáo và đã ngộ nhận với con mắt quá dễ dãi. Qua bài học ấy, người Do Thái giáo đã thực sự biết phải làm gì để tự mình vượt qua những gian khó, giành lấy tự do và độc lập cho dân tộc.
• Có thể nói, qua những thất bại và mất mát mà người Do Thái đã trải qua, Thượng Đế đã thắp sáng trong lòng họ niềm khát khao cháy bỏng cho tự do và công lý, và ngọn lửa đó đã lan tỏa đến cho toàn thể nhân loại.
DO THÁI GIÁO NGÀY NAY
Israel là một nước nhỏ, cả về diện tích địa lý lẫn dân số, nhưng khát vọng và tư cách của họ thì vĩ đại và cháy bỏng.
Năm 70 CN, người La Mã đã phá hủy Jerusalem và san bằng Đền Thờ Jerusalem mà người Do Thái đã xây dựng lại lần thứ hai sau khi quay trở về từ cuộc lưu đày ở Babylon. Cũng từ thời điểm này, người dân Do Thái bắt đầu cuộc sống lưu vong gần 2000 năm. Từ đây, Do
Thái giáo dần dần dịch chuyển trọng tâm từ lễ nghi cúng tế của Đền Thờ Jerusalem sang việc nghiên cứu học tập Kinh Thánh Torah và cầu nguyện tại các Hội đường Do Thái trên những mảnh đất mà họ cư ngụ. Việc thực hiện các buổi cầu nguyện như thế được các rabbi điều hành. Trong suốt 2000 năm đằng đẵng lưu đày, chính các rabbi - những tinh hoa tri thức của dân tộc Do Thái - luôn xuất hiện từ thế hệ này qua thế hệ khác là những người đã kiên tâm lặng lẽ giữ gìn những
giá trị truyền thống của Do Thái giáo và giúp các cộng đồng Do Thái giáo gắn kết thành một sức mạnh thần thánh. Suốt 2000 năm! Có thể nói nỗ lực không biết mệt mỏi này của các rabbi là một trong những điều kì diệu của lịch sử và chính nó là nhân tố cơ bản giúp Do Thái giáo trở thành mảnh đất tinh thần vững chắc trên đó đất nước Israel đã được xây dựng và nở hoa cho đến ngày nay.
Nếu Giao ước giữa Abraham và Thượng Đế mang đến cho người Do Thái lòng tin là “Dân tộc được Chúa chọn”; Nếu Moses, Mười Điều Răn và Kinh Torah là đá tảng trong việc đặt một nền móng tâm linh cho đất nước Israel ổn định và vững chắc ngày nay; Nếu người La Mã phá hủy Đền Thờ thứ hai vào năm 70 CN và từ thời điểm này Do Thái giáo chuyển dịch từ một tín ngưỡng dựa trên nghi lễ hiến tế thành một tôn giáo lấy giáo dục là chuẩn mực; thì những nỗ lực của các rabbi đã giúp giữ gìn niềm tin, lề luật, và những giá trị truyền thống của Do Thái giáo được “thuần khiết” trong suốt 2000 năm lưu lạc. Đây là những điểm sáng trong lịch sử hình thành nên văn hóa, trí tuệ, bản sắc của người Do Thái và là bệ đỡ vững chắc cho Nhà nước Israel hiện đại ngày nay.
Vào đầu thế kỷ 21, một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Do Thái giáo là tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa của cuộc Đại Thảm Sát Holocaust đã lấy đi sáu triệu mạng người dân Do Thái. Phải chăng là Chúa đã chết đối với người Do Thái, hay Chúa đã quay lưng lại với người Do Thái, hay họ đã bị trừng phạt vì tội gì chăng? Những câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác đã được đặt ra cho các nhà tư tưởng Do Thái giáo hiện đại.
Ngày nay dân số Israel tính tới đầu năm 2014 là 8.180.000 người, trong đó người Do Thái chiếm 6.110.600 người. Số còn lại gồm người Hồi giáo, Kitô giáo, Samaria và Druze. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Hebrew, và lịch sử Kinh Thánh được dùng trong trường học để dạy cho trẻ em như là câu chuyện trường thiên của dân tộc.
Nguồn: http://www.pacraig.com/historical-site-of-the-wailing-wall.html/wailing-wall
live-cam-image
Cầu nguyện tại Bức tường phía Tây (Western Wall - Wailing Wall) của Jerusalem
PHỤ LỤC 1 - CÁC CỘT MỐC THỜI GIAN
• 3760 TCN: Bắt đầu lịch Do Thái
• 1812 TCN: Ngày sinh theo truyền thống của Abraham.
• 1300 TCN: Moses dẫn người Do Thái chạy trốn khỏi Ai Cập về Miền Đất Hứa (Exodus). Trên đường đi, Moses nhận Mười Điều Răn của Thiên Chúa tại núi Sinai, Ai Cập.
• 1200-400 TCN: Giai đoạn Kinh Torah được biên soạn.
• 1000-586 TCN: Thời gian áng chừng của các vương quốc Israel theo kinh thánh.
• 1025 TCN: Người Do Thái thành lập vương quốc Israel, trị vì bởi Saul.
• 1003 TCN: David trở thành vua của Israel, lấy Jerusalem làm thủ đô.
• 960 TCN: Solomon nối ngôi David và bắt đầu qui hoạch xây dựng lại Jerusalem.
• 922 TCN: Vương quốc Israel bị chia thành Israel ở phương Bắc và Judah ở phương Nam. Jerusalem trở thành thủ đô của Judah.
• 825 TCN: Đền Thờ Jerusalem được hoàn thành.
• 721 TCN: Người Assyria xâm lược Israel và trục xuất 10 bộ tộc người Do Thái.
• 625 TCN: Đế quốc Assyria bị liên minh của Đế quốc Babylon và Đế quốc Median tiêu diệt.
• 586 TCN: Vua Nebuchadrezzar II của Babylon phá hủy Đền thờ của Solomon và bắt dân Do Thái về Babylon làm nô lệ. Kết thúc thời kỳ Đền Thờ thứ nhất [825 TCN - 586 TCN].
• 538 TCN: Đại đế Cyrus của Ba Tư tiêu diệt Đế quốc Babylon và cho phép người Do Thái trở về Jerusalem. Một số người lựa chọn không trở về: bắt đầu thời kỳ Cộng đồng Do Thái Diaspora.
• 538 TCN: Sau khi trở về từ Babylon, các học giả Do Thái bắt đầu sử dụng chữ viết Aramaic để viết chữ Hebrew.
• 515 TCN: Khánh thành Đền Thờ Jerusalem xây dựng lần thứ hai. Bắt đầu thời kỳ Đền Thờ thứ hai.
• 500 TCN: Kinh Torah trở thành kinh sách căn bản của Do Thái giáo, đặt ra những lề luật cho đời sống hàng ngày, giữ gìn văn hóa và lễ nghi Do Thái.
• 63-65 CN: Đại giáo chủ của phái Pharisees Joshua Ben Gamla
ban hành sắc lệnh tôn giáo “takkanah” yêu cầu tất cả các ông bố Do Thái phải gửi con trai 6-7 tuổi tới trường tiểu học.
• 63: Quân La Mã xâm lược Israel.
• 66: Các đội quân La Mã đụng độ với người Do Thái ở Jerusalem, khởi đầu cho cuộc Đại khởi nghĩa của người Do Thái.
• 70: Quân La Mã đánh chiếm Jerusalem và san bằng Đền Thờ. Người Do Thái di cư khắp Đế quốc La Mã. Kết thúc thời kỳ Đền Thờ thứ hai [515 TCN - 70 CN].
• 200: Sách Mishna hoàn thành.
• 500: Sách Talmud (Pháp điển) của Babylon hoàn thành. Thời kỳ thế kỷ 3-5 gọi là thời kỳ Talmud.
PHỤ LỤC 2 - DÂN SỐ DO THÁI TRÊN THẾ GIỚI (20 NƯỚC VỚI DÂN SỐ CAO NHẤT)
Dân số Do Thái nòng cốt của thế giới vào đầu năm 2013 ước tính là 13,9 triệu người (khoảng 0,2% dân số thế giới). Trong khi hàng chục quốc gia có ít nhất một dân số nhỏ người Do Thái, cộng đồng Do Thái tập trung chủ yếu ở một số ít quốc gia như: Israel và Hoa Kỳ chiếm 82% dân số Do Thái, trong khi tổng cộng 18 quốc gia chiếm 98%.
Với chỉ hơn 6 triệu người Do Thái, Israel là quốc gia với phần lớn là người Do Thái và duy nhất là nhà nước Do Thái. Số liệu dân số của người Do Thái ở Hoa Kỳ đang tranh cãi, dao động từ 5,4 và 6,8 triệu.