🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Casanova Ở Bolzano - Márai Sándor & Giáp Văn Chung (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
CASANOVA Ở BOLZANO Marai Sandor
Giáp Văn Chung dịch
[VCTVEGROUP]
Mục lục
Ghi chú
Một đức ông, từ Venice Tin tức
Một người đàn ông Thức dậy
Thực hành
Chiếc hôn
Một nhà văn
"Đừng động đến Venice!" Francesca
Phục trang
Bắt bệnh
Hợp đồng
Hóa trang
Tiết mục
Trả lời
Ghi chú
Trong gương mặt và tính cách nhân vật của tôi chắc hẳn độc giả tưởng mình nhận ra diện mạo đặc trưng của Giacomo Casanova1 kẻ phiêu lưu khét tiếng vào thế kỷ 18.
Thật khó cưỡng lại nổi sự nhận biết này, mà trong mắt một số người có thể nó cũng là sự phê phán. Nhân vật của tôi cực kỳ giống anh chàng liều lĩnh, vô gia cư và dẫu sao có lẽ vẫn bất hạnh, người vào nửa đêm ngày 31 tháng Mười năm 1756 đã dùng thang dây trèo từ buồng giam mái lợp chì của Công quốc Venice, còn gọi là buồng chì, xuống eo biển và cùng một tu sĩ đã bị tước quyền hành đạo tên là Balbi bỏ trốn khỏi lãnh địa của Nước Cộng hòa2 về phía Munchen. Điều biện hộ cho tôi là từ câu chuyện cuộc đời của nhân vật, tôi không quan tâm đến câu chuyện lãng mạn, mà quan tâm đến tính cách lãng mạn của anh ta.
Vì thế những thứ khác, như thời điểm và hoàn cảnh cuộc trốn thoát, tôi không vay mượn từ cuốn Những hồi tưởng3 lừng danh. Tất cả những thứ khác mà độc giả tìm thấy trong tiểu thuyết này, đều là chuyện hư cấu và tưởng tượng.
M.S.
Một đức ông, từ Venice
Chàng từ biệt những người chèo thuyền ở Mestré; người bạn hư hỏng Balbi thiếu chút nữa đã làm chàng rơi vào tay cảnh sát ở đây, vì đúng lúc chiếc xe ngựa chở khách khởi hành thì chàng hoài công tìm kiếm, mãi rồi mới thấy anh ta trong một quán cà phê - đang vô tư nhâm nhi một cốc sô cô la - và tán tỉnh cô hầu bàn. Đến Treviso thì chàng hết sạch tiền; họ lủi qua cổng Saint Thomas ra cánh đồng, và theo sau những khu vườn, đi men theo ven những cánh rừng, lúc mặt trời lặn thì đến trước những ngôi nhà của Valdepiadene. Đến đây chàng rút con dao găm ra dọa người bạn đường khó chịu, hai người hẹn sẽ gặp nhau ở Bolzano, rồi chia tay. Cha Balbi buồn bã bước đi giữa những thân cây trơ trụi trong rừng ô liu; nom ông gầy guộc và nhếch nhác, vừa đi vừa ngoái nhìn lại bằng cái nhìn vụng trộm tăm tối, lủi thủi như một con chó ghẻ bị chủ xua đuổi.
Khi cha cố đã đi khuất, chàng đi vào thành phố, bằng một bản năng mù lòa và đáng tin cậy chàng hỏi chỗ ở trong nhà của viên chánh cẩm. Bà vợ ông ta, một phụ nữ thuần hậu, tiếp đón chàng, cho chàng ăn tối, rửa các vết thương cho chàng - trên gối và trên mắt cá chân máu đã đông lại, trong khi chạy trốn, lúc nhảy từ những mái nhà lợp chì, khuỷu tay và gối chàng bị xước -, và trước khi đi ngủ chàng được biết ông chánh cẩm đang đi vắng, ông đang săn lùng chính chàng, kẻ chạy trốn. Lúc rạng sáng chàng bỏ đi. Chàng ngủ ở Pergine, sang ngày thứ ba thì đến Bolzano trên xe ngựa, vì giữa đường đã moi được của một người quen sáu đồng tiền vàng.
Balbi đã đợi chàng. Chàng thuê phòng trong một quán trọ có tên là Con Hươu. Chàng không có đồ đạc gì, quần áo rách mướp, chiếc áo đuôi tôm may từ thứ lụa màu nay chỉ còn lại những mảnh tơi tả, không có áo khoác ngoài. Ở Bolzano, trên những con phố hẹp gió tháng Mười một đã bắt đầu quất mạnh. Người chủ quán lúng túng nhìn những vị khách rách rưới.
- Những phòng đẹp nhất ư?! - ông ta lúng túng.
- Những phòng đẹp nhất! - chàng đáp khẽ, dứt khoát. - Và hãy chú ý đến đồ ăn đấy!
- Ở đây các người hay nấu với các thứ mỡ đã ôi, thay vì dầu, và từ khi rời khỏi Nước Cộng hòa ta chưa được ăn ở đâu một miếng cho tử tế! Hãy quay gà trống thiến và mái tơ vào bữa tối, không phải một, mà ba con, với hạt dẻ. Và kiếm loại vang Cyprus. Ngươi nhìn quần áo ta ư?... Ngươi tìm hành lý của ta ư? Ngươi ngạc nhiên vì ta đến đây tay không ư? Tin tức không tới đây hay sao? Ngươi không đọc Leyden Gazette sao!... Đồ ngốc! - chàng gào lên giọng khản đặc, vì giữa đường chàng bị cảm lạnh, và cơn ho đang hành hạ phế quản chàng. - Ngươi không nghe tin một nhà quý tộc Venice và thư ký cùng đám gia nhân vừa bị cướp ngoài biên giới ư? Cảnh sát còn chưa tới tìm ta ư?
- Dạ chưa thấy, thưa đức ông, - người chủ quán hốt hoảng đáp.
Balbi bụm miệng cười. Cuối cùng đúng là họ đã được những phòng đẹp nhất: phòng khách, hai cửa sổ có cánh mở ra quảng trường chính, những đồ gỗ có chân mạ vàng và gương Venice đặt trên lò sưởi. Giường kiểu Pháp có màn che. Balbi ở phía cuối hành lang, gần một cầu thang hẹp và dốc dẫn lên tầng áp mái
của những người hầu. Cách bố trí như thế làm chàng rất mãn nguyện.
- Thư ký của ta đấy, - chàng giới thiệu Balbi với ông chủ quán trọ.
- Cảnh sát, - người chủ quán trọ nói như thanh minh. - Ở đây cảnh sát cũng rất nghiêm. Họ sẽ đến đây ngay. Họ xem xét tất cả những người lạ mặt.
- Bảo với họ rằng, - chàng đáp qua loa - có khách quý. Một đức ông...
- Nhưng dù sao! - người chủ quán cố nài, và cúi đầu thật thấp, tay cầm chiếc mũ, tò mò và lễ phép.
- Một đức ông, từ Venice! - chàng nói.
Chàng nói điều này như thể thông báo một phẩm tước đặc biệt nào đó. Đến mức Balbi cũng phải chú ý tới âm điệu của chàng. Rồi bằng nét chữ nhọn và thành thục, chàng viết tên mình vào quyển sổ lớn. Người chủ quán hồi hộp đến đỏ mặt: day day thái dương bằng những ngón tay mập mạp, và không biết nên chạy đi gọi cảnh sát hay quỳ mọp xuống để hôn tay chàng? Thế là ông ta cứ đứng một chỗ, bối rối và im lặng.
Rồi ông châm đèn và đưa các vị khách lên tầng trên. Những người phục dịch đã xếp dọn các phòng: mang nến đến trên những giá đỡ lớn mạ vàng, nước nóng đựng trong các bình bạc, những chiếc khăn lau Limburg bằng vải bông. Chàng bắt đau chậm rãi cởi quần áo, như một đấng quân vương, giữa đám hầu cận: chàng đưa từng chiếc áo bẩn cho người chủ quán trọ và những người hầu phòng, chiếc quần lụa dính máu bết vào da
thịt phải dùng kéo cắt ở phía ngoài hai bên ống quần, chàng ngâm chân khá lâu trong cái chậu rửa bằng bạc, người ngả trên một chiếc ghế bành, lim dim ngủ vì mệt mỏi, nom tã tượi và thế thảm. Thỉnh thoảng chàng chợt ngủ trong một khoảnh khac, lẩm bẩm, hét lên một tiếng. Balbi, ông chủ quán, những người hầu phòng há miệng đi đi lại lại quanh chàng: người ta đang trải giường trong buồng ngủ, kéo kín các rèm cửa, tắt gần hết nến. Đến giờ ăn tối họ gõ cửa rất lâu. Sau bữa ăn chàng lại đi ngủ ngay; chàng ngủ đến trưa ngày hôm sau, với gương mặt vô tư và bình thản, lạnh lùng như người mới chết một ngày.
Một đức ông, các cô gái bảo nhau rồi ai vào việc nay, khe khẽ hát, cười và thầm thì với nhau, trong bếp và dưới hầm, họ đi rửa xe và lau bát đĩa, chẻ củi, mang nước uống, họ nói nhỏ hơn, đưa ngón tay che miệng, lại khúc khích cười, rồi lại làm mặt nghiêm và truyền nhau cái tin ấy, vẻ quan trọng và cười cợt: một đức ông, đúng, một đức ông, từ Venice. Đến tối thì có hai viên cớm chìm đến quán; tên chàng, đáng ngờ và quyến rũ, hấp dẫn và nguy hiểm, vừa được mạ vàng bởi tin tức về cuộc phiêu lưu lớn, cuộc tẩu thoát, đã thu hút đám mật vụ ở khắp các thành phố. Và họ muốn biết tất cả. Hắn ta ngủ ư?... Không có hành lý gì à?
- Một con dao găm, - chủ quán nói. - Ông ta đến với một con dao găm. Chỉ có thế.
- Một con dao găm, - họ nhắc lại, vẻ am hiểu và ngơ ngác. - Loại dao gì thế? - họ căn vặn.
- Dao găm Venice, - chủ quán đáp vẻ hâm mộ.
- Không còn gì khác? - họ hỏi.
- Không, - chủ quán trọ đáp. - Không có gì khác. Một con dao găm. Chỉ có thế.
Tin này làm hai viên cớm chìm bất ngờ. Họ đã không ngạc nhiên nếu chàng tới đây với đầy chiến lợi phẩm, đá quý, túi đựng, vòng cổ và nhẫn quý tháo ra từ ngón tay của những phụ nữ nhà lành trên dọc đường đi. Tiếng tăm chàng đã đến trước, như một kẻ dẫn ngựa đi tiền trạm, và bố cáo tên chàng. Sáng ra đức giám mục đã thông báo cho viên chánh cẩm, và yêu cầu trục xuất ngay vị khách nguy hiểm. Ở Tirol và Lombardia, buổi sáng sau lễ cầu kinh, buổi tối trong các quán rượu, người ta đã kể cho nhau nghe về cuộc tẩu thoát của chàng.
- Hãy cẩn thận với hắn! - đám cớm chìm nói. - Chúng tôi muốn biết hết hắn nói gì. Phải rất chú ý hắn. Hắn có nhận thư không, và nhận từ ai? Hắn có gửi thư không, và gửi cho ai? Hãy để ý đến nhất cử nhất động của hắn! Hình như, - họ thì thầm, dùng bàn tay chụm lại làm loa ghé sát vào tai ông chủ quán, - hắn có người che chở. Cả đức giám mục cũng chẳng làm gì nổi hắn.
- Trước mắt, - ông chủ quán nói với vẻ từng trải. - Trước mắt, - những tay cớm chìm buồn bã nhắc lại.
Rồi họ nhón chân bỏ đi, gương mặt bí hiểm và đầy lo âu. Ông chủ quán ngồi xuống trong phòng nước, thở dài. Ông không thích những người khách có tiếng tăm, những người gây nên sự chú ý của đức giám mục và cảnh sát. Ông nghĩ tới đôi mắt của vị khách, đen ánh lửa tăm tối và than hồng bập bùng uể oải trong đôi mắt ấy, và ông sợ. Ông nghĩ đến con dao găm, con
dao găm Venice, đồ vật duy nhất của người khách, và ông sợ. Ông nghĩ đến tin tức theo sau vị khách, và bắt đầu rủa thầm.
- Teresa! - ông cáu kỉnh gọi.
Một cô gái, đã bận áo khoác ngoài buổi tối, bước vào. Cô mười sáu tuổi, một tay cầm cây nến đang cháy, tay kia kéo hai vạt áo ngủ trước ngực.
- Nghe đây! - ông thì thầm, bảo cô bé ngồi xuống gối. - Ta chỉ tin con thôi. Chúng ta có một vị khách nguy hiểm. Teresa, ông khách này...
- Từ Venice đến? - cô bé nói giọng học trò, như hát.
- Đúng, từ Venice, từ Venice, - ông nói hốt hoảng. - Từ trong tù. Từ lũ chuột. Từ dưới giá treo cổ. Nghe đây, Teresa. Hãy chú ý xem ông ta nói những gì. Tai mắt con hãy luôn luôn ở cạnh lỗ khóa. Ta yêu con như con gái ta. Con là con nuôi ta; nhưng nếu ông ta gọi vào phòng thì con đừng ngại. Con sẽ đem bữa sáng cho ông ấy. Hãy coi chừng đức hạnh của con và hãy chú ý.
- Vâng, - cô bé đáp.
Rồi vẫn cầm cây nến trên tay, cô bé đi về phía cửa, nhẹ nhàng như một cái bóng. Đến trước cửa, cô bé than, kéo dài giọng như giọng trẻ con:
- Cháu sợ.
- Ta cũng thế, - ông chủ quán nói. - Giờ con đi ngủ đi. Trước đó hãy đem cho ta rượu vang đỏ.
Nhưng đêm đầu tiên tất cả đều trằn trọc.
Tin tức
Họ ngủ không yên giấc, ngáy, thở nặng nhọc và khò khè, và trong khi ngủ họ cảm thấy có điều gì đó đang xảy ra với mình. Họ cảm thấy một ai đó đi lại quanh ngôi nhà. Họ cảm thấy một ai đó cất tiếng hỏi và họ phải trả lời như chưa bao giờ từng trả lời. Câu hỏi mà người lạ đặt ra cho họ đầy vẻ khiêu khích, trịch thượng, ngỗ ngược, và hơn hết là đáng sợ và buồn. Nhưng sáng ra, sau khi thức dậy họ không còn nhớ đến câu hỏi ấy nữa.
Trong khi họ ngủ, cái tin ấy đã bay đi, tin rằng chàng đã tới, đã trốn khỏi những buồng chì, đã đi thuyền giữa ban ngày ban mặt ra khỏi thành phố quê hương chàng, qua mắt các đấng đáng kính, những đức ông khét tiếng của Tòa Pháp đình, chàng đã xỏ mũi Lawrence, viên cai ngục, đã giúp cả người bạn đã bị cấm hành đạo, đã ung dung đi ra khỏi thành trì của các ngài Tổng trân, người ta đã thấy chàng ở Mestré trong khi mà cả với người đánh xe, thấy chàng đang uống rượu ngải đắng trong một tiệm cà phê ở Treviso, và một nông dân còn thề rằng đã thấy chàng thôi miên lũ bò sữa ngoài biên giới. Cái tin bay đến các lâu đài Venice, đến các quán rượu vùng ngoại ô. Các Hồng y Giáo chủ và các nghị sĩ đáng kính, những gã đao phủ và bọn chó săn, những gã mật vụ và những tay cờ bạc, những ả tình nhân và các đức ông chồng, những cô gái trong lễ cầu nguyện và các mệnh phụ trên giường ấm đều bật cười và kêu lên: “Hô hô!” Hoặc hét lên hết cỡ: “Ha ha!” Hay cúi mặt xuống gối và khăn tay mà cười khúc khích: “Hi hi.” Ai ai cũng mừng vì chàng đã trốn thoát. Tối hôm sau người ta thông báo tin này với Đức Giáo hoàng, Người còn nhớ ra chàng, nhờ cả việc có lần Người đã đích thân trao cho chàng một tấm huân chương bậc thấp; và lúc đó Người đã mỉm
cười khi nghe được tin này. Cái tin cứ bay đi, ở Venice những người chèo thuyền tựa lên đầu những mái chèo dài, tranh cãi kỹ lưỡng tất tật mọi tình tiết cuộc tẩu thoát của chàng, và người ta mừng vì chàng đã trốn thoát, mừng vì chàng là người Venice, và chàng đã cho quyền lực một quả lừa, mừng vì một con người đã mạnh mẽ hơn bạo quyền, hơn tường đá và xiềng xích, hơn những mái lợp chì. Người ta nói nhỏ, nhổ bọt xuống mặt nước, xoa hai bàn tay vào nhau một cách khoái trá. Tin chàng trốn thoát cứ bay đi, và người ta cảm thấy con tim mình như được sưởi ấm. Thực ra chàng đã làm gì? - người ta hỏi nhau. - Chàng đã chơi bạc, ôi lạy Chúa, và có lẽ chàng đã chơi với đôi tay không hẳn trong sạch, đã đặt tiền cược trong các sòng bạc, đã đeo mặt nạ khi chơi với các tay bạc chuyên nghiệp. Nhưng có ai không làm như thế ở Venice này?... Và ban đêm chàng đã đánh kẻ phản bội mình, đã lừa phụ nữ ngoài thành phố đến ngôi nhà thuê ở Murano - nhưng tuổi trẻ, có ai sống khác thế ở Venice này? Chàng xấc xược ư, hoạt khẩu và nói nhiều ư? Nhưng ở Venice có ai là im lặng?...
Người ta lẩm bẩm thế, và thỉnh thoảng lại phì cười. Vì có điều gì đó tốt lành, có cái gì đó như mãn nguyện, một thứ gì đó như sưởi ấm con tim. Vì tất cả mọi người đều ít nhiều nằm trong móng vuốt của Tòa Pháp đình, và đều ít nhiều sống trong những buồng chì, và giờ đây một ai đó đã chứng tỏ một người mạnh hơn bạo quyền, một người mạnh hơn những mái lợp bằng chì, hơn bọn cớm chìm, mạnh hơn messer grande4, sứ giả của đao phủ và tín sứ của điềm gở. Cái tin cứ bay đi, và tại các đồn, cảnh sát giận dữ ném tập hồ sơ xuống bàn, các viên đồn trưởng quát lác ầm ĩ, đám quan tòa đỏ mặt tía tai thẩm vấn các
nghi can, bực tức tuyên phạt án tù, đày, khổ sai hay giá treo cổ. Trong các giáo đường người ta nói về chàng, sau buổi cầu nguyện người ta thuyết giáo, vì chàng hợp nhất cả bảy tội lỗi chính trong cái thân thể đáng nguyền rủa của chàng, chàng sẽ bị nấu trong một vạc dầu riêng, sẽ bị ninh nhừ bằng ngọn lửa riêng dưới địa ngục, vĩnh viễn. Nhưng cả trên ghế xưng tội người ta cũng nhắc đến tên chàng, những người đàn bà quỳ gối, đầu cúi thấp, lẩm bẩm nhắc tên chàng từ sau cuốn kinh cầu, họ đấm ngực thề thốt sự ăn năn hối lỗi. Và tất cả đều vui mừng, như thể một điều gì đó tốt lành đã xảy ra ở Venice, và ở khắp nơi cái tin ấy đi qua, trong những thành phố và làng mạc của Nước Cộng hòa.
Người ta ngủ, và trong giấc mơ họ mỉm cười. Tin tức đi tới đâu người ta cũng đóng kín cửa ra vào và cửa sổ cẩn thận hơn vào ban đêm, và sau những rèm cửa đóng, đàn ông trò chuyện mãi với phụ nữ. Cứ như tất cả mọi cảm xúc hôm qua đã chỉ còn là tro than, nay bỗng bắt đầu bốc lửa. Chàng không thôi miên lũ bò, nhưng những người chăn nuôi bò cả quyết năm nay số bê sinh ra nhiều hơn và đẹp hơn. Những người đàn bà thức dậy, mang nước giếng về trong những bình gỗ phình rộng về phía đáy, nhóm lửa trong bếp, hâm nóng sữa và bày hoa quả lên khay sơn, cho con bú, dọn ăn cho chồng, dọn dẹp phòng ngủ, trải giường và giữa chừng cứ mỉm cười. Nụ cười mãi không biến khỏi những gương mặt ở Venice, ở Tirol, ở Lombardia. Nụ cười cứ lan truyền như một thư dịch bệnh tinh tế và nhẹ nhàng, qua biên giới, cả ở Munchen người ta cũng đã biết, đã đợi và mỉm cười, và tin này cũng đã tới Paris, người ta kể câu chuyện tẩu thoát của chàng cho Đức Vua nghe trong vườn Con Hươu, và
Ngài cũng cười. Và người ta biết tin này ở cả Parma, ở Torino, ở Wien và Moscow. Và ở đâu người ta cũng mỉm cười. Các viên cảnh sát và chánh án, mật vụ, điệp viên và tất cả những người chuyên nghề kìm hãm dân chúng bằng quyền lực và nỗi sợ hãi, đều bắt đầu công việc với sự nghi kỵ và tức giận trong những ngày này. Vì không có gì nguy hiểm hơn một con người, kẻ không chịu khuất phục sự chuyên quyền, bạo ngược.
Họ biết chàng không có gì, chỉ vỏn vẹn một con dao găm; nhưng trên các tuyến biên giới mấy tuần nay sự phòng vệ đã được củng cố. Người ta biết chàng không hề có đồng minh và không quan tâm đến chính trị, nhưng ngài tổng thư ký của Tòa Pháp đình vẫn soạn thảo ra cả một kế hoạch tác chiến, để đến một lúc sẽ tóm được chàng, lừa chàng vào cũi, sống hay chết, bằng vàng bạc hay bằng đoản kiếm, bất kể cách nào có thể. Ông Tổng trấn được thông báo về cuộc đào tẩu của chàng, con người có cặp mắt sắc, dáng người thấp lùn ấy đập bàn tay đeo nhẫn lên mặt bàn và hứa sẽ dành cho đám cai ngục kiếp nô lệ chèo thuyền. Các nghị sĩ dùng bàn tay vàng vọt nuột nà kéo sát hơn các dải buộc hai tà áo lụa trước ngực, ngồi câm lặng trong phòng lớn, trong những chiếc ghế bành, hít thở không khí qua chiếc mũi vàng ệch do bệnh tiểu đường, liếc nhìn những bức tranh chạy vòng tròn trên trần nhà và những dầm gỗ chính trong phòng nghị sự qua mi mắt khép hờ bằng cái nhìn vô cảm, bỏ phiếu thông qua những đạo luật nghiêm ngặt hơn nữa, họ nhún vai và im lặng.
Nhưng nụ cười lây lan như một cơn sốt, vợ gã làm bánh mì, em gái tay thợ kim hoàn, cả con gái viên Tổng trấn đều nhiễm phải. Còn lại một mình trong những căn phòng đã cẩn thận
đóng kín cửa, người ta cứ ôm lấy bụng mà cười. Có một cái gì đó cực kỳ khích lệ trong cái tin này, một người nào đó đã vượt qua nổi những bức tường dày hàng mét, qua mặt bọn lính gác lăm lăm tay đao tay thương, qua những vòng xiềng xích to bằng cổ tay trẻ con. Rồi người ta đến các cửa hiệu, ra ngoài quảng trường chợ, nhâm nhi vang Verona trong các quán rượu, những kẻ cho vay nặng lãi cân vàng cám trên những chiếc cân tinh xảo, đám dược sĩ trộn thuốc xô và bùa yêu, độc dược mạnh tán thành bột để giấu dưới viên đá của nhẫn có triện nổi, dân chợ bụng phệ giạng chân ngôi bán cá, bán hoa quả, thịt tươi và các loại rau thơm trên các bàn thấp tè ngoài chợ, đám người buôn đồ mốt xếp các tất dài phụ nữ mới nhập về từ Lyon và những chiếc nịt vú đan ở Bruges vào những chiếc hộp da được ướp phấn hoa, trong khi làm việc và tán gẫu, trong lúc buôn bán và thừa hành công vụ, tất cả đều quay đi một thoáng, đưa tay lên che miệng và tủm tỉm cười.
Đàn bà thì cảm thấy cú đào tẩu và tất cả những gì đã xảy ra có một chút gì đó như cũng đã diễn ra vì họ. Họ không thể giải thích chính xác cảm giác này, nhưng họ là đàn bà và là người Venice không phải để tranh cãi với những cảm giác, và họ chấp nhận cái lý do câm lặng mà con tim họ, dòng máu và cảm thức trong người rủ rỉ vào tai họ. Họ cũng sung sướng vì chàng đã trốn thoát. Cứ như có một sức mạnh, cho tới lúc này vẫn bị kìm hãm trong xiềng xích, đã được giải thoát trong thế giới, cứ như từ cổ tích và huyền thoại, từ những cuốn sách và hồi ức, từ giấc mơ và nỗi bức xúc, là nội dung bí mật, bất thành văn và khiêm nhã khác, nhưng vẫn là nội dung đích thực và đáng sợ của cuộc sống đàn ông và đàn bà, một ai đó đã bước ra, không có tóc giả
và son phấn, trần trụi như cách mà chỉ một nạn nhân bước ra từ cuộc đối đầu tay đôi cau có của buồng tra khảo, và những người đàn bà nhìn theo chàng, đưa tay và quạt lên che mắt, đầu hơi nghiêng sang bên, không nói một lời, nhưng con mắt họ mơ màng liếc nhìn theo kẻ đào tẩu, con mắt ấy nói: “Được, được lắm.” Vì thế mà họ mỉm cười. Và trong vài ngày, cái thế giới nho nhỏ mà họ sống như tràn đầy sự dịu dàng. Tối tối họ đúng bên của sổ và trên ban công, trên vịnh biển, mái tóc gài tấm voan ren cài lên chiếc lược hình cây đàn lia và vai phủ chiếc khăn lụa mỏng, họ nhìn xuống mặt nước bẩn váng dầu và những con thuyền vô tư nhẹ lướt trên mặt nước, và họ đáp lại một ánh mắt mà nếu là ngày hôm qua thì họ không đáp lại, họ buông rơi một chiếc khăn tay, một bàn tay nâu sạm nhanh nhẹn bắt lấy ở phía dưới, sát ngay mặt gương nước, họ nâng lên môi một nhành hoa, và mỉm cười. Rồi họ đóng cửa sổ, và trong các căn phòng ánh sáng vụt tắt. Nhưng trong những con tim, trong từng cử chỉ, trong mắt những người phụ nữ và trong tia nhìn của đàn ông những ngày này vẫn thấp thoáng một điều gì đó. Cứ như thể một ai đó đã phát ra tín hiệu, rằng cuộc sống không chỉ là quy định, cấm đoán và xiềng xích như cho đến lúc ấy họ đã từng tin. Và trong một khoảnh khắc họ hiểu tín hiệu được phát ra, và họ cùng mỉm cười.
Sự đồng lõa này không kéo dài: những bộ luật, những quy tắc sống thành văn và bất thành văn đã làm cho ký ức về kẻ trốn chạy sớm bị quên lãng trong những con tim. Sau vài tuần lễ ở Venice người ta đã quên. Chỉ còn ngài Bragadin - người che chở tốt bụng và hiền lành - là còn nhớ đến chàng, và vài người đàn
bà mà chàng đã hứa sẽ chung tình mãi mãi, mấy tay cho vay nặng lãi và đám con bạc mà chàng còn mắc nợ.
Một người đàn ông
Chàng đã trốn thoát như thế, tin tức đã bay đi trước chàng như thế, và một dạo người ta đã nhớ đến chàng như thế ở Venice. Nhưng rồi thành phố có những mối lo âu khác, và nó quên đi đứa con ngỗ nghịch của mình. Vào giữa dịp lễ hội hóa trang, ai ai cũng đã nói về một bá tước B. nào đó, mà người ta thấy bị treo cổ trước nhà ông Đại sứ Pháp - đeo mặt nạ và mặc áo khoác hóa trang. Vì Venice cũng là một đô thị vô ơn.
Và giờ đây chàng đang ngủ ở Bolzano, trong một phòng của quán trọ Con Hươu, sau những ô cửa sổ khép kín; và vì đã mười sáu tháng nay, bây giờ mới là lần đầu tiên ngủ trên một chiếc giường thật, trong an bình, sạch sẽ và thoải mái, chàng thả mình vào niềm hạnh phúc sâu thẳm của giấc mơ. Chàng nằm ngang giường, tóc xõa, chân tay dang rộng, ngủ say sưa, vô tư, trên môi thoáng một nụ cười khinh thị và mệt mỏi, như thể chàng cảm thấy rằng có người đang dõi theo mình qua lỗ khóa.
Và đúng là có người nhìn, và chuyện xảy ra thế này: đầu tiên là Teresa nhìn, cô bé mà ông chủ quán trọ gọi là con, và cô đóng vai trò một con ở họ hàng xa trong nhà. Cô gái đã lớn, và theo họ hàng cô có thân hình cân đối dễ coi, nhưng cô hơi đần. Mọi người không hay nói đến chuyện này. Teresa, vừa là người họ hàng, vừa là người ở, cũng ít nói. Con bé đần, họ bảo thế, nhưng cũng không giải thích tại sao, vì với Teresa thì chẳng cần, cũng không ần quan tâm nhiều đến nó, vì trong nhà này nó không bằng con lừa trắng mà sáng sáng người ta đóng vào xe cho nó kéo xe ra chợ, vì cô là người họ hàng sống như cái bóng trong nhà, là người của tất cả mọi người, vì thế chẳng ai quan tâm đến
cô và cũng chẳng trả lương cho cô. Con bé đần, họ bảo thế, và trên hành lang tối đám lính tráng và các thương gia ở trọ thường véo má, nắm tay cô. Gương mặt cô có một vẻ hiền dịu, và quanh miệng cô có một nét nguyên sơ nào đó, và bàn tay cô, bàn tay lúc nào cũng đỏ vì giặt giũ, có một vẻ gì đó quý phái, và đôi mắt cô như một câu hỏi, thầm lặng và sùng kính, và không thể trả lời câu hỏi ấy, nhưng cũng không thể né tránh nó. Dĩ nhiên cả con người cô, cả khuôn mặt thon dài hình trái tim, cả đôi mắt như một câu hỏi cũng không đáng để người ta nói nhiều về cô.
Nhưng lúc này cô đang quỳ trước lỗ khóa, nhìn người đang ngủ, chỉ vì thế mà ta nói đến cô. Hai tay cô đặt lên thái dương để nhìn cho rõ hơn, cô chú ý bằng cả cái lưng mềm và eo hông đậm, cứ như cả cơ thể cô đang rình mò qua lỗ khóa. Những gì cô nhìn thấy không có gì đặc biệt thú vị. Teresa đã nhìn thấy bao điều qua lỗ khóa; cô đã hầu hạ ở quán Con Hươu này bốn năm, từ khi mới mười hai, đã lắng nghe, đã mang bữa sáng vào các phòng, trải giường buổi sáng và buổi tối, những chiếc giường mà đàn ông và đàn bà đã nằm chung và nằm riêng. Cô đã thấy nhiều điều và không ngạc nhiên vì điều gì. Cô hiểu con người ta là như thế: phụ nữ ngồi trước gương rất lâu, và đàn ông, kể cả những quân nhân, đều rắc phấn lên tóc giả, hay cắt và đánh bóng móng tay, rồi họ rên lên hay cười lớn, hoặc khóc, hay dùng nắm tay đấm vào tường, hoặc lục tìm quần áo hay thư từ, và nhỏ lệ xuống những vật vô tri ấy. Qua lỗ khóa, khi có một mình trong phòng, người ta thường như thế. Nhưng con người này không thế. Đến giờ ông ta vẫn ngủ, tay dang ra trên chiếc giường rộng, cứ như người đã bị giết chết. Gương mặt nghiêm
và xấu. Một gương mặt đàn ông, không đẹp và không dễ coi, cái mũi to dày, đôi môi mỏng và khắc kỷ, cằm nhọn, hung hãn, vóc dáng bé nhỏ và hơi phệ bụng, vì mười sáu tháng ngồi tù ông đã béo ra do giam hãm và bất động. Thật là khó hiểu, Teresa nghĩ. Cô suy nghĩ một cách khó khăn, chậm chạp và đơn điệu. Hoàn toàn không thể hiểu, cô nghĩ, hồi hộp đến đỏ mặt tía tai: đám phụ nữ thích ông ta ở điểm gì?... Vì ban đêm, trong phòng uống và sáng ra, ngoài chợ và khắp nơi trong thành phố, trong các cửa hiệu và tửu quán người ta chỉ nói về chàng, về việc chàng đã đến, rách rưới và máu me, với một con dao găm, không tiền bạc, cùng với thư ký của chàng, một tù phạm khác; tốt hơn cả là không nên nhắc đến tên. Nhưng rồi họ vẫn nhắc đến. Họ nhắc đến chàng khá nhiều, đàn bà và đàn ông, họ muốn biết tất cả, chàng bao nhiêu tuổi, tóc vàng hay nâu, giọng chàng thế nào?... Họ nói về chàng như một ca sĩ danh tiếng hay một diễn viên nhào lộn đã đến thành phố, hay một nghệ nhân đã hoạn, chuyên đóng các vai nữ trong các vở kịch và còn biết hát nữa. Ông ta biết những gì?... Cô bé vừa nghĩ, vừa dán mũi vào cánh cửa và ghé mắt vào sát lỗ khóa.
Người đàn ông dang tay dang chân nằm ngủ trên giường kia không đẹp. Teresa nghĩ đến Giuseppe, anh thợ cắt tóc, anh ta đẹp. Giuseppe có gương mặt hồng hào, cặp môi mềm, mắt xanh, nom anh ta giống một cô gái. Anh hay vào quán trọ Con Hươu, bao giờ anh ta cũng nhìn xuống và đỏ mặt khi Teresa chào. Cả ông đại Úy thành Wien hồi hè đã ở đây cũng đẹp, ông có mái tóc xoăn bôi sáp thơm và để ria mép, ông nói thứ tiếng không thể nào hiểu nổi, một thứ tiếng lạ, hoang dã mà Teresa không biết. Sau này có người bảo cái thứ tiếng hoang dã mà ông đại úy nói
là tiếng Hung hay tiếng Thổ... Teresa không nhớ nữa. Và ông giám mục cũng đẹp, với mái tóc trắng và hai bàn tay vàng, ngang lưng thắt đai đỏ và chiếc mũ tím trên mái đầu trang. Teresa nghĩ dẫu sao cô cũng hiểu biết đôi chút về vẻ đẹp đàn ông. Người đàn ông này chắc chắn không đẹp: còn xấu thì đúng hơn, hoàn toàn khác những người đàn ông mà phụ nữ thường thích. Trên gương mặt không cạo râu của người đàn ông lạ đang ngủ kia giờ đây càng lộ ra những nét thô và lạnh mà tới qua cô bé cũng đã nhận thấy: quanh miệng chàng các cơ như co rúm lại vì căng thẳng. Bỗng nhiên người đang ngủ hộc lên một tiếng, và Teresa vội nhảy dựng lên khỏi cửa, cô lại gần cửa sổ, kéo rèm lên và dùng chiếc khăn lau làm hiệu.
Vì đám phụ nữ muốn nhìn thấy chàng, đám phụ nữ ngoài chợ bán hoa quả trước quán Con Hươu; Teresa đã hứa với Lucia và Gretel, những cô gái bán hoa, và với bà già Helena bán hoa quả, và với bà quả phụ buồn Nanette bán tất phụ nữ là sẽ cho họ lên phòng, và cho họ xem con người đang ngủ kia qua lỗ khóa, nếu có thể. Họ muốn nhìn thấy chàng bằng mọi giá. Chợ hoa quả sáng nay nhộn nhịp hẳn, lão dược sĩ đứng trước cửa hiệu đối diện với quán Con Hươu, và đang trò chuyện với Balbi, viên thư ký, lão mời ông ta rượu mạnh, và muốn biết những tình tiết mới nhất của vụ đào tẩu. Ông thị trưởng và ông bác sĩ, nhân viên thu thuế và ông chánh cảnh sát, tất cả đều rẽ vào hiệu thuốc sáng hôm ấy, họ nghe bài diễn thuyết của Balbi, liếc mắt về phía cửa sổ đóng kín trên gác của quán trọ Con Hươu, tất cả đều hơi hồi hộp và lúng túng, như thể họ không biết quyết định nên chào đón người khách lạ bằng rước đèn và dạ nhạc hay đơn giản là tống cổ chàng ra khỏi thành phố như người đi bắt chó lạc
trói và vứt đi những con chó ghẻ, chó bị nghi là mắc bệnh dại. Sáng hôm ấy và cả mấy ngày sau họ không quyết nổi vấn đề này. Vì vậy mà họ cứ chuyện vãn trong hiệu thuốc, nghe Balbi - đúng là đã phồng mũi lên vì kiêu hãnh và hăng hái -, cứ sau nửa giờ lại kể theo một cách khác những tình tiết của cuộc tẩu thoát phiêu lưu, đến lúc này đã mang tính sử thi. Người ta liếc nhìn những ô cửa sổ đóng kín của quán trọ Con Hươu, đi lại giữa các lều trong chợ hoa quả và trước các cửa hiệu nhỏ xinh của các ngôi nhà xung quanh với vẻ bất an và lúng túng, như những công dân hữu trách phải ứng xử cho phải phép, những người giữ gìn trật tự của các ngôi nhà, phố xá và những tâm hồn, có trách nhiệm với cửa ngõ của thành phố, bảo vệ thành phố khỏi sự tấn công của lửa, của nước và của bọn thù địch. Nhưng lúc này họ hoàn toàn không biết nên cười to một tiếng hay nên gọi cảnh sát? Họ cứ đi vòng và chuyện gẫu tới trưa, chẳng biết nên thế nào. Tới khi các bà phụ nữ bắt đầu thu dọn lều, và đám thị dân đi ăn trưa.
Người khách lạ thức dậy vào giờ này. Teresa cho đám phụ nữ vào salon sáng lờ mờ. - “Cho chúng tớ xem ông ta thế nào?...” - đám phụ nữ thì thào, tay vân về mép tạp dề, một tay nắm đưa lên che miệng; tất cả đứng thành nửa vòng tròn, trước cánh cửa dẫn vào buồng ngủ. Họ vừa sợ vừa thích thú, và chỉ muốn ré lên như người bị véo vào mạng sườn. Teresa đưa ngón trỏ lên ngang miệng, đầu tiên cô cầm tay Lucia - người đẹp mắt nâu múp míp của chợ - và dẫn đám người tò mò đến sát cửa. Lucia quỳ xuống, váy cô xòe ra trên nền nhà như một cái chuông, cô ghé mắt trái vào lỗ khóa, rồi cô đỏ mặt hét lên nho nhỏ, đứng dậy và làm dấu thánh.
- Mi đã nhìn thấy gì thế? - cả bọn thầm thì hỏi, và chụm đầu lại thì thào, như lũ quạ sà xuống đậu trên một cành cây.
Cô gái mắt nâu suy nghĩ.
- Một người đàn ông, - cô nói nhỏ và hồi hộp.
Câu trả lời làm đám phụ nữ đăm chiêu một lúc. Trong câu nói có một cái gì đó vừa ngốc nghếch, nhưng đồng thời cũng có điều gì đó bất thường và đáng sợ. “Một người đàn ông, lạy Chúa!” - họ nghĩ, mắt nhìn lên trần nhà và không biết nên cười hay bỏ chạy?... “Một người đàn ông, thì đã sao!” - Gretel nói. Và bà già Helena, vỗ hai bàn tay vào nhau bằng một cử chỉ gần như sùng kính, cái miệng khuyết răng của bà lập bập xác nhận: “Một người đàn ông!” Và Nanette, bà quả phụ, nhìn xuống nền nhà thành tâm như nhắc lại: “Một người đàn ông.” Họ cứ lẩm bẩm thế, rồi khúc khích cười, lần lượt quỳ sát cái lỗ khóa, nhòm vào buồng, và cảm thấy hết sức khoái chí. Họ có thể vui vẻ nâu cà phê và ngồi xuống, với bình cà phê trong lòng, quanh chiếc bàn chân mạ vàng, và cứ thế đợi người đàn ông xa lạ, trong nỗi hồi hộp bất nhã đầy nghi lễ và tinh tế. Họ hãnh diện, con tim đập mạnh vì đã nhìn thấy người khách lạ, sẽ có chuyện để kể ngoài chợ và trong thành phố, ở nhà và ngoài giếng nước! Họ tự hào, nhưng cũng hồi hộp bất an, đặc biệt là Nanette, bà quả phụ, và Lucia, cô bé tò mò, và cả Gretel, cô gái kiêu hãnh và ngốc nghếch cũng cảm thấy bất an, cứ như thể có điều gì khác thường và kỳ diệu trong việc một người đàn ông đã đến thành phố. Họ cảm thấy sự hồi hộp tò mò và sự ngây thơ tinh nghịch của mình thật ngớ ngẩn và vô cớ. Nhưng cùng lúc họ cũng cảm thấy rằng thực chất sự hồi hộp này cũng khác, nó không chỉ là sự hiêu kỳ
khiếm nhã. Cứ như đúng là họ đã nhìn thấy một người đàn ông, qua lỗ khóa, cứ như thể các đang ông chồng, đám tình nhân và những người đàn ông xa lạ mà tới lúc này họ đã quen, trong khoảnh khắc họ nhìn thay người khách lạ, đã trải qua một kỳ sát hạch đặc biệt. Cứ như người đàn ông đúng là của hiếm và đáng xem, người kia không đẹp, đúng hơn là xấu, các nét không thanh tú, dáng dấp không cao sang, người mà họ không biết điều gì ngoài việc biết chàng là một tên vô lại, người hùng của những quán rượu, một gã ga lăng của các sòng bạc, kẻ không có hành lý, và tên tuổi cũng đáng ngờ, cứ như ngay cả tên tuổi cũng không hẳn và thực sự của ông ta, người mà thiên hạ đồn đại như đồn dại về những tay hám gái, trắng trợn, tự tin và lạnh lùng với phụ nữ: cứ như tất cả hiện tượng này dù sao cũng hy hữu vậy. Họ là đàn bà và họ cảm thấy điều gì đó. Cứ như những người đàn ông mà cho tới giờ họ đã biết bị phơi bày tất cả khi đối chứng với người đàn ông này. “Một người đàn ông,” - Lucia nói, khẽ khàng, hồi hộp và sùng kính; và họ cảm thấy cái tin bay đi trên phiên chợ Bolzano, trong các salon ở Trient, các phòng thay đồ trong nhà hát và các buồng xưng tội, cái tin bay đi và làm rung động những con tim, rằng một người đàn ông đang trên đường, đang chuẩn bị, và trong giây phút này chàng đang tỉnh dậy, vừa ngáp dài vừa gãi gãi, trong một căn phòng của quán trọ Con Hươu. “Một người đàn ông hiếm hoi vậy sao?” - những người đàn bà Bolzano hỏi từ sâu thẳm trái tim mình. Họ không hỏi thành lời, chỉ bằng cảm giác. Và một nhịp đập của trái tim, không thể nhầm, là câu trả lời. Nó đáp: “Đúng, hiếm có nhất.”
Vì đàn ông - người ta cảm thấy thế, bằng trái tim u mê và thổn thức - những người cha, người chồng và người tình, thích
hành xử như đàn ông, thích tuốt gươm, khoe chức danh, phẩm hàm và tài sản, và tất cả đều bám váy đàn bà; họ đã như thế, nhìn chung là như thế, ở Bolzano và ở những nơi khác, nếu có thể tin vào các tin tức. Nhưng tiếng tăm của người đàn ông này khác. Đàn ông thích hành xử kiêu ngạo, đôi khi họ gần như gáy lên vì ngạo mạn và khoác lác, đến nực cười như những chú gà trống. Nhưng đa số đàn ông buồn và trẻ con, hay ngốc nghếch và tham lam, hoặc hời hợt, lạnh lùng và điếc lác. Giờ đây họ cảm thấy rằng Lucia đã nói ra sự thật, và đúng là họ đã nhìn thấy một người đàn ông, người đàn ông đích thực và bướng bỉnh, và chỉ có thế, không là gì khác, giống như một cây sồi, chỉ là sồi chứ không là gì khác, và một mỏm đá hoàn toàn đơn giản chỉ là một mỏm đá, chứ không là gì khác. Họ đã hiểu điều này và tròn mắt nhìn nhau, há miệng chăm chú nhìn và đăm chiêu suy nghĩ. Họ đã hiểu vì Lucia đã nói ra, và vì họ đã tận mắt nhìn thấy, và vì cả căn phòng, ngôi nhà và thành phố đầy sự căng thẳng và nỗi lo lắng tỏa ra từ con người xa lạ này, họ hiểu ra rằng một người đàn ông đích thực cũng hiếm có như một người phụ nữ đích thực. Một người đàn ông không ồn ào khẳng định một điều gì, không tuốt gươm âm ĩ, không gáy lên ông ổng, và không đòi hỏi sự dịu dàng nào khác, chỉ đúng như điều chàng có thể mang lại, và không tìm người mẹ và người bạn trong đàn bà, không muốn ẩn náu trong vòng tay của tình yêu và sau váy phụ nữ; một người đàn ông chỉ muốn cho và nhận, không vội vàng, không tham lam, vì chàng đã dành cả cuộc đời, tất cả thời gian của chàng, tất cả mọi tia sáng của trí tuệ chàng, tất cả mọi cơ bắp của thân thể chàng cho sự đam mê cuộc sống: loại đàn ông như thế là hiếm thấy nhất. Vì có những người đàn ông bám mẹ và
yếu đuối, có những người khoác lác và hùng hổ phóng đại những cảm xúc của mình với phụ nữ, và có những đàn ông lãnh cảm và ngờ nghệch - tất cả đều không phải là đàn ông đích thực. Và có những gã điển trai không quan tâm đến phụ nữ, chỉ để ý đến vẻ đẹp và thành công của bản thân. Lại có những kẻ độc ác lại gần phụ nữ như tiến lại kẻ thù, họ giống bọn sát thủ miệng cười tươi như mật ngọt, nhưng dưới cánh áo choàng đã thủ sẵn dao găm. Và thỉnh thoảng, rất ít khi, có một người đàn ông. Giờ đây họ đã hiểu ra cái tin tức đã bay đến trước chàng, đã hiểu sự lo ngại tràn ngập thành phố, họ chớp chớp mắt, thở dài, thở hổn hển, đưa tay lên áp lên ngực. Nhưng bỗng Lucia hét lên, và tất cả lùi ra phía cửa. Vì cửa phòng bật mở, và giữa những cánh cửa lớn màu trắng, chàng đứng đó: thấp lùn, tóc rối bù, râu ria không cạo, lưng hơi gù, con mắt vằn đỏ hấp háy trong ánh sáng mạnh, chàng hơi cúi như người quá mệt mỏi, rồi thẳng người lên như sắp nhảy một bước; người đàn ông xa lạ đang đứng đó.
Thức dậy
Đám phụ nữ lùi lại phía bức tường và phía cửa ra vào. Người đàn ông nghiêng mái đầu bù xù sang bên - trên tóc chàng dính những chiếc lông nhồi gối, nom như người vừa từ hội hóa trang đi ra, từ lễ hội ngầm của giấc mơ và của đêm, nơi những mụ phù thủy quay các vũ công thiện nghệ trong hắc ín và lông chim chàng nháy mắt, bằng tia mắt sắc lẹm liếc nhìn căn phòng, đồ gỗ, chàng từ từ thoải mái quay đâu, như người chẳng đi đâu mà vội, và như người biết rằng tất cả đều quan trọng như nhau, vì tất cả chỉ quan trọng bởi cảm giác mà chúng ta nhìn nhận thế giới. Bây giờ chàng đã nhìn thấy đám phụ nữ, và mắt chàng
nheo lại gần như nhắm hẳn. Chàng đứng đó trong một khoảnh khắc với đôi mắt nhắm lại. Rồi chàng nghiêng đầu, ánh mắt như dò hỏi, kiêu hãnh và dứt khoát, như cung cách một chủ nhân ông nhìn đám gia nhân - ông chủ thật sự nhìn đám gia nô thật sự, những người mà chàng không coi họ là thấp hèn, mà vì họ chấp nhận vai trò nô dịch của mình chàng nhìn đám phụ nữ với ánh mắt như thế. Rồi chàng ngẩng đầu, như hơi cao hơn lên. Bằng một động tác mạnh mẽ, chàng vung cánh tay ngắn, bàn tay xương xẩu màu vàng vắt dải áo choàng lên vai trái. Một cử chỉ cao ngạo và kịch tính. Đám phụ nữ cảm nhận được điều này, và dường như được giải thoát khỏi sự mê hoặc của những giây phút đầu tiên, vì bằng động tác kia người đàn ông đã để lộ ra rằng ông ta không hoàn toàn tự chủ, ông ta đã thủ một vai diễn tồi, giả vờ mạnh mẽ và sang trọng: họ bắt đầu hắng giọng và khúc khích. Nhưng không một ai lên tiếng. Họ cứ đứng như thế một lúc, im lặng và bất động, chằm chằm nhìn người khách lạ.
Người đàn ông lúc này, không một sự chuyển tiếp, bật cười, như thể hắt hơi một cái. Cái cười khan không tiếng vang, đúng hơn là cười bằng đôi mắt mở to và tỏa sáng, như trong một căn phòng tối cửa sổ bỗng bật mở. Thứ ánh sáng phấn khích và sống sượng, chói lóa và bất nhã, hiếu kỳ và tin cậy ấy đã tác động tới đám phụ nữ. Lần này thì họ không cười, không kêu lên. “A ha!”, không nói: “Hô hô!” cũng không mỉm cười và khúc khích: “Hi hi!” Họ im lặng nhìn người đàn ông. Lucia hơi liếc mắt, nhìn lên trần nhà, như muốn cầu xin sự giúp đỡ, và cô lẩm bẩm: “Mama mia”? Nanette đan hai tay vào nhau bằng một cử chỉ như van xin. Người đàn ông cũng im lặng và cười, để lộ những chiếc răng vàng khè, hơi to bản, hai hàm răng to khỏe, và đôi mắt, cái
miệng, hàng răng, gương mặt đều lặng lẽ cười, với sự vui vẻ biếng nhác, thoải mái và cố ý, cứ như không có gì tức cười hơn hoàn cảnh này, ở Bolzano, trong một căn phòng của quán trọ Con Hươu, lúc gần trưa, đối diện với đám phụ nữ hốt hoảng kia, những người đã vụng trộm lên đây rình xem chàng thức dậy để đưa chuyện về chàng trong thành phố và bên cạnh những giếng nước. Cái cười làm rung động nửa người phía trên của chàng. Chống hai tay lên cạnh sườn, nhẹ ngả người về phía sau, chàng cười như thế. Và cứ như có một cảm xúc đã đông cứng trong cơ thể từ lâu nay, bỗng tuôn trào và dòng chảy nóng bỏng của nó lan tỏa khắp thân thể chàng, một cảm xúc không sâu sắc, không hời hợt, cũng không bi ai, đơn giản chỉ nồng ấm và dễ chịu như cuộc sống: tiếng cười chuyển dần như bọt bóng sôi trào, thành âm thanh, dò dẫm rồi vụt lên thành tiếng lanh lảnh âm vang, rồi bỗng nhiên tràn ngập như một nhịp điệu lớn thường thấy trong cổ họng người ca sĩ. Và một tích tắc sau đó, hai tay đặt lên sườn, người ngả ra sau, chàng cười sảng khoái.
Tiếng cười rổn rảng đến ứa nước mắt, như bật ra từ lồng ngực, tràn ngập căn phòng, bay ra hành lang, bay ra ngoài quảng trường. Giờ đây, chàng cười như người chợt nhớ ra một điều gì đó, như người đã hiểu chuyện gì đã xảy ra, và mức độ đê tiện vô độ của con người kích thích cho chàng cười không thể cưỡng lại nổi. Chàng cười như người cuối cùng hồi tưởng lại, tỉnh dậy khỏi giấc mơ độc ác, nhìn thấy thế giới và nhìn không biết chán cái quang cảnh đáng sợ và nực cười của nó. Chàng cười như người chuẩn bị làm một việc gì đó, một trò tinh quái làm thế giới phải kinh ngạc, chàng cười như một thiếu niên, hết cỡ, như tiếng tru của loài sói, như chuẩn bị rắc bột ngứa vào áo ngủ
của những kẻ quyền thế, phong lưu, hảo hắn và cả vào áo nịt ngực của đám đàn bà, như thể chàng đang chuẩn bị làm một trò đùa định mệnh và động trời nào đó, như thể trong trạng thái phấn khích chàng sắp làm nổ tung thế giới. Hai tay chống vào mạng sườn, bụng rung lên từng đợt, ngực ưỡn ra trước, đầu nghiêng về một bên, chàng lắc lư cười đến khản cổ. Rồi tiếng cười biến thành tiếng ho, vì giữa đường chàng đã bị cảm hàn, và không chịu nổi độ cao trên này, gần những ngọn núi, trong tiết trời tháng Mười một. Chàng ho sặc sụa, mặt đỏ gay và méo xệch đi.
Khi đã hết ho, trạng thái phấn khích cũng qua đi, chàng bỗng thấy vô cùng tức giận. “Ôi, các nàng,” - chàng nói nhỏ, như rít lên sau hai hàm răng. Chàng khoanh hai tay trước ngực. “Ta thật lấy làm may mắn, thưa các đấng giai nhân!” Chàng cúi rạp mình, chào bằng cả chân tay, chàng diễn động tác kính trọng, như thể cúi chào các giai nhân trong cung đình nước Pháp vào buổi sớm trên các hành lang của Điện Versailles, khi Hoàng đế còn đang ngủ với cái bụng căng đầy hơi và gương mặt xám ngoét, và đám gia nhân vô sự tập thử với nhau nghi lễ của phép tắc xã giao vậy. “Thật may mắn cho tôi,” - chàng nhắc lại, - “một kẻ giang hồ! Một gã đào tẩu! Kẻ vừa mới trốn khỏi tù ngục, khỏi bệnh dịch và đám chuột cống, và đã một năm rưỡi nay chưa nhìn thấy những khuôn mặt thân thiện, những đường nét dịu dàng! Thật vinh hạnh và may mắn làm sao!” - chàng lịch thiệp, giọng như người nói đớt, đáng sợ. Đám đàn bà cảm thấy sự đe dọa trong giọng nói; họ đứng tụm lại như lũ gà mái gặp bão, từ từ lùi dần về phía cửa. Lucia tựa lưng vào tường dò tìm lối ra. Người đàn ông lúc này bước chậm rãi về phía họ, sau mỗi bước
lại dừng lại mấy giây. “Sao tôi lại có được may mắn này đây? - chàng tiếp tục, giọng vẫn khàn, nhưng mỗi lúc một vang to hơn. “Tôi phải biết ơn điều gì đây, khi buổi sáng thức dậy lại nhìn thấy những giai nhân của Bolzano trong phòng mình? Những người đẹp của Bolzano đem đến cho kẻ đào tẩu, lẩn trốn, đứa con bị bỏ rơi của nhân loại, kẻ đang bị bọn cớm chìm và lũ chó săn rượt đuổi qua biên giới, đang bị quân lính của Tòa án Giáo hội dùng giáo mác, đao thương truy lùng khắp các xò rừng, bờ bụi? Các người đẹp không sợ sẽ gặp kẻ trốn lủi đáng thương này trong lúc hắn đang bực mình, ngay buổi sáng đầu tiên hắn vừa được ngủ trên một chiếc giường xứng đáng với con người, chứ không phải trên đống rơm rạ và trong ổ chó hay sao? Các người không sợ hắn, giờ đây, khi hắn thức dậy và hồi tưởng hay sao? Các đấng giai nhân Bolzano muốn gì vậy?” - chàng hỏi, lúc này đã bằng giọng ầm ầm, giận dữ. Chàng vươn thẳng người dậy, và cứ như trong một khoảnh khác chàng bỗng trở nên đẹp ra. Gương mặt chàng đầy nỗi tức giận, như một cánh đồng trơ trụi bỗng sáng lóa dưới ánh sáng của một luồng tia chớp. “Nhưng ta là ai và là gì, để những người đàn bà Bolzano phải vụng trộm lẻn vào phòng khi ta ở đây, và làm môn khách của kẻ vô gia cư này?” Có vẻ như chàng thích thú tác dụng khẩu ngữ của mình, sự sợ hãi của đám phụ nữ, thế thượng phong và sự hành xử tự tin của mình. Giờ đây chàng đang đùa giỡn với đám đàn bà, như một kiếm thủ đùa giỡn với một đối thủ kém phần hơn, chàng tiến về phía họ từng bước một, và mỗi lời chàng nói vút nhẹ như ngọn kiếm lướt qua đám đàn bà. “Những người đẹp của Bolzano! Cô gái kiêu hãnh, mắt nâu kia! Cô nàng có cái nhìn đức hạnh, có dây hoa hồng trên áo kia! Cô ả có bộ ngực đẹp đứng sát góc kia!
Bà già, sao bà có cái nhìn hiếu kỳ thế? Hay chăng là một kẻ nuốt kiếm, ngậm lửa đã đến thành phố này, với đàn khỉ và lũ gấu, để các người tự do rình rập và nhìn ngắm con mãnh thú? Nhưng ở đây làm gì có cũi sắt, con dã thú đã thức dậy và đói khát!”
Chàng lại cười, tiếng cười giờ đây đã chua chát và cay đắng. “Các người từ đâu tới đây?” - chàng hỏi bằng một thứ âm thanh khác, lặng lẽ hơn, giọng nói đầy vẻ khinh thị. “Từ ngoài chợ? Từ quán rượu? Trong thành phố người ta đã kháo nhau rằng ta ở đây, bọn cớm chìm đã rình rập và đánh hơi, trong các salon và các chuồng gà nhà hát đám các bà các cô, và cả các người nữa ngoài chợ, đã đồn đại về ta ư? Họ nói ta đã tới, ta đang ở đây, sẽ có chuyện vui động trời! Thật vinh hạnh!” - chàng nhắc lại vô cảm, như phàn nàn. “Nào, hãy nhìn đi! Ta thế này đây! Lúc này ta mới thật là ta, không phải vào buổi tối với tóc giả, áo đuôi tôm màu tím, với kiếm đeo bên hông và nhẫn trên tay! Ta thế này đây, không đẹp hơn, cũng không trẻ hơn một chút nào! Có thích ta không?... Có cần đến ta không?... Ta có như danh tiếng của ta không? Các người muốn gì ở ta? Chúng ta hãy cùng đi trốn nhé, cả sáu người, hãy thuê xe nhé, đi cùng trời cuối đất, vì ta là Giacomo, người tình lang thang, kẻ nô lệ và đầy tớ của mọi người, chiều theo ý các người, các người muốn ta khi nào và ở đâu? Lũ gà mái, hãy cút đi!” - Chàng thét lên, giọng nghe thật kinh khủng, và đôi mắt sáng màu đen của chàng bắt đầu tỏa thứ ánh sáng xanh; ít nhất là sau này Lucia, vừa khóc vừa run rẩy, thú nhận như thế với chàng trong một đêm trên giường ân ái. “Ta đã bị những kẻ nhân danh đạo đức và tiết hạnh giam giữ suốt mười sáu tháng! Các người có biết thế nghĩa là gì? Mười sáu tháng, bốn trăm tám mươi tám ngày và đêm trên bao nhồi rơm,
trong sự thối tha cùng khổ của con người, làm mồi cho lũ rận rệp và bọ chó, cùng với lũ chuột cống, mười sáu tháng, bốn trăm tám mươi tám ngày trong tăm tối, không ánh mặt trời và không có ánh đèn thật, như lũ chuột trũi, chuột cống, đơn độc với tuổi trẻ, đơn độc với những dự định và khát khao đàn ông, một mình với những hoài niệm, những ký ức về cuộc sống, với những kỷ niệm về những lúc thức tỉnh đầy ánh sáng và những khi đi nằm ngọt ngào, một mình tách khỏi thế giới, nhân danh đạo đức và tiết hạnh, mà ta là kẻ thù - ít nhất là messer grande đã nói thế, khi ta bị bắt! Bốn trăm tám mươi tám ngày bị đánh cắp và xóa sổ khỏi cuộc đời, bốn trăm tám mươi tám đêm lẽ ra có thể nhìn thấy trăng và biển ngoài hải cảng, và những gương mặt người trong ánh đèn, và những gương mặt đàn bà trong giây phút đèn vụt tắt, chỉ còn ánh sáng phản hồi từ những con mắt tình nhân soi rõ mặt người!” Như một gã say, chàng nói rất to, như người từ lâu đã im lặng. “Sao các ngươi lại giật lùi?” - chàng kêu lên và dang rộng hai tay. “Vì chính ta đây! Ta đã đến đây! Này mụ già kia, sao ngươi phải nép vào bên cánh cửa, cô nàng kiêu hãnh và ngốc nghếch, mắt nâu kia, sao không lại gần ta? Hãy nhìn cánh tay này, cánh tay đã siết vòng eo của bao nhiêu đàn bà, những bàn tay mà ngươi muốn thấy đây! Ngươi có sợ những bàn tay này?... Chúng biết múa kiếm và đánh bạc, nhưng cũng biết xoa bóp nữa! Cô bé tóc vàng mềm mại kia, cô có biết những ngón tay này? Chúng nhận ra cả quân rô, quân tép trong bóng tối, nhưng những đầu ngón tay này cũng biết dịu dàng đến mức cô sẽ phải thét lên vì sự động chạm của chúng, và sau này khi răng đã rụng cô sẽ móm mém kể cho cháu chắt nghe về kỷ niệm của phút giây mà những ngón tay này bâu chặt vào ót cô! Hỡi các nàng
của Bolzano! Hãy đi khắp thành phố và kể rằng ta đã đến, ta đang ở đây vở diễn đã bắt đầu! Đã về đây - kẻ chuyên chạy theo váy đàn bà, kẻ an ủi phụ nữ, thày thuốc chữa những trái tim thất tình, người có árkánum5 cho những trái tim đau, người biết nấu món bí truyền cho người tình mệt mỏi dùng vào bữa trưa để tối đến người tình ấy lại trở nên hoạt bát và vui vẻ trên giường tình ái! Các người hãy kể ta nghe xem các người đã lẻn vào đây thế nào, các người đã tận mắt thấy ta đang ở đây, ta không bị tàn lụi đi trong ngục thất, cánh tay này, trái tim này, đôi vai này và những thứ khác, tất cả vẫn đầy đủ và đúng chỗ! Hãy đưa tin lành về ta, hỡi các nàng! Và hãy nói với cánh đàn ông trong những phút giây thầm kín nhất, khi các người cởi bỏ thắt lưng, buông rơi váy, hãy kể rằng Giacomo - kẻ bị kết án tù đày, bị đày xuống địa ngục và bóng tối nhân danh đạo đức và tiết hạnh - đã trở về, hắn đã hoàn lương, xin được tha thứ và khẩn nài sự cảm thông! Hãy xin sự ân xá cho ta, hỡi các giai nhân, từ những kẻ quyền thế, đức hạnh, những kẻ hoàn hảo đến mức dám và có thể kết án những người có tội! Vì ta là kẻ có tội, các người hãy đi đi và nói rằng Giacomo đã ăn năn hối lỗi. Ta có tội vì ta biết tất cả về đàn ông và đàn bà, và vì ta mang tiếng là quý trọng cuộc sống hơn tất cả! Hãy đi đi và kể rằng ta đã tới đây”.
Chàng lại gần cửa sổ, dùng hai tay mở tung những cánh cửa. Ánh sáng, ánh sáng tháng Mười một tràn vào căn phòng, lạnh lẽo và ào ạt như thác nước từ đỉnh núi Alps. Chàng đứng trong ánh sáng, dang rộng hai tay, nắm hai bên cánh cửa sổ, đầu ngả ra sau, gương mặt nhợt nhạt tắm trong ánh sáng, mắt nheo lại bởi những tia sáng và chàng cười.
- Các nàng hãy đi đi! - vẫn đứng yên, mắt nhắm, miệng mỉm cười, chàng nói với đám phụ nữ túm tụm trong góc phòng. - Hãy kể rằng ta đã đến. Địa ngục đã chấm dứt. Trời đang nắng.
Chàng hít một hơi thật sâu. Rồi chàng nói, lặng lẽ, giọng khấp khởi vui mừng, như thông báo một tin hy hữu nào đó với thế gian này:
- Ta đã thức dậy.
Chàng cứ đứng như thế, mắt vẫn nhắm, và không quay đầu về phía cửa, nơi những người đàn bà của chợ Bolzano đang nhón chân bước qua bậu cửa ra phía hành lang. Những bước chân phụ nữ rắn rỏi và mau mắn gõ nhịp xuống cầu thang. Chàng đứng yên nghe những tiếng động kia, không mở mắt, hé nửa miệng nuốt thứ ánh sáng lạnh, như người dù nhắm mắt vẫn biết và thấy tất cả những gì diễn ra trong phòng, rồi chàng nói với Teresa, cô gái cuối cùng còn lại trong phòng, cô đã bắt đầu rờ tay nắm cửa bằng bàn tay nhỏ, hồng hào, nhưng méo mó của mình.
- Cô em hãy ở lại đây!
Chàng nhấn mạnh giọng như vô tình, như người biết rằng không thể né tránh mệnh lệnh của chàng. Chàng chăm chú nhìn quảng trường, nhìn những ngôi nhà in hình sắc nét trong ánh nắng. Chàng thở dài nhè nhẹ, như người vươn vai trong giây phút thức giấc, lẩm bẩm, và cuối cùng tỉnh ngộ ra rằng mình còn có nhiều việc trong thế gian này, và không thể nào trốn khỏi những nghĩa vụ của ngày. Chàng nói, lơ đãng và thân thiện:
- Lại gần đây!
Thực hành
Chàng quay lại, bước nhanh tới chiếc ghế bành chân mạ vàng, bọc lóp vải lụa hoa đặt trước tấm gương lớn và chiếc lò sưởi, chàng ngồi xuống và vắt chân phải - từ đầu gối trở xuống to và nở nang giống như chân của những người phi ngựa và đi bộ nhiều - ngang qua phía trên đầu gối chân trái, tựa hai tay lên thành ghế, chăm chú nhìn kỹ cô gái. “Lại gần đây nữa,” - chàng nói nhỏ nhưng dứt khoát. - Lại hẳn đây.” Khi bằng những bước đi thong thả chậm rãi, cuối cùng cô đã đứng sát trước mặt, chàng nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn, đỏ hồng của cô nhẹ nhàng đưa lên cao, như kề phong tình xoay người bạn nhảy giữa một vũ điệu, hay như một tay thợ may xem xét một sáng tạo mới - bộ váy áo dạ hội -, mà một tiểu thư vừa mặc thử, một cách thân thiện và sành điệu, cánh tay chàng nhẹ nhàng vừa đưa đẩy, vừa quay cô bé một nửa vòng tròn.
- Tên em là gì? - chàng hỏi. Và sau khi Teresa nói tên mình:
- Em bao nhiêu tuổi rồi?
Nghe câu trả lời, chàng ậm ừ gật gật đầu tỏ ra suy nghĩ. “Tại sao,” - chàng nói, - “sao em lại cho đám phụ nữ lên phòng ta?” Rồi như không đợi câu trả lời, chàng tiếp tục ngay: “Người ta cứ tưởng, Teresa ạ, ta là một kẻ hư hỏng, ta cũng như tin đồn đại về ta. Ta chán không muốn xê dịch nữa. Con người trở nên nổi danh, vì thế giới của chúng ta nhỏ bé, giao thông đã tiến bộ khủng khiếp trong thời gian gần đây, dịch vụ thông tin gần như hoàn hảo. Người ta biết mọi chuyện, nhờ những tờ báo lá cải,
những kẻ thạo tin ngoài hành lang nhà hát, không còn bí mật nữa, đúng, đôi khi ta nghĩ: không còn cuộc sống riêng tư nữa. Vào thời ta còn trai trẻ, tất cả đều khác. Ngày nay Venice như một chiếc hộp thủy tinh, tất cả ngồi sau tủ kính, người ta lừa đảo, ăn cắp, nhậu nhẹt và làm tình công khai. Em đã đến Venice chưa? Rồi có lần ta sẽ đưa em đến, từ thứ Bảy đến thứ Hai.” - chàng nói như vô tình, lơ đãng. “Không, cô bé ạ, đừng tin dân Venice. Hãy nhìn vào mắt ta đây. Em có thấy ta buồn?... Bọn phao tin đã biến ta thành một nhân vật nực cười nào đó, một gã nổi danh ngoài chợ; hay tin ta đến, trong thành phố tất cả đám công tử bột và thám tử, những kẻ thuê sòng bạc và đàn bà, những kẻ sống nhờ những cô gái non nớt và vụng dại, đều bắt đầu dỏng tai nghe ngóng, những kẻ đứng vật vờ trên các lối đi dạo truyền nhau tên ta, từ các ban công và những thùng xe ngựa kéo, những con mắt dò la dõi theo ta, đám đàn bà cận thị đưa những cặp mắt kính gọng vàng lên mắt, và nghiêng đầu sang bên, lạc giọng nói: ‘A ha, hắn đấy ư? Thật đáng hổ thẹn!... Sao người ta chịu để hắn ở thành phố này? Hãy lật tẩy hắn ra!’ Các bà các cô nói thế đấy. Nào lại đây, cô bé. Hãy nhìn vào mắt ta đây. Em có sợ ta không?”
- Em không sợ, - cô gái nói.
Người đàn ông lạ ra chiều suy nghĩ, rồi nói:
- Điều đó chẳng hay đâu, - chàng nói hơi lúng túng.
Nhưng Teresa, cô gái vừa là hầu phòng vừa là họ hàng trong quán trọ Con Hươu, đúng là không còn sợ nữa. Lúc này, khi cô đứng đây, và để yên bàn tay mình trong bàn tay khác thường, cùng lúc vuốt ve và siết chặt, vừa ban tặng vừa chiếm đoạt của
người đàn ông xa lạ, có lẽ vẫn cần phải nói về cô. Vì cô là một cô gái chưa chồng bình thường, nhưng thỉnh thoảng quanh miệng cô xuất hiện một nét đặc biệt cuốn hút đàn ông. Cô mười sáu tuổi, như đã nói, cô biết những bí mật hôi hám của các căn phòng và gian buồng ngột ngạt của nhà trọ Con Hươu, cô dọn dẹp và trải giường, cô đổ nước rửa cho khách trọ, và cô có một chiếc váy vải màu xanh thẫm mà một thương gia Torino tặng, và một chiếc áo đầm khoét cô tay màu xanh nhạt của một nữ diễn viên già bỏ quên dưới đáy tủ trong một phòng trọ, và có một quyển sách kinh đóng bìa da tráng, có hình vẽ chân dung Thánh Anton thành Padova; và ngoài ra cô không có thứ gì khác trên đời. Đúng, cô còn một chiếc lược Venice nữa. Cô ngủ trên gác xép, phía trên các phòng của khách, gần buồng của Balbi, và quê nhà cô ở miền Nam Tirol, một làng nằm dưới chân một quả núi lớn, gần như bị đè đến nghẹt thở bởi cảnh sắc, bởi ngọn núi và nghèo đói. Vào một hôm cha cô xung vào lính trong quân đội của nhà vua xứ Naples, và ông không trở về. Teresa nhìn người lạ và cô không thấy sợ.
Nỗi sợ hãi, vào tối đầu tiên khi ông chủ quán trọ, thỉnh thoảng đánh cô, thỉnh thoảng lại gọi cô - cô cháu họ trẻ tuổi - tới giường người đàn ông góa vợ để hỏi chuyện này chuyện nọ, nỗi sợ hãi ngay sau khi vừa tới, cô nhìn thấy người đàn ông xa lạ lẩm bẩm và ngáy trong giấc mơ, giờ đây khi ông nắm tay cô, đã qua rồi. Cô hơi thẹn vì bàn tay đỏ lựng do giặt giũ và khuân củi, tay cô thô ráp như có vây, khô khốc vì gió, ở Bolzano gió không bao giờ ngừng thổi, và đôi khi Teresa đã tưởng mình chẳng bao giờ quen được chốn này. Vì vậy cô hơi ngại khi đưa tay mình cho một bàn tay đàn ông rắn chắc, nhưng vẫn mềm mại và sang
trọng, sự động chạm làm cô nhớ tới một làn da được chăm chút và lạnh. Nhưng sự tiếp xúc đã làm cô yên lòng. Đúng, bàn tay của người đàn ông, cái siết chặt của bàn tay này cùng lúc như muốn chiếm đoạt và ban tặng. Và từ lòng bàn tay lạnh và nhẵn chầm chậm truyền qua làn da, qua các mao mạch một sự nóng âm kỳ lạ nào đó, khác với cái nóng từ lò sưởi, thứ nóng ấm khác khi ta ngồi sưởi nắng. Sự ấm nóng này tràn ngập và lan tỏa, thỉnh thoảng như ngừng lại trong một khoảnh khắc, như khi người ta thổi tắt một ngọn nến, hay như khi một ngọn gió bất chợt dập tắt ngọn lửa đèn - đúng, cứ như thể có giông bão và gió giật quanh đâu đây. Rồi bàn tay đàn ông lại sưởi ấm. Teresa không còn sợ nữa. Cô không nghĩ ngợi điều gì. Cô chỉ thích nhất được nói chuyện với con chó nhỏ lông trắng có đôi tai nhọn của quán trọ Con Hươu trong khu vườn, cô chẳng thích trò chuyện với ai, và thích ngồi hàng giờ vào mùa hè và mùa đông trong một xó tối lờ mờ của nhà thờ, dưới bức tranh Đức Mẹ Đồng trinh, dưới bục giảng thánh kinh; những lúc như thế cô nhắm mắt và không nghĩ tới một điều gì. Thỉnh thoảng cô có nghĩ đến tình yêu, nhưng chỉ như người đánh cá nghĩ về biển cả. Cô biết tình yêu và không sợ nó.
Giờ đây, khi cuối cùng người đàn ông đã chạm vào cô - người lạ lịch lãm dùng hai ngón tay nâng tay cô lên, như muốn mời cô khiêu vũ và nghiêng đầu tựa vào lòng bàn tay cô -, Teresa cảm thấy cô là người mạnh mẽ hơn. Cảm giác này làm cô bất ngờ. Người lạ, theo mọi dấu hiệu, to lớn và sang trọng hơn, dù đến đây trong rách rưới; ngoài ra còn đứng tuổi hơn, già hơn Teresa nhiều; hơn nữa còn nổi danh và được đàn bà muốn nhìn thấy. Lẽ ra Teresa có đủ mọi nguyên cớ để sợ ông ta. Và ông ta còn hứa
sẽ đưa cô tới Venice, Teresa sợ những lời hứa, vì người đã hứa cũng tức là nói dối; chỉ những người trước đó im lặng không nói một lời mới thực sự cho một thứ gì đó. Và cô không biết đích xác, người đàn ông muốn gì ở cô... Vì những người khác thường hay véo hoặc vỗ vào mông cô, hay thầm thì vào tai cô những lời nóng bỏng, những điều dung tục khiếm nhã, hay van xin vụng về, những đề nghị thô lỗ, và mời cô vào phòng sau lúc nửa đêm, khi mọi người đã ngủ. Không, Teresa biết cánh đàn ông. Nhưng con người này không cấu véo, không gọi Teresa đi đâu và không nói những điều bất nhã. Ông ta chỉ nhìn, với gương mặt đượm chút lo âu, chăm chú như người đang suy nghĩ rất lung nhưng chưa nghĩ ra một điều gì đó: một cái tên hay một kỷ niệm, một điều gì đó hệ trọng và quyết định cả cuộc đời.
“Em không sợ ư?” - người đàn ông lẩm bẩm. Chàng kéo cô gái ngồi xuống đầu gối mình bằng một cử chỉ hết sức dịu dàng, lịch thiệp, nhưng dứt khoát. Teresa vâng chiều theo cử chỉ như một mệnh lệnh ấy. Cô ngoan ngoãn ngồi vào lòng người đàn ông lạ, hơi như ngồi làm khách ở một nơi nào đó không quen, để bất cứ lúc nào cũng có thể sẵn sàng chạy đi, nếu người ta rung chuông hay gọi cô đi đâu đó. Cả hai người đều thận trọng. Họ nhìn vào mắt nhau, rất chăm chú, người đàn ông hơi nheo mắt để nhìn rõ cô gái hơn, và dùng hai ngón tay xoay mặt cô về hướng ánh sáng. Cô gái để yên những cử chỉ ấy, như người tuân theo những động tác thiện ý của bác sĩ. “Mười sáu tháng,” - người lạ bình thản nói, - “ta không nhìn vào mắt một phụ nữ nào. Màu mắt em rất đẹp, Teresa ạ, đấy là màu của bầu trời Venice. Từ cửa sổ nhà tù thi thoảng ta nhìn thấy bầu trời, khi chúng đưa ta đi dạo ngoài hành lang. Trời xanh, màu xanh xám
đúng như thế này, màu xanh hơi lạnh như màu nước biển phản chiếu lên bầu trời. Trong mắt em có màu của những điều vĩnh hằng.” - chàng nói nhã nhặn. “Nhưng em không hiểu điều này đâu. Em hiểu hay không cũng chẳng quan trọng. Giữa chúng ta có một sự hiểu lầm nào đó, muôn thuở, giữa đàn ông và đàn bà, và bao giờ sau đó ta cũng thấy hổ thẹn, nếu đã nói nhiều với một người đàn bà. Hãy hôn ta đi!” - chàng nói một cách thân thiện và tự nhiên.
Và khi thấy cô gái không cử động, cô cứ nhìn chàng bằng ánh mắt xanh xám, trong vắt, chàng lại bảo: “Hôn ta đi! Em không hiểu ư?” - giọng chàng hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn dễ chịu. Sau này Teresa nhớ lại, với giọng nói như thế, chàng có thể đòi một cốc nước hoặc đơn giản chỉ là cho gọi Balbi lên vì chàng buồn. Chàng đã nói thật đơn giản và lãnh đạm: “Hãy hôn ta đi!” Nhưng Teresa còn chưa từng bao giờ hôn đàn ông; vì thế mà cô gái chỉ nhìn, cái nhìn như thủy tinh, dại khờ hơn là sắc sảo. Người đàn ông đưa một tay ôm ngang lưng cô, và chàng làm việc này bình thản như với tay lấy một cuốn sách hay một cái lược -, chàng hỏi, giọng chàng thân thiện và quan tâm:
- Em có cảm thấy gì không?
- Em không cảm thấy gì hết, - cô gái đáp.
- Em không hiểu, - chàng nói hơi bực mình. - Em không hiểu câu hỏi của ta. Ta không hỏi em cảm thấy gì liên quan tới cuộc đời, tới đàn ông, hay tới tình yêu. Chú ý đây, cô bé! Ta hỏi, em cảm thấy gì khi ta động chạm vào em, cảm thấy gì khi hai ngón tay ta cầm phía trên khuỷu tay em, cảm thấy gì khi ta đặt
tay ta lên trái tim em - thế này này - giờ đây em cảm thấy gì, trong giây phút này?...
- Thưa ông, - cô gái lễ phép nói, cô đứng dậy, cúi mình trước người lạ và bằng hai tay, như đôi khi cô vẫn nhìn thay người ta thường làm thế trong nhà ăn, cô hơi nâng hai bên mép váy trong khi cúi chào, - em chẳng cảm thấy gì hết.
Lúc ấy người đàn ông cũng đứng dậy, hai chân dang rộng, tay khoanh trước ngực, chàng đứng đó, đầu cúi xuống, mặt tối sầm lại, vẻ lúng túng.
“Không thể tin nổi!” - chàng hồi hộp nói, và lúng túng hắng giọng. “Không thể có chuyện em không cảm thấy điều gì, khi ta... Nào, hãy đợi đấy!” Bằng một động tác nhanh gọn, chàng ôm lấy cô gái, cúi xống gương mặt tươi trẻ của cô, đôi mắt thẫm màu của chàng rọi sáng xuống màu xanh nhạt phẳng lặng và bình thản trong đôi mắt thấp thoáng những tia nhìn hiền từ của cô gái. “Giờ cũng không ư? Cả khi nếu ta ôm em? Em không cảm thấy hơi thở nóng bỏng của ta sao? Bàn tay ta siết chặt bên sườn em sao?... Em không cảm thấy ta ở gần em như thế nào, em không thấy trong giây phút này chúng ta đã quen nhau, và ta mang lại cho em một món quà tuyệt vời, tặng phẩm của cuộc sống và ái tình?... Phải chăng giờ đây em đang run lên, sự run rẩy kỳ lạ chạy suốt cơ thể em từ đầu ngón chân lên tới trán, mà em chưa cảm thấy thế bao giờ, như thể giờ đây em biết mình đang sống, vì thế mà sống, vì thế mà em đã chào đời?” Và khi không thấy câu trả lời: “Nào, sẽ thế nào đây?” - chàng hỏi không mấy tự tin. Và chàng buông cô gái, nhẹ nhàng đưa tay lên trán, vẻ lúng túng nhìn quanh.
Vì cô gái đang đứng đối diện, cách chàng có một bước chân kia, cô gái nhỏ bé, chăm chút qua loa, ăn mặc xuềnh xoàng và để chân trần kia - con mèo nhỏ của quán trọ, theo chàng biết, và nếu muốn thành thục, chàng thú nhận, chàng chỉ biết điều đó và có chừng nay - cô gái này, không cần khẳng định, đúng là không cảm thấy gì trong giây phút ấy. Người đàn ông hắng giọng bối rối. Cái thân thể tươi mát trẻ trung kia lại không rung động trước sự vuốt ve điệu nghệ của chàng, khi chàng ôm ngang eo cô, đôi mắt trong sáng này đã không bối rối như mặt nước biển trước bão, trái tim mà chàng cảm thấy nhịp đập qua lần áo vải và qua làn da con gái, đã không đập gấp gáp khi chàng đặt bàn tay nóng bỏng của chàng lên khuôn ngực. Cô gái vẫn thở đều, cô đứng trước mặt chàng đây, chỉ cần với tay ra - và bàn tay đưa ra của chàng buông lửng giữa chừng. Sự phản kháng mà chàng từng gặp ở những người đàn bà bao giờ cũng kích thích ở chàng những đợt tấn công mới. Ôi, liệu có trò chơi nào đẹp hơn và cuộc đương đầu nào hấp dẫn hơn trận quyết đấu với một người đàn bà kháng cự lại, trượt ra khỏi tay chàng, phản đối chàng, và từ chối đấu sĩ ái tình một cách hoảng hốt hay kiêu ngạo? Những lúc như thế chàng cảm thấy sức mạnh thực sự của con người, những lúc như thế khẩu ngữ của chàng trở nên linh hoạt hơn, những lúc như thế chàng vừa táo bạo vừa tha thiết, vừa đòi hỏi vừa chinh phục, vừa bi lụy vừa liều lĩnh. Vì phản kháng đã là một mối liên hệ, một trò chơi đã chiến thắng một nửa, sự phản kháng đã là một dạng của hiến dâng, người phản kháng biết vì sao mình tự vệ, và người tự vệ đã khao khát điều mình trốn chạy... Nhưng cô gái này đây, trong một căn phòng của quán trọ ở một thành phố xa lạ, cô hầu phòng cao, cân đối
và không chải chuốt lắm kia là người phụ nữ đầu tiên mà chàng giờ đây đưa tay nắm bắt sau mười sáu tháng tù đày, địa ngục, cô đơn và cùng khổ, cô gái này không hề tự vệ. Cô gái này không chống cự. Cô đứng đây, hoàn toàn bình thản như thể không phải là cô đang đứng đối diện với chàng, cô gái dễ thương và luộm thuộm kia, đối diện với chàng, người cách đây không lâu đã thuê cả một lâu đài ở Murano cho nữ tu sĩ đẹp nhất Venice, người đã được một hầu tước phu nhân dạy làm thơ tình cách đây cũng chưa lâu lắm, ở Roma, trong lâu đài của Hồng y Giáo chủ và người che chở cho chàng... Cô đứng đây và chàng không biết phải làm sao, vì cô không kháng cự, nhưng cô cũng không chiều theo ý muốn và đòi hỏi của chàng, cô đứng đó, như ánh sáng trước bóng tối, và bản năng của cô không mách bảo cô phải chạy trốn. Chàng thở dài và đưa tay lau trán, vì chàng toát mồ hôi lạnh.
Điều gì đã xảy ra? Điều chưa hề xảy ra bao giờ. Chàng nhìn quanh căn phòng như tìm kiếm một thú gì, và ánh mắt chàng dừng lại chỗ con dao găm, tối qua chàng bỏ quên trên bệ lò sưởi. Chàng dùng hai tay, bằng một động tác nhẹ nhàng nâng con dao lên, và uốn nhẹ lưỡi dao. Lúc này chàng không để ý đến cô gái, chàng bắt đầu đi lại trong phòng, trong tay cầm con dao găm, và khe khẽ nói. “Thế nghĩa là sao!” - chàng lẩm bẩm. Rồi chàng hét lên: “Thật phi lý!” Chàng cảm thấy mình thật tệ hại. Chàng cảm thấy mình như một nghệ sĩ lớn, người đã từ lâu không hát trên sân khấu, và lần trình diễn trở lại đầu tiên chỉ có khán phòng lạnh lẽo và những hàng ghế câm lặng. Không bị đuổi ra, không thất bại, nhưng sự yên tĩnh lạnh lùng này, sự thờ ơ không hồi âm này còn khủng khiếp hơn cả thất bại. Chàng cảm thấy mình
như một ca sĩ, người hoảng hốt nhận ra rằng một vấn nạn vừa xảy ra với giọng hát của mình, dù có gào lên, dù cố tuôn ra những âm thanh cao vút cũng vô ích, tiếng hát không bao giờ còn sự rung động ấm áp, sự quyến rũ và âm điệu riêng mà trong khán phòng người nghe phải rùng mình, mắt các nàng trở nên mờ lệ, và đám đàn ông ngôi thẫn thờ nghe, như thể giây phút sám hối và hoàn trả nợ đời sắp bắt đầu... Như người cảm thấy đã quên một điều gì đó, một âm thanh, một cách ứng xử, cái khả năng bí ẩn chỉ của riêng người ấy, như người bỗng nhiên không hiểu nổi vì sao hôm nay người ta không vỗ tay vì màn trình diễn, trong khi mới hôm qua người ta còn cuồng nhiệt đòi diễn lại cũng tiết mục ấy, như người biết rằng tất cả khả năng, khổ luyện và kinh nghiệm đều vô ích, ảnh hưởng của chúng tới công chúng không bao giờ còn như trước nữa!... Và như một diễn viên cảm thấy tuyệt vọng trên sân khấu vì biết mình không còn sức cuốn hút, từ khán phòng tràn ngập sự thờ ơ lạnh lẽo, bắt đầu hắng giọng, lúng túng đưa tay lên cổ, như người nói: “Aaa...! Êêê...!” - và tìm lại giọng mình như vậy. Chàng cứ đứng như thế, với con dao găm trong tay, và nhìn cô gái.
“Thật phi lý!” - một lân nữa chàng lại thốt lên, to hơn. “Em không cảm thấy gì, hoàn toàn không thay gì sao? Em không sợ, không run, không muốn chạy khỏi ta sao?...” chàng hỏi khẽ hơn gần như van lơn. Chàng cảm thấy mình thật thảm hại, với con dao găm trong tay và với giọng nói van xin này. “Sao em không nhìn vào mắt ta?” - chàng hỏi nhỏ hơn nữa, giọng khàn khàn nghe rất buồn. Nghe giọng nói ấy, cô gái nhìn lên, từ từ quay mặt về phía người lạ, để mặc cho tia sáng dò xét của người đàn ông rọi vào mắt cô. “Em thấy chưa!” - người đàn ông nhẹ nhàng
nói, và chàng làm một cử chỉ như bước vào vị trí so kiếm hay sẵn sàng chồm lên trước. “Bây giờ giọng nói của ta đã động chạm tới em,” - chàng mừng rỡ nói, giọng nhỏ nhẹ và ấm áp. “Em phải cảm thấy ta đang nói riêng với em. Ta đã biết em, đã nhận ra em giữa cả ngàn người đàn bà, cả trong vũ hội hóa trang, khi em đeo mặt nạ. Em thấy không, em đã trả lời ta, đôi mắt em đã đáp lại ta. Ta biết mà. Không thể nào khác được.” Chàng huýt sáo nhè nhẹ trong nỗi vui mừng, và sau đó chàng lại cất tiếng bằng giọng nói ấm áp, trầm buồn mà hình như chàng sẵn có, như nhà ảo thuật sẵn có những đạo cụ của mình: “Vì bí mật chỉ có thế, cô em dễ thương ạ, đó là tất cả, không có mẹo mực và mưu kế nào hết, bao giờ bí mật cũng chỉ có thế. Nó giống như ta động chạm tới con người. Cô em đã động chạm vào ta khi bước vào phòng, và đó là sự động chạm bí ẩn nhất, đôi khi ta nghĩ rằng đó là nguyên nhân và ý nghĩa của cuộc sống. Trái tim em đập nhanh hơn ư?... Em đỏ mặt ư?... Em biết rõ: bây giờ em không thể đi được nữa. Hãy lại gần ta hơn lúc trước.”
Và khi cô gái chậm rãi bước lại gần, chàng nói bình thản và đơn giản:
- Em không nhớ ư? Ta đã bảo, hãy hôn ta đi!
Chàng đưa hai cánh tay, bằng một cử chỉ tự tin và thong thả, nhẹ nhàng ôm hai vai cô gái, và với ánh mắt chăm chú chàng cúi xuống gương mặt cô gái đã ngả đầu lên cánh tay chàng.
Chiếc hôn
Chàng hôn cô người hầu, ở Bolzano, trong một phòng của quán trọ Con Hươu, ngày thứ ba sau khi trốn khỏi những buồng chì, nơi chàng đã ở trong mười sáu tháng. Điều đó đã diễn ra thế này: chàng hôn đôi môi khô nẻ của cô, đôi môi ấy hé mở khi chạm vào môi chàng, mềm và cam chịu, và không đáp lại cái hôn của chàng. Họ cứ để thế một lúc. Chàng nhìn vào mắt cô gái, ánh mắt hốt hoảng và trong sáng của một sinh linh lạ, và sau đó, như người bị chói mắt vì ánh sáng mạnh bắt đầu nheo nheo mắt, cả hai nhắm mắt lại trong một khoảnh khắc. Trạng huống như vậy gần gũi với cả hai người. Cứ như đó là trạng huống tự nhiên và có ý nghĩa duy nhất trong đời con người, cứ như không thể hiểu nổi vì sao tới lúc này họ lại làm những chuyện khác, và tại sao họ lại sống trong những tình huống khác, như thể họ đã chuẩn bị cho khoảnh khắc này, từ lâu lắm, với mọi dự định và khao khát, lúc tỉnh táo và trong giấc mơ. Cô gái lựa thế đứng trong vòng tay người đàn ông lạ. Gương mặt cô nghiêm cẩn và bình thản. Như người sau bao sự tìm tòi và vắt óc suy nghĩ cuối cùng thở phào, và nói: “A ha, ta hiểu rồi, hóa ra là thế!” Và tất cả bỗng nhiên trở nên giản đơn hơn. Cô lựa thế đứng trong vòng tay người đàn ông xa lạ, rất thận trọng, cô lựa tìm vị trí bằng những cử động nhỏ, e thẹn, nhưng chắc chắn, như người cảm thấy mỗi cử động đều nói lên một điều gì, một đối thoại lớn, không lời đã bắt đầu, cuộc đối thoại đã được khởi đầu từ xa xưa, giữa một người đàn ông và một người đàn bà, và tất cả những cặp tình nhân tiếp tục trong những giây phút khi một người đàn ông ôm trong vòng tay mình một người đàn bà: cô
tìm thế đứng như vậy. Thực ra cô không hề cử động, cô cứ để thế, mặc cho hai cơ thể tìm thấy sự thăng bằng trong không gian theo những quy luật của sức hút và trọng lực. Cô ngả đầu vào cánh tay người đàn ông, cơ thể trẻ trung của cô hơi ngả về phía sau, những cánh tay rắn chắc và bình thản nhẹ nhàng níu lấy cơ thể kia, nhận thêm phần trọng lượng của cơ thể lạ, và như thể hơi được nâng lên, như trong vài giây cô được nhấc lên khỏi mặt đất. Cô gái đứng như thế, buông lơi trong vòng tay người đàn ông lạ, nhón chân, đầu ngả ra sau và hơi nghiêng sang một bên. Và nếu có ai đó nhìn họ qua lỗ khóa cửa, người ấy có thể nghĩ rằng cô gái đang bị ngất hay vừa được vớt lên từ một dòng sông vô hình nào đó, ngất lịm trên đôi tay người vừa cứu vớt cô, và cô sắp được đặt xuống giường hay xuống sàn nhà, để nâng lên hạ xuống hai tay cô, để xoa bóp trái tim cô và bắt đầu làm cho cô tỉnh lại. Vì trong tư thế của cô gái có một điều gì đó buông thả, ngất ngây và đúng như cử động của người vừa được cứu vớt. Hơn nữa chính cô trong giây phtít ấy cũng cảm thấy như thế: như người muốn tự trẫm mình xuống một dòng sông, vừa được cứu vớt mang lên bờ. Trước hết cô lựa tìm thế đứng mới.
Giữa vòng tay người đàn ông lạ, đó là một thế đứng mới, nhưng vẫn đau đớn, quen thuộc đến hạnh phúc và hãi hùng. Rõ ràng, được một ai đó ôm trong vòng tay là điều sung sướng nhất. Trong những giây phút ấy, Teresa lờ mờ nhớ rằng mẹ cô, người mẹ có gương mặt tàn nhang như vỏ trứng gà tây, thấp và mập mạp như một chiếc thùng gỗ Toscana, đã ôm cô như thế trong vòng tay bà. Đúng, thế đứng mới này thân thuộc, như cuộc sống với đứa trẻ mới sinh; không cần khéo léo, chẳng cần
phải khẳng định, chỉ cần để yên, để cho tư thế ấy tự nó dẫn dắt, chỉ cần ưng thuận, cứ để hai thân thể tự tìm thấy sự cân bằng, những cánh tay siết chặt, những cuốn hút và những lực bất kham còn mạnh hơn cả vòng tay ôm. Tất cả đều ổn thỏa và đứng chỗ một cách hoàn toàn chính xác như vậy, một người đàn ông mà hôm qua Teresa còn chưa biết, người nói rất nhiều, người khua khoắng bằng con dao găm, và với mái đầu bù xù dính đầy lông chim bước ra khỏi buồng ngủ, nơi người ấy đã nằm ngủ hai chân dang rộng trên giường, với nét mặt cau có và méo xệch: như thế là đúng, rằng người đàn ông xa lạ giờ đây đang ôm Teresa trong vòng tay, và cô chỉ cần hơi nghiêng đầu để nghỉ ngơi thoải mái hơn, và đôi môi cô chỉ cần hé mở, mềm mại và hiền lành, cô chỉ cần nhắm mắt lại, và chẳng phải làm gì khác, để mọi chuyện đều ổn thỏa và hợp lẽ. Cô hiểu ra chừng này. Và giờ đây, khi cô đã biết và hiểu ra tất cả, mắt vẫn nhắm, cô bắt đầu mỉm cười và thở nhè nhẹ.
Họ đứng trước cửa sổ, trong ánh sáng mạnh và lạnh. Người đàn ông quay lưng về phía cửa sổ, và nhìn gương mặt cô gái tràn đầy ánh sáng, chàng nhìn cô gái mà chàng đang ôm trong vòng tay, bằng cử chỉ lạ lùng, vừa khích lệ và như răn đe, vừa như cứu rỗi vừa như bạo liệt, bằng động tác ôm ghì lấy nàng, đúng như cần phải thế. Tình thế gần gũi, thân quen này làm chàng yên lòng. Bây giờ chàng không còn sợ rằng trong ẩm thấp và cô đơn, những tháng một mình trong hang ổ tù đày, chàng đã đánh mất bản thân mình. Giờ đây chàng đã biết rằng tất cả mọi lời nói và cử chỉ của chàng đều gặt hái thành công nơi khán giả. Chàng bình thản nhìn cô gái, không vội vàng, thư thái. Khuôn mặt hình trái tim, được ánh nắng khuếch đại và làm rõ mọi đường
nét và sắc thái, một gương mặt phụ nữ không hơn không kém - nhưng vừa đây chàng vẫn không hề dối trá khi bảo chàng sẽ nhận ra cô giữa cả ngàn phụ nữ, cả khi cô đeo mặt nạ. Một gương mặt đàn bà như hàng trăm gương mặt đàn bà mà chàng đã cúi xuống, trong vị thế giống nhau, cũng với sự hiếu kỳ dịu dàng và nghiêm cẩn thế, cứ như cần phải giải mã một tín hiệu bí ẩn nào đó, một từ được viết bằng những tín hiệu của ma thuật và giáo lý huyền bí, một từ ngữ mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Chàng ngắm nhìn gương mặt, kiên nhẫn và cân trọng. Vì những dấu hiệu này trên mặt cô gái, chiếc mũi hơi hếch và tàn hương nhẹ, cái miệng tươi sống như một trái quả bị giập nứt, những chiếc lông tơ màu vàng ven vành môi trên và chiếc cằm tròn trịa như cằm con trẻ hiền lành, những đường nét bình thản, thanh tú của đôi mắt, làn sóng đôi lông mày rậm màu vàng, hai bên miệng và mũi là hai nét nhăn rõ nét mà cuộc sống, sự nghi ngại và sợ hãi đã tạo nên, và giờ đây dường như chúng mờ nhạt đi bởi ánh sáng và sự vuốt ve của người đàn ông: đó là một họa phẩm, là thứ ngôn ngữ bí ẩn cần phải giải mã ra ý nghĩa của nó. Hai gương mặt, một chăm chú và nghiêm lạnh của người đàn ông, và gương mặt mắt lim dim, bình thản, thoáng mỉm cười, chờ đợi của người con gái bồng bềnh bên nhau, như hai thiên thể gắn bó với nhau bởi một sức hút không thể hóa giải. “Đi đâu mà vội nhỉ?” - người đàn ông nghĩ. Và cô gái cũng cảm thấy một điều gì đó giống như thế.
Đó là gì vậy? Phải chăng là tình yêu?... Chắc hẳn không phải. Giờ đây khi chàng ghé sát xuống gương mặt cô gái, và cảm thấy hơi thở ấm nóng từ khóe miệng thanh xuân, và một sức lôi cuốn - chậm rãi nhưng không thể cưỡng nổi - buộc chàng cúi xuống
đôi môi xa lạ ấy, đúng như thế - chậm rãi, gần như sùng kính - đúng như cách một người lữ hành tơi tả vì bị hành hạ và đói khát cúi xuống tia nước nguồn, bằng cử chỉ của người cầu nguyện và ngưỡng vọng, và lúc ấy chàng còn nghĩ: “Phải chăng nàng đây?...” Nhưng chàng biết ngay rằng cô gái này không phải, đúng hơn là cô cũng sẽ không phải người ấy, đúng hơn cả cô nữa cũng là người ấy. Vì lẽ ra chàng có thể nhận ra gương mặt cô giữa cả ngàn gương mặt phụ nữ - trí nhớ của chàng vẫn hoạt động bằng sức mạnh ma quỷ và đáng tin cậy, nếu cần phải gợi nhớ lại những nét mặt đàn bà, chính xác, bằng bản năng và khả năng mà loài dã thú cảm nhận và đánh hơi những dấu vết trong rừng già -, nhưng chàng cũng biết rằng quan hệ này cũng chưa phải là định mệnh, cũng như cho tới lúc đó chưa khi nào, chưa một điều gì là định mệnh, dù thứ thanh âm câm lặng, bí ẩn và dữ dằn trong một vài người đàn bà có lên tiếng với sức mạnh như thế nào, cái thông điệp của sự hiện diện, mà bao giờ cũng chỉ có này: “Em đây, em có liên quan đến chàng, xin chàng lưu ý!” Thông điệp bao giờ cũng chỉ có thế. Và chàng luôn chú ý đến lời mời chào và đến âm thanh ấy, như thú dữ trong rừng rậm. Dỏng tai lên, mắt sáng long lanh, đứng thẳng dậy. Và đi theo hướng âm thanh, theo lời gọi mời, đánh hơi, nghe ngóng và rình rập, bằng bản năng không thể lừa dối được. Các cô gái trẻ và đẹp, những phụ nữ đương độ chín và chớm tàn phai, rách rưới và tầm thường, cũng như những công nương, những ni cô, những cô ả hát rong lang thang, những cô gái bán mũ và hầu bàn, những người đàn bà có thể mua bằng một đồng tiền vàng, và cũng như thế những người đàn bà đài các sống trong các lâu đài, và cuối cùng phải trả giá cho họ nhiều tiền vàng, vợ gã làm bánh
mì và cô con gái ranh ma của lão Do Thái buôn ngựa, cũng như nàng M.M. yêu dấu của ông Đại sứ Pháp, C.C., đứa con gái hư hỏng trong nhà tù, hay con bé bẩn thỉu ghẻ lở mà sau này Đức Vua Thiên Chúa giáo nhất, Bourbon Louis đã ôm ấp và đưa về cung cấm của ông ta ở Versailles, cũng như cô vợ trẻ của viên đại úy người Pháp và bà vợ ngài thị trưởng thành phố Cologne, người đã ngoài bốn mươi ba tuổi và thiếu hai chiếc răng cửa, cả công nương Urfé, già cóc đế lão lai6, và khi ôm ngang eo bà đau hết cả ngón tay... đều đã mời gọi chàng như thế. Chàng đã đi về phía tất cả những tiếng gọi, và bao giờ chàng cũng cảm thấy sự tò mò này, sự run rẩy này và sự chú ý giễu cợt này, bao giờ chàng cũng nghe thấy câu hỏi bí ẩn: “Phải chăng nàng là đây?...” Nhưng đến khi cần hỏi, thì chàng cũng đã biết, nàng không phải là người ấy, không một ai là người ấy. Và rồi chàng đi tiếp.
Và ở đâu cũng có những quán trọ, các nhà hát ở đâu cũng có vở diễn vào buổi tối, và mỗi ngày cuộc sống đều ban tặng cho mọi người những điều kỳ diệu, nếu ta không sợ nó. Không, ta chưa bao giờ sợ, chàng hài lòng nghĩ; và chàng ôm chặt hơn cô gái ngoan ngoãn vào lòng. “Giá như cô bé này là người ấy,” - chàng nghĩ. Giá như chàng được nghỉ ngơi thì hay biết mấy. Giá như chàng biết rằng không bao giờ cần đến những tính toán lắt léo và những kế hoạch phiêu lưu chết người nữa, để đến một ngày cái công thức sống sẽ trở nên thật giản đơn: ta sống và có một người đàn bà mà ta yêu, tất cả thỉ có thế. “Giá được thế thì tốt!” - chàng nghĩ, một cách khôi hài và buồn. Nhưng dường như có lần người ta đã đảo lộn không thể cứu vãn nổi cái công thức cần được giải mã ấy, như thể ở một nơi nào đó, vào một lúc nào đó, bức hình mỏng mảnh mà chàng tìm kiếm đã bị vỡ, đâu
đâu cũng chỉ còn lại những mảnh vụn. Và chàng cúi nhặt từng mảnh vỡ. Cô bé này có đôi tai đẹp, hồng hồng và trẻ con, đôi tai nhỏ, những đường nét cong uốn lượn, những khúc rẽ tinh tế của xương và sụn, đôi dái tai dày nom hơi tức cười: đúng, đôi tai dễ thương, nhìn vào muốn cắn. Chàng thầm thì điều gì vào đôi tai này đây? Hay là nói: “Chỉ có em?...” Chàng đã nói thế bao lần. Nhưng như người sợ hụt, khá hơn là vì thói quen và trí nhó, chàng vẫn ghé sát tai cô gái và thì thầm trong hơi thở: “Chỉ có em!”
Nghe thấy thế cái tai xinh đẹp và dễ thương đỏ dần lên. Mặt cô gái cũng ửng hồng, dường như lúc này lân đâu tiên cô thẹn thùng. Trong câu nói có điều gì đó trơ trẽn và thô bạo, gần như khiếm nhã, giống như tất cả sự giả dối mà người ta nói trong những giây phút trọng đại. Nhưng cũng có điều gì đó thân quen và khích lệ, giống như trong những bài ca yêu nước, như những tượng đài của các nghệ sĩ đương thời và những câu nói cửa miệng linh thiêng mà người ta đã truyền miệng từ hàng thế kỷ. Chàng nói: “Chỉ có em!”, và cô gái đỏ bừng mặt, như thể cô đã nghe được một điều gì bất nhã rất dễ thương. Cô đỏ mặt vì cảm thấy sự giả dối, và người đàn ông lại im lặng, say sưa thắng lợi và hơi ngạc nhiên, như người biết rằng không thể khác, và không thể nói điều gì giả dối hơn thế nữa. Và cả hai người đều cảm thấy sự giả dối này trong bí mật dẫu sao vẫn đúng. Vì vậy họ im lặng, ra chiều hơi bối rối. Họ cảm thấy câu “chỉ có em” đúng, theo cách huyền bí của nó, như thông thường những điều vĩnh hằng, như khi một ai đó nói “tổ quốc” hay “số phận”, và bắt đầu khóc cho phải đạo. Và giữa chừng, dù ý đổ có bộc lộ và trơ trẽn đến mức nào, ta vẫn cảm thấy từ bên trong câu cửa miệng
thông thường nhất ấy và sự dối trá ấy vẫn dúng, đúng là ta cảm thấy tố quốc, số phận và chỉ có em. Và vì không biết nói gì hơn với nhau nữa, họ bắt đầu hôn nhau.
Hai đôi môi gắn chặt vào nhau, và lúc này đây một điều gì đó bắt đầu đung đưa họ. Sự đưa đẩy này cùng lúc giống như khi người mẹ ôm trong tay mình đứa trẻ đã đùa nghịch nhiều, ngã vạ ngã vật, giờ buồn chán vì đã mệt và vì trời sắp tối; người mẹ ôm đứa bé trong vòng tay và bảo: “Giờ con chơi đã nhiều, đã mệt rồi, hãy nghỉ một chút đã. Con đừng làm gì nữa, chỉ nhắm mắt lại và nghỉ ngơi. Người con nóng quá! Tim con đập loạn xạ đây này!... Nếu trấn tĩnh lại, đến tối con sẽ được một chiếc bánh kem xốp Neapolitan!” (Đúng trong khoảnh khắc đó cô gái tự né mình hơi bĩu môi lại, như một đứa bé, khi nó bảo: “Con không thích bánh kem xốp Neapolitan!”) Rồi hai người lại tiếp tục hôn nhau. Sự đung đưa - lạ lùng và buồn -, như sự ru hời của biển cả, vừa giống lời ru trên nôi vừa chất chứa hiểm họa, vừa định mệnh vừa phiêu lưu. Và như người choáng váng rời xa những bến bờ hiện thực và ngỡ ngàng nhận thấy trong trạng thái mới chưa hề biết tới của định mệnh vẫn có thể sống và chuyển động, và có lẽ cứ chậm chậm bồng bềnh như thế rời xa bờ cũng không đến nỗi tồi, mất đi mọi ràng buộc với hiện thực, và đi thật chậm, không mong muốn và dự định, hướng tới sự tàn lụi: đôi khi, giữa hai cái hôn, họ lơ đãng liếc nhìn quanh, như người ngang đầu lên khỏi những đám bọt sóng, rồi lại rơi vào trạng thái của hiểm họa và hạnh phúc, lơ đãng và phiêu bồng, và nghĩ: “Có khi chết cũng chẳng đến nỗi nào! Có lẽ đây là điều lớn nhất cuộc đời có thể mang lại, sự phiêu bồng này và quên lãng này, khi người ta mất hết ký ức, tất cả đều nhòe đi, lờ mờ một cách dễ chịu.” Và giờ đây
đôi cánh tay họ dang ra như cầu xin, như mời gọi, rồi người nọ ghì chặt đầu người kia. Họ hôn nhau như thế.
Đúng lúc ấy Balbi bước vào, dừng lại nơi cửa, và hốt hoảng gọi:
- Giacomo, đừng hại cô ta!
Họ từ từ rời nhau, buông vòng tay ôm và ngơ ngác, dò xét nhìn quanh. Khi đã buông cô gái, lúc này người đàn ông mới nhận ra, vô tình chàng vẫn cầm trong tay con dao găm trên tay trái, cánh tay mà chàng đã ôm ngang lưng cô gái.
Một nhà văn
Khi cô gái cúi đầu ra khỏi phòng - với những bước chân nhẹ nhàng mà chỉ những người quen đi chân đất mới đi nổi, - Balbi bảo: “Tôi hoảng thật sự. Anh đứng đấy, với con dao găm trong tay, như một tên sát nhân muốn đâm nạn nhân vậy.”
- Ta đâu phải kẻ sát nhân, - chàng nói, hơi thở dốc, và đặt thanh kiếm trở lại bậc lò sưởi. - Ta chỉ là một nhà văn.
- Nhà văn? - Balbi hỏi, há hốc miệng. - Anh đã viết gì thế?... - ông hỏi thêm, vẻ ngớ ngẩn và ngờ vực.
- Ta đã viết, đã viết, - chàng lẩm bẩm. Giọng bực bội, như khinh ghét người hỏi, như chẳng muốn trả lời tử tế vì người đối thoại dù thế nào cũng không thể hiểu, không đáng được trả lời. - Trước hết, ta đã viết rất nhiều. Cả thơ nữa, - chàng nói, giọng vui vẻ, như người có thể chứng minh điều đó.
- Vì tiền ư? - Balbi hỏi.
- Cả vì tiền nữa, - chàng đáp. - Nhà văn chân chính bao giờ cũng viết vì tiền, hiểu chưa, đầu bã đậu? Ta đã nói nhà ngươi không thể hiểu được điều này đâu. Đáng tiếc là ta đã không lùa lưỡi kiếm vào mạng sườn ngươi trước khi tới Valdepiadene, khi ngươi láo xược và đe dọa cuộc tẩu thoát của chúng ta. Nếu vậy thì có lẽ giờ đây ta đúng là kẻ sát nhân như ngươi vừa nói, nhưng trên thế gian này đã bớt đi một tên vô lại và ngu ngốc, và thiên hạ đã biết ơn ta. Ta vĩnh viễn lấy làm tiếc vì đã kéo ngươi ra khỏi hang hốc và lũ chuột cống.
- Không có tôi thì anh cũng chẳng thoát nổi, - người bạn bình thản nói. Những lời xúc phạm không làm ông bực mình. Ông ngồi xuống chiếc ghế bành, giạng hai chân, hai tay đặt ngang chiếc bụng phệ, đan ngón tay vào nhau và nhấp nháy mắt.
- Điều đó đúng, - chàng đáp khách quan. - Khi bị nguy kịch, thì người ta bấu víu vào cả dây treo cổ.
Cả hai gườm gườm nhìn nhau.
- Đúng, thật đáng tiếc, - chàng nhắc lại, và nhún vai tỏ ý nói: cổ than vãn mãi những cơ hội đã bỏ qua trong đời cũng bằng thừa. - Ngươi không hiểu được đâu, đồ to bụng, không thể hiểu rằng ta là văn sĩ. Ngươi đã viết những gì, trong cuộc đời ngươi? Những lá thư tình cho lũ con ở chân đất ngoài chợ vì năm xu, hay đã giả mạo những bản hợp đồng cho bọn lái buôn và lũ ăn trộm ngựa, hay đã thảo những lá đơn cầu xin cấp trên của ngươi, những người nhẹ dạ và đãng trí đến nỗi đã quên đày ngươi xuống làm nô lệ chèo thuyền.
- Thế nhưng dù sao, - cha cố nói, hiền lành và thân thiện, - dù sao viết lách đã cứu chúng ta đấy, Giacomo ạ. Anh hãy nhớ lại đi. Chúng ta đã viết cho nhau những lá thư, như những tình nhân. Chúng ta đã viết những lá thư dài và nồng nhiệt, và Lawrence, cai ngục là người đưa thư tình, trong các lá thư chúng mình đã tự giới thiệu, đã nói tất cả, quá khứ và hiện tại cho nhau. Nếu không biết viết, thì chẳng khi nào tôi viết thư cho anh, không bao giờ tôi trốn thoát nổi. Anh khinh tôi, coi thường tôi. Tôi biết, anh sẵn sàng giết tôi. Anh không công bằng. Tôi cũng biết, viết là việc lớn, một thứ gì đó giống như quyền lực.
- Giống như quyền lực? - người bạn trốn tù nhắc lại, và kiêu ngạo hất đầu ra phía sau, lim dim mắt, nghi hoặc dò xét người bạn. - Còn hơn thế nhiều. Và không phải “giống như”, Balbi, hãy nhớ lấy, không phải “giống như”, mà nó chính là quyền lực, quyền lực thực sự. Ngươi nói đúng, chính viết đã giải cứu chúng ta. Ngươi thấy không, ta cũng không nghĩ đến điều này. Và Kinh Thánh đã đúng, khi bảo rằng những tên ngốc cũng dự phần được ân xá. Văn chương và sức mạnh lớn nhất, chữ viết, mạnh hơn cả Đức Giáo hoàng và Đức Vua, mạnh hơn cả viên Tổng trấn. Trường hợp của chúng ta cũng cho thấy điều đó. Chúng ta đã trao đổi cuộc đào tẩu qua thư từ, những con chữ đã cắt đứt xiềng xích, chúng ta đã bện thừng và thang dây bằng những chữ cái, những con chữ đã đưa chúng ta từ địa ngục lên mặt đất. Người ta bảo, - chàng nói vẻ suy tư, - chữ nghĩa còn đưa ta từ mặt đất lên thiên đường. Nhưng ta không tin điều đó.
- Thế anh tin vào điều gì? - người bạn tò mò hỏi, bằng giọng đàm đạo.
- Ta tin vào định mệnh, - chàng đáp vẻ tự nhiên, - vào định mệnh mà chúng ta tạo ra và chấp nhận. Ta tin vào cuộc đời, vào những biến thể mà cuối cùng chúng hòa hợp một cách tuyệt vời, từ nhiều chi tiết trở thành tổng thể, thành một con người và một cuộc đời. Ta tin vào tình yêu và sự quay vòng của vận may. Và tin vào văn chương, văn chương có quyền lực đối với định mệnh và thời gian. Những gì ngươi làm, ngươi khao khát, ngươi yêu thương, ngươi nói, tất cả sẽ qua đi. Đàn bà và những mối tình cũng sẽ qua đi. Những hồi hộp lo âu cũng sẽ hết, thời gian sẽ phủ bụi lên dấu vết của những hành động đã qua. Nhưng văn chương thì còn lại. Đã bảo ta là nhà văn, - chàng
nói giọng phấn khích, như người vừa phát hiện ra điều gì đó, rất mãn nguyện.
Chàng dùng cả mười ngón tay cày dọc mái tóc bù xù, ngửa đầu ra sau bằng động tác quen thuộc như một nghệ sĩ trước khi đưa cây vĩ cầm lên cằm và dùng vĩ cung lướt lên các dây đàn. Cử chỉ và cách ngẩng đầu này chàng quen từ lúc trẻ tuổi, khi còn là tay chơi vĩ cầm trong một nhóm nhạc dây ở Venice. Chàng bước gấp từ đầu đến cuối căn phòng, với những bước đi đặc biệt của riêng chàng, vẻ căng thẳng. Rồi khẽ bảo:
- Thỉnh thoảng chính ta cũng bất ngờ.
- Bất ngờ vì điều gì? - Balbi tò mò hỏi, với một sự hiếu kỳ con trẻ.
- Bất ngờ vì ta là nhà văn, - chàng nói tự nhiên. - Ta là nhà văn không thể thoái thác, Balbi, xin ngươi đừng nói với ai, ta không thích sự than phiền, vì nó cũng là xin xỏ. Ta chỉ nói với nguơi vì ta chẳng coi ngươi ra gì. Có thể viết theo nhiều cách. Có người ngồi trong phòng và viết, không làm gì khác. Đó là những người hạnh phúc. Cuộc đời họ có lẽ bất hạnh, luôn luôn cô đơn, họ nhìn theo đàn bà như chó nhìn trăng, họ tru lên cho thiên hạ biết những phiền muộn của mình, họ cay đắng tỏ ra rằng tất cả đều làm họ đau đớn, những vì sao, mùa thu và cái chết. Cuộc đời họ bất hạnh, nhưng họ vẫn là những nhà văn hạnh phúc, những con người sống cho chữ nghĩa, họ không thể làm gì khác, họ dùng bữa sáng bằng danh từ và ngủ với vòng tay ôm một tính từ tròn trịa, đẹp đẽ nào đó. Trong giấc mơ họ vẫn mỉm cười. Và khi thức dậy họ nhìn lên bầu trời, với con mắt lác, vì họ luôn sống trong trạng thái phấn khích, mê mẩn, đến nỗi bằng những
tính từ và danh từ, lập bập hay trơn tru, ấp úng hay ầm ĩ, cuối cùng họ vẫn thường xuyên diễn đạt được một điều gì đó mà ngay cả Chúa cũng chỉ thành công có một lần. Đó là những nhà văn hạnh phúc, những người đi giữa chsng ta với bộ mặt bất hạnh, và đàn bà thường đối với họ nương nhẹ hơn, với nhiều thương hại, hơi giống như đối với đứa em gàn dở, mà họ - những bà chị tốt đẹp và khôn ngoan hơn - thường an ủi và chuẩn bị cho em trước cái chết. Ta không muốn trở thành một nhà văn như thế, - chàng nói với giọng hơi khinh thị, - họ chỉ là những nhà văn... Rồi còn có những người múa bút như múa dao găm và kiếm, họ viết bằng máu, họ vấy mật đắng lên mặt giấy, ngươi thấy họ trong phòng làm việc, đầu đội mũ đan có rèm tua, họ phỉ báng các bậc vua chúa và bọn vô công rồi nghề, lũ cho vay nặng lãi và bọn lừa phản, họ là đầy tớ và chiến sĩ của một tư tưởng, một sự nghiệp nào đó của dân chúng... Ta biết loại này. Một lần ta đã ở chỗ Voltaire xấu xí. Ngươi đừng có chen ngang, chưa bao giờ ngươi nghe tên lão ta đâu. Lão chẳng còn răng, nhưng vẫn cắn được, các đấng vua chúa và nữ hoàng mong được lão để mắt đến, cái lão móm và khốn nạn ấy, với một cây bút cặp giữa những ngón tay sưng vù mụn thống phong, đã khống chế cả thế giới. Ngươi có hiểu không?... Ta thì hiểu rõ. Đối với những nhà văn này, văn chương chỉ là công cụ, họ muốn thay đổi thế giới, đó là những nhà văn bất hạnh. Đó là những người khổng lồ, vì họ có trí năng và sức mạnh, nhưng trong họ không có sự yên tĩnh và sự sùng mộ, và vì thế mà họ bất hạnh. Những người này có thể đâm một đức vua, một trật tự thế giới bằng một từ, nhưng họ không biết cách diễn đạt ý nghĩa kín đáo hơn của cuộc sống là gì, sự say mê vì ta sống trên trái đất này,
niềm hạnh phúc vì ta không chỉ có một mình, những vì sao, đàn bà và ma quỷ chú ý đến ta, sự ngạc nhiên vì ta phải chết. Điều này, những kẻ mà ngọn bút chỉ là kiếm và dao găm không thể diễn đạt nổi, dù họ có vĩ đại đến mức nào trên mặt đất này... Họ có quyền lực đối với những số phận, ngôi báu, thứ bậc con người và định mệnh, nhưng họ không có quyền lực thực sự đối với thời gian. Và rồi còn có những nhà văn, như ta đây. Loại này là hiếm nhất, - chàng nói mãn nguyện.
- Đúng, - Balbi nói, vẻ thán phục. - Vì sao lại hiếm nhất, thưa ông chủ và người thầy của tôi?
Trong giọng nói trầm đục vì tù đày, vì rượu vang và bệnh tật mà ông đã nhiễm phải trong các kho chứa và trên giường của đám gái nấu bếp dọc đường đi, ẩn chứa một sự hiếu kỳ trọng thị và đôi chút ngờ vực. Ông há hốc mồm, tay vặn vào nhau, như thể lạc vào một kịch trường, nơi người nghệ sĩ diễn bằng một ngôn ngữ mà khán giả không hiểu hết.
- Vì ta chịu thua thiệt, - Giacomo bực bội đáp, - hiểu chưa, đồ chân bẹt, đồ bụng ỏng, hiểu chưa, người hùng của các kho chứa và nhà thổ, đã hiểu chưa? Ta là nhà văn chịu lỗ vốn! Ngươi hỏi ta đã viết những gì ư?... Ta thừa nhận, đến nay ta viết không nhiều. Vài bài thơ..., đúng, mấy bài nghiên cứu về xảo thuật... Nhưng tất cả những thứ đó chưa phải là đích thực. Ta đã từng là sứ giả, cha cố, quân nhân, người chơi vĩ cầm, tiến sĩ của các khoa học thế tục và Giáo hội, nhờ ơn nàng Bettine mười bốn tuổi và đã đưa ta vào khoa học thế tục, và nhờ ơn tiến sĩ Gozzi ngồi trong phòng bên cạnh ở Padua, không biết một tí gì về buổi dạy của Bettine, và đã dẫn dắt ta vào những bí ẩn của thế giới cái
đẹp. Nhưng không phải là chuyện đó, việc ta viết gì không quan trọng. Chỉ ta là quan trọng, ta, nhà văn, con người: vì trở thành một người nào đó đáng nói hơn và khó khăn hơn là làm một điều gì đó, ngươi hãy nhớ điều đó. Gozzi phủ nhận điều này. Gozzi nói chỉ có nhà văn tồi mới muốn sống, nhà văn giỏi bằng lòng với việc viết. Nhưng ta bác bỏ nhận định của Gozzi, vì cuộc tranh đấu trần tục bao giờ cũng chỉ có vậy - sự phản bác và sự khẳng định đích thực và mạnh mẽ. Ta là quan trọng, dù theo Gozzi ta có là nhà văn tồi, chỉ có ta, vì ta muốn sống. Ta chưa thể viết được, chừng nào ta chưa hiểu biết thế giới. Ta mới đang đi những bước đầu tiên, - chàng nói nhỏ, gần như sùng kính. - Ta mới bốn mươi. Ta chưa sống bao nhiêu. Không thể sống đủ. Ta chưa nhìn đủ những buổi bình minh, ta chưa hiểu biết hết những cảm xúc và tình cảm của con người, ta chưa giễu cợt đủ thói ngạo mạn của đám công chức, quan lại và đức ông, chưa bịt miệng đủ lần những cha cố bụng phệ, những kẻ đong đếm sự cứu rỗi bằng tiền bạc, ta còn chưa mỉa mai đủ sự ngu xuẩn của con người, chưa cười lăn cười lóc đủ nhiều vì sự phù phiếm, hiếu danh, dục vọng và lòng tham của con người, ta còn chưa thức dậy đủ nhiều lần trong vòng tay đàn bà, để biết một điều gì đó thật sự về họ, cái sự thật khác hơn là điều bí ẩn buồn tẻ và nhạt nhẽo mà họ che giấu dưới váy mình, cái thứ chỉ kích thích trí tưởng tượng của lũ trai dậy thì và đám thi nhân... Ta còn chưa sống đủ, Balbi ạ, - chàng bướng bỉnh nói, giọng xúc động thực sự. - Và ta không muốn bỏ qua điều gì, hiểu chưa! Ta từ bỏ những vinh quang trần tục, từ bỏ tài sản, hạnh phúc gia đình, ta còn đủ thời gian để đi dép dạo chơi dưới giàn nho và nghe chim hót, cặp dưới nách cuốn De consolatione philosophise7 của
Boethius8 vô thần, và đọc Horace9 uyên bác, người đã dạy rằng bên cạnh con người chân chính bao giờ cũng có hai nữ thần canh giữ, tri thức và tình thương hại... Ta chưa muốn trao mình cho lòng thương hại. Ta muốn sống, để đến một ngày ta sẽ viết được. Điều này phải trả giá đắt. Ta phải thấy tất cả, ngươi phải hiểu điều đó, chiến hữu của ta trong phận hẩm và trên ghế thuyền buồm, ta cần thấy những căn phòng người ta ngủ, cần nghe họ rên rỉ khi bắt đầu tuổi già, và họ chỉ còn mua được sự đoái thương của đàn bà bằng tiền vàng, ta phải biết các bà mẹ và các em gái, những tình nhân và những vị hôn thê, những người đều sẽ nói một điều gì đó chân thật và khích lệ về cuộc đời, nếu không thế thì cũng là một cái bắt tay siết chặt. Ta nhà văn, nghĩa là ta phải sống. Gozzi bảo chỉ có nhà văn tồi mới muốn sống. Nhưng Gozzi không phải là đàn ông, Gozzi chỉ là kẻ hèn nhát và là một con mọt sách lười nhác, và không khi nào sáng tạo một thứ gì đó trường tồn.
- Thế khi nào, - Balbi hỏi, - khi nào anh định viết, Giacomo?... Ý tôi muốn nói là nếu anh đã xem, đã nghe, đã ngửi tất cả những thứ mà anh chuẩn bị... Khi nào anh sẽ có thời gian viết? Anh nói đúng, tôi không am hiểu điều này. Tôi chỉ là kẻ biết gieo con chữ, và tôi thấy chỉ viết một lá thư thôi đã cần rất nhiều thời gian. Tôi nghĩ để viết văn, công việc của nhà văn còn cần nhiều thời gian hơn. Có lẽ cả cuộc đời.
- Cuối cùng, - chàng đáp và nhìn lên trần nhà, môi mấp máy, như nhẩm đếm, - ta muốn viết lúc cuối cùng.
Trước cửa sổ, trên sân quán trọ, vẳng lên một tiếng cười. Một ai đó cười sảng khoái với giọng ấm, trẻ trung và khàn, và
người lạ vội tiến lại, cúi người qua khung cửa sổ. Lúc này chàng bắt đầu vẫy vẫy tay và gật gật đầu trong khung cửa sổ, với nụ cười rộng mở, hai ngón tay đưa lên môi ném một nụ hôn xuống dưới.
- Người đẹp nhất! - Duy nhất! Tối nay nhé!...
Chàng quay lại, giọng buồn buồn:
- Ta phải tiêu phí tất cả để đến ngày viết được. Cuộc đời và tất cả những gì cuộc đời đã cho ta. Một giá đắt, viết... Phải nhìn thấy tất cả để ta có thể viết về những tập tục, thói quen của con người và những nơi ta đã hạnh phúc và bất hạnh, hay đơn giản ta đã chỉ thờ ơ. Lúc này ta chưa có thời gian viết. Và chúng, - chàng bỗng nổi giận, mắt long lên trong một khoảnh khắc, - bọn chúng dám tống giam ta! Venice đã từ bỏ ta, ta, kẻ ngay trên ghế đi đày chèo thuyền cũng ít nhất là người Venice như những người đàn ông quý phái nhất trong các bức họa của Tiziano10! Chúng dám tước đoạt của ta quyền được trở thành nhà văn, nhà văn chân chính, người sống và ngày ngày sưu tập tư liệu! Chúng dám kết án ta, một nhà văn, một văn sĩ Venice; bọn tai mắt của Venice dám loại ta ra khỏi đời sống, khỏi vầng nhật nguyệt, chính chúng đã lấy đi một khoảng thời gian đẹp đẽ của đời ta, cuộc đời không gì khác là cống hiến cho cái chung!... Đúng, theo cách của ta!... Cống hiến cho cái chung!... Chúng dám cướp đi mười sáu tháng trong cuộc đời ta! Dịch hạch! - chàng nói nhẹ nhàng và dứt khoát. Dịch hạch và bệnh tật hãy giáng xuống Venice! Dân Moor11, dân Thổ Nhĩ Kỳ tết tóc và vô đạo hãy đến, hãy băm vằm đám nghị sĩ, ngoại trừ ngài Bragadin, người là cha thay cha ta, và ngài đã cho ta tiền; ta mừng vì đã nhớ đến ngài,
ta sẽ viết cho ngài ngay bây giờ. Sự hủy diệt và ô nhục hãy giáng xuống Venice, cái thành phố đã đày ta, đứa con chân chính nhất của nó vào giữa bầy chuột cống! Mục đích của đời ta sẽ là trả món nợ này cho Venice!
- Đúng! - Balbi hăng hái, gương mặt béo núc ních và đầy mụn cóc như quả bí đỏ của ông ta bắt đầu ửng lên. - Đúng đấy, anh nói đúng, Giacomo, tôi hiểu anh. Tôi cĩng cảm thấy như vậy. Xét cho cùng, dù tôi không phải người Venice, tôi cũng là kẻ biết chữ, dịch hạch hãy giáng xuống Venice, anh nói đúng. Tôi cũng, hãy tin tôi, tôi cũng...
Nhưng ông không kịp nói hết câu. Giacomo bất chợt túm lấy cổ áo ông ta, và bắt đầu siết chặt lấy cổ.
"Đừng động đến Venice!"
Đừng động đến Venice!” - chàng nói lạc cả giọng. “Để đấy cho ta! Nào! Hiểu chưa?... Để rồi ta sẽ trừng phạt Venice!” - chàng nói bằng giọng thật đáng sợ, và dùng tay trái đấm lên ngực mình. Đặc biệt, mặt mũi chàng méo mó đến khủng khiếp trong giây phút đó. Lúc này bộ mặt ấy đúng không phải là gương mặt của con người; nó giống những chiếc mặt nạ nửa hài hước, nửa kinh dị mà các công dân Venice đeo trong những ngày lễ hội hóa trang ngắn ngủi. Tay phải chàng túm chặt cổ áo sơ mi và cổ áo khoác của bạn, tay trái lơ lửng trong không khí, như một con chim ăn thịt, rờ tìm con dao găm khi nãy chàng vừa ném lên bệ lò sưởi. Họ giật lùi như thế về phía lò sưởi, chàng kéo rê người bạn, bộ mặt bí đỏ của ông bạn từ vàng chuyển sang tím tái do bị nắm tay thít chặt. Lúc này bàn tay dò tìm của chàng đã thấy con dao găm trên bệ đá cẩm thạch, nắm lấy giơ lên cao. “Đừng động đến Venice!” - chàng nhắc lại rất khẽ, dùng lưỡi dao gí sát nạn nhân vào tường. “Không kẻ nào được động đến Venice! Không một ai có quyền!... Ngươi hiểu chưa?... Không một ai!” Chàng phun ra từng tiếng, đúng theo nghĩa đen của từ này, từ miệng chàng, từ những kẽ răng vàng khè của chàng, bọt trắng nóng bỏng bắn lên mặt người bạn khi chàng nói, như thể từ bên trong, trong cái cơ thể nóng nảy giận dữ của con người này, một cái gì đó bỗng sôi lên, và gan ruột của một đời người lúc này tung tóe ngầu bọt và bắt đầu tràn ra ngoài. Mặt chàng tái đi, xám xịt vì tức giận. “Để rồi ta!” - chàng nhắc lại một lần nữa, thầm thì, như một lời hứa hấp dẫn và khoái lạc; chàng thầm thì vào tai người bạn sợ hãi, không nói lên lời và xanh tái lại: “Chỉ
ta, chỉ người Venice mới được làm điều đó! Ngươi thì biết gì, làm sao mà ngươi biết được!... Các ngươi thì biết gì, lũ vật vờ, bọn lang thang, những kẻ vô công rồi nghề, dân buôn gian bán lận, các người thì biết gì, biết Chúa ở đâu và Venice ở phương nào? Các người ngồi trong quán rượu, trong các ngõ hẻm của Merceria12 nhâm nhi rượu vang chua và các người tưởng đó là Venice! Các người tọng đầy bụng cá và thịt, patê và mì sợi, dolce latte và pho mát nặng mùi và các người tưởng đó đã là Venice, các người lăn lóc trong nhà thổ, với năm đồng, ăn nằm với một ả điếm Ciprus trên chiếc giường bẩn thỉu, và vì giữa chừng âm thanh từ tháp chuông nhà thờ Thánh Mark ập vào tai mà các người tưởng đó đã là Venice! Các người đứng trước ban công dinh Tổng trấn, thở khò khè và reo mừng, chờ tiền thưởng, rình mò của bố thí, và các người tưởng đó đã là Venice! Đừng động đến Venice, nghe không? Đừng bao giờ động đến! Ngươi có thể biết gì về nó, nhìn thấy gì ở đó, nghe thấy gì về nó?... Hãy im lặng về Venice, như ngươi đã nằm trong mồ và dòi bọ đang đục khoét lớp mỡ mà ngươi đã béo lên nhờ ăn nhậu từ trong các nồi nấu patê ở Venice, hãy im lặng như bọn Do Thái của Diaspora13 im lặng về Chúa, hãy im lặng nếu còn quý mạng sống của ngươi, và còn muốn nhìn thấy Venice một lần nữa! Làm sao ngươi có thể biết?... Ngươi chỉ nhìn thấy đá lát và những chiếc nồi hầm, thấy bắp chân đàn bà, thấy đùi bọn hầu gái Venice, ngươi đã nhìn thấy biển, biển đã hờ hững đưa ngươi đến, cũng như những kẻ khác, dân Pháp với những bài thơ, bệnh tật và kiểu cách lịch thiệp, dân Đức đi lại trên các quảng trường và tượng đài của chúng ta với vẻ mặt lo âu như thể không phải cuộc sống là quan yếu, mà là một bài học nào đó trước sau gì cũng phải đọc
thuộc lòng, dân Anh thì tốt hơn cả là chỉ thích uống nước nóng thay vang đỏ và có thể đứng dán cặp mắt thủy tinh của họ hàng giờ vào một bức tranh trên bệ thờ của giáo đường, và không nhận ra người mẫu của bức họa là con gái của lão bán quán rượu nhà bên cạnh, cô ả đang quỳ mọp bên cạnh họ trên những bậc thang của bệ thờ và ngẫm nghĩ về những tội lỗi của cô mà cả Venice đàm tiếu và đã tha thứ từ lâu. Vì Venice không phải là viên Tổng trấn và messer grande, không phải là bọn mục sư bụng phệ và cũng không phải là các nghị sĩ mà thiên hạ mua bằng một gói tiền vàng theo ý muốn. Venice không chỉ là tháp chuông trên quảng trường Thánh Mark, đàn bồ câu trên nền đá trắng, không chỉ là các giếng nước mà những thợ thủ công Venice, những người cha và tổ tiên của cha ta đã xây dựng và chạm khắc thành tuyệt phẩm, Venice không chỉ là những phố xá hẹp lấp loáng trong mưa, không chỉ là ánh trăng trên những cây cầu nhỏ, không chỉ là bọn ma cô, bọn buôn nô lệ, bọn cờ bạc, đàn bà lỡ vận mà người ta lưu trữ hồ sô trong những văn phòng biện lý hôi hám, Venice không chỉ là những gì ta thấy. Ai hiểu biết hết Venice?... Phải sinh ra ở đấy để biết. Phải hít thở cái mùi vị ôi thiu, hôi hám như sữa mẹ hư của nó, cái mùi vị hư hỏng và thanh cao như hơi thở của một kẻ đang hấp hối và như ký ức về một giờ hạnh phúc, khi ta không sợ cuộc sống, cũng chẳng sợ cái chết, và mỗi tế bào của thân thể ta, mỗi ngõ ngách của tri giác ta đều tràn đầy sự mê hoặc của khoảnh khắc, sự say sưa hiện thực, sự quyến rũ của nhận thức, rằng chúng ta sống trên mặt đất này, ở Venice. Ta biết ơn số phận và cúi rạp mình trước định mệnh trong hạnh phúc, trong niềm tự hào rằng ta sinh ra là người Venice, nghĩa là tất cả những gì vì nó mà đáng sống đều
thuộc về ta, ta đã được ban tặng cảm giác tự do, biển cả, nghệ thuật và những phong tục đẹp, và ta biết rằng sống là tranh đấu, và tranh đấu là làm người Venice đích thực và kiêu hãnh! Hạnh phúc!” - chàng hét lên, và buông cổ người bạn mặt đã tím tái đi, chàng dang chân, trừng trừng nhìn quanh, như cha cố khi rao giảng rằng điều kỳ diệu đã xảy ra, thành tố thần thánh ở ngay trên mặt đất, giữa những con người. - “Hạnh phúc và tự hào vì có Venice, vì phía trên thực tế bằng phẳng và buồn tẻ có một cái gì đó đang bồng bềnh, những khối đá không chỉ được đỡ bằng những hàng cọc, giữa trời và nước, mà bằng cả linh hồn của cha ông ta! Hạnh phúc vì những quảng trường và phố xá, nơi dân chúng trên thế giới tháo giày, để chân trần bách bộ, nổi da gà vì thán phục, đối với ta là chốn vui chơi thời niên thiếu, nơi ta có thể vào vai cảnh binh và kẻ cướp, đóng người Moor và người Thổ cùng với con cái giới thượng lưu và con cái những người quét đường! Một thành phố tuyệt vời, nơi ai ai cũng là quý tộc, kể cả lũ trẻ ngoài phố xá, đám trẻ lăn lóc trên đám phân chim bồ câu quanh các tháp chuông. Dòng sữa mà ta mút từ vú mẹ bằng cử động đầu tiên của đôi môi đói khát trong cuộc đời, có vị của phá và của biển, nó có hương vị của Venice: hơi mặn mòi, ấm nóng và quen thuộc. Dù đến bất cứ nơi đâu, bao giờ ta cũng nhớ đến Venice, nếu hít thở mùi vị của biển, Venice và mẹ ta. Tất cả ở đó đều tốt nhất, ở Venice. Hồi ba tuổi ta học đi trên mặt nước, như Đấng Cứu thế. Chúng ta bẩn thỉu và rách rưới, và tất cả là của chúng ta, những lâu đài cẩm thạch và những chiếc cổng xây đá có đăng ten và bến cảng, nơi người ta bốc dỡ hàng từ sáng đến tối và từ tối đến sáng, người ta đem vàng và ngà voi, bạc và long diên hương, ngọc và dâu hoa hồng, vải, lụa, nhung và bạt,
tất cả những thứ mà ở chợ Constantinople14, những công xưởng Crete15, những salon thời trang Pháp, các nhà máy vũ khí Anh sản xuất được - tất cả đổ về đây, về cảng Venice, tất cả là của chúng ta, cũng là của ta, của người Venice! Và ta vui chơi, và ta biết rằng mình là người Venice. Và ta lớn lên, ta đứng trên cầu Rialto16, và nhìn thấy các sắc dân trên thế giới cập vào Venice, đem trầm hương, vàng và nhựa thơm và thần phục Venice! Đức ông đáng kính, ngài tổng thư ký, viên thư lại và chó săn của Tòa án Pháp đình lên án ta đã sử dụng tên đệm quý tộc bất hợp pháp! Nhưng có ai sống trên thế gian này lại có thể cảm thấy nhiều quyền được mang danh quý tộc hơn ta, đứa con đẻ của Venice?... Ở đâu Đức Giáo hoàng, hoàng đế, vua chúa hay thái tử có nhiều quyền ban tước hiệu quý tộc hơn nữ hoàng của thế giới, thành phố quê hương ta, Venice?... Thân phụ và thân mẫu ta đều là người Venice, ta và những người anh em ta đều sinh ra ở đó: liệu có grandezzca17 và sự quý phái chân chính nào hơn của chúng ta?... Ngươi đã hiểu chưa? Ta đã nói, đừng động đến Venice!...”
Chàng đứng đó, mặt tái dại đi, mắt thâm quầng, nói trong cơn kích động. Balbi sờ nắn cổ, gần như không thở được vì sợ hãi. Ông ấp úng nói qua hàm răng sứt mím chặt:
- Tôi hiểu, tôi hiểu rồi, Giacomo ạ. Quỷ tha ma bắt anh đi. Tôi hiểu rồi, anh là dân Venice. Nhưng nếu anh còn động đến cổ tôi một lần nữa, tôi sẽ cắn đứt mũi anh đấy.
- Ta không thèm động đến ngươi, - Giacomo cười nói. - Ngươi có thể chạy. Ta còn ở lại Bolzano vài ngày nữa, vì ta có việc trong thành phố này, ta viết thư cho ngài Bragadin, ta phải
đợi thư phúc đáp, chúng ta còn phải thay y phục, vì không có quần áo thì ngay cả đến quý tộc Venice cũng hở mông. Ta còn một chút việc ở Bolzano, đúng thế. Nhưng cuối tuần này chúng ta sẽ lên đường. Ta sẽ đưa ngươi đến Munchen, đến giáo đoàn, mà đáng tiếc cho tới nay ngươi vẫn là thành viên. Số phận của ta và chí hướng văn chương sẽ đưa ta đi tới nơi xa hơn nữa. Việc trả thù chưa vội. Mối thù không bao giờ tắt trong trái tim ta. Phải nuôi dưỡng lòng căm thù như nuôi sư tử trong cũi, hàng ngày bằng thịt tươi ròng máu, những mẩu ròng ròng máu của ký ức, để nó không đánh mất bản năng khát máu. Vì sẽ đến lúc ta quay lại Venice! Vì ta không cho phép ai động đến Venice, nhưng mối thù vẫn sống, mối thù của chúng ta, của hai chúng ta, của ta và Tòa Pháp đình, của ta và viên tổng thư ký, của ta và của những người Venice! Và ngươi hãy biết rằng Venice không phải là dân Venice. Không ai hiểu họ rõ hơn ta, ta sinh ra giữa họ, ta là máu của máu họ, và bọn họ, những người Venice, đã hạ nhục ta và xua đuổi ta! Ai hiểu rõ họ, nếu không phải là ta, người đã giới thiệu thằng điếm non cho Hồng y Giáo chủ, ai đã vay tiền nhà nước cho vị nghị sĩ phụ trách nghệ thuật từ tiền trẻ mồ côi, ai đã giới thiệu tên ca sĩ hoạn cho con người nhân từ đứng đầu ủy ban kiểm tra, ai đã nhìn thấy họ, những con người đạo mạo, sang trọng và mộ đạo, kéo cao cổ áo khoác, đeo mặt nạ lẻn qua chiếc cổng danh tiếng của bà Ricci, ai biết rằng ở Venice cuộc đời con người đáng giá năm đồng tiền vàng, ai biết địa chỉ chính xác của bọn giết người thuê suốt ngày ngồi vật vờ trong các quán rượu của những hẻm phố ngoài chợ cá, sẵn sàng và công khai cung cấp độc dược và dao cho các đức ông đáng kính, sang trọng và mộ đạo, chẳng khác gì người bán đồ thờ bán nến
và tranh thánh? Ai biết nàng Lucia xinh đẹp, con gái nuôi và tình nhân bí mật của ông sứ giả của Giáo hoàng, đã mất tích như thế nào? Ai biết người ta đã mua kim, sợi và bao tải ở đâu để vào đêm Thánh Michel khâu đứa con trai bất hợp pháp của quan Toàn quyền, chàng Paolo quý phái?... Ai biết những gì thối rữa dưới những hầm nhà Venice, những chiếc đầu nào ứng với thân nào đang trồi xuống kênh lớn sau hội hóa trang, ai biết rõ Venice?... Bọn... - chàng nói, hai tay nắm lấy chiếc bàn, mặt bàn gỗ sồi dày rung lên bởi sức mạnh. - Bọn chúng đã kết án ta! Bọn giết cha và lũ giết con, bọn cho vay nặng lãi, bọn đánh thuế nước mắt trẻ mồ côi và máu các bà góa bụa, bọn phàm tục và dâm đãng, chúng nó dám kết án ta ư! Lũ sát nhân! Trộm cướp! Bụng phệ! Hãy nhớ lấy lời ta nói, Balbi! Sẽ đến lúc ta trở về Venice.
- Đúng! - người bạn nói và làm dấu thánh. - Khi đó tôi không muốn là bạn đồng hành của anh đâu, Giacomo ạ.
Họ chằm chằm nhìn nhau. Rồi vẫn gườm gườm nhìn nhau như thế họ cùng phá lên cười, cười sặc sụa rung cả bụng.
- Gọi thợ cạo lên cho ta, - Giacomo sai. - Một cốc sô cô la nữa. Và mực, một chiếc bút lông mềm, giấy viết thư. Ta muốn viết cho ngài Bragadin, người là cha thay cha ta; có thể ta sẽ vắt của ngài một trăm đồng vàng. Nhanh lên, Balbi, đừng quên rằng ngươi là thư ký và đầy tớ của ta. Có thể chúng ta còn phải ở đây, ở Bolzano, vài ngày ngắn nữa. Hãy nhìn quanh xem, hãy mở mắt ra, đừng lượn lờ quá nhiều quanh váy bọn con gái nhà bếp, vì những buồng chì trên khắp thế gian này đều là những chiếc lồng sẵn sàng mở cửa cho những loại béo ịch như ngươi. Và ta sẽ
không cứu ngươi khỏi song sắt một lần nữa đâu. Hãy nhanh chân lên. Trong thành phố có một gã đổi tiền, một tên cho vay nặng lãi tử tế, tên là Mensch. Hãy tìm ra địa chỉ của hắn.
Bằng một động tác đưa tay vẫy mà chàng học được từ Đức Giáo hoàng - cứ như buông một chiếc hôn bằng bàn tay đeo nhẫn chàng tiễn chào người bạn. Rồi đến đứng trước gương, bằng những cử chỉ cẩn thận và tỉ mỉ, chàng bắt đầu chải mái tóc.
Francesca
Teresa mang sô cô la lên và báo rằng Giuseppe, một anh chàng điển trai, hồng hào, tóc vàng, mắt xanh, đã tới và chờ được sai bảo. Chàng đưa tiền cho cô gái, bảo mua tất trắng từ một cửa hiệu bán đồ mốt ở gần đó, đặt mua chịu hai đôi găng tay viền đăng ten và một đôi giày có khóa. Trong khi tay thợ cạo bôi xà phòng, những người hầu hạ trong nhà đi nhón chân xung quanh chàng, họ trải giường, đo nước nóng vào các chậu rửa, là đồ lót trắng, vì chàng đặc biệt lưu ý Teresa phải là cứng các ngực áo sơ mi cho chàng. Bàn tay mềm mại của tay thợ cạo lướt nhẹ trên mặt chàng, xoa bọt xà phòng, và uốn sửa những lọn tóc của vị khách nổi danh bằng những cử chỉ của một người chỉ huy dàn nhạc.
- Hãy kể cho ta nghe đi, - người khách nói, mắt vẫn nhắm, người ngả dài trên chiếc ghế tựa trước gương, trong thành phố có tin gì không?
- Trong thành phố, - tay thợ cạo điển trai nói, giọng như con gái hơi lạc đi như hát, - chính ông là tin tức đấy, thưa ông. Từ khi mặt trời lặn không có tin gì khác ở Bolzano. Chỉ có ông. Ông cho phép, - và anh ta bắt đầu dùng mũi kéo tỉa những sợi lông trong hai lỗ mũi người khách.
- Người ta nói gì? - chàng hỏi với vẻ hài lòng. - Cậu có thể nói cả những tin xấu nữa.
- Họ chỉ nói những gì tốt đẹp nhất, - anh ta nói, rồi bắt đầu đánh kéo lách cách và lấy chiếc kẹp sắt uốn tóc, hà hơi lên và khéo léo quay trong không khí. - Sáng nay, như thường lệ, sớm
tinh mơ, cháu lên chỗ Đại Quan. Sáng nào cháu cũng phải lên chỗ Ngài. Ông biết đấy, Ngài tin cậy hãng chúng cháu. Cháu cạo râu và uốn tóc giả cho Ngài, vì Ngài, cháu xin nói riêng với ông, đã trọc đầu hoàn toàn. Ông chủ của cháu, ông Barbaruccia nổi tiếng, - người ta nói ở khắp Florence không có một thợ cạo nào biết mở tĩnh mạch và dùng thuốc nấu từ thảo mộc trả lại sự cường dương đã mất giỏi như ông ấy, - là thày thuốc và thợ cạo của ngài. Và vợ ông Barbaruccia xoa bóp cho Ngài, một tuần hai lần và cả những lúc khác nữa, theo như câu của ngài.
- Hóa ra, - chàng lạnh lùng nói, - Ngài lại cần phải xoa bóp và dùng chế phẩm thảo dược ư?...
- Chỉ từ khi Ngài lấy vợ thôi, thưa ông, - tay thợ cạo nói, và bắt đầu dùng cái kẹp nóng uốn những lọn tóc xõa xuống.
Chàng nghe tin ấy hững hờ, vươn dài người trong sự biếng nhác dễ chịu mà chỉ những phút giây chúng ta phò mặc đầu cho những ngón tay mềm mại của người thợ uốn tóc muốn làm gì thì làm. Giuseppe làm việc nhanh nhẹn và đưa chuyện còn nhanh hơn. Gã nói nhỏ nhẹ và tươi mát như tiếng nước nguồn róc rách, với giọng nói đớt và không hề thẹn thùng mà chỉ dân thợ cắt tóc mới nói về những chuyện của người đời, thợ cắt tóc - cùng lúc còn là bạn, là thày, là cố vấn, và là người tin cậy, người biết rõ bí mật của thành phố, các bí ẩn của những thân thể già nua, những mạch máu nguội lạnh, những mái đầu đang rơi rụng dần vẻ đẹp, những gân cốt đang chùng, những khung xương đang rệu rã uể oải kêu lắc rắc, những răng lợi móm mém, hơi thở khò chịu, những bên thái dương rậm râu quai nón và những cặp môi nhợt nhạt. “Cứ kể đi!” - chàng nghĩ với sự đồng
lõa khôn ngoan, vươn dài người ra và để mặc gã trai có giọng nói con gái bắt đầu thoa một thứ nước thơm lên trán, rồi rắc một lớp phấn lên tóc. Chàng thích nửa giờ này, trong một thành phố xa lạ, trong mọi thành phố xa lạ, những phút vừa thức dậy và thợ cắt tóc đến, như một kẻ mách lẻo của thành phố, vừa khua kéo lách tách vừa thì thầm vào tai khách những bí mật của những người sáng và người đã khuất. Chàng khích lệ gã trai nhanh nhẹn bằng nửa lời hay bằng ánh mắt. “Thế nào? Trọc hết cả đầu à?” - chàng ngạc nhiên hỏi, cứ như đó là điều quan yếu nhất, và như thể chàng quan tâm, Đại quan là ai mà phải xoa bóp và tẩm bổ, vì đã lấy vợ?... Chàng nheo lim dim mắt, hỏi vẻ tin cậy.
- Vâng! - Giuseppe mau mắn đáp, giọng nói cởi mở, sẵn sàng như người muốn thông báo với thiên hạ cả những bí mật tăm tối và buồn thảm hơn nữa. - Những lọn tóc này mảnh quá, mảnh quá thể. Người đỡ đầu cho cháu, ông Barbaruccia và bản thân cháu cũng đều được Ngài quý mến. Trong thế giới ngày nay việc như thế chẳng có hại gì. Chúng cháu đặt trứng cá cho Ngài từ Grando, thứ này đánh thức dục vọng của Ngài, còn vợ ông Barbaruccia thì pha chế đồ uống cho Ngài từ củ cải đỏ, củ cải ngựa và hành non để chống chảy mạch máu não, nếu Ngài có những ý tưởng bỡn cợt. Cả ông lớn cũng nói về ông đấy.
- Ngài nói gì? - chàng hỏi, tròn xoe mắt.
- Ngài chỉ nói muốn gặp ông, - gã thợ cạo đáp, giọng học trò, lễ phép. - Ngài chỉ nói có thế.
- Ô! - chàng nói. - Một ân huệ lớn. Rồi ta sẽ đến chào Ngài, nếu thời gian cho phép.
Hai người cứ trò chuyện như thế. Xong việc, gã thợ cạo đã về. “Ông chủ Parma!” chàng vừa lẩm bẩm vừa xỏ chân vào chiếc quần tất mà Teresa đã chuẩn bị sẵn để cạnh giường, chàng uống sô cô la, nhấp nước bọt lên hai đầu ngón tay và vuốt hai hàng lông mày rậm, dùng con dao găm cắt móng tay, mặc áo sơ mi, dùng đầu ngón tay chỉnh lại hai bên cổ áo đã là cứng, ngón tay trỏ bên phải có đeo nhẫn thỉnh thoảng khẽ sờ lên cổ, như muốn kiểm tra độ rộng của chiếc cổ áo, và như thể chàng muốn biết chắc chắn rằng đầu mình vẫn còn nằm ở đúng chỗ của nó. “Ông chủ Parma!” - chàng nhắc lại. “Và Ngài muốn gặp ta.” Chàng không nghĩ tới điều này, trong khi thuê xe ngựa chạy trốn đến Bolzano. Chàng huýt sáo nhè nhẹ, thắp mấy ngọn nến đặt trước gương, vì chiều đã bắt đầu hắt bóng xanh thẫm vào căn phòng. Chàng ngồi xuống bên chiếc bàn chân hẹp, sắp xếp lại giấy viết thư, mực, bột thấm, và cầm chiếc bút lông ngỗng đua lên cao, hơi ngửa người ra phía sau, chàng nhíu đôi mày nhấp nháy mắt nghi ngại, chăm chú và tò mò nhìn vào trong gương. Đã từ lâu chàng chưa thấy mình như thế này, trong trạng thái tươm tất xứng đáng với chàng, với một nhà văn. Từ lâu chàng không ngồi thế này, trong một căn phòng bày đặt đồ gỗ sang trọng, trước ngọn lửa lò sưởi, áo mới là phẳng, quần tất sáng bóng, bút lông ngỗng trong tay, đúng lệ bộ, sẵn sàng cho công việc văn chương, trong giờ phút cô đơn và suy tư, chuẩn bị cho công việc mà chàng sẽ bỏ tất cả tinh lực vào, và lúc này nó không là gì khác lá thư vay tiền mà chàng sẽ gửi tới địa chỉ của ngài Bragadin. “Một lá thư ra trò!” - chàng hài lòng nghĩ, như một thi sĩ nghĩ đến bài sonnet mà những vần điệu đầu tiên, âm vang của nó đã bắt đầu cất lên trong tâm hồn phấn khích. “Ông chủ của Parma!” - chàng
nghĩ một lần nữa. “Ông ta còn sống ư?...” và tròn môi lại, chàng bắt đầu cao giọng đếm.
“Bốn,” - chàng đếm, rồi chàng nhìn lên trần nhà, cộng và trừ. “Năm!” - sau đó chàng nói, đúng như một gã lái buôn. Chàng tò mò, tròn miệng nhìn ngọn lửa nến. “Lúc này ta đúng như,” - chàng nghĩ, trong tay cầm cây bút lông ngỗng, người ngả ra thành ghế, đối diện chàng là bàn viết và lò sưởi, vừa chải chuốt, tắm gội, phẳng phiu, - “một thi sĩ.” Chàng cảm thấy tình huống thật thú vị. “Năm,” - chàng lo lắng nói, và giơ năm ngón lên cao, như muốn chỉ cho ai đó thấy, như một đứa trẻ khi kêu lên: “Đó không phải là ta!” “Năm,” chàng nói, và hàm răng khỏe cắn vào môi dưới, lắc đầu lầm bầm. Chàng nhìn vào ánh sáng, từ dưới hai hàng mi lim dim, chàng nhìn vào những khoảng tối sẫm trong căn phòng, rồi nhìn ra xa, vào cuộc đời, vào quá khứ. Và bỗng nhiên, như người đã thấy thứ cần tìm, chàng huýt sáo. Sau đó chàng nói ra cái tên: “Francesca.”
Chàng đưa cánh tay cầm chiếc bút lông ngỗng lên cao, và bằng một động tác ngỡ ngàng viết cái tên ấy vào không khí, như người nói: “Quỷ quái thật! Nhưng ta không thể làm gì được!...” Chàng vươn mình trong ánh lửa đỏ rực, trong mùi thơm ấm áp của chiếc lò sưởi, chàng ném cây bút đi và nhìn lửa. “Đúng thế, Francesca!” - chàng nghĩ. “Ông chủ Parma! Bolzano! Đúng là một sự ngẫu nhiên!” Nhưng chàng đã biết ngay, không có sự ngẫu nhiên, việc này cũng không ngẫu nhiên. Lúc này đột nhiên chàng thấy rõ nét tất cả, như thể có hàng trăm ngọn nến được thắp sáng lên trong phòng. Chàng nghe thấy một tiếng nói, một mùi hương quen, mùi mã tiền thảo và mùi khôn ngoan và nhí nhảnh của quần áo lót đàn bà mới là. “Năm năm rồi, đúng,” -