🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cánh Hoa Chùm Gửi - Quỳnh Dao full prc pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
CÁNH HOA CHÙM GỬI Tác giả: Quỳnh Dao Dịch giả: Liêu Quốc Nhĩ Tiểu Thuyết Lãng Mạn Đóng gói: Cuibap
Nguồn text: Wattpad.com
CHƯƠNG
1
Những năm dài trôi qua, tôi là của mẹ, mẹ là của tôi, gian phòng này là của hai người. Thế mà bây giờ, chỉ một khoảnh khắc biến đổi, tất cả đều thay đổi. Mẹ đã ra đi, tôi lại sắp đi xa, gian phòng này rồi đây sẽ đón nhận ai. Không biết tôi đứng lặng như vậy bao lâu, việc đón xe lửa cho đúng giờ đã bị quên lững, mãi đến khi tiếng cửa mở làm tôi giật mình quay lại, bà hiệu trưởng họ Lâm bước vào vỗ về tôi:
- Ức My, con đến Đài Bắc ngay bây giờ sao con?
- Vâng ạ! Tôi nhỏ nhẹ đáp - con đi chuyến xe bốn giờ rưỡi chiều nay.
- Sao gấp quá vậy, con vẫn có thể ở thêm vài ngày nữa được mà. Tôi lắc đầu không đáp. Bà hiệu trưởng lại nói tiếp:
- Thôi được, muốn đi thì đi cho sớm vậy. Bây giờ chỉ còn bác ở lại, buồn quá.
Bà hiệu trưởng lại thở dài chăm chú nhìn tôi:
- Này Ức My, bác với mẹ cháu sống gần gũi nhau đã trên mười hai năm, như thế cũng có thể kể như là tâm tình lắm rồi, thế mà bác vẫn không hiểu nổi mẹ cháu. Tại sao mẹ cháu lại không tin tưởng bác, bác không thể chăm sóc cháu được hay sao mà lại phải bắt cháu chạy đến nương trọ nhà một giáo sư ở tận phương trời xa xôi? Một người bạn mà suốt mười mấy năm không liên lạc, liệu giáo sư La Nghị có chăm sóc chu đáo cháu được hay không?
Tôi vẫn không đáp, tôi biết là bà làm hiệu trưởng trường tiểu học này đã lâu, lại cũng chơi rất thân với mẹ, nhưng tôi biết mẹ không để tôi sống với người, vì một mục đích, một hy vọng duy nhất, đó là làm thế nào tôi có thể lên đại học, “con phải biết chỉ có một người có thể đưa con đến mục đích, đó là Giáo sư họ La. Mặt khác tuy bà hiệu
trưởng Lâm là người bạn tốt của mẹ, nhưng bà có đến sáu đứa con, một người hiện học ở đại học, ba ở trung học và hai ở tiểu học, do đó mẹ sợ bà ta không thể lo thêm cho con”.
- Thôi được, bà Lâm nói - Muốn kịp xe lửa thì phải đi nhanh đi kẻo trễ. Đến đó con xem tình hình xem nếu có thể ở được thì ở, bằng không thì trở về đây, thêm một miệng ăn cũng chẳng có bao nhiêu con nhé!
Tôi gật đầu. Bây giờ thì chỉ còn đúng một giờ nữa là tàu hỏa bắt đầu chạy. Tôi bước ra cửa, bà Lâm lặng lẽ theo sau. Ra đến ngoài, nỗi tiếc nuối làm tôi do dự, tôi quay lại nhìn gian phòng to không hơn sáu manh chiếu mà mẹ con tôi đã sống trên mười hai năm, giờ phải xa cách. Thôi, tạm biệt! Những giọt nước mắt chua xót làm mờ cả mắt.
- Ức My!
Có tiếng ai gọi tôi, tôi quay đầu lại. Một đám đông đầy đủ cả mọi người, giáo sư Trương Ngụy và hầu như đủ cả những người bạn đồng nghiệp của mẹ tôi.
Tôi hít thở một hơi dài để giọt lệ khỏi lăn xuống má. Phải làm thế nào để tỏ ra mình đã là người lớn. Tôi thẳng người đến chào từng người một và nói lời từ biệt, cố giữ vẻ mặt nghiêm trang và yên lặng để nghe những lời chúc may mắn. Lí nhí một vài tiếng cám ơn. Rồi sau cùng tôi rời khỏi cổng trường tiểu học, rời khỏi một nơi mà suốt bao năm tôi đã sống yên ấm.
Bà hiệu trưởng đưa tôi đến tận ga.
Bà đứng trên sân ga đảo mắt nhìn quanh. Tôi bước lên toa tàu tựa người vào cửa sổ ngắm khuôn mặt buồn thảm của người bạn già của mẹ. Tôi không biết nói gì, có lẽ vì tương lai quá mù mịt, không thể đoán được rồi sẽ ra sao khiến cho tôi trầm lặng không nói được chăng?
Bà Lâm không còn vẻ vui tươi hàng ngày, bà cũng lặng lẽ nhìn tôi.
Có phải bà đang chua xót cho tôi, chua xót cho mẹ tôi, hay chua xót cho chính mình, một người không đủ khả năng bao bọc đứa con côi của người bạn bạc số của bà!
Tiếng còi xe hú to, tiếng máy xình xịch nổ, xe đã bắt đầu chuyển bánh, Bà Lâm ngoái đầu sang nói to:
- Ức My, con nhớ viết thư cho bác nhé!
- Vâng ạ! tôi lớn tiếng- xin tạm biệt bà hiệu trưởng.
- Tạm biệt con! Bà Lâm không tự chủ được, chạy với theo xe, - Ức My! con ráng lo bảo vệ lấy thân vì từ nay con đã sống tự lập rồi đấy nhé!
Xe chạy đã xa, chiếc bóng gầy của bà hiệu trưởng khuất dần trong tầm mắt. Phải rồi, từ nay tôi đã là người sống tự lập. Nói khác đi, từ nay tôi sẽ là người không nhà không cửa, không nơi nương tựa. Giáo sư họ La có thông cảm cho tôi tạm trú chăng? Chấp nhận tôi chăng? Ngồi tựa lưng vào cửa sổ, nhìn những bóng núi xa xa mờ bên ngoài tôi càng thấy buồn bã làm sao.
Tôi còn nhớ, cách đây năm năm trong một buổi sáng, mẹ đang xem báo, bỗng bỏ xuống thở dài:
- Không ngờ bây giờ La Nghị lại cũng đến Đài Loan rồi! Tôi vội hỏi:
- La Nghị là ai vậy mẹ?
- Một nhà Địa Chất học.
Mẹ lạnh lùng đáp. Khi bắt đầu ăn điểm tâm, tôi kéo tờ báo để trước mặt thấy một cái tít: “Địa chất gia trứ danh, Bác Sĩ La Nghị ngày hôm qua cùng gia quyến đáp tàu từ Hồng Kông qua Đài Bắc để đảm nhiêm chức vụ giảng huấn tại tường Đại Học Đài Bắc”.
Mảnh tin nhỏ trên không làm cho tôi chú ý mấy, vì hôm ấy hãy còn nghỉ hè và tôi có hẹn cùng mấy người bạn đến viếng hồ Đại Bối. Bỏ tờ báo xuống, tôi hỏi mẹ:
- Mẹ có quen với ông giáo sư này hả mẹ?
- Có, lúc trước khi còn ở Lục Đia, mẹ và vợ ông ta là đôi bạn thân. - Mẹ có tính đến thăm họ hay không? Vừa hỏi tôi vừa cắn miếng bánh nướng.
- Đến thăm họ à? Mẹ hơi nhíu mày - Không! đến làm chi trong lúc họ đang vui sướng, mình đến thành ra...
Mẹ bỗng nín bặt, đoạn quay sang nhìn tôi hét:
- My, sao con ăn uống không đàng hoàng để bánh rơi đầy nhà thế này.
Đối với Giáo sư họ La, tôi chỉ biết được có bao nhiêu đó. Từù đấy về sau mẹ tôi không hề nhắc dến ông ta nữa. Còn riêng tôi ư? chỉ vài phút sau là quên ngay câu chuyện ở chín từng mây đó. Cho mãi đến ba tháng trước đây, khi mẹ tôi biết chắc bị bệnh ung thư ở tử cung, thì hai mẹ con tôi đều ý thức rằng bóng dáng thần chết ngày đêm đang đe dọa chúng tôi.
Một hôm, mẹ bỗng bảo tôi đi gửi một bức thư, trên phong bì đề tên giáo sư La Nghị, địa chỉ ở đường Roosevelt, Đài Bắc. Khi gửi xong thư trở về, mẹ mới nói về giáo sư La Nghị cho tôi nghe:
- Ông ấy là một nhà học giả rất thân với gia đình chúng ta. Một mai mẹ có bất hạnh qua đời chỉ có ông ta là người mà mẹ hy vọng nhất có thể lo lắng cho tương lai con mà thôi.
Như mẹ thường nói, tôi là một đứa con gái ít khi dám nhìn vào sự thật, có lẽ là vì tôi là con gái độc nhất của mẹ, hay làm nũng và quen được nuông chiều chăng? Mặc dù biết mẹ mang phải chứng bệnh bất trị, không bao lâu người sẽ từ bỏ tôi, nhưng tôi không bao giờ dám nghĩ đến những hình ảnh ấy, vì vậy mỗi khi mẹ tôi đề cập đến vấn đề này là tôi bao giờ cũng quỳ xuống thét to:
- Không bao giờ có ngày đó xảy đến. Mẹ, không bao giờ! Và tôi vụt chạy đến một góc kẹt nào đó dể ngồi khóc. Nhưng bây
giờ cái ngày đó đã đến, trong hành lý tôi có bức thư mà ba ngày trước khi mẹ nhắm mắt mẹ đã viết và dặn dò tôi phải trao tận tay giáo sư La Nghị.
Bức thư được chính tay mẹ dán kín nên tôi không biết được người đã viết những gì trong ấy, nhưng tôi nghĩ đó là những lời nhờ vả gửi gấm. Bản tính của mẹ hồi nào tới giờ chưa bao giờ khuất phục hay van xin một ai, thế mà không ngờ trước khi đến bước đường cùng của cuộc sống, lại phải nài nỉ một người bạn lâu ngày không qua lại để nhờ thu nhận gìum đứa con gái “không bao giờ lớn” của mình.
“Đứa con gái không bao giờ lớn”. Mẹ vẫn thường bảo thế và thường hỏi tôi:
- Này Ức My, đến bao giờ con mới hết là đứa con nít. Đến bao giờ con mới biết chuyện người lớn, không còn là đứa bé tối ngày lẩn quẩn quanh chân mẹ hở con?
Đứa con nít! Tôi chỉ thích làm đứa con nít, để dược suốt ngày nằm vùi trong lòng mẹ. Bất cứ một việc nhỏ nhặt đến đâu cũng đều có mẹ lo, suốt ngày tôi chỉ ăn, ngủ, học bài rồi đùa giỡn, không phải bận tâm điều gì cả.
Nhưng nay, mẹ đã đi rồi, những chuỗi ngày không còn tiếng cười đã đến, tôi bỗng cảm thấy mình biến thành người lớn, bắt buộc phải đối diện với mọi sự thật ở đời.
CHƯƠNG
2
Bên ngoài khung cửa, bóng tối âm thầm đến, cánh đồng hoang vu đã bắt đầu lập loè ánh lửa. Bánh xe vẫn quay, vượt qua đồng bằng, phố thị, thôn xóm để mang cuộc đời tôi vào nơi vô định.
Chiếc xe chạy hơi chậm, nên đến Đài Bắc thì đã gần mười một giờ đêm.
Xuống xe, với chiếc sắc nơi tay, bước ra khỏi nhà ga, tôi đứng nhìn quanh. Suốt mười hai năm dài sống với mẹ tại Cao Hùng, tôi chưa hề nhìn thấy một thành phố nào tấp nập ồn ào như Đài Bắc.
Ngẩng đầu lên, những ánh đèn màu huy hoàng lấp lánh, phòng ngủ, quán ăn san sát hai bên đường.
Đài Bắc! Thành phố mà bao lâu nay tôi đã ước mơ đến viếng đang ở trước mặt. Những chiếc xe kéo, xe taxi chạy thành hàng, phố xá tấp nập người qua lại tạo một cảm giác lo lắng, sợ sệt trong tôi.
Lần đầu tiên trong đời tôi mới thấy được thế giới rộng lớn như thế, không phải chỉ vỏn vẹn như “chiếc phòng sáu manh chiếu” của mẹ con tôi. Đường phố đan nhau chằng chịt cộng thêm những kiến trúc đồ sộ chung quanh, không giống cái xã hội thu hẹp của mẹ con tôi ngày nào.
Một chiếc xích lô chạy trờ đến trước mặt:
- Đi xe không cô?
Tôi do dự một chút bảo:
- Đến số ba đường Roosevelt bao nhiêu?
- Mười đồng.
Mười đồng! Tôi không biết là rẻ hay mắc, vì tôi nào có biết đường Roosevelt ở đâu đâu.
Leo lên xe, tôi nghĩ thấy hối tiếc. Bây giờ đã mười một giờ khuya rồi, chạy đến quấy rầy như thế không quá muộn hay sao? Biết đâu họ đã ngủ cả rồi, đánh thức người trong giấc ngủ ngon là một việc làm vô lễ. Mẹ thường bảo tôi làm việc gì cũng không chịu suy nghĩ trước sau, như vậy là tôi vẫn chưa là người lớn được. Nhưng mà, bây giờ xe đã lăn bánh rồi, biết sao? Những ngọn gió đêm đầu mùa hạ thổi mát cả người, tôi không còn muốn suy nghĩ thì thêm nữa!
Chiếc xe chạy suốt hai mươi phút mới đến.
Bước xuống xe, tôi thấy mình đang đứng trước hai cánh cổng to màu đỏ, chung quanh là bờ tường cao. Nhìn số nhà, biết mình không lầm, tôi trả tiền ông phu xe và chờ chiếc xe đi khuất mới quay sang quan sát cánh cổng và bờ tường. Chiếc cột đèn bên lề đường phản chiếu chiếc bóng gầy còm của tôi xuống đường trông thật ảm đảm, thật cô đơn! Chiếc đồng hồ trên tay, di vật của mẹ chỉ đúng mười một giờ ba mươi.
Tựa lưng vào tường, lén nhìn qua cổng, bóng tối bao trùm trên khắp ngôi nhà to lớn vẫn còn để thừa một ít ánh sáng thoát ra ngoài. Do dự khoảng hai ba phút, tôi nghĩ thầm nghĩ dù đã khuya, tôi cũng không thể đứng mãi thế này chịu trận suốt đêm được. Cố lấy hết sức bình tĩnh, tôi nhấn nhẹ vào chuông.
Ngôi nhà này chắc to rộng lắm, vì tiếng chuông bấm xong rồi, tôi đứng ngoài cửa vẫn không nghe thấy. Đợi một lúc lâu vẫn không thấy động tĩnh gì cả, có lẽ chủ tớ đều ngủ say cả rồi. Không thể chần chờ được, tôi bấm chuông một lúc ba lần. Một lát sau có tiếng chân người bước ra, tiếng chân nặng nề bước nhanh ra cửa, rồi cánh cửa mở to. Một gương mặt râu ria xồm xoàm nhô ra với chiếc trán bóng, đôi chân mày sậm cau lại đôi mắt tóe lửa, bảo tôi:
- Mày có khùng hay không hở con bé?
Tiếng hét giận dữ của lão làm tôi giật mình lui lại hai bước. Tôi lắp
bắp trong cơn hoảng hốt:
- Tôi...tôi à mà...
- Mày, mày là cái gì, có cút đi ngay không?
Tiếng nói như tiếng rít của con thú dữ. Trong lúc chưa lấy lại kịp bình tĩnh thì hai cánh cửa đã đóng sầm lại. Tôi hốt hoảng nhảy chồm về phiá trước, đập mạnh vào cửa. Dù sao đi nữa tôi cũng không thể bị bỏ ngoài cửa được, vì trời đã khuya rồi, tôi biết đi đâu bây giờ. Đấm thùm thụp vào cửa tôi la lớn:
- Ây da. Ông ơi, đợi tôi một chút, tôi có chuyện muốn thưa với ông! Cánh cửa lại mở ra, chiếc đầu rối khi nãy lại xuất hiện, gần chạm vào mũi tôi, tiếng gầm gừ lại vang lên:
- Cút ngay, mày có nghe không? Ai là ây da, ở đây không có ai là ây da cả! Đi, cút ngay!
Tiếng rít của lão già nghe thật dễ sợ, tiếp theo sau là một tiếng ầm, cánh cửa lại đóng kín.
Tôi lặng người đứng nhìn hoảng hốt. Tiếng hét của lão làm tôi sợ. Nhìn cánh cổng đóng kín, tôi bỗng như bị mất cả chủ đích. Trước khi đến Đài Bắc, tôi đã từng tưởng tượng trăm lần, nhưng không ngờ sự kiện lại xảy ra thảm não đến thế này. Tôi cũng đã từng nghĩ đến chuyện họ không cho tôi ở trọ, nhưng cũng chưa hề tưởng dược việc họ lại xua đuổi tôi một cách tàn nhẫn như thế. Tiếng hét của lão râu xồm khiến tôi không thể tỏ bày được việc gì cả. Bây giờ bị bỏ ngoài đường, trong một thành phố xa lạ lúc khuya khoắt như thế này, tôi phải làm sao đây.
Đứng chần chờ trước cổng một lúc khá lâu, tôi không biết phải đi đâu. Gió đêm thổi bùng tóc rối, trời lưa thưa vài cánh sao, tôi cảm thấy lạnh vì khí hậu giữa miền bắc và nam hơi khác biệt nhau. Nhưng không thể đứng trước cổng mở rương lấy áo mặc, thôi đành chịu lạnh vậy.
Con đường sâu hút không một bóng người, không một chiếc xe chạy qua, tôi phải đứng đây đợi sáng hay sao? Nhìn cảnh đêm trống trải, cô độc bỗng nhiên tôi muốn khóc. Phải làm sao bây giờ đây? Làm sao trời ơi! Mẹ ở dưới tuyền đài có biết rằng tôi đã bị người ta tiếp đãi như thế này hay không?
Đứng như thế một lúc lâu, bỗng nhiên một chiếc xe đạp từ đầu đường chạy vào. Tôi nhìn trân trối, chiếc xe đạp thắng lại trước mặt tôi. Một người con trai nhảy xuống nhìn tôi lạ lùng, tôi cũng nhìn anh ta vì không biết anh ta là ai, cũng không biết nên hay không nên cho hắn biết tại sao tôi phải đứng trước cổng này.
Chúng tôi cứ nhìn nhau như thế, một khắc sau anh hỏi: - Cô đứng đây làm chi vậy?
Đoạn quay sang nhìn chiếc va li để dưới đất cạnh tôi hắn bỗng khoanh tay lại gật gù, hỏi:
- À hay là cô bỏ nhà ra đi vì mẹ mắng chớ gì, phải không? Thôi được rồi, cho tôi biết địa chỉ, tôi sẽ đưa về nhà cho nhé. Tôi chăm chú nhìn hắn, tên này thật là lắm chuyện, tôi nào có phải là đứa trẻ nít lên ba đâu mà hẳn tưởng bị ba mẹ mắng. Chính nhờ nhìn hắn, tôi mới thấy hắn hãy còn trẻ, chỉ độ 26, 27 tuổi gì đó, mặc áo si trắng dài tay, cúc tay không cài bỏ lửng. Áo thì hở cổ không cà-vạt, đầu tóc rối bù sù.
- Sao, chịu không? Hắn hỏi tiếp - Bộ có tính ngủ đêm ở đây sao hả? Hay là cô vào nhà ngồi chơi một chút đi nhé.
Vừa nói hắn chỉ vào đôi cánh cổng màu đỏ. Tôi choàng tỉnh, đứng thẳng người lại, hỏi:
- Bộ anh ở đây hả? Nhà này của anh đấy à!
- Vâng, tôi ở đây. Hắn gật đầu - Mặc dù đây không phải là nhà của tôi nhưng có thể tạm xem như vậy. Tôi sẽ tìm cách để cô ngủ nhờ một đêm, nhưng mai phải về nhà nghe, chịu không?
Tôi gục đầu nhìn xuống muốn khóc...tôi, tôi bây giờ không có nhà cửa. Nhưng cố trấn tĩnh, bây giờ đâu phải là lúc để xúc động, phải giải quyết vấn đề của chính mình nữa chứ.
- Tôi đến đây, mục đích là tìm giáo sư La Nghị.
Gã thanh niên ngạc nhiên:
- Tìm giáo sư La Nghị! Thế sao nãy giờ cô không chịu bấm chuông? - Tôi đã bấm mấy lần rồi chứ, nhưng đã bị một lão cổ quái đuổi ra. - Lão cổ quái là ai vậy?
- Vâng, một lão già cổ quái, râu tóc bùm xùm, không nhìn thấy chân mày, mồm miệng đâu cả.
Gã thanh niên bỗng nhìn tôi một cách thú vị, hỏi:
- Thế cô tìm giáo sư La Nghị có việc chi?
- Có chứ, một vấn đề hết sức quan trọng.
- Vậy cô hãy theo tôi vào nhà nhé.
Hắn cho tay vào túi tìm chià khóa mở cửa. Một tay hắn đẩy cửa ra, một tay xách valise cho tôi, bước vào. Qua khỏi cửa là một khu vườn hoa rộng lớn. Chàng thanh niên dựng xe bên căn nhà nhỏ, đóng cổng lại đoạn quay sang nói:
- Bây giờ mình vào phòng khách xem có giáo sư ở trong phòng không nhé!
Hắn bước trước, tôi theo sau. Trong đêm tối chỉ trông thấy bóng cây ẩn hiện. Qua khỏi con đường nhỏ lát đá sỏi, tôi nhìn thấy một tòa nhà đồ sộ hai từng, phiá trước có bực thềm cao và đèn hãy còn sáng. Qua khỏi bực thềm, đẩy cánh cửa kính ra, gian phòng bên trong tối om, gã thanh niên tìm công tắc điện, đèn bật sáng. Tôi thấy mình đang đứng giữa gian phòng khách lộng lẫy, bộ sa lông để cận tường, chiếc đàn dương cầm ở góc, trên có lọ hoa.
- Cô ngồi đây đợi tí, tôi sang phòng đọc sách tìm giáo sư.
Tôi ngồi đấy, trong khi hắn đẩy cánh cửa nhỏ đi ra. Tôi nhìn quanh, phòng khách này hình như có cửa ăn thông với bên ngoài bằng tấm màn voan trắng. Bốn bề yên lặng, tôi cảm thấy không an tâm. Sự mệt mỏi và cảm giác rối rắm phiền muộn bao quanh, khiến cho tôi ước mơ được trở về gian phòng nhỏ của tôi để đánh ngay một giấc ngon lành.
Có tiếng mở cửa, tôi quay lại, lòng không khỏi khiếp đảm, lão già kỳ quái hồi nãy bỗng xuất hiện, đôi mắt giận dữ đang tròn xoe nhìn tôi như muốn ăn tươi nuốt sống. Dưới ánh sáng của ngọn đèn, vóc dáng to lớn với mái tóc bồng của ông càng làm vẻ kinh dị. Tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Lão bước tới lại gần tôi. Trong một phút, tôi bỗng có cảm tưởng lão sẽ xách cổ tôi tống ra khỏi phòng. Nhưng lão không làm vậy mà nện mạnh gót chân rồi hét to:
- Ai cho cô vào đây?
- Dạ thưa tôi ạ!
Có tiếng trả lời từ bên cửa. Lão già quay sang nhìn gã thanh niên lúc nãy cho tôi vào, hùng hổ:
- Anh à. Tại sao anh cho cô ta vào đây? Ai khiến anh vậy. - Dạ lúc nãy cô ta nói muốn gặp mặt giáo sư. Hình như cô ta có chuyện quan trọng lắm, nhưng giáo sư đã làm cho cô ta sợ. Gã thanh niên lơ đãng đáp. Trời! Vậy ra đây là Giáo sư đây ư? Con người kỳ quái không thân thiện như thế mà mẹ lại bắt tôi đến với ông ta. Tôi ngạc nhiên tròn xoe mắt nhìn. Giáo sư La Nghị cũng quay sang nhìn tôi, ông đưa tay lên vuốt mũi, đôi chân mày sâm hơi nhíu lại, đoạn miễn cưỡng hỏi:
- Vậy có phải cô là bạn của Hạo Hạo không?
Tôi ngạc nhiên! Hắn muốn nói gì thế? Nhưng sau đó tôi đoán ngay ra là có lẽ ông ta đã tưởng lầm tôi là người ông không thích gặp. Dầu
sao đi nữa, không thể để tình trạng này kéo dài, tôi phải tự giới thiệu cho ông ta biết ngay tôi là ai mới được, tôi nói:
- Dạ tôi họ Mẫn, tên là Ức My con của Giang Tú Lâm ạ - Giang Tú Lâm là tên của mẹ tôi - Mẹ tôi có gửi cho ông bức thư. Nói xong, tôi lấy bức thư trong vali trao ngay cho ông ta. Giáo sư La Nghị sau khi nghe xong bị xúc động như chạm phải điện. Ông há hốc miệng, đôi mắt chăm chú nhìn tôi yên lặng không đáp. Một lúc sau, như chợt tỉnh, ông chộp ngay bức thư xé toạc ra, liếc sơ nhìn những dòng chữ trên giấy, xong quay sang tôi, lời lẽ cộc lốc: - Mẹ của em giờ ra sao?
- Chết rồi.
Ông hơi nhíu mày, hừ một tiếng trong mũi:
- Tại sao chết? Chết ở đâu?
Tôi cũng đáp gọn:
- Chết ở Cao Hùng, bệnh ung thư tử cung.
- Cao Hùng ư?
Miệng lảm nhảm không thành tiếng, một lúc sau ông lại lập lại: - Cao Hùng?
Và quay sang,đôi mắt sáng chăm chú nhìn khuôn mặt tôi, một lúc lâu ông lại đưa tay lên vuốt mũi.
- Thôi được. Em mệt lắm rồi, mọi chuyện để mai kể tiếp nhé. Giọng nói thô lỗ bỗng trở nên ôn tồn hơn.
- Em từ Cao Hùng đến phải không? Thôi đi ngủ ngay đi. - Dạ.
Dáng dấp ông ta có vẻ hơi hối hận:
- Tại sao lúc nãy khi tôi ra mở cửa em không nói ngay? Nếu không gặp Trung Đan thì em đứng ngoài cửa suốt đêm sao? Tôi bối rối:
- Nhưng lúc nãy Giáo sư nào có để cho tôi nói gì được đâu. - Hừ! Ông ta hừ thêm một tiếng, đoạn quay sang nhìn gã thanh niên lúc nãy bảo - Lại đây Trung Đan!
Gã thanh niên lại gần, không quên mỉm cười với tôi.
- Dẫn cô này lên lầu. Giáo sư ra lệnh xong quay sang hỏi tôi - Lúc nãy em nói em tên gì họ gì đấy?
- Dạ, em tên Mẫn Ức My. Ức là ký ức, còn My là chữ My có thêm bộ thủy bên cạnh.
- Mẫn Ức My!
Ông ta nhấn mạnh từng tiếng như để ghi nhớ. Sau đó lầu nhầu trong miệng như rủa thầm một ai, hoặc là không thích tên tôi gì mấy, rồi xua tay:
- Họ Mẫn ư? Họ không đẹp lắm. Nhưng thôi, Trung Đan hãy dẫn cô họ Mẫn này lên lầu, phòng bên cạnh phòng của Khởi Khởi đó nhé. Tôi cúi đầu lúng túng:
- Thưa Giáo sư, tôi muốn được tắm một cái trước đã ạ. Giáo sư La Nghị bực bội:
- Trời ơi! Sao lộn xộn vậy. Lên lầu đi, đi chứ.
Tôi chần chờ một lúc xong đứng dậy. Gã thanh niên tên Trung Đan đã xách valise tôi bước ra cửa, tôi chỉ còn biết bước theo. Đến trước cửa tôi quay lại nhỏ nhẹ:
- Xin chào Giáo Sư, cám ơn Giáo sư đã cho tôi ở trọ.
Ông ta vẫn đứng đó, gương mặt đầy râu tóc dịu hẳn xuống. Những chiếc râu hơi rung động, đôi mắt sáng trộn lẫn cả nét ôn hoà, ông quay người đến ngồi trên ghế. Tôi vẫn nghe thấy những tiếng lầu bầu của ông trong phòng, nhưng không rõ lắm!
Theo chân Trung Đan, tôi di qua một gian phòng rộng lớn khác, có lẽ dây là phòng ăn của nhà họ La. Gian phòng thật rộng và ngăn nắp
bên cạnh có một cầu thang dẫn lên lầu. Qua khỏi cầu thang là một hành lang rộng, hai bên là hai dãy phòng. Trung Đan dẫn tôi dến phòng thứ ba bên phải, mở cửa, bật đèn xong quay sang nhìn tôi cười:
- Cô My tôi nghĩ có lẽ giáo sư La Nghị chờ đợi cô đã mấy tháng nay rồi. Căn phòng này đã được sửa soạn từ ba tháng trước. Tôi tò mò nhìn vào phòng, chiếc phòng ngủ được chăm sóc khéo léo và xinh xắn. Chiếc giường nệm nhỏ, bàn trang điểm, chiếc tủ đứng đựng quần áo, chiếc bàn giấy xinh đẹp trên có ngọn đèn để bàn, ngoài ra còn một chiếc kệ sách lồng kính trên có bình hoa hồng. Trên giường, nệm gối xếp đặt ngay ngắn, chứng tỏ chủ nhân đã sẵn sàng đón nhận tôi. Sự ngỡ ngàng khiến tôi hơi ngại ngùng. Trung Đan nhìn tôi cười luôn miệng:
- Cô thấy có đẹp không? Cách bài trí nầy tương tợ phòng của Khởi Khởi, con gái giáo sư La Nghị. Tôi rất sung sướng được biết cô là một nhân vật mới của gia đình họ La. Bây giờ xin phép không dám làm phiền cô, để mai ta gặp lại nhé.
- Cám ơn anh.
Tôi không biết gọi anh ta là gì khác hơn, vì chưa biết rõ địa vị của Trung Đan trong gia đình này. Có lẽ Trung Đan cũng đoán được ý của tôi, nên hắn nói:
- Tôi họ Từ, tên Trung Đan, chữ Trung là trung gian, còn Đan là tên của một loài cây.
Ngưng một phút, hắn lại tiếp:
- Tôi chưa biết cô là ai, nhưng tôi đoán có lẽ địa vị của hai ta trong ngôi nhà này giống nhau. Thôi được rồi, mọi chuyện sẽ tính sau, bây giờ xin phép cô!
Hắn bước ra khỏi phòng, thuận tay đóng cửa lại. Và đến lúc này tôi mới buột miệng:
- Chào anh.
Tôi chắc hắn nghe rõ lời chào của tôi. Nhìn khắp gian phòng, tôi có cảm giác như đang sống trong ảo tưởng. Căn phòng này quá huy hoàng, quá xinh xắn, không thể ngờ lại có thể thuộc về tôi được. Như vậy đây là sự thật, tôi đã không hề bị nhạo báng, bị bỏ rơi, mà lại còn được đặt vào một hoàn cảnh mới sang trọng gấp trăm lần căn phòng khi xưa mẹ con tôi đã sống. Đến bên song cửa, tôi kéo cao tấm màn xanh lơ, mở toang cửa kính, luồng gió đêm từ ngoài lùa vào mang theo hương hoa thơm ngát. Hít một hơi dài, nhìn ra ngoài cửa lòng vẫn băn khoăn, tôi tự hỏi. Tôi là ai? Một đưá bé mồ côi vừa mất mẹ? Tôi hiện ở đâu đây? Ngôi nhà một người bạn xa lạ. Có phải đây là một sự thật chăng?
Ngọn gió đêm luồn qua hàng cây cao trong vườn, quanh quẩn quanh tôi rồi đi ra ngoài tiếng gió rít nhẹ như lập lại những câu hỏi mơ hồ:
- Có phải là ta đang sống thật hay chăng?
Tôi bắt đầu thức giấc khi tia nắng ban mai len vào phòng. Trong cơn mơ màng tôi không biết mình đang ở đâu. Chiếc nệm êm, chiếc gới mới còn thoang thoảng mùi vải. Khung cửa kính rung nhẹ bên ngoài khi gió mơn man, tất cả thật xa lạ với tôi.
Đôi mắt khẽ chớp, gió từ phương nào thổi đến mà lại nhẹ nhàng thơm tho như vậy. Tôi hít lấy một hơi dài, có phải mùi hoa hồng? hoa lài? hay Diễm kim hương? Trở mình sang một bên, rồi tôi lại nhắm mắt ngủ lại, nhưng gió thổi lạnh đôi vai. Cuộn kín chăn cả người, thế mà mặt vẫn lạnh, có lẽ tối qua tôi quên đóng cửa sổ chăng! Nhưng tôi nhớ rõ là mình đã đóng kín rồi cơ mà, thế thì gió từ đâu đến đây? Tôi lăn người trở lại cố gắng mở mắt và choàng tỉnh.
Đôi mắt nhìn thẳng vào khung cửa sổ, tôi ngạc nhiên vô cùng, vì đôi cánh cửa đang mở, chiếc màn xanh lơ đang phất phơ trong gió. Nhưng điều tôi ngạc nhiên, không phải là vì cửa sổ bị mở tung ra, mà vì chiếc bóng trắng đang đứng cạnh cửa, chiếc bóng bất động mờ ảo
như sương.
Đó là bóng dáng của người đàn bà, đang hướng mặt nhìn ra phiá ngoài, quay lưng về phiá tôi. Chiếc áo dài lụa trắng, mái tóc đen xõa ngang vai bị thổi tung bay trong gió, dáng cao và gầy của bà lồ lộ trong lớp vải. Tôi chăm chú nhìn, không hiểu tại sao bà ta lại xuất hiện trong phòng tôi? Bà ta là ai? Chờ đợi một lúc lâu vẫn thấy bà đứng bất động như đang chú tâm nhìn một cái gì ngoài cửa sổ. Tôi giả vờ ho khẽ một tiếng, bà nghiêng đầu nhìn sang và nhẹ bước đến cạnh giường.
Bà đứng đấy chăm chú nhìn tôi, và tôi vẫn nằm yên nhìn bà không chớp mắt. Gương mặt thật lạ lùng nghiêm trang, trắng xanh, chỉ có đôi mắt to là mang vẻ sống động. Đôi mắt sâu hút đó đang chăm chú nhìn tôi trong khi đôi môi mím chặt như không muốn lời nói thoát ra ngoài.
Chúng tôi cứ thế yên lặng nhìn nhau. Trời sáng dần, ánh sáng tràn ngập căn phòng khiến tôi dễ dàng nhận diện khuôn mặt bà hơn. Tuy không còn trẻ, đôi mắt đã có những vết xếp, mép đã hằn vết tích của thời gian, nhưng làn da vẫn mịn màng. Có lẽ bà đã ngoài bốn mươi. Một lúc sau bà xoay ánh mắt ra song cửa và buông tiếng thở dài não nuột, chua xót, bà nói nhỏ nhẹ:
- Chị ấy chết thật rồi sao?
Tôi không biết có phải bà ấy hỏi tôi hay không? Tôi cũng không biết tiếng chị ấy là để hỏi ai? Nhưng tiếng nói của bà đã đánh tan lòng nghi hoặc ban đầu. Ngôn ngữ có thể làm tiêu tan vẻ xa lạ giữa người với người. Tôi đoán có lẽ bà là bà chủ của ngôi nhà này, vì thế tôi mong chúng tôi có thể thân mật nhau hơn.
- Thưa bà, bà hỏi tôi?
Bà ta quay sang nhìn tôi lạnh lùng:
- Vậy chớ cô tưởng tôi nói ai?
Tôi cảm thấy hơi ngỡ ngàng:
- Bà muốn hỏi mẹ tôi đấy à? Mẹ tôi đã chết rồi, thưa bà. Bà ta nhìn tôi một lúc, đoạn gật đầu như nói thầm một mình: - Chết rồi à?
Bà quay sang nhìn song cửa với đôi mắt âu sầu.
- Chết là đã được giãi thoát!
Bà lại quay sang nhìn tôi, rồi lảng lặng bước ra khỏi phòng. Tiếng bước thật nhẹ không gây một tiếng động. Khi bóng bà đã khuất, tôi mơ hồ cảm thấy thái độ của bà như không thân thiện với tôi lắm.
Ngồi trên giường, hai tay ôm lấy gối tôi nghĩ ngợi mãi vẫn khônng tìm thấy một lý do, chỉ biết là mình đang sống trong một hoài cảnh lạ lùng. Mẹ thường nói tôi không thực tế, hay nghĩ vẫn vơ, tôi phải học làm người lớn. bỏ cái bản tính trẻ con. Choàng dậy, thay áo quần, mở cửa ra ngoài hành lang trống vắng không một tiếng động, nhìn đồng hồ đã tám giờ, có lẽ ngoài tôi ra mọi người trong gia đình này đều quen thói ngủ trưa cả.
Đến phòng rửa mặt, nhìn dáng mình trong gương tôi thấy thích thú, đôi mắt long lanh với đôi má phúng phính mà mẹ thường bảo là chưa hề biết đau khổ là gì. Đó là một sự thật vì trước ngày mẹ bệnh, cuộc đời tôi chưa hề khổ đau bao giờ, tôi thích cười dù sung sướng như cọng cỏ “vô ưu”. Cọng cỏ không bao giờ buồn. Tôi khôntg biết có cây cỏ nào mang tên như vậy không. Chỉ nghe mẹ thường bảo và gọi tên tôi như vậy thôi. Nhưng mà, đến khi mẹ bệnh và mất đi, thì niềm vui của tôi cũng khép lại. Cọng cỏ không buồn của mẹ giờ đang đương đầu với một tương lai mờ mịt.
CHƯƠNG
3
Từ phòng rửa mặt trở về, tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy cô tớ gái khoảng mười bảy, mười tám tuổi đang thu xếp nệm gối và đồ đạc trong phòng tôi. Áo ngủ đã được bỏ vào ngăn tủ, ngay cả valise của tôi cũng bị mở tung ra, áo quần trong ấy đã được treo vào tủ đứng, chỉ có hai bức hình là còn nằm trên bàn giấy mà thôi.
Người tớ gái thấy tôi cúi đầu chào:
- Thưa cô, em tên là Mạc Bính, bà chủ sai em đến hầu cô. Tôi quá ngạc nhiên khi thấy mình được sủng ái. Hồi nào tới giờ, tôi có được ai hầu hạ đâu. Nhìn đứa tớ gái sạch sẽ gọn gàng, tôi bỗng ngớ ngẩn:
- Để đó tôi làm cũng được mà!
Mạc Bính nhìn tôi cười, có lẽ nó cho tôi là đứa con gái nghèo nàn chưa có quen nếp sống trưởng giả, nụ cười của nó không có vẻ gì ngạo báng. Ôm bình hoa trên tay Mạc Bính hỏi tôi:
- Thưa cô cô thích loại hoa nào à?
- Hoa hồng cũng đẹp lắm rồi! Tôi đáp.
- Cô chủ tôi không thích loại hoa có sắc đỏ.
Mạc Bính nói.
- Cô chỉ thích loại hoa cánh màu lam, vừa khó trồng lại vừa ít bông, trong khi bà chủ lại thích loại hoa trắng.
Tôi hơi ngạc nhiên:
- Thế tất cả những loại hoa đó đều được trồng lấy cả à? - Vâng ạ! Ngoài vườn hoa ra, chúng tôi còn một nhà mát để nuôi hoa nữa.
Mạc Bính đáp.
- Tất cả mọi người trong nhà nầy ai cũng thích hoa.
Rồi như sực nhớ điều gì Mạc Bính hoảng hốt:
- Chết không, tí nữa thì quên rồi, ông chủ đang đợi cô trong phòng ăn.
Đến cửa nó lại quay vào nói:
- Vậy cắm hoa hồng hở cô?
- Vâng! Tôi đáp.
Mạc Bính ôm bình hoa bước ra ngoài. Tôi đứng trước bàn trang điểm, chải lại mái tóc ngắn, ngắm hình ảnh tươi mắt của mình trong gương, hai vết chân mày thẳng làm tôi mang chút dáng vẻ con trai, đưa tay kéo lại lọn tóc xòa trước má, tôi ngửi thấy hương hoa. Nhìn xuyên ra cửa kính, những cánh hoa khoe sắc thắm trong rừng cây xanh um, sắc đỏ chen vàng như lung linh trong nắng sớm khiến tôi lặng người trước vẻ mê hoặc của thiên nhiên. Hoàn cảnh của cuộc sống mới khiến tôi cảm thấy vui sướng. Hình ảnh đen tối với cái chết của mẹ tôi đã mờ dần, bản tánh hồn nhiên lại đến với tôi. Nhìn bầu trời xanh mây trắng, ngắm cảnh xanh um của hoa lá, lòng tôi mở rộng muốn ca vang.
Ra khỏi phòng, qua hành lang tôi chạy nhanh xuống lầu. Trong gian phòng ăn rộng và sáng sủa, giáo sư La Nghị đang dùng bữa ăn sáng, có lẽ đã nghe thấy tiếng chân xuống lầu, ông ngẩng lên nhìn. Trong vùng ánh sáng tỏ, mái tóc ông vẫng bồng bềnh che khuất cả miệng. chỉ có đôi mắt là như hai ngọn đèn pha trong khu rừng thẳm đang chăm chú nhìn tôi:
- Chào giáo sư ạ.
Tôi cười nói.
- Ừ.
Ông ậm ừ một tiếng rồi lại chăm chú nhìn tôi ra lệnh: - Ngồi đó đi!
Tôi ngồi xuống trước mặt ông, trên bàn đã có xúc xích và món cải xào. Một người đầy tớ trung niên mang đến cho tôi chén cơm trắng. Giáo sư La Nghị tiếp tục cúi xuống dùng điểm tâm, không nhìn tôi nữa trong khi tôi vẫn tò mò nhìn ông.
Bỗng nhiên, ông ngẩng lên nhìn thẳng tôi:
- Sao không ăn cơm đi?
Đôi chân mày ông nhíu lại.
- Em làm gì nhìn tôi dữ thế?
- A. Tôi vội vàng đáp
- Dạ tôi chỉ ngạc nhiên không hiểu bằng cách nào giáo sư cho cơm vào miệng mà không làm lấm những sợi râu quanh miệng? Tôi vừa dứt tiếng thì một tiếng cười dòn thật to từ phiá sau đưa tới. Tôi nghiêng đầu nhìn sang, một thanh niên từ thang lầu chạy bay xuống, đến cạnh tôi mỉm cười thú vị. Tôi chợt thấy đôi mắt của hắn và giáo sư giống tạc nhau, chỉ khác một điều là hắn sạch sẽ hơn, râu hàm cạo sạch, đầu tóc chải ngăn nắp, áo sơ mi trắng, cà vạt màu xám bạc. Hắn nhìn tôi cười, đôi mắt pha lẫn nét tinh quái, đùa cợt không có vẻ đứng đắn tí nào, Giáo sư trừng mắt nhìn hắn:
- Hạo Hạo! mầy làm cái gì đấy?
- Phải cô này là cái cô mà hồi hôm còn chút nữa ba đuổi ra ngoài đó không hở ba?
Gã thanh niên vừa nói xong quay sang tôi cúi mình thật thấp, - Xin lỗi cô, cho phép tôi được tự giới thiệu, tôi là La Hạo Hạo, nhưng tên Hạo Hạo có vẻ nữ tính quá nên xin được gọi tắt là La Hạo dễ nghe hơn.
Giáo sư hét lớn:
- Mầy có ngồi xuống không Hạo?
La Hạo ngồi xuống, đôi mắt trong sáng vẫn tinh quái nhìn tôi. Hắn
hãy còn quá trẻ, có lẽ chỉ là thằng nhóc con lớn hơn tôi ba hay bốn tuổi là cùng.
- Thưa cha cô họ Mẫn này ở luôn trong nhà mình hở cha? La Hạo Hạo quay sang nhìn cha hỏi.
- Ừ, Giáo sư ậm ừ - Việc đó không liên can gì đến mầy cả. Bữa nay có học không mà giờ còn chưa chịu ăn cơm?
- Có hay không có học gì cũng vậy mà thôi.
La Hao bất mãn, nhìn sang tôi gã hỏi:
- Cô tên chi?
- Dạ tôi tên Ức My.
Tôi đáp. Hắn móc cây bút nguyên tử trong túi áo ra viết hai chữ “Ý Mai” trên quyển sổ nhỏ và đưa cho tôi, đôi mắt hắn nhìn tôi dò hỏi: - Phải viết như vầy không?
- Không.
Tôi đáp, đoạn lấy bút viết hai chữ “Ức My”. Hắn gật đầu mỉm cười:
- Chữ Hán thật phong phú phải không cô? Cùng đồng âm nhưng lại khác chữ.
Giáo sư nghiêm khắc:
- Hạo Hạo! Cút ngay đi, tao có chuyện muốn nói với Ức My. La Hạo chống đối:
- Thưa ba!...
Giáo sư tròn xoe mắt giận dữ:
- Tao biểu cút ngay, có nghe không?
- Thôi được để con đi.
La Hạo miễn cưỡng đứng đậy, hắn nhìn tôi:
- Ức My, có cơ hội chúng ta sẽ nói chuyện sau. Nhà họ La của
chúng tôi, cha con không thể cùng sống một nhà được, hai người mà ở chung nóc nhà sẽ sụp ngay. Cha con chúng tôi không ai chịu được ai cả.
Nói xong hắn quay đầu đi ngay ra cửa. Trong nầy, Giáo sư đã dùng xong điểm tâm ông đứng dậy cứng cỏi và vắn tắt: - Ức My, tôi nghĩ rằng tôi có quyền gọi tên cô, đã từ lâu rồi mẹ cô là người bạn thân của gia đình chúng tôi. Mẹ cô là người đàn bà cứng cỏi không phục ai cả. Ba tháng trước, người có viết cho tôi một bức thơ nhưng không có viết địa chỉ, có lẽ vì bà không muốn cho chúng tôi biết để đến gặp bà. Tuy nhiên vì bà muốn chúng tôi chăm sóc cô, nên cô sẽ được chúng tôi chu đáo lo lắng. Nhưng có một điều cô cần lưu ý, là đối với Hạo Hạo, cô cần phải để mặc hắn, đừng chú ý đến, hắn là thằng lêu lổng không dạy bảo được. Còn riêng đối với Khởi Khởi, tôi mong rằng cô và nó sẽ là chị em bạn tốt.
Giáo sư đưa mắt nhìn lên thang lầu, như muốn tìm Khởi Khởi, nhưng chiếc thang vẫn vắng lặng. Một lúc ông lại tiếp: - Khởi là con gái của chúng tôi. Còn riêng đối với vợ tôi. Ông chợt nhìn tôi, giọng nói biến thành nhẹ nhàng êm ái. - Sáng nay nàng đã gặp em rồi phải không?
- Vâng ạ!
Tôi đáp. Tôi hồi tưởng lại hình dáng người đàn bà xanh gầy. - Nhưng lúc đó cháu không biết đó là bác gái.
- Bà ấy rất yếu.
Giáo sư nói.
- Ít khi rời phòng. Tốt nhất, em đừng làm phiền bà ấy nhé! - Vâng ạ! Tôi mím chặt môi - Tôi sẽ cố gắng hết sức không làm phiền mọi người!
Giáo sư đăm đăm nhìn tôi:
- Tánh nết của em giống mẹ em như đúc. Ương ngạnh, cố chấp, giàu tình cảm nhất là tự ái quá cao.
Tôi biện hộ:
- Nhưng mẹ là người rất tốt!
Giáo sư ngắt ngang:
- Đúng vậy. Nhưng thôi hãy ăn cơm đi, cơm nguội rồi! Nói xong ông bước ra khỏi phòng ăn. Tôi ngồi một mình trong phòng ăn rông thênh thang dùng hết bữa điểm tâm. Gian phòng này giống như phòng khác có rất nhiều cửa, trong số đó, có một cánh cửa toàn bằng kính nhìn suốt qua vườn hoa. Có lẽ ngôi nhà này rộng hơn tôi tưởng. Nếu không vì quá xa lạ với nhà họ La, có lẽ tôi đã đi thám hiểm rồi, bây giờ chưa quen nhiều thì đành nhẫn nhịn vậy. Buông chén cơm xuống, tôi nhìn quanh, trên tường treo la liệt ba bốn bức tranh sơn dầu, đa số là những cảnh tối mờ ảo, dưới mỗi bức đều có ký chữ “K. K.” viết tắt.
Bước lên lầu, tôi đi về phòng, nhưng khi bước qua một gian phòng có cánh cửa sổ, tôi tò mò dừng lại nhìn bà La đang ngồi trên chiếc ghế trước bàn. Bộ áo trắng thêu hoa với thắt lưng thả rộng hai bên, đầu tóc được búi cao, để lộ chiếc gáy trắng nõn. Gương mặt nhìn nghiêng với một nét đẹp tuyệt vời, sống mũi cao, hai hàng lông mi cong vút. Dáng dấp thật trang trọng, cao quí thanh nhã như một bức họa.
- Vào đây em!
Tôi hốt hoảng nhìn quanh, nhưng không có bóng người thứ hai nào khác ngoài tôi. Vậy có phải bà gọi tôi chăng? Tôi do dự không hiểu nên vào hay không thì bà ta đã quay sang, đôi mắt to đen chăm chú nhìn tôi:
- Tôi kêu em vào đây!
Bà ta nói giọng nói thật lạnh lùng. Tôi bước vào, sực nhớ lại lần gặp mặt ban sáng có lẽ tôi vô lễ với bà, nên vội cười và gật đầu chào:
- Thưa bác ạ.
Bà Nghị nhìn tôi đăm đăm một lúc rồi bảo:
- Lại đây em.
Tôi bước đến gần. Trong lúc bà chăm chú nhìn tôi, bỗng nhiên đôi mắt đẹp của bà ta như bị làn sương mờ bao phủ. Bà nhẹ nhàng đưa tay lên xoa vào vai tôi, rồi lại nắm hai tay tôi, những ngón tay thon dài trắng bệch so với màu da cháy nắng khỏe mạnh của tôi, tạo nên sự khác biệt rõ rệt. Bà ta xiết chặt tay tôi, rồi mơ màng nói:
- Màu da đẹp quá, đẹp như nước da của mẹ em.
Đoạn ngẩng lên nhìn tôi:
- Mẹ em với tôi như hai chị em ruột, bà ấy thường bảo tôi: “Em đừng làm như vậy, em đừng làm như thế kia, hãy nghỉ ngơi nhiều để béo ra một tí! “. Bà chăm sóc tôi, tạo cho tôi một cuộc sống rất đẹp, màn cửa màu trắng, nệm trắng, khăn trải bàn cũng trắng. Tất cả cái gì cũng trắng cả. ỉ Mẹ em nói, “này Nhã Trúc, chỉ có màu trắng là hợp với em thôi. Em đẹp quá, phải chi chị đẹp bằng một phần mười của em thì hay biết mấy”. Mẹ em không cho tôi làm một việc gì cả, thương tôi như thương con búp bê. Bà ấy nói là: “tôi sẽ chăm sóc em suốt đời, suốt đời”.
Tiếng nói của bà Nghị bỗng trầm hẳn đi, gương mặt càng trắng bệch ra, tia mắt như hôn mê, như hỗn lọan quấn lấy tôi. Sự thay đổi của bà làm tôi khiếp sợ tôi xụp xuống, lo lắng:
- Bác Nghị, bác làm sao thế?
Đôi tay bà vẫn nắm lấy chặt tôi, đôi mắt càng lúc càng hỗn loạn, càng tóe lửa, như đang chú tâm nhìn một ai ở sau lưng tôi, như không hề nghe thấy tôi hỏi, miệng bà vẫn lải nhải:
- Em là em gái tôi, tôi sẽ chăm sóc em suốt đời, suốt đời. Cứ mấy câu đó bà nhai đi nhai lại. Đôi mắt càng lúc càng to như đang tóe lửa. Tôi hoảng hốt cực độ, thử rút tay ra, nhưng bà tay tôi
như đang bị kềm chặt không rút ra được, tiếng lải nhải càng lúc càng nhanh để rồi không biết bà ta nói gì nữa. Tôi hốt hoảng la to: - Bác Nghị, Bác Nghị, Bác làm sao vậy?
Tôi cố gắng chống trả để rút tay ra, nhưng vẫn không được vì bị siết quá chặt, chúng tôi đang lấn quấn thì bỗng nhiên một tia sáng lóe trong đầu tôi, hay là bà ta điên! Ý niệm này càng làm cho tôi khiếp đảm hơn, vì tôi sợ người điên hơn, gấp trăm lần ma quỷ. Tôi la lớn:
- Buông tôi ra! Buông tôi ra!
Có tiếng người chạy vào phòng. Tôi quay sang đó là một thiếu nữ rất đẹp, cô ta chỉ nhìn thoảng tôi, xong vội chạy ra. Lập tức, tôi nghe gót giày nện mạnh trên cầu thang, sau đó bóng dáng cao lớn của giáo sư chạy đến. Đặt hai bàn tay to lớn của ông lên vai bà Nghị, ông lớn tiếng gọi:
- Nhã Trúc.
Bà Nghị buông lỏng hai tay tôi ra, đôi mắt quay sang nhìn giáo sư, sau đó lại khóc ngất:
- Chị ấy nói là lúc nào cũng chăm sóc em, chăm sóc em suốt đời kia mà!
- Thôi nín đi, Nhã Trúc.
Giọng giáo sư thật nhẹ nhàng giống như đang vỗ về chú mèo con. Ông nẹp đầu bà Nghị vào lòng, chiếc đầu nhỏ búi cao tựa vào lồng ngực vững chãi. Một mặt ông đưa tay vuốt ve chiếc lưng gầy của bà, vỗ về.
- Thôi nín đi em. Nhã Trúc, nín đi em.
Bà Nghị vẫn còn thút thít khóc, nhưng rồi cũng nín đi. Một lúc khá lâu ngước đôi mắt đầy lệ nhìn chồng vẻ mặt đã tỉnh hẳn, bà nhẹ nhàng bảo:
- Anh Nghị, em xin lỗi mình.
- Không sao cả phải không em?
Ông Nghị nói, đôi mắt thật hiền từ khiến tôi có cảm giác như đó không phải là đôi mắt của giáo sư, vì với một người có bản tính cộc cằn thô lỗ như ông lại có thể dịu dàng như vậy được sao? Ông Nghị vỗ nhẹ lên lưng vợ:
- Thôi mình đi nằm nhé, để anh bảo Mạc Bính vô hầu em. Bà Nghị gật đầu, đứng lên, bước về phiá giường ngủ. Ngoan ngoãn như con thỏ trắng. Tôi bước ra khỏi cửa giáo sư Nghị theo sau, nhìn thấy tôi vẻ dịu dàng lúc nãy của ông bỗng biến mất ông tròn xoe mắt giận dữ:
- Cũng cô nữa, ai bảo cô đến quấy rầy bà ấy chi vậy? Tôi đã bảo cô rồi mà, cô đừng làm rộn mà chẳng nghe?
Tôi cảm thấy cả một trời oan ức, chỉ có trời mới dám bảo tôi quấy rầy bà ta, vả lại nếu biết trước bà ta ghê gớm như vậy, thì tôi đã lánh xa từ lâu rồi. Mở miệng tôi lẩm bẩm:
- Không biết ai quấy rầy ai trước.
Giáo sư Nghị trợn mắt nhìn tôi, vẻ mặt bất mãn bỏ đi. Tôi bước về phòng, lòng đầy hối hận và khó chịu, chỉ mới là buổi sớm mai đầu tiên đến ở nhà này mà đã không may như thế! Vào phòng ngồi ở mép giường nghĩ đến cuộc sống ăn nhờ ở đậu phải va chạm với bao nhiêu khuôn mặt bất giác tôi thở dài.
Có chiếc bóng đen đứng án trước mặt. Tôi ngẩng đầu lên, thì ra là cô gái ban nãy trong phòng bà Nghị, cô ta nhìn tôi gật đầu bảo: - Thấy chị không khép cửa, tôi mới bước vào.
Cô ta rất trẻ, có lẽ không lớn hơn tôi, chiếc robe màu trắng, mái tóc xõa chấm vai. Không cần ai giới thiệu tôi cũng đoán được cô ta là ai, khuôn mặt giống tạc mẹ cô nhưng đẹp hơn nhiều. Làn da mịn màng trắng xanh như bà Nghị, đôi mắt đen nháy hơi sâu, hàng lông mi cong với đôi môi mỏng tạo nên một vẻ đẹp xúc động lòng người. Tôi tuy không phải là con trai mà vẫn bị mê hoặc như thường. Bản tính tôi từ
xưa tới giờ lúc nào cũng tôn sùng cái đẹp. Tuy nhiên vẻ đẹp tương tợ mẹ cô, vừa cao quý, vừa trang nhã này khiến tôi cảm thấy thật cách biệt.
- Chị là Khởi Khởi phải không?
Tôi hỏi. Cô ta gật đầu không đáp.
- Tôi là Mẫn Ức My.
Tôi tự giới thiệu. Cô ta lại gật đầu với vẻ cao ngạo và lạnh lùng như không muốn nói chuyện với tôi. Thế là, tôi cũng yên lặng, đến một lúc sau, mới nghe cô ta nói:
- Mẹ tôi thần kinh suy nhược, nhưng không đến nỗi nào. Đôi lúc mới nổi cơn một lần, nhưng mỗi lần có ba tôi bên cạnh là người hồi phục nhanh chóng.
Tôi nhìn cô ta, lòng bỗng xúc cảm. Tôi nghĩ có lẽ cô ta nói như thế là để cho tôi khỏi lo sợ bà Nghị nữa, cho tôi hiểu rằng dù với vẻ lạnh lùng bên ngoài nhưng bên trong lại chứa đựng trái tim hiền hoà, vì có nhiều người trời sanh ra không biết biểu lộ tình cảm của mình cho người biết. Nghĩ thế, tôi càng thấy thích Khởi Khởi hơn. Tôi nhiệt thành nói:
- Vậy hả? Sao không mời bác sĩ đến khám bên cho bác? Cô ta bỗng trừng mắt nhìn tôi:
- Tại sao chị biết chúng tôi không mời bác sĩ đến khám bên cho mẹ tôi?
Lòng nhiệt thành của tôi đã bị dìm vào băng giá. Tôi nghĩ rằng càng ít nói càng hay hơn, nói nhiều chả ích gì lại đụng chạm nữa thì khổ. Tôi thề với chính mình là sẽ không nói một câu nào nữa hết. Nhưng rồi bỗng nhiên từ vườn hoa bên ngoài tiếng hát lanh lảnh của một cô gái đưa vào giọng hát ấm, cao vút. Đây là bản nhạc quen thuộc mà mẹ tôi thường hát:
Hoa phi hoa, vụ phi vụ
Dạ bán lai,thiên minh khứ
Lai như xuân mộng bất đa thời
Khứ tựa triều vân, vô thỏa xứ.
Tạm dịch:
Chẳng phải là sương, chẳng phải hoa,
Nửa khuya em đến, sáng em về,
Đến như giấc mộng, xuân không đợi,
Đi tựa mây trời không định nơi.
Tiếng ca lảnh lót lập đi lập lại mãi. Tôi như bị lôi cuốn bởi tiếng hát, quên đi lời thề lúc nãy, tôi hỏi Khởi Khởi:
- Ai đang hát thế hở chị?
- Gia Gia hát đấy.
Cô ta nói, đoạn lạnh lùng quay đi khi tôi chưa kịp hỏi tiếp câu thứ hai.
Gia Gia là ai vậy? Tôi muốn hỏi nhưng cô ta đã ra khỏi phòng. Không dừng được, tôi nhoài người nhìn ra ngoài, chỉ thấy vườn hoa dầy dặt, tiếng hát phát ra từ đó mà người đâu không thấy.
Nhịn không nổi tính tò mò, Gia Gia? Ở nhà họ La này lúc nào cũng thích dùng tiếng lập lại như: Hạo Hạo, Khởi Khởi, rồi lại thêm Gia Gia. Thế Gia Gia có phải là em út của Hạo Hạo với Khởi Khởi hay chăng? Nghe tiếng hát, có lẽ cô bé này đẹp lắm! Bước ra cửa, tôi biết rằng ít bước ra khỏi nhà chừng nào tốt chừng nấy, chỉ mới một buổi sáng đầu tiên mà tôi đã bị rắc rối như vậy. Nhưng rồi cũng không thoát khỏi sự quyến rũ của tiếng hát, tôi phải tìm cho ra người ca bài hát trên.
Bước xuống lầu, nương theo tiếng hát, tôi bước ra vườn hoa. Mở vội cánh cửa từ phòng ăn thông ra ngoài, nhảy xuống mấy bực tam cấp, bước vào khu vườn cây rộng lớn, ven theo con đường nhỏ trải đá
mát rượi bởi những hàng cây cao, tôi bước vào vườn hoa. Vườn hình tròn, chính giữa trồng một trụ sắt, bên ngoài nhiều loại hoa được vun trồng rất thứ tự, hàng ngoài cùng rộng nhất đầy hoa hồng, mùi hương thơm ngát, những cánh hoa rơi lả tả chung quanh theo ngọn gió nhẹ đầu hè. Vượt qua vườn hoa, là khu rừng cây nhỏ, thoáng nhìn không thấy thứ tự nhưng khi lại gần thì mới nhìn thấy sự chăm sóc khéo léo, những cây tùng, cây bách tuy chưa thật lớn nhưng thẳng vút lên cao trông rất hùng vĩ. Xen kẽ là những hoa hướng dương và trà hoa, có lẽ vì chưa đến mùa trà nên chưa thấy hoa nở, chỉ có loài hoa hướng dương là phô cả sắc hương bên đám lá xanh thu hút. Bên dưới thân cây các loài hoa khác như hoa hồng, cúc, thạch lựu, tường vị..nở đầy chen lẫn với những loài hoa khác mà tôi chưa biết tên.
Vào vườn cây, tôi có thể nhận định rõ nơi tiếng hát cao vút thanh tao kia vọng tới. Đôi lúc tiếng hát như ngưng bặt, có lẽ người hát đang làm việc. Tuy rằng lời ca vẫn bấy nhiêu lập đi lập lại mãi, lúc cất lên, lúc ngưng bặt, lúc thấp, lúc cao nhưng vẫn đầy vẻ quyến rũ.
Lần theo tiếng hát, bước vào vườn cây, tôi đứng đấy lắng nghe. Tiếng ca bỗng ngưng bặt, chung quanh không một bóng người, trước mắt chỉ là những hàng cây xanh điểm những chấm đỏ nơi đầu cành. Vượt qua giàn cây, đưa mắt lục lọi khắp nơi cũng chỉ thấy hoa và lá. Tôi ngồi xuống ghế tựa lưng suy nghĩ mông lung và lắng chờ tiếng hát. Tôi cảm giác như mình đang bị trêu chọc, bực tức ngẩng đầu lên, tôi la lớn:
- Có ai trong này không?
Tiếng hỏi của tôi như tan biến đi trong gió.
Đứng lặng một lúc, vẻ yên lặng chung quanh như hơi khác thường, tôi thấy không an tâm lắm, tôi muốn ra khỏi vườn cây. Khi vừa bước được mấy bước thì tiếng hát khi nãy lại cất lên. Theo
những câu cuối của bài hát, tôi chạy nhanh vào vườn cây, và giờ đây, tôi đã bắt gặp người đang hát.
Cô ta đang khom người trước gốc tùng, lưng quay về phiá tôi. Bên cạnh có bình tưới hoa và cây cuốc. Cô ta vừa nhổ cỏ vừa hát. Có lẽ vì vừa mải hát vừa chú tâm vào công việc nên cô ta không nghe tiếng chân của tôi đi đến cạnh, đang nhìn ngắm cô ta. Thân thể cô gầy ốm trong chiếc áo hoa nội hoá, đầu tóc búi theo kiểu xưa, nhìn cách ăn mặc, tôi nghĩ có lẽ cô ta là người làm trong nhà. Đứng dừng lại, tôi la lớn:
- Hù!
Tiếng “hù” thật lớn của tôi không gây một xúc động nào, cô ta vẫn tiếp tục ca hát như không nghe thấy gì hết. Tôi ngạc nhiên nhìn, bỗng nhiên tôi khám phá ra một điều gì không ổn! Đúng rồi mái tóc bạc! Nếu là con gái thì tóc sao lại bạc như thế! tôi đến trước mặt bà la to:
- Hù!
Lần này thì bà ta đã chịu ngưng tiếng hát và ngửng đầu nhìn lên. Tôi chăm chú nhìn gương mặt lạ lùng này. Đó là một bà già, nhưng gương mặt cũng như tiếng hát ngớ ngẩn một cách hết sức thơ ngây. Bà ta nhìn tôi với đôi mắt ngơ ngác, miệng há hốc. Một gương mặt không làm sao cho người ta ghét được. Tôi nhìn bà cười hỏi:
- Ngôi vườn này do tay bà chăm sóc đấy à?
Bà đứng lên, tướng người lùn, chỉ cao đến mí mắt tôi. Chăm chú nhìn tôi không đáp và mỉm miệng cười ngờ nghệch.
- Bà ca hay quá!
Tôi nói thêm vì nụ cười của bà làm tôi cảm thấy thân thiện. Bà ta vẫn cười không nói. Nhưng mà đã hai câu nói của tôi không được trả lời khiến tôi hơi cụt hứng.
Tôi nghĩ rằng hay là mình nên tự giới thiệu trước có lẽ hay hơn chăng?
- Tôi là người mới đến gia đình giáo sư, tôi tên là Ức My. Bà ta lại cười, nụ cười giống như bức tượng phật. Tôi không vui lắm, tại sao mọi người trong nhà họ La nầy lại đối xử với tôi lạnh lùng đến thế, bàn tay thân thiện của tôi đưa ra không được một ai bắt lấy. Quay đầu lại, tôi hơi giận:
- Tôi buồn cười lắm phải không? Bộ tôi đui què sức mẻ gì hay sao mà bà nhìn tôi cười hoài vậy?
Có lẽ lời nói của tôi làm cho bà ta ngượng. Bà cúi xuống, rồi ngồi xuống tiếp tục nhổ cỏ, thờ ơ.
Tôi cắn lấy ngón tay cái, ngẩn người suy nghĩ xem có nên thu xếp đồ đạc trở về Cao Hùng hay không? Bà hiệu trưởng họ Lâm tuy nghèo, không thể mang đến cho tôi một cuộc sống đầy đủ, nhưng thành thật và gần gũi hơn, có đủ tình cảm của một con người còn đủ tim óc.
Đang lúc tôi ngẩn người ra suy nghĩ thì bà ngước lên nhìn tôi, nụ cười vẫn điểm trên môi, tay chỉ về phiá cây tùng, nói từng tiếng trên môi:
- Sắp nở hoa rồi đấy!
Tôi kinh ngạc. Sắp nở hoa rồi, mà cái gì sắp nở hoa đây chứ? Nhìn theo hướng tay, tôi thấy trên thân cây tùng có một loại dây leo không lá màu vàng, trên có những nụ hoa rung rinh trong gió một cách tội nghiệp. Tôi bỗng thấy thích thú vì bà ta đã nói chuyện với tôi. Lấy tay vuốt nhẹ nụ hoa màu trắng sữa, tôi vui sướng hỏi:
- Thế hoa nầy tên gì hả bà?
Bà ta ngơ ngẩn nhìn tôi làm như tôi đang nói tiếng Mông cổ không bằng.
- Hoa sắp nở rồi!
Bà ta lập đi lập lại và đứng dậy. Sắp nở hoa rồi, khi gió lên lá bắt đầu rụng thì hoa sẽ nở. Bà ta lại ngẩng lên trời với tất cả sự chú tâm
và lập lại:
- Khi gió lên, lá bắt đầu rụng thì hoa sẽ nở.
Tôi ngạc nhiên:
- Tại sao phải đợi đến lúc gió lên?
Bà ta không đáp, nhìn tôi ngẩn ngơ, một lúc sau lại nói: - Cô có thấy không?
Tôi ngơ ngác:
- Thấy gì?
- Hoa sắp nở rồi.
Bà ta chỉ lên cây tùng, tôi chăm chú nhìn bà, người đàn bà nầy sao lạ vậy, hình như có một cái gì bất thường tôi nghĩ mông lung. Trong lúc tôi đang nghĩ mông lung. thì từ trong lùm cây một bóng người bước ra. Từ Trung Đan, gã thanh niên đã đưa tôi vào ngôi nhà họ La nầy, quần áo xốc xếch, tay cầm một quyển sách dầy. Thái độ hết sức tự nhiên, hắn bước đến bên tôi, nụ cười trên môi gật đầu chào tôi: - Chào cô Mẫn.
- Dạ, không dám chào ông.
Tôi gật đầu chào lại. Hắn lại quay sang bà lão gật đầu: - Chào Gia Gia.
Đoạn bước đến đưa tay vỗ vai bà lão như vỗ về trẻ nít. - Sao? Hoa nở chưa?
Gia gia vui vẻ:
- Hoa sắp nở rồi!
- Ồ!
Trung Đan có vẻ vui sướng.
- Hoa sắp nở thật rồi, năm nay hoa nở sớm hơn mọi năm. Hắn lại quay sang tôi.
- Cô Ức My đi đạo quanh vườn với tôi một chút nhé!
- Vâng!
Tôi đáp. Chúng tôi thả bộ trong khu vườn cây. Trung Đan nói: - Cô đừng mất công chuyện trò với Gia Gia, bà ta hơi khật khùng, không biết gì hết.
- Vậy sao?
Tôi ngạc nhiên.
- Nhưng đừng sợ, coi vậy chứ bà ấy hiền lắm không làm phiền ai hết. Đôi lúc bà ta không có vẻ gì là ngây ngô cả, thí dụi? như bà ta thích được khen ngợi, biết ăn mặc sạch sẽ, biết chăm sóc cây cỏ, biết cỏ nào là cỏ dại, biết đâu là mầm hoa. Có nhiều khi tôi thấy bà ta rất thông minh, biết nhìn người nhìn vật. Trí nhớ rất khá như bài ca mà bà ta thường hát không bao giờ hát nhảy hay ca sai một câu.
Tôi ngạc nhiên, háo kỳ lắng nghe:
- Thế bà ta là gì trong gia đình nầy?
- Hình như là có họ xa. Gia đình giáo sư La đã mang bà ta từ Đại Lục đến đây. Đúng ra bà ấy là người làm vườn, chăm sóc cả vườn hoa rộng lớn nầy. Khu vườn nầy mà tốt tươi đều do sự trông nom của Gia Gia.
Tôi lắng nghe. Trung Đan tiếp:
- Nhưng có một điều, bà ấy có những ngôn từ riêng của bà ấy. Thí dụ khi nói gió lên thì có nghĩa là đến mùa giông bão. Gia Gia thích nhất là những sợi dây leo đó, bà ta chăm sóc kỹ như mẹ chăm sóc con. - Thế dây leo đó tên gì vậy?
- Ồ! Trung Đan cười to - Cây cỏ đối với tôi thật xa lạ Trong khu vườn nầy có nhiều loại hoa tôi không biết gọi tên, tuy vậy tôi cũng thích nghiên cứu vấn đề nầy lắm. Cành dây leo kia, cô có bao giờ nghe đến một loài cây có tên là Thố Ty Hoa chưa?
- Thố Ty Hoả Tôi nói - Trong thơ cổ tôi có nghe thấy nói đến, như trong thơ Lý Bạch có một bài thơ hay nói về Thố Tý Hoa và Nữ Oa Thảo.
- Đúng rồi, tôi ngờ rằng loại Thố Ty là lại dây leo đó, nhưng tôi không chứng minh được. Chỉ biết có lần tra tự điển tôi thấy giải thích về Thố Ty tương tợ loại dây leo nầy vì vậy tôi gọi nó là thố ty Hoa.
- Tiếc là không có Nữ Oa Thảo ở đây. Tôi cười nói. Bằng không thì: Bá Trượng thác viễn Tòng.
Triển cảm thành nhất gia
(Cách xa nhau trăm trượng.
Nhờ Tòng kết thông gia).
Như vậy thì đẹp biết bao!
Trung Đan quay sang, nhìn tôi thăm dò:
- Cô thích thơ lắm à?
- Cũng không thích gì mấy, nhưng tôi hay nghe mẹ tôi ngâm nga nên quen tai rồi cũng bị ảnh hưởng phần nào. Nhưng mà bản tánh tôi ít khi chịu chú tâm vào một việc. Sở thích quá rộng rãi, lại không ưa gò bó, mà thi ca bắt buộc phải để tất cả tâm hồn vào, nên đối với tôi thì cao xa quá.
Chúng tôi đi đến cạnh một băng ghế đá, Trung Đan hỏi: - Chúng ta ngồi một lát nhé.
Tôi ngồi xuống, hắn ngồi bên cạnh, đặt quyển vở lên gối, tôi liếc nhìn thấy đề “Phổ thông Tâm Lý Học”.
- Anh học môn tâm lý à? Tôi ngạc nhiên.
- Không. Hắn đáp - Nhưng, vì đối với tôi cái gì tôi cũng thích, nên tôi nghiên cứu chơi cho vui vậy.
Tôi nhìn hắn:
- Thế anh là gì trong nhà họ La nầy?
- Tôi là học trò giáo sư La Nghị, tôi đã học hết hai năm địa chất, sau đó vì thấy nó quá khô khan nên tôi chuyển qua học mỹ thuật. Tôi tốt nghiệp năm rồi. Bây giờ tôi dạy trường trung học công lập ở đây. Giáo sư mời tôi đến đây ở, sẵn dịp dạy cho Khởi Khởi vẽ luôn.
- Khởi Khởi à? Tôi hỏi.
- Đúng vậy. Khởi Khởi vừa thông minh vừa dễ thương lại siêng học.
Nghĩ đến Khởi Khởi, vẻ xinh đẹp tuyệt vời và nét mặt lạnh lùng của cô ta, tôi hỏi tiếp.
- Thế anh ở đây đã bao lâu rồi?
- Khoảng hơn một năm.
Tôi yên lặng nhìn quanh, tia mắt rơi trên bìa quyển Tâm Lý Học: - Quyển tâm lý học nói gì vậy anh? Nó có thể giúp anh biết được tâm lý người khác không?
Trung Đang ôm sách vào lòng đôi mắt sáng nhìn tôi như cười cợt: - Biết chớ sao không! Thí dụ như bây giờ tôi có thể phân tách được tâm lý của cô.
- Đâu thử xem.
Tôi nói. Hắn nhìn tôi một chập đoạn nói:
- Cô ấy à? Tôi biết cô đang nghĩ trong gia đình họ La nầy người nào cũng lạ lùng ngoài điều cô tiên liệu, cô lạ lùng về sự kết hợp của gia đình nầy. Một người cha thô lỗ khó tánh, một người mẹ đau thần kinh, hai đứa con hai bản tánh, một bà làm vườn khật khùng cộng thêm vào một giáo sư tư gia không ăn lương như tôi. Và cô nghĩ rằng việc cô nhảy vào nhà họ là nầy ở trọ là một điều thiếu suy xét cẩn thận. Đến đây không được ai đoái hoài đến, tự ái bị tổn thương và cô đang suy tính tìm cách để ra khỏi gia đình nầy trở về chốn cũ thích thú hơn.
Trung Đan nhìn tôi cười, hắn hất đầu lên để những sợi tóc trước tránh rơi về sau, hỏi:
- Đúng phần nào không cô?
Tôi ngạc nhiên mở to đôi mắt:
- Ồ! Anh có thể là nhà tâm lý tài ba lắm đấy.
Hắn cười to, vui vẻ:
- Nói cho cô biết, sự thật ra việc phân tách tâm lý cô và quyển tâm lý học nầy hoàn toàn không giống nhau. Tâm Lý Học là một khoa học còn việc thấu hiểu tâm lý của một người lại là một chuyện khác. Tâm lý học chuyên môn hơn và có liên hệ mật thiết với y học và sự cấu tạo thể xác của con người. Còn việc tôi phân tích tâm lý của cô được, đó là một điều giản dị. Một năm trước, khi mới đến đây tôi cũng mang một tâm trạng như cô, và tôi nghĩ rằng một người ở cùng hoàn cảnh sẽ có cùng một tâm trạng, do đó tôi nghĩ rằng cô cũng tương tự.
- À thì ra thế! Tôi cũng cười to.
- Giản dị quá phải không cô?
- Vâng, thật giản dị, nhưng mà anh đã làm cách nào thoát được cái cảm giác bị bỏ rơi đó.
Trung Đan nhìn tôi thật lâu, yên lặng một cách kỳ quái. Sau đó hắn đứng lên chậm rãi nói:
- Rồi một ngày nào đó, cô sẽ khắc phục được.
Nói xong hắn lại nhìn ra vườn.
- Bây giờ tới giờ dạy Khởi Khởi học.
Bỗng nhiên, hắn đứng lại hỏi:
- Cô đậu tú tài chưa?
- Dạ, đậu chừng một năm nay rồi. Tôi đi học sớm lắm, chỉ tại mẹ bệnh nên tôi không thi vào đại hoc.
- Thế cô muốn thi không?
Tôi gật đầu.
- Cô muốn học ngành nào?
- Tôi chưa quyết định.
Hắn dừng lại thêm một lúc, đoạn cười nói:
- Cô có thấy loài người lạ lùng không. Mỗi cái miệng nhưng không bao giờ có cùng một khuôn mặt. Mỗi người đều có cùng một cấu tạo về nội tạng, xương cốt, đại não, tiểu não, thế nhưng không bao giờ óc có cùng một bản tánh. Ngay cả trí thông minh cũng có sự khác biệt, mỗi người mỗi dáng trời sinh ra con người không bao giờ có sự trùng hợp. Như giữa cô và Khởi Khởi đều ở tuổi mười bảy, mười tám, nhưng cả hai lại hoàn toàn khác biệt.
Tôi cười nói:
- Đó có phải là nguyên nhân khiến anh nghiên cứu về tâm lý học chăng? Rồi tôi thắc mắc- Thế Khởi Khởi không đi học à? - Cô ấy chỉ học đến đệ tam thôi.
- Tại sao vậy?
- Tại bệnh phổi hay là bệnh gì khác không biết, cô ấy quá cô độc không thể sống hợp quần, không thể hòa hợp được với các sinh hoạt nhà trường. Mặc dù bệnh phổi đã hết hẳn nhưng cô ấy không thích đến trường nữa. Niềm vui của cô ấy quá nhỏ bé, lối giáo dục phổ thông không thích hợp với cô ta.
- Nói khác đi, có phải bài vở trong lớp của cô ấy quá kém chăng? Tôi hỏi.
- Đúng vậy, trừ môn hội họa và âm nhạc, bài vở của Khởi Khởi ít khi trên điểm trung bình. Vì vậy trên phương diện nghệ thuật, cô tỏ ra là một thiên tài lãnh hội rất nhanh chóng, cô đàn piano rất hay. Đối với người có thiên tài như vậy, nền giáo dục phổ thông chỉ làm thiệt tài năng thôi.
- Anh có vẻ bất bình cho cô ấy lắm.
- Đúng! Trung Đan suy nghĩ một lúc đoạn nói - Đó là một cô bé có thiên tài, rất dễ thương.
Tôi nghĩ đến Khởi Khởi, không ai lại không nói là cô ấy dễ thương. Đẹp là một lợi thế. Thượng đế thật lạ lùng, đã tạo ra con người mà còn phân biệt đẹp xấu làm chi? Như chợt nhớ ra, Trung Đan cắt đứt dòng tư tưởng của tôi:
- Chết! tôi phải đi đây, cô có thể tiếp tục đi dạo ở đây vừa mát, phong cảnh lại hữu tình.
Trung Đan bước đi một đỗi rồi quay lại cười thật tươi: - Cô thông minh lắm, nói chuyện với cô thật thích thú. Tôi ngồi lại, ngắm nhìn cái dáng cao gầy của hắn khuất sau lùm
cây. Hai tay ôm gối, tựa lưng vào thân cây, tôi nghĩ ngợi vu vơ. Cơn gió phất phơ làm vài chiếc lá vàng rơi trên áo, tôi nhặt một chiếc lá hãy còn màu xanh nhạt, hình quả tim, có mùi thơm, cọ nhẹ lên mũi. Tạo cho tôi một cảm giác thích thú.
Có tiếng chân người nhẹ bước về phiá tôi. Quay đầu sang, thì ra là Gia Gia, bà ta đang đứng cạnh và chăm chú ngắm tôi. Đôi mắt không còn ngây dại nữa, mà đăm đăm nhìn tôi như muốn tìm một ai qua hình ảnh tôi. Tôi vỗ nhẹ tay lên ghế và mời:
- Ngồi chơi, Gia Gia!
Tức khắc nụ cười khờ khạo lại xuất hiện và bà ta xoay lưng bỏ đi, vừa đi vừa lẩm bẩm, tôi chỉ nghe những tiếng đứt đoạn: - Bà ấy nói bà thích.. kêu tôi chăm sóc hoa. Bà nói tôi với mọi người như nhau cả, nếu không chăm sóc.. sống không được... Tôi vẫn cô độc ngồi đấy, đồng hồ trên tay chỉ gần mười hai giờ, đứng dậy, phủi nhẹ những chiếc lá bám trên áo, tôi bước ra khỏi vườn hoa.
Cầm hoa trên tay tôi bước lên bực tam cấp, mở cửa kính và bước vào phòng. Nhưng tôi vô cùng ngạc nhiên vì phòng nầy khác hơn lúc
nãy. Trong lúc tôi còn đang sửng sốt ngó quanh, thì tia mắt tôi bắt gặp giáo sư đang ngồi sau chiếc bàn giấy rộng trố mắt nhìn tôi. - Ủa giáo sư! Xin lỗi, tôi đã đi lộn cửa.
Giáo sư vẫn chăm chú nhìn tôi. Trong đám râu tóc rậm rạp như cỏ dại, đôi mắt ông long lanh một cách kỳ quái. Tôi không nghe ông la lối, có lẽ việc đường đột xông vào của tôi đã làm cho ông ta phiền lòng.
- Xin lỗi giáo sư. Tôi lập lại, một mắt lui ra cửa - Xin lỗi đã làm phiền giáo sư.
Bỗng nhiên ông ta nói:
- Khoan đã, đến đây bảo.
Tôi hơi do dự, đoạn bước tới. Giáo sư vẫn nhìn tôi rồi kéo ghế để trước mặt, ông nói:
- Ngồi xuống đây.
Tôi vâng lời ngồi xuống, bây giờ đối mặt ông tôi có thể nhìn ông rõ hơn. Hai hàng lông mi đen sậm với chiếc trán rộng, một phần phủ đầy tóc, chiếc cằm vuông đầy vẻ cương nghị, sống mũi hơi cao, chứng tỏ ông là người cứng rắn. Ông cất tiếng hỏi:
- Em đang nghĩ gì đấy?
Tôi hoảng hốt:
- Dạ, dạ tôi.. tôi nghĩ là nếu giáo sư cạo sạnh râu đi thì không biết gương mặt sẽ ra sao!
Ông ta lườm tôi. Tôi chợt hối hận, sao lúc nào tôi cũng có thể thốt ra những tiếng không nên nói như vậy. Giống như mẹ thường nói, tôi chưa thể lớn được phải không? Len lén nhìn ông, tôi hú hồn, ông không có vẻ gì là giận dữ cả, đôi mắt vẫn đăm đăm nhìn tôi từ mặt đến đóa hoa trên tay. Ông ôn tồn hỏi:
- Em cũng thích hoa nữa à?
- Vâng ạ!
Ông đón lấy đóa hoa trên tay tôi, đoạn chăm chú nhìn: - Đây là hoa của Khởi Khởi, nó đặt tên là Đừng quên tôi. - Có thật đóa hoa nầy tên là Đừng quên tôi hay không giáo sư? Tôi hỏi.
- Có lẽ. Ông liệng đóa hoa xuống - Hoa cỏ là những món giải trí của đàn bà.
Rồi ngước lên ông như xuất thần, bất động ngắm gương mặt tôi một lúc lâu như trên gương mặt nầy có một cái gì lạ lùng kỳ quái. Sau đó ông đưa bàn tay to lớn của ông lên, vuốt những sợi tóc trước trán tôi, hành động bất ngờ nầy làm tôi hoảng sợ. Nhưng nhìn vẻ ôn hòa dịu dàng của ông tôi an tâm, tia nhìn vẫn còn bị khuôn mặt tôi thu hút, một lúc sau ông bỏ tay xuống, tựa vào ghế, nhỏ nhẹ bảo:
- Em không đẹp lắm, nhất là không đẹp bằng Khởi Khởi, nhưng nhìn đôi mắt thông minh và gương mặt tươi sáng của em, tôi biết em là người giàu nghị lực. Ông yên lặng một lúc - Em không những chỉ thông minh mà còn đầy lòng thương người nữa phải không?
Rồi không đợi đáp ông nói:
- Vẻ đẹp đâu cần chỉ ở bề ngoài. Đoạn ông vỗ về cách tay đặt trên gối của tôi - Ức My! Em đẹp lắm.
Tôi như người mê ngủ trước đôi mắt như thôi miên của ông, lời nói ôn tồn làm tôi xúc động. Đây là người đàn ông như thế nào? Trái tim ông ta ra sao mà dễ thay đổi như thế? Gương mặt đầy râu ria của ông giống như một con sư tử đực hùng tráng. Sư tử đực! Tôi bỗng nghĩ đến cái bờm của nó, rồi nhìn gương mặt đầy râu của giáo sư, bỗng nhiên tôi không thể nín cười được.
- Hừ! Giáo sư nhíu mày lại - Bộ em thường hay cười khan như vậy sao?
Tôi hốt hoảng:
- Dạ xin lỗi, tôi thường cười không nhằm lúc, xin lỗi giáo sư, tôi sẽ cố gắng bỏ tật đó.
- Em nói cho tôi biết, tại sao em cười?
- Dạ, dạ.. tôi nói như đớ lưỡi- Dạ. Tại con sư tử đực.
Ông ta lườm lườm nhìn tôi, tất cả vẻ hiền hòa trên gương mặt lúc nãy đã biến mất:
- Em thường nói bậy, nói bạ như vậy lắm sao?
Tôi ngương nghịu:
- Dạ không phải tôi nói bậy nói bạ mà vì tôi nói chưa tròn câu ạ. Giáo sư lại cân nhắc nhìn tôi một lúc, rồi như không nhẫn nại được nữa, ông xô ghế đứng lên lạnh lùng nói:
- Hôm nay là ngày nghỉ cuối cùng của em.
- Dạ thưa chi ạ? Tôi chưa rõ ông bảo gì?
- Bắt đầu ngày mai em phải làm một thời khóa biểu ấn định giờ giấc đàng hoàng, em sẽ bắt đầu học để sang năm thi vào đại học. Tôi sẽ nhờ Trung Đan dạy em học toán lý hoá, quốc văn môn nào nó cũng giỏi cả. Đấy cũng là nguyện vọng của mẹ em, em hãy ráng mà liệu lấy, bây giờ em có thể đi được rồi!
Tôi đứng dậy hơi hối hận nhìn ông:
- Cám ơn giáo sư, Giáo sư đã lo lắng cho tôi quá đầy đủ. Ông ta ngẩng lên, mắt nhìn tôi trừng trừng như không biết tôi nói những gì.
CHƯƠNG
4
Hôm ấy, tôi thức dậy thật sớm lúc trời hãy còn mờ sương. Không khí buổi sáng thật tinh khiết. Rửa mặt xong tôi thấy tinh thần thật sảng khoái, đứng bên cửa nghe tiếng hát thanh thoát của Gia Gia vương vấn trong gió. Tôi bước ra khỏi phòng chạy xuống thang lầu, thẳng ra vườn hoa, thiếu chút nữa đã đụng vào một người, ngẩng lên, thì ra là Trung Đan. Tôi sung sướng:
- À anh, tôi không nghĩ là anh lại dậy sớm hơn tôi thế. - Vậy à? Hắn cười - Sáng nào tôi cũng dậy sớm, tôi thích ngồi xem sách trong vườn hoa.
- Vậy à! Thế mà hồi nào tới giờ tôi vẫn tưởng người trong nhà họ La nầy không bao giờ thức trước tám giờ chứ!
- Nhưng tôi nào có phải là người họ La đâu? Hắn nói. Ngoài ra đến tám giờ tôi đã phải dạy cô rồi? Cô quên sao?
- Thế anh có thấy bực mình không?
- Bực mình chuyện gì?
- Thì việc dạy một học trò ngu như tôi đó.
- Cô à? Hắn nhìn tôi cười - Nếu tất cả đứa học trò tại tư gia mà đều “ngu” như cô thì hay biết mấy!
- Mấy đứa học lớp đêm của anh có thông minh không? - Ơ. Hắn nhăn mặt. Thông minh quá đỗi thông minh.
- Sao vậy?
- Tôi thí dụ cô nghe nhé, cậu bé đó học đệ thất tôi phải dạy đủ môn cho cậu ta. Chương trình đệ thất có môn vạn vật cô biết chứ? - Có.
- Một hôm tôi phải mất suốt cả một buổi tối để phân biệt cho cậu ta
biết thế nào là đực cái đồng thể. Thế nào là đực cái dị thể giảng muốn khan cả cổ, thế rồi tôi hỏi cậu ta hiểu chưa hắn nói hiểu. Tôi mới tìm một câu hỏi để khảo sát, sợ câu hỏi khó thì cậu ta trã lời không được, nên tôi mới hỏi một câu thật dễ, tôi hỏi: Con người thuộc loại đực cái đồng thể hay dị thể, cô biết hắn trả lời ra sao không?
- Thế hắn đáp ra sao?
- Hắn nghĩ gần cả buổi mới đáp là: Con người thuộc loại “đực cái đồng thể”!
Tôi cười rũ rượi, sau đó chúng tôi bước vào con đường nhỏ giữa hàng long bá, Trung Đan nói:
- Tôi đến Đài loan một mình khi tôi vừa được mười mấy tuổi. Lúc đầu ở đậu nhà bà dì, sau đó bà dì không nuôi tôi nữa. Mười mấy năm qua, tôi phải tự lực cánh sinh để học, đến tốt nghiệp đại học, sống nhờ nghề kèm trẻ. Tôi đã dạy qua không biết bao nhiêu nhà, nhưng có một hạng người mà tôi ghét nhất không muốn dạy.
- Hạng nào?
- Đó là hạng bất tài.
- Nhưng mà trên đời nầy hạng bất tài thì lúc nào cũng nhiều hơn thiên tài, vì vậy tôi không ghét họ, mà chỉ ghét một hạng người. - Hạng người nào? Trung Đan hỏi ngược lại.
- Đó là hạng nô tài.
Hắn cười to:
- Thật ư? Nhưng bọn bất tài với bọn nô tài hạng nào đáng ghét hơn thì cần hỏi lại.
- Bọn bất tài chỉ đáng ghét chứ không đáng giận, trái lại bọn nô tài đáng giận hơn.
- Cô nói có lý, bọn bất tài chỉ vô dụng, còn với bọn nô tài thì thật là hạ tiện. Đối với người chuyên moi móc, luồn cúi thì không thể nào chịu được. Ức My, cô có vẻ nhìn rõ vấn đề hơn tôi, nhưng có một
hạng bất tài, chỉ thích lăn trong bùn nhơ phân thối, thân thể vừa hôi vừa tởm, thế mà lúc nào cũng cười ngạo kẻ tay trắng làm nên, họ lại còn tự cho mình hay, mình giỏi không cần ganh đua với đời, chịu an phận trong cuộc đời hạ tiện và gán cho những kẻ đang nỗ lực xây đựng là những phần tử có dã tâm, đua chen danh lợi không thanh cao. Đối với hạng thối tha nầy nói thật, tôi không xem họ ra gì cả. Không lúc nào tôi nghĩ rằng: trên đời nầy người không xông xáo gì cả mà có được lợi danh. Giả sử như có đi nữa thì chẳng qua họ chỉ là một thứ bù nhìn.
- Đúng vậy. Tôi đồng ý.
- Tôi cũng nghĩ rằng những kẻ nhạo báng sự thành công của người khác chỉ vì họ không thành công được, hoặc vì họ không chịu cố gắng. Nếu chỉ ngồi không trong phòng trống, không cần phải tranh giành hay tốn sức lao động thì có lẽ họ sẽ vui vẻ chấp nhận ngay!
Tôi chăm chú nhìn Trung Đan, rồi hỏi:
- Thế anh có thuộc thành phần có tham vọng chăng?
Trung Đan cũng nhìn tôi, gương mặc sáng sủa đầy cương nghị, điển hình cho một tinh thần tranh đấu giàu nghị lực, nếu so sánh về cái mã đẹp trai thì thua xa Hạo Hạo, Hạo Hạo đẹp trai hơn lại có vẻ phóng khoáng, nhưng chọn loại điển hình cho hạng người thực tế và tự lập thì Trung Đan lại hơn. Dù không đẹp trai, y phục xốc xếch, ăn uống nhanh nhẩu, nhưng khi làm việc hay lúc dạy học chàng đều hết sức chăm chỉ.
Tôi thích nhất vẻ suy tư của Trung Đạn mỗi lần chàng yên lặng nhíu mày là tôi lại tưởng tượng ra bao nhiêu tư tưởng đang quay cuồng trong bộ óc lớn mà mỗi ngày phải bao nhiêu việc để thỏa mãn tinh thần cầu tiến của chàng. Trung Đan vẫn nhìn tôi với đôi mắt hơi khác thường, chàng nói:
- Đúng, cô có thể cho tôi là người đầy tham vọng cũng được, tôi
không hề tự cho rằng mình thuộc loại thanh cao. Lúc nào tôi cũng dùng hết sức mình để làm việc, chinh phục những gì tôi cần chinh phục, không cần biết đó là danh hay lợi. Nhưng có một điều, đối với lợi lộc tiền tài tôi chỉ muốn mình không nghèo là được, chớ không đòi hỏi phải là phú ông, chỉ cần sống không thiếu thốn, tiền tài dư dả không ích lợi gì, vì nếu chỉ cần năm trăm cho một ngày là cuộc sống của cô được đầy đủ, thì một triệu, chục triệu, trăm triệu hay một tỷ có nghĩa lý gì thêm nữa đâu, phải không cô?
Tôi gật đầu hỏi:
- Thế đối với công danh thì sao?
Đôi mắt Trung Đan chợt sáng ra, một lúc lâu chàng nói: - Thuở nhỏ tôi có xem một quyển sách tên là “Anh hùng và những kẻ được ngưỡng mộ” cuốn sách nầy đã ảnh hưởng đến cuộc đời tôi, tôi mong rằng mình được ngưỡng mộ chớ không muốn là một bọt nước trên dòng, có thể vỡ ra không một âm vang. Sống một cuộc đời bình thản, vô danh là lãng phí! Tôi muốn được thành công, muốn là một anh hùng được vạn ngàn người ngưỡng mộ. Có lẽ cô cho tôi là hạng phàm phu tục tử chăng? Ức My.
- Cười anh phàm tục à? Không đâu, tôi hết sức ngưỡng mộ sư siêu phàm của anh. Thật vậy ai bảo anh phàm tục? Không, anh không phàm tục chút nào cả, vì có rất nhiều người khao khát được thành công nhưng không dám thú nhận còn anh thì không thế, anh đã nói thẳng điều anh muốn.
Chúng tôi đến cạnh vườn hoa. Tôi đứng lại.
Gia Gia đang trổ tài hát, khoan thai tưới mấy cụm hoa, thấy chúng tôi đến, bà ngừng tưới, ngẩng đầu nhìn chúng tôi cười ngớ ngẩn. Trung Đan ôn tồn hỏi:
- Hoa nở hết chưa, Gia Gia?
- Hoa nở rồi.
Gia Gia ngớ ngẩn nói, đôi mắt tròn xoe nhìn tôi như khám phá ra một điều gì mới lạ. Thùng nước trên tay hạ dần xuống, nước đổ tung tóe. Để bà nhìn một lúc lâu, tôi cảm thấy hơi dễ chịu và bước đến gần bà cười:
- Nước trong bình đổ ra hết rồi kìa, Gia Gia.
Vừa nói tôi vừa tiếp lấy thùng.
- Để tôi giúp bà tưới hoa nhé, được không? Tôi thích tưới hoa lắm. Bà ngạc nhiên nhìn, nhưng rồi cũng để tôi cầm chiếc thùng tưới lên những luống hoa, một tay tôi giữ áo vì sợ bị ướt. Nhìn những giọt nước ướt đẫm trên hoa lá với ánh nắng mới lấp lánh sáng, tôi thích thú vô cùng. Rồi như vô tình một mặt tưới hoa, một mặt tôi hát bài mà Gia Gia thường hát. Đến khi nước trong thùng đã hết, tôi ngừng tưới, quay nhìn ra thì bắt gặp Trung Đan đang ngắm tôi với đôi mắt chiêm ngưỡng và nụ cười trên môi, tôi mỉm cười đáp lại. Kéo thẳng nếp áo, đưa mắt lên gặp ánh mắt của Gia Gia. Gia Gia nhìn tôi sung sướng, những vết nhăn trên mặt ửng đỏ, đôi môi khép hờ, thái độ thật giống trẻ thơ khi trông thấy món quà vừa ý, tôi hơi ngạc nhiên, bước đến nắm lấy cánh tay trơ xương:
- Gia Gia làm gì vậy?
Bà vẫn nhìn tôi âu yếm, rồi chạy nhanh vào vườn hoa, ngắt lấy hai cánh hoa xong chạy trở lại. Hai đoá hoa màu vàng không tên. Cánh hoa không có vẻ gì quí giá cả, có lẽ là một loài cỏ dại. Bà trao hai cánh hoa cho tôi, gương mặt hồng hào vui sướng. Tôi Ngac nhiên:
- Bà cho tôi đấy à?
Hai cánh hoa được vào lòng tôi với bao nhiêu vẻ thành khẩn, tôi nhận lấy hoa gật đầu:
- Cám ơn Gia Gia nhiều nhé!
Quay đầu sang nhìn Trung Đan, thái độ của hắn cũng tương tợ khiến tôi không hiểu gì cả. Cầm hoa trên tay, tôi tiếp tục bách bộ với
chàng một đoạn xa, quay đầu nhìn lại vẫn thấy Gia Gia đứng sững nơi ấy, chăm chú nhìn chúng tôi. Đưa hoa lên mũi ngửi, rồi lại cầm xem, tôi tò mò hỏi Trung Đan:
- Anh biết hoa này hoa gì không?
- Tôi nghĩ chắc nó thuộc loài Khổ Công Anh, một thứ cỏ dại. Chàng đáp - Hình như loại hoa nầy là thứ rẻ tiền nhất trong các loài hoa trong vườn này, nhưng nó lại là bảo vật của Gia Gia đấy. Bà cho mọi người hái tất cả các hoa nhưng trừ thứ nầy.
- Thật không?
Tôi nghi ngờ.
- Bởi vậy việc nầy có vẻ hơi lạ lùng đấy. Rồi Trung Đan trầm ngâm nhìn tôi: - Gia Gia có lẽ rất thích cô nên mới hái thứ hoa mà bà yêu quí nhất để tặng cô. Hành động hôm nay của bà hồi nào tới giờ tôi chưa hề thấy.
Chúng tôi bước vào rừng cây, đến ngồi đưới giàn hoa giấy. Tôi thẫn thờ nhìn đóa hoa vàng năm cánh của Gia Gia cho, tuy không đẹp, nhưng vương vấn một vẻ gì mong manh đáng thương.
- Đóa hoa đáng thương, Tôi nói - Hình như nó yếu đuối quá phải không? Cánh hoa nho nhỏ như có thể rơi ngay khi chạm đến. Tôi đặt cánh hoa lên ghế, ngẫm nghĩ một lát nói:
- Anh có nghĩ rằng Gia Gia là người có tình cảm, biết vui buồn giận hờn hay không?
- Có chớ, Trung Đan đáp - Có lẽ bà ta còn nhiều ký ức trong tiềm thức.
Chàng nhìn tôi, đôi môi mím lại, đôi mày hơi cau, có lẽ tư tưởng đang quay cuồng trong đầu chàng.
- Tôi nghĩ bà ta cô độc vì không ai chịu kết bạn, và cô tử tế với bà, nên bà thích cô. Sự thật, bà cũng là người cũng có tình cảm và tư tưởng. Thế giới riêng của bà có lẽ còn dễ thương hơn xã hội chúng ta
nữa là khác.
- Tại sao vậy.
- Vì bà chỉ cần có người cho cơm ăn, thấy hoa nở đẹp là sung sướng. Thỏa mãn rồi không có một đòi hỏi, không biết thất tình, tự ái cũng không...tất cả những điều phiền não đều không có. Ngoài ra lại không có trách nhiêm đối với sự hiểu biết, thế có phải bà quá giản dị sung sướng hơn chúng ta nhiều không?
- Trách nhiêm đối với sự hiểu biết là gì?
- Thế cô không nghĩ rằng sự hiểu biết là trách nhiệm của con người à?
Rồi chàng cười:
- Sự hiểu biết càng nhiều, con người càng thấy mình có trách nhiệm vì trí thức vói tư tưởng luôn luôn đi đôi. Cô hãy xem, những người làm việc lao lực, quần quật suốt một ngày, tối về tắm rửa, ăn cơm xong là nhảy lên giường đánh một giấc ngon lành không cần suy nghĩ gì ngoài một giấc ngủ thỏa mãn. Trái lại với người học thức cao, tư tưởng phong phú thì lại khác, không phải chỉ cần ăn với ngủ mà họ còn cả một trời hiểu biết, suy nghĩ. Họ nghiên cứu bản tính con người, khoa hoc, xã hội, tìm hiểu cái này tìm hiểu cái kia lúc nào cũng làm cho đầu óc nứt ra để thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu vô biên của họ. Cô thấy không, chỉ có hạng người trí thức mới phải dùng đến thuốc ngủ thôi.
Những câu nói của Trung Đan khiến tôi thích thú, hai tay ôm lấy gối nhìn lên những đóa hoa tím trên giàn tư lự, còn chàng ngã người về sau, cánh tay choàng ra băng ghế phiá sau, Trung Đan tiếp tục:
- Con người có hai trách nhiệm lớn đó là trí thức và tình cảm. Tôi nhíu mày, suy nghĩ:
- Như thế có ích lợi gì đâu?
- Sao lại không ích lợi? Chàng nói - Nếu mọi người như thế cả, thì
cuộc sống vẫn bình thường biết bao. Cô chỉ cần đi săn thú kiếm thịt cho đầy bụng là thỏa mãn rồi, cuộc sống sẽ giản dị và sự bực mình sẽ giảm nhiều. Nhất là cô không phải lo lắng sợ thi rớt vào đại học, cũng như khỏi phải buồn khi chứng minh một bài hình học mãi mà không ra.
Tôi mỉm cười, chàng cũng cười theo, xong quay nhìn đồng hồi giật mình bảo:
- Chết chửa, gần tám giờ rồi. Thôi chúng mình phải trở về thực tế lo học đi là vừa. Ờ, mà hình như cô chưa ăn điểm tâm phải không? Mau đi ăn đi để học cho kịp. Hôm nay nếu tôi không lầm thì giờ đầu chúng ta ôn Hình học, môn đau đầu nhất của cô đấy!
Tôi đứng dậy vươn vai, lười biếng đáp:
- Ơ! Nói chuyện thích hơn học nhiều, Rồi nhìn hắn tôi nhăn mặt nói - Anh Trung Đan, anh biết tôi nghĩ thế nào về anh không? Tôi nghĩ có lẽ anh là người có trái tim sắt đá nhất.
- Tại Sao?
- Anh xem, trong một không khí vui vẻ như thế này mà anh nỡ bắt tôi vùi đầu vào sách, anh thiên về lý trí nhiều quá, vì vậy tôi nghĩ anh là người ít tình cảm.
- Thật à? Chàng mỉm cười, đôi mắt sáng lên - Đối với điều cô nói, tôi nghĩ rằng tốt nhất là để thong thả hãy kết luận, đợi đến lúc nào chúng ta biết nhau rõ hơn đã nhé!
Tôi nhặt các cánh hoa trên ghế đá sửa soạn đi:
- Chúng ta không cùng đi sao? Anh ăn sáng rồi à?
- Tôi để cô 15 phút ăn điểm tâm. Chàng nói- Tôi còn được mười lăm phút xem sách.
Nói xong chàng dở quyển Tâm Lý Phổ Thông ra. Tôi cầm các cánh hoa bước về phiá khu vườn. Đi một đoạn, tôi quay đầu lại: - Anh biết không, giờ phút nầy tôi chỉ mong mình biến thành người
thượng cổ.
Chàng nhìn tôi:
- Nhưng không được phải không? Sống trong xã hội thời đại này lúc nào cũng phải tranh đấu, vì vậy Ức My, đừng bao giờ làm kẻ yếu hãy làm một kẻ mạnh.
Tim tôi đập mạnh nhìn hắn, gương mặt thành khẩn đầy tình hữa nghị, gương mặt của một giáo sư tận tâm, tôi gật đầu, lòng mang mang xúc động.
- Anh cứ yên trí, tôi nhẹ nhàng đáp- Tôi sẽ cố gắng thi đậu vào Đại Học.
Cầm những cánh hoa, bước lên lầu trở về phòng, lấy chiếc bình đặt lên kệ sách xuống, thay những cánh hoa hồng bằng loài hoa vàng không tên nầy. Mãi nhìn những cánh hoa, 15 phút trôi qua, Trung Đan đẩy cửa bước vào:
- Sao? Cô dùng điểm tâm chưa?
Hắn hỏi, đoạn ngồi xuống trước mặt tôi, giở quyển hình học ra sắp sửa giảng bài.
- Rồi ạ!
Tôi nhẹ nhàng đáp.
- Ăn rất no.
Đoạn tôi nhìn hắn cười, và miễn cưỡng mở vở ra.
CHƯƠNG
5
Một buổi chiều, tôi bước vào phòng Khởi Khởi. Khởi Khởi đang đứng cạnh cửa sổ một tay cầm giá vẽ, một tay cầm bút sơn dầu. Vừa lúc đó cô ta quay lại nhìn thấy tôi bước vào, chúng tôi gật đầu chào nhau.
Tữ ngày dọn vào nhà họ La đến nay đã hơn tháng, tôi lúc nào cũng tìm cơ hội để gần gũi nàng, tôi mong ước được làm bạn với Khởi Khởi, có lẽ vì vẻ đẹp lạnh lùng của nàng đã quật ngã tôi; do đó, chảng ngần ngại tôi bước đến gần nàng.
Phòng Khởi Khởi và của tôi có cùng cách bài trí nhưng phòng của Khởi Khởi trang nhã hơn, màn cửa, nệm giường tất cả đều xanh nhạt. Chiếc bình hoa trên bàn với những cánh hoa màu lam thoảng hương. Hôm nay Khởi Khởi mặc chiếc robe mỏng màu vàng nhạt, tóc buông xõa đứng cạnh cửa dáng dịu dàng như tiên nữ.
Tôi bước đến cạnh ngắm bức họa. Đó là bức họa phong cảnh, màu đỏ xâm chiếm gần hết hình bình nguyên với những ngọn núi đá và mặt trời sắp lặn, bức họa quá quen thuộc! tôi ngẩn người một lúc, Khởi Khởi nói:
- Tôi đã ăn cắp cách bố cục của bức tranh trong phòng chị. Nét tang thương và hùng vĩ của nó khiến tôi thích thú.
Tôi chợt tỉnh, thì ra thế, nhưng bức họa của mẹ nền xanh cơ mà (bức họa đó hiện đang treo trong phòng tôi). Nếu so sánh, bức họa của Khởi Khởi có vẻ tươi sống động hơn bức họa của mẹ, Hoàng hôn chiếm cả khoảng không, ngọn núi nổi bật hơn. Khi Khởi Khởi vẽ xong, nàng lui ra sau một bước ngắm nghiá, xong lại cầm bút tô thêm lên nền trời đôi chim nhạn khiến cho bức họa càng gợi hình. Tôi buột miệng khen:
- Chị vẽ đẹp quá!
Khởi Khởi quay sang nhìn tôi lạnh lùng:
- Bức họa không do tôi nghĩ ra thì có gì là đẹp và hay đâu? Lúc nào cũng thế, hình như nàng rất khó khăn trong việc tạo một gương mặt vui tươi và giọng nói dịu dàng để nói chuyện với người khác. Đã mấy trăm lần đụng phải trường hợp đó, biết được bản tính Khởi Khởi là như vậy, nên tôi, tuy có phần ngượng ngùng nhưng cũng không đến nỗi nào, bước đến cạnh bàn, tôi tìm lời lấp liếm: - Chị thích những cánh hoa màu lam này lắm à? Nghe nói hình như tên nó là Đừng Quên Tôi phải không chị?
Cô ta nhìn tôi, thong thả đáp:
- Tôi thích loài hoa cánh lam vì nó hiếm, với những loài hoa thường thì tôi không ưa. Hơi nhíu mày Khởi Khởi lại nói - Hoa này có phải là tên Đừng Quên tôi hay không thì tôi không biết, vì tôi có phải là nhà Thực vật học đâu?
Tôi ngước mặt lên thầm nghĩ, tốt nhất trở về phòng mình nằm sướng hơn. Nhưng bỗng nhiên cô ta liệng bút đi, rửa những vết dầu sơn trên tay, đoạn quay sang tôi, đôi mắt mơ màng nhìn tôi chăm chú. Cô ta đang đò xét tôi chăng? Ngẩng đầu lên, tôi cũng ngắm Khởi Khởi. Trời ơi! Nàng quá đẹp, đẹp đến độ khiến người ta mê mẩn. Nếu tôi là con trai, có lẽ tôi sẽ vứt bỏ tất cả để theo đuổi nàng. Bỗng nhiên nàng nói:
- Chị giống cha hay giống mẹ?
- Theo tôi nghĩ, có lẽ giống mẹ tôi hơn. Tôi đáp và tiếp - Tôi thấy chị cũng thế.
- Đúng vậy. Nhưng tôi thích được giống cha hơn. Khởi Khởi trả lời. - Sao vậy? Tôi hỏi - Mẹ chị đẹp mà chị còn đẹp hơn nữa mà! Nàng nhìn tôi một lúc, sắp xếp dụng cụ, giấy bút xong nói:
- Chị có để ý cha tôi không? Ông ta đẹp trai lại có cá tính cứng cỏi, bất khuất giống nhu cây tòng cao vời vợi, còn mẹ tôi? Nàng cúi đầu xuống suy nghĩ một lúc - Người giống như những cánh hoa vàng trong phòng của chị.
Nghĩ đến sự so sánh của Khởi Khởi, tôi thấy có đôi phần đúng. Giáo sư cứng cỏi thắng thắn, còn bà Nghị thì quá yếu đuối. Sự kết hợp giữa hai người là cả một sự lạ lùng, phải chăng có một sức mạnh siêu việt nào đó an bài tất cả mọi việc ở đời nầy?
Có lẽ vì thấy tôi không nói gì cả nên Khởi Khởi cũng yên lặng theo, nàng tỉ mỉ dọn dẹp bút, giấy và dầu sơn, trong khi tôi rỗi rảnh tựa lưng vào ghế, thuận tay với lấy quyển sách để trên bàn lật ra xem, đó là quyển tốc họa của Khởi Khởi.
Tấm đầu tiên là bản phác họa giáo sư với đôi chân mày rậm, râu hàm, tóc rối, mắt quắc thật sống. Bức thứ hai là cảnh hoa viên, bức thứ ba khiến tôi chăm chú nhìn, đó là gương mặt đàn ông trán rộng, mắt to, càm vuông, đôi mắt nghiêm nghị đúng là Trung Đan. Lật thêm vài trang tôi thấy một cánh hoa màu lam nhạt, khung giấy trắng bên cạnh có tuồng chữ của Khởi Khởi với mấy hàng:
Đừng bóp nát những cánh hoa này, Anh có biết nó mang tâm sự gì trong ấy? Đừng vứt đi cánh hoa xanh nhạt, Vì anh phải biết nó vẫn có trái tim. Cũng đừng bảo rằng chúng ta chưa hề biết nó. Vì nó mang tên “Đừng Quên Tôi”!
Tôi chăm chú nhìn hàng chữ, rồi cánh hoa xanh nhạt, bỗng nghĩ vẩn vơ.
Trong lúc tôi còn đang xuất thần thì Khởi Khởi chạy vụt đến, giựt lấy quyển sách trên tay, đôi mắt xinh đẹp kia giận dữ nhìn tôi: - Chị làm gì thế?
- A! Tôi hoảng hốt - Xin lỗi, tôi không cố ý, tôi lật thử xem cái gì đấy mà.
- Lật thử xem à? Cô ta la to - Bộ mẹ chị không dạy chị là không nên tự ý lấy đồ của người khác xem hay sao?
Thái độ ngạo mạn, tàn nhẫn của Khởi Khởi khiến tôi giận dữ: tôi đứng thẳng người lên, không thể đè nén được cơn giận trong lòng trào ra, cảm giác bị sỉ nhục làm tôi cứng cỏi:
- Mẹ tôi dạy tôi nhiều thứ lắm chứ, nhất là phải biết thương người phải làm cách nào để thành người. Mẹ tôi nói, con đừng bao giờ chê cười người vì như thế người ta sẽ mắng vào mặt con. Nếu con thành thật đối đãi thân tình thì chẳng bao giờ người ta tệ bạc với con. Nhưng lúc nào con cũng phải biết rõ người, vì có một hạng người không có trái tim, họ không biết phân biệt thế nào là sự đùa bỡn thế nào là sự thành thật.
Cô ta ưỡn ngực về phiá trước, trừng mắt nhìn tôi một lúc lâu rồi nói:
- Chị quả có người mẹ tốt, bà ta đã dạy cho chị biết là có một giống người không có trái tim dùng oán để báo đức phải không? Tôi nghĩ không có một người họ La nào trong nhà nầy lại không tốt với chị cả.
Tôi đỏ bừng cả mặt nhìn cô ta. Tôi biết câu nói của cô ta như thế còn nhẹ lắm, cô ta có quyền nói thêm những câu nặng nề khác nữa mà. Thái độ của Khởi Khởi như tát vào mặt tôi “Này Ức My, mày đừng quên rằng mày là đứa bé mồ côi mà nhà họ La này đã cho ở đậu”!
Tôi ứa nước mắt bỏ chạy ra cửa, vì chạy quá nhanh tôi đã va vào một người làm sách vở bắn tung rơi rải đầy đất, người ấy nắm lấy tôi: - Ức My, lại cũng cô, cô làm gì chạy nhanh thế?.. Rồi như ngạc nhiên - Cô làm sao thế hở...?
Tôi đưa tay quẹt ngang mắt. Biết rằng nếu muốn khóc chỉ nên đợi lúc trở về phòng đã. Tôi lấy lại điệu bộ ngay ngắn gượng cười nói: - Không, đâu có gì?
Hắn chăm chú nhìn tôi, đôi mắt tò mò dọ hỏi, hắn gật gù nhỏ nhẹ nói:
- Khoan đã đợi tôi hỏi rõ ràng xem tại sao?
Tôi lắc đầu trước đôi mắt xúc động của hắn:
- Không, không có chuyện gì hết.
Nói xong tôi cúi xuống nhặt những quyển vở, hắn cũng cúi xuống phụ nhưng các quyển vở đã lượm hết. tôi thấy một vật rớt ra từ một quyển sách, đó là vật mà tôi đã nhìn thấy trong phòng của Khởi Khởi - Một cánh hoa ép màu xanh.
- Cái nầy là cái gì vậy?
Hắn có vẻ hơi bất mãn:
- Ờ, Khởi Khởi đó, lúc nào nó cùng ép hoa trong vở, tôi cũng không biết hoa gì!
Nói xong, hắn lấy cánh hoa và bóp nát, vo tròn lại sắp sửa vứt đi. Tôi lặng người, và đột nhiên thốt lên những câu thơ ban nãy. - Ức My cô đang đọc cái gì đó?
Hắn hỏi, đoạn nhìn tôi dò xét.
- Việc học đã làm cô mệt mỏi lắm phải không? Cô cũng nên nghỉ ngơi một chút, để chiều thứ bảy này tôi mời cô xem hát bóng, xong chúng ta sẽ bát phố. Tôi lúc nào cũng muốn.. Hắn bỗng thành khẩn nhìn tôi - Muốn mua tặng cô vài bộ áo quần. Ức My, cô có nghi ngờ sự thành thật của tôi chăng?
Tôi nhìn hắn. Tôi làm sao nghi ngờ hắn được? Đôi mắt hắn quá thành khẩn, lời nói lại ôn tồn thân mật. Những giọt nước mắt tròn mi, tất cả cảnh vật chung quanh như mờ hẳn. Hắn kinh ngạc: - Ức My, tôi đã làm cho cô buồn đó à?
- Không phải vậy, Trung Đan! Tôi nói, vẫn không quên nhìn hắn - Tại sao anh lại quá tốt với tôi như vậy? Ai cũng...
Tôi bỗng ngưng bật. Hắn nghi ngờ:
- Thế ai đã hiếp đáp cô?
- Không, không có ai cả.
Hắn lại đăm đăm nhìn tôi:
- Vậy thì cười lên đi chứ Ức My, tôi biết cô không phải là đứa con gái đa sầu, đa cảm, đúng không? Hãy nghe tôi nói Ức My, cô không phải là người cô độc. Hắn lại nhìn tôi cười - Cuộc đời tôi với cô giống hệt nhau, nhưng tôi không bao giờ để cho nỗi buồn lấn át tôi cả.
Tôi gật đầu bước về phòng. Tôi sẽ không bao giờ buồn nữa, thật vậy, vì tim tôi đang hát một bản nhạc vui.
CHƯƠNG
6
Chuỗi ngày đài trôi nhanh. Một buổi chiều mưa to đầu hè đuổi xua đi bao nhiêu nóng bức. Chiếc móng trời chắn ngang rặng cây xanh, ánh nắng chiều tiếp nối theo sau nhuộm đỏ cả mái nhà mốc xám, rừng cây, đồng cỏ và cả bầu trời. Cảnh hoàng hôn thật đẹp với những trận gió tươi mát khiến mọi người cảm thấy sảng khoái. Bước ra khỏi phòng, chạy bay xuống thang lầu, miệng tôi không quên lẩm nhẩm bài học:
- “Thiên tương giáng đại nhậm dữ tư nhân giả, tất tiên khổ kỳ tâm chí, lao kỳ cơ cốt. Không phân kỳ thân, hành, phất loạn kỳ sở vi, sở dư”
Bỗng có tiếng người đọc tiếp:
- “Đông tâm nhẫn tánh, tăng ích kỳ sở bất năng”.
Tôi ngẩng đầu nhìn, thì ra là Hạo Hạo, hắn đang đứng tì lưng vào lan can ở cuối thang lầu, hai tay tựa cằm đặt trên cây chống, mỉm nụ cười tinh nghịch nhìn tôi:
- Ức My, bộ cô muốn làm con mọt sách nữa sao?
Tôi cười nói:
- Anh Trung Đan là một ông thầy dữ lắm, anh biết không? Nụ cười trên môi hắn chợt ngưng một lúc xong lại cười xòa. Hai tay vòng ngang ngực, hắn nhìn tôi thăm dò:
- Thế, cô với Khởi Khởi đều nể nang Trung Đan lắm à? Theo tôi nghĩ thì cô hãy còn trẻ phải có một chút sinh khí chớ tối ngày co rút mãi trong sách vở thì không thể bình thường được. Bản tính cô thuộc vào loại hồn nhiên và vui nhộn, chớ nào phải mọt sách đâu, phải không?
- Sao anh biết? Tôi hất hàm hỏi.
- Nhìn dáng đi của cô là biết chớ gì, đi không ra đi, chạy cũng không ra chạy, lúc nào cũng như muốn đâm sầm vào người khác. - Hứ!
Tôi nguýt hắn, đoạn ngồi ngay xuống thang lầu, tay chống cằm giận lẫy:
- Phải, mẹ tôi cũng thường nói tại tôi đi đứng không vững vàng nên không thể nào trở thành một tiểu thư trang nghiêm đài các được? Nụ cười trên môi hắn càng tăng thêm vẻ diễu cợt:
- Tiểu thơ đài các ư?
Hắn lại nháy nháy đôi mắt:
- Không, tôi biết nơi cô xuất thân không phải là một gia đình giàu có, vì vậy ngay cả dáng điệu cử chỉ của cô cũng không có vẻ gì là quí phái cả. Cô với Khởi Khởi khác biệt với nhau, mặc dù nó có vẻ trang nghiêm, quí phái hơn cô, nhưng đổi lại cô hồn nhiên và dễ thương hơn nó. Đối với tôi, cô có biết giữa hai người tôi thích ai hơn không?
Tôi thở dài:
- Có lẽ chị ấy dễ thương hơn, tôi cũng muốn bắt chước cách đi đứng dịu dàng, hành động cho trang nhã, nhưng mà...Tôi lắc đầu - Có lẽ tại Khởi Khởi cao quí hơn tôi nhiều, nhất là trên phương diện thể chất...
- Cô có nghĩ là Khởi Khởi dễ thương lắm à? Hắn hỏi tôi - Cô có biết rằng nó còn thiếu một món mà con người cần phải có hay không? - Thiếu cái gì?
- Thiếu sự sống động. Này Ức My, cô nên là cô mà đừng bao giờ bắt chước nó!
Đoạn ngắm nghiá tôi một lúc, hắn nói:
- Ức My cũng đẹp, cũng dễ thương lắm chứ. Tôi thích vẻ ngổ ngáo và tự nhiên của cô.
Ngưng một chập rồi hắn lại cười bảo:
- Khởi Khởi hồi nào tới giờ chưa hề dám ngồi bệt xuống thang lầu như cô thế này.
Vừa nghe hắn nói, tôi nhỏm dậy ngay, hắn lại cười lớn: - Bộ ở ván cầu thang có đinh hở cô? Hay là có lửa? Cô làm gì mà như bị đốt không bằng!
Tôi tròn mắt nhìn hắn, miệng chu chéo:
- Bộ anh trêu được ai anh mới vui thích được sao mà anh cứ mãi chọc quê tôi hoài thế?
Hắn càng cười to:
- Đúng vậy, nhưng đừng có lo, để từ từ tôi dạy cô cái thú trêu người nhé!
- Tôi không thú nổi cái trò đó.
- Nhất định sẽ thú lắm mà, tôi biết, vì tôi với cô cùng một loại với nhau.
Tôi quắc mắt nhìn hắn. Đôi mắt to đen tinh quái trên gương mặt sáng, mái tóc tuy chải xong vẫn lòa xòa trên trán, chiếc mũi hỉnh lên, theo sách tướng thì những con người có gương mặt này thường là những con người có quyền bính trong tay. Đôi môi mỏng với nụ cười tinh quái, đó là một nụ cười khiến người mất cảm tình.
Tôi bước xuống thang lầu đi về phiá cửa, mở cánh cửa kiếng ăn thông ra vườn hoa. Bên ngoài, trên bực thêm một đôi giày trượt tuyết để nằm đấy. Tôi quay đầu lại nhìn hắn, bộ quần áo thể thao bó sát một thân thể khỏe mạnh, chứng tỏ hắn vừa mới chơi xong. Hắn bước đến gần tôi, rồi nhìn đôi giày hỏi:
- Cô thích thể thao không?
- Thích chứ! Tôi đáp.
- Biết bơi không?
Tôi gật đầu.
- Thế chủ nhật tới, tôi mời cô đến hồ Bích Đầm bơi nhé? Hắn nói, đoạn bước xuống thềm.
- Cô biết trượt băng không?
Tôi lắc đầu.
- Xuống đây, tôi dạy cho, học một lúc là biết ngay!
Môn trượt băng như có một cái gì hấp dẫn, lôi cuốn, tôi cưỡng không lại ý thích. Đã từ lâu rồi tôi hằng ước ao học cách trượt băng nhưng không có cơ hội. Khoảng sân ciment bên dưới bực thềm không rộng lắm, lại vì vừa mưa xong nên những vết bùn ẩm vẫn chưa khô.
Hạo Hạo cầm lấy chiếc giày nhìn tôi:
- Ngồi xuống mang vào chân đi!
Tôi hơi do dự, rồi cũng ngồi xuống thềm. Đôi mắt hắn nhìn như đang thích thú. Tôi bắt hắn cười việc tôi vừa nhảy nhỏm ở cầu thang thì giờ lại ngồi xuống bực thềm. Nhưng mà mặc hắn, việc học trượt băng làm tôi thích thú hơn là để ý đến hắn. Hạo Hạo cúi người xuống phụ tôi cột chặt chiếc giày vào chân.
- Bây giờ nhé, thử đi một chân trước xem sao, đừng ham đi quá nhanh. Đứng dậy xem nào!
Hắn ra lệnh, tôi đứng lên thử.
Trọng tâm của con người tôi hình như đã đi đâu mất, tôi ngã tới ngã lui, vội vàng lấy chiếc chân còn lại giữ vững thân thể, nhiều lúc đi thử đều không được, lúc nào cũng muốn trượt té cả. Hắn đứng bên cạnh khoanh tay nhìn một lúc, đoạn dìu tôi đến bên thềm, bực dọc:
- Tôi thấy cô ngu ơi là ngu! Ngồi xuống coi, có bấy nhiêu mà học cũng chẳng nên thân, tôi chỉ còn dùng cách cứng rắn để dạy cô thôi. Vừa nói hắn vừa lấy thêm một chiếc giày còn lại mang vào chân tôi, rồi lại cười:
- Bây giờ thì không còn tựa vào đâu được nữa. Đứng dậy cho cẩn thận xem!
- Đừng đùa, tôi không thích bị ngã chút nào đâu! Tôi đáp. - Vậy thì cô phải ráng giữ sao cho đừng ngã mới hay chứ! Hắn nói xong không đợi tôi phát biểu ý kiến gì cả, nắm lấy hai tay
lôi tôi đứng dậy. Tôi hốt hoảng hét to, tay vẫn nắm chặt lấy hắn. Bốn cái bánh xe bên dưới chân vừa chạm đất là như mắc toi không lăn không được. Thân hình tôi ngã về phiá trước, trong khi đôi chân lại chạy toạc về sau. Tôi hốt hoảng ôm chặt lấy tay hắn hét:
- Làm cái gì kỳ vậy. anh muốn phá tôi hả? Ôi, ôi. Không được đâu, té bây giờ, ái ái...Không được, ngã cho coi.
Tôi la lớn như thế, mà hắn như giả điếc không thèm để ý đến, lại còn cố gắng bỏ tay tôi ra. Rút được tay về, hắn nép sang một bên, trong khi tôi bị mất điểm tựa, giống như đầu xe hỏa bị đứt thắng, trượt tới trượt lui trên sân. Hắn đứng bên sân, vòng tay trước ngực hét to:
- Giảm bớt tốc lực một chút! Để trọng tâm ra sau một chút. Rồi! Nếu hai chân chạy theo hai ngã phải rút bớt một chân lại. Có lẽ chỉ có trời mới biết tôi đã làm thế nào để giảm bớt tốc độ, phải để trọng tâm ra sau một chút là như thế nào? Chỉ biết bản năng sợ té đã khiến tôi phải tìm đủ cách để giữ thăng bằng cho cơ thể, trong lúc đôi tay quơ quào lung tung trên không. Thật tội nghiệp cho đôi tay tôi lúc đó biết chừng nào vì có lẽ hắn cũng muốn giúp tôi lắm trong việc chế ngự đôi chân không còn nghe tôi chỉ huy nữa. Nhưng rồi sự cố gắng của tôi cũng chẳng giúp ích được gì. Tôi nghe tiếng Hạo Hạo hét to:
- Ức My, chú ý! Coi chừng lọt ra khỏi nền ciment, xử dụng ngay hai bánh xe đầu mũi giày, chân trái giơ cao lên. Ức My, chú ý! Trời.! Sau tiếng la của hắn, tôi - chiếc đầu xe hỏa đứt thắng - đâm thẳng
ra khỏi nền ciment, lọt ngay vào vũng đất bùn chưa khô do cơn mưa lúc nãy để lại! Tại sao chui vào đâu không chui mà chui sang hướng này?
Sau tiếng “trời” của Hạo Hạo là tôi không còn biết gì nữa, chỉ nghe một tiếng “tõm!” thì đã thấy mình đang ngồi trong vũng nước, hai cánh tay chống sâu xuống bùn, chỉ có đôi chân mang giầy là lú khỏi mặt nước.
Hạo Hạo bước đến, khom người xuống nhìn tôi, chân mày nhướng cao, có lẽ lúc ấy đôi mày tôi cũng thế. Đôi mắt hắn mở rộng như tôi. Chúng tôi cứ nhìn nhau một lúc rồi bỗng phá lên cười lớn, cười ngặt nghẽo. Tôi nghĩ rằng có lẽ hắn đang cố gắng gom góp tất cả nụ cười trong đời hắn ra cười luôn một lần cho thỏa thích.
Tiếng cười của hắn chưa dứt, tôi đã thấy có bóng người chạy về phiá chúng tôi. Tôi ngẩng đầu lên, trời ơi! Giáo sư La Nghị! Ông ta khom người xuống nhìn tôi. Thân hình to lớn của ông như cái núi che khuất cả mặt trời trước mặt. Tia mắt long lanh từ trong đám rừng râu tóc rối kia chiếu vào người tôi, cái nhìn như lạ lùng, rồi như không tin rằng điều mình nhìn thấy là đúng, ông đưa tay lên dụi mắt, xong lại mở mắt lớn ra nhìn tôi một lần nữa. Nhìn từ đầu đến chân, miệng lại lẩm bẩm một tràng dài. Một lúc sau, ông hậm hự:
- Hừ, Ức My! Tôi nghĩ rằng việc em ngồi ở trong vũng bùn như thế này không hay chút nào cả!
- Vâng ạ. Tôi gật đầu, miệng lúng túng - Vâng tôi cũng không thích ngồi đây chút nào hết.
Giáo sư lại nhíu mày, lắc đầu:
- Tôi cũng thấy nó không đẹp.
- Vâng không đẹp thật. Tôi lại gật đầu.
- Được rồi. Ông ta đăm đăm nhìn tôi - Thế em ngồi trong đó làm gì thế?
- Dạ! Tôi...Đôi mắt mở to, tôi không biết nói sao bây giờ, chỉ biết đưa đôi chân có mang giày trượt băng lên nói - Tại như thế này này, nếu dưới đôi giầy của giáo sư cũng có mang mấy chiếc bánh xe như thế này thì ngài ngồi vào nơi này rất dễ dàng ạ.
Đôi mày trên trán ông càng nhíu lại, trợn mắt nhìn đôi giầy hàng mấy giây đồng hồ sau đó ông gật đầu như hiểu được lý do. Đưa tay lên vuốt mũi, giáo sư vẫn nhẫn nại:
- Thế bây giờ em muốn ngồi trong ấy đến bao giờ.
- Dạ! Tôi le lưỡi liếm mép - Tôi không thích ngồi một giây nào cả, nếu giáo sư chịu giúp kéo em ra khỏi nơi này.
Tôi cố gắng rút cánh tay trong bùn ra, cố nhiên là bùn trên tay vẫn còn rất “đẹp”. Giáo sư Nghị chăm chăm nhìn vào cánh tay tôi, có lẽ ông sẽ phải hối hận nếu phụ giúp, nhưng sau đó ông ta vẫn lôi tôi lên. Ông nắm lấy bàn tay tôi. Trời ơi! Cánh tay sao mạnh và to dễ sợ! Ông kéo mạnh, thân hình tôi được nhấc bổng lên, nước từ trong robe chảy tuôn xuống. Vì ông nắm quá chặt nên tôi thấy đau ơi là đau.
Khi ra khỏi vũng nước, tôi mới thấy được việc không ổn, vì vừa đặt chân xuống đất xong tôi mới phát giác đôi giầy trượt băng vẫn còn trên chân và bánh xe bắt đầu lăn như điên tôi không thể chế ngự được, tôi ngã người về phiá trước như mũi tên bắn đi, chỉ nghe tiếng của giáo sư La Nghị hét ầm ĩ:
- A, ạ..lại làm cái trò quỷ gì nữa đây?
Trong khi tiếng cười của Hạo Hạo bên cạnh lại dòn tan. Tôi bất cần để mặc cho hai cha con họ cự nự hay cười đùa, cố giữ thăng bằng cho cơ thể, vì tôi không muốn diễn trò hề một lần thứ hai nữa. Giữa lúc tôi đang quờ quạng một cách nguy hiểm thì có tiếng mở cửa phòng ăn, tôi như bị hoa cả mắt vì thân hình đang đổ ập về phiá đó, tôi hét:
- Coi chừng! Coi chừng tôi đâm tới!
Vừa dứt câu, thì “ầm!“ một tiếng, tôi đã ngã người vào lòng hắn.
Có lẽ ngoài ý muốn, hắn giữ lấy tôi, định thần kỹ thì ra là Từ Trung Đan. Sự đau đớn do việc va chạm làm hắn nhăn nhó, một tay giữ lấy vai tôi, hắn hỏi:
- Ức My, cô làm gì mà như hỏa tiễn bay thế này?
Nương theo thế, tôi ngồi xuống bực thềm, việc đầu tiên là tháo đôi giày ăn hại này ra. Hạo Hạo đã nín cười, hắn bước đến bên cạnh, cúi xuống nhìn tôi với đôi mắt tinh quái đáng ghét! Tôi quá giận liệng thẳng đôi giày vào người hắn nói:
- Chắc anh sung sướng lắm phải không? Tôi biết mà, anh chỉ vui khi chọc phá tôi mà thôi!
Hắn vẫn nhìn tôi, nụ cười dần dần tan biến, cúi mình nhặt đôi giầy trượt băng cầm trên tay, hắn nói như không nghe thấy: - Ức My, cô đã tìm thấy được những bí quyết để trượt băng rồi, từ đây mỗi ngày chỉ cần tập vài phút là cô có thể vững vàng hơn cả những người biết đi lâu nữa là khác.
Lẳng lặng một lúc hắn lại nói:
- Ráng thông minh một chút Ức My nhé, đừng có khù khù khờ khờ như chó cắn tiên ông Lữ Động Tân!
Nói xong, hắn bước lên ngạch cửa sửa soạn quay đi. Tôi đứng trơ ra đó với áo quần, tay chân đầy bùn nhìn hắn.
Bỗng nhiên có tiếng quát lớn:
- Này Hạo Hạo, mày đứng lại đó.
Tôi quay sang, giáo sư La Nghị đang hùng hổ bước đến. ] - Việc gì nữa đó hở ba?
Hạo Hạo từ bậc thầm quay sang thái độ khiêu khích:
- Con có xúc phạm gì tới ba đâu?
Giáo sư La Nghị la lớn:
- Tao cảnh cáo mày, từ rày mày muốn làm ma làm quỷ gì bên ngoài
cũng được, nhưng trong nhà này, tao muốn mày để tao được yên ổn một chút!
- Con có làm gì khiến ba không yên đâu?
Hạo Hạo nhìn cha với thái độ ngạo mạn.
- Bộ ba không cho phép con dạy cô Ức My trượt băng nữa à? Hắn lại quay sang nhìn tôi, vẻ châm chọc hiện rõ trên mặt. Tôi không biết hắn đang trêu tôi hay trêu giáo sư La Nghị? Hắn lại chậm rãi tiếp:
- Thôi được dù sao con cũng mừng cho cha tìm thấy được một cô bé hợp ý.
Nói xong hắn xoay người bước đi luôn. Giáo sư La Nghị giận dữ, như một hỏa diệm sơn bốc khói, chiếc mũi ông nở to ra, miệng lẩm bẩm cục cằn, âm thanh vướng víu trong ổ họng. Một lúc lâu quay sang thấy tôi vẫn còn ngồi nơi ngạch cửa cơn giận như được chỗ trút, ông chỉ vào mặt tôi hét:
- Ức My, em làm gì ở đây chứ?
Tôi ngạc nhiên nhìn ông ta, chỉ có trời mới hiểu ông muốn nói gì? Không đợi tôi đáp ông lại tiếp tục!
- Này, tôi cho em hay nhé, ngoài việc học tôi không cho em làm một cái gì khác, em ở nhà tôi, bắt buộc phải nghe lời tôi, bằng không....
Câu nói chưa dứt, ông ta đã quay đi, miệng vẫn lẩm bẩm. Bỗng ông quay lại trừng mắt đe dọa tôi, rồi hậm hực bước vào thư phòng. Tôi vẫn ngồi yên, tay chống lên gối, tì lên cằm, mắt nhìn trân trối bóng đêm đang che phủ vườn hoa. Có người vỗ nhẹ lên vai tôi, tôi quay lại thì ra Từ Trung Đan đã ngồi bên tôi lúc nào không rõ: - Nào, cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện ra sao?
Tôi vung tay:
- Thì như anh đã thấy lúc nãy đấy!
Hắn nhìn tôi mỉm cười
- Này Ức My, cô thử đoán coi cô bây giờ giống cái gì nè? - Thế anh nói tôi giống cái gì?
- Giống thằng hề trong gánh xiệc!
- Hứ!
Tôi nguýt hắn, xong nhìn đôi tay lấm bùn tôi nghĩ có lẽ mặt tôi cũng bẩn không ít, thế là tôi nhảy qua bật tam cấp, một tay vén chiếc áo đầy bùn, vừa đi tôi vừa nói:
- Như vậy tôi phải đi tắm ngay mới được!
Bước qua hai bậc thềm tôi lại quay sang hỏi:
- Anh Trung Đan, theo anh việc học Đại Học có cần thiết không? - Cái gì?
Tôi cắn lấy răng đáp.
- Tôi không muốn thi vào Đại Học nữa!
- Tại sao? Hắn chăm chú nhìn tôi.
- Vì tôi muốn rời khỏi nhà này.
Trung Đan bước đến đứng trước mặt tôi đưa tay ấn nhẹ trên vai, hắn nói:
- Ức My, cô cần phải thi vào Đại Học tại vì cô nghèo, mồ côi lại không nơi nương tựa. Việc học và khả năng con người là quan trọng hơn cả cô biết không? Hãy thực tế một chút, Ức My ạ!
Tôi nhìn hắn, khẽ gật đầu vì tôi đã biết rồi, biết từ lâu rồi, biết nhiều hơn cả những điều Trung Đan đã nói. Vâng, chỉ tại tôi nghèo, mồ côi, không nhà không cửa nên tôi phải cố gắng, phải cố tự chủ để giành lấy một chỗ ngồi trong cuộc đời ở trọ.
Tôi bỏ đi về phòng. Xô cửa bước vào, tôi bỗng ngạc nhiên vì bà La Nghị đã ngồi trong phòng tôi tự bao giờ, bà ta đang ngắm bức ảnh
chụp cha tôi, mẹ và tôi trên vách. Mái tóc chải thật gọn, vẫn chiếc áo trắng phất phơ trên thân hình gầy đét của bà, mặt ngước cao để lộ chiếc cằm nhọn và chiếc cổ trắng thật đẹp...Trông thật giống như bức tượng sáp của các nhà điêu khắc. Bước vào bên trong phòng, khép cửa lại, có lẽ tiếng khép cửa đã làm cho bà giật mình, bà quay lại chăm chú nhìn tôi như một người xa lạ.
- Chào bác ạ.
Tôi mỉm cười chào bà. Bà Nghị vẫn nhìn tôi không đáp, tôi đến cạnh ngước lên hình giải thích:
- Tấm hình này chụp lúc cháu vừa được 6 tuổi, bác thấy cháu lúc ấy trông dễ ghét ghê nhỉ. Nghe mẹ thường kể lại thì cháu lúc nhỏ giống như chú mèo con chỉ thiếu những cọng râu ở mép nữa thôi.
Nói xong, tôi cười lớn trong khi bà ta vẫn lặng yên nhìn tôi, rồi bỗng nhiên bà đưa tay lên vuốt má tôi, đẩy những cọng tóc ngắn lòa xòa trước trán ra sau, và chăm chú nhìn. Đôi mắt to, sâu hút của bà đẹp làm sao, dáng điệu khoan thai, từ tốn, khiến tôi như bị bà nuốt hồn. Hôm nay đôi mắt bà nhìn tôi thật dịu dàng, dịu dàng như đôi mắt của Giáo Sư La Nghị đã từng nhìn tôi. Một lúc sau, bà bỗng thở dài, nhỏ nhẹ như nói với chính bà:
- Khởi Khởi ơi!
Tôi ngờ ngợ:
- Khởi Khởi? Bác muốn gọi Khởi Khởi đến đây à?
- Không.
Bà nhỏ nhẹ đáp, đoạn nắm lấy tay tôi kéo đến cạnh giường. Bà ngồi xuống và để tôi đứng cạnh. Bà lại thở dài, trầm mặc.
- Lúc em sáu tuổi, cuộc sống của em có sung sướng không? Cha em là người ra sao?
- Dạ, con cũng không nhớ rõ, chỉ biết người là một giáo sư trung học, cận thị. Nhưng mẹ nói cha con rất thật thà, siêng học lắm. Con
nghĩ có lẽ người rất tốt.
Bà Nghị xoa vai tôi hỏi:
- Thế tại sao cha em mất đi?
- Nghe nói vì bệnh phổi. Tôi đáp thật nhỏ - Vả lại lúc đó nhà con cũng quá nghèo.
Hình như bà Nghị hơi rùng mình, bàn tay bà xiết chặt vai tôi hơn: - Gia đình con nghèo lắm hay sao?
- Vâng ạ Nếu không thì có lẽ mẹ con đã không phải chết sớm như thế mà có thể kéo dài thêm 2, 3 năm nữa. Vì nếu có tiền trị bệnh bằng quang tuyến, giải phẫu, hoặc đưa qua Mỹ chạy chữa thì chưa chắc đã chết. Đằng này. Tôi nói nhỏ - Vì nghèo quá biết làm sao?
Bà Nghị càng lúc càng run rẩy, cánh tay tôi bị bà xiết quá chặt nên tôi phải quỳ xuống tựa vào gối của bà. ỉ Ngước mắt nhìn lên một thoáng giây, tôi bỗng cảm thấy như vẻ ngăn cách giữa tôi với bà không còn nữa, chúng tôi như thân thiết nhau tự bao giờ. Bà Nghị lại vuốt mái tóc ngắn của tôi, run giọng nói:
- Nhưng mà, con rất giống như...
Đôi mày bà hơi chau lại, đôi mắt lờ đờ hẳn.
- Con có vẻ rất sung sướng và không hề buồn khổ.
- Vâng ạ, từ nhỏ con chưa hề biết khổ là gì, mẹ con thường gọi con là vô ưu thảo.
- Vô... Ưu Thảo, cỏ quên sầu. Bà ta lập lại từng chữ một. - Thế còn mẹ của con, người cũng không buồn phiền gì ư?
- Không phải thế. Tôi thở dài - Mẹ thường buồn lắm chứ, nhưng lúc nào người cũng nhìn thẳng vào thực tế. Người là một người đàn bà can đảm, cứng cỏi.
Bà Nghị không nói gì nữa đăm đăm nhìn tôi, đôi mắt đen thẫm như một màn sa mù vây kín, rồi những giọt nước mắt long lanh.. Tôi
hoảng hốt đứng lên sợ phải gặp trường hợp xảy ra như hôm trước, nhưng bà ta bỗng vỗ nhẹ tôi, ôn tồn bảo:
- Con đừng sợ bác.
- Không, con không sợ. Tôi không biết nói gì khác.
- Bác sẽ không bao giờ làm cho con đau đớn.
- Vâng, con biết.
- Chị ấy là người tốt.
Rồi như sợ tôi không hiểu, bà Nghị lại tiếp:
- Tôi nói mẹ em đấy!
Một giọt nước mắt rơi trên tay tôi, bà Nghị sụt sùi:
- Chị ấy quá tốt, tốt đến đỗi...
Rồi thêm một giọt nước mắt rớt trên tay tôi khiến tôi hoảng hốt la to:
- Bác Nghị, bác đừng xúc động quá!...
- Tôi không xúc động. Bà Nghị bỗng nhiên như tỉnh hẳn - Vì chỉ có những con người có trái tim mới biết đau xót, còn những người không có trái tim như tôi làm sao đau xót! Em không hiểu. Tôi không xúc động bao giờ cả!
Lại một chuỗi nước mắt rơi xuống vỡ tan. Tôi không biết gì hơn là nhìn bà ta. Chết rồi! Bà ấy lại nổi cơn nữa rồi. Tại sao mỗi lần nhìn thấy mặt tôi là bệnh bà ta lại tái phát? Phải chăng trên thân thể tôi chứa chấp một cái gì kích thích cơn bệnh của bà.
Bà Nghị vẫn nhìn tôi, tiếp tục những câu nói vớ vẩn:
- Trên đời này không phải ai ai cũng đều có trái tim cả đâu mà hầu như đa số là không có trái tim, có một số khác lại không có linh hồn. Thật tội nghiệp cho tôi, tôi là người không có cả trái tim lẫn linh hồn, tôi chỉ có một thể xác... một thể xác đáng ghê tởm và vô dụng...
Tôi ngạc nhiên tột độ nhìn bà Nghị mà nói không ra tiếng, trong
lúc sợ hãi cực điểm thì phòng mở rộng, chiếc đầu rối bù của giáo sư La Nghị thò vào. Như gặp cứu tinh tôi la lớn:
- Giáo sư!
Giáo sư La Nghị bước vào phòng. Chợt nhìn thấy bà vợ đang sụt sùi khóc, ông có vẻ hoảng hốt hơn cả tôi, vội nắm lấy vai bà Nghị lắc nhẹ hỏi dồn dập:
- Sao thế, sao thế hở em?
Bà Nghị khẽ thở dài, đoạn tựa đầu vào lưng chồng giọng ngọt ngào yếu ớt:
- Không có chuyện gì cả, em chỉ nói chuyện với Ức My thôi. - Có thật vậy không?
Giáo sư La Nghị vừa dỗ vợ vừa hỏi, dáng dấp ông giống như người cha đang vỗ về đứa con gái cưng đang làm nũng - Thế tại sao em khóc hở? Giọng nói ngọt lịm của ông như có thể chắt ra nước. - Tại sao vậy.
Rồi bỗng nhiên ông quay sang tôi trừng mắt, giọng điệu trở nên cộc lốc:
- Ức My, cô nói gì để cho bác gái khóc đấy hả?
- Tôi à? Tôi ngạc nhiên - Tôi nói gì đâu?
- Nhất định cô vừa nói cái gì đây?
Ông ta như đoán chắc. Bà Nghị thở dài:
- Anh! Anh đừng dữ dằn như vậy với Ức My, nó là đứa bé dễ thương lắm.
Giáo sư La Nghị vội cải chính:
- Không, không, anh nào có dữ dằn với ức My đâu? Nó là đứa bé ngoan lắm mà.
Bà Nghị lại thở dài:
- Có, anh đã dữ dằn với nó. Nghị, anh hãy thương nó, hãy chăm
sóc nó chu đáo nghen anh.
Bà Nghị tựa đầu vào ngực chồng, sụt sùi khóc. Giáo sư La Nghị càng hoảng hốt:
- Ờ, ờ, thôi em đừng khóc nữa. Nhã Trúc, Nhã Trúc, em đừng khóc nữa, anh sẽ không dữ dằn với nó nữa đâu, em xem này, anh đối với Ức My rất tốt cơ mà!
Bà Nghị đã nín khóc. Giáo sư đỡ dậy và dìu bà vợ ra khỏi phòng tôi. Đứng bên trong nhìn theo dáng hai người đang tựa nhau khuất ngoài cửa, lòng tôi bỗng bồi hồi. Một cảm giác lạ lùng khó tả như vây quanh lấy tôi, cảm giác đó giống như màn đêm đang lùa vào từ khung cửa sổ: mù mờ, rối rắm, mông lung và tràn đầy bí mật...
CHƯƠNG
7
Lại một đêm trăng sáng. Khi lững thững bách bộ trong vườn hoa, nhìn bóng mình và bóng cây lúc phân lúc hợp, hương hoa thơm ngát khiến tôi cảm thấy thật dễ chịu.
Sau một ngày tập làm quen với thành ngữ Anh văn, cách ghép câu một cách máy móc làm cho đầu tôi muốn vỡ. Bây giờ thì hãy để cho những cơn gió đêm quét sạch đi bao nhiêu công thức văn phạm trong đầu.
Mặt trăng vừa to vừa tròn treo lơ lửng trên ngọn cây. Ngắt lấy cánh hoa loa kèn, phần giữa lõm, trong khi cánh hoa bên trên nở xòe ra tạo nên dạng chiếc cốc rượu vang, tôi nâng cánh hoa lên cao hướng về mặt trăng mời mọc một cách trẻ thơ:
- “Cử bôi yêu minh nguyệt. Đối ảnh thành tam nhân”. Quay đầu lại nhìn xuống đất tìm bóng mình dưới ánh trăng ngã dài trên mặt đất với chiếc áo ngủ và mái tóc ngắn tung bay theo gió. Bỗng nhiên tim tôi nhảy thót, cơn lạnh chạy luồn trong thân làm nổi da gà, vì dưới đất không những chỉ có một chiếc bóng duy nhất của tôi mà cách đó khoảng hai ba thước, chiếc bóng thứ hai cũng mang áo ngủ nhưng tóc dài hiện ra, đó là bóng một người đàn bà. Trong lúc tôi ngẩn ngơ vì kinh ngạc thì chiếc bóng biến mất. Ngẩng đầu lên gió đêm rít nhẹ trong khu vườn âm u, chung quanh không có một người, bản năng tự vệ khiến tôi lùi ra sau hai bước. Lúc đó tôi mới phát giác mình đang đứng bên ngoài khu rừng cây. Từ lúc nghe nói nơi đây có ma, tôi thường tránh không đi đêm qua đây nữa, thế mà hôm nay có phải chăng ma đưa lối quỷ dẫn đường về khiến tôi bước đến cạnh nó?
Quay người lại đi vội về phiá nhà, tôi không cần biết rằng chiếc
bóng ban nãy vừa bắt gặp có phải là ma hay không; tôi nghĩ, điều tốt nhất là tránh trước thì hay hơn.
- Ôi!
Một tiếng than kéo dài, theo gió lọt vào tai khiến cho tất cả tóc tai tôi muốn dựng đứng. Tôi đứng lại, lắng tai nghe ngóng rồi nghĩ thầm. Có lẽ Hạo Hạo hắn nhát mình đấy!
Thế là, lấy tất cả can đảm còn lại tôi quay ra sau, nhưng ánh mắt tôi chỉ chạm vào khoảng không trống trải. Ánh trăng bệnh hoạn với khu rừng âm u, tiếng côn trùng lẫn trong tiếng gió. Một luồng khí lạnh len lén nhập vào hồn, bất giác tôi bước nhanh hơn về phiá cửa.
- Hự!
Lại một tiếng than thứ hai, lần này tôi có thể nghe rõ đó là tiếng của một người con gái, nơi xuất phát là rừng cây âm u. Tiếng than lần này có vẻ u uất, đau thương và nặng nề hơn.
Tim tôi càng đập nhanh, cảm giác sợ hãi đã xâm lấn tôi. Tay chân tuy lạnh cóng nhưng mồ hôi đã thấm ướt hết lưng, càng sợ tôi càng thấy những bóng cây chung quanh hòa lẫn tiếng gió rì rào như biến thành muôn ngàn hình bóng ma quỷ. Rồi nơi đâu cũng nghe tiếng than van. Từ chỗ bước nhanh tôi bắt đầu co giò chạy, chạy thật nhanh vì tôi tưởng tượng rằng ở phiá sau lưng con quỷ tóc xõa kia đang rượt tới.
Đến nhà, nhảy ngay lên bực tam cấp, chui vào phòng ăn ánh sáng chói của ngọn đèn trên cao trấn tĩnh tôi. Nhìn bóng đêm bị bỏ lại bên ngoài khung cửa kính, tôi thở phào nhẹ nhõm.
- Hắt!
Một tiếng ho phát ra bên cạnh, khiến tôi giựt mình quay đầu lại, thì ra cô bé tóc dài xõa vai.
- Khởi Khởi!
Tôi đưa tay lên chận lấy ngực và nghĩ rằng chỉ cần nhìn có lẽ cũng
thấy tim tôi đang đập nhanh. Sờ đụng chiếc ghế, tôi ngồi xuống. - Chị làm gì mà mặt mày trắng bệch ra thế kia?
Tôi lắc đầu:
- Không, không có gì cả.
Nhưng giọng nói của tôi vẫn không che dấu được sự run rẩy. Dầu sao cũng đừng để cho cô ta biết tôi sợ ma, vì bóng người lúc nãy và tiếng than cũng có thể là một việc do tôi tưởng tượng ra kia mà? Khởi Khởi lại thăm dò:
- Thế lúc nãy chị đi đâu vậy.
Tôi nhẹ nhàng nói:
- Tôi ra vườn cây.
Tôi nhìn chừng chừng cô ta dò xét phản ứng vì tôi không rõ cô ta có biết chuyện đồn trong khu vườn nhà có ma hay chăng? - Chị đến vườn cây à? Khởi Khởi mở to mắt - Chị có nghe thấy hay nhìn thấy gì chăng?
Tôi mím môi do dự một lát, nói:
- Tôi thấy một chiếc bóng đàn bà, tóc xõa, mặc áo choàng. Tôi cũng nghe tiếng rên rỉ nhưng không nhìn thấy người thật.
Khởi Khởi không ngạc nhiên chút nào cả, cô ta gật đầu: - Đúng là nó rồi!
- Ai vậy. Tôi hỏi.
- Thì người đàn bà treo cổ chết đó.
Tôi phản đối ngay:
- Không thể có chuyện ma quỷ, tôi nghĩ đó là người thật. - Người à? cô ta cười khẩy - Vậy là ai? Nhà nầy chỉ có hai người tóc dài là tôi với mẹ. Tôi thì đứng đây, còn mẹ thì ở trên lầu, thế nó là ai? Tôi rùng mình:
- Thế chị có thấy con quỷ ấy lần nào chưa?
Khởi Khởi lắc đầu:
- Chưa, nhưng má Lý quả quyết là thường nghe thấy tiếng than khóc của nó. Dù sao đi nữa tôi vẫn tin có ma quỷ. Tôi biết nó vẫn ở đó, trong rừng cây, có lẽ lúc chết vì uất ức không nhắm mắt được nên vẫn hay hiện ra trong những đêm trăng sáng.
- Thế tất cả mọi người đều tin chuyện ma này có thật à? - Chỉ có cha tôi là không tin. Cách đây năm năm, khi chúng tôi vừa đến Đài Loan, cha tôi muốn mua một ngôi nhà có vườn hoa rộng. Gặp lúc căn nhà này đăng bản bán giá rẻ nên mua ngay. Sau đó mới biết là mua được rẻ như thế là vì nó có ma, nhưng cha tôi thì lúc nào cũng cho rằng đó là chuyện nhảm.
- Thế tại sao người đàn bà đó lại treo cổ?
Khởi Khởi nhún vai:
- Ai mà biết! Chỉ nghe nói hình như tại chồng bà ấy yêu người khác. Thì cũng quanh quẩn chuyện tình yêu ấy mà.
Tôi đưa mắt nhìn song cửa. Nghĩ đến người đàn bà đã chết vì tình, nhớ lại tiếng thở dài não nuột và chiếc bóng đen ban nãy, không khỏi rùng mình thầm lần nữa. Nếu sự thật có linh hồn thì chỉ có trời mới biết con quỷ ấy sẽ làm gi. Nó có còn tư tưởng và dục vọng? Có biết kính trọng loài người chăng? Hơn nữa, đó là nó phải có hình dáng vì nếu không sao lại có bóng đen?
Khởi Khởi nhìn tôi thăm dò, cô ta mỉm cười lạnh lùng: - Chị sợ rồi chăng?
Tôi có cảm giác như Khởi Khởi đang nhìn nỗi lo sợ của tôi với vẻ thích thú.
Cô ta tiếp:
- Có người bảo rằng, linh hồn của những kẻ chết treo thường
không nơi nương tựa, vì thế trong bóng đêm nó có thể đến tất cả mọi nơi. Thí dụ giờ này, có thể nó đang đứng bên ngoài cửa sổ. Tôi nhảy nhỏm lên, lườm nó:
- Chị Khởi Khởi, có phải chị muốn nhát tôi không?
Khởi Khởi cười nhạt:
- Tôi biết chị sơ, chị đừng gạt tôi là chị không sợ! Hồi nào tới giờ chị có chơi trò cầu hồn bao giờ chưa?
- Tôi nghe nói phải dùng một chiếc đĩa úp xuống tờ giấy viết đủ chữ cái, trên đĩa có một mũi tên. Mỗi lần cầu cơ cần ba người, mỗi người đặt một ngón tay mình lên đĩa, khi cơ lên chiếc đĩa sẽ tự động chạy và chúng ta có thể đặt nhiều câu hỏi. Khi chiếc đĩa ngừng, mũi tên chỉ chữ nào, thì đó là lời đáp, phải không?
Khởi Khởi gật đầu:
- Phải, có một lần tôi, anh tôi và Trung Đan cùng cầu cơ, chúng tôi đã cầu hồn của bà quỷ này.
- Thật à, thế bà ta đã nói gì?
- Bà ta đã dùng mũi tên chỉ bốn câu.
- Bốn câu đó ra sao?
Tôi trở nên thích thú. Khởi Khởi nhìn tôi dò xét đôi mắt to đen nháy đẹp vô cùng, đoạn đọc bốn câu sau:
- “Hồn ma phiêu bạt, không nơi nương tựa, muốn tìm lại ân tình cũ, nhưng sao vẫn hận ngàn trùng.“
- Thật vậy ư? Sao khó tin quá. Tôi nói.
- Nếu chị không tin, chị cứ hỏi Trung Đan xem. Hôm ấy trời mưa, cũng trong căn phòng này, chúng tôi ngồi quanh bàn ăn, bên cạnh có Mạc Bính đứng hầu. Tôi đã cầu nguyện một lúc, khi bà ta nhập vào cơ thì một cơn gió lạnh thổi đến làm rung cả cửa kính, khiến Mạc Bính còn phải run nữa là.
Lời nói của Khởi Khởi chưa dứt, thì một cơn gió thổi đến làm hai cánh cửa kính kêu ken két, tưởng chừng như muốn mở tung ra. Tôi giật mình nhảy nhỏm lên, trừng mắt nhìn về hướng cửa; không một bóng người, trong khi Khởi Khởi nhìn tôi, trấn an:
- Chị sợ phải không? Nhưng đừng lo, báo sáng nay có đăng là bão sắp thổi đến đấy!
Nói xong, cô ta xoay người đi lên lầu. Tôi cũng không thể ngồi nơi phòng ăn trống trải này một mình được, nhất là sau trận gió kỳ quái ban nãy khiến tôi có cảm giác như con quỷ đó đã vào phòng và đang bước theo Khởi Khởi, nên cũng vội vàng lên lầu. Chia tay với Khởi Khởi trước cửa phòng, đôi mắt của nó nhìn tôi hơi đặc biệt, một chút khinh thường pha lẫn ngạo nghễ.
Đóng cửa phòng lại, ngồi ở mép giường, bỗng tôi như sực nhớ lại, biết đâu chiếc bóng ban nãy không là Khởi Khởi vì cũng tóc dài cũng áo choàng (áo Khởi Khởi mặc lúc nãy là chiếc áo ngủ dài).
Anh nó đã từng nhát tôi một lần, thì sao nó lại không dám nhát tôi một lần nữa chứ? Chỉ cần rên một vài tiếng, xong chạy ngay vào phòng đọc sách của giáo sư La Nghị, rồi bước qua phòng ăn trước tôi một bước, và giả vờ tỉnh như không là xong. Nhưng mà tại sao họ lại nhát tôi chứ? Có mục đích gì chăng? Nhưng Khởi Khởi tính không giống anh, đâu thích đùa giỡn và châm chọc. Thế thì lúc nãy chiếc bóng tôi thấy có thật là của quỷ chăng, con quỷ treo cổ trên cành cây đó.
Gió lại thổi tung cửa sổ, làm ớn lạnh cả gáy, khiến tôi rùng mình. Tôi chạy ngay đến cài then thật chặt, phủ thêm tấm màn xong tôi nhảy lên giường tìm giấc ngủ, nhưng những câu chuyện ma quỷ này làm tôi tỉnh táo, cảm giác sợ sệt vẫn còn lảng vảng trong tim.
Mở vở sử ký ra, lật phần cận đại, tôi đọc lớn: - “Năm dân quốc thứ hai (1913), quốc hội được thành lập, chánh phủ được tổ chức Ba Tây
và các quốc gia khác thừa nhận Trung Hoa Dân Quốc. Cũng trong năm nầy Tống Giáo Nhơn bị đâm tại nhà ga Thượng Hải”. Với tay tắt ngọn đèn ở đầu giường, mồm tôi vẫn lâm râm đọc những sự kiện lịch sử ở năm Dân Quốc thứ 2:
- Tống Giáo Nhơn bị giết tại nhà ga Thượng Hải, Tống Giáo Nhơn bị giết tại nhà ga Thượng Hải, bị giết ở nhà ga ở Thượng Hải. Rồi mơ mơ màng màng, hình như tôi đã vào giấc ngủ. Giấc ngủ đến một cách chẳng bình thường, tôi lăn qua, lăn lại rồi bỗng thấy một dọc xe hỏa, thấy người đàn ông nằm trên vũng máu trong khi tôi đứng cạnh và bị một lớp người vây quanh hét:
- Bắt lấy nó! Bắt lấy nó! Nó chính là kẻ giết người!
Rồi có người nắm lấy tôi, tôi vùng vẫy la to:
- Không! Tôi không biết ông ta là ai cả! Tôi không hề biết ông ta thật mà!
Bỗng nhiên, người đàn ông với gương mặt đầy máu ngồi nhỏm dậy, trợn mắt nhìn tôi, đôi mắt lòi ra dễ sợ:
- Mi không biết ta thật à? Ta là Tống Giáo Nhơn đây!
Tôi lăn qua, ôm chặt lấy mền đầu lắc nhanh.
- Tống Giáo Nhơn? Tống Giáo Nhơn bị giết ở nhà ga Thượng Hải đó ư? Trời ơi! Tôi biết mình đang trong cơn ác mộng. Cầu trời cho con được giấc ngủ yên lành!
Tôi vùi đầu vào gối và lại tiếp tục ngủ. Cơn ác mộng khác lại đến, tôi bỗng thấy mình đơn độc trong vùng tuyết băng hoang dã. Trên trời có rất nhiều mặt trăng, nhưng sao lại lạnh thế? Gió lạnh thổi vào gáy, tôi đi mãi, đi mãi mà sao vẫn không ra khỏi được nơi hoang vu này?
Gió thổi mạnh làm tôi chợt ngã, chồm dậy, bổng nhiên tôi thấy một con quỷ tóc dài, trên cổ sợi thừng vẫn còn lủng lẳng...Nó càng lúc càng tiến đến gần, rồi thở phì phào vào mặt, khiến tôi phải né tránh.