🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cánh Buồm Đỏ Thắm - Alexander Grin
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI NÓI ĐẦU
Các em thân mến! Chắc nhiều em đã xem cuốn phim “Cánh buồm đỏ thắm” rồi. Cuốn phim ấy chính là tác phẩm chuyển thể điện ảnh từ thiên truyện cùng tên nổi tiếng của nhà văn Nga Alexandre Grin.
A. Grin đã sống một cuộc đời đầy vất vả, gian truân. Ông đã từng phải lang thang kiếm sống khắp nước Nga, từng phải đi lính cho Nga hoàng, phải chịu tù đày. Nhưng mặc cho hoàn cảnh bên ngoài nghiệt ngã, Grin vẫn giữ trọn trong lòng mình niềm tin ở tương lai, khát vọng về một cuộc đời hạnh phúc của con người.
Thiên truyện “Cánh buồm đỏ thắm” chan hòa ánh mặt trời và tình người, đã được Grin viết vào năm 1920-1921, chính là năm ông vừa thoát khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, đói ăn, thiếu mặc, không nhà, không cửa...
Grin đã trở thành người bạn tinh thần của những ai giàu lòng mơ ước, thèm được sống một cuộc đời đẹp đẽ bởi chính bàn tay mình xây đắp.
Ở Liên Xô, tên ông đã được đặt cho tàu đi biển, Con tàu Liên Xô “Alexandre Grin” đã luôn gắn bó với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. Tháng Năm năm 1972, khi Nixon đánh phá trở lại miền Bắc, con tàu “Alexandre Grin” đã vượt biển xa cập bến cảng Hải Phòng, mang hàng hóa cần thiết cho nhân dân ta, và có thủy thủ Liên Xô đã hy sinh khi máy bay Mỹ bắn phá. Tháng 5 năm 1975, khi
Sài Gòn giải phóng, con tàu “Alexandre Grin” cũng lại là một trong những con tàu đầu tiên cập bến cảng Nhà Rồng chở hàng giúp chúng ta xây dựng lại đất nước...
Chúng tôi hy vọng “Cánh buồm đỏ thắm” được địch ra tiếng Việt sẽ càng gắn bó tên tuổi của Alexandre Grin với bạn đọc trẻ chúng ta.
NGƯỜI DỊCH
CUỘC ĐỜI ALEXANDRE GRIN
Nhà văn Grin – Alexandre Stepanovich Grinevsky - mất tháng Bảy năm 1932 ở Stary Krym - thành phố nhỏ sum suê những hàng cây dẻ cổ thụ.
Grin đã sống qua một cuộc đời vất vả. Hoàn cảnh sống ấy dường như đã cố ý nhằm biến Grin thành kẻ tội phạm hoặc một gã phàm tục độc ác. Thật khó hiểu là bằng cách nào mà con người u uất ấy không những đã không bị hoen ố, mà còn có thể giữ gìn được trí tưởng tượng mạnh mẽ, sự trong trắng của tàm hồn, giữ được nụ cười ngượng ngùng qua suốt cả cuộc đời đầy dằn vặt của mình.
Tiểu sử của Grin là bản cáo trạng nghiêm khắc đối với thể chế của những mối quan hệ giữa người với người trước cách mạng. Nước Nga ngày trước đã đối xử với Grin một cách tàn nhẫn - nó đã tước đi của ông từ tuổi ấu thơ tình yêu đối với thực tại, Thực tại quanh ông thật đáng ghê sợ, còn cuộc sống thì quả là không thể chịu nổi. Nó giống như một thứ tòa án độc đoán đến man rợ. Grin đã sống được, nhưng sự hoài nghi thì vẩn còn lưu mãi trong suốt cuộc đời ông. Ông luôn luôn tìm cách thoát ra khỏi thực tại đó, và cho rằng, thà sống với những giấc mơ vô hình, còn hơn là phải chịu đựng “những cặn bã và rác rưởi” hết ngày nọ đến ngày kia.
Grin bắt đầu viết và đã tạo ra trong sách của mình một thế giới của những con người biết vui vẻ và dũng cảm, tạo ra một miền đất đầy hoa thơm cỏ lạ, tràn ngập ánh mặt trời, miền đất không hề có
trên bản đồ, tạo ra những sự kiện đáng kinh ngạc khiến tâm trí ngất ngây như vừa nhấp những hớp rượu nồng.
“Tôi luôn luôn nhận thấy rằng, - Maxim Gorky viết trong cuốn “Trường đại học của tôi”, - con người ta ưa thích những truyện ngắn hấp dẫn chỉ vì chúng cho phép họ được lãng quên đi trong khoảnh khắc cuộc sống vốn nặng nề, nhưng đã quá ư quen thuộc”.
Câu nói này hoàn toàn thích ứng với Grin.
Cuộc sống Nga đối với ông chỉ giới hạn ở vùng Vyatka nhàm tẻ với trường dạy nghề thủ công bẩn thỉu và những quán trọ đêm, với công việc lao động quá sức chịu đựng, với nhà tù và nạn đói triền miên. Nhưng đâu đó sau cái đường chân trời màu xám ấy đang rạng ngời những miền đất tràn đầy ánh sáng, gió biển và cỏ hoa. Ở đó có những con người da nâu rám nắng đang sống - họ là những người đi tìm vàng, những thợ săn và họa sĩ, những kẻ giang hồ vui vẻ và những phụ nữ đầy đức hy sinh, yêu đời và hiền như con trẻ, nhưng trước tiên - họ là những người đi biển.
Đối với Grin thì thật là quá ư nặng nề, có khi còn không thể chịu đựng nổi, nếu sống mà lại thiếu mất lòng tin rằng có những miền đất như vậy đang nở hoa rì rào đâu đó trên những hòn đảo giữa đại dương.
Cách mạng đến. Nó làm đảo lộn rất nhiều những gì đã đè nén Grin: thể chế thú dữ của những mối quan hệ cũ giữa người với người, sự bóc lột, sự ngăn cách - tất cả những gì đã làm Grin phải trốn chạy cuộc sống để đi vào thế giới của những giấc mơ và sách vở.
Grin chân thành vui đón cách mạng đến, nhưng những chân trời xa đẹp đẽ của tương lai mà cách mạng sẽ đem lại còn chưa hiện rõ, mà Grin thì lại thuộc số người luôn bị sự nôn nóng giày vò.
Cách mạng đến không phải trong tấm áo ngày hội, mà đến như một chiến binh đầy bụi đất, như một nhà phẫu thuật. Cách mạng lật xới những lớp đất nghìn năm của nếp sống cũ kỹ.
Tương lai xán lạn hiện ra với Grin rất xa, mà ông thì lại muốn được sờ nó ngay lập tức, không chậm trễ. Ông muốn được thở hít khí trời trong lành của những thành phố tương lai, rì rào cày xanh và ríu rít tiếng cười con trẻ, được đi vào nhà những con người của tương lai, cùng họ tham gia vào những cuộc khảo sát đầy bí ẩn, sống bên họ trong một cuộc đời đầy ý nghĩa rà vui tươi.
Thực tại đã không thể đem lại cho Grin điều đó ngay tức khắc. Chỉ có sự tưởng tượng mới có thể đưa ông đến với hoàn cảnh như mơ ước, đến với những hiện tượng và con người khác thường nhất.
Từ thuở nhỏ Grin đã cô một trí tưởng tượng rất chính xác. Khi ông đã trở thành nhà văn, ông đã tự hình dung ra những miền đất không tồn tại thực, nơi diễn ra hành động các truyện ngắn của ông, không phải như những phong cảnh mờ ảo, mà như những miền đất đã được nghiên cứu kỹ càng, đã trăm lần đi qua.
Ông đã có thể vẽ ra bàn đồ chi tiết của những miền đất ấy, có thể đánh dấu từng chỗ ngoặt của con đường và đặc tính của loài thảo mộc, từng đoạn dòng sông uốn khúc và sự bố trí của các ngôi nhà; cuối cùng, ông còn có thể liệt kê tất cả những con tàu đậu ở những bến cảng không tồn tại, với tất cả những đặc điểm hàng hải của chúng và những tính chất của đội tàu đầy vô tư và yêu đời.
Đây là thí dụ cho phong cảnh chính xác không tồn tại đó. Trong truyện “Miền đất Lanfier” Grin viết:
“Phía bắc là một khu rừng bất động màu xanh sẫm, ôm gọn cho đến tận chân trời những vách đá trắng lộ những đường nứt nẻ và lác đác điểm xuyết những bụi cây gầy gò.
Phía đông, bên kia hồ là dải đường màu trắng dẫn ra ngoài thành phố. Bên đường đôi chỗ có cây mọc trơ trọi nhỏ nhắn như những chồi rau non.
Phía tây, men theo đồng bằng nhấp nhô những lũng đất và ngọn đồi là biển xanh rực rỡ lấp loáng ánh bạc.
Còn về phía nam, từ trung tâm của miền đất trũng thoai thoải, nơi có những nếp nhà và trang trại sặc sỡ, ẩn trong những lùm cây xanh bề bộn, là những vạt ruộng hình chữ nhật xiên xẹo của những đồn điền và những cánh đồng đã cày xới của miền “Lanfier”.
***
Grin mất đi để lại cho chúng ta câu hỏi phải trả lời là liệu thời đại của chúng ta có cần đến những người mơ tưởng đầy nhiệt thành như ông không.
Quả thật là chúng ta cần những nhà mơ tưởng. Đã đến lúc phải dứt bỏ thái độ cười giễu đối với chữ đó. Nhiều người vẫn còn chưa biết mơ tưởng, và, có lẽ vì thế mà họ không thể nào tự nâng lên ngang tầm thời đại.
Nếu tước đi ở con người khả năng mơ ước, thì sẽ làm mất đi một trong những nguyên nhân kích thích mạnh mẽ nhất làm nẩy
sinh văn hóa, nghệ thuật, khoa học và khát vọng đấu tranh cho một tương lai tươi đẹp. Nhưng mơ ước không được tách khỏi thực tại. Mơ ước cần tiên đoán trước tương lai và tạo ra trong chúng ta cảm giác rằng chúng ta đang được sống trong tương lai đó và tự mình trở nên khác đi.
Người ta thường cho rằng mơ ước của Grin là tách khỏi cuộc sống, là trò chơi kỳ dị, vô nghĩa của trí tuệ. Người ta thường cho rằng Grin là một nhà văn phiêu lưu - nói cho đúng thì ông có tài dựng truyện nhưng là một người đã viết ra các cuốn sách không có ý nghĩa xá hội. Ý nghĩa của mỗi nhà văn được xác định ở chỗ nhà văn đó đã tác động đến chúng ta thế nào, sách của nhà văn đó đã gợi ra những cảm xúc, suy nghĩ và hành động như thế nào, có làm giàu sự hiểu biết của chúng ta hay chỉ được đọc như là sự sưu tập thú vị của từ ngữ mà thôi.
Grin đã đưa vào sách của mình những con người dũng cảm, hồn nhiên như con trẻ, những con người kiêu hãnh, phúc hậu và giầu đức hy sinh.
Những con người trọn vẹn, đầy hấp dẫn đó được bao bọc bởi khí trời trong lành đầy hương thơm của thiên nhiên Grin - một thiên nhiên đầy hiện thực, đáng yêu, làm xúc động trái tim chúng ta. Thế giới mà trong đó các nhân vật của Grin đã sống chỉ có thể gây cảm giác không thực với những ai nghèo nàn về tinh thần. Nhưng ai cảm thấy tâm trí mình hơi choáng váng ngay từ lần hít thở đầu tiên khí trời ấm áp mằn mặn của những miền ven biển, người đó sẽ cảm thấy ngay tính chân thực của phong cảnh Grin, hơi thở khoáng đạt của những miền đất Grin.
Những truyện của Grin gợi ra trong con người khát vọng về một cuộc đời đa dạng đầy những mạo hiểm, dũng cảm và “cảm giác cao cả” thường thấy ở các nhà thám hiểm, những nhà đi biển và những nhà du hành. Đọc xong truyện của Grin ta thấy muốn được nhìn cả thế giới - không phải là những miền đất do Grin tưởng tượng ra, mà là những miền đất có thực, chan chứa ánh sáng, đầy rừng cây, tiếng rì rào muôn vẻ của các bến bờ, tình yêu và niềm say mê của con người,
“Trái đất này luôn kích thích tôi, - Grin viết. - Đại dương của nó bao la, đảo thì hằng ha sa số, và biết bao nhiêu miền đất bí ẩn, hấp dẫn vô cùng”.
Truyện hoang đường không phải chỉ cần cho con trẻ, mà cần cho cả người lớn nữa. Nó gợi sự xúc động bồi hồi - nguồn gốc của những niềm say mê cao cả của con người. Nó không cho phép chúng ta bình yên mà luôn luôn chỉ ra những khoảng trời xa, một cuộc sống khác, nó làm chúng ta nôn nao và bắt phải khát khao mơ ước có cuộc sống đó. Đó chính là giá trị của truyện thần thoại, hoang đường, và đó cùng chính là giá trị của sự hấp dẫn, vẻ đẹp rõ ràng, mãnh liệt đôi lúc khó diễn thành lời trong những truyện của Grin.
Người ta thường nói đến tính mạo hiểm phiêu lưu trong những cốt truyện của Grin. Điều đó đúng, nhưng cốt truyện phiêu lưu của ông chỉ là cái vỏ bọc của một nội dung sâu sắc hơn nhiều. Phải là người mù mới không thấy được tình yêu con người trong các cuốn sách của Grin.
Grin không phải chỉ là một nhà tả cảnh tuyệt vời mà là người khéo dựng các cốt truyện, ông còn là một nhà tâm lý rất tinh tế. Ông viết về đức hy sinh, về lòng dũng cảm - những nét anh hùng chứa đựng trong những con người bình thường nhất. Ông viết về tình yêu lao động, yêu nghề nghiệp của mình, về sự nguyên sơ và hùng vĩ của thiên nhiên. Cuối cùng là thật ít có nhà văn viết về tình yêu đối với người phụ nữ một cách trong sáng, đầy nâng niu trân trọng rà xúc động như Grin đã viết.
Tôi có thể dẫn ra đây hàng trăm đoạn trích từ các sách của Grin, những cuốn sách làm xúc động những ai chưa mất đi khả năng xúc động trước cái đẹp, nhưng chắc chắn là bạn đọc sẽ tự mình tìm ra những đoạn đó.
Grin nói rằng “cả trái đất này với tất cả những gì mà nó có đều là dành cho cuộc sống của chúng ta, và để cho cuộc sống đó được trân trọng ở tất cả những nơi nó tồn tại”.
Grin là nhà văn cần cho thời đại chúng ta, bởi vì ông đã đóng góp phần mình vào sự nuôi dưỡng những tình cảm cao đẹp, thiếu đi cái đó không thể nào xây dựng được xã hội xã hội chủ nghĩa.
G. PAUSTOVSY
TÓM TẮT NỘI DUNG
Cô bé Assol sống với cha là một thủy thủ nghỉ hưu sau khi mẹ cô là Mary mất sớm. Cha cô (Longren) ở nhà chăm sóc cô, ông làm các đồ chơi với những hình ảnh gợi về nghề thủy thủ để bán kiếm tiền. Một lần trong khi mang đồ chơi đi qua cánh rừng để bán, Assol đã gặp ông già Elge. Ông kể cho cô bé nghe về cuộc sống ngoài biển cả và nói với cô rằng, lớn lên sẽ có một chàng hoàng tử lái con tàu có cánh buồm đỏ thắm đến đón cô. Và cô bé đã tin.
“Chàng hoàng tử” trong truyện là con trai một gia đình giàu có - Arthur Gray. Cậu bé có mơ ước được trở thành thủy thủ. Lớn lên, cậu xin vào làm thủy thủ tàu Anselm. Ban đầu thuyền trưởng Hop có vẻ không tin cậu thiếu niên nhà giàu này có thể chịu được khắc nghiệt nơi đầu sóng, nhưng qua chuyến đi biển dài ngày cùng cậu, Gray đã hoàn toàn làm thuyền trưởng Hop nể phục. Sau này, cậu rời bỏ thuyền Anselm để tự mua một con tàu cho riêng mình, tàu “Bí mật”. Một hôm, trên đường đi, họ lái tàu ngang làng Kaperna (nơi Assol đang sống), Gray chợt có hứng muốn câu cá nên thủy thủ đoàn đã dừng chân ở đây. Tại bụi cỏ gần khu rừng họ dừng chân, Gray tìm thấy Assol đang ngủ và ngay lập tức yêu cô. Anh cởi chiếc nhẫn trên tay và nhẹ nhàng đeo cho cô. Assol vẫn say ngủ và không hề biết gì về việc này. Sau đó, Gray vào làng để tìm hiểu thêm về cô gái mình vừa gặp, và biết được câu chuyện về con thuyền có cánh buồm đỏ. Anh đã chuẩn bị con tàu y hệt như lời kể và đến rước Assol, trong sự ngỡ ngàng của dân làng, những người luôn chế nhạo cô và cha cô.
(Wikipedia)
Trân trọng tặng
Nina Nikolayevna Grin Tác giả
Petrograd, 23/11/1922
CHƯƠNG 1
LỜI TIÊN ĐOÁN
Longren là thủy thủ của con tàu “Orion” chở được ba trăm tấn. Anh đã làm việc trên con tàu đó mười năm và gắn bó với nó có lẽ còn thân thiết hơn là con với mẹ. Nhưng cuối cùng thì anh phải bỏ con tàu.
Chuyện xảy ra như thế này. Vào một trong những chuyến về thăm nhà hiếm hoi, anh không thấy chị Mary, vợ anh, từ xa đứng trên ngưỡng cửa vẫy vẫy tay, rồi sau đó chạy tới đón anh, thở hổn hển chừng như đứt hơi. Bên chiếc giường trẻ con - đồ vật mới trong căn nhà nhỏ của Longren - anh chỉ thấy bà hàng xóm với dáng vẻ đầy xúc động.
- Đã ba tháng rồi tôi phải chăm sóc nó đấy, - bà hàng xóm nói, - anh hãy nhìn con gái anh đi!
Longren lặng người, cúi xuống đứa trẻ tám tháng đang chăm chăm nhìn bộ râu dài của anh, rồi anh ngồi xuống, đầu cúi, tay vân vê bộ râu. Râu anh ướt đầm vì mưa.
- Mary chết bao giờ hở bác? - anh hỏi.
Người đàn bà kể lại câu chuyện buồn thảm, chốc chốc dừng lại nựng đứa bé và quả quyết rằng Mary đã được lên thiên đường. Khi Longren biết rõ câu chuyện thì thiên đường đối với anh chẳng sáng sủa hơn nhà chứa củi là bao nhiêu, và anh nghĩ rằng nếu như bây
giờ có cả vợ anh thì ánh lửa của chiếc đèn nhỏ có thể là một niềm vui không gì thay thế được đối với người phụ nữ đã đi vào xứ sở huyền bí.
Chừng ba tháng trước, người mẹ trẻ gặp phải chuyện không may. Hơn nửa số tiền Longren để lại, Mary đã tiêu tốn vào việc chữa chạy sau lần đẻ khó, vào việc chăm sóc sức khoẻ cho đứa trẻ sơ sinh. Thêm nữa, Mary lại đánh mất một số tiền tuy không nhiều nhưng rất cần cho cuộc sống của hai mẹ con. Hoàn cảnh khó khăn đó đã buộc Mary phải đến nhà Menners vay tiền. Menners là chủ quán rượu, có một cửa hàng tạp hoá nhỏ. Y được coi là kẻ giàu có.
Mary đến nhà y vào lúc sáu giờ tối. Gần bảy giờ, bà hàng xóm gặp chị trên đường đến thị trấn Liss. Mary vừa khóc vừa buồn bã kể rằng chị phải đi lên phố để cầm chiếc nhẫn cưới. Chị nói thêm rằng Menners đồng ý đưa tiền cho chị, nhưng đòi chị phải yêu hắn. Mary đành về không.
- Nhà cháu không còn gì ăn, bác ạ, - chị nói với bà hàng xóm. - Cháu phải đi lên phố cố kiếm về ít tiền, rồi hai mẹ con gắng lần hồi cho đến khi nhà cháu về.
Tối hôm đó trời vừa rét vừa có gió thổi, bà hàng xóm đã không ngăn được Mary đi lên phố vào ban đêm. “Cháu sẽ bị ướt, Mary ạ, trời đang lất phất mưa, cứ cái điệu gió này thì trời sắp mưa to đấy!”
Từ làng ven biển lên thị trấn Liss cả đi lẫn về nhanh cũng mất ít nhất ba giờ, nhưng Mary không nghe theo lời khuyên của bà hàng xóm. “Thôi, cháu không muốn quấy quả các bác nữa, - Mary nói, - gần như nhà nào cháu cũng từng vay bánh mì, chè hay bột. Đem cầm chiếc nhẫn này là xong thôi bác ạ”. Mary đi lên phố về, đến hôm
sau thì lên cơn sốt cao, mê sảng. Trời đêm lạnh giá đã làm chị bị viêm phổi nặng - theo lời ông bác sĩ trên phố được bà già tốt bụng mời về cho biết. Một tuần sau, chiếc giường đôi của Longren đã trống không, bà hàng xóm đã dọn sang nhà anh ở để chăm sóc trẻ. Đối với một người đàn bà goá bụa cô đơn như bà thì việc đó không khó. “Thêm nữa - bà nói tiếp, - không có đứa bé ấy thì cũng buồn”.
Longren đi lên phố, thôi việc, từ biệt bạn bè rồi trở về nhà nuôi nấng bé Assol. Khi đứa bé đi chưa vững thì bà hàng xóm còn ở lại trong nhà Longren, thay thế người mẹ quá cố chăm sóc nó. Nhưng khi Assol đi vững, bước qua được ngưỡng của thì Longren quyết định sẽ tự mình nuôi dạy đứa trẻ. Anh cám ơn bà hàng xóm đã tận tình giúp đỡ anh. Rồi từ đấy, anh sống cuộc đời cô đơn của người góa vợ, tập trung tất cả ý nghĩ, hi vọng, tình cảm và kỷ niệm của mình vào đứa trẻ.
Mười năm sống nay đây mai đó chỉ đem lại cho anh một số tiền rất nhỏ. Anh bắt đầu làm việc. Ít lâu sau, trong những cửa hiệu trên phố đã thấy bày bán những đồ chơi do chính tay anh khéo léo làm ra - những chiếc thuyền nhỏ, xuồng máy, thuyền buồm một boong, hai boong, tàu thủy, tàu tuần dương, tóm lại tất cả những gì anh đã gần gũi, những gì trong khi làm việc đã phần nào thay thế cho anh cuộc sống ồn ào ngoài cảng, thay thế được lao động đầy thơ mộng của những chuyến đi biển. Bằng công việc đó, Longren đã kiếm tiền để hai bố con có thể sống một cách tằn tiện. Vốn là người ít giao du, sau khi vợ mất, Longren lại càng trở nên kín đáo, ít cởi mở hơn. Vào những ngày lễ, thỉnh thoảng người ta thấy anh trong quán rượu, nhưng anh không bao giờ ngồi mà chỉ vội vàng uống một cốc rượu ngay tại quầy rồi ra về, đáp lại lời thăm hỏi của mọi người một cách
vắn tắt: “Xin chào”, “Tôi đi nhé”, Vâng”, “Cũng thường thôi”. Anh không thích tiếp khách. Khi có khách, anh khéo léo tỏ ý muốn họ về bằng những lời nói bóng gió xa xôi hay những cớ do anh tưởng tượng ra. Những lúc ấy, khách chỉ còn cách là nghĩ ra một lý do nào đó để cáo từ. Phần anh cũng không thăm ai, vậy là giữa anh và dân làng có cái gì đó lạnh lùng ngăn cách. Nếu như việc làm đồ chơi của anh phụ thuộc nhiều vào công việc của dân làng thì quan hệ như thế có thể đem lại cho anh nhiều khó khăn. Thức ăn dự trữ và các thứ hàng cần thiết anh mua trên thị trấn - Menners không thể khoe khoang được rằng Longren đã mua hàng ở cửa hiệu của y, dù chỉ là một bao diêm. Anh tự mình làm mọi việc trong nhà và tỏ ra rất chịu khó nuôi dạy con gái, một việc vốn phức tạp, không phải của đàn ông.
Assol đã lên năm tuổi. Khi em ngồi trên đùi Longren, chăm chú mân mê chiếc cúc áo gi-lê hay ngộ nghĩnh hát những bài ca thủy thủ, Longren thường dịu dàng cười với con. Qua giọng hát con trẻ, những bài hát ấy gợi nhớ đến con gấu thắt đai xanh đang vụng về nhảy múa. Vào thời gian đó có một chuyện xảy ra bao trùm bóng đen lên cả hai bố con.
Dạo ấy là đầu mùa xuân, thời tiết còn khắc nghiệt như mùa đông, nhưng theo một kiểu khác. Khoảng ba tuần liền, gió bấc từ phía biển thổi mạnh về miền đất lạnh.
Thuyền đánh cá được kéo lên bờ, xếp thành dãy dài trên bãi cát trắng tựa như vây lưng những con cá khổng lồ. Không ai dám đi biển lúc tiết trời như thế. Trên con đường duy nhất ở làng chẳng mấy khi gặp người nào rời khỏi nhà. Cơn lốc lạnh lẽo từ những ngọn đồi ven biển thổi thốc vào chân trời trống trải, biến không trung
thành một trò tra tấn khắc nghiệt. Suốt từ sáng đến tối, khói tỏa trên những mái nhà dốc đứng trong làng Kaperna.
Nhưng những ngày gió bấc ấy lại làm Longren thích ra khỏi căn nhà nhỏ ấm cúng hơn là vào những ngày mặt trời tỏa ánh vàng xuống mặt biển và làng Kaperna. Longren đi đến chiếc cầu nhỏ dựng trên những hàng cọc dài, rồi đứng ở tận cuối cầu mà ngậm tẩu hút thuốc dưới trời gió rét. Anh nhìn những con sóng bạc đầu nối tiếp nhau đang dữ dội tràn vào bờ tung bọt trắng xoá, những đợt sóng chạy ầm ầm lan khắp vùng chân trời dông bão đen ngòm hệt như một đàn quái vật hung dữ đang lồng lộn trong cơn tuyệt vọng tìm đến một niềm an ủi xa xôi. Những tiếng ầm ào, từng loạt cột nước dựng lên và cả những luồng gió tưởng như thấy được đang vằm nát xung quanh từng đợt một thật đều, thật mạnh, làm dịu lại tâm hồn đau đớn của Longren, giảm đi nỗi buồn da diết, như đưa anh vào giấc ngủ thật say.
Có lần, vào một trong những ngày ấy, đứa con trai mười hai tuổi của Menners tên là Hin trông thấy chiếc thuyền của bố buộc dưới cầu bị sóng xô vào chân cầu chực làm vỡ mạn thuyền, bèn về nói lại với bố. Trước lúc cơn bão kéo đến, Menners quên kéo thuyền lên bờ cát. Y lập tức chạy ra ngoài biển và nhìn thấy Longren đang đứng hút thuốc tận cuối cầu, lưng quay về phía y. Ngoài bờ biển, ngoài họ ra, không còn ai. Menners ra đến giữa cầu, bước xuống con nước như đang sôi sục và tháo dây buộc thuyền. Y đứng trên thuyền, tay lần những chiếc cọc đỡ cầu và đưa thuyền vào bờ. Y không mang theo mái chèo. Bỗng y lỡ đà không kịp bíu vào cái cọc tiếp theo. Cùng lúc đó, một cơn gió mạnh ập đến quay ngược mũi thuyền ra phía biển. Bây giờ thì dù có vươn cả người, y cũng không
thể với tới chiếc cọc gần nhất nữa. Sóng gió chao đảo chiếc thuyền, cuốn nó vào không gian chết chóc. Thấy thế, Menners định nhảy xuống nước để bơi vào bờ, nhưng quyết định của y đã quá muộn, bởi vì con thuyền đã trôi ra một quãng xa ngoài phía cuối cầu, nơi nước sâu sóng to chắc chắn sẽ dìm y chết. Khoảng cách giữa Longren và Menners đang bị cuốn ra ngoài xa lúc ấy chỉ chừng mười xa-giên. Có thể cứu được Menners, bởi vì ngay chỗ Longren đứng có một cuộn dây to treo ở đấy. Người ta để sẵn cuộn dây ở đó để phòng khi thuyền về bến gặp sóng gió khó vào bờ thì ném nó xuống thuyền.
- Longren! - Menners kinh hoàng kêu lên. - Sao anh cứ đứng yên như phỗng thế kia? Ta đang bị cuốn đi đây này! Ném dây xuống đi!
Longren im lặng, thản nhiên nhìn Menners đang luống cuống trong thuyền. Chỉ có khói thuốc lá tỏa ra nhiều hơn trên chiếc tẩu của anh. Anh chậm rãi bỏ chiếc tẩu, như để nhìn rõ hơn điều đang xảy ra.
- Longren! - Menners kêu cứu. - Nghe thấy ta gọi chứ? Ta sắp chết đến nơi rồi, cứu ta với!
Nhưng Longren không nói với hắn một lời nào, dường như anh không nghe thấy tiếng gào tuyệt vọng của hắn. Chừng nào chiếc thuyền chưa bị cuốn ra xa đến mức tiếng kêu cứu của Menners không còn nghe thấy nữa, chừng ấy Longren còn đứng yên không nhúc nhích. Menners khóc rống lên vì sợ, van nài Longren chạy về báo với dân chài, nhờ họ ra cứu, hứa cho tiền, rồi lại đe doạ, chửi rủa, nhưng Longren chỉ bước ra thêm mấy bước đến tận sát mép cầu để không mất hút con thuyền đang bị sóng dồn lên dập xuống.
- Longren, - anh nghe thấy tiếng gọi mơ hồ như người trong nhà nghe người gọi từ trên mái, - cứu tôi với!
Lúc ấy, Longren hít thật sâu rồi gào lên thật to cho không một lời nào của anh bị mất hút đi trong tiếng gió:
- Vợ tao cũng đã từng kêu cứu với mày như thế! Hãy nhớ lại điều đó đi, chừng nào mày còn sống, đừng quên, Menners ạ!
Lúc đó tiếng gào im bặt, và Longren trở về nhà. Khi tỉnh dậy, Assol thấy bố đang ngồi bên ngọn đèn gần tắt, vẻ mặt hết sức đăm chiêu. Nghe thấy tiếng con gái gọi, anh đến bên con, ôm chặt con mà hôn rồi kéo chăn đắp lại cho con.
- Ngủ đi, con yêu của bố! - anh nói. - Còn lâu mới sáng, con ạ. - Bố làm gì đấy?
- Bố vừa làm xong một đồ chơi xấu. Ngủ đi, Assol!
Ngày hôm sau, dân làng Kaperna xôn xao bàn tán về chuyện Menners bị mất tích. Đến ngày thứ sáu thì người ta đem Menners về làng, sống dở chết dở, vẻ mặt đầy ác độc. Chuyện y kể chẳng mấy chốc lan truyền đi khắp các làng lân cận. Menners lênh đênh trên sóng biển cho đến chiều. Y đã phải vật lộn với sóng nước lúc nào cũng chực dìm y xuống đáy biển, cả người va đập liên tiếp vào mạn thuyền và lòng thuyền mãi cho đến khi được chiếc tàu Lucretia đi Kasset vớt lên. Bị cảm lạnh và phải sống qua những giờ phút kinh hãi cực độ, y đã không sống thêm được bao lâu. Chưa đầy hai ngày đêm sau y chết, trước khi chết y cầu mong cho Longren gặp phải mọi tai họa có thể có trên đời và trong tưởng tượng. Câu chuyện về việc Longren chứng kiến tai họa của Menners mà không cứu giúp
được tô vẽ thêm bằng hơi thở nặng nề và rền rĩ của Menners đã làm dân làng Kaperna kinh ngạc. Cả làng chẳng còn mấy ai nhớ đến nỗi đau khổ nặng nề mà Longren đã phải chịu đựng, và cũng chẳng còn mấy ai hết sức đau khổ về Mary như Longren đã đau khổ cho đến hết đời mình. Dân làng cảm thấy kinh sợ, khó hiểu về thái độ im lặng của Longren lúc đó. Cho đến khi nói những lời cuối cùng cho Menners Longren đã đứng lặng yên, không nhúc nhích, nghiêm nghị và trầm lặng như một người phán xét biểu lộ sự khinh bỉ cực độ đối với Menners. Sự khinh bỉ ấy còn đáng sợ hơn cả lòng căm thù, và điều này mọi người đều cảm thấy. Nếu anh hét lên, vung tay múa chân hoan hỉ lộ rõ sự khoái trá khi thấy kẻ thù gặp nạn, hoặc là bằng cách nào khác tỏ rõ sự đắc thắng của mình khi Menners đang tuyệt vọng, thì dân làng đã có thể hiểu được anh. Nhưng anh lại hành động khác với họ, anh đã cư xử thật lạ lùng, thật đáng kinh ngạc, và bằng cách đó anh đã đứng cao hơn những người khác. Nghĩa là anh đã làm một điều không thể tha thứ được. Từ lúc ấy, không ai chào anh, không ai bắt tay hay nhìn anh một cách vui vẻ hồ hởi nữa. Anh hoàn toàn xa cách với mọi chuyện trong làng. Trẻ con trông thấy anh chạy theo đồng thanh hô: “Longren dìm chết Menners!”. Anh không thèm để ý đến những chuyện ấy. Hình như anh cũng không nhận thấy rằng khi anh xuất hiện trong quán rượu hay ngoài bờ biển thì dân chài ở đấy đều im bặt, tránh xa anh như tránh người mắc bệnh dịch hạch. Chuyện xảy ra với Menners đã khoét sâu thêm sự ngăn cách gữa Longren với dân làng, trước kia còn chưa sâu sắc lắm. Bây giờ khi sự ngăn cách đó trở nên sâu sắc thì hai bên đều thấy căm ghét nhau và điều này đã ảnh hưởng đến cả Assol.
Cô bé đã lớn lên mà không có bạn bè. Hai ba chục đứa trẻ cùng lứa tuổi ở làng Kaperna, khác nào chiếc bọt biển thấm nước, đã
nhiễm phải định kiến thô bạo của gia đình mà cơ sở của nó là uy tín tuyệt đối của cha mẹ. Bọn chúng nhanh chóng tiếp nhận điều đó, như mọi đứa trẻ trên thế giới, và tẩy chay cô bé Assol, loại bỏ em ra khỏi môi trường của chúng. Điều này đã xảy ra một cách dần dà, bằng đe nẹt, dọa dẫm của người lớn. Họ cấm đoán bọn trẻ chơi với Assol, thêu dệt những chuyện méo mó để rồi cuối cùng, với đầu óc non nớt của chúng, bọn trẻ tự nhiên thấy sợ hãi trước gia đình người thủy thủ.
Thêm vào đấy, lối sống cách biệt của Longren làm cho mọi người càng dễ bề đơm đặt vu khống. Người ta nói rằng thủy thủ Longren đã từng giết người ở đâu đó, và vì thế không được nhận làm trên tàu nữa, còn bản thân anh bây giờ trở nên cô độc u sầu vì “bị lương tâm cắn rứt”. Bọn trẻ xua đuổi Assol. Nếu cô bé lân la đến chơi với chúng, chúng ném đất vào em, trêu chọc em rằng bố em đã từng ăn thịt người và bây giờ đang làm bạc giả. Lần nào Assol định đến gần bọn trẻ, em cũng bị cào cấu, đánh đập thâm tím, em khóc lóc cay đắng và chịu đựng mọi biểu hiện khác của dư luận xã hội, cuối cùng em cũng không còn cảm thấy bị nhục mạ nữa. Nhưng đôi khi em vẫn hỏi bố em: “Bố ơi, sao họ không yêu bố con mình?”- Longren đáp: “Này, Assol, lẽ nào họ biết yêu? Cần phải biết yêu, nhưng điều này thì họ không làm được”. - “Thế nào là biết yêu hở bố?” - “Là thế này, con ạ!” - Anh liền bế con gái lên và hôn thật lâu vào đôi mắt đượm buồn của con, đôi mắt đang lim dim lại vì được âu yếm.
Những phút chơi đùa thích thú nhất của Assol là vào buổi tối hay ngày lễ, khi bố em thu dọn hộp đựng hồ dán, đồ lề, các công việc đang dở dang sang một bên, cởi chiếc tạp dề ra, ngậm tẩu thuốc và
miệng rồi bế em ngồi lên đùi mình. Những lúc ấy, Assol ngồi trong vòng tay nâng niu của bố, vừa sờ mó những thứ đồ chơi khác nhau vừa hỏi bố về công dụng của từng thứ đồ vật ấy. Longren lại có dịp kể những chuyện thật ly kỳ về cuộc sống và con người. Do chỗ trước đây Longren đã sống một cuộc đời nay đây mai đó, câu chuyện anh kể thường chứa đầy những sự kiện tình cờ, lạ kỳ và đáng kinh ngạc. Longren nói với con tên những loại dây dợ, buồm, những vật dụng trên tàu, rồi dần dần say sưa chuyển từ lời giải thích sang kể những tình huống khác nhau trong đó vai trò chính là cái tời để thả và cất neo, bánh lái, cột buồm hay một loại thuyền nào đấy, và từ những minh họa cụ thể đó anh chuyển sang kể lại những cảnh đi biển đầy phóng khoáng, kết hợp chuyện mê tín với chuyện thật, rồi chuyện thật với các hình ảnh do anh hư cấu ra. Trong chuyện đó mới xuất hiện nào là con mèo cọp báo hiệu đắm tàu, nào là con cá bay biết nói, nếu không nghe lệnh của nó sẽ đi lạc đường, nào là những điềm báo, những hồn ma, nàng tiên cá, những tên cướp biển, nói tóm lại là tất cả những chuyện hoang đường mà các thủy thủ đã kể cho nhau nghe trong quán rượu quen thuộc hay trên tàu những khi gió lặng. Longren còn kể về những lần đắm tàu, về những người lạc trên đảo lạ đã trở thành man rợ đến nỗi quên cả tiếng nói, về những kho báu bí mật, về những người tù khổ sai nổi loạn và nhiều chuyện khác. Assol nghe bố kể có lẽ còn chăm chú hơn khi người ta nghe ông Columbus kể lần đầu về chuyện tìm ra châu Mỹ. “Bố kể nữa đi”, - bé Assol nói với bố khi Longren ngừng kể, vẻ mặt tư lự, rồi em thiếp đi trên ngực bố trong giấc ngủ đầy những giấc mơ kỳ lạ.
Assol cũng rất mừng mỗi lần người buôn đồ chơi trên thị trấn về nhà Longren mua hàng. Để lấy lòng Longren và để mua được rẻ
hơn, người lái buôn thường đem quà cho Assol, khi thì vài quả táo, cái bánh ngọt, khi thì nắm hạt dẻ. Thường thì Longren chỉ nói đúng giá tiền thứ đồ chơi mình làm ra vì anh không thích thú gì chuyện cò kè mua bán. Nhưng lần nào người lái buôn cũng đòi bớt. “Ồ, sao lại thế ông, - Longren nói, - tôi phải ngồi cả tuần mới làm được chiếc thuyền buồm đấy. Chiếc thuyền này dài năm véc-sốc. Ông cứ nhìn xem, chắc chắn lắm đấy, phần chìm lại chất lượng tốt nữa. Có thể chở được mười lăm người trong mọi thời tiết đấy.”. Kết cục là tiếng đứa con gái đang khẽ hát ru quả táo đã làm Longren mềm lòng, anh hết muốn tranh cãi với người lái buôn, và y cuối cùng đã mua được rẻ. Y cho những đồ chơi chắc chắn, tuyệt đẹp ấy vào làn rồi ra về, tủm tỉm cười.
Mọi việc trong nhà, Longren tự tay làm hết: bổ củi, xách nước, đốt lò, nấu ăn, giặt giũ, là quần áo, dọn dẹp mọi thứ. Tuy vậy, Longren vẫn dành thời gian để kiếm tiền. Khi Assol lên tám tuổi, anh đã dạy con đọc, viết. Thỉnh thoảng anh đưa con lên thị trấn. Sau đó đôi lần anh còn để con đi đến đó một mình mỗi khi cần phải vay tạm ít tiền ngoài cửa hiệu, hay đi đưa hàng. Điều này cũng ít xảy ra dù thị trấn Liss chỉ cách làng Kaperna vẻn vẹn bốn dặm. Nhưng vì đường đi phải qua một khu rừng thì thiếu gì cái làm trẻ con sợ sệt, chưa nói đến những nguy hiểm tuy cũng khó xảy ra vì ở gần phố xá nhưng không phải là không cần tính đến. Cho nên chỉ vào những buổi sáng thật đẹp trời, khi hai bên đường chan hoà ánh nắng, hoa cỏ tốt tươi, bầu trời vắng lặng, Assol không còn tâm trí đâu mà tưởng tượng đến những điều đáng sợ nữa, những lúc ấy Longren mới cho con gái đi một mình lên phố.
Có lần, trên đường đi lên phố, cô bé Assol ngồi lại nghỉ và lấy miếng bánh rán để trong làn ra ăn lót dạ buổi sáng. Vừa ăn, Assol vừa ngắm nghía các đồ chơi mang theo: cô bé thấy vài ba thứ đồ chơi lạ, những thứ này cha cô đã làm về khuya. Trong số đó có một chiếc thuyền đua nhỏ sơn màu trắng với những cánh buồm đỏ thắm làm bằng những mảnh lụa mà Longren chuyên dùng để trang hoàng cho các căn buồng trên tàu thủy lớn - thứ đồ chơi dành cho trẻ con các gia đình lắm tiền. Chắc là sau khi đẽo xong chiếc thuyền đua màu trắng, Longren không biết lấy gì để làm buồm và đã tình cờ ghép vào đấy những mảnh lụa màu đỏ thắm. Assol mừng quá. Màu lụa thắm của những cánh buồm bé xíu đỏ rực trên tay Assol, dường như cô bé đang nâng niu một ngọn lửa. Đường lên phố đi qua một chiếc cầu nhỏ ghép bằng gỗ thô, dưới cầu là con suối len lỏi trong cánh rừng. “Mình thử thả xuống nước cho nó bơi một chút xem sao, - Assol nghĩ, - nó có bị ướt thì mình lại lau khô được ngay thôi mà”. Cô bé đi sang bên kia cầu rồi men theo dòng suối, rẽ vào cánh rừng, khẽ khàng đặt chiếc thuyền mà cô yêu thích xuống mặt nước sát bên bờ. Cánh buồm in hình thắm đỏ trong làn nước trong veo, và tia sáng mặt trời chiếu qua lần vải lụa lung linh một màu hồng trên những hòn đá cuội trắng muốt hiện ra dưới đáy. “Ông Thuyền trưởng ơi, ông từ đâu đến đấy?” - Assol khẽ hỏi một người tưởng tượng bằng giọng nghiêm trang, rồi cô bé tự đóng luôn vai Thuyền trưởng trả lời: “Tôi đi từ... đi từ... Trung Hoa tới”. “Thế ông chở cái gì thế?” - Chở cái gì tôi chả nói đâu”. “Chà, ông bướng thật, ông Thuyền trưởng ạ! Thế thì tôi lại bỏ ông vào làn vậy”. Ngay khi anh chàng Thuyền trưởng tưởng tượng kia vừa định ngoan ngoãn trả lời rằng mình chỉ nói đùa thôi và anh ta sắp sửa lấy ra cho xem một con voi thì bất ngờ dòng nước chảy ven bờ từ từ làm quay mũi thuyền ra
phía giữa dòng, và con thuyền, y như thật, lao nhanh theo dòng suối. Cảnh tượng trước mắt cô bé đột nhiên thay đổi: con suối đối với cô bé bỗng trở thành một dòng sông rộng, chiếc thuyền nhỏ hiện ra như một chiếc tàu lớn đã ra khơi xa, còn cô bé chút nữa thì ngã xuống nước giơ tay ra lấy thuyền. “Chắc là Thuyền trưởng sợ lắm”, - cô bé thoáng nghĩ vậy và chạy theo chiếc thuyền con đang lao đi vun vút, cô hy vọng đến một chỗ nào đó, con truyền sẽ mắc lại bên bờ. Cô bé vừa chạy vừa xách theo chiếc làn không nặng lắm nhưng cồng kềnh, miệng lẩm bẩm: “Trời ơi! Sao mình lại không may thế nhỉ!...”. Cô bé cố không rời mắt khỏi con thuyền buồm xinh xắn đang lướt nhẹ trên dòng suối, chốc chốc lại vấp ngã, đứng vội lên, rồi lại chạy theo.
Chưa bao giờ Assol vào sâu trong rừng đến thế. Cô bé bị thu hút tất cả ý muốn nôn nóng lấy lại được chiếc thuyền, không còn nhìn thấy gì khác nữa. Dọc bờ suối cô bé chạy là vô số những vật chướng ngại, lẽ ra phải để ý tới. Những thân cây đổ bám đầy rêu, những cái hố, những cây dương xỉ, cây tầm xuân, cây nhài, cây dẻ mọc sum suê làm vướng chân Assol. Dần dần cô bé thấm mệt, mỗi lúc lại phải dừng lại nhiều hơn để thở hay để gạt mạng nhện bám lên mặt. Đến một quãng rộng, lau sậy mọc đầy hai bên bờ thì Assol không còn nhìn thấy cánh buồm đỏ thắm nữa. Nhưng qua một khúc quanh, lúc cô bé thoáng nhìn ra chung quanh và cả khu rừng rậm rì với từng cột ánh sáng đổ dài qua tán lá xen lẫn những khoảng tối sẫm âm u làm cô vô cùng kinh ngạc. Một chút sợ hãi thoáng qua nhưng rồi nghĩ đến chiếc thuyền, cô bé lại nặng nề thở, ráng hết sức chạy tiếp.
Cuộc chạy đuổi vô vọng và lo âu ấy kéo dài gần một tiếng đồng hồ, cho đến khi cô ngạc nhiên và khoan khoái thấy phía trước mặt cây cối giãn ra, để lộ một vùng biển màu xanh biếc cùng với những
áng mây và bờ cát vàng. Cô bé chạy đi tới đó, mệt rã rời gần như ngã khuỵu xuống. Nơi đây là cửa dòng suối; nước tỏa ra không rộng và nông, có thể nhìn thấy rõ những hòn đá màu xanh nằm dưới đáy. Tới đây con suối mất hút trong làn sóng biển tràn đến. Từ trên bờ cát thoai thoải nham nhở những rễ cây, Assol nhìn thấy bên suối, trên một tảng đá to bằng phẳng, có một người ngồi quay lưng lại
phía cô, tay cầm chiếc thuyền nhỏ. Người đó ngắm nghía kỹ càng chiếc thuyền với vẻ tò mò như một con voi vừa bắt được con bướm. Cô bé hơi yên lòng một chút vì thấy chiếc thuyền vẫn còn nguyên vẹn. Cô men theo bờ cát đi gần lại phía người lạ mặt cặp mắt chăm chú dò xét chờ người kia ngẩng đầu lên. Nhưng người lạ mặt say sưa ngắm vật bất ngờ gặp giữa rừng, đến mức cô bé có thể quan sát kỹ càng người ấy suốt từ đầu đến chân và nhận ra rằng từ bé đến giờ trong đời cô chưa từng gặp một ai giống như vậy cả.
Nhưng trước mắt cô bé không phải ai xa lạ, mà chính là ông già Elge, một người đi bộ khắp đó đây để sưu tầm những bài dân ca, những câu chuyện cổ tích, thần thoại. Những món tóc xoăn dài bạc trắng lộ ra ngoài chiếc mũ rơm, chiếc áo sơ mi màu xám bỏ vào trong quần màu xanh và đôi ủng cao cổ đem lại cho ông dáng dấp một người đi săn, chiếc cổ áo màu trắng, chiếc ca-vát, cái thắt lưng to bản có gắn miếng kim loại mạ bạc, chiếc gậy chống và cái xắc có khoá mạ kền tất cả những thứ ấy cho thấy rõ ông già vốn là người thành thị. Vẻ mặt của ông nếu có thể dùng từ “mặt” để chỉ cái mũi, đôi môi, cặp mắt lộ ra sau lớp râu sum suê và sau bộ ria rậm mọc vểnh lên nom thật chất phác, nếu như không chú ý đến cặp mắt xam xám màu cát, ánh lên như thép thuần chất với cái nhìn khoẻ khoắn, táo bạo.
Bây giờ thì ông cho cháu xin lại nhé, cô bé rụt rè cất tiếng nói. Ông chơi một lúc lâu rồi đấy. Làm thế nào mà ông vớt được nó lên?
Ông già Elge ngẩng đầu, đánh rơi chiếc thuyền xuống đất. Giọng nói nhỏ nhẻ đầy xúc động của Assol vang đến tai ông quá bất ngờ. Ông già mỉm cười ngắm nhìn cô bé một lúc, từ từ khẽ tựa chiếc cằm đầy râu vào lòng bàn tay xương xương gân guốc của mình. Chiếc
váy hoa bạc màu dài chưa quá đầu gối, để lộ đôi chân nhỏ gầy sạm nắng. Mái tóc đen dày ẩn dưới chiếc khăn ren loà xoà trên vai. Nét mặt cô bé trông thật thanh thoát và trong trắng như đường bay của chim én mùa xuân. Đôi mắt màu đen thoáng đượm một câu hỏi buồn buồn trông già dặn hơn khuôn mặt cô bé; gương mặt trái xoan mềm mại, hơi rám nắng, trông thật khoẻ khoắn, đáng yêu. Cái miệng nho nhỏ xinh xinh hé nở một nụ cười duyên dáng.
- Các ông Grimm, Aesop, Andersen cũng phải thấy đây là một chuyện gì rất đặc biệt! - Ông già nói, lúc thì nhìn cô bé, lúc thì nhìn chiếc thuyền nhỏ. - Này cô bé đáng yêu, hãy nghe ta nói nhé! Chiếc thuyền con này là của cháu ư?
- Thưa ông vâng ạ. Cháu chạy đuổi theo nó suốt dọc bờ suối mệt muốn chết ông ạ. Thế nó mắc lại ở đây hở ông?
- Ở ngay bên chân ta đây. Đó là do đắm tàu, mà ta thì như là tên cướp trên bờ, ta có thể trao cho cháu phần thưởng này. Sau khi các thủy thủ đã rời khỏi thuyền thì một con sóng cao chừng ba véc-sốc đã hất nó lên bờ cát, khoảng giữa gót chân trái ta và chiếc gậy này. - Ông già cầm chiếc gậy đập đập xuống đất. - Thế cháu tên là gì, cô bé dễ thương?
- Cháu tên là Assol, - cô bé trả lời, tay cầm chiếc thuyền nhỏ mà ông già vừa đưa trả, bỏ vào làn.
- Được rồi, - Ông già tiếp tục nói bằng một giọng khó hiểu. Mắt vẫn chăm chăm nhìn cô bé, cái nhìn ẩn một nụ cười trìu mến. - Kể ra thì ta cũng chẳng cần hỏi tên cháu làm gì. Hay lắm, tên cháu nghe là lạ, ngắn ngủi và có nhạc điệu như tiếng mũi tên vút đi hay tiếng ngân vang của chiếc vỏ ốc biển. Ta sẽ biết làm gì, nếu như
cháu có một cái tên nghe thì êm tai, nhưng lại quá nhàm và rất xa lạ đối với điều Bí ẩn Đẹp đẽ? Hơn mữa ta cũng không muốn biết cháu là ai, bố mẹ cháu làm gì, cháu sống thế nào. Biết đâu cái ấn tượng tuyệt vời ban đầu này lại chẳng bớt trọn vẹn nếu ta hỏi thêm những điều ấy? Ta ngồi trên tảng đá này và đang so sánh các cốt truyện cổ tích Nhật Bản và Phần Lan... thì bất ngờ dòng suối đem tới đây con thuyền này và rồi cháu xuất hiện... như thế này đây. Cô bé đáng yêu ạ, ta là một nhà thơ từ trong tâm hồn, mặc dù ta chưa bao giờ làm thơ cả. Làn của cháu đựng những gì vậy?
- Trong làn cháu để mấy chiếc thuyền, - Assol trả lời, tay lúc lắc chiếc làn, - với một chiếc tàu thủy và mấy cái nhà nhỏ có cắm cờ. Đấy là nhà ở của quân lính đấy.
- Được lắm. Thế ra cháu được sai đem những thứ này đi bán. Dọc đường cháu lại ham chơi. Cháu thả chiếc thuyền này xuống nước cho nó bơi, thế rồi nó trôi đi mất. Phải thế không?
- Ông trông thấy cháu làm thế à? - Assol ngập ngừng hỏi, giọng nghi ngờ, cô bé cố nhớ lại xem mình đã kể chuyện này chưa. - Ai kể lại với ông hay là ông tự đoán ra?
- Ta biết chuyện đó.
- Sao ông biết?
- Vì ta là một ông tiên.
Assol cảm thấy lúng túng. Cô bé cố hiểu những lời ông già nói, nhưng chỉ càng thấy sợ sệt hơn. Bãi biển hoang vắng, khoảng không lặng ngắt, câu chuyện kỳ lạ, vất vả vừa xảy ra với chiếc thuyền nhỏ, lời nói khó hiểu của ông già có đôi mắt sáng, bộ râu và
mái tóc đầy vẻ trang nghiêm - tất cả càng đem lại cho Assol cái cảm giác hư hư thực thực. Bây giờ chỉ cần ông già nhăn mặt hay thét lên một tiếng là cô bé sẽ khóc oà, bỏ chạy rồi ngã khuỵu xuống vì sợ hãi. Nhưng ông già Elge nhận thấy đôi mắt cô bé mở to đầy vẻ hoảng hốt, đã vội vàng đổi giọng.
- Cháu không việc vì phải sợ ta cả, - Ông già khoan thai nói. - Ta còn muốn nói chuyện tâm tình với cháu nữa đấy.
Đến lúc đó ông mới nhận ra cái gì trên gương mặt cô bé đã gây cho ông ấn tượng sâu sắc như vậy. “Chính là vẻ đợi chờ rất tự nhiên một cái gì đẹp đẽ tốt lành, một số phận may mắn, - Ông già nghĩ vậy. - Chà, tiếc quá, sao mình không phải là nhà văn? Đây thật là một đề tài tuyệt diệu!”.
- Này cô bé, - Ông già vừa nghĩ tiếp cho câu chuyện thêm hoàn chỉnh (cái thiên hướng dựng những chuyện hoang đường - hậu quả của công việc hằng ngày - lúc này đã lấn át mối lo ngại gieo những hạt giống của một niềm mơ ước lớn trên một mảnh đất còn hoang sơ), - cháu hãy lắng nghe ta nói nhé. Ta đã đến làng mà cháu vừa đi ra, tức là làng Kaperna. Ta rất thích các chuyện cổ tích, các bài dân ca. Ta đã ngồi ở làng Kaperna suốt một ngày để cố nghe được những cái chưa ai nghe thấy. Nhưng dân làng cháu không kể chuyện cổ tích, cũng không hát dân ca. Và nếu có kể chuyện và hát, thì cháu biết không, toàn về những anh chàng nông dân và những chú lính láu cá, ranh vặt, luôn huênh hoang về những trò bịp bợm, toàn là những bài vè bốn câu ngắn ngủn với nhạc điệu rất xấu, nghe bẩn thỉu như bàn chân chưa rửa, thô thiển như tiếng ọc ạch sôi bụng... Ồ ta nói hơi lạc đề rồi. Ta kể lại từ đầu.
Nghĩ ngợi một lát, ông già nói tiếp:
- Ta không biết còn bao nhiêu năm nữa, chỉ biết rằng ở làng Kaperna thế nào cũng có một câu chuyện thần thoại mà người mai sau sẽ còn nhớ mãi. Cháu rồi sẽ lớn lên, Assol ạ. Có lần vào buổi sớm mai, từ phía biển khơi xa tít tắp sẽ hiện ra rực rỡ dưới ánh mặt trời một cánh buồm đỏ thắm. Con tàu màu trắng với những cánh buồm thắm đỏ ấy sẽ rẽ sóng lướt đi thẳng tới chỗ cháu. Con tàu kỳ diệu ấy sẽ nhẹ nhàng trôi tới, không có tiếng súng nổ, không có tiếng hò la, trên bờ mọi người tụ tập đông đúc trầm trồ kinh ngạc, và cháu cũng sẽ đứng ở đấy. Con tàu uy nghiêm tiến gần lại bờ trong tiếng nhạc du dương, đằm thắm, rồi từ con tàu đó, một chiếc thuyền nhỏ tách ra bơi nhanh vào bờ, trên thuyền trải thảm, rực rỡ ánh vàng và màu hoa. “Các ông tới đây làm gì? Các ông tìm ai vậy?”- mọi người trên bờ cất tiếng hỏi. Đến lúc đó cháu sẽ nhìn thấy một vị hoàng tử tuấn tú, khoẻ mạnh, khôi ngô đứng trên thuyền, hai tay đưa ra phía cháu. “Chào em. Assol! - chàng trai tuấn tú cất tiếng nói. - Từ một nơi rất xa, rất xa, anh nhìn thấy em trong mơ và anh đã đến đây để đem em đi mãi mãi về xứ sở của anh. Em sẽ sống với anh nơi ấy, trong một thung lũng đầy hoa hồng. Em sẽ có tất cả những gì em mơ ước: chúng ta sẽ sống thuận hoà, vui vẻ với nhau và tâm hồn em sẽ không bao giờ biết đến nỗi buồn và nước mắt”. Chàng trai ấy sẽ đặt cháu lên thuyền, đưa cháu lên tàu và sẽ mãi mãi đi về xứa sở nơi mặt trời thức dậy và những vì sao trên trời sa xuống để chào mừng cháu đến.
- Tất cả chuyện ông kể là về cháu đấy ư? - cô bé khẽ khàng hỏi.
Cặp mắt đầu vẻ nghiêm trang của cô bé bỗng ánh lên một niềm vui tin cậy: nếu ông ấy là một người có phép lạ độc ác thì chắc là
ông đã không kể như vậy. Cô bé bước lại gần hơn:
- Có lẽ chiếc tàu ấy đã... đến rồi hả ông?
- Không nhanh thế đâu, - Ông già Elge trả lời, - trước tiên là cháu phải lớn lên đã chứ, rồi sau đó mới... biết nói thế nào nhỉ? Con tàu ấy thế nào cũng đến, cháu ạ, nhất định như thế. Đến lúc ấy thì cháu sẽ làm gì nhỉ?
- Cháu ấy à? - cô bé nhìn vào trong chiếc làn, nhưng có lẽ cô bé đã không thấy một vật gì có thể làm vật đền bù xứng đáng. - Cháu sẽ yêu hoàng tử, - cô bé trả lời vội vàng và ngập ngừng nói tiếp, - nếu hoàng tử không đánh nhau.
- Không, chàng không hay đánh nhau đâu, - Ông già có phép lạ nói, mắt nhấp nháy đầy bí ẩn. - Chàng không thế đâu, ta có thể bảo đảm với cháu điều này. Thôi, cháu đi đi nhé, và đừng quên những lời ta đã kể cho cháu nghe giữa hai ngụm rượu thơm và những phút suy tưởng về bài ca của những người tù khổ sai. Cháu đi đi nhé. Ta cầu mong cho mái tóc mây của cháu được yên vui, thanh bình!
Longren đang xới đất quanh cây khoai tây trong khu vườn nhỏ của mình. Ngẩng đầu lên, anh thấy Assol đang chạy như bay về phía anh, gương mặt rạng rỡ niềm vui, xao xuyến.
- Này, bố ạ... - cô bé nói, hơi thở còn dồn dập, hai tay níu lấy chiếc tạp dề của Longren. - Bố này, bố nghe con kể nhé... Ở ngoài bờ biển ấy cách xa đây lắm, có một ông tiên đang ngồi đấy bố ạ...
Cô bé kể lại bắt đầu từ đoạn gặp ông già kỳ lạ và lời tiên đoán của ông. Quá xúc động với chuyện vừa gặp, Assol không thể kể lại một cách rành rẽ, đâu ra đấy. Tiếp đó, cô tả lại dáng vẻ bề ngoài của
ông già rồi cuối cùng mới kể tới đoạn cô chạy theo chiếc thuyền nhỏ trên dòng suối như thế nào.
Longren chăm chú nghe con kể, không ngắt lời con, không mỉm cười và khi cô ngừng kể, anh tưởng tượng ra một ông già xa lạ một tay cầm chai rượu thơm, một tay cầm chiếc thuyền nhỏ. Anh đã định quay đi, nhưng chợt nhớ rằng trong những giây phút lớn lao của cuộc đời con trẻ, đôi khi con người cần phải tỏ ra nghiêm trang và ngạc nhiên, anh bèn gật gù nói với vẻ trang trọng: “Đúng rồi, đúng rồi, theo con kể thì đấy đúng là một ông tiên. Bố muốn được gặp ông ấy lắm... Này, nhưng mà khi có việc phải đi lên phố, con chớ rẽ ngang nữa nhé, trong rừng dễ lạc lắm con ạ”.
Bỏ cuốc ra, Longren ngồi xuống bên bờ rào làm bằng cành khô, bế con gái lên đùi. Dù đã rất mệt, cô bé vẫn cố kể thêm vài chi tiết nữa, nhưng chỉ một lát sau cô đã cảm thấy buồn ngủ, phần vì nóng bức, vì xúc động, phần vì mệt. Mắt cô díu lại, đầu ngả vào bờ vai chắc nịch của bố. Cô đã thả hồn vào cõi mộng ảo thì bỗng bị một nỗi hoài nghi làm tỉnh giấc, cô liền ngồi thẳng dậy, mắt vẫn nhắm, nắm tay tựa vào áo gi-lê của bố rồi cao giọng hỏi:
- Bố ơi, thế có thật là chiếc tàu kỳ lạ sẽ đến đón con không?
- Sẽ đến con ạ, - người thủy thủ bình thản trả lời. - Nếu ông già ấy đã nói với con như vậy, có nghĩa là mọi điều sẽ diễn ra đúng như thế.
“Khi nào lớn, con bé sẽ quên thôi, - Longren thầm nghĩ, - còn bây giờ... bây giờ thì không nên tước bỏ của con một thứ đồ chơi đẹp đẽ như vậy. Sau này con sẽ phải nhìn thấy không phải là cánh buồm đỏ thắm mà là những cánh buồm bẩn thỉu, độc địa, trông từ xa
thì có vẻ đẹp đẽ, trắng trẻo, đến gần thì rách nát, xấu xa. Một người qua đường nào đó đã đùa với con tôi. Có sao đâu! Cũng là một chuyện đùa vui thôi! Không sao cả! Nửa ngày trời vất vả trong rừng rồi con ạ. Còn về chuyện cánh buồm đỏ thắm thì con hãy cứ nghĩ như bố: rồi con sẽ có những cánh buồm đỏ thắm”.
Assol đã ngủ. Longren lấy tẩu thuốc ra hút. Gió đưa khói thuốc bay qua bờ giậu về phía bụi cây mọc bên ngoài vườn. Cạnh bụi cây, ngồi quay lưng lại phía bờ rào là một người ăn mày trẻ tuổi. Câu
chuyện giữa hai bố con đã làm anh ta thấy thú vị. Mùi thuốc lá thơm làm anh ta khấp khởi mừng thầm.
- Ông chủ ơi, cho kẻ nghèo hèn này hút với, - anh ta nói với qua mấy cành lá. - Thuốc lá của tôi mà so với thuốc của ông thì chỉ là cỏ thôi.
- Tôi sẵn sàng cho anh, Longren nói nhỏ, - nhưng thuốc của tôi lại để ở túi bên kia. Mà tôi thì, anh thấy đấy, lại không muốn làm mất giấc ngủ của con bé.
- Ồ, có gì là khó khăn đâu! Nó tỉnh dậy rồi nó lại ngủ, còn người qua đường này thì được thuốc hút.
- Không được đâu, - Longren nói, - dù sao anh cũng đã có thuốc hút, còn đứa nhỏ thì rất mệt. Nếu anh muốn, chốc nữa quay lại.
Người ăn mày khinh bẻ nhổ toẹt một bãi nước bọt, ngoắc chiếc bị lên gậy rồi châm chọc nói:
- À ra đó là công chúa kia đấy. Ông đã nhồi vào đầu nó đủ thứ tàu lạ! Thật là ngớ ngẩn, dở hơi, thế mà cũng gọi là ông chủ!
- Này, nghe đây, - Longren nói nhỏ, - tao có thể đánh thức nó dậy đấy, nhưng chỉ cốt để sửa cho mày một trận thôi. Xéo ngay!
Nửa giờ sau, người ăn mày đã ngồi trong quán rượu bên cạnh khoảng chục người đánh cá. Đằng sau họ là mấy người đàn bà cao lớn, lông mày rậm, tay to và thô. Mấy người này khi thì kéo tay áo chồng, khi thì với tay qua vai họ để lấy rượu uống. Người ăn mày bựa mình kể lại:
- Hắn không cho tôi thuốc lá. Hắn nói với con gái: “Khi con đến tuổi trưởng thành, lúc đó sẽ có một con tàu đặc biệt, buồm đỏ... đến đón con. Vì số phận của con là sẽ được lấy hoàng tử. Con hãy tin lời ông già ấy”. Còn tôi thì nói với hắn: thức nó dậy đi, thức dậy đi mà lấy cho tôi xin ít thuốc. Thế mà hắn lại đuổi đánh tôi.
Ai? Sao cơ? Chuyện gì vậy? - Mấy người đàn bà tò mò nhao lên.
Đám đàn ông hơi ngoái đầu lại, nhếch mép cười khẩy giải thích:
- Hai bố con Longren có lẽ điên dại rồi, anh này kể rằng có phù thủy đến gặp họ, hiểu chưa? Hai bố con họ đang chờ một chàng hoàng tử phương xa đến đây - các bà chớ bỏ lỡ cơ hội tốt! Chàng hoàng tử lại còn đến trên chiếc tàu buồm đỏ thắm nữa chứ!
Ba ngày sau, lúc từ trên phố trở về, Assol lần đầu tiên nghe thấy:
- Ê, con ôn kia, Assol! Nhìn đây! Tàu buồm đỏ thắm đang đến kìa!
Cô bé giật mình quay lại, bất giác đưa tay che trán nhìn ra biển. Sau đó em ngoái nhìn về phía người gọi: cách em chừng hai chục bước là một đám trẻ đang nhăn mặt, thè lưỡi ra giễu em. Assol thở dài rồi bỏ chạy về nhà.
CHƯƠNG 2
GRAY
Nếu Caesar cho rằng thà đứng đầu ở nhà quê còn hơn đứng thứ hai ở thành La Mã thì Arthur Gray có thể không ganh tị gì với mong muốn thông thái ấy của Caesar. Dường như Gray đã sinh ra là một thuyền trưởng, cậu muốn trở thành thuyền trưởng và đã trở thành thuyền trưởng.
Ngôi nhà đồ sộ, nơi Gray sinh ra, bên ngoài trông rất uy nghiêm, nhưng bên trong thì hơi ảm đạm. Phía trước ngôi nhà là vườn hoa và một phần khu vườn. Những loài tulips đẹp nhất màu phơn phớt xanh, tím, hồng xen những đốm đen, đã được trồng thành từng hàng trên thảm cỏ, trông xa như những chuỗi hạt cườm rơi trên mặt đất. Những cây cổ thụ trong vườn như đang mơ màng ngủ dưới ánh sáng lờ mờ bên dòng suối quanh co mọc đầy cỏ lác. hàng rào bao quanh lâu đài này - đó quả thật là một lâu đài - được làm bằng những cột gang xoắn ốc nối với nhau bằng những tấm lưới sắt hình hoa văn. Đỉnh mỗi cột đều xoè ra như hình một bông huệ lớn. Vào dịp lễ, người ta đổ mỡ vào đấy và đốt lên, những ngọn lửa nhỏ ấy dăng thành hàng, cháy sáng trong đêm tối.
Cha mẹ Gray là những kẻ kênh kiệu, bị cầm tù bởi địa vị giàu sang và những luật lệ của cái xã hội đã sinh ra chính họ. Một phần hồn của họ được dành cho những bức chân dung tổ tiên - những người thật ra cũng chẳng đáng vẽ lại làm gì. Phần hồn còn lại được dành cho việc xây đắp kế hoạch sao cho cậu bé Gray lớn lên sẽ nối
gót được cha ông, kéo dài thêm số chân dung dòng họ theo trên tường, sao cho chân dung của cậu cũng có thể được treo lên đấy mà không làm suy giảm thanh danh của gia đình. Khi đặt kế hoạch ấy, cha mẹ Gray đã mắc một sơ xuất nhỏ: Arthur Gray sinh ra là một đứa trẻ có tâm hồn nồng nhiệt, hoàn toàn không thích thú gì với cái gọi là làm vẻ vang dòng dõi.
Tính nồng nhiệt, tính độc đáo khác người của đứa trẻ đã bộc lộ từ khi cậu ta lên tám tuổi. Trong tính cách của cậu bé Gray dạo ấy đã lộ rõ dáng dấp của kiểu người sáng tạo diệu kỳ dám nhận lấy vai trò nguy hiểm nhất mà cũng gây xúc động nhất trong cuộc sống - vai trò người thấy trước tương lai. Có lần cậu bé Gray đặt sát ghế vào tường rồi trèo lên để có thể với tay tới bức tranh vẽ cảnh Chúa Kitô bị hành hình. Gray đã “nhổ” những cái đinh ra khỏi cánh tay đầy máu của Chúa, tức là lấy màu xanh bôi lên chỗ mấy cái đinh (màu xanh ấy cậu đã lấy được ở chỗ người thợ sơn). Sau khi chữa lại như vậy, Gray thấy bức tranh dễ nhìn hơn. Say sưa với việc làm độc đáo ấy, Gray bắt đầu chuyển sang tô màu lên cả chân của Chúa, thì vừa vặn bị bố trông thấy. Ông bố kéo tai, nhấc cậu bé từ trên ghế xuống và hỏi:
- Sao con lại làm hỏng bức tranh thế?
- Con không làm hỏng.
- Đây là tác phẩm của một họa sĩ nổi tiếng.
- Cái đó con không quan tâm bố ạ, Gray trả lời. Con không thể để yên khi trông thấy cánh tay người bị đóng đinh và máu chảy. Con không thích thế.
Ông Lionel Gray cố giấu nụ cười dưới bộ ria mép và không trừng phạt con trai vì nhận ra tính cách của mình trước đây qua câu trả lời của con.
Gray miệt mài tìm hiểu mọi ngóc ngách trong lâu đài, phát hiện ra những điều thật đáng kinh ngạc. Chẳng hạn trên gác thượng, cậu tìm thấy những bộ áo giáp sắt đã gỉ, những cuốn sách bìa bằng sắt, bằng da, quần áo bị mủn và cả một đàn bồ câu. Dưới căn nhà hầm, nơi chứa rượu, cậu đã biết được nhiều điều thú vị về các loại rượu nho như la-phít ma-đe-ra, khê-rét. Ở đây, trong ánh sáng nhờ nhờ tỏa ra từ những khung cửa sổ, chất đầy những thùng to thùng nhỏ đựng rượu. Chiếc thùng lớn nhất, to bè bè chiếm cả chiều dài bức tường phía trước của căn nhà hầm, mặt gỗ sồi trăm tuổi được dùng làm thùng cứ nhẵn thín như là được đánh bóng. Bên cạnh thùng đựng rượu là những chiếc sọt để đầy những chai thủy tinh thấp màu xanh thẫm và xanh lá cây. Trên nền nhà và trên gờ đá có những cây nấm màu xám, thân gầy guộc khẳng khiu; chỗ nào cũng ẩm ướt, mốc meo, rêu bám và một thứ mùi chua chua đến ngạt thở. Ở phía cuối căn hầm có một mạng nhện lớn cứ chiều chiều lại vàng óng lên vì những tia sáng mặt trời chênh chếch chiếu vào. Trong một góc căn nhà hầm có chôn hai thùng rượu Alicant thượng hảo hạng, làm từ thời Cromwell. Và người trông coi kho rượu mỗi lần chỉ cho Gray xem góc nhà trống trải ấy đều không quên kể lại cho cậu bé nghe câu chuyện về một ngôi mộ nổi tiếng, chôn một người tuy đã chết mà còn tinh nhanh hơn cả đàn chó săn. Khi bắt đầu kể, người trông coi kho không quên thử xem vòi rượu ở thùng lớn nhất có còn tốt không. Sau đó ông ta rời khỏi chỗ để chiếc thùng ấy chắc là với một tâm trạng thật nhẹ nhõm khoan khoái, vì những giọt nước mắt sung sướng bất giác hiện ra trong khoé mắt vui vẻ của ông ta.
- Chuyện là thế này, cậu Gray ạ, - Ông Poldichoque ngồi xuống chiếc thùng rỗng, hít thuốc lá và bắt đầu câu chuyện, - cậu có trông thấy chỗ kia không? Dưới chỗ ấy có chôn một thứ rượu mà có lẽ không kẻ nghiện rượu trên đời này sẵn sàng chịu để cắt lưỡi nếu được uống một chén nhỏ thứ rượu đó. Mỗi thùng chứa một trăm lít thứ rượu làm linh hồn ngây ngất, làm cơ thể chết lặng. Rượu đó màu sẫm hơn màu anh đào, dốc ngược chai cũng không chảy ra, nó dẻo quánh lại như thứ kem sữa tốt nhất. Rượu này được đựng trong thùng đóng bằng thứ gỗ mun cứng như sắt. Đai thùng làm bằng đồng đỏ. Trên đai còn khắc dòng chữ bằng tiếng Latin: “Ông Gray sẽ uống tôi khi ông ở Thiên đường”. Người ta tán rộng nội dung dòng chữ đó đến nỗi ông cố của cậu, nhà quý tộc Simeon Gray, đã xây một ngôi nhà nghỉ đặt tên là “Thiên đường”. Ông già nghĩ rằng với cách đặt tên không khéo như vậy cho ngôi nhà, ông có thể kết hợp được câu nói bí ẩn kia với thực tế. Nhưng cậu có biết không? Ông già đã bị chết ngay khi đang phá đai thùng rượu vì bị vỡ tim - Ông đã quá xúc động. Từ độ ấy, không ai dám động đến thùng rượu đó nữa. Mọi người đều tin rằng thứ rượu quý đó đem lại điều bất hạnh. Thực ra thì đến con sư tử đầu người ở Ai Cập ngày xưa cũng không đặt ra những câu thách đố khó xử đến như vậy. ừ mà có lần, con sư tử ấy đã hỏi một nhà thông thái: “Liệu ta có ăn thịt mày như đã ăn thịt mọi kẻ khác không? Mày trả lời đúng thì sẽ được sống”, nhưng điều này, nếu suy nghĩ kỹ càng thì...
- À mà hình như có tiếng rượu ở vòi rỏ xuống, - Poldichoque tự ngắt lời mình, bước nhanh về phía góc hầm, vặn chặt vòi, rồi quay lại với vẻ mặt hớn hở. - Đúng, nếu suy xét kỹ và không vội vàng thì nhà thông thái có thể nói với con quái vật mình sư tử đầu người rằng: “Thôi ta đi uống rượu, ông bạn ạ, rồi ông sẽ quên đi những
điều ngu xuẩn ấy”. “Ông Gray sẽ uống tôi khi ông ở Thiên đường!” Thế là thế nào? Sẽ uống sau khi chết à? Thật là lạ lùng. Vậy thì ông ấy là thánh, ông ấy không uống rượu vang, cũng không uống vốt-ca thường. Cứ cho “Thiên đường” có nghĩa là hạnh phúc đi. Nhưng nếu vấn đề đặt ra như vậy thì hạnh phúc rơi mất nửa giá trị khi người được hưởng hạnh phúc lại còn phải tự hỏi mình: đấy có phải là Thiên đường không? Đấy, vấn đề là ở chỗ đó. Để có thể lấy rượu từ cái thùng ấy mà uống và cười một cách thoải mái, thì cậu bé ạ, cần phải một chân đứng trên mặt đất, một chân đứng lên trời. Còn có giả thuyết thứ ba nữa là: đến một lúc nào đó, ông Gray uống rượu say bí tỉ và dốc cạn hết cả thùng. Nhưng mà thôi, cậu bé ạ, đó không phải là sự thực hiện lời tiên tri mà là một cảnh bê bối ở quán rượu.
Xem lại lần nữa chiếc vòi rượu ở thùng lớn có thật hết chảy chưa Poldichoque kết thúc câu chuyện của mình bằng giọng rầu rĩ, đầy vẻ quan trọng:
- Những thùng rượu này ông tổ của cậu là John Gray mang từ Lisbon về, trên con tàu “Beagle”, vào năm 1793. Tiền mua rượu là hai ngàn {piasters} pi-át vàng. Dòng chữ trên đai thùng là do bác thợ Benjamin Ellian ở Pondisherry khắc. Mấy thùng rượu này được chôn sâu dưới đất khoảng sáu feet rồi phủ đầy tro cây nho. Nhưng thứ rượu này chưa ai được uống, chưa ai nếm thử và sẽ chẳng ai được uống nữa.
- Cháu sẽ uống, bác ạ, - cậu bé Gray vừa nói quả quyết vừa đập mạnh chân xuống đất.
- Ồ, cháu thật là một cậu bé dũng cảm! - Ông già Poldichoque khen ngợi. - Cháu sẽ uống thứ rượu đó trên Thiên đường chứ?
- Đúng thế bác ạ. Thiên đường đây này!... Nó đang trên tay cháu đây này, bác thấy không? - Gray khẽ cất tiếng cười, xoè lòng bàn tay nhỏ của mình ra. Bàn tay mềm mại hứng lấy ánh mặt trời và ngay lúc ấy cậu nắm tay lại. - Đấy, Thiên đường ở đây bác này!... Lúc thì trông thấy, lúc lại không...
Vừa nói thế, cậu bé vừa xoè tay rồi lại nắm tay lại. Thú vị với trò đùa, cuối cùng cậu bé đã bỏ chạy ra khỏi căn hầm, vượt lên trước ông già Poldichoque trên những bậc thang tối dẫn lên hành lang tầng một. Gia đình cấm ngặt Gray xuống nhà bếp. Nhưng sau khi phát hiện ra nơi đây hấp dẫn với những ánh lửa lò, hơi nước, bồ hóng, tiếng xào nấu, tiếng dao thớt và những mùi thơm nức thì cậu bé rất hay lần xuống chỗ ấy. Những người đầu bếp lặng lẽ, nghiêm nghị đi lại trông như những tư tế, những chiếc mũ tròn cao màu trắng nổi lên trên nên tường màu đen đem lại cho công việc của họ một vẻ trang nghiêm. Cũng ở đây, cậu bé Gray trông thấy những chị rửa bát béo núc ních, vui tính đang rửa bát đĩa bên những chậu nước đầy, tiếng đồ sứ, đồ bạc chạm vào nhau lanh canh. Những chú bé còng lưng vác những giỏ lớn đựng đầy tôm, cá, hoa quả. Trên một chiếc bàn bài xếp đầy gà, vịt, chim rừng; cũng ở đấy còn thấy nguyên cả con lợn đã cạo lông, đuôi ngắn ngủn, mắt đã nhắm lại, còn thấy cả những cây cải bắp, đậu, nho khô, đào.
Ở nhà bếp, Gray có phần e dè: cậu cảm thấy một sức mạnh khó hiểu nào đó đang điều khiển cuộc sống trong lâu đài. Những tiếng gọi nghe như những mệnh lệnh, những câu phù chú; mọi động tác của những người làm bếp đều nhanh nhẹn, dứt khoát, chính xác,
tựa như một niềm phấn hứng. Gray còn thấp, chưa nhìn vào được chiếc nồi lớn nhất đang sôi sùng sục, nhưng cậu bé cảm thấy nó đặc biệt đáng trọng vọng. Cậu chăm chú nhìn hai người hầu gái đang vần chiếc nồi ấy, bọt trào ra trên bếp, hơi bốc lên tỏa kín cả căn bếp. Có lần nước sôi trào ra ngoài làm bỏng tay một cô. Da tay lập tức tấy đỏ, móng tay cũng tấy đỏ vì ứ máu, còn Betsy (tên cô gái ấy) thì vừa khóc vừa lấy mỡ bôi lên chỗ đau. Nước mắt trào ra trên gương mặt tròn tròn đầy vẻ sợ hãi của cô.
Gray đứng lặng. Khi mấy phụ nữ khác đang luống cuống bên cạnh Betsy thì cậu bé rất xúc động trước nỗi đau đớn kia, như là chính của mình, mặc dầu cậu không thể cảm thấy cụ thể được nó.
- Chị đau lắm phải không? - Gray hỏi.
- Cậu cứ thử thì cậu khắc biết, - Betsy trả lời, lấy vạt tạp dề che chỗ tay bị bỏng.
Cậu bé cau mày, trèo lên một chiếc ghế đẩu, lấy chiếc muôi dài múc nước đang sôi (hôm đó là thứ nước xúp thịt cừu) rồi đổ lên tay. Cảm giác quá đau đớn bất chợt làm cậu sững lại. Mặt tái mét, Gray tiến lại gần Betsy, giấu bàn tay bị bỏng trong túi quần:
- Em cảm thấy chị rất đau, chị Betsy ạ, - Gray nói, không nhắc gì đến “thí nghiệm” vừa rồi của mình. - Chị đến bác sĩ với em đi. Đến ngay thôi!
Cậu níu áo Betsy kéo đi, trong khi mấy người hâm mộ những kiểu chữa bỏng theo lối gia truyền thì mách cho Betsy đủ thứ thuốc. Nhưng cô gái vì quá đau đã đi theo Gray. Bác sĩ cho thuốc giảm
đau, rồi băng chỗ bỏng lại. Và chỉ sau khi Betsy đi rồi, cậu bé mới để cho bác sĩ xem xét vết bỏng của mình.
Câu chuyện nhỏ ấy đã làm cậu bé Gray mười tuổi và chị Betsy hai mươi tuổi trở nên thân thiết. Cô gái thường giúi đầy túi cậu bé nào bánh, nào táo, còn cậu thì kể lại cho cô nghe những chuyện hay đọc được trong sách của mình. Có lần Gray biết được rằng Betsy không thể nhận lời lấy anh coi ngựa tên là Jim chỉ vì họ không có tiền sắm sửa những vật dụng tối thiểu cho cuộc sống gia đình. Và thế là Gray đã đập vỡ chiếc bình sứ đựng tiền để dành của cậu được tất cả gần một trăm pounds. Gray dậy thật sớm, chờ khi Betsy đi xuống bếp, cậu đã lẻn vào buồng cô gái, nhét túi tiền vào trong rương cô, kèm theo mảnh giấy đề dòng chữ: “Số tiền này là của chị đấy, Betsy ạ. Thủ lĩnh đảng cướp Robin Hood”. Câu chuyện này khiến mọi người làm công dưới bếp xôn xao bàn tán đến mức Gray đành phải để lộ ra rằng chính mình là người đã bày ra trò ấy. Cậu không lấy lại số tiền và không muốn nói thêm về chuyện đó nữa.
Mẹ Gray là người thuộc loại người được cuộc sống sắp đặt theo những khuôn định sẵn. Bà ta sống mơ màng trong một cuộc đời quá ư đầy đủ, mọi ý muốn của một tâm hồn bình thường đều sẵn sàng được thỏa mãn. Bởi vậy bà ta chẳng còn việc gì để làm, ngoài việc trò chuyện với mấy người thợ may, bác sĩ, quản gia. Lòng say mê, gắn bó gần như sùng kính đối với đứa con trai khác thường, có thể nói đã choán hết mọi suy nghĩ của bà, một con người đã bị hoàn cảnh và số phận làm cho chai mòn. Mọi suy nghĩ của bà không tồn tại một cách sống động mà mơ hồ lẩn quất đâu đó làm cho ý chí của bà trở nên uể oải, rã rời. Người đàn bà quyền quý ấy giống như một con công mái ấp trứng thiên nga. Bà ta đau lòng nhận thấy tính cách
tốt đẹp khác thường của đứa con trai. Một tình cảm vừa yêu thương vừa buồn bã nặng nề choán lấy lòng bà mỗi khi bà ôm đứa con trai áp vào ngực mình, nơi trái tim đang nói những điều khác với ngôn ngữ thường, chỉ biểu hiện những hình thức ước lệ của các quan hệ và suy tư. Thế là tác động của đám mây do các tia sáng mặt trời tạo nên một cách khéo léo đã thấm và khung cảnh cân đối của toà nhà và làm mất đi cái vẻ trang nghiêm tẻ nhạt của nó, mắt nhìn nhưng không nhận ra nơi ở, sắc thái bí ẩn cảu ánh sáng giữa sự nghèo nàn tạo ra một sự hài hoà sáng lóa.
Người đàn bà quyền quý ấy có gương mặt và dáng người lạnh lùng như băng giá trước cuộc sống náo nức bên ngoài, có vẻ đẹp dễ làm người ta lánh xa hơn là thu hút - vì trong vẻ đẹp ấy dường như không có sự hấp dẫn nữ tính mà chỉ có sự kênh kiệu của lý trí. Bà Lilian Gray ấy khi còn lại một mình bên con đã hiện ra là một người mẹ bình thường, biết nói với giọng nhỏ nhẹ đầy yêu thương những điều vô nghĩa không thể ghi lại được - sức mạnh những lời ấy là ở trong tình cảm, trong giọng nói chứ không phải ở chữ nghĩa. Bà ta hoàn toàn không thể làm trái ý con một điều gì. Bà tha thứ cho con tất cả, không trừng phạt mắng mỏ gì khi con xuống bếp chơi, chán học, không vâng lời hay bày ra nhiều trò quỷ quái.
Nếu cậu không muốn cắt tỉa cây cối trong vườn thì sẽ không ai chạm đến cây cối. Nếu cậu xin ta tội hay xin ban thưởng cho ai thì có nghĩa là sự việc sẽ xảy ra đúng như thế. Cậu ta có thể cưỡi bất cứ con ngựa nào, dắt bất cứ con chó nào vào lâu đài, có thể vùi đầu trong thư viện, đi chân đất và ăn bất cứ thứ gì cậu muốn.
Bố của Gray dạo đầu cũng ngăn cản con làm như thế, nhưng rồi sau lại thôi, không phải vì nguyên tắc mà vì để chiều theo ý vợ. Ông
ta chỉ thi hành một biện pháp là không cho con cái của những người làm công được ở trong khu vực lâu đài vì sợ rằng gần những đứa trẻ thuộc lớp dưới đó, tính tình khác thường của Gray sẽ trở thành sâu sắc, khó sửa. Nói chung, ông ta hầu như dành tất cả thì giờ để chuyên tâm vào việc phân xử các vụ tranh chấp trong dòng họ bắt đầu từ thời có các nhà máy giấy đến khi các vị ưa tranh giành, cãi vã nhau bị chết. Ngoài ra, công việc của quốc gia, của các trại ấp, việc đọc cho người khác ghi chép hồi ký, đi săn, xem báo, trao đổi thư từ đã làm ông hơi tách biệt với gia đình. Ông ta cũng rất ít khi gặp con trai cho nên đôi khi ông quên cả tuổi con.
Vậy là Gray đã sống trong thế giới của mình. Cậu chơi một mình - thường là trong sân phía sau lâu đài, nơi xưa kia có một tầm quan trọng về mặt quân sự. Đó là một khu đất rộng, còn lại vết tích những thành hào sâu, những tảng đá phủ kín rêu xanh, đầy những bụi cây rậm rạp và các loại hoa dại màu sắc sặc sỡ. Gray chơi ở đó hàng giờ liền, chăm chú quan sát các hang chuột, “chiến đấu” với các bụi cây, quất những con bướm và xây những thành lũy bằng gạch vụn rồi lại phá hủy bằng gậy hay bằng đá ném.
Khi cậu mười hai tuổi, mọi ý thích của cậu, mọi nét tản mạn của tinh thần và mọi khía cạnh của tình cảm bí ẩn đã kết lại thành một nguyện vọng mạnh mẽ duy nhất, không thể nào ngăn lại được. Trước đó, dường như cậu chỉ mới tìm thấy từng phần riêng biệt của mảnh vườn của riêng mình đó là ánh sáng, bóng cây, hoa lá, thân cây to đứng mơ màng và um tùm trong nhiều khu vườn của mình với vẻ hài hoà tuyệt diệu.
Chuyện này đã xảy ra trong thư viện. Tấm cửa cao lắp kính mờ ở phía trên lúc nào cũng đóng im ỉm, nhưng then cửa lại cài hờ hờ,
chỉ cần đẩy tay vào là nó kênh lên và bật ra. Khi lòng say mê nghiên cứu của Gray đã bắt cậu lọt vào thư viện thì cậu đã bị sửng sốt bởi một thứ ánh sáng đầy bụi mà toàn bộ sức mạnh và đặc điểm của nó là những đường hoa văn nhiều màu sắc phía trên kính cửa sổ. Ở đây im lặng ngột ngạt như nước ao tù. Hàng dãy tủ sách sẫm màu kê cách lối đi, sách vứt thành đống. Kia một quyển an bom đang mở với những trang trong bị bong ra. Kia nữa các cuốn giấy buộc dây vàng, từng đống sách màu tối, các tập bản thảo dày cộp, một chồng sách bản vẽ, biểu đồ, hàng loạt sách mới xuất bản, bản đồ. Bìa thì nhiều loại khác nhau: thô kệch, mịn màng, màu đen, xanh lam, xám, dày, mỏng, ngẵn nhụi, ram ráp. Các tủ xếp đầy sách, trông chúng cứ như những bức tường khép kín cuộc đời trong chiều dày của mình. Cửa kính các tủ phản chiếu các tủ khác lấp loáng những chấm sáng nhờ nhờ.
Một quả địa cầu to lớn đóng khung trong đường xích đạo và kinh tuyến bằng đồng giao nhau đặt trên bàn tròn.
Quay ra cửa ra vào, Gray thông thấy một bức tranh lớn ở phía trên cửa. Nội dung bức tranh càng làm cho không khí trong thư viện thêm tù túng ngột ngạt. Bức tranh vẽ một con tàu đang ngả nghiêng trên đỉnh ngọn sóng. Bọt trắng tung cao bên mạn tầu. Con tàu như đang bay lên, lao về phía người xem Mũi tàu dăng cao che lấp cả phía dưới cột buồm. Ngọn sóng bị thân tàu xé đôi tung ra hai bên như đôi cánh buồm căng phồng thấp thoáng hiện ra phía sau mũi tàu như cố chứa hết sức mạnh điên cuồng của cơn dông tố để đẩy con tàu vượt qua con sóng lớn đi nhanh về phía xa. Những đám mây bị xé nhỏ sà xuống mặt biển. Ánh sáng mờ mờ đang đấu tranh một cách tuyệt vọng với bóng đêm đang ập tới. Nhưng đáng chú ý
nhất trong bức tranh ấy là hình ảnh một người đứng ở mũi tàu quay lưng lại người xem. Hình dáng người ấy như đã nói lên tất cả tình trạng, thậm chí tính chất của thời điểm đó. Người đó đứng chân giạng ra, tay vung cao. Với tư thế đó, không thể biết anh ta đang làm gì, nhưng nó buộc chúng ta phải hình dung rằng người ấy đang căng thẳng chú ý vào một cái gì đó ở phía trên boong tàu, noi chúng ta không nhìn thấy rõ. Vạt áo của anh ta bay trước gió, chiếc kiếm đeo bên sườn hất lên cao: trông cách ăn mặc cũng có thể đoán anh ta là thuyền trưởng. Thân hình anh ta nhún nhảy theo sóng ; đầu không mũ, anh ta được thể hiện vào đúng cái giờ phút hiểm nghèo. Anh ta hét lên nhưng để làm gì? Liệu anh ta có trông thấy ai đang ngã không? Liẹu anh ta có ra lệnh quay sang hướng khác, hay tiếng anh ta gọi thủy thủ trưởng bị tiếng gió át đi? Nhiều ý nghĩ khác nhau cứ lởn vởn ám ảnh tâm trí Gray khi cậu ngắm bức tranh này. Chợt cậu cảm thấy bên trái cậu có người nào lạ mặt tàng hình vừa bước tới đứng ngay cạnh. Chỉ cần quay đầu lại là cảm giác kỳ lạ đó sẽ biến mất. Gray biết rõ điều đó. Nhưng cậu không ngừng tưởng tượng mà chăm chú lắng nghe. Một giọng nói không thành tiếng thốt lên vài câu rời rạc khó hiểu như tiếng Malaysia. Có tiếng ầm ầm tựa như cái gì đó sụt lở kéo dài. Tiếng vọng và tiếng gió âm u lan khắp thư viện. Tất cả những âm thanh ấy, Gray đã nghe từ trong người mình. Cậu chợt nhìn quanh, cảnh im ắng trong căn phòng xua tan ngay những tiếng động trong tưởng tượng vừa rồi, cậu không còn can dự vào cơn giông tố trên biển nữa.
Gray nhiều lần đến thư viện ngắm bức tranh đó. Bức tranh ấy đối với cậu đã trở thành lời nói cần thiết trong cuộc đối thoại giữa tâm hồn và cuộc sống, thiếu lời nói đó thì cậu không thể nào tự hiểu được mình nữa. Trong tâm trí cậu bé, biển bao la dần dần được
hình thành. Cậu luôn luôn tưởng tượng ra nó, lục lọi trong thư viện để tìm đọc ngấu nghiến những cuốn sách mà sau cánh cửa vàng của chúng mở ra vầng hào quang xanh sẫm của đại dương. Ở đó có những con tàu đang chuyển động, tung bọt sau bánh lái. Có những con tàu bị mất buồm và cột buồm, bị sóng nuốt chửng và dìm xuống đáy sâu; ở đó thấp thoáng những đàn cá mắt lấp lánh như lân tinh. Có những con tàu bị sóng đánh vào đá ngầm, lắc lư trên sóng đã dịu đi. Một con tàu không người, bị đứt dây chão đang kéo dài cảnh hấp hối cho đến lúc một cơn bão khác phá nó ra thành từng mảnh. Loại tàu thứ ba lấy hàng an toàn ở một bến cảng rồi bốc dỡ ở một cảng khác; đám thủy thủ ngồi bên bàn rượu vui vẻ ca ngợi chuyến đi biển và say sưa uống rượu. Lại còn có những con tàu cướp biển, treo cờ đen với súng ống và âm nhạc. Có tàu nghiên cứu khoa học, quan sát các núi lửa, nghiên cứu động vật và cỏ cây. Có những con tàu với ý đồ đen tối và những cuộc nổi loạn; có con tàu phát kiến và phiêu lưu.
Trong thế giới ấy, vai trò người thuyền trưởng, lẽ tự nhiên, nổi bật lên. Thuyền trưởng là linh hồn, là lý trí, là số phận của cả con tàu. Tính cách của người này ảnh hưởng đến công việc và sự nghỉ ngơi của thủy thủ. Đích thân thuyền trưởng chọn thủy thủ cho con tàu của mình, và đội ngũ ấy nói chung phải đáp ứng được những ý thích của riêng anh ta. Anh ta biết rõ thói quen và hoàn cảnh gia đình của từng người. Trước con mắt mọi người dưới quyền, anh ta có vốn kiến thức sâu rộng, nhờ đó mà có thể điều khiển con tàu, chẳng hạn đi thẳng từ Lisbon đến Thượng Hải trên mặt biển mênh mông. Anh ta chống lại bão táp bằng hàng loạt cố gắng phức tạp, xua tan nỗi sợ hãi bằng cách phát ra những mệnh lệnh ngắn gọn. Tàu dừng lại hay tiếp tục cuộc hành trình là tùy thuộc vào ý muốn
của anh ta, anh ta điều khiển việc ra khơi và chất hàng, tu sửa và nghỉ ngơi, thật khó mà hình dung được hết quyền lực to lớn và sáng suốt của anh ta trong công việc hoạt động không ngừng. Quyền lực ấy hạn chế hay đầy đủ đều tương đương với quyền lực của Orpheus.
Trí tưởng tượng sán lạn của Gray đã hình dung như vậy về vị trí và hoạt động thật sự của người thuyền trưởng. Không một nghề nghiệp nào trên đời này lại có thể hoà hợp tất cả những gì hấp dẫn nhất trong cuộc sống vào một thể thống nhất như nghề làm thuyền trưởng, mà vẫn không loại bỏ những gì riêng tư trong hạnh phúc của từng người. Sự nguy hiểm, táo bạo, quyền lực của thiên nhiên, ánh sáng của miền đất nước xa xôi, sự bí ẩn đầy kỳ diệu, mối tình thoảng qua, gặp gỡ và chia ly, sự nồng nàn hấp dẫn của các cuộc gặp gỡ, các nhân vật, các sự kiện, sự phong phú vô hạn của cuộc sống khi mà cao tít trên bầu trời là chòm sao Thập tự nam, chòm sao Gấu, và tất cả các lục địa đều nằm trong tầm mắt tinh tường mặc dù buồng tàu của anh đầy những thứ cuả Tổ quốc vẫn chưa xa rời anh như sách vở, tranh ảnh, thư từ và những đoá hoa khô quấn trong mớ tóc xoăn mềm mại để trong chiếc bùa bằng da mịn đeo trên bộ ngực rắn chắc.
Mùa thu, khi Arthur Gray vừa mười lăm tuổi, cậu đã bỏ trốn khỏi nhà để bước qua cánh cửa vàng của biển. Ít lâu sau, từ bến cảng Dubelt, con tàu Anselm đã nhổ neo đi Marseilles, chở theo một cậu thiếu niên có đôi bàn tay nhỏ bé trắng trẻo, có dáng vẻ bề ngoài của một thiếu nữ giả trai. Cậu thiếu niên đó là Gray. Cậu có chiếc túi du lịch rất đẹp, đôi ủng da bóng láng mỏng như da găng tay, quần áo may bằng thứ vải sang trọng, đắt tiền.
Trong khoảng một năm, khi tàu Anselm đi Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha thì Gray đã tiêu một phần tiền của mình cho quá khứ là đánh chén, phần còn lại cho hiện tại và tương lai - là thua bạc. Anh muốn trở thành một thủy thủ “lão luyện”. Anh uống rượu hừng hực, tắm thì đứng từ trên cao khoảng hai xa-giên thản nhiên nhảy cắm đầu xuống nước. Dần dần anh mất hết, trừ cái chính là tâm hồn thích bay bổng lạ kỳ, anh không còn yếu ớt mà trở nên cứng cáp, bắp thịt rắn chắc, nước da mai mái đã sạm nắng, cử chỉ mềm mại được thay bằng động tác chính xác của đôi tay lao động. Còn đôi mắt suy tư của anh ánh lên như đang nhìn vào lửa. Cả cách nói của anh từ chỗ nhỏ nhẹ, nhút nhát đã biến thành rắn rỏi, dứt khoát như chim hải âu lao xuống làn nước bắt chú cá đang nghiêng mình lấp lánh.
Thuyền trưởng con tàu Anselm là một người tốt bụng, nhưng lại là một thủy thủ khe khắt. Ông đã nhận chú bé Gray lên con tàu của mình với một thâm ý nào đó. Ông coi nguyện vọng thiết tha làm thủy thủ của Gray chỉ là một ý thích ngông cuồng trong chốc lát, và nghĩ rằng chỉ một hai tháng sau là Gray sẽ phải cúi mặt xuống mà nói với ông: “Thưa thuyền trưởng Hop, cháu đã bị xây xát hết cả khuỷu tay khi leo dây thuyền, cháu bị đau hết cả mạng sườn và lưng, ngón tay không duỗi được nữa, đầu nhức, chân run lẩy bẩy. Những dây chão ướt nặng hàng hai pút này làm trĩu cả tay, những mớ dây rợ, đoạn nối cột buồm... đã hành hạ cơ thể mềm mại của cháu. Cho cháu về với mẹ cháu”. Nghe lời cầu xin tưởng tượng ấy, thuyền trưởng Hop tưởng tượng luôn câu trả lời: “Thôi, cậu muốn đi đâu thì đi, con chim nhỏ của tôi ạ. Nếu đôi cánh của cậu bị dính nhựa thì về nhà cậu có thể lấy nước hoa Rose-Mimosa mà rửa sạch được đấy”. Cái thứ nước hoa tưởng tượng ấy làm thuyền trưởng thấy đắc ý hơn cả,
ông buột miệng nói thành lời: “Phải rồi, cậu hãy về nhà mà kiếm nước hoa Rose-Mimosa!”.
Nhưng rồi đoạn đối thoại tưởng tượng kia ngày càng ít có dịp lặp lại trong tâm trí thuyền trưởng, bởi vì Gray đã đi tới đích mình mong muốn với bộ mặt tái nhợt, đôi môi mím chắt. Anh đã làm mọi công việc nặng nhọc với sự cố gắng lớn lao. Anh cảm thấy ngày càng dễ chịu hơn, khi con tàu khắc nghiệt ấy gần gũi hơn với anh, khi mọi việc lạ trở thành quen thuộc. Có khi dây xích mỏ neo làm anh ngã xuống sàn tàu, dây chão mà anh không kéo nổi làm tuột da tay, cánh buồm ẩm ướt có đính vòng sắt bị gió táp vào mặt anh. Tóm lại toàn bộ công việc thật sự là một thử thách, đòi hỏi phải hết sức chú ý. Nhưng càng thở nặng nhọc, càng mỏi cứng lưng, anh càng luôn luôn giữ được nụ cười coi khinh mọi gian khó. Anh âm thầm chịu đựng những lời giễu cợt, chê bai của các thủy thủ dạn dày để rồi cuối cùng, họ phải thừa nhận anh là người của họ, làm được như họ. Và cũng từ đó anh nhất thiết dùng nắm đấm để đáp lại mọi xúc phạm.
Có lần thuyền trưởng Hop trông thấy anh cuốn buồm thành thạo, đã tự nhủ thầm: “Thế là mày đã thắng cuộc đấy, Gray ạ”. Khi Gray tụt từ trên cột buồm cao xuống, thuyền trưởng gọi anh vào buồng, mở rộng trước mặt anh một cuốn sách đã nhàu nát rồi nói:
- Cháu nghe đây! Bỏ hút thuốc đi! Đã đến lúc cho cháu làm thuyền trưởng được rồi!
Và anh bắt đầu đọc, đúng hơn là nói và gào to những từ cổ xưa về biển trong cuốn sách. Đó là bài học đầu tiên của Gray. Trong vòng một năm, anh đã làm quen với nghề hàng hải, với thực hành,
với cấu trúc tàu, luật đi biển, bản đồ hoa tiêu và cách tính toán. Thuyền trưởng Hop đã bắt tay và xưng “chúng ta” với anh.
Ở Vancouver, Gray nhận được thư mẹ, một bức thư đầy nước mắt và sợ hãi. Anh viết thư trả lời: “Con biết mẹ lo cho con. Nhưng nếu mẹ tận mắt nhìn thấy được như con nhìn, mẹ hãy nhìn bằng đôi mắt của con. Nếu mẹ nghe được như con nghe, mẹ hãy áp tai vào con ốc biển, mẹ sẽ nghe thấy âm thanh muôn đời của sóng. Nếu như mẹ yêu thương tất cả những gì con đã yêu, thì trong thư của mẹ, ngoài tình thương và con người, con có thể thấy cả nụ cười”. Và Gray vẫn tiếp tục cuộc hành trình trên biển cho đến khi con tàu Anselm chở hàng về bến Dubelt. Tranh thủ lúc tàu dỡ hàng, chàng thanh niên Gray, lúc này đã hai mươi tuổi, quyết định trở về thăm lâu đài.
Toàn cảnh lâu đài vẫn như xưa, từng chi tiết nhỏ cũng như cả ấn tượng chung đều vẫn thể, không khác gì năm năm trước đây, chỉ có những hàng cây du còn non trồng phía trước lâu đài là cao lớn hơn, tán lá sum suê hơn.
Những người làm công trong nhà chạy ra đón anh mừng rỡ, cuống quít rồi lặng đi một cách kính cẩn như mới hôm qua gặp gỡ cậu Gray này. Họ chỉ cho anh mẹ anh hiện đang ở đâu. Anh bước lên căn phòng xây cao, nhẹ nhà mở cửa, lặng yên đứng nhìn người phụ nữ tóc bạc vận đồ đen. Bà đang đứng trước tấm ảnh Chúa lầm rầm cầu nguyện. Giọng nói nhỏ nhẹ của bà nghe vang xa như tiếng đập của trái tim. “Cầu Chúa ban phước lành cho những người đi biển, những người lênh đênh ngoài khơi, những người bị ốm yếu, đau khổ, tù đày”. Gray lắng nghe, sau đó anh thấy mẹ nói tiếp: “Cầu cho đứa con trai tôi...” Đến lúc ấy anh mới nói: “Con đây...”
Nhưng rồi anh không thể nói thêm gì nữa. Người mẹ quay lại. Trông bà gầy đi nhiều, gương mặt nghiêm trang của bà bỗng rạng rỡ lên như tuổi trẻ bất chợt trở lại với bà. Bà bước nhanh về phía con trai, bà cười lên thành tiếng, khẽ gọi con, nước mắt trào ra - tất cả chỉ có thế. Nhưng trong giây phút ấy, có lẽ bà đã sống mạnh mẽ hơn, sung sướng hơn so với cả cuộc đời bà trước đây. “Mẹ nhận ra con ngay, con trai yêu quý, bé bỏng của mẹ!”. Và quả thực là Gray lúc này không còn là chàng thanh niên cao lớn nữa. Anh nghe mẹ kể lại cái chết của người cha, rồi sau đó anh tự kể về mình. Bà nghe
con kể mà không phản đối, trách móc một điều gì. Nhưng bà thầm nghĩ rằng cái điều mà Gray cho là cốt lõi của cuộc đời mình thì bà chỉ coi là những thứ đồ chơi mà cậu con trai bà thích chơi mà thôi. Những thứ “đồ chơi” đó là con tàu, biển khơi và các lục địa.
Gray ở lại lâu đài bảy ngày. Đến ngày thứ tám, sau khi mang theo một số tiền lớn, anh trở về Dubelt và nói với thuyền trưởng Hop: “Cám ơn bác. Bác là người bạn rất tốt của cháu. Nhưng bây giờ thì phải chia tay thôi bác ạ, - đến đây anh nắm chặt tay thuyền trưởng như để nhấn mạnh ý nghĩa của lời mình nói. - Bây giờ cháu sẽ đi biển trên một chiếc tàu riêng của cháu, bác ạ”. Thuyền trưởng nổi giận, ông nhổ nước bọt, giật tay ra rồi bỏ đi. Nhưng Gray đã chạy theo, ôm lấy ông. Thế rồi họ đã cùng với toàn đội thủy thủ gồm hai mươi bốn người ngồi bên nhau trong khách sạn ăn uống đủ mọi thứ có trong quầy hàng và trong nhà bếp, hò hét, hát hỏng.
Ít lâu sau, trên bến cảng Dubelt, những vì sao đêm đã lấp lánh trên bóng đen của một con tàu mới. Đó là con tàu Gray mới mua. Con tàu có tên là Bí mật, có ba cột buồm và chở được hai trăm sáu mươi tấn. Trước khi số phận đưa đẩy anh đến thị trấn Liss, Gray đã vừa là chủ vừa là thuyền trưởng của con tàu ấy được bốn năm. Nhưng anh mãi mãi ghi nhớ tiếng cười yêu thương của mẹ khi gặp anh và năm nào anh cũng về thăm nhà đôi ba lần, đem lại cho người mẹ già tóc bạc niềm tin mơ hồ rằng cậu con trai to lớn kia chắc là đã điều khiển được những thứ “đồ chơi” của mình.
CHƯƠNG 3
RẠNG ĐÔNG
Con tàu Bí mật của Gray rẽ sóng, bọt tung lên vạch trên đại dương một vệt trắng và tắt dần trong ánh lửa đêm lấp loáng của thị trấn Liss. Tàu thả neo cách ngọn đèn biển không xa.
Mười ngày liền người ta dỡ vải đũi, cà phê, chè từ tàu Bí mật xuống bến. Ngày thứ mười một, các thủy thủ lên bờ nghỉ ngơi, vui chơi. Đến ngày thứ mười hai Gray hết sức buồn rầu mà không có lý do nào, anh không hiểu tâm trạng của mình.
Ngay buổi sáng sau khi thức dậy, Gray cảm thấy rằng ngày hôm nay sẽ bắt đầu dưới những đám mây đen. Anh uể oải mặc quần áo, miễn cưỡng ăn sáng, quên cả đọc báo, rồi lấy thuốc ra hút liên miên, đắm mình trong cái thế giới căng thẳng không mục đích khó tả. Những ước muốn chưa được chấp nhận lởn vởn giữa những cố gắng ngang nhau. Anh quyết định làm việc.
Cùng với thủy thủ trưởng, Gray đi kiểm tra tàu, cho buộc căng dây buồm, nới cáp lái, cọ sạch lỗ dẫn cáp, thay buồm, quét nhựa boong tàu, thông gió hầm tàu, lau la bàn. Nhưng công việc không làm cho Gray khuây khỏa. Cả ngày hôm đó Gray cảm thấy bồn chồn, lo âu pha lẫn nỗi bực bội dường như có ai đã hẹn anh đi đâu đấy nhưng anh lại quên khuấy đi mất ai hẹn và hẹn đi đâu.
Buổi tối, anh ngồi trong buồng tàu, lấy sách ra đọc, ghi bên lề sách những ý kiến phản bác lại tác giả. Trò tiêu khiển bằng cách nói
chuyện với người chết có quyền lực ở dưới nấm mồ chỉ làm anh thú vị được một lúc. Sau đó anh lại lấy tẩu thuốc ra, thả mình theo làn khói xanh, trầm ngâm giữa những đường viền huyền ảo hiện ra trong lớp khói bồng bềnh.
Thuốc lá có sức mạnh ghê gớm, như dầu đổ xuống những con sóng đang vọt lên, làm dịu đi cơn điên loạn của chúng. Thuốc lá giảm bớt sự kích động của tình cảm, đưa chúng về nhịp điệu thấp hơn, để chúng vang lên nhịp nhàng hơn và có nhạc điệu hơn. Vì vậy, sau khi hút ba tẩu thuốc, nỗi buồn của Gray chuyển thành sự lơ đãng trầm tư. Cảm giác ấy kéo dài chừng một giờ đồng hồ. Khi những phút mơ màng đã qua đi, Gray chợt bừng tỉnh, anh muốn đi đi lại lại và bước ra boong tàu. Đêm đã xuống từ lâu bên mạn tàu, trong làn nước đen thẫm lấp lánh những vì sao và những ánh đèn trên cột buồm. Bầu không khí ấm áp đậm đà hương biển. Gray ngẩng đầu lên, nheo mắt nhìn một vì sao. Trong giây lát, vượt qua triệu triệu cây số, ánh sáng vì sao xa hiện ra trong mắt anh. Tiếng ồn ào xa xa của bến cảng ban đêm đã vang lên rõ nét trong vụng biển. Thỉnh thoảng có câu nói từ trên bờ lướt theo gió, truyền lan trên làn nước nhạy cảm, vọng đến trưởng như tiếng người nói ở ngay trên boong, nó vang lên rồi tắt đi trong tiếng kẽo kẹt của dây chão. Phía mũi tàu có ánh diêm bật lên, soi rõ bàn tay, đôi mắt tròn và bộ ria mép. Gray huýt sáo, đốm lửa ở tẩu thuốc chuyển động, tiến lại gần anh. Một lát sau thuyền trưởng nhận ra trong bóng tối gương mặt và đôi tay người trực nhật. Gray nói
- Anh nhắn Letika lát nữa đi theo tôi. Bảo anh ta nhớ đem theo cần câu.
Anh trèo xuống chiếc thuyền nhỏ bên mạn tàu, ngồi chờ ở đấy chừng mười phút. Letika, một chàng trai nhanh nhẹn, ranh mãnh, đưa xuống cho Gray đôi mái chèo. Sau đó anh ta cũng xuống thuyền, đặt túi đựng thức ăn lên sàn, Gray ngồi vào chỗ lái.
- Thuyền trưởng ra lệnh đi đâu đấy ạ? - Letika vừa hỏi vừa đảo mũi thuyền bằng cách khỏa mạnh một bên mái chèo xuống nước.
Thuyền trưởng im lặng. Letika hiểu ngay rằng không nên hỏi thêm câu gì, anh im lặng chèo mạnh.
Gray lái thuyền ra khơi, sau đó anh bơi về phía bên trái. Đối với anh, thuyền đi về phía nào cũng được. Chỉ có tiếng mái chèo khỏa xuống nước, tiếng bánh lái rẽ nước, còn xung quanh là biển đêm yên lặng.
Trong một ngày trời, con người đã gặp biết bao ấn tượng, biết bao ý nghĩ, lời nói, mà nếu ghi lại chắc sẽ thành không phải chỉ một cuốn sách dày. Gương mặt mỗi ngày có những đường nét nhất định. Nhưng hôm nay Gray đã bất lực khi cố bắt lấy dáng hình của nó. Những tình cảm mơ hồ khó có tên gọi đã hiện lên trên gương mặt ấy. Dù có gọi chúng bằng từ ngữ gì thì cuối cùng chúng vẫn mơ hồ, mông lung như hương thơm của loài hoa. Lúc này, Gray cũng đang ở trong tâm trạng đó, thực ra anh có thể nói rằng: “Tôi đang chờ, tôi đang thấy và sắp được biết...” - nhưng ngay cả những lời này cũng chẳng nhiều nhặn gì hơn những bản vẽ chi tiết đối với một ý đồ kiến trúc. Trong những xu hướng đó còn có cả sức mạnh của sự hưng phấn tươi tắn.
Phía bên trái con thuyền họ đang bơi, bờ biển hiện ra thấp thoáng sau màn đêm gợn sóng. Phía trên những tấm kính cửa sổ
sáng đèn, các tàn lửa bắn lên từ các ống khói. Đó là làng Kaperna. Gray nghe loáng thoáng có tiếng người cãi nhau và tiếng chó sủa. Ánh lửa trong làng trông xa tựa như cánh cửa lò với những lỗ thủng mà qua đó có thể thấy than đang cháy hồng. Phía bên phải là biển yên lặng như một người đang ngủ. Qua làng Kaperna, Gray cho thuyền ghé vào bờ. Sóng đều đều vỗ nhẹ vào bờ. Châm đèn bão lên, Gray nhìn thấy một chỗ trũng, bên trên là bờ vách nhô ra cheo leo. Anh cảm thấy thích.
- Ta sẽ câu cá ở đây thôi, - Gray vừa nói vừa vỗ vai Letika.
Người thủy thủ “hừm” một tiếng rồi làu bàu: “Lần đầu tiên mình đi biển với một thuyền trưởng như thế này. Ông ta thạo việc, nhưng kỳ cục làm sao. Thật là một thuyền trưởng quá cầu toàn. Nhưng mình vẫn yêu mến ông ta”.
Anh ta cắm mái chèo xuống bùn để neo thuyền lại, rồi cả hai người bám vào những mỏm đá lởm chởm phía dưới đầu gối và khuỷu tay để trèo lên cao. Một cánh rừng rậm trải dài tới bờ vách ấy. Letika lấy rìu đẵn mấy cành cây khô rồi nhóm lửa trên bờ. Những cái bóng và ngọn lửa phản chiếu dưới nước chuyển động, cỏ xanh và cành lá sáng lên trong bóng tối bị đẩy lùi, phía trên đống lửa, không khí quện khói lấp loáng, run rẩy.
Gray ngồi bên đống lửa.
- Nào, - anh vừa nói vừa chìa chai rượu ra, - nào ta uống đi, anh bạn Letika, uống vì sức khoẻ của tất cả những người không nghiện rượu. À mà cậu đem đi rượu gừng, chứ không phải là rượu quinine rồi.
- Xin lỗi thuyền trưởng, - người thủy thủ vừa đáp vừa thở mạnh. - Cho phép tôi nhắm với thứ thức ăn này... - Anh ta gặm ngay nửa con gà con, rồi nhè miếng cánh ra, tiếp tục nói: - Tôi biết thuyền trưởng thích thứ rượu quinine, nhưng vì lúc ấy tối quá mà lại vội nữa nên tôi lấy nhầm phải chai rượu gừng. Thuyền trưởng biết đấy, gừng làm con người ta ngổ ngáo. Khi nào cần phải đánh nhau, tôi đều uống rượu gừng.
Thuyền trưởng vừa uống vừa ăn. Letika liếc nhìn anh, rồi không gìm được, bèn hỏi:
- Thưa thuyền trưởng, có thật là thuyền trưởng xuất thân từ một gia đình quyền quý không?
- Cái đấy chẳng có gì đáng lưu tâm cả, Letika ạ. Cầm cần câu mà câu đi, nếu cậu muốn.
- Còn thuyền trưởng thì sao?
- Tôi ấy à? Không biết, cũng có thể. Nhưng mà... chốc nữa sẽ hay.
Letika lấy cần câu ra, rồi theo thói quen, ứng khẩu một tràng thành vần (điều thường vẫn làm bạn bè thán phục):
- Cước đây ta buộc vào cần, lưỡi câu buộc tiếp lần lần ta câu.- Anh ta lấy mồi giun trong hộp ra rồi đọc tiếp: - Chú mày ẩn dưới đất sâu, cuộc đời kỳ thú còn rầu nỗi chi. Bây giờ chịu móc câu đi, chốc nữa tụi cá nó ghì nó ăn. - Cuối cùng anh ta vừa đi vừa nghêu ngao: - Đêm đen vắng lặng, rượu ngon tuyệt vời, cá chiên cuống cuồng, cá trích chết giấc - kìa Letika, hắn đang đợi ta!
Gray nằm lại bên đống lửa, nhìn ánh lửa in hình dưới làn nước. Anh miên man nghĩ ngợi, không để lý trí can dự vào. Trong trạng thái này, ý nghĩ chỉ lờ mờ lưu giữ thực tại, thấy nó một cách mơ hồ, ý nghĩ đó lao vút lên như một con ngựa trong đám đông chật chội, vừa chèn, vừa xô, vừa ngăn chặn. Sự trống rỗng, sự bối rối và sự ngưng đọng lần lượt đến với nó. Nó lang thang trong linh lồn của sự vật, vội vàng chuyển từ xúc động mạnh sang bóng gió thầm kín, nó lượn quanh trái đất và bầu trời, chuyện trò sôi nổi với các nhân vật tưởng tượng, xoá đi và tô điểm cho những kỷ niệm. Trong sự chuyển động mơ hồ này, mọi cái đều sinh động, rõ ràng, và mọi cái đều thiếu mạch lạc như hoang tưởng. Và nhận thức được buông lơi luôn mỉm cười khi thấy chẳng hạn đang suy nghĩ về số phận bỗng dưng lại nghĩ đến một hình ảnh hoàn toàn không thích hợp: một cành cây gãy cách đây hai năm. Nằm bên đống lửa, Gray suy nghĩ, nhưng anh “ở đâu ấy” chứ không phải đang ở đây.
Khuỷu tay dùng để tựa, cánh tay dùng để nâng đầu đã bị ướt và tê đi. Các vì sao tỏa sáng nhợt nhạt. Bóng tối thêm dày, báo trước buổi rạng đông. Thuyền trưởng thiu thiu ngủ, nhưng anh không hề biết điều đó. Anh bỗng thấy thèm uống rượu, anh nhoài người với chiếc túi, lần cởi ra trong mơ. Sau đó anh không nằm mơ nữa mà ngủ rất say. Hai giờ sau đó đối với Gray cũng chẳng dài hơn những giây phút anh ngả đầu xuống bàn tay. Trong khoảng thời gian đó, hai lần Letika quay về chỗ đống lửa, hút thuốc và tò mò nhìn vào miệng những con cá câu được xem có gì không. Nhưng dĩ nhiên là chẳng có gì.
Khi tỉnh dậy, trong giây lát Gray quên mất không biết vì sao mình lại ở chốn này. Anh ngạc nhiên thấy những tia nắng sớm mai vui
tươi, bờ biển dựng đứng và những tán lá rực rỡ, xa xa bừng sáng một màu xanh. Trên đường chân trời và cũng là phía trên chân anh lơ lửng những cành dẻ. Phía dưới bờ vách, dường như ở ngay dưới lưng anh, là tiếng sóng vỗ rì rầm. Những giọt sương thấp thoáng trên cành lá rơi xuống khuôn mặt ngái ngủ của anh, mát lạnh. Anh đứng dậy. Xung quanh chan hoà ánh sáng. Những cành khô cháy dở chỉ còn leo lét khói. Mùi khói làm cho khoái cảm được thở hít không khí của rừng cây có thêm một vẻ đẹp hoang dã.
Letika không có đấy. Anh ta đã đi câu say sưa như một con bạc khát nước, mồ hôi đầm đìa. Gray bước ra khỏi cánh rừng, đi về phía những bụi cây thấp mọc trên sườn đồi thoai thoải. Cỏ bốc hơi âm ấm. Những bông hoa ướt đẫm trông như bọn trẻ con bị tắm nước lạnh. Thế giới màu xanh thở hít bằng vô vàn cái miệng nhỏ xíu là vướng chân Gray trong cảnh đua chen náo nức. Thuyền trưởng bước ra một chỗ trống, cỏ hoa sặc sỡ, và nhìn thấy một cô gái đang ngủ.
Anh nhẹ nhàng gạt cành lá trước mặt sang một bên rồi dừng lại với cảm giác là vừa tìm ra một cái gì đó nguy hại. Cách anh chưa đầy năm bước là Assol đang nằm nghiêng, chân duỗi, chân co, đầu gối lên cánh tay, vẻ mệt mỏi. Tóc cô để xõa, chiếc cúc áo phía trên không cài để lộ làn da trắng mịn, chiếc váy xòe ra để hở đến đầu gối, hàng mi dài, món tóc màu sẫm che một phần thái dương, ngón út bên tay phải cô gối đầu lên bị gập lại dưới gáy. Gray quỳ xuống ngắm nhìn cô gái, và không ngờ rằng lúc ấy trông chàng giống như thần Faun trong tranh của Arnold Bocklin.
Có thể là trong một lúc nào khác, Gray chỉ nhìn thấy cô gái bằng đôi mắt thường, nhưng lúc này anh nhìn thấy cô một cách khác.
Lòng anh nôn nao, xao động. Đương nhiên anh không biết cô là ai, không biết tên, càng không biết vì sao cô ngủ bên bờ biển, nhưng anh cảm thấy rất hài lòng. Anh yêu thích những bức tranh không có lời giải thích nội dung. ấn tượng từ bức tranh như thế bao giờ cũng mạnh mẽ hơn nhiều, không bị ràng buộc bởi từ ngữ, nội dung của nó trở nên sâu xa vô tận, khẳng định mọi ý nghĩ, mọi dự đoán.
Mặt trời đã lên cao mà Gray vẫn trong tư thế ngồi không thuận ấy. Cô gái ngủ say đến mức dường như từ mái tóc đến làn áo, đến cỏ cây xung qunah cũng đều ngủ theo cô. Tràn trề ấn tượng, Gray như hoà mình vào làn sóng ấm áp đang dâng lên trong anh và bơi theo sóng. Đã từ lâu Letika gọi: “Thuyền trưởng ơi, anh ở đâu?”- nhưng thuyền trưởng vẫn không nghe tiếng.
Cuối cùng, khi Gray đứng dậy, bản tính ưa thích những chuyện khác thường đã xâm chiếm anh một cách bất ngờ với thái độ cương quyết và hăng hái của một người phụ nữ nổi giận. Anh trầm ngâm tháo chiếc nhẫn cổ quý giá khỏi ngón tay, không hề suy nghĩ rằng chưa chừng cái vật này đang mách bảo cho cuộc sống một cái gì đó thực quan trọng. Anh nhẹ nhàng lồng chiếc nhẫn vào ngón tay út của cô gái để lộ ra bên gáy. Ngón tay bất giác động đậy rồi thõng xuống. Nhìn gương mặt cô nữa, Gray quay đi và bỗng thấy Letika đứng sau bụi cây, đôi lông mày rướn lên. Letika há hốc miệng kinh ngạc theo dõi cử chỉ vừa rồi của Gray.
- Letika đấy à! - Gray nói. - Cậu thử nhìn cô ta xem. Thế nào, đẹp đấy chứ?
- Thật là một bức tranh tuyệt vời! - chàng thủy thủ thích nói văn hoa khẽ thốt lên. - Tôi câu được bốn con cá và một con gì to tròn
như cái bong bóng.
- Khẽ chứ, Letika. Ta đi khỏi đây thôi.
Hai người đi về phía bụi cây. Lẽ ra lúc này họ phải quay về chỗ để thuyền, nhưng Gray chần chừ đưa mắt xa xa về phía bờ biển thấp, nơi có những làn khói ban mai của làng Kaperna tỏa ra bên trên cây cối và nền cát. Anh lại thấy hình ảnh cô gái hiện ra qua làn khói.
Lúc ấy, Gray bèn đi thẳng về hướng làng. Letika không hỏi vì sao lại thế, chỉ lặng lẽ bước theo sau. Letika cảm thấy rằng những phút phải im lặng lại đến. Một lát sau, khi đến gần những ngôi nhà đầu tiên, Gray bỗng cất tiếng hỏi:
- Letika, với kinh nghiệm của cậu, cậu thử xác định xem nhà nào có thể là quán rượu?
- Chắc là cái nhà mái đen đen kia, - Letika phỏng đoán, - mà cũng có thể không phải nó.
- Thế cái nhà mái đen ấy có gì đặc biệt?
- Chính tôi cũng không biết, thưa thuyền trưởng. Đó chỉ là do trái tim mách bảo thôi.
Hai người đi đến ngôi nhà đó, quả thật, đó là quán rượu của Menners. Trên chiếc bàn kê cạnh cửa sổ mở toang có thể nhìn thấy một chiếc chai, cạnh đó có một người đang đưa những ngón tay đen bẩn mân mê bộ ria mép ngả màu bạc trắng.
Mặc dù còn sớm, trong quán rượu đã có ba người. Ngồi cạnh cửa sổ là bác thợ đốt than có bộ ria vừa được nhắc đến. Ở quãng
giữa quầy hàng và cửa bên trong quán là hai người dân chài đang uống bia và ăn trứng rán. Menners là một gã trẻ tuổi cao lêu đêu, gương mặt buồn tẻ đầy tàn hương, đôi mắt hấp háy, cử chỉ nhanh nhẹn một cách ranh mãnh như vẫn thường thấy ở bọn người chuyên buôn bán. Y đang đứng sau quầy lau bát đĩa. Dưới ánh mặt trời buổi sáng, bóng song cửa sổ in trên nền nhà bẩn thỉu.
Gray vừa bước vào gian phòng đầy khói thì Menners đã lễ phép cúi chào rồi bước ra khỏi quầy. Y lập tức đoán ra Gray là một thuyền trưởng thật sự - loại khách chẳng mấy khi ghé vào quán rượu của y. Gray gọi rượu rum. Trải trên bàn tấm khăn đã ngả màu cháo lòng, Menners đem chai rượu đến, đưa lưỡi liếm thử vào chỗ nhãn chai và bóc ra. Sau đó y quay trở vào sau quầy, lúc thì nhìn Gray chăm chú, lúc thì nhìn lên chiếc đĩa, lấy móng tay cạy miếng gì khô khô bám vào đấy.
Khi Letika đang cầm cốc rượu bằng cả hai tay, khẽ nói chuyện với Gray và nhìn ra ngoài cửa sổ thì anh vẫy tay gọi Menners lại. Menners ngồi ghé lên chiếc ghế, thích chí ra mặt vì được một người sang trọng như Gray gọi đến và nhất là lại gọi bằng cách ra hiệu như thế.
- Chắc anh biết tất cả dân làng ở đây chứ? - Gray bình thản hỏi. - Tôi muốn biết tên cô gái choàng khăn, mặc áo hoa đỏ, tóc sẫm màu hạt dẻ, người tầm thước, tuổi trạc mười tám, đôi mươi. Tôi vừa thấy cô ấy cách đây không xa. Tên cô ấy là gì?
Anh nói những lời này với giọng giản dị, dứt khoát, khiến người nghe không lẩn tránh được trả lời. Menners hơi cảm thấy khó chịu, thậm chí còn cười thầm, nhưng y không dám để lộ ra. Tuy nhiên
trước khi trả lời, y dừng lại nghĩ một lát - chẳng qua chỉ vì cố đoán mà biết được chuyện gì đã xảy ra.
- E hèm, - Menners cất giọng, mắt ngước nhìn lên trần. - Chắc là con Assol “Tàu thủy” đấy mà. Không thể có ai khác. Nó bị dở người đấy.
- Nói rõ hơn xem nào? - Gray lãnh đạm hỏi, uống thêm một ngụm rượu đầy. - Chuyện thật là thế nào?
- Nếu ông muốn, xin ông nghe đây.
Và Menners đã kể cho Gray nghe câu chuyện cách đó bảy năm khi cô bé Assol gặp một ông già chuyên đi sưu tầm chuyện dân gian ở ngoài bờ biển. Thật ra thì câu chuyện đó, kể từ khi người ăn mày khẳng định thêm trong quán rượu này đã bị xuyên tạc méo mó đi nhiều, nhưng cốt lõi của nó vẫn còn nguyên vẹn.
- Từ dạo ấy dân làng bèn gọi nó là Assol “Tàu thủy”, - Menners kết thúc câu chuyện.
Gray bất giác liếc nhìn Letika lúc này vẫn khiêm nhường ngồi im. Sau đó anh đưa mắt nhìn ra ngoài con đường đất bụi chạy qua quán rượu. Đúng vào lúc đó, anh bỗng cảm thấy đầu óc và trái tim mình choáng váng. Trên con đường ấy, anh chợt thấy đi ngược lại phía anh chính là cô gái Assol “Tàu thủy” mà tên chủ quan vừa khinh bỉ nhắc đến. Gương mặt đẹp tuyệt vời của cô giống như sức mạnh bí ẩn trong những lời nói giản dị đầy xúc động của con người. Gương mặt cô hài hoà tuyệt diệu với ánh mắt trong sáng. Letika và chủ quán đều ngồi quay lưng lại cửa sổ. Để cho họ tình cờ không quay lại nhìn Assol, Gray đã có đủ can đảm nhìn sang đôi mắt màu hung
của Menners. Ngay sau khi anh nhìn thấy ánh mắt Assol, những lời đơm đặt xấu xa của chủ quán đã lập tức bị xua tan. Lúc ấy, không hay biết điều gì vừa xảy ra, Menners nói tiếp:
- Có thể cho ông biết thêm rằng bố cô ta là một tên đê tiện. Chính lão ta đã dìm chết bố tôi như dìm một con mèo. Lạy Chúa, lão ta...
Bỗng một tiếng rống lên bất ngờ từ phía sau cắt ngang lời y. Cặp mắt long lên dữ tợn, người thợ đốt than như chợt tỉnh cơn say, cất giọng hát ồ ồ làm mọi người phải giật mình.
- Ờ, lão lại say rồi, lão già khốn kiếp! - Menners quát lên. - Cút!
Nhưng ông lão đốt than vẫn nghêu ngao hát tiếp như không có chuyện gì xảy ra, rồi để cả ria mép nhúng vào cốc rượu.
Menners tức giận nhún vai:
- Thật là đồ bỏ đi chứ không phải là người nữa, - y nói với vẻ tự đắc của một tên keo kiệt. Lần nào cũng vậy!
- Anh không thể kể thêm gì nữa chứ? - Gray hỏi y.
- Tôi ấy à? Thì tôi vừa nói với ông rồi, bố cô ta là một tên vô lại. Vì nó mà, thưa ông, tôi đã bị mồ côi, ngay từ nhỏ đã phải tự mình kiếm sống...
- Mày nói láo, - bất ngờ ông thợ đốt than lên tiếng. - Mày nói láo ghê tởm, giả dối đến mức làm tao tỉnh cả rượu.
Menners chưa kịp mở mồm thì ông già đã quay sang nói với Gray:
- Hắn nói láo đấy ông ạ. Bố nó cũng là đồ dối trá, mẹ nó cũng cùng một giuộc. Cả họ nhà nó thế mà. Ông có thể hoàn toàn yên tâm: cô ta chắc chắn cũng khoẻ mạnh, bình thường như chúng ta cả thôi. Tôi đã nhiều lần nói chuyện với cô ta. Cô ta đã ngồi nhờ xe ngựa của tôi tám mươi tư lần hay ít hơn một chút. Mỗi khi cô gái đi bộ từ thị trấn về, còn tôi thì đã bán xong than, thế nào tôi cũng cho cô gái đi nhờ xe về làng. Cứ để cho cô ta ngồi. Tôi biết, cô ta là người phúc hậu. Điều đó thật là quá rõ. Tất nhiên cô ta không thèm nói với mày nửa lời, Menners ạ. Nhưng đối với tôi, thưa ông, trong công việc làm than thoải mái, tôi khinh thường miệng thế, điều ong tiếng ve. Cô ta nói năng như người lớn nhưng kỳ quặc lắm ông ạ. Xem ra thì cô ấy cũng nói những điều như chúng ta nói cả thôi, nhưng lại không hẳn giống thế. Chẳng hạn như khi cô ta kể lại công việc của mình. “Bác ạ, cháu kể cho bác nghe nhé, - cô ta vừa nói vừa bá vào vai tôi, như con bướm đậu vào gác chuông. - Công việc của cháu cũng không đến nỗi buồn tẻ, nhưng cháu vẫn muốn nghĩ ra một cái gì đó đặc biệt. Cháu muốn con tàu mà cháu làm bơi được, các tay chèo khỏa nước như thật, sau đó thuyền vào bờ, cập bến rồi ngồi ăn như thật”. Tôi cười khà khà và trả lời cô ta: “Này, Assol này, nghề của cháu là thế nên cháu nghĩ thế, nhưng mà cháu thử nhìn xung quanh xem: mọi người làm việc như điên”. Cô ta nói: “Không bác ạ, cháu biết điều gì cháu biết. Khi người dân chài đánh cá thì họ nghĩ rằng họ sẽ bắt được con cá to nhất, chưa từng ai bắt được”. - “Thế bác thì sao?”- Cô ta cười: “Bác ấy à, bác thì khi xếp than vào giỏ chắc là bác nghĩ rằng chúng sẽ nở thành hoa”. Đấy, cô ta đã nói những lời như thế. Trong giây phút đó, tôi bất giác nhìn vào cái giỏ trống không. Tôi trông thấy hình như có những chồi non mọc lên ở nan giỏ, chúng nở tung, nảy lá khắp giỏ và biến mất. Tôi đã
tỉnh rượu một chút! Còn Menners hắn nói dối đấy. Nói dối không mất tiền. Tôi biết hắn.
Cho rằng câu chuyện đã đi đến chỗ xúc phạm ghê gớm, tên chủ quán bèn đưa mắt lườm ông già rồi lỉnh vào sau quầy hàng, cay đắng hỏi vọng ra:
- Ông có cho gọi thêm gì không ạ?
- Không, - Gray trả lời, rút tiền trong ví ra. - Đi thôi, Letika, cậu ở lại đây nhé và đừng nói gì cả, đến chập tối hãy về tàu. Cậu gắng tìm hiểu mọi chuyện rồi kể lại cho mình. Cậu hiểu chứ?
- Thưa thuyền trưởng tốt bụng, - Letika trả lời với giọng hơi suồng sã, có lẽ vì ngấm hơi rum, - chỉ có thằng điếc mới không hiểu điều đó thôi ạ.
- Tốt lắm. Cậu nên nhớ rằng, trong trường hợp nào cậu cũng không được nói đến mình hay nhắc đến tên mình, nghe chưa? Thôi, tạm biệt.
Gray bước ra khỏi quán. Từ lúc đó anh luôn có cảm giác như phát hiện được điều gì thật khác thường, tựa hồ tia lửa trong cối thuốc súng của Berthold - một trong những cú sụt lở tâm hồn mà từ đó bật lên một ngọn lửa rực sáng - ý nghĩ phải hành động ngay lập tức chi phối anh. Mãi đến khi ngồi vào thuyền, anh mới tĩnh tâm và tập trung suy nghĩ được. Anh vừa cười vừa ngả lòng bàn tay hứng ánh nắng mặt trời, như anh đã từng làm thuở còn bé trong hầm rượu. Sau đó anh khỏa mạnh mái chèo xuống nước, cho thuyền lướt nhanh về bến.
CHƯƠNG 4
ĐÊM TRƯỚC
Bảy năm đã trôi qua kể từ khi ông già Egle, người chuyên sưu tầm thơ ca dân gian, ngồi trên bờ biển kể cho Assol nghe câu chuyện về con tàu với cánh buồm đỏ thắm. Trước ngày tròn bảy năm đó, Assol mang hàng lên cửa hiệu bán đồ chơi theo lệ mỗi tuần một lần, trở về với vẻ mặt buồn rầu. Cô phải mang hàng về. Cô cảm thấy buồn chán đến mức không thể nói ngay được. Mãi đến khi thấy trên nét mặt lo âu của cha hiện lên vẻ chờ đợi một cái gì đó xấu, xấu hơn chuyện đã xảy ra nhiều, thì cô mới bắt đầu kể lại. Đứng bên cửa sổ, ngón tay xoa xoa lên mặt kính, cô lơ đãng nhìn về phía biển.
Lần này, tên chủ hiệu đồ chơi bắt đầu bằng việc giở cuốn sổ tính toán ra và chỉ cho Assol xem số tiền hai bố con đã lấy là bao nhiêu. Cô giật mình nhìn thấy con số đến hàng trăm. “Đây là số tiền nhà cô đã mượn từ tháng chạp đến nay, - tên chủ hiệu nói, - còn đây, cô xem hàng của cô đã bán được bao nhiêu”. Nói xong, y giơ ngón tay chỉ sang một con số khác chỉ có đến hàng chục. “Nhìn cuốn sổ đó, con vừa buồn vừa tức bố ạ. Trông mặt con thấy ông ta, thật cáu kỉnh và thô lỗ. Giá bỏ chạy được thì con thật sung sướng, nhưng nói thật là con không đủ sức nữa vì cảm thấy quá xấu hổ”. Thế rồi ông ta
bảo con: “Này, cô bé ạ, những thứ này chẳng lời lãi gì nữa đâu. Bây giờ người ta đua nhau mua hàng ngoại, đâu đâu cũng bày bán đầy những hàng ngoại, thứ đồ chơi này chẳng ai mua”. Ông ta nói thế, bố ạ. Ông ta còn nói nhiều nữa, nhưng con cứ rối ruột lên chẳng nhớ nữa. Chắc là ông ấy cũng thấy thương hại con nên khuyên con thử đến của hiệu “Hội chợ trẻ em” và “Cây đèn thần của Alladin”.
Nói xong điều chủ yếu nhất, cô gái rụt rè quay lại nhìn bố. Longren ngồi, đầu cúi xuống buồn bã, bàn tay kẹp lại giữa hai đầu gối. Cảm thấy con gái đang nhìn mình, ông ngẩng đầu lên và thở dài, cố nén tâm trạng buồn lo. Cô gái chạy lại bên ông, ngồi xuống cạnh rồi đặt bàn tay nhỏ của mình xuống dưới ống tay áo da của bố. Cô ngước lên nhìn vào mặt bố, cất tiếng cười và kể tiếp với giọng cố làm như vui vẻ:
- Không sao cả đâu bố ạ. Thế rồi con đi khỏi đấy. Con đến một hiệu to lắm, người mua tấp nập. Người ta chen lấn con ghê qua, nhưng rồi con vẫn lách qua được và đến gần người đeo kính, vận đồ đen. Con không nhớ con nói gì với ông ấy, cuối cùng ông ấy cười khẩy, lật xem các thứ trong chiếc làn của con rồi lại gói và trả lại.
Longren bực bội nghe con kể. Dường như ông đã hình dung ra cảnh con gái mình đang bối rối đứng bên quầy hàng bày đầy những thứ đắt tiền, cạnh những khách mua giàu sang. Người chủ hiệu đeo kính nọ đã trịnh thượng giảng giải cho cô gái rằng ông ta sẽ phá sản nếu đi buôn những thứ đồ chơi thô sơ của Longren. Ông ta ngạo mạn và nhanh nhẹn đặt lên mặt quầy hàng cho Assol xem những mẫu đồ chơi ngoại quốc như bộ đồ xếp nhà, cầu xe lửa, ô-tô con, các thứ đồ chơi chạy điện, máy bay, động cơ. Những thứ hàng này
mầu sắc sặc sỡ, hình dáng đẹp đẽ. Theo lời ông ta thì bây giờ trẻ con chỉ muốn bắt chước những gì người lớn đang làm.
Sau đó cô đi rửa bát đĩa, rồi xem lương ăn trong nhà còn được bao nhiêu. Cô không cân đo gì, chỉ ước tính bằng mắt cũng biết được rằng số bột còn lại may lắm mới đủ ăn đến cuối tuần, hũ đường đã cạn đến đáy, lọ đựng chè, đựng cà-phê hầu như đã rỗng không, bơ cũng hết, chỉ có túi khoai tây là còn đầy. Tiếp đó cô lau nhà sạch sẽ rồi định khâu sửa lại chiếc váy may bằng vải cũ. Chợt nhớ là gói vải để đằng sau gương, cô bước tới đấy lấy vải rồi nhìn mình trong gương.
Trong khung gỗ, trên mặt gương sáng là hình một cô gái mảnh dẻ, tầm thước, mặc chiếc áo may bằng vải trắng rẻ tiền điểm những đốm hoa màu hồng. Chiếc khăn lụa màu xám vắt qua vai. Gương mặt đáng yêu. Đôi mắt rất đẹp, hơi quá nghiêm nghị so với lứa tuổi của cô, phản chiếu một tâm hồn sâu sắc. Gương mặt thật là trong sáng; mỗi đường nét trên gương mặt này đều có thể thấy ở nhiều người phụ nữ khác, nhưng khi hoà hợp lại bên nhau thì gương mặt cô gái trở nên thật đặc sắc, thật xinh đẹp. Chúng ta chỉ có thể nói được thế. Vẻ đẹp của cô không thể dùng lời mà tả được, chỉ có thể thu gọn vào một tiếng là: “tuyệt”.
Cô gái trong gương bất giác cũng mỉm cười như Assol. Nụ cười có vẻ buồn. Nhận thấy điều đó, cô bỗng cảm thấy ái ngại hệt như đang nhìn một người con gái khác. Cô áp má vào gương, nhắm mắt lại, khẽ xoa xoa tay lên gương nơi hình bóng mình vừa in. Những ý nghĩ mơ hồ dịu dàng thoáng hiện trong óc cô, cô đứng thẳng người, cười rồi ngồi xuống khâu.
Khi cô gái ngồi khâu, chúng ta hãy thử nhìn cô gần hơn vào nội tâm. Trong con người cô dường như có hai Assol cùng chung sống với một vẻ đẹp thật khác thường. Một Assol là con gái người thủy thủ, người làm đồ chơi trẻ con; một Assol khác lại là bài thơ sinh động với tất cả sự diệu kỳ của nhạc điệu và hình tượng, với bí quyết của những ngôn từ đứng gần nhau, cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều hỗ trợ cho nhau. Cô gái chỉ biết cuộc đời trong phạm vi những điều mình đã nếm trải, nhưng cô lại có khả năng nhìn thấy được ý nghĩa của một trật tự khác vượt ra ngoài những hiện tượng chung. Chẳng hạn, khi nhìn kỹ vào sự vật, chúng ta thấy ở đấy một cái gì đó không phải bằng trực giác mà bằng ấn tượng của con người. Mà đã là của con người thì thật khác nhau. Tương tự như vậy, ta cũng có thể nói rằng Assol đã thấy được cả những cái mà mắt thường không thấy. Thiếu đi đức tính ấy, mọi điều dễ hiểu có thể trở nên xa lạ với tâm hồn cô. Cô biết đọc và rất thích đọc sách, nhưng ngay cả khi đọc sách, cô vẫn cảm nhận được những điều đặc biệt nằm giữa những hàng chữ, như cô đã có khả năng tương tự trong cuộc sống. Thông qua tiềm thức, thông qua tâm trạng phấn hứng đặc biệt, cô đã luôn luôn phát hiện ra những điều khó tả, rất tinh tế nhưng rất hệ trọng, như thể là hơi ấm và sự trong lành. Thỉnh thoảng cô như biến thành một người khác trong hàng mấy ngày liền; sự đối lập về vật chất của cuộc đời bị sụp đổ, như sự yên tĩnh bị phá vỡ, và tất cả mọi cái cô đã thấy, đã trải qua, tồn tại ở xung quanh, trở thành tấm rèm bí ẩn trong cuộc sống hằng ngày. Nhiều lần, lòng đầy xao xuyến, ngại ngần, cô ra bờ biển một mình ban đêm, chờ đón bình minh và quả thực có nhìn thấy con tàu với cánh buồm đỏ thắm. Những giây phút ấy đối với cô thật là hạnh phúc. Nếu chúng ta khó hoá thân vào
những chuyện huyền thoại bao nhiêu thì cô lại khó thoát ra ngoài quyền lực và sức quyến rũ của chúng bấy nhiêu.
Những lúc khác, khi nghĩ lại chuyện xảy ra, cô thật lòng ngạc nhiên với chính mình, không tin những điều mình vừa tin nữa; cô mỉm cười từ giã biển cả và buồn rầu quay trở về thực tại. Giờ đây vừa ngồi khâu, cô gái vừa nhớ lại cả cuộc đời mình. Thật là nhiều điều tẻ nhạt và đơn giản. Cảnh hai bố con sống cô độc đối với cô thật nặng nề. Nhưng trong cô đã hình thành một thói quen rụt rè, một nếp hằn đau khổ, làm cho cô không sao có thể vui lên được. Dân làng giễu cợt cô và nói: “Cô ta bị tâm thần, dở người làm sao ấy!” Cô đã quen với những lời châm chọc đau đớn ấy, nhiều lần cô phải chịu đựng những lời sỉ nhục mà sau đó ngực cô nhức nhối như bị đánh. Assol là cô gái không được ưa chuộng ở làng Kaperna. Tuy vậy nhiều người mơ hồ cảm thấy một cách lạ lùng rằng hình như cô được hưởng nhiều hơn người khác, có điều là bằng thứ ngôn ngữ khác. Trai làng Kaperna ưa thích loại phụ nữ chắc nịch, đẫy đà, da bóng nhẫy, bắp chân trùng trục, cánh tay rắn chắc. Ở đây họ ve vãn nhau bằng cách vỗ lưng, xô đẩy như ở chợ. Lối tỏ tình này hệt như tiếng rống thô lỗ. Assol đối xử với cái môi trường quyết liệt này như những con người có cuộc sống tinh thần tinh tế phải thích nghi với cái xã hội ma quái. Thế là trong tiếng kèn lính đều đều, nỗi buồn ngọt ngào của cây vĩ cầm không đủ sức lôi kéo đạo quân nghiêm nghị ra khỏi đội mgũ. Cô gái không đếm xỉa đến những điều nói ở những dòng trên đây.
Assol miên man nghĩ về cuộc sống, đôi bàn tay nhỏ khéo léo nhanh nhẹn khâu. Khi cắn chỉ, cô đưa mắt nhìn ra xa về phía trước. Nhưng, điều đó không ngăn cản cô khâu thẳng hàng và chính xác
như trên máy khâu. Dù Longren chưa về, cô cũng không thấy lo sợ gì cho cha. Thời gian gần đây, ông thường đi biển ban đêm để đánh cá hay đôi khi chỉ để hóng mát.
Cô gái không sợ, vì biết rằng sẽ không thể có gì nguy hiểm xẩy ra với Longren được. Về phương diện này, Assol vẫn là cô gái bé nhỏ dạo nào cầu nguyện theo cách riêng của mình, sáng sáng thỏ thẻ: “Chào đức Chúa trời !” và tối tối lại: “Chào đức Chúa tạm biệt!” Cô bé nghĩ rằng chỉ cần chào hỏi đức Chúa trời ngắn ngủi như vậy là cũng đủ đức Chúa trời che chở cho cô thoát khỏi mọi điều bất hạnh. Cô đặt mình vào vị trí của đức Chúa trời. Người luôn luôn bận bịu vì công việc của hàng triệu người, vì vậy đối với những điều u ám hằng ngày của cuộc sống, theo ý cô, phải có sự nhẫn nại tế nhị của một người khách đến chơi vào lúc nhà chủ đông người, phải biết chờ đợi chủ và ăn ở tùy theo hoàn cảnh.
Khâu xong, Assol xếp đồ khâu lên chiếc bàn nhỏ ở góc nhà, cởi áo ngoài rồi lên giường đi ngủ. Đèn đã tắt. Một lát sau, cô thấy mình chẳng buồn ngủ chút nào. Tâm trí cô minh mẫn như thể đang là giữa ban ngày, thậm chí cả màn đêm xung quanh cũng trở thành không thật, cả người, cả tâm trí cô lâng lâng, tỉnh táo. Tim cô đập nhanh như tiếng tích tắc của đồng hồ bỏ túi, dường như trái tim đang đập ngay bên gối. Assol bực bội trở mình luôn, khi thì tung chăn ra, khi lại kéo chăn trùm kín đầu. Cuối cùng cô nghĩ được cách làm dễ ngủ, cô tưởng tượng ra mình đang ném những hòn đá xuống nước lấp loáng ánh trăng và ngắm nhìn những gợn sóng tròn loang ra bốn phía. Dường như chỉ chờ thế, giấc ngủ mới đến. Cô mơ màng thấy hình bóng mẹ mỉm cười hiện ra ở đầu giường rồi thiếp đi trong giấc mơ đẹp về một vườn cây hoa nở, nỗi buồn, sự say mê,
ngững bài ca và nhiều điều bí ẩn mà khi chợt tỉnh cô chỉ nhớ được làn nước xanh lấp lánh chạy từ chân lên tim, mát lạnh, khoan khoái. Thấy điều kỳ lạ như vậy, cô nán lại ít phút nữa nơi xứ sở tưởng tượng kia, rồi tỉnh hẳn và ngồi dậy.
Nếu cô gái không thiếp đi được thì giấc mơ đã không đến. Một cảm giác mới mẻ, đầy vui sướng, cảm giác khao khát làm một việc gì đó đã sưởi ấm lòng cô. Cô nhìn quanh hệt như người ta thường nhìn ngôi nhà vừa dọn đến. Một ngày mới đã bắt đầu, trời chưa sáng hẳn, nhưng mọi vật chung quanh đã mờ mờ hiện ra. Phía dưới cửa sổ còn sẫm tối, nhưng phía trên đã rạng sáng. Xa, rất xa ngoài khung cửa sổ lấp lánh ánh sao mai. Biết rằng bây giờ không thể ngủ lại được nữa, Assol mặc áo vào rồi tới bên cửa sổ mở cánh cửa ra. Bên ngoài vắng lặng như tờ, dườg như cảnh yên lặng ấy chỉ vừa mới tới. Những khóm cây xanh xanh thấp thoáng, xa hơn nữa là những hàng cây đang ngủ, phảng phất mùi đất và mùi không khí ngột ngạt.
Vịn tay vào phía trên khung cửa, cô gái nhìn ra ngoài và mỉm cười. Bỗng một cái gì đó, tựa một tiếng gọi xa xôi làm xao xuyến lòng cô, cô như tỉnh dậy một lần nữa và chuyển từ thực tại đã rõ ràng sang một cái gì đó hiển nhiên hơn và chắc chắn hơn. Từ giây phút đó, một cảm giác hân hoan tràn ngập lòng cô. Cũng như khi nghe người khác nói, chúng ta hiểu nhưng nếu nhắc lại những lời ấy thì chúng ta lại hiểu thêm với một ý nghĩa mới hơn, khác hơn. Tâm trạng Assol lúc ấy tương tự như thế.
Cô lấy chiếc khăn lụa mỏng tuy đã cũ nhưng rất hợp với gương mặt, trùm lên đầu, buộc dưới cằm rồi khoá cửa, chạy chân đất ra đường. Xung quanh vắng vẻ, trống trải, nhưng cô cảm thấy mình
như là cả một dàn nhạc mà mọi người có thể nghe được. Vạn vật trở nên thân thiết với cô, làm cô vui sướng. Lớp đất bụi ấm áp mơn man bàn chân cô, cô thở mạnh, khoan khoái. Trong ánh sáng buổi sớm mờ mờ, những mái nhà, những đám mây nom đen sẫm, những bờ rào, bụi cây, vườn rau và con đường mờ mờ ẩn hiện đang thiu thiu ngủ. Vẫn là những cảnh vật ấy nhưng giờ đây trông khác hẳn lúc ban ngày. Tất cả dường như đang ngủ mà cặp mắt vẫn mở, vụng trộm ngắm nhìn cô gái đi qua.
Cô gái mỗi lúc một rảo bước nhanh hơn, vội vã rời khỏi làng. Bên ngoài làng Kaperna là một đồng cỏ trải rộng, tiếp đấy là vùng sườn đồi ven biển mọc đầy những hàng bụi cây hồ đào, cây dẻ. Khi đã đi hết đường cái, rẽ sang con đường mìn hẻo lánh, Assol bỗng thấy quẩn bên chân cô con chó lông đen ức trắng, đôi mắt như biết nói. Con chó nhận ra Assol, nó khẽ kêu lên, uốn éo cái mình. Nó đi bên cạnh cô gái, như thỏa thuận với cô về một điều cả hai đều thầm hiểu. Assol nhìn vào đôi mắt hồ hởi của nó và tin chắc rằng nó có thể nói thành lời nếu không vì những nguyên nhân bí ẩn nào làm nó phải im lặng. Nhìn thấy cô bạn đường mỉm cười, con chó ra vẻ thích chí, ve vẩy đuôi rồi chạy lên phía trước một quãng. Nhưng bất chợt nó thản nhiên ngồi xuống, lấy chân trước gãi gãi vào bên tai vừa bị con bọ nào cắn, rồi sau đó quay trở lại phía làng.
Assol đi vào một bãi cỏ cao đầy sương, đôi tay vuốt nhẹ trên những chùm hoa dại, miệng mỉm cười. Cô chăm chú nhìn vào gương mặt độc đáo của những bông hoa, vào những thân cành mảnh dẻ đan vào nhau, cô dường như nhận ra những dáng vẻ khác nhau của con người - những điệu bộ, sự cố gắng, những cử động, những đường nét và những cái nhìn. Lúc này cô sẽ không ngạc
nhiên nếu như gặp đám rước của bầy chuột đồng, vũ hội của đám chuột vàng, hay trò tiêu khiển thô lỗ của con nhím đi nạt nộ chú lùn đang ngủ. Và đúng là có một chú nhím lông xám chạy ra trên con đường mòn trước mặt Assol, giận dữ kêu lên “phúc... phúc...” như người đánh xe làu bàu với khách qua đường. Assol nói với tất cả những gì cô gặp và thông cảm. “Chào anh bạn bị đau”, - cô nói với cây lưỡi đòng thân bị sâu khoét thành lỗ rộng. “Về nhà mà ngồi nhé”, - cô nói với bụi cây nhỏ mọc lên giữa đường mòn, khẽ móc vào nếp váy cô. Một con cánh cam to đậu trên đài hoa chuông làm cả cành hoa trĩu xuống mà nó vẫn cố trèo lên. Assol nói với cành hoa: “Hất ông khách béo mập ấy xuống đi, cậu ạ”. Và con cánh cam không bám được vào hoa nữa, nó xoè cánh vù bay sang bên cạnh. Lòng đầy rộn ràng, xôn xao, cô đã đến bên sườn đồi thoai thoải. ẩn mình giữa những lùm cây che khuất bãi cỏ, cô cảm thấy mình rơi vào một nơi xung quanh toàn là bè bạn thân thiết - những hàng cây biết trò chuyện với cô bằng thứ giọng trầm trầm.
Đó là các cây cổ thụ to lớn, xen lẫn cây dẻ, cây kim ngân. Cành cây sà xuống, chạm vào tán lá của các bụi thấp. Trên những cành lá sum suê hiện ra những chùm hoa trắng ngần tỏa hương thơm ngào ngạt pha lẫn mùi hương của nhựa thông và sương sớm. Con đường mòn nhỏ đầy những rễ cây ăn nổi lúc võng xuống lúc thoai thoải dốc lên cao. Assol cảm thấy mình như đang ở nhà, cô lắc nhẹ những cành lá xoà thấp, miệng tươi cười chào hỏi từng cái cây như chào người thật. Cô vừa đi vừa nói: “Đây một anh bạn, còn đây lại một anh bạn khác, các bạn của tôi đông quá! Tôi đang đi, đang vội đây, các bạn để tôi đi nhé. Tôi nhận ra các bạn, tôi nhớ và yêu quý tất cả các bạn”. “Các bạn” trang trọng vuốt ve cô, cành lá kẽo kẹt đáp lại cô. Chân lấm đất, cô bước ra bờ vách giáp biển, đứng ngay sát