🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cần Thơ Xưa Và Nay
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Tên sách : CẦN THƠ XƯA VÀ NAY
Tác giả : HUỲNH MINH
Nhà xuất bản : CÁNH BẰNG
Năm xuất bản : 1966
------------------------
Nguồn sách : tusachtiengviet.com
Đánh máy : ptt1106, htrang22, kiqupham, Phạm Dương, ZessX, Quyên Đào, thaogmail, Liên Phạm, Ớt Hiểm
Kiểm tra chính tả : Hương Ngô, Xuân Ngọc, Giang Minh Phương, Hồ Hữu Tín, nhani78, Đỗ Thúy Nhi, Trương Thu Trang
Biên tập ebook : Thư Võ
Ngày hoàn thành : 26/03/2018
https://thuviensach.vn
Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE 4U.ORG
Cảm ơn tác giả HUỲNH MINH và nhà xuất bản CÁNH BẰNG đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá.
https://thuviensach.vn
MỤC LỤC
BIÊN-TẬP ĐẠI-Ý
PHẦN THỨ NHẤT : CẦN-THƠ (PHONG DINH) QUA CÁC THỜI ĐẠI
I. PHONG-DINH KHOẢNG ĐẦU THẾ KỶ THỨ XVIII TỨC HUYỆN TRẤN-GIANG TRONG DƯ-ĐỒ VIỆT-NAM
II. PHONG-DINH DƯỚI TRIỀU VÕ-VƯƠNG NGUYỄN-PHÚC KHOÁT, TRỰC-THUỘC GUỒNG-MÁY HÀNH-CHÁNH LONG HỒ DINH
III. PHONG DINH TRONG CƠN SÓNG GIÓ TÂY-SƠN NGUYỄN CHÚA TRANH HÙNG
IV. PHONG DINH TRONG THỜI CẬN KIM
PHONG DINH DƯỚI TRIỀU GIA LONG
PHONG DINH DƯỚI TRIỀU MINH MẠNG
CẦN THƠ VỚI CHÚA NGUYỄN TRONG KHI TẨU QUỐC PHONG DINH DƯỚI TRIỀU TỰ ĐỨC VÀ THỜI PHÁP THUỘC PHÂN CHIA ĐỂ TRỊ
PHONG DINH THỜI GẦN ĐÂY
TÌM HIỂU HAI TIẾNG CẦN THƠ DO ĐÂU MÀ CÓ ?
PHẦN THỨ HAI : DANH NHÂN
I. MẠC THIÊN TỨ
II. MẠC TỬ SANH
III. CHÁNH LÃNH BINH VÕ DUY TẬP
IV. NGUYỄN VĂN TỒN
V. BÙI HỮU NGHĨA (1807-1872)
https://thuviensach.vn
TRÊN ĐƯỜNG HOẠN
NƠI TÒA TAM PHÁP
ĐOẠN ĐỜI CUỐI CỦA THỦ KHOA NGHĨA
SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
VỀ QUYỂN TUỒNG « KIM THẠCH KỲ DUYÊN »
TRÍCH LỤC ÍT BÀI THƠ CỦA THỦ KHOA NGHĨA
VI. NGUYỄN THỊ TỒN
VII. PHAN VĂN TRỊ (Cử Trị) 1830-1908
VIII. ĐINH SÂM
IX. NGUYỄN THẦN HIẾN (Hội đồng Hiến) 1857-1914
X. LÊ QUANG CHIỂU (Cai tổng Chiểu)
XI. DÂN CHI PHỤ MẪU PHAN VĂN CHI (Nguyên Đốc phủ sứ) TẠM KẾT
NỐI CHÍ NGƯỜI XƯA
PHẦN THỨ BA : DI TÍCH – HUYỀN SỬ – GIAI THOẠI DI TÍCH LỊCH SỬ
NHỮNG NGÔI CỔ MỘ TỌA LẠC TẠI CẦN THƠ
RẠCH CẦU THAM TƯỚNG LÀ NƠI THAM TƯỚNG MẠC TỬ SANH ANH DŨNG CHỐNG TÂY SƠN, ĐỀN NỢ NƯỚC
XÓM BÀ ĐỒ LÀ NƠI TAO ĐÀN, GÓP MẶT CÁC CỤ DANH NHO CỦA XÃ LONG TUYỀN NGÀY XƯA
XƯỞNG ĐÚC TIỀN CỦA NAM TRIỀU Ở MIỀN TÂY
HUYỀN SỬ
SỰ TÍCH ĐÌNH THẦN TÂN AN (thị trấn Cần Thơ)
SỰ TÍCH ĐÌNH THẦN BÌNH THỦY
https://thuviensach.vn
OAI LINH ÔNG ĐIỀU BÁT LÀM CHẤN ĐỘNG ĐẤT TRẤN GIANG
CHUYỆN LẠ TRONG CƠN CỤ THỦ KHOA NGHĨA TỪ TRẦN VÀ THẦN CHỦ THỜ CỤ
MỘT CÁI CHẾT HI HỮU : NUỐT VÀNG TỰ TỬ
CẶP SÓNG THẦN NƠI RẠCH CÁI NAI
CHUYỆN ÔNG THẦY TRUNG THẢ NÓN QUA SÔNG CHUYỆN XƯA TÍCH CŨ
CHUYỆN THỦY THẦN
CẶP CÁ « VỒ CỜ »
CÁ VỒ MA
GIAI THOẠI
TÌM HIỂU ĐỊA DANH BÌNH THỦY – LONG TUYỀN
HUYỆN VĂN – HUYỆN VÕ : HAI DANH TỪ THÚ VỊ TRONG TỈNH CẦN THƠ XƯA
GIANG SAN SÁU THANH VANG BÓNG MỘT THỜI CỦA VUA XE ĐÒ CẦN THƠ
NỮ THIỆN XẠ ĐẤT TÂY THÀNH TỪNG ĐƯỢC BÁO CHÍ THỦ ĐÔ NÓI ĐẾN
PHẦN THỨ TƯ : SINH HOẠT TÔNG GIÁO
CẦN THƠ XUYÊN QUA CÁC GIÁO PHÁI
CÔNG GIÁO
VIẾNG NHÀ THỜ CHÁNH TÒA CẦN THƠ
LỊCH SỬ ĐỊA PHẬN CẦN THƠ
VÀI NÉT VỀ CHỦNG VIỆN Á THÁNH QUÝ NƠI ĐÀO TẠO CÁC VỊ LINH MỤC TƯƠNG LAI
https://thuviensach.vn
CAO ĐÀI GIÁO
PHẬT GIÁO HÒA HẢO
PHẬT GIÁO
CHÙA NAM NHÃ CÓ TIẾNG NHẤT Ở BÌNH THỦY
CHÙA HIỆP THIÊN CUNG – NGÔI CHÙA LINH THIÊNG NHẤT Ở CÁI RĂNG
ĐÀN TIÊN CÁI KHẾ
DU TĂNG KHẤT SĨ
VÀI NÉT VỀ KHẤT SĨ HIỆN ĐẠI HÓA
BẢNG TỔNG KẾT SỐ TÍN ĐỒ CÁC TÔN GIÁO TỈNH CẦN THƠ PHẦN THỨ TƯ
CẦN THƠ VĂN VẬT
HỘI PHỤ HUYNH HỌC SINH
HAI TỜ BÁO ĐẦU TIÊN Ở CẦN THƠ
BỘ MÔN SÂN KHẤU KỊCH TRƯỜNG
SINH HOẠT VĂN HÓA
ĐẸP CẦN THƠ QUA THI CA
TÌM HIỂU PHONG TỤC TẬP QUÁN MIỀN NAM QUA MẤY VẦN CA DAO
PHẦN THỨ SÁU : CẦN THƠ XƯA, PHONG DINH NAY TRÊN ĐƯỜNG PHỤC HƯNG KIẾN THIẾT
BẾN LÊ LỢI NGÀY XƯA
BẾN NINH KIỀU NGÀY NAY
BỜ RẠCH CÁI KHẾ NGÀY XƯA VÀ BẾN NHỊ KIỀU NGÀY NAY VƯỜN THẦY CẦU NGÀY XƯA
https://thuviensach.vn
VÀI NÉT VỀ CẦN THƠ XƯA, CHÂU THÀNH PHONG DINH NAY
DẠO XEM TỈNH LỴ PHONG DINH QUA SỰ GIAO THÔNG, KHU THƯƠNG MẠI
GIÁO DỤC
Y TẾ
SINH HOẠT KINH TẾ
SINH HOẠT XÃ HỘI
THỔ SẢN CẦN THƠ
CÁC NGÀNH CÔNG KỸ NGHỆ
CÁC XÍ NGHIỆP KHÁC
I. KỸ NGHỆ CHẾ BIẾN THỰC PHẨM
II. KỸ NGHỆ SẢN XUẤT VẬT DỤNG
DANH SÁCH CÁC VỊ TỈNH TRƯỞNG CẦN THƠ TỪ THỜI PHÁP ĐẾN VIỆT NAM
TỔNG KẾT
ĐÔI LỜI TÂM HUYẾT VÀ CẢM TẠ
https://thuviensach.vn
HUỲNH MINH
SƯU-TẦM KHẢO CỨU
QUA CÁC TỈNH NAM-PHẦN VIỆT-NAM
CẦN-THƠ XƯA VÀ NAY
SƯU-TẬP TRÊN 40 TẤM ẢNH CỔ KIM
Gồm sáu mục
1. LỊCH-SỬ, ĐỊA-LÝ
2. DANH-NHÂN, LIỆT-SĨ
3. DI-TÍCH, HUYỀN-SỬ, GIAI-THOẠI
4. VĂN-HÓA, NGHỆ-THUẬT
5. SINH-HOẠT, TÔN-GIÁO
6. CẦN THƠ TRÊN ĐƯỜNG PHỤC-HƯNG và KIẾN-THIẾT
CÁNH-BẰNG
TÁC-GIẢ XUẤT-BẢN
1966
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
BIÊN-TẬP ĐẠI-Ý
Tiếp-tục chương trình biên-khảo, để có thể giúp đồng-bào tìm hiểu và mến yêu sông núi nước non nhà, hôm nay chúng tôi hân hạnh trình bày cùng quí độc giả quyển thứ 3 của loại sách sưu khảo về các tỉnh miền Nam nước Việt.
Sau Kiến-hòa và Bạc-liêu hôm nay đến lượt Cần-thơ ra mắt bạn đọc.
Cần-thơ thơ mộng !
Cần-thơ mến yêu !
Cần-thơ ruộng lúa phì nhiêu, sông đầy cá bạc, vườn sai trái lành ! Cần-thơ cảnh vật mỹ-miều, quyện lòng du khách, gợi tình nước non.
Là Thủ-đô kinh tế của miền Tây Nam-Việt, trục giao thông quan trọng, vú sữa nuôi sống quốc gia, Cần-thơ cũng là Thủ đô văn-hóa của miền Nam : ngày xưa từng làm trung tâm chiêu tập khách tao-đàn, một chi nhánh quan trọng của Mạc-gia Chiêu-anh-Các, quê hương của những văn hào lỗi lạc như cụ Bùi-hữu-Nghĩa và cụ Cử Phan-văn-Trị. Cần-thơ sau một thế kỷ
âm thầm lặng lẽ, lại vươn mình lên khôi phục địa vị cũ của mình. Với phong-trào xúc-tiến sự thành lập khu Đại học ở miền Tây, ngôi sao của Cần-thơ sắp chói rạng trên nền trời văn học.
Cần-thơ khói lửa !
Cần-thơ kháng chiến !
Trôi dòng lịch-sử, cùng nước non trải qua bao cuộc thăng trầm, cơn quốc biến, Cần-thơ đã hy-sinh xương máu chống xâm-lăng. Từ những anh hùng Cần-vương chống Pháp như Đinh-Sâm, Nguyễn-Thần-Hiến, đến những du kích quân tầm vông vạt nhọn tạo chiến công oanh liệt ở bưng biền, Cần-thơ xưa và nay đã đóng góp rất nhiều tài nguyên và sinh lực vào cuộc đấu-tranh sống còn của dân-tộc.
https://thuviensach.vn
Âm thầm đóng góp, im lặng hy-sinh, Cần-thơ qua bao nhiêu biến chuyển đã biểu lộ rõ rệt « dân tộc tánh » của người Việt-Nam : ít nói, ham làm, thiết thực hy-sinh hơn là khoe-khoang khoác lác. Có lẽ vì thế mà miền Tây luôn luôn bị bỏ quên. Miền Tây sánh như người mẹ hiền quanh năm cầy cuốc lo nuôi sống cho đại gia-đình, chỉ được những đứa con nhớ đến khi nguy khốn, cần nhờ đến mẹ quay về tìm lẽ sống, nguồn an-ủi và sinh lực ở trong lòng đất mẹ.
Quyển sách này ra đời giữa lúc dải đất mẹ phải chứng-kiến qua bao cảnh khói lửa đau thương, tiếng súng, bom đạn vang rền trong thôn ấp xa xôi hẻo lánh, hiện giờ các đứa con trung-thành của mẹ đang nỗ lực hàn gắn lại tình thương, cùng nhau tranh đấu xây dựng những gì tang thương đổ vỡ, kiến tạo sự thanh bình, phục hưng xứ sở, đưa giống nòi đến bến vinh quang cường thạnh, để làm sống lại lòng đất mẹ thân yêu, bù đắp một phần nào vào chỗ vô tình bạc nghĩa ấy vậy.
Chúng tôi lấy làm sung-sướng trình bày dưới mắt bạn đọc quyển sách « CẦN THƠ XƯA VÀ NAY » về loại sưu khảo để tìm-hiểu và mến-yêu giang-sơn gấm-vóc.
Trong quyển sách này, chúng tôi sưu-tầm tài-liệu vài chỗ và căn cứ theo các bộ sách của chư học-giả, các sử-gia như sau chỉ đứng hoàn-toàn về phương-diện sưu-khảo lịch-sử.
- G. Coedès : Histoire ancienne des Etats Hindouises d’Extrême Orient.
- P. Pelliot : Le Fou-Nam
- E. Aymonnier : Le Cambodge
- Monographie de la province de Can-tho
- Bulletin administratif de la Cochinchine tức là lịch An-Nam thông dụng trong Nam Kỳ 1970 và Đại-Nam Nhất-Thống-Chí
https://thuviensach.vn
v.v...
Quyển Cần-thơ tuy nhiên không sao tránh khỏi những khuyết điểm, qua mọi khía cạnh hoặc danh từ địa phương, phần nhiều sách xưa không ghi rõ.
Mong chư học giả lượng thứ, chỉ giáo trên tinh-thần xây-dựng, bổ khuyết tác phẩm này thêm phần phong phú để sau tục bản.
Chúng tôi rất hoan nghinh những lời hay ý đẹp của quí vị cao minh cùng các sử gia góp công tô-điểm nền văn-hóa dân-tộc.
Viết tại Saigon, ngày 1 tháng 7 năm 1966
HUỲNH MINH
https://thuviensach.vn
PHẦN THỨ NHẤT : CẦN-THƠ (PHONG DINH) QUA CÁC THỜI-ĐẠI
https://thuviensach.vn
TRÊN DÒNG HẬU-GIANG
Cần thơ cảnh đẹp người xinh
Quyện lòng du khách, dợi tình nước-non.
Ảnh Trần-văn-Bê (Phongdinh)
https://thuviensach.vn
I. PHONG-DINH KHOẢNG ĐẦU THẾ KỶ THỨ XVIII TỨC HUYỆN TRẤN-GIANG TRONG DƯ-ĐỒ VIỆT-NAM
Trong khi Saigon nghiễm nhiên là Thủ-đô của miền Nam nước Việt, tỉnh Phong-dinh ở về phía Tây cũng nghiễm nhiên được mệnh danh là Tây đô. Có quá đáng chăng ? – Không, Nếu Saigon còn được xưng tặng thêm với những danh-từ « hoa-lệ », « hòn ngọc Viễn-Đông » thiết tưởng Phong dinh được coi như Thủ-đô của miền Tây kể cũng xứng-đáng phần nào, qua những bằng chứng mà chúng tôi sẽ lần lượt trình bày.
Giữa lúc vua Lê, chúa Trịnh ghìm nhau ngoài đất Bắc, các đời chúa Nguyễn ráo-riết lo củng-cố địa-vị ở đàng trong tức vùng Trung-Phần trở vào Nam. Trên bước đường Nam tiến, đồng thời với việc thôn tính nước Chiêm-Thành bắt đầu từ năm Tân-hợi 1611 đời chúa Tiên là Nguyễn Hoàng (sau truy dâng miếu hiệu là Thái-Tổ Gia-Dũ), trải 7 đời chúa kế tiếp mở bờ cõi lần xuống miền Đồng-nai phì nhiêu. Ấy là các vị chúa :
1. Chúa Sãi Nguyễn-Phúc-Nguyên 1613-1635 (miếu hiệu Hy-Tông Hiếu-Văn).
2. Chúa Thượng Nguyễn-phúc-Lan 1636-1648 (Thần-Tông Hiếu Chiêu)
3. Chúa Hiền Nguyễn-phúc-Tần 1648-1687 (Thái-Tông Hiếu-Triết) 4. Chúa Nghĩa Nguyễn-phúc-Trân 1678-1691(Anh-Tông Hiếu-Nghĩa) 5. Quốc Chúa Nguyễn-phúc-Chu 1691-1725 (Hiển-Tông Hiếu-Minh)
6. Định Quốc Công Nguyễn-phúc-Chú 1725-1738 (Túc-Tông Hiếu Ninh)
https://thuviensach.vn
Hơn một thế kỷ (1623-1739) các chúa Nguyễn ấy nối tiếp nhau thừa lúc Chân-Lạp có nội loạn mà lần hồi thâu phục đất đai. Lại khéo dùng các tướng của nhà Minh lưu vong không phục nhà Thanh như Mạc Cửu, Dương ngạn Địch, Huỳnh Tấn v.v… mượn tay họ khai-thác mà mở rộng dư-đồ nước Việt. Lịch-trình diễn-tiến như sau :
- Năm 1658 mở rộng đất Mô-xoài (Bà-rịa, Biên-hòa)
- Năm 1698 mở mang đất Sàicôn (Gia-định, Saigon)
- Năm 1731 khai triển đất Định-tường (Mỹ-tho) và Long-hồ (Vĩnh long).
Riêng Mạc-Cửu sau khi bình định xong vùng Hà-tiên, năm Giáp-ngọ 1714, Mạc-Cửu dâng đất Hà-tiên và hòn Phú quốc cho chúa Nguyễn-phúc Chu. Đến năm Ất-mão 1735 Mạc-Cửu mất, con là Mạc-thiên-Tứ nối nghiệp, mở mang thêm vùng đất Hậu-giang. Năm Kỷ-vị 1739, hoàn thành cuộc khai thác miền Tây, Mạc-thiên-Tứ lập thêm bốn huyện :
1. Long-xuyên (miền Cà-mau)
2. Kiên-giang (Rạch-giá)
3. Trấn-giang (miền Cần-thơ)
4. Trấn-di (miền Bắc Bạc-liêu)
Thế là từ năm Kỷ-vị 1739, tỉnh Phong-dinh ngày nay vốn là phần đất nằm trong khu vực huyện Trấn-giang xưa, do công Mạc-thiên-Tứ khai hoang.
Bấy giờ Trấn-giang (Cần-thơ) còn là một vùng rừng tràm xen lẫn rừng đước, thú dữ tràn đầy. Thế mà tiền nhân đã dầy công phá rừng mở đất, dần dần biến thành nơi văn-vật, thật đáng cho các thế hệ sau hinh hương sùng bái tinh-thần dũng-cảm ấy, đề cao công-trình vô cùng gian nan khổ nhọc ấy.
Xem lịch sử họ Mạc với công nghiệp mở mang đất Hà-Tiên và bốn huyện miền Tây như đã kể trên, điều nên biết là Mạc-thiên-Tích là bậc anh
https://thuviensach.vn
tài nho-nhã vào bậc nhất trong thời ấy. Vào tướng văn, ra tướng võ, Mạc thiên-Tứ (cũng gọi là Mạc-thiên-Tích) oai danh lừng lẫy, xa gần hoài phục. Ngồi trấn nhậm Hà-Tiên với chức vụ Đô-đốc, Ông xếp đặt xong cuộc trị an, lại còn chú trọng về mặt phát-triển văn-hóa, thiết-lập tao-đàn « Chiêu-anh các », nhóm họp các sĩ-phu văn-học xướng-họa thi-ca, thảo-luận kế-sách giáo-dục quần-chúng, gây nên học-phong sĩ-khí tốt-đẹp vô cùng.
Mạc-thiên-Tứ hết lòng mở mang đất Hà-tiên thế nào, thì ông cũng tận tụy xây-dựng vùng Trấn-giang (Cần-thơ) như thế ấy. Ông đã sáng suốt nhận định tình-hình, xem Trấn-giang là một vị-trí chiến-lược làm hậu-thuẫn cho Hà-Tiên, nên Ông hằng lo lắng xếp đặt cho Trấn-giang ngày càng phát-triển tốt đẹp về mọi mặt. Cho nên, dưới sự chăm-sóc của Ông, Cần-thơ bấy giờ cũng đã có tiếng là đất văn-vật chẳng kém gì Hà-tiên bao nhiêu. Một bằng chứng là khi Hà-tiên lâm nguy vì binh Xiêm công phá (năm Nhâm-thìn 1772), Ông lui ngay về Trấn-giang mà nương tựa, chờ cơ quật-khởi. Và chính con Ông là Tham tướng Mạc-tử-Sanh cũng đã gởi xác nơi vùng Trấn giang trong cơn binh cách, mà khoảng cầu Tham tướng ở Cần-thơ ngày nay là di tích còn lưu để (ở đoạn sau chúng tôi sẽ ghi chép rõ hơn về đoạn lịch sử vị Tham tướng họ Mạc này).
Những chỗ Mạc-thiên-Tích và con là Mạc-tử-Sanh đã đốc-xuất dân quân xây dựng tiền đồn để phòng thủ, cho đến đời vua Minh-Mạng hãy còn dùng đến, tới năm thứ 16 (Giáp-ngọ 1834) mới bỏ đi.
Nơi nào có dấu vết họ Mạc mở mang, nơi ấy thường tấp-nập dân cư vui nghiệp. Nhà cửa phố xá kiến thiết khang trang. Cuộc thương-mại thạnh vượng. Nền kinh-tế vững-chãi, trình-độ văn hóa của dân chúng được nâng cao.
Nhóm « Chiêu-anh-các » do Mạc-thiên-Tứ thành-lập, ngoài 32 nhân vật ưu-tú của Hà-tiên trong đó thành phần gồm có người Việt và người Tàu, ai nấy thảy đều là trang tài tuấn, hào hoa phong-nhã. Cho đến các vị đại-
https://thuviensach.vn
thần như Nguyễn-cư-Trinh cũng phải nghiêng mình thán-phục công-nghiệp của họ Mạc, thường lui tới đàm luận văn-chương thao-lược, xướng họa thi ca với các bậc tài-danh trong nhóm Chiêu-anh-các.
Nằm trong kế hoạch phòng thủ miền Tây, nếu Hà-tiên ví như tiền đồn ngăn ngừa những cuộc công phá của Xiêm-La và Chân Lạp, Trấn-giang tức là miền Cần-thơ bây giờ nghiễm-nhiên là hậu cứ, hẳn là Mạc-thiên-Tứ đã đem biết bao tâm huyết công-phu xây dựng cho vùng này. Và chịu ảnh hưởng chính-trị, kinh-tế, văn-hóa khả-quan, dân-chúng Trấn-giang hẳn đã sống một thời bừng hương sắc đậm đà về mọi mặt.
Huống-chi, bấy giờ huyện Trấn-di tức vùng Bạc-liêu hẻo lánh cũng vẫn được họ Mạc cho di dân đến đấy mở-mang, Bạc-liêu khi ấy mà còn phồn thịnh lên, thì Cần-thơ chắc chắn đã hoa lệ lắm rồi.
Phương-chi, Trấn-giang cũng từng là bãi chiến trường lắm hãi-hùng, tranh-đấu giữa quân dân ta với quân Xiêm-La, Chân-Lạp, và sau này chống với Tây-Sơn khi chúa Nguyễn-Ánh chạy tới đây, nếu mức sinh-hoạt và trình-độ dân chúng Trấn-giang chưa được nâng cao, thì tinh-thần anh-dũng của dân chúng Trấn-giang đâu đã được đề cao như lịch-sử từng ghi chép ?
Do các lẽ trên đây, chứng minh hùng hồn trong thời Mạc-thiên-Tứ làm Đô-đốc trấn Hà-tiên, đất Trấn-giang tức Cần-thơ đã do bàn tay họ Mạc điều khiển dân chúng trong vùng kiến tạo nhiều khởi sắc.
https://thuviensach.vn
II. PHONG-DINH DƯỚI TRIỀU VÕ-VƯƠNG NGUYỄN-PHÚC-KHOÁT, TRỰC-THUỘC GUỒNG-MÁY HÀNH-CHÁNH LONG HỒ DINH
Từ năm Kỷ-Vị 1739, đất-đai Cần-thơ đã được Mạc-thiên-Tứ khai-thác hẳn-hoi, mang danh là huyện Trấn-giang. Cố-nhiên sau đó Mạc-thiên-Tứ đem dâng chúa Nguyễn, sáp-nhập vào dư-đồ Việt, cũng như thân-phụ Ông là Mạc-Cửu đã dâng đất Hà-tiên từ năm 1714.
Bấy giờ chúa trị-vì Đàng Trong 1là Võ-Vương Nguyễn-phúc-Khoát. Hơn hẳn các vị chúa Nguyễn trước, Võ-Vương là bậc anh-minh, hăng-say hoạt-động, thích làm chuyện lớn, mưu tính xa rộng. Theo định-hướng đã trù-hoạch về viễn-đồ đất nước, Ngài hằng phô-trương uy-thế, quyết ý mở rộng lãnh-thổ vào Nam. Tiếp thu thêm phần đất bốn huyện mới khai-thác : Long-xuyên (Cà-mau), Kiên-giang (Rạch-giá), Trấn-giang (Cần-thơ) và Trấn-di (Bạc-liêu), Ngài càng thêm phấn-khởi xây dựng đất nước.
Năm Canh-thân 1740, Ngài định lại phép thi : những người đậu kỳ đệ nhất gọi là nhiêu học, được miễn sai 5 năm ; đậu kỳ đệ-nhị và đệ-tam được miễn sai chung thân ; đậu kỳ đệ-tứ gọi là hương cống, được bổ làm Tri-phủ, Tri-huyện. Do sự đặc-biệt ưu-đãi giai cấp sĩ phu này, dân chúng trong Nam
dần dần cảm phục sẵn sàng phụng sự đất nước dưới quyền lãnh đạo của chúa Nguyễn. Và do Sắc-lịnh canh cải khoa cử này, tạo thêm điều kiện hoạt động mạnh về văn hóa cho nhóm Chiêu anh Các của Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên, Cần Thơ vậy.
Đến năm Giáp Tý 1744, Ngài xưng vương-hiệu (Võ Vương), tổ chức nội các gồm 6 Bộ. Bộ về văn hóa gọi là Hàn Lâm. Đạo vệ binh gọi là Võ Lâm. Chế tạo sắc phục mới cho các quan văn võ trong triều. Lại ra lịnh cho
https://thuviensach.vn
dân gian phải đổi y phục, ăn mặc cho văn vẻ nhu nhã hơn xưa. Chia lãnh thổ ra làm 12 dinh :
1. Chính dinh (Phú Xuân)
2. Cựu dinh (vùng Ái Tử)
3. Quảng Bình dinh
4. Võ xá dinh
5. Bố chánh dinh
6. Quảng Nam dinh
7. Phú Yên dinh
8. Bình Khương dinh (đất Chiêm Thành)
9. Bình Thuận dinh (đất Chiêm Thành)
10. Trấn Biên dinh (miền Nam)
11. Phan Trấn dinh (miền Nam)
12. Long Hồ dinh (miền Nam)
Riêng phủ Quảng Ngãi và phủ Qui Nhơn ở miền Trung thì trực thuộc Quảng Nam dinh ; đất Hà Tiên ở miền Nam thì đặt thành trấn.
Năm sau (Ất Sửu 1745) Ngài cho mua kẽm bên Âu-Châu về chế ra thêm thứ tiền kẽm. Thế là về mặt tiền tệ, dân nước xài hai thứ tiền : tiền đồng và tiền kẽm.
Mọi ngành sanh hoạt vào thời kỳ này được phát triển đồng đều, nhất là nông nghiệp và thương nghiệp khuếch trương, sung-mậu phồn thạnh, tạo cho nhân dân an hưởng được cuộc sống thái bình thạnh-trị.
Gặp hoàn cảnh thuận tiện như thế, trong Nam dưới sự lãnh đạo của vị Đô đốc tài ba như Mạc Thiên Tứ, vùng Trấn Giang tự nhiên cũng được lợi thế phát triển mạnh.
Hơn thế nữa, để hoàn thành công cuộc Nam tiến, đôn đốc các cấp thừa hành ở từng địa phương cần khai thác triệt để các vùng đất phì nhiêu ở miền
https://thuviensach.vn
Nam, đến năm Quý Dậu 1753, Võ Vương phái vị Ký lục Bố chánh dinh là Nguyễn Cư Trinh vào Nam, mưu toan việc lớn.
Quả thật Võ Vương đã sáng suốt dùng người đúng chỗ, Nguyễn Cư Trinh lần lượt thực hiện được mộng lớn của Võ Vương, không phụ lòng kỳ vọng của Ngài chút nào. Nắm quyền Tham mưu, điều khiển tướng sĩ năm dinh : Bình Khương (Khánh Hòa), Bình Thuận, Trấn Biên (Biên Hòa, Bà Rịa), Phiên-trấn (Gia Định) và Long Hồ (Mỹ Tho, Vĩnh Long). Ông thẳng đường nào Nam, đến đâu cũng lập dinh trại, kén sĩ tốt, trù bị cho nhiều để làm kế khai thác. Ông đệ sớ về triều, tỏ bày mưu lược, hiến kế « tàm thực » (tằm ăn dâu), cương quyết nguyện hứa sẽ hoàn thành xong sứ mạng nhà vua giao phó. Võ Vương sẵn lòng chấp thuận, tán trợ sách lược ấy, cho Ông được toàn quyền hành động. Chúa sáng tôi tài, việc chi mà chẳng được ? Thật là minh quân lương tướng tao phùng. Cơ hội ngàn năm một thuở đun đẩy Nguyễn Cư Trinh với nhiều ưu thế thắng lợi, cố nhiên Ông cảm thấy phấn khởi thành toàn chí nguyện biết bao nhiêu.
Huống chi, đã gặp chúa sáng biết tài mà tín nhiệm uỷ thác trọng trách, lại khi vào Nam tiếp xúc với vị Đô Đốc trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ vẫn là trang lỗi lạc phi thường, bảo sao Nguyễn Cư Trinh chẳng thành công trên đường nhiệm vụ.
Xuyên qua việc tương đắc giữa hai trang lương đống anh tài Nguyễn Cư Trinh – Mạc Thiên Tứ hội ngộ nơi miền Nam, đủ nhận thấy thời kỳ này miền Nam thạnh phát đến ngần nào : đặc biệt là miền Tây (Cần Thơ) vùng Hậu Giang hẳn được khuếch trương nông nghiệp đến mức tối đa, để biến miền Tây dần dần thành trung tâm lúa gạo như hiện thời.
Ấy là giai đoạn thứ hai, Cần Thơ chuyển mình vượt tiến trên đà khai thác triệt để tài nguyên, dưới sự điều khiển sáng suốt của những nhà ái quốc thời ấy trong đó có Mạc Thiên Tứ và Nguyễn Cư Trinh. Cả hai vừa đồng chí đồng tâm lại vừa đồng tài đồng sức. Giao vận mạng miền Nam cho
https://thuviensach.vn
Nguyễn Cư Trinh nắm giữ việc khai hoang lập ấp, về mặt quân sự miền Tây có Mạc Thiên Tứ chăm lo với nhiều lợi thế, hơn nữa do Nguyễn Cư Trinh đôn đốc khích lệ càng đắc sách vô cùng.
https://thuviensach.vn
III. PHONG DINH TRONG CƠN SÓNG GIÓ TÂY-SƠN NGUYỄN-CHÚA TRANH HÙNG
Đánh dẹp ngoại xâm khó, nhưng bình-định nội loạn cũng chẳng phải dễ ! Đất nước bị nạn ngoại xâm là thảm họa cho dân chúng, nhưng thê thảm hơn nữa là cảnh đồng chủng tương tàn vì tranh chấp quyền vị. Suốt thời kỳ chúa Nguyễn Ánh và binh Tây Sơn đánh đuổi nhau trong Nam, cho đến khi non sông thống nhất, trải hơn 26 năm (1777-1802) khói lửa đã dập vùi xương máu dân chúng miền Nam nhiều vô số kể, điêu tàn thảm khốc nhất là dân chúng miền Tây. Nào Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ, Cà Mau lần lượt biến thành bãi chiến trường kinh khủng. Nơi đâu có dấu vết Nguyễn Ánh thì ở đấy có cuộc xung sát với Tây Sơn.
Đặc biệt mở màn cho những trận thư hùng ghê rợn giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh sau này, Cần Thơ 2trước đó còn phải trải qua nạn binh Xiêm đánh phá. Ấy là việc xảy ra trong năm Nhâm Thìn 1772. Vua Xiêm là Phi Nhã Tân xua binh sang đánh cướp Hà Tiên. Đô đốc Mạc Thiên Tứ dàn quân chống cự quyết liệt. Binh Xiêm ồ ạt tấn công. Thành trì thất thủ, dân chúng trong thành đều bị giết hại cả. Mạc Thiên Tứ lui giữ Cần Thơ.
Nhờ trước kia đã tiên liệu dự phòng, nên các đồn lũy ở Cần Thơ đủ để họ Mạc nương tựa mà ngăn chống. Binh Xiêm từng đợt tràn tới Cần Thơ đều bị Thiên Tứ đuổi ra khỏi vùng. Tuy nhiên, sinh mạng và tài sản dân chúng chẳng khỏi tổn thất nặng nề.
Vừa yên giặc Xiêm, lại đến chuyện chúa Nguyễn chạy vào Nam. Tin chúa Nguyễn bôn ba tẩu quốc đưa đến Cần Thơ, dân chúng lại một phen thắc thỏm lo âu. Vì người người đều cảm thấy tình hình bất ổn, sớm muộn ắt phải vương họa binh đao thảm khốc nữa chớ chẳng không.
https://thuviensach.vn
Đất Hà Tiên bấy giờ đang ở trong tình trạng tái thiết, vì binh Xiêm đã tàn phá dữ dội nên Mạc Thiên Tứ đóng bản dinh ở Cần Thơ (Trấn Giang). Năm Ất Tỵ 1775, được tin Chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần đã thật sự vào Nam, đóng binh ở Gia Định, Mạc Thiên Tứ lập tức từ Cần Thơ thẳng lên đấy bái yết chúa Nguyễn, nguyện tận tâm tận lực ủng hộ. Chúa Nguyễn cảm động tin cậy nơi Ông, tấn phong Ông làm Quốc lão Đô đốc Quận công. Ông bái trở về Cần Thơ, hiệu triệu dân chúng xướng nghĩa, cùng nhau sẵn sàng hy sinh cho Nguyễn chúa.
Tây Sơn kéo vào Nam giao chiến, chiếm lấy Gia Định. Chúa Nguyễn chạy xuống Cần Thơ, rồi thẳng đường chạy luôn xuống Cà Mau. Mạc Thiên Tứ ra sức chống ngăn Tây Sơn chẳng nổi, đành chạy theo bảo vệ chúa Nguyễn. Con Mạc Thiên Tứ là Mạc Tử Sanh chống nhau với Tây Sơn nơi Cần Thơ, đương đầu nhiền trận kinh hồn. Cuối cùng sa cơ, Tham tướng Mạc Tử Sanh bỏ mình (khoảng rạch Tham tướng, cầu Tham tướng ở Cần Thơ hiện giờ, dấu vết Mạc Tử Thiên vì nghĩa liều mình) 3
Đinh Dậu, Tây Sơn tiến binh thẳng xuống Cà Mau, bắt sống được chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (Duệ Tông), áp giải về Gia Định hành quyết. Người cháu của chúa Định Vương là Nguyễn Ánh thay nắm binh quyền. Mạc Thiên Tứ vẫn trung thành cùng chúa Nguyễn, tách mình sang Xiêm cầu viện, chẳng quản gì hiềm khích cũ khi binh Xiêm đã tàn phá Hà Tiên, Cần Thơ. Bởi thế, Thiên Tứ lâm nguy ở đất Xiêm vì bị vua Xiêm là Phi Nhã Tân nghi ngờ, bạc đãi. Thiên Tứ phẫn uất, tự sát trên đất nước người.
Mất Mạc Thiên Tứ và Mạc Tử Sanh, chúa Nguyễn Ánh mất trang rường cột, khá đau xót và đáng ngại cho bước tiến trình của mình. Tuy nhiên, anh hùng hào kiệt trong Nam bấy giờ hầu hết đều đứng về phe ủng hộ chúa Nguyễn. Đó là sự an ủi và khích lệ nhiều cho chúa Nguyễn vững lòng phấn đấu. Và đó là công trình tuyên truyền cho hiệu quả của Nguyễn Cư Trinh và Mạc Thiên Tứ khi trước vậy.
https://thuviensach.vn
Trên bước đường lưu vong của chúa Nguyễn Ánh khi vào Nam, nếu chẳng có sự dọn đường trước của Nguyễn Cư Trinh và Mạc Thiên Tứ, khiến nhân dân miền Nam đều đã sẵn có cảm tình với chúa Nguyễn, thì dễ gì Nguyễn Ánh thu phục được nhân tâm đồng bào trong Nam, để đi đến sự thắng lợi cuối cùng, thống nhất non sông. Đúng như lời ông Lê Ngọc Trụ và Phạm Văn Luật ; trích quyển « Nguyễn Cư Trinh với quyển Sãi Vải » 4
« Trọn đời Ông (Nguyễn Cư Trinh) xứng đáng bậc khai quốc công thần, giúp Võ Vương làm rạng ý nghĩa xưng « Vương », triều Võ Vương được phồn thịnh lẫy lừng. Và sau nầy, khi Tây Sơn khởi nghĩa, sự nghiệp của Ông ở trong Nam đã đào tạo nên những « Gia Định văn nhân võ tướng » giúp được chúa Nguyễn Ánh dựng lại cơ đồ, thống nhất giang san lập nên nghiệp cả. »
Cái chết của Mạc Thiên Tứ ở trên đất nước Xiêm cũng là một điều kiện đã giúp chúa Nguyễn thêm được lực lượng quân đội Xiêm sẵn sàng tán trợ cho sau nầy và dọn đường dễ dàng cho chúa Nguyễn và đám tòng thần sang trú ngụ nơi Vọng-các. Vì có cái chết hào hùng của Mạc Thiên Tứ làm xúc động được lòng vua Xiêm, giải được mọi nỗi bất hòa về trước. Vì có cái chết của Mạc Thiên Tứ, các văn nhân võ tướng miền Nam bấy lâu hằng chịu ảnh hưởng giáo hóa và tuyên truyền của họ Mạc, thêm thán phục hơn về sự trung kiên của họ Mạc, mà không còn ngần ngại gì nữa, đứng vào hàng ngũ ủng hộ chúa Nguyễn chống Tây Sơn quyết liệt.
Hơn nữa, cái chết dũng cảm oanh liệt của Mạc Tử Sanh nơi Cần Thơ – trung tâm văn hóa của miền Tây lúc bấy giờ – đánh thức tiềm năng quật khởi của toàn thể đồng bào miền Tây, tạo thành một lực lượng tinh thần mạnh mẽ chống đối Tây Sơn, đi đôi với sự sẵn sàng cung hiến nhân tài vật lực cho chúa Nguyễn. Bởi họ Mạc đã khéo chọn vùng đất Cần Thơ làm căn cứ thứ hai sau Hà Tiên, nên Cần Thơ nhờ đó mà phảng phất có sắc thái đẹp đẽ như bao công trình xây dựng của họ Mạc nơi Hà Tiên. Có thể nói sĩ khí miền Tây chịu ảnh hưởng một phần lớn do họ Mạc un đúc nên. Sự phát
https://thuviensach.vn
động phong trào Cần Vương, trợ lực Nguyễn chúa chống Tây Sơn, từ sau cái chết của cha con Mạc Thiên Tứ, càng ngày càng bành trướng. Trong đó, nhân dân miền Tây đã đóng góp máu xương chẳng ít.
https://thuviensach.vn
CẦU ĐÔI MỚI
Một chiếc cầu kiến thiết rất mỹ-quan, bắc ngang con rạch Cái Khế, chạy thẳng xuống Tòa Hành-Chánh, xuyên qua các phố phường trong tỉnh. Ảnh Trần-văn-Bê (Phongdinh)
https://thuviensach.vn
IV. PHONG DINH TRONG THỜI CẬN KIM
Vừa trải họa xâm lăng do binh Xiêm gây hấn (Nhâm Thìn 1772), lòng dân còn chưa hết hãi hùng, thì lại vương cảnh nội loạn Tây Sơn cùng Nguyễn chúa tranh giành (Đinh Dậu 1777), dân chúng Trấn Giang (Cần Thơ) điêu đứng khôn xiết kể ngót mấy mươi năm. Kịp khi Nguyễn Ánh thống nhất non sông, lên ngôi đế tức Gia Long, đất nước mới thấy lại cảnh thanh bình.
PHONG DINH DƯỚI TRIỀU GIA LONG
Gia Long năm thứ 2 (Quý Hợi 1803), định lại dư đồ, đổi địa giới dinh Long Hồ là dinh Hoằng Trấn, rồi đổi gọi là Vĩnh Trấn, đến năm Gia Long thứ 7 (Mậu Thìn 1808), lại đổi làm trấn Vĩnh Thanh, dưới quyền cai trị của quan Trấn Thủ, Hiệp Trấn và Tham Hiệp. Vùng Cần Thơ bấy giờ trực thuộc trấn Vĩnh Thanh, phủ Định Viễn.
Gia Long năm thứ 12 (Quý Dậu 1813), cắt đất phân ranh lại, lập thêm huyện Vĩnh Định là vùng phì nhiêu nhất. Cần Thơ khi ấy tức là huyện Vĩnh Định, vẫn trực thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh.
Năm sau, Gia Long thứ 13 (Giáp Tuất 1814), vùng huyện Vĩnh Định (Cần Thơ) được đặc biệt quan tâm nhất. Các quan địa phương đốc suất nhân dân mở mang đường sá, xây cất chợ búa phố phường, việc buôn bán càng ngày càng phồn thịnh, dân tứ xứ kéo đến định cư lập nghiệp ngày một thêm đông đúc.
Vùng Cần Thơ khi xưa đất đai như thế nào ? Cứ xem một đoạn tả cảnh con sông Cần Thơ vào khoảng đời Gia Long – Minh Mạng, chúng ta sẽ ý thức được một vài tình trạng sinh hoạt của dân cư Cần Thơ thuở ấy :
« Sông Cần Thơ ở phía Đông huyện Phong Phú 3 dặm, bờ phía Tây Hậu Giang, rộng 4 trượng, sâu 2 trượng rưỡi. Bờ phía Tây sông nầy có cựu
https://thuviensach.vn
Thủ sở đạo Trấn Giang. Bắt đầu từ phía Nam Đại Giang chảy xuống, thông sông Bồn, rồi do cửa sông ấy chảy qua đà Sưu, đà Răng, cách 13 dặm đến ngã ba Ba Láng. Chi phía Bắc chảy qua Đông 12 dặm thông với sông Bình Thủy. Lại một chi nữa cũng do phía Bắc chuyển về hướng Đông 45 dặm chảy ra cảng khẩu đạo Kiên Giang, tục gọi là cửa Bé. Cuối đông qua xuân, nước khô bùn cứng, ghe thuyền không qua được ; từ mùa hạ qua đông nước mưa tràn bờ, thì ghe thuyền cỡi lên trên cỏ và bèo mà đi, cứ trông theo phía tả hay phía hữu rừng cây mà nhận dấu đường. Nơi đây không có bóng người, có rất nhiều muỗi và đỉa, người qua lại rất khổ sở ». 5
Ở một đoạn khác, nói về con sông Hậu (Hậu Giang), người xưa ghi chép :
…Nước theo từ sông Châu Đốc tỉnh An Giang chảy đến phía Bắc huyện Đông Xuyên (tức Long Xuyên ngày nay) rồi đến ngòi Trà Ôn, làm giới hạn cho tỉnh An Giang và tỉnh Vĩnh Long. Đến đây chuyển qua hướng Nam (bờ phía Tây làm giới hạn tỉnh An Giang, bờ phía Đông làm giới hạn tỉnh Vĩnh Long) đến đạo Trấn Di chảy ra cửa biển Ba-thắc. « Sông nầy rưới khắp ruộng nương, bao hàm gò bến, là một nguồn lợi thủy quốc vậy ».
Con sông Cần Thơ và Hậu Giang ngày xưa mặc dầu chưa thuận tiện mấy về mặt giao thông, thế mà đã là một nguồn lợi to tát, đủ rõ người xưa đã rất chú ý mở mang đường thủy đồng thời với sự giao thông đường bộ. Do đó, nền kinh tế miền Tây lúc bấy giờ khá thịnh vượng.
Bởi con sông Hậu Giang như mạch máu của miền Tây, tiện ích cho dân chúng vô cùng, nên khoảng Minh Mạng thứ 17 (Bính Thân 1836), nhà vua cho đúc 9 cái đỉnh, có chạm hình sông Hậu Giang vào Huyền đỉnh và năm Tự Đức thứ III (Canh Tuất 1850) có ghi vào tự điển 6. 9 cái đỉnh nầy hiện nay để trước sân nhà thái miếu thành nội Huế. Quí du khách có dịp đi viếng cố đô vô đến hoàng thành sẽ thấy những kỷ vật nầy trơ gan cùng tuế nguyệt, ghi lại bước đường bôn tẩu của nhà vua.
https://thuviensach.vn
PHONG DINH DƯỚI TRIỀU MINH MẠNG
Đầu thế kỷ XIX, dưới triều Gia Long, như chúng ta đã rõ, Cần Thơ là vùng huyện Vĩnh Định, phủ Định Viễn, thuộc trấn Vĩnh Thanh. Kinh tế thịnh vượng, dân cư đông đúc.
Đến năm Minh Mạng thứ 13 (Nhâm Thìn 1832), trấn Vĩnh Thanh đổi tên là trấn Vĩnh Long, phân hạt gọi là tỉnh Vĩnh Long, đem hai huyện Tuân Nghĩa, Trà Vinh, nguyên thuộc phủ Lạc Hóa (trước trực thuộc thành Gia Định) nay thuộc tỉnh Vĩnh Long, còn hai huyện Vĩnh Định (tức Cần Thơ xưa), Vĩnh An và đạo Châu Đốc cải thuộc tỉnh An Giang, và lập thêm huyện Vĩnh Trị, thuộc phủ Định Viễn. Xem thế, ta nhận thấy Cần Thơ bấy giờ (huyện Vĩnh Định) đã tách ra khỏi Vĩnh Long, mà thuộc về tỉnh An Giang, và thuộc phủ Tân Thành chớ không thuộc phủ Định Viễn như trước.
Năm Minh Mạng thứ 20 (Kỷ Hợi 1839), vùng đất Cần Thơ lại mang tên là huyện Phong Phú, thuộc phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang, gồm có 3 tổng, 31 xã thôn.
Thời kỳ nầy, Cần Thơ (huyện Phong Phú xưa) càng thêm phồn thịnh. Về hành chánh, huyện trị ở địa phận thôn Tân An, châu vi 50 trượng, trồng rào tre. Viên tri huyện coi sóc toàn huyện. Đầu tỉnh thì có quan Tổng đốc, một vị Bố chánh và một vị Án sát. Tổ chức hành chánh ở các tổng, xã đủ để đảm bảo an ninh cho dân chúng.
Về mặt quân sự, ngoài những đồn, bảo, đặt rải rác ở những vùng quê, nơi tỉnh lỵ và huyện lỵ thì có những đồn bót lớn hơn gọi là Thủ, có nghĩa là cơ sở phòng thủ nghiêm ngặt vững chãi. Thủ sở Trấn Giang (Cần Thơ) ở về bờ phía Tây Hậu Giang thiết lập từ năm Kỷ Dậu 1789, đến khi Nguyễn Ánh lên ngôi tức vua Gia Long, vì giang san đã thống nhất, nên tạm thời Thủ sở Trấn Giang này bãi bỏ. Đến đời Minh Mạng, vì có nhiều biến cố dồn dập, Thủ Trấn Giang tái thiết hẳn hoi. Đồng thời Thủ sở Trấn Di (miền Bắc Bạc Liêu) cũng tái thiết để ngừa nội loạn và ngoại xâm.
https://thuviensach.vn
Ở bờ phía Tây Hậu Giang có thủ Trấn Giang hay Đông Xuyên, giao liên chặt chẽ với thủ Trấn Di, thì ở bờ phía Đông Hậu Giang có những đồn Vĩnh Hùng, Thuận Tấn, Cường Uy. Và ở Xao Châu (phía Bắc cửa biển Mỹ Thanh) có đặt binh lính đóng giữ cực kỳ hùng hậu.
Khoảng năm Quý Tỵ (1833) xảy ra cuộc Lê Văn Khôi gây biến loạn, sau khi quân của Lê Văn Khôi bị binh triều phá vỡ, tàn quân chạy xuống miền Tây, vùng Phong Phú (Cần Thơ) và Trấn Di (Bạc Liêu) bị rối loạn không ít. Hơn nữa triều đình lùng bắt dư đảng Lê Văn Khôi, nhất là những người Hoa Kiều có dính líu, ẩn náu ở Cần Thơ, Bạc Liêu 7khiến lòng dân xôn xao náo động.
Tuy nhiên, qua cơn sóng gió, trời yên bể lặng như thường. Huyện Phong Phú vẫn là vùng đất có tiếng thạnh trị, an ninh hơn khắp mọi vùng ở miền Tây lúc bấy giờ.
Về mặt thương mại, có ba ngôi chợ được thiết lập, rất trù phú : chợ Sưu ở gần bến sông Cần Thơ, chợ Tân An ở gần bến sông Bình Thủy và chợ Thái An Đông ở gần sông Ô Môn.
CẦN THƠ VỚI CHÚA NGUYỄN TRONG KHI TẨU QUỐC
Nơi phần đầu, trình bày lịch sử tỉnh Cần Thơ, chúng tôi đã nói sơ lược về cuộc Tây Sơn – Nguyễn chúa tranh hùng, mà Cần Thơ từng là bãi chiến trường đẫm máu. Để quý bạn đọc có ý niệm rõ ràng hơn nỗi đau thương của dân chúng Cần Thơ trong cơn khói lửa từng chập từng hồi ấy, chúng tôi xin ghi thêm tỉ mỉ những cảnh binh đao diễn tiến, biết bao dấu vết tang thương mà Tây Sơn, Nguyễn chúa, Cao Miên lưu để trên mảnh đất Cần Thơ hơn một thế kỷ qua.
Bắt đầu từ năm Đinh Dậu 1777, Tây Sơn tấn công mãnh liệt, chiếm lấy Sài Gòn lần thứ hai, (lần thứ nhất vào năm Bính Thân 1776) do chính Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đích thân chỉ huy đại đội hùng binh. Chúa Định
https://thuviensach.vn
Vương Nguyễn Phúc Thuần (Duệ Tông) chạy xuống Long Hưng (gần Rạch Gầm, Mỹ Tho) rồi chạy vào Cần Thơ, trong khi Tân chánh vương Nguyễn Phúc Dương ẩn náu nơi Ba Vát (Bến Tre). Bấy giờ vào khoảng tháng tư tại Cần Thơ, cha con Mạc Thiên Tứ đã chuẩn bị sẵn sàng lâm chiến để cứu nguy cho chúa Nguyễn khi Tây Sơn đuổi đến. Dân chúng Cần Thơ sống trong cảnh phập phồng tranh chiến.
Rồi thì khói lửa lan tràn, từ Sài Gòn Nguyễn Huệ tiến đánh Bến Tre, bắt sống Đông cung Dương (tức Tân chánh Vương), tại Ba Vát. Hay tin chẳng lành, tháng 8 chúa Định Vương lìa Cần Thơ chạy xuống Cà Mau với cháu là Nguyễn Ánh.
Binh Tây Sơn tràn xuống Cần Thơ. Ngút trời khói lửa. Dân chúng hãi hùng chứng kiến cảnh máu rơi, cửa nhà tan nát. Tham tướng Mạc Tử Sanh anh dũng chiến đấu nhưng không chống nổi sức hùng liệt của đoàn hổ báo Tây Sơn, đành bỏ mình tại vùng Tham tướng. Bấy giờ Cần Thơ thất thủ, khắp nơi tràn đầy quân sĩ Tây Sơn chiếm đóng, sát khí đằng đằng.
Tạm chiêu an dân chúng Cần Thơ xong, quân đội Tây Sơn kéo rốc tới đánh Bạc Liêu, Cà Mau (lúc nầy còn mang tên cũ là huyện Trấn Di, (Long Xuyên), cũng như Cần Thơ là huyện Trấn Giang. Thế mạnh như chẻ tre, Tây Sơn đánh đâu thắng đó, bắt sống chúa Định Vương tại Cà Mau trong khoảng tháng 9, giải về Gia Định hành quyết.
Nguyễn Ánh lên thay điều khiển binh quyền. Trong tình thế nguy cấp, nhờ ngự chiếc thuyền nhỏ nhẹ mang hiệu « Thủ quyển » vượt nước rẽ sóng mau lẹ, Nguyễn Ánh do ngã sông Ông Đốc thoát ra hòn Thổ Châu. Rồi từ ấy ngậm đắng nuốt cay, nuôi chí phục hận, dần dần đánh chiếm lại được thành Gia Định.
Đến năm Giáp Thìn (1784), tháng 6 chúa Nguyễn Ánh từ Xiêm trở về, có hai viên đại tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 300 chiến thuyền và 20.000 quân theo giúp. Lần lượt, chúa Nguyễn lấy lại Rạch Giá,
https://thuviensach.vn
Cần Thơ, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít và Sa Đéc. Thế là Cần Thơ rơi vào tay chúa Nguyễn.
Nhưng dân chúng Cần Thơ vẫn chẳng yên được lâu, đến tháng 10, sau khi Châu Văn Tiếp tử trận tại Mân Thít, tình thế binh chúa Nguyễn có chiều nao núng. Rồi thì tháng chạp, chính Nguyễn Huệ thân chinh chỉ huy quân Tây Sơn đánh tan quân Xiêm tại Rạch Gầm. (Trận nầy là một chiến công oanh liệt nhất của Tây Sơn, đến đỗi tướng Xiêm là Chiêu Tăng, Chiêu Sương phải bỏ cả binh thuyền, lên bộ chạy về Vọng Các. Chúng tôi sẽ thuật rõ trong quyển « Định Tường xưa và nay » sẽ xuất bản).
Sau trận đại bại Rạch Gầm, chúa Nguyễn Ánh cả kinh quay lại Cần Thơ, binh Tây Sơn tái chiếm Cần Thơ, dân chúng nơi đây thêm một lần nữa phải điêu đứng vì chiến họa. Chúa Nguyễn tách dặm băng ngàn, từ Cần Thơ ra hòn Thổ Châu lánh mình như trước.
Đinh Vị 1787, tháng 8 chúa Nguyễn lại từ Xiêm về, đốc xuất quân sĩ phản công Tây Sơn. Đôi bên đánh nhau nhiều trận lớn tại Trà Ôn (Cần Thơ) và Ba Rài (Mỹ Tho). Rồi bị Tây Sơn đánh bại tại cù lao Giung Hổ Châu, ở cửa sông Hậu Giang. Tuy nhiên, từ tháng 10, đóng đại bản dinh tại Nước Xoáy (Sa Đéc) binh tướng chúa Nguyễn dần dần khôi phục khí thế, dõng cảm đương đầu với Tây Sơn, đẩy lui Tây Sơn khắp nơi. Bấy giờ Cần Thơ cũng đã được chúa Nguyễn thâu phục lại.
Sang tháng 10, có tin tướng Cao Miên là Ốc Nha Long theo Tây Sơn nổi loạn, đánh chiếm Cần Thơ, đóng đồn tại địa điểm nầy, khiến dân chúng đã khổ sở lại càng khổ sở. Chúa Nguyễn lập tức đem đại quân từ Sa Đéc đến Cần Thơ dẹp loạn.
Ốc Nha Long không chống cự nổi, nhưng càng thua to chúng càng quấy phá dữ tợn. Đây là lần thảm khổ nhất của dân chúng Cần Thơ. Nhưng cuối cùng rồi cũng dẹp yên loạn được, chúa Nguyễn vỗ an lê thứ, trao quyền cho một viên đại tướng ở giữ Cần Thơ, còn Ngài thì trở về đại bản
https://thuviensach.vn
dinh ở Nước Xoáy. Và cũng từ đây Tây Sơn suy yếu, lần lượt bị binh chúa Nguyễn đánh bật khỏi miền Tây. Đến tháng 8 năm Mậu Thân (1788) chúa Nguyễn khắc phục Sài Gòn, giữ vững mãi, cho đến năm Nhâm Tý (1792) thì bắt đầu tiến ra đánh miền Trung, Bắc.
Rồi từ Nhâm Tý (1792) mãi đến 9 năm sau, ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Hợi, chúa Nguyễn mới khắc phục được kinh thành Huế, thống nhất non sông. Đoạn sắp đặt trị an thêm một năm nữa, đâu đó đã yên, ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất 1802, chúa Nguyễn Ánh lên ngôi tức vua Gia Long (miếu hiệu Thế Tổ Cao hoàng đế).
Duyệt lại bước đường lưu vong của Nguyễn Ánh khi bôn ba tẩu quốc, như chúng tôi đã trình bày trên đây, trong mấy năm Đinh Dậu 1777, Giáp Thìn 1784 và Đinh Vị 1787, Cần Thơ đã trải qua tất cả bốn thời kỳ chúa Nguyễn đồn trú, và là bãi chiến trường lắm lúc hãi hùng. Khủng khiếp nhất là loạn tướng Cao Miên Ốc Nha Long đã theo Tây Sơn, thừa gió bẻ măng, tàn hại dân chúng khôn xiết kể !
Thà rằng bị họa ngoại xâm, dân nước dầu tuôn đổ bao nhiêu máu đào xương trắng để cứu nước tưởng cũng chẳng đau lòng. Duy những cảnh nội chiến rùng rợn, tạo cơ hội cho ngoại bang nhúng tay vào gây thêm tang tóc, thật não nùng !
LỜI CẢM NGHĨ
Chúng tôi đã trình bày qua phần lịch sử và tổng kết câu chuyện Nguyễn Ánh trên đường bôn tẩu, cống hiến chư độc giả tìm hiểu phần nào về hai nhân vật Gia Long và Nguyễn Huệ, hai vị cũng vì gấm vóc giang sơn nầy mà tranh dành ảnh hưởng, làm cho xứ sở điêu linh, nhơn dân đồ thán, gây cảnh núi xương sông máu diễn ra trên đất Việt. Lịch sử hằng chứng minh tỏ rõ.
Đứng về khách quan mà nhận xét, so sánh giữa hai nhân vật, Nguyễn Huệ một trong những anh hùng của dân tộc, một trang lỗi lạc tài ba, đa
https://thuviensach.vn
mưu túc kế, văn võ kiêm toàn, binh pháp siêu nhân, quân kỷ nghiêm minh, bách chiến bách thắng, tiếc rằng vận nước cam chịu cảnh ngửa nghiêng, nên trời khiến cho Nguyễn Huệ phải mất sớm đi, giang sơn nầy rơi vào tay Nguyễn Ánh.
Thay vì lúc bấy giờ Nguyễn Huệ còn sống nắm vững cơ đồ giữ nền độc lập tự chủ, mở mang bờ cõi lan rộng đến hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, dư đồ Việt Nam lớn biết là bao. Nước Việt Nam sẽ trở nên một nước hùng cường, góp mặt cùng năm châu thế giới, chưa chắc có gót chân ngoại bang nào xâm chiếm được.
Qua phần lịch sử của Nguyễn Ánh, trên đường dong ruổi vào Nam, đặt chân lui tới đất Cần Thơ nầy nhiều lượt, như đã trình bày, chúng tôi lấy làm chua xót vô cùng, không muốn nhắc lại nhiều e tủi hổ vong linh người trung liệt, và chẳng những thế hệ trẻ ngày nay cũng không muốn gợi câu chuyện Gia Long thêm nhiều, vì lẽ đó mà chúng tôi không đi sâu vào chi tiết, xin bạn đọc thứ lỗi cho.
PHONG DINH DƯỚI TRIỀU TỰ ĐỨC VÀ THỜI PHÁP THUỘC
Trải các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, miền Nam nước Việt vẫn chia làm 6 tỉnh, nên dân gian thường quen gọi là Nam kỳ lục tỉnh. Cho đến thời Pháp thuộc, dẫu người Pháp đã chia đất miền Nam nầy (gọi là Nam Kỳ) làm 20 rồi 21 tỉnh, dân gian vẫn quen gọi Nam kỳ là lục tỉnh. Ấy là :
Biên Hòa (miền Đông)
Gia Định (miền Đông)
Định Tường (miền Đông)
Vĩnh Long (miền Tây)
An Giang (miền Tây)
Hà Tiên (miền Tây)
https://thuviensach.vn
Do Hòa ước ngày 5 Juin 1862, miền Nam bị đặt dưới quyền đô hộ của Pháp. Nhưng sĩ phu miền Nam há dễ chịu ép một bề ? Lần lượt sĩ phu miền Nam đứng lên phản kháng, hoặc đem bút lưỡi mà khích động dân tâm tranh đấu, hoặc lấy sắt máu mà chống chọi với cường quyền bạo lực. Nhóm sĩ phu đánh giặc bằng bút, có : Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Văn Lạc v.v… Nhóm lấy sắt máu đánh đuổi kẻ tham tàn, có : Trương Định ở Gò Công, Đỗ Đình Thoại, Nguyễn Duy Dương ở Đồng Tháp Mười, Nguyễn Hữu Huân ở Mỹ Tho v.v…
Riêng về miền Tây, từ sau ngày 25 Juin 1867 (năm Đinh Mão) là ngày ba tỉnh miền Tây Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên đều đã lọt vào tay quân Pháp, sĩ phu miền Tây cũng oanh liệt chống cự. Nhân dân huyện Phong Phú (Cần Thơ) từng nổi lên đánh các đồn bót do quân Pháp thiết lập. Chúng thất điên bát đảo, tức giận phóng hỏa đốt rụi nhiều thôn xóm. Lửa loạn bao trùm tang tóc miền Tây lúc bấy giờ !
Dần dần quân Pháp nhờ có đông đảo đám tay sai người Việt phụ tá, chẳng hạn như Đội Lộc (sau nầy là Tổng Đốc Trần Bá Lộc), Lãnh binh Tấn (tức Huỳnh Công Tấn) dùng uy lực đàn áp, thiết lập nền cai trị.
Ngày 1 tháng giêng năm 1868, do Nghị định Thống Đốc Nam kỳ là Bonard, huyện Phong Phú (Cần Thơ) sáp nhập với Bai sau đặt thành một quận, dưới quyền cai trị của một viên quan Pháp, lập Tòa Bố (Hành chánh) tại Sa Đéc.
Lòng dân nhớ nước cũ nên hãy còn bồng bột phẫn uất, đâu dễ một ngày một buổi mà chịu yên bề. Trong vùng Cần Thơ, vị lãnh tụ dân quân kháng chiến đầu tiên nổi lên chống quân Pháp, chính Đinh Sâm. Để cảnh cáo những ai sớm vội bán nước buôn dân, cam tâm làm tay sai cho giặc, Đinh Sâm xướng nghĩa, giết ngay viên Cai tổng Định Bảo là Nguyễn Văn Vĩnh, rồi chiếm đóng một vùng Láng Hầm (nay là vàm kinh Ba láng). 8
https://thuviensach.vn
Khói lửa lại bao trùm vùng Cần Thơ, Ba Láng, Phong Điền. Cơn ly loạn xiết bao điêu đứng thảm khổ dân tình. Chẳng bao lâu Đinh Sâm bị quân Pháp và đội binh mã tà (như đám thân binh thời gần đây) do Trần Bá Lộc chỉ huy dẹp tan dưới bạo lực đàn áp dã man khốc liệt !
Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống Đốc Nam kỳ lại ra nghị định, sáp nhập Phong Phú (Cần Thơ) với Bắc Tràng là một vùng thuộc phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long lập Tòa Bố tại Trà Ôn.
Nhưng tình thế vẫn không yên. Nhiều nơi trong tỉnh vẫn vùng lên chống đối. Đối phó với nghĩa quân, nhà cầm quyền người Pháp càng thẳng tay đàn áp, dùng sức mạnh súng đạn làm phương tiện để mong chinh phục lòng người, để ổn định cho kỳ được guồng máy hành chánh theo như ý thực dân.
Tòa Bố thiết lập tại Trà Ôn để điều khiển các cơ cấu cai trị khắp vùng Phong Phú (Cần Thơ), đặt dưới quyền kiểm soát của một viên quan Pháp, chỉ được một năm thì phải dời về đặt ở Cái Răng (hiện giờ là quận lỵ Châu Thành, cách tỉnh lỵ Cần Thơ Phong Dinh 6 cây số). Rồi do Nghị định của Soái phủ Sài Gòn, ngày 23 Février 1876, vùng Phong phú lập thành tỉnh, mang tên Cần Thơ. Tòa Bố (Hành chánh) đặt tại tỉnh lỵ Cần Thơ, Trà Ôn thì trở thành quận.
Viên quan Pháp đầu tiên trấn nhậm tỉnh Cần Thơ là Đại úy Nicolai, chức Tham biện hạng nhì. Đại úy Nicolai ngồi chức Chánh Tham biện (tức như Tỉnh trưởng bây giờ), Cần Thơ ngót 10 năm, khai thác đất đai, mở rộng đường xá, xây cất chợ búa.
Tuy nhiên, sĩ phu miền Tây vẫn còn một số đông bất phục. Nhưng trong tình trạng khôn bề chống đối, các sĩ phu giữ tiết tháo đành sống đời ẩn dật. Trong số nầy đáng kể có : Cử Trị (Phan Văn) lánh thân ở Phong Điền, cụ Thủ khoa Nghĩa (Bùi Hữu) ở Bình Thủy, Long Tuyền. Cho đến vị
https://thuviensach.vn
Cai tổng Lê Quang Chiểu sau này cũng tự giải chức từ quan, còn được tiếng thơm.
Người đầu tiên đến thông ngôn cho ông Nicolai, tỉnh trưởng Cần Thơ là ông Cao Văn Tình 9, hiện nay con ông là Cao Văn Hùng còn sống trên 80 tuổi.
Năm 1877, Nam kỳ có tất cả 19 Chánh tham biện.
PHÂN CHIA ĐỂ TRỊ
Chính sách quản trị, nhà cầm quyền Pháp phân chia ranh giới tỉnh Cần Thơ lại, gồm có 5 quận, 8 tổng, 72 xã : 1. Quận Châu Thành. 2. Quận Phụng Hiệp. 3. Quận Ô Môn. 4. Quận Trà Ôn. 5. Quận Cầu Kè
Tám tổng : Định An, Định Bảo, Định Phong, Định Thành, Định Quới, Thạnh Trị, Thới Bảo, Tuân Giáo và Tuân Lễ. Cai trị một quận thì có vị Chủ quận (Quận trưởng), đứng đầu tổng thì có vị Cai tổng, Phó tổng, Bang biện, Sung biện. Các xã thì có ban hội tề gồm 12 vị hương chức : Hương cả, Hương chủ, Hương sư, Hương trưởng, Hương chánh, Hương giáo, Hương bộ, Hương quản, Hương thân, Hương hào, Xã trưởng và Chánh lục bộ (cũng gọi là đội bộ tức vị ủy viên hộ tịch ngày nay). 10
Về sau, phân định lại, toàn tỉnh vẫn 5 quận, nhưng gồm 10 tổng, 94 làng như sau : (Chúng tôi xin ghi rõ để tiện cho người sau tra cứu).
BẢNG TỔNG KÊ 10 TỔNG, 94 LÀNG THỜI PHÁP THUỘC
1. Tổng Định Bảo gồm 11 xã : 1. Tân An 2. Thường Thạnh, 3. Nhơn Ái, 4. Nhơn Nghĩa, 5. Thường Thạnh Đông, 6. Thạnh An, 7. Tân Thạnh Đông, 8. Thạnh Mỹ, 9. Phú Lợi, 10. Mỹ Khánh, 11. Thới Bình
2. Tổng Định Thới 10 xã : 1. Bình Phước, 2. Bình Xuân, 3. Long Tuyền, 4. Phú Long, 5. Tân Thới, 6. Thới An, 7. Thới Giai. 8. Thới Hanh. 9. Thới Hưng. 10. Thới An Đông
https://thuviensach.vn
3. Tổng Định Hòa 8 xã : 1. Hòa Mỹ, 2. Mỹ Phước, 3. Tân Bình, 4. Tân Hưng, 5. Tân Lập, 6. Thạnh Hưng, 7. Thạnh Xuân, 8. Trung Hưng.
4. Tổng Định An 6 xã : 1. Đông Phú, 2. Hậu Thạnh, 3. Long Hưng, 4. Phú Hữu, 5. Phú Thứ, 6. Phú Mỹ Đông.
5. Tổng Định Phước 7 xã : 1. Đông Sơn, 2. Long Mỹ, 3. Như Lăng, 4. Song Mỹ, 5. Phụng Hiệp, 6. Thường Phước, 7. Trường Thạnh Sơn.
6. Tổng Thới Bảo 9 xã : 1. Định Môn, 2. Ô Môn, 3. Thới Đông, 4. Thới Lai, 5. Thới Thạnh, 6. Tường Long, 7. Trường Lạc, 8. Trường Thành, 9. Thới Thạnh Hạ.
7. Tổng Thành Trị 8 xã : 1. Gia Kiết, 2. Hựu Thành, 3. Ngãi Lộ, 4. Tích Hóa, 5. Tích Khánh, 6. Trà Ôn, 7. Thuận Thới, 8. Vĩnh Xuân.
8. Tổng An Trường 11 xã : 1. An Hòa, 2. Định Hòa, 3. Đông Lợi, 4. Đông Thành, 5. Mỹ Chánh, 6. Mỹ Thuận, 7. Phù Ly, 8. Tân Lược, 9. Tân Phong, 10. Tân Quới, 11. Đông Thành Trung
9. Tổng Bình Lễ 9 xã : 1. Bình Minh, 2. Đông Hậu, 3. Hanh Thông, 4. Loan Tân, 5. Mỹ An, 6. Ngãi Tứ, 7. Tân Thiết, 8. Thiện Mỹ, 9. Trung Gia.
10. Tổng Tuân Giáo 15 xã : 1. An Thổ, 2. Ân Phụ, 3. Châu Hưng, 4. Hiệp An, 5. Hòa Thịnh, 6. Lương Điền, 7. Phong Phượng, 8. Phong Phụ, 9. Phong Thới, 10. Tam Ngãi, 11. Tân Hòa, 12. Tân Qui, 13. Thạnh Phú, 14. Thơ Đôi, 15. Thông Thảo.
Vì là một tỉnh từng nổi danh về văn hóa, nhờ ảnh hưởng của các cụ Cử Trị, Thủ khoa Nghĩa, Cai tổng Chiểu, lại thêm dư ba cuộc khởi nghĩa của Đinh Sâm từ năm 1868 hãy còn vang động âm ỉ trong lòng người dân Cần Thơ, nên không khí trong tỉnh vẫn sôi nổi từng cơn. Hơn nữa, trong khi ngoài Trung, Bắc các sĩ phu xướng xuất cuộc vận động duy tân, phát động phong trào Đông du, thì Cần Thơ cũng hân hạnh có một nhà cách mạng ưu
https://thuviensach.vn
tú đóng góp vào. Ấy là cụ Hội đồng Nguyễn Thần Hiến, gốc người ở Hà Tiên dời về cư ngụ tại tỉnh lỵ Cần Thơ (xin xem phần Danh nhân).
Học phong, sĩ khí tỉnh Cần Thơ đã khiến thực dân Pháp cực kỳ chú ý, quan tâm. Để lấy lòng dân chúng, và để cho Cần Thơ xứng đáng là nơi trung tâm văn hóa của miền Tây, ngoài việc khuếch trương kinh tế, nhà cầm quyền đặc biệt mở thêm trường sở. Từ năm 1921, Cần Thơ đã có trường trung học Collège, chỉ kém thủ đô Sài Gòn, sau Mỹ Tho, nhưng hơn cả các tỉnh khác.
Ngày 24-9-1954, nghị định hợp thức hóa chiếu số 188 N./G.Đ. đặt lại tên trường là Phan Thanh Giản cho tới ngày nay.
Lại nữa, điều nên nói thêm, Cần Thơ cũng là một tỉnh có tờ báo đầu tiên ở miền Tây là tờ « An Hà báo » làm vinh diệu và trợ hứng cho tao nhân mặc khách miền Tây một thuở.
PHONG DINH THỜI GẦN ĐÂY
Sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp, gót chân đoàn quân Phù Tang tràn xuống Cần Thơ, miền Tây sôi động lên, dân chúng Tây đô chẳng khỏi trải cơn hồi hộp lo âu trước chánh tình đất nước. Lại thêm « Nghĩa sĩ đảng » bấy giờ cũng nổi lên. Người người đều cảm thấy ngột ngạt trong bầu không khí khó thở.
Chánh Tham biện De Montaigut bỏ tỉnh rút vào đồng quê, cương quyết kháng Nhật. Một ngày trong tháng 3 lúc xế chiều, De Montaigut dẫn một toán quân từ miệt Vàm Xáng, Phong Điền kéo ra phá cầu đúc Cái Răng. Súng nổ vang một góc trời. Từ tỉnh lỵ Cần Thơ, quân đội Nhật kéo vào xung kích. Khói lửa bốc cao. Đạn bay vi vút, đì đùng, trọng pháo vang ầm. Dân chúng Cái Răng Cần Thơ trải cơn chạy loạn hãi hùng !
Rồi thì thỉnh thoảng thêm kinh khủng vì tiếng còi báo động, tiếng phi cơ đồng minh bay trên không phận Cần Thơ. Nhưng may cho dân chúng,
https://thuviensach.vn
đoàn chim sắt của đồng minh chỉ gieo sự đe dọa chớ chẳng ném bom hay bắn phá gì.
Từ tháng 8, biến cố thêm dồn dập bao trùm Tây đô. Nào cuộc xung đột giữa Việt Minh và Phật Giáo Hòa Hảo, nào cảnh xử bắn ba ông Huỳnh Thạnh Mậu, Trần Văn Hoành và thi sĩ Việt Châu Nguyễn Xuân Thiếp tại vận động trường Tây Đô. Không khí càng thêm nặng nề !
Đến khi quân Anh-Pháp trở lại hoành hành, chiếm đóng Tây đô. Một buổi sáng ngày 12 tháng 11, bộ đội kháng chiến do Lê Bình chỉ huy bất thần chụp chợ Cái Răng. Bốn bề súng lại vang rền. Đến xế trưa, quân Pháp từ Cần Thơ đem tàu chiến kéo vào, phối hợp với bộ binh và không quân, gieo hãi hùng suốt ngày đêm, khói lửa đỏ trời, tang thương phủ khắp một bầu trời sầu.
Rồi suốt thời kỳ Quốc trưởng Bảo Đại chấp chánh, Cần Thơ vẫn trầm lặng, chẳng có gì thay đổi đáng kể.
Rồi do hai sắc lịnh ngày 22-10-56 và ngày 16 tháng 9 năm 1958, dưới chánh thể Việt Nam Cộng hòa, tỉnh Cần Thơ đổi tên là Phong Dinh.
ĐỊA LÝ : Ranh giới thì sửa đổi lại : Cắt hai quận Trà Ôn và Cầu Kè sáp nhập tỉnh Vĩnh Bình (Trà Vinh). Lập hai quận khác là Long Mỹ và Kế Sách. Chẳng lâu, lại cắt phần đất quận Kế Sách trả cho tỉnh Ba Xuyên (Sóc Trăng) rồi chia quận Long Mỹ làm 2 quận : Đức Long và Long Mỹ. Nhưng cũng không lâu, lại tách hai quận Đức Long và Long Mỹ sáp nhập tỉnh Chương Thiện. Rồi lập hai quận khác là Khắc Nhơn và Khắc Trung (nay sửa lại là Thuận Nhơn và Thuận Trung). Cho đến năm nay (1966), tỉnh Phong Dinh về mặt địa lý như sau :
VỊ TRÍ GIỚI HẠN : Tỉnh Phong Dinh ở về phía Tây Nam miền Nam nước Việt.
- Tỉnh lỵ Cần Thơ cách thủ đô Sài Gòn 160 cây số ngàn.
https://thuviensach.vn
- Đông Bắc giáp tỉnh Vĩnh Long – Vĩnh Bình (Trà Vinh) bằng khúc sông Hậu Giang chạy dài lối 50 km.
- Đông Nam giáp tỉnh Ba Xuyên (Sóc Trăng)
- Tây Bắc giáp tỉnh An Giang (Long Xuyên) Kiên Giang (Rạch Giá) - Tây Nam giáp tỉnh Chương Thiện.
DIỆN TÍCH – DÂN SỐ : Diện tích toàn tỉnh 162.257 mẫu tây. Phần lớn là đồng bằng phì nhiêu, không một ngọn núi, không có rừng rậm, chỉ có chút ít rừng tràm, rừng dừa nước tại các vùng đầm lầy. Hệ thống kinh rạch chằng chịt, phần nhiều phát khởi từ con sông Hậu Giang, quanh năm nước ngọt, thích hợp cho việc trồng lúa, trồng cây ăn trái và các loại hoa mầu khác. Dân số toàn tỉnh trên 400.000 ngàn người, riêng thành phố Cần Thơ đã chiếm một khối dân số 55.000 người.
Tỉnh gồm 5 quận, 8 tổng, 40 xã. 5 quận : Châu Thành, Phong Phú, Phụng Hiệp, Thuận Nhơn và Thuận Trung.
1. Quận Châu Thành : Trụ sở quận Châu Thành ở thị trấn Cái Răng xã Thường Thạnh, cách tỉnh lỵ lối 6 cây số ngàn. Gồm có 2 tổng Định Bảo và Định An với 15 xã.
a) Tổng Định Bảo có 7 xã : Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Mỹ Khánh, Thạnh An, Tân Phú Thạnh, Thường Thạnh và Thường Thạnh Đông.
b) Tổng Định An có 8 xã : An Bình, Đông Phú, Giai Xuân, Long Tuyền, Phú Hữu, Phú Thứ, Tân An và Thuận Đức.
2. Quận Phong Phú : Trụ sở ở xã Thới Thạnh, cách tỉnh lỵ 21 cây số ngàn. Gồm có 2 tổng Thới Bảo, Định Thới và 9 xã.
https://thuviensach.vn
a) Tổng Thới Bảo có 4 xã : Bình An, Định Môn, Thới Thạnh và Trường Thạnh.
b) Tổng Định Thới có 5 xã : Phước Thới, Tân Thới, Thới An, Thới An Đông và Thới Long.
3. Quận Phụng Hiệp : Trụ sở ở xã Phụng Hiệp, cách tỉnh lỵ 30 cây số ngàn. Gồm 2 tổng Định Phước và Định Hòa với 6 xã.
a) Tổng Định Phước có 4 xã : Hiệp Hưng, Hòa Mỹ, Phụng Hiệp và Tân Phước Hưng.
b) Tổng Định Hòa gồm 2 xã : Đông Phước và Long Thạnh.
4. Quận Thuận Nhơn : Trụ sở ở xã Tân Hòa, cách tỉnh lỵ 25 cây số ngàn. Chỉ có một tổng Phong Đa và 6 xã : Tân Hòa, Tân Bình, Thạch Hòa, Trường Long, Lễ Tâm và Chủ Thiện.
5. Quận Thuận Trung : Trụ sở ở xã Thới Đông, cách tỉnh lỵ 43 cây số ngàn. Chỉ có một tổng Phong Thuần và 4 xã : Thới Đông, Thới Lai, Thạnh Phú và Ngôn Thiện. 11
ĐƯỜNG SÁ : Đường sá tỉnh Phong Dinh hầu hết đều tráng nhựa, một số trải đá, và một số ít hương lộ còn là đường đất. Hệ thống đường bộ gồm có mấy lộ chính đáng kể :
1. Quốc lộ số 4 là trục giao thông chính nối liền tỉnh lỵ Cần Thơ, quận lỵ Cái Răng, thị trấn Cái Tắc và quận lỵ Phụng Hiệp.
2. Đường liên tỉnh số 27 nối liền tỉnh lỵ Cần Thơ với thị trấn Bình Thủy và quận lỵ Phong Phú (Ô Môn)
3. Đường liên tỉnh số 31 nối liền thị trấn Cái Tắc, chợ Rạch Gòi và kinh Cung qua tỉnh Chương Thiện và Rạch giá. Đường này khởi đắp từ năm 1898, cán đá và hoàn thành năm 1916, đến 1916 nay đã được cán toàn diện bề ngang 4 thước.
https://thuviensach.vn
4. Hương lộ số 4 đi từ Cái Răng qua Phong Điền, Cầu Nhiếm, Ba Xe đến Ô Môn (gặp đường liên tỉnh số 27), dài 25km 750.
5. Hương lộ số 11 và 12 thông thương đến Tân Hòa, chợ Bảy Ngàn (quận lỵ Thuận Nhơn).
6. Hương lộ số 29 đi từ Thới Lai đến Cờ đỏ (quận lỵ Thuận Trung). Ngoài ra, những con đường chánh trong tỉnh, lộ trình :
Cần Thơ đi Bình Thủy : 5 cây số
Cần Thơ đi Trà Nóc : 9 km 500
Cần Thơ đi Ô Môn : 22km
Cần Thơ đi Thới Long : 34 km
Cần Thơ đi Cờ Đỏ : 46 km
Cần Thơ đi Cái Răng : 6 km
Cần Thơ đi Cái Tắc : 14 km 500
Cần Thơ đi Phong Điền : 15 km 500
Cần Thơ đi Phụng Hiệp : 31 km
SÔNG NGÒI – KINH RẠCH : Từ hữu ngạn Hậu Giang, từ Bắc xuống Nam gồm có 13 con rạch chính và những con kinh lớn đáng kể :
Kinh Thị Đội vốn là một nhánh của rạch Ô Môn, chạy dọc theo hương lộ số 29, từ chợ Thới Lai đi Rạch Giá 14 km, thuộc quận Thuận Trung.
Kinh Ô Môn dài 14 cây số theo hương lộ số 30 đến ranh hạt 2 tỉnh Phong Dinh – Kiên Giang.
Kinh Saintenoy dài 32 cây số, chạy từ chợ Rạch Gòi đến ngã tư cây dương (quận Phụng Hiệp) sang tỉnh Ba Xuyên.
Kinh Lacote dài 9 cây số chạy từ chợ Rạch Gòi đến chợ Cái Dứa (Phụng Hiệp).
Kinh Xà No dài 34 cây số, từ rạch Cần Thơ qua chợ Bảy Ngàn tỉnh Chương Thiện.
https://thuviensach.vn
Rạch Bằng Tăng dài độ 5 cây số, chảy tới kinh Thới Thạnh. Rạch Cái Đôi dài 4 cây số, chảy theo ranh xã An Bình và Phú Thứ.
Rạch Cái Sâu dài độ 4 cây số, chảy xuyên qua xã Phú Thứ và đụng rạch Cái Da.
Rạch Bùng Binh dài độ 5 cây số, chảy xuyên hương lộ số 10 cho đến gần giáp ranh xã Phú Thứ, Thạch An.
Rạch Bến Bạ dài 5 cây số, chảy tới rạch Cái Da.
Rạch Cái Cui dài 5 cây số, chảy tới giáp kinh Thạch Đông. Rạch Mái Giầm dài 5 cây số, chảy gặp kinh Saintenoy.
Rạch Cái Khế dài 5 cây số, chảy từ Cầu Đôi tới Đầu Sấu.
Rạch Cái Dầu dài 7 cây số, chảy theo ranh giới xã Đông Phú và Phú Hữu cho tới gần giáp ranh quận Phụng Hiệp và quận Châu Thành.
Rạch Bình Thủy dài 15 cây số, chảy tới giáp ranh xã Giai Xuân, Long Tuyền.
Rạch Trà Nóc dài độ 15 cây số, chảy xuyên đường liên tỉnh 27 tới chợ Ba Xe.
Rạch Ô Môn dài 15 cây số, chảy xuyên qua các tổng Thới Bảo và Định Thới thuộc quận Phong Phú.
Rạch Cần Thơ dài 28 cây số, chảy ngang bến Ninh Kiều cho tới Phong Điền.
Ngoài ra còn rất nhiều kinh rạch chằng chịt rất tiện lợi cho sự giao thông tại các quận cũng như tại các làng xã. Chẳng hạn như từ quận lỵ Phụng Hiệp người ta có thể lưu thông trong quận bằng ngã bảy con kinh gặp nhau tại chợ Phụng Hiệp : Cai Thiện và Kinh Cái Côn.
Rải rác trong 5 quận còn có những tên kinh rạch cần biết như sau :
https://thuviensach.vn
a) Quận Châu Thành gồm có : rạch Đầu Sấu, rạch Trường Tiền, rạch Cái Tắc, rạch Trà Niên Lớn, rạch Cái Da, kinh Thạnh Đông, kinh Cái Dầu, rạch Cái Nai, rạch Cái Răng Lớn và Cái Răng Bé, rạch Ngã Bác, rạch Ba Láng, rạch Sung, kinh Phong Điền, kinh Sua Đũa Bé, rạch Cái Cấm, rạch Vàm Bi, rạch Rau Răm, kinh Cái Muồng, kinh Ngã Cạy, rạch Bần Kê.
b) Quận Phong Phú gồm có : rạch Tầm Vu, rạch Trà Do Lớn, kinh Tiểu, kinh Tắc Ông Thục, kinh Trà Keo, kinh Trà Luộn, rạch Vàm Nhon, rạch Dầu, rạch Vạn Lịch, rạch Cầu Nhiếm, rạch Ba Mít, rạch Bông Giêng, kinh Cái Túc, kinh Búa Lớn, rạch Cái Trôm, rạch Ông Tượng.
c) Quận Phụng Hiệp gồm có : kinh Lái Hiếu, rạch Bảy Thưa, rạch Ông Huyện, rạch Cái Chồn, rạch Cái Nhum, kinh Ba Ngàn, kinh Sen Trắng, kinh Nàng Mao, kinh Rọc Sen.
d) Quận Thuận Trung gồm có : kinh Thơm, rạch Ba, kinh Đứng, kinh Ngang, kinh Rạch Hạt, kinh Sáu Thước, kinh Ranh Làng, rạch Xập Phồm, rạch Lương Đường, rạch Xẻo Sao, kinh Hương Trưởng Da.
đ) Quận Thuận Nhơn gồm có : kinh Tân Hiệp, kinh Trà Ết Đại và Trà Ết Tiểu, kinh Bà Đầm, kinh Cai Tổng Cang, kinh Chệt Thọ, kinh Bốn Ngàn, kinh Bảy Ngàn, rạch Đường Láng, rạch Ngã Cái, rạch Trầu Hôi, rạch Thầy Cai Hóa, kinh Tám Ngàn.
TỈNH PHONG DINH : Các đơn vị hành chánh thuộc tỉnh Phong Dinh ngày nay gồm có 6 quận, 8 tổng và 41 xã, chia ra như sau :
I. QUẬN CHÂU THÀNH (2 tổng, 12 xã) : Diện tích : 25.525 ha. Dân số : 149 786.
1. TỔNG ĐỊNH AN (8 xã) : 1. Xã An Bình – 2. Xã Đông Phú – 3. Xã Giai Xuân – 4. Xã Long Tuyền – 5. Xã Phú Hữu – 6. Xã Phú Thứ – 7. Xã Tân An – 8. Xã Thuận Đức
https://thuviensach.vn
2. TỔNG ĐỊNH BẢO (4 xã) : 1. Xã Thạnh An – 2. Xã Tân Phú Thạnh – 3. Xã Thường Thạnh – 4. Xã Thường Thạnh Đông
II. QUẬN PHONG PHÚ (2 tổng, 9 xã) : Diện tích : 25.713 ha. Dân số : 65.173.
1. TỔNG ĐỊNH THỚI : 1. Xã Phước Thới – 2. Xã Tân Thới – 3. Xã Thới An – 4. Xã Thới An Đông – 5. Xã Thới Long.
2. TỔNG THỚI BẢO (4 xã) : 1. Xã Bình An – 2. Xã Định Môn – 3. Xã Thới Thạnh – 4. Xã Trường Thành.
III. QUẬN PHỤNG HIỆP (2 tổng, 6 xã) : Diện tích : 37.446 ha. Dân số : 61.867.
1. TỔNG ĐỊNH PHƯỚC (4 xã) : 1. Xã Hiệp Hưng – 2. Xã Hòa Mỹ – 3. Xã Phụng Hiệp – 4. Xã Tân Phước Hưng.
2. TỔNG ĐỊNH HÓA (2 xã) : 1. Xã Đông Phước – 2. Xã Long Thạnh.
IV. QUẬN THUẬN NHƠN (1 tổng, 5 xã) : Diện tích : 27.821 ha. Dân số : 51.882. TỔNG PHONG ĐA (5 xã) : 1. Xã Tân Hòa – 2. Xã Thạnh Hòa – 3. Xã Tân Bình – 4. Xã Chủ Thiện – 5. Xã Lễ Tâm.
V. QUẬN THUẬN TRUNG (1 tổng, 4 xã) : Diện tích : 35.587 ha. Dân số : 21.238. TỔNG PHONG THUẦN (4 xã) : 1. Xã Thới Đông – 2. Xã Thới Lai – 3. Xã Thạnh Phú – 4. Xã Ngôn Thiện.
VI. QUẬN PHONG ĐIỀN 12(0 tổng, 5 xã) : Diện tích : 10.265 ha. Dân số : 43.815. 1. Xã Nhơn Ái – 2. Xã Nhơn Nghĩa – 3. Xã Mỹ Khánh – 4. Xã Trường Long – 5. Xã Cầu Nhiếm.
https://thuviensach.vn
NÔNG NGHIỆP PHONG DINH
Tới mùa lúa chín, các nhà nông xúm nhau gặt hái đem về sân. Trên nét mặt mỗi người đều lộ vẻ hân-hoan, đắc nguyện.
https://thuviensach.vn
CẢNH NHÀ QUÊ Ở PHONG DINH
Những thửa vườn với căn nhà lá của đồng bào ở trong các xã xa xôi thuộc vùng Phụng Hiệp
https://thuviensach.vn
CÔNG VIÊN CẦU ĐÔI MỚI
Cần-thơ hiện nay trên đà chỉnh trang mọi mặt xứng đáng với hai tiếng Tây-đô văn-vật.
https://thuviensach.vn
TÌM HIỂU HAI TIẾNG CẦN THƠ DO ĐÂU MÀ CÓ ?
Danh từ Cần Thơ đã có từ lâu. Xưa kia là huyện Phong Phú, phủ Tuy Biên, nay đổi lại Phong Dinh.
Phần đầu chúng tôi đã trình bày nguồn gốc tiếng địa phương qua sự diễn tiến của thời đại vào đầu thế kỷ XVIII, của đất Trấn Giang, về phần lịch sử.
Riêng hai tiếng « Cần Thơ » trong sử không có ghi chép rõ ràng như các tỉnh khác.
Tương truyền lúc Nguyễn Ánh trên đường bôn tẩu vào Nam dấu chân của Ngài đều trải qua các nơi trên lãnh thổ để lẩn tránh Tây Sơn mưu đồ phục quốc. Lúc bấy giờ Ngài ngự trên một chiếc thuyền đi ngang dòng sông Hậu, thuộc địa phận huyện Phong Phú thả thuyền theo sóng gió lênh đênh trên mặt nước, bỗng nghe có tiếng ngâm thơ, đờn địch, hò hát hòa nhau rất nhịp nhàng, từ xa vọng lại giữa đêm trường canh vắng. Ngài chạnh lòng nhớ đến bước đường lưu lạc trong lúc bơ vơ xứ lạ quê người, khiến tâm cang thêm xúc động. Ngài mới có một cảm nghĩ ban cho con sông này cái tên đẹp đẽ mỹ miều, đầy thơ mộng là « Cầm Thi giang » con sông của thi ca đàn hát. Lần lần hai tiếng Cầm Thi được lan rộng ra trong dân chúng, có người đọc trại là « Cần Thơ » 13, và danh từ ấy nghe cũng hay hay, nên được người ta dùng mãi đến ngày nay.
Còn một truyền thuyết khác nữa do các bô lão địa phương kể lại, nơi đây khi xưa có trồng rất nhiều loại rau cần và rau thơm, mỗi khi chủ vườn cắt rau đem đi bán, rao cùng đường : ai mua rau cần thơm không ?
Rau Cần, rau Thơm xanh mướt,
Mua mau kẻo hết, chậm bước không còn.
https://thuviensach.vn
Thiên hạ xúm nhau mua hai loại rau nầy rất nhiều, lâu ngày chầy tháng, danh từ rau Cần rau Thơm được giới bình dân phổ biến thành câu ca dao :
Rau Cần lại với rau Thơm,
Phải chăng đất ấy rau Thơm có nhiều.
Cũng có người lẩn thẩn gọi đại tên xứ đó là xứ Cần Thơ.
Hai giả thuyết nầy, không biết giả thuyết nào đúng ? Hoặc giả một địa danh mà có đến hai sự kiện xảy ra trùng hợp nhau ?
Hai tiếng Cần Thơ trở thành một địa danh từ thời bấy giờ.
Qua thời Pháp thuộc đến chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam phần và lập tòa bố tại Cần Thơ do nghị định ngày 23-2-1876 cũng vẫn giữ nguyên hai chữ Cần Thơ. Muốn cho phân biệt từ tỉnh một, Cần Thơ được mang con số 19, mỗi chiếc ghe ở trước mũi có khắc số, đi tới đâu người ta cũng nhận ghe số 19 của tỉnh Cần Thơ từ người lính garde civile locale của tỉnh, kêu là lính mã tà, mỗi lần di chuyển từ tỉnh nầy qua tỉnh nọ, hoặc giải tội nhơn lên Sài Gòn, trên cổ áo đều có gắn số 19 cũng như các tỉnh trong Nam Kỳ đều có một sắc thái tương tợ, nhưng chỉ khác biệt là con số tỉnh, để cho người ta phân biệt mà thôi.
Dưới chánh thể Việt Nam Cộng hòa, ngày 16-9-1958 tỉnh Cần Thơ lại thay tên đổi họ một lần nữa, đổi tên là tỉnh Phong Dinh, để nhắc lại cái tên cũ của thời xưa, cũng như Mỹ Tho đổi lại là Định Tường, Rạch Giá đổi lại Kiên Giang, Bến Tre đổi lại Kiến Hòa, chánh quyền có mỹ ý rất hay : gợi lại tinh thần tồn cổ với ý nghĩa cao đẹp của nó tự ngàn xưa, cốt làm sống lại tinh thần dân tộc.
Đây là một ít tài liệu tra cứu để giúp ích cho quí bạn đọc tìm hiểu qua danh từ xuất xứ của tỉnh Cần Thơ.
Ngày nay, Cần Thơ lại được mệnh danh là Tây đô văn vật.
https://thuviensach.vn
DÒNG HẬU GIANG NẮNG TRƯA ĐƯA KHÁCH
Thuyền lướt thủy triều chở khách sang
Sưu tầm kim cổ cảnh phong quang.
Phong Dinh đô thị càng xinh lịch
Tiếng dội vang đồn khắp Hậu Giang
Ảnh Văn Kinh (Phongdinh)
https://thuviensach.vn
PHẦN THỨ HAI : DANH NHÂN
- NHỮNG BẬC CÓ CÔNG KIẾN TẠO
- NHỮNG TRANG NGHĨA DŨNG
- VĂN THÂN CHÍ SĨ
https://thuviensach.vn
I. MẠC THIÊN TỨ
Người đã kiến lập vùng đất Trấn Giang từ năm 1793 tức nay là tỉnh Phong Dinh.
Thẳng thắn mà nói, miền Nam này, nhất là vùng Hậu Giang, một phần lớn công lao đã do cha con Mạc Linh Công (Mạc Cửu) đóng góp tâm não, máu xương bồi đắp mở mang ra. Phát tích từ đất Hà Tiên, cha con Mạc Cửu dần dần khai thác đất đai khắp miền Tây, hoàn thành 4 huyện đem dâng chúa Nguyễn : huyện Long Xuyên (Cà Mau), huyện Kiên Giang (Rạch Giá), huyện Trấn Di (Bạc Liêu) và huyện Trấn Giang (Cần Thơ). Chính huyện Trấn Giang có duyên nợ với Mạc Thiên Tứ và con là Mạc Tử Sanh nhiều nhất, nên ở phần hoài niệm danh nhân có nhiều thành tích với Cần Thơ, chúng tôi xin phép ghi chép tiểu sử họ Mạc vào đây cho hợp lý.
Mạc Thiên Tứ, cũng gọi là Mạc Thiên Tích, vốn tên thật là Mạc Tông, tự Sĩ Lân. Ông là con trưởng của Đại tướng Võ Nghi Công Mạc Cửu.
Tính Ông khí khái, học thức uyên bác, tài gồm văn võ. Ông đã cùng với cha dầy công khai thác đất đai Hà Tiên. Đến khi thân phụ Ông mất (1763), Ông được chúa Nguyễn Phúc Chu trọng vọng, phong cho làm Đô Đốc trấn Hà Tiên. Nối chí cha, Ông mở mang thêm vùng Hậu Giang, khai hoang lập ấp, tổ chức nội an, sắp đặt cơ cấu quân sự để phòng ngừa giặc ngoài và trừ dẹp trộm cướp trong xứ, đem lại yên vui cho dân chúng.
Về mặt văn hóa, giáo dục, Ông mở trường, rước thầy khai hóa cho dân. Thành lập một tao đàn lấy tên là « Chiêu Anh Các » nhóm họp 31 bạn văn chương ưu tú, cùng nhau xướng họa, tỏ chút tình hoài khiển hứng.
Những lúc quân Chân Lạp dấy lên, Ông cầm binh dẹp tan được cả, thâu lấy đất đai, mở thêm bờ cõi.
https://thuviensach.vn
Đinh Sửu 1757, Cao Miên có nội loạn, Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên. Ông giúp đỡ cho, hộ tống Nặc Tôn trở về an toàn. Nặc Tôn cắt đất dâng tạ. Ông càng phấn chấn bồi đắp non sông.
Nhâm Thìn 1772, vua Xiêm là Phi Nhã Tân đem quân tràn sang đánh phá Hà Tiên. Ông bất cẩn thất thủ thành trì. Quân giặc giết cả dân chúng trong thành. Ông lui về giữ Trấn Giang (Cần Thơ). Nơi đây, ông đã thiết lập mọi cơ cấu phòng thủ vững chãi, phòng khi nguy biến thì tiện đường rút lui mà củng cố hàng ngũ lại, quật khởi tấn công.
Đã từng mến mộ oai đức của Ông, nên dân chúng Trấn Giang đều sẵn sàng ủng hộ, làm hậu thuẫn cho Ông. Do đó Ông đẩy lui được quân Xiêm, đồng thời càng thêm nỗ lực tô điểm Trấn Giang ngày một tốt đẹp hơn lên cả về mọi mặt : chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự.
Có thể nói, sau cuộc tấn công của quân Xiêm mà Ông phải lui về Trấn Giang, Ông mới cảm thấy yêu mến Trấn Giang hơn bao giờ hết, nên dốc lòng tô điểm cho Trấn Giang chẳng kém gì công trình Ông đã xây dựng Hà Tiên.
Lại một điều nữa, càng khiến Ông thêm quyến Trấn Giang, coi như đây là giang san của ông, sau thứ hai Hà Tiên : Ất Vị 1775 chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (Duệ Tông) cùng với cháu là Nguyễn Ánh chạy vào Nam, tạm lánh quân Tây Sơn đang thắng thế truy kích. Hay tin, Ông đi thẳng lên Gia Định bái yết chúa Nguyễn, nguyện hứa trung thành. Chúa Nguyễn phong Ông là Quốc lão Đô Đốc Quận Công.
Rồi đó Ông trở về Trấn Giang, huy động quần chúng phù tá chúa Nguyễn chống Tây Sơn. Dân chúng Trấn Giang hết lòng tin tưởng Ông, nghe theo lời Ông hiệu triệu.
Chẳng bao lâu, Tây Sơn xua quân tràn xuống Hậu Giang. Miền Tây binh lửa dậy. Thảm họa nội chiến tràn lan. Con Mạc Thiên Tứ là Mạc Tử Sanh cầm binh chống nhau với quân Tây Sơn, bị địch giết chết. Thấy con
https://thuviensach.vn
đã hy sinh cho chúa Nguyễn, nhân dân Trấn Giang đã đóng góp máu xương khá nhiều trong trường chinh chiến, Ông đau lòng khôn xiết.
Đinh Dậu 1777, chúa Định Vương chạy xuống huyện Long Xuyên tức là Cà Mau, Tây Sơn đuổi theo và bắt sống chúa Nguyễn tại đấy, giải về Gia Định hành quyết. Nguyễn Ánh lên thay cầm binh quyền. Liệu thế không chống nổi, Mạc Thiên Tứ tách dặm băng ngàn sang Xiêm cầu viện.
Vua Xiêm là Phi Nhã Tân khi trước đã đem binh sang Hà Tiên, Trấn Giang đánh nhau với Mạc Thiên Tứ. Nay thấy Mạc Thiên Tứ sang cầu viện, lấy làm ngờ. Triều thần Xiêm lại lắm kẻ gièm pha, khiến Phi Nhã Tân càng hồ nghi Ông hơn nữa, ngờ Ông lập cơ mưu sang Xiêm dọ thám tình hình, để thừa dịp chiếm đoạt.
Nỗi buồn lo cho chúa Nguyễn đang cơn nguy khốn, nỗi hận gặp cảnh không may đến đỗi bị ngờ oan, Ông bèn nuốt vàng mà tự tử. Phái đoàn do Ông cầm đầu sang Xiêm lúc bấy giờ gồm có : Tôn Thất Xuân, hai người con của ông là Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Thượng và 50 tên quân đều chết theo ông, nhằm năm Canh Tý 1780.
Ông còn để lại đời một bộ « Minh bột di ngư » gồm có :
1. Hà Tiên vịnh vật thi tuyển
2. Châu Thị trinh liệt tặng ngôn
3. Thi truyện tặng Lưu tiết phụ
4. Thi thảo cách ngôn vị tập
Đề vịnh 10 cảnh đẹp Hà Tiên (Hà Tiên thập vịnh). Ông có 10 bài thơ chữ Hán khởi xướng, rồi 31 văn hữu trong nhóm « Chiêu anh Các » của Ông sáng lập, cùng nhau họa vần, mỗi vị họa đủ 10 bài, tổng cộng 320 bài. Sau Nguyễn Cư Trinh họa thêm 10 bài nữa, tất cả là 330 bài. Ngoài ra, Mạc Thiên Tứ chẳng những người văn hay võ giỏi, có tài điều binh khiển tướng, thông minh đĩnh ngộ, Ông lại được người đời xưng tụng là một thi nhân xuất sắc trong thời ấy.
https://thuviensach.vn
Bao nhiêu thi văn của Ông ngày nay trong lịch sử văn học còn ghi chép, chúng tôi chỉ trích ra một trong mười bài thập cảnh của Ông dưới đây để tượng trưng qua khí tiết của người xưa, nói lên chí khí can trường, lòng dũng cảm đứng trước phong ba lửa loạn, chống giặc xâm lăng không thối chí ngã lòng, quyết nêu cao thinh giá.
TRỐNG CANH GIANG THÀNH
Trống quân Giang thú nổi oai phong
Nghiêng giáng đòi canh ỏi núi sông ;
Đánh phá mặt gian người biết tiếng,
Vang truyền lịnh sấm chúng nghiêng hàng,
Phao tuôn đã thấy yên ba vạc,
Nhiệm nhặt chi cho lọt mảy lông,
Thỏ lụn sớm hầu trưa bóng ác,
Tiếng xe sầm sạt mới nên công.
Quí vị đã lãnh hội qua 8 câu thơ, để chứng tỏ khí phách hiên ngang với tinh thần thượng võ của Mạc Thiên Tứ như thế nào, người không màng đến sự nguy hiểm, trải thân với trái tim sắt thép, khuôn phò giúp chúa Nguyễn Ánh trọn lòng, nhưng chẳng may đến xứ lạ, người ta không hiểu được lòng chân thật của Ông với chuyến đi lịch sử, thà Ông cam tử tiết chớ không muốn cho miệng đời mỉa mai, hiểu lầm, cái chết vẫn còn trong cái sống muôn đời còn ghi tạc sử xanh. Nói đến quá trình của Mạc Thiên Tứ, chính Ông là người có công khai sáng vùng đất ở Hậu Giang, có liên quan đến Cần Thơ ngày xưa rất nhiều.
Nay soạn qua quyển « Cần Thơ xưa và nay » mà không nhắc đến công nghiệp của Ông thật là một điều thiếu sót cho việc sưu khảo.
Vì Mạc Thiên Tứ và con là Mạc Tử Sanh có duyên nợ nhiều với Phong Dinh, nên chúng tôi ghi lại vài nét tiểu sử cuộc đời Mạc Thiên Tứ vào đây, để quý bạn đọc thưởng thức chút văn tài của một vị Đô Đốc hào hoa phong
https://thuviensach.vn
nhã. Và bao nhiêu cảnh trí hữu tình, thơ hay về Hà Tiên, xin quý bạn đón xem ở quyển « Hà Tiên xưa và nay », cùng một tác giả, sẽ lần lượt ra mắt bạn đọc trong ngày gần đây.
https://thuviensach.vn
II. MẠC TỬ SANH
Tử nghĩa nơi rạch Tham tướng – Cần Thơ trong trận chống Tây Sơn
Đã dày công khai thác miền Nam, lại tận trung, tận lực với chúa Nguyễn đến thịt nát xương tan chẳng quản gì, thật không ai hơn họ Mạc. Từ đời cha cho đến đời con, đời cháu, không ai là không trung thành phục vụ đồng bào miền Tây, mặc dầu họ Mạc không phải là người Việt chính tông.
Đọc tiểu sử Mạc Thiên Tứ, chúng ta đã thấy Thiên Tứ từng hoạt động ở Trấn Giang (Cần Thơ) mà con ông là Mạc Tử Sanh càng phục vụ nhân dân Trấn Giang nhiều hơn nữa. Thậm chí Mạc Tử Sanh đã bỏ mình nơi Trấn Giang, mà vùng rạch Tham tướng ngày nay là nơi lưu dấu vết Ông.
Mạc Tử Sanh, con của Quốc lão Đô đốc Quận công Mạc Thiên Tứ. Ông đã từng sát cánh với cha trong việc khai thác vùng Hậu Giang, đặc biệt là vùng huyện Trấn Giang. Trong khi thân phụ Ông ngồi trấn Hà Tiên, Ông vâng mạng đi tiếp xúc với chánh quyền Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bạc Liêu) và Long Xuyên (Cà Mau), tận tâm mưu ích lợi cho dân chúng.
Nhâm Thìn 1772, quân Xiêm tràn sang đánh phá Hà Tiên. Ông đương cự với quân địch nhiều trận quyết liệt, mở đường máu cho thân phụ Ông rút quân về Trấn Giang đóng giữ. Vì quân địch hung hăng bạo tợn, đốt phá cả thành trì, tàn hại dân chúng vô số kể ! Đau lòng căm hận, Ông cùng thân phụ lui giữ Trấn Giang, một mặt bố trí phòng thủ chặt chẽ, một mặt chỉnh đốn binh đội, phản công quân Xiêm. Dưới quyền chỉ huy của ông, tinh thần quân sĩ lên cao, dũng cảm xông pha giết giặc. Địch quân kinh hoàng, tan vỡ trước khí thế hào hùng quyết tử của quân dân ta.
Sau trận đánh đuổi quân Xiêm, Hà Tiên và Trấn Giang tổn thất nhân mạng và tài sản khá nặng nề. Vì quân địch tàn bạo hiếu sát, kéo tới đâu thì đốt phá giết hại đến đấy. Mạc Tử Sanh đôn đốc dân chúng tái thiết những công trình đổ vỡ, an ủi những gia đình tang tóc. Lòng nhiệt thành lo cho
https://thuviensach.vn
dân chúng của Ông, khiến người người đều cảm mộ oai đức, xưng tặng Ông là bậc thiếu niên anh hùng.
Chưa yên ổn được bao lâu, bỗng lại được tin Tây Sơn đã thắng thế, đánh đuổi chúa Nguyễn chạy vào Gia Định, Mạc Thiên Tứ vội vã đến Gia Định bái yết chúa Nguyễn, tỏ dạ trung thành. Chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần lấy làm cảm động, tín nhiệm nơi sự ủng hộ của cha con Mạc Thiên Tứ, phong Thiên Tứ làm Quốc lão Đô đốc, tước Quận công, Mạc Tử Sanh thì được phong làm Tham tướng.
Rồi đó Mạc Tử Sanh cùng với thân phụ hiệu triệu nhân dân Trấn Giang hãy sẵn sàng phù tá chúa Nguyễn đang khi thất quốc lưu vong. Nhờ uy tín cha con Ông, chúa Nguyễn được hầu hết dân chúng và các hào kiệt Trấn Giang, Trấn Di, Long Xuyên (Cà Mau) hưởng ứng, lớp đầu quân, lớp chiêu tập được đông đảo nghĩa binh theo về với chúa Nguyễn, chống Tây Sơn.
Đinh Dậu 1777, đại binh Tây Sơn ồ ạt tấn công, đánh tràn xuống Hậu Giang. Chúa Nguyễn Phúc Thuần thua luôn mấy nơi, chạy tuốt xuống Cà Mau. Tây Sơn đuổi đến Cần Thơ (xưa là Trấn Giang), Mạc Tử Sanh huy động quân sĩ cả hai mặt thủy, bộ ngăn chống hùng dũng.
Nhưng thinh thế Tây Sơn quá lừng lẫy. Thủy binh, bộ binh của Tây Sơn bấy giờ rất mạnh và giao tranh rất dũng liệt, tiến đến đâu như thác đổ sóng cuộn ầm ầm, không gì ngăn chống nổi. Mạc Tử Sanh vẫn gan liền chiến đâu, mặc dầu tin cấp báo liên tiếp về sự tan vỡ của các đội quân khắp mặt trận quanh vùng.
Cuối cùng sức người có hạn, Mạc Tử Sanh bị quân địch vây khốn, chết trong trận nơi khoảng rạch « Tham tướng » ở Cần Thơ ngày nay. Sở dĩ con rạch nầy mang tên là « Tham tướng » vì Mạc Tử Sanh là một vị Tham tướng 14.
Đời Minh Mạng, nhà vua truy phong Mạc Thiên Tứ làm thần « Đạt Nghĩa », Mạc Tử Sanh thì làm thần « Trung Nghĩa » tước Chính lý hầu.
https://thuviensach.vn
MỘ LÃNH BINH VÕ DUY TẬP
Mộ ông Võ Duy Tập, một võ tướng ở Phong Dinh, khuôn phò hai triều Gia Long và Minh Mạng. Ngôi cổ mộ này đã trên một thế kỷ, hiện nay nằm ở sau công sở xã Long Tuyền. Người đứng trong bức ảnh chính là tác giả. Ảnh Trần Văn Bé (Phongdinh)
https://thuviensach.vn
III. CHÁNH LÃNH BINH VÕ DUY TẬP
Sống vi tướng, thác vi thần
Trải xem lịch sử, nhân vật ưu tú của Cần Thơ thuở xa xưa, bên văn kể đã nhiều, bên võ há chẳng có ai ? Một Nguyễn Văn Tồn chưa đủ, vì đó là người Việt gốc Miên, chưa làm thỏa mãn được lòng người Việt chánh tông. Một Mạc Tử Sanh thì là người Việt gốc Hoa, lại cũng chẳng phải chánh quán Cần Thơ, chỉ vì có công ơn với nhiều đồng bào Cần Thơ nên chúng tôi mới liệt kê vào hàng danh nhân của Cần Thơ. Thế thì về hàng võ tướng, Cần Thơ chịu nhượng Định Tường, Long Hồ, An Giang, và chịu nhượng cả dân huyện Long Xuyên (Cà Mau) hay sao ?
Do chỗ thắc mắc băn khoăn tìm hiểu ấy, chúng tôi may được các vị bô lão ở Bình Thủy thông cảm, hướng dẫn chúng tôi đi chiêm ngưỡng ngôi mộ một vị Chánh Lãnh binh triều Minh Mạng. Băng đồng, lội ruộng chẳng quản gì vất vả, chúng tôi đã nghe thấy sự tích hào hùng đáng kể :
Võ Duy Tập người xã Long Tuyền, huyện Phong Phú (Cần Thơ xưa), con ông Võ Nguyên, xuất thân nông dân.
Gặp buổi trong nước thường loạn lạc, ông chuyên tâm học võ. Thân phụ ông có ý chẳng bằng lòng : « Sao con chẳng cố công đèn sách học hành, có văn chương chữ nghĩa, bảng vàng bia đá phải đẹp mặt hơn không ? »
Ông từ tốn thưa : « Dầu văn hay võ, hễ biết lập chí cứu dân giúp đời thì đều vinh hiển cả. Nhất là đang thời giặc giã, theo đường võ nghệ để cứu nguy non nước, bảo an lê thứ mới là chước hay. Xin cha an lòng ».
Nghe khẩu khí của ông, thân phụ ông mừng thầm, kỳ vọng ở ông một tương lai xán lạn.
https://thuviensach.vn
Từ ấy, ông thường tỏ chí khí hào hùng, nghĩa hiệp cứu giúp người cô thế bị áp bức. Xa gần đều mến chuộng tài đức.
Đến khi chúa Nguyễn Ánh tránh loạn Tây Sơn, mấy lượt lui tới Cần Thơ, hằng tỏ dạ kính hiền lễ sĩ, cầu bậc lương tài phò nguy cứu quốc. Võ Duy Tập tìm hiểu thời thế ít lâu, bèn ra đầu quân giúp chúa Nguyễn. Ông từng chiến đấu với quân Tây Sơn nhiều trận quyết liệt. Nhưng thời thế chưa làm nên được, ông ôm hận theo phò chúa Nguyễn trên khắp nẻo đường lưu vong, cùng chia cay đắng ngọt bùi.
Đinh Vị 1787, thinh thế chúa Nguyễn đã dần dần dấy lên. Binh đội càng lúc càng tăng tiến hùng mạnh, đánh đâu thắng đó. Võ Duy Tập hiên ngang lập nhiều chiến công trong các trận đánh ở Ba Rài (Mỹ Tho), Trà Ôn, tên tuổi lẫy lừng.
Xảy được tin loạn tướng Cao Miên là Ốc Nha Long theo về với quân Tây Sơn, đánh phá vùng Cần Thơ, chúa Nguyễn khiến ông đem binh đi dẹp. Ông cùng các vị phó tướng dẫn quân từ Sa Đéc đến Cần Thơ, xuất kỳ bất ý bao vây loạn quân. Toán quân Miên do Ốc Nha Long chỉ huy không chống cự nổi, tan vỡ cả. Chiếm lại Cần Thơ xong, ông được lịnh rút quân về Nước Xoáy (Sa Đéc) là nơi đại bản dinh của chúa Nguyễn, sung vào bộ tham mưu, thảo kế hoạch tiến binh khắc phục Saigon Gia Định.
Suốt mười mấy năm tận lực cùng chúa Nguyễn, đến ngày thống nhất non sông, chung hưởng thanh bình, ông nghiễm nhiên là vị tướng lãnh công cao trọng vọng, làm rạng vẻ miền Tây một thuở.
Đến đời vua Minh Mạng, ông càng được tín nhiệm hơn. Nhà vua thường giao trọng trách cho ông đi dẹp giặc giã nhiều nơi trong nước. Với chức vụ Chánh Lãnh binh, ngày đêm ông tận tâm lo việc an ninh cho dân chúng, rất được lòng dân kính mộ.
Bấy giờ, giặc Cao Miên thường khuấy rối các vùng Tịnh Biên, Châu Đốc. Dân tình khốn khổ xôn xao. Ông được lịnh của quan Trấn thủ An
https://thuviensach.vn
Giang đem binh đi đánh. Tài thao lược của ông một lần nữa đem thi thố, khiến lũ giặc kinh tâm tán đởm, vỡ chạy cả. Từ ấy, thinh danh ông lan rộng khắp miền Tây.
Tuổi về già ông vẫn còn cầm binh đánh dẹp giặc Miên ở Sóc Trăng, và bỏ mình tại Bưng Trop. Linh cữu đưa về an táng nơi cố quán xã Long Tuyền.
Hiện nay mộ ông nằm sau miếng ruộng cách công sở Long Tuyền độ 200 thước. Ngôi mộ lúc trước ghép bằng đá ong. Sau trong gia tộc miêu duệ làm vòng thành bằng gạch.
Tấm bia nơi mộ nêu rõ tên họ : CHÁNH LÃNH BINH VÕ DUY TẬP – hai bên có hai câu đối :
Trung liệt phong thanh liêu bất hữu,
Anh hùng chánh khí lãnh như thinh
Tiếc rằng ngày ông mất có khắc rõ nơi bia nhưng lâu năm đã bị nắng mưa soi không còn đọc được hầu tiện bề tra cứu thêm trong lịch sử.
Gần đây, khoảng 1943, hội Khảo cổ Việt Nam có đến quan sát, nghiên cứu hẳn hoi.
Sống làm tướng, thác làm thần, anh linh ông hiển hách, được triều đình ban sắc phong thần. Tại đình Khánh Hưng (Sóc Trăng) hãy còn thờ phụng ông, khói hương không ngớt.
Năm 1946, ban tế tự đình thần Khánh Hưng có tìm đến lễ lăng ông và yêu cầu các bô lão tại xã Long Tuyền cho thỉnh hài cốt ông về mai táng trước đình thần. Nhưng cuộc xin lấy cốt không được các vị bô lão Long Tuyền chấp thuận. Vì các bô lão cho rằng mộ ông đã nằm nơi đây trên 100 năm, trong làng được bình an sung túc, đó là một điềm lành cho dân ở đấy. Hằng năm, đến lễ thanh minh, con cháu ông đều có về đây cúng tế.
https://thuviensach.vn
Bên cạnh các tướng lãnh tài ba trong đời vua Gia Long, Minh Mạng, như Lê Văn Duyệt được tôn thờ ở Bà Chiểu Gia Định, Nguyễn Huỳnh Đức ở Long An, Nguyễn Văn Nhơn ở Sa Đéc và Tống Phước Hiệp, Tống Phước Hòa ở Vĩnh Long v.v… một Võ Duy Tập còn lăng mộ nơi Bình Thủy và được phụng thờ nơi đình thần Khánh Hưng (Sóc Trăng) kể ra cũng vinh diệu cho Cần Thơ chẳng ít.
Nếu đương thời không quên oai linh ông Điều bát Nguyễn Văn Tồn ở Trà Ôn, thiết tưởng không thể không nhắc đến mộ ông Lãnh binh Võ Duy Tập ở xã Long Tuyền. Ông là người của Cần Thơ, của miền Tây, lúc sống ông đã phục vụ dân chúng miền Tây tận tâm tận lực, đến chết nắm xương cũng gởi vào lòng đất miền Tây tận tâm tận lực, đến chết nắm xương cũng gởi vào lòng đất miền Tây, đáng thương đáng kính. Có lẽ cũng cảm khích mà chạnh tưởng như chúng tôi đã tỏ bày tâm tư trên đây, nên đồng bào xã Long Tuyền ngày trước có tạc bức chân dung ông bằng lụa nổi, phụng thờ tại đình Bình Thủy.
Chúng tôi chẳng những đã lội ruộng băng đồng viếng mộ ông, lại lòng luống bùi ngùi xót cảnh, muốn lưu chút kỷ niệm người nay cảm thông luyến tiếc người xưa qua tinh thần tồn cổ, nên chụp ngay bức ảnh ngôi mộ ông. Rồi để tăng chứng tích hơn lên, đồng thời để gợi niềm khát khao tìm biết tìm hiểu của quý bạn tri âm ở khắp nơi, chúng tôi lại thăm viếng làng Bình Thủy, may mắn được chiêm ngưỡng bức chân dung ông thờ tại đình thần. Một tấc lòng thành, cổ kim cùng chung mối cảm.
Người xưa dẫu khuất trăm năm cũ,
Phưởng phất tinh anh vẫn mãi còn.
Theo tài liệu của ông Chủ tịch xã Long Tuyền là ông Nguyễn Hữu Báu : Hiện ông Võ Duy Tập còn người chắt ngoại là cô Sáu Sấu, chủ một khách sạn ở Cần Thơ. Và tại Sóc Trăng cũng còn nhiều thân nhân của ông Tập.
https://thuviensach.vn
IV. NGUYỄN VĂN TỒN
Người Việt gốc Miên trung thành cùng vua Gia Long lưu danh hiển hách nơi Trà Ôn
Kể ra người Việt gốc Miên theo giúp chúa Nguyễn Ánh khi bôn ba trên đường tẩu quốc cũng khá nhiều. Nhưng xuất sắc nhất, duy chỉ có Ông Điều bát Nguyễn Văn Tồn, thinh danh hiển hách ngay khi còn sống và đến lúc đã về thần.
Ông vốn người gốc Miên, chính tên là Duồng 15. Võ nghệ khá cao cường, oai hùng vang tiếng gần xa, người người đều kiêng nể. Gặp khi chúa Nguyễn Ánh chạy xuống Trấn Giang (Cần Thơ), Ông theo phù tá. Nhờ dũng lực của Ông, chúa Nguyễn thoát lắm cơn nguy hiểm, nên rất tin cẩn Ông, hằng cho theo hầu cận. Ông hết dạ trung thành, lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh che chở cho chúa Nguyễn trong vòng binh đao khói lửa, liều thân chẳng quản ngại gì.
Giáp Thìn 1784, sau hằng trăm trận giao phong đều chẳng thâu hoạch được thắng lợi như ý nguyện, liệu thế chưa đánh đuổi Tây Sơn nổi, chúa Nguyễn chạy sang nước Xiêm lưu trú, ẩn thân nơi Vọng Các. Bấy giờ, Ông vẫn theo hầu chúa Nguyễn ; hàng ngày Ông lãnh nhiệm vụ thao luyện đám binh sĩ, chiêu mộ thêm các tay hào kiệt, cương quyết chờ ngày kéo về dẹp tan Tây Sơn, đưa chúa Nguyễn lên ngôi.
Với ý chí sắt đá, Ông rất tin tưởng ở sự thắng lợi cuối cùng.
Tinh thần phấn chấn đầy tự tin của Ông khiến chúa Nguyễn cũng chan chứa hy vọng thống nhất non sông, cùng nhau hăm hở đem binh trở về.
Tây Sơn vẫn hùng dũng chiến đấu. Đôi bên giao tranh lắm trận ác liệt kinh hồn. Tại cửa Ba Lai, đạo binh của Ông phá vỡ đoàn quân của Đô đốc Tây Sơn, nâng cao tên tuổi Ông từ đấy.
https://thuviensach.vn
Dần dần binh chúa Nguyễn Ánh thắng thế ở khắp nơi, trong đó công lao của Nguyễn Văn Tồn không kém gì những chiến tích oanh liệt của các danh tướng khác. Vả lại, dù Ông không phải là người Việt chính tông, mà tấm lòng và thái độ của Ông đối với chúa Nguyễn và các chiến hữu rất mực thành tín, nên ai nấy đều xem ông như đồng bào ruột thịt, chẳng ai ganh ghét gì.
Khắc phục thành Gia Định xong, đại binh chúa Nguyễn tiến thẳng ra Trung, Bắc, Nguyễn Văn Tồn vẫn theo trong quân. Tại thành Bình Định, Ông thúc quân đánh rất hăng, lập chiến công oanh liệt, nổi danh hổ tướng.
Ít lâu, Ông phụng mạng trở vào trong Nam, dẹp các đám giặc cướp, mưu cuộc an ninh cho dân chúng. Nhất là tại Trà Ôn (một quận cũ của tỉnh Phong Dinh ngày trước), Ông ra tài tảo thanh côn đồ trộm cướp thừa thời loạn mà dọc ngang khuấy rối dân lành, xếp đặt trị an đâu ra đấy, khiến dân chúng Trà Ôn cảm đức, tên tuổi Ông bia truyền khắp miệng người.
Nhâm Tuất 1802, chúa Nguyễn Ánh lên ngôi tức vua Gia Long. Ông được phong chức Điều Bát. Ông càng nỗ lực hoàn thành sứ mạng bảo quốc an dân.
Khi Cao Miên có nội chiến, Ông được cử theo đại quân sang đóng tại thành La Bích. Với thanh thế quân ta, với uy tín của Ông, chẳng mấy ngày Ông bình định xong cuộc nổi loạn ở Cao Miên và lãnh trọng trách bảo hộ. Những thành tích tốt đẹp của ông, khiến vua Gia Long tin tưởng, mến chuộng Ông thêm, triệu Ông về lo cho dân nước. Để tăng uy tín và thanh danh Ông, hầu phục vụ dân nước được đắc lực hơn, nhà vua phong Ông làm Thống chế. Ở vào địa vị cao tột, Ông càng nỗ lực phục vụ nhân dân, nên càng được quần chúng kính mộ.
Tại trấn Vĩnh Thanh (Vĩnh Long), Ông phụ lực với Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu), đào kinh Vĩnh Tế nối liền Châu Đốc với Hà
https://thuviensach.vn
Tiên. Công nghiệp này, tên tuổi Ông gắn liền với công nghiệp của Thoại Ngọc Hầu, khiến đời sau nhắc nhở đến với lòng khâm phục.
Canh Thìn 1820, Ông mất, dân chúng đều thương tiếc. Triều đình phái các quan lại cao cấp vào điếu tế.
Nay tại làng Thiện Mỹ, Trà Ôn hãy còn đền thờ ông. 16
https://thuviensach.vn
CHI MỘ THỦ KHOA BÙI HỮU NGHĨA
Ngôi mộ này nằm ở mé tay mặt đường đi Bình Thủy quẹo vô một khu vườn chừng 500m, là nơi an nghỉ ngàn thu của nhà chí sĩ đất Tây Thành. Ảnh Trần Văn Bé (Phongdinh)
https://thuviensach.vn
V. BÙI HỮU NGHĨA (1807-1872)
Bùi Hữu Nghĩa hiệu Nghi Chi sanh năm Đinh Mão (1807), nhằm năm Gia Long thứ sáu tại làng Long Tuyền (Bình Thủy), Cần Thơ. Thân sanh là Bùi Hữu Vi làm nghề hạ bạc.
Thuở nhỏ, Nghĩa đeo đuổi theo Hán văn ; nhờ thông minh và hiếu học, Nghĩa học rất mau giỏi.
Khi học lực của Nghĩa đã khá, thì cha cho lên Biên Hòa, ở đậu nơi nhà hộ trưởng Nguyễn Văn Lý, tại làng Mỹ Khánh, tổng Chánh Mỹ Thượng mà thọ giáo với ông đồ Hoành.
Tháng hai năm Ất Vị (1835), thi hương ở Gia Định, Nghĩa đậu Giải Nguyên, tiếng tăm lừng lẫy. Hộ trưởng Lý rất mừng, dọn tiệc khoản đãi và ngỏ ý cho người con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Tồn về nâng khăn sửa trắp.
Nghĩa xin thưa cùng cha mẹ rồi sẽ tính việc hôn nhân.
TRÊN ĐƯỜNG HOẠN
Thi đỗ rồi không bao lâu, Nghĩa được bổ làm Tri huyện tại phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa. Nghĩa kết duyên với Nguyễn Thị Tồn, lịnh ái hộ trưởng Lý.
Ở Biên Hòa được ít lâu, Nghĩa lại được triều đình thuyên chuyển đến trấn nhậm tại phủ Trà Vang (Trà Vinh), tỉnh Vĩnh Long, tùng sự dưới quyền Tổng đốc Trương Văn Uyển và Bố chánh Truyện.
Nghĩa tánh tình cang trực, chẳng bợ đỡ ai, mà cũng chẳng tư vị ai, từng đánh đòn cậu công tử ỷ mình là em vợ Bố chánh Truyện mà xấc xược với Nghĩa. Và cũng vì tính ngay thẳng thanh liêm mà Nghĩa che chở công lý bị cường quyền đè nén, rồi vì đó Nghĩa mới bị quan trên hãm hại.
https://thuviensach.vn
Khi vua Gia Long còn là chúa Nguyễn Ánh, bị Tây Sơn đánh đuổi, nhờ dân Cao Miên ở Trà Vang quyên giúp lương hướng rất nhiều và phần đông cũng có tùng quân đánh giặc nữa. Đến khi tức vị (1802), vua Gia Long nhớ ơn xưa, xuống chiếu miễn thuế vĩnh viễn thủy lợi nơi rạch Láng Thé cho dân Thổ hưởng nhờ chung.
Dè đâu có tên khách trú vận động lo lót với Tổng đốc Trương Văn Uyển và Bố chánh Truyện là quan đầu tỉnh Vĩnh Long, mua được thủy lợi Láng Thé.
Mệ sóc và các hương mục Thổ kéo nhau đến kiện với Tri huyện Bùi Hữu Nghĩa. Nghĩa xử rằng : « Việc tha thủy lợi là ân huệ của vua Thế Tổ ; nay ai nhỏ hơn vua Thế Tổ mà đứng bán rạch ấy thì có chém đầu nó cũng không sao ».
Dân Cao Miên tức thì mừng rỡ, phá đập bửa rọ của tên khách trú kia. Hai đàng gây cuộc huyết chiến, rốt cuộc có bảy tám tên khách trú bị chém chết.
Dân Thổ bị bắt, Tổng đốc và Bố chánh bắt luôn Thủ khoa Nghĩa gởi về Gia Định, rồi đệ sớ về Triều, cáo quan huyện về tội tự tiện giết người.
Trước nỗi ức tình ấy, bà Thủ khoa một mặt ra tận Huế thân oan, một mặt nhờ quản Kiệm, em bạn dì của Thủ khoa, lo việc ăn cắp tờ chiếu của Triều đình Huế gửi vô dạy xử tội Thủ khoa, mà giấu đi, cho đủ ngày giờ đi tới Huế minh oan.
NƠI TÒA TAM PHÁP
Bà thủ khoa xuống Mỹ Tho kiếm ghe bầu chịu tiền quá giang ra Huế.
May mắn thay cho Thủ khoa và bà vợ, vì lúc ấy Phan Thanh Giản làm Lại bộ Thượng thơ tại trào.
https://thuviensach.vn
Đến nơi, bà Thủ khoa tìm dinh quan Thượng Thơ tỏ nỗi hàm oan của chồng, tường thuật sự lộng quyền của các quan tỉnh Vĩnh Long và tỏ ý mình muốn đến Tam Pháp Ty kêu oan. Phan Thanh Giản bèn chỉ biểu đường đi nước bước và làm giúp bà một tờ trạng tỏ nỗi khúc oan.
Bà học thuộc lòng tờ trạng, rồi đêm kia, lối canh năm, bà đến đền vua, nổi ba hồi trống. Vua Tự Đức lâm triều, thâu đơn của bà rồi giao cho Bộ Hình thẩm xét. Bộ Hình lấy cung chiêu thẩm định rồi tuyên án Thủ khoa như vầy : « Tha cho Bùi Hữu Nghĩa khỏi tử hình, song phải quân tiền hiệu lực, đái công chuộc tội ».
Từ Dũ Thái Hậu đòi bà Thủ khoa vô cung, tỏ lời khen và ban cho một tấm biển đề bốn chữ vàng : « Liệt phụ khả gia ».
Sau bà Thủ khoa về ninh gia tại Biên Hòa rồi bị bịnh tạ thế nơi đó.
Khi bà tạ thế thì Nghĩa mắc trấn nhậm ở Châu Đốc, nên phải quàn bà lại rất lâu, đợi Nghĩa về đọc một bài văn tế lâm ly thống thiết rồi mới an táng tại làng Tân Hiệp, tổng Chánh Mỹ Thượng, tỉnh Biên Hòa.
ĐOẠN ĐỜI CUỐI CỦA THỦ KHOA NGHĨA
Khỏi tội chết chém, Nghĩa bị đổi đi làm chức thủ ngữ ở Vĩnh Thông (Châu Đốc) đánh dẹp dân Cao Miên làm loạn. Giặc yên đặng ít lâu, lại nổi lên làm phản nữa. Chuyến nầy, Nghĩa với quan quân bị bắt rất nhiều, song Nghĩa được tha trở về Tịnh Biên.
Thấy nhiều kẻ xu quyền phụ thế, quan lại quá ư tham tàn, Nghĩa xin hồi hưu trở về quê quán tại Bình Thủy (Cần Thơ), mở trường dạy học, vui thú thanh nhàn.
Về đường miêu duệ thì Nghĩa sanh hạ :
- với bà chánh thất Nguyễn Thị Tồn được một gái, hai trai : Bùi Thị Xiêm – Bùi Hữu Vàng – Bùi Hữu Tú
https://thuviensach.vn
- với bà kế thất là Lưu Thị Hoán được 1 gái, 3 trai : Bùi Thị Bè – Bùi Hữu Khánh Bùi Hữu Sanh – Bùi Hữu Út.
Ngày 21 tháng giêng năm Nhâm Thân, nhằm năm Tự Đức thứ 26 (1872), nhà văn hào Bùi Hữu Nghĩa từ giã cõi trần, hưởng thọ được 66 tuổi.
Hiện thời mộ Nghĩa ở trong vườn Vĩnh Lộc của Đốc phủ Dương Thân Hỷ (thuộc về làng Long Tuyền Bình Thủy) tỉnh Cần Thơ. Trước mộ có tấm bia đá của con Nghĩa là Bùi Hữu Tú dựng, khắc mấy chữ :
« Đại Nam Hiển khảo Giải nguyên Bùi phủ quân chi mộ. Tốt vu Nhâm Thân niên chánh ngoạt nẩm nhứt nhựt. Nam Bùi Hữu Tú kỉnh lập ».
Bấy giờ tại chùa Nam Nhã ở Bình Thủy có ba thần chủ thờ Thủ khoa Nghĩa với bà chánh thất và bà kế thất. Trước bàn Phật lại có bài vị thờ nữa.
SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
Thủ khoa Nghĩa rất sở trường về thi văn. Lúc bấy giờ có người truyền tụng câu sau nầy :
« Đồng Nai có bốn rồng vàng ;
Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi »
cũng đã biết Nghĩa là một bực cự phách trong làng thi miền Nam về giữa thế kỷ 19.
Người ta biết Nghĩa nhiều là do quyển tuồng « Kim thạch kỳ duyên », văn chương đặc sắc, lời lẽ gọn gàng.
Kế đó là mấy bài văn tế : Văn tế vợ, Văn tế con gái, Văn vợ Thổ tế chồng Chệt.
Mấy bài Thơ Nôm : Cây vông, Cây bần, Thợ bạc, Kinh quá Hà âm cảm tác, Câu cá, Ngũ Tử Tư xuy tiêu, Quan công thất thủ, Bị giam ở Vĩnh Long.
https://thuviensach.vn
Và mấy bài thơ chữ Hán làm lúc trấn nhậm Châu Đốc, lúc hồi hưu về Bình Thủy.
Nghĩa có soạn hai bổn tuồng khác là « Tây Du » và « Mậu Tòng »
VỀ QUYỂN TUỒNG « KIM THẠCH KỲ DUYÊN »
Quyển tuồng nầy ai cũng công nhận là hay, hay cả văn chương lẫn sự tích.
Thủ khoa Nghĩa dùng rất nhiều chữ Hán mà làm văn trong bổn tuồng nầy, viết đã có lớp lang phép tắc mà lại còn đối đáp phải chừng, rất chọi nữa. Chỗ nào dùng nôm thì dùng một cách rất khéo, nhứt là lựa những câu tục ngữ phong dao mà xếp đặt cho đối chọi nhau cả lời lẫn ý.
Văn tài của Nghĩa còn hiện ra khi tả tâm lý của mỗi người, người thế nào cho nói ra lời thế ấy : đứa gian nịnh, khách ăn chơi, kẻ tham tàn, gã hung dữ có cái tâm thế nào, khi nó vừa mở lời ra thì người ta đã biết ; bậc trung trực, đấng hiền lương, nhà lễ giáo, hạng anh tài cũng vậy, lời nói tỏ lòng người.
Song vì Nghĩa dùng chữ Nho quá nhiều, điển tích cũng lắm, cho nên những người quốc văn non nớt đọc bổn tuồng nầy, khó lòng mà hiểu nổi.
Lược thuật sự tích trong bổn tuồng « Kim thạch kỳ duyên » :
« Kim Ngọc con của Ngạn Yêm, Tri huyện Bồ Thành, đã hứa hôn với Ái Châu con của Lâm Vượng là một nhà phú hộ.
Ngạn Yêm đi trấn nhậm, giữa đường bị giặc bắt, Kim Ngọc nhảy xuống sông, nhờ tiểu đồng trung tín là Dũ Đức cứu đặng, song mắc lấy bịnh phong, dưỡng bịnh ba năm trong chùa không mạnh, về quê xin cưới Ái Châu, Lâm Vượng đem nữ tỳ Thạch Vô Hà gả thế.
Vô Hà là con lương y Thạch Đạo Toàn, vì nhà gặp biến mà phải bán mình cho Ái Châu. Đạo Toàn trị Kim Ngọc lành bịnh, chàng thi đỗ Trạng
https://thuviensach.vn
Nguyên, hai lần cùng em vợ là Thạch Hữu Quang dẹp giặc, cha con được trùng phùng, vua phong vương tước.
Ái Châu kết duyên với Ái Lang, con trai Tri huyện Lợi Đồ, Tri huyện tham lam bị kiện, bị giam, gia sản của anh ta và luôn của ông sui là Lâm Vượng đều bị tịch biên.
Sự đời có vay có trả, Ái Châu bị bán cho phu nhân Vô Hà. Không chừa lòng lang dạ độc, bị Kim Ngọc đuổi khỏi nhà, nhập vào lầu xanh, vướng bịnh phong tình sau tự vẫn… »
TRÍCH LỤC ÍT BÀI THƠ CỦA THỦ KHOA NGHĨA
Khi đi sứ sang Xiêm, ban đêm ngang qua huyện Hà Âm (nay là Giang Thành, Hà Tiên), thấy đống xương của bọn thổ phỉ bị giết hồi đời Minh Mạng còn chồng chất ngùn ngụn, Nghĩa có làm bài thơ sau đây :
KINH QUÁ HÀ ÂM CẢM TÁC
Mịt mù mây đen kéo tối dầm,
Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm :
Đống xương vô định sương phao trắng,
Vũng máu phi thường cỏ nhuộm thâm
Gió trốt dật dờ nơi chiến lũy,
Đèn trơi leo lét dặm u lâm.
Nghĩ thương con tạo sao dời đổi,
Vắn vỏi đêm trường tiếng dế ngâm.
Kể qua cuộc đời của cụ để lại cho đời một sự nghiệp văn chương vô giá, chúng tôi chỉ trích ra một ít vần thơ để tưởng niệm bậc nhơn tài của đất nước với lòng cảm mến vô biên.
Sau khi soạn xong phần tiểu sử của các danh nhân ở miền Tây, chúng tôi sợ còn thiếu sót, thân hành đến Phong Dinh để tìm thêm tài liệu, may
https://thuviensach.vn
mắn được gặp ông Phan Trung Hàm, hiện là một công chức, người sanh trưởng tại đây lâu năm, có tinh thần hiếu cổ. Ông vui vẻ hướng dẫn chúng tôi đến các vị bô lão, thân hào nhân sĩ Tây Đô, ghé qua biệt thự ông Cao Văn Hùng, lại gặp ông Nguyễn Văn Giai là cháu ngoại cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa cũng có mặt nơi đây. Ông Nguyễn Văn Giai năm nay 82 tuổi, trước kia là một giáo chức tại Cần Thơ. Mặc dù nay tuổi đã già nhưng trông rất khỏe mạnh, ăn nói chững chạc, không lẫn lộn chi cả. Ông tươi cười kể qua đôi nét quá trình của cụ Thủ khoa là ngoại tổ của ông cho chúng tôi ghi chép những tài liệu xác thực được trình bày vào quyển sách nầy.
Xuyên qua những việc làm của người xưa đã nêu cao tấm gương trung liệt, ý chí bất khuất đáng cho hậu thế noi gương, chúng tôi cần biên soạn lại, hiến cho quí bạn đọc dễ hiểu thêm các danh nhân nổi tiếng ở Cần Thơ của thời xa xưa, được người đời ngưỡng mộ đến tài đức. Ngày nay mỗi lần nhắc đến văn học sử thì không thể quên được các cụ, tuy đã ra người thiên cổ nhưng tên tuổi vẫn còn sống mãi với non sông. 17
(Trích Danh Nhân Nước Nhà)
https://thuviensach.vn
VI. NGUYỄN THỊ TỒN
Từ Vĩnh Long ra tận đế đô kêu oan cho chồng, được đức Từ Dũ Thái Hậu khen ngợi
Nhắc đến cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa mà không nhắc đến người bạn trăm năm của cụ với lòng kính mộ, thì là một sự khiếm khuyết. Bà Thủ khoa Nghĩa thật đáng phục là người tận tụy với chồng, ít có ai hơn. Thảo nào về sau cụ Thủ khoa Nghĩa chẳng thống thiết tỏ lòng thương tiếc Bà trong mấy áng văn bất hủ.
Bà Thủ khoa Nghĩa nhũ danh là Nguyễn Thị Tồn, con ông Hộ trưởng Nguyễn Văn Lý ở làng Mỹ Khánh, tổng Chánh Mỹ Thượng, tỉnh Biên Hòa. Thân phụ Bà đã nuôi cụ Bùi Hữu Nghĩa ăn học đến thành tài, và gả Bà, khi cụ Thủ khoa xuất chính làm Tri huyện Phước Long (Biên Hòa).
Ít lâu, chồng đổi xuống tỉnh Vĩnh Long trấn nhậm phủ Trà Vang (Trà Vinh), Bà theo chồng, chăm lo cho chồng chu đáo.
Bấy giờ, có người em vợ Bố chánh Truyện rất xấc xược du đãng. Cụ Thủ khoa bắt, phạt trượng. Do đó, sinh sự thù hiềm.
Sau, nhân có việc dân Miên bất bình thượng cấp làm điều trái phép, cụ Thủ khoa lại can thiệp. Nguyên từ trước, chúa Nguyễn Ánh bôn ba tẩu quốc, từng nhờ đám dân Miên ở Trà Vinh giúp lương thực và tòng quân trợ lực. Đến khi lên ngôi, nhớ ơn ấy, nhà vua xuống chiếu miễn thuế thủy lợi cho dân Miên. Ít lâu, có nhóm người Huê kiều lo lót với Tổng đốc Trương Văn Uyển và Bố chánh Truyện, mua thủy lợi ấy.
Ức lòng, các hương mục người Miên kéo nhau đến dinh môn cụ Thủ khoa để kiện. Cụ xử : « Việc xá thuế thủy lợi là ơn huệ của Đức Cao hoàng ban ân bố đức cho dân Miên, nay ai nhỏ hơn Đức Cao hoàng mà đứng bán rạch ấy thì có chém đầu nó cũng không sao ».
https://thuviensach.vn
Dân Miên nghe xử, bèn phá đập của nhóm Huê kiều. Đôi bên gây hấn, chém nhau, chết mất 8 người Huê kiều.
Đám dân Miên bị bắt mà cụ Thủ khoa cũng bị Tổng đốc và Bố chánh khép vào tội chủ mưu, áp giải lên Gia Định, rồi đệ sớ về Triều, cáo tội cụ lạm phép.
Bà Thủ khoa lặn lội ra tận đế đô (Huế), trước vào yết kiến cụ Thượng thư Bộ Lại Phan Thanh Giản tại tư dinh, sau thẳng đến Tam Pháp Ty gióng ba hồi trống kêu oan. Tờ trạng của Bà được đệ lên nhà vua. Vua Tự Đức giao cho Tam Pháp Ty xét xử.
Tam Pháp Ty gồm có nhân viên cao cấp của Bộ Hình, Đô sát viện và Đại lý, lập tức nhóm họp. Chính vua Tự Đức chung thẩm bản án như sau : « Tha tội tử hình cho Bùi Hữu Nghĩa, song phải sung quân, lập công chuộc tội ».
Riêng Bà, được đức Từ Dũ Thái Hậu (thân mẫu vua Tự Đức), phong tặng tấm biển đề 4 chữ « Liệt phụ khả phong » và tặng cho cái võng, trên có 4 cái gang.
Cứu được chồng khỏi chết, nhưng vẫn phải chịu đau lòng cách biệt chồng lúc sung quân, Bà về thẳng quê nhà ở Biên Hòa. Chẳng mấy tháng Bà vương bệnh qua đời !
Mộ Bà tại làng Tân Hiệp, tổng Chánh Mỹ Thượng, tỉnh Biên Hòa. Hiện nay nơi làng Long Tuyền (Bình Thủy), có thờ linh vị hai Ông Bà trong ngôi chùa 18 do môn đệ của cụ Thủ khoa là Nguyễn Giác Nguyên xây dựng.
Cụ Thủ khoa sau đó tỏ cảm tình tha thiết với Bà : « Đất chẳng phải chồng, sao nỡ thịt xương hòa với đất ; Trời không chết vợ, đặng coi gan ruột thử cho Trời ».
Chưa tỏ hết sự đau lòng thương cảm người vợ đã trọn tình, trọn nghĩa với mình, Cụ Thủ khoa viết thêm đôi liễn thờ : « Ngã chi bần khanh độc
https://thuviensach.vn