🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Căn Hầm Tối - Robert Dugoni full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Dành tặng người em rể của tôi, Robert A. Kapela: Mong rằng em sẽ tìm thấy bình an, tình yêu và hạnh phúc trong vòng tay của Chúa, điều mà em đã không tìm thấy trong những năm cuối cùng của cuộc đời mình.
PHẦN 1
“Thà để mười kẻ có tội trốn thoát còn hơn để một người vô
tội bị oan uổng.
Sir William Blackstone
Commentaries on the Laws of England
CHƯƠNG 01
Giáo viên bộ môn Chiến thuật tại Học viện Cảnh sát vẫn thường khiêu khích các học viên vào mỗi buổi tập lúc sáng sớm. “Giấc ngủ là thứ được đề cao quá mức.” Ông ta nói. “Các cô các cậu sẽ học cách sống thiếu nó.”
Ông ta đã nói dối.
Giấc ngủ cũng giống như tình dục vậy. Càng thiếu, người ta lại càng thèm. Mà dạo gần đây, Tracy Crosswhite bị thiếu cả hai thứ đó. Cô vươn vai và cổ. Toàn thân cô cứng đờ và uể oải. Cô chẳng thể dành ra thời gian để chạy bộ vào buổi sáng, cũng chẳng nhớ nổi mình đã được ngủ trong bao lâu. Bác sĩ nói cô ăn quá nhiều đồ ăn nhanh và uống quá nhiều caffein. Lời khuyên của bác sĩ tốt thật đấy, nhưng mỗi khi Tracy phải điều tra một vụ án mạng thì lấy đâu ra thời gian để tập thể dục và ăn uống điều độ bây giờ? Nếu mà phải bỏ caffein nữa thì cô chẳng khác gì một cái xe hết xăng. Cô sẽ chết mất nếu thiếu caffein. “Ồ, Giáo sư lại đến sớm kìa! Vừa có ai chết à?”
Vic Fazzio tựa vòng eo đáng nể của mình vào bàn làm việc của Tracy. Câu nói đùa của Faz tuy chẳng mới mẻ gì nhưng không bao giờ nhàm chán khi được nói ra bằng chất giọng New Jersey khàn khàn ấy. Với mái tóc muối tiêu vuốt ngược ra sau, thân hình ngổn ngộn thịt, người đàn ông tự xưng là Italian Gumba của đội điều tra án mạng chắc chắn giành được vai diễn gã vệ sĩ thầm lặng trong một bộ phim về mafia. Faz đang cầm trên tay một quyển sách mượn từ thư viện và ô chữ của tờ Thời
báo New York. Điều đó có nghĩa là cà phê đã bắt đầu ngấm. Faz khá nổi tiếng với việc ngồi lì ít nhất nửa tiếng trong nhà vệ sinh mỗi khi giải ô chữ hoặc đọc một chương sách hấp dẫn. Chúa cứu rỗi những ai phải vào nhà vệ sinh lúc ông đang ở trong đó.
Tracy đưa cho ông một xấp hình chụp hiện trường mà cô đã in ra sáng nay. “Một vũ công trên phố Aurora.”
“Tôi có nghe qua. Lại mấy trò biến thái đó hả?”
“Tôi đã từng chứng kiến hiện trường những vụ án tình dục tệ hơn thế này.” Cô nói.
“À, tôi quên mất. Cô đánh đổi chuyện chăn gối của mình để có thời gian chạy theo mấy vụ án mạng.”
“Dù sao án mạng vẫn dễ thở hơn.” Cô đáp gọn, cướp luôn câu chốt của Faz.
Cô vũ công, Nicole Hansen, được tìm thấy trong tình trạng bị trói tay chân trong một căn nhà nghỉ rẻ tiền tại khu phố Aurora. Một đầu dây thòng lọng buộc vào cổ cô ta, đầu còn lại chạy dọc theo sống lưng, trói vào cổ tay và cổ chân. Một sự chuẩn bị rất công phu! Tracy đưa cho Faz báo cáo giám định pháp y. “Cô ta bị chuột rút khiến các cơ co thắt lại. Khi đó, cô ta duỗi chân ra cho đỡ đau, và đã vô tình tự thắt cổ chính mình. Nghe tuyệt vời chứ hả?”
Faz xem xét bức hình một cách tỉ mỉ. “Cô không nghĩ rằng họ có thể lợi dụng một cái nút tuột hay gì đó để thoát ra ư?”
“Như thế sẽ rất lôgic, phải không?”
“Vậy giả thuyết của cô là gì? Có kẻ đã ở đó và vui vẻ nhìn cô ta chết?” “Cũng có thể chúng làm hỏng chuyện, hoảng quá nên chạy trốn. Nhưng dù thế nào thì cô ta cũng không thế tự trói mình được.” “Biết đâu cô ta làm được thì sao. Giống như Houdini ấy.” “Houdini chỉ tự cởi trói chứ không tự trói mình. Đó là trò ảo thuật,
Faz à!” Tracy lấy lại bản báo cáo cùng những tấm hình từ tay Faz rồi đặt lên bàn làm việc. “Chính vì vụ này mà tôi mới đang ngồi đây vào cái giờ dở hơi này, chỉ có tôi, anh và những con dế.”
“Tôi và những con dế đã ở đây từ lúc năm giờ, Giáo sư à! Cô biết điều mà người ta vẫn nói đó. Chim đến sớm thì bắt được sâu.” “Vâng, con chim đến sớm này đã mệt đến mức còn chẳng biết có con sâu nào bò lên và cắn vào mông nó nữa kìa.”
“Thế Kins đâu rồi? Sao anh ta để cô tận hưởng mọi thứ một mình thế này?”
Cô nhìn đồng hồ. “Tốt hơn hết là anh ta nên mua cho tôi một cốc cà phê, nhưng với tình hình này, chắc tôi sẽ phải tự đi pha rồi.” Cô gật đầu khi nhìn thấy quyển sách Faz đang cầm.
“Giết con chim nhại à? Ấn tượng đấy!”
“Tôi đang cố gắng tự hoàn thiện bản thân.”
“Vợ anh chọn sách cho anh phải không?”
“Chuẩn đấy!” Faz tự đẩy tấm thân mình ra khỏi cạnh bàn. “Đã đến giờ tôi phải dùng đến trí óc rồi. Con chim nhại đang hót, và tôi thì đang thấm từng chữ.”
“Anh nói nhiều quá đây, Faz!”
Faz đi ra rồi lại quay lại cùng cây bút chì trên tay. “Này Giáo sư, giúp tôi với! Tôi cần một từ có chín chữ cái để trả lời cho câu ‘Cái gì làm cho khí đốt trở nên an toàn?’”
Tracy từng là giáo viên dạy môn Hóa ở trường trung học trước khi đổi nghề và đăng ký vào Học viện Cảnh sát. Biệt danh của cô được đặt từ hồi cô còn ở trường.
“Mercaptan.” Cô nói.
“Gì cơ?”
“Mercaptan. Người ta cho nó vào khí đốt để nếu ga bị rò rỉ trong nhà thì sẽ ngửi thấy ngay.”
“Cô không đùa chứ? Nó có mùi gì?”
“Lưu huỳnh. Anh biết đây, mùi trứng thối.” Cô đánh vần từng chữ. Fazzio ngậm đầu bút chì rồi viết những chữ cái lên tờ báo. “Cảm ơn cô!”
Khi Faz vừa rời khỏi, Kinsington Rowe đi vào ô làm việc của đội A và đưa cho Tracy một trong hai chiếc cốc dài.
“Tôi xin lỗi!” Anh nói.
“Tôi đang định gọi cho đội tìm người mất tích để giải cứu anh.” Đội A là một trong bốn đội điều tra án mạng của ban Tội phạm Bạo lực, mỗi đội gồm bốn điều tra viên. Tracy, Kins, Faz và Delmo Castigliano – nửa còn lại của Bộ đôi Người Ý Năng động – hợp thành một nhóm. Họ ngồi ở bốn cái bàn trong bốn góc của ô làm việc, quay lưng vào nhau. Tracy thích như vậy. Án mạng luôn là tâm điểm của mọi sự chú ý, và chuyện riêng tư cá nhân luôn là điều rất xa xỉ. Ở giữa ô là một cái bàn làm việc xếp chồng chất các hồ sơ vụ án. Ngoài ra, mỗi người đều có những tập hồ sơ mà họ đang điều tra trên bàn của mình. Tracy lắc cái cốc. “Hỡi thứ nước vừa ngọt vừa đắng thần thánh, hãy đến đây với ta nào!” Cô nhấp một ngụm rồi liếm chút bọt còn sót trên môi. “Sao anh đến muộn thế?”
Kins ngồi xuống, khuôn mặt nhăn nhó. Từng là một trung vệ suốt bốn năm đại học và một năm ở Giải bóng bầu dục quốc gia, Kins phải giã từ sự nghiệp kể từ khi bác sĩ chẩn đoán nhầm một chấn thương khiến cho anh bị thoái hóa khớp hông. Anh cần phải phẫu thuật thay khớp, tuy nhiên anh vẫn đang cố chịu đựng vì chỉ muốn phẫu thuật một lần duy nhất. Những cơn đau sẽ được anh tạm thời giải quyết bằng cách uống Advil*.
“Hông của anh đau lắm à?” Cô hỏi.
“Thường thì chỉ khi nào trời lạnh tôi mới đau như thế này.” “Vậy thì đi chữa đi! Anh còn chờ đợi gì? Tôi nghe nói loại phẫu thuật này giờ nhanh gọn lắm!”
“Chẳng có gì là nhanh gọn khi bác sĩ chụp một cái mặt nạ lên đầu cô và nói chúc ngủ ngon.”
Kins đưa mắt nhìn về hướng khác, khuôn mặt vẫn nhăn nhó. Đó là dấu hiệu cho thấy ngoài cái hông thì vẫn còn có chuyện gì đó đang làm anh buồn phiền. Sau sáu năm kề vai sát cánh, Tracy biết Kins là người như thế nào. Cô hiểu tâm trạng và biểu cảm trên khuôn mặt anh. Chỉ cần nhìn anh vào mỗi buổi sáng, cô sẽ biết anh vừa trải qua một đêm tồi tệ hay sung sướng. Kins là cộng sự điều tra án mạng thứ ba của cô. Người đầu tiên được phân công làm việc với cô, Floyd Hattie, đã tuyên bố rằng ông ta thà nghỉ hưu còn hơn phải làm việc cùng một phụ nữ. Rốt cuộc ông ta nghỉ hưu thật. Người thứ hai làm cùng cô trong sáu tháng cho tới khi vợ anh ta gặp Tracy ở một bữa tiệc thịt nướng. Cô ta không thể chịu nổi việc chồng mình đang ngồi chung phòng với một ả tóc vàng ba mươi sáu tuổi, cao mét bảy tám và còn độc thân.
Khi Kins xung phong cộng tác với Tracy, cô có vẻ hơi nhạy cảm. Tốt thôi, nhưng còn vợ anh thì sao? Cô hỏi. Liệu có vấn đề chết tiệt gì với cô ấy không?
Tôi hy vọng là không, Kins nói. Với ba đứa con nhỏ chưa đầy tám tuổi, chúng tôi còn nhiều trò vui khác để làm với nhau.
Cô lập tức nhận ra anh sẽ là một cộng sự ăn ý. Họ bắt tay hợp tác với nhau – một sự hợp tác hoàn toàn vô tư và không có chút ân hận gì cả. Và sự hợp tác ấy đã kéo dài được sáu năm.
“Hình như có điều gì đó đang làm phiền anh à, Kins?”
Kins thở dài và ngước nhìn ánh mắt chằm chằm của cô.
“Billy chặn tôi ở sảnh.” Anh nhắc đến Billy, viên trung sĩ quản lý đội A.
“Tôi hy vọng rằng anh ta có lý do chính đáng để khiến cà phê của tôi đến trễ. Tôi đã muốn giết người đấy.”
Kins không cười. Bản tin thời sự buổi sáng từ cái ti-vi treo trên tường ô làm việc của đội B đang vọng vào trong ô làm việc của họ. Có tiếng chuông điện thoại reo đâu đó nhưng không ai nhấc máy.
“Có phải là chuyện liên quan đến vụ Hansen không? Sếp rầy la anh vì vụ đó?”
Anh lắc đầu. “Billy nhận được một cuộc gọi từ văn phòng giám định pháp y, Tracy.” Anh nhìn vào mắt cô. “Hai người thợ săn tìm thấy một bộ hài cốt ở trên đồi tại Cedar Grove.”
CHƯƠNG 02
Các ngón tay của Tracy siết lại một cách háo hức. Cơn gió nhẹ quen thuộc ngày hôm đó thổi qua vạt chiếc áo khoác đã bạc màu của cô. Cô chờ cho cơn gió ngừng hẳn. Sau hai ngày thi đấu, chỉ còn một hiệp bắn để chọn ra nhà vô địch của giải Bắn súng Cao bồi bang Washington năm 1993. Ở tuổi hai mươi hai, Tracy đã giành chiến thắng ba lần nhưng năm ngoái cô đã đánh mất danh hiệu vô địch vào tay Sarah, cô em gái kém cô bốn tuổi. Năm nay, hai chị em đều vào tới vòng chung kết, gần như cân tài cân sức.
Trọng tài trường bắn giơ chiếc đồng hồ bấm giờ gần tai Tracy. “Tới lượt của cô rồi đấy, Crossdraw!” Ông ta thì thầm. Biệt danh cao bồi của cô vừa là cách chơi chữ dựa trên họ của cô, vừa là tên loại bao súng mà cả cô và Sarah đều ưa thích.
Tracy bẻ cụp vành chiếc mũ Stetson xuống, hít một hơi thật sâu, và bày tỏ lòng kính trọng đối với bộ phim về miền Viễn Tây hay nhất trong lịch sử. ‘Rút súng ra đi, đồ chó đẻ!’*
Đồng hồ bấm giờ kêu bíp bíp.
Cô rút khẩu súng Colt ra khỏi chiếc bao bên trái bằng tay phải, lên cò roi bắn. Tay trái của cô cũng đã rút súng và lên cò, bắn hạ mục tiêu thứ hai. Lấy được nhịp điệu và tốc độ, cô nổ súng nhanh đến mức gần như chẳng còn nghe thấy tiếng keng của mỗi viên đạn giữa tiếng súng nổ.
Tay phải. Lên cò. Bắn.
Tay trái. Lên cò. Bắn.
Tay phải. Lên cò. Bắn.
Cô nhắm vào mục tiêu ở hàng dưới cùng.
Phải, bắn.
Trái, bắn.
Ba phát súng cuối cùng nổ liên tiếp. Pằng. Pằng. Pằng. Tracy quay súng rồi đập chúng xuống mặt bàn gỗ.
“Ngưng!”
Một vài khán giả vỗ tay, nhưng tiếng vỗ tay của họ dần tắt lịm khi họ nhận ra điều mà Tracy đã thừa biết.
Mười phát súng. Nhưng chỉ có chín viên trúng.
Mục tiêu thứ năm ở hàng dưới cùng vẫn còn đang đứng thẳng. Tracy đã bắn trượt.
Ba người giám sát đứng gần đó mỗi người giơ một ngón tay lên để xác nhận. Phát bắn trượt của cô đã phải trả một cái giá rất đắt, cộng thêm năm giây phạt vào tổng thời gian của cô. Tracy nhìn về phía mục tiêu, không tin vào mắt mình. Tuy nhiên, có nhìn chằm chằm vào nó cũng không thể làm cho nó đổ xuống được. Cô cầm lấy những khẩu súng của mình một cách miễn cưỡng, thảy vào bao rồi đứng qua một bên.
Bây giờ mọi ánh mắt đều đổ dồn vào Sarah, có biệt danh ‘Đứa Trẻ’.
Chiếc xe kéo mà cha đã tự tay làm cho hai chị em chở súng đạn giờ đang lắc lư và kêu cót két khi Tracy và Sarah kéo nó qua đoạn dường rải sỏi
dẫn vào bãi đỗ xe. Phía trên đầu, bầu trời đang tối sầm lại. Cơn dông kéo đến sớm hơn so với những gì phát thanh viên dự báo thời tiết đã nói. Tracy mở khóa thùng của chiếc xe Ford màu xanh, hạ cửa hậu xuống rồi vòng ra phía trước Sarah. “Chuyện quái gì đã xảy ra vậy?” Cô chẳng thể nói nhỏ được.
Sarah ném chiếc mủ đang đội vào trong thùng xe, mái tóc vàng óng của cô xòa qua vai. “Chuyện gì ạ?”
Tracy giơ chiếc khóa thắt lưng bạc dành cho nhà vô dịch lên. “Chị biết em không bao giờ bắn trượt hai phát. Em nghĩ chị ngốc chắc?” “Lúc đấy trời nổi gió.”
“Em nói dối thật tệ, em biết không?”
“Chị cũng là kẻ thắng cuộc thật tệ.”
“Bởi vì chị không tự thắng cuộc, em đã để cho chị thắng.” Tracy chờ cho hai khán giả gần đó đi qua rồi mới nói tiếp. Trời bắt đẩu đổ mưa. “Thật may là bố không có mặt ở đây.” Cô nói. Ngày Hai mươi mốt tháng Tám là kỉ niệm ngày cưới lần thứ hai mươi lăm của bố mẹ cô, và James ‘Doc’ Crosswhite không thể nói với vợ mình rằng ông sẽ bỏ kỳ nghỉ ở Haioaii để kỉ niệm ngày cưới ở một trường bắn đầy bụi bặm giữa trung tâm thành phố. “Chị đã nói với em rồi. Chúng ta phải cố gắng hết sức, nếu không người khác sẽ nghĩ rằng mọi chuyện đều đã được sắp đặt.”
Trước khi Sarah kịp đáp lời, có tiếng bánh xe lăn trên mặt sỏi tiến đến gần. Tracy tạm quên đi câu chuyện với Sarah khi cô nhìn thấy Ben đang ngồi trên chiếc xe tải màu trắng. Anh lượn một vòng quanh chiếc xe Ford, nở một nụ cười với hai chị em từ trong buồng lái. Cho dù anh và Tracy đã hẹn hò với nhau hơn một năm nhưng lần nào nhìn thấy Tracy, anh cũng luôn cười.
“Chúng ta sẽ bàn tiếp về chuyện này khi chị về nhà vào ngày mai.” Tracy nói với Sarah rồi bước tới để đón Ben. Lúc đó, anh vừa bước xuống
từ buồng lái và đang khoác lên mình chiếc áo da mà Tracy đã tặng anh vào dịp Giáng sinh. Họ trao nhau một nụ hôn. “Xin lỗi, anh tới muộn. Kẻ nào đã ra luật không được uống rượu bia khi lái xe chắc chắn chưa lái xe qua Tacoma bao giờ. Anh có đủ thời gian để nhâm nhi hết một chai bia.”
Ben liếc thấy chiếc khóa thắt lưng trên tay Tracy khi cô vuốt phẳng cổ áo cho anh.
“Em thắng rồi à?”
“Vâng, em đã thắng.” Cô đưa mắt nhìn chằm chằm vào Sarah. “Chào Sarah!” Giọng nói và ánh nhìn của Ben có vẻ bối rối. “Chào Ben!”
“Em sẵn sàng chưa?” Anh hỏi Tracy.
“Đợi em một phút.”
Tracy cởi áo khoác cùng chiếc khăn quàng màu đỏ rồi ném cả hai vào thùng xe. Cô ngồi lên mé cửa sau chiếc xe, giơ một chân lên để nhờ Sarah tháo hộ chiếc giày bốt. Bầu trời đã ngả màu đen kịt. “Chị không thích em lái xe một mình trong thời tiết thế này.”
Sarah ném chiếc giày vào thùng xe. Tracy giơ chân còn lại lên cho Sarah nắm lấy gót giày. “Em đủ mười tám tuổi rồi. Em có thể tự lái xe về nhà. Chị làm như ở đây chưa từng mưa bao giờ vậy.”
Tracy quay sang Ben. “Em nghĩ nên để con bé đi theo tụi mình.” “Sarah sẽ không muốn làm thế đâu. Phải không em?”
“Đương nhiên là em không muốn đi theo rồi.” Sarah đáp. Tracy xỏ chân vào một đôi giày đế bằng. “Nhưng trời sắp có dông kìa.”
“Thôi nào Tracy! Chị cứ làm như em là đứa trẻ mười tuổi vậy.” “Bởi vì em cư xử như một đứa mười tuổi!”
“Bởi vì chị coi em giống một đứa mười tuổi!”
Ben nhìn đồng hồ. “Tôi rất tiếc phải cắt ngang cuộc tranh luận ở đây, thưa các cô. Nhưng Tracy à, chúng ta cần phải đi ngay bây giờ nếu như muốn đến kịp giờ đặt chỗ.”
Tracy đưa túi đồ của mình cho Ben xách lên xe rồi quay lại dặn dò Sarah. “Nhớ đi trên đường cao tốc.” Cô nói. “Đừng có đi vào xa lộ quận. Trời vừa tối vừa mưa to, sẽ không nhìn thấy gì trên đường đâu.” “Nhưng về bằng xa lộ quận nhanh hơn.”
“Đừng có cãi chị! Nhớ đi đường cao tốc, và quay lại đúng đường.” Sarah chìa tay ra định cầm lấy chìa khóa xe.
“Hứa với chị đi!” Tracy nói, quyết không buông tay khỏi chùm chìa khóa khi chưa nghe thấy lời hứa của Sarah.
“Thôi được, em hứa!” Sarah đặt tay lên ngực.
Tracy dúi chùm chìa khóa vào tay Sarah và nắm các ngón tay cô lại. “Lần tới, nhớ bắn hạ hết những mục tiêu chết tiệt đó, nghe chưa?” Nói rồi, cô quay đầu định đi.
“Còn mũ của chị nữa.” Sarah nói.
Tracy cởi chiếc mũ Stetson màu đen và chụp nó lên đầu Sarah. Sarah lè lưỡi. Tracy như muốn nổi điên, nhưng cứ nhìn Sarah là cô chẳng thể nào nổi điên được. Tracy nở một nụ cười. “Đồ ranh con!”
Sarah cũng đáp lại bằng một nụ cười toe toét. “Vâng, có phải vì thế mà chị yêu em không?”
“Phải, chính vì thế mà chị lúc nào cũng yêu em.”
“Anh cũng yêu em.” Ben nói với Tracy. Anh chồm qua buồng lái để mở cửa phía bên kia của chiếc xe. “Và anh sẽ yêu em hơn nếu như chúng ta tới kịp giờ đặt chỗ.”
“Em tới ngay đây!” Tracy đáp.
Cô nhảy lên xe và sập cửa. Ben vẫy tay chào Sarah rồi nhanh chóng
quay đầu xe, hướng về phía hàng dài những chiếc xe ở lối ra. Những giọt mưa rơi xuống trước ánh đèn xe tải trông như những hạt vàng nóng chảy. Tracy rướn người nhìn ra phía cửa sổ. Sarah vẫn đứng dưới mưa, nhìn họ đi khỏi. Tracy đột nhiên cảm thấy muốn quay lại, như thể cô đã bỏ quên thứ gì đó.
“Mọi chuyện ổn chứ?” Ben hỏi.
“Em không sao.” Cô nói, cho dù cảm giác kia vẫn còn. Cô nhìn thấy Sarah xòe tay ra. Nhận ra điều mà Tracy đã làm, con bé lại nhìn về phía chiếc xe tải.
Tracy đã dúi cả chiếc khóa thắt lưng bạc vào tay Sarah cùng với chùm chìa khóa.
Và trong suốt hai mươi năm sau, Tracy không còn nhìn thấy cả hai thêm lần nào nữa.
CHƯƠNG 03
Trên đường quay về, Roy Calloway, cảnh sát trưởng thị trấn Cedar Grove, vẫn mặc bộ đồ đi câu và đội chiếc mũ may mắn, nhưng cảm xúc của ông giờ đã rời khỏi con thuyền đáy bằng lênh đênh trên mặt nước. Calloway lái xe một mạch từ sân bay về tới đồn cảnh sát với bà vợ ngồi lặng lẽ ở ghế bên. Cả hai đều không vui vẻ gì khi chuyến đi câu của họ bị rút ngắn. Đây là kỳ nghỉ thực sự đầu tiên của hai người trong bốn năm liền. Bà còn chẳng buồn hôn ông khi ông xuống xe, và ông cũng quyết định sẽ không đề cập thêm về chuyện này. Chắc chắn ông sẽ phải nghe bà cằn nhằn trong bữa tối. Ông sẽ nói những câu đại loại như “Đây là việc gấp không thể trì hoãn được.” Và bà sẽ đáp lại rằng “Tôi đã nghe ông nói câu đó suốt ba mươi tư năm rồi.”
Calloway bước vào phòng họp rồi đóng cửa. Phụ tá của ông, Finlay Armstrong, đang mặc bộ đồng phục bằng vải kaki, đứng ở một đầu chiếc bàn gỗ thô. Finlay trông có vẻ nhợt nhạt dưới ánh đèn huỳnh quang, tuy rằng vẻ ngoài của anh trông vẫn còn tươi tắn hơn nhiều so với nước da xanh xao của Vance Clark. Công tố viên của quận Cascade đang ngồi ở đầu kia của căn phòng, trông rất ốm yếu. Chiếc áo khoác thể thao của ông ta buông thõng trên ghế, nút thắt cà-vạt đã tuột xuống, cổ áo để mở. Clark chẳng buồn đứng dậy, chỉ khẽ gật đầu chào Calloway.
“Tôi rất xin lỗi vì ngài phải quay về, thưa thủ trưởng.” Armstrong đang đứng trước bức tường treo chân dung của tất cả các cảnh sát trưởng ở Cedar Grove. Tấm hình của Calloway treo ở góc ngoài cùng
bên phải cũng đã được ba mươi tư năm. Ở tuổi sáu lăm, ông vẫn giữ được nét phong độ giống như người đàn ông trong bức hình đó. Duy có một điều ông không thể chối cãi mỗi khi nhìn vào gương lúc thức dậy, đó chính là dấu vết của năm tháng. Những góc cạnh cùng đường nét như được chạm trổ trên khuôn mặt giờ đã trở thành những nếp nhăn già nua, mái tóc của ông cũng thưa đi nhiều và đã ngả sang màu xám.
“Đừng bận tầm về việc đó, Finlay.” Calloway thảy chiếc mũ của mình lên bàn rồi kéo một cái ghế để ngồi. “Hãy kể cho tôi nghe cậu tìm thấy gì.”
Ở tuổi ngoài ba mươi, Armstrong trông cao và gầy. Anh đã làm việc cùng Calloway hơn một thập kỷ. Anh cũng là người chuẩn bị được treo hình trên bức tường phòng họp. “Sáng nay, Todd Yarrow gọi điện đến. Lúc ông ấy và Billy Richmond đi ngang qua khu đất cũ Cascadia để tới chòi săn vịt thì con chó Hercules của họ ngửi thấy mùi gì đó. Yarrow nói họ đã phải mất quá trời thời giờ mới gọi được nó về. Họ phát hiện con chó đang ngậm vật gì trong miệng. Yarrow tưởng đó là một cái que, nhưng lúc cầm nó lên, ông ẩy thấy tay mình dính một thứ nhờn nhờn màu trắng. Billy nói: ‘Đó là một khúc xương.’ Họ cũng không bận tâm nhiều vì nghĩ rằng Hercules đào được một cái xác hươu. Sau đó, con chó lại chạy đi và sủa ầm ĩ. Lần này họ đuổi theo nó và thấy nó đang bới đất. Yarrow gọi nhưng nó không nghe nên ông ấy đã túm lấy vòng cổ của nó để kéo đi. Rồi ông ấy nhìn thấy cái này.”
“Cái này là cái gì?” Calloway nói.
Armstrong bấm bấm vài cái trên chiếc iPhone rồi vòng qua bàn. Calloway lấy cặp kính lão ra khỏi túi áo khoác rồi đeo lên mắt. Ông chẳng thê buộc mồi vào dây câu nếu như không mang kính. Calloway cầm lấy chiếc điện thoại, giơ cao lên để nhìn cho rõ. Armstrong rướn người qua vai ông, dùng ngón tay để phóng đại hình ảnh. “Những đoạn màu trắng này là những cái xương. Đây là một bàn chân.”
Những mảnh xương bị vùi lấp trong đất, giống như một mẫu hóa thạch đang được khai quật. Armstrong gạt sang những tấm hình chụp bàn chân ấy và toàn bộ khu vực đó từ những góc độ và khoảng cách khác nhau. “Tôi đã bảo bọn họ đánh dấu lại chỗ đó và gặp tôi ở chỗ họ đậu xe. Họ để khúc xương ở trong xe jeep của Todd.” Armstrong tiếp tục lướt ngón tay trên màn hình và dừng lại ở bức hình chụp một khúc xương đặt bên cạnh một cây đèn pin. “Nhà nhân chủng học ở Seattle muốn xem kích thước của nó. Bà ấy nói trông nó giống xương đùi.”
Calloway liếc nhìn về phía cuối căn phòng, nhưng ánh mắt của Vance Clark vẫn chăm chăm hướng xuống mặt bàn. Calloway dành quay lại hỏi Armstrong. “Cậu đã gọi giam định pháp y chưa?”
Armstrong cầm lại điện thoại của mình và đứng thẳng dậy. “Họ bảo tôi nói chuyện với một nhà nhân chủng học pháp y.” Anh kiểm tra lại các ghi chứ của mình. “Kelly Rosa. Bà ấy bảo họ sẽ gửi một nhóm chuyên viên tới đây, nhưng chắc phải sáng mai họ mới đến nơi. Tôi đã phân công Tony ngồi canh ở hiện trường để chắc chắn không có con vật nào bén mảng tới. Chắc sẽ cần có ai đó thay ca cho anh ta.”
“Bà ấy nghĩ đó là xương người ư?”
“Tôi không chắc lắm, nhưng bà ấy nói đó đúng là chiều dài của một khúc xương đùi phụ nữ. Ngài biết cái chất nhờn màu trắng mà Yarrow đã kể không?” Armstrong lại kiếm tra ghi chú của mình. “Bà ấy bảo đó là chất sáp mỡ, là mỡ đã phân hủy. Có mùi như thịt thối vậy. Nếu đúng là thế thì cái xác đã được chôn ở đó một thời gian rồi.”
Calloway gập cặp kính của mình rồi nhét nó trở lại túi áo. “Cậu không phiền nếu phải dẫn họ tới đó khi họ đến đây chứ?” “Vâng, không vấn đề gì.” Armstrong đáp. “Vậy thủ trưởng cũng ở lại đây chứ?”
Calloway đứng dậy. “Tôi sẽ ở đây.” Ông mở cửa, định đi kiếm một ly
cà phê, nhưng câu hỏi tiếp theo của Armstrong đã làm ông dừng lại. “Thủ trưởng nghĩ đó có phải là cô ấy không? Cô gái bị mất tích từ những năm chín mươi ấy?”
Calloway nhìn qua vai Armstrong về hướng Clark đang ngồi. “Tôi nghĩ chúng ta sẽ biết được điều đó là đúng hay sai.”
CHƯƠNG 04
Những vạt nắng sớm xuyên qua tán lá dày, in bóng xuống bức tường đá chạy dọc hai bên đường. Một thế kỷ trước, người ta đã phá núi non ở đây bằng thuốc nổ và cuốc xẻng để làm đường cho những chuyến xe khai thác mỏ. Nước ngầm ẩn sau kẽ đá phun ra như những dòng nước mắt, chảy xuống, cuốn theo bụi đất cùng quặng bạc. Tracy lái xe như người mất hồn, đầu óc hoàn toàn trống rỗng. Cô không bật radio. Bên giám định pháp y chưa cung cấp thêm bất kỳ thông tin gì. Lúc đó, Kelly Rosa đang đi vắng, và nhân viên trực chỉ có thể xác nhận những gì mà Kins đã nói với cô. Một cuộc điện thoại từ cảnh sát ở Cedar Grove cùng bức hình chụp một thứ trông như xương đùi người, được một con chó của hai người thợ săn tìm thấy khi họ đang đi tới chòi săn trên núi tại thị trấn Cedar Grove.
Tracy đi vào lối rẽ quen thuộc, quẹo trái ở đoạn đường có biển báo Stop rồi đi tiếp khoảng một phút thì vào khu Phố Chợ. Cô dừng lại ở cột đèn tín hiệu lẻ loi duy nhất trong khu buôn bán của Cedar Grove, ngắm nhìn nơi đã từng là quê nhà của mình, nhưng giờ đây trông nó đã tàn tạ đến mức lạ lẫm.
Tracy nhét chỗ tiền lẻ vào trong túi quần bò rồi cầm lấy hộp bắp rang bơ và ly Coca từ trên quầy. Cô bé nhìn quanh sảnh rạp phim một vòng
nhưng không thấy Sarah đâu.
Mỗi sáng thứ Bảy, rạp Hutchins đều chiếu phim mới. Mẹ Tracy cho cô sáu đô-la, ba đô-la cho cô và ba đô-la cho Sarah. Vé xem phim giá một đô-la rưỡi, vẫn còn dư tiền để mua bắp rang bơ cùng đồ uống, hoặc mua một cây kem ở quầy tạp hóa sau khi xem phim xong.
“Sarah đâu nhỉ?” Tracy tự hỏi. Cô bé Tracy mười một tuổi được giao nhiệm vụ trông nom em gái. Dạo gần đây cô đã mủi lòng trước lời thỉnh cầu được tự giữ tiền xem phim của Sarah. Tracy biết rằng Sarah không mua bắp rang bơ hay nước ngọt mà để dành tiền thừa. Lúc nãy con bé đã chạy đi đâu mất, một điều mà Tracy cũng chẳng lấy làm lạ.
Dan O’Leary đưa tay đẩy cái gọng kính dày cui màu đen trên sống mũi như một thói quen khó bỏ. “Tớ không biết.” Cậu bé cũng nhìn xung quanh sảnh. “Nó vừa ở ngay đây.”
“Ai thèm bận tâm đến nó chứ?” Sunnie Witherspoon vừa ăn bắp rang bơ vừa nói. Cô bé đã đợi sẵn ở bên ngoài cánh cửa dẫn vào phòng chiếu phim tối om. “Lần nào cũng vậy. Chúng ta đi trước thôi kẻo lỡ mất đoạn giới thiệu bây giờ.”
Tracy hay nói rằng Sunnie và Sarah có một mối quan hệ vừa-thích vừa-ghét. Sarah thích trêu chọc Sunnie và Sunnie ghét điều đó. “Tớ không thể bỏ con bé lại được, Sunnie à!” Tracy quay sang hỏi Dan: “Con bé có chạy vào nhà vệ sinh không?”
“Tớ có thể đi tìm.” Dan đã kịp bước hai bước trước khi nhận ra. “Khoan đã! Tớ đâu có được vào đó.”
Bác Hutchins chống hai tay trên mặt quầy bán vé. “Tụi bây cứ vào trước đi! Để bác bảo con bé cho, Tracy à! Tụi bây mà còn không vào thì lại lỡ mất đoạn giới thiệu bây giờ. Hôm nay có giới thiệu về phim Biệt đội săn ma đấy.”
“Đi thôi, Tracy!” Sunnie than vãn.
Tracy nhìn xung quanh sảnh lần cuối. Chắc chắn Sarah sẽ bỏ lỡ mất đoạn đầu. Có thể con bé sẽ học được một bài học về việc này. “Vâng, cháu cảm ơn bác Hutchins.”
“Tớ có thể cầm cốc nước giúp cậu.” Dan nói. Hai tay cậu bé chẳng cầm theo gì. Bố mẹ cậu chỉ cho cậu đủ tiền mua vé xem phim. Tracy đưa cốc nước cho Dan và lấy tay giữ cho bắp không rơi ra ngoài trong lúc đi. Bác Hutchins lúc nào cũng đổ đầy hộp bắp của cô và Sarah tới mức trào cả ra ngoài. Tracy biết rằng sự ưu ái này có được là nhờ cha cô chăm nom cho bác gái nhà Hutchins, người đang gặp rất nhiều vấn đề về sức khỏe vì căn bệnh tiểu đường.
“Tới giờ rồi.” Sunnie nói. “Tớ cá rằng những chỗ đẹp đều đã có người ngồi hết.”
Sunnie dùng lưng để đẩy cánh cửa mở qua một bên, theo sau là Tracy và Dan. Phía trong rạp, đèn đã tắt. Khi cánh cửa đằng sau đóng lại, Tracy phải dừng một lúc để mắt quen với bóng tối. Cô bé có thể nghe thấy những đứa trẻ khác đã ngồi yên vị, bắt đầu cười cợt và gọi tên bác Hutchins để mong bác đi vào bật máy chiếu. Một vài vị phụ huynh nạt con mình im lặng nhưng có vẻ không thành công. Tracy yêu tất cả mọi thứ ở rạp Hutchins mỗi ngày thứ Bảy, từ mùi bắp rang bơ cho tới tấm thảm màu đỏ sậm và những chiếc ghế bọc nhung cùng những cái tay vịn đã sờn chỉ.
Sunnie đi được nửa đường qua lối đi hẹp ở giữa thì Tracy nhìn thấy một bóng đen núp sau hàng ghế. Cô định gọi nhưng có vẻ đã quá trễ khi Sarah kịp tung ra trò đùa bất ngờ của mình.
“Hù!”
Sunnie hét lên một tiêng kinh hoàng làm cho cả rạp phim im bặt. Sau đó, cả rạp cùng phá lên cười.
“Sarah!” Tracy la lớn.
“Mày bị sao vậy hả!” Sunnie quát.
Đèn trong rạp phim bật sáng, kéo theo hàng loạt tiếng la ó. Bác Hutchins vội vã chạy xuống dãy ghế với khuôn mặt lo lắng. Những hạt bắp rang bơ rơi vung vãi khắp tấm thảm bên cạnh cái hộp sọc trắng đỏ đã bị đổ của Sunnie.
“Là Sarah!” Sunnie nói. “Nó dọa cháu.”
“Em có dọa chị đâu.” Sarah nói. “Là chị không nhìn thấy em đấy chứ!” “Nó trốn sau ghế kia kìa, bác Hutchins. Nó cố ý làm thế. Lúc nào nó cũng trêu cháu.”
“Em làm thế bao giờ?” Sarah nói tiếp.
Bác Hutchins nhìn Sarah. Tracy nghĩ, thay vì nổi cáu, trông bác như đang cố nhịn cười.
“Sunnie, sao cháu không quay trở ra và xin bác gái một hộp bắp rang bơ khác nhỉ?” Bác giơ tay lên. “Xin lỗi quý vị, chỉ chậm trễ một chút thôi. Tôi sẽ đi lấy cái chổi. Sẽ chỉ mất một phút.”
“Không cần đâu, bác Hutchins.” Tracy vừa nói vừa nhìn Sarah. “Sarah, em đi lấy chổi và dọn dẹp chỗ này đi!”
“Sao em lại phải dọn?”
“Vì em đã gây ra mớ bừa bộn này.”
“Đâu nào, Sunnie gây ra đấy chứ!”
“Em phải dọn!”
“Chị không phải bà chủ để ra lệnh cho em như thế.”
“Mẹ dặn chị trông nom em. Vì thế em sẽ phải dọn, nếu không chị sẽ mách bố mẹ rằng em giữ lại tiền mẹ cho mà không mua bắp rang bơ với kem.”
Sarah khịt mũi rồi lắc đầu. “Tốt thôi!” Con bé quay đầu, dừng lại để nói. “Cháu xin lỗi, bác Hutchins. Cháu sẽ dọn nhanh ạ!” Rồi con bé chạy
ngược ra ngoài và mở toang cánh cửa. “Bác gái Hutchins ơi, cho cháu mượn cái chổi!”
“Cháu xin lỗi, bác Hutchins.” Tracy nói. “Cháu sẽ nói với bố mẹ về những gì nó đã làm.”
“Không cần đâu, Tracy!” Bác Hutchins nói. “Bác nghĩ rằng cháu đã giải quyết vấn đề một cách rất người lớn, và bác nghĩ rằng Sarah cũng đã biết lỗi rồi. Dầu sao nó cũng là Sarah của chúng ta, phải không? Con bé làm cho mọi thứ xung quanh chúng ta thêm phần thú vị.”
“Đôi khi hơi thú vị quá mức, bác ạ!” Tracy nói. “Bọn cháu đang cố kìm con bé lại.”
“Bác sẽ không làm vậy đâu.” Bác Hutchins nói tiếp. Đó là điều làm cho Sarah là chính Sarah mà.”
Tiếng còi xe vang lên. Tracy ngước nhìn gương chiếu hậu và thấy một người đàn ông ngồi trong chiếc xe tải cũ kĩ đang chỉ tay lên đầu. Đèn đã chuyển từ đỏ sang xanh tự bao giờ.
Cô lái xe đi ngang qua rạp chiếu phim ngày trước. Giờ đây, mái của nó đã thủng lỗ chỗ. Khung cửa sổ từng dán đủ loại quảng cáo hấp dẫn về những bộ phim sắp tới giờ bị chắn ngang bởi những thanh gỗ dán. Một cơn gió cuốn theo những mẩu báo vụn và bụi bặm đằng sau quầy bán vé. Những căn nhà gạch một tầng hoặc hai tầng khác ở khu mua sắm của Cedar Grove cũng lâm vào cảnh đìu hiu tương tự. Một nửa số khung cửa sổ trong khu phố được dán chữ ‘Cho thuê’. Một quán ăn buffet kiểu Hoa, trước đây từng là quán Five-‘n’-Dime, đăng quảng cáo về bữa trưa đặc biệt chỉ với sáu đô-la trên một tấm bìa. Một cửa hàng đồ cũ đã thay thế tiệm cắt tóc của Fred Digasparro, tuy nhiên cây cột
sọc trắng đỏ* vẫn được để lại trên tường. Một quán cà phê khác đang quảng cáo espresso trên bức tường gạch trắng nhợt nhạt mà trước đó thuộc về tiệm tạp hóa của ông Kaufman.
Tracy rẽ phải để đi vào con phố Thứ Hai, đỗ xe vào bãi nằm ở lưng chừng con đường. Những con chữ màu đen được sơn lên cánh cửa kính của đồn cảnh sát Cedar Grove chẳng hề thay đổi hay mờ đi. Cô chẳng thể tự đánh lừa mình về chuyến viếng thăm lần này.
CHƯƠNG 05
Tracy chìa phù hiệu của mình cho viên cảnh sát ngồi ở chiếc bàn bên trong khung cửa kính rồi nói với anh ta rằng cô đi cùng với nhóm chuyên viên tới từ Seattle. Viên cảnh sát chẳng ngại ngần chỉ cho cô đường đi tới phòng họp ở phía cuối sảnh.
“Tôi biết đường.” Cô nói.
Cô mở cánh cửa dẫn vào căn phòng không có cửa sổ, và cuộc đối thoại đang diễn ra bên trong đột ngột im bặt. Một viên cảnh sát mặc quân phục đang đứng ở đầu cái bàn gỗ, tay cầm bút, sau lưng là một tấm bản đồ đính trên chiếc bảng ghim. Roy Calloway ngồi gần cửa nhất, hai hàng chân mày nhíu lại vẻ lo âu tột độ. Phía bên kia bàn là Kelly Rosa, nhà nhân chủng học pháp y tới từ Seattle, đang ngồi bên cạnh Bert Stanley và Anna Coles, những tình nguyện viên đến từ Biệt đội Phản ứng hiện trường của bang Washington. Tracy đã từng làm việc chung với họ qua rất nhiều vụ án mạng.
Tracy không chờ đợi ai mời cô bước vào trong, vì cô biết sẽ chẳng có lời mời nào cả. “Chào Đồn trưởng.” Cô nói. Cô biết rằng tất cả mọi người ở Cedar Grove đều gọi Calloway như vậy, cho dù thực chất ông là cảnh sát trưởng.
Tracy bước qua chỗ Calloway, cởi chiếc áo khoác bằng nhung kẻ của mình, để lộ ra bao đựng súng và phù hiệu gài bên thắt lưng. Calloway đứng dậy khỏi bàn.
“Cô nghĩ cô đang làm gì vậy?”
Cô vắt cái áo lên thành ghế. “Xin đừng dọa tôi, Roy!”
Ông đứng thẳng dậy, tiến về phía cô. Hăm dọa người khác vốn là điều đương nhiên đối với ông. Với một cô gái trẻ, Roy Calloway có thể rất đáng sợ. Nhưng Tracy đã không còn là một đứa trẻ dễ bị hăm dọa nữa.
“Tôi đồng ý, tôi không dọa cô. Vậy nên, nếu như cô tới đây với tư cách cảnh sát thì cô đang vượt quá quyền hạn rồi. Còn nếu…” “Tôi tới đây không phải với tư cách cảnh sát.” Cô nói. “Nhưng tôi sẽ rất cảm kích nếu mình được đối xử bằng tác phong chuyên nghiệp.” “Tôi không thể làm vậy.”
“Roy, ông biết tôi sẽ không phá hoại hiện trường mà.”
Calloway lắc đầu. “Cô sẽ không có cơ hội làm vậy.”
Những người khác vẫn đang nhìn, vẻ bối rối hiện rõ trên nét mặt. “Vậy thì, tôi cầu xin ông một ân huệ… vì ông từng là bạn của bố tôi.” Calloway nhíu mày, đôi mắt xanh nheo lại. Tracy biết cô đã động vào
vết thương ở sâu trong lòng ông, một vết thương sẽ chẳng bao giờ lành. Calloway và cha cô từng săn bắt và câu cá cùng nhau. Cha cô đã chăm sóc cha mẹ của Calloway cho tới khi họ mất. Cả hai người đàn ông còn cùng mang cảm giác tội lỗi và gánh nặng trong lòng vì đã không tìm thấy Sarah.
Calloway chỉ ngón tay vào Tracy như thể cô vẫn là một đứa trẻ con đang đạp xe trên vỉa hè. “Đừng có làm vướng chân tôi! Nếu tôi bảo cô đi thì cô sẽ phải đi. Lời tôi nói đã đủ rõ ràng chưa?”
“Rõ rồi.” Tracy biết mình không thể nói với Calloway rằng số án mạng cô điều tra trong một năm còn nhiều hơn ông làm cả đời. Calloway ném cho Tracy thêm một cái lườm trước khi trở lại với viên phụ tá. “Tiếp tục đi, Finlay!” Nói rồi, ông ngồi xuống.
Viên cảnh sát đang đeo chiếc phù hiệu ghi tên ‘Armstrong’ mất một
lúc mới nối lại mạch suy nghĩ, rồi hướng sự tập trung về phía tấm bản đồ địa hình. “Đây là nơi họ tìm thấy hài cốt.” Anh ta vẽ một dấu X vào vị trí hai người thợ săn phát hiện ra những mảnh xương.
“Không thế nào!” Tracy thốt lên.
Armstrong quay đầu lại, trông có vẻ bối rối. Anh liếc nhìn Calloway. “Tôi nói tiếp tục cơ mà, Finlay!”
“Ở đây có một con đường dẫn vào.” Armstrong tiếp tục. “Nhưng con đường đó đã bị chặn để dành đất cho một dự án mở rộng.” Tracy nói: “Đó chính là khu đất cũ Cascadia.”
Hai hàm răng của Calloway nghiến chặt lại. “Tiếp tục đi, Finlay!” “Khu vực này cách xa con đường khoảng nửa dặm.” Finlay nói, càng lúc càng bối rối. “Chúng tôi đã quây khu vực này lại.” Anh đánh thêm một dấu X nhỏ. “Hố chôn rất nông, hình như chỉ sâu vài chục phân. Bây giờ thì…”
“Khoan đã!” Rosa nói, ngẩng đầu lên khỏi cuốn sổ. “Đợi một chút! Anh nói là hố chôn rất nông?”
“Vâng, mảnh xương chân được chôn không sâu lắm.”
“Trông hố chôn không bị xáo trộn gì chứ?” Rosa hỏi. “Ý tôi là, ngoài những chỗ mà con chó đã đào bới.”
“Trông có vẻ như vậy. Tôi cho rằng nó mới chỉ đào lên một cái chân.” “Sao bà lại hỏi vậy?” Calloway thắc mắc.
“Đất đóng băng ở vùng Tây Bắc Hoa Kỳ cứng như đá.” Rosa nói. “Việc đào một cái hố chôn là rất khó, nhất là với địa hình như thế này, chưa kể hệ thống rễ cây dưới đất còn khá chằng chịt. Tôi không ngạc nhiên về việc cái hố chôn này nông. Điều tôi ngạc nhiên là tại sao trước kia chưa có con vật nào khác đụng tới bộ hài cốt.”
Tracy quay sang Rosa. “Lúc đó, khu vực ấy đang được quy hoạch để
xây dụng một khu nghỉ dưỡng có sân golf và tennis gọi là Cascadia. Họ nhổ vài cái cây lên và dựng những tấm biển quảng cáo tạm thời để chào bán các lô đất. Chị có nhớ cái xác mà ta tìm thấy ở thung lũng Maple mấy năm trước không?”
Rosa gật đầu và hỏi lại Armstrong: “Có khi nào cái xác đã được chôn vào một trong những cái hố để lại sau khi người ta nhổ cây lên không?” “Tôi cũng không rõ.” Armstrong nói, hoang mang lắc đầu. “Điều đó thì có gì khác?” Calloway hỏi.
“Nó có thể là dấu hiệu cho thấy hành vi này đã được suy tính từ trước.” Tracy nói. “Nếu như một kẻ nào đó biết rằng khu vực này chuẩn bị được xây dựng, hắn ta sẽ tính đến việc dùng cái hố đó làm hố chôn.”
“Nhưng tại sao kẻ giết người lại dùng một cái hố ở nơi hắn biết là chuẩn bị được xây dựng?”
“Bởi vì hắn cũng biết rằng chỗ đó sẽ không bao giờ được xây.” Tracy nói tiếp. “Đó là cả một câu chuyện dài. Khu nghỉ dưỡng sẽ ảnh hường lớn đến kinh tế nơi đây. Nó sẽ biến Cedar Grove thành một địa điểm du lịch. Nhà đầu tư đã nộp đơn xin cấp phép cho sân golf và tennis, nhưng không lâu sau đó, ủy ban Năng lượng Quốc gia đã cho phép xây dựng ba đập thủy điện trên sông Cascade.” Nói đến đây, Tracy đứng dậy và bước ra giữa phòng. Cô chìa tay mượn cây bút của Finlay. Viên cảnh sát có vẻ lưỡng lự trước khi đưa nó cho cô. Cô cầm bút vẽ một đường lên tấm bản đổ.
“Đập Cascade Falls là con đập cuối cùng đi vào hoạt động. Lúc đó là giữa tháng Mười năm 1993. Khi đó, con sông bị chặn, làm cho nước hồ dâng lên.” Cô vẽ thêm vào vị trí hồ nước trên bản đồ. “Nó làm chỗ này bị ngập.”
“Và làm cho hố chôn chìm dưới nước, vì vậy không một con vật nào có thể tìm đến.” Rosa tiếp lời.
“Và chúng ta cũng không thể tìm thấy.” Tracy quay sang Calloway. “Chúng ta đã tìm ở khu đó rồi, đúng không Roy?”
Cô thừa biết điều đó. Không chỉ là một thành viên của đội tìm kiếm, cô còn giữ tấm bản đồ địa hình gốc sau khi cha cô qua đời. Qua bao nhiêu năm, cô đã nghiên cứu nó tới mức thuộc như chính lòng bàn tay mình. Cha cô đã phân chia tấm bản đồ thành từng khu vực nhỏ để đảm bảo việc tìm kiếm kĩ càng và có hệ thống. Họ đã tìm ở mỗi khu vực tới hai lần.
Trong khi Calloway vẫn đang phớt lờ cô, Tracy tiếp tục nói với Rosa. “Họ mới tháo dỡ đập Cascade Falls vào đầu mùa hè năm nay.” “Và mực nước trong hồ rút về như cũ.” Rosa có vẻ dần hiểu ra. “Họ vừa mở cửa lại khu đó cho thợ săn và dân leo núi.” Armstrong tiếp lời, có vẻ cũng đã hiểu. “Hôm qua là ngày đầu tiên của mùa săn vịt.” Tracy lại nhìn Calloway. “Chúng ta đã tìm khu vực đó trước khi nó bị ngập, Roy. Không có cái xác nào ở đó cả.”
“Khu vực đó rất rộng lớn. Cô không thể loại trừ khả năng chúng ta đã bỏ sót.” Ông nói. “Thậm chí cái xác đó chưa chắc đã là con bé.” “Xung quanh đây có bao nhiêu cô gái bị mất tích vào thời điểm đó hả Roy?”
Calloway không trả lời.
Tracy nói: “Chúng ta đã tìm khu vực đó hai lần và không hề thấy cái xác nào cả. Kẻ nào giấu cái xác ở đó chắc chắn phải làm thế sau khi chúng ta tìm kiếm và ngay trước khi nó bị ngập.”
CHƯƠNG 06
Tracy bật dậy làm tấm chăn cô đang đắp tuột xuống hông. Đầu cô vẫn còn choáng váng. Cô tưởng rằng âm thanh làm cô giật mình tỉnh giấc chính là tiếng chuông vọng qua hành lang của trường Trung học Cedar Grove. Điều đó đồng nghĩa với việc cô đã bị muộn giờ tiết Hóa.
“Điện thoại kìa!” Ben rên rỉ. Anh đang nằm cạnh cô trên tấm nệm, một tay cầm gối che mặt để lẩn tránh những vạt nắng sớm đang xuyên qua rèm cửa. Sau một hồi, tiếng chuông điện thoại cũng ngưng giữa chừng.
Tracy lại buông mình xuống gối, nhưng những suy nghĩ trong đầu cô cứ tự tuôn ra. Ben đã đón cô đi ăn tối khi cuộc thi bắn súng kết thúc. Cô nhớ lại cảnh anh đẩy chiếc ghế ra đằng sau rồi quỳ một chân xuống. Cả chiếc nhẫn nữa! Cô nở nụ cười ngái ngủ, đưa bàn tay trái lên để ngắm nhìn ánh sáng lấp lánh trên mặt đá kim cương. Lúc đó, Ben đã quá lo lắng đến mức chẳng nói nên lời.
Tâm trí cô lại nghĩ về Sarah. Lẽ ra Tracy phải gọi cho Sarah để thông báo tin vui ngay khi cô về đến phòng trọ, nhưng vì Ben mà cô quên khuấy đi mất. Dầu sao thì Sarah cũng biết rồi. Ben có nói với cô rằng Sarah đã giúp anh lên kế hoạch cho buổi tối hôm qua. Đó là lý do vì sao Sarah cố tình bắn trượt hai mục tiêu. Con bé muốn Tracy chiến thắng để không phải nhận lời cầu hôn trong tâm trạng tồi tệ.
Vẫn còn cảm giác tội lỗi vì đã mắng Sarah, Tracy trườn qua để coi giờ trên chiếc đồng hồ điện tử đặt trên tấm thảm cạnh cái nệm. Dòng chữ
màu đỏ hiện lên: Sáu giờ mười ba phút sáng. Sarah sẽ không bao giờ ra khỏi giường sớm thế này để nhấc máy. Chắc cô sẽ phải đợi thêm chút nữa.
Chẳng muốn ngủ tiếp, Tracy nhích lại gần Ben và áp người cô vào cơ thể anh. Cô cảm thấy hơi ấm toát ra từ anh. Ben không phản ứng gì. Cô áp sát hơn, lướt ngón tay trên cơ bụng anh rồi luồn xuống dưới. Điện thoại lại reo.
Ben lại rên rỉ một cách khó chịu.
Tracy hất cái chăn qua một bên, lăn xuống giường và vơ vội chỗ quần áo hôm qua họ đã cởi một cách chóng vánh. Cô chộp lấy ống nghe điện thoại trên tường phòng bếp.
“Alô?”
“Tracy à?”
“Bố ạ?”
“Bố vừa gọi lúc nãy.”
“Con xin lỗi, lúc đó con không nghe thấy…”
“Sarah có ở cùng con không?”
“Không ạ! Sarah đang ở nhà.”
“Con bé không ở nhà.”
“Gì cơ a? Đợi đã, có phải bố vẫn đang ở Hawaii không? Ở đó đang là mấy giờ thế ạ?”
“Vẫn còn sớm. Roy Calloway nói rằng ông ấy gọi điện đến nhà ta nhưng không ai bắt máy.”
“Sao Roy lại gọi đến ạ?”
“Họ tìm thấy xe tải của con. Có phải tối qua xe của con bị hỏng không?”
Tracy đang rất cố gắng để bắt kịp cuộc đối thoại. Đầu cô đau như búa
bố sau khi uống quá nhiều rượu vang và ngủ quá ít. “Bố bảo thế tức là sao ạ? Họ tìm thấy nó ở đâu?”
“Trên xa lộ quận.”
Đột nhiên cô cảm thấy một nỗi sợ hãi lan dọc sống lưng. Cô đã dặn Sarah phải đi đường cao tốc.
“Chuyện gì đã xảy ra với nó?” Cha cô hỏi.
“Bố có chắc đấy là xe tải của con không?”
“Có, bố chắc chắn! Roy nhận ra miếng dán ở cửa sổ đằng sau. Sarah không ở cùng con à?”
Cô cảm thấy hơi buồn nôn và chóng mặt. “Không, con bé tự lái xe về nhà mà.”
“Ý con là sao? Chẳng phải con bé đi cùng con à?”
“Không, con đi với Ben.”
“Con để cho nó lái xe một mình từ Olympia về nhà hả?” Ông bắt đầu to tiếng.
“Bố à… con không để cho con bé lái xe… Con có chút…” “Ôi chúa ơi!”
“Có thể nó đã về nhà rồi.”
“Bố vừa gọi về nhà hai lần. Không ai nhấc máy.”
“Con bé không nhấc máy đâu. Con nghĩ nó đang ngủ.”
“Roy đã gõ cửa. Ông ấy gõ cửa chính…”
“Con sẽ về nhà ngay bây giờ. Bố à, con nói là con sẽ về nhà. Vâng, con sẽ gọi lại khi về đến nơi. Con nói con sẽ gọi lại.”
Cô gác máy, cố gắng xâu chuỗi lại vấn đề.
Roy Calloway nói rằng ông gọi điện đến nhà họ nhưng không ai nhấc máy.
Người ta tìm thấy xe tải của cô.
Cô hít một hơi thật sâu, như để chống lại nỗi lo âu đang bao trùm. Cô tự nhủ mình không được hoảng loạn, cô tự nhủ mọi chuyện rồi sẽ ổn. Cha cô đã gọi về nhà hai lần.
Chắc Sarah vẫn đang ngủ và không nghe thấy tiếng chuông điện thoại, hoặc cố tình lờ nó đi. Con bé vẫn thường mặc kệ cái điện thoại mà. Roy đã gõ cửa. Ông ấy gõ cửa chính.
Không ai trả lời.
“Ben!” Cô hét lên.
CHƯƠNG 07
Tracy đỗ xe ở phía cuối đoàn xe đang xếp hàng trên con đường trải sỏi dẫn vào khu nghỉ dưỡng chưa-từng-được-xây-dựng mang tên Cascadia. Cô buộc tóc lên rồi ngồi lên thanh hãm xung ở cuối xe để thay đôi giày bằng đôi ủng leo núi. Mặc dù bầu trời tháng Mười trong xanh và thời tiết tương đối mát mẻ nhưng để đề phòng, cô vẫn buộc thêm một chiếc áo khoác Gore-Tex ở quanh hông. Cô biết rằng mưa có thể kéo đến rất nhanh và nhiệt độ sẽ hạ thấp khi mặt trời xuống dưới những ngọn cây.
Sau khi tập trung, Finlay Armstrong dẫn bọn họ đi xuôi theo một con đường mòn, Calloway đi ngay đằng sau, kế đến là Rosa và đội của bà. Rosa mang theo túi dụng cụ to bằng một chiếc túi du lịch với nhiều ngăn nhỏ phía ngoài để đựng đồ như thanh cào, chổi cọ và các dụng cụ nhỏ cầm tay khác. Stanley và Coles thì khuân theo giá gỗ, một tấm sàng và những chiếc xô màu trắng. Bên đường, lá thông đang ngả màu vàng nhạt. Chúng rụng xuống, tạo thành một tấm thảm tự nhiên trải dưới chân cùng mùi hương quen thuộc. Cả những cây phong và cây phỉ cũng báo hiệu mùa thu đang tới. Dọc theo con đường, họ đi qua một tấm biển đề chữ ‘Cấm xâm phạm’. Tracy, Sarah cùng những người bạn vẫn thường ném đá vào tấm biển đó mỗi khi đạp xe qua con đường trên núi dẫn tới hồ Cascade.
Sau khoảng nửa tiếng, con đường dẫn họ tới một khu vực đã được phát quang. Lần cuối cùng Tracy đến đây, có một khu nhà tạm được dựng lên ở nơi này để làm văn phòng bán hàng cho Cascadia. “Cô đợi ở đây.” Calloway nói.
Tracy dừng chân. Những người còn lại trong nhóm tiến tới gần chỗ một viên cảnh sát đang đứng chờ bên cạnh một vài cây cọc gỗ được cắm xuống đất. Băng sọc đen vàng được giăng qua loa giữa những cây cọc, tạo thành một khu hình chữ nhật rộng tầm hai mét rưỡi và dài ba mét. Ở góc phía dưới bên phải, Tracy nhìn thấy thứ gì đó trông như một cái que nhô lên khỏi mặt đất bị đào xới. Ngực cô như thắt lại.
“Chúng ta sẽ quây thêm một khu thứ hai ở đây.” Calloway nói với Armstrong, cố giữ giọng nhỏ nhẹ và lịch sự. “Hãy dùng thân cây.” Armstrong cầm lấy cuộn băng bảo vệ hiện trường và bắt đầu quây tiếp khu cách ly thứ hai. Tracy nghĩ rằng điều đó thật thừa thãi. Sẽ chẳng có thêm bất kỳ ai đến dây. Người dân Cedar Grove chẳng còn quan tâm đến chuyện đó và báo chí cũng sẽ không tìm đến xó xỉnh này làm gì.
Armstrong lại gần chỗ Tracy đứng, vẻ mặt áy náy. “Điều tra viên, phiền cô lùi lại một chút.” Anh ta nói.
Cô lùi về phía sau để Armstrong quấn dải băng bảo vệ hiện trường màu đen và vàng quanh những thân cây.
Rosa nhanh chóng vào cuộc. Sau khi đào rộng kích thước của hố chôn, bà dùng dây buộc để chia nó thành tùng ô nhỏ hơn rồi quỳ xuống chỗ có cái chân đang trồi lên và bắt đầu xới đất. Bà dùng cái xẻng cầm tay để xúc đất vào một trong những cái xô hai mươi lít. Mỗi cái xô lại được đánh dấu bằng một chữ cái từ A đến D, tương ứng với từng ô được đào xới. Stanley dốc đất vào tấm sàng đã được mắc sẵn vào hai giá gỗ. Anna Coles đứng ngoài chụp ảnh. Bất kỳ khúc xương hay mẩu xương nào được tìm thấy đều được đánh dấu bằng một chữ cái viết thường. Tất cả những thứ còn lại, từ mảnh vải, kim loại, khuy áo… đều được đánh số. Rosa làm việc rất có khoa học và không ngừng nghỉ. Bà muốn hoàn tất công việc trước khi tắt nắng.
Sau khoảng một tiếng rưỡi, Tracy mới thấy Rosa nghỉ tay lần đầu. Nhà nhân chủng học ngừng đào bới rồi lùi lại phía sau. Bà nhờ Stanley lấy giúp mình một cái chổi cọ nhỏ từ túi đổ nghề rồi tiếp tục phủi đất ở một góc hẹp hơn. Nửa tiếng sau, bà đứng dậy, đôi tay đeo găng của bà cầm một vật gì đó vừa đào được. Bà thảo luận với Roy Calloway rồi đưa vật đó cho Stanley. Anh nhét nó vào một chiếc túi nhựa đựng chứng cứ, đánh dấu cái túi bằng một cây bút đen. Sau đó, Stanley không đưa trả chiếc túi cho Rosa mà đưa cho Calloway. Ông kiểm tra rất kĩ thứ mà Rosa đã đào được.
Rồi ông đột ngột quay đầu lại, hướng ánh mắt về phía Tracy. Tracy cảm thấy chất adrenaline đang dâng lên. Những giọt mồ hôi chảy ra từ hai bên thái dương và lăn xuống cái áo cô đang mặc. Calloway càng tiến lại gần, tim cô càng đập mạnh hơn. Ông đưa chiếc túi cho cô nhưng cô không dám nhìn vào nó. Cô vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của Calloway cho tới khi vị cảnh sát trưởng chẳng thể chịu được ánh mắt đó nữa. Ông buộc phải quay đi chỗ khác. Tracy nhìn xuống thứ mà Kelly Rosa tìm thấy, và lồng ngực cô thắt lại.
CHƯƠNG 08
Tracy cảm thấy cồn cào ruột gan. “Em không sao chứ?” Ben với tay chạm vào vai Tracy nhưng cô chẳng còn để ý đến anh nữa. Ánh mắt cô hướng ra ngoài cửa sổ, nhìn về ngọn núi và những mẩu đá phiến sét vương vãi bên lề đường. Cô đã không tìm thấy giày của Sarah trên bậc thềm hay lối vào nhà. Cô vừa lao lên cầu thang vừa gọi tên con bé nhưng Sarah không trả lời. Sarah không nằm trên giường hay ở trong phòng tắm. Con bé không có trong nhà bếp, cũng chẳng xem ti-vi trong phòng khách. Sarah không có ở nhà. Và chẳng có dấu hiệu gì cho thấy con bé đã về nhà.
“Đằng kia!” Ben nói khi họ vòng theo một khúc cua trên đường. Chiếc xe tải màu xanh của cô bị bỏ ở đó, đang đỗ dọc sườn đồi dẫn vào khu Bắc Cascade hoang sơ.
Ben quay đầu xe, dừng lại bên cạnh chiếc Suburban của Roy Calloway rồi tắt máy. “Tracy à!”
Cô cảm thấy toàn thân như tê liệt. “Em đã bảo con bé đừng có đi vào xa lộ quận. Em đã dặn nó đi về bằng đường cao tốc. Anh cũng nghe thấy em nói vậy, phải không?”
Ben lại với tay qua để nắm lấy tay cô. “Chúng ta sẽ cùng nhau đi tìm con bé.”
“Tại sao lúc nào con bé cũng cứng đầu như vậy?”
“Mọi chuyện sẽ ổn thôi, Tracy à!”
Cảm giác sợ hãi trong cô càng lúc càng lớn sau mỗi bước đi từ căn phòng này sang căn phòng khác trong ngôi nhà. Giờ đây nó càng siết
chặt tim gan cô, gần như nuốt chửng cô. Cô mở cửa xe và bước xuống đường.
Nhiệt độ buổi sáng đang tăng nhanh. Mặt đường nhựa đã khô cong, chẳng còn sót lại dấu vết gì của cơn mưa nặng hạt hôm qua. Bầy côn trùng bay tán loạn và kêu vo ve dưới chân Tracy khi cô bước đến gần chiếc xe tải. cảm thấy yếu ớt và chóng mặt, Tracy suýt nữa vấp ngã. Ben vội vàng đỡ lấy cô. Con đường trong tâm trí cô ngày hôm nay dường như hẹp và dốc hơn.
“Liệu có phải con bé trượt chân không?” Tracy nói với Roy Calloway lúc này đang đứng chờ trước mũi chiếc xe tải.
Calloway đưa tay cầm lấy chiếc chìa khóa dự phòng mà Tracy đưa. “Chúng ta sẽ kiểm tra chuyện này từng bước một, Tracy.” “Chiếc xe bị làm sao thế?”
Trước khi đến đây, Tracy cứ nghĩ sẽ thấy lốp xe bị thủng hoặc trên thân xe có vết lõm do bị đâm hay nắp xe đang mở chứng tỏ động cơ có vấn đề. Tuy rằng trường hợp cuối cùng gần như không thể xảy ra vì cha cô luôn tuân thủ lịch định kỳ đem xe đến trạm sửa xe của Harley Holt để bảo dưỡng.
“Chúng ta sẽ biết tại sao ngay.” Calloway nói. Ông đeo một đôi găng tay cao su màu xanh rồi mở cửa buồng lái. Một gói Cheetos đã hết cùng vỏ lon Coca dành cho người ăn kiêng rơi trên sàn – chính là bữa lót dạ của Sarah vào buổi sáng khi họ lái xe tới cuộc thi. Tracy đã mắng con bé vì tội ăn những thứ linh tinh ấy. Chiếc áo lông màu xanh nhạt đang cuộn tròn lại như quả bóng trên băng ghế, nơi con bé đã để nó. Calloway ngả người về phía vô lăng, cắm chìa khóa vào rồi vặn. Tiếng động cơ vang lên, xong lập tức tắt ngúm. Ông cúi xuống sâu hơn để kiểm tra bảng điểu khiển.
“Hết xăng rồi.”
“Sao ạ?” Tracy hỏi.
Calloway lùi lại để Tracy có thể trèo lên. “Con bé bị hết xăng.” “Sao có thể như vậy được?” Tracy nói. “Cháu đã đổ đầy bình xăng vào tối thứ Sáu để không phải đổ xăng vào sáng hôm đó.”
“Có thể là bảng điều khiển không hoạt động vì động cơ bị hỏng?” Ben đưa ra giả thuyết.
“Bác cũng không rõ.” Calloway nói với giọng hoài nghi.
Calloway rút chìa khóa rồi đi về phía đằng sau chiếc xe. Tracy và Ben theo sau. Lớp kính mờ khiến cho họ không thể nhìn vào bên trong thùng xe. Calloway hỏi, “Cháu có muốn quay lưng lại không?”
Tracy lắc đầu. “Không.”
Ben choàng tay qua vai cô. Calloway mở khóa cửa nóc và cúi xuống nhìn vào bên trong trước khi nâng nó lên. Sau đó, ông hạ cửa sau của chiếc xe xuống. Mọi thứ vẫn nguyên trạng như những gì Tracy nhớ. Chiếc xe đựng súng đạn được buộc vào một bên thùng xe. Chiếc áo gió của Tracy vẫn đang nằm lăn lóc cạnh đôi bốt và cái khăn choàng màu đỏ.
“Có phải kia là mũ của con bé không?” Calloway chỉ vào chiếc mũ Stetson màu nâu.
Đúng vậy. Tracy nhớ ra cô đã cởi chiếc mũ đen của mình để đội lên đầu Sarah. “Lúc đó, con bé đội mũ của cháu.”
Calloway định đóng cửa sau lại.
“Cháu có thể vào trong không?” Tracy hỏi. Calloway bèn lùi lại. Cô trèo vào trong, tự nhủ không biết mình đang tìm kiếm cái gì. Nhưng rồi cái cảm giác như thể mình quên thứ gì đó lúc Ben và cô đi khỏi chợt quay lại. Cô mở khóa chiếc xe chở súng đạn. Những khẩu súng săn, súng trường cùng băng đạn nằm ngay ngắn như những cây gậy bi a trên giá đỡ. Khẩu súng lục của Sarah được cất ở ngăn kéo phía trong, còn đạn ở trong hộp. Ở ngăn kéo thứ hai, nơi Sarah cất những chiếc huy
hiệu mà con bé đạt được từ các cuộc thi khác, Tracy tìm thấy tấm ảnh chụp ngài Wild Bill đang trao cho cô chiếc khóa thắt lưng bạc, cùng với Sarah và người đạt giải ba đứng hai bên. Cô cất tấm ảnh vào túi quần sau, cầm cái áo gió lên và kiểm tra túi áo.
“Nó không có ở đây.” Cô nói khi trèo ra ngoài.
“Cái gì không có ở đây cơ?” Calloway hỏi.
“Khóa thắt lưng dành cho nhà vô địch.” Tracy đáp. “Tối qua, cháu đã đưa nó cho Sarah trước khi đi.”
“Bác vẫn chưa hiểu.” Calloway thắc mắc.
“Tại sao con bé lại cầm theo cái khóa thắt lưng ấy mà không cầm theo súng?” Ben hỏi.
“Em không biết. Chắc là…”
“Chắc là sao?” Calloway hỏi tiếp.
“Con bé không có lý do gì để cầm theo cái khóa thắt lưng trừ phi nó muốn trả lại cho em vào sáng nay, phải không?”
“Vậy là con bé đã rời khỏi xe.” Calloway tiếp lời. “Có phải đó là những gì cháu đang định nói? Tức là con bé có dư thời gian để nghĩ xem sẽ cầm theo cái gì trước khi rời khỏi.”
Tracy nhìn xuôi theo con đường hoang vắng. Vạch sơn màu trắng ở giữa đường uốn lượn theo sườn đồi, vòng vèo và biến mất đằng sau một khúc cua. “Vậy thì con bé đang ở đâu?”
CHƯƠNG 09
Mặt khóa bằng bạc dù đã mất đi vẻ sáng bóng nhưng hình dập nổi một cô gái cao bồi đang cầm hai khẩu súng cùng dòng chữ khắc xung quanh thì vẫn có thể nhận ra được: Nhà vô địch bang Washington năm 1993. Họ đã tìm thấy cái khóa thắt lưng.
Họ đã tìm thấy Sarah.
Cảm xúc đang dâng trào trong lòng Tracy làm cho chính cô cảm thấy ngạc nhiên. Nó không phải là cảm giác cay đắng hay tội lỗi. Nó thậm chí không phải sự đau khổ. Nó là sự tức giận, đang chảy trong máu cô như một thứ nọc độc. Cô biết. Cô luôn biết rằng Sarah không chỉ mất tích như những gì người khác ép cô phải tin. Cô luôn biết rằng mọi chuyện không chỉ đơn giản như thế. Và giờ đây cô cảm thấy mình có thể chứng minh những suy nghĩ đó là đúng.
“Finlay!” Giọng nói của Calloway vang lên như thể ông đang đứng ở cuối một con hầm dài. “Đưa cô ta ra khỏi đây!”
Có ai đó chạm vào tay cô, nhưng Tracy vùng ra. “Không!” “Cô không cần tham gia vào chuyện này.” Calloway nói. “Tôi đã bỏ rơi con bé một lần.” Cô nói. “Tôi sẽ không rời con bé thêm lần nào nữa. Tôi sẽ ở lại đây. Đến phút cuối.”
Calloway đành gật đầu với Armstrong. Anh lại lùi lại để Rosa có thể tiếp tục đào xới. “Nhưng tôi sẽ cần lấy lại thứ đó.” Calloway nói. Ông chìa tay trước mặt Tracy nhưng cô vẫn tiếp tục lần ngón tay trên mặt khóa, cảm nhận rõ từng con chữ. “Tracy!” Calloway nói.
Cô đưa cái khóa thắt lưng cho Calloway nhưng không buông tay. Calloway đành phải nhìn thẳng vào mắt cô.
“Tôi đã nói với ông rồi, Roy. Chúng ta đã tìm kiếm ở khu vực này. Chúng ta đã tìm tới hai lần.”
Tracy đứng nhìn từ xa trong suốt thời gian còn lại của buổi chiều hôm đó. Cô có thể thấy rằng Sarah bị chôn trong tư thế bào thai, chân nằm cao hơn đầu. Kẻ tận dụng cái hố này chắc hẳn đã tính toán sai về kích thước của nó. Điều đó cũng không lạ. Khi một người đang trong tình trạng căng thẳng, nhận định về không gian rất có thể sẽ bị sai lệch.
Chỉ tới khi Kelly Rosa kéo phéc-mơ-tuya của cái túi đựng thi hài màu đen rồi khóa nó lại bằng khóa móc, Tracy mới bắt đầu đi bộ ra khỏi khu rừng để quay trở lại xe.
Cô lái xe qua các khúc quanh trên dãy núi trong tình trạng vô thức, đầu óc hoàn toàn trống rỗng. Mặt trời đã xuống dưới những ngọn cây, khiến cho bóng cây trải dài trên đường. Đương nhiên, cô thừa hiểu chuyện này. Đó là lý do tại sao các điều tra viên được dạy rằng bằng mọi giá phải tìm được nạn nhân bị bắt cóc trong vòng bốn mươi tám tiếng đổng hồ đầu tiên. Các số liệu thống kê cho thấy, sau khoảng thời gian đó, tỉ lệ tìm được người mất tích còn sống sụt giảm hẳn. Sau hai mươi năm, cơ hội tìm thấy Sarah còn sống gần như bằng không. Nhưng hy vọng đó vẫn luôn tồn tại trong thâm tâm Tracy, giống như bất kỳ gia đình nào có người thân bị bắt cóc và không bao giờ được tìm thấy. Nó là một phần tự nhiên của mỗi người, họ luôn luôn hy vọng, cho dù khả năng có nhỏ bé đến đâu. Đã từng có kì tích xảy ra. Đã từng có một người phụ nữ trẻ ở California, sau mười tám năm mất tích, tới đồn cảnh
sát để tự xưng tên của mình. Điều đó đã thắp lên trong Tracy một tia hy vọng rằng một ngày nào đó, Sarah cũng sẽ xuất hiện ở đồn cảnh sát. Hy vọng là một thứ thật độc ác. Nhưng trong suốt hai mươi năm, nó là thứ duy nhất để cô bấu víu, thứ duy nhất giúp cô đẩy lùi được bóng tối đang mấp mé, chỉ trông chờ cơ hội để nuốt chửng cô.
Hy vọng.
Tracy đã giữ nó cho tới giây phút cuối cùng trước khi Roy Calloway đưa cho cô cái khóa thắt lưng và dập tắt ngọn lửa le lói cuối cùng một cách tàn nhẫn.
Cô lái xe ngang qua cung đường mà hai mươi năm trước người ta đã tìm thấy cái xe tải màu xanh. Cảm giác như thể mọi chuyện mới diễn ra ngày hôm qua. Sau khi đi tiếp vài dặm, cô rẽ sang con đường quen thuộc dẫn vào cái thị trấn mà cô chẳng còn nhận ra hay liên quan gì đến. Thay vì rẽ trái để đi lên đường cao tốc, cô rẽ phải, băng qua dãy nhà một tầng. Trong trí nhớ của cô, chúng đã từng là những ngôi nhà ngập tràn tình thân bạn bè và gia đình, nhưng giờ đây chỉ còn lại sự tàn tạ. Đi vào sâu hơn nữa, những ngôi nhà và sân vườn càng lúc càng to dần. Cô như để cho chiếc xe tự lái, chầm chậm rẽ khi nhìn thấy cánh cổng xây bằng đá cuội. Cô dừng xe ở cuối con đường dốc.
Những cây hoa quanh năm rực rỡ nở đầy trong bồn, từng được bàn tay của mẹ cô chăm sóc, giờ đã bị thay thế bởi những cành hoa hồng xơ xác. Phía trên khoảnh sân được cắt tỉa cẩn thận bao quanh bởi hàng rào gỗ kiểu Anh có một gốc cây đã bị đốn ngã, từng là chỗ mà cây liễu rủ xòe tán như một chiếc ô lớn. Christian Mattioli đã thuê một kiến trúc sư người Anh để thiết kế một ngôi nhà hai tầng theo kiểu Nữ Hoàng Anne khi ông ta sáng lập ra công ty khai thác Cedar Grove. Kể từ đó, sự sống bắt đầu sinh sôi ở thị trấn Cedar Grove. Sau đó, Mattioli yêu cầu người kiến trúc sư đó xây dựng thêm tầng thứ ba để đảm bảo rằng nó là ngôi nhà cao nhất và nguy nga nhất ở Cedar Grove. Khi những khu hầm mỏ ở
Cedar Grove bị đóng cửa, kéo theo việc cư dân nơi đây dọn đi gần hết, ngôi nhà và sân vườn đã rơi vào tình trạng cũ nát sau một thế kỷ. Tuy nhiên, khi nhìn thấy bức tường ốp kiểu vảy cá cùng những tòa tháp nhỏ nhô lên phía trên mái hiên, mẹ của Tracy đã lập tức phải lòng chúng. Cha của Tracy, lúc đó đang đi tìm một phòng khám ở vùng nông thôn, đã mua cho bà căn nhà này. Họ đã cùng nhau sửa sang mọi thứ, từ sàn gỗ kiểu Brazil cho tới trần nhà ngăn ô. Họ trả lại cho tấm lót chân tường và đồ gỗ màu nâu đỏ nguyên thủy, chữa lại bậc thềm đá hoa cương và chùm đèn pha lê. Họ làm cho ngôi nhà một lần nửa trở nên lộng lẫy nhất Cedar Grove. Nhưng những việc đó không đơn thuần chỉ là sửa lại ngôi nhà. Họ đã tạo ra một nơi để hai chị em cô có thể gọi là tổ ấm.
Tracy tắt đèn phòng tắm và trở lại phòng ngủ trong bộ pyjama len màu đỏ. Tóc cô được cuộn trong chiếc khăn tắm. Cô nằm trên băng ghế dài, vừa khẽ hát theo bài We’ve Got Tonight của Kenny Rogers và Sheena Easton đang phát trên đài vừa ngắm bầu trời đêm qua cửa sổ. Vầng trăng tròn tuyệt đẹp rọi xuống cây liễu một thứ ánh sáng màu xanh nhạt. Cành liễu rủ xuống im lìm như thể cái cây đang chìm trong giấc ngủ sâu. Mùa thu đang lặng lẽ nhường chỗ cho mùa đông. Phát thanh viên dự báo thời tiết nói rằng nhiệt độ ban đêm có thể xuống dưới mức đóng băng. Trường trung học Cedar Grove sẽ đóng cửa khi có đợt tuyết đầu tiên. Tracy có đôi chút thất vọng vì bầu trời vẫn lấp lánh ánh sao. Sáng mai cô có bài kiểm tra về phân số nhưng chưa chuẩn bị kĩ càng lắm.
Cô ấn vào nút Stop trên cái đài làm tiếng hát của Sheena ngưng bặt, nhưng cô thì vẫn tiếp tục hát. Rồi cô tắt ngọn đèn bàn. Ánh trăng trải dài qua tấm chăn lông cùng tấm thảm trải sàn, rồi lại biến mất khi cô bật
ngọn đèn kẹp trên đầu giá sách. Cô cầm lấy cuốn Câu chuyện về hai thành phố, cuốn sách mà bọn cô đang nghiền ngẫm trong cả học kì này. Cô không thật sự có hứng thú đọc sách cho lắm, nhưng nếu điểm số của cô bị giảm sút thì cha cô sẽ không đưa cô đến kì thi bắn súng địa phương vào cuối tháng Mười một.
Cô vừa tiếp tục hát bài We’ve Got Tonight vừa kéo chăn lên. “HÙ!”
Tracy hét lên và bật ngửa ra đằng sau, suýt chút nữa thì té xỉu. “Chúa ơi! Chúa ơi!” Sarah nhảy bật ra khỏi chỗ nấp như thể được gắn lò xo. Con bé bò lăn ra cười đến mức chẳng kịp thở để nói hết câu. “Đồ ranh con!” Tracy quát. “Mày bị làm sao vậy hả?”
Sarah ngồi dậy, cố lấy hơi để nói trong lúc cười. “Chị phải nhìn mặt chị lúc đấy cơ!” Con bé bắt chước khuôn mặt hoảng hốt của Tracy, rồi lại bò lăn ra chăn mà ôm bụng cười.
“Mày đã nằm đó bao lâu rồi?”
Sarah bò dậy, quỳ gối rồi nắm tay lại giả vờ làm micro, bắt chước lúc Tracy đang hát.
“Im ngay!” Tracy tháo khăn quấn tóc ra, hất tóc về phía trước và lau bằng khăn tắm.
“Chị đang thích Jack Frates phải không?” Sarah hỏi.
“Không phải việc của mày. Chúa ơi, mày là đồ trẻ ranh!” “Đâu, em tám tuổi rồi đây nhé! Chị hôn anh ta rồi hả?”
Tracy ngừng lau tóc và ngẩng đầu lên. “Ai bảo mày thế? Sunnie kể cho mày nghe phải không? Khoan đã!” Cô nhìn lên giá sách. “Mày đọc nhật kí của tao!”
Sarah cầm lấy cái gối và chu môi tạo ra tiếng chụt chụt. “Ôi, Jack! Hãy làm cho chuyện tình yêu của chúng ta kéo dài mãi mãi. Chúng ta sẽ cùng
nhau tìm ra cách.”
“Đấy là chuyện riêng, Sarah! Mày để đâu rồi?” Tracy nhảy lên giường và đè tay chân Sarah xuống. “Không đùa đâu, tao không đùa đâu nhé! Nó đâu rồi?” Sarah bắt đầu cười lớn. “Tao không đùa đâu, Sarah! Trả nó đây!”
Cánh cửa phòng bật mở. “Chuyện gì thế?” Mẹ bước vào phòng với bộ váy ngủ và đôi dép màu hồng, tay cầm một cái bàn chải tóc. Mái tóc dài màu vàng mọi khi vẫn hay buộc lên giờ đang xòa xuống ngang lưng. “Tracy, buông em con ra!”
Tracy tuột xuống. “Nó trốn trong chăn để hù con. Và nó lấy… nó trốn trong chăn.”
Abhy Crosswhite đi về phía chiếc giường. “Sarah, mẹ đã nói gì với con về chuyện hù dọa người khác?”
Sarah ngồi dậy. “Vui mà mẹ. Mẹ phải nhìn mặt chị lúc đấy cơ.” Con bé giả vờ trợn mắt há miệng trông như một con tinh tinh quá khích. Mẹ cô đưa tay che miệng, cố gắng không bật cười.
“Mẹ!” Tracy nói. “Chẳng có gì đáng buồn cười cả.”
“Được rồi! Sarah, mẹ muốn con không hù dọa chị con và bạn của chị nữa. Mẹ đã kể con nghe về chuyện chứ bé chăn cừu chưa?” “Mày mà cứ trốn như thế thì sẽ có lúc chẳng ai đi tìm mày nữa đâu.” Tracy nói.
“Mẹ!”
“Chị cũng không đi tìm mày đâu.”
“Mẹ!”
“Đủ rồi!” Mẹ cô nói. “Sarah, đi về phòng con đi!” Sarah tuột xuống khỏi giường của Tracy và đi về phía cửa căn phòng tắm thông giữa hai phòng. “Và trả lại cuốn nhật kí cho chị con!”
Cả Tracy và Sarah đều sững sờ. Mẹ lúc nào cũng thế, cứ như một nhà
ngoại cảm vậy.
“Thật bất lịch sự khi đọc lén chuyện chị con hôn Jack Frates.” “Mẹ!” Tracy gắt lên.
“Nếu như con xấu hố vì ai đó đọc được thì ngay từ đầu con không nên làm cái chuyện mà con đã viết. Con còn quá nhỏ để hôn hít tụi con trai.” Bà quay sang Sarah, lúc đó đang đứng trong nhà tắm ngăn cách hai căn phòng và nhại lại tiêng hôn hít. “Đủ rồi, Sarah, trả lại cuốn nhật kí cho chị con đi!”
Sarah quay trở lại giường, nhẩn nha từng bước trong khi Tracy lườm con bé. Sarah lấy cuốn sổ bìa hoa giấu phía dưới tấm nệm ra. Tracy giật lấy nó rồi vung tay lên. Sarah né được, chạy một mạch về phòng.
“Lẽ ra mẹ cũng không được đọc nhật kí của con. Đó là xâm hại chuyện riêng tư.”
“Quay đầu lại đây, tóc con sẽ bị rối đấy!” Abby Crosswhite lướt cái bàn chải tóc trên mái tóc của Tracy. Cảm giác nhột nhột khi lông bàn chải cọ lên da đầu thật dễ chịu. “Mẹ chưa hề đọc nhật kí của con. Đó là trực giác của một người mẹ. Lời thú tội của con cũng hay lắm! Lần tới, khi Jack Frates ghé qua nhà mình chơi, nói với cậu ta rằng bố có đôi lời muốn nói.”
“Cậu ấy sẽ không ghé qua đây đâu. Nhất là khi có con ranh đó ở đây.” “Đừng có gọi em gái con là con ranh.” Bà chải một lần cuối. “Xong rồi, đi ngủ thôi!” Tracy chui vào trong chăn, cảm thấy hơi ấm của Sarah vẫn còn vương lại trong đó. Cô kê thêm một chiếc gối đằng sau lưng trước khi mẹ cô cúi xuống, đặt một nụ hôn lên trán cô. “Chúc ngủ ngon!” Mẹ cô nhặt chiếc khăn tắm đang ướt ở dưới sàn lên, toan đóng cửa rồi lại ngoái đầu lại. “Tracy này!”
“Vâng?”
Mẹ cô lẩm nhẩm lời bài hát.
Tracy càu nhàu phản đối. Khi cánh cửa đóng lại, cô trèo ra khỏi giường, đóng cửa phòng tắm rồi tìm một chỗ tốt hơn để giấu cuốn nhật kí. Cuối cùng, cô nhét nó xuống dưới những chiếc áo len ở ngăn trên cùng của tủ đồ, nơi Sarah khó có thể với tới. Quay trở lại trong chăn, cô mở cuốn sách của Dickens ra.
Cô đọc cuốn sách gần nửa tiếng đồng hồ. Khi cô đang chuẩn bị lật nốt trang cuối của chương sách, cánh cửa phòng tắm cọt kẹt mở ra. “Đi ngủ đi!” Cô nói.
Sarah bước vào tầm mắt của Tracy. “Chị Tracy?”
“Tao bảo đi ngủ đi cơ mà.”
“Em sợ.”
“Thật tệ!”
Sarah tiến đến bên giường. Con bé đang mặc bộ đồ ngủ bằng vải flannel của Tracy. Phần đuôi áo đang quệt xuống sàn. “Em ngủ cùng chị được không?”
“Không.”
“Nhưng trong phòng em đáng sợ lắm!”
Tracy giả bộ đọc tiếp cuốn sách. “Sao mày có thể thấy sợ trong phòng mình mà lại không sợ lúc trốn dưới chăn?”
“Em không biết. Em chỉ thấy thế.”
Tracy lắc đầu.
“Đi mà chị!” Sarah nài nỉ.
Tracy thở dài. “Thôi được rồi.”
Sarah nhảy lên giường và trèo qua người cô, chui vào trong chăn. Khi đã nằm yên vị, con bé đột nhiên hỏi: “Chuyện đó như thế nào hả chị?” Tracy dời mắt khỏi cuốn sách, nhìn xuống. Sarah nằm ngửa mặt, nhìn lên trần.
“Chuyện gì cơ?”
“Hôn Jack Prates ấy.”
“Đi ngủ đi!”
“Em không tưởng tượng được mình sẽ hôn một đứa con trai.” “Không hôn thì sao có thể làm đám cưới được?”
“Em sẽ không cưới ai cả. Em sẽ ở với chị.”
“Thế nếu chị kết hôn thì sao?”
Khuôn mặt của Sarah cau lại vì suy tư. “Thế em vẫn muốn sống với chị thì sao?”
“Chị sẽ có chồng.”
Sarah cắn móng tay. “Mình vẫn có thể nhìn thấy nhau hằng ngày chứ?”
Tracy đưa tay lên, Sarah nhích lại gần hơn. “Đương nhiên rồi. Em là đứa em gái mà chị yêu quý nhất, kể cả khi em là đồ trẻ ranh.” “Em là đứa em duy nhất của chị mà.”
“Thôi, đi ngủ đi!”
“Em không ngủ được.”
Tracy đặt cuốn sách của Dickens lên giá rồi chui trở lại vào trong chăn. Cô với tay qua đầu để tìm công tắc đèn. “Được rồi, nhắm mắt lại nào!”
Sarah nhắm mắt.
“Hít một hơi thật sâu rồi thở ra nhé!” Khi Sarah thở ra, Tracy nói. “Sẵn sàng chưa?”
“Rồi ạ!”
“Tôi không…”
“Tôi không…” Sarah lặp lại.
“Tôi không sợ…”
“Tôi không sợ…”
“Tôi không sợ bóng tối.” Cả hai đồng thanh nói, và Tracy tắt đèn.
CHƯƠNG 10
Hồi còn trẻ, Roy Calloway thường thích khoe với mọi người rằng ông dẻo dai hơn một miếng bít tết hai đô-la. Ông có thể làm việc nhiều ngày liền chỉ với vài tiếng chợp mắt. Ông không nghỉ ốm bất kỳ ngày nào trong hơn ba mươi năm làm nghề, ở tuổi sáu mươi lăm, việc giữ vững phong độ như vậy càng lúc càng trở nên khó khăn. Ông cũng chẳng thể tự thuyết phục bản thân rằng mình muốn như vậy. Năm ngoái, ông đã hai lần bị cúm, lần đầu trong một tuần, lần thứ hai trong ba ngày. Lúc đó, Finlay nhận vai trò cảnh sát trưởng tạm thời, còn vợ của Calloway thì nhanh chóng chỉ cho ông thấy rằng trong lúc ông không có mặt, thị trấn không hề bị cháy rụi và tội phạm cũng không mọc lên nhan nhản.
Calloway treo áo khoác lên cái móc phía sau cánh cửa, dừng lại một chút để ngắm nhìn con cá hồi vân mà ông câu được trên sông Yakima hồi tháng Mười năm ngoái. Con cá tuyệt đẹp với da bụng sặc sỡ, dài sáu mươi phân và nặng vỏn vẹn hai cân. Nora đã nhờ người nhồi bông rồi treo nó lên tường phòng làm việc của Calloway trong lúc ông đi vắng. Nó giống như một lời nhắc nhở hằng ngày về chuyện nghỉ hưu của ông. Vợ ông chẳng tế nhị chút nào về chuyện đó. Calloway nói với bà rằng thị trấn vẫn cần ông, rằng Finlay chưa sẵn sàng. Nhưng ông không hề nói với bà rằng ông vẫn cần thị trấn và cần công việc này. Ông chỉ có sở thích câu cá và chơi golf, ông cũng chằng đi du lịch bao giờ. Ông không thể chịu nổi cái viễn cảnh mình trở thành một trong số những kẻ mặc đồ trắng đứng trên boong một con tàu xa hoa, đi giày đế mềm và phải giả vờ như mình có vài điểm chung khác nữa với những người xung
quanh ngoài việc tất cả đều chỉ còn cách quan tài một bước chân mà thôi.
“Thủ trưởng?” Giọng nói vang lên qua điện thoại.
“Tôi đây.” Ông trả lời.
“Em vừa mới thấy thủ trưởng trốn vào đó. Vance Clark đang tìm thủ trưởng đấy.”
Calloway ngước lên nhìn đổng hồ. Sáu giờ ba mươi bảy phút. Ông không phải là người duy nhất ở lại muộn. Ông biết vị công tố viên của Cedar Grove sẽ ghé thăm mình, nhưng cứ nghĩ nhanh nhất cũng phải là sáng mai.
“… thủ trưởng?”
“Cho ông ấy vào.”
Calloway ngồi vào bàn làm việc, bên dưới một tấm bảng được nhân viên của ông làm tặng từ lúc ông trở thành cảnh sát trưởng. Điều #1: Thử trưởng luôn đúng.
Điều #2: Xem lại Điều #1.
Ông vẫn đang thắc mắc.
Bóng dáng Clark băng qua khung cửa kính mờ dẫn vào văn phòng của Calloway. Ông ta chỉ gõ cửa một lần rồi cà nhắc bước vào. Hậu quả của việc phải chạy hàng năm trời đã bắt đầu hành hạ khớp gối ông ta.
Calloway ngả ghế ra đằng sau rồi gác giày lên góc bàn làm việc. “Đầu gối lại hành ông à?”
“Cứ khi nào trời lạnh là nó lại đau.” Clark đóng cửa. Trông ông ta lúc nào cũng lấm lét, tuy rằng điều đó cũng không hề lạ. Mái tóc kiểu thầy tu của ông ta để lộ hai hàng lông mày dày dường như lúc nào cũng nhăn nhó.
“Có lẽ sắp đến lúc phải thôi chạy rồi.” Calloway nói, dù ông biết rằng
Clark sẽ không dừng việc đó lại giống như ông không từ bỏ vị trí cảnh sát trưởng vậy. Ông ta có thể làm việc gì khác?
“Cũng có thể.” Clark ngồi xuống. Tiếng đèn tuýp kêu rè rè trên đầu. Một bóng đèn trong số đó thi thoảng lại chập chờn, chừng như sắp tắt. “Tôi đã nghe tin rồi.”
“Phải, chính là Sarah.”
“Chúng ta làm gì bây giờ?”
“Chúng ta không làm gì cả.”
Clark cau mày. “Nếu họ tìm ra thứ gì đó trong cái hố trái ngược với bằng chứng hồi trước thì sao?”
Calloway buông chân xuống sàn. “Đã hai mươi năm trôi qua rồi, Vance. Tôi sẽ bảo cô ta rằng, giờ chúng ta đã tìm thấy Sarah rồi, hãy để cho người đã khuất an nghỉ.”
“Nếu như ông không thể?”
“Tôi sẽ làm được.”
“Trước đây ông đã không làm được.”
Calloway búng vào con búp bê Felix Hernandez mà cháu ông tặng ông dịp Giáng sinh, nhìn cái đầu của nó lắc lư. “Thì lần này tôi sẽ phải cố làm tốt hơn thôi.”
Sau một khoảnh khắc trầm tư, Clark nói, “Ông có định lái xe đến phòng giám định không?”
“Tôi cử Finlay đi rồi. Cậu ta là người tìm thấy bộ hài cốt.” Clark thở dài rồi khẽ chửi thề.
“Chúng ta đã giao kèo, Vance. Cái gì đã qua hãy để cho nó qua. Ngồi đây để lo lắng về một chuyện không bao giờ xảy ra sẽ chẳng thay đổi được vấn đề gì.”
“Mọi thứ đã thay đổi rồi, Roy ạ!”
CHƯƠNG 11
Tracy cúi gằm khi bước ra từ thang máy để vào phòng làm việc. Ngày hôm qua cô đã định về sớm, nhưng vụ kẹt xe khiến cho chuyến đi từ Cedar Grove về Seattle vốn chỉ mất hai tiếng đã kéo dài thành ba tiếng rưỡi. Sau khi nốc rượu Scotch trong bữa tối, cô đã quên đặt báo thức. Hoặc cũng có thể cô ngủ say đến nỗi không nghe thấy tiếng chuông. Điều đó chính cô còn chẳng biết.
Cô vắt chiếc áo khoác Gore-Tex lên lưng ghế, thảy chiếc ví vào trong tủ đồ cá nhân rồi đợi màn hình máy tính sáng lên. Có ai đó đang chơi trống trong đầu cô. Dạ dày cô giờ đang chứa một nắm thuốc Turns nhưng chẳng thể dập tắt được cơn cồn cào như lửa đốt. Chiếc ghế của Kins kêu cọt kẹt khi anh quay ra nhìn cô, nhưng cô chẳng ngoái nhìn lại. Cô lại nghe thấy tiếng anh quay đi. Faz và Delmo chưa có mặt ở bàn làm việc.
Tracy bắt đầu kiểm tra email. Rick Cerrabone gửi cho cô một vài lời nhắn. Công tố viên của quận King muốn cô gửi lại bản tường trình của nhân chứng và tờ khai để hoàn tất thủ tục xin giấy phép khám căn hộ của Nicole Hansen. Ông ta gửi bức email thứ hai sau bức thứ nhất khoảng nửa tiếng.
Bản tường trình và tờ khai đâu rồi? Tôi không thể tới gặp thẩm phán nếu không có chúng.
Tracy cầm điện thoại lên. Cô vừa định gọi cho Cerrabone thì nhìn thấy cái email gửi đến ngay sau lời nhắn thứ hai của ông ta. Đó là thư
hồi đáp của Kins với Cerrabone mà anh gửi cả cho cô. Cô mở bức thư ra và phát hiện ra rằng Kins đã cung cấp cho công tố viên cả bản tường trình và tờ khai. Cô xoay ghế lại phía anh, thể hiện rõ sự tức giận vì anh đã trả lời thay, càng tức tối hơn khi anh đã làm tờ khai trong khi cô là điều tra viên chính. Kins liếc nhìn qua vai. Bắt gặp ánh mắt cô, anh liền quay lại nhìn thẳng vào cô.
“Ông ấy gọi cho tôi, Tracy. Tôi cho rằng cô có quá nhiều việc phải lo nên tôi đã giải quyết chuyện đó rồi.”
Tracy quay mặt lại cái bàn phím, ấn vào nút ‘Trả lời tất cả’ rồi bắt đầu gõ một bức thư đầy bức xúc. Sau khoảng một phút, cô dừng lại, đọc những gì mình viết rồi xóa chúng đi. Cô hít một hơi thật dài rồi lùi ra khỏi bàn phím. “Kins à?”
Anh quay lại.
“Cảm ơn.” Cô nói. “Cerrabone đã nói gì về giây phép khám nhà?” Kins đi tới, hai tay đút trong túi quần. “Chắc trong sáng nay sẽ có. Cô ổn chứ?”
“Tôi chẳng biết. Tôi chẳng hiểu mình đang cảm thấy gì nữa. Đầu tôi đang đau quá!”
“Andy vừa ghé qua.” Anh nhắc đến vị trung úy của bọn họ, Andrew Laub. “Ông ấy muốn gặp cô.”
Cô phá lên cười, đưa tay lên dụi mắt rồi xoa xoa sống mũi mình. “Thật tuyệt!”
“Sao chúng ta không đi ăn sáng cùng nhau nhỉ? Sau đó ta có thể đến nói chuyện với nhân chứng của vụ hành hung ở Kent.”
Tracy đẩy ghế ra đằng sau. “Cảm ơn Kins, nhưng tôi cần phải giải quyết chuyện này càng sớm…” Cô nhún vai thoái lui. “Tôi cũng không biết nữa.” Cô đi dọc theo bức tường ra khỏi phòng rồi đi xuôi theo hành lang.
Andrew Laub từng là quản lý của đội A hai năm trước khi được thăng chức trung úy. Việc này giúp ông có phòng làm việc riêng ở bên trong. Căn phòng không có cửa sổ và gắn bảng tên cạnh cửa chính. Laub ngồi nghiêng về một bên, mắt đang dán chặt vào màn hình máy tính, ngón tay mổ cò trên bàn phím. Tracy gõ vào khung cửa.
“Gì?”
“Hình như tôi đến không đúng lúc?”
Tiếng lách cách ngừng lại. Laub quay ra gọi Tracy. “Tracy, đóng cửa vào đi!”
Cô bước vào và đóng cửa. Chỉ riêng những bức ảnh đặt trên giá phía sau chỗ Laub ngồi cũng đã đủ để kể về tiểu sử của ông. Ông kết hôn với một người phụ nữ quyến rũ có mái tóc màu đỏ. Họ có với nhau hai cô con gái sinh đôi trông không giống nhau lắm và một cậu con trai. Cậu con trai trông rất giống bố, mái tóc cũng đỏ hoe và khuôn mặt đầy tàn nhang. Cậu ta có vẻ là một cầu thủ bóng bầu dục.
“Ngồi đi!” Ánh sáng từ ngọn đèn bàn phản chiếu qua mắt kính của ông.
“Không cần đâu.”
“Cứ ngồi đi!”
Cô đành phải ngồi xuống. Laub tháo cặp kính và đặt nó lên bàn. Trên sống mũi ông hằn rõ hai vệt màu đỏ do gọng kính in lên. “Mọi việc tốt chứ?”
“Tôi ổn.”
Ông nhìn cô chằm chằm. “Mọi người quan tâm tới cô đấy, Tracy ạ! Tất cả chúng tôi đều chỉ muốn biết rằng cô vẫn ổn.”
“Tôi rất biết ơn sự quan tâm của mọi người.”
“Bên giám định pháp y đang giữ bộ hài cốt à?”
Tracy gật đầu. “Vâng. Chúng tôi đã mang con bé về tối qua.”
“Bao giờ thì cô lấy được báo cáo?”
“Chắc khoảng một ngày.”
“Tôi rất lấy làm tiếc.”
Cô nhún vai. “Ít nhất bây giờ tôi đã tìm được con bé. Đó là điều quan trọng.”
“Đúng, đó là điều quan trọng.” Ông cầm cây bút chì lên, gõ nhẹ đầu tẩy của nó lên mặt bàn. “Lần cuối cùng cô được ngủ là khi nào?” “Tối qua. Tôi đã ngủ say như chết.”
Laub rướn người về phía trước. “Cô muốn nói với những người khác là cô ổn, đó là quyền của cô, nhưng cô thuộc trách nhiệm quản lý của tôi. Tôi cần phải biết cô thực sự ổn. Tôi không cần cô phải làm một người hùng.”
“Tôi không cần phải trở thành người hùng của ai cả, Trung úy. Tôi chỉ đang cố hoàn thành công việc của mình.”
“Sao cô không nghỉ ngơi ít ngày? Sparrow có thể xử lý vụ Hansen.” Ông nhắc đến Kins bằng biệt danh mà anh từng sử dụng khi còn làm tay trong trong một vụ điều tra. Lúc đó, anh nuôi tóc dài và để râu dê, trông như thuyền trưởng Jack Sparrow, một vai diễn của Johnny Depp vậy.
“Tôi có thể giải quyết vụ đó.”
“Tôi biết cô làm được. Tôi chỉ đang muốn nói là, đừng cố gắng quá! Hãy về nhà, tự thưởng cho mình một giấc ngủ. Hãy làm những việc cô nên làm. Công việc vẫn sẽ ở đây chờ cô.”
“Đây có phải một mệnh lệnh không?”
“Không phải mệnh lệnh, nhưng nó là một lời khuyên rất rõ ràng.” Cô đứng dậy khỏi ghế và bước tới cánh cửa.
“Tracy…”
Cô đối mặt với Laub. “Khi về nhà, tôi chẳng có gì để nhìn ngoài bốn
bức tường, thưa Trung úy. Chẳng có gì ngoài thời gian để nghĩ về những thứ tôi chẳng hề muốn nghĩ tới.” Tracy ngừng lại một chút để có thể kiềm chế cảm xúc của bản thân. “Tôi không có một tấm hình nào trong phòng làm việc cả.”
Laub buông cây bút xuống. “Có lẽ cô nên nói chuyện với một ai đó?” “Đã hai mươi năm rồi, Trung úy ạ. Ngày nào tôi cũng nghĩ về chuyện ấy. Tôi sẽ vượt qua những ngày này giống như cách tôi đã vượt qua những ngày tồi tệ đó. Từng ngày, từng ngày một.”
CHƯƠNG 12
Buổi sáng ngày thứ hai sau khi Sarah mất tích, cha Tracy trở về, trông hoàn toàn kiệt sức. Kể cả việc đi tắm cũng không làm cho ông trông khá hơn. Cha mẹ cô đã trở về từ Hawaii trong một chuyến hay đêm. Mẹ cô vẫn chưa về đến nhà. Khi máy bay vừa hạ cánh, bà đã tới ngay trụ sở của Hội Cựu chiến binh Hoa Kỳ ở khu Phố Chợ để huy động những người tình nguyện đang có mặt ở đó. Cha cô về nhà để gặp Roy Calloway và bảo Tracy cố gắng ở lại phòng khi ngài cảnh sát trưởng có thêm câu hỏi nào, mặc dù cô chắc chắn rằng mình đã trả lời nhiều đến mức ông ấy cũng chẳng thể nghĩ ra thêm bất kỳ câu hỏi nào khác.
Cháu có nhận ra bất kỳ ai khả nghi ở cuộc thị thường xuyên lảng vảng xung quanh và để ý đặc biệt đến Sarah không?
Có ai đến gần hai cháu vì bất kỳ lý do gì không?
Sarah có bao giờ nói cảm thấy bị đe dọa bởi bất kỳ ai không? Calloway còn hỏi về danh sách những cậu con trai mà Sarah đã từng hẹn hò. Tracy chẳng thể nghĩ ra ai trong số đó có lý do để làm hại Sarah. Hầu hết bọn họ đều là bạn bè từ hồi còn học tiểu học.
Mái tóc bạc sớm của cha cô cuộn lại thành từng lọn sóng phía trên cổ chiếc áo dài tay ông đang mặc. Bình thường thì mái tóc ấy tương phản với khuôn mặt trẻ trung và đôi mắt xanh đầy hiếu kì của ông. Vậy mà sáng nay trông ông già như đúng cái tuổi năm mươi tám của mình. Đằng sau cặp kính tròn gọng mỏng là đôi mắt sưng húp vằn tia máu. Thường ngày ông vốn rất kĩ tính về vẻ bề ngoài của mình. Bộ ria mép của
ông đủ dày để vuốt nhọn mỗi khi ông tham gia những cuộc thi bắn súng dưới cái tên ‘Doc’ Crosswhite, nhưng mấy ngày qua ông đã để nó mọc lởm chởm.
“Hãy kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra với chiếc xe.” Cha cô nói với Calloway. Tracy không hề lạ khi cha cô, chứ không phải Calloway, mới là người hỏi. Mỗi khi nhà cô tố chức tiệc, tuy cha cô không hề khoa trương hay hoạt náo nhưng đám đông vẫn luôn tìm thấy ông. “Có uy,” mẹ Tracy vẫn hay nói thế. Khi James Crosswhite nói, những người khác lắng nghe. Khi ông hỏi, những người khác trả lời. Thế nhưng ông vẫn luôn giữ được dáng vẻ trầm lặng đáng kính khiến cho người ta cảm thấy như thể họ là người duy nhất có mặt trong phòng.
“Chúng tôi đã kéo nó về đồn cảnh sát.” Calloway nói. “Seattle đang gửi tới một đội điều tra để giám định dấu vân tay.” Ông nhìn về phía Tracy. “Có vẻ như xe con bé bị hết xăng.”
“Không thể nào.” Lúc đó Tracy đang đứng cạnh chiếc trường kỉ dài màu đỏ cùng bộ với hai chiếc ghế da khác. “Cháu nói với bác rồi, cháu đã đổ xăng đầy bình trước khi rời Cedar Grove. Ít nhất chiếc xe cũng phải còn ba phần tư bình xăng.”
“Chúng ta sẽ kiểm tra kĩ hơn.” Calloway nói. “Tôi đã gửi thông báo tới tất cả các đồn cảnh sát trong bang, cả bên Oregon và California. Đội Tuần tra Biên giới Canada cũng đã nhận được thông báo. Chúng tôi đã fax tấm ảnh tốt nghiệp của Sarah cho họ.”
James Crosswhite vuốt chòm râu bên dưới cằm. “Ai đó đã đi trên đường qua thị trấn này?” Ông hỏi. “Có phải đó cũng là điều mà anh đang nghĩ không?”
“Đi qua mà chạy vào xa lộ quận?” Tracy nói. “Người ta thường đi trên đường cao tốc.”
Đôi mắt của cha cô nheo lại, nhưng khi cô kịp để ý thì đã quá muộn.
Ông bước đến và cầm lấy tay trái cô. “Cái gì đây? Kim cương à?” “Vâng.”
Cha cô nhìn đi chỗ khác, hai hàm răng nghiến chặt.
Calloway can thiệp bằng một câu hỏi. “Cháu đã liên lạc với bạn bè con bé chưa?”
Tracy giấu bàn tay của mình ra sau đùi. Cô đã bỏ ra hằng tiếng đồng hồ để gọi cho tất cả những người mà cô còn có thể nhớ đến. “Không có ai nhìn thấy con bé cả.”
“Tại sao con bé không mang theo súng?” Cha cô hỏi với vẻ đăm chiêu. “Sao con bé không cầm theo một khẩu súng lục?”
“Có thể con bé không cảm thấy nguy hiểm, James. Tôi đoán rằng vì hết xăng nên con bé quyết định đi bộ về thị trấn.”
“Anh đã tìm trong rừng chưa?”
“Không có dấu vết nào cho thấy con bé bị trượt chân hay ngã cả.” Tracy chưa bao giờ nghĩ đến chuyện đó. Một Sarah nhanh nhẹn như vậy khó có thể bị vấp ngã trên đường, kể cả khi trời tối hay mưa ướt. “Bình tĩnh lại đi!” Calloway nói.
“Tôi không thể bình tĩnh được, Roy. Anh biết tôi sẽ không làm vậy được.” Ông quay sang Tracy. “Hãy đi in tờ rơi và đem chúng đến cho mẹ. Tìm tấm ảnh nào đó trông giống Sarah nhất, đừng có lấy ảnh tốt nghiệp của con bé. Bradley có thể in sao ảnh cho con ở phòng khám. Bảo cậu ta in khoảng một nghìn tấm, để sẵn vào ngăn lưu trữ cho bố. Bố muốn rải tờ rơi ở khắp mọi nơi từ đây tới tận biên giới Canada.” Nói rồi, ông quay lại phía Calloway. “Chúng ta sẽ cần một tấm bản đồ địa hình.”
“Tôi đã gọi cho Vern. Ông ta biết rõ vùng núi này hơn bất kỳ ai.” “Thế còn chó nghiệp vụ thì sao?”
“Tôi sẽ xem xét chuyện đó.” Calloway đáp.
“Liệu có kẻ nào ở đây có thể làm được một chuyện như thế? Hay có kẻ nào đó mới chuyển từ nơi khác đến?”
“Chẳng ai sống ở đây có thể làm điều đó, James ạ. Nhất là với Sarah.” Cha cô toan nói điểu gì đó nhưng đột nhiên dừng lại như thể ông bị đứt mạch suy nghĩ. Lần đầu tiên trong đời, Tracy nhìn thấy nỗi sợ hãi toát ra từ ông. Một thứ gì đó xám xịt, u tối và vô hình. “Thằng nhóc đó!” Ông nói. “Đứa vừa mới được ân xá ấy.”
“Edmund House!” Calloway lẩm bẩm. Ông đứng sững như thể bị tê liệt khi nhắc đến cái tên đó. Rồi ông nói “Tôi sẽ đi ngay.” Calloway mở toang cửa và vội vàng băng qua bậc thềm đá hoa cương trước nhà. “Chúa ơi!” Cha cô thốt lên.
CHƯƠNG 13
Đồ nội thất cứng ngắc trong quán cà phê dưới chân tòa nhà Văn phòng Điều tra viên quận King trên phố Jefferson làm cho Tracy nhớ tới những quán cà phê trong các bệnh viện trước khi ai đó quyết định rằng cho dù một người trong nhà bị ốm nhưng không nhất thiết người thân của họ cũng phải chịu khổ cực. Có vẻ như quán được trang trí theo một phong cách hiện đại nào đó, sàn nhà được lót vải sơn, những chiếc bàn được làm bằng thép không gỉ và những cái ghế bằng nhựa chẳng hề êm ái. Kelly Rosa hẹn cô ở quán cà phê này không phải vì không khí của nó. Bà chọn nó vì địa điểm không quá xa nhưng cũng không quá gần văn phòng của bà.
Tracy nhìn lướt qua những chiếc bàn một lượt nhưng không thấy Rosa đâu cả. Cô gọi một tách trà đen, ngồi ở chiếc bàn cạnh cửa sổ nhìn ra vỉa hè, rồi bắt đầu trả lời tin nhắn và email trên chiếc iPhone của mình. Sau vài phút chờ đợi, cô nhận ra Rosa đang đi tới, dù bà trùm một tấm áo mưa màu xanh vì ngoài trời mưa lâm thâm. Rosa bỏ mũ trùm xuống khi bước vào trong quán và nhìn thấy Tracy. Trông bà không hề giống một người thường phải trèo đèo lội suối để tìm kiếm thi thể của những người đã chết từ lâu, mà giống như một bà mẹ trung niên lái xe tải và chơi thể thao. Đó cũng chính là những việc mà Rosa hay làm mỗi khi rảnh rỗi.
Rosa trao cho Tracy một cái ôm trước khi cởi áo khoác ngoài. “Tôi có thể mời chị chút gì chứ?”
“Không sao, tôi ổn.” Rosa nói, ngồi xuống phía đối diện với Tracy. “Bọn trẻ dạo này thế nào?”
“Đứa mười bốn tuổi giờ đã cao hơn tôi rồi. Tôi biết đó cũng chẳng phải là thành tích to lớn gì, nhưng con bé có vẻ thích thú mỗi khi lướt qua tôi.” Rosa chỉ cao khoảng một mét rưỡi, đây là bà đã phải dựa vào mái tóc vàng để ăn gian chiều cao của mình. “Đứa mười một tuổi thì vừa tham gia diễn kịch ở trường. Vở Phù thủy xứ Oz.”
“Cháu vào vai Dorothy à?”
“Toto. Con bé nghĩ rằng mình là ngôi sao của vở kịch.” Tracy mỉm cười. Rosa ngả người về đằng trước và nắm chặt lấy tay Tracy. “Tôi rất lấy làm tiếc, Tracy à!”
“Cảm ơn chị đã bớt chút thời gian.”
“Không sao, đó là chuyện đương nhiên.”
“Chị khẳng định rằng đó chính là Sarah chứ?” Câu hỏi này chỉ mang tính hình thức, vì dựa vào kinh nghiệm, Tracy biết chắc rằng Rosa sẽ phải chụp X quang xương hàm và răng của Sarah để gửi đến Bộ phận Nhận dạng và Tìm kiếm người mất tích cũng như Trung tâm thông tin tội phạm Quốc gia.
“Có tận hai kết quả trùng khớp.”
“Chị còn có thể nói cho tôi biết những gì khác?”
Rosa thở dài. “Tôi có thể nói ông cảnh sát trưởng bự con đó không muốn tôi kể cho cô bất kỳ điều gì.”
“Ông ta nói như vậy à?”
“Hàm ý của ông ta rõ mồn một.”
“Roy Calloway chưa bao giờ khôn khéo.”
“Một điều tốt là tôi không làm việc cho ông ấy.” Rosa cười, nhưng nụ cười nhanh chóng vụt tắt. “Cô có chắc là muốn nghe những điều này
không? Kể cả khi nạn nhân vẫn còn khuyết danh, những chuyện này đã rất khó nghe rồi.”
“Tôi không chắc lắm, nhưng tôi cần biết chị tìm thấy những gì.” “Cô muốn tôi kể cho cô nghe bao nhiêu?”
“Chừng nào tôi còn chịu được. Tôi sẽ nhắc khi không thể nghe tiếp được nữa.”
Rosa xoa hai tay vào nhau trước khi chắp tay lại dưới cằm, như thể một đứa trẻ đang chuẩn bị cầu nguyện. “Giống như những gì cô đoán, tên sát nhân đã dùng cái hố bị bỏ lại sau khi người ta đào cây lên. Những dấu xẻng cho thấy hắn đã cố đào cho cái hố rộng ra, nhưng có vẻ hắn đã đoán sai kích thước, hoặc do quá lười, hoặc do quá vội. Cái xác bị chôn trong tư thế chân cao hơn đầu, gập lại ở đầu gối. Đó là lý do vì sao con chó đào được xương chân trước.”
“Những điều đó tôi cũng đã hiểu.”
“Tư thế của cái xác trong hố, đầu gối bị gập và xương sống uốn cong, chỉ ra rằng cái xác đã bị co cứng trước khi chôn.” Tracy cảm thấy nhịp tim của mình tăng lên. “Trước khi chôn? Chị chắc chứ?”
“Tôi chắc.”
“Bao lâu trước khi chôn?”
“Tôi không thể chắc chắn bao lâu, nhưng tôi có thể dự đoán theo kinh nghiệm.”
“Nhưng chắc chắn là trước khi chôn?”
“Đó là một ý kiến khá vững chắc của tôi.”
“Chị có thể tìm ra nguyên nhân tử vong không?”
“Hộp sọ bị vỡ phía sau gáy, ngay trên cột sống. Nhưng đó có phải là nguyên nhân tử vong hay không, tôi không thể chắc chắn được. Đã lâu
quá rồi. Nhưng tôi không tìm thấy vết nứt nào trên các đoạn xương khác, Tracy. Không có gì cho thấy cô ấy đã bị đánh đập.” Rosa thật tử tế khi nói câu đó. Xương không bị nứt không đủ làm bằng chứng để kết luận rằng nạn nhân không bị đánh đập hay hành hạ, đặc biệt là khi hài cốt đã bị phân hủy tới vậy.
“Ngoài cái khóa thắt lưng ra, chị còn tìm được món tư trang nào khác không?” Dựa theo kinh nghiệm, Tracy hiểu rằng những vật liệu hữu cơ như bông và len chắc chắn đã hỏng từ rất lâu. Tuy nhiên những vật liệu vô cơ như kim loại và sợi tổng hợp vẫn sẽ còn sót lại.
Rosa rút ra một quyển sổ nhỏ từ áo khoác, lật qua vài trang. “Đinh tán bằng kim loại với dòng chữ ‘LS&CO S.F’ trên đó.” Tracy cười. “Công ty Levi Strauss.” Cô nói. “Sarah luôn là đứa nổi loạn.”
“Xin lỗi, tôi không hiểu.”
“Công ty Levi Strauss ủng hộ những người vận động chống mang súng. Chúng tôi thường hay mặc đồ của hãng Wrangler hay Lee, nhưng Sarah nghĩ rằng chúng làm cho mông con bé trông to hơn bình thường, vậy nên con bé vẫn mặc đồ của Levi. Để đánh giá đúng thì cần phải hiểu con bé.”
“Xem nào. Bảy chiếc khuy bấm bằng kim loại.” Rosa ngẩng đầu lên khỏi cuốn sổ. “Tôi đoán là từ một chiếc áo dài tay. Hai trong số đó bé hơn những cái còn lại, tôi nghĩ là khuy cổ tay.”
Tracy với lấy chiếc cặp tài liệu cô để cạnh ghế ngồi rồi rút ra một khung ảnh. Bức ảnh chụp cô cùng Sarah và người đoạt giải ba trong cuộc thi hôm đó. “Có phải giống cái này không?”
Rosa xem xét bức ảnh. “Đúng rồi. Nhưng mà những cái khuy không còn màu đen thế này nữa.” Sarah vẫn thường mặc áo dài tay được may bởi Scully. Con bé đã mặc cái áo thêu viền màu đen trắng trong cuộc thi
ngày hôm đó. Tracy lấy lại tấm ảnh.
Rosa lại tiếp tục cúi xuống cuốn sổ. “Những mẩu nilon vụn.” Dạ dày Tracy như quặn lại nhưng cô vẫn cố giữ tập trung. Kẻ giết Sarah đã phải gập xác con bé để đặt vừa cái hố. Có vẻ như hắn đã nhét con bé trong một cái túi rác.
Rosa hơi ngập ngừng. “Cô ổn chứ?”
Tracy hít một hơi thật sâu và tự ép bản thân nói ra từng chữ. “Một cái túi rác?” Cô hỏi. Đó có thể là điểm mấu chốt. Calloway kể rằng Edmund House đã thú nhận hắn sát hại Sarah ngay lập tức rồi chôn xác con bé. Giả thuyết họ đưa ra là House đã đi ngang qua và tân công Sarah lúc đang ở trên đường. Nếu đúng như vậy, đó hẳn phải là một cơ duyên nếu như hắn tình cờ mang theo một cái túi rác trong xe tải.
“Tôi nghĩ vậy.”
“Còn thứ gì khác nữa không?”
“Một vài dấu vết của sợi tổng hợp.”
“Kích cỡ ra sao?”
“Sợi tổng hợp á? Khoảng năm mươi micromet.”
“Chắc là sợi thảm?”
“Có thể lắm.”
“Chị nghĩ xác con bé đã bị cuộn trong một cái thảm?”
“Không. Nếu là trường hợp đó, tôi sẽ phải tìm thấy những mảnh còn sót lại của cái thảm, hoặc ít nhất là nhiều sợi thảm hơn chỗ mà chúng ta đã tìm thấy. Có lẽ đó là sợi của một tấm thảm mà cô ấy đã tiếp xúc, ví dụ như trong một chiếc xe.”
Edmund House sống với người chú của hắn, Parker House. Hắn lái một trong những chiếc xe mà Parker đã sửa chữa và bán lại, một cái xe tải Chevy màu đỏ. Parker đã lột hết mọi thứ bên trong buồng lái, chỉ
còn trơ lại khung kim loại. Sợi thảm còn sót bên trong hố chôn cũng không khớp với lời kể của Calloway rằng Edmund House thú nhận đã cưỡng hiếp, bóp cổ và chôn xác Sarah ngay sau đó.
“Còn gì khác nữa không?”
“Một vài món trang sức.”
Tracy rướn người về phía trước. “Cụ thể hơn được không?” “Khuyên tai. Và một sợi dây chuyền.”
Nhịp tim của cô lại tăng vọt. “Chị hãy miêu tả đôi khuyên tai đi!” “Bằng ngọc thạch. Hình bầu dục.”
“Hình giọt nước?”
“Đúng vậy.”
“Và sợi dây chuyền làm bằng bạc ròng?”
“Đúng.”
Tracy thảy tấm ảnh qua mặt bàn. “Trông như thế này phải không?” “Chính là chúng.”
“Giờ chúng đang ở đâu?”
“Cảnh sát đã tịch thu tất cả mọi thứ.”
“Nhưng chị đã chụp ảnh và phân loại tất cả những thứ đó rồi chứ?” “Luôn luôn như vậy. Đó là công việc thường ngày của tôi mà.” Rosa nhìn Tracy bằng ánh mắt đầy thắc mắc. “Tracy?”
Tracy đẩy chiếc ghế ra đằng sau và cất tấm ảnh trở lại cặp đựng tài liệu. “Cảm ơn Kelly. Tôi rất lấy làm biết ơn.” Cô đứng dậy khỏi bàn. “Tracy?”
Cô quay lại. Rosa tiếp tục: “Thế còn hài cốt của cô ấy thì sao?” Tracy dừng lại giây lát, nhắm mắt, đặt bàn tay lên trán, cảm nhận một cơn đau đầu dữ dội ập tới. Cô lại ngồi xuống ghế.
Sau một khoảnh khắc, Rosa tiếp tục: “Có chuyện gì vậy?” Tracy phân vân không biết phải nói gì, và sẽ phải hé lộ câu chuyện bao nhiêu. “Có lẽ chị không nên biết nhiều hơn, Kelly. Chị có thể sẽ phải trở thành một nhân chứng. Tốt hơn chị nên giữ quan điểm của mình không bị ảnh hưởng bởi những điều tôi nói.”
“Một nhân chứng?”
Tracy gật đầu.
Hai mắt Rosa nheo lại, nhưng có vẻ như bà đã đưa ra quyết định. “Tốt thôi! Nhưng nếu như tôi có thể đề nghị…”
“Chị cứ nói.”
“Hãy để tôi gửi hài cốt cô ấy đến nhà tang lễ. Sẽ nhanh gọn hơn. Và cô cũng sẽ không cần phải chở cô ấy đi.”
Hai mươi năm trước, một vài nhà tang lễ ở Cedar Grove đã đưa ra lời đề nghị tổ chức tang lễ cho Sarah. Họ tìm kiếm một cái kết, nhưng James Crosswhite không để lọt tai bất kỳ câu nói về tang lễ hay nhà tang lễ nào. Ông không chịu được việc người ta nói rằng đứa con gái bé bỏng của ông đã chết. Tracy đã chẳng còn chút hy vọng nào, nhưng giờ đây cô đang có trong tay thứ mà cô chờ đợi trong hai mươi năm. Đó là bằng chứng chính xác.
“Tôi nghĩ rằng như vậy là tốt nhất.” Tracy nói.
CHƯƠNG 14
Sáng sớm ngày thứ ba sau khi Sarah mất tích, Tracy mở cửa và thấy Roy Calloway đứng trên bậc thềm, tay mân mê vành mũ. Từ vẻ mặt ông, Tracy biết rằng Calloway chẳng đem đến tin tức tốt lành nào.
“Chào buổi sáng, Tracy. Bác cần nói chuyện với bố cháu.” Tối qua, Tracy đã phải kéo cha mẹ cô về nhà khi màn đêm buông xuống làm cho việc tìm kiếm chẳng còn dễ dàng như khi trời sáng nữa. Cô cũng dốc hết sức để làm việc cùng cha, người đã biến căn nhà thành tổng hành dinh hoạt động. Ông đã gọi cho tất cả các đồn cảnh sát, tất cả các nghị sĩ, tất cả mọi nhân vật đang nắm quyền mà ông biết. Tracy đã gọi điện cho đài truyền hình và báo chí. Đồng hồ lúc đó chỉ mười một giờ hơn. Trong khi cha cô vẫn đang nghiên cứu tấm bản đồ địa hình thì Tracy tranh thử cuộn tròn trên chiếc ghế da màu đỏ, định chợp mắt mười lăm phút. Khi tỉnh giấc, cô thấy mình đang nằm trong chăn và ánh nắng đã xuyên qua khung cửa kính mờ. Cha cô vẫn đang ngồi ở bàn làm việc. Chiếc bánh sandwich mà cô làm cho ông đêm qua, ông chưa hề đụng tới. Ông đang dùng một cái compa và một cái thước kẻ để chia tấm bản đồ thành bốn phần. Cô định pha cà phê nhưng khi vừa vào bếp, cô đã thấy có một bình để sẵn ở đó. Chắc mẹ cô đã rời khỏi nhà lúc sáng sớm mà không đánh thức cô dậy. Cô đang chuẩn bị rót một tách cà phê cho bố thì nghe thấy tiếng gõ cửa.
“Ông ấy đang ở trong phòng.” Cô nói.
Vừa nói dứt câu, cánh cửa đằng sau lưng cô đã bật mở. Cha cô bước
ra ngoài, rút cặp kính đeo lên mắt. “Tôi đây.” Ông nói. “Tracy, đi pha cà phê đi!”
“Mẹ đã pha sẵn một bình rồi.” Cô cùng hai người quay trở vào phòng. “Anh đã nói chuyện với thằng đó chưa?” Cha cô hỏi Calloway. “Nó bảo rằng hôm đấy nó ở nhà.”
Tracy biết rằng họ đang nói về Edmund House.
“Có ai làm chứng không?”
Calloway lắc đầu. “Parker làm ca đêm nên về muộn. Ông ta nói ông ta thấy Edmund ngủ trong phòng.”
Khi Calloway ngừng lại không nói tiếp, cha cô thắc mắc. “Thế nhưng?”
Calloway đưa cho cha cô một vài bức ảnh chụp lấy ngay. “Trên mặt và tay hắn có những vết xước.”
Cha của Tracy cầm lấy một tấm và giơ lên ánh sáng. “Hắn ta giải thích những vết xước này thế nào?”
“Hắn bảo rằng hắn bị một mảnh gỗ văng trúng khi đang làm việc ở xưởng gỗ nơi Parker làm đồ nội thất. Hắn bảo mảnh gổ đã cào xước tay hắn.”
Cha cô buông tấm ảnh xuống. “Tôi chưa từng nghe thấy điều gì như thế.”
“Tôi cũng chưa bao giờ.”
“Đây giống như vết móng tay của ai đó đã cào lên thì đúng hơn.” “Tôi cũng nghĩ vậy.”
“Anh có thể xin giấy phép khám nhà không?”
“Vance đã thử rồi.” Calloway nói, cảm giác bực tức trào lên. “Ông ấy gọi đến nhà Thẩm phán Sullivan. Sullivan đã khước từ. Ông ta nói không đủ bằng chứng để có thể xâm phạm vào địa phận nhà Parker.”
Cha cô đưa tay lên xoa gáy. “Nếu như đích thân tôi gọi Sullivan thì sao?”
“Nếu là anh thì tôi sẽ không làm thế. Sullivan là người rất tuân thủ nguyên tắc.”
“Ông ta đã ở trong ngôi nhà chết tiệt của tôi, Roy. Ông ta đã đến dự tiệc Giáng sinh ở đấy.”
“Tôi biết.”
“Nếu như thằng Edmund House đó đang giữ Sarah thì sao? Nhỡ đâu hắn bắt cóc con bé rồi nhốt nó đâu đó trong nhà?”
“Hắn không hề làm vậy.”
“Sao anh biết?”
“Đó là khu nhà của Parker. Tôi đã đề nghị ông ta cho phép tôi nhìn quanh một lượt và ông ta đồng ý. Tôi đã tìm trong tất cả các phòng, tất cả các căn nhà. Con bé không có ở đó và tôi cũng không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào cho thấy con bé đã ở đó cả.”
“Biết đâu có những bằng chứng khác. Có máu trong xe ớ tô hay trong nhà chẳng hạn.”
“Cũng có thể, nhưng mà phải kéo cả một đội giám định đến thì…” “Thằng đó là một tên tội phạm chết tiệt, Roy. Một thằng từng bị kết tội hiếp dâm có những vết cào cấu trên mặt và cánh tay, trong khi không có ai kiểm chứng được lúc đó hắn đang ờ đâu. Như vậy chưa đủ sao?” “Tôi đã nói y hệt như thế với Vance, và ông ấy đã tranh cãi với Thẩm phán Sullivan. House đã chịu đủ hình phạt cho tội ác đó rồi.” “Tôi đã gọi điện cho quận King, Roy. Họ nói rằng hắn đã cưỡng hiếp và đánh đập cô gái đáng thương ấy suốt một ngày. House được thả do một lời bào chửa chết tiệt. Phía cảnh sát đã làm hỏng bét mọi chuyện.” “Hắn đã phải trả giá cho điều đó rồi, James.”
“Vậy thì hãy nói cho tôi biết, Roy, con gái tôi đâu? Sarah đang ở đâu?” Calloway bối rối. “Tôi không biết. Giá mà tôi biết con bé ở đâu.” “Vậy thì chuyện này là thế nào, chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên
thôi sao? Họ đã thả hắn ra, hắn đến sống ở đây, và rồi Sarah mất tích.” “Điều đó chưa đủ để kết luận.”
“Hắn ta không có bằng chứng ngoại phạm.”
“Điều đó cũng vẫn chưa đủ, James.”
“Vậy thì ai đã làm thế? Một kẻ vãng lai? Một tên nào đó đi ngang qua? Có bao nhiêu khả năng cho một việc như thế?”
“Điện báo đã được gửi tới tất cả cơ quan hành pháp trong cả bang.” James Crosswhite cuộn tấm bản đồ lại và đưa cho Tracy. “Đem cái này đến cho mẹ con ở tòa nhà Cựu chiến binh Hoa Kỳ. Bảo bà ấy đưa nó cho Vern và tập hợp một đội cứu hộ. Bố sẽ ra ngoài. Bố muốn tìm kiếm một lần nữa, một cách có quy củ để đảm bảo không sót chỗ nào.” Nói rồi, ông quay lại nhìn Calloway. “Chó nghiệp vụ thì sao?” “Đội gần nhất đang ở California. Vận chuyển chúng bằng máy bay rất rắc rối.”
“Cho dù chúng đang ở Siberia đi chăng nữa tôi cũng không ngại. Tôi sẽ trả mọi giá để có thể đem chúng về đây.”
“Vấn đề không nằm ở tiền bạc, James.”
Cha cô quay sang Tracy và rất sửng sốt khi thấy cô chưa rời khỏi. “Con có nghe thấy bố nói gì không? Bố bảo đi ngay mà.” “Bố không đi cùng con à?”
“Khốn kiếp! Làm theo lời bố nói ngay!”
Tracy bàng hoàng lùi lại phía sau. Cha cô chưa từng cao giọng với cô hay Sarah như thế. “Vâng, thưa bố!” Cô nói, băng qua trước mặt ông. “Tracy.” Ông nhẹ nhàng cầm lấy tay cô, ngừng lại một chút để lấy lại
sự bình tĩnh. “Con đi đi! Bảo với mẹ rằng bố sẽ tới đó sớm. Bố và cảnh sát trưởng có một vài chuyện cần phải bàn bạc.”
CHƯƠNG 15
Một tuần sau khi tìm thấy hài cốt của Sarah, Tracy từ Seattle quay trở lại Cedar Grove. Trong suốt chuyến đi, trời nắng đẹp, nhưng khi cô gần tới nơi, mây đen bắt đầu ùn ùn kéo đến. Dường như chúng hiểu cái lý do u sầu khiến cô phải quay về. Cô về đây để chôn cất em gái mình.
Giao thông thuận lợi hơn dự tính giúp cô đến nhà tang lễ sớm hơn nửa tiếng. Cô lướt một vòng qua những cửa tiệm và quầy hàng đìu hiu, rồi phát hiện ra một tấm bảng neon hình tách cà phê treo ở chỗ trước đây từng là tiệm tạp hóa của Kaufman. Không khí xung quanh trở nên ẩm ướt mùi đất báo hiệu cơn mưa sắp đến. Tracy bỏ đồng hai lăm xu vào máy thu tiền đỗ xe tự động, dù cô cũng chẳng biết trong vòng một trăm dặm quanh đây có nhân viên thu phí nào không. Rồi cô bước vào trong quán mang tên Cà Phê Phin Hằng Ngày. Bên trong rất dài và hẹp. Nơi này từng là quầy soda và kem của tiệm tạp hóa. Ai đó đã dựng lên một bức tường giả để ngăn căn nhà làm hai, một bên là quán cà phê, bên kia là nhà hàng Trung Hoa. Quán được trang trí bằng một mớ đồ nội thất hỗn tạp trông gần giống như căn phòng kí túc xá sinh viên. Ghế tựa đã sờn hết chỉ, được lót tạm bằng báo. Những vết nứt dài trên bức tường trát vữa được che giấu một cách cẩu thả bằng một bức tranh vẽ các khung cửa sổ nhìn ra vỉa hè có nhiều người qua lại. Quả là một sự lựa chọn kỳ lạ với một người đang đi tìm một quán cà phê dân dã để ngồi. Cô gái trẻ ngồi phía sau quầy có một chiếc đinh xỏ dưới cằm, một cái khuyên trên mũi, và thái độ phục vụ thì giống như một công chức nhà nước sắp nghỉ hưu.
Cô ta còn chẳng buồn chào đón Tracy. “Cà phê. Đen.” Tracy gọi. Cô cầm tách cà phê tới một cái bàn bên cạnh cửa sổ, ngắm nhìn Phố Chợ giờ đã bị bỏ hoang, nhớ lại việc cô và Sarah cùng những người bạn đã gặp khó khăn biết nhường nào khi đạp xe trên vỉa hè đông đúc. Bọn trẻ dựa những chiếc xe bên tường, chẳng cần phải khóa, rồi vào trong cửa hàng để mua đồ, chuẩn bị cho chuyến đi chơi ngày thứ Bảy như đã bàn trước.
Dan O’Leary đứng chết trân trước chiếc xe đạp của cậu. “Chết tiệt!” “Sao vậy?” Tracy bước ra khỏi cửa hàng Kaufman sau khi nhét một đoạn dây thừng to, một ổ bánh mì và hũ bơ lạc vào trong ba lô của mình. Với ít tiền lẻ còn sót lại, cô bé mua thêm mười miếng cam thảo đen và năm miếng cam thảo đỏ. Buổi sáng hôm đó, cha đã cho cô tiền sau khi cô xin phép cùng Sarah đi chơi hồ Cascade bằng xe đạp. Sarah tìm thấy một cái cây rất tuyệt vời để buộc dây đu lên đó. Tracy rất ngạc nhiên vì cha cho cô nhiều tiền đến vậy. So với số tiền tiêu vặt bình thường cô vẫn được cho thì chỗ đồ cô đã mua quả là một sự hoang phí. Tracy giờ đã là học sinh năm thứ hai ở trường trung học, cô còn kiếm thêm tiền bằng cách phụ việc ở quầy vé trong rạp phim của ông Hutchins. Cha cô không những cho cô tiền mà còn bảo cô nhớ tiêu hết. Ông nói rằng bác Kaufman ‘đang gặp chút rắc rối về chuyện tiền bạc’. Tracy đoán rằng đó là do con trai bác, Peter, từng học chung với cô hồi lớp sáu ở trường tiểu học Cedar Grove, hiện đang bị ốm và cả năm vừa rồi phải nhập viện liên tục.
“Xịt lốp rồi.” Dan nói với giọng ỉu xìu như cái bánh xe đằng trước của cậu.
“Chắc nó chỉ bị non hơi thôi.” Tracy nói.
“Không phải đâu. Sáng nay nó bị xì hơi nên tớ đã bơm nó trước khi chúng ta đi. Chắc là nó bị thủng. Tuyệt! Giờ thì tớ không đi được nữa rồi.” Dan cởi ba lô của mình rồi thả xuống vỉa hè.
“Có chuyện gì vậy?” Sarah hỏi. Con bé vừa đi ra khỏi cửa hàng cùng Sunnie.
“Xe của Dan bị xịt lốp.”
“Tớ không đi được nữa rồi.” Cậu nói.
“Để tớ nhờ bác Kaufman gọi điện cho mẹ cậu. Có thể mẹ cậu sẽ đến và mua cho cậu một cái săm mới.”
“Không được.” Dan nói. “Bố tớ đang rầy la tớ vì tội thiếu trách nhiệm. Ông ấy nói tiền không mọc ra từ trên cây.”
“Thế cậu không đi chứ gì?” Sunnie nói. “Nhưng chúng ta đã lên kế hoạch hết rồi.”
Dan ngồi chống cằm, hai tay ôm quanh đầu gối. Cậu còn chẳng thèm chỉnh lại gọng kính khi nó tuột khỏi sống mũi. “Các cậu cứ đi đi, kệ tớ!” “Cũng được.” Sunnie nói, định chạy đi lấy xe.
Tracy lườm Sunnie một cái. “Chúng ta sẽ không đi mà không có cậu ấy, Sunnie.”
“Thế chúng ta không đi nữa à? Xe cậu ấy hỏng đâu phải lỗi của chúng ta chứ?”
“Thôi đi Sunnie!” Sarah nói.
“Mày thôi đi ấy. Ai mời mày đi theo chứ?”
“Ai mời chị đi cùng?” Sarah phản pháo. “Em tìm ra cái cây chứ không phải chị.”
“Cả hai đứa, thôi nào!” Tracy nói. “Nếu như Dan không đi được thì chúng ta cũng không đi.” Tracy cầm lấy cánh tay của Dan. “Đứng dậy
nào, Dan! Chúng ta sẽ dắt xe cậu về nhà tớ. Rồi chúng ta sẽ buộc dây lên cành cây liễu rủ và làm cái đu ở đó.”
“Cậu đùa đấy hả? Chúng ta có phải là những đứa trẻ lên sáu đâu? Chúng ta sẽ làm gì ở nhà cậu?” Sunnie nói. “Tớ muốn bơi ở hồ, không phải chạy nhảy trong sân vườn.”
“Đi thôi!” Tracy nhìn quanh nhưng không thấy Sarah đâu. Cô thở dài. “Sarah lại đi đâu rồi?”
“Thật tuyệt!” Sunnie nói. “Nó lại biến đâu mất rồi. Ngày hôm nay đang tệ dần đi theo từng phút.”
Xe đạp của Sarah vẫn đang dựa bên tường nhưng con bé đã đi đâu đó. “Đợi ở đây nhé!” Tracy quay trở vào trong cửa hàng và nhìn thấy Sarah đang đứng ở quầy nói gì đó với bác Kaufman. “Sarah, em đang làm gì thế?”
Sarah lấy từ trong túi áo một nùi những tờ đô-la và tiền xu rồi đặt chúng lên quầy. “Em đang mua cho Dan một cái săm mới.” Sarah đáp. Con bé lắc đầu để gạt những lọn tóc khỏi khuôn mặt. Sarah không bao giờ chịu dùng cặp hay buộc tóc bằng dây thun và điều đó làm cho mẹ cô phát điên.
“Đó có phải là tiền xem phim mà em đã tiết kiệm không?” Sarah nhún vai. “Dan cần nó hơn em.”
“Của cháu đây, Sarah.” Bác Kaufman đưa cho Sarah cái hộp đựng ống săn mới. “Cái này chắc sẽ vừa.”
“Cháu đã trả đủ tiền chưa bác Kaufman?”
Bác Kaufman nhặt chỗ tiền từ quầy lên mà không buồn đêm. “Bác nghĩ nhiêu đây đủ rồi. Cháu có chắc là cháu sửa được xe không? Đó không phải là chuyện nhỏ đâu.” Bác nhìn về phía Tracy rồi nháy mắt.
“Cháu đã từng thấy bố cháu làm rồi. Bánh bị xịt lốp chỉ là bánh trước nên cháu sẽ không cần phải tháo xích ra.”
“Chị cháu có thể giúp cháu đấy.” Bác nói.
“Không cần đâu, cháu có thể tự làm được.”
Bác Kaufman cúi xuống dưới quầy để lấy cho Sarah mượn một chiếc cờ lê và một chiếc chìa vít đầu bè. “Cháu sẽ cần những thứ này. Hãy cho bác biết nếu như cháu cần giúp đỡ.”
“Vâng. Cháu cảm ơn bác Kaufman.” Sarah cầm cái hộp săm và mấy món dụng cụ rồi chạy ra khỏi cửa hàng, miệng la lớn: “Dan, em tìm thấy săm mới cho anh này. Giờ anh có thể đi cùng mọi người được rồi!”
Tracy nhìn ra ngoài cửa sổ. Dan có vẻ bối rối, rồi chuyển sang ngạc nhiên, cuối cùng đứng dậy, cười nhăn nhở.
“Cháu cũng bảo bác nếu cần giúp đỡ gì nhé, Tracy!” Bác Kaufman nói. “Vâng ạ!” Tracy đáp.
Bác đưa cho cô bé một cái bơm xe. “Dùng xong thì trả lại bác cùng mấy món dụng cụ là được.” Bác cũng nhìn ra ngoài cửa sổ. Sarah và Dan đang quỳ gối, loay hoay dùng cờ lê vặn con vít phía đầu xe. “Con bé em cháu cứ như một khẩu súng lục vậy.”
“Vâng, lúc nào nó cũng giống như một cái gì đó. Cháu cảm ơn bác Kaufman.” Tracy định rời khỏi cửa hàng thì bác Kaufman gọi cô lại. Bác chìa ra một thanh sô cô la Hershey cỡ lớn, loại mà mẹ cô vẫn hay dùng để làm bánh kẹp kem khi cả nhà đi cắm trại. “Ôi, bác Kaufman. Cháu không còn tiền đâu.”
“Đây là một món quà.”
“Cháu không lấy đâu.” Cô nói, nhớ lời cha cô rằng bác Kaufman đang gặp rắc rối về tiền bạc. Cô bắt đầu nghi ngờ cái ống săm đắt hơn số tiền mà Sarah đã đặt trên quầy.
Bác Kaufman trông như sắp khóc. “Cháu biết không, con bé đã đạp xe tới tận bệnh viện để thăm Peter.”
“Thật hả bác?” Bệnh viện nằm ở tận Silver Spurs, thị trấn bên cạnh.