🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cẩm Nang Chọn Nghề - Jeff Goins
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
Lời ngỏ của tác giả
Giới thiệu: Ung thư cũng không ngăn được vận động viên ba môn phối hợp
PHẦN I: CHUẨN BỊ
Chương 1: Lắng nghe cuộc đời mình
Chương 2: Cơ hội học việc
Chương 3: Khổ luyện
PHẦN II: HÀNH ĐỘNG
Chương 4: Xây cầu
Chương 5: Điểm trụ
Chương 6: Nghề tổng hợp
PHẦN III: HOÀN THIỆN
Chương 7: Kiệt tác của bạn
Kết luận: Công việc không bao giờ hoàn thành Lời cảm ơn
Phụ lục: Những bước đầu tiên trên hành trình Giới thiệu tác giả
Chú thích
Dành tặng anh chị em: Nikki, Marissa, Patrick Chúc mọi người tạo được dấu ấn riêng của mình trong đời
“TLời ngỏ của tác giả
rường hợp của anh là hiếm lắm,” Mark, bạn tôi, đã nói thế khi tôi đưa ra quyết định quan trọng nhất cuộc đời mình – bỏ việc để theo nghiệp viết lách. Ngày cuối cùng đi làm vô tình cũng là ngày sinh nhật lần thứ 30, một cột mốc mang nhiều ý nghĩa. Nhưng thật ra, bản thân ngày đó không quan trọng bằng quá trình đã dẫn tôi đến ngày này.
Nếu ai đó hỏi tôi làm thế nào có được ngày hôm nay, tôi thật sự không biết trả lời sao cho rõ ràng. Trải nghiệm tìm ra tiếng gọi vừa bí ẩn vừa thực tiễn. Bạn vất vả gắng sức, nhưng đôi khi lại cảm giác nó tự nhiên mà đến. Giờ đây, tôi đã nhận ra việc đi tìm mục tiêu của cuộc đời giống như đặt chân lên một chuyến hành trình hơn là theo đuổi một kế hoạch: Bạn sẽ gặp những ngã rẽ và khúc cua bất ngờ. Dĩ nhiên, những bất ngờ này rồi cũng đưa bạn đến với định mệnh của mình. Và đích đến hóa ra chỉ mới là một đoạn đường trong chuyến hành trình dài.
Cuốn sách này sẽ giúp bạn hình dung được chặng đường phải đi, cũng như từng bước bạn phải thực hiện nhằm tiến về phía trước. Mọi người có vẻ đều đang đi tìm lẽ sống để thỏa mãn những khát khao sâu thẳm trong tâm hồn. Tôi tin rằng họ đang đi tìm tiếng gọi. Vậy tiếng gọi là gì? Tôi dùng từ “tiếng gọi” theo nghĩa sự nghiệp,
thiên hướng, công việc của cuộc đời, hay nói đơn giản hơn, tiếng gọi là lý do cho sự xuất hiện của bạn trên đời này.
Khi mới bắt tay vào dự án này, tôi cứ nghĩ mình đã nắm rõ quá trình theo đuổi ước mơ, nhưng hóa ra tôi còn khám phá được nhiều điều bất ngờ. Đi tìm tiếng gọi hóa ra không hề đơn giản. Chặng đường này ở mỗi người đều khác nhau, dù cũng có những chủ đề chung. Nếu xem xét kỹ các chủ đề chung này, ta có thể xác định bộ khung định hướng để hiểu hơn về thiên hướng nghề nghiệp.
Trường hợp của tôi có thực sự hiếm gặp không? Giả sử ai cũng có tiếng gọi của mình thì sẽ thế nào? Đó chính là câu hỏi thôi thúc tôi đi trên hành trình này. Những nhân vật xuất hiện trong cuốn sách này, do tôi đích thân phỏng vấn, đều không phải người phi thường,
vì hẳn bạn đã nghe nhiều chuyện tương tự. Họ không phải là nhân vật thành công điển hình, tôi chọn họ vì có mục đích. Qua những câu chuyện có vẻ bình thường này, tôi nghĩ chúng ta có thể hiểu rõ hơn về chính mình. Sẽ có độc giả cảm thấy thất vọng vì cuốn sách không được khách quan. Nhưng cuộc đời là thế, nó đâu phải là dự án nghiên cứu hay bản tóm tắt nội dung sách mà đòi hỏi phải khách quan. Cuộc đời là những câu chuyện cảm xúc, và qua từng trải nghiệm, ta nhìn ra sự thật có thể đã bị bỏ qua. Tôi hy vọng những câu chuyện này sẽ chạm đến bạn nhiều hơn so với những dữ liệu khô khan, và từ đó, bạn sẽ thay đổi.
Cẩm nang chọn nghề không phải là cuốn sách tôi định viết, mà là cuốn sách tôi phải viết. Tiếng gọi là thế: Bạn không hề dự tính, nhưng các nút thắt, ngã rẽ dẫn dắt kết nối mọi thứ, đưa bạn đến với kết quả cần đến. Quá trình viết cuốn sách này đã góp phần giúp tôi thấu hiểu lẽ sống và thiên hướng, và tôi hy vọng bạn cũng nhận được giá trị tương đương.
Giới thiệu
Ung thư cũng không ngăn được vận động viên ba môn phối hợpSNhiều người được gọi, nhưng ít người được chọn.
— Matthew 22:14
ứ mệnh nghề nghiệp không hẳn là kế hoạch có tính toán. Thường thì nó được vớt vát khi kế hoạch đổ bể.
Một buổi tối tháng 6 năm 2000, Eric Miller đã trốn họp ở công ty để đi xem cậu con trai chơi bóng gậy. Trong trận đấu, ông và vợ là Nancy để ý thấy cậu con trai Garrett bé bỏng không thể giữ thăng bằng và đánh trúng bóng. Hai vợ chồng lo ngại, dẫn con đi khám bác sĩ, và ngay lập tức bác sĩ chỉ định đưa cậu bé đi chụp CT. Khi hai vợ chồng được mời vào đợi trong phòng tư vấn, nơi vẫn thường được gọi là “căn phòng yên lặng”, Eric thoáng hiểu có chuyện chẳng lành. Là một y tá, ông hiểu rõ chức năng của căn phòng này. Đây là nơi người ta được mời đến để nhận hung tin. Lúc đó là 6 giờ tối.1
Đến 11 giờ 30 phút, Garrett được chỉ định nhập viện tại Bệnh viện Nhi đồng ở Denver, Colorado, và được đưa ngay vào phòng phẫu thuật. Sáng hôm sau, ngày 24/6, một khối u to bằng quả bóng golf đã được lấy ra khỏi não phía sau gáy của cậu bé. Cậu bé được chẩn đoán mắc bệnh u nguyên bào tủy* – một cụm từ mà Eric cho rằng con nít không nên biết.2 Sau cuộc phẫu thuật, Garrett bị mất thị lực, không nói được và bị liệt. Garrett giờ đây phải đeo máy thở, và học lại cách đi đứng, cách phát âm, học cách tự đi vệ sinh, tất cả làm lại từ đầu. Ngay cả nếu có phép màu giúp cậu bé làm lại được mọi thứ, cậu cũng chỉ có 50% cơ hội sống được thêm năm năm nữa.
* U nguyên bào tủy là khối u ác tính, hay gặp nhất trong các khối u sọ não ở trẻ em. U xuất hiện ở tiểu não, là vùng kiểm soát thăng bằng và một số chức năng vận động phức tạp. (BTV)
Gia đình Miller chỉ còn biết ngồi đếm từng ngày được sống bên cạnh cậu con trai bé bỏng của mình.
Trong một buổi điều trị ung thư, Eric ngồi nhìn con mà nghĩ đến sự nghiệt ngã của thời gian đang trôi qua, cuộc đời của cậu bé đang ngắn dần theo từng ngày. Đứng trước những khó khăn cậu bé phải chống chọi, đứng trước những lo lắng về căn bệnh, ông chợt nhận ra một điều. Một ý tưởng mới. Là người làm trong ngành y tế, “nơi chiếc đồng hồ đếm thời gian cuộc sống có thể dừng chạy bất cứ lúc nào,” Eric chợt nhận ra bấy lâu nay mình đã sai. Không phải chỉ cuộc đời của Garrett có thể kết thúc bất cứ lúc nào, mà toàn bộ cuộc đời của mọi người trong nhà cũng thế. Không có gì chắc chắn về việc những người trong nhà sẽ sống lâu hơn Garrett.
“Chúng ta cần phải sống trọn vẹn từng phút giây,” Eric nói với tôi. “Vì không ai trong chúng ta dám chắc mình còn sống sau một hay hai giờ nữa.” Với thời gian còn lại, cả gia đình Miller quan tâm đến việc sống trọn vẹn hết mình.
Sau khi Garrett rời khỏi phòng chăm sóc đặc biệt và không còn phải đeo máy thở, Eric tự hỏi không biết trên đời này có ai thấu hiểu cảm giác của ông. Ngồi một mình bên khung cửa sổ trong bệnh viện, ông lặng lẽ cầu nguyện có thể tìm ra câu trả lời cho nỗi tuyệt vọng đang tàn phá chút hy vọng còn sót lại của gia đình.3 Cũng trong thời gian này, ông được biết câu chuyện về Matt King, một kỹ sư IBM đồng thời là vận động viên xe đạp đôi mất thị lực nổi tiếng thế giới.4
Mùa thu năm đó, Eric dẫn con trai đến gặp Matt King nhân một sự kiện xe đạp tổ chức gần nhà, và Garrett được ngồi lên chiếc đạp xe đôi, nắm chặt ghi đông, cảm nhận bàn đạp dưới chân mình. Đó hẳn là lúc “lóe sáng” ý tưởng trong đầu Garrett. Cậu bé quyết định sẽ đạp xe trở lại, và từ đây bắt đầu chuyến hành trình không chỉ thay đổi cuộc đời chính mình mà còn tác động đến cuộc đời của nhiều người khác, dù ngay lúc đó cậu bé và cha đều không thể hình dung hết.
Vài tháng sau, Garrett nói với mẹ rằng cậu muốn thử đạp xe. Mẹ cậu không dám tin, nhưng cậu rất quyết tâm. Lúc đó, mắt cậu cũng đã nhìn được phần nào, và cậu đã đi lại chập chững dù còn khó khăn. Với sự giúp đỡ của mẹ, Garrett trèo lên chiếc xe đạp ngày trước và bắt đầu nhấn bàn đạp. Thoạt đầu, bà còn chạy theo khi cậu
loạng choạng đạp để giúp cậu giữ thăng bằng. Nhưng chẳng mấy chốc đôi chân cậu đã đạp nhanh hơn, bà không thể chạy theo kịp chiếc xe, và cậu được tận hưởng dù chỉ một khoảnh khắc cảm giác tự do như trước khi bị căn bệnh ung thư hành hạ. Cùng hôm đó, cha cậu mang về nhà một chiếc xe đạp đôi mới toanh để hai cha con cùng nhau đạp xe.
Sáu tháng sau, ngày 24 tháng 6 năm 2001, sau một năm hóa trị và xạ trị, cậu bé Garrett sáu tuổi đã cán đích cuộc thi ba môn phối hợp lần đầu tiên. Cha cậu chạy theo phía sau, đẩy chiếc xe lăn. Hôm đó cũng là dịp kỷ niệm một năm ca mổ định mệnh.5 Đối với cặp cha con đã phải trải qua bao trắc trở, cuộc đua là cách họ tuyên bố với thế giới, cũng như với bản thân, rằng họ sẽ không để một khối u ngăn trở mình sống cuộc đời trọn vẹn, tận hưởng mọi khoảnh khắc cuộc sống. Nhờ vào các phương pháp điều trị, Garrett giờ đây có 90% cơ hội sống.
Và đó là câu chuyện cách đây 14 năm.
Từ sau ca mổ suýt biến cậu thành người tàn tật hơn chục năm trước, Garrett đã cùng cha tham gia thi đấu hàng chục cuộc đua ba môn phối hợp, thậm chí cậu còn từng thi đấu một mình. Thị lực của cậu dù không hồi phục hoàn toàn, nhưng cũng giúp cậu nhìn đồ vật một cách lờ mờ dựa trên hình dáng của chúng. Dù bị xếp vào nhóm khiếm thị, nhưng cậu đã làm được những việc mà trước kia bác sĩ cho rằng không thể. Nói không ngoa, Garrett là một phép màu sống.
***
Cuốn sách này không kể về những phép màu. Đây là cuốn sách về cách tìm ra tiếng gọi trong sự nghiệp, cách phát hiện tài năng thiên bẩm của bạn. Tiếng gọi chính là điều mà bạn không thể không làm, là câu trả lời cho câu hỏi ngàn đời, “Tôi phải làm gì với cuộc đời mình đây?”
Trên kệ sách có những cuốn cẩm nang hướng dẫn bạn đi tìm công việc mơ ước, hay trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực nhất định – nhưng không phải là cuốn sách này. Cẩm nang chọn nghề tập trung vào thiên hướng. Trong sách, tôi sẽ đề cập đến cách hiểu tiếng gọi không chỉ đơn thuần là công việc. Thông qua câu chuyện
của những người quanh ta, tôi sẽ chỉ cho bạn thấy thật sai lầm khi coi tiếng gọi như một công việc. Con đường đưa ta đến với công việc ý nghĩa không phải lúc nào cũng là một kế hoạch chủ động. Đôi khi con đường dẫn ta đến mục đích sống của đời mình lại thật rối rắm, và chính cách chúng ta phản ứng mới thật sự quan trọng hơn bản thân tình huống đó.
Mỗi chương là mỗi câu chuyện khác nhau, thể hiện một khái niệm chủ đạo, một trong bảy giai đoạn của tiếng gọi. Dù khác nhau, nhưng chúng đều có một điểm tương đồng: mỗi người theo cách riêng của họ đều bị bất ngờ trước tình huống xảy đến. Và tôi nghĩ, những câu chuyện dạng này giờ đây ít được nhắc đến, dù chúng có thể góp phần giúp ta hiểu hơn về con đường sự nghiệp. Chẳng phải ta đã học được nhiều điều từ câu chuyện về cậu bé năm tuổi chiến đấu với bệnh ung thư não để trở thành vận động viên ba môn phối hợp sao?
Trong 18 năm, Garrett Rush-Miller đã hoàn thành cuộc đua bán Ironman**, leo lên khu tàn tích Machu Picchu, và đạt cấp độ Hướng đạo Đại bàng. Những lúc không đi học hay không bận làm việc tại phòng tập leo núi, anh lại dành thời gian tham gia tình nguyện với Wounded Warriors, một tổ chức từ thiện chuyên hỗ trợ cựu chiến binh. Vào thời điểm tôi viết cuốn sách này, anh đang chuẩn bị tốt nghiệp phổ thông và trên hết là muốn tìm bạn gái.
** Ironman là cuộc thi ba môn phối hợp nổi tiếng thế giới với chuỗi đường đua dài mà các vận động viên phải thực hiện trong một ngày và không có khoảng nghỉ giữa các môn đua. (BTV)
Sau khi nhận được e-mail của Eric đính kèm một số bài báo viết về con trai ông, tôi đã ngay lập tức gọi điện cho họ. Khi trực tiếp trao đổi với cả hai trong giờ nghỉ trưa của Garrett, tôi rất ngạc nhiên trước tinh thần tích cực và quan điểm sống của hai cha con. Câu chuyện của họ không phải là chuyện đi lên từ nghèo khổ hay trải nghiệm siêu tâm linh. Nó vừa truyền cảm hứng lại vừa chân thực. Họ không làm gì khác ngoài việc cố gắng sống, cố gắng hiểu cuộc đời, và do đó nó rất gần gũi với tôi.
Tôi hỏi Garrett liệu cậu có bao giờ suy nghĩ xem cuộc đời mình sẽ đi theo hướng nào nếu ngày hôm đó cậu không đánh trật quả bóng, không bị u não và không phải trải qua 64 tuần hóa trị.
“Thật lòng mà nói, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện đó,” cậu thừa nhận.
Cha cậu cũng nói thế. “Thực tế là,” Eric giải thích, “đây là những lá bài mà chúng tôi có, và chúng tôi phải chơi sao cho tốt nhất.” Eric Miller vẫn luôn cố gắng hướng cậu con trai đến những thứ cậu có thể làm được, chứ không để tâm đến những thứ cậu không thể làm được. Và bài học nhỏ này đã tạo ra kết quả phi thường cho cả hai người. Món quà mà cha cậu mang đến không phải là sự bảo vệ Garrett khỏi đau đớn và tổn thương dù hẳn là Eric rất muốn làm thế cho con. Ông giúp Garrett nhận ra rằng cuộc đời phi thường không đến từ cơ hội ta gặp, mà đến từ cách ta phản ứng với chúng.6 ĐIỀU CHỈNH CON ĐƯỜNG ĐI TÌM THIÊN HƯỚNG Hẳn đã có lúc bạn nghĩ mình được sinh ra để làm điều gì đó thật vĩ đại. Nhưng rồi bạn vào trung học hay đại học. Và cha mẹ thuyết phục bạn theo nghề luật sư thay vì trở thành thợ làm bánh. Hay vị giáo sư khuyên bạn nên vào trường y sẽ tốt hơn là bỏ hết để đến New York thử sức làm diễn viên. Và bạn tin họ. Nhưng khi bạn thật sự “bắt đầu cuộc đời”, bạn từ bỏ suy nghĩ ban đầu, nhưng lại đặt cho hành động này một cái tên mỹ miều là “trưởng thành”, và hoàn toàn từ bỏ giấc mơ của mình. Bạn tự bao biện rằng mong muốn một điều phi thường là điều ích kỷ và thiếu chín chắn, và bạn tự hỏi không biết những cảm xúc thời trẻ có thật sự tồn tại không. Nhưng cho dù như thế, bạn vẫn tự biết mình đang đi sai đường. Cho dù thế giới này có trở nên quá ồn ào, cho dù cuộc sống của bạn trở nên quá bận rộn, bên trong bạn, một giọng nói vẫn âm thầm vang lên, đặc biệt là những khi cuộc sống thăng trầm, để nhắc nhở, ám ảnh bạn về cuộc đời bạn đã bỏ qua. Nếu lắng nghe thật kỹ, hẳn bạn vẫn còn thấy giọng nói ấy.
Hãy thử nhìn quanh xem, đâu đâu bạn cũng thấy người ta đưa ra những lời biện minh cho lý do tại sao họ không theo đuổi ước mơ hay tài năng thiên bẩm của họ. Có người bảo rằng “mọi việc vẫn còn đang dang dở”, trong khi có người thì nhún vai tỏ vẻ không quan tâm, cho rằng họ vẫn đang suy nghĩ xem mình muốn làm gì khi trưởng thành. Những cách nói này có vẻ bình thường, nhưng thực ra chúng rất nguy hiểm. Nếu thành thật với bản thân, rất nhiều
người trong chúng ta cảm thấy mình bị mắc kẹt, lững thững trôi từ công việc này sang công việc khác, không biết nên tìm kiếm điều gì, hay hy vọng điều chi. Ta chấp nhận số mệnh đã an bài. Nhưng dù đã cố gắng hết sức để chấp nhận thực tại, ta vẫn cảm thấy mình chưa an phận. Có chút gì an ủi không nếu ta biết rằng mình không phải là người duy nhất rơi vào tình trạng này?
Chúng ta đang bước sang một trang sử mới, tuổi thọ trung bình tăng lên, thế giới vận động ngày càng hiệu quả hơn thông qua những giải pháp công nghệ tiên tiến, và người ta ngày càng đặt ra những câu hỏi sâu sắc hơn. Giờ đây, chúng ta nhận thức được rằng cách tiếp cận công việc của ta không còn phù hợp nữa. Nhà máy ngày càng thu hẹp lại, chứ không mở rộng thêm. Lối suy nghĩ gắn bó với một công việc trọn đời đã chết. Thế giới đòi hỏi một cách tiếp cận mới về tiếng gọi, và chúng ta cần điều gì đó mới mẻ, hay biết đâu, một điều đã có từ rất lâu.
Có một cách giúp bạn vẫn đạt được công việc ý nghĩa mà không nhất thiết phải tuân theo định hướng sự nghiệp của cha mẹ, hay phải đánh đổi giá trị riêng của bản thân. Cách này không giống với bất cứ trường lớp nào bạn từng theo học, và hẳn cũng không giống bất cứ những gì thầy cô từng giảng dạy về tương lai, nhưng bạn hoàn toàn có thể tin tôi. Cuộc sống còn nhiều điều thú vị, vượt ra ngoài những gì đang đến với bạn, và tiếng gọi công việc không chỉ gói gọn trong việc bấm giờ mỗi ngày.
Nhưng vấn đề là làm thế nào để tìm ra cách này khi nó quá xa vời?
Hành trình tôi sẽ trình bày trong cuốn sách này thật ra là con đường đã có từ xa xưa. Đó là con đường của các bậc thầy, những người thợ giỏi, con đường đã có từ hàng trăm năm nay, con đường đòi hỏi bạn phải kiên trì và quyết tâm, con đường hẹp mà không nhiều người tìm ra. Ta sẽ lần theo bước chân của các nhà khoa học máy tính, của đội kiểm lâm, trải qua quy trình đã làm nên những con người nổi tiếng thế giới như nhà làm phim hoạt hình, nhà truyền giáo, hay doanh nhân thành đạt.
Có lúc bạn phải tin vào trực giác, có lúc bạn phải chấp nhận những việc mà bạn cảm thấy không thoải mái, thậm chí còn gây đau
đớn cho bạn. Nhưng trên con đường này, sẽ có chỉ báo, dấu hiệu giúp bạn biết mình đang đi đúng hướng.
Con đường tôi chỉ ra không phải là cuốn cẩm nang sống. Nó chỉ là miếng vải bạt để bạn tự vẽ nên trải nghiệm của riêng mình. Đây cũng không phải là một thí nghiệm khoa học chắc chắn sẽ dẫn đến kết quả biết trước, càng không phải là lớp học phát triển cá nhân mà bạn ngồi vào để được truyền cảm hứng một cách thụ động.
Sau khi lắng nghe hàng trăm câu chuyện của những người đã tìm ra tiếng gọi, tôi nhận thấy chúng có bảy đặc tính chung mà tôi sẽ lần lượt trình bày trong các chương tiếp theo. Mỗi chương là một chủ đề, và được viết dựa trên câu chuyện có thật của ít nhất một người về các đặc tính của:
Nhận thức
Học việc
Khổ luyện
Khám phá
Nghề nghiệp
Tinh thông
Di sản
Thực tế, tìm kiếm công việc như ý cho cuộc đời mình là một quy trình. Thoạt đầu, mọi việc có vẻ lộn xộn, nhưng dần dần bạn sẽ thấy mớ hỗn độn này có một trật tự nhất định. Nếu cam kết tuân theo các bước này, để tâm chú ý và kiên trì, bạn sẽ tìm được một thứ quý giá mà bạn hoàn toàn có thể tự hào.
ĐỪNG ĐỂ Ý ĐẾN NHỮNG THỨ ĐÁNG LẼ RA
“Vấn đề của mọi người là họ hay nghĩ đến đủ thứ đáng lẽ ra đã phải thế,” Eric Miller nói với tôi sau khi Garrett kết thúc cuộc trò chuyện qua điện thoại rằng: “Ai cần quan tâm đến tương lai đáng lẽ phải đến cho Garrett? Nó chẳng có ý nghĩa gì. Đây là nơi chúng tôi đang đứng, và đây là nơi chúng tôi đang hướng đến.”
Trong giọng nói của ông, tôi có thể cảm nhận được sự mạnh mẽ kiểu quân đội hẳn đã giúp ông vượt qua mười năm vất vả nuôi dạy cậu con trai bị bệnh, cũng như giúp ông trong công việc trợ lý y tế và điều dưỡng. Ông kể với tôi về cuộc hôn nhân đã tan vỡ sau đó và
thừa nhận nếu chỉ nghĩ đến những thứ đáng lẽ ra phải thế thì người ta không thể sống cuộc đời thực trong hiện tại. Cuộc sống luôn đầy bất ngờ, không có lý gì ta phải gắn mình với tiếc nuối và cố gắng lấy lại những gì đã mất.
“Có lẽ... đó là vấn đề của rất nhiều người,” ông nói, “họ cứ tự nghĩ, giả sử chuyện này không xảy ra thì sao...? Ai cần quan tâm. Thực tế là nó đã xảy ra rồi.”
Nhưng chuyện gì đã không xảy ra nếu Garrett không bị bệnh? “Câu hỏi này thì khác à,” ông thừa nhận, giọng dịu lại. “Chúng tôi vẫn thường nghĩ đến nó. Tất cả những thứ này hẳn đã không xảy ra. Cuộc đời tôi hẳn đã hoàn toàn khác.”
Không có bất cứ thứ gì. Không có chuyện thi ba môn phối hợp, không có chuyện thành lập quỹ hỗ trợ, không có chuyện làm thay đổi rất nhiều cuộc đời – những chuyện này hẳn đã không xảy ra nếu không có tai họa ập đến với gia đình Miller cách đây 15 năm. Từ việc Garrett bị bệnh, Eric giờ đây có thể khuyến khích, động viên được rất nhiều người. Ông là y tá khu vực chăm sóc đặc biệt nên có nhiều dịp tiếp xúc với bệnh nhân.
“Tiếng nói của tôi giờ đây đã có thêm trọng lượng, vì những đau đớn mà Garrett đang phải gánh chịu,” ông nói.
Ông mang đến niềm hy vọng gì cho những bệnh nhân này? Ông động viên họ như thế nào sau khi đã trải qua nỗi đau của riêng mình? Ông nói họ hãy cứ vững tin, cho dù có lúc họ không nghĩ mình làm được.
“Ngày càng có nhiều người nhìn vào cuộc sống của chúng tôi... và họ cảm thấy mạnh mẽ hơn trong cuộc sống hay trong những khó khăn của riêng họ. Tôi cam đoan với bạn rằng: cuộc sống của bạn có ý nghĩa; cuộc đời của bạn rất quan trọng; và có những thứ xảy ra mà bạn không thể hiểu hết được.”
Đó chính là những gì Eric đã và đang làm, và ông khuyến khích con trai cùng chia sẻ: Dù bất kể chuyện gì xảy ra, dù cuộc sống có khó khăn đến mấy, thì nó vẫn có ý nghĩa quan trọng. Đừng chờ đợi cơ hội sẽ đến, đừng trông chờ mọi việc sẽ diễn tiến tốt hơn, hãy sống hết mình ngay hôm nay. Câu hỏi mà cuộc đời của Garrett Rush-Miller đã trả lời cũng chính là câu hỏi mà nhiều người trong
chúng ta còn e ngại không dám nêu lên: Chuyện gì sẽ đến nếu cuộc đời bạn đang sống không phải là cuộc đời bạn định sống? Mỗi người trong chúng ta đều gặp nhiều ngã rẽ và bước lùi trong cuộc sống, những điều thất vọng đã ngăn trở con đường mà ta nghĩ đang dẫn ta tiến về phía trước. Ta chỉ còn lại mớ hỗn độn trước mắt, thay vì sứ mệnh như ta mong muốn. Lắng nghe câu chuyện của Garrett, tôi tự hỏi phải chăng sự khác biệt giữa người phi thường và người bình thường không phải là do tình huống mà là do tư duy. Có lẽ ai cũng có quyền năng biến cuộc đời mình thành những câu chuyện đáng kể nếu chúng ta bắt đầu nhìn nhận khó khăn như một cơ hội.
Chúng ta không thể kiểm soát những gì cuộc đời ném cho ta, nhưng ta có thể kiểm soát được cách phản ứng của mình. Khi đó, ta sẽ tiến gần hơn đến cuộc đời viên mãn mà không cần tới những kế hoạch to tát. Tuy nhiên, để làm được việc này, ta phải từ bỏ những thứ ta vẫn nghĩ đáng ra phải thuộc về mình, và trân trọng những gì đang có, biết đâu nó đang đưa ta đến với những điều tốt hơn tính toán ban đầu rất nhiều.
Cuộc sống của bạn không hề tình cờ, nhưng luôn chất đầy bất ngờ. Cuốn sách này sẽ giúp bạn biết phải làm gì khi bất ngờ đến với bạn.
Phần I Chuẩn bị
Chương 1
Lắng nghe cuộc đời mình
Tiếng gọi dẫn đến một việc đã có từ trước, không phải việc mới xảy ra
***
Trước khi có thể ra lệnh cho cuộc đời làm theo những gì mình muốn, tôi phải lắng nghe cuộc đời đang cho tôi biết mình là ai.
B
— Parker Palmer
ạn không thể “tự dưng biết” tiếng gọi của mình mà phải lắng nghe những dấu hiệu xuất hiện dọc con đường bạn đi, phát hiện cuộc đời đang cố nói gì với bạn.
Nhận thức đến nhờ luyện tập.
Sảnh chờ tại Bệnh viện Emory đông nghẹt người khiến Jody Noland phải len lỏi đi tìm phòng bệnh của bạn mình. Cô len qua nhiều người cũng đang đi thăm bệnh, và một câu hỏi nhờn nhợn hiện lên trong đầu cô: Sao Larry lại gặp phải chuyện kinh khủng thế này?
Larry Elliott gần đây đã quyết định thay đổi thứ tự ưu tiên các vấn đề trong đời mình, bán đi công ty bảo hiểm đang hoạt động rất thành công để dành thời gian giúp đỡ trẻ em nghèo khổ trên khắp thế giới. Lúc đầu, anh phụng sự chung với vợ mình là Bev trong vai cha mẹ đỡ đầu cho một nhà tế bần ở Alabama, sau đó anh đảm nhận vị trí quản lý tại một nhà tế bần khác nằm gần Atlanta. Anh nghĩ mình đang thay đổi sự nghiệp nửa đời còn lại, mà anh nào biết mình đâu còn nhiều thời gian như vậy.
Larry và Bev quyết định đưa cả gia đình đi nghỉ hè ở châu Âu, một chuyến đi đã được chờ đợi từ lâu. Đây là cơ hội cả gia đình dành thời gian cho nhau và cha mẹ gắn kết với con cái. Chuyến đi này thực sự được cả nhà rất mong chờ.
Cơn đau thoạt đầu chỉ làm Larry thấy nhức đầu trên chuyến bay sang Italia. Tại Florence, bác sĩ chỉ định anh chụp CT và phát hiện khối u bất thường trong não anh, cả nhà buộc phải kết thúc chuyến nghỉ hè ngay. Trên chuyến bay trở về, phi công phải bay ở độ cao thấp để giảm áp lực không khí tác động lên đầu Larry. Sáng hôm sau, anh được đưa ngay lên bàn mổ. Larry đã phải chiến đấu với khối u não ở tuổi 48.
Phòng bệnh của anh không quá khó tìm, như Jody kể lại trong cuốn sách của mình: “Đó là căn phòng đông đến mức mọi người đứng tràn cả ra hành lang.”1 Căn phòng không đủ chỗ cho tất cả những người bạn thân thiết của anh. Dù rất đau đớn, nhưng Larry vẫn cố hết sức làm mọi người an lòng.
Mọi người có thể cảm nhận được sự gấp gáp trong thái độ của anh hôm đó. Anh hỏi vợ có mang theo giấy và bút không, một việc Jody cảm thấy hơi kỳ lạ. Sau này, cô hỏi Bev anh ấy cần giấy bút làm gì, thì Bev giải thích rằng Larry muốn viết thư gửi cho từng đứa con trước khi bước vào ca phẫu thuật. Anh không biết liệu mình có sống qua ca phẫu thuật không, và anh muốn thể hiện tình yêu của mình, muốn nhắc nhở các con về những điểm đặc biệt rất riêng của từng đứa.
Larry sống được thêm chín tháng sau cuộc phẫu thuật, rồi cũng qua đời vì bệnh ung thư.
Cũng trong năm đó, Jody mất hai người bạn khác, cũng ở độ tuổi 40, và qua đời hết sức đột ngột. Cái chết đến như một cú sốc với mọi người. Khi Jody quan sát ba gia đình trong cơn đau buồn, cô nghĩ đến niềm an ủi từ những lời thương yêu Larry để lại cho gia đình. Cô thấy đau lòng thay cho bọn trẻ, khi các con luôn “tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của cha mẹ, nhưng nay thật sự chơi vơi không an lòng khi vắng bóng dáng của người cha.” Cô không thể quên được bức thư của Larry và sự khác biệt nó mang lại.
Jody bắt đầu chia sẻ câu chuyện về Larry với nhiều người. “Mọi người có nghĩ đây là điều chúng ta nên làm cho người mình yêu thương không?” cô thường hỏi, cố gắng khơi dậy mối quan tâm của mọi người. Nhiều người trả lời, “Tôi nghĩ là có, nhưng tôi lại không
phải tuýp người hay viết,” hay, “Tôi nghĩ là có, nhưng tôi không biết bắt đầu từ đâu.”
“Có một cách giúp ta xác định được tài năng của mình,” Jody kể lại, “là khi một điều đối với ta có vẻ dễ dàng nhưng lại thật khó khăn với nhiều người khác. Tôi cứ nghĩ mãi, Có gì khó đâu chứ? Hay là mình có thể giúp người khác làm việc này... Điều họ thấy rất khó khăn thì tôi lại thấy vô cùng dễ dàng.”2
Cuối cùng, cô cđã bắt tay vào thực hiện suy nghĩ của mình. Jody thành lập Leave Nothing Unsaid (Đừng lỡ dịp bày tỏ), một chương trình, một cuốn sách giúp mọi người ở bất kỳ độ tuổi nào cũng có thể viết thư cho người mình yêu thương. Cô đã nhen nhóm ý định này từ sau cái chết của Larry, nhưng ý tưởng này chỉ trở thành hiện thực khi cô bắt tay thực hiện. Cô cứ nghĩ phải có ai đó làm điều gì đó. Cho đến lúc cô nhận ra, ai đó chính là mình. Jody Noland đã 58 tuổi khi cô bắt đầu hiểu ra những ngã rẽ trong cuộc đời mình đã dẫn cô đến chính khoảnh khắc này. Cô đang làm một việc được dành riêng cho mình, và dù tình huống cô trải qua hết sức khó khăn, đau đớn, nhưng cũng từ đó mà cô nhận ra được một bài học quan trọng. Qua những sự kiện này, cuộc đời đang muốn dạy cô một điều gì đó, ngay cả trong lúc đau lòng nhất. Nếu không để tâm, hẳn cô đã bỏ lỡ.
HẠNH PHÚC BỊ THỔI PHỒNG
Có hai câu chuyện chúng ta thường nghe khi nói về việc theo đuổi giấc mơ. Đầu tiên là câu chuyện của một người tự thân lập nghiệp. Trong câu chuyện này, ta nghe kể về một cá nhân đã vượt qua nghịch cảnh, bất chấp gian khó để đạt được thành công. Nhiều người trong chúng ta tin sự kiên trì không ngừng nghỉ là con đường duy nhất dẫn đến thành công. Quy trình thành công rất đơn giản: đặt ra mục tiêu, làm việc hết mình và đạt được mục tiêu đó. Bạn có thể trở thành bất cứ ai bạn muốn hay có thể làm bất cứ điều gì bạn muốn; bạn chỉ cần dốc hết sức mình là được. Bạn là người kiểm soát hoàn toàn vận mệnh của mình. Nhưng thực tế mọi việc nhiều khi không đơn giản như vậy.
Trong bộ phim The Secret of My Success (tạm dịch: Bí mật Thành công), Michael J. Fox đóng vai một thanh niên tên là Brantley
đang cố gắng vươn lên trong công việc. Sau nhiều lần liên tục bị từ chối, anh đã mất kiểm soát khi lại thất bại trong cuộc phỏng vấn xin việc, anh nói: “Hôm nay tôi đi đâu người ta cũng thấy tôi không ổn: quá trẻ, quá già, quá thấp, quá cao. Giờ anh chê tôi cái gì tôi cũng có thể thay đổi. Tôi có thể già hơn; tôi có thể cao hơn; tôi có thể trở thành bất cứ kiểu gì anh muốn.”3
Cũng như nhiều người khác, Brantley tin rằng nếu dốc hết sức, anh sẽ làm được. Tuy nhiên, đến cuối cùng, anh nhận ra rằng chìa khóa thành công là đôi khi nếu muốn gì được nấy thì chưa hẳn sẽ thấy hạnh phúc.
Câu chuyện thứ hai đối lập hoàn toàn với câu chuyện thứ nhất. Thay vì con đường tự thân vận động, bạn lại có con đường đã xác định. Chuyện gì đến rồi sẽ đến. Cuộc sống vẫn diễn ra, không màng đến mong muốn của bạn. Bạn không thể kiểm soát được chuyện gì, và cuối cùng, khi nhìn lại cuộc đời, bạn sẽ hiểu mình không còn con đường nào khác. Nhưng theo con đường này thì còn gì là phiêu lưu – khi mà mọi thứ đã theo sẵn kịch bản? Và ta phải tính sao với câu chuyện về những người nằm trên giường bệnh, gần đất xa trời, mới cảm thấy tiếc nuối? Ngay cả khi ta gọi tên “số mệnh”, ta vẫn muốn tin rằng mình cũng có chút quyền kiểm soát cuộc sống. Nhất định phải có cách khác.
Con đường thứ nhất cho rằng tương lai hoàn toàn nằm trong tay bạn; con đường thứ hai thì cho rằng bạn không có chọn lựa. Nhưng biết đâu còn con đường thứ ba? Biết đâu mục tiêu của cuộc đời không chỉ là đạt được những gì mình muốn? Biết đâu có những thứ bạn không thể kiểm soát, nhưng chính cách phản ứng của bạn trong tình huống này lại tạo nên sự khác biệt lớn trong cuộc đời? Cuộc sống này có mục đích rõ ràng không, hay ta chỉ là món đồ vật trôi nổi trong một vũ trụ hỗn loạn? Rất nhiều người, từ các bậc giáo sĩ, các nhà khoa học, đến các chuyên viên tư vấn nghề nghiệp, đều từng suy nghĩ về những câu hỏi như thế. Nào, ta hãy cùng thử nhìn nhận vấn đề dưới góc độ thực tế.
Đây là những gì chúng ta biết. Có rất nhiều người không hài lòng với công việc của mình, dù phần lớn thời gian trong cuộc đời họ là dành cho công việc. Một khảo sát gần đây cho thấy chỉ có 13% số
người đi làm trên thế giới cảm thấy “gắn bó” với công việc. Còn lại 87% người được khảo sát không có mối liên kết với công việc, và cảm thấy bực bội nhiều hơn là thỏa mãn với công việc.4 Những con số này, tuy vậy, không phải là điều ngạc nhiên. Khi ta nghe người bạn bảo rằng họ ghét công việc, hay nghe người thân trong gia đình nói xấu sếp, ta không thấy ngạc nhiên. Đây là hành vi hoàn toàn bình thường. Ta đã được lập trình xem công việc là điều phải chịu đựng, một thứ khó chịu nhưng cần thiết để có lương. Và vấn đề chính là đây.
Khi ta cảm thấy mình đang vật vã làm tròn bổn phận thay vì theo đuổi ước mơ, ta không làm hết sức mình. Ai cũng biết thế. Đó cũng là lý do tại sao ta thấy nhiều người hay thay đổi công việc. Họ đang cố gắng hết sức để cảm thấy hạnh phúc, nhưng họ đã thất bại thảm hại. Đa số chúng ta từng trải qua cảm giác này tại một thời điểm nào đó, khi ta từ bỏ công việc này để theo đuổi một công việc khác hứa hẹn hơn. Rồi ta thất vọng khi thấy công việc mới hay mối quan hệ mới lại phức tạp không khác gì công việc ta vừa từ bỏ.
Nhưng có lẽ do ta đã tiếp cận theo hướng sai lầm. Có lẽ cố gắng hạnh phúc chính là hướng đi tìm hạnh phúc sai lầm. Tác phẩm nổi tiếng của bác sĩ tâm thần người Áo, Viktor Frankl, cũng nêu vấn đề này. Bác sĩ Frankl là người sống sót qua thảm họa diệt chủng Holocaust***, ông đã trải qua bao nhiêu đau khổ, và học được một bài học quan trọng. Theo ông, con người ta không phải sinh ra đã muốn sung sướng và tránh xa đau khổ. Người ta cần có lẽ sống. Khác với những gì hay lớn tiếng tuyên bố, chúng ta không muốn hạnh phúc. Hạnh phúc không đủ để thỏa mãn những khao khát sâu thẳm trong cuộc sống. Chúng ta tìm kiếm một điều lớn lao hơn, một điều đối lập với cái nội tại – một lý do để được hạnh phúc.5
*** Holocaust là thảm họa lớn nhất của dân tộc Do Thái xảy ra vào cuối những năm 1930 trong Thế Chiến II, khi sáu triệu người Do Thái trên khắp châu Âu bị đưa vào các trại tập trung của phát xít Đức và bị giết hại bằng hơi ngạt. (BTV)
Từ liệu trình điều trị cho những bệnh nhân có ý định tự sát và cũng từ chính trải nghiệm đau thương ở trại tập trung của phát xít Đức, Frankl hiểu rằng có ba điều mang lại lẽ sống cho cuộc đời: thứ
nhất là một dự án; thứ hai là một mối quan hệ quan trọng và thứ ba là suy nghĩ cho rằng đau thương là cứu rỗi. Ông nhận thấy người ta, ngay cả trong những hoàn cảnh tồi tệ nhất, nếu có một công việc để làm, có một điều để trông đợi ở ngày mai, thì họ còn có lý do để sống thêm một ngày. Đối với Frankl, bản thảo cuốn sách mà ông đã viết trước khi bị đưa vào trại tập trung, cùng với niềm hy vọng sẽ được gặp lại vợ chính là hai điều giúp ông sống sót. Theo thời gian, ông nhìn thấy được mục đích của những đau thương mà ông gánh chịu. Nhờ có việc phải làm, có người đang trông chờ mình, và có quan điểm riêng về sự đau khổ, ông đã sống sót qua tình cảnh mà nhiều người đã bỏ cuộc. Cuốn hồi ký của ông, Man’s search for meaning (tạm dịch: Đi tìm lẽ sống), đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất thế kỷ XX, gây ảnh hưởng lớn đến hàng triệu con người.6
Điều mà ta thường không nhận ra là khi ta cá nhân hóa câu chuyện, biến nỗi đau thành của mình, thì đó không phải là cách làm phù hợp. Bám víu vào quá khứ hay khăng khăng đeo đuổi tương lai sẽ không giúp bạn tìm được sự viên mãn. Theo Frankl, vượt qua cảm giác sống không mục đích không phải là chú trọng vào vấn đề. Tốt nhất là tìm một điều khác gây xao nhãng khỏi vấn đề. Nói như vậy không có nghĩa là bạn đừng cố gắng tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng chẳng phải ai cũng muốn có được hạnh phúc sao? Cũng không hẳn. Cuộc sống này quá ngắn ngủi, đừng mất thời gian cho những thứ không mang lại nhiều lợi ích. Tất cả những gì chúng ta muốn là biết rằng thời gian sống trên cõi đời này của mình có ý nghĩa. Chúng ta chỉ có thể xao nhãng bằng khoái lạc trong khoảng thời gian ngắn ngủi trước khi tự hỏi mục đích của ta là gì. Điều này có nghĩa là nếu muốn thật sự hài lòng, chúng ta phải vượt qua khát khao vụn vặt của bản thân và thực hiện những điều cuộc sống trông chờ ở ta. Tiếng gọi sẽ đến khi chúng ta đón chào niềm đau chứ không phải khi ta tìm mọi cách trốn tránh nó.
Thật không may, thảm họa lại là điều không thể tránh khỏi. Người tốt vẫn gặp điều tồi tệ, cho dù ta có muốn hay không. Tuy nhiên, yếu tố quyết định cuộc đời ta không phải là việc ta có trốn tránh được đau khổ mà chính là thái độ chúng ta khi đối mặt nó. Đau
đớn và khổ cực, dù là những rào cản đáng sợ, vẫn không đủ sức ngăn ta tìm đến mục đích của cuộc đời mình. Thực chất, đôi khi chính những đau khổ này lại là đòn bẩy giúp ta khám phá mục đích của cuộc đời.
Đó cũng là bài học mà Jody Noland rút ra từ câu chuyện của Larry, bài học mà chính cô cũng suýt quên mất khi chồng cô qua đời.
NỖI SỢ CÓ KHI CŨNG TỐT
Nỗi sợ là một rào cản lớn, nhưng đôi khi nó cũng là yếu tố truyền động lực rất hiệu quả. Nỗi sợ thất bại hay sợ bị từ chối có thể không tốt, không có cơ sở, nhưng nỗi sợ không còn cơ hội nói lời thương yêu với người mình thương yêu hóa ra thật quý báu. Như vậy, không phải nỗi sợ nào cũng xấu. Tuy nhiên, nhiều người lại để nỗi sợ chi phối cuộc đời. Họ tìm mọi cách né tránh rủi ro, hy vọng giảm thiểu hết mức nguy cơ thất bại, và từ đó, đi ngược lại tiếng gọi của mình. Vấn đề là bạn phải biết khi nào nên lắng nghe nỗi sợ, khi nào thì mặc kệ nó.
Năm 2009, Mike Noland, chồng của Jody, bị chẩn đoán mắc ung thư gan giai đoạn bốn. Jody bắt đầu tìm hiểu trên Internet để trang bị kiến thức về căn bệnh này. Khi biết chồng không còn nhiều thời gian, cô bắt đầu chuẩn bị cho điều không thể tránh khỏi sẽ đến. Tuy nhiên, Mike lại suy nghĩ khác.
Mike đối diện với căn bệnh bằng cách không chấp nhận, không tin rằng anh sắp chết. Như Jody nói, anh “đóng boong-ke” và không chịu nhìn nhận thực tế. Anh không chịu đọc tài liệu về tình hình căn bệnh, không chịu hỏi bác sĩ bất cứ câu hỏi nào, và tiếp tục lối sống như không có gì xảy ra, nhưng dĩ nhiên, cuộc sống không thể bình thường với những đợt hóa trị và xạ trị đều đặn.
Cô kể lại: “Giữa bao nhiêu chuyện ngổn ngang như vậy, anh ấy lại đi lo cho khách hàng và tính toán thực hiện hợp đồng mua bán công ty. Nếu bán công ty nghĩa là anh ấy đã chấp nhận bản án của cuộc đời. Ngày ký kết hợp đồng cũng là lúc trí óc anh ấy bắt đầu nhòe nhoẹt.”
Jody kể cho tôi nghe câu chuyện này qua điện thoại, nhiều năm sau khi sự việc xảy ra, nhưng tôi vẫn nghe thấy rõ nỗi đau trong giọng nói của cô. Tôi có thể cảm nhận được sự hối thúc. Cô đã năn
nỉ Mike viết thư để lại cho các con, hành động có tác động lớn đến gia đình Larry mà cô từng chứng kiến. Thực tế, vì cảm động trước câu chuyện của bạn, cô đã bắt đầu mở lớp dạy viết thư giúp nhiều người viết thư cho những người thân yêu. Cô muốn gia đình mình cũng tìm được sự bình an mà cô đang giúp cho những người xa lạ. Nhưng chồng cô lại từ chối. Anh không chịu tin rằng ung thư là căn bệnh hiểm nghèo. Sau nhiều tuần cố gắng thuyết phục chồng, thậm chí còn viết sẵn thư cho anh, Jody đành từ bỏ ý định, và dành thời gian ngắn ngủi còn lại để chia sẻ và an ủi chồng.
Căn bệnh ung thư đã nhanh chóng cướp mất cuộc đời của Mike. Chỉ ba tháng từ lúc phát hiện, anh đã qua đời, không chịu viết dù chỉ một bức thư. Sau đám tang, con gái Nancy hỏi Jody xem cha có để lại lá thư nào tương tự như những lá thư mà Jody đã giúp người ta viết hay không. Jody cảm thấy thật đau buồn. Cô thấy mình đã thất bại. Dù cô đã năn nỉ, gợi ý, nhiều khi còn càm ràm, nhưng cô vẫn không thuyết phục được chồng. Cô hiểu rất rõ sức mạnh của lá thư, tác động của những dòng chữ động viên để lại cho những người thân yêu. Nhưng cô lại không có bức thư nào để trao cho Nancy, không một lời an ủi nào cho cô con gái, từ người cha đã qua đời, và mãi mãi sẽ không có.
Sau khi Mike mất, Jody tự hỏi mình có nên tiếp tục mở lớp dạy viết thư.
“Kết luận trước mắt là tôi nên từ bỏ giấc mơ này,” cô kể lại trong cuốn sách. “Làm sao tôi có thể đi khuyên người khác trong khi tôi còn không thể khuyên được chồng mình?” Cô không còn nghĩ đây là sứ mệnh cao cả được giao nữa. “Tôi thật sự nghĩ mình đã hiểu sai.”
Jody đem cho hết những tài liệu cô đã dày công chuẩn bị, chỉ giữ lại một quyển làm kỷ niệm, và chìm vào đau buồn.
Một năm sau, một người đàn ông gọi điện cho cô, hỏi mua quyển tài liệu cô từng biên soạn ngày xưa. Một người bạn thân của vợ ông mắc bệnh ung thư vú đang hấp hối và muốn viết thư để lại cho hai cô con gái. Bà ấy rất muốn viết nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu và nói điều gì. Jody giải thích rằng cô không còn tổ chức lớp dạy viết thư nữa nhưng sẵn lòng gửi tặng quyển tài liệu cuối cùng. “Bà ấy hẳn không còn nhiều thời gian nữa,” cô viết, “nên ông ấy cho người đến tận nhà tôi lấy tài liệu.”
Vài tuần sau, Jody nhận được bức thư cảm ơn. Nhờ quyển tài liệu này, người mẹ đã bày tỏ được ra giấy tình yêu thương của mình với hai cô con gái, và bà ấy đã có được vài tuần thanh thản trước khi ra đi. Jody đã khóc. Bao nhiêu ngày qua, cô đã sợ phải đối mặt với thất bại, sợ cố gắng mà không thành công, nhưng giờ đây, cô hiểu điều gì mới thật sự ý nghĩa. Cô biết điều đáng sợ hơn lúc này là không làm theo tiếng gọi, cho dù có phải trải qua nhiều đau khổ.
“Tôi thà xắn tay vào làm rồi thất bại còn hơn là không dám thử sức,” cô nói.
CHÚNG TA HỌC ĐƯỢC GÌ TỪ CHUYỆN CỔ TÍCH Chuyện cổ tích thường mở đầu không khác nhiều với cuộc sống bình thường. Nhưng rất lâu trước khi nhân vật chính vung tay chém con rồng hay dấn thân vào cuộc chinh chiến, ta đã thấy họ được đặt vào một không gian bình dị, khao khát làm một điều to tát. Trong câu chuyện Người đẹp và Quái vật, Belle hát rằng nàng mong muốn thoát “khỏi kiếp sống tỉnh lẻ”. Trong Chiến tranh các Vì sao, Luke luôn nôn nóng được thoát khỏi sự tẻ nhạt của cuộc đời làm nông. Trong Phù thuỷ xứ Oz, Dorothy cất tiếng hát ca ngợi cuộc sống “đâu đó bên kia cầu vồng”. Cuộc đời của chúng ta luôn bị ám ảnh bởi bóng ma của những thứ “đáng lẽ”.
Ta hay cười khẩy những người này là ảo tưởng, điên rồ. Nhưng có thật thế không? Trước khi xảy ra hàng loạt sự kiện đưa đẩy nhân vật chính đến với số phận đã định, họ luôn có cảm giác cuộc đời còn nhiều điều to tát hơn thực tại. Có thể chính bạn cũng đang có cảm giác đó ngay lúc này. Đến một khoảnh khắc quan trọng, mọi thứ chợt rõ ràng, như khi Eric Miller hiểu rằng đồng hồ đo thời gian sống của con trai ông không hề chạy nhanh hơn chiếc đồng hồ đo thời gian của chính ông, hay khi Jody Noland nhận ra tầm quan trọng của một bức thư để lại cho những người thân yêu. Khoảnh khắc này trong văn học gọi là “sự kiện có tính dẫn dắt”; trong khoảnh khắc đó, mọi thứ biển đổi và câu chuyện về một người bình thường sống cuộc đời bình thường bỗng chốc mang nhiều ý nghĩa huyền thoại.
Nhưng phải có một sự kiện gì đó kích hoạt thì khoảnh khắc này mới xảy ra. Nhân vật chính phải bước vào câu chuyện, tự nguyện hay bị ép buộc. Belle ra đi tìm cha. Luke rời bỏ gia đình với Obi Wan. Dorothy bị cuốn tung lên trong cơn bão táp. Nếu câu chuyện
hấp dẫn, lúc nào cũng có một thời khắc nhân vật phải quyết định không chịu đứng ngoài cuộc. Đây là thời khắc quan trọng diễn ra trong đầu trước khi diễn ra ngoài thực tế. Tuy nhiên, chọn lựa này xuất hiện là do trước đó họ đã có cảm nhận sâu sắc, một suy nghĩ dai dẳng rằng cuộc sống không chỉ có thế.
Đây là lý do tại sao khi được giao phó một nhiệm vụ vĩ đại, người ta thường nhận ra ngay. Ngay lập tức, họ nhận ra dấu hiệu để bước tới phía trước và thực hiện một điều quan trọng, vì họ đã chờ đợi khoảnh khắc này từ lâu. Trước khi tiếng gọi đến với ta, ta phải cảm nhận được điều gì đó đã thức tỉnh ta đi tìm mục đích của cuộc đời mình.
Nhận thức chính là điều giúp ta chuẩn bị đón nhận tiếng gọi. Trước khi tìm ra tiếng gọi, bạn phải tin rằng bạn sẽ được gọi cho một điều đặc biệt. Lúc này, bạn chưa cần biết điều đặc biệt đó là gì. Để hình thành nhận thức, bạn phải sẵn sàng hành động, sẵn sàng bước tới xem chuyện gì sẽ diễn ra. Khi bạn biết mục đích của cuộc đời không tự nhiên xuất hiện mà bạn phải chủ động đi tìm, đó là lúc bạn đã sẵn sàng. Nhưng trong giai đoạn trước khi dẫn đến khoảnh khắc này, bạn sẽ cảm thấy bất lực, nhìn thấy người khác thành công và cho rằng họ được may mắn, hay được thiên vị. Đừng như thế, vì bạn đang tự lừa dối bản thân.
Sự thật là có nhiều người gặp may mắn, và có người được sinh ra trong nhung lụa ngọc ngà, nhưng như thế thì ảnh hưởng gì đến bạn? Bạn vẫn sẽ được gọi.
Tiếng gọi được thể hiện qua nhiều thứ, nhưng không phải lúc nào nó cũng công bằng. Mà dù không công bằng, bạn vẫn trả lời nó. Trước khi bắt đầu công việc như ý của cuộc đời, bạn cần phải chuẩn bị. Cơ hội đến với tất cả mọi người, nhưng chỉ những người đã sẵn sàng mới nhận ra cơ hội. Bạn không cần một kế hoạch to tát mà chỉ cần một chút thất vọng. Bạn cần chút tiên liệu mơ hồ rằng thế giới này vẫn chưa hoàn hảo. Hãy nhận thức rằng: Có điều gì đó lớn lao hơn đang chờ bạn.
Bạn không cần cơ may hay cơ hội vàng; bạn cũng không cần “tự nhiên mà biết”. Bạn chỉ cần có khao khát và tinh thần sẵn sàng. Chỉ khi đó, bạn mới cống hiến bản thân cho công việc, thấu hiểu được giá trị xứng đáng của nó. Thiếu nhận thức sẽ khiến bạn không nhận
ra cơ hội khi chúng đến. Và chúng chỉ đến với những ai đã sẵn sàng đón nhận.
NỖI SỢ CÓ KHI CŨNG XẤU
Tôi không có ước mơ. Đó là nỗi sợ ám ảnh tôi hôm đó, len lỏi khắp tâm trí tôi. Tôi ngồi thụp xuống ghế, xung quanh là hàng trăm cặp mắt hy vọng. Tất cả chúng tôi đã tham dự hội thảo hôm đó với cùng mục đích: Theo đuổi ước mơ. Để tìm ra một thứ mà con tim đang khao khát.
Có người muốn trở thành nhà văn; có người muốn làm chủ công ty quảng cáo hay được bay đến Nam Mỹ để quay phim tài liệu. Mỗi người có một ước mơ riêng rất đẹp, hay một kỹ năng thế giới này đang cần. Niềm đam mê đang lan tỏa, nhưng nó lại càng làm tôi thấy mình không xứng đáng được ngồi trong phòng.
“Ước mơ của bạn là gì?” là câu hỏi đầu tiên chúng tôi buộc phải trả lời và tất cả đều cố gắng diễn tả rõ ràng nhất. Thậm chí, chúng tôi còn phải ghi hẳn điều đó lên bảng tên. Tôi nghĩ ước mơ của mình khá mơ hồ và chung chung, như kiểu “chất xúc tác sáng tạo”. Hay nói thẳng ra, tôi không biết.
Tôi không biết ước mơ của mình là gì và tại sao tôi lại tham dự hội thảo này. Khi người ta hỏi tôi muốn làm gì, tôi diễn tả bằng những cụm từ to tát, bóng bẩy, phức tạp, chẳng có ý nghĩa gì với bản thân tôi nhưng lại làm người ta mở to mắt ngưỡng mộ, không dám hỏi thêm nữa. Thì tôi cố tình làm thế mà.
“Tôi muốn làm một người kể chuyện du mục,” tôi nói với một anh chàng lúc nào cũng kè kè chiếc iPad.
Anh ta gật đầu, nỗi sợ phải hỏi thêm hiện rõ trong mắt anh ta. Mục tiêu đã bị hạ gục.
Vài lần trong buổi hội thảo, tôi có dịp nói về công việc hiện tại của mình, nghe chán phèo và tầm thường. Tôi chắc chắn ước mơ của mình phải mới lạ, thú vị, một điều gì đó ngoài kia mà tôi chưa từng làm, nhưng chắc chắn sẽ nhận ra ngay khi nó xuất hiện. Một lúc nào đó trong buổi hội thảo, nó sẽ xuất hiện và đến chào tôi, tặng cho tôi một nụ cười, và chúng tôi sẽ dắt tay nhau đi hết cuộc đời.
Mỗi lần phải trả lời thêm một câu hỏi, tôi có cảm giác mình đang phản bội bản thân, và người ta sẽ dần dần nhìn xuyên qua bộ giáp và bắt đầu cảm thấy thương hại tôi. Tôi, kẻ lang thang cùng khổ
đang có mặt tại hội thảo về ước mơ mà trong đầu không có lấy một ước mơ. Tôi, một anh chàng không có tầm nhìn cho tương lai, chỉ có cái bảng tên viết những điều trống rỗng. Nhưng rồi, ngay lúc tôi định sẽ chuồn khỏi hội thảo, thì vị diễn giả mở màn bước lên bục phát biểu. Chỉ bằng vài từ ngắn ngủi, ông ấy đã đập tung ảo tưởng của tôi.
“Có vài người ở đây không biết mình có ước mơ gì,” ông nói. “Mà nói thật, chắc phải có nhiều người như thế lắm.” Tôi nhìn quanh và thấy hàng chục cái đầu đang gật gù ra chiều đồng ý. Tôi cũng rụt rè gật đầu, hơi lo lo không biết có ai thấy mình gật đầu không nhưng rồi tôi mặc kệ tận hưởng cảm giác tự do được thừa nhận rằng mình không biết mình đang làm gì.
“Nhưng sự thật là,” ông nói tiếp, “quý vị biết rõ ước mơ của mình... Chẳng qua quý vị không dám thừa nhận.”
Trái tim tôi ngừng hẳn một nhịp. Khi ông vừa thốt ra những lời này, trong đầu tôi bật lên ngay một chữ: nhà văn.
Giờ đây, tôi không còn sợ thất bại. Tôi chỉ sợ mình không dám thử.
***
Nếu bạn không biết sứ mệnh cuộc đời mình là gì thì sao? Nếu bạn chẳng biết mình đam mê làm gì thì thế nào? Đây là những câu hỏi chúng ta thường đặt ra khi cố gắng xác định phải làm gì với cuộc đời. Đây là những câu hỏi hay – tôi cũng từng loay hoay với chúng – nhưng không phải là câu hỏi phù hợp. Khi nói không biết phải làm gì, thật sự ta đang tìm kiếm một điều gì đó sâu sắc. Điều ta thật sự muốn biết là: “Bạn có dám chắc là tôi sẽ không thất bại chứ?”
Và câu trả lời dĩ nhiên là không. Không ai dám hứa chắc điều này.
Nhiều người phí phạm những năm tháng đẹp nhất để ngồi chờ một cuộc phiêu lưu sẽ đến thay vì đứng lên đi tìm. Họ chấp nhận thực tại và ngồi mơ mộng một ngày nào đó cuộc đời sẽ đổi hướng. Họ lưỡng lự, họ chờ đợi, họ không biết đi theo con đường nào cho đúng. Và trong lúc ngồi chờ, họ đánh mất cơ hội được sống. Chọn lựa khôn ngoan là phải hành động, đừng chờ đợi thời điểm thuận lợi
mà cứ chọn ngay con đường hôm nay. Đúng, bạn có thể thất bại, nhưng bạn có biết kết quả bạn nhận được là gì nếu không thử trải nghiệm không – không gì cả. Dĩ nhiên con đường bạn đi sẽ có ổ gà, có ngã rẽ sai lầm, nhưng ít nhất bạn cũng đang bước đi.
Ta thường nghĩ tiếng gọi sẽ tự tìm đến mình và hiển linh ngay lúc ta không ngờ đến. Nhưng thực tế, theo cách nào đó, nó đã đến rồi. Bạn hẳn đã có linh cảm phải làm gì với cuộc đời mình ngay cả khi bạn chưa chắc chắn. Như vậy tức là bạn phải tìm ra được tiếng gọi ẩn náu trong cuộc đời. Đây là điều tôi cảm nhận được ngay khoảnh khắc nghĩ mình muốn trở thành nhà văn. Trong quá trình đi tìm câu trả lời, tôi chợt nhận ra một số câu trả lời đã sẵn có trong tôi.
Chúng ta ai cũng muốn “tự nhiên” biết được mình phải làm gì trong đời, muốn mục đích sống được vẽ sẵn cho mình, nhưng tiếng gọi sẽ không đến theo cách này. Mọi thứ đều không rõ ràng, nhất là khi bạn mới bắt đầu tìm kiếm. Nhưng chỉ cần bạn cất những bước đầu tiên, cam kết đi theo một định hướng hành động, bạn sẽ bắt đầu nhận thấy mọi thứ thật ra đã có sẵn từ trước.
Hầu hết chúng ta đều có chút băn khoăn rằng cuộc sống hẳn phải còn nhiều hơn thế. Ta hiểu bản thân có vị trí và nhiệm vụ riêng trong thế giới này. Ngay cả khi chưa rõ nhiệm vụ đó là gì, ta vẫn mang máng biết phải có một điều gì đó. Những người được xem là “may mắn” tìm được tiếng gọi đều xác nhận như thế. Họ biết mục đích của cuộc đời đang chờ họ đâu đó ngoài kia, và họ quyết tâm tìm cho ra. Họ thực hiện những bước đi đầu tiên, không chấp nhận lối suy nghĩ “lúc nào đến khắc biết” và quyết định cứ hành động dù chưa biết rõ. Và họ đã nhận được một bài học quan trọng: muốn rõ ràng phải hành động.
Đến một lúc nào đó, bạn phải xác nhận sự tồn tại của cú hích phía sau này, một lời thì thầm đâu đó rằng cuộc đời đang chờ bạn. Chúng ta đều phần nào hiểu được mình phải làm gì với cuộc đời. Ta có thể không nhận ra, hay có lúc ta đánh mất nó, nhưng nó vẫn đứng đó, chờ đợi ta tìm đến. Do đó, điều ta cần không phải là tấm bản đồ, mà là chiếc xẻng – bộ đồ nghề để bắt đầu đào xới. Tôi cũng từng nghĩ tiếng gọi này là điều bạn tự biết khi nó đến, và sẽ không biết khi nó chưa đến. Nhưng rồi tôi nghiệm ra thực tế không đúng như thế. Tiếng gọi chỉ hiện rõ khi bạn nhìn lại cuộc đời và chiêm
nghiệm về những gì nó đã cố giao tiếp với bạn trong suốt quãng thời gian qua.
Bạn sẽ chọn làm gì nếu muốn làm gì cũng được? Ai cũng có sẵn câu trả lời cho câu hỏi này. Bạn có thể muốn dành cả ngày với bọn trẻ, chu du khắp thế gian, hay ngồi xuống viết cuốn sách ấp ủ lâu nay. Bạn có thể muốn dành thời gian phát triển một ý tưởng kinh doanh, hoặc nếu có đủ tiền sẽ mua một chiếc máy ảnh mới để cả ngày lê la chụp ảnh ngoài công viên. Hay có thể bạn chỉ muốn ngồi xuống nghỉ ngơi, tận hưởng tách cà phê với người bạn đời bên hiên nhà, đón nhận những điều nhỏ nhất trong cuộc sống. Nếu bạn kiên trì hỏi, ai cũng có sẵn câu trả lời – và đây chính là đầu mối quan trọng.
Vấn đề là cuộc sống hiếm khi nào như ta mong muốn. Và điều ngăn trở ta không thể sống cuộc đời ta khao khát chính là nỗi sợ. Ta sợ những gì mình chưa biết, ta sợ những gì mình có thể mất – như sự an toàn, uy tín, và cả cuộc đời. Bí ẩn chính là thứ ngăn ta tìm đến công việc của đời mình, làm tê liệt nhận thức về tiếng gọi. Ta sợ những gì ta không biết. Nhưng bạn phải hiểu bạn không bao giờ có được mọi thứ rõ ràng. Mẹ Teresa từng nói, điều duy nhất mà lúc nào bạn cũng có là niềm tin.7 Sự sợ hãi, thiếu quyết đoán, những điều không biết là các rào cản ngăn không cho bạn tiến về phía trước. Chúng sẽ không bao giờ biến mất. Nhưng nếu muốn tìm ra thiên hướng của cuộc đời mình, bạn phải hành động.
Tôi đang cố gắng truyền đạt tới bạn rằng bạn cần nhiều công sức để tìm ra tiếng gọi. Bạn phải sẵn sàng đặt chân lên chuyến hành trình, đối mặt với nỗi sợ kéo dài suốt cuộc đời. Nó bắt đầu từ đâu? Từ nhận thức. Từ việc tìm kiếm thông điệp cuộc đời đang trao cho bạn. Trong nỗ lực tìm kiếm điều bí ẩn này, hãy nghĩ đến một câu hỏi nữa mang tính xây dựng hơn: Điều gì sẽ đến nếu bạn không hành động hôm nay?
CUỘC SỐNG ĐANG LÊN TIẾNG
Nhiều người buông mình theo dòng đời, không nhận thức được mục đích, nhắm mắt hòa vào dòng chảy của thế giới. Họ coi những người biết khai thác tiềm năng là những người vô cùng may mắn, sở hữu năng lực phi thường. Nhưng giả sử việc theo đuổi tiếng gọi
hoàn toàn không phải là một điều xa xỉ chỉ dành riêng cho tầng lớp thượng lưu thì sao? Giả sử đó chính là điều cần thiết để sống một cuộc đời trọn vẹn thì thế nào? Vậy bạn phải bắt đầu từ đâu?
Hãy lắng nghe tiếng nói của cuộc đời. Đó là lời khuyên của Frederick Buechner. Từng là giáo viên kiêm mục sư, ông quan sát thấy việc tìm kiếm thiên hướng chủ yếu là thói quen nhận thức chứ không đến từ vài khoảnh khắc vĩ đại. Ông viết: “Hãy nhìn vào sự bí ẩn vô cùng của nhận thức. Trong sự ngán ngẩm hay đau buồn cũng như trong sự hào hứng, thú vị: hãy chạm, nếm, ngửi để tìm đến bản chất thiêng liêng và bí mật của nó, vì suy cho cùng, mọi khoảnh khắc đều quan trọng...”8 Buechner cho rằng nhận thức không tự xuất hiện; bạn phải nuôi dưỡng nó.
Nếu để tâm đến cuộc đời mình và những bài học nó đang truyền đạt, bạn sẽ không bị mất phương hướng. Câu chuyện của bạn không còn là một chuỗi sự kiện rời rạc mà đã trở thành một câu chuyện phức tạp nhưng liền mạch, đang hiển lộ một cách tròn trịa trước mắt bạn. Bạn thấu hiểu mỗi bước lùi, mỗi lần bất tiện, mỗi lúc bực mình; chúng có ý nghĩa lớn hơn những gì bạn thấy. Biết đâu khi bạn lắng nghe, cuộc đời sẽ lên tiếng gọi.
Cuộc đời có thể lên tiếng gọi bạn vào sáng sớm hay lúc nửa đêm và nói cho bạn biết phải làm gì với tài năng, đam mê, và năng lực của mình. Nó sẽ giúp bạn hiểu được những gì đang diễn ra quanh mình, và thậm chí có thể giúp bạn định hướng cuộc đời. Hay nó có thể mở ra một hướng đi, một chủ đề hoàn toàn mới mà bạn chưa bao giờ nghĩ đến. Vấn đề không phải là nội dung cuộc gọi. Điều đó tuy rất quan trọng, nhưng nó không nằm trong tầm kiểm soát của bạn. Điều bạn cần làm là lắng nghe.
Trong một thế giới luôn bị xao nhãng, lắng nghe là thứ chúng ta có khuynh hướng không làm. Chúng ta chấp nhận mua sách, đăng ký tham gia hội thảo, hay tìm đến buổi hội nghị để nhận được lời hướng dẫn. Hãy làm theo bước này. Hãy tuân theo quy trình kia. Làm đúng theo sáu nguyên tắc sau. Những trải nghiệm kiểu này không thay thế được “sự bí ẩn vô cùng” của cuộc sống, như cách nói của Buechner. Ta được dạy rằng việc gì cũng có thể, rằng tiềm
năng của ta là vô tận và ta có quyền theo đuổi ước mơ. Nhưng có lẽ tìm ra tiếng gọi không phải là điều đơn giản.
Chúng ta đều muốn bắt đầu, từ những gì ta có thể làm được. Nhưng bạn đã bao giờ đánh giá chính xác năng lực của mình chưa? Người ta luôn làm được những điều mà chính họ cũng phải ngạc nhiên. Tiếng gọi vượt ra ngoài khả năng, đòi hỏi bạn phải sử dụng hết tiềm năng. Khi cuộc hành trình kết thúc, bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên. Giả dụ, bạn có thể trở thành phi hành gia, hay người phát báo, nhưng điều này không có nghĩa là bạn nên làm công việc này. Mỗi người có trách nhiệm làm không chỉ những việc trong khả năng, mà cả những việc đã được định sẵn cho mình. Nói theo Parker Palmer − tác giả, nhà hoạt động xã hội − đừng nói với cuộc đời những gì bạn muốn làm với nó; hãy lắng nghe những gì cuộc đời muốn làm với bạn.9
Còn đây là cách thực hành lắng nghe. Hãy điểm lại những sự kiện lớn trong cuộc đời bạn và viết chúng ra giấy. Ghi lại những điểm quan trọng bạn còn nhớ, kể cả những điều có vẻ ngớ ngẩn, không liên quan nhưng vì lý do gì đó vẫn đọng lại trong đầu bạn. Đừng cố gắng giải mã ý nghĩa của chúng; bạn cứ viết hết ra những gì còn nhớ. Khi hoàn thành danh sách các sự kiện, hãy đọc lại một lần nữa để tìm điểm chung, tìm chủ đề lặp lại. Bạn có nhận thấy sự kiện này chồng chéo, tác động đến sự kiện kia, dù bạn không sắp đặt hay lập kế hoạch gì không? Bạn có thấy nhờ lần đi ăn tối muộn mà bạn gặp được tình yêu của cuộc đời mình? Bạn có thấy một loạt những đợt thực tập vô nghĩa đã tác động đến việc chọn nghề của bạn? Bạn chắc chắn sẽ tìm ra một chủ đề, một sợi dây kết nối rõ ràng đến ngạc nhiên.
Lúc đầu, mọi thứ có rõ ràng không? Dĩ nhiên là không. Mọi thứ chỉ mới bắt đầu. Nhưng thật ra quá trình này không quá mơ hồ. Cuộc đời, dù còn nhiều bí ẩn, vẫn đang cố gắng nói với bạn một điều gì đó. Nhưng bạn có chịu lắng nghe không?
KHÔNG CÓ GÌ LÀ PHÍ PHẠM
Lúc Mike Noland phát bệnh, Jody đã tính dẹp hẳn công việc cô vừa triển khai là giúp mọi người viết thư để lại cho những người thân yêu. Công việc không những vất vả mà còn mang nhiều tâm
trạng. Sau khi Mike mất, cô đã thật sự ngừng công việc trong một khoảng thời gian. Cô quá đau buồn và thất vọng nên không còn tâm trí theo đuổi ước mơ một thời truyền lửa và thắp lửa hy vọng cho mình.
Nhưng khi chứng kiến cuốn tài liệu nhỏ của mình đã mang lại sự an nhiên lớn đến nhường nào cho quãng đời ngắn ngủi còn lại của người phụ nữ trên giường bệnh, giấc mơ của Jody lại bùng cháy. Cho dù phải trải qua nhiều bi kịch, cô vẫn phải tiếp tục giấc mơ này. Cái giá phải trả nếu không theo đuổi nó quá lớn. Cô đã nhìn thấy trong mắt con gái, và biết rằng con sẽ không bao giờ tìm được niềm an ủi như nhiều người khác. Cơ hội được giúp người khác tránh khỏi nỗi đau này chính là điều thúc giục Jody phải tiếp tục.
“Chúa không phí phạm điều gì,” cô nói với tôi trong một cuộc trò chuyện qua điện thoại, khi nhớ về 16 năm làm việc tại IBM trước khi rời bỏ công việc để phụ giúp chồng phát triển kinh doanh riêng và xây dựng gia đình. Tất cả đều góp phần tạo nên cuộc đời cô.
Trong những năm làm việc tại IBM, Jody chịu trách nhiệm thông báo kết quả đánh giá của nhân viên. Cô khen ngợi và nhắc lại những điều tốt đẹp nhìn thấy ở họ, ngay cả khi phải thông báo kết quả không tốt.
“Tôi thường luôn cố gắng thấu hiểu,” cô nhớ lại. Cô không muốn chỉ dừng lại theo kiểu: “Vậy, gần đây anh đã làm được gì cho tôi?” trong buổi trao đổi. “Tôi chỉ nghĩ đơn giản đó là điều hiển nhiên mình phải làm với người khác... nhưng rồi tôi phát hiện tôi là trường hợp hiếm.”
Thông qua các lớp học và những buổi diễn thuyết, Jody giúp mọi người nhìn thấy điểm tốt ở những người thân yêu mà họ cảm thấy khó bày tỏ. Thực tế, cô đang truyền đạt lại kinh nghiệm trò chuyện mà cô học được tại IBM.
Tôi phần nào hiểu được câu chuyện của Jody nhờ bảy năm làm việc tại một tổ chức phi lợi nhuận. Không có gì là phí phạm. Không có công việc nào, không có nhiệm vụ nào, không có rào cản nào là vô nghĩa, nếu chúng ta nhìn thấy nó phụng sự cho tiếng gọi. Có nhiều lúc, tôi cảm thấy rất bực mình khi phải làm công việc không thích hay phải trả lời thêm một e-mail không đâu. Tôi cảm thấy mình đang bị níu lại, không thể tiến về phía trước. Nhưng giờ đây, tôi đã
nhìn ra chân lý. Không ngày nào trôi qua mà tôi không dùng đến những kỹ năng tích lũy được trong bảy năm làm việc đó. Đó là quãng thời gian chuẩn bị chào đón những gì sắp đến. Khi tìm kiếm tiếng gọi, bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy những trải nghiệm trước đây dường như được tạo ra để dẫn dắt bạn tìm đến công việc của đời mình. Chỉ cần bạn biết lắng nghe.
Lắng nghe tiếng gọi của cuộc đời là bắt đầu chọn làm những điều không muốn làm, như Larry Elliott đã chọn và như Mike Noland đã không chọn. Bạn phải tưởng tượng ra cái chết của mình. Khi thời khắc đó đến, điều gì chưa làm được khiến bạn tiếc nuối? Điều gì khiến bạn ao ước được có thêm thời gian để hoàn thành, và điều gì bỗng trở thành vô nghĩa? Hãy nghĩ đến những thứ bạn sợ đánh mất – đó chính là những điều quan trọng nhất.
Một cách khác giúp bạn nhận thức sâu sắc hơn là quan sát mọi người xung quanh. Hãy chú ý đến những người biết trân quý cuộc đời và xem họ đang làm gì. Họ có những gì mà bạn chưa có? Ta sẽ học được nhiều điều từ việc xác định ta đang thiếu những gì dù thoạt nhìn có vẻ ta đang ganh tị với cuộc đời của họ. Nói cho cùng, tình yêu là chất kết dính tất cả mọi thứ, là yếu tố duy trì tiếng gọi trong ta. Đây không phải là sự ganh ghét nhỏ mọn, nếu ta biết cách vận dụng nó để bước thêm một bước.
Hiểu nôm na, ta phải trở lại làm một đứa trẻ, quan sát và lắng nghe người khác, bắt chước những hành động ta ngưỡng mộ để từ đó trưởng thành. Hãy quan sát mỗi ngày những người không từ bỏ tiếng gọi và kiên trì vượt qua gian khổ, để tìm nguồn cảm hứng bước tiếp.
HÃY CỨ LÀM ĐI NẾU CÒN NGHI NGỜ!
Đến lúc này, tôi hy vọng bạn đã nhận ra đây không phải là một quá trình thụ động. Bạn phải cam kết với con đường đã chọn. Và điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng.
Trong thế giới ngày nay, chúng ta thường có vấn đề với sự cam kết. Nhìn đâu ta cũng thấy sự thiếu cam kết, không theo đuổi đến cùng. Nhà lãnh đạo trốn tránh trách nhiệm. Chính trị gia đổ lỗi cho phe đối lập. Nhiều người nhảy hết việc này sang việc khác, không bao giờ cam kết làm trọn việc nào. Dù mức độ có thể khác nhau, nhưng ai cũng chật vật khi cam kết thực hành để tìm ra mục đích
sống. Ta đã quen thử làm khoảng sáu tháng hay nhiều lắm là vài năm, rồi lại chuyển sang việc khác. Nhưng thiên hướng không thể tìm theo cách này. Thiên hướng không phải là thứ để làm thử; nó là đích đến của cuộc đời bạn.
Nếu làm theo kiểu này, nếu không dành trọn tâm trí cho thiên hướng của mình, chúng ta không thể phụng sự cho thế giới, hay cho bản thân. Cam kết là điều cần thiết. Nó dạy ta kiên nhẫn không vì sự thỏa mãn trước mắt để nhận phần thưởng lớn về lâu dài và cho ta thấy có những thay đổi cần nhiều thời gian. Khi tạo được tính kỷ luật, kiên trì theo con đường đã chọn, ta cũng trưởng thành hơn. Phần thưởng cho sự kiên nhẫn là niềm vui được chứng kiến sự phát triển của một điều mà nếu không dành nhiều năm theo đuổi hẳn hôm nay ta đã không được hưởng.
Ngoài cam kết; bạn còn phải kiên định. Bạn không thể tìm ra đam mê nếu không vượt qua những đau đớn. Đó cũng là điều tôi học được từ Jody Noland, và nghiên cứu của Viktor Frankl cũng chỉ ra: phát kiến cần có cống hiến. Chúng ta phải nhìn nhận đau thương như sự bù đắp, chủ động hướng tới điều tốt đẹp bất chấp cái xấu đang ngự trị thế giới. Nếu không, những thách thức sẽ nhấn chìm ta, để lại trong ta sự yếm thế, hoài nghi, và tiếc nuối. Chúng ta không thể bị kẹt lại trong suy nghĩ “đáng lẽ” mà phải tiến về phía trước, can trường trong thời khắc gian khó.
Dĩ nhiên, trên con đường ta đi sẽ có thất bại, nhưng đi kèm với thất bại là những bài học quý giá. Đôi lúc, bạn có thể cam kết sai hướng, nhưng không sao, vì như thế vẫn còn tốt hơn là không cam kết điều gì. Cam kết nhầm vẫn hơn là đứng yên một chỗ.
Một chiến lược khác cũng được nhiều người lựa chọn, là không cam kết gì cả. Họ chờ đợi cơ hội tốt hơn, chờ đợi đến phút chót, nhảy liên tục từ thứ này qua thứ khác, không cam kết đến cùng một điều gì vì sợ bị trói buộc. Bạn có cảm giác tự do, nhưng thực tế, đây cũng chỉ là một chiếc lồng khác mà thôi. Khi bạn bị bao vây bởi quá nhiều lựa chọn, không làm gì cả có vẻ là chọn lựa an toàn. Nhiều người bị tê liệt vì nỗi sợ đã chọn sự ổn định, không dám tiến về phía trước. Họ bằng lòng với vị trí một nhân viên pha chế hoặc một vị trí nhiều hứa hẹn trong công ty. Bởi họ nghĩ nếu không nắm lấy cơ hội này, họ sẽ phải gánh chịu những tổn thất do sự mạo hiểm mang lại.
Nhưng sự thật hóa ra không phải thế. Không cam kết gì hóa ra còn rủi ro cao hơn cái giá phải trả nếu chọn sai. Đó là vì khi thất bại, bạn sẽ tích lũy được thêm một bài học. Nhưng giả sử bạn không cam kết điều gì, giả sử bạn chọn không hành động thì sao? Bạn sẽ không nhận được gì cả. Khi ngừng lại một cách thụ động, khi bị tê liệt vì nỗi sợ, bạn không học thêm được điều gì. Mỗi chọn lựa sai lầm sẽ giúp bạn kiên trì hơn và sẵn sàng đón nhận những gì sắp đến. Thất bại thật ra lại là một người bạn mang danh kẻ thù.
Nhưng ta cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng: Thất bại thật đau đớn, bất chấp những lời tô vẽ đầy màu hồng trong những cuốn sách kỹ năng về phát triển bản thân. Thất bại không dễ chịu. Chúng ta phải gắng gượng tự đứng dậy hết lần này đến lần khác, mỗi lần lại mỗi khó khăn hơn. Nhưng nếu học được cách chịu đựng, cách tìm ra niềm an ủi từ vết thương sau thất bại, ta sẽ trưởng thành hơn. Ta có thể vượt qua rào cản và biến đau thương thành thắng lợi hoặc thậm chí còn có thể ăn mừng thất bại và thử thách, những thứ từng làm ta nản lòng, vì chúng là chỉ báo cho biết ta đang đi đúng hướng.
CÂY ĐINH TRONG CHIẾC GIÀY CỦA WALT DISNEY Walt Disney đã cố gắng hết sức để không trở thành gánh nặng cho cha mẹ. Elias và Flora Disney phải rất tằn tiện để nuôi sống gia đình, lúc thì làm nông, lúc thì kinh doanh, nhưng họ chưa bao giờ thành công. Khi cậu bé Walt Disney nhìn thấy đôi bốt da đóng mũi bằng kim loại, cậu nhất quyết phải có được nó. Cậu tự thuyết phục mình, đây sẽ là một món quà thiết thực, cậu sẽ mang nó khi đi giao báo, nhất là khi trời đổ tuyết.
Cũng lâu rồi cha mẹ cậu mới tỏ ra hào phóng, và mùa Giáng sinh năm đó, bên dưới cây thông Noel là đôi bốt da đang nằm đợi cậu bé Walt. Cậu hào hứng đến nỗi ngày nào cũng mang, đi đâu cũng mang khắp thành phố Kansas, lòng đầy tự hào được sở hữu một vật báu. Cậu cũng giữ lời hứa, mang nó khi đi giao báo buổi sáng và buổi tối.
Một ngày xuân nọ, sau khi kết thúc một đợt giao báo trong ngày, Walt băng qua đường để nhập bọn với mấy đứa bạn đang tụ tập uống nước ngọt. Đến giữa đường, cậu nhìn thấy một khối đá lạnh nằm giữa đường, tính nghịch ngợm nổi lên, cậu lấy chân đá nó. Khi chân cậu vừa chạm vào khối đá, cậu cảm giác có cái gì đó rất cứng
đâm ngược vào đôi giày, đau điếng cả chân. Cậu nhìn xuống thì thấy một cây đinh loại đóng móng ngựa đã xuyên qua lớp da của đôi giày, đâm thẳng vào ngón chân cái, gắn chân cậu dính chặt vào khối đá.
Suốt 20 phút, cậu gào thét, khóc lóc, kêu cứu, nhưng không ai giúp cả. Cuối cùng, một người đánh xe ngựa đã dừng lại, giúp cậu đập bỏ khối đá và chở đến bác sĩ. Bác sĩ phải dùng kềm nhổ đinh, chích cho cậu một mũi ngừa uốn ván, và cậu phải chịu đựng mà không có chút thuốc giảm đau nào. Cậu về nhà nằm liệt giường suốt hai tuần sau đó.
Trong những ngày này, cậu bé Walt Disney đã suy ngẫm nhiều thứ, kể cả việc cậu sẽ làm gì với cuộc đời mình. Cậu đã 16 tuổi; trong những năm đầu thế kỷ XX, con trai tuổi này chẳng còn mấy ngày nữa sẽ thành đàn ông. Do hoàn cảnh gia đình, học tiếp lên đại học xem ra là điều không thể. Cậu chẳng thể nào trở thành luật sư hay bác sĩ. Mà dù cha mẹ cậu có đủ tiền đi nữa, thì điểm số thê thảm và tính cách không tập trung cũng sẽ cản trở cậu. Viễn cảnh không có nhiều chọn lựa. Giờ đây, cậu sẽ theo chân cha mình, hay tự tìm con đường riêng như ông anh Roy đã làm?
Hai tuần nằm liệt giường không phải làm những việc quen thuộc cho Walt có dịp nhìn nhận lại cơ hội của mình. Hẳn cậu đã nghĩ ngợi rất nhiều. Có lẽ cậu đã nghĩ đến tình bạn của mình với Walter Pfeiffer; nhờ gia đình anh chàng này mà cậu biết đến sự kỳ diệu của kịch nghệ. Có lẽ cậu đã nghĩ đến việc mình rất thích vẽ, đặc biệt là hí họa làm các bạn cười bò. Có lẽ cậu nhớ lại có lần cậu và cô em gái Ruth bị bỏ ở nhà một mình và tình cờ phát hiện ra thùng hắc ín sau nhà. Walt cho rằng thùng hắc ín này mà làm sơn thì tuyệt, dù cô em gái không tin. Cậu anh dám chắc với cô em là sơn này chùi được, nên hai anh em đem hắc ín vẽ đầy hình ảnh về nhà cửa, đường diềm trang trí trên bức tường phía hông của ngôi nhà. Hóa ra, hắc ín không chùi sạch được.
Chúng ta không biết Walt đã nghĩ gì trong hai tuần nằm trên giường. Nhưng chúng ta biết, thông qua cây bút chuyên viết hồi ký Bob Thomas, rằng sau khi chân lành và có thể tiếp tục đi giao báo, “anh ta quyết định trở thành người vẽ hình họa.”10 Thú vui giải trí giờ
đây đã trở thành định mệnh. Cậu cần một điều gì đó phá vỡ sự an toàn thoải mái, một đau đớn đánh thức cậu nhìn ra điều quan trọng. Tôi không có ý nói cây đinh đâm vào chân là tốt; nó chỉ là một phương cách buộc cậu phải lắng nghe. Và dù cách này thật đau đớn, nó đã có tác dụng.
Đôi khi, chúng ta đều cần những khoảnh khắc buộc ta phải thức tỉnh và toàn tâm toàn ý. Khoảnh khắc này thường xuất hiện lúc ta không ngờ tới dù ta có thể không chào đón nó. Nhiệm vụ của ta không phải là ngồi đợi chúng đến hay tự hỏi tại sao chúng đến mà là phải nhìn ra cơ hội chúng mang lại. Walt Disney đã tranh thủ lúc bị thương để nghĩ về tương lai cậu sẽ làm gì khi lớn lên. Jody Noland trong lúc đau buồn đã nhận ra cơ hội, hay có thể nói là trách nhiệm, giúp người khác tìm nguồn an ủi. Khi Eric Miller thôi tự hỏi tại sao cậu con trai mới năm tuổi của mình phải gánh chịu căn bệnh ung thư não và quyết định sống trọn vẹn từng phút giây, cuộc đời ông và những người tiếp xúc với ông đã thay đổi hoàn toàn.
Trong lúc lắng nghe tiếng nói của cuộc đời, bạn cũng phải quyết định chọn lựa. Bạn sẽ than khóc tiếc nuối, tự hỏi tại sao thứ này lại đổ lên đầu bạn, hay sẽ chọn cách hành động, tận dụng tối đa rào cản này, biến nó thành cơ hội? Lắng nghe chỉ mới là điểm bắt đầu để tìm ra tiếng gọi, chứ không phải điểm kết thúc. Đôi tai của ta chỉ giúp được phần nào, còn đôi tay mới là thứ phải tiếp tục đón nhận và hoàn thành phần việc còn lại.
Chương 2
Cơ hội học việc
Người thầy xuất hiện khi người học ít trông đợi nhất
***
Mỗi sự việc xảy đến trong đời là để chuẩn bị cho một khoảnh khắc còn chưa đến.
B
— Khuyết danh
ạn không thể tự tìm ra tiếng gọi. Đây là cả quá trình cần có một đội cố vấn. Hãy nhìn quanh xem, sự giúp đỡ luôn sẵn có ở khắp nơi.
Mang thai ở tuổi 23 có thể xem là điều tồi tệ nhất từng xảy ra với Ginny Phang. Ginny là người Singapore gốc Indonesia, tuổi thơ của cô gắn liền với hai đất nước, và cô hiểu trong nền văn hóa này, “không chồng mà chửa” đồng nghĩa với bao rắc rối. Ngã rẽ bất ngờ này là bước đầu tiên dẫn đến một loạt những thay đổi trong cuộc đời của Ginny và nhiều phụ nữ khác. Tuy nhiên, trước hết, cô phải quyết định về đứa bé.
“Chuyện bắt đầu do tôi không hoàn thành tốt kỳ thi,” cô kể với tôi qua cuộc trò chuyện trên Skype vào một buổi chiều muộn (nhưng thật ra là sáng sớm đối với cô). “Ở một nơi như Singapore... người ta rất quan trọng việc học hành, nếu bạn thi trượt, hay bị điểm thấp, thì coi như đời bạn đã tàn.”1
Ginny cảm thấy lạc lõng; cô quyết định chuyển đến Jakarta sống với ông bà. Sau bao cuộc tình tan vỡ, cuối cùng cô gặp một anh chàng có vẻ không giống với những người từng gặp. Anh ta lớn tuổi, chín chắn, thành công và xuất thân trong một gia đình giàu có. Đây quả là điều đáng mừng đối với một phụ nữ không hy vọng nhiều vào tương lai. Thế rồi cô mang thai.
Phản ứng đầu tiên của cô là, “Ôi lạy Chúa... Con sẽ được làm mẹ.” Ginny thích trẻ con và rất hào hứng với việc sinh con. Tuy
nhiên, bạn trai của cô lại phản ứng rất khác.
“Chúng ta phải đi phá thai,” anh ta nói.
Đây không phải là câu trả lời mà cô muốn nghe. Cô từng đưa hai người bạn của mình đi phá thai, và cô đã tự hứa với lòng mình sẽ không bao giờ làm như thế. Sau hơn một tháng cãi vã về việc có nên giữ đứa bé hay không, cả hai biết mình không còn thời gian và buộc phải quyết định. Anh chàng đưa ra điều kiện cho Ginny: hoặc phá thai, hoặc tìm người yêu mới. Để tỏ ra quan tâm, anh ta còn kèm thêm phần thưởng: Nếu cô chấp nhận phá thai, anh ta sẽ giúp cô khởi nghiệp, theo đúng khao khát của cô. Đây là cơ hội hiếm có cho Ginny tạo dựng sự nghiệp.
Phá thai là việc làm phạm pháp tại Indonesia, nên Ginny quay lại Singapore để suy nghĩ xem nên làm gì tiếp theo. Tại đây, cô hẹn gặp bác sĩ, nhưng rồi lại trì hoãn cả tuần. Dù chưa dứt khoát, cô vẫn xếp lịch phá thai, rồi lại dành cả ngày trước đó ngồi phân tích xem có nên y hẹn.
Cô cầu nguyện, than khóc, thậm chí còn đi xưng tội. Ginny cảm thấy tiến thoái lưỡng nan.
“Tôi không đủ can đảm buộc mình phá thai,” cô kể lại. “Nhưng đồng thời, tôi cũng không biết phải sống sao nếu không làm thế.” Mọi thứ càng tệ hơn khi mẹ cô cũng đưa ra điều kiện: Nếu Ginny muốn giữ đứa bé, cô phải dọn ra khỏi nhà. “Ở Singapore, bạn sẽ không dọn ra khỏi nhà trừ khi lập gia đình,” cô giải thích, “vì các quy định bất lợi của chính phủ, mà cũng vì cuộc sống đắt đỏ.”
Ý nghĩ phải sống tự lập làm cô thấy sợ. Hơn nữa, cô sẽ phải sống với cảm giác tội lỗi vì bêu xấu gia đình mình. Không nghề nghiệp, không có kế hoạch tương lai, cô sẽ sống sao đây?
Vào buổi tối trước ngày hẹn phá thai, chỉ còn vài phút nữa là đến 8 giờ, theo lẽ Ginny phải uống thuốc để bắt đầu quá trình, thì cô của Ginny gọi đến.
“Vứt thuốc đi,” bà cô nói. “Chúng ta sẽ giúp con. Ta chưa biết phải làm gì, nhưng ta sẽ giúp con.”
Đây là những lời kỳ diệu mà Ginny đang trông chờ. Cô vẫn muốn giữ đứa bé, chỉ là không biết phải xoay sở như thế nào – cho đến khi nhận được cuộc gọi này. Đôi khi chỉ cần một giọng nói vững vàng cũng đủ tạo nên sự khác biệt giữa sự sống và cái chết, một
giọng nói cất lên điều bạn biết chắc là đúng nhưng vẫn cần được nghe. Cuộc gọi lúc 8 giờ tối đã làm thay đổi cuộc đời một cô gái trẻ sắp làm mẹ tại Singapore. Ginny đã vứt ngay viên thuốc.
“Mọi thứ cứ như được sắp xếp từ trước...” cô nhớ lại. “Có người nói với tôi một câu tự dưng thấy đúng.”
Đây là cụm từ Ginny hay dùng: tự dưng thấy đúng. Đối với cô, cảm xúc rất quan trọng; cảm xúc là chiếc cột cây số để bạn dò đường trên hành trình tiến đến mục tiêu của cuộc đời. Nhưng cảm xúc chưa đủ để làm cô thay đổi ý định và quyết định giữ đứa bé, chấp nhận không một xu dính túi, không còn cơ hội kinh doanh tạo dựng sự nghiệp. Cô cần sự chấp thuận. Khi đó, rất nhiều người giúp cô đưa ra lý do tại sao không nên giữ đứa bé, nhưng không có lý do nào thuyết phục. Khi người cô gọi đến vào phút chót ngay trước khi Ginny quyết định từ bỏ đứa bé, những lời đó như nói hộ lòng cô. Sự chấp thuận là khi người bà con không bỏ rơi cô.
Dù phải đối mặt với bao nhiêu điều bất lợi, nhưng Ginny vẫn giữ được đứa bé đến ngày sinh. Đây là điều duy nhất cô thấy đúng, cho dù vì nó mà cô bị gia đình từ bỏ, phải chấm dứt mối quan hệ, và bị xã hội chê cười. Cô dọn ra khỏi nhà (mẹ cô không hề nói đùa), chuyển đến sống với ông ngoại, trong ngôi nhà của người cô đã khuyên giữ lại đứa bé, và chuẩn bị tâm thế làm mẹ.
Nếu có dịp trò chuyện với Ginny, bạn sẽ ngạc nhiên trước sự thẳng thắn chấp nhận của cô. Bạn sẽ không thấy cô xấu hổ như những người khác khi phải chịu sự ruồng rẫy nhiều như thế. Bạn có thể nhìn vào cách cô cư xử và thấy rằng đây là một người xứng đáng được trân trọng, và bạn sẽ thấy mình cần phải tôn trọng cô ấy. Trong mắt cô có sự quyết tâm mà câu trả lời “không được” hay “cô không thể làm thế được” không đủ sức ngăn cô lại. Chính ánh mắt tôi được thấy qua đoạn phim trên TEDx đã khiến tôi phải trả lời e mail của cô. “Tôi có bản lĩnh của một ngôi sao,” cô nói. Và tôi hoàn toàn đồng ý. Cô là một phụ nữ mạnh mẽ, vững vàng nhờ vượt qua bao khó khăn giông bão, nhưng vẫn tràn trề sức sống.
Ta có khuynh hướng gán cho những người thành công vượt lên số phận là “tự lập tự cường”. Nhưng khi đó, ta đã bỏ qua một yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong thành công của bất cứ ai – họ không thể thành công khi chỉ có một mình. Khi phân tích những
phân tầng phức tạp trong câu chuyện của Ginny, tôi nhận thấy trường hợp của cô không phải là ngoại lệ. Đúng, cô là một phụ nữ mạnh mẽ; đây là điều không ai chối cãi. Nhưng ngay cả điểm mạnh cũng có thể trở thành điểm yếu. Bạn có thể không thấy rõ trong lần gặp đầu tiên với Ginny Phang – và tôi nói điều này không phải để hạ thấp sự can đảm của cô – nhưng cô chưa hẳn đã thành công như bây giờ nếu không có sự hỗ trợ của vài nhân vật quan trọng.
CƠ HỘI HỌC VIỆC
Thời Trung cổ, người trẻ phải đi làm không công để đổi lấy kinh nghiệm, nơi ăn, chốn ở. Người học việc đôi khi phải ngủ lại nhà, ăn chung mâm với gia đình thầy. Đây là cách rèn luyện tay nghề chuyên môn, và học việc có thể bắt đầu sớm từ lúc 12 tuổi.
Sau khi hoàn tất giai đoạn đầu học việc, “học sinh” giờ đây đã thành thợ, có thể ra ngoài, sang các thành phố khác để thực hành nghề. Tuy nhiên, lúc này người thợ mới chưa được phép nhận học trò. Thực chất họ vẫn còn học việc dù lúc này đã tự kiếm tiền bằng nghề của mình. Người thợ chỉ mới áp dụng kỹ thuật được truyền đạt từ người thầy trong thực tế. Đây chỉ mới là bài kiểm tra, để xem người thợ có đủ tố chất và tiêu chuẩn trở thành thầy. Người thợ thường có cảm giác bất ổn, vì họ vẫn chưa khẳng định được vị trí của mình trong cuộc đời.
Sau một mùa lang thang, người thợ phải làm ra một kiệt tác nộp cho phường hội địa phương. Nếu họ công nhận tác phẩm này là kiệt tác, thì người thợ có thể tốt nghiệp và nhận chức danh thầy, được gia nhập phường hội và được phép nhận người học việc. Và quy trình đào tạo lại bắt đầu.
Bạn thử đoán xem quy trình học thành thầy mất bao lâu? Trong bối cảnh hiện tại, ta có thể đoán là vài tháng, hay một hai năm. Thực tế lâu hơn nhiều. Theo hệ thống này, người học việc thường phải làm việc vất vả ít nhất bảy năm trước khi thành thợ và bước ra làm riêng. Sau đó, người này mất vài năm trau dồi mới được lên thầy – đó là trong trường hợp anh ta có tài năng. Quy trình này do đó mất khoảng 10 năm. Nếu bắt đầu học nghề từ năm 12 tuổi, bạn chỉ có thể trở thành một người thầy lành nghề khi đã bước qua tuổi 20. Nếu bắt đầu trễ hơn, bạn có thể phải đợi tới những năm 30 tuổi mới
được hành nghề. Mà đấy là nếu bạn may mắn tìm được nơi học nghề!
10 năm. Đó là khoảng thời gian cần thiết để học trọn vẹn một nghề. Khái niệm này có vẻ xa lạ với chúng ta ngày nay, khi hầu hết sinh viên đại học đều có cơ hội trải qua nhiều đợt thực tập mà không thu thập được nhiều kinh nghiệm thực tiễn; nhưng như ta đã thấy, quá trình đi tìm tiếng gọi cần rất nhiều thời gian. Luyện tập không chỉ cần thiết để thuần thục và nắm vững kỹ thuật mà còn giúp bạn phân định rõ ràng tiếng gọi. Học việc là phương pháp tuyệt vời để làm chủ kỹ năng dưới sự dẫn dắt của người có kinh nghiệm, thông thái. Đáng buồn là ngày nay, hệ thống học việc này gần như không còn nữa, để lại một khoảng trống rất lớn trong hệ thống giáo dục. Bắt đầu từ thời Phục hưng, vai trò của phường hội giảm dần, trường đại học ngày càng phổ biến, thay thế cho hệ thống học nghề bằng hệ thống giáo dục đại chúng hơn. Nghệ thuật đào tạo chuyên sâu theo nghề từ cổ xưa dần dần mai một.
Thời nay, trách nhiệm khai phóng hết tiềm năng được giao cho chính cá nhân. Đây không chỉ là thách thức mà còn là một lời chế nhạo chua cay. Làm sao người ta biết được mình có thể trở thành người như thế nào nếu không biết mình là ai, hay không có một hình mẫu nào để theo đuổi? Tự kéo mình bằng dây giày của mình thì bạn cũng chỉ đạt đến một mức nhất định nào đó mà thôi; và cho dù người ta thường nhắc đến khái niệm “tự lực tự cường”, nhưng điều này thật ra không đúng. Ta là sản phẩm của môi trường, chịu tác động của những người ta gặp, của nơi ta sống. Ta bước vào cuộc đời như tờ giấy trắng, không chút năng lực, không biết nói, không tự ăn hay tự tắm giặt. Ta cần được giúp đỡ. Cha mẹ ta là người khởi động quy trình, giúp ta phát triển những tố chất trời ban, nhưng đến một lúc nào đó, phải có người khác thay thế tiếp sức.
Trong những bản trường ca, người anh hùng trẻ tuổi được gọi đi, để lại gia đình và bắt đầu cuộc phiêu lưu vĩ đại. Nhưng trước khi anh ta bước vào trận chiến đối mặt với con rồng hung hãn hay mở màn một cuộc khởi nghĩa, phải có chuyện gì đó xảy ra. Anh ta cần một nhà thông thái, một bậc pháp sư, hay một vị huấn luyện viên đã về hưu. Dù người này xuất hiện theo cách nào thì nhiệm vụ của họ cũng rất đơn giản: Dạy cho người anh hùng trẻ tuổi cách mài kiếm
thật sắc, rèn cho thật tinh các kỹ năng. Họ sẽ tiếp nối công việc cha mẹ anh ta để lại.
Hệ thống phát triển này hiện nay hoạt động ra sao? Nó không giống như bạn nghĩ đâu.
Tại thời điểm nào đó trong cuộc đời của một người phi thường, họ gặp được người dẫn dắt, một huấn luyện viên, hay một người đỡ đầu giúp họ, đầu tư công sức vào khả năng của họ để phát triển tối đa tiềm lực, trở thành một người đúng như tố chất họ thừa hưởng. Đôi khi người giúp đỡ là một cá nhân, nhưng cũng có lúc là một nhóm người. Dù là một hay nhiều người thì đây cũng là một quá trình tương tự như học việc, không thiếu những thất bại và nghi ngờ bản thân, nhưng lại có tính xây dựng rất cao.
Thực tế là, khác với suy nghĩ của bạn về người phi thường, bạn không thể tự mình tinh thông một kỹ năng. Việc tìm ra tiếng gọi cũng sẽ trở nên bất khả thi nếu không có sự hỗ trợ và giúp sức của nhiều người. Mỗi câu chuyện thành công thực chất là một câu chuyện về cộng đồng. Có người sẵn sàng giúp bạn; có người cố tình góp phần vào học vấn của bạn. Nếu thông minh, bạn sẽ biết cách tận dụng tất cả. Khi bạn bước chân lên con đường tìm lại chính mình, rõ ràng bạn không phải là người duy nhất trên đường. “Không có ai là một ốc đảo riêng,” John Donne từng viết, và điều này thật đáng mừng cho chúng ta.2 Chúng ta đều đi chung con đường trên chuyến hành trình tiến tới điểm định mệnh của mình. Chuyến đi của mỗi người, dù có ý nghĩa riêng với họ, lại thường diễn ra song song với nhiều người, song song với người thầy sẽ giúp họ dọc đường. Nhiệm vụ của bạn không phải là đi tìm họ, mà là nhận ra khi họ xuất hiện mà thôi.
Có thể nói học việc chính là sự tiếp nối quá trình nuôi dạy của cha mẹ. Đối với nhiều người, cha hay mẹ là người kích hoạt quá trình chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành, nhưng hẳn phải có người tiếp nối để chốt lại quá trình. Một lúc nào đó khi đi tìm công việc của cuộc đời mình, một người lạ mặt sẽ xuất hiện trong đời ta và lên tiếng đầy quyền lực. Những người này thường đến theo cách bất ngờ và có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình rèn luyện
của ta. Nào, ta hãy cùng xem qua các cách để không bỏ lỡ những cơ hội học việc này.
NHƯ KHI TA ĐẶT CHÂN VÀO ĐÔI GIÀY CŨ
Sau khi ra quyết định quan trọng sẽ giữ lại đứa bé, Ginny bắt đầu bước vào giai đoạn khó khăn nhất trong đời. Điều mà cô cần nhất lúc này – sự yêu thương, hỗ trợ của cộng đồng – chính là điều cô không thể có. “Tôi cảm thấy rất cô độc trong giai đoạn mang thai, thậm chí tôi còn nghĩ đến chuyện tự vẫn,” cô kể lại. “Đó là khoảng thời gian duy nhất trong đời mà tôi không dám nghĩ quá 24 giờ.”
Mỗi ngày, Ginny thức dậy, thầm cảm ơn trời đất đã vượt qua thêm một ngày để được nhìn thấy mặt trời. Mỗi đêm, cô khóc nhiều đến mức thiếp đi với biết bao lo toan. Hầu như tất cả những người có quan hệ với cô đều bỏ rơi cô. Cô là nỗi xấu hổ của gia đình, bị bạn trai bỏ rơi, phải chấp nhận thân phận tủi nhục tại một đất nước xem phụ nữ không chồng mà chửa như công dân hạng hai. Ngay cả bạn bè cũng không biết phải đối xử với cô như thế nào. Trong khi họ đang tưng bừng vui vẻ với nhau, thì cô lại đang chuẩn bị làm mẹ. Họ không thể cảm thông với tình cảnh đó và dần dần xa lánh cô. Dẫu sao, cô vẫn biết con đường mình đã chọn là con đường đúng đắn.
Khi sinh con, cô y tá cứ hỏi Ginny có muốn gây tê màng cứng không. Thoạt đầu, cô từ chối nhưng cuối cùng đã gật đầu vì quá mệt. Theo lời khuyên của người cô, Ginny muốn sinh con thuận tự nhiên, nhưng cô lại không được ai chỉ dẫn phải làm thế nào. Thế nên, cô sinh con theo cách tốt nhất có thể, trong khi cô đau đớn thì mẹ cô chỉ ngồi lặng lẽ trong góc phòng. Quá trình sinh con hết sức nhọc nhằn, khó hơn nhiều so với tưởng tượng, nhưng cô đã vượt qua và đón cậu con trai kháu khỉnh chào đời trong niềm hân hoan hạnh phúc. “Quá trình sinh nở giúp tôi nhận ra vai trò của sự hỗ trợ,” cô nói, “việc có người bên cạnh tin tưởng bạn, bảo vệ bạn, giúp bạn được an toàn rất quan trọng.”
Đó chỉ mới là bước khởi đầu. Ngay thời điểm đó, cô chưa biết được toàn bộ trải nghiệm, kể cả nỗi đau đớn khi sinh con, sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với cô.
Sau khi sinh con, Ginny quay lại công việc thư ký văn phòng, tuy ổn định nhưng không thỏa mãn được những khát vọng trong cô. Công việc này cho cô thời gian để chơi với con nhưng mức lương
không cao, và cô vẫn không cảm thấy đây là sứ mệnh của cuộc đời mình. “Tôi thấy chán nản” cô nói. “Tôi không nghĩ mình có thể sống như thế đến hết cuộc đời.” Và cô không muốn chấp nhận. Dù hoàn cảnh buộc cô phải chịu đựng nhiều cấm kỵ, cô vẫn muốn mình được tôn trọng và không ngại phá vỡ những suy nghĩ truyền thống để đạt được mục đích.
Một phần cũng vì tò mò, một phần cũng vì đang buồn chán, Ginny mở dịch vụ trên mạng hướng dẫn các bà mẹ về lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ. Cô và những bạn bè đồng trang lứa đã lớn lên bằng sữa công thức, do đó, rất ít phụ nữ Singapore biết cách nuôi con bằng sữa mẹ. Thông qua cửa hàng trên mạng này, cô bán áo thun và những sản phẩm khác để nâng cao nhận thức về việc nuôi con bằng sữa mẹ. Cô đã tận mắt chứng kiến tác động tích cực khi nuôi cậu con trai bằng sữa mẹ và muốn góp phần giúp đỡ những bà mẹ quan tâm đến việc nuôi con thuận theo tự nhiên hơn. Dù bản thân cô không phải là người thường xuyên mua hàng trên mạng, nhưng trải nghiệm này đã mở ra một thế giới mới.
Là một bà mẹ vừa phải đi làm vừa phải chăm con, đa số các mối quan hệ xã hội của Ginny diễn ra với một nhóm bạn quen trên Internet. Amy là người Úc gốc Trung Quốc, đang làm hộ sinh khá thành công tại Singapore và cũng là một người bạn khá thân trong nhóm. Trong một lần trò chuyện, Amy đã thốt lên một câu làm thay đổi cả cuộc đời Ginny.
“Ginny, chị mà làm người trợ sinh thì giỏi lắm đó.”
“Làm trợ sinh là làm gì?” Tôi hỏi Ginny. “Người trợ sinh,” cô nói, giúp các bà mẹ đang mang thai chuẩn bị kế hoạch sinh con. Khi nghe Amy nói, Ginny rất ngạc nhiên, vì lúc đó cô cũng chưa biết trợ sinh là gì. Khi cô sinh không có ai bên cạnh hỗ trợ, nên hẳn cô không biết đến việc trợ sinh. Amy nói thêm rằng dù không trở thành người trợ sinh đi nữa, việc học lớp đào tạo này cũng rất hay.
“Tôi là người rất thích lĩnh vực phát triển cá nhân,” Ginny kể lại. Thế nên cô đăng ký và theo học, nắm bắt hết những điều trợ sinh cần làm. Nhưng khi tham gia tư vấn cho ca sinh đầu tiên, Ginny quên sạch lý thuyết. Cô hoảng loạn. Cô cố gắng hít sâu, “để cho tâm trí kiểm soát” và cố gắng tập trung, nhớ lại những gì đã học.
Cô bắt đầu mát-xa lưng cho sản phụ, trò chuyện và trấn an cô ấy trong suốt cơn đau đẻ rằng mọi việc đều ổn. Đây không phải lần đi sinh đầu tiên của sản phụ này, nhưng là lần đầu tiên cô ấy đẻ thường nên rất lo. Sau khi sinh xong, sản phụ rất mừng, liên tục cảm ơn Ginny vì nhờ cô mà cô ấy cảm thấy rất thoải mái và việc sinh con cũng không quá khó khăn.
“Tôi thấy lâng lâng,” Ginny nhớ lại, “giống như khi xỏ chân vào một đôi giày cũ.”
Đó cũng là lúc cô biết mình có thể làm được. Không lâu sau lần hỗ trợ bà mẹ sinh con này, Amy cũng bí mật rời khỏi Singapore như khi xuất hiện trong đời Ginny trước đó. Đây không phải là kiểu học việc truyền thống, nhưng nó vẫn là một trải nghiệm học nghề cần thiết cho Ginny. Và tiếp theo đây, ta sẽ thấy quá trình này diễn ra như thế nào.
NGƯỜI ĐỠ ĐẦU
“Đỡ đầu” là một từ được nhắc đến nhiều trong thời gian gần đây. Bạn có thể nghe thấy từ này trong những câu chuyện phiếm với bạn bè, hay với các đồng nghiệp cùng nhâm nhi cà phê. Nhưng đỡ đầu là một quá trình nói dễ hơn làm.
Tại sao lại khó tìm được người đỡ đầu? Bởi mỗi người đều không hoàn hảo và có những kỳ vọng cũng như mục đích riêng. Một trong những lý do khiến việc tìm người đỡ đầu rất khó là vì không có nhiều người từng trải qua quá trình này. Ta bị cuốn theo lối tư duy về một người tự lập tự cường, và ảo tưởng rằng mình có thể tự thân vận động. Ta cần một điều gì đó kéo ta khỏi sự độc lập và kiêu ngạo của mình. Do đó, người đỡ đầu thường không phải là người ta đang kỳ vọng.
Đa phần quá trình học việc diễn ra không giống chút nào với những gì bạn hình dung. Người đỡ đầu không phải là người bạn hằng mơ tưởng. Đây là quá trình đào tạo thực tế, không phải những gì bạn nghĩ nên xảy ra. Một người thầy đặt ra thử thách, người không đúng với kỳ vọng, người buộc bạn phải tư duy và hành động khác mới chính là người bạn cần. Chung quy, đó cũng là nhiệm vụ của người thầy.
“Người thầy xuất hiện khi người học đã sẵn sàng,” là một câu nói hay, nhưng thực tế thì người học không bao giờ sẵn sàng. Suốt
cuộc đời, ta có thể gặp nhiều người xuất hiện ở nhiều thời điểm khác nhau, sẵn lòng giảng dạy cho ta, và nhiệm vụ của ta là phải nhận ra họ.
Trong cuộc đời mình, tôi cũng có nhiều người đỡ đầu: từ thầy giám thị ký túc xá, người sếp đầu tiên, đến anh chàng sống cách mấy căn nhà thường hay ghé qua giúp tôi sửa đồ đạc. Đa phần, tôi không nhận ra tầm quan trọng của những mối quan hệ này đến khi hết dịp gặp họ. Đôi khi, tác động của mối quan hệ không đáng kể. Nhưng cũng có lúc, rõ ràng họ đang cố gắng đầu tư phát triển cho tôi, nhưng tôi lại quá cứng đầu không trân trọng họ. Và trong mọi mối quan hệ, tôi nghĩ mình sẽ học được nhiều hơn từ người đỡ đầu nếu chủ động giao tiếp.
Trong suốt quá trình tìm kiếm công việc của đời mình, bạn phải sẵn sàng mở lòng tìm kiếm người đỡ đầu ở những nơi bất ngờ nhất. Bạn bè, người thân lâu ngày không gặp, hay những mối quan hệ một thời dù không còn thường xuyên nữa cũng có thể trở thành nguồn cảm hứng cho bạn. Mỗi người đều có mục đích riêng: có người xuất hiện đúng lúc để chúc mừng bạn, có người xuất hiện cùng những chật vật mà bạn đang tranh đấu. Và có cả những người chỉ xuất hiện khi bạn cần đến họ nhất. Tất cả những người này, theo những cách khác nhau, đều là người đỡ đầu, góp phần hướng dẫn bạn trong giai đoạn học việc.
Bạn sẽ tìm kiếm họ như thế nào? Họ từ đâu đến? Thật khó có câu trả lời chính xác. Thông thường, họ sẽ khiến bạn bất ngờ, xuất hiện từ trong mông lung ngay lúc bạn không ngờ nhất. Quá trình này có vẻ vô tình, hay bí ẩn, nhưng thật ra không phải thế. Paulo Coelho từng viết: “Khi bạn khao khát một điều gì đó, cả vũ trụ sẽ kết hợp lại giúp bạn đạt được nó.”3 Câu nói này cũng có phần nào sự thật. May mắn thường đến với những người có động lực. Khi một người quyết tâm thành công trong những việc có ý nghĩa, thế giới sẽ dịch chuyển để nhường chỗ cho tham vọng này. Bạn không thể tiên đoán quá trình học việc sẽ diễn ra như thế nào, nhưng bạn hoàn toàn có thể tự chuẩn bị đón nhận khi cơ hội đến.
Ginny Phang hẳn đã bỏ qua tiếng gọi nếu cô không nghe theo lời khuyên của cô bạn Amy đi học lớp trợ sinh. Cô hẳn không sẵn sàng
làm ngay những gì cuộc đời đã dành cho cô, nhưng cô luôn sẵn sàng hành động. Và chính bước chân đầu tiên đó đã tạo ra biến đổi. Tôi thường nghe những người cần được định hướng cuộc đời hỏi xin lời khuyên về cách tìm kiếm người đỡ đầu, nhưng tôi phải nói câu hỏi này hoàn toàn sai. Khi theo đuổi tiếng gọi, bạn sẽ tìm ra cộng đồng người hỗ trợ cùng bạn đạt được mục đích. Bạn không thể tác động đến sự xuất hiện của những người này, thậm chí cũng không biết phải tìm họ ở đâu. Điều bạn cần làm là mở to mắt quan sát. Cơ hội học việc luôn ở quanh bạn, nếu lắng nghe cuộc đời, bạn sẽ nhận ra chúng.
HỌC VIỆC TÁI XUẤT
Tại East Hampton, New York, Ellen Frank đang làm sống lại một kỹ thuật đã mai một từ thời Phục Hưng. Trong khu xưởng của mình, cô đang dạy một nhóm thực tập sinh về nghệ thuật minh họa sách, kỹ thuật sử dụng vàng trang trí sách thánh. Khu xưởng mang tên Illumination Atelier là nơi trao gửi của những nghệ sĩ muốn được theo học một bậc thầy thực thụ.
Atelier trong tiếng Pháp có nghĩa là “nhà xưởng”; vào thời Trung cổ, đây chủ yếu là nơi đào tạo nghệ sĩ. Trong xưởng, người nghệ sĩ bậc thầy, với sự hỗ trợ của các trợ lý và người học nghề, cùng tạo ra những tác phẩm đứng tên người thầy. Đây là một nỗ lực chung; người thầy thì làm ra được nhiều tác phẩm, nghệ sĩ trẻ thì có cơ hội học tập.
Những xưởng đào tạo này thường hợp tác với các nghiệp đoàn tại địa phương nắm quyền quản lý quá trình học việc. Hiện nay, dù vẫn còn tồn tại rải rác ở vài nơi, mức độ phổ biến của xưởng đào tạo đã suy giảm đáng kể. Đối với Ellen Frank, điều này thật đáng buồn. Xưởng đào tạo của cô đã trở thành nơi chia sẻ niềm đam mê nghệ thuật, hòa bình và hòa giải.
Sau một lần đến thăm Jerusalem năm 1999, được tận mắt chứng kiến vùng đất đang trong cơn hỗn loạn, Ellen tìm được cảm hứng sáng tạo một tác phẩm khổ lớn trong dự án minh họa sách.4 Trong quá trình thiết kế thư mời tham dự buổi tiệc chúc mừng thành công của buổi trưng bày, cô bỗng nảy ra ý tưởng muốn tiếp tục khám phá chủ đề hòa bình và thấu hiểu văn hóa trong các tác phẩm
của mình.5 Cô thành lập một tổ chức, hỗ trợ và tài trợ cho các thực tập sinh muốn học hỏi về nghệ thuật minh họa sách. Từ năm 2005, cô đăng tin tìm kiếm thực tập sinh trên trang Craigslist từ 15 quốc gia khác nhau và mời họ đến thử nghiệm sáng tạo tại xưởng đào tạo này.
Tại xưởng của Ellen, các thực tập sinh được tham gia vào toàn bộ quá trình: từ lúc hình thành ý tưởng ban đầu đến quá trình sáng tạo, thậm chí còn được góp phần vào những quyết định kinh doanh quan trọng của quỹ. Họ luôn được nhắc tên trong những tác phẩm có phần đóng góp của họ.
Theo Ellen, sự suy tàn của xưởng đào tạo đồng nghĩa với sự suy tàn của nghề thủ công. Xưởng của cô đang cố gắng thay đổi tình trạng này. “Tôi nghĩ chúng tôi đang tái tạo sự gắn bó đỡ đầu khi người học việc được học trực tiếp từ bậc thầy lành nghề,” cô trả lời trong cuộc phỏng vấn với National Public Radio. “Họ cũng học được cách đánh giá. Đây không phải là kiểu dạy bằng cách chỉ trích. Cũng không phải kiểu dạy bằng cách tự nhận xét tác phẩm của mình. Đây là kiểu dạy: ‘Được, nhưng sao ta không thử kiểu này,’ và, ‘Được, ta cứ phát triển tiếp theo hướng này nhé?’”6
Khi hướng dẫn học trò, Ellen giữ giọng nhẹ nhàng, dịu dàng như một người mẹ. Bằng từ ngữ và giọng điệu gây hứng thú cho người học, như “xem cái này kỳ diệu lắm này”, cô giúp học trò cảm nhận được tầm quan trọng của những gì họ đang làm, và từ đó giúp họ thấy tự tin hơn.7 Cô thừa nhận có những học viên đã giỏi hơn cô trong một số kỹ thuật nhất định. Đó chính là sức mạnh của quá trình học này. Học việc không chỉ là trao đổi thông tin mà còn là truyền đạt kỹ năng của bậc thầy và nhân rộng lên.
Xưởng của Ellen chỉ mới là bước khởi đầu. Ước mơ của cô là mở được một “xưởng đào tạo mở” dành cho tất cả mọi người, chứ không chỉ các nghệ nhân, đến tham gia học hỏi.8 Khi lắng nghe câu chuyện của cô qua radio, tôi thật sự nghĩ giáo dục nên phát triển theo cách này – tạp dề lấm lem màu sơn trong một khu xưởng chật chội – thay vì những giảng đường lớn, đầy sinh viên thụ động ngồi dính trên ghế suốt 90 phút, mắt dán vào màn hình máy chiếu.
Bạn có thể tưởng tượng một thế giới trong đó trường học giống như xưởng đào tạo hơn là sảnh đường? Tại nhiều nơi, hình ảnh này cũng không quá xa vời.
Đức là nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất châu Âu. Lý do là bởi họ có một “hệ thống song song”, trong đó các thanh niên trẻ có thể theo học trường nghề, vừa học vừa làm. Trong hệ thống này, sinh viên có thể dành vài ngày trong tuần đi làm, thời gian còn lại đi học tại trường. Khác với các chương trình thực tập sinh, sinh viên theo học chương trình này được nhận lương theo tỷ lệ so với lương của người đi làm toàn thời gian, và có đến 90% sinh viên hoàn tất chương trình học của mình. Khoảng một nửa sẽ tiếp tục làm việc với công ty ngay cả khi đã hoàn thành khóa học và kết thúc kỳ thực tập.
Hệ thống này không chỉ góp phần tạo giá trị cho công ty, mà còn giúp các sinh viên học được những thứ họ sẽ áp dụng sau này. Không như những quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp tăng cao, Đức đang thiếu công nhân. Công việc tốt luôn sẵn sàng chào đón bất cứ ai đủ trình độ và mong muốn làm việc. Cái họ thiếu là công nhân. Người có năng lực và sẵn sàng làm việc thì đi đâu cũng có việc làm. Chúng ta không cần thêm công việc. Chúng ta cần một cách tốt hơn để trang bị cho mọi người những gì họ cần để làm việc. Trong trường hợp của nước Đức, hệ thống này đã tạo thêm nhiều việc đến mức họ không kiếm đủ người.9
Quá trình học việc được thiết kế để người học nhận được hướng dẫn từ một chuyên gia, một bậc thầy, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm trong một môi trường đầy thách thức, tất cả đều để chuẩn bị cho họ bước vào tương lai. Trải nghiệm học tập kiểu này, dù hết sức thú vị, lại rất khó thực hiện. Nó đòi hỏi phải can đảm, quyết liệt để tìm kiếm và hoàn tất quá trình học việc.
Cuộc sống đầy phức tạp và rắc rối, không giống những gì chỉn chu miêu tả trong sách giáo khoa. Đa số chúng ta đều chật vật tìm đường đi, và rất cần được định hướng, nhưng không phải lúc nào cũng tìm được. Ta rất dễ bị cám dỗ buông bỏ và chọn con đường an toàn. Cơ hội được làm những công việc có ý nghĩa là một chọn lựa
có ý thức. Cơ hội học hỏi và phát triển vẫn có nếu ta biết cách tìm kiếm đúng nơi và khiêm tốn chấp nhận những gì ta gặp được. TẬN DỤNG MÔI TRƯỜNG: CHIẾN LƯỢC CỦA STEVE JOBS Mỗi nơi bạn đến, mỗi người bạn gặp, mỗi việc bạn làm đều là cơ hội giúp bạn thấu hiểu hơn trong quá trình tự học. Cuộc sống là một lớp học, và nếu để tâm chú ý, bạn có thể tìm ra bài học mới mỗi ngày. Mỗi ngày là một trang mới trong cuốn sách mà bạn không bao giờ hoàn tất, và khi ngồi trên giảng đường, bạn mới thấy quá trình học việc của mình đã bắt đầu từ trước đó.
Hãy bắt đầu quá trình học tập này bằng cách rèn luyện với công cụ đang sẵn có. Người đỡ đầu đúng nghĩa không dễ tìm, nhưng thật ra bạn đã có cách tiếp cận kiến thức và trải nghiệm, bạn đã có những người thầy giúp ra quyết định đúng đắn trong lúc đang loay hoay tìm đường đi. Ai là người bạn có thể nhấc điện thoại lên và trao đổi ngay lúc này? Người bạn, hay người thầy nào sẵn lòng dành thời gian gặp gỡ, uống cà phê với bạn trong tuần này nếu bạn cần đến? Ta cứ hay đi tìm một người muốn đầu tư vào ta, quan tâm đến ta, mà không thấy họ đang ở ngay quanh ta. Thật sai lầm khi cất công đi tìm người đỡ đầu. Cách tốt nhất là nhìn lại những người đã xuất hiện trong cuộc đời ta.
Ginny Phang cũng mất nhiều năm tìm kiếm hướng đi cho cuộc đời mình, cố gắng chật vật qua ngày. Cô không đi tìm tiếng gọi; cô chỉ cố gắng sống từng ngày. Nhưng đây cũng chính là cách ta gặp được công việc của đời mình: khi ta đang theo đuổi một điều khác, khi ta đang loay hoay tìm cách kiếm sống qua ngày. Đến một lúc nào đó, một điều bất ngờ chợt xuất hiện và làm thay đổi mọi thứ. Người thầy xuất hiện khi bạn hoàn toàn không ngờ đến.
Đối với Ginny, có rất nhiều người đã giúp cô định hướng trong chuyến hành trình của cuộc đời.
Đầu tiên là người đã động viên cô giữ lại đứa con và sau đó giang tay bao bọc cho cô có chỗ ở. Sau đó là Amy, người bạn khuyên cô hãy học nghề trợ sinh, thuyết phục cô hoàn tất khóa học. Cuối cùng là một nhà sản xuất đang quay phim phóng sự về những bà mẹ đơn thân tại Singapore, và vô tình trở thành bạn cùng phòng của Ginny. Khi công việc kinh doanh của Ginny phát triển, người bạn cùng phòng này đã giúp cô trông chừng cậu con trai và chịu trách
nhiệm hỗ trợ hành chính, như thiết lập trang web đầu tiên. Nếu không có sự hỗ trợ của những người này, Ginny thừa nhận, “Tôi không thể là tôi của hôm nay.”
Mỗi người có một vai trò khác nhau, và giúp cô theo một cách riêng, họ xuất hiện ngay lúc cô cần được giúp đỡ nhất. Mô hình này không giống quá trình học việc thời Phục Hưng, nhưng nó mang lại hiệu quả không khác mấy. Quá trình tình cờ học việc bắt đầu bằng cách lắng nghe cuộc đời mình và để tâm chú ý đến những cách bạn đang được chuẩn bị cho công việc của cuộc đời. Thành công của Ginny không có được nhờ biết cách hoạch định mọi thứ từ đầu; mà chính là khi cơ hội đến, cô biết cách đón nhận và hành động.
Đây cũng chính là cách khởi nghiệp của Steve Jobs, nhà đồng sáng lập Apple. Quá trình học tập của ông hoàn toàn bình thường. Ông bắt đầu tại Reed College, nhưng học phí ở đây quá cao khiến ông phải bỏ học sau sáu tháng. Ông ngủ nhờ trên sàn nhà trong phòng ký túc xá của bạn, tiếp tục học ké một số lớp, trong đó có một lớp về chữ viết tay, mà sau này nhờ đó ông đã tạo ra kiểu chữ dùng trong chiếc máy Mac phiên bản đầu tiên.
Sau đó, Jobs kết bạn với Steve Wozniak, người đã giúp ông tìm được việc làm tại Atari, trước khi cùng ông sáng lập Apple. “Woz” đã thiết kế lại trò Pong mà Jobs đứng tên để được tuyển vào làm nhân viên kỹ thuật.
Trong thời gian làm việc tại Atari, Jobs học được những bài học quan trọng về thiết kế, phát triển phần mềm, và công nghệ phục vụ người dùng. Ông tận dụng mọi cơ hội để tích lũy kiến thức, trải nghiệm, hướng dẫn – từ nhiều nguồn khác nhau – để sau này vận dụng tại Apple và Pixar.10
Hiếm khi nào mọi khía cạnh bạn cần trong quá trình học việc tập trung lại một chỗ. Nhưng nếu chịu khó tìm kiếm đúng nơi, chịu khó chú ý, bạn sẽ tìm thấy. Do đó, học việc không phải là một lớp học, hay một người đỡ đầu, mà là một chọn lựa có ý thức của bạn. Trong trường hợp đó, cơ hội học việc thật ra không hề tình cờ; đây là quá trình chọn lựa cơ hội có chủ đích để tạo ra công việc của cuộc đời.
Cơ hội này luôn mở cửa chào đón tất cả mọi người, không như việc học ở trường. Thay vì chờ đợi một người thầy xuất hiện chấp
nhận bạn, hay chờ đợi một trường học đón nhận, quá trình học việc này luôn sẵn sàng bắt đầu bất cứ đâu.
TỪ NGƯỜI HỌC VIỆC TRỞ THÀNH BẬC THẦY
Khi sếp của Ginny Phang nhìn thấy cô xuất hiện nguyên trang trên tờ báo lớn của cả nước, ông không hề thoải mái. Làm mẹ đơn thân là một chủ đề cấm kỵ tại Singapore, và hầu hết những bà mẹ không chồng này cũng không muốn nhắc đến tình cảnh của mình, chứ nói gì đến việc xuất hiện trên truyền thông. Do đó, người dám lên tiếng thường thu hút nhiều chú ý.
Ginny tin vào sức mạnh của giáo dục để phá tan những suy nghĩ thiển cận, cô sẵn sàng xuất hiện trên bất cứ đoạn phóng sự, chương trình thời sự, hay bản tin nào muốn phỏng vấn. Cô kể câu chuyện đời mình và chia sẻ những gì đang làm. Không quá khó để vị sếp này phát hiện ra ý định của Ginny. Ông ta yêu cầu cô phải chọn giữa một bên là công việc ổn định, hay nghỉ việc để theo đuổi đam mê mới bùng cháy này. Ông ta thậm chí còn đề nghị tăng lương để cô ở lại.
“Tôi đứng trước ngã ba và buộc phải quyết định,” Ginny nói. “Tôi sẽ tiếp tục công việc ổn định, hay sẽ nhắm mắt đưa chân bước vào một vùng đất chưa ai khai phá tại Singapore?”11
Vào thời điểm đó, chưa có ai làm nghề trợ sinh toàn thời gian tại Singapore. Cô bạn người Úc Amy đã về nước, một vài người trợ sinh còn lại chủ yếu làm thêm ngoài giờ. Không ai biết chắc có thể sống bằng nghề này hay không. Đây thật sự là một canh bạc. “Cứ nhảy đi, chiếc lưới an toàn sẽ xuất hiện” là câu nói ta thường nghe khi đề cập đến những tình huống tương tự.12 Ý của nó là khi bị dồn đến chân tường, tự dưng bạn sẽ thấy được giải pháp tưởng chừng bất khả thi. Những lúc bạn cảm thấy bị mắc kẹt, cách tốt nhất là chấp nhận rủi ro và dốc hết sức cho chọn lựa duy nhất bạn có, dù nó có đáng sợ đến mấy. Đó cũng là hành động của Ginny. Cô đã nhắm mắt đưa chân.
10 năm sau, Ginny hiện đang điều hành Four Trimesters, công ty cung cấp dịch vụ trợ sinh lớn nhất tại Singapore, với bảy nhân viên. Cô đã được giới thiệu trên các chương trình truyền hình, báo chí, và từng diễn thuyết tại TEDx. Cô đã kể về cuộc đời mình khi vượt qua
trở ngại, kiên trì theo đuổi đến khi đam mê trở thành hiện thực. Nếu trên thực tế có tồn tại một người tự thân vận động, hẳn đó chính là Ginny. Nhưng phải chăng, cô đã làm được tất cả chỉ bằng sức mình?
Cô sẽ là người đầu tiên phủ nhận. Thật không dễ gì khi phải đối mặt với những lời nói quyết liệt của bạn trai, hay khi bị chính mẹ ruột đuổi khỏi nhà. Đó là những trải nghiệm đau đớn cho đến tận bây giờ, đã hơn 10 năm trôi qua, cô vẫn phải chịu những ánh mắt khinh khỉnh khi người ta biết cô không có chồng.
Nếu bạn hỏi Ginny hồi còn bé rằng lớn lên cô sẽ làm gì, hẳn cô đã không trả lời là trợ sinh. Ý nghĩ này không hề xuất hiện trong đầu cô cho đến khi có người gợi ý. Cô luôn muốn kinh doanh riêng nhưng lại không biết phải làm thế nào. Thế nhưng, trải qua một loạt các sự kiện, cô đã tìm ra hướng đi. Mọi thứ diễn ra không theo kế hoạch (chắc chắn không phải kế hoạch của cô), và cô cũng không hiểu hết những gì đang diễn ra, nhưng nhờ sự giúp đỡ của một số người, Ginny đã đến được với tiếng gọi của mình.
“Lúc năm tuổi, tôi muốn trở thành nghệ sĩ múa và là một nữ doanh nhân,” Ginny viết trong một e-mail gửi cho tôi. “Đến năm 13 tuổi, tôi nghĩ mình sẽ làm tư vấn viên, và có người bảo tôi có khiếu làm DJ trên radio. Giờ đây, khi đã hơn 30 tuổi, tôi vẫn khám phá bản thân và thấy rằng những ước mơ tuổi thơ nay đã được hiện thực hóa trong công việc trợ sinh.”13
Tôi nghĩ cần nhắc một chút đến quyền năng của sự kiên trì và ý chí sinh tồn của con người. Rõ ràng, câu chuyện của Ginny là minh chứng cho khả năng chịu đựng vượt qua trở ngại. Đồng thời, đây cũng là minh chứng cho sức mạnh cộng đồng, một lời nhắc nhở rằng ta không bao giờ tìm được tiếng gọi nếu không có sự giúp đỡ. Ai cũng cần được giúp đỡ.
Nhiều năm trước, khi quyết định nên bỏ hay giữ đứa bé, Ginny không thể hình dung được cuộc sống hiện tại của cô − cung cấp cho các bà mẹ sự trợ giúp mà cô không có được trong lần đầu làm mẹ. Câu chuyện của cô thật đặc biệt, không phải vì cô đã được giúp đỡ – ta sẽ luôn được giúp đỡ khi cần – mà vì cô đã nhận ra sự giúp đỡ khi nó xuất hiện.
Ta hãy nhớ: tất cả những điều này xảy ra với Ginny vì cô không làm tốt bài thi của mình. Cuộc sống của cô hôm nay không phải là nhờ vào nền giáo dục phi thường. Chính nhờ vào những sự kiện, và những người đỡ đầu bất ngờ mà cơ hội tuyệt vời đã đơm hoa kết quả. Cơ hội học nghề cũng thế. Những trải nghiệm này không thể tự xuất hiện, nhưng lại rất dễ phát hiện khi bạn biết mình phải chú tâm để ý điều gì.
Đôi khi, người giúp ta tìm ra tiếng gọi lại xuất hiện ở những nơi hết sức bất ngờ. Nhiệm vụ của ta là phải lưu ý để nhận ra họ.
Chương 3
Khổ luyện
Cố gắng thôi chưa đủ
***
Hãy luôn làm nhiều hơn kỳ vọng của người khác.
T
— George S. Patton
iếng gọi không phải lúc nào cũng nhẹ nhàng. Bạn cần đầu tư công sức. Sự luyện tập có thể cho bạn biết mình có thiên hướng làm được hay không làm được những gì.
Stephanie Fisher phải đi rất xa rời khỏi quê nhà tại Jamestown, New York, đến Augusta, Georgia – chính xác là 1.250 dặm – nhưng đây là giấc mơ của cô và cô quyết tâm kiên trì đến cùng. Đó là năm 2010, và cũng là năm thứ bảy cô thử giọng tại American Idol (Tìm kiếm tài năng của Mỹ). Đây là lần thành công nhất của cô trong những lần thử giọng; lần này chắc chắn sẽ khác, lần này cô sẽ được nhìn thấy mặt giám khảo.
Cô sinh viên 23 tuổi tốt nghiệp ngành hóa sinh và truyền thông nhất quyết phải thành công trong lần thử giọng để nhận tấm vé tham gia tuần lễ tập trung tại Hollywood, cùng với hàng chục người chơi khác tranh một suất tham dự vòng chung kết. Cô đang theo học lớp cao học, và làm người mẫu ngoài giờ; cô biết mình không còn nhiều thời gian để theo đuổi giấc mơ trở thành ca sĩ. Lần này có thể là lần cuối cùng.
“Tôi chỉ có thể chơi bời thêm khoảng bốn năm nữa trong đời mình,” cô kể với phóng viên một tờ báo địa phương trước khi vào thử giọng, “và nếu còn cơ hội thực hiện, tôi sẽ chớp lấy.”1
Hôm ấy, cô mặc chiếc áo lấp lánh màu bạc, đeo chuỗi ngọc, vớ đen hấp dẫn; Stephanie bước lên sân khấu của chương trình tìm kiếm tài năng nổi tiếng nhất nước Mỹ, ngập ngừng cười chào giám khảo.
“Wow,” có người lên tiếng, ám chỉ bộ đồ diễn của cô. “Tôi xém chút nữa mặc y chang,” Randy nói đùa.
Simon trợn mắt, tỏ vẻ không hài lòng.
“Okay,” Kara nói, “chúng ta bắt đầu đi.”
Mang đôi giày cột dây đen trắng đứng hơi ngang để lấy thế, Stephanie cất giọng hát bài “Fever” của Peggy Lee.
“Never know how much I love you. Never know how much I care...” (tạm dịch: “Em không bao giờ biết anh yêu em nhiều đến nhường nào. Quan tâm em ra sao...”)
Vừa hát, Stephanie vừa búng tay và hiên ngang nhìn thẳng vào các giám khảo, trong khi họ đang rên rỉ thành tiếng. Cô hát trật nhịp, không theo tông nào cả, và mọi người trong trường quay đều thấy rõ, kể cả Stephanie.
Các giám khảo đề nghị cô dừng lại. Cô không hiểu.
“Cảm ơn, Stephanie,” Simon nói.
“Em nghĩ gì vậy?” Kara hỏi.
“Ghê quá. Nói thật, em không biết hát, em gái ạ.”
Trong đoạn phim trên YouTube phát đi phát lại câu chuyện đau lòng của cô, Stephanie thừa nhận cô hơi bị khớp trước mặt người cô hâm mộ là Victoria Beckham, hôm đó cũng có mặt làm giám khảo khách mời. Sau này, cô kể với một phóng viên rằng các nhà sản xuất chương trình đã bảo cô nói như thế khi lên hình. Victoria đề nghị mình sẽ quay lưng lại với hy vọng cô sinh viên này cảm thấy thoải mái hơn. Stephanie đồng ý với lời đề nghị này, mà theo tôi quan sát có cảm giác khiên cưỡng và kịch quá.
Cô sinh viên trẻ hát lại, hơi khập khững một chút, bài “Baby Love” của The Supremes. Lần này cũng không khá hơn. Sau khoảng một hai nhịp, Victoria quay mặt lại. Lần này Kara góp phần châm chọc nhiều hơn, khi bảo rằng cô hát hay hơn khi nhìn mặt Victoria. Thêm một tràng cười nữa bật ra từ các giám khảo.
“Tôi xin trân trọng tuyên bố,” Simon nói bằng giọng Anh chuẩn, dừng lại một chút để tạo kịch tính, “em có chất giọng kinh khủng quá.”
“Thật ạ?” Stephanie nói, hết sức ngạc nhiên nhưng vẫn giữ nụ cười ngập ngừng. Bao nhiêu chuẩn bị, bao nhiêu năm theo đuổi giấc mơ, kết cục là thế này sao?
“Yeah,” Randy tiếp lời một cách thông cảm. “Em không có chất giọng.”
“Em có thể xin thêm mấy phút để bớt căng thẳng không?” cô nài nỉ.
“Chúng ta cần vài năm, Stephanie ạ,” Simon nói, và các giám khảo lại đồng thanh cười.2
Tôi có dịp xem đoạn phim này trong phòng làm việc tại nhà nhiều năm sau khi sự kiện diễn ra, nhưng tôi vẫn nhận ra sự thật trong câu nói này.
ẢO TƯỞNG TÀI NĂNG
Câu chuyện sau đây là một điển hình. Nếu thường xem các chương trình tìm kiếm tài năng, hẳn bạn đã quen với tình huống này. Một cô gái đã chờ đợi suốt cả đời để quyết tâm rời bỏ gia đình đi tìm cơ hội tỏa sáng. Khi gặp dịp, cô bước lên ánh đèn sân khấu và hoàn toàn sụp đổ, tất cả diễn ra ngay trước mặt rất nhiều khán giả. Người trong cuộc thì đau đớn, nhưng cảnh này lại đem đến tiếng cười cho người xem, và ta đều từng có chút cảm giác tội lỗi khi cười cợt trên nỗi đau của người khác.
Tuy nhiên, điều đau đớn nhất là việc họ kiên quyết không nhìn nhận sự thật sau khi bị từ chối. Giám khảo nói với thí sinh rằng họ không có tài năng, và họ sẽ phản ứng ngay: “Tôi không hiểu... Tôi đã luyện tập... Tôi đã học thanh nhạc... Đây là giấc mơ cả đời của tôi... Nhiều người nói tôi hát hay....” Trong một chương trình, tôi chứng kiến một người đàn ông trung niên khi bị bỏ phiếu từ chối đã lớn tiếng phản đối giám khảo, ông tuyên bố đang học với biên đạo mỗi ngày ba giờ, và các giám khảo không có chuyên môn để đánh giá.
Ta đã quá quen với những câu chuyện kiểu này. Chúng được chiếu nhan nhản trong giờ vàng trên truyền hình. Nhưng tình huống ngược lại thì sao – khi một người vô danh bước lên sân khấu, và trước sự ngỡ ngàng của những người làm chuyên môn, khiến tất cả mọi người kinh ngạc?
Đó là trường hợp của Susan Boyle khi cô xuất hiện trong chương trình Britain’s Got Talent (Tìm kiếm tài năng của Anh) năm 2009. Một phụ nữ trung niên mang chất giọng đặc sệt của Scotland,
ngoại hình không bắt mắt, thái độ có chút bất cần, Susan không phải là người được các giám khảo chờ đợi. Nhưng khi cô kết thúc bài hát “I Dreamed a Dream” trong bộ phim Les Miserables (tạm dịch: Những người khốn khổ), cả khán phòng đã đứng lên vỗ tay. Làm thế nào chỉ cần 30 giây cô đã thuyết phục toàn bộ khán giả, trở thành hiện tượng nhạc pop quốc tế, trong khi những người khác lại không làm được? Điều khác biệt ở đây là gì?
Câu trả lời truyền thống, và cũng là lý do tồn tại của các chương trình truyền hình thực tế, đó là người này không có chút tài năng nào. Hãy quên đam mê và tìm một thứ bạn làm tốt. “Em rất thông minh,” Kara nói với Stephanie, cố gắng đưa cô gái tiếp cận thực tế một cách nhẹ nhàng và hướng cô đến con đường phù hợp hơn.3
Nhưng nếu vậy thì ta sẽ giải thích trường hợp của Hillary Scott như thế nào, khi cô này hai lần thử giọng tại American Idol đều thất bại ngay từ vòng loại, không vào được đến vòng trình diễn trước giám khảo, sau đó lại rất thành công với nhóm nhạc Lady Antebellum do cô thành lập? Lady Antebellum là một trong những nhóm nhạc pop nổi tiếng thế giới, từng nhận bảy giải Grammy trong sự nghiệp. Và trường hợp của ca sĩ nhạc pop Colbie Caillat thì sao, người cũng từng thất bại hai lần tại American Idol, thật buồn cười khi bài hát “Bubbly” cô hát tại đây sau này bán được hơn 6 triệu album và 10 triệu đĩa đơn?4 Nếu câu trả lời chỉ đơn giản là “bạn không đủ tài năng”, thì Scott và Caillat hẳn đã có lý do từ bỏ giấc mơ của mình. Nhưng họ đã không chấp nhận, và sự kiên trì đã mang lại phần thưởng – ít nhất là trong trường hợp này. Vậy hẳn phải có nhiều thứ hơn là tài năng.
Trong nhiều năm qua, các nhà nghiên cứu đã tranh luận rằng những gì ta từng xem là tài năng bẩm sinh, thực tế, chỉ đơn giản là kết quả của việc luyện tập. Tác giả cuốn sách Talent is overrated(tạm dịch: Tài năng bị thổi phồng), Geoff Colvin, đã viết, “Tài năng chẳng mang nghĩa như ta vẫn nghĩ, mà thật ra nó chẳng có ý nghĩa gì.”5 Ông dẫn chứng rất nhiều nghiên cứu trên các cá nhân thành công, vận động viên đẳng cấp thế giới, những người được xem là thần đồng biểu diễn, và cho rằng thành công của họ đều nhờ luyện tập. Nếu dẫn chứng chỉ ra những trường hợp hiếm
gặp thật sự là tài năng bẩm sinh, ông lập luận, họ đều phải theo đuổi chế độ luyện tập khắt khe. “Những kết quả này không chứng minh rằng tài năng không tồn tại,” ông viết. “Nhưng chúng cho thấy một suy luận thú vị rằng: Nếu thật sự ai đó có tài năng, nó cũng chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt/” Nói cách khác, không ai trở thành bậc thầy mà không luyện tập miệt mài. Do đó, sự xuất sắc là kết quả của luyện tập, không phải của tài năng.6
Ca sĩ Colbie Caillat từng hai lần nhận giải Grammy cũng thừa nhận điều này, cô cho rằng các giám khảo trong chương trình Idol hoàn toàn đúng khi từ chối cô: “Tôi rất nhát. Tôi rất run. Tôi không làm tốt. Tôi chưa sẵn sàng. Tôi thật mừng, khi thử giọng, họ đã nói không.”7 Bạn có để ý không? Cô cảm thấy mừng, thậm chí còn cảm ơn việc bị từ chối. Nó khiến cô phải cố gắng nhiều hơn và hiểu rằng mình chưa biểu diễn hết khả năng. Thất bại này đã giúp cô hoàn thiện mình.
Đâu là sự khác biệt giữa Stephanie Fisher và hai người chơi trong chương trình American Idol bị từ chối mà vẫn trở thành siêu sao? Nếu không phải tài năng thì là thứ gì? Luyện tập có phải là chiếc cầu nối đôi bờ, một bên là bị từ chối trong chương trình truyền hình thực tế với một bên là ngôi sao nhạc pop tương lai? Hay thật ra còn một câu hỏi ẩn sâu hơn mà ta phải đặt ra? Hẳn bản thân ta cũng từng biết có người đam mê vượt quá kỹ năng, và có người do thiếu cố gắng mà không vượt qua được chính mình. Ta có lời khuyên gì cho những người này? Ta có dám nhìn thẳng vào mắt họ mà nói, “Hãy cố gắng hơn nữa” không? Cách này có vẻ sai sai.
Chẳng phải Stephanie đã cố gắng đó sao? Hẳn rồi. Khó mà chối bỏ nỗ lực của cô: cô đã không bỏ cuộc sau bảy lần bị từ chối. Nhưng có thể vấn đề không phải là lượng thời gian luyện tập mà là kiểu luyện tập.
BIỆN MINH BẰNG NỖ LỰC
Cha mẹ đều khuyên ta phải cố gắng. “Việc con làm tốt hay không không quan trọng,” cha tôi thường nói thế khi đọc bảng điểm của tôi, “miễn là con đã làm hết sức.”
Tôi đã dành cả đời để lý giải cho sự thiếu xuất sắc bằng chính lời biện minh này: tôi đã làm hết sức. Đây cũng là câu cửa miệng mỗi
khi tôi gặp thất bại. “Tôi cũng đã cố rồi.” Ai còn dám đòi hỏi gì hơn? Tôi sử dụng lời biện minh bất cứ khi nào đứng trước thử thách vượt quá năng lực của mình, như chơi kèn saxophone chẳng hạn. Tôi cũng thử chơi môn kèn này trong sáu tháng rồi bất lực từ bỏ. Môn này khó quá, mà cũng có thể là do tôi không có mấy hứng thú. Dù nhìn bề ngoài có vẻ như tôi đã cố gắng hết sức nhưng thực tế không phải vậy. Tôi đang nhầm lẫn giữa năng lực với khả năng. Nhiều người trong chúng ta gặp vấn đề căn bản trong việc thấu hiểu năng lực của mình. Ta thường nghĩ mình đang vượt quá kỳ vọng của bản thân. Dù bằng chứng đã quá rõ ràng, ta vẫn khăng khăng với niềm tin vào Huyền thoại về Tài năng, rằng có người sinh ra đã được trời phú, rằng ta không thể vượt qua giới hạn hiện tại để đạt được thành tựu vĩ đại hơn những gì ta đang có. Khi ta làm thế nghĩa là ta đang tự lừa dối mình.
Tôi đã từ bỏ việc chơi saxophone mà chưa hề thúc đẩy bản thân vượt qua giới hạn. Tôi biết điều đó, vì sau này khi tôi bắt đầu chơi guitar, mọi việc cũng diễn ra y như thế. Sau sáu tháng “nỗ lực”, tôi muốn bỏ cuộc, nhưng lần này cha tôi không cho phép. Mỗi lần tôi mắc lỗi, cha tôi lại cấm túc không cho tôi tham gia bất cứ hoạt động nào, ngoại trừ chơi guitar. “Nếu con muốn nghe nhạc,” ông nói, “con phải tự chơi thôi.” Đúng là tôi đang bị phạt vì một lỗi lầm nào đó, nhưng đồng thời ông cũng buộc tôi phải học chơi guitar, và thực tế đã chứng minh rằng ông đúng. Chỉ sau vài tháng luyện tập, vượt qua khoảng thời gian sáu tháng tồi tệ đó, tôi đã chơi được những bài quen thuộc hay hơn nhiều so với tôi nghĩ.
Hẳn bạn cũng từng rơi vào trường hợp tương tự. Đã có lúc bạn thực hiện một điều mà bạn không tin rằng mình làm được, một điều gì đó khiến bạn phải ngạc nhiên về bản thân. Có thể nhờ thầy cô khuyến khích hay cha mẹ ép buộc hay trong một phút ngẫu hứng bạn tự động viên mình. Nhưng bạn đào sâu hơn một chút, tăng mức độ quyết liệt hơn một chút, và bỗng dưng đạt được thành tựu không tưởng – chỉ nhờ bạn đã thay đổi cách suy nghĩ. Lập trình sâu trong não bộ và cơ thể là tiềm lực to tát hơn nhiều so với những gì ta nhận thức được, chỉ cần niềm tin là ta có thể mở khóa nó.
Giáo sư tâm lý học Carol Dweck từng viết về chủ đề này, giải thích tại sao mỗi người lại phản ứng khác nhau trước sự từ chối, và
cho rằng sự khác biệt giữa người thành công và thất bại chỉ là tư duy.8
Theo Dweck, con người sẽ sở hữu một trong hai kiểu tư duy: tư duy cố định và tư duy phát triển. Người có tư duy cố định được sinh ra với những kỹ năng nhất định và không thể vượt ra khỏi những kỹ năng này. Với tư duy phát triển, tiềm năng là không giới hạn. Bạn luôn có thể làm tốt hơn. Với nhóm người này, mục tiêu họ hướng đến không phải là giỏi nhất thế giới mà là giỏi hơn chính bản thân mình ngày hôm qua. Bất kể tài năng bẩm sinh, mỗi người đều có thể tự hoàn thiện hơn.9
Khi cha bảo tôi phải luôn làm mọi việc tốt nhất, ông không đưa tôi vào tình thế gây thất vọng. Ông đang dạy tôi bài học quý giá về cuộc sống – rằng điều quan trọng là phải cố gắng chứ không dựa dẫm vào tài năng bẩm sinh. Tại sao? Vì bạn có khả năng lớn hơn nhiều so với những gì bạn nhận thức, và khi cố gắng, bạn sẽ học được nhiều điều mới mẻ nếu ép bản thân phải vượt qua giới hạn. Từ đó, bạn phát triển, và biết rằng hầu hết các kỹ năng không có sẵn từ khi lọt lòng, mà phải được tích lũy qua học tập và rèn luyện. Hãy đặt mình trong tư duy phát triển và quyết tâm luyện tập. Ngay cả thiên tài cũng không thể thành công nếu không có tư duy đúng đắn và nhiều năm khổ luyện.
KHÔNG CHỈ LÀ TƯ DUY
Stephanie Fisher có tư duy đúng đắn không? Cô ấy có tập trung không? Cô ấy có niềm tin không? Hay còn điều gì nữa mà cô ấy thiếu?
Cụm từ “luyện tập có chủ đích” được giới thiệu lần đầu tiên bởi K. Anders Ericsson, nhà tâm lý học người Thuỵ Điển tại Đại học Florida trong một nghiên cứu cho rằng chính sự luyện tập chứ không phải tài năng mới là nguồn cơn dẫn đến sự xuất sắc. Ông nói nhưng không phải luyện tập kiểu gì cũng được mà phải là kiểu luyện tập đặc biệt dẫn đến kết quả chuyên nghiệp.10
Trong thời đại chú trọng đến sự thoải mái, chúng ta đã bỏ qua một sự thật quan trọng: thoải mái không bao giờ mang đến sự xuất sắc. Để trở nên vĩ đại trong ngành nghề đã chọn, bạn cần luyện tập, nhưng không phải luyện tập kiểu gì cũng được – bạn phải chọn kiểu
luyện tập khiến bạn đau đớn, khiến bạn phải cố sức, và khiến bạn trưởng thành hơn. Kiểu luyện tập này được Ericsson gọi là “có chủ đích”, còn ta sẽ gọi nôm na đúng bản chất hơn là “đau đớn”, là khổ luyện. Nó có thể kéo dài cả 10 năm, hay 10 ngàn giờ, cũng vô tình tương đương với thời gian học việc trung bình. Nhưng sau đó luyện tập vẫn chưa dừng lại; thực tế, nó chỉ mới bắt đầu. Nói cách khác, không phải cứ đếm đủ 10 ngàn giờ là ngay lập tức bạn sẽ trở thành chuyên gia. Bạn phải luyện tập đúng cách.
Theo lời Daniel Coyle, tác giả cuốn sách The Talent Code (tạm dịch: Mật mã tài năng), kiểu luyện tập đúng là quá trình thực hiện các bài tập liên tục dẫn đến thất bại. Bạn sẽ thất bại liên tục cho đến khi thành công và học được không chỉ cách làm đúng, mà còn cả cách làm tốt nhất.11 Ông gọi đây là “luyện tập sâu”, và đó là lý do nếu chỉ làm cho đủ thời gian thì bạn sẽ không thể đi xa được. Để thành thạo một kỹ năng, trước hết bạn phải chọn được một bài tập; sau đó, cứ làm đi làm lại cho đến khi hành động này trở thành bản năng; và cuối cùng, hãy vượt qua thất bại, tập trung hơn nữa khi làm lại cho đến khi nào làm đúng.12
Hầu hết chúng ta đều nghĩ rằng chỉ cần bỏ thời gian là đủ để làm giỏi. Nếu dành đủ thời gian, bạn sẽ trở nên vĩ đại. Nhưng thực tế không phải vậy. Trong nghiên cứu của Ericsson, 10 ngàn giờ luyện tập là chuyện bình thường đối với các bậc thầy đẳng cấp thế giới, nhưng đây chưa phải là điểm chung duy nhất. Nói cho đúng, 10 ngàn giờ cũng chỉ là một cách miêu tả về kết quả xuất sắc chứ không phải là công thức cho bất cứ ai muốn đạt tới trình độ chuyên gia. Các bậc thầy đều tuân theo một kiểu luyện tập đặc biệt: Không chỉ quan tâm đến thời gian mà còn cả chất lượng công sức.
Kiểu luyện tập sâu này đã giúp đưa các vận động viên và nghệ sĩ đẳng cấp thế giới tiến xa nhất, vượt qua giới hạn năng lực của họ.13 Thấu hiểu được sự khác biệt giữa luyện tập thông thường và luyện tập phi thường cũng là thấu hiểu tại sao Stephanie Fisher vẫn cứ tiếp tục thất bại, và Colbie Caillat cuối cùng không còn thất bại nữa, cũng như tại sao việc theo đuổi tiếng gọi lại khó khăn đến vậy.
Ta dễ dàng tuân thủ việc luyện tập khi đó là một hoạt động khiến ta cảm thấy hứng thú, nhưng ta sẽ làm gì khi sự hào hứng không
còn và sức mạnh trong ta đã biến mất? Ta sẽ làm gì khi sự hào hứng đối với một lĩnh vực mới bắt đầu phai nhạt? Ta sẽ bỏ cuộc ư? Hay ta sẽ lầm lũi vượt qua đau đớn và từng bước tiến dần đến sự chuyên nghiệp? Đây là lúc nhận ra người chuyên nghiệp. Họ cũng nhận thấy lực cản như ta, nhưng họ xem đây là dấu hiệu cho thấy họ đang tiến gần đến mục tiêu. Họ đặt mình vào kỷ luật, và chủ động hướng đến những phần gian khổ nhất, trong khi đa số người khác lại chọn con đường từ bỏ. Ta quen gọi những người này là “thiên tài”, “thần đồng” mà chưa thấu hiểu hết công sức để đạt đến đỉnh vinh quang này của họ. Và thực tế là, những gì có trong con người họ biết đâu cũng đang nằm sẵn trong từng chúng ta.
Bạn đã từng thử làm một việc và hoàn toàn thất bại ngay lần đầu tiên chưa? Bạn còn nhớ lúc mình thất bại thảm hại đến nỗi không bao giờ muốn thử lại, không bao giờ muốn leo lên xe đạp lần nào nữa, hay không bao giờ dám hẹn hò với người khác phái hay không? Ta hiểu có những kỹ năng cần thời gian, và không ai trong chúng ta có thể làm được ngay một số việc mà không từng trải qua thất bại. Đau đớn chính là cuốn cẩm nang dành cho người sẵn lòng muốn học. Nhưng liệu ta có áp dụng bài học này vào chính công việc của mình không? Thường thì không.
Khi còn nhỏ, ta can đảm và không sợ thất bại, nhưng khi lớn lên, ta đã học được sự kiềm chế. Phản xạ xấu hổ lại trỗi dậy. Ngại thử sức với cái mới, ta chấp nhận chỉ đạt mức “tốt” trong khi đáng lẽ ta có thể trở nên “vĩ đại”. Tại sao ta lại chọn thế? Vì nó dễ. Ép buộc bản thân vượt qua kỳ vọng, vượt qua điều tầm thường, là việc làm khó khăn và đôi khi không giống ai. Nhưng đó lại là một phần tất yếu trong quá trình này.
Ta cần làm gì để xây dựng thói quen giúp đạt được kết quả xuất sắc đây? Có cách nào để ta không chỉ tìm ra tiếng gọi mà còn làm chủ nó không? Theo nghiên cứu của Ericsson và cộng sự, luyện tập có chủ đích đặt ra ba yêu cầu. Thứ nhất, luyện tập trong bối cảnh: cần có thời gian, nỗ lực của cá nhân cũng như của người dạy, tài liệu, và các thiết bị giảng dạy cần thiết.14
Thứ hai, hoạt động này về bản chất không tạo động lực. Đó phải là một việc bình thường bạn không thích làm.15 Hãy thử nghĩ rằng:
nếu bài luyện tập thú vị, nghĩa là bạn chưa phát triển. Cơ bắp phát triển khi bị co kéo tạo ra những vết giãn nhỏ khiến nó phải căng ra. Kỹ năng và kiến thức cũng vậy. Đó là lý do tại sao ít người chịu được quá trình luyện tập đau đớn. Nhưng như Tom Hanks đã nói trong bộ phim A League of Their Own (tạm dịch: Giải bóng chày nữ), “Điều này bắt buộc phải khó. Nếu nó không khó, thì ai cũng làm được. Nhờ thế mà chúng ta mới trở nên vĩ đại.”16
Thứ ba, hoạt động không thể được thực hiện suốt một thời gian dài mà không dẫn đến kiệt sức. Bạn phải đưa bản thân vượt ra khỏi giới hạn, vượt qua những gì bạn nghĩ mình làm được. Nếu chưa ép buộc bản thân đến mức kiệt sức, hẳn là bạn chưa cố gắng tối đa.17
Thử so sánh mô hình luyện tập này với thói quen chạy bộ của tôi, mỗi tuần tôi chỉ làm được vài lần nếu may mắn. Việc chạy bộ vui vẻ, dễ dàng, giúp tôi giữ gìn sức khỏe, nhưng nó có đưa tôi đến trình độ đẳng cấp thế giới không? Chắc là khó. Tôi chưa luyện tập đủ thời gian và đúng kiểu. Tôi chỉ chạy khi nào tiện, không bao giờ ép mình quá sức. Tại sao tôi không nỗ lực tập thể dục hơn nữa? Vì tôi không muốn. Đây là hoạt động tôi làm cho vui, không phải để đạt được trình độ xuất sắc.
Đây là sự phân biệt cần thiết khi cân nhắc về công việc của cuộc đời. Đa số mọi người sẽ không tiếp tục làm một việc mà họ không đam mê, nhất là khi mọi thứ trở nên khó khăn. Kiên định với một hoạt động trong quá trình luyện tập đau đớn cũng là một cách tuyệt vời để xác định hướng đi của bạn trong đời. Nếu có thể làm một việc ngay cả khi việc đó không vui, ngay cả khi bạn đã kiệt sức, chán nản, chỉ muốn bỏ cuộc, thì hẳn đó chính là tiếng gọi của bạn.
Tôi không hiểu tại sao nhiều người lại nghĩ tiếng gọi là công việc dễ dàng. Dễ dàng và vĩ đại không bao giờ song hành cùng nhau. Theo đuổi những việc khó khăn đòi hỏi sự kiên định hiếm thấy. Bạn phải rất yêu công việc mới có thể kiên trì vượt qua những thời khắc khó khăn, những giai đoạn đau đớn, khi bạn chỉ muốn từ bỏ. Vậy, nếu thiếu đam mê, bạn phải làm thế nào? Điều này là không thể. Bạn phải yêu công việc. Chỉ khi tìm được một việc có thể làm đến kiệt sức, dù căm ghét nó nhưng bạn vẫn quay lại vào ngày mai, thì lúc đó bạn mới tìm được một công việc xứng đáng.
Nếu có thể yêu những gì mình làm, ngay cả khi nó làm bạn đau, thì có thể bạn đã tìm được một công việc không đơn thuần là thú vui giết thời gian. Nếu chưa bao giờ tự tạo áp lực, chưa bao giờ tự đặt ra thử thách cho các kỹ năng, có nghĩa là bạn chưa tìm ra công việc của cuộc đời thực thụ. Đôi khi, cách duy nhất để xác định khác biệt giữa thú vui và thiên hướng chính là việc bạn buộc mình phải trải qua giai đoạn luyện tập đầy đau đớn kia.
THẦN ĐỒNG KHÔNG PHẢI LÀ...
Khi nhắc đến cái tên Martyn Chamberlin, từ duy nhất xuất hiện trong đầu tôi là “thần đồng”. Một anh chàng 21 tuổi làm nghề thiết kế web, điều hành công ty riêng khi còn là sinh viên năm hai đại học, thế hệ kế cận của những công ty như Microsoft hay Google. Nếu nhìn vào thành công đột phá của anh, bạn có thể nghĩ anh là phiên bản thời trẻ của Bill Gates. Có thể bạn cũng như tôi, cho rằng anh đã được làm quen với máy tính từ khi còn rất nhỏ. Nếu vậy, bạn đã nhầm.
Sự thật là Martyn chỉ biết đến máy tính khi sử dụng chiếc máy tính gia đình để làm bài tập về nhà năm anh 16 tuổi. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, anh đã học Photoshop, tự học HTML và CSS, sau đó, bắt đầu cung cấp dịch vụ thiết kế web có tính phí. Trong vòng chưa đầy hai năm, anh đã lập một trang blog, khởi nghiệp, và bắt đầu thu hút khách hàng để kiếm tiền trang trải học phí đại học. Bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng trước khi trở thành chuyên viên lập trình web, Martyn là một nghệ sĩ chưa từng nghĩ sẽ có ngày ngồi chăm chăm trước màn hình máy tính.18
Câu chuyện của Martyn không phải là câu chuyện về sự chuẩn bị cả đời cho một khoảnh khắc nổi bật, mà là minh chứng cho sức mạnh của tia lửa đam mê bùng cháy vào đúng thời điểm, đồng thời cho thấy sự luyện tập có thể vẫn diễn ra mà ta không hề biết.
Martyn là một thanh niên tự học tại nhà, trong một gia đình mục sư dòng Baptist, không có nhiều cơ hội được tiếp xúc với chiếc máy tính duy nhất trong nhà. Thời gian rảnh của anh chủ yếu là vẽ và chơi guitar. Khi anh trai William của anh rời quê nhà ở Bixby, Oklahoma để theo học Đại học Tulsa vào năm 2008, anh được thừa hưởng chiếc máy tính của gia đình. “Trước đó,” Martyn kể lại trong
một cuộc điện thoại, “tôi hiếm khi được đụng tới chiếc máy tính vì anh tôi lúc nào cũng ôm lấy nó.” Ngay trước khi William đi học, Martyn nói với anh trai rằng anh muốn lập trang web cho người ta, nên anh trai William đã đưa cho anh một cuốn sách về chủ đề này.
Khi tôi hỏi anh có ý nghĩ lập trang web từ khi nào, anh trả lời là do bắt chước anh trai của mình. “Tôi nghĩ là do sự ganh đua giữa các anh em trai,” Martyn nói. “William thông minh, đi học đại học trong khi tôi chỉ là một nghệ sĩ nghèo bay bổng. Tôi nhận ra mình phải tạo được danh tiếng riêng nếu muốn thu hút những người mà tôi muốn chơi chung. Ngoài ra, tôi cũng thích thiết kế.” Tuy nhiên, anh vẫn chưa rõ về định hướng tương lai.
Năm 18 tuổi, Martyn đi từ Oklahoma đến California để tham gia một trại sáng tác tranh, và bức tranh sơn dầu khổ 29 x 36 cm của anh được giới thiệu trang trọng tại phòng tranh Zantman ở Carmel. Lúc đó, anh nghĩ đây là cơ hội lớn của mình, rằng đã đến lúc tập trung vào sự nghiệp nghệ thuật. Nhưng khi bắt đầu đăng tác phẩm lên mạng, anh không chỉ mở khóa cho một đam mê mới mà còn nhìn ra cơ hội cho một kỹ năng mới.
Thoạt đầu, thiết kế web chỉ là thú vui của anh, nhưng sau đó nó dần phát triển thành một thứ lớn hơn. Trang web đầu tay của anh là bản sao của trang BubbleUnder.com, làm theo hướng dẫn từ cuốn sách mà anh trai để lại, và chưa bao giờ được anh công bố. Dự án thứ hai chính là trang web riêng của bản thân, dùng để giới thiệu các tác phẩm của anh. Trang web thứ ba được anh thiết kế cho một khách hàng người Úc, dù ông này sau đó không dùng đến, nhưng vẫn trả cho Martyn 800 đô-la. Đây là bản hợp đồng đầu tiên của anh. “Nó cho tôi thấy người ta sẵn sàng trả tiền cho kỹ năng này của tôi,” anh nhớ lại.
Khi mở cửa đón khách đến xem các tác phẩm của mình, anh để ý thấy khách truy cập trang web tỏ ra quan tâm đến dịch vụ thiết kế nhiều hơn là các bức tranh do anh vẽ. Sau khi hoàn thành trang web đầu tiên, anh cảm thấy vô cùng hứng khởi. “Nó khiến tôi cảm thấy như mình vừa làm được một việc vô cùng quan trọng,” anh nói. Không khác gì cảm giác lúc anh vừa hoàn tất một bức tranh. “Có cái gì đó lóe lên trong tôi.”
Giờ đây, sau vài năm, Martyn đang điều hành công ty thiết kế web riêng, kiếm tiền đóng học phí. Mỗi lần bắt tay vào thiết kế web, anh lại vận dụng những kỹ năng đã được rèn luyện từ thời học vẽ. Các khái niệm như màu sắc, cấu trúc, tam giác vàng giúp anh tạo ra trang web đẹp hơn cho khách hàng. Hẳn anh chưa bao giờ nghĩ rằng thời gian luyện vẽ trước đây chính là giai đoạn chuẩn bị cho anh tiến tới công việc không liên quan đến nghệ thuật, nếu xét theo nghĩa thông thường.
Vậy điều gì đã dẫn dắt một anh chàng mơ ước làm họa sĩ trở thành chuyên viên lập trình web? Làm thế nào một người từ nhỏ không biết gì về máy tính lại khởi nghiệp thiết kế web? Làm thế nào anh có thể tích lũy những kỹ năng này nhanh đến vậy? Người ta có thể nghĩ đó là “phước lành trời ban” nhưng chúng ta đều biết, tiếng gọi đâu có đơn giản. Câu trả lời phức tạp hơn, đúng thực tế hơn, là ngay cả trước khi biết mình sẽ làm gì, Martyn đã luyện tập.
Bài học rút ra là trước khi một người sẵn sàng đi theo tiếng gọi, cuộc sống đã chuẩn bị cho tương lai của họ bằng những cuộc tiếp xúc tình cờ và những trải nghiệm thuận lợi. Đó là vai trò của William. Anh ta đã vô tình hướng dẫn cho cậu em kỹ năng đóng vai trò chủ chốt trong thành công của sự nghiệp sau này. Không ai trong hai anh em hiểu được tầm quan trọng của những việc đã diễn ra, nhưng rõ ràng cả hai đều tham gia trong quá trình học việc từ xa, khi người anh dẫn dắt, giúp đỡ người em tìm định hướng.
Nhưng Martyn không dừng lại ở việc học theo anh trai. Anh tiếp nhận mọi tài liệu trong tay, đọc mọi thứ tìm được về đề tài này – blog, bài báo, sách, v.v.. Mục tiêu của anh là không chỉ làm tốt, mà phải làm thật tuyệt. Khi thiết kế web, nhất là trong giai đoạn đầu, nếu gặp vấn đề không thể giải quyết, anh sẽ lên mạng dò tìm để mày mò vượt qua. “Tôi thường nói đùa, ‘Tôi không phải là lập trình viên giỏi,’ anh nói. ‘Tôi chỉ giỏi dùng Google mà thôi.’ Nói đùa mà đúng nhiều đấy chứ.”
Khiêm tốn thì nói vậy, nhưng khi Martyn thật sự nghiêm túc, anh đã tích lũy được kỹ năng mà không ai nghĩ đến. Anh làm điều đó chỉ trong vài năm. Anh không học những kiến thức vô bổ hay trả hàng ngàn đô-la cho những khóa học chỉ dạy toàn những thông tin cũ rích
vô bổ. Anh vận dụng kinh nghiệm sẵn có, bắt tay vào làm và vừa làm vừa học. Anh luyện tập.
Martyn Chamberlin tìm được tiếng gọi một cách tình cờ, ít nhất là lúc đầu. Người anh trao cho cậu cuốn sách là chìa khóa mở ra một kỹ năng mà anh không biết mình đang có một thế giới cơ hội mới. Anh học theo những gì người khác đã làm, nhận ra tầm nhìn cho tương lai và dành nhiều giờ mỗi ngày luyện tập hướng đến mục tiêu. Không hẳn anh đã biết mình muốn thiết kế trang web từ trước. Chẳng qua, anh yêu thích nghệ thuật và vô tình tìm ra một cách khác để vận dụng đam mê này mà chính anh cũng phải ngạc nhiên. Khi bắt tay làm thử, anh phát hiện mình có khiếu thiết kế trang web và anh cũng thích công việc này.
Luyện tập thực sự không chỉ là học kỹ năng mới; mà bạn phải dành tâm sức và thời gian để phân tích xem đây có phải là sự nghiệp định sẵn cho bạn hay không. Sự khó khăn trong quá trình luyện tập sẽ giúp bạn biết được công việc có thực sự phù hợp với bạn không. Nếu tìm được công việc như ý, bạn đang bước thêm một bước trên con đường đúng hướng.
TIA SÁNG LÓE LÊN
Phải chăng ta đang hạ thấp vai trò của may mắn? Chẳng phải có nhiều người thành công chỉ nhờ may mắn lớn sao? Dĩ nhiên ta không thể loại bỏ sự tồn tại của những cơ may đặc biệt trong nhiều trường hợp. Ý nghĩ cho rằng mọi người đều có thể trở thành bất kể ai như mong muốn không phải lúc nào cũng đúng. Thành công không hoàn toàn là do chăm chỉ; nó còn lệ thuộc vào nhiều yếu tố đôi khi nằm ngoài tầm kiểm soát của ta. Không gian và thời gian bạn chào đời cũng có tác động đến công việc bạn làm.
Theo nghiên cứu của Ericsson, sự vĩ đại không tự nhiên xuất hiện. Kỹ năng chỉ có được sau những luyện tập miệt mài, sau những lần thử và sai liên tục cho đến khi ta làm chủ được nó. Không ai tự dưng đặt chân vào trường quay của American Idol và khiến giám khảo sửng sốt mà không trải qua luyện tập, và cũng không ai tự dưng ngồi trước chiếc máy tính mà viết được chương trình ngay. Ta cần luyện tập rất nhiều chỉ để làm tốt.
Tuy nhiên, vẫn có những lúc, luyện tập thôi chưa đủ, như trường hợp của Stephanie Fisher với bảy lần thử giọng thất bại. Và cũng có
trường hợp đột phá, như Martyn Chamberlin, nắm bắt được kỹ năng ngay khi làm thử lần đầu, như thể anh đã có kỹ năng này từ lúc mới sinh ra đời.
Mà có lẽ đúng là thế thật.
Qua nhiều nghiên cứu khoa học, ta biết rằng dù loài người ngày nay có năng lực cao hơn so với tổ tiên cách đây 100 năm, có những kỹ năng đặc biệt mà dù luyện tập bao lâu cũng không vượt qua được.19 Đó là lý do ta thấy các cuộc thi marathon thường do các vận động viên Kenya chiếm lĩnh, hay học sinh châu Á thường giỏi toán hơn. Cơ hội góp phần tạo ra thành công, nhưng dường như có những việc ta làm được và có những việc ta không bao giờ có thể.
Làm thế nào ta tìm được những việc này? Điều gì khiến những đứa trẻ muốn trở thành vận động viên thay vì nhạc sĩ? Điều gì khiến một họa sĩ lại muốn học lập trình? Ta có thể học được nhiều điều từ câu chuyện của những vận động viên và nhạc sĩ nổi tiếng, từ đó hiểu rõ hơn cách tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng thông qua các nghiên cứu, nhưng khoa học vẫn không thể chứng minh – và đến nay ta vẫn chưa biết rõ – điều gì khiến ta muốn bắt tay vào luyện tập ở bước đầu tiên. Điều gì thúc đẩy ta bỏ rất nhiều thời gian công sức để luyện tập?
***
Động lực đến từ đâu? “Một tia sáng lóe lên,” Daniel Coyle kể với tôi trong một cuộc phỏng vấn. “Bạn nhìn thấy tương lai của mình. Bạn nhìn thấy con người bạn muốn trở thành... Quá trình này còn nhiều kỳ bí.”20
Cậu con trai Aiden của tôi khi lần đầu tiên được xem bộ phim hoạt hình Cars (Vương quốc xe hơi) của hãng Pixar đã dán chặt mắt vào màn hình. Aiden cũng từng xem phim và hoạt hình trước đó, nhưng chưa có bộ phim nào thu hút được sự chú ý của thằng bé như thế. Bộ phim này rất khác. Nó chỉ mới một tuổi, nhưng đã ngồi xem bộ phim từ đầu đến cuối không chán, một điều chưa từng thấy. Giờ đây, Aiden sở hữu đủ mọi vật dụng liên quan đến bộ phim. Chỉ cần nhìn thấy chiếc xe đua chạy xẹt qua màn hình là mắt nó sáng lên – và từ đó đến nay, thằng bé vẫn chưa thôi đam mê.
Phải chăng Chúa đã ban tặng cho Aiden một điểm gì đó khác biệt trong tâm hồn khiến thằng bé yêu bộ phim này? Tôi không biết. Nhưng đó không phải là ý tôi muốn nói. Điều tôi muốn ám chỉ thông qua việc kể câu chuyện thằng bé yêu thích bộ phim hoạt hình về xe hơi là: Aiden có tính cách riêng. Với cá tính này, nó sẽ có cuộc đời riêng, độc lập với những bối cảnh và môi trường bên ngoài. Đúng, vợ chồng tôi có thể tác động, bạn bè thằng bé sẽ có ảnh hưởng, bộ gen sẽ quyết định giới hạn của một số năng lực nhất định, nhưng đó không phải là điểm kết thúc tương lai của thằng bé. Đó chỉ là điểm khởi đầu. Sẽ luôn có những khoảnh khắc lóe lên soi chiếu rõ ràng thằng bé là ai và nó sẽ làm được gì.
Garrett Rush-Miller là minh họa tuyệt vời cho ý này. Lúc năm tuổi, cậu bị khiếm thị và không thể đi lại, các bác sĩ không dám chắc cậu sẽ sống được bao lâu. Thế nhưng, lúc cậu chạm vào chiếc xe đạp ba bánh, mọi thứ đã thay đổi. Cậu “bừng sáng”, như lời kể của cha cậu. Đó là tia lửa lóe lên cho riêng cậu.
Tài năng bẩm sinh, hay thậm chí không có tài năng bẩm sinh, chỉ là một mặt của vấn đề. Luyện tập cũng vậy. Có những kỹ năng đến với ta một cách tự nhiên, nhưng cũng có những kỹ năng phải dày công luyện tập. Ta có thể thử làm nhiều thứ, có những thứ ta làm tốt hơn người khác, và nhiều khi thất bại không phải là thách thức để vượt qua mà là dấu hiệu cho ta biết không nên tiếp tục theo đuổi. Nhưng điều ta cần có trước khi bắt đầu là một tia lửa lóe lên, một khoảnh khắc truyền cảm hứng khiến chính ta cũng bừng sáng. Điều này hoàn toàn khác với may mắn.
Jim Collins đã viết trong cuốn sách Great by choice (Vĩ đại do lựa chọn), Bill Gates không phải là cậu học sinh duy nhất trong thập niên 1970 được tiếp xúc với máy tính. Và Tiger Woods cũng không phải là cậu bé duy nhất có cha thường xuyên chơi golf. Vậy nhờ đâu hai người này đã thành công vượt bậc khi cơ hội được chia đều cho tất cả mọi người? Họ đã nắm bắt được cơ hội, và tận dụng cơ hội đó để làm được điều phi thường. “Vậy may hay xui,” Collins viết, “đến với tất cả mọi người, cho dù ta thích hay không.” Nhưng khi nhìn vào những người đạt được thành công phi thường, ta thấy “họ nhận
ra vận may, nắm bắt nó và biết cách khai thác tối đa vận may của mình.”21
Như vậy, thành công không đến từ may mắn, mà từ cách ta khai thác may mắn này. Cơ hội luôn ở đó, nhưng câu hỏi đặt ra là ta sẽ làm gì khi cơ hội xuất hiện? Người thành đạt cũng chỉ “may mắn” như người không thành đạt. Điều khác biệt là họ đã tạo ra được những điều vĩ đại từ khoảnh khắc may mắn đó trong khi cả thế giới chỉ ngồi nhìn, chờ đợi lần may mắn tiếp theo.
Từ góc nhìn này, chúng ta có thể thấy ai cũng có cơ hội – không nhất thiết là cơ hội trở thành bất kỳ thứ gì ta muốn, mà trở thành con người mà số mệnh đã định sẵn cho ta. Người ta thường gán thành công đi liền với may mắn, nhất là khi thành công đó là của người khác, trong khi họ không nhận thấy bản thân đang sống trong thế giới đầy cơ hội và ta có thể làm được điều gì đó ý nghĩa với những cơ hội được trao. Luyện tập là bài trắc nghiệm cho quyết tâm của bạn; luyện tập giúp bạn rèn giũa kỹ năng sau khi tia lửa kia đã tắt. Bạn sẽ quyết tâm theo đuổi con đường sự nghiệp này, hay sẽ từ bỏ nó khi công việc trở nên quá khó?
Mục tiêu cuối cùng của việc luyện tập là đạt đến một trạng thái mà K. Anders Ericsson gọi là “kết quả xuất sắc”, khi ta “thoát ra khỏi kiến thức nhận được từ người thầy để tạo ra đóng góp đột phá mang dấu ấn cá nhân trong lĩnh vực họ đã học.”22 Ai trong chúng ta cũng muốn làm điều mà mình cảm thấy tài giỏi, điều mà thế giới công nhận, nhưng mục đích của luyện tập không phải để tích lũy kỹ năng. Luyện tập là để đóng góp cho thế giới. Do đó, trên con đường theo đuổi tiếng gọi, ta không nên hỏi đây có phải là điều ta thành thạo không, mà nên hỏi đây có phải là điều đáng làm hay không. Ta cần hơn cả sự xuất sắc để thỏa mãn mong ước sâu thẳm trong tâm hồn.
Điều này dẫn đến câu hỏi: Vậy thì, có khi nào ta đạt được thành công trong lĩnh vực sai lầm không?
Có chứ.
CÂU CHUYỆN KỲ LẠ VỀ WILLIAM HUNG
Nếu ta tìm kiếm trên Google cụm từ “những người bị từ chối tại American Idol,” ngay lập tức bạn sẽ truy xuất được một danh sách
những cái tên làm trò cười sống mãi trong thế giới mạng. Đâu đó trong danh sách này dĩ nhiên có tên Stephanie Fisher, cô sinh viên kỳ quặc đã tự biến mình thành trò cười trước mặt Victoria Beckham. Nhưng rất lâu trước khi Stephanie có dịp đứng trên sân khấu lần thứ bảy năm 2010, William Hung đã xuất hiện trong mùa ba với bài thử giọng “She Bangs” của Ricky Martin.
“Tôi muốn kiếm sống bằng nghề ca hát,” anh chàng nói trước ống kính ngay trước khi thể hiện bài hát trước các giám khảo. Một anh chàng cao khoảng 1m65, mặc chiếc sơ mi xanh in hình những chiếc giày gài tận chân cổ, hàm răng hơi hô, William không có dáng dấp gì của một người phù hợp với ánh đèn sân khấu. Cũng tương tự như Stephanie, anh cũng không thuyết phục được các giám khảo, họ phải cố gắng che giấu tiếng cười khi anh hát trật nhịp lạc tông.
“Em không hát được, cũng không nhảy được, em muốn tôi nói gì đây?” Simon hỏi.
“Em đã làm hết sức mình, em không có gì hối tiếc cả,” William trả lời, một câu trả lời hoàn toàn trái ngược với những gì giám khảo đã quen nghe trong những tình huống tương tự. Sau đó, anh còn tự hào nói thêm: “Thật ra em chưa hề được đào tạo gì về hát và nhảy.”
Khi đó Simon trả lời, “Chưa à? Thật ngạc nhiên hết sức.”23 Cuối cùng, phần biểu diễn không thành công đã khiến William phải ra về như bao người khác. Nhưng một điều bất ngờ đã xảy ra sau đó. Trước khi hiện tượng “lan nhanh như virus” trở nên phổ biến như hiện nay, đoạn video thử giọng của William Hung đã thu hút được hàng ngàn, rồi hàng triệu lượt xem trên YouTube. Nhưng người ta không cười cợt anh mà hò reo chúc mừng. Một người hâm mộ đã lập riêng một trang web để tôn vinh anh, và chỉ trong tuần đầu tiên đã có hơn 4 triệu lượt truy cập. Trong một tháng, con số này vượt quá 8 triệu người.
William bắt đầu nhận được những e-mail cảm ơn anh vì tấm gương can đảm, khiến anh chàng phải tự hỏi liệu anh có được một cơ hội nghề nghiệp nào từ sự nổi tiếng bất ngờ này không. Và đó cũng là lúc anh được mời ghi âm album đầu tiên.
Vào thời điểm thử giọng tại American Idol, William đang học chuyên ngành xây dựng tại Đại học California, Berkeley. Sau đó, anh chiếm được trái tim của người hâm mộ khắp nơi trên thế giới, thu hút sự chú ý của giới truyền thông. Koch Entertainment mời anh ký hợp đồng ra album đầu tiên,Inspiration (tạm dịch: Cảm hứng), bao gồm những bài hát quen thuộc do anh trình bày lại, bán hơn 200 nghìn bản, và thêm hai album tiếp theo không thành công lắm.
Năm 2004, William nghỉ học để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc, xuất hiện trong các chương trình giải trí của David Letterman, Ellen DeGeneres và Howard Stern. Anh còn quay lại làm khách mời biểu diễn tại American Idol, chương trình đã từ chối anh cách đó vài tháng. Đây có thể được coi là sự trả thù ngọt ngào. Anh đã biến thất bại thành thắng lợi, và những năm tiếp theo, anh đi biểu diễn khắp thế giới, sống bằng sự nổi tiếng đến từ một đoạn video trên YouTube.
Dù thành công, nhưng sự nghiệp của William Hung cũng gây nhiều tranh cãi. Có người chỉ trích sự nổi tiếng này, cho rằng nó đang củng cố thêm định kiến về người châu Á, thúc đẩy sự phân biệt chủng tộc, vì họ cho rằng anh không có tài năng trong âm nhạc. Nhiều người khác lại ủng hộ anh. Họ thích sự can đảm của anh. Tuy nhiên, những chỉ trích này có vẻ không ảnh hưởng gì đến anh chàng William luôn suy nghĩ tích cực, vì anh biết câu chuyện của mình có ý nghĩa rất lớn đối với những người yêu quý ủng hộ anh. Anh đang sống đúng với ước mơ của mình và có dịp chia sẻ nó với cả thế giới.
Năm 2011, giấc mơ này tạm gác lại khi William chấm dứt sự nghiệp ca hát và chọn trở thành kỹ thuật viên phân tích tội phạm.24 Phải chăng anh đã từ bỏ ước mơ của mình? Chẳng phải hàng triệu người hâm mộ kia là minh chứng cho thấy anh đã tìm được tiếng gọi, rằng âm nhạc chính là cuộc sống của anh? Cũng không hẳn. Trong một cuộc phỏng vấn trước đó, anh nói: “Tôi có thể làm anh thất vọng nếu thành thật, nhưng tôi hy vọng một ngày nào đó mình sẽ trở thành giáo viên dạy toán.” Cũng trong cuộc phỏng vấn này, anh chia sẻ tình yêu của mình dành cho định lý Pytago và nhà toán học yêu thích của anh là Euclid.25
Đôi khi bạn không mất nhiều thời gian để tìm được công việc của cuộc đời. Tôi thấy gương mặt William bừng sáng khi nói về toán, tôi không ngạc nhiên khi anh chọn trở thành nhà phân tích, hằng ngày chịu trách nhiệm tính toán xác xuất phạm tội.26 Trong cuộc phỏng vấn trước đó, anh đã thể hiện phần nào đam mê đích thực của mình, khi nói rằng công việc kỹ sư “đòi hỏi cam kết cao hơn cả âm nhạc.”27
Một người thốt lên câu này có phải là người được sinh ra để làm ca sĩ không?
“Đam mê của tôi vẫn luôn là toán học,” anh nói với phóng viên sau gần 10 năm nổi tiếng. “Tôi chỉ đi đường vòng một chút thôi.”28 Dù chọn đường vòng xa hơn để tiến tới tiếng gọi đích thực, nhưng William đã học được tính kiên trì và quyết tâm theo đuổi đam mê, bất chấp lời ra tiếng vào của mọi người. Trong một bài diễn văn phát biểu tại cuộc họp mặt các diễn giả Toastmaster****, anh nói: “Khi bạn nhìn thấy một chút hy vọng, cửa sẽ mở... Đừng bao giờ bỏ cuộc, vì tất cả những gì bạn cần chỉ là một chút hy vọng thôi.”29 **** Toastmaster: Là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập với mục đích tạo ra môi trường giúp mọi người phát huy khả năng và thoải mái hơn khi phát biểu trước đám đông. (BTV) Nếu xem những đoạn video anh kể lại câu chuyện về cuộc đời mình trên YouTube, bạn có thể hiểu tại sao nhiều người lại hâm mộ anh đến vậy. Anh biết rõ sự nổi tiếng của mình là do châm biếm. Anh biết mình không hát hay như Ricky Martin và biết mình là người nhảy rất dị, nhưng điều đó không ngăn anh thử sức. Anh yêu âm nhạc, thế thôi. Và tôi nghĩ, chính điều này đã khiến chúng ta yêu mến William Hung. Anh là một người thiệt thòi. Vì thế, dù được tung hô, nhưng danh tiếng và sự giàu sang vẫn không đủ sức giữ chân anh. Đó cũng là một bài học dành cho chúng ta.
Thành công là quá trình kiên trì vượt qua các khó khăn, nhưng đồng thời thành công cũng là quá trình thấu hiểu bản thân. William hẳn đã có thể đưa thêm vào bài diễn thuyết đầy cảm hứng trước các diễn giả Toastmaster rằng có lúc, bạn cũng mở ra và bước vào nhầm cửa. Bạn áp dụng sai các nguyên lý về luyện tập và kết quả là thành công sai hướng, hay phát hiện ra sự nghiệp bạn đang có thật
ra chỉ là cái bóng của niềm đam mê, của tiếng gọi đích thực. Bạn phải coi quá trình này như một hành trình, như cách Martyn Chamberlin phát hiện ra trong quá trình trở thành họa sĩ của mình. Dù đam mê học vẽ, nhưng đó không phải là đích đến mà chỉ là bước khởi đầu trong hành trình của anh. Trong trường hợp này, quá trình học vẽ đã mở ra trước mắt anh cánh cửa đến với một kỹ năng khác mà hẳn anh đã không có dịp tìm hiểu nếu không có quá trình học hỏi trước đó.
Trong bất cứ nghề nghiệp nào, hẳn cũng có lúc bạn nhận ra con đường đang đi không dẫn bạn đến nơi cần đến. Mọi sự chuẩn bị và luyện tập đã góp phần khiến bạn đạt được sai mục tiêu. Những lúc như thế, bạn có thể cảm thấy bế tắc. Bạn phải làm gì đây? Hãy hành động như William Hung. Không bao giờ là quá trễ để thay đổi và rẽ sang một hướng khác để đến với tiếng gọi đích thực của mình.
Phần II Hành Động
Chương 4
Xây cầu
Cú nhảy không phải là cú nhảy
***
Khí hậu là thứ ta kỳ vọng.
Thời tiết là thứ ta nhận được.
T
— Mark Twain
iếng gọi đến với bạn không phải trong giây phút khai sáng mà thông qua một loạt những quyết định chủ động. Đây không phải là cú nhảy vọt đột phá mà là một quá trình xây cầu. Mẹ của Myles Carlson vẫn nhớ cái ngày khó khăn nhất trong đời bà khi đưa cậu con trai bé bỏng đến ngôi trường nói tiếng Pháp tại miền trung Đông Phi. “Tôi cảm giác như mình đang ném con ra giữa biển mà thậm chí còn chẳng có áo phao,” Kristy Carlson nhớ lại. “Buộc một cậu bé mới năm tuổi phải học một ngôn ngữ mới quả thật quá sức!”1 Nhưng Myles không phải là người duy nhất phải điều chỉnh cuộc sống để hòa nhập.
Vài năm trước, Ben và Kristy Carlson biết họ cần thay đổi. Kết quả là “một hành trình khám phá”, như cách gọi của họ, đã được thực hiện để đi tìm bản ngã của chính mình. Đối với Kristy là theo đuổi nhiếp ảnh, và đối với Ben là học trồng cà phê. Khi họ quyết định dời Nam Phi, nơi đã theo học khóa phát triển lãnh đạo ở một tổ chức Công giáo để trở thành doanh nhân xã hội tại Burundi, gia đình Carlson không biết nhiều về những điều sẽ chào đón họ. Họ muốn ảnh hưởng tích cực đến thế giới nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Chỉ khi đặt chân đến Đông Phi, họ mới phần nào hiểu được kỳ vọng và cảm nhận được tác động lớn lao của mình.
Trước khi dọn đến đây, cả gia đình họ chưa từng tiếp xúc với tiếng Pháp hay văn hóa vùng Burundi, hai vấn đề có tác động rất lớn đến họ trong quá trình chuyển đổi. Kristy viết cho tôi: “Ben và tôi nói
đùa với nhau rằng chúng tôi chỉ mới ở Burundi được hai năm rưỡi mà cảm giác như đã 10 năm vì chúng tôi đang phải trải qua quá trình hòa nhập hết sức khó khăn.” Họ đã không hề chuẩn bị để đương đầu với những khó khăn này khi mang cả gia đình chuyển đến châu Phi cách đây 10 năm. Vậy điều gì đã khiến họ chấp nhận mạo hiểm như vậy? Chỉ có một từ: đam mê.
“Tôi có thể thức dậy, uống cà phê, nói về cà phê cả ngày không biết mệt,” Ben Carlson chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình. “Khi đó, tôi biết mình muốn làm gì. Đây là con người tôi muốn trở thành.”2
Tôi được xem đoạn phỏng vấn này trên mạng thông qua lời giới thiệu của một người bạn, và tôi muốn được trực tiếp nghe câu chuyện từ họ. Tôi liên lạc qua e-mail và phải mất một tuần mới nhận được câu trả lời của Kristy. Cô xin lỗi không thể trả lời ngay vì cuộc sống tại Burundi có phần hơi lộn xộn.
Sau khi quyết định chấp nhận thay đổi, cô kể, hai người bắt đầu tìm cách theo đuổi đam mê. Cô nói: “Mỗi bước dần hiện rõ hơn và cũng là thêm một bước chuẩn bị cho những thay đổi lớn hơn tiếp theo... Ngay cả khi chuyển đến Burundi, chúng tôi vẫn chưa hoàn tất việc chuyển đổi. Một năm rưỡi sau khi đến đây, chúng tôi bắt đầu công việc kinh doanh. Chúng tôi không cảm thấy cuộc đời mình cần phải tốt hơn hay to tát hơn những gì chúng tôi đang làm. Thực ra, chúng tôi cảm nhận được khát khao cống hiến trong lĩnh vực mình yêu thích và mong muốn thay đổi theo hướng này.”
Cả nhà Carlson dọn đến sống tại một nơi xa xôi hẻo lánh của thế giới vì đây là cơ hội để họ vừa được làm việc mình yêu thích vừa tác động tích cực đến thế giới. Thực tế, đây là công thức hoàn hảo khi bạn làm theo tiếng gọi: tìm một việc bạn yêu thích và một việc thế giới cần, rồi kết hợp chúng lại với nhau. Frederick Buechner từng viết: “Thiên hướng là nơi niềm hạnh phúc sâu sắc của ta đáp ứng nhu cầu sâu thẳm của thế giới.”3
Khi hình dung ra một người theo đuổi tiếng gọi, ta thường nghĩ đến một người rất chỉn chu, nắm rõ mục đích từ đầu, họ biết mình sinh ra để làm gì. Họ có kế hoạch. Mục sư lắng nghe tiếng gọi của Chúa. Vận động viên chuyên nghiệp từ nhỏ đã đá bóng trong sân sẽ
trở thành cầu thủ bóng đá đẳng cấp thế giới sau này. Ta hình dung ra một người sinh ra đã biết mình phải làm gì trong đời, và đến đúng thời điểm, họ sẽ thực hiện kế hoạch đó. Nhưng tiếng gọi không diễn ra như thế. Đôi khi, và thường xuyên, mọi thứ lộn xộn hơn nhiều.
Tôi hỏi Kristy làm thế nào vợ chồng cô biết chắc đây là quyết định đúng đắn khi chuyển cả gia đình đến một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới và khởi nghiệp với công ty cà phê; cô thừa nhận thật ra họ không hề biết gì. Cô nói: “Chúng tôi nhắm mắt đưa chân và đó là một cú nhảy liều lĩnh, đâm đầu xuống trước, không hoàn hảo. Chúng tôi thật sự cảm nhận đã đến lúc phải thay đổi, nhưng chúng tôi quyết định đưa Burundi vào trong quá trình thay đổi này chỉ vì nó là cơ hội tình cờ xuất hiện.”
Hai chữ quan trọng nhất trong câu này là cơ hội. Gia đình nhà Carlson khi chuyển đến Burundi không phải là hành động nhắm mắt đưa chân như họ nói, nhưng cũng không phải họ đã tuân theo một kế hoạch chi tiết chính xác đến từng ly. Cũng giống như cái ngày họ đưa con đi học ở trường mới, đây là một quyết định kết hợp giữa sự chủ đích và tin cậy.
ẢO TƯỞNG “TỰ NHIÊN MÀ BIẾT”
Trong suốt một thời gian dài, tôi đã tin vào lời dối trá về theo đuổi mục đích sống, và chính điều đó đã ngăn cản tôi đi tìm tiếng gọi. Lời nối dối đó là gì? Đó là cụm từ đơn giản: tự nhiên mà biết. Khi ta bắt gặp ai đó đang làm công việc họ yêu thích, ta sẽ tự kể với mình một câu chuyện cổ tích, một lời nói dối không chớp mắt.
Câu chuyện đó thế này. Làm thế nào bạn biết mình muốn trở thành lính cứu hỏa? Điều gì khiến bạn học tiếp cao học? Làm sao bạn biết đây là tiếng gọi của mình? Tự nhiên tôi biết thôi. Ta thường nghe câu này từ những người khiêm tốn, không dám thừa nhận họ đã phải dốc sức, hay những người không thoải mái thừa nhận họ gặp may. Cũng giống như ta miêu tả việc hai người yêu nhau. Tự dưng chúng tôi biết nhau. Vấn đề là không phải vậy.
Tìm được tình yêu là một quá trình bí ẩn, nhưng cũng là một quá trình chủ động. Anh ấy mời bạn trò chuyện, bạn đồng ý, và rồi bạn hôn anh ấy trong lần hẹn đầu tiên dù bình thường bạn không phải tuýp người “dễ dãi” như vậy, và rồi hai người bắt đầu hẹn hò nghiêm túc. Đây là một quá trình. Và mọi bước đi trong quá trình này đều