🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cạm Bẫy Người
Ebooks
Nhóm Zalo
Cạm bẫy người
Vũ Trọng Phụng
Nhà xuất bản Văn học 2006
Chuyển text và tạo ebook: Caruri Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Mục lục
I Ông thân tôi là “mòng”
II Ông quân sư của bạc bịp
III Đố anh nào bịt mắt được tôi
IV Ba nhân vật
V Bốn đồng ngửa sấp
VI Ruột quân xúc xắc
VII Xưởng chế tạo khí giới
VIII Những thủ đoạn ngoài chương trình b… IX Một cuộc vận động tự trị
X Canh tài bàn… tay tư
XI Tấm lòng đi bịp, từ nay xin chừa
XII Nạn kinh tế, sở liêm phóng với ông ấm B… XIII Cái “lưới nhện”
XIV Kẻ ở người về
I
Ông thân tôi là “mòng”
Nụ cười vẫn thường lộ trên cặp môi đỏ tựa thoa son, anh Vân bỗng ủ dột, muốn như có vẻ chán đời.
Do lẽ gì, cái thái độ trái ngược như vậy? Vì ông thân anh, một cụ phán thượng hạng đã về hưu, hưu bổng hàng tháng rất to, với bà mẫu anh, một người mẹ đảm, đã một tay tậu nổi mấy toà nhà lộng lẫy mà không để cho anh được tự do tiêu, phá chăng? Vì ý trung nhân của anh, một cô gái tân thời óc chứa đầy những tình cảm đã phụ anh chăng? Hay vì mảnh bằng tốt nghiệp của trường cao đẳng thương mại chưa cho phép anh được chiếm một ghế ngồi trong một công sở? Lạ! Con một nhà giàu, lại sẽ là chồng một mĩ nhân, địa vị như thế, tại sao anh Vân lại chán đời? Cái buồn của anh chàng này chắc có chứa sự bí mật gì đây…
*
* *
Chiều hôm ấy, anh Vân ghé vào tai tôi:
- Tôi đã đỡ được nỗi chán đời vì đã tìm ra được cách mở két của ông cụ. Tôi mới có được một mẻng rất đáng yêu cả tinh thần lẫn xác thịt nhưng phải cái hơi đáng giận là có cái đức lớn trong sự tiêu tiền.
Tôi rất lấy làm phàn nàn về điều đó, nhưng biết làm thế nào? Phụ nữ bây giờ hầu hết thế cả! Tình thế này ép tôi phải tính… Đáng lẽ tôi cũng không dùng đến kế này, vì nó bất lịch sự quá, nhưng anh tính: ông cụ đưa tiền cho mình tiêu thì tỏ ý xót xa mà đến khi ngồi vào đám bạc, hết trăm này đến chục khác chẳng lấy làm tiếc, anh bảo thế thì còn gì ức cho mình hơn?
Nói tới đó, anh ngắt câu chuyện, đưa ra cho tôi một lá thư còn ngỏ. Ngoài bì đề:
Monsieur Ấm B…
N… Ruelle des poissons, Hanoi[1]
Còn trong thư:
Bắc Ninh, le 26 février 1933[2]
Thưa ngài,
Cùng nhau gắn bó đã bao nhiêu lần, tôi vẫn để ý mãi, nay thật đến lúc phải phiền ngài rồi đây. Mong ngài xếp cho một người có vẻ ông tham, ông phán, đúng chiều thứ bảy sang bên tôi có hàng. Chính ông thân tôi là mòng, chắc chắn lắm! Còn nhiều két khác nữa, nhưng tôi chưa dám cam đoan vội, vì chưa xếp xong. Chỉ cần người chơi tổ tôm, tài bàn giỏi thôi, không dùng đến bát, đĩa gì cả. Đáng lẽ tôi phải “thân hành” sang cầu cứu song bận thu xếp, phải dùng chữ thay người, có điều đường đột, ngài cũng xá đi cho. Và xin báo trước bằng thơ, nói rõ hình dạng người mà ngài phái sang, để chúng tôi ra ga đón cho tiện. Xin nhớ: chúng tôi ở phố Tiền An, số nhà…
Kính thư
Vân
Xem xong, bốn mắt gặp nhau, tôi cố nhịn cười:
- Anh gọi bịp về bắt ông cụ đấy à? Gớm! Có hiếu nhỉ!
Anh Vân chỉ mỉm cười một cách khoái chí rồi lấy hồ dán kín phong thư.
*
* *
Hai hôm sau. Trên con đường chạy ra ga Bắc Ninh với hai dãy cây um tùm đứng giàn hai bên, một chiếc ô tô hàng đứng chờ, mấy cái xe cao su lượn nghênh ngang, lùng khách. Anh Vân rảo bước đi bên tôi, cầm một lá thư lẩm nhẩm: “Đúng 6 giờ chiều, ở ga xuống, người nào mặc ta, cầm máy ảnh, mặc cả xe đến phố Tiền An là đích đấy…”
Đúng 6 giờ. Một hồi còi… Mười toa tàu lù lù tiến đến sân ga, nhả ra độ mười hành khách. Có người gọi vợ, gọi con, mặc cả xe om sòm, có người bị phu xe túm bâu lấy mà chỉ biết kêu rối rít: “Không, không!…” Bỗng có một giọng dõng dạc, to hơn hết, nổi lên trong đám khách ồn ào:
- Chúng mày, thằng nào biết, mau kéo tao đến phố Tiền An, nhà cụ… - Đây rồi…!
- Phải, đích người này rồi. Áo gấm trong, áo sa tanh ngoài, giày ban[3], tay có cầm máy ảnh. Răng vàng hé lộ mỗi khi cười lệch miệng, kính đồi mồi nằm trên sống mũi dọc dừa nghiêm trang. Mặt láu lỉnh ra phết ăn người.
Ba chúng tôi bắt tay nhau. Anh Vân pha trò mà giới thiệu: - Đây là chú nó… còn ngài này… “ân nhân” của tôi!
Ông ân nhân của tôi ấy là ông đến giết bố nó để cứu con, mấy phút sau, được anh Vân rước về nhà kêu rầm lên: “Thưa thầy, thưa đẻ, có bác tham[4] Ngọc vốn là bạn cũ sang chơi với con” thì được cả nhà đón chào mừng rỡ. Nhất là lại được ông cụ già đạo mạo tiếp đãi ân cần, tự đem thân ra đóng cái vai con chim mòng đậu vừa đúng tầm súng cho kẻ đi săn.
Cuộc gặp gỡ của chủ với khách bắt đầu gắn bó bằng một bữa cơm bề bộn những thịnh soạn. Trong bữa tiệc kéo luôn hai tiếng đồng hồ, người ta nói đến những chuyện giời nắng, giời mưa, nạn khủng hoảng[5], cuộc chiến tranh Trung – Nhật, việc nhà nước thi hành chính sách tiết kiệm rút lương, thải bớt người làm. Ông “tham Ngọc” của anh Vân ăn nói ôn tồn, đóng cái vai kịch của mình một cách thạo lắm. Ông hết bàn luận về đạo nghị định ngày 6 Octobre 1931[6]lại làm ra mặt học rộng, đả động đến cả bộ “mặt trái” của hội Quốc Liên[7]. Có khi ông tự giới thiệu: chỉ ham đọc sách và gặp dịp nhàn thì chỉ du ngoạn những phong cảnh đẹp chớ ít khi để ý đến sự chơi bời.
Thấy con người giỏi mà nết na như vậy, cụ phán khâm phục ông ra mặt, ngợi khen mãi ông là người hữu ích, chẳng lêu lổng như em Vân. Rồi cụ cười khà khà:
- Dù bác không chơi bời gì thì tổ tôm, tài bàn cũng phải biết chứ? Nụ cười vẫn giữ trên môi, ông “tham Ngọc” thong thả đáp lại:
- Bẩm vâng! Ngoài sự đọc sách với chơi ảnh ra, con cũng chẳng còn cách gì giải trí nữa. Đi hát ả đào hay rượu chè, hút xách thì tai hoạ, mà giai gái thì bẩm… chúng con đã quá tuổi rồi! Vả lại tổ tôm, tài bàn là cái chơi thanh nhã, khác nào như cuộc đấu trí. Con cho đó là một cách giải trí lịch sự mà người thượng lưu cần phải biết.
Thiết tưởng một phạm nhân can tội giết người mà được trạng sư[8]cãi cho trắng án cũng vị tất đã có lòng kính phục, ngưỡng mộ, nhớ ơn ông thầy cãi của mình như cụ phán của tôi kính phục, ngưỡng mộ, nhớ ơn ông “trạng sư của tài bàn, tổ tôm” lúc ấy. Đánh trúng vào chỗ yếu của ông cụ rồi, tay bịp già đã thèm nhận những lời ân cần mời mọc vào cuộc tài bàn ngay cho
đâu!
- Bẩm con định sang hầu cụ với thăm anh Vân con rồi nhân tiện đi chụp ít ảnh vì cảnh những đồi Lim đẹp đã có tiếng… chứ không nghĩ đến sự sang đây lại được cụ ép đánh tài bàn!
Cụ phán cố phân trần cho ra lẽ:
- Nhưng còn cả ngày mai thì bác ngại gì? Tôi chỉ sợ bác chả đem nổi vài vạn tấm kính sáng mà chụp cho xuể thôi.
Thế là thành cuộc. Bốn vai trò: ông “tham Ngọc” người đi săn, anh Vân người hướng đạo, ông thân sinh ra anh, chim mòng, với tôi, một người tò mò, đi xem. Tôi rất lấy làm lạ vì cứ thấy vai con chim mòng thắng trận, ù tràn đi mà nhà đi săn kia đã phí gần hai mươi viên đạn. Chính anh Vân cũng hơi tái mặt, chỉ sợ người mình lôi về chưa hẳn là thiện xạ, có bao nhiêu lại đến chui hết cả vào két của ông cụ thì…
Làm ra bộ thua cay, nóng tiết, đang đánh một, hai, ba đồng, ông “tham Ngọc” rủ đánh gấp đôi.
- Thưa cụ, đánh nhỏ con lại hay thua, có đánh to mới cao được.
Gặp hồi đỏ, ông cụ hăng hái như đang say rượu nhận lời liền! Thế là từ lúc đánh hai, bốn, sáu đồng, ông cụ năm thì mười hoạ mới được một ván ù suông. Ù tài bàn, sửu bàn[9]chỉ riêng về ông “tham Ngọc”.
Thấy số giấy bạc trước mặt, trong túi mình cứ lần lượt chui ra rồi bay đi với gió, moi ví mãi nóng tiết, ông già thỉnh thoảng lại làm ván ké một “rồng xanh”[10]. Nhưng bao nhiêu cũng đều “giá vũ đằng vân” đi đâu mất cả!
Cái ví lép kẹp của ông già giục cả làng tan chầu, đứng lên:
- Thôi, mời bác lên gác đi nghỉ với em. Bác đỏ và đánh cao quá, thật số bác hôm nay phát tài. Tôi thua dễ đến hơn sáu chục!…
Ông cụ “tuy không ăn ớt mà cay” nhưng vẫn vui vẻ như thường, vẫn thản nhiên, lộ cái vẻ yêu con người đã lịch thiệp lại có biệt tài, đánh tài bàn cao.
Còn tôi, tuy tò mò ngồi để ý mất cả buổi tối, cũng không sao khám phá nổi những ngón bịp! Vậy “mặt mũi” những ngón bịp thế nào?
*
* *
Trên gác riêng của anh Vân, giữa lúc chia tiền.
- Vốn tôi đem sang: mười lăm đồng, vốn bác: năm đồng, mà đây tám mươi ba tất cả, thế là cụ bị mất đứt 63 đồng. Đáng lẽ ta chia ba, ông ấm B… ở Hà Nội với tôi hai, còn bác một. Nghĩa là cả ba đạo binh cùng hưởng: đoàn hướng đạo, đoàn quân thắng trận với bộ tham mưu. Nhưng mòng là cụ nhà bác thì bác cứ cầm bốn mươi của. Anh em chúng tôi chỉ dùng 23 hòn đạn là đủ rồi.
Trước cái thái độ nhã nhặn và biết điều này, anh Vân đáp bằng cái gật đầu, chìa tay ra nhận và nói:
- Để lần sau bác sang, tôi gọi cho mấy via[11]nữa đến, rồi ta lại sẽ có dịp được chia hương hoả với nhau. Nhưng tôi muốn bác cho xem qua các ngón để sau này mà tránh…
Nhà đi săn cười. Một cuộc phấn đấu chốc lát trong óc anh chàng: bí mật nhà nghề, có nên? Hay không?
Sau một lúc lưỡng lự, “ông tham” có ý lấy chúng tôi làm chỗ đồng chí, cũng chẳng phải ngại gì. Chúng tôi ngồi nghe như hai cậu học trò trước một giáo sư dạy khoa quỷ thuật.
- Có ba lối tài bàn. Thứ nhất: lối đánh kiệu hay là nhị cập nhất, hai người thông lưng nhau hại một người bằng những luật nhất định như để tay vào đùi, vào gối, ống chân, bàn chân tuỳ theo quân chờ về hàng văn, hàng sách, hàng vạn… Muốn ăn quân gì hoặc chờ quân gì, cứ việc ra hiệu để bên kia để ý đánh cho mà ăn hoặc hạ ù. Nhưng đó chỉ là phương pháp của các bịp non, dễ lộ tẩy, nếu người ta nghi hoặc, khám bài thấy rõ sự đánh tầm bậy, gian lận thì nguy. Lối ấy không xứng đáng, tôi không thèm dùng.
Thứ nhì: hụt nọc. Lối chơi này cần mĩ thuật lắm, người đánh phải có cả tài lẫn gan. Bắt cái xong, mình phải cầm lấy bài nọc vờ chang đi mấy lớp. Thế là vài ba quân đã theo cái chang chui lọt, nằm gọn trong tay áo mình rồi. Đến lúc lên bài, phải xoay đi cho phu nào vào phu ấy, lưng nào vào lưng ấy, Thừa quân thì dễ ù lắm. Nếu ù… hạ bài xong cứ để mặc làng khám cho kĩ. Xong đâu đấy, gạt cả ra một góc chiếu cho người chia bài… là mấy “quân bài trốn thẻ” trong tay áo đã thừa cơ chui tọt ra, theo cái lúc “hỗn quân hỗn quan”, hợp với bọn lính thắng trận về cổng khải hoàn. Muốn đề phòng sự làng nghi ngờ, thấy mình ù nhiều mà điểm lại bài nọc, bài rìa, thì có hai cách cản. Một là thấy mình hạ xong ông “bạn đồng chí” cầm ngay lấy phần nọc vờ tìm quân ông ta đang chờ, phàn nàn rầm lên, “gọi chó” rầm lên, ồ ạt xoá
đi cho người kia không kịp điểm nữa. Hai là rút ở nọc lên mà ù. Quân bài chờ ấy lẽ tất nhiên là quân mình thụt được ở nọc từ trước đã giấu sẵn trong tay. Lúc xoa tay xuống nọc vờ rút nó lên thì trong lòng bàn tay phải có sẵn cả những quân mình đã hụt, trả vào nọc, chỉ “xách cổ” lên một quân chờ ù. Đến thế thì ván nào mình ù, làng có điểm bài cũng không ngại gì nữa.
Lắm khi chơi với bọn thạo, không hụt nổi ở nọc thì mình phải dùng đến chước thứ ba, nghĩa là hụt vào phần bài của ông “bạn đồng chí” với mình. Bắt cái xong, cầm phần bài mình trong tay rồi, mình lại phải vớ lấy “phần bài tòng phạm” liệng trả ông bạn. Trong cái liệng rất ý tứ mà ít ai để ý ấy, ngón tay cái với ngón tay trỏ của mình đã “họp đảng” với nhau giữ lại vài quân, trập phắt vào phần mình. Thế là ông bạn cầm phần bài thiếu phải đánh bậy bạ cho qua cuộc, cốt sao “che mắt thế gian”.
Ấy, chỉ có thế thôi, bịp tài bàn cũng vậy hay tổ tôm cũng vậy. Cốt nhất phải có bộ mặt tài tử đóng kịch, nghiễm nhiên, bệ vệ, cũng cốt nhất là ngồi vào một chỗ không ai ám nổi, tránh cho xa những bác chầu rìa.
Trong cuộc giảng bài này, ông “tham” cho chúng tôi rõ cả phần thực hành lẫn phần lí thuyết. Nhanh như chớp, ông giở ngón có bảo trước cho biết mà chúng tôi chịu, không sao vớ được cái “thiên biến vạn hoá” của nhà quỷ thuật đại tài.
Bữa tiệc nào cũng phải có đồ nước nên nhà bạc bịp thuật thêm một câu chuyện ngắn nữa để làm món đét-xe.
Một lần, ngồi vào cuộc với hai ông khách lạ mà tôi tưởng là quých, tôi vờ chang bài nọc, hụt xong, để xuống đĩa thì bỗng phải giật mình lo sợ vì chỉ cuỗm có bốn quân mà sao phần nọc có lẽ thiếu nhiều? Đang mải ngẫm nghĩ thì một ông khách lạ nắm chặt lấy tay tôi. Cuống quá, đã tái cả mặt nhưng nhanh trí khôn, tôi cũng vội liều nắm chặt cổ tay ông ta làm cái “trả miếng”. Rồi chúng tôi cùng buông nhau ra để cười sằng sặc, gập đôi người lại mà cười. Tôi hụt bốn quân bài thì ông khách ấy cũng hụt ba quân cộng với một quân. Ông ta chia thừa cho phần bài của ông mà tôi thì hụt nọc! Chúng tôi gọi buổi ấy là ngày “anh hùng tương ngộ”, cũng là “bịp lũa” cả mà bên nọ còn tưởng bên kia là mòng.
Trước mặt anh chàng dắt khách lấy hồ hòng chuyện nọ kia, mặt tiu nghỉu như chó bị thiến, chúng tôi vỗ vai nhau, bắt tay nhau một cách ân cần, gọi nhau là “tri kỉ”.
II
Ông quân sư của bạc bịp
- Ông nên biết rằng: quá nửa đời người, tôi đã sống bằng nghề cờ bạc. Muốn sống về nghề cờ bạc, phải có cách trừ khử những cái đáng nơm nớp lo ngại là cái đỏ cái đen… Hiện nay anh em tôn tôi là… trùm đảng bạc bịp. Trước khi lên được địa vị này, tôi cũng đã lắm phen phải đóng những vai trò mòng với quých cho một lũ bạc bịp tiền bối họ móc xé ruột gan đấy, ông ạ. Những lúc thất cơ lỡ vận trước là vốn buôn cho tôi được hưởng cái lãi là cái địa vị… bây giờ.
Người đang kể tiểu sử của mình ra cho tôi với anh Vân nghe chính là ông ấm B… ở ngõ Hàng Cá. Trong gian phòng gác mà cách bày biện đủ tỏ rằng chủ nhân cũng là hạng người thiệp đời, lịch sự, chúng tôi đã được ông trùm tiếp một cách nhã nhặn mà lại được cả dịp đón nhặt tài liệu cho cuộc phỏng vấn ngẫu nhiên đây.
Những người chỉ nghe danh mà không biết mặt ắt phải tưởng tượng rằng đến hạng người đáo để này thì từ nét mặt, giọng nói, dáng đi cho đến tà áo, gấu quần, tất nhiên cái gì cũng phải có vẻ bịp cả! Trái lại, ông ta là người trông đẫy đà, bệ vệ như một ông hậu bổ hoặc một viên tri châu[12]nào. Hai con mắt rất sắc sảo, có đủ vẻ đối địch với đời, tiểu nhân cũng được mà quân tử cũng được. Miệng nói có duyên một cách lạ, thường hay mỉm cười để “giá trị” cho câu chuyện: nhất là những lúc gọi đến thằng nhỏ thì tiếng đồng sang sảng, thật là có giọng quan!
Chúng tôi họp mặt nhau mới độ một giờ mà trong câu chuyện đã thấy ngay cái không khí nồng nàn, tri kỉ. Được dễ thân như thế là vì có anh Vân, người cùng đi với tôi để thăm ông ấm, trước nay đã làm “chim mồi” cho ông để săn các bạn già cụ phán bên tỉnh Bắc cùng những tín đồ của “đổ bác giáo” bao nhiêu lần rồi.
Vì vậy, ông ấm mới chẳng ngại kể lể tâm sự và nói rõ cả những bí mật nhà nghề đáng giấu kín cho chúng tôi nghe. Nhưng trước khi cho biết những cái “vành ngoài vành trong”, ông hãy làm trạng sư cho ông, cho địa vị xã hội của ông, và cho cái nghề không có môn bài của ông đã.
- Tại sao tôi, dòng dõi gia thế, lại làm đến cái nghề… bất nhã này? Thưa
ông, nếu tôi có thật không ra gì thì cái đó cũng chẳng phải lỗi tự tôi, tôi đã bị hại về hoàn cảnh xấu của xã hội. Nhưng tôi chỉ tự trách mình và vẫn nên tự trách xã hội. Sống ở cái xã hội cờ bạc, tôi chỉ biết rằng tôi đã là kẻ rong chơi bài bạc tự lúc thiếu thời. Tôi đã thua vì đỏ đen, tôi lại còn thua vì bịp nữa! Tôi đã phải xa gia đình vì phá tan cơ nghiệp, tôi đã khốn khổ, ê trệ – ê trệ nhiều phen lắm, hai ông ạ – cho nên chính ngày nay là ngày tôi đang trả thù cái bọn đã làm tôi hư hỏng, đã ngăn rào mọi đường công danh tiến thủ của tôi. Đó có là công lí không? Tôi tưởng: làm việc thiện để đền ơn việc thiện, lấy việc ác để trả nghĩa việc ác, thế mới là biết sống ở đời… Nói cho cùng, tôi cũng vui vì đã làm, đang làm, sau này nữa cũng vẫn cứ làm, cái nghề bất lương, cái nghề tôi cho là phải. Tôi chỉ buồn có một nỗi: không theo đuổi nổi sự nghiệp của ông cụ nhà tôi…
Đến đây, ông ấm ngừng lại, có vẻ buồn rầu. Ông có ý chờ một câu phê phán. Tôi vội phải lộ sự tôi hiểu ý một cách kín đáo là đưa mắt nhìn cái ảnh lớn trong một khung vàng chói một ông cụ đi hia, mặc áo rồng, đội mũ cánh chuồn từ một chỗ trịnh trọng giữa bàn thờ nhìn một cách nghiêm khắc xuống lũ chúng tôi. Cử chỉ ấy có lẽ khiến ông ấm được một vài phút tự kiêu, nên lại vui lòng:
- Vậy các ông coi cờ bạc là hạng thế nào? Tâm lí họ ra sao? Họ khôn hay họ dại đấy?… Hai chữ khôn với dại trong sự bài bạc không có nghĩa nhất định. Nếu ông thua để vợ con phải nheo nhóc, thiên hạ sẽ đua nhau chê ông là dại thật đấy, nhưng nếu ông được tiền nghìn bạc vạn để tậu nhà tậu ruộng, thiên hạ họ lại xô nhau vỗ tay, ca tụng ông là khôn! Những anh cờ bạc toàn là những anh – xin lỗi các ông – những anh… “khôn sặc máu mồm” ra cả đấy, chứ các ông bảo họ dại cái nỗi gì? Tôi đây, tôi đã là một thằng dại mãi rồi mà tôi lại cứ muốn cầu cái khôn trong cái dại, nên mới phải tìm một cách “bảo hiểm” cho sự khôn!
Ông ấm cả cười. Chúng tôi cũng cười. Sau ông tiếp nốt (từ đây trở đi, tài hùng biện của ông mỗi lúc một tăng):
- Thế các ông coi cái nghề của tôi bằng con mắt thản nhiên hay bằng con mắt khinh bỉ? Các ông nên biết: tuy là bịp, tôi vẫn không làm một việc nhỏ mọn gì là bất nghĩa cả. Trong đám bạc, người đời đã chỉ những muốn ăn thịt lẫn nhau cả, thì dù có bất nghĩa, tôi cũng chỉ bất nghĩa với một bọn bất nghĩa, chứ những người hiền lành không tham lam, không muốn ăn thịt ai cả, có khi nào đến nỗi bị chúng tôi hại đâu?
Xem ý anh Vân lại được hài lòng, vui sướng hơn cả ông ấm B… vì “bài
cãi” ấy. Rồi anh nối lời thuyết mãi, thuyết mãi… về cái nghĩa chính danh của sự bất nghĩa ở thời buổi vật chất, kim tiền này.
Buổi nói chuyện kéo đến lượt hò đun nước thứ ba. Chúng tôi phải đứng lên, xin cáo từ. Lời nói cuối cùng của ông ấm B… là một câu phàn nàn về nạn kinh tế, về nỗi mòng, két mỗi ngày một hiếm, không được mùa săn. Ông ta dặn chúng tôi nên rất để ý vào sự tìm đất để làm tiền.
Lời dặn ấy làm cho tôi phải nghĩ ngợi mãi? Vì sao? Vì nếu đối với ông ta, tôi không có mòng, sẽ bị coi là đồ vô tích sự, và sẽ mất dịp đi lại với ông về sau. Thành thử ở vào trường hợp ấy, tôi rất thèm thuồng ham muốn địa vị của anh Vân. Anh Vân tuy chưa có gan dắt bịp đến bắt các anh em bạn thân, song anh ta cũng còn may vì có được một ông thân sinh ham mê tiền bạc. Và mấy ông tóc bạc, bạn của ông cụ ấy nữa. Chỗ để đào tiền đã có sẵn, anh ta lại sẵn cả chỗ để ném tiền đi: những mẻng! Còn tôi, tuy có nhiều bạn thân ham mê bài bạc thật, nhưng không nỡ dắt bịp đến bắt, lại không có nổi lấy một ông bố có máu mê ấy nên không biết liệu phải đối phó với ông ấm B… bằng cách nào…
Tưởng chỉ còn cái kế cuối cùng là sự hẹn lần vậy. Có khi mình hẹn lần vì bất đắc dĩ mà người ta lại nhầm mình là hạng người cẩn thận, kín đáo, chắc chắn cũng không biết chừng. Vả lại, trước khi nhúng tay vào một việc có thể phạm tới danh dự của mình chút ít, dễ thường cứ bắt người ta nhắm mắt mà làm liều, không cho có ngày được rõ diện mạo, tính tình nhân cách và mọi cử chỉ của từng viên chức trong “bộ tham mưu” ư?
Cái ngày mà tôi được rõ mọi việc cũng không xa. May quá, nó đến trước khi tôi phải hẹn lần.
*
* *
Cái lịch trên tường phô ra hai con số: 30. Gian phòng gác ở phố Hàng Cá, vào những ngày cuối tháng như ngày này, có cái vẻ nhộn nhịp của một toà tham mưu giữa lúc hai bên quân đương giao chiến với nhau thật kịch liệt.
Vừa phần vì lẽ “năng tới coi thường”, vừa phần hai bên đã coi nhau là thân mật, ông ấm để mặc chúng tôi mỗi anh ngồi chầu một chén nước nóng còn mình thì một tay đỡ lấy trán, tay kia bấm đốt, tính lẩm bẩm như một thầy bói lấy số tử vi: “… Hai đám xì một đám bất, một đám xóc đĩa và một đám tổ tôm. Đám xì ở Hàng Kèn đã có Ba Mỹ Ký với Bập đánh giác… đám xì đường Cột Cờ đã có tay Bỉnh, tay Sính đánh đòn Vân Nam… Còn đám bất phố Hàng Bông đã có lão Cường hoặc đánh lớp, hoặc đánh mẫu tử. Xong
đứt ba đám… Còn đám tổ tôm không biết nên tính thế nào? Chỗ chơi là chỗ đài các phong lưu mà phái Cửu Sần đi thì sợ lộ!… Ác quá, có cụ Ngọc là người trông có mẽ một chút thì lại mắc xuống Nam. Cẩu thật!… Còn mấy anh lái nâu động mả, giữa lúc giời đất này cũng về khua xóc đĩa nữa, đã nằm chờ sẵn như lợn cả kia thì biết cắt ai đi chọc tiết bây giờ?… Chỉ có mình, mình là tay khả dĩ đối thủ được với chúng thôi, thì mình lại phải cái tội đã loã lồ quá…
Mấy tiếng gót giày khẽ nện vào bậc thang gác báo trước cho một người còn trẻ tuổi, ăn mặc ra một tay trong phái bồi, bếp, rón rén bước lên. Thấy chúng tôi lạ mặt, người ấy có vẻ ngần ngại, chỉ đưa mắt hỏi ông ấm chứ không nói gì. Ông này làm ngay một câu:
- Thế nào?… Được, cứ tự nhiên, chỗ anh em cả.
Người trẻ tuổi kia lộ ngay cái vẻ sung sướng ra như đang có một gánh nặng trên vai mà đến lúc vừa hạ được nó xuống đất. Nhưng đôi lông mày vẫn cau:
- Hỏng mất cụ ạ!…
- Thế nào mà đến nỗi hỏng? Thu xếp thế mà lại hỏng thì hỏng thế nào?
- Tôi đã dò lão ta rất kĩ lưỡng. Thằng cha ấy nó biết rõ lối đánh giác từ bao giờ ấy mất rồi. Tôi gợi chuyện thì nó đã nói toạc móng heo ra, những là nó biết hết tất cả các lối giác mùi hay giác bóng cũng vậy, và chỉ có những đồ mù thì mới không biết cách khám thấy dấu, chứ cứ để nghiêng quân bài dưới ánh sáng đèn một tí thì anh nào đến thong manh dở cũng phải biết ngay! Lại còn nỗi khó khăn này: muốn bắt lão ta, phải đến tận nhà thằng cháu lão ta, chứ lão nhất định không đi chơi chỗ nào lạ. Tôi phải tìm cách “bỏ nhỏ” với thằng cháu lão và việc ấy cũng ổn rồi. Vậy thì cụ xếp cho một người cản nữa để tôi đánh Vân Nam vậy.
Ông ấm ngần ngại:
- Khốn nỗi anh mà đánh đòn Vân Nam thì tôi không lấy gì làm chắc lắm. Có được anh Ba Mỹ Ký thì lại trót hẹn mất với đám ở Hàng Kèn rồi. Hay là tối hôm nay, ta hãy đánh siệng, làng xoàng độ năm hào một cho qua buổi để mơn lão ấy đến trưa mai hoặc tối mai, tôi cho gọi Ba Mỹ Ký đi với anh đến thì thật là cứ “nhét đất thó vào lỗ mũi nó mà lấy tiền…”!
- Không được! Lão ấy nó đang cao hứng, nếu để đến tận trưa mai hoặc tối mai thì từ buổi sáng sớm nó đã có thể dậy để đi cân sâm cho con nó rồi, mình còn hòng bắt nó lấy cái gì nữa?
- Thế đích xác là nó có độ bao nhiêu?
- Độ chừng sáu công[13]tất cả. Cụ phải tính ngay cho chứ mà…
- Thôi được, cứ về đi rồi độ sáu giờ chiều lại đây lấy nốt người cản. Để tôi có thời giờ, nghĩ thật kĩ xem sao.
Người trẻ tuổi ấy trước khi quay gót bước xuống thang còn liếc mắt nhìn trộm chúng tôi lần cuối cùng, dáng dấp vẫn lộ vẻ ngượng. Đến bây giờ, ông ấm mới giới thiệu:
- Đấy, một đàn em của tôi đấy. Trước làm thầy kí cho hiệu buôn lớn, chữ nghĩa kể cũng khá, sau vì kinh tế nên bị loại, nay phải tạm sinh nhai về nghề này. Vì phải giao thiệp với hạng trếch để săn mòng, két trong đám bồi, bếp nên tôi bắt anh ta ăn mặc đúng lối trếch. Nếu hắn diện Âu phục vào thì các ông phải biết… Nói tiếng Tây nhanh làu làu. Chỉ trông mặt mà bắt hình dong thì nhầm to.
Anh Vân khen:
- Phải… gớm mưu trí của ngài kể cũng đáng sợ thật. Mà thế thì ra đàn em của ông toàn là những tay đáo để, ra phết cả, “chơi được” cả…
- Thì đã hẳn!… Vào nghề này mà hiền lành thì làm ăn ra sao? Hai ông nên biết rằng không kể một số khá đông người, nửa là đồng nghiệp, nửa là đàn em của tôi, tôi còn dưới quyền sai phái độ mươi tay nữa, vào hạng nào cũng có, một người ít ra cũng sở trường về một vài ngón bịp và anh nào cũng có đặc sắc riêng. Nhất là về những cách thay hình, đổi dạng của chúng tôi… tôi cam đoan rằng chúng tôi không thua những nhân viên của sở Liêm phóng[14]. Thí dụ: ông là quých chẳng hạn. Ông là một nhà buôn, ông sẽ gặp một người trông thật là chủ hiệu ngồi hầu bài. Ông là một công tử nhà giàu, tôi sẽ để ông ngồi với một chàng trông thật ra lối con nhà phá của… và chưa chắc đã không có một vài cô gái mới ngồi cản đâu! Còn nếu ông là một viên chánh tổng, lí trưởng nào, tôi sẽ dắt cho một thầy ngăm ngăm da trâu, trông rõ “Đình Dù đặc”. Hoặc nếu ông là một chú trếch sộp, tất nhiên phải có một bác tài răng vàng, đội cái cát-két hay một ông còn nguyên búi tóc lại mặc áo cánh cổ cứng ngồi hầu ông chứ… biết làm thế nào?
Ba chúng tôi vừa bật cười ầm lên, bỗng phải hãm ngay luồng điện khoái lạc ấy lập tức. Lại một hồi gót giày nện rõ mạnh vào thang. Chỉ nghe tiếng động mạnh gớm mạnh ghê như thế, ai cũng phải đoán: người sắp lên ấy sẽ là một người Pháp. Nhưng không phải, chỉ là một người Nhật, vì người đang
tiến đến chúng tôi để giơ hai tay ra bắt rất ân cần ấy đã có cả cái thân thể một ông khổng lồ lẫn bộ quần áo Tây phương, lại đèo thêm bộ mặt một dân Nhật Bản. Giá ông ta thay cái mũ cát-két da hổ ấy đi để chụp vào đầu một cái mũ lưỡi trai có cái vòng lon kim tuyến chẳng hạn thì, sẵn có cái áo tơi bằng da màu cánh gián đã ngắn cộc lại thêm đai nịt rõ chặt chẽ ấy, đi nghênh ngang ngoài đường, ông ta có thể bắt nhiều người nhầm mình là một phi hành gia. Nước da còn hồng hào với một ít râu để lối Hoa Kỳ[15]của ông tỏ ra rằng ông chưa quá 40 tuổi.
Sau khi chủ, khách đã phân vị đâu đấy cả, ông ấm B… quay lại nói ngay:
- Xin giới thiệu để hai ông được biết: ông này quý danh là ông Cả Ủn, người giữ cái két lớn nhất cho làng b… chúng ta.
Ông Ủn cả cười và thêm:
- Nhưng phải cái két thủng đáy, hai ông ạ.
Lời giới thiệu sỗ sàng của ông ấm B… đã đánh tan mọi sự giữ gìn của những người mới gặp nhau lần thứ nhất.
Cho nên mới có những câu hỏi, đáp tự do sau đây:
- Ngọc đi bao giờ mới về?
- Chưa biết đích xác được.
- Có phải chính bác sai hắn đến lấy thiếc đằng tôi không?
- Phải… nhưng tôi chỉ mới bảo hắn đến lần này là lần đầu. - Thế mà hắn đến lần này là lần thứ hai!
- Lần thứ hai?
- Phải!… Hay lần trước là hắn bịa chuyện ra chứ không do bác bảo? - Thế lấy bao nhiêu?
- Bốn chục.
- Trả chưa?
- Rồi.
- Thế là hắn lấy để đi “ăn mảnh” đấy chứ không phải do tôi bảo đâu. Thế hôm vừa rồi đưa hắn bao nhiêu, bác thử hỏi xem có đúng số tiền mà tôi bảo hắn đến chạy đằng bác không nào…
- Hình như nhà tôi đưa hắn 50 của thì phải. Lần sau trở đi, chính bác nên thân hành lại mà lấy hoặc không tiện đến, bác cho mấy chữ lại vậy… chứ tôi không tin các “ông tướng” ấy đâu. Thế có phải đúng bác bảo hắn lấy 50 của để đi Nam không?
- Phải rồi… Được, lần sau có chữ tôi gửi lại, bác hãy đưa tiền. Và dặn cả bác gái như thế hộ tôi một thể.
III
Đố anh nào bịt mắt được tôi
Trên tường bên kia, cái bàn thờ Thổ công có một chiếc cốc pha lê đã rạn thay bằng bát nhang với hai cái đài mà nước sơn đã lở làm bung mảnh ván choèn choèn kê lên hai cái xích đông gỗ tạp. Dưới bàn thờ là một bức tranh về xứ Pháp, phô hình một viên tướng cưỡi ngựa bạch trên một chỏm núi, cầm viễn kính chiếu xuống đồng bằng, một cảnh đồng bằng có hàng bao nhiêu binh mã, như một đàn kiến lửa chen chúc nhau trong những lúc tranh nhau đi tha mồi. Bức tranh lồng trong một cái khung sơn kim nhũ trông đã hơi cổ và đã có chỗ bị sứt, để lộ cả thớ gỗ. Giáp ngay với bàn thờ, có một bó chừng sáu xóc tôm khô treo ngay bên cạnh một bộ quần áo bi-da-ma kiểu cuối cùng của hãng Lafayette[16]. Lại cách bức tranh và bàn thờ, có thể lấy tay với ngay được, lù lù một tấm ghế ngựa mà dưới gầm có một đôi giày da láng mũi liền, kiểu Richelieu[17], rộng như hai chiếc thuyền thúng bỏ quăng bên cạnh một chiếc chổi xể cùn!
Gian phòng tuy chật hẹp mà ních đầy đồ đạc, cái sang cái hèn lẫn lộn một cách chướng mắt vô cùng này là gian phòng của một người trong làng trếch.
- Xin mời ông xơi tạm chén nước.
- Vâng, xin phép ông.
Người trân trọng lấy hai tay bưng chén nước mời tôi uống, bác bồi An, chủ nhân gian phòng có cái bài trí kì lạ kể trên, thân thể tuy trông đẫy đà nhưng không đến nỗi thô cho lắm vì được ẩn trong bộ quần áo bảnh bao. Đôi lông mày rậm rạp nằm trên cặp mắt như hai chiếc đòn khiêng. Hai hàm răng trắng nõn như ngà. Bác đã cung kính trao cho tôi cái chén Nhật Bản to bằng cái bát ăn cơm, đầy nước chè Tàu mà tôi chỉ cầm lên, đặt xuống. Cái chén ấy hầu như chưa được ông chủ tắm cho lần nào, dễ đến mấy tháng nay…
- Kìa, mời ông xơi nước kẻo nguội.
Câu mời thứ hai này chẳng đủ phá nổi cái im lặng rất khó chịu, vì ngoài sự chào hỏi ra, chúng tôi chẳng còn biết nói với nhau chuyện gì. Rõ ngộ!
Tôi sở dĩ gặp chuyện này là vì đã nể lời ông ấm B… khi ông nhờ tôi đi hộ vệ đòn Vân Nam cho đàn em của ông, tại phố Hàng Giò.
Độc giả chắc còn nhớ đến người trẻ tuổi ăn mặc ra phái bồi bếp đến toà nhà ở phố Hàng Cá xin “quân sư” phái cho một người cản, mới trưa hôm nay người ấy định bắt mòng trong một canh xì bằng lối đánh giác, nhưng vì mòng của anh ta chưa đến nỗi quých lắm, đã biết cả lối giác mùi lẫn giác bóng nên anh ta mới phải cầu cứu đến cái đòn Vân Nam là kế cuối cùng.
Dưới quyền ông ấm B… không còn một tay sai nào nghỉ việc vào ngày 30 tháng ấy. Anh Ba Mỹ Ký đã được phái đi đánh ở phố Hàng Kèn, ông quân sư mới phải cho phép đàn em hãy còn “non tay” của ông giở đến ngón đòn hiểm độc hơn cả. Thiếu người ngồi cản nhưng may lại vớ được chúng tôi sẵn đấy, sau khi ông Cả Ủn đi rồi, ông ấm bèn tiện việc, ngỏ ý tức khắc muốn nhờ một người, hoặc tôi hoặc anh Vân. Anh Vân vì có buổi hẹn với mẻng của anh đúng 6 giờ chiều hôm ấy, đã từ chối, tôi mới phải nhận lời. Vì một sự tình cờ, bắt đầu từ ngày hôm nay, tôi đã thành một tay thợ tập sự trong một xưởng máy của nền “kĩ nghệ bạc bịp”!
Xin thuật lại những câu hỏi, đáp, dặn bảo nó đã ngẫu nhiên khiến ông ấm B… vô tình giảng ngay cho tôi bài học thứ nhất, quên hẳn nền nếp của pho “Bịp Kinh”, chưa kịp: Dạy rằng con lạy mẹ đây mà đã vội Này con thuộc lấy làm lòng…
- Thế có thật là ông biết đánh xì không?
- Nếu không thì đời nào nhận lời giúp cụ.
- Thế thì may lắm, ông đi hộ vệ hắn giúp tôi là tôi được vững tâm rồi. Trông ông có vẻ thực thà và sang trọng thế này, không còn ai dám ngờ vực gì nữa. Ông sẽ đi với nhà cậu đến xin người cản lúc nãy, tên hắn là Vũ, để hắn đánh đòn Vân Nam. Nguyên con mòng kia đã biết cái lối giác mất rồi thì ta phải đánh đến cái “miếng ngoại quốc” cho nó mất đỡ… Đánh giác có nghĩa là đánh tráo bài có dấu. Còn đánh đòn Vân Nam là đánh tráo bài. Nói thế ông đừng tưởng là lại tráo một cỗ bài có dấu sẵn khác vào bàn đâu. Vũ hắn sẽ có một vài cỗ bài đã xếp sẵn cho thành nước để trong túi, không có một tí ti dấu vết gì cả. Ngồi vào cuộc, ông nên nghe hắn đưa mắt bảo nên ngồi đâu để cản trở cho dễ, cái đó còn tuỳ… Mới vào đầu hãy cứ đánh siệng, nghĩa là đánh thật thà đã. Ông rất nên để ý vào lúc hắn khịt mũi hoặc uống ngụm nước súc miệng là lúc sắp đánh tráo bài. Hắn tuy vẫn ngồi xếp bằng tròn, nhưng bàn chân gấp vào dưới đầu gối vẫn có mấy ngón cặp lấy cỗ bài đã chuồn ở trong túi ra từ lúc nào không biết, phục sẵn… chờ khi khịt mũi
xong, tay cầm cỗ bài ở đĩa lên chang đi chang lại thật kĩ rồi, hắn uốn mình chống cái tay có cỗ bài ra đằng sau đùi để khạc, nhổ một cái rồi ngồi quay ngay lại để chia cho làng, là ông phải tìm cách vơ ngay cỗ bài dưới đầu gối hắn cho nhanh để giấu vào địa phận của ông vì… hắn đã đánh tráo rồi đấy!… Nhưng khi hắn chưa kịp tráo, nghĩa là giữa lúc hắn quay lại đằng sau định nhổ, khạc thì muốn cho cả làng không ai để ý, không ai trông thấy, ông phải bò nhoài ra trước mặt hắn để với lấy hoặc bao diêm, hoặc cái điếu ở bên kia đi, phía trước mặt ông. Thế là hắn đã đánh xong cái đòn Vân Nam mà ông cũng trọn bổn phận tên lính cản. Đây này, tôi ra hiệu cho ông thấy rõ… thế này đã hiểu chưa?
- Vâng, hiểu lắm rồi.
- Phải, có gì mà chả hiểu!… Đây, ông cầm lấy thiếc, ấy chết, khỉ quá!… Tôi cứ nhầm ông là “bịp lũa” rồi.
- Thế “thiếc” là cái gì?
Ông ấm móc ví đưa cho tôi ba cái giấy bạc năm đồng, cười mà rằng: - Thiếc là cái này!
- Sao gọi là thiếc?
- Vì nó là cái “mô tách ních”[18]của làng b… Thế tôi thử hỏi ông: người thợ có sẵn lò, sẵn mỏ hàn, sẵn axit đấy nhưng không có nổi mẩu thiếc thì còn hàn nổi đồ đạc gì cho ai?
“Thiếc”, chữ ấy ngoài những nghĩa đã có của nó, còn là tiền lưng vốn của bọn cờ bạc bịp, – tôi xin các nhà học giả nước ta để ý đến chữ ấy để chua thêm nghĩa cho nó, trong bộ Việt Nam tự điển sẽ xuất bản đủ bộ sau này.
- Xin mời ngài xơi thuốc.
Tôi đã ngồi cùng xe với bác kí Vũ – hay là bác bồi Vũ – đến toà nhà Tây ở phố Hàng Giò, rón rén bước qua cái sân rộng rồi lẻn vào ngồi trong căn phòng của người bồi ông chủ toà nhà ấy.
Bác kí Vũ đã giới thiệu tôi là quan tham với bác bồi An, chủ cái phòng này, trước mặt một ông đã đứng tuổi, nửa tỉnh nửa quê, chú họ bác bồi An, rồi bác lôi ngay con mòng ấy đi xe lên tận Hàng Ngang mua một cỗ xì mới.
Lúc tôi để chân vào căn phòng này, cái đồng hồ trên bàn phô ra đôi kim kéo một vạch thẳng từ trên trời xuống đất. Đến lúc bác bồi An mời tôi xơi thuốc, trước sau đã được nửa giờ. Trong nửa giờ, ngoài sự mời nước, mời
thuốc, chúng tôi chỉ mong vào tiếng tí tách của cái đồng hồ phá hộ cái không khí im lặng, khó chịu, nặng nề mà không thấy ăn thua.
Vả lại, ích gì mà chuyện? Đã “biết rõ” nhau như chúng tôi rồi, tưởng chẳng cần nói gì là hơn. Tôi đến đây, ngoài việc đánh bạc còn có việc gì, bác bồi An đã thừa biết. Mà sao tính của bác đối với ông chú họ bác nó ra sao, nhờ kí Vũ, tôi cũng đã rõ cả rồi. “Tri kỉ” gặp nhau, không cần nói, cũng đủ hiểu nhau…
Kim đồng hồ cứ việc chạy với thời gian.
Sau cùng, đó là bác An phải tự phá cái vẻ ngượng kín đáo, im lặng giữa hai chúng tôi:
- Gớm! Từ đây lên phố Hàng Ngang mà các ông ấy đi lâu thế! Thưa ông, thế chốc nữa ngồi vào cuộc, hai ông sẽ làm ăn như thế nào?
- Thế ông Vũ chưa dặn ông ư?
- Mới dặn qua loa thôi! Dặn rằng tôi cứ việc ngồi đánh như thường, đừng có tò mò để ý đến bác ta quá mà ông cụ biết thì lộ. Với lại, xem ý lúc nào bác Vũ khai chiến nặng dùi với ông cụ thì tôi nên bỏ dở, mặc cho hai người họ tố với nhau.
- Thế là đủ rồi.
- Tôi không cần… thi thố gì nữa?
- Cái thi thố, ông cứ để mặc về phần chúng tôi. Nhưng ông cụ ấy đã là tay thạo trong làng chơi chưa thì ông cho tôi biết rõ.
- Cái thạo thì chắc cũng có thạo vì ông cụ ấy đã… bán mất ngót chục mẫu ruộng vì đánh bạc rồi. Ông cụ ấy là một ông chú họ tôi, trước kia được nhờ vả thầy tôi nhiều lắm, từ khi khá giả lại vô ơn, đã không cưu mang lại còn rỉa cả đến cháu thì… ông ấy đã muốn chết cho ông ấy chết chứ… tôi cần gì.
- Thế ông cụ có sộp không?
- Trong lưng giắt đến ba, bốn chục bạc từ Phủ Lý ra đây định cân sâm cho con giai đang ốm thập tử nhất sinh đấy… Đi cân thuốc cho con mà thế đấy!… Nằm chờ ăn chực đã ba hôm ở đây để đợi đánh xì! Ông bảo thế không thịt thì có dại không? Mình không xơi thì cũng đến lượt chán vạn những thằng khác chúng nó cũng xơi!…
Chỉ nghe cái giọng ấy, tôi đủ lượng nổi lòng bác An căm tức ông chú họ
đến thế nào rồi.
Nếu những lời bác An vừa nói mà đúng sự thực thì lòng căm hờn kia cũng chính đáng lắm. Chúng tôi gặp được bác An ở gian phòng này cũng như là những đạo binh của Nhật hoàng sang Mãn Châu mà gặp được phế đế Phổ Nghi[19]. Có “nội công”, hẳn là chúng tôi dễ thành việc.
*
* *
- Đây là cỗ bài mới do chúng tôi vừa mới đi mua ở phố Hàng Ngang về. Bài mới nguyên, các ngài không sợ dấu vết gì nữa!
Người nói câu ấy không là con chim mồi Vũ, nhưng lại chính là con mòng, ông chú họ bác An.
Ông ta nói xong liền xé lần giấy bóng bọc cỗ bài, để cỗ bài vào đĩa. Ông cầm đĩa giơ vào giữa mặt mọi người phân bua một lần nữa, rồi, chẳng nén nổi những sự thâu lượm được trong khi lăn lóc ở trường đổ bác, ông lại còn dạy chúng tôi, “làm phúc” cho chúng tôi biết được những lối đánh xì gian lận giác bóng và giác mùi.
- Đây này, các ông trông những đường hoa xanh thẫm in trên lưng quân bài màu xanh nhợt. Những tay cờ bạc bịp, muốn đánh dấu bài, họ sẽ dùng một cái bút chì xanh tô cho những đường hoa đậm nét thêm một ít, tuỳ theo những quân: tây, đầm, trếch, hoặc sập, cẩu, bạt, thất, xì… Mỗi hàng có dấu riêng, hoặc vào góc quân bài, hoặc vào giữa, hoặc xế xế vào một bên, hoặc một vết dài dọc, hoặc một vết ngắn ngang, hoặc đám rêu vuông, hoặc đám rêu hình mặt trăng lưỡi liềm! Tô chì xong, họ lại lấy phấn trắng mà xoa lên trên quân bài cho dấu nhạt đi để khỏi có người nhận thấy. Họ làm như thế có nghĩa là giác mùi. Còn lối giác bóng nữa, lối này mới thật nguy hiểm hơn. Đáng lẽ dùng bút chì, họ lại dùng lòng trắng trứng gà pha với phèn chua kia! Họ lấy bút ta mới, chấm vào thứ nước hoá học ấy rồi tô vào lưng quân bài. Dưới ánh sáng đèn, lưng quân bài sẽ để ta hơi thấy những chấm sáng bóng. Ác nhất là khi tay bịp rút thì chỉ tay bịp mới thấy bóng, chứ xoay đĩa đi thì làng đố người nào mà nhận được ra! Muốn khám phá cho ra, thì phải để nghiêng quân bài, chứ để thẳng vào mắt mình thì vạn kiếp mình cũng không biết được. Nhưng đối với tôi thì đừng ông nào giở ngón này nọ… Tôi đã thạo quá đi mất rồi! Đố anh nào bịt mắt được tôi!
Ông nửa quê nửa tỉnh nói đến đấy, vênh vênh cái mặt, ra vẻ khinh đời. Kí Vũ, bồi An và tôi, cả ba đã phải đóng những vai kịch dớ dẩn.
Rồi chúng tôi ngồi vào cuộc, nào láng, nào tố, nào cắn tố, đánh với cái vẻ “ngậm miệng ăn tiền” của bồi An, đánh với cái “thực thà ngạt mũi” của kí Vũ, đánh với cái “thực thà sang trọng” của tôi, đánh với cái “thạo ra phết” của con mòng. Trong một giờ đồng hồ thua thua được được bất phân thắng bại. Tôi mong mãi đến lúc kí Vũ uống nước, chống tay quay ra sau lưng súc miệng, nhổ xuống thềm. Tôi thong thả bò nhoài ra:
- Bác An, đưa giùm tôi cái… điếu.
Rồi tôi vơ lấy cỗ bài đã thấy ở sau đùi kí Vũ, tay cầm sẵn gói thuốc, làm như bỏ nó vào túi, khoan thai quệt diêm kéo điếu thuốc lào. Cỗ bài đã chang thật kĩ trước khi mình nhổ nước rồi, quay lại, kí Vũ chỉ việc chia tự nhiên. Lớp đầu, tôi được quân trếch, bồi An quân đầm, kí Vũ quân tây với ông “thạo” quân xì. Đến quân sau lớp tây, tôi với bác An bỏ dở, mặc cho hai bên cắn tố với nhau.
Trống ngực tôi thấy rung lên thình thình.
Mòng có bao nhiêu tiền đã quăng ra tố hết! Lát đến quân tây, ông kia được ba xì, nhưng kí Vũ được những bốn tây! Kí Vũ ung dung vơ đống bạc giấy tới ngót bốn mươi đồng.
Lần này thì đến lượt bác bồi An ngẫu nhiên bò nhoài ra:
- “Ông tham”, ném giùm tôi cái điếu.
*
* *
Buổi sáng hôm sau, qua phố Hàng Lọng, tôi gặp bác An tiễn chân ông chú của bác ra tàu. Ông chú bác An rũ rượi người ra như con chim bị đạn.
Tôi đi bên này đường nên không ai trông thấy, chờ đến khi bác ta từ ga trở xuống, tôi mới lại gần…
- Kìa, ông tham!
- Vâng, tôi đang tìm ông, đưa ông chỗ này cho phải đạo.
Tôi đưa ra chục bạc. Bác An mừng cuống quýt, vồ lấy tập giấy bạc mà rằng:
- Rõ khổ! Sáng hôm nay tôi chạy long cả tóc gáy mới vay nổi đồng bạc cho ông lão về tàu. Xin cảm ơn ông.
- Ông lão sau có nói gì không?
- Chả nói gì cả. Ông ấy gặp cảnh cay như thế là sự rất thường! - Thế còn con giai ông ta?
- “Ốm no thì bò dậy” vậy… Thôi, chẳng qua là số nó chết, nó có vô phúc thì mới sinh vào làm con lão ta!…
Một hồi còi tàu rúc lên vang giời, xen lẫn với những tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt tưởng như lay chuyển cả phố Hàng Cỏ.
Tôi bắt tay bác An rồi gọi xe quay đi.
Nhân dịp này, tôi tình cờ được chục bạc “bổng”.
Nhưng khi nghĩ đến người con giai ốm kia phải có con sâm mới mong qua khỏi, khi nghĩ đến ông bố vô lương tâm đang ngồi ở một toa trong chuyến tàu vừa mở máy ấy, tôi không khỏi thấy trong mình khó chịu, hình như cũng bốc hoả lên vậy, dù chẳng giống với toa xe phun khói lúc rời sân ga…
IV
Ba nhân vật
Tôi đang nằm nghĩ vớ vẩn về sự dùng mười đồng bạc vừa hưởng được trong khi làm cái phận sự ngồi cản ở phố Hàng Giò. Chưa biết rằng nên để số tiền ấy tiêu vào việc gì! Để thù tạc mấy anh em trong làng b… cho sự giao thiệp được rộng thêm hay là nhờ một người bạn thân của mình lấy số tiền này làm vốn để đóng thêm một vài mòng cho mình khỏi mang tiếng với ông ấm B… là đồ vô tích sự? Giữa lúc ấy, bác Vũ đẩy cửa bước vào. Tối hôm nay, bác đã cất kĩ cái áo tây vàng và đóng một bộ quần áo chú rể: khăn nhiễu, áo đoạn[20], giày ban. Cách trang sức ấy đã chuộc được cho bác ta cái vẻ một dân thầy và gây cho tôi cái cảm tưởng như không phải mình gặp gỡ một tay bịp nữa. Ngồi chửa được hai phút, bác đã ân cần mời tôi đến chơi nhà bác ta. Tôi nhận lời, cùng bác ra đi, lên xe.
Lần này, tôi đã khỏi bận tâm trong khi lại ngồi chung xe với bác Vũ, không còn lo đến sự bất thình lình gặp phải một vài người quen, họ sẽ gật đầu đáp cái chào của mình rồi nhìn theo mình bằng con mắt soi mói như lần thứ nhất đến phố Hàng Giò. Lần ấy, tôi không hiểu rằng mấy người kia đã làm lạ là vì tại họ thấy tôi, một người không hề tạp giao mà lại đi ngồi chung với một cánh trếch, hay là tại bác Vũ một tay bịp lũa đến nỗi đã nhiều người rõ mặt, thuộc tên.
- Anh ngồi lùi về đằng sau cho họ kéo được dễ.
Mới hôm qua, lúc ông ấm B… ghép chúng tôi làm “đồng chí”, thoạt đầu nói với tôi, kí Vũ còn ra vẻ kính cẩn, thỉnh thoảng lại “thưa ông…” với “bẩm ngài…”. Sau lúc đã xúm vào cùng nhau “làm gỏi” ông lão chú họ bồi An trở đi, kí Vũ đã gọi tôi: “Này bác!…”. Đến hôm nay bác ta hạ ngay tôi xuống bực nữa là anh rồi!
Tôi đã ngoạm phải chục bạc rồi, còn ai cần giữ gìn với tôi?
Kể ra, gọi thế cũng tiện, sự xưng hô đó chẳng những không làm tôi phật ý mà còn cho tôi được dịp biết thêm rằng: những người đã cùng nhau tham mưu chung một việc gì thì dễ thân nhau lắm. Nhất là khi nào mưu tính những việc có tính cách… phi pháp như chúng tôi đây, bọn đồng nghiệp lại càng được thể dễ suồng sã với nhau.
*
* *
- Ông nào đến chơi thế con?
Sau lời chào kính cẩn của tôi, bà cụ đầu tóc rũ rượi nằm cạnh một bát thuốc ở trong màn với tay vén màn ra, gượng cười mà chào lại tôi rồi quay sang hỏi anh Vũ thế. Anh ta vội ra hiệu cho tôi đừng nói gì cả, rồi đáp lại mẹ rằng:
- Thưa đẻ, đây là ông kí làm cùng buồng giấy với con. Chính ông đã cho con vay tiền để mua cao cho đẻ đấy.
Trước sự bất ngờ đến bậc này, tôi chỉ biết đứng im như tượng gỗ, không còn biết nói năng sao. Bà cụ giở một cái gối để ngay đầu giường, lấy bánh cao ra ngắm nghía, rồi vừa thở vừa nói rằng:
- Xin cảm ơn ông lắm! Rõ quý hoá bụng ông quá, em nó thật tốt số lắm mới gặp được ông. Thôi thì ông nên hết sức trông nom che chở cho em nó hộ tôi để chúng tôi chịu ơn ông một thể…
Tôi đành phải lựa lời nói dối bà cụ:
- Được ạ, bác ấy đã vào làm với con thì cụ cứ yên lòng.
- Mời bác ra ngồi chơi với em… Đặt ấm nước đi con!
Chúng tôi kéo nhau ra ngồi tận đầu phòng đằng kia để bà cụ được tĩnh. Anh Vũ đăm đăm đôi mắt nhìn tôi một cách cảm động rồi kể lể cái đoạn đời “chẳng ra gì” của anh.
Đó là một người trong số nghìn vạn người bị kinh tế làm thành ra thất nghiệp.
Có một khối óc minh mẫn, có hai cánh tay ưa hoạt động, anh ta nay lâm phải cảnh mà ở trong đó, anh mới tỉnh ngộ ra rằng những câu luân lí: “Sinh ra làm người, ai cũng có bổn phận làm việc”, đối với cuộc đời đã thành ra rất vô nghĩa lí, đến nỗi không có lấy một chút giá trị tương đương. Giữa lúc “ưu nhàn bất đắc dĩ”, giữa lúc phải lo tiền thuốc cho mẹ ngoài các việc phải chạy gạo từng bữa nữa, anh ta may gặp được ông ấm B… truyền ngón cho để mưu sự sống tạm. Nay, gần thuộc nghề, đã có thể chạy được cả tiền mua cao cho mẹ, anh ta chỉ còn phải lo sao cho mẹ được vững dạ rằng con “đã có việc làm”.
Cái lòng hiếu của anh ta đã làm cho anh ta hoá ra mạo hiểm! Đây, anh
nói:
- Tôi còn mẹ già mà anh thấy đó. Mẹ tôi chỉ có một mình tôi, goá chồng từ khi tôi còn bú, mà ở vậy được nuôi tôi, không phải là ít công ít của! Nhưng tôi chưa làm nổi một việc gì để báo đáp… Tôi đã nghĩ thiên phương bách kế mà không tính được nước gì nên cùng đồ, phải muối mặt theo nghề này… Tuy vậy, tôi cũng còn may chỉ phải cờ gian bạc lận thôi, chứ giá phải trộm, cướp, giết người mới có cách nuôi sống mẹ tôi, có lẽ tôi cũng đến phải làm cả! Anh tưởng hễ là con bạc bịp thì không ai có mẹ nữa à?
Đến đây anh Vũ mới chuyển cái giọng căm khổ sang một giọng khác:
- Hôm nay tôi đã khoan khoái một chút. Sự ứng đối có ý thức của anh lúc nãy đã có thể… cứu sống được mẹ tôi. Còn việc tôi đã làm cho anh phải ép lòng đóng kịch trong giây lát, xin anh tha lỗi vậy…
Rồi anh cười vui.
Nghĩ cái đời anh rõ đáng phàn nàn và cũng đáng thương!
Những phương tiện của anh Vũ trong nghề cờ gian bạc lận tôi đã nói rõ, tôi chỉ còn muốn biết quan niệm của anh ta về Cả Ủn với ấm B…
Tôi phiền anh ta cho biết tường tận cuộc đời kì lạ với những thủ đoạn của hai người này…
Nghĩ một lúc, anh Vũ:
- Ta hãy tưởng tượng đến cái thời mà bọn Ba Sống, Hai Tôm…
*
* *
Vào thời ấy, Ba Sống, Hai Tôm là hai nhân vật quan trọng của xã hội. Ngoài việc làm cho “đồng tiền được lưu thông trong xứ”, họ còn làm cho bọn tổng lí “đánh mất” tiền thuế bị cách, đám viên chức thụt két bị tù… Ấy là chưa kể rằng những việc của những người trên này còn đẻ sinh đôi, sinh ba ra bao nhiêu công việc cho nhiều người khác nữa.
Một ông trùm trong hai ông trên này cũng đã có dưới quyền sai phái đến non trăm tên tạ với hai bác tài. Bác tài nghĩa là… bác tài. Còn tạ là những anh đầu trâu, mặt ngựa, chuyên môn đi đón khách cho sòng, hạng người hai, ba lá mặt, đang mời chào ân cần đấy mà có thể giở giọng thô bỉ ngay đấy, vừa đóng những vai đầy tớ dễ bảo lại vừa là du côn. Chúng vẫn cúi đầu mở cửa xe hơi cho bọn khách cờ bạc mà chủ chúng đã đi lôi kéo ở các tỉnh xa về Hà Thành hoặc vẫn vây quanh lấy những xe tay đón mọi người vào trong
“lưới nhện” của chúng.
Có đứa chỉ dắt khách để cho khách gỡ lấy cái chết rồi bằng vào số tiền của khách thua mà ăn phần; cũng có đứa ăn lương ngày, lương tháng nữa. Chúng đã giúp hai ông trùm để làm cho xã hội “có việc” nghĩa là giúp trùm ngày ngày phá đổ một toà nhà này để xây dựng toà nhà kia.
Trong bọn tạ của Ba Sống, Hai Tôm có một chú Tàu lai trông người rất phúc hậu. Vì lấy vợ An Nam và không bao giờ nói nửa câu tiếng Tàu, đồng bào ta tưởng chú cũng là đồng bào. Có một mụ hàng cơm ở xế cửa nhà cũ vẫn gọi tâng chú là ông phán. “Ông phán” này cả ngày chỉ ngồi đếm ô mai cho vợ trong một cửa hiệu bán đồ vặt rộng không hơn cái lỗ mũi ở phố Cầu Gỗ chứ không từng sớm vác ô đi, tối vác về bao giờ. Nếu mụ hàng cơm thấy trong đám khách nhà mình có kẻ nào có máu mặt một tí là mụ đem ngay mồi đỏ đen ra dử, bảo khách: “Các ông tiêu khiển một lúc cho qua thì giờ” và bảo thằng nhỏ: “Mày sang trước cửa mời “ông phán” sang chơi”. Từ cuộc cò con đến cuộc đi gỡ sòng, đối với hạng khéo mơn, không có gì là khó.
Hai người chỉ có việc thế mà tháng tháng nhận được hàng cọc tiền lớn của Ba Sống và Hai Tôm.
Hai năm sau, chú Tàu lai có một nóc nhà. Năm sau nữa, chú có hai nóc nhà. Bây giờ, con trai chú vẫn cưỡi xe đạp luých sơn màu cánh gián đi học “lít-xê”. Vợ chú thì đậm đà ra, trông như một bà lớn mà chú cũng thành một ông phú hộ Việt Nam.
Chú tên là Cả Ủn.
Lúc “người giữ cái két lớn nhất của làng b…” còn là một anh tạ, có một cậu ấm sống sót bằng sự đã tìm nổi cách trừ khử những “cái đáng nơm nớp lo ngại là cái đỏ, cái đen trong sự bạc bài”. Cậu ấm vẫn tìm một con đường tự lập mà mãi không xong vì chẳng mấy khi có thiếc. Vì thế, cậu phải chạy đến nhà Cả Ủn vay lãi hoặc đem mòng đến đó bắt cho tiện. Nhưng cậu tuy mất công xông pha trên trận tiền mà thường chỉ được nhận có một phần tư số tiền của bọn quých thua. Vì Cả Ủn ngồi vào cản đỡ mất một phần, rồi lại con hắn đứng hầu quanh đám bạc, rót nước, chia lại bài cũng hưởng một phần thứ ba nữa. Công lao của cậu ấm kia thực là công cốc!
Cậu ấm tuy có cái tật tiêu tiền như phá nhưng cũng có đức khác: thấy trong bọn anh em có ai túng bấn là lôi ngay vào bàn làm tạ để có một cớ giúp anh em. Trong sự đánh bạc, vì mải để người khác hưởng, cậu chẳng ăn thua gì, dù vẫn nổi danh là tay “thanh”. Nổi danh là gì thì đáng mừng chứ nổi danh là cờ bạc bịp thì chỉ có chết, cậu ấm đến lúc lê cái địa vị có người
gọi là ông hoặc là cụ, thành thử phải ngồi bó tay một chỗ, đành giữ cái chức cố vấn, nhường cho bọn đồ đệ chiến trường. Sau nửa đời người hết cách xoay, đến nay, vẫn chỉ xơ như nhộng.
Cậu ấm đó bây giờ là ông ấm B…
Cả Ủn với ấm B… hai người “cầm cân nảy mực” cho đảng bạc bịp ở Hà Thành, đối với người ngoại cuộc tuy được coi như hai cánh tay cùng một thân thể thật, nhưng một kẻ trở nên giàu, một anh vẫn kiết xác, thì chỉ một lẽ xưa kia hai bên đã cùng nhau chia bùi sẻ ngọt, lăn lóc trong một nghề, chẳng đủ lấp nổi cái hố giữa hai bên.
Chung quy, hai ngọn núi cao vẫn cách bức nhau bằng một vực thẳm.
*
* *
- Con ơi, con cắt thêm cho đẻ mấy miếng cao!
Lời bà cụ truyền ra, anh Vũ cũng vừa xong câu chuyện. Anh đã thuật chuyện người khác, thế đối với tôi đã là đủ, anh chẳng cần phải nói thêm về chuyện anh.
Hôm nay, tôi được biết ba người. Ba người có thể tiêu biểu cho cái tinh thần của làng bịp.
Tôi rất vui lòng khi thấy anh Vũ cầm một đĩa cao đầy dâng mẹ, nhưng cũng không khỏi ngẫm nghĩ đến nỗi không có thuốc của người con giai lão già thua bạc ở nhà bồi An. Muốn dò hỏi đến tận đáy lòng một người tri kỉ mai sau của tôi, tôi đánh bạo hỏi Vũ câu này:
- Anh có hối hận vì chúng mình đã cướp tiền thuốc của con giai người, đem về tiêu xa xỉ và săn sóc cho người nhà mình không?
Thì ra anh Vũ đã hiểu được tôi rồi. Vì anh không tỏ ý giận chút nào, chỉ thản nhiên vặn lại tôi:
- Thế ngộ chúng mình đã thua nó?
V
Bốn đồng ngửa sấp
Ông Nguyễn Đình Mầu là một tay cự phách trong nghề buôn gỗ. Cái két lù lù như cái tủ áo của ông, lúc thu tiền bán gỗ, ních chặt những giấy bạc, thường khi vì đem tiền gửi nhà băng mà vơi hẳn. Không những là tay buôn lớn, ông lại còn là người nổi danh trong làng chơi. Xuống xóm chị em, chỉ một chầu xoàng, ông thường quăng ra được trăm bạc[21]. Đánh bạc, thua năm, bảy trăm, một nghìn, ông nói: “Thế có thấm gì! Cờ bạc cò con!”
Hôm nay, uể oải nằm trên chiếc ghế chao, ông có vẻ nghĩ ngợi.
Đêm hôm qua, trong lúc cao hứng, ông đã thua một canh xóc đĩa tới đúng một nghìn. Một nghìn tiền mặt với ba trăm tiền “nước bọt” nữa. Tiền “nước bọt”, ông tạm vay của một ông nghị ông mới được hân hạnh quen biết, để đặt một cái chẵn cuối cùng rồi rũ áo đứng lên.
Ông được quen ông nghị vì anh em giới thiệu: người ấy là một người vừa xin được một cái “péc mi đờ cúp”[22]. Kết giao với người như thế, ông cầm chắc sẽ có lợi cho sự buôn bán sau này…
Một nghìn với ba trăm, một số tiền ông vẫn cho là “cò con”, lẽ nào khiến ông đến phải… nghĩ ngợi? Không! Ông chẳng nghĩ ngợi gì vì số tiền ấy, ông nghĩ là nghĩ đến lời quả quyết của một người bạn thân nói với ông, sau khi hỏi thăm đến chuyện thua bạc: Thôi chết! Bọn bịp nó thịt bác rồi. Người bạn ấy lại cam đoan rằng bịp chính là cái anh chàng tự xưng là “ông nghị”. Chỉ một câu này cũng đủ khiến ông dựng đứng tóc gáy lên, như đang lần bước trong khoảng tối tăm mà giẫm ngay phải một con chuột chết vậy.
- Ông nghị ấy là bịp! Có lẽ nào?
Thế là ông đâm ra nửa ngờ nửa tin.
- Người ông mới được quen có thật là viên hàng tỉnh trên thượng du hay không chẳng biết, nhưng cứ cái dáng người bệ vệ, đứng đắn phong lưu ấy, cứ sự cùng thua với ông hơn bốn trăm bạc, mà lại bảo là bịp thì có lẽ nào!
- Thời buổi này, người ta có hàng trăm, hàng nghìn chiếc mặt nạ để đeo vào rồi tha hồ mà “kinh tế”, sự cùng thua bạc với mình kia chỉ là một khoé
rất khôn ngoan phụ thuộc vào việc xếp cảnh, biết đâu!…
Chưa biết quyết nên ngờ hay tin, ông còn hoài nghi, nghĩ ngợi…
Đến đây, người vú ẵm cậu con út của ông bước vào. Cậu bé, hai má bánh đúc lại lúm đồng tiền, tuổi chưa đầy lên hai, cứ nhoài người ra, tay mũm mĩm giơ đến phía ông, miệng ấp úng gọi: “Ậu! Ậu!…” Chẳng như mọi lần khác, thấy con theo mình thì ông xốc ngay vào lòng để hôn con cho đến phát khóc, phát thét, lần này ông quắc mắt quát người vú: “Ẵm nó ra ngoài kia!” Rồi ông lại tự gắt với mình: “Thì nghĩ ngợi làm cóc gì? Chốc nữa người ta đến đây đòi tiền, mình sẽ lựa lời đưa đẩy, dò xét ý tứ xem sao rồi… nếu quả như lời… thì… cho một vố!” Phải, nghìn ba trăm bạc tuy không là bao nhưng là của bị mất, không vì đỏ đen mà lại vì bịp, còn chi đáng tức cho bằng? Cho một vố, tuy định như thế rồi nhưng nói cho cùng, chính ông, ông cũng chưa hiểu rõ rằng “vố” là cái sự gì ông định thi thố đây!…
Thôi đi, ông Mầu ơi, ông không phải doạ! Đúng như lời hẹn, cái người ông đang nóng lòng chờ đợi để mong lột hẳn chiếc mặt nạ ra cho rõ đen, rõ trắng, đã đứng ngoài phòng giấy ông đây kia.
- Bẩm lạy quan lớn…
- Không dám ạ… Lạy quan lớn, rước quan lớn ngồi.
Ông Mầu vội vàng đứng dậy, bỏ chiếc ghế chao, quay vào phía trong: - Anh Ba đâu?… Đặt nước chè!
Ấy đấy, trước mặt người khách trông rất bệ vệ, sự hấp tấp giữ nghi lễ của ông tỏ rằng chưa chi ông đã sắp bại trận. Phân ngôi chủ khách đâu đấy rồi, ông Mầu nhìn chòng chọc khách một cách có ý tứ, như muốn nói: “Ông rõ mày rồi, ông sắp giật cái mặt nạ ở mặt mày xuống đây…”. Còn khách thì vẫn thản nhiên như không để ý đến cử chỉ của ông chút nào.
Lúc này, giữa hai người có luồng không khí im lặng rất khó chịu… Vì cả hai bên có lẽ cùng đoán được rằng sẽ có sự không hay xảy ra.
- Quan lớn đến lấy số tiền hôm qua tôi vay?
- Bẩm vâng ạ.
Ông nghị đáp thế rồi đưa mắt nhìn khắp gian phòng. Thế là cả hai lại ngồi im một lúc lâu, người tìm câu nhập đề, kẻ tìm câu ứng đối. Cuộc “chiến tranh tĩnh toạ” này nếu không được đứa đầy tớ bưng ra khay nước chè thì chưa biết bao giờ mới có hồi trống thu quân. Sau cùng ông Mầu đánh bạo:
- Canh bạc hôm qua, có người đã nói rõ cái lẽ tại sao tôi thua rồi; ngài dạy hộ: bây giờ tôi nên xử trí với ngài ra sao?
Cái vẻ ngạc nhiên ngây thơ của ông nghị nó hiện ra sau câu nói đường đột, lạ tai kia, hầu như muốn gọi quỷ thần hai vai soi xét.
- Thưa ngài, ngài nói gì, tôi không hiểu, ngài nói lại cho nghe!
Trước cái thái độ rất bình tĩnh ấy, ông Mầu cũng hơi chột dạ, đã tưởng mình lầm. Nhưng ông cũng liều một phen mà quả quyết:
- Thôi đi, ngài đừng giả ngây, giả dại nữa. Chính tôi đã bị ngài bịp, tôi rõ mọi khoé của ngài rồi.
- Tôi… bịp ngài à??? Lấy gì làm bằng cớ?
- Tiếc rằng lúc ngài hành động tôi lại không có sẵn cái máy quay phim!
Lời doạ của ông Mầu thế mà có công hiệu. Ông nghị chẳng còn đóng nổi cái vai kịch ngạc nhiên nữa, mà vẻ bẽn lẽn hiện ngay trên mặt. Thấy thế công của mình có phần thắng, ông Mầu phóng thêm một mũi thương nữa:
- Chỗ người lớn với nhau, ông cứ nhận đi là phải. Ông làm nghề bạc bịp thì cũng như tôi làm nghề buôn gỗ chứ có khác gì? Ông có gan nhận, tôi xin phục là người quân tử, nếu ông chối thì chối cũng chẳng được nào mà lại tỏ mình là tiểu nhân.
Biết rằng việc mình làm đã bị người tố giác, lại muốn làm “quân tử” nữa, ông nghị trơ trẽn mà rằng:
- Vâng, quả có thế…
Nghe câu này, ông Mầu sung sướng như một vị quan toà đã khám phá nổi một cái nghi án, cười mà hỏi đùa ông “nghị bịp”:
- Việc đã vỡ rồi, thế thì bây giờ ông đến đòi tiền tôi hay để tôi đòi tiền ông?
- Tôi đã coi ngài là người quân tử mà nhận việc tôi làm một cách quân tử như thế, tưởng ngài chẳng nỡ nào dùng cách… tiểu nhân đối phó với tôi. Nếu tôi cứ nhất mực chối cãi, không có bằng cớ, thì ngài làm gì? Ngài vừa bảo rằng cái bịp của tôi cũng là một nghề cũng như đi buôn, được ăn, thua chịu chứ.
- Thôi, ngài có gan nhận, thế là quân tử, đã đành. Mà tôi vẫn giữ thái độ quân tử, nghĩa là không đòi lại số tiền đã thua. Thôi, xí xoá!…
Người đời ai đã làm việc bậy, sau khi bị lột mặt nạ, thường có thói lại làm già cho được đỡ trơ bằng cách thuyết đến những lí luận cao xa, viển vông hay là bỏ đạo đức bằng cách nguỵ biện. Ông nghị này cũng có thói ấy. Bị người đánh mình trúng phải chỗ yếu, ông nghị cũng tìm cách trả miếng vào giữa chỗ yếu kẻ đã quật đổ mình.
- Tôi vẫn chưa chịu… Được rồi, ngài trả nữa tôi cũng ơn mà không tôi cũng phải chịu thật, nhưng đó là đối với người khác tôi mới thế, chứ đối với ngài… quyết không!
- Làm sao?
- Tôi đã có cách… Nhược điểm kia, tôi đã nắm được rồi. Ngài tuy là người có máu chơi bời nhưng là người con chí hiếu. Ngài nên biết: tôi sẽ mách cụ bá nhà…
- ???
- Thật đấy!
- Thì ngài được lợi gì?
- Chẳng lợi gì cả. Nhưng để cụ biết rằng ngài là người con hư… thế thôi. Ôi cái tâm lí người đời sao mà nó kì lạ!
Ông Mầu đem mồi quân tử ra khiến ông nghị phải nhận mình là bịp thì ông nghị lại lấy mồi chí hiếu bắt ông Mầu đã quých lại quých thêm. Hai con cáo già xoay nhau cùng bằng luân thường, đạo lí cả. Thì ra dù là bịp hay là lương thiện, ta vẫn bị cái luân thường, cái đạo lí nó thuốc ta, hoặc ta bịp ta! Ta giống mọi người, mọi người cũng giống ông Mầu, lại đến lượt ông Mầu giống ta, chung quy nhất loạt đều để cho cái luân lí, cái đạo đức nó vẫn bịp mình mà không biết!
Cho nên sau khi nghĩ ngợi hồi lâu, ông Mầu đứng lên ra… mở két! Sự không ngờ là ông Mầu lại trao thêm tiền cho người đã bịp mình một cách cảm động nữa, và thêm:
- Ba trăm bạc là quý nhưng gặp một người… tri kỉ còn quý hơn. Tôi chẳng chịu mang tiếng tiểu nhân với ngài.
Ông nghị cầm lấy tiền:
- Dù sao tôi cũng biết phân biệt những ai tiểu nhân, những ai quân tử ở đời. Chúng ta còn nhiều phen gặp gỡ.
Rồi ông đẩy ghế, đứng lên.
Nhưng ông Mầu giữ lấy vạt áo ông nghị, cười mà rằng:
- Khoan đã!… Đệ đã được rõ cái tài của huynh đâu!
Ông nghị cũng bật cười, lại ngồi xuống. Hôm nay, ông Mầu mới được dịp đặc biệt rõ rằng bốn đồng tiền giấy tuy là những vật vô tri vô giác thật, nhưng ai để công luyện tập cũng có thể sai khiến nó cứ lộn tung trong cái bát cái đĩa, rồi úp sấp hay lật ngửa theo như ý muốn của mình…
*
* *
Khối óc của người ta còn có nhiều phen nghĩ cách chống lại được cả tạo vật, biến đổi được cả cơ giới, lẽ tất nhiên chẳng khi nào người ta chịu để yên cho bốn đồng tiền giấy kia được tự do úp sấp, lật ngửa. Cái công dụng của sự sấp, ngửa kia lại còn to tát đến nỗi tuỳ nó, người ta phải bán nhà, cầm ruộng, hoặc là được tậu ruộng, cầm nhà thì tìm cách sai khiến được đồng tiền cho tuỳ theo ý muốn, khó đến thế nào nghĩ cũng phải ra.
Vào khoảng trước năm 1900, có một tên tạ của trùm Ba Sống sáng kiến được lối đánh xóc đĩa đòn kim. Anh này dùng một cái đĩa lồi lòng với một cái bát trông tưởng là sâu nhưng chính ra lại rất nông, vì nó dày gấp đôi thứ bát khác. Cuốn “Sự đổ bác” nếu chép đến đây tất phải dùng đến bốn tiếng “thời đại bát thửa” vì các lò bát hồi ấy thỉnh thoảng lại được tiếp một người đi giày Tàu, vận quần áo lụa, đến thửa một chục bát đong chè lòng rất đầy bằng một giá khá cao. Đòn kim là thứ đòn rất dễ ăn, vì nó bắt canh bạc cứ rền tràn. Đợi lúc mọi người đã nóng mắt, canh bạc đã có vẻ xô xát, lúc ấy, bọn tạ mới dàn quân cản trở, một anh sà vào đặt một tiếng chẵn hay lẻ bằng một cuộn giấy bạc tướng, hung hăng mở bát, ném hẳn cái bát ra tận cuối… thế giới đằng kia! Người ta không ai còn thì giờ để ý nữa, vì tôi thua thì tôi còn ngẩn người ra tiếc của. Ông được thì ông cũng chỉ biết chúi mũi xuống chiếu, hò hét giam tiền. Lúc hỗn loạn ấy là lúc họ tráo cái bát thửa vào và đã giấu biến hẳn cái bát cũ kia đi.
Địa vị cái bát thửa chỉ được người ta coi trọng trong một vài năm, sau vì thấy lợi, thiên hạ ùa nhau vào trọng dụng nó quá, làm nó dậy tiếng quá nên nó phải chịu cái số phận chết yểu.
Một anh tạ khác, dưới quyền Hai Tôm lại sáng kiến được ngay lối đánh xóc đĩa đòn ve, thay vào đòn kim. Người ta lấy năm, sáu viên bi ở trong bánh xe ô tô bỏ vào trong cái túi khâu kĩ lưỡng, buộc giấu ở cổ tay… Lúc xóc, người cái nghiêng đĩa cho bốn đồng tiền giấy bị cặp chịt vào miệng bát cho không “cựa cậy” được nữa. Ai cũng tưởng tiền vẫn dậy đó nhưng tiếng kêu
tanh tách mà mọi người tưởng tiếng bốn đồng tiền trong bát đĩa, chính lại là tiếng kêu của những hòn bi trong cổ tay người xóc. Cho nên ta phải ngạc nhiên khi thấy rằng ông này đánh xóc đĩa cao quá, bán hàng chục bát không thua bát nào cả, hoặc canh bạc ấy rất quái lạ, đúng 20 tiếng chẵn rền! Có cái thuật này rồi, bọn bịp cứ tự nhiên vơ tiền bỏ túi sau khi phán: lẻ về, bán chẵn, bán lẻ, thừa chẵn, thừa lẻ.
Tinh ma hơn nữa, còn có người có “hoa tay” đến nỗi vừa xóc vừa dòm trộm vào trong bát, đánh mười tiếng cũng trúng cả mười: dù đã nghi mà rình mò, mà tuần thật kĩ, cũng đố ai khám phá được ra.
Ông nghị đã thịt ông Mầu bằng ngón đòn thứ ba này vậy.
Nhưng ông nghị đã bày trò cho một tay sai của ông giở đến đòn trinh thám kia, còn mình trong lúc ấy, lại vào hùa với ông Mầu, cùng đánh với ông. Cho nên đánh bạc đã già đời đến như ông Mầu mà còn bị cho vào xiếc.
Ông nghị kể trên nào phải ai xa lạ, chính là ông ấm B… Còn người cho tôi được rõ thủ đoạn “tàng hình” với “chính khách” của ông ấm… là kí Vũ.
*
* *
Vào hồi Tự Đức, tỉnh Hải Dương với Bắc Ninh có giặc Cai Vàng. Đồng thời với giặc Cai Vàng, nước ta còn bị bọn giặc Tam Đường là bọn giặc Tàu tràn sang quấy nhiễu. Bọn Tam Đường lại có thể là lính được, nếu triều đình nước nhà biết cách dùng họ. Dân gian đều có ý ấy và dần dần ý ấy thấu đến tai vua.
Tại Hưng Yên có một vị quan huyện muốn hấng lấy cái trọng trách mộ bọn khách Tam Đường. Tiền trong công khố chẳng đủ, quan huyện tìm cách… kinh doanh.
Quan nghĩ ngợi trong ba hôm, đến hôm thứ tư, sai lính trải chiếu la liệt khắp sân huyện đường cho dân tự do mở bát. Canh bạc ấy có thể bảo là không tiền tuyệt hậu ở đất Nam. Hồ lì là một thầy đề, xóc cái chính là quan huyện. Con bạc gồm đủ ta lẫn khách, đánh phần nhiều bằng bạc nén. Thoạt đầu, quan chỉ bán chứ không mở. Canh bạc đã thấy xô xát, quan mới đứng dậy, để cái chức xóc cho một người dân. Quan lảng vảng ở ngoài, có ý dò thế trận. Hốt nhiên quan vào mở một tiếng, thua to! Mặt quan tái như gà cắt tiết. Rồi quan bảo thằng người nhà trông hộ bát, đi phóng uế một lát rồi vào. Lúc vào, quan hò cả làng đặt tiền ra xong, cầm ngay bát chực mở… Cả làng xúm vào kêu quan chưa xóc nhưng quan nhất định là đã xóc rồi. Lần mở trước,
quan kêu là chẵn đã phải giam. Thấy quan lẫn, cả làng lại xô nhau vào đánh chẵn. Mấy chú khách thương hại quan đã quá thua nên lẫn, quả quyết là quan chưa xóc. Nhưng quan vẫn nhất mực là đã xóc, họ bực mình, ra điều “đã muốn chết thì cho chết”, ồ ạt cá nhau đặt tiền vào chiếu chẵn. Quan cầm bát vừa mở… vừa kêu: lẻ về! Rồi quan vơ hết cả những đồng nén bạc vì… lẻ thật, thế có lạ không?
Cả làng ai cũng lấy làm kinh ngạc. Không ai đoán được rằng lần mở trước, chính là lẻ nhưng quan đã xướng lên là chẵn rồi úp bát ngay, giam tiền. Quan đã đánh vào chỗ yếu mọi người là cái lòng tham. Đòn này ta nên gọi là đòn hiệp sĩ mới phải.
Hôm sau, quan có đủ số bạc nén để mộ bọn giặc khách vào làm lính, phái đi đánh giặc Cai Vàng!
Đòn hiệp sĩ này, nhiều người ngày nay còn chép cũ. Những người ấy tuy không dùng đòn để xoay tiền dùng vào những việc hiệp, nhưng hầu hết là bọn người gọi là thượng lưu.
VI
Ruột quân xúc xắc
Nếu có ông thánh số học tính được từ độ số ngôi sao mà khi trả tiền xe lúng túng mãi không xong cái tính cộng, nếu có nhà sử học đại tài mà tường thuật đám ẩu đả sai, thì cũng có ông thạo làu làu ngón bịp mà chung thân vẫn mắc đủ ngón đòn. Ông ấy là một ông chú họ.
Đã giới thiệu cùng độc giả ông chúa nghề bịp, tôi lại muốn độc giả làm quen với một ông chung thân là “con bò vắt sữa” cho tụi ông ấm B…
Cái máu đánh bạc của ông chú tôi không hiểu nó pha chất đỏ, đen thế nào mà mỗi khi đả động đến ông, ai cũng phải lắc đầu mà phê một câu… “bút khôn xiết tả!”. Làm cho nhà nước lương tháng đã tới hơn hai trăm đồng, ông thường bắt vợ, mới vào ngày mồng 10 đầu tháng trở đi đã phải chép miệng: “Túng quá! Nhà không còn lấy một xu!” Bình phẩm ông, những người quen thuộc đã ban cho ông cái đức lớn: lột áo người sống, bán áo người chết. Vì đã có lần vào lúc ông mải “gỡ”, một ông bạn thân (thân lắm!) đến chơi với ông đã bị ông mượn cái áo mồi đem lên Vạn Bảo[23], để bạn cứ phải nằm dài đến nửa tháng chờ áo ở nhà mình; lại có lần nữa, bên láng giềng có người chết, tang gia giữa lúc bối rối đem tiền sang nhờ ông đi hộ cỗ ván, ông cũng có gan đem ngay số tiền “cắt cổ” ấy đi nướng đến tong hết!
Ông chỉ biết hễ hôm nay có tiền là phải đi đánh bạc cho thua nhẵn nhụi ngay, chớ ngày mai có còn gạo hay không là ông không cần biết. Ngày nào vợ ông cũng nói ông như xẻo từng miếng thịt một mà ông cũng vẫn sống được bình tĩnh như mọi người.
Hôm nay, tôi tìm đến ông, có ý muốn làm một điều hữu ích cho ông, muốn nói rõ cho ông rằng bây giờ, người ta đánh bạc không đỏ đen nữa, muốn…
Tôi bị một chuyến tẽn! Ông chú tôi, nửa đời người lăn lóc trong trường đời đổ bác, đã thạo lắm, không để cho một ai thịt nữa rồi! Nghe giọng ông, tôi phải tin rằng ít ra ông cũng có sự đụng chạm thân mật với ông ấm B… Ông cắt nghĩa cho tôi hiểu những sự tôi đã thừa hiểu rằng:
- “Ấm B… tên tục là Tư Quân, trong khi giao tiếp với bọn bồi bếp còn
có tên là ông Cửu và trong khi giao tiếp với hạng thượng lưu lại là ông nghị. Ngồi với các ông châu, ông huyện, ấm B… thừa tư cách nói chuyện: tên này chạy chánh tổng như thế, tên kia chạy lí trưởng như thế… Ngồi trong đám trếch, ấm B… cũng đủ cái thạo đời nói những câu: món nui[24]này phải làm thế này mới khéo, hầm một con ngỗng phải có ngần ấy típ[25]mới thật ngon…
“Ấm B… còn một bọn đồ đệ thuộc đủ hạng người: Cả Sinh, chủ ả đào; Đại Thiềng, chủ hiệu giày; Khương Sinh Từ, trùm du côn; Mỹ Bối, chủ hiệu vàng bạc, vân vân… Ngần này hạng người đủ trong các giới chỉ quanh năm ngày tháng làm cái việc bắt mòng cho ông. Có thể nói rằng những cuộc rối loạn xảy ra trên khắp mặt địa cầu phần nhiều do cái bàn tay bí mật của Mạc Tư Khoa gây nên, thì những cuộc liểng xiểng của bọn thờ “chủ nghĩa đổ bác” ở khắp Bắc Kỳ ta cũng đều do cái bàn tay bí mật của ông ấm B… dính vào vậy. Hơn hẳn Staline về một phương diện, ấm B… đã đặt cho toà nhà mình ở phố Hàng Cá là “kinh đô của đảng bạc bịp” trong khi Staline chưa được lúc gọi: Moscou, capitale du monde[26]. Ấm B… ngã vào đâu cũng có thể “giựt” nổi trăm bạc[27]. Những người giữ việc tài chính cho ông ta, vì nghề như Cả Ủn cũng có, vì lòng nghĩa hiệp cũng chẳng phải là không. Thí dụ: ông Nguyễn Đình Mầu! Ngoài ra, lại còn bao nhiêu: me tây, cô đầu, hàng xáo nữa…
Ô hay! Thì ra ông chú tôi cũng đã rõ gần khắp mặt! Thế mà còn có người bảo ông vẫn quých, vẫn bị cho vào xiếc thì có lạ tai không?
Tôi hỏi trong sự cờ bạc, cái ngón sở thích của ông vào bậc nhất là chơi gì. Ông kể lể rằng:
- Trạc xếch! Tài bàn, tổ tôm, xóc đĩa, bất, lì xì, cái gì họ cũng bịp được tuốt! Chỉ có món trạc xếch là không anh nào giở nổi lối bịp mà thôi.
Tôi gạn xem ông có dám quả quyết như thế không, ông đáp rằng rất có thể quả quyết được. Nghe ông kể cũng có lí. Trạc xếch là món chơi mà người ta xâu xé nhau bằng ba quân xúc xắc cầm trên tay rơi xuống một cái bàn để cho nó dậy bằng tứ, ngũ, lục hay là nhất, nhị, tam. Sự được, thua của lối chơi này cũng như sự may: sấp, ngửa, chẵn, lẻ của xóc đĩa vậy. Có điều lối chơi này nhiều người đã phải nhận rằng nó “chính đại quang minh” hơn cả vì khác hẳn với xóc đĩa còn có bát úp, lối chơi này, ba quân bài cầm trong lòng bàn tay gieo xuống bát, cả làng nhìn chòng chọc, thì có hoạ thánh hay
thần mới bịp được mắt người ta.
Tôi lại hỏi xem người vẫn cùng ông húc với nhau là ai thì ông kêu: một ông tham làm ở sở Canh nông tên là Ngọc.
Tôi đứng dậy cáo thoái, bụng nghĩ: “Thôi chết rồi…”
Đoạn tôi ra đường, gọi xe, lên bảo phu kéo đến phố Hàng Cá. Trong khi ngồi trên xe, tôi lẩn thẩn nghĩ ngợi mãi: Quái! Chú tôi đã rõ hết nhân vật quan trọng của làng bịp như thế mà lại còn thua là tại làm sao! Có lẽ vì tai nghe nhiều hơn mắt thấy nên vẫn bị cái nạn ông tham Ngọc cho vào tròng.
Có người biết đến rõ mười mươi rồi còn bị bịp, huống hồ chỉ mới nghe hơi!
Vừa bước chân lên sân gác toà nhà ông ấm, tôi bị ngay ông ấm… vồ! Chưa lần nào ông lại tiếp tôi một cách vồ vập đến thế. Ông kêu cuống quýt:
- Rõ may một cách lạ! Đang mong ông, đang muốn đi tìm ông! Lần này có một trận “cho” chơi nhau hàng trăm viên đạn một. Mà lại chính tôi ra trận, ông có thích được mục kích cái tài cầm quân của tôi không?
Tôi hỏi:
- Đi đâu? Đánh gì?
Ông ta:
- Trạc xếch.
Trạc xếch! Cái món mà tôi đang ước ao rõ những ngón bịp! Rõ khéo gãi vào chỗ tôi đang ngứa!
Tôi nhận lời ngay.
*
* *
Hồi tháng giêng, hai năm nay, cái đoàn thể làm đồ trang sức ở phố Hàng Bạc được cái nạn kinh tế cho phép sống một cách ưu nhàn.
Đồng tiền xứ này không hiểu có cánh và đã bay mất đi đâu chẳng rõ, làm các cô thiếu nữ tân thời phải vì cảnh bó buộc chán những đồ tư trang bằng vàng thật và ưa chuộng những đồ của Pháp tải sang. Một đoá hoa tai “kim cương”, một vài đôi vòng “ngọc” hay vòng huyền giá tổng cộng đáng non 10 đồng đã có thể thay những xuyến, hoa, chuỗi hạt vàng đắt hàng trăm bạc. Muốn làm gái mới không phải trả đắt. Thành thử giữa lúc hầu hết mọi người
trong xã hội nguyền rủa cái nạn kinh tế thì riêng các cô gái mới lại dường như muốn thắp hương lên chúc tụng nó, mong cho nó cứ ở xứ này mãi để cho chị em chẳng cần phải đeo vàng như đắp mới là sang! Cái bộ mẽ trưởng giả – hoặc trưởng giả giả – nó cũng phải uốn theo luật đời kinh tế mà trút bớt những nước sơn vô ích…
Nhưng những kẻ sống vì nước sơn trưởng giả ấy, các ông thợ bạc, chẳng được hài lòng. Không có việc, mấy ông trong đoàn thể phải chịu bó tay, sống nhàn. Nhưng cái dạ dày của con người ta, khốn nỗi, nó lại không chịu ưu nhàn như hai bàn tay nên mấy ông phải kiếm cách cho nó “có việc”. Nhàn cư vi bất thiện, cái nhàn của bàn tay, khối óc đã có thể làm cho người ta bất thiện thì cái nhàn của cái dạ dày còn nguy hiểm hơn. Mấy ông bèn đem mồi đỏ đen ra làm sinh kế.
Giữa lúc này, có hai vợ chồng chú khách bán lê, táo ở phố Hàng Buồm, sau vụ tết Nguyên Đán rất phát tài – có lẽ thấy trong hòm nhiều bạc quá mà phát ngốt – cũng ngứa ngáy tìm cách chơi xuân.
Vì thuộc hạng trung lưu, không đủ tư cách vào những sòng phán thán sát phạt với những đồng bang của mình, vợ chồng chú đành phải chơi “cò con” với bọn dân Ố Nàm[28]ta vậy. Không tiện rút bất, đánh tổ tôm, tài bàn, cũng không tiện mở bát, Việt Nam với Trung Quốc dùng trạc xếch giao chiến với nhau.
Người Tàu rất có tài buôn bán, cả thế giới đã phải nhận như vậy. Nếu đánh bạc cũng được gọi là buôn bán thì về sự “buôn bán”, người Tàu cũng dễ phát hiện hơn ta. Lẽ này, vào lúc mấy ông thợ bạc đánh trạc xếch với vợ chồng chú khách buôn lê, lại càng rõ rệt lắm.
Những tay rích[29]mới có dăm canh đã bị lột trần. Mọi người rất căm giận Thần đỏ đen không sao được cho nên vào hồi ấy, nếu ta đi qua phố Hàng Bạc vào lúc tối, ta thường thấy mấy ông thợ bơ phờ, lảng vảng, lượn quanh với nhau. Người này hỏi:
- Thế nào?
Người kia:
- Hiện nguyên hình rồi! Chó quá, lại trần như nhộng!
Lại một người khác:
- Cái thằng Cắm ấy nó có Thần phù hộ à? Khi nào mình chịu thua mãi
như thế? Tất cả… xoay!
Đánh bạc chỉ cốt thịt người ta mà càng húc bao nhiêu lại càng tổ cho người ta thịt lại, cái lẽ phải xoay là lẽ tất nhiên. Lúc đầu, mấy ông thợ bạc cũng xoay đấy, nhưng trong cái ngón xoay còn thấy sặc lên những mùi mê tín về quỷ thần, thiên địa nên chỉ không công hiệu mấy là phải. Thấy vợ chồng chú khách canh nào cũng được, lại sẵn cái quan niệm rằng dân Tàu có thờ thần tài quyền linh thiêng vô hạn, mấy ông thợ bạc không cho lẽ thua được là do đỏ đen nữa, quyết đoán là vợ chồng chú được Thần phù hộ cho. Họ cho rằng cần phải làm Thần mất thiêng thì mới mong “mở mặt” lên được.
Vợ chồng chú Cắm lại ở chung nhà với một người thợ cũng là tín đồ thành kính của “đạo Đỏ Đen”. Trước khi hai vợ chồng lôi nhau đi dậy hoá thường vẫn thắp hương lên khấn vái trước bàn thờ thần tài một cách giấu giếm. Không biết ai truyền cho ngón tinh ma, một hôm người thợ ở chung nhà với chú thừa lúc nhà vắng, đem cắm ngay một cái đinh to vào bát hương cho mất thiêng thần. Ngẫu nhiên buổi tối hôm ấy, vợ chồng chú nọ thua to. Sự bại trận ngẫu nhiên kia chỉ có chốc lát thôi nên chi phái thợ bạc mới được có một tối cười thì tối hôm sau lại khóc. Anh nào cũng nhẵn nhụi, cả bọn họp nhau lại ở hiệu phở Trưởng Ca, bàn…
- Tao cắm đinh vào bát nhang nhà nó là vì có một lão thầy bói bảo như thế… đấy, tối hôm ấy nó chả thua hai chục bạc là gì?
- Vẫn thế rồi nhưng chính sách ấy có bền đâu? Hay là mấy hôm nay mày đã quên cắm đinh vào bát?
- Mày hay quên sao không cứ việc để cái đinh ở đấy?
- Ngu lắm! Thế ngộ vợ chồng nó biết, nó đề phòng thì dùng cách gì về sau? Nhưng quả thật tao không quên mà! Dễ thần nhà nó thiêng lắm thật…
- Thôi đi, các anh là đồ ăn hại!
Cả bọn im phăng phắc quay lại nhìn một người. Người này chính là lão Mỹ Bối, thân thể to lớn khổng lồ, một tay nhiều thủ đoạn nhất, vì khối óc là một pho sách lớn chứa những ý nghĩ tinh ma…
Lão nhồm nhoàm nhai ngấu nghiến bốn, năm miếng thịt bò tái, sụp soạt húp ba, bốn thìa nước phở, nuốt chửng đánh ực một cái, chờ cho cử toạ thật chú ý vào lão hết sức, đoạn mới ban rằng:
- Chỉ có cắm một chiếc đinh vào bát nhang thì làm thế nào cho thần tài nhà nó mất thiêng được mà cũng tin một cách ngu ngốc như thế? Đây này,
tao có một lối đặc biệt do một thầy phù thuỷ tiểu chú[30], hễ làm đến là thằng Cắm bỏ mẹ thằng Cắm ngay…
Cả bọn nhao nhao:
- Thế nào? Thế nào?
Lão Mỹ Bối điềm nhiên:
- Phải pha mùi ô uế vào mới được… Chẳng việc gì phải gây sự với thần tài nhà nó, anh em cứ việc chờ lúc vợ chồng nó đang đỏ, ta… vặt một cái, bỏ lên đầu nó thì… ôi thôi… ôi thôi!!![31]
Cả bọn cười ầm lên, thích chí:
- Ừ, phải đấy! Ha ha ha ha! Nhưng thế thì… chó thật!
Một “quan hàn”[32]– hàn nhẫn, hàn vòng, hàn hoa tai – lúc bấy giờ gập đôi người lại, áp cả bụng lẫn ngực xuống bàn phở, không dậy được nữa, trán, má với mũi nổi lên đặc những vết nhăn… Phải gió chăng? Ngộ độc chăng? Không! Đó là “quan hàn” cười!
Hôm sau, quả nhiên ngón đòn vặt nó có tính cách về siêu hình học, thần linh học, tinh thần học hay cái gì học không biết, đã cho phái thợ bạc được một bữa bở: vợ chồng chú Cắm lại thua!
Lão Mỹ Bối cũng được một phen cười ha hả.
Nhưng cuộc đắc thắng ấy cũng không bền, vài hôm sau nữa, các ngài thợ bạc lại thua. Kẻ nhiều tiền nhất đã hàng trăm, người ít tiền cũng đã thua hàng chục. Trong một cuộc họp bàn để kiếm một cách chắc chắn hòng gỡ, lão Mỹ Bối đã nghĩ đến ông ấm B…
Lão ta tuyên ngôn:
- Các anh em cứ yên tâm mà. Ta dùng cách mê tín không xong thì ta đã có cách cầu cứu đến… khoa học!
*
* *
- Zất, zỉ, sám pa toòng!
- Không! Sây ửng lục pa toòng!
- Tỉu nà ma nị!
- Tỉu nà ma nị ấy có được không.
Cả bọn cười ồ vì thím khách đã trộn thành một món “hẩu lốn” cả tiếng Tàu lẫn tiếng Việt Nam.
Ở nhà lão Mỹ Bối, trên hai chiếc chiếu, một chục con Tiên cháu Rồng quây tròn nhau thịt vợ chồng chú Cắm. Ông ấm B… mái tóc hoa râm, cặp kính trắng đạo mạo, mỗi lần gieo ba quân xúc xắc xong lại hỏi:
- Tứ ngũ lục hay nhất nhị tam đây?
Rồi ông ngồi thừ người ra, nhìn vợ chồng chú khách. Ông ấm đen một cách lạ! Ông đã vào bè với vợ chồng chú Cắm, đánh chung lưng với vợ chồng chú, lúc đặt ba đồng, lúc năm đồng, lần nào cũng thua!
Trong lòng một cái bát “chân tượng” để vào một cái nắp tráp đầy những gạo, ba quân xúc xắc cứ việc mặc sức nhảy múa cho phái thợ bạc vơ tiền.
Ông ấm lắc ba quân trong lòng bàn tay bảo vợ chồng chú Cắm: - Tôi góp hai đồng, chú đặt thêm bao nhiêu?
Chú:
- Pa toòng.
Thím:
- Hai đồng thôi!
Ông ấm “phẩy nhẹ” một câu:
- Ấy đấy! Cờ bạc mà cứ gàn nhau thế thì thua chết đấy!
- Im cái mồm nị đi nhé… Tỉu nà ma!
- Pảo khôông nghe cho chết!
Ông ấm lại giục:
- Nào thế nhất nhị tam hay tứ ngũ lục?
- Sây ửng lục!
Chú Cắm quát xong gườm gườm nhìn vợ, không cho vợ nói nữa. Ông ấm gieo. Quân bài nhảy múa trong bát, chú Cắm miệng khấn lẩm nhẩm như gọi hồn người chết: “Sây ửng lục, sây ửng lục… lục, lục, lục!”. Đã hai quân phô mặt nhất ở bát rồi. Còn một quân vẫn cứ quay tít như con thò lò vậy. Tiếng hô lục, lục của chú Cắm vừa dứt thì quân xúc xắc phô lên mặt: tam!
Chú ngồi thừ người ra, có lẽ nghĩ ngợi rằng: “Thần tài của mình đi đâu mất rồi nhỉ? Đánh hơn hai chục tiếng chẳng được một tiếng nào!” Thím Cắm rít lên:
- Thôi đi về! Thua sáu chục rồi…
Quên cả mình là dân con trời[33], thím nói vanh vách tiếng Việt Nam. Cả phái “quan hàn” rầm rộ lên:
- Đánh lúc nữa đã!
Ông ấm đứng lên:
- Thôi, đến mai vậy, hôm nay đen lắm. Tôi cũng thua ngót ba chục bạc rồi.
Thế là tan.
Hai chú thím Cắm với ông ấm ra về, bọn thợ bạc ngồi lại. Ông Mỹ Bối đã được lúc hỏi anh em một cách rất đắc chí:
- Các anh đã biết cái lợi của “khoa học” chưa?
Mọi người xô nhau vào, tranh nhau cầm lấy cỗ xúc xắc để ngắm nghía. Có hai quân lạ nhất, gieo thế nào nó cũng chỉ dậy nhị với tam thôi. Thật chẳng khác một con “bất đảo nhi” (poussa)[34]nhựa có đổ chì ở chân mà bọn trẻ con mua để ném chơi khắp nhà cho nó đảo đồng đảo địa lên một hồi lâu rồi lại ngồi nhỏm dậy vậy.
Ông ấm ra đi chưa được mười phút đã lại quay vào. Cả bọn kính cẩn đứng lên như đối với một vị anh hùng cứu quốc. Ông nói đùa:
- Ta thắng trận này là lần thứ nhất trong cái chiến kỉ “Hoa Việt chiến tranh”.
Rồi cả bọn xúm nhau lại chia tiền. Ông Mỹ Bối phàn nàn hỏi ông ấm: - Sao nó đang muốn húc, ông lại đứng lên?
- Thôi đừng làm già tay quá mà dễ lộ. Cứ để nó đấy, lúc nào mình muốn nhét đất thó vào lỗ mũi nó mà lấy tiền thì cứ việc… chứ có gì khó đâu!
Một người khác thêm:
- Hôm nay có lẽ vợ chồng nó sẽ đập vỡ bát hương cúng thần tài! *
* *
Khác hẳn lối đánh đòn cắm đinh là cái ngón huyền hoặc với cái đòn vặt lông nó có tính cách đểu cáng vô cùng. Ông ấm đã dùng phương pháp khoa học Thái Tây.
Sách vật lí học dạy ta rằng: bất cứ vật gì, cái trọng lực trung tâm đem kéo nó xuống dưới thì không bao giờ đổ được. Thuỷ ngân là vật vừa nặng vừa lỏng, dùng được vào việc này. Quân xúc xắc kia, nếu ta để nó quay cuồng tự ý, có thể nó làm ta mất nghiệp được. Ta phải bắt nó lật tuỳ theo ý muốn của ta. Thì ta đổ thuỷ ngân vào ruột nó chứ có khó gì?
Ông ấm B… đã nghĩ thế và đã làm thế. Cái chỗ khoa học ấy không có gì là lạ cho lắm, chỉ có cách ra, cách vào của ông ấm mới đáng phục về phương diện “mĩ thuật” thôi. Gặp cỗ bài to nhỏ thế nào, ông có thể bắt nó dậy nhất nhị tam hoặc tứ ngũ lục đúng như ý muốn của mình.
Ngoài cách dùng bài ruột thuỷ ngân, ông còn có quân lưỡng diện nữa. Nghĩa là thứ xúc xắc sáu mặt chỉ có toàn là tứ ngũ lục hoặc nhất nhị tam thôi. Thỉnh thoảng mới ra một “phát” rồi lại vào ngay, ông không cho ai kịp để ý nghi ngờ. Cái bàn tay của ông thật là cái máy rất tài tình khéo léo.
Hôm qua, tôi đã được mục kích chính ông quân sư của đảng bạc bịp trổ tài. Tự nghĩ thầm: đồ đệ của ông cũng đã nguy hiểm, huống hồ lại chính tay ông…
Muốn làm thoả mãn cái tò mò của tôi, ông đã giở ngón cho tôi xem và lại hứa thêm rằng:
- Ngày mai, tôi sẽ dắt ông đi thăm “xưởng chế tạo khí giới”.
VII
Xưởng chế tạo khí giới
Ông ấm khẽ gõ ba cái vào cửa, dõng dạc hỏi:
- Ba Mỹ Ký[35]có nhà đấy không?
Tôi đứng sau ông ấm, chờ. Nhà này là một căn nhà tồi tàn, nhỏ hẹp ở trong ngõ Trung Yên, Hà Nội. Mấy tiếng guốc lộp cộp trong đêm khuya vang lên, cánh cửa hé mở, một cái mặt người ốm ló ra…
- Á, ông Nghị! Rước ông vào nhà…
Người ấy nói đoạn, mở rộng cánh cửa. Bấy giờ tôi mới nhận ra là bác Ba Mỹ Ký, một người trong vòng ba mươi tuổi, thân thể gầy rạc như xác ve, hai vai so lên gần đến mang tai, vừa đứng vừa run trong một tấm chăn bông vải nâu màu đã xám xịt như cái khăn lau giường. Chúng tôi bước vào, bác ta đứng lại đóng cửa kĩ lưỡng, rồi quay vào trải một cái chiếu mới lên bộ giường mộc.
Người Tây Phương, khi đang vận robe de chambre[36]mà phải tiếp khách lạ là vội lấy quần áo tử tế để thay ngay. Có khách lạ, cũng biết giữ lễ, bác Ba Mỹ Ký cũng thay cái chăn bông nâu đó là robe chambre của bác, xong lấy một chiếc pardessus[37]kiểu tối… cổ thay vào. Đoạn bác hỏi ông ấm:
- Có việc gì mà… rồng lại đến nhà tôm thế này? Đem ấm nước với cái điếu ra đây, em!
Em đây là một cậu ngồi cắm cổ xuống một cái bàn kê tận phía trong kia, đang lúi húi làm gì, tôi cũng không để ý. Thấy anh gọi, cậu này đứng lên, cầm bộ đồ nước, cái điếu đem ra hỏi anh rằng:
- Thế anh đã tô xong chưa mà để vung vãi ra thế này?
Bác Ba Mỹ Ký đáp:
- Chưa, cứ để nguyên cả cỗ đấy, chốc nữa tao làm.
Từ lúc vào chưa nói câu nào, bây giờ ông ấm mới hỏi:
- Thế nào? Đám xì ở Hàng Kèn vừa rồi có ăn thua gì không? Bác Ba Mỹ Ký cười:
- Kể cũng ăn thua khá đấy, nhưng vì một nỗi là tạ đông quá, chia năm xẻ bảy đi mất, tôi còn được có bảy đồng.
- Thôi, kinh tế này, thế đã là may…
- Chỉ đủ tiền trả ngót hai chục thang thuốc.
- Thế vẫn chưa khỏi à?
Đến đây, bác Ba nhăn mặt, lắc đầu:
- Chưa! Ông lang bảo là ho kinh niên!
Rồi bác sù sụ như một ông lão tám mươi sặc thuốc lào vậy.
Ba Mỹ Ký, cái tên này tôi nghe thấy như là hơi quen, dễ là vì ông ấm đã có nhắc đến, lần đầu mà tôi lại cái nhà ở ngõ hàng Cá với anh Vân, khi ông ta lẩm bẩm nói tới việc phái binh đi phố Hàng Kèn. Bác Ba ta có bộ tóc để dễ đến mấy tháng nay chưa xén, dù ai quých đến đây tất cũng phải biết ngay là một tay bạc bịp đã lũa. Nếu cứ phô cái hình thù ấy mà bịt được mắt mọi người thì thật bác phải là có “thánh cho ăn lộc” mới được, vì người không còn một vẻ gì là sang. Tôi đã lấy làm ngạc nhiên, lại sốt ruột nữa. Vì ông ấm đã nói: “Nào, ta đi thăm xưởng chế tạo khí giới” mà đến đây, tôi vẫn chưa hiểu câu nói ấy có ngụ ý gì…
Bác Ba Mỹ Ký lại hỏi:
- Có phải tiên sinh đến lấy đồ đấy không?
Ông ấm:
- Chính thế, với lại đến thăm bác nhân thể.
- Xin đa tạ…
Bác Ba Mỹ Ký nói đến đấy, thấy lộ vẻ bứt rứt ngẫm nghĩ trù trừ mãi, rồi hỏi ông ấm:
- Thế quan anh cho đệ được biết: ông này là… thế nào?
Cái ông ấm vô ý tứ này bây giờ mới vội:
- Quên đi mất… Rõ nỡm!… Ông này là một ông rất có cảm tình với làng b… ta. Đất rất nhiều, rất sộp!
Tôi nghe mà ngượng. Không phải ngượng vì được liệt ngang hàng với
hạng người như Ba Mỹ Ký nhưng vì, nói cho cùng, chính mình đã được nhiều dịp chia tiền với ông ấm, mà chưa từng có đất nào để mách ông hoặc đồ đệ ông đi “chinh phục” cả!
Ông ấm nói thế vội đứng dậy, ra hiệu cho tôi đi theo ông đến phía cái bàn. Ba Mỹ Ký cũng vội xốc lại cổ áo, theo chúng tôi.
Cậu bé lúc nãy mang ấm, điếu ra để anh tiếp khách, lúc này đang ngồi cần cù cầm ngọn bút lông mèo mới, chấm vào một cái đĩa đựng ít sơn đỏ rồi tô lên mặt một quân xúc xắc.
Ông ấm hỏi:
- Bài siệng đấy chứ?
Ba Mỹ Ký đón lời:
- Không, lưỡng diện đấy chứ có phải siệng đâu! À, cụ ạ, tôi mới có một cỗ thuỷ ngân đẹp một cách lạ!… Để tôi lấy cụ xem nhé…
Rồi bác lôi cái ô kéo, lấy ra một cái hộp sắt tây to tướng và bảo: - Có lẽ ta ra giường tiện hơn.
Thế là chúng tôi lại quay ra chỗ cũ. Cúi xuống gầm giường lấy một cái nắp thạp đầy những gạo bên trên có một cái bát “chân tượng” lên, dọn dẹp điếu, ấm vào một góc, bác Ba mở hộp. Mới đầu tôi tưởng đó là hộp thuốc của một ông lang chữa bệnh lậu nào thì phải, vì trong đó có một số không đếm được những gói giấy nhỏ, trắng, đỏ với xanh.
Bác Ba lấy một gói đỏ, mở ra. Ba quân xúc xắc màu xương còn trắng nõn, vết mực đỏ, đen ở sáu mặt rất tươi đẹp, ló ra một cách choáng lộn, kiêu hãnh nữa, khiến cho nhìn đến, ta có cái cảm giác là tưởng tượng đến những mĩ nhân còn tuyết trong giá sạch phô cái “thân ngọc” cho những ông phu tướng giữa lúc hoa chúc động phòng. Bác Ba nhìn đến cái công trình mĩ thuật của mình bằng cặp mắt say sưa như một nhà tài tử, rồi hỏi:
- Thế nào? Các ông trông có đẹp không?
Ông ấm lấy kính đeo, cầm từng quân lên tay, chỉ ngắm nghía những góc. Ông khoe:
- Được lắm, tay chân đã khá lắm đấy.
Rồi ông gieo vào bát, thử. Một sự lạ: ba quân này quay lộn thế nào cũng không thành được nhất nhị tam vì có hai quân nếu không dậy mặt tứ ngũ thì cũng lại chỉ lên ngũ lục.
Bác Ba nói câu này để tự khen thêm một lần nữa:
- Có khí giới này thì gặp anh nào hắc búa đến đâu, mình cũng cứ việc nhét đất thó vào lỗ mũi nó mà lấy tiền!
Ông ấm khích một câu:
- Thôi đi đừng nói giỏi nữa! Nào thử ra, vào xem trông có đẹp hơn độ trước không?
Ba Mỹ Ký mỉm cười:
- Thưa thầy, ngón của thầy truyền cho mười phần thì con cũng đã nhập tâm được bảy, tám.
Rồi bác lấy ở hộp ra một gói giấy đỏ khác, mở gói lôi ra một cỗ trạc xếch khác, gieo xuống bát, phân vua rằng:
- Đấy nhé, đã đích là bài siệng chưa?
Xong bác đứng lên, bỏ pardessus ra, lấy một cái áo the kép mặc vào.
Tôi tự hỏi rằng: “Làm gì mà phải khăn áo chỉnh tề thế kia?” Ông ấm cũng gieo và kêu: “Ừ, bài siệng thật”.
Bài siệng đây là bài mà người ta chưa đục ruột nó. Người ta chưa đục ruột nó với đổ thuỷ ngân vào trong thì nó dậy nhất nhị tam hoặc tứ ngũ lục phải do ở sự tình cờ.
Bây giờ thì bác Ba ngồi xuống, xếp nếp áo the ở lòng cho nó “ý tứ” riêng của bác rồi chọn hai quân xúc xắc không siệng cầm vào tay.
Bác gieo quân xuống bát và mỗi khi gieo xong, lại để bàn tay vào lòng, một tay chống nẹ, một tay gieo xong lại rút để vào lòng mình, trông cái cử chỉ ấy thật tự nhiên. Tôi nhận ra rằng kiểu ngồi này thật chép đúng của ông ấm B… khi ông đốc thúc quân binh trong cái “Việt Hoa chiến kỉ” vậy.
“Ngón của thầy truyền cho mười phần thì con cũng đã nhập tâm được bảy, tám” lời này của bác Ba kể cũng đúng sự thật đấy, vì trước khi gieo, nếu bác ta đã kêu trước là nhất, nhị, tam thì không bao giờ cỗ bài lại dậy: tứ, ngũ, lục hoặc đã bảo tứ, ngũ, lục thì không khi nào cỗ bài lại dậy: nhất, nhị, tam.
Còn hai phần mười kia, không bao giờ bác học nốt được. Chẳng có cái dáng điệu phong lưu bệ vệ của ông ấm, hình thù bác trông cỏ như vậy và – theo bộ từ điển của làng bạc bịp – trông lộ tẩy như vậy thì không khi nào bác phát tài được vì ông ấm xưa nay chỉ phái bác đi với những đám trếch chứ chẳng bao giờ dám cho bác đụng chạm vào đám sang trọng, thượng lưu. Cái
“nước sơn” của con người mà can hệ đến thế đó.
Sau cuộc thử tài đệ tử, ấm B… tôn sư có vẻ hài lòng lắm và nói đùa: - Được, tôi cũng đã có cơ vững dạ mỗi khi phái bác… hạ sơn! Chúng tôi cùng cười. Bác Ba Mỹ Ký hỏi:
- Nhưng cụ bảo đánh đòn thuỷ ngân hơn hay đòn lưỡng diện hơn? Ông ấm mắng như mắng một học trò:
- Hỏi dốt thế? Phải tuỳ cơ ứng biến chứ lại… Anh hỏi thế có khác gì một người biết võ mà mỗi khi có cuộc chiến đấu, hỏi thầy rằng: “Con nên đánh môn Thiếu Lâm hay môn Mai Hoa?” Không! Nếu cứ như câu hỏi của anh thì người đời ai cũng là b… được cả!… Đây này, còn có cả trường hợp nguy hiểm này nữa: thí dụ đang gieo mà vỡ xúc xắc, thuỷ ngân đổ ra bát… thì anh định giở ngón thế nào?
Ba Mỹ Ký ngẩn ra không biết nói câu gì, chỉ giương đôi con ngươi trắng dã hỏi lại. Ông ấm trừng trừng nhìn học trò của ông hồi lâu rồi cầm lấy cỗ xúc xắc, bảo:
- Trông đây này!
Ông gieo và tiếp:
- Thí dụ quân đã vỡ nhé…
Rồi ông làm bộ ngơ ngác nhìn chung quanh gian phòng, chỉ vào một góc tường mà hỏi: “Ông kia tinh nghịch chơi lối gì thế? Có phải ông ném gì vào bát đấy không?” Trong lúc này, ông đã cầm ba quân xúc xắc lên, quờ lòng bát khoắng một cái. Rồi ông nói tiếp: “Nếu không là ông thì tất là một người khác!” Rồi ông ném một quân ra xa, bỏ cái bát ra ngoài tráp gạo, cúi xuống bới lấy một quân khác lên, tiếp: “Thôi không ai nhận cũng được! Xin mời các ngài… còn quân nữa đây!” Ông lại gieo một hồi rồi nhìn chúng tôi ra ý hỏi: hiểu rồi hay chưa hiểu?
Tôi với bác Ba Mỹ Ký thú thật là chưa hiểu kĩ, lúc ấy ông ấm mới cắt nghĩa rằng:
- Lúc quân nhỡ mà vỡ, điều cốt yếu là mình phải làm cho làng không kịp biết là có thuỷ ngân. Muốn thế, ta phải đổ vấy có một người trong đám, bất cứ người nào. Khi ta chỉ tay lên và nói: “Ông kia, ông tinh nghịch gì thế?” là cả làng phải nhìn một cách căm tức đến mặt người vô phúc bị ta vu oan cho vậy. Thừa lúc không ai để ý, cái tay ta khoắng vào lòng bát đã hắt hết thuỷ
ngân đi. Giọt thuỷ ngân hắt ra sẽ tan thành bụi! Phải biết, lúc ấy đang hỗn độn; người này buộc tội, người kia cãi lại, không ai để ý đến mình. Mình ra một quân ở tay, vờ là bới nó dưới bát gạo lên. Quân vỡ kia ném đi rồi, giữa lúc người đang đỏ muốn được thêm, người đang đen chỉ muốn gỡ, vừa phần sợ sẽ làm rầm rầm lên thì sẽ có chuyện với những tay sai của cụ Arnaud[38] có lẽ đang tuần bằng xe đạp ngoài phố, ai nấy sau cùng mới nghĩ ra rằng yên lặng là hơn. Đã có quân thay, cả làng lại nối cuộc.
Nghe ông cắt nghĩa, tôi phải phục là ông biết tâm lí người đời lắm mới có thể ứng biến một cách táo bạo như thế được; ông thật đáng là vị quân sư của làng b…
Ông ấm kết bằng câu này:
- Nhưng ít khi vỡ quân lắm.
Ba Mỹ Ký vẫn ngồi ngẫm nghĩ đến chuyện đó, sau cùng mới nói: - Xin bái lĩnh cái ngón ấy của thầy!
Ông ấm lấy ba cái giấy bạc một đồng ra:
- Cho tôi một cỗ trạc xếch lưỡng diện với một cỗ bất mẫu tử. Ba Mỹ Ký cầm tiền rồi trao lại ông ấm hai gói giấy xanh.
Chúng tôi ra về.
*
* *
Ba Mỹ Ký vốn là một người thợ mạ đồ vàng giả cho một cửa hiệu. Có lẽ không muốn lục đến tên tục, người ta lấy ngay tên cửa hiệu do bác làm công, gán cho bác.
Lúc cửa hiệu được kì thịnh vượng, bác làm ăn rất phát tài. Sẵn tiền trong tay, bác phải tìm cách giải trí. Giải mãi trí vào cái khoé kiếm tiền một cách rất dễ, trí bác dần dần chán nản mọi việc nặng nhọc của tay chân. Đâm ra biếng lười, bác ta bị ông chủ mời về vườn để tha hồ mà giải trí.
Sau khi tìm được vài ngón bịp tài bàn, tổ tôm, bác vẫn sống ung dung bằng cách thịt những dân lao động, sau cùng bác phải xin vào làm môn đồ của ông ấm B…
Xem ý ra, trong đám “học trò”, chỉ có bác này là được ông ấm có lòng thương hơn cả. Bệnh ho sù sụ của bác mà bác tưởng là sẽ thành kinh niên ấy,
bác phải giữ nó trong phổi, trong cuống họng là vì một trận đòn gây nên. Hồi ấy, nạn khủng hoảng chưa đến tác hoạ tại xứ này.
Ngày đầu tháng, toà nhà gác ở ngõ Hàng Cá với cái vẻ rộn rịp của một bộ tham mưu giữa lúc chiến tranh, đã khiến cho quân sư ấm B… vì nhiều việc quá, phải nhận ngay “đồ đệ trông lộ tẩy” của mình vào một nơi hang hùm nọc rắn.
Kể đòn của bác Ba Mỹ Ký trông cũng khá đẹp nhưng bác sa hố là vì người bác không có lấy một “nước sơn”. Bọn quyền quý kia chỉ quých ở sự đánh bài và không quých ở sự “thượng cẳng tay, hạ cẳng chân” nên đã cho bác một bài học khá cay nghiệt.
Bác vì thế, mắc chứng ho.
Nghĩ thương hại một kẻ lâm nạn vì cái vô ý của mình, ông ấm phải đem bao nhiêu lối “chế tạo khí giới” của ông ra truyền cho bác Ba để bác làm sinh kế. Cũng đôi khi, bác được phái đi đánh chác, nhưng vẫn không kiếm đủ tiền chữa bệnh ho.
Ông ấm đã phải thu xếp cho bác cái việc nhàn hạ là ngồi một chỗ làm hàng. Ông lại bảo anh em làng b… nên đến mua cho bác.
Bài mẫu tử, bài giác mùi, giác bóng, xúc xắc thuỷ ngân, xúc xắc lưỡng diện, tiền nhựa, những thứ ấy bác bán đắt gấp đôi, ba những bài thường.
Thành thử búa, giũa, ve của bác xưa kia dùng để chế tạo mọi đồ nữ trang, nay bác chỉ dùng vào việc đúc xúc xắc. Thằng em họ bác mà người nhà bác gửi bác cho nó học nghề mạ, bác chỉ cho “chế tạo khí giới” rồi nói dối với cả họ là vẫn cho em học làm thợ ngà!
Ông ấm thuật chuyện rồi bùi ngùi nói một cách cảm động: - Rõ thương hại nó quá. Dễ thường nó ho lao!…
Sống về nghề thì chết về nghề, sự này không lạ. Có điều lạ là ông ấm, một con mọt của xã hội, hạng người nguy hiểm đáng cho đời đổ lỗi tất cả các tính xấu của Trái đất, té ra lại là một người có đủ thuỷ chung…
Một sự chẳng ngờ.
VIII
Những thủ đoạn ngoài chương trình b…
“Mặc áo này mà đánh ống thì nhạy hơn cả! Này, thế ông thử xem xét kĩ lưỡng cái áo này xem có gì là lạ không. Thử xem ông có tinh ý không nào?”
Tôi đỡ lấy cái áo trắng dài do ông ấm trao cho để “xem xét kĩ lưỡng”. Nó có gì là lạ, một cái áo năm thân đủ tà, đủ gấu, đủ giải, đủ khuy, một cái áo mới may còn cứng nước hồ. Tôi lần từng sợi một, mãi không thấy cái “lạ” mà ông ấm bảo cố tìm cho ra; sau tưởng ông nói đùa phải trao lại trả.
Ông ấm mặc áo vào, ngồi xuống ghế, để chống hai tay vào giường lại hỏi:
- Thế bay giờ ông nhận ra chưa?
Ngắm qua, tôi vội đáp:
- Thấy rồi! Nó chỉ hơi lạ là khí dài hai tay…
Ông ấm gật đầu một cách rất hài lòng y như người ta đã bắt một cậu bé rất bướng bỉnh dạ được một cái vậy.
Ông tiếp:
- Ông thử nắn hai cổ tay xem.
Tôi theo ý, nắn hai tay xong rồi đáp:
- Hai cổ tay, vải cũng… dày.
Ông ấm:
- Thì đã hẳn! Vì những ba lần vải kia. Phải thửa mới được đấy. Cổ tay dày thì mới hụt bài để giấu vào trong được, chứ nếu áo tôi mặc cũng như áo ông mặc thì hụt bài vào cẩn thận rồi, có khi nó lại cứ cố chui ra! Hai cổ tay này cũng thuộc về việc làm của “xưởng chế tạo khí giới” nhưng nó không phải là việc của Ba Mỹ Ký mà chỉ là việc của một bác thợ may xoàng. Ông cứ nghiệm mà xem, phàm đã là dân b… ai cũng mặc cái áo có hai cánh tay dài như áo lễ sinh, bịp hay không, mình chỉ thoáng liếc mắt nhìn qua hai cánh tay là đủ rồi. Chơi lối đánh ống thì mặc thứ áo này… Nhưng không phải ai cũng áo ấy. Vũ ấy, hắn còn có tài đến nỗi hắn có thể ra, vào nhanh
như chớp được mà chỉ vận áo sơ mi!
- Thế thì anh nào thạo đến đâu cũng bị mất…
- Phải. Có lần, tôi bắt một con mòng đã vào tay chơi thạo, trong cuộc đó có Vũ. Anh kia cứ “lên râu” mãi, cứ cắt nghĩa mãi rằng mình chỉ nhìn qua tay áo các ông là biết ngay bịp hay không bịp, thế rồi ngồi vào húc tài bàn với tôi, với Vũ, mà bị lột trần!
- Cứ như ý tôi thì mặc thứ áo riêng này như của ông, ra, vào được cũng đủ đã khó. Lại còn mặc áo sơ mi mà cũng ra, vào được thì không biết Vũ hắn làm ăn ra thế nào…
- Đó là tài riêng của anh ta. Mà nói đến cái tài thì thôi, không ai cắt nghĩa được!
Chúng tôi đang nhỏ to câu chuyện kín đến đây, bỗng thấy một hồi gót giày nện mạnh vào thang, làm chuyển cả sàn, rồi anh Vân tơi tả bước lên với cái bộ mặt một người bị nạn cháy mà đang định kêu: “Ai cứu tôi với…” vậy.
Anh Vân giơ hai tay ra bắt tay chúng tôi một cách thõng thẹo, ném vật cái mũ xuống giường, ngồi xuống ghế đá thở hồng hộc, gãi đầu một cái, cào cổ một cái, rồi rút lỏng cái ca vát ra. Những cử chỉ lạ thường ấy, anh chưa kịp cắt nghĩa mà chúng tôi cũng gan, cứ ngồi lặng im ngắm nghía chớ không ai hỏi anh một câu nào.
Sau cùng, anh vừa thở vừa doạ một câu chẳng ăn thua đâu vào đâu: - Thôi…! Phen này tôi đến nhảy xuống sông Cái mất!
Rồi anh lắc đầu, lắc đầu. Tôi nhìn ông ấm, ông ấm nhìn tôi, rồi không thể nào nhịn được trước cái dáng điệu khôi hài của anh, chúng tôi bật ra cười rũ rượi.
Anh Vân ngước mắt nhìn tôi ra ý kêu nài rằng “không nên thế…” đoạn nói tiếp:
- Tôi vừa mới thua ba chục!
Chúng tôi lại cười già hơn trước, vì rằng anh thua ba chục rồi sẽ nhảy xuống sông Cái hay không nhảy xuống sông Cái thì đó là việc riêng của anh chứ có can thiệp chi đến chúng tôi mà anh doạ…?
Anh Vân lại buông sõng một câu nữa:
- Đánh xì.
Đã hết cơn muốn đem sự im lặng ra trêu mãi một con “chim mồi” có giá trị của mình, ông ấm nghiêm bộ mặt lại rồi hỏi:
- Thế thua xì ở đâu?
- Ở một nhà tại phố Khâm Thiên.
- Nhà ai thế?
- Nhà một người không biết có phải tên là Sinh không.
- Sinh à? Người ngợm thế nào?
- Răng vàng… mặt trông chơi bời lắm.
Nghe đến đây, ông ấm ngẩn người ra một phút và lẩm bẩm: “Thôi không khéo thì…” Anh Vân lấy làm ngạc nhiên, giương tròn hai con mắt…
Ông ấm lại hỏi nữa:
- Chính thị tên là Sinh mà có răng vàng à?
- Phải.
- Thế ai dắt mà lại đến chơi nhà ấy?
- Một người quen của tôi…
- Thì ai chứ?
- Một… mẻng của tôi.
- Một mẻng à? Thị nào thế? Có phải… Dung không?
Đến lượt anh Vân ngẩn ra:
- Sao cụ biết rõ thế?
- Chứ gì! Vì tôi biết độn Gia Cát!
Anh Vân hỏi theo một cách ngớ ngẩn và có vẻ thán phục:
- Thế kia à?!
Ông ấm cười rộ một hồi dài nữa, vỗ vai anh ta rồi nói:
- Khỉ ơi là khỉ!!! Bị xiếc rồi.
Anh Vân tái mặt:
- Thế nào? Vào xiếc… nghĩa là bị bịp ấy à?
- Bẩm vâng ạ…
Có ai trông thấy anh Vân lúc này thì mới thấy cái sự khôi hài của anh ta, vì anh ta so vai một cái, gân ngay cổ lên cãi:
- Tôi bị bịp?… Thôi đi!…
Ông ấm lườm anh Vân xong, quay mặt nhìn ra chỗ khác làm bộ dỗi. Anh Vân kể lể:
- Đến tôi mà còn bị bịp thì cụ bảo tôi tin ngay thế nào được?… Bao nhiêu ngón cụ đã chỉ cho rõ như thế, tôi còn lạ gì. Giác mùi, giác bóng, bài mẫu tử, đòn Vân Nam tôi còn nhớ rõ mồn một. Tôi chắc là tôi đen đấy chứ chẳng phải là bị bịp đâu.
- Ừ, thế ông kể rành mạch lúc đánh chác cho tôi nghe xem thế nào nào.
- Lúc ngồi vào, bắt đầu tôi chọn từng cây bài ngắm nghía xem có giác mùi, giác bóng hoặc có quân nào bị gọt sườn như nghĩa mẹ con, mẫu tử gì không đã. Quả thật là một cỗ bài mới, tôi mới đánh và chỉ những được là được. Tuy được nhưng chưa đến nỗi ngốt, tôi vẫn để ý xem có ai định cản, bò nhoài ra xin cái điếu hay gói thuốc gì đấy để một người khác giở đòn Vân Nam không. Cũng không nốt! Thế rồi tôi thua!… Có hai lẽ rằng tôi không bị bịp. Lẽ thứ nhất là tôi cũng chẳng phải là một thằng hớ, với lẽ thứ hai: nhân tình của tôi dắt tôi đến nhà một người quen để dậy hoá, chỉ những muốn cho tôi được để hòng tôi sắm cho cái này, cái khác mà lại bảo là để dắt tôi đến một chỗ cho người ta bắt tôi vào xiếc thì có lí nào?
- Này ông phải biết: Sinh là một ông chủ cô đầu và là… đồng chí của tôi. Còn con Dung là một con mấy lần lại vào ở cô đầu sau mấy lần đã bước ra ngoài vòng cô đầu, là một tay săn mòng của Sinh.
Nghe câu này, anh Vân tái mặt đi.
Ông ấm lại hỏi:
- Thế ông thử nhớ kĩ lại xem, trước khi ông thua bọn kia có những cử chỉ gì lạ không đã.
Anh Vân cau mày nghĩ ngợi một lúc rồi đáp:
- Chỉ có trước khi tôi thua thì Sinh ra một cái bàn, mở ngăn lấy thêm tiền bỏ túi rồi lại vào bàn, cầm bài chia ngay.
- Lúc cầm bài thì hắn đứng, mà lúc chia cho ông thì hắn đã vén áo ngồi lên giường một cách chễm chệ rồi chứ?
- … Có lẽ thế thì phải.
Ông ấm nói một cách sung sướng:
- Thôi thế thì đích rồi!
- Đích rồi à? Có ai… bò nhoài ra đâu?
- Cứ gì phải có người bò nhoài ra mới đánh đòn Vân Nam được! Đây, tôi diễn lại kịch ấy là ông hiểu ngay.
Nói thế, ông ấm lấy ra hai cỗ xì, cho chúng tôi nhận rõ là mới nguyên cả, đoạn ông để một cỗ vào đĩa, quay ra một góc phòng rồi quay lại, vừa cười vừa hỏi: “Chang kĩ chưa? Đến lượt tôi chứ?” Rồi ông đến đứng cạnh giường, cầm cỗ bài ở đĩa vào tay, vén tà áo cho gọn, bước lên ngồi giường. Ông lại chang một thôi một hồi rồi chia ngay. Đoạn ông nâng vạt áo ở trước mặt lên: một cỗ bài đã nằm gọn trong lòng ông từ bao giờ ấy!
Xem chừng anh Vân vẫn chưa hiểu, ông ấm lại phải cắt nghĩa rằng:
- Đó cũng là cách tráo bài lối Vân Nam nhưng táo bạo hơn nhiều lối có người bò nhoài ra cản. Khi người ta cầm cỗ bài xong mới vén áo bước lên ngồi giường thì người ta đã tráo giữa cái lúc vén áo vậy. Mình thấy người ta, trước khi chia còn chang lại thật kĩ mà tưởng thế là thật là nhầm. Đó chỉ là lối chang bài “che mắt thế gian” vì cỗ ấy, người ta xếp lớp sẵn rồi, thì chang nghĩa là chỉ vỗ đồm độp phần bài trên vào phần bài dưới chứ có chang thực sự đâu! Rồi người ta chia, nhốt mình… vào xiếc là thế!
Anh Vân gật gù:
- Tôi hiểu rồi… có lẽ đã vào xiếc thật.
Ông ấm cười:
- Thôi, chiều ta lại xuống chơi dưới ấy rồi tôi bảo Sinh hắn trả lại. Không phải nhảy xuống sông Cái đâu!
Anh Vân cười nhưng cái cười giấu vẻ căm giận.
Việc ông ấm sẽ đòi hộ lại tiền chẳng đủ “chiêu hồn” cho anh.
Ngồi trầm ngâm với bộ mặt một người đi đưa đám ma, anh chỉ gượng nói, gượng cười. Có lẽ anh đang nghĩ đến mẻng của anh chẳng ngờ lại là một “chim mồi” của một người bạn của ông ấm B… là Sinh.
Thấy vậy, tôi tìm lời khuyên giải:
- Đó cũng là do cái luật thừa trừ của tạo vật. Anh còn nỡ thịt cả ông cụ để
lấy tiền nuôi gái thì gái nó rất có thể thịt anh là nhân tình để lấy tiền nuôi thân…
Sự xảy ra này đã khiến ông ấm B… chốc chốc lại nhìn trộm anh Vân để mỉm cười. Muốn đánh tan cái đau đớn của một anh chàng bị gái lừa, ông lại thuật hai chuyện thú vị hơn.
- Cái đòn của Sinh đấy cũng là một cách quyền biến khôn ngoan lắm. Kể ra, những thủ đoạn trong những lúc “chấp kinh tòng quyền” không có nói sẵn trong chương trình b… còn nhiều lắm. Xin kể hai trường hợp đặc biệt để các ông nghe.
Một bữa kia, không ai nhớ được rõ ngày tháng: Tham Ngọc với hai đồng chí nữa, rủ nhau săn một con mòng. Con mòng này không quých một tí nào cả. Thua, nó cũng không cay, được nó chẳng ngốt: hai mắt nó lúc nào cũng như mắt rắn ráo khiến cho cả ba anh không ai giở được ngón gì.
Thói thường, những ông bịp mà không giở được ngón cứ phải ngồi đánh siệng là chỉ có một thua thôi. Theo bộ từ điển của làng b… định bịp mà không giở được ngón để đến nỗi thua, thế gọi là sa hố.
Vậy thì, Ngọc và hai đồng chí, trong những cuộc săn con mòng hắc búa kia, tối đầu sa hố. Ba người đã bàn nhau định giở đến một ngón đặc biệt, khốn thay! Lại sa hố nốt cả tối thứ nhì.
Đến tối thứ ba…
Ta nên biết rằng đến ba người đi chinh phục đất để thịt có một người, nếu không thành công thì cả ba còn mặt mũi nào về tạ lỗi với… quân sư nữa? Vả chăng, lẽ thứ hai lại càng khó xử: quân sư đã phải vay “binh khí” tận bên… Trung Quốc (ông Cả Ủn) thì những số thiếc mà mình đánh mất, chẳng lẽ lại để riêng quân sư è cổ ra đền! Cho nên trước khi ngồi vào bàn, cả ba sắp sẵn mưu một cách quỷ quyệt…
Con mòng được nước cứ việc vơ giấy bạc bứa bừa. Hốt nhiên đến ván ấy, một ông kêu thiếu bài. Hai ông kia hưởng ứng ngay: xin khám. Phải rồi, thiếu bài là khám, lẽ ấy rất cố nhiên.
- Nào thế các ông đứng dậy hộ một tị.
Ba người đứng phắt dậy, còn mòng, vô tình, cũng vững tâm đứng ngay lên.
- Cái gì thế kia? Hở?
- Chơi lối thế à???
- Có thật muốn giở ngón cờ gian bạc lận ra với chúng ông không?
Mòng bị cả ba anh sừng sộ, tái mặt lại, run đây đẩy, nhìn xuống chỗ chiếu mình ngồi. Giời hỡi! Đất hỡi! Có ông thánh nào thiêng, có ông thần nào linh, xin chứng giám cho nỗi oan này!… Mê ngủ hay vẫn thức? Mòng bàng hoàng giụi mắt nhìn, vẫn chưa tin, lại giụi mắt lần nữa. Lạ thật! Quái thật! Kì thật! Vô phúc thật! Nào mình có giở ngón cờ gian bạc lận ra bao giờ, cớ sao bài lại thiếu, mà cớ sao ở chiếu chỗ mình ngồi lại có một, hai quân bài nằm lù lù thế kia?
- Có thật anh chơi lối thế không???
- Anh phải biết, hả!…
Đã hai người xắn tay áo, sừng sộ, chực choang rồi. Còn một người, nhân từ hơn (Cái nhân từ của người này, mòng sẽ chịu ơn đến chết!) gạt hai người quá nóng ra:
- Thôi các ông, tôi xin. Việc này xảy ra thật đáng tiếc, nhưng nếu vì thế mà phải đánh đập người ta, ầm ĩ hàng phố lên, kể cũng phiền. Để tôi thu xếp…
Rồi người ấy quay lại bảo mòng:
- Đấy nhé, tôi đã can các ông ấy rồi. Vậy ông xử thế nào cho phải thì xử đi…
- Ô hay, nào tôi…
Mòng chưa kịp mở mồm, một người kia đã vội:
- Này, đừng chực già họng nhé! Ông lại giã cho lìa phụ mẫu bây giờ… Chứng cớ lù lù ra kia, còn chực cãi cái thá gì nữa???
Người khác:
- Biết điều thì được bao nhiêu tiền phải trả cả cho chúng ông đi! - Vâng, vâng, rõ thật chẳng may cho tôi. Đây tôi xin trả lại các ngài vậy. Rồi mòng lôi cả đống giấy bạc trong túi ra:
- Thưa đây ạ: tối hôm thứ nhất, tôi được của các ông tất cả 50 đồng; tối thứ hai tất cả 42 đồng… còn tối hôm nay, để tôi xin trừ cái vốn của tôi là đúng tám chục thì các ông thua bao nhiêu sẽ rõ…
- Anh nói cái gì thế?
- Tôi cứ biết là tôi, tôi đã mất tám chục…
- Tôi cũng hơn bảy chục…
- Còn tôi hơn bốn chục nhưng cứ cho là bốn chục.
Mòng cãi bằng giọng ngọt:
- Có đâu quá thế?…
- Cái gì mà quá?
- Thì tôi được bao, vẫn còn nguyên đây tất cả…
- Thôi đi, anh nói khó nghe lắm. Anh được thì ít ra anh cũng phải chén, phải đưa về cho vợ, phải trang trải mọi công nợ chứ có đời thuở nào có một thằng được bạc lại vẫn đem nguyên cả số tiền được ấy đi đánh, để nhỡ rồi thua mẹ nó cả đi!
- Cả chỗ ấy cũng chưa đủ số tiền chúng tôi thua, anh nghe ra chưa?…
- Tôi xin thề là nếu tôi đã tiêu hơn hai đồng vào đây thì tôi cứ làm giống chó!
- Ấy đấy, rõ tiền hậu bất nhất chưa… Trước bảo chưa tiêu, sau lại thú đã tiêu hai đồng!
- Biết điều thì để cả lại trả các bố!
Đứng trước cái sừng sộ của ba người chực đánh một, kém thế, mòng đành lui.
Thế là mòng bỏ vào túi cái ví dạ lép kẹp rồi đỏ mặt bước ra, mất cả tiền lưng lẫn tiền được.
Mòng không bao giờ nghĩ được ra rằng trong canh bạc, chính giữa lúc nhoài ra với lấy bao diêm, một ông trong ba ông kia đã thừa cơ nhét hai quân bài dưới đũng quần mình.
*
* *
Lại một lần khác.
Ông ấm đang ngồi tính việc phái tay này đi phố này, tay kia đi phố khác, thì một bà cô ruột, một bà cụ đã ngót 70 tuổi, đến mếu máo:
- Anh làm thế nào chớ con tôi nó giết tôi rồi, hỡi giời cao đất dày ôi!… Ông ấm cuống:
- Cái gì thế bà? Cái gì thế bà?
Bà cụ:
- Ông em anh đã đem số tiền ba trăm bạc tôi sắp chồng họ cho người ta đi nướng hết ở sòng Hai Ve rồi… Ới giời đất cha mẹ ơi!!…
Ông ấm sa sầm nét mặt:
- Cái thằng mặt chó! Thế bây giờ nó ở đâu?
- Nó đang nằm ăn vạ ở nhà ấy.
- Bà về bảo nó lại ngay đây, tôi dắt đi gỡ…
- Gỡ gì??? Gỡ lấy cái chết nữa ấy à? Hu! Hu!!…
- Khổ lắm, thì bà biết gì nào? Bà có về bảo nó lại ngay đây cho tôi hay không thì bảo…
Bà cụ lại mếu máo rồi, như một cái máy, lại quay về.
Ông ấm vứt ra hào bạc, sai con giai:
- Đi mua cho tao một cái “toe toe”!
Rồi ông bảo con sen:
- Bắt lên đây cho tao con vịt…
Con giai ông mua bong bóng về. Con đòi cũng đã bắt vịt lên. Ông vắt nửa quả chanh vào bát, chọc tiết vịt. Vừa xong thì một cậu trẻ tuổi, mặt xanh nhợt cũng vừa bước vào, ông ấm liền bảo:
- Rõ ràng mặt mẹt chửa! Lại gần đây!!!
Cậu kia để tay lên má sẵn, rón rén lại gần.
- Nhanh lên! Ai đánh mà mày sợ.
Rồi ông nói thầm hồi lâu với cậu. Cậu mỉm cười.
Ông dặn một câu to:
- Phải khéo lắm đấy!
Đoạn ông cởi trần ra, lấy miếng sắt tây để vào ngực. Ông đưa dây gai để cậu kia buộc rõ chặt nó lại, đoạn đổ bát tiết vào cái bong bóng “toe toe”. Ông buộc bong bóng ngoài miếng sắt tây, xong lại vận vào áo. Rồi ông mở tủ, đưa cho cậu kia một tập giấy bạc, móc túi đưa ra cả một con dao dài gần một tấc và bảo: “Đi trước đi!” Sau cùng, ông xỏ chân vào đôi giày Tàu và với lấy
một cái cát két, rồi cũng đi nốt. Người nhà, đầy tớ chẳng ai đoán nổi ông đi đâu thế và việc mổ vịt kia, ông định để tiếp khách nào.
Đến cảnh bài trí khác: sòng bạc xóc đĩa. Nửa trăm người rì rào một cách khó chịu vì người này cũng chẳng nói khẽ mà lại cứ mắng người nọ là nói to. Bác hồ lì thỉnh thoảng lại kêu:
- Tôi lạy các ngài, các ngài khe khẽ một tí…
Một tên tạ dắt một cậu bé trẻ tuổi vào. Mười lăm phút sau, tên tạ khác lại dắt một người đi giày Tàu, đột cát két, đã có tuổi, vào…
Người xóc cái hô:
- Bán chẵn bốn chục!
Cậu trẻ tuổi với người già cùng giơ tay:
- Tôi…! Tôi…!
- Không, tôi kia!
- Thôi, hãy để tôi lần này…
Mở bát, người xóc cái reo: chẵn! Cậu trẻ xô lại thì bị người già đẩy ra một cái. Cậu trẻ tuổi sừng sộ: “Có thật mày ăn chặn không?” Tức thì một mũi dao tuột ra, phóng ngay vào ngực người già. Người già loạng choạng, ôm ngực ngã vật xuống chiếu. Cả làng cướp tiền nhau tán loạn; cậu trẻ thừa lúc hỗn độn đã chuồn được ngay. Người ta nhao nhao lên: “Bắt lấy nó! Nó đấy!” mà chỉ người này vồ nhầm người khác. Rồi cãi nhau, chửi nhau, xô nhau. Rồi ông chủ sòng, mặt tái mét, chạy lên, đỡ người già dậy. Trên chiếu bạc, một vũng máu. Người già ôm chịt lấy ngực, hổn hển nói:
- Tôi không chết đâu nhưng bị chúng nó cướp cả bốn trăm bạc rồi. Ông chủ hấp tấp lấy ra năm cái đỉnh[39]:
- Thôi đây, xin đền ngài và biếu ngài một trăm. Lạy ngài, ngài chữa ở nhà, đừng vào nhà thương mà chúng tôi khốn mất!
Rồi hai tên tạ vội xốc nách người già ấy ra cửa sau, thuê xe bảo phu kéo về nhà. Ông chủ bảo một người tạ khác:
- Mau đem cái chiếu này xuống cọ sạch, tức khắc đi!…
IX
Một cuộc vận động tự trị
- Được lắm! Nếu anh đã muốn có sự chia rẽ trong anh em, nếu anh có thể đi ăn mảnh được thì cứ việc… nhưng những khi đến đằng Cả Ủn lấy tiền đừng có mượn tên tôi ra mà xoay…!
- Không, cụ nóng quá, để tôi trần tình đầu đuôi cụ hiểu…
Ông ấm B… mặt đỏ bừng như quả gấc chín ngồi giữa giường, xếp chân bằng tròn như một tượng Phật, bình tĩnh nói ray rứt bác “Tham Ngọc” đương ngượng nghịu trên một chiếc ghế, mặt tái hẳn đi như con gà bị cắt tiết.
Còn tôi, giữ địa vị bàng quan để xét đoán một cách trung lập cuộc đấu khẩu ấy, không có việc gì, ngồi cắm mặt xuống bàn, buồn tình, bẻ nát mấy đóm… chơi!
“Tham Ngọc” đấu dịu, xin trần tình. Ông ấm làm ra vẻ không buồn nghe nữa. Vẫn ngồi xếp bằng tròn như tượng Phật giữa một người rất thâm. Chẳng lẽ có tôi mà ông lại vùng đứng lên để hoa tay, múa chân, sừng sộ với kẻ địch buộc chia rẽ ông, hoặc bóp cổ nó hay cho nó… một nhát dao vào bụng! Làm thế nào có thể lộ mình là kẻ tiểu nhân, ông không làm. Dù tức đến chết, ông vẫn phải ngồi yên.
Độc giả chắc còn nhớ rõ tới cái buổi hội diễn của người giữ cái két lớn nhất của làng b… với mặt ấy, Cả Ủn đã nói rằng: “Tham Ngọc” có đến lấy bốn chục và đã trả đủ rồi. Ông ấm dặn rằng: “Lần sau có chữ của tôi thì hãy nên bỏ thiếc vì rằng hắn lấy tiền không do tôi sai đi là chỉ để đi ăn mảnh”. Lẽ tự nhiên: ông ấm không thể nào bảo đảm những số tiền do Cả Ủn trao cho “Tham Ngọc” đi ăn mảnh. Lại một lẽ tự nhiên nữa: đã là đồng đạo mà một đệ tử mình lại nỡ tính cuộc chia rẽ anh em bằng cách đi ăn mảnh, ông ấm phải bất bình!
Ai phải? Ai trái? Cái cuộc chia rẽ trong làng b… mà tôi ngẫu nhiên được mục kích đây thực là một vấn đề… xã hội rất quan trọng vậy.
Tình đồng đạo của “Tham Ngọc” với ấm B… không bởi lẽ “Tham Ngọc” đi ăn mảnh mà bị thương tổn được, vì nếu ông ấm tự coi là thầy “Tham Ngọc” thì bổn phận của một ông thầy đối với học trò là phải tìm cách cho học trò được tự lập nếu học trò mình đến lúc đủ tư cách dọn hàng riêng.
Vậy “Tham Ngọc” đã đủ tư cách “dọn hàng riêng” chưa?
Những cuộc săn mòng bên Bắc Ninh đã đủ đáp lời cho câu hỏi đó. Không cho học trò tự lập, ông ấm đã lỗi đạo làm thầy.
Những lí luận cãi cho “Tham Ngọc” này, khốn thay, lại bị một lí mạnh hơn, cứng hơn, là nghề b… không phải là nghề đạo lí, mà làng bịp xử lí với nhau cũng chẳng có tình nghĩa gì. Dám hoặc có khi họ cũng thuỷ chung với nhau, trong mọi cuộc săn mòng, nhưng đó chỉ là cái nhân nghĩa quân đạo tặc mà thôi! Cho nên trái lại, chính “Tham Ngọc” là lỗi đạo. Đã thế thì: nếu đi ăn mảnh, anh không có quyền lấy tên thầy đến xoay tiền người ta.
Nhưng ta hãy yên, nghe “Tham Ngọc” trần tình:
- Cái lần tôi vay đằng Cả Ủn bốn chục, tôi xin nhận lỗi là đã mạn phép cụ, nhưng không phải vay tiền để đi ăn mảnh như cụ tưởng mà để tiêu vào một việc quan hệ tới… gia đình, để tiêu riêng. Tuy mạn phép cụ, tôi cũng trả hết người ta chứ không hề để liên luỵ cho cụ…
- Ông bảo ông đã tiêu vào việc gia đình?
- Phải.
- Thôi đi, tôi không phải là thằng ngốc. Nếu chính mắt tôi không trông thấy việc ông tiêu thì đã có nhiều người khác trông hộ tôi. Nếu chính tai tôi không nghe thấy thì cũng có vô số người nghe hộ… Nói dối tôi không được, ông nghe ra chưa?
- Nếu thế thì thôi, tôi không biết nói thế nào nữa…
- Ông nói thế nào? Ông nói thế nào? Số bốn chục ấy, nếu không để làm vốn đi ăn mảnh thì cũng để trả tiền môn bài cho cái sòng ở chợ Chu, ông nghe ra chưa? Tưởng người ta không biết đấy!
Ông ấm không biết hay có biết? Tôi cũng chẳng hiểu, chỉ biết rằng nghe đến câu này, “Tham Ngọc” dường tắc cổ, hoặc bị một cái bàn tay vô hình, ác nghiệt bịt lấy miệng không cho nói nữa, không cho chối cãi nữa mà thôi. Im đây là thú tội.
“Tham Ngọc” cứ việc ngồi lặng im, ngây người ra, “thú tội” trong năm phút, mười phút, mười lăm phút.
Cái không khí im lặng này chẳng hiểu có khó chịu cho ông ấm hay “Tham Ngọc” không, nhưng chính ra, đã rất khó chịu cho tôi. Giữa cái cuộc tai biến của hai người đối với mình đều là… tri kỉ cả, một bên thì căm tức bên kia đã phản mình, một bên cũng căm tức vì đã bị nhiếc lác, mình tuy là
người ngoài cuộc nhưng lại ngồi ở chỗ đó, dẫu không căm tức nốt nữa thì cũng phải buồn. Nhất là mình không biết tìm cách gì có công hiệu hòng hoà giải được hai bên. Sầu thật!
Sau cùng, ông ấm nói một cách dịu dàng lắm:
- Thôi, ông… “Tham Ngọc”, chúng ta gặp mặt nhau thế là đủ!…
“Tham Ngọc” đứng dậy, hiểu ý câu nói lắm, bắt tay riêng tôi rồi xuống gác, bao nhiêu ý nghĩ căm giận hoặc khinh bỉ, không có cách nào khác, phải phát lộ ra cả gót giày, nện thình thình thật mạnh vào từng bậc thang…
“Tham Ngọc” đi rồi, tôi cũng đứng lên muốn về cho ông ấm ngồi một mình được thật tĩnh tâm mà “triết lí” đến cái tình bè bạn. Thấy tôi đứng lên, ông ngơ ngác nhìn ra vẻ buồn nản, rồi bảo:
- Ông hãy ở chơi…
Ở chơi đây không có nghĩa là ở chơi thật đâu, tôi đã biết trước sự ấy. Ở chơi đây là ngồi lại để nghe ông ấm kể lể… để nghe ông cãi cho mình là phải và buộc tội kẻ đã xúc phạm đến mình. Một dịp tôi biết thêm ít nhiều cái chân tướng của mọi nhân vật trong làng b… Càng hay! Tôi lại ngồi xuống ghế.
Tiểu sử của “Tham Ngọc” do ông ấm thuật lại cho tôi nghe một cách tỉ mỉ, tôi chép vắn tắt lại dưới đây.
*
* *
Hà Nội, 1910. Ngày mồng 2 Tết Nguyên Đán.
Tại một phố kia, một nhà ông phán.
Ngày mồng 2 Tết, vợ con về quê vắng cả, khách khứa cũng ít đến, ông phán đâm buồn, ngứa ngáy, phải nghĩ đến cách chơi xuân. Tết là những ngày mà người đời biết yêu nhau, hoặc thật, hoặc vờ, nhưng dù sao cũng sống với nhau bớt đểu cáng. Suốt năm, dù ghét nhau đến có thể giết nhau được, ngày Tết đến, người ta cũng lại nhà nhau mừng tuổi rối rít hay thì thụp quỳ lạy trước bàn thờ ông vải mà những ngày trước ấy, dễ thường người ta đã từng có lần réo đến tên tuổi để “đào ngoáy xoáy xoả” lẫn nhau. Ngày Tết, ngày của đạo Trung thứ[40].
Vậy thì, vào cái ngày mà mọi người dù thù hằn nhau cũng tha thứ cho nhau, dù không yêu nhau thành ra cao hứng chốc lát mà yêu nhau, không ai
phân cao thấp sang hèn chia rẽ nhau, một thằng nhỏ của nhà ông phán kể trên được chủ gọi lên tiêu khiển xuân nhật với thầy.
Tên nó là Xuân, mặt mũi nó không ai nỡ bảo là mặt mũi một thằng nhỏ. Mặc cái quần giặt là, cái áo giặt là, thắt cái thắt lưng lụa mộc, lại phủ ngoài một cái áo ma ga[41]– tóc mới, đội khăn lượt chỉnh tề, ngồi cùng giường rút bất với chủ, nó có thể khiến những khách lạ bước vào phải nhầm mà “Năm mới! Mừng tuổi hai… ông!”
Cái cảnh khan xu, đương giữa Tết mà hai thầy trò ngồi một xó rút bất với nhau kể cũng buồn mà cũng có thú vị. Chỉ bực một nỗi cho ông phán là cứ thua hoài. Buổi sáng thua, buổi chiều thua, đến buổi tối lại cũng thua, chủ phải để ý xem đầy tớ có những ngón gì. Thì ra thằng Xuân đánh lớp! Nó cứ xếp những quân: cửu sừng, ông cụ, tam văn, thất vạn cách những quân… tam đại rồi trang cả chỗ bài theo lối “che mắt thế gian”.
Dễ thường có khối óc triết lí khác người, ông thầy ít có này, sau cùng, cho cả đầy tớ những quần áo cũ, cấp cho nó một cái vốn lớn là hai chục bạc rồi mở rộng cả hai cánh cửa, giải phóng cho nó đi “chu du thiên hạ”. Có bộ mã kể cũng sang trọng, thoạt đầu thằng Xuân độ ấy mới 15 tuổi khi đội lốt học trò, khi đội lốt cậu Ngẩu nhà quê, đã lăn lộn trong những đám vã, đám trếch[42]trước khi được đụng chạm với phái thợ, phái thầy.
Trước người ta gọi nó là thằng, sau người ta lên chức nó là bác. Sau nữa đến thầy, sau cùng đến ông. Vốn là kẻ tinh khôn, anh chàng Xuân coi đời là một lớp học. Sự lịch thiệp tìm ở cái giao tiếp, sự kiến thức góp nhặt được trong báo chí, anh chàng Xuân càng sống càng biết đóng đủ mọi vai kịch trên sân khấu cuộc đời.
Ta chẳng nên lấy gì làm lạ khi thấy con người ấy đội lốt một ông tham Ngọc nào đó, đến những chỗ sang trọng, trí thức, có thể đả động được cả đến cái bộ mặt trái của Hội Quốc Liên!
*
* *
- Ấy kìa bác!
- Phải, tôi vẫn chờ bác từ nãy đến giờ. Ngồi làm gì mà lâu thế? Hẳn ấm B… đã làm bản cáo trạng buộc tội tôi cho bác nghe chán chê mê mỏi ra rồi…
Tôi gạt cái ý nghĩ nghi hoặc của “Tham Ngọc”.
- Không, có quái gì đâu!…
Giời mưa phùn, chúng tôi cũng cứ dấn bước đi luôn mấy phố. Anh Xuân gọi xe, mời tôi cùng lên rồi bảo phu kéo:
- Đến Hàng Buồm…
Tôi nghĩ đến tôi mà buồn cười. Tự nhiên vào làng b…, chẳng có đất nào cả mà hưởng đã vô số! Rồi lại được nghe ông này kể lể tâm sự vì bực mình với ông kia.
Chúng tôi vào một cửa hiệu. Cầm đến đũa bát, câu hỏi thứ nhất của tôi với “Tham Ngọc” là muốn biết anh ta đã thịt ông chú họ của tôi mấy chục chuyến rồi:
- Bác biết Mr. Đ.[43]làm ở phủ toàn quyền chứ?
- A! Có! Thằng cha thích húc trạc xếch!
- Thịt lão ấy mấy chuyến rồi?
- Không nhớ nữa, nhiều lắm!
- Người ấy là một ông chú họ tôi!
- Chú họ bác?
- Phải.
Anh Xuân cười:
- Mặc! Chú Giời cũng không tha.
- Ông ta chơi lõi lắm mà cũng vẫn vào xiếc nhỉ?
- Có lõi bằng trăm lão, tôi cũng nhét đất thó lỗ mũi lấy tiền.
- Này, nếu không bắt lão làm mòng nữa, mình có thể “đổi ngôi, thay bực” cho lão, rồi lão lại là người giữ két của làng b…
- Thế à? Thế thì rất hay! Chiều mai, tôi với bác sẽ lại ông ta nói chuyện nhé?
Anh Xuân ngồi cầm đũa mà nhìn, có vẻ ngẫm nghĩ. Rồi anh ta nói, tầm mắt vẫn buông đi đâu…
- Ông ấm không hiểu tôi. Rồi một ngày kia ông sẽ hiểu. Việc gì ở đời, nếu đã là chân lí tất rồi có người biết đến. Tôi phó mặc cho thời giờ. Hiện nay tôi đang góp vốn làm cái sòng chợ Chu. Mỗi tháng phải góp ngót nghìn
bạc cho con trai chú Lương Tam Kỳ, một người xưa kia vẫn được chính phủ ngơ cho mà xưng hùng ở vùng Bắc Cạn. Nay Lương chết, thanh thế giảm, con giai chỉ còn được hưởng quyền thế một sòng bạc ở Chợ Chu…
Khả ố thay cái nạn kinh tế! Chúng tôi kiếm không bằng một thằng khách bán phá xa. Bác thử tưởng tượng xem… Một tên khách ở Chợ Chu, quay một chục con vịt, một con đáng độ một hào. Nó bày lên một cái bàn quay, có 18 số. Mỗi số ta phải đặt hai xu. Trúng vào đâu, ta sẽ được một con vịt. Mất một con vịt một hào, hắn lấy về ba hào sáu, lãi những hai hào sáu xu. Dân làm mỏ Chợ Chu, thích ăn thịt vịt, đã bỏ lửng sòng…!
X
Canh tài bàn… tay tư
Chúng tôi đã từ cửa hiệu bước ra, đi.
Anh Xuân đưa khuỷu tay khẽ hích tôi một cái:
- Kìa trông kìa!… Có khác gì một con cò bợ không?
Tôi nhìn thẳng ra trước mặt… Thì ra anh Xuân nói anh Vũ. Phải, một anh Vũ vận Âu phục bảnh bao lắm: cái mũ dạ hội chịt xuống lông mày, cổ áo khoác ngoài kéo lên kín gáy, như một con cò bợ, giữa đám đông người, anh vẫn có vẻ mơ màng, cứ lừ đừ, đếm từng bước một mà đi. Ngắm anh ta, tôi không thể nhịn được cười.
Anh Xuân:
- Cái mặt lầm lầm như… chó ăn vụng bột kia là mặt anh b… sa hố hay đã bử, bác đoán xem nào.
Tôi đoán phỏng ngay:
- Dễ thường… sa hố!
Cuộc đánh đố chưa ngả đứt về mặt nào, anh Vũ đã nom thấy chúng tôi. Anh ta cuống người lên y như bắt được của:
- Ô hay nhỉ! Té ra lại anh em mình! (Anh ta hỏi riêng Xuân): Thế nào? Chợ Chu có gì bổ ích không? (rồi quay hỏi tôi) - Gớm, sao lâu bác không đến chơi thế?
Nhân lúc cao hứng, tôi nghiêm sắc mặt, nói đùa:
- Vừa tối hôm qua đến tìm bác nhưng không gặp! Khỉ quá, vừa lỡ mất một canh tài bàn! Có hai con mòng sộp ghê!…
May chưa! Tôi bịa thế mà ra tối hôm trước, anh Vũ vắng nhà thật! Anh ta giương tròn đôi con mắt, vừa lấy làm lạ và lấy làm tiếc nuối:
- Thế? Phải, hôm qua tôi có việc phải đi thật. Chết chết!… Bác mà cũng có đất, mà lại gọi tôi đi chinh phục đấy à? Hoài của! Thế thì số tôi là số một… nàng… cung nga…!
Xuân không hiểu, hỏi:
- Thế nào mà lại có số cung nga?
Anh Vũ cười:
- Đích số cung nga rồi. Vì rằng… một năm mới được một ngày vua mời thì gặp ngày… có kinh nguyệt!
Anh Xuân cả cười, và:
- Thôi đi! Làm hề mãi! Chợ Chu đối với tôi không có gì là lạ cả, nhưng về phần anh thì độ này có gì mới không?
- Úi chà! Có! Có cái mới nhất thế giới!… Nhưng không! Tôi chưa nói vội. Anh hãy cho nghe việc Chợ Chu đã.
“Tham Ngọc” thở dài:
- Chán lắm. Chúng tôi chỉ nai lưng ra làm cho ông con giời bố Lương ăn thôi. Dân thợ mỏ Chợ Chu bây giờ họ không thích mở bát nữa. Họ đã nghiện thịt vịt cả rồi.
Anh Vũ ngơ ngác:
- Anh nói cái gì?…
- Trên ấy bây giờ có một thằng chiệc, trước bán phá xa, nay không biết có phải được mả ông tổ tam, ngũ đại hay không, hốt nhiên đổi nghề và phất lắm. Nó làm cái món đánh số lấy vịt quay!
- Thế à?… Gớm, dân con trời nguy hiểm nhỉ.
- Nguy hiểm lắm! Mà phát tài ghê! Anh tính, chỉ quăng ra hai xu có thể được hi vọng chén thịt vịt, ai không muốn? Nhưng đồng bào mình ngày nay róc mấu lắm!
- Dân mỏ ấy à?
- Phải. Trước kia, khi mới có cái “kỉ nguyên đánh số thịt vịt” dân liên minh mỏ rất ham đánh và ít người mất số tiền thua gần bằng số tiền vịt. Vì bàn có những 18 số kia. Bây giờ thì khác hẳn. Các “ông tướng” ấy không chơi lối đánh lẻ tẻ từng người một như trước nữa; các ông mỗi người bỏ ra bốn xu chung nhau, hợp nhau lại vây kín cả cái bàn. Rồi một ông đặt vào một số. Ông nào thua “hội” xí xoá, nhưng ông nào được, phải cùng chia! Ta cứ tưởng tượng ra một cảnh: năm bảy ông thợ mỏ từ bàn số quay ra về, cầm vài, ba con vịt, bộ mặt ông nào cũng hí hửng theo cái lối “mục hạ vô nhân”,
đến nhà thì gọi vợ lấy dao thớt một cách oai hùng như một vị tướng truyền lệnh cho ba quân vậy… rồi rượu, rồi chuyện, rồi vén quần đến háng, rồi vỗ đùi đôm đốp!… Ai bảo trình độ dân lao động mình không tiến bộ?…
- Họ họp nhau lại thế, chú chiệc tất mất nhờ.
- Không mất nhờ hẳn, nhưng còn gì là bử lắm nữa… Thế còn việc anh?
- Việc tôi?… Không nói thì bực mình mà nói ra thì làng b… đến tiêu danh dự.
- ?
- Chuyện tôi định cho hai thằng cha kia vào xiếc, té ra lại chính tôi hoá mòng! Một canh tài bàn tay tư!
*
* *
Giời rét thế này mà máu trong người tôi có lẽ lên tới 40 độ. Sở dĩ máu nóng lên một cách kì lạ thế là bởi tối hôm ấy, tôi có cả cái gan góc, cái đau đớn lẫn cái tài tình. Theo mọi nền nếp của pho tượng Bịp Kinh, mình cần ngồi một chỗ nào không cho ai chầu rìa nổi. Tôi đã theo đúng thế: hai thằng cha kia vừa thắp đèn măng sông lên sáng quắc là mình nhảy tót ngay lên giường, ngồi dựa vào tường một cách bệ vệ ngay! Chết vì thế.
Hai thằng cha kia, một đứa ngồi ghế, một đứa ngồi giường. Vì trông cái mặt chúng cũng có vẻ cậu… Cả ngậm thế nào… mình vội yên trí đó là bọn quỷnh ngay. Lối đánh ống của tôi lần ấy trổ bằng hai tay áo sơ mi, thôi, còn phải nói! Nhưng ba ván đầu, tôi vẫn để mặc họ tha hồ ù trước tôi. Mà họ lên bài cũng nhanh thật! Mới gọi vài ba tiếng đã thấy họ hạ ù, mình cho họ tuy là bọn chơi thạo nhưng chắc cũng chưa đủ biết cách đề phòng nạn b… Đến ván thứ tư tôi hụt bốn quân, xoay đi xoay lại, chỉ còn việc đánh đi một cây là chờ… Một thằng kia lại ù trước mình lần nữa. Rồi ván thứ năm cũng thế, rồi ván thứ sáu cũng thế, rồi ván thứ bảy cũng thế, rồi ván… rồi ván… Ối chao ôi! Tôi sức đâu nói nữa!… Tôi lại phải sốt lên rồi đây!
Thật là một việc quá sức mình tưởng tượng!… Hay là chúng nó quỷ thuật? Nào tôi có biết!… Tôi để ý mãi, hòng bắt chúng nhưng chính mình cũng chẳng lấy gì làm “vững dạ” thì còn hòng chộp ai? Nhục chưa? Bịp đã lũa đến như mình, đánh tài bàn hụt đến bốn cây mà đến nỗi sa hố! Không thằng ngồi bên tay phải thì lại thằng ngồi bên tay trái, không thằng ngồi bên tay trái thì lại thằng ngồi bên tay phải, chỉ hai chúng nó chuyên nhau phỗng tay trên, ù tay trên mình!… Cái sự bí mật lạ lùng này, tôi biết hỏi chúa Jésus,
hỏi Phật Thích Ca hay hỏi Ma Quỷ?…
Đứng lên, tôi thua 18 đồng. Cái mặt một thằng mất trí khôn là mặt tôi lúc ấy vậy.
Không nói, các anh đủ biết là tôi đã tức đến cực điểm. Cái tâm lí bọn cờ bạc, nói ra thì lẩn thẩn, nhưng chính nó lẩn thẩn thế đấy. Có khi mình ngồi vào chơi cao thấp mà thua cũng còn có thể hộc máu ra được, huống hồ đã cho người ta là mòng mà đến nỗi chính mình lại bị đạn, đủ hiểu uất đến đâu.
Đã tức vì thua, tôi lại còn thêm vì chúng nó đãi tôi lịch sự một cách quá đáng nữa. Có đời thuở nào lại có chuyện rằng mình là bạn cờ bạc với nó, khi mình từ giường tụt xuống đất thì đã có một thằng cúi xuống tự bao giờ ấy, hai tay đưa giày cho chân mình đặt lên cẩn thận bằng cái dáng điệu ả đào nuông chiều quan viên không? Rồi chúng xúm xít lại mời tôi uống nước, đánh diêm cho tôi hút thuốc lào. Lúc cáo thoái ra về, tôi lại được chúng tiễn ra tận cửa.
Tôi quay đầu lại bắt tay từ biệt chúng, tình cờ thấy thoáng qua mắt, nhanh như một cái chớp, hình như có một đứa bé mặc quần áo trắng từ gầm giường bò ra, rồi, như một con cuốc vừa nhoáng một cái, đã lủi mất vào nhà trong. Tiếc rằng lúc ấy mình đã “ăn ớt” nhiều mắt bốc hoả dữ, không được rõ lắm, phải ngậm miệng cóc ra về.
Một thằng tiễn tôi đến tận hè rồi ân cần:
- Thôi kính ông về, tối mai có rỗi xin mời ông xuống chơi, lạy ông ạ.
Mình cung chắp tay cung kính: “Không dám, lạy ông ạ”. Nhưng trong óc có câu này: “Thôi đi tiên nhân các anh”.
Các ông cờ bạc bịp bên Tàu, bên Nhật, bên Anh, bên Pháp, những ông bạn “đồng nghiệp” Đông phương với Tây phương của tôi đâu? Các ông xin nhớ rằng nếu có sự “Đông Tây gặp nhau”, có sự hỗn hợp của hai cái “văn minh” Đông Tây thì sự ấy cũng đến thua kém cái tinh tuý của cờ bạc Việt Nam chúng tôi, cái đất có một canh tài bàn tay tư không tiền tuyệt hậu, ba tay ngồi trên ghế ngựa tử tế, còn một tay nữa, đánh ở dưới gầm.
*
* *
Sau một hồi cười rũ rượi của tôi với anh Xuân, nó khiến anh Vũ cũng phải cười nốt, tôi hỏi anh Vũ đến sự anh định rửa thù.
Anh ta nói rằng không khó gì, rồi anh sẽ quay lại cái “hang hùm nọc rắn”
ấy một lần nữa. Anh sẽ không ngồi dựa lưng vào tường như trước nữa, sẽ dồn hai thằng cha ấy vào ngồi vào chỗ anh ngồi trước… rồi mà xem!
Câu chuyện Bịp già gặp bịp non này dắt tác giả phải thuyết đến vấn đề sự làm quen nhau trong làng cờ bạc.
Đây, lời Vũ triết lí:
- Tôi đã nghiệm ra rằng nhờ ông Thần Đen Đỏ. Ôi, đám bạc! Đám bạc! Còn cảnh tượng nào đáng cho người ta chúc tụng hơn đám bạc! Trong cái đám người “tứ xứ” ấy, ta thường thấy có cả ông tai to mặt nhớn “bỏ quên” ở nhà cái giọng phong lưu, phệnh phạo, quát thét, để húc nhau với bọn vẫn mang tiếng hạ lưu một cách loã lồ; ta thường thấy những cô, những bà đài các ra phết, ngồi kề đùi, len vế lẫn lộn với bọn người mà…, nếu ở ngoài đám bạc, dễ thường các bà chỉ liệt vào hàng đầy tớ hoặc cu li. Những nhà xã hội học đâu? Những ông tha thiết thường đời đâu? Sao không cầu đến Thần Đỏ Đen? Tôi có cái tư tưởng ít ai nghĩ tới là bỏ luật cấm sự cờ bạc, cái sự giải trí của loài người rất có thú say sưa ấy, tôi muốn khuyến khích nó, cổ động cho nó mạnh lan rộng, than ôi! Tiếc thay!
Sốt ruột vì cái luận điệu rồ của Vũ, Xuân gạt lời:
- Thôi, xin ông, van ông! Sao mà ông… phẫn thế?
Bây giờ anh Vũ mới nói giọng thường:
- Chứ không ư? Vì lẽ gì, bác có muốn biết? Trước hết, bác hãy nên biết cái lẽ mẹ ấy đã; hai thằng cha kia mời được tôi đến tận nhà đánh bạc là bởi lão Đại Thiềng giới thiệu cho chúng tôi biết là hai ông phán nhà băng trong khi đồng thời, lão rước tôi lên nhà ông phán Thống sứ[44]! Tôi tưởng… chắc hai thằng cha kia cũng tưởng… thế là ba thằng quen nhau, ấy cái bọn cờ bạc dông dài chúng ta kết bạn nhau một cách dễ thế đó!… Nhưng hôm nay tôi đã tỉnh ngộ. Hai thằng cha kia mà tôi vẫn tưởng là bử, té ra chỉ là hai ông thợ giày… mà lại thợ giày bịp non!
Đang vui câu chuyện, hốt nhiên anh Xuân bắt tay tôi rồi ra nhảy lên một chiếc xe, bảo xe kéo một mạch.
Tôi còn ngơ ngác… ông ấm đã tiến đến trước mặt tôi rồi. Ông ta nói: - Đó, biết mà! Nó lẩn mặt tôi.
Chúng tôi vẫn mang cái bộ đãng tử đi nghênh ngang giữa phố từ nãy đến giờ.
Ông ấm tiếp:
- Tôi sở dĩ trọng Xuân là vì hắn có mẽ người, trông không lộ tẩy. Phái hắn đi đến những chỗ sang trọng phong lưu, tôi rất vững dạ, còn những anh khác, tôi vẫn sợ vì nó có vẻ… bịp thế nào…! Ôi! Cái vẻ mặt bịp của một con bạc bịp sao mà nó khó tả! Nếu dịch địa vào những người khác thì đủ mặt nhân vật của cái làng b… này, không một anh nào là tôi không nghi. Lắm khi tôi nghi cả tôi nữa. Đại khái lúc ngồi vào một đám bạc, mỗi cử chỉ của mình đều giữ gìn cẩn thận đấy nhưng mình vẫn cứ vơ vẩn nghĩ đến câu không biết hình như có anh nào nó khẽ nói: “Thôi đi, bịp! Bịp! Ông đã thừa biết, mày đừng có vờ đóng kịch vai ông hậu, ông quan!”
Nói xong, ông ấm cả cười. Rồi ông thêm:
- Thế mà thiên hạ họ không nghi ngờ gì! Đủ biết họ cũng mù thật!
Đến lúc ông đã vui, tôi mới lựa lời hỏi ông về một câu nói khiến tôi băn khoăn mãi:
- Thế cụ có giận Xuân không?
- Cũng giận mà không giận. Không giận vì người ta có quyền tìm một con đường tự lập. Mà giận là vì những cử chỉ của Xuân có tính chất đê hèn. Chúng tôi ấy à? Đã làm nghề này thì ít ra chúng tôi phải có nghĩa khí trong sự ăn ở với nhau cũng như bọn Lương Sơn Bạc! Dù là bịp là cũng phải có một phương diện cho thiên hạ phải phục. Còn như Xuân… thì thôi!!
Đến đây, ông ấm thất vọng, giơ tay lên giời, ông lại nói:
- Hiện nay, hắn đang chung lưng với một người nữa làm cái sòng ở Chợ Chu. Thôi, dù hắn có những chứng ăn mảnh với bồng tiền, tôi cũng sẵn lòng tha thứ cho, tôi cũng chỉ mong cho hắn khá!
- Bồng tiền, thế là cái gì ạ?
- Bồng tiền là được nhiều nhưng về khai man. Thí dụ tôi phái hắn đi bắt mòng, hắn lại được độ năm chục. Hắn kêu là được có ba chục rồi lại cưa nứa, thành thử tôi được chia có mười lăm đồng. Nhưng tôi có đâu tẹp nhẹp mà phải nói này nọ. Tôi biết vậy mà thôi. Cái tính ăn gian, ăn cắp là cái tính loài người, tôi làm gì được! Như lần hắn sang Bắc về, chắc ông thừa biết. Hắn kêu chỉ lấy có hai chục mà để cả bốn chục cho xừ Vân. Thật vậy hay không, nào tôi có biết!
Tôi vội phải làm trạng sư ngay cho người vắng mặt:
- Có thế, thật chứ không phải hắn hụt tiền đâu. Tôi xin cam đoan với
cụ…
Ông ấm ra vẻ nghĩ ngợi, gật gù…
Nhưng ông lại kể lể:
- Nhưng việc đó chưa đủ đảm bảo cho cái lương thiện của Xuân. Vì rằng đã có lần hắn bồng không thoát.
Tối ấy, đi đánh xì về hắn lại đằng tôi ngủ và kêu là được năm chục đúng. Tôi đem lòng ngờ, chờ cho hắn ngủ say rồi mới dậy khám. Tôi sờ khăn, sờ áo, lục cả giày. Không thấy có gì, tôi tháo bít tất hắn ra. Tôi thấy bốn giấy con công nằm trong hai bít tất! Tôi giữ lấy tiền, lại đi tất vào y nguyên cho hắn, không nói năng gì. Hôm sau đấy, sau khi cưa nứa đâu đấy rồi, hắn sờ xuống tất, có vẻ ngạc nhiên. Ngạc nhiên mà không dám nói ra mới ức! Tôi cứ mặc cho hắn đem cái ngạc nhiên ấy về nhà.
Anh Vũ thêm câu này:
- Xuân còn là người nguy hiểm, có thể giở mặt cả với bạn hữu.
XI
Tấm lòng đi bịp, từ nay xin chừa
Tôi đã về Bắc Ninh được ngót nửa tháng. Trong nửa tháng ấy, tôi không được chút tin tức gì về mọi sự hoạt động của làng b… nữa, ngoài một lá thư của anh Vũ gửi sang hỏi thăm mấy câu làm quà.
Nghĩ mà giật mình đến cái thời gian trong hơn ba tháng trời lăn lộn với đủ mọi nhân vật của làng bạc bịp, đến cách tổ chức của họ, đến những bi kịch do những tay săn mòng gây cho những gia đình của bọn tín đồ “tôn giáo đỏ, đen”. Không phải tôi có ý kết án bọn bạc bịp. Nếu ở đời này, trong tình bằng hữu còn thấy có dây những vết nhơ bẩn của sự tài lợi, trong nhiều cuộc hôn nhân còn thấy có cái tính cách buôn bán và trong mọi sự buôn bán vẫn có nhiều mặt trái thì trong sự cờ bạc, có lẽ có mọi ngón bịp, chỉ là sự tất nhiên, rất thường. Chỉ có cái máu cờ bạc của loài người là khiến tôi không thể hiểu được, phải băn khoăn.
Sáng hôm sau, cụ phán phàn nàn với tôi:
- Không hiểu thằng Vân nó làm gì ở Hà Nội mà mãi nó chưa về. Đây này, nó lại viết giấy nã tiền tôi lần nữa đây. Chuyến trước đi, đã lấy hai chục. Bây giờ lại xin chục nữa!… Lần nào nó cũng kêu là để chạy việc, tôi biết có nên tin nó hay không.
Tôi đỡ lá thư, nhìn đến đoạn có ngón tay của cụ phán chỉ…
“Con phải chờ có lẽ đến năm hôm nữa mới biết tin tức đích xác được. Nhận được thư này, thầy gửi ngay cho con chục nữa để cho con tiêu pha, xe pháo, và thù tạc với mấy người đang lo việc cho con…”
Cụ phán cúi đầu, nhìn tôi một cách trông buồn cười là phóng nhỡn tuyến lên bên trên đôi mắt kính. Thấy tôi không phán đoán thế nào, cụ chỉ lắc đầu, bỏ thư vào túi rồi quay đi. Cụ ra ngồi bàn kéo một hơi thuốc lào rồi trầm ngâm nghĩ ngợi. Tôi quay mặt đi chỗ khác để mỉm cười.
Một lát sau, cụ hấp tấp mở ngăn kéo, lại chìa cho tôi một phong thư nữa. - Đây này, quên mất, còn lá thư này nó viết cho anh đây.
Thư của anh Vân, mà lại vào trường hợp này thì tôi phải đọc một cách
giấu giếm theo lối “gái ngoan” đọc thư của nhân tình mới được! Tôi lên gác, khép cửa cẩn thận, đoạn mới xé phong bì…
Hanoi, le 20 juin 1933[45]
Chú Ph…
Đêm hôm nay, tôi nằm trằn trọc, không thể nào ngủ được, chuông đồng hồ vừa đánh hai tiếng mà phải ngồi dậy, vặn đèn để viết thư cho chú đây.
Gớm, sao mà mấy hôm nay tôi thấy xảy ra nhiều chuyện quá! Thôi, chuyến này thì tha hồ chú được nghe cái mới, cái lạ, kẻo không lại bảo thư tôi viết cho chú ít khi được “có vị”. Chỉ tiếc rằng nó toàn có một vị cay, chua. Nhưng chỉ cay, chua riêng cho tôi thôi, còn chú là người đọc thư thì chắc rằng sẽ thấy thư thú vị hết chỗ nói! Chẳng lẽ tôi lại dùng cái giọng “em chết mất anh ạ” của trai gái trong những tiểu thuyết bi tình; dù sao tôi cũng cố gượng cười, chỉ mong thư không đến nỗi khôi hài đã là may.
Tôi đau lòng quá, chán đời quá, khổ quá, dễ thường đến hoá ra… thi sĩ mất! Đã cay bởi thua bạc, chán nản bởi khan xu, lại đau đớn trong tình trường. Không hiểu những bậc thánh hiền thuở trước chán thế sự, phải lên núi tu tiên, thì lúc ấy, những cảm giác của các bậc ấy nó lâm li thế nào, nó thống thiết thế nào, chứ cái đau lòng của tôi lúc này thật cũng có thể khiến cho tôi đủ chán đời rồi lên núi tu tiên. Chỉ sợ nước Nam ta vào bây giờ, trên ngọn núi nào cũng có tổ tôm, tài bàn, xóc đĩa, ích xì thì thôi!… Thôi!… Lên đến núi rồi, tôi cũng khó lòng mà tu được vì rằng – chú phải biết – bọn Mường, bọn Mán ở các núi bây giờ cũng đã biết tổ tôm, tài bàn đủ ngón rồi, văn minh ghê. Cho nên trước khi lên núi tu tiên, tôi cứ băn khoăn mãi không biết là mình sẽ thành tiên hay không khéo lại ra một ông “ấm B… con” thì thật vô phúc cho cả núi.
À này, quên đi mất, tôi có một việc tối quan trọng, cần phải chú giúp sức cho, việc may ra mới có hi vọng thành. Cùng chuyến xe lửa với lá thư này, tôi có gửi cho ông via “phịa” chuyện xoay ông ấy chục bạc nữa đấy. Tôi lấy cớ chạy việc, chú phải đứng ngoài làm hậu thuẫn cho tôi, tôi đến phải gói cơm nắm, muối vừng, kéo bộ bò về mất. Mà ức nhất là cuộc “cổ động thể thao” ấy, nếu sẽ có thật, mình tất rồi chẳng có người đón rước, dâng hoa với chụp ảnh kỉ niệm như các tiểu thư đi bộ Hà Nội – Hải Phòng thì cực đến đâu! Thôi, đừng lo, tôi sẽ có cách nói dối ông via lần thứ nhì về công cuộc “chạy việc”.
Ngoài chuyện này tôi lại còn nói với chú nhiều chuyện khác:
Theo lời hứa của ông ấm sẽ đi cùng tôi xuống nhà lão Sinh điều đình việc lấy lại số tiền ba chục mà tôi đã thua xì (chuyện này chắc chú còn nhớ rõ lắm), thì đúng 6 giờ chiều hôm ấy, tôi quay lại toà nhà ở phố Hàng Cá, trong lòng chứa chan hi vọng ở ông… quân sư. Đến nơi, người nhà ông kêu ông đi vắng. Rõ cái ông ấm ranh mãnh ấy, buổi trưa vừa nói thế, chập tối đã quên khuấy ngay mất, lại đi săn mòng! Thành thử mình phải một đêm trằn trọc, chờ mãi mới thấy sáng. Bảnh mắt hôm sau, tôi lại đến tìm ông ấm. Ông ta nể lời, đêm trước cũng thức suốt đến sáng mà không dám ngủ nữa, chiều ý mình, dậy đi ngay. Xuống đến nơi… sau khi nói rõ mọi ngón của nhau, giới thiệu nhau là “đồng nghiệp” đâu đấy rồi, lão Sinh nhe răng ra cười trừ rồi đưa ra được sáu của…
- Thế thì hỏng. Tôi đã tiêu pha cả rồi, chỉ còn chỗ này đây thôi. Ông cứ cầm, bao giờ có con mòng nào, tôi sẽ đền ông sau vậy…
Đau chưa? Nhưng còn sáu đồng thì cũng còn hơn không, tôi cầm.
Rồi tôi đi lùng con Dung. Nó lẩn mặt hoài, tôi phải cuốc khắp mọi nơi, lùng như lính mật thám lùng kẻ cắp mãi mới tóm được nó. Đứng trước mặt nó, vì nghĩ rằng to tiếng bao nhiêu chỉ tỏ dại mặt, vừa phần tức quá cũng không nói gì được nữa, tôi trợn hai con mắt nhìn nó trừng trừng. Con khốn nạn! Nó dám mở miệng viện những lẽ thế này này:
- Sự đã xảy ra rồi tuỳ lượng của cậu đấy… Em là kẻ còn ở với người ngày nào, người ta bảo gì mà em không nghe. Vì bần cùng nên em phải lừa dối cậu. Nếu cậu muốn không bao giờ sẽ xảy ra những chuyện mà em phải dúng tay vào một cách đau đớn như chuyện này nữa thì tìm cách tháo cũi, sổ lồng cho em đi…
Rồi nó cúi mặt xuống, cố rặn mãi ra cái vẻ đau đớn! Ái chà!
Nhưng thôi, tôi chẳng dại như xưa mà cảm động xằng mãi… Chỉ đứng nhìn cái bộ mặt đóng kịch của nó mà thôi. Đáng buồn chưa? Cái mặt nó đáng hôn thế mà cái tâm địa nó giả dối thế, đểu cáng thế! Sau cùng, vì nghĩ rằng mình dan díu với nó bởi lẽ dục nhiều, tình ít, tội gì mà phẫn, liều, cũng phải vờ làm ra vẻ sẵn lòng tha thứ nó, tôi không nói gì cả, lẳng lặng quay gót đi. Dù trận bão nổi lên trong cốc nước thì trong cốc cũng phải có sóng, lẽ tự nhiên, tôi cũng có chút đau lòng cái đau đớn của một “thi sĩ” đến một bàn kem ở Bờ Hồ.
Tình cờ, tôi gặp tham Ngọc. Lần thần không biết tôi nghĩ thế nào mà lại kể lể tâm sự cho Ngọc nghe!… Rồi lại đưa cái ảnh Dung đứng quàng cổ tôi cho Ngọc xem nữa. Rõ khốn nạn! Lại thêm một cuộc tai biến nữa: Ngọc tái