🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cạm Bẫy Mong Manh - James Patterson full prc, pdf, epub, azw3 [Trinh thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
JAMES PATTERSON
MICHAEL LEDWIDGE
Thanh Vân dịch
CẠM BẪY
MONG MANH Step on a Crack (2007)
NQK Mod (2017)
MỞ ĐẦU
BỮA TỐI CUỐI CÙNG
Viên đại úy mặc dạ phục màu kem vừa quay lưng khỏi bàn, Stephen Hopkins đã nhoài người hôn vợ trong một ngăn ở góc khuất. Caroline nhắm mắt, thưởng thức vị champagne lạnh Stephen vừa nhấp, và giật mình khi bàn tay ông chạm vào một trong những dây lụa trên chiếc áo khoác Chanel của bà.
“Anh không thấy thực ra chẳng cần những gã hợm này có mặt trong ngày lễ này sao,” bà nói lúc ngẩng lên hít thở. “Phí cả thời gian, mà chúng mình đang ăn vận nghiêm chỉnh đấy nhé. Anh thấy son môi của em thế nào?”
“Ngon lắm,” Stephen nói và mỉm cười như một ngôi sao điện ảnh. Rồi ông sờ vào đùi bà.
“Anh ngoài năm mươi rồi,” Caroline nói. “Chứ không phải mười lăm nữa đâu!” Caroline vừa trêu chồng vừa gạt bàn tay Stephen ra, làm như đây là việc bất hợp pháp. Cuộc hẹn hò ‘Giáng sinh ở New York’ hàng năm của họ ngày càng thắm thiết hơn, ngoài sức tưởng tượng của bà. Bữa tối ở L’Arène, nhà hàng Pháp thuộc loại thanh lịch nhất, quyến rũ nhất ở thành phố New York; dạo chơi bằng xe ngựa đúng kiểu cổ xưa qua Công viên Trung tâm; rồi sau đó trở về dãy phòng Tổng thống ở khách sạn Pierre. Suốt bốn năm nay, đây là món quà Giáng sinh họ tự thưởng cho mình. Hóa ra năm sau lại lãng mạn, tinh tế và thắm đượm hơn năm trước. Dường như đúng lúc đó, bên ngoài các cửa sổ nẹp đồng của nhà hàng, tuyết bắt đầu rơi, những bông tuyết lớn màu trắng bạc mắc vào chóp hình nón của các cột đèn cổ điển bằng sắt màu đen.
“Nếu anh có một điều ước cho Giáng sinh này, thì là gì vậy?” Caroline bất chợt hỏi.
Stephen giơ cốc Laurent-Perrier Grand Siècle nguyên chất ánh vàng lên, cố làm ra vẻ đùa cợt:
“Anh ước… Ước gì…”
Nỗi buồn lặng lẽ làm tan vẻ hài hước trên mặt lúc ông nhìn đăm đăm vào ly rượu. “Anh ước nó là một cốc sôcôla nóng.”
Caroline cảm thấy choáng váng lúc bà há miệng và hơi thở của bà lặng đi. Nhiều năm trước, khi còn là sinh viên năm thứ nhất được học bổng ở Harvard, Caroline và Stephen đã rất nhớ nhà vì không đủ tiền về nghỉ lễ Giáng sinh. Một buổi sáng, ở nhà ăn Annenberg vắng vẻ chỉ có hai suất điểm tâm của họ, Stephen đến ngồi cùng bàn với Caroline.
“Chỉ để ấm hơn một chút thôi,” Stephen nói. Chẳng mấy lúc, họ biết rằng cả hai đều mong ước trở thành nhà hoạch định chính sách, và họ cảm thấy tâm đầu ý hợp ngay lập tức. Ở sân đằng trước Hollis Hall bằng gạch đỏ, Caroline sốt sắng quỳ xuống đất và đắp một thiên thần bằng tuyết. Mặt họ gần như chạm vào nhau lúc Stephen tới giúp. Rồi Caroline uống vội một ngụm sôcôla nóng lén mang ra từ nhà ăn, để không hôn anh chàng vừa gặp mà không hiểu vì sao đã thấy có cảm tình.
Caroline như vẫn nhìn thấy hình ảnh Stephen ngày nào, tươi cười trong ánh sáng mùa đông sáng loáng như mạ kền. Chàng trai đáng yêu đó đứng trước mặt cô trên sân trường Harvard, không hề hay biết rằng anh sẽ cưới cô. Cho cô một đứa con gái xinh đẹp. Rồi tiếp đó là trở thành Tổng thống Hoa Kỳ.
Câu ông hỏi bà ba chục năm trước, lúc bà đặt cốc sôcôla xuống, lúc này lại vang
vọng thấm thía trong tai bà như thủy tinh gõ vào bạc sáng ngời: “Em có muốn nếm champagne không?”
Từ sôcôla nóng đến champagne, Caroline nghĩ và nâng ly rượu đang sủi bọt. Lúc này là champagne đến sôcôla nóng. Cuộc hôn nhân hai thập kỷ rưỡi của họ là một vòng tròn đầy đặn.
Họ đã có cả cuộc đời, may mắn, đáng giá và… bà nghĩ, thấm thía khoảnh khắc này.
“Tôi xin lỗi, thưa Tổng thống…,” một giọng thì thầm. “Tôi xin lỗi. Xin ngài tha lỗi.” Một người đàn ông trông xanh xao, tóc vàng hoe, mặc bộ com-lê màu xám như kim loại đứng trước ngăn của họ khoảng ba mét. Anh ta vẫy tờ thực đơn và cây bút. Henri, bồi trưởng, vừa tới. Ông vội giúp Steve Beplar, đặc vụ của gia đình Hopkins, cố kín đáo đưa người vừa đột nhập ra khỏi tầm nhìn.
“Ồ, tôi xin lỗi,” người đàn ông nói với đặc vụ bằng giọng nhún nhường. “Tôi chỉ tưởng Tổng thống ra hiệu đòi thực đơn.”
“Không sao, Steve,” Stephen Hopkins nói và khẽ phẩy tay. Ông nhún vai với vợ, vẻ áy náy.
Danh tiếng, Caroline nghĩ và đặt ly champagne lên tấm khăn bàn bằng lanh nõn trắng muốt. Chẳng phải là thứ phản trắc sao?
“Ngài có thể ký tên cho vợ tôi được không? Carla…,” người đàn ông xanh xao nói với qua bờ vai rộng của viên đặc vụ.
“Carla là vợ tôi!” Anh ta nói lớn. “Ôi lạy Chúa! Tôi chỉ nói có thế thôi mà! Tôi may mắn đến phát cuồng vì được gặp vị Tổng thống vĩ đại nhất của thế kỷ qua, và tôi còn biết làm gì nữa đây? Lạy Chúa, lúc này tôi thật xấu hổ. Tôi phải nói rằng, tối nay trông cả hai người tuyệt quá. Nhất là bà, phu nhân Hopkins ạ.”
“Chúc ông Giáng sinh vui vẻ,” Stephen Hopkins nói, ông cố mỉm cười hòa nhã hết mức.
“Tôi hy vọng không làm phiền,” người đó nói, bộ com-lê của anh ta lấp lánh lúc lùi lại và cúi chào.
“Làm phiền ư?” Stephen Hopkins nói, ông toét miệng cười với vợ lúc người đàn ông kia đã đi khỏi. “Làm sao chồng của Carla lại cho rằng làm hỏng khoảnh khắc lãng mạn nhất trong đời chúng ta là làm phiền nhỉ?”
Họ vẫn đang cười lúc một người hầu bàn tươi tắn xuất hiện, đặt đĩa xuống và rút lui. Caroline mỉm cười nhìn cái liễn sành đựng gan ngỗng béo bày biện rất đẹp mắt lúc chồng bà bật nút chai champagne.
Trông đẹp quá, ăn mà tiếc, Caroline nghĩ và cầm dao, dĩa lên. Gần như là thế. Miếng đầu tiên ngon tuyệt trần, ngon đến mức phải thưởng thức thêm vài miếng nữa.
Và lúc đó đã quá muộn.
Một thứ giống như luồng khí sôi sùng sục, ngay lập tức bơm phồng phổi, cổ họng và mặt Caroline Hopkins. Tròng mắt bà lồi ra lúc cái dĩa bạc có hình cuộn rời khỏi môi bà và rơi vào đồ sứ kêu lanh canh.
“Ôi lạy Chúa, Caroline,” bà nghe thấy Stephen nói lúc ông nhìn bà, kinh hoàng. “Steve! Cứu với! Caroline làm sao ấy! Bà ấy không thở nổi!”
• • •
Lạy Chúa, không. Xin Người đừng để chuyện này xảy ra. Không! Stephen Hopkins nghĩ lúc ông loạng choạng đứng dậy. Ông vừa kêu đến lần thứ hai, Steve Beplar đã kịp chạy đến, túm lấy mép bàn ăn, quẳng sang một bên.
Đồ thủy tinh và đồ sứ rơi xuống sàn gỗ bóng loáng kêu loảng xoảng lúc đặc vụ Susan Wu, người thân cận tiếp theo trong nhóm bốn nhân viên an ninh đặc nhiệm, kéo bà Hopkins khỏi ghế. Ngay lập tức, nữ đặc vụ thò ngón tay vào miệng Caroline, móc thức ăn ra. Rồi cô ra phía sau Caroline và bắt đầu ấn nắm tay vào cơ hoành của bà, cấp cứu cho khỏi ngạt.
Dường như có một bàn tay lạnh giá luồn vào trong lồng ngực Stephen. Ông nhìn một cách vô vọng khuôn mặt vợ ông từ màu đỏ biến dần thành màu tím đen. “Dừng lại! Đợi đã!” ông nói. “Bà ấy không bị ngạt! Bà ấy bị dị ứng thức ăn! Bà ấy dị ứng với lạc. Adrenaline, nhanh lên! Bà ấy mang cái bút nhỏ. Xắc của bà ấy đâu?” “Trong ô tô ở đằng trước!” Đặc vụ Wu nói. Cô lao như tên bắn qua phòng ăn và chạy về ngay. Cô đã có xắc của Caroline!
Stephen Hopkins đổ các thứ trong xắc của vợ lên lớp satanh bọc mặt ghế. “Không có ở đây!” Ông nói và gạt bay đồ trang điểm cùng lọ nước hoa. Steve Beplar quát vào micro gắn ở cánh tay áo, rồi anh bế xốc cựu Đệ nhất phu nhân lên tay như thể bà là một đứa trẻ mệt lả.
“Phải đến ngay bệnh viện, thưa ngài,” anh nói lúc tiến thẳng đến lối ra, trong lúc những người còn lại trong nhà hàng nhìn trân trân, kinh hãi.
Lát sau, trên ghế sau của xe Cảnh sát đặc nhiệm, Stephen Hopkins ôm đầu vợ vào lòng. Hơi thở yếu ớt từ họng bà rít lên như hút qua cuộng rơm. Ông đau đớn khi thấy mắt bà nhắm nghiền trong cơn đau tột cùng.
Bác sĩ và cáng đã đợi sẵn trên hè khi chiếc ô tô vừa đỗ trước lối vào phòng cấp cứu của bệnh viện St. Vincent ở phố Năm mươi hai.
“Ngài nghĩ đây là một phản xạ dị ứng thức ăn?” Một trong các bác sĩ vừa hỏi vừa bắt mạch Caroline lúc hai người phụ tá đẩy cáng qua cửa kính.
“Bà ấy dị ứng rất mạnh với lạc. Ngay từ hồi còn bé,” Stephen nói, ông run run đi bên Caroline. “Chúng tôi đã dặn nhà bếp ở L’Arène. Chắc hẳn có sự nhầm lẫn gì đây.”
“Bà ấy bị choáng, thưa ngài,” bác sĩ nói. Ông ngăn cựu Tổng thống lại lúc bà Caroline được đẩy qua cửa ngách đề DÀNH RIÊNG CHO NHÂN VIÊN BỆNH VIỆN. “Chúng tôi sẽ cố gắng làm bà ấy hồi lại. Chúng tôi sẽ làm mọi thứ…” Stephen Hopkins đột ngột gạt bác sĩ sang một bên.
“Tôi không rời nhà tôi đâu,” ông nói. “Cho qua đi. Đây là mệnh lệnh.” Khi ông vào phòng cấp cứu, người ta đã gắn một ống truyền vào cánh tay Caroline và úp mặt nạ thở ôxy lên mặt bà. Ông nhăn mặt lúc họ rạch chiếc áo tuyệt đẹp của bà tới tận rốn để gắn các dây dẫn của máy điện tim.
Cái máy phát ra một tiếng bíp dễ sợ và cứ bíp bíp không ngừng lúc họ bấm tiếp. Rồi một đường thẳng màu đen xuất hiện trên màn hình. Một y tá lập tức bắt đầu sốc tim.
“Hết mức,” bác sĩ hét và đặt các tấm điện cực lên ngực Caroline. Stephen theo dõi bộ ngực Caroline nảy bật lên một nhịp, rồi tiếng blúp-blúp mới, yếu ớt bắt đầu xuất hiện trên màn hình. Một đỉnh nhọn sắc nét, nhô lên trên màn hình. Rồi cái nữa.
Mỗi cái là một nhịp đập kỳ diệu của trái tim Caroline Hopkins.
Những giọt nước mắt cảm kích vừa long lanh trong mắt Stephen, thì tiếng bí-í-í-í í-í-íp đáng sợ quay trở lại.
Bác sĩ cố sốc tim vài lần nữa nhưng màn hình rít lên, không thay đổi âm thanh đơn điệu. Việc cuối cùng mà cựu Tổng thống chứng kiến là hành động nhân từ nữa của người đặc vụ trung thành.
Mắt đầy lệ, Steve Beplar lao tới và rút phắt ổ cắm ra khỏi bức tường ốp gạch màu vàng, tắt tiếng rít quái gở của cỗ máy.
“Tôi rất tiếc, thưa ngài. Bà ấy đi rồi.”
• • •
Người đàn ông xanh xao, tóc vàng hoe xin chữ ký ở L’Arène bảo người lái xe da đen đỗ ở đại lộ Chín, một đường phố lớn ở phía bắc bệnh viện St. Vincent. Gã nhét đồng mười xu vào cái khe bản lề đầy bụi, rồi dùng khuỷu tay huých cái then nhờn nhờn mở cửa, tránh chạm vào nó. Có nhiều lý do thích đáng để gọi gã là Gã Ngăn nắp.
Một chiếc ô tô lấy tin của Kênh 12 phanh kít lại bên cạnh, lúc gã rẽ vào góc phố. Gã dừng lại khi thấy NYPD* chặn đám phóng viên và những tay chụp ảnh, quay phim đông dần ở lối vào phòng cấp cứu bệnh viện.
Không, gã nghĩ. Không thể nào! Trò chơi đã kết thúc rồi ư?
Gã băng qua đường Năm mươi hai khi phát hiện ra một nữ nhân viên cấp cứu trông mệt lả đang lách qua đám đông.
“Cô ơi,” gã nói và bước đến gần cô ta. “Cô có thể cho tôi biết không? Đây có phải là nơi người ta đưa Đệ nhất phu nhân Caroline đến không?”
Người phụ nữ Hispanic* có thân hình đầy đặn gật đầu, và bỗng rên rỉ. Những giọt nước mắt bắt đầu lăn xuống má cô ta. Bàn tay cô run run đưa lên che miệng. “Bà ấy vừa mất rồi,” cô ta nói. “Caroline Hopkins vừa qua đời.”
Gã Ngăn nắp thấy choáng váng giây lát. Giống như có một ngọn gió quật gã ngã. Gã lắc đầu và chớp lia lịa, vừa sững sờ vừa hân hoan.
“Không,” gã nói. “Cô chắc chứ?”
Cô y tá mệt rã rời nức nở và bỗng nhiên ôm lấy gã.
“Ay Dios Mio*! Bà ấy là một vị thánh. Bà ấy đã làm rất nhiều việc vì người nghèo và chống lại bệnh AIDS. Có một lần, bà ấy đến thăm dự án của mẹ tôi ở Bronx, và chúng tôi đã bắt tay bà ấy như thể bà ấy là Nữ hoàng Anh vậy. Cuộc vận động Phục vụ nước Mỹ của bà ấy là một trong những lý do thôi thúc tôi trở thành y tá. Sao bà ấy có thể chết được?”
“Chỉ có Chúa mới biết,” gã Ngăn nắp nói dịu dàng.
“Bây giờ bà ấy ở trong tay Chúa, đúng không nào?”
Trên thực tế, gã đang cảm thấy hàng tỉ con vi trùng trên người cô ta. Gã nhún vai, mơ hồ nghĩ đến sự bẩn thỉu của thành phố New York mà một y tá phải tiếp xúc hàng ngày, và nghĩ đến sự tồn tại đáng thương của cô ta. Làm nhân viên bệnh viện là như thế!
“Chúa ơi, tôi làm gì thế này?” Cô y tá nói và buông gã ra. “Tin tức. Sự bàng hoàng. Có lẽ chúng làm tôi rất bối rối. Tôi đang nghĩ đến nến, hoa hoặc cái gì đó. Nó có vẻ như không thật. Tôi… à mà tôi là Yolanda.”
“Yolanda ư? Ờ. Mà tôi… ờ… tôi phải đi thôi,” gã Ngăn nắp nói, lướt qua cô ta để đi vào phố.
Lúc đến phía đông đại lộ Chín, tay gã đã cầm chiếc điện thoại di động. Gã có thể nghe thấy tiếng bát đĩa lách cách rất to, đầu bếp hô bằng tiếng Pháp lúc cuộc gọi của gã nối với nhà hàng L’Arène.
“Xong rồi, Julio,” gã nói. “Mụ ta nghẻo rồi. Bây giờ chắc đang trên đường từ đó tới
địa ngục. Cậu đã khử được Caroline Hopkins. Xin chúc mừng.”
Gã Ngăn nắp định lắc đầu, ngạc nhiên vì vận may của mình nhưng gã dừng lại. Vận may chẳng là cái quái gì trong vụ này.
Ba năm dàn dựng kế hoạch, gã đăm chiêu nghĩ lúc vòng qua góc phố Bốn mươi chín và rẽ về hướng Đông. Giờ chúng chỉ còn ba ngày để làm nốt phần việc còn lại. Một lúc sau, gã đã ngồi trên ghế sau của chiếc taxi nhằm hướng Bắc lên phố Tám. Gã lấy vài ngụm rượu lau sạch ví, chà xát bàn tay và mặt. Gã vuốt phẳng ve áo và khoanh tay trước ngực lúc gã lao qua ánh sáng rực rỡ, thoát khỏi thành phố ô trọc này.
Ta sẽ bảo em cái gì mới là không thật, bé Yolanda ạ, gã Ngăn nắp nghĩ lúc chiếc taxi lượn quanh vòng xuyến Columbus và rẽ vào đường đi Broadway. Đệ nhất phu nhân Caroline qua đời mới chỉ là bắt đầu!
PHẦN MỘT
SỐ MƯỜI HOÀN HẢO
1
Tôi sẽ kể với bạn điều này, ngay trên các đường phố gọi là trung bình của New York, nơi thứ duy nhất khó kiếm là một chiếc taxi giữa trời mưa, chúng tôi đang cố quay đầu xe trong một buổi chiều tháng Chạp tàn nhẫn và ảm đạm.
Nếu như thứ gì có thể tác động đến tình cảm sâu sắc nhất, rắn như thép cuộn của cư dân thành phố New York, tôi chắc là cảnh tượng huy động cả gia đình Bennett - Chrissy ba tuổi, Shawna lên bốn, Trent lên năm, cặp song sinh Fiona và Bridget lên bảy, Eddie lên tám, Ricky lên chín, Jame lên mười, Brian mười một và Juliana mười hai tuổi; tất cả vận quần áo Chủ nhật tươm tất và lần lượt đi sau tôi, như một thói quen.
Tôi cho rằng lẽ ra mình nên cảm thấy may mắn khi hiểu được rằng tính bản thiện của loài người chưa hoàn toàn khô cạn trong cái thành phố chán ngấy này. Lúc cha con tôi nhận được những cái gật đầu nhẹ và nụ cười ấm áp của những người tản bộ, đẩy xe nôi, những công nhân xây dựng và người bán bánh mì kẹp xúc xích từ lối ra của xe điện ngầm cạnh Bloomingdale trên đường đến đại lộ Một, tôi đã hoàn toàn lẫn lộn.
Đầu tôi bộn bề nhiều thứ quá.
Người New York duy nhất có vẻ không giống như đang đến một bữa tiệc linh đình là ông già mặc áo khoác của bệnh viện đang say sưa hút thuốc và đẩy cái xe truyền dịch, tránh đường cho chúng tôi tới lối vào cánh cuối của Trung tâm Ung thư trong Bệnh viện New York.
Tôi cho rằng ông ta cũng có nhiều điều bận bịu trong tâm trí như tôi vậy. Tôi không biết Bệnh viện New York tuyển nhân viên mới cho những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối từ đâu, nhưng theo phỏng đoán của tôi, phòng nhân sự đã may mắn được thánh thần ban cho những người vô cùng nhân hậu. Lòng trắc ẩn của họ thật bền bỉ, họ đối xử với tôi và gia đình tôi tử tế đến mức kinh ngạc. Lúc đi qua chỗ Kevin luôn tươi cười ở bàn tiếp tân và Sally Hitchens như thiên thần, chủ nhiệm Khoa Điều dưỡng, tôi phải ngẩng đầu và cố gật một cái yếu ớt đáp lại họ.
Phải nói rằng, tôi không cảm thấy tỏ ra dễ gần gũi sẽ làm sự việc nhẹ nhàng hơn. “Ồ, anh nhìn này, Tom,” một phụ nữ trung niên, rõ ràng là khách, nói với chồng trong thang máy. “Một giáo viên đưa học sinh vào hát mừng Giáng sinh. Dễ thương không kia chứ? Chúc các cháu Giáng sinh vui vẻ!”
Chúng tôi hiểu ngay. Tôi là người Mỹ gốc Ireland, nhưng tất cả bọn trẻ đều là con nuôi. Trent và Shawna là người Mỹ gốc Phi; Ricky và Julia là dân Hispanic;Jane là người Triều Tiên. Chương trình ưa thích của đứa bé nhất là Chuyến xe đến trường kỳ diệu. Khi chúng tôi mang DVD về nhà, nó kêu toáng lên:
“Bố ơi, đây là chương trình nói về nhà mình!”
Cho tôi một bộ tóc giả bù xù, đỏ rực, tôi sẽ thành ông Frizzle cao một mét tám mươi nhăm, nặng chín mươi ký. Chắc chắn chẳng giống tôi tí nào, một thám tử lâu năm trong Đội Điều tra các vụ giết người của NYPD, là người dàn xếp, thương lượng, làm mọi việc cần thiết khi có người cần đến.
“Các cô bé, cậu bé có biết bài It Came Upon a Midnight Clear không?” Người đàn bà bám theo chúng tôi dai dẳng. Tôi định nói toạc ra sự ngu dốt của bà ta thì Brian,
con trai cả của tôi liếc nhìn thấy tôi bực bội và vội nói ngay:
“Thưa bà, không ạ. Cháu xin lỗi. Chúng cháu không biết ạ. Nhưng chúng cháu biết bài Jingle Bells.”
Suốt đường lên tầng Năm kinh khủng, mười đứa trẻ của tôi say sưa hát Jingle Bells, và lúc chúng ào ra khỏi thang máy, tôi thấy những giọt nước mắt hạnh phúc long lanh trong mắt người đàn bà. Tôi hiểu rằng bà ta không ở đây vào kỳ nghỉ lễ, rằng con trai tôi đã cứu vãn tình thế cừ hơn cả một nhà ngoại giao Liên Hiệp Quốc, và chắc chắn là giỏi hơn tôi rất nhiều.
Tôi muốn hôn lên trán nó, nhưng những đứa trẻ mười một tuổi thà chết còn hơn bị hôn, vì thế tôi chỉ vỗ nhẹ vào lưng nó theo kiểu đàn ông, lúc chúng tôi xuống một hành lang im lìm, trắng muốt.
Chrissy vòng tay ôm Shawna, ‘người bạn tốt nhất’ như nó vẫn gọi, hát đoạn thứ hai bài Rudolph the Red- Nosed Reindeer lúc chúng tôi đi qua chỗ các điều dưỡng viên.
Có lẽ bọn trẻ là những khoảnh khắc quý giá sống động, những thân hình nhỏ bé mặc quần áo, tóc buộc đuôi ngựa nhờ sự chăm chút quá ư tỉ mỉ của các chị lớn, Juliana và Jane.
Các con tôi thật đáng yêu. Thực sự là đáng ngạc nhiên. Giống nhiều người khác, gần đây chúng đã tiến bộ vượt bậc, đôi khi khó mà tin nổi.
Tôi đoán điều đó chỉ khiến tôi làm vướng chúng thôi. Chúng tôi rẽ ở cuối hành lang thứ hai và thấy một phụ nữ mặc bộ váy áo hoa phủ kín thân hình chỉ còn khoảng bốn mươi ký, chiếc mũ Yankees che kín mái đầu không một sợi tóc, ngồi trên xe đẩy ở cửa phòng số 513 mở sẵn.
“Mẹ!” Bọn trẻ kêu to và hai chục bàn chân chạy thình thịch, đột nhiên phá tan sự im lặng tương đối trong hành lang của bệnh viện.
• • •
Vợ tôi khó mà nắm được hết hai chục cánh tay vây quanh, nhưng bọn trẻ cứ cố đưa vào. Lúc tôi đến đó, là hai mươi hai cánh tay. Vợ tôi đã phải dùng morphine, codeine và percocet*, nhưng thời gian duy nhất tôi thấy cô ấy không đau đớn là khoảnh khắc đầu tiên khi chúng tôi tới, cả bọn như đàn vịt con xúm xít quanh cô.
“Anh Michael,” Maeve thì thầm với tôi. “Cảm ơn anh. Cảm ơn các con. Trông chúng đáng yêu quá.”
“Em cũng thế,” tôi thì thầm đáp lại. “Em lại không thể tự ra khỏi giường được, phải không?”
Hàng ngày mỗi khi chúng tôi đến thăm, Maeve đều được ăn vận cẩn thận, giấu đi sự đau đớn trong tĩnh mạch, và cố gắng nở nụ cười trên môi.
“Nếu ông muốn có một vẻ đẹp quyến rũ, thưa ông Bennett,” vợ tôi nói, cố cưỡng lại sự mệt lả trong cặp mắt đờ đẫn, “em cho rằng ông nên cưới người khác.” Một buổi sáng trước Ngày Đầu năm, Maeve phàn nàn về cơn đau dạ dày. Chúng tôi tưởng là do chứng khó tiêu trong kỳ nghỉ lễ, nhưng hai tuần sau vẫn không đỡ, bác sĩ muốn soi ổ bụng để tin chắc là an toàn. Họ phát hiện thấy hai buồng trứng đều to bất thường, và kết quả sinh thiết rất xấu. Khối u ác tính. Một tuần sau, sinh thiết lần thứ hai khối u bạch huyết, họ lấy tế bào dạ con và kết quả còn xấu hơn nữa. Ung thư đã di căn, và không có cách gì chặn lại được.
“Lần này để anh giúp em, Maeve,” tôi thì thầm lúc cô cố vươn khỏi cái ghế.
“Anh muốn làm em đau ư?” Cô nói và đăm đăm nhìn tôi. “Hở ông thám tử Khó nhằn?”
Maeve tiếp nhận căn bệnh ung thư bằng sự can đảm mãnh liệt không thể tin nổi ở tuổi năm mươi, đấu tranh giành sự sống và phẩm giá như một nữ thần báo tử. Maeve vốn là một điều dưỡng viên và cô đã sử dụng mọi mối quan hệ, mọi hiểu biết và kinh nghiệm mình có. Cô đã trải qua nhiều đợt hóa trị và xạ trị, khiến tim cô bị căng thẳng đến chết người. Nhưng ngay cả sau những cố gắng quyết liệt, sau mọi việc có thể làm và đã làm, kết quả chụp cắt lớp cho thấy khối u đã di căn vào cả hai phổi, gan và lá lách.
Một câu nói cứ vang trong tai tôi lúc tôi quan sát Maeve lảo đảo đứng trên đôi chân gày như que tăm, cố vươn người lên đằng sau cái xe đẩy.
“Mi sẽ không bao giờ quật ngã được ta đâu. Mi sẽ không bao giờ quật ngã được ta đâu.”
• • •
Maeve ngồi xuống giường và cầm lên một tờ giấy có kẻ bảng biểu từ phía đằng sau cô.
“Mẹ có cái này cho các con đây,” Maeve dịu dàng nói. “Nghe chừng mẹ sắp phải dính ở cái chỗ ngớ ngẩn này một thời gian dài hơn nữa, mẹ quyết định cần phải lên danh sách những việc vặt trong nhà cho các con.”
Vài đứa lớn rên lên:
“Mẹ!”
“Mẹ biết, mẹ biết rồi. Những việc vặt ấy mà. Ai cần chúng nào?” Maeve nói. “Nhưng đây là suy nghĩ của mẹ. Nếu các con làm việc cùng nhau, các con sẽ quản lý việc nhà hộ mẹ, cho đến khi mẹ về. Được không, cả nhóm? Chúng ta thử xem nào.
Julia, con làm nhiệm vụ tắm rửa cho các em bé hơn, và sáng sáng mặc quần áo cho chúng.
“Brian, con chỉ huy tuần tra nhé? Những trò chơi, các video games vv…, mọi thứ con nghĩ là không có trên tivi. Mẹ cần con giữ cho các chàng trai này bận rộn hết mức.
“Jane, con kiểm tra việc nhà. Eddie, thần bảo hộ ngôi nhà sẽ giúp con. Ricky, mẹ phong cho con chức bếp trưởng bữa ăn của nhà Bennett. Con nhớ dọn bơ lạc và thạch cho mọi người trừ Eddie và Shawna, chúng không thích hai món đó.
“Xem nào. Fiona và Bridget. Dọn bàn và lau bàn. Các con có thể luân phiên nhau, cứ hình dung là…”
“Còn con thì sao ạ?” Trent kêu ré lên. “Việc của con là gì? Con chưa có việc gì hết.”
“Con trông nom giày dép, Trent Bennett ạ,” Maeve nói. “Mẹ từng nghe những lời phàn nàn như: ‘Giày của tôi đâu? Giày của tôi đâu?’. Việc của con là thu thập đủ mười đôi giày và để cạnh giường từng người. Đừng quên giày của con đấy.”
“Con không quên đâu ạ,” Trent nói và gật đầu với vẻ hăng hái của một cậu bé lên năm.
“Shawna và Chrissy, mẹ cũng có việc cho các con gái đây.”
“Vâng,” Chrissy nói và xoay một vòng như vũ nữ ba-lê. Nó đã được tặng DVD Barbie ở Hồ thiên nga vào dịp sinh nhật một tháng trước, và bây giờ mỗi cử động của nó đều giống như một động tác trình diễn tùy hứng.
“Con có biết thức ăn cho Socky trong bếp không?”
Socky là con mèo mướp tính tình đồng bóng mà Maeve đã nhặt ở đống rác cạnh nhà trên đại lộ West End. Vợ tôi luôn có tình thương sâu sắc với những sinh vật bất hạnh và lạc loài. Việc cô lấy tôi đã chứng tỏ điều đó suốt một thời gian dài.
Còn tôi? Một thứ gì đó như luồng nước băng giá đột nhiên lan khắp xương sống tôi. Tôi muốn kêu gào, đấm vào thứ gì đó như cửa kính, tivi hay cửa sổ áp mái trong phòng đợi. Thay vào đó, tôi len qua đàn con, lột bỏ chiếc mũ trên đầu vợ tôi và dịu dàng hôn lên trán cô.
“Được rồi, các con. Mẹ cần nghỉ ngơi,” tôi nói, cố giữ cho giọng nói vững vàng. “Đến lúc phải đi rồi. Chúng ta đi nào, cả đội.”
2
Lúc gã Ngăn nắp rời đại lộ Năm, trèo lên các bậc bằng đá vào Thánh đường St. Patrick là ba giờ bốn mươi nhăm phút.
Gã khịt khịt mũi với đám người đang quỳ gối, im lặng thành kính và cầu nguyện. Chắc chắn là Ông Bù nhìn Vĩ đại trên cao kia phải thực sự cảm kích vì mọi thứ mộ đạo lại xuất phát từ Gomorrah* của thế giới tân kỳ này.
Một bà già trông có vẻ nhu nhược, cứng nhắc chỉ cho gã chỗ ngồi đầu tiên trên hàng ghế kế bên, cạnh phòng xưng tội gần nhất ở bức tường phía Nam của thánh đường. Bà ta phải thú nhận loại tội lỗi quái quỷ gì nhỉ? Gã phân vân nhưng vẫn ngồi xuống cạnh bà. Xin Chúa tha tội cho con, con đã mua thứ khoai rán tẩm sôcôla rẻ tiền cho các cháu, thay cho loại bánh quy ngon.
Giây lát sau, một linh mục trạc bốn mươi tuổi, tóc tai chải chuốt xuất hiện. Cha Patrick Mackey ra vẻ khiêm nhường để che giấu sự ngạc nhiên vờ vịt khi phát hiện ra nụ cười băng giá của gã Ngăn nắp.
Lát sau, bà già cổ phị kia mới rời ghế đến nơi xưng tội. Gã Ngăn nắp suýt làm bà ta ngã nhào lúc gã lao vào khi bà ta ra khỏi cửa phòng xưng tội.
“Con của ta,” linh mục nói đằng sau bức ngăn.
“Góc Đông nam phố Năm mươi mốt và Madison,” gã Ngăn nắp nói. “Hai mươi phút nữa, Fodder. Hãy đến đó, hoặc sẽ phải trả giá đấy.”
Khoảng hơn ba mươi phút sau, cha Mackey mới mở cửa chiếc xe tải nhàn rỗi của gã Ngăn nắp. Cha đã thay bộ quần áo thầy tu giả mạo bằng chiếc áo khoác trượt tuyết màu xanh sáng và quần jeans. Hắn rút ra một ống hình trụ bằng bìa cứng từ trong áo khoác dày.
“Cậu lấy được rồi ư?” Gã Ngăn nắp nói. “Giỏi lắm, Fodder. Cậu đúng là một trợ thủ cừ khôi.”
Linh mục gật đầu lúc vươn cổ ngoái nhìn nhà thờ.
“Chúng ta đi thôi,” hắn nói.
Mươi phút sau, bọn chúng đỗ xe trong khu đất vắng vẻ cạnh một sân bay trực thăng bỏ không. Nhìn qua kính chắn gió, dòng sông Đông bên ngoài trông như một dải bùn bị giẫm đạp, trải dài trước mắt chúng. Gã Ngăn nắp nén một câu đùa lúc bật nắp cái ống hình trụ mà thầy tu mang tới. Gần như có thể ngửi thấy mùi PCB* trong không khí, gã nghĩ.
Bên trong là một bức tranh in đã cũ và nứt nẻ, mép màu vàng giống như giấy da. Gã Ngăn nắp dừng ngón tay đang lần theo hình in thứ hai ở giữa. Nó đây! Nó không chỉ là tin đồn. Mà có thật. Gã đã có nó.
Chi tiết cuối cùng trong kiệt tác của gã.
“Không ai biết cậu có những thứ này chứ?” gã Ngăn nắp nói.
“Không một ai,” linh mục nói và cười khúc khích. “Sự hoang tưởng của Giáo hội chẳng phải là một sai lầm vớ vẩn của trí tuệ sao? Trụ sở nơi tôi phụng sự là một lâu đài khó hiểu.”
Gã Ngăn nắp tặc lưỡi, không rời mắt khỏi bản thiết kế. Nhưng cuối cùng, gã nhấc khẩu Colt Woodsman câm lặng từ dưới ghế ngồi của chiếc xe tải. Tiếng nổ kép của viên đạn 22 li rất khẽ, nhưng dường như là một quả lựu đạn làm nổ tung đầu cha Mackey.
“Xéo thẳng xuống địa ngục nhé,” gã Ngăn nắp nói. Rồi gã kiểm tra mặt mình thật kỹ lưỡng qua gương chiếu hậu và ngửa đầu ra sau, kinh hoàng. Nhiều đốm máu bắn lên trán gã, bên trên mắt phải. Chỉ sau khi dùng Wet-Naps cọ rửa hết những vết đáng ghét và dốc ngược cả lọ nước tẩy rửa lên mặt, hơi thở của gã mới trở lại bình thường.
Rồi gã Ngăn nắp huýt sáo chẳng ra điệu gì lúc cuộn tròn các hình vẽ và nhét vào cái ống hình trụ.
Một kiệt tác đang hình thành, hắn nghĩ lần nữa.
3
Tối hôm ấy, bọn trẻ bắt tay vào việc ngay khi về đến nhà. Các căn phòng trong nhà, thay cho tiếng tivi hoặc tiếng súng điện là những âm thanh bận rộn, đáng khen của gia đình Bennett.
Nước bắn tung tóe lúc Julia chuẩn bị cho Shawna và Chrissy tắm. Brian ngồi bên bàn ăn với một cỗ bài, kiên nhẫn dạy Trent và Eddie chơi.
“Bam,” tôi có thể nghe thấy tiếng Ricky nói trong bếp lúc phết mứt lên từng lát bánh mì. Bam… bam.
Jane trải các mảnh in tranh, chữ lên sàn, chuẩn bị cho Fiona và Bridget học sắp chữ.
Tôi không nghe thấy một lời kêu ca, một tiếng rên rỉ, thậm chí không có một câu hỏi ngốc nghếch nào.
Phải thêm từ khác thường vào danh sách các đặc tính của vợ tôi. Chắc hẳn Maeve hiểu bọn trẻ cảm thấy bị tổn thương, lạc hướng và vô dụng biết chừng nào, nên mới tạo cho chúng việc làm, để lấp đầy chỗ trống và cảm thấy mình có ích.
Tôi chỉ ao ước có thể bắt kịp thứ gì đó làm tôi cũng cảm thấy như thế. Phần lớn các bậc cha mẹ sẽ nói với bạn rằng, giờ đi ngủ là thời gian hỗn độn, ầm ĩ nhất trong ngày. Tất cả, không loại trừ cha mẹ, đều mệt mỏi và cáu kỉnh, bồn chồn, có thể dễ dàng trở chứng, quát tháo, mắng mỏ và bắt phạt. Tôi không hiểu làm thế nào mà tối tối, Maeve có thể giải quyết mọi việc bằng sự chừng mực và bình tĩnh bẩm sinh, đầy lôi cuốn. Nó là một trong những việc mà tôi làm vất vả nhất. Nhưng đúng tám giờ tối hôm ấy, theo các âm thanh trong căn hộ, bạn có thể nghĩ cha con tôi đã đi nghỉ Giáng sinh hết rồi.
Tôi gần như tưởng rằng sẽ thấy cửa sổ mở và khăn trải giường buộc lại với nhau lúc tôi vào phòng các con gái. Nhưng tôi chỉ thấy Chrissy, Shawna, Fiona và Bridget nhét mép tấm trải dưới cằm, còn Julia đang gấp cuốn sách của Olivia.
“Chúc con ngủ ngon, Chrissy,” tôi nói và hôn lên trán nó. “Bố yêu con lắm.” Tôi phấn khởi vì thực hiện được công việc của người cha lúc đi rảo nhiều vòng. Bọn con trai cũng đã lên giường.
“Chúc con ngủ ngon, Trent,” tôi nói và hôn trán nó. “Hôm nay con đã làm một việc rất cừ. Ngày mai con làm việc cùng bố được không?”
Vầng trán bé tí của Trent nhăn lại lúc nghĩ ngợi.
“Sinh nhật của ai ở cơ quan bố à?” Lát sau, nó hỏi.
“Của thám tử nào ạ?”
“Không,” tôi đáp.
“Con sẽ chỉ đến trường thôi,” Trent nói và nhắm mắt lại.
“Mai là sinh nhật Lucy Shapiro, mà sinh nhật là phải có bánh nướng phết sôcôla.” Tôi nói lúc bước ra cửa, “Chúc các con ngủ ngon. Bố không thể làm được bánh nếu thiếu các con.”
“Chúng con hiểu, bố ạ,” Brian nói vọng từ giường trên. “Bố đừng lo. Chúng con sẽ giúp bố.”
• • •
Tôi khép cánh cửa cuối cùng và đứng một lát ở hành lang bên ngoài phòng bọn con trai. Vào một tối bình thường, trong khoảng nửa giờ, khi tôi từ địa bàn về nhà, phòng khách thường sáng ánh xanh xanh vì Maeve đang xem tivi, hoặc ánh sáng màu vàng điềm đạm, ấm áp toả từ chỗ Maeve ngồi đọc sách, đợi tôi.
Lúc từ hành lang nhìn chằm chặp vào ngưỡng cửa tối om của phòng khách, lần đầu tiên tôi nhận thức được trải nghiệm bóng tối thực sự là thế nào. Tôi vào phòng khách và bật ngọn đèn cạnh đi-văng. Rồi tôi ngồi lặng lẽ, chầm chậm dõi theo mọi dấu ấn kỷ niệm.
Chúng tôi đã cần cù phủ giấy dán tường. Các bức ảnh gia đình đều do Maeve chụp và đóng khung. Những chuyến đi Giáng sinh tới Vườn thực vật Bronx. Một quả bí ngô chọn ở vùng quê. Maeve đã làm nhiều cái hộp đựng các thứ kỷ niệm trong các kỳ nghỉ của chúng tôi, những vỏ sò, cát trong chuyến đi nghỉ ở bãi biển Myrtle hai năm trước, quả và lá thông trong tuần lễ chúng tôi ở Poconos hồi tháng Tám.
Sao Maeve lại có đủ sức lực làm việc đó? Tôi tự hỏi. Cô lấy đâu ra thời gian? Vợ tôi chính là lời giải đặc biệt cho câu hỏi đó.
Tôi không phải là người duy nhất nghĩ vậy. Thực ra, tôi chưa thấy người nào không ngưỡng mộ Maeve.
Sau khi chúng tôi nhận nuôi Julia, Maeve bỏ việc ở bệnh viện để có nhiều thời gian với con bé hơn, và cô nhận chăm sóc một cụ già ở đại lộ West End. Cụ Kessler đã chín mươi nhăm tuổi, xuất thân từ một gia đình dòng dõi trong ngành xe lửa, cụ gay gắt và tức giận với thế giới hiện đại và đủ thứ trong đó. Nhưng hết tuần này đến tuần khác, bằng những hành động ân cần và cảm thông nho nhỏ, Maeve đã làm ông cụ dịu lại. Cô thường đẩy xe đưa cụ ra ngoài, ngồi dưới nắng trời ở công viên Riverside, khiến ông cụ nhớ là mình còn sống dù chẳng muốn.
Rốt cuộc, ông cụ trở thành người khác hẳn, gạt bỏ tính bẳn gắt, thậm chí còn thay đổi thái độ với cô con gái cụ vốn đối xử ghẻ lạnh.
Sau khi ông cụ mất, chúng tôi mới biết ông đã di chúc để lại cho Maeve căn hộ của mình, chính là nơi gia đình tôi sống hiện nay.
Thay cho các đồ cổ và các tấm thảm Ba Tư mà nhiều hàng xóm thường dùng, Maeve làm căn nhà đầy ắp bọn trẻ. Bốn tháng sau khi nhận nhà, chúng tôi nhận nuôi Brian. Sáu tháng sau là Jane. Và cứ thế… cứ thế mãi…
Tôi biết, người thánh thiện là một thuật ngữ khá sáo mòn, nhưng lúc ngồi đó một mình, nhìn chăm chú vào những việc đã làm của vợ tôi, ba chữ đó thình lình đập vào tâm trí tôi.
Cuộc đời của một con người thánh thiện, tôi cay đắng nghĩ.
Mọi con đường đều dẫn đến sự đau đớn giày vò. Tim tôi đúng là nảy bật lên khi chuông cửa reo. Có lẽ bên ngoài xảy ra việc lộn xộn, tôi nghĩ lúc chuông lại reo lần nữa.
Lúc chuông reo lần thứ ba, tôi đoán là một vị khách lang thang ở Underhill, nơi những người hàng xóm hay tổ chức tiệc cocktail ở bên kia sảnh.
Cuối cùng, tôi đứng dậy, bực bội.
Nhầm to, tôi nghĩ lúc giật mạnh quả đấm cửa. Mình cũng cáu bẳn như Grinch* thôi.
• • •
Nhìn chiếc quần jeans nhàu nhĩ và chiếc áo khoác dày màu xanh nước biển đầy bụi của cô gái tóc vàng hoe đứng trước cửa nhà, tôi biết chắc cô không đến để dự bữa tiệc cocktail kiểu Manhattan.
Nhưng với cái ba-lô bẩn thỉu, căng phồng trên lưng và cái túi vải buộc dây nắm chặt trong bàn tay đeo găng, rõ là cô đang muốn định cư ở một nơi nào đó. “Ông Bennett phải không ạ?” Cô ta nói, buông cái túi và giơ bàn tay nhỏ nhắn, đẹp đẽ ra. “Ông Michael Bennett phải không ạ?”
Âm sắc Ireland của cô thật ấm áp nhưng bàn tay cô lạnh giá.
“Còn tôi là Mary Catherine,” cô nói. “Tôi đến rồi đây.”
Theo giọng nói, tôi ngờ rằng cô phải là một người họ hàng của vợ tôi. Tôi cố nhớ ra mặt của Mary Catherine trong số họ hàng ít ỏi của Maeve đã đến dự đám cưới của chúng tôi. Nhưng tôi chỉ nhớ được một ông bác già, vài người anh em họ xa và một nhóm ba chàng độc thân trung niên. Còn cô này là thế nào nhỉ?
“Đến rồi?” Tôi thận trọng nhắc lại.
“Tôi là người giúp việc,” Mary Catherine nói. “Nona chắc đã nói chuyện với ông rồi.”
Người giúp việc ư? Nona nào? Tôi nghĩ. Rồi tôi nhớ ra Nona là tên của mẹ Maeve. Vợ tôi luôn chỉ nói mơ hồ về quá khứ, cô đã lớn lên ở Donegal. Tôi có cảm giác người nhà cô hơi kỳ cục.
“Tôi xin lỗi, Mary ạ, chuyện này là…?” Tôi nói. “Tôi nghĩ là tôi chưa hiểu rõ điều cô nói.”
Catherine hé miệng như định nói gì đó. Rồi lại thôi. Khuôn mặt mỏng manh của cô đỏ tía lúc cô cúi nhặt cái túi.
“Xin lỗi đã làm mất thời gian của ông, thưa ông,” cô nói nhanh và hơi buồn. “Chắc là tôi hiểu lầm gì đó. Tôi xin lỗi.”
Cái túi vải tuột khỏi tay cô lúc cô đến gần thang máy. Tôi bước qua ngưỡng cửa định đỡ hộ, lúc đó tôi mới nhận ra đống thư từ của tôi trên sàn. Chúng chồng chất và những người hàng xóm sốt sắng của tôi, những người Underhill, đã đổ chúng xuống dưới gầm cái bàn ở góc thụt, chỗ thường dành để bộ sưu tập kẹp hạt dẻ cổ bằng gỗ của họ.
Tôi chú ý đến một bức thư nhỏ, trông kỳ cục thò ra giữa đống.
“Gượm đã,” tôi nói. “Đợi một chút, Mary Catherine. Một tí thôi.” Tôi bóc thư. Chữ viết nhỏ li ti, rất khó đọc, nhưng tôi có thể luận ra Michael yêu quý, vài chữ Mary Catherine, và Chúa phù hộ các con, kết thúc bằng Nona yêu thương.
Tuy vậy, tôi không biết toàn bộ bức thư có ý nghĩa gì.
Cho đến lúc đó, tôi không hoàn toàn dám chắc là mẹ vợ tôi còn sống. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là tôi đã quá mệt mỏi, không thể cố hình dung ra ngay mọi chuyện nữa.
“Ồ,” tôi nói với cô gái lúc cửa thang máy mở ầm ầm. “Cô là Mary Catherine, người giúp việc.”
Hy vọng lấp lánh trong đôi mắt xanh sáng của cô. Nhưng tôi xếp cô vào chỗ quái nào bây giờ? Quán trọ của tôi đã đầy ắp. Lúc đó, tôi chợt nhớ ra phòng của hầu gái trên tầng thượng, gần đây dùng làm kho.
“Nào đi,” tôi nói và nắm lấy cái túi rồi dẫn cô vào thang máy. “Tôi sẽ chỉ cho cô chỗ ở.”
Tôi mất tròn hai mươi phút dọn cái giường cũi, đồ chơi trẻ con, vài cái ghế ô tô cũ, xe ba bánh của Chrissy và Shawna ra khỏi căn phòng nhỏ.
Lúc tôi xuống nhà rồi trở lại với đồ trải giường, Mary Catherine đã mở tấm đệm trên chiếc giường đôi khung thép và xếp gọn gàng đồ đạc của cô vào các ngăn bàn gương mà chúng tôi vẫn dùng làm bàn.
Tôi quan sát cô một lát. Cô xấp xỉ ba mươi tuổi. Tuy dáng dấp không cao lắm, song cô có vẻ khoẻ mạnh. Hăng hái, tôi nghĩ, một nết tốt cho công việc cô xin làm. “Nona không nói gia đình tôi đông đúc lắm sao?”
“Cả một đàn,” cô nói, “Thật đúng là một đàn, - tôi tin đó là câu cô nói.” “Bao nhiêu người thì ‘đúng là một đàn’?” tôi hỏi. Mary Catherine nhếch lông mày. “Năm ư?”
Tôi lắc đầu, giơ ngón tay cái chỉ lên phía trên.
“Bảy người?”
Tôi nhìn thấy một gợn hoảng hốt lan qua mặt Mary Catherine lúc tôi ra hiệu cho cô con số cao hơn.
“Không phải là mười chứ?” Cô hỏi. Tôi gật đầu.
“Ơn Chúa là các cháu được rèn luyện làm lấy mọi công việc vệ sinh. Và chúng là những đứa trẻ ngoan. Nhưng nếu bây giờ, ngày mai hoặc tuần sau cô muốn bỏ đi, tôi sẽ không trách cô đâu.”
“Mười ư?” Mary Catherine nói lại lần nữa.
“Một số 1 và một số 0,” tôi nói và cười. “Nếu cô làm việc cho chúng tôi, cô phải gọi tôi là Mike. Hoặc là thằng ngốc, nếu cô muốn. Nhưng xin đừng gọi tôi là ông Bennett.”
“Vâng, Mike,” Mary Catherine nói.
Lúc rời đi, tôi nhận thấy sự hoang mang đọng nguyên trên mặt cô. “Mười,” tôi lặp lại khe khẽ.
Số mười hoàn hảo.
• • •
Xuống dưới nhà, sau khi chui vào giữa các lớp trải lạnh lẽo trên giường, tôi không sao chợp mắt nổi. Tôi nhớ ngày mai là tang lễ Caroline Hopkins, và đêm nay lại thêm một việc buồn nữa để nghĩ.
Tôi nằm trong bóng tối, lắng nghe ngọn gió mùa đông hú khắp các góc nhà. Ở đâu đó xa xa, chắc là trên phố Broadway, một chiếc ô tô hốt hoảng khởi động, gặp trục trặc, rồi lại khởi động lần nữa.
Suốt một giờ, tôi kiên quyết không để mình cảm thấy thương thân. Tôi không phải là người dễ nổi loạn. Tôi không phải là người dành hết ba mươi tám năm tuổi đời để giúp đỡ người khác, và như thế sẽ không phiền hà gì vì sắp ba mươi chín.
Rồi tôi bắt đầu khóc. Nó đến từ từ, đau đớn, giống như những vết băng nứt đầu tiên trên một cái hồ mà bạn lang thang trên đó quá lâu. Giây lát sau, bản tính điềm tĩnh cứng rắn của tôi tan thành muôn mảnh, và tôi đành chịu thua.
Ban đầu tôi tán thành ý tưởng nhận con nuôi của vợ tôi. Sau khi phát hiện ra chúng tôi không thể có con, tôi sẵn sàng làm mọi thứ Maeve muốn. Tôi rất yêu cô và chỉ muốn làm cô vui bằng mọi cách.
Nhưng sau khi chúng tôi đã có Jane, tôi hơi miễn cưỡng tiếp tục nhận thêm. Ba đứa trẻ ở New York ư? Dẫu sở hữu một ngôi nhà đắt tiền, không có nghĩa tôi là Bao đựng tiền.
Maeve dẫn giải rằng chúng tôi có đủ chỗ trong nhà và trong trái tim cho một
người nữa. Sau Fiona và Bridget, tôi tròn mắt lên mỗi khi nói đến việc nhận thêm con nuôi hoặc một đứa trẻ nghèo mà cô nghe tin và nói: ‘Chất thêm một nửa ký lên con voi thì có sao đâu?’
Nhưng voi sống sao được nếu không có tấm lòng? Tôi nghĩ lúc nằm đó, nước mắt tuôn trào như suối xuống má.
Tôi sẽ không thể làm tiếp việc này. Những đứa trẻ lớn hơn sẽ thành thanh niên, còn những đứa bé hơn… Lạy Chúa tôi, làm thế nào một mình tôi có thể đảm đương nổi cuộc sống, hạnh phúc và tương lai của chúng?
Lúc đó tôi nghe thấy cửa phòng tôi mở cót két.
“Píp-Píp,” có tiếng nói khẽ.
Đó là Chrissy. Mỗi sáng, con bé mang vào phòng chúng tôi một bát đựng ngô trống rỗng, giả vờ có một con vật non khác cần cho ăn. Một con mèo con, cún con, chim cánh cụt non, có lúc là con tatu non.
Nó leo lên mép giường.
“Píp-Píp không ngủ được,” nó nói. Tôi chùi nước mắt vào gối.
“Píp Lớn cũng không ngủ được,” tôi nói.
Từ lúc lên hai, Chrissy đã không ngủ cùng chúng tôi nữa, và tôi định vùng dậy nhét nó trở lại giường mình, nhưng rồi tôi mở chăn ra:
“Chui vào tổ nào, Píp, nhanh lên!”
Lúc Chrissy nép vào cạnh tôi, như thường lệ tôi nhận ra mình đã sai biết chừng nào. Các con tôi không phải là một gánh nặng. Chúng là thứ duy nhất cùng giữ cho tôi đứng vững.
Độ hai phút sau, Chrissy đã ngủ. Sau khi nó thoải mái cuộn tròn đôi chân bé tí, lạnh như băng vào bụng tôi cho ấm, tôi lơ mơ hiểu rằng có lẽ không thể gọi thế này là hạnh phúc. Nhưng đây là lần đầu tiên trong nhiều tuần lễ, tôi hiểu rõ cảnh gian truân.
4
Hôm nay sẽ là một ngày thú vị đây. Một ngày chó chết, đầy sự kiện và nổi tiếng trong lịch sử.
Lúc gã Ngăn nắp tới bên cánh cổng đồ sộ của thánh đường, tiếng chùm chuông bạc của nhà thờ St. Patrick ngân vang vẫn còn lơ lửng trong không khí buổi sáng giá buốt trên đại lộ Năm. Gã lắc đầu nhìn đám đông điên rồ đứng thành hàng trên vỉa hè rộng bốn mét, đằng sau hàng rào cảnh sát.
Bốn mươi phút nữa tang lễ của Catherine Hopkins mới bắt đầu, số người có mặt đã dày đặc như những đống hoa cúng lấp kín hết chiều dài nền nhà thờ. Chắc chắn Caroline là một Đệ nhất Phu nhân được ngưỡng mộ, nhưng điều quan trọng hơn cả đối với những kẻ khờ dại này là bà sinh trưởng tại thành phố New York. Bà là người của họ. Phải, đúng thế. Giống như thị trưởng New York cũng là người của họ.
Gã Ngăn nắp uống thêm một ngụm cà phê và tiếp tục quan sát cảnh tượng. Leo lên các bậc đằng trước của St. Paddy, gã theo dõi một người mặt đỏ thổi kèn túi của Sở Cứu hỏa New York đang chật vật lật tà váy kẻ ô vuông trên đôi tất dài trắng, chật khít trong luồng gió lạnh lẽo.
Phía bên kia cổng nhà thờ, ngay bên trong các cửa ba tầng bằng đồng mở, một sĩ quan huấn luyện đi kiểm tra đội ngũ, Hải quân, Không quân và Lính thuỷ đánh bộ xếp thành hàng rào danh dự. Anh ta nắm lấy phần dưới chiếc áo khoác màu xanh biển của lính thủy đánh bộ, đập nhẹ lòng bàn tay lên vai một cậu lính, phủi một vết bụi tưởng tượng.
Rồi các xe limousine lần lượt tới.
Thị trưởng Andrew Thurman đi xe đầu, có thế chứ, gã Ngăn nắp nghĩ. Thị trưởng được coi là bạn thân của gia đình Hopkins.
Tiếp theo là cặp sao điện ảnh Marilyn và KennethRubenstein lắm đòn phép. Cặp đôi nghệ sĩ này đã đóng nhiều quảng cáo cổ động bảo vệ môi trường, cùng Caroline đặt dấu chấm hết cho việc khoan dầu ở một vùng hoang vu thuộc Alaska, hoặc vài việc vớ vẩn như thế. Trong khi ấy, cả hai đứa con thiếu niên của họ đều gặp rắc rối, chủ yếu là ma túy và rượu ở Westchester.
Có người nào đó trong đám đông bên kia đại lộ Năm huýt sáo, ngôi sao Kenneth Rubenstein hai lần đoạt giải Oscar chiếu nụ cười trị giá triệu đô và vẫy cả hai tay, như thể sắp nhận giải lần thứ ba vậy. Gã Ngăn nắp cười nhăn nhở lúc ngắm Marilyn, vợ Rubenstein, tóc đen nhánh như quạ, huých mạnh vào sườn chồng. Trò xinê, gã nghĩ.
Theo sát các ngôi sao điện ảnh là đại gia bất động sản Xavier Brown và vợ, siêu mẫu thời trang của hãng Chanel tên là Celeste. Cặp đôi quyền lực này cũng là bạn thân của Đệ nhất Phu nhân. Chết tiệt, còn ai là không đây?
Chiếc limo tiếp theo là Todd Snow, tiền vệ đội New York Giants. Chiếc nhẫn Super Bowl lấp lánh lúc anh ta vòng tay ôm cô vợ người mẫu quyến rũ. Chàng cầu thủ cũng làm từ thiện cùng Caroline Hopkins.
Gã Ngăn nắp thỏa mãn nhìn chằm chằm vào các cánh cửa nhuộm màu của đoàn xe limousine đang tiến tới phía Bắc đại lộ Năm. Hoan hô, hoan hô, cả lũ ở đây tất. Hay lắm, tuyệt.
Cuối cùng, gã ngước nhìn một khoang hở khổng lồ mở ra và những tháp bằng đá
uy nghi, cao chín chục mét ở đằng trước thánh đường. Vụ này đang triển khai suôn sẻ đây, gã vừa ngạo nghễ nghĩ vừa giậm giậm chân lên phiến đá lát đường cho ấm, và lấy làm lạ là giữa đám người hợm hĩnh, vẫn còn chỗ cho cỗ quan tài.
• • •
John Rooney nhăn nhó như Grinch lúc chiếc limousine của anh ta đỗ lại trước đám đông xáo động ở St. Patrick. Là diễn viên hiện có doanh thu đứng đầu ở Hollywood, anh được các fan trung thành tăng thêm giá trị tại bất cứ sự kiện nào. Hầu hết chỉ là những người bình thường muốn thể hiện sự ủng hộ và cảm kích của họ. Chắc chắn anh chấp nhận họ hơn với các paparazzi* dai như đỉa. Bất cứ ngày nào, ở bất cứ đâu.
Nhưng lúc này, nhìn vào các bộ mặt tham lam và những điện thoại giơ lên để chụp, anh hơi đề phòng. Có chỗ đứng ở một tang lễ, dù là một nghi lễ long trọng cũng cảm thấy sởn gai ốc.
May cho anh, sườn nhà thờ phía đại lộ Năm chỉ dành cho các nhân vật quan trọng. Rooney bước ra phố, theo sau Big Dan, vệ sĩ của anh. Đã có một dãy nhà báo - phần lớn là người của các báo chính thống - chen chúc ở hai bên các bậc thềm và lối vào.
Rooney cố không ngoảnh lại khi có ai đó băng qua đại lộ Năm và gào lên: ‘WUZ UP, DORK?’, câu nói nổi tiếng trong bộ phim hài ăn khách mới nhất của anh. Nhưng anh không thể cưỡng lại những cái nhìn mời chào trên gương mặt các nhà báo suốt hai bên lối vào thánh đường. Adrenaline ùa vào huyết quản lúc cả loạt máy quay phim, máy ảnh chớp sáng lóe làm chói mắt anh. Anh ngước nhìn bầu trời ảm đạm và gãi đầu.
Rồi Rooney nở nụ cười rạng rỡ đầu tiên trong ngày.
“Tôi không nghĩ đây là một ý tưởng hay, các bạn ạ,” anh nói thản nhiên. “Mọi người nghe dự báo thời tiết hôm nay có chớp không?”
Anh nhìn lướt qua tất cả, hầu hết đang cười toe toét, rồi dừng câu đùa tiếp theo trong cổ lúc phát hiện ra sự khó chịu đáng ngại trên gương mặt một phụ nữ xinh đẹp, da ngăm ngăm đứng gần lối vào. Lẽ tất nhiên, đúng cô ta. Anh thấy mình đùa không phải lúc khi đang có vị trí quan trọng trong lễ tang.
Rooney cố tạo bộ mặt buồn ủ rũ, rồi bước vào nhà thờ.
Anh có thể thấy những người ở hàng ghế sau quay lại và huých nhau lúc anh đưa giấy mời cho một nhân viên an ninh mặc áo đỏ.
Phải, tôi đây. Tôi đang ở đây. Rooney nghĩ, bực bội. Đó là một mặt của danh tiếng, thứ rất chóng trở nên cũ kỹ. Trong đời thực, ở nhà hàng hay ở sân bay, bị nhiều người trố mắt ra nhìn mình thật chẳng thoải mái tí nào. Hình như ai cũng muốn điều gì đó của anh, nhưng là cái gì? Anh không biết, và anh cho rằng chính họ cũng không biết. Người ta tưởng các ngôi sao đeo kính râm để ngụy trang, thực ra chỉ để tránh tiếp xúc bằng mắt mà thôi.
Rooney quay lưng lại lối vào nhà thờ lúc nghe thấy tiếng máy quay sè sè và máy ảnh bấm tanh tách giống một đàn dế bằng kim loại đang giận dữ. Ờ, xem ai đến kìa!
Linda London, một nhân vật có vai vế trong ngành truyền hình, có thâm niên hai chục năm đến cùng lúc với Mercedes Freer, diva dòng nhạc pop nổi tiếng đỏng đảnh, hai mươi tuổi. Rooney biết hai người đàn bà này cùng bước lên một phiến đá lát vỉa hè đã đủ là một sự kiện. Nó thực sự gây ra sự điên cuồng khi cả hai đều vận tang phục đen váy cực ngắn, áo xẻ cực sâu và che mạng.
Sự việc càng thêm thú vị khi Charlie Conlan, huyền thoại nhạc rock của những năm bảy mươi ra khỏi xe và bước lên bậc nhà thờ, cách cuộc chiến đàn bà hùng hổ kia khoảng một mét. Thần tượng cao ráo, điềm tĩnh này đã gần sáu mươi, nhưng trông vẫn khỏe khoắn. Anh bắt tay Rooney trong tiền sảnh.
Charlie đã viết và thể hiện ba bài hát đầy lôi cuốn cho một bộ phim thiếu nhi mà Rooney thủ vai chính hồi năm ngoái. Họ đã từng đi một chuyến quảng cáo ngắn ngày cùng nhau. Suốt thời gian đó, Conlan luôn tươi cười; anh thưởng tiền cho từng người phục vụ, người gác cửa, người lái xe limo mà họ bắt gặp; ký tặng cho bất cứ ai và tất cả mọi người. Ngay các paparazzi cũng có vẻ thích anh ta.
“Gánh xiếc chết giẫm, nhỉ?” Charlie nói bằng giọng gai góc nổi tiếng của mình. “Anh cũng là một trong những thằng hề ấy ư, Johnny?”
“Nếu tôi là hề, thì anh là người chỉ đạo nghệ thuật,” Rooney nói và cười to lúc các máy quay tắt.
Tiếng hoan hô rất to khác nổi lên trong đám đông. Ngoài đường, Eugena Humphrey bước ra khỏi chiếc limousine lộng lẫy hiệu Lincoln Town Car của mình. “Mọi người, thôi đi,” Người dẫn chương trình đầy sức lôi cuốn, ‘Nữ hoàng LA’* quở trách đám đông. “Đây là tang lễ, chứ không phải Emmy*. Chúng ta phải tỏ lòng tôn trọng một chút chứ, tôi xin đấy.”
Kinh ngạc, đám đông lặng ngắt ngay lập tức.
“Các nguyên tắc của Eugena,” ai đó nói, và câu đó hình như là chân lý chính xác nhất của Chúa.
• • •
Cathy Calvin, phóng viên tờ New York Times không biết tìm hình ảnh giật gân tiếp theo ở đâu. Cô quay người lúc xe chở linh cữu Đệ nhất Phu nhân xuất hiện trên đường phía Bắc đại lộ Năm vắng vẻ. Dẫn đầu là đội hình chữ V gồm chín chiếc Harley của NYPD đi với tốc độ diễu hành, các bộ giảm thanh khiến chúng gần như câm lặng trên con phố nổi tiếng thế giới.
Hầu như ngẫu nhiên, các pho tượng trong thánh đường trở nên sinh động hẳn khi đội vệ binh danh dự phá bỏ hàng ngũ trong tiền sảnh và bước đều, chầm chậm ra vỉa hè.
Cả đội ra tới vỉa hè đúng lúc đoàn xe tang xuất hiện.
Bóng đèn nháy loe lóe lúc họ kiểu cách đẩy nhẹ cỗ quan tài phủ cờ Mỹ ra khỏi chiếc ô tô dài màu đen.
Hai đặc vụ mặc com-lê đen xuất hiện từ trong đám đông và nhập vào hàng hộ tang để thi hài cựu Đệ nhất Phu nhân được nâng lên ngang vai dễ dàng. Binh lính và đặc vụ dừng lại ở đầu cầu thang, ngay đằng sau cựu Tổng thống và con gái, đúng lúc có tiếng ầm ầm dữ dội phát ra từ phía Nam.
Lát sau, một tốp năm chiếc F-15 bay rất thấp trên bầu trời khu thương mại. Lúc bổ nhào trên phố Bốn mươi hai, chiếc máy bay ở chính Tây đột ngột phá vỡ hàng ngũ và lượn theo hình vòng cung lên cao, lên mãi cho đến khi những chiếc còn lại gầm rú trên thánh đường trong đội hình ‘người vắng mặt’.
Những người hộ tang đợi cho đến lúc tiếng vọng cuối cùng của động cơ máy bay đã tắt trong hẻm núi toàn đá và thép của đại lộ Năm, họ mới bắt đầu khiêng Caroline Hopkins vào nhà thờ.
Tiếng te te của người thổi kèn túi lẻ loi cất lên đúng lúc cựu Tổng thống bước qua
ngưỡng cửa nhà thờ. Dường như toàn bộ thành phố tôn trọng khoảnh khắc im lặng tức hứng, lúc giai điệu quen thuộc của bài Amazing Grace vang lên. Cathy Calvin nhìn khắp đám đông, và cô phóng viên tạp chí Times biết mình sẽ không bao giờ viết nổi bài chủ chốt. Dân chúng nhất loạt bỏ mũ, chắp tay trước ngực và hát theo bài thánh ca. Khắp mọi nơi, những người dân New York mệt rã rời khóc không giấu giếm.
Nhưng đấy chưa phải là điều khiến cô sửng sốt nhất.
Không, điều ngạc nhiên lớn là Cathy Calvin, người phóng viên đã-chứng-kiến-mọi thứ, áp bàn tay lên má và nhận ra rằng cô cũng đang khóc.
• • •
Một cuộc tiễn đưa gần như làm mọi người đều khóc, gã Ngăn nắp nghĩ lúc ngồi trên chiếc ghế xoay ở thùng xe tải màu đen, chăm chú nhìn qua ống nhòm. Đồ chết giẫm, gã nghĩ, và cố nhe răng cười đến đau cả má.
Những giọt nước mắt vui mừng.
Chiếc xe tải đỗ gần phố Năm mươi mốt và đại lộ Năm, đối diện với thánh đường nguy nga và qua ô kính phủ màu một chiều, gã theo dõi cuộc diễu hành không ngừng nghỉ của các nhân vật danh tiếng và những người quyền cao chức trọng suốt một giờ liền.
Đây là thứ đã dự đoán, gã Ngăn nắp nghĩ lúc lối vào các cửa nhà thờ đóng lại sau lưng cựu Tổng thống và đoàn tùy tùng, trông giống như một lũ nịnh bợ. Theo quan sát của gã, mọi dự đoán đều thành hiện thực đến khó tin. Gã buông ống nhòm để rứt cái khăn lau xinh xinh khỏi nắp một hộp nhựa nhỏ cạnh chân. Đôi bàn tay đỏ lựng của gã ngứa ngáy lúc gã bắt đầu cọ rửa. Gã thường mang nước làm mềm da tay Jergens, nhưng trong lúc phấn khích gã quên bẵng mất. Chỉ có một thứ mình bỏ lỡ, gã vừa nghĩ vừa mỉm cười lúc đánh rớt thứ nước rửa quen dùng lên đống đồ bên chân và lại nâng ống nhòm lên.
Gã quét tầm nhìn khắp khu nhà thờ rộng rãi, dừng lại ở từng chốt canh gác, xoay ống kính Steiner 15x80 để nhìn cho thật rõ.
Một đội đặc nhiệm Manhattan đội lốt cảnh sát phân tán rải rác đằng trước nhà thờ cùng với đám đông và một xe tải của đơn vị Phản ứng nhanh của NYPD chặn từng góc phố. Họ đội mũ cầu thủ bóng chày, khẩu tiểu liên Colt Commando đáng sợ đeo chéo qua ngực, nhưng tay cầm tách cà phê và thuốc lá. Thay vì làm nhiệm vụ cảnh giới, họ đứng tản mát với nhau, tiết lộ những kiểu nói dối về cách sử dụng số tiền làm ngoài giờ được lĩnh.
Câu hỏi là: Họ có ngốc nghếch không? Gã Ngăn nắp nghĩ.
Trả lời: Có, họ là thế.
Điện thoại di động của gã reo khi tiếng rít của chiếc kèn túi bắt đầu tắt dần. Gã Ngăn nắp hạ chiếc ống nhòm xuống và đưa điện thoại lên tai.
Sự phấn khích của việc sắp diễn ra giảm xuống cùng trạng thái thần kinh kích động của gã.
“Rõ rồi, Jack,” gã Ngăn nắp nói. “Đây là một thành công. Thật đáng tự hào.” • • •
Trong gian giữa của thánh đường, ‘Jack’ rút ăng-ten của chiếc điện thoại di động vừa tắt và lo lắng nhìn hàng tá đặc vụ, nhân viên an ninh mật và cảnh sát đứng
quanh nhà thờ. Liệu kế hoạch này có kết quả thực tế không? Hắn nghĩ đến lần thứ một ngàn, không, là lần thứ một trăm ngàn. Phải, lúc này không còn thời gian để phân vân nữa. Hắn gập điện thoại và nhằm đến lối ra phố Năm mươi mốt.
Lát sau, hắn hấp tấp xuống các bậc thềm bằng đá hoa và mở chốt cánh cửa gỗ dày sáu mươi xăngtimét. Một phụ nữ mặc đồng phục NYPD đang hút thuốc ở ngưỡng cửa liếc nhìn hắn. Trông cô ta có vẻ bực tức.
“Cô vào hay ra?” Jack nói và mỉm cười. Mặc dù thấp người, hắn vẫn có sức quyến rũ mỗi khi hắn muốn. “Tang lễ mới bắt đầu thôi. Chúng ta đến gần hơn đi.” Trong cuộc họp về an ninh trước lúc rạng đông, các nhân viên hành pháp đã được lệnh giao cho lực lượng an ninh mọi việc liên quan đến tang lễ ở nhà thờ. “Ra, tôi nghĩ thế,” nữ cảnh sát nói.
Chọn khôn đấy, mụ cớm, Jack nghĩ và kéo cánh cửa nặng trịch đóng lại rồi làm gãy chìa khóa đánh tách trong ổ. Chọn cái sống.
Hắn vội vã lên cầu thang và vòng vào lối đi men theo đằng sau ban thờ. Nơi này đã chật ních các linh mục mặc áo choàng trắng muốt, chỉ đủ chỗ để đứng.
Lúc hắn tới cung thờ phía Nam, cây đàn organ bắt đầu lên tiếng và cỗ quan tài xuất hiện dưới ngăn gác của dàn đồng ca.
Jack lắc lư đi xuống cầu thang, tới lối vào bên phố Năm mươi và đóng, khóa nốt cánh cửa dày. Hắn cố tránh làm gãy chìa trong ổ vì tí nữa, bọn chúng còn cần đến lối ra này.
Trình tự tiếp theo của công việc. Jack hít một hơi thật sâu.
Lúc này, một nửa Hollywood, phố Wall và Washington đã ở trong thánh đường. Rất nhanh, hắn trở lại lối đi. Phía bên kia một trong các cây cột khổng lồ, có một đống dây chão bằng da. Nó che một cầu thang đá hoa nhỏ và hẹp ở đằng sau ban thờ. Hắn trèo lên đống dây và tụt xuống.
Ở chân cầu thang đá hoa có một cánh cửa bằng đồng màu xanh, trang trí công phu. Một tấm biển ghi: HẦM MỘ CỦA CÁC TỔNG GIÁM MỤC NEW YORK. Jack bước nhanh tới và giật mạnh cánh cửa. Hắn vào bên trong hầm mộ rồi đóng chặt cửa lại sau lưng mình. Trong ánh sáng lờ mờ, hắn có thể nhận ra những quan tài bằng đá mai táng các tổng giám mục xếp thành hình bán nguyệt quanh các bức tường đá đẽo gọt qua loa của căn hầm.
“Ta đây, lũ ngốc,” một giây sau, hắn nói khẽ. “Bật đèn lên.”
Có tiếng tách, và các ngọn chúc đài trên tường bật sáng.
Đằng sau các quan tài đá, có mười hai người đàn ông. Hầu hết mặc áo phông và quần đùi. Chúng đều to con, vạm vỡ và trông không chút thân thiện. Những tiếng rứt khóa dán Velcro lúc bọn chúng mặc áo chống đạn Kevlar. Tiếp đó là tiếng các khẩu súng ngắn Smith & Wesson nhét vào bao súng kẹp dưới nách. Chúng đi găng đen, không ngón như các ‘công binh’ và nâng niu những viên đạn chì trên các đốt ngón tay.
Rồi cái nhóm bí ẩn này khoác áo choàng của thầy tu dòng Franxit ra ngoài áo chống đạn. Trong túi các áo choàng để một vật trông giống cái điều khiển từ xa, thực ra là loại vũ khí gây điện giật tối tân nhất.
Chúng luồn các khẩu súng cỡ nòng lớn vào cánh tay thụng của áo choàng. Một nửa ổ nạp đạn cao su, nửa kia là hơi cay CS* cực mạnh.
Cuối cùng, bọn chúng kéo mặt nạ trượt tuyết màu đen che kín mặt. Lúc chúng kéo mũ trùm, trông chúng như được tạo ra bằng bóng tối.
Jack mỉm cười hài lòng lúc mặc áo chống đạn, áo choàng, đeo mặt nạ đen rồi kéo mũ lên.
“Khóa, đạn và dây của các em tuyệt quá, thưa các cô nương,” Jack nói và mỉm cười lúc hắn từ từ kéo cánh cửa nặng trịch của hầm mộ. “Đến lúc đưa trò vui vào đám tang rồi đây.”
• • •
Ngôi sao điện ảnh, diễn viên hài John Rooney cảm thấy hơi thở cạn kiệt lúc đội vệ binh danh dự tới đằng trước nhà thờ với cỗ quan tài phủ lá cờ.
Suốt cuộc diễu hành trên lối đi giữa các hàng ghế, sau mỗi bước họ lại dừng một lúc lâu, bất động, trong khi tiếng đàn organ vang vang từ bên trên. Dường như cỗ quan tài nặng đến mức họ cần tạm dừng để lấy sức khiêng tiếp, Rooney buồn bã nghĩ.
Khi những người hộ tang đặt linh cữu xuống, Rooney nhớ lại lúc chôn cha mình tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Nghe nói ông ước ao khi qua đời được cử hành theo nghi thức quân đội, Rooney nghẹn ngào nghĩ. Nói thẳng ra, không có cách nào tôn vinh người đã khuất tốt hơn.
Rooney quay sang bên phải đúng lúc xuất hiện một hàng thầy tu mặc áo choàng nâu, mũ trùm đầu. Họ đi cùng với đoàn vệ binh trang trọng đến gần ban thờ. Anh còn nhìn thấy một hàng nữa đi xuống lối bên trái mình.
Trong ánh sáng lờ mờ của nhà thờ, không thể nhìn rõ những bộ mặt dưới mũ trùm. Anh biết hôm nay sẽ có nhiều nghi thức đặc biệt, nhưng anh thấy việc này thật mới mẻ. Nếu quân đội biết cách tôn vinh người chết, hãy để cho những tín đồ Công giáo dành nỗi sợ Chúa cho người sống.
Tiếng đàn organ lên đến đỉnh cao lúc các thầy tu giãn cách nhau ra và đột ngột đứng lại trên các lối đi.
Rooney bật nảy lên lúc nghe thấy một loạt tiếng kêu nghẹn lại trong tiếng đàn organ ầm vang. Rồi khói trắng bao bọc và cuồn cuộn tỏa ra từ khắp các lối đi. Nơi dành riêng cho các khách VIP trông như khu vực trước sân khấu của buổi diễn nhạc rock, vì những người trong đó hoảng hốt, quằn quại, túm chặt lấy nhau, chen chúc thoát khỏi các hàng ghế.
Rooney tưởng như nhìn thấy một trong các thầy tu chĩa khẩu súng ngắn vào đám đông.
Không, anh nghĩ, chớp mắt lia lịa, không thể tin nổi. Anh phải đập mạnh vào đầu. Không thể như thế được.
Rooney mở mắt thì thấy ngay một cảnh sát mặc thường phục loạng choạng ở lối đi giữa, máu trào ra từ mũi và tai.
Cạnh Rooney, vệ sĩ của anh là Big Dan đã đưa khăn mùi soa lên bịt miệng và rút khẩu 380 ra khỏi bao súng. Trông như Dan đang cố định hướng để chĩa súng thì một trong các thầy tu xuất hiện như một bóng ma từ trong đám khói và đâm mạnh cây gậy nhựa màu đen, vuông vắn vào cổ chàng vệ sĩ. Một tiếng cách đáng sợ, Big Dan buông rơi vũ khí và sụp xuống ghế, run bần bật như một người mê tín bị một hồn ma khổng lồ quật ngã.
Đúng lúc đó, tiếng organ tắt ngấm!
Nỗi sợ lan khắp người John Rooney. Tiếng nhạc vừa dứt, anh nghe thấy những tiếng gào thét, những tiếng rú hoảng hốt của hàng ngàn người bay vút lên trên mái vòm bằng đá cao chót vót của thánh đường.
Có kẻ nào đó vừa tấn công nhà thờ St. Patrick!
5
Tôi vẫn chưa hay biết gì về việc đã xảy ra, đó là tình trạng của tôi trong thời gian gần đây, kể từ khi Maeve lâm bệnh. Tôi vẫn còn chuệnh choạng lúc đếm vội số con và đưa chiếc xe tải ra khỏi hiên nhà màu xanh. Lúc này là tám giờ bốn mươi mốt phút, và chính xác chúng tôi chỉ còn bốn phút để tới trường Holy Name trên đại lộ Amsterdam. Hoặc ít nhất có một đứa trẻ sẽ bị phạt.
Từ tầng trên cùng nhà tôi, bạn có thể gọi là ‘mái nhà’, trường của các con tôi ở tầng 97 của một toà nhà khác, nhưng bất kỳ người nào đã quen với giờ cao điểm buổi sáng ở Manhattan đều nói rằng nếu muốn đi qua hai khối nhà trong bốn phút, bạn phải tận dụng mọi cơ hội.
Tôi biết có thể để các con tự đi bộ. Julia, Brian và những đứa lớn hơn đã chứng tỏ có khả năng hơn những người tầm thường. Nhưng hiện giờ, tôi muốn dành cho chúng nhiều thời gian hết mức, muốn chúng biết chúng không chỉ có một mình.
Gần đây tôi có một nhu cầu mãnh liệt là muốn có các con ở cùng tôi mọi lúc. Trên thực tế, lý do duy nhất ngăn tôi viết mười giấy giả ốm để chia sẻ ngày nghỉ của mình với các con là xơ Sheilah, hiệu trưởng trường Holy Name. Mục tiêu của tôi là duy trì đến suốt đời những hồi ức tốt đẹp về hiệu trưởng.
Tôi đưa các con đến góc phố gần trường trên đại lộ Amsterdam mà vẫn còn thừa vài giây. Tôi nhảy ra, mở tung cửa phương tiện chuyên chở của gia đình, chiếc xe tải Ford Supper Duty mười hai chỗ tôi mua trong một cuộc bán đấu giá của cảnh sát. Tôi, cảnh sát Bennett của thành phố New York, cần chở cả một đội đông đúc.
“Chạy!” Tôi hô lúc kéo lũ trẻ lên vỉa hè bằng cả hai tay.
Shawna bước lên hè đúng lúc xơ Sheilah đang định khóa cánh cổng bằng gỗ sồi. Tôi nhìn thấy bà xơ già khô héo lướt khắp đường phố, vẻ mặt nghiêm khắc của bà vểnh lên và sẵn sàng nổi cáu.
Lốp xe rít lên lúc tôi buông máy bộ đàm xuống, tôi nhấn ga và phóng vụt đi. • • •
Tôi không thể tin vào khứu giác của mình lúc về đến nhà. Căn hộ thơm nức mùi cà phê. Cà phê ngon. Cà phê đậm đặc.
Và còn một mùi khác nữa. Tôi không muốn xác định, nhưng tôi có linh cảm chắc chắn là có thứ đang nướng.
Mary Catherine đang kéo một khay bánh xốp lúc tôi vào bếp. Bánh xốp việt quất. Tôi vốn thích bánh xốp việt quất. Một cô gái như cô không thể ăn hết sáu cái bánh xốp trong bữa sáng, đúng không? Liệu cô ta có chia cho tôi một cái không đây?
Căn bếp nữa chứ. Nó sáng lấp lánh. Mọi thứ đều sáng loáng, từng cái bát đựng ngũ cốc. Đội Quét dọn đâu?
“Mary Catherine?”
“Ông Bennett,” Mary Catherine nói, cô gạt mớ tóc vàng hoe khỏi mặt lúc để bánh xốp lên bếp lò. “Mọi người đâu cả rồi? Sáng nay, tôi ngỡ mình là nàng Bạch Tuyết bước vào nhà của các chú lùn. Một lô giường nho nhỏ, nhưng chẳng thấy dấu vết một ai.”
“Các chú lùn đi học rồi,” tôi nói.
Mary Catherine nhìn tôi vẻ dò hỏi, y như những gì tôi đã thấy trên mặt xơ Sheilah. “Các cháu đi lúc mấy giờ?” Cô hỏi.
“Khoảng tám giờ,” tôi nói và không thể rời mắt khỏi những cái bánh xốp đang bốc hơi nghi ngút trên nóc lò.
“Vậy tôi sẽ bắt đầu từ lúc bảy giờ, thưa ông Bennett. Không phải là chín giờ. Sẽ là vô lý nếu tôi đi suốt một quãng đường dài đến đây để giúp việc mà ông lại không để tôi làm.”
“Tôi xin lỗi. Và tên tôi là Mike, cô nhớ chưa?” Tôi nói. “Còn những cái bánh xốp…” “Để sau bữa sáng. Ông có thích ăn trứng không?” Cô nói. “Mike.” Sau bữa sáng ư? Tôi nghĩ. Tôi tưởng dùng chúng để ăn sáng. Có lẽ giúp việc kiểu này sẽ sớm phải nghỉ thôi.
“Trông ngon quá nhỉ?” Tôi hỏi.
“Thịt xông khói hay xúc xích đây ạ?” Cô nói.
Có lẽ không đến nỗi thế đâu, tôi nghĩ rồi mỉm cười và lắc đầu.
Tôi đang cân nhắc một quyết định có lợi cho tất cả thì cảm thấy điện thoại di động của tôi rung. Tôi nhìn tên người gọi. Là sếp. Tôi nhắm mắt và thầm muốn xóa số của ông trên màn hình. Khả năng liên lạc bằng ngoại cảm của mình thật khá, tôi nghĩ và cảm thấy cái điện thoại rung lên trong tay như con cá hồi mới bị bắt.
Tôi tiếc vì nó không phải là một con cá thực sự. Nếu không tôi đã quăng nó đi. • • •
Tôi lắc đầu lần nữa rồi đành mở điện thoại và đưa lên tai.
Tôi biết, trong ngày nghỉ, những cuộc gọi từ nhà sếp thường có ý nghĩa đặc biệt. Các tin xấu sắp ùa đến với tôi.
“Bennett đây,” tôi nói.
“Ơn Chúa,” Harry Grissom, sếp của tôi nói. Harry là một thám tử hàm trung úy, phụ trách đơn vị tôi, Đội điều tra các vụ giết người khu vực Bắc Manhattan. Có thể nói, trở thành người của đội này sẽ khiến bạn nhận được những cái gật đầu nể trọng của phần lớn các cảnh sát. Nhưng lúc này đây, tôi chỉ muốn đổi niềm vinh dự đó cho bất cứ cảnh sát nào để được ăn hai quả trứng rán và một cái bánh xốp việt quất béo bổ, ngon lành.
“Anh đã nghe tin gì chưa?” Sếp hỏi.
“Ở đâu? Chuyện gì vậy?” Tôi nói và nghĩ đến việc xấu nhất. Chắc trong giọng nói của tôi có một vẻ đặc biệt khẩn cấp vì Mary Catherine quay người khỏi bồn rửa. Sau thảm họa ngày Mười một tháng Chín, với nhiều người New York – cảnh sát, lính cứu hỏa, nhất là các EMT* – nỗi kinh hoàng tiếp theo không chỉ là một câu hỏi mà là xảy ra bao giờ.”
“Chuyện quái gì vậy? Có chuyện gì thế?” Tôi hỏi.
“Từ từ đã, Mike,” Harry nói. “Không có các vụ nổ. Ít nhất là chưa có. Khoảng mươi phút trước, tại thánh đường St. Patrick đã có nhiều tiếng súng. Lúc đó đang là tang lễ Đệ nhất phu nhân Caroline, vì thế nghe chừng không ổn lắm.”
Tôi cảm thấy như một viên đạn xuyên thủng cửa, găm trúng bụng tôi. Những phát súng nổ tại một quốc tang ư? Ngay bên trong nhà thờ St. Patrick? Vài phút trước đây? Sáng nay ư?
“Bọn khủng bố ư?” Tôi nói. “Từ đâu vậy?”
“Tôi nghĩ là chúng ta còn chưa biết,” Harry nói. “Tôi biết Will Matthews, chỉ huy khu vực Nam Manhattan hiện đang có mặt tại hiện trường, và anh ấy muốn anh
xuống đó ngay, càng sớm càng tốt.”
Với tư cách gì đây? Tôi băn khoăn. Trước khi chuyển sang Đội Điều tra các vụ giết người, tôi từng ở Đội Giải cứu con tin.
Tôi đã mệt mỏi vì thời điểm khủng hoảng của gia đình đến mức không thể đảm nhiệm một vụ lớn hơn sao?
Khi trời mưa như trút, nào có tha ai không bị ướt, tôi nghĩ. Cái số tôi nó thế. Tôi hy vọng đây chỉ là một vụ rắc rối tầm thường. Hoặc có lẽ chỉ huy khu vực cần tôi cho một vụ giết người mà thôi. Tôi có thể giải quyết các vụ khó nhằn hoặc giết người. Còn các ‘vũ khí hủy diệt hàng loạt’ khiến tóc gáy tôi dựng đứng.
“Anh ấy cần tôi để thương lượng sao?” Tôi hỏi sếp. “Hay có vụ giết người trong nhà thờ? Hãy nói rõ luôn đi, Harry.”
“Tôi quá bận bịu với những tiếng la hét nên chưa có dịp hỏi,” sếp tôi nói. “Song tôi không nghĩ thế vì nhiều người chạy túa ra khỏi ban thờ. Anh đến đó ngay và sẽ khám phá ra mọi sự thôi. Để tôi tìm hiểu cái quái gì đang xảy ra.” “Tôi đi ngay đây,” tôi nói và ngắt máy.
Tôi vào phòng ngủ, mặc vội quần jeans, áo vệ sinh và áo gió NYPD. Trang phục của nhân viên Đội Điều tra tội giết người.
Tôi vã nước lạnh lên mặt và lấy khẩu Glock của mình khỏi két an toàn. Mary Catherine đang đợi tôi ở tiền sảnh với cốc cà phê và một túi giấy màu nâu đựng bánh xốp. Ngay cả trong lúc tâm trí đang rối bời, tôi vẫn nhận thấy con mèo Socky vốn ghét mọi người trừ Maeve, Chrissy và Shawna, vậy mà đang cọ ria vào mắt cá chân Mary. Nó rừ rừ trò chuyện với cô lúc chạy trên mặt đất. Tôi đang cố tìm những lời lẽ thích hợp để cảm ơn và chỉ dẫn việc nhà thì cô mở cửa trước và nói, giản dị:
“Cứ đi đi, Mike.”
PHẦN HAI
NHỮNG KẺ PHẠM TỘI
6
Tôi rít khẽ một tiếng lúc đỗ chiếc Impala màu xanh trước rào chắn ngang ở đại lộ Năm và phố Năm mươi hai. Kể từ ngày lễ thánh St. Patrick đến nay, tôi chưa hề nhìn thấy nhiều cảnh sát trước khu vực nhà thờ đến thế.
Thay cho những cái mũ bê-rê Scotland in hình cây kế* và những nụ cười, họ đội mũ thép chống đạn đen sì, mang vũ khí tự động và vẻ mặt vô cùng nghiêm trang. Tôi giơ phù hiệu cho một trung úy cảnh sát đứng cạnh một trong nhiều sợi dây màu xanh-trắng. Cô ta chỉ cho tôi thấy trung tâm chỉ huy lưu động, một chiếc xe buýt dài màu trắng đỗ ở bên kia phố, đối diện với thánh đường. Và cô còn hướng dẫn tôi đỗ trước các xe rác của Sở Vệ sinh chắn đại lộ Năm, cạnh rào chắn phố Năm mươi mốt.
Hai rào chắn, tôi nghĩ. Nhiều trung tâm chỉ huy lưu động. Nhưng chắc chắn không có vụ giết người. Đây là một thảm họa đang hình thành.
Lúc tôi xuống xe, có tiếng như búa khoan rồ lên, dai dẳng và khi ngước nhìn, tôi thấy một chiếc trực thăng của cảnh sát lao vụt ra từ đằng sau Trung tâm Rockefeller và lượn sà xuống bên trên thánh đường. Bụi, cốc cà phê và những tờ báo bay theo đường xoắn ốc trong tầm quét của cánh quạt, lúc một người bắn tỉa trên máy bay mở cửa, rê nòng khẩu súng trường khắp các ngọn tháp bằng đá và kính màu.
Tôi rời mắt khỏi chiếc trực thăng lúc suýt đâm sầm vào một người dẫn chương trình thảo luận nổi tiếng của đài phát thanh, không hiểu sao anh ta đang chốt ngay trên phố, trước rào chắn bên trong.
“Các thầy tu chết tiệt ấy làm gì ở trong đó?” Tôi nghe thấy anh ta nói lúc tôi đi ngang qua.
Khi bước vào khu vực tập kết giữa các lưới sắt của các xe rác đỗ sẵn, tôi dừng lại và nhìn trừng trừng, không tin nổi. Sáu cảnh sát thuộc đơn vị Phản ứng nhanh đang băng qua đại lộ, đầu chúi xuống. Họ dừng lại và ép những tấm lưng mặc áo chống đạn vào bên sườn chiếc xe tang dài màu đen, đỗ bên lề đường.
Sao chuyện này lại có thể xảy ra tại tang lễ của Caroline Hopkins kia chứ? • • •
Tuy mới năm mươi bảy, với cái mũi bị gãy và cung cách thẳng thắn, dữ dội mỗi khi nhìn mọi người, có lẽ chỉ trừ nhìn mẹ, chỉ huy khu vực Will Matthews trông như một tay cảnh sát Ireland hay gây gổ mà ta có thể thấy trong lực lượng. Trông anh thật hùng hổ lúc tôi tìm thấy anh đứng trên vỉa hè, trước cái xe buýt của trung tâm chỉ huy.
“Rất mừng anh có thể tham gia với chúng tôi, Bennett,” anh nói. “Ồ vâng,” tôi nói. “Song tôi chưa có dịp nhìn ngó cây cối đâu.”
Thay cho cười, trông Matthews như muốn giơ dùi cui quật tôi. Anh đang cố làm sáng tỏ nhiều việc.
“Tôi không còn tâm trạng để đùa, Bennett ạ,” anh nói. “Thị trưởng, cựu Tổng thống, Hồng y giáo chủ, một số ngôi sao điện ảnh, âm nhạc và thể thao… còn ai nữa nhỉ? Eugena Humphrey và khoảng ba ngàn VIP khác đang bị một tá đàn ông hoặc
nhiều hơn, vũ trang đầy mình, đeo mặt nạ, giữ làm con tin ở trong đó. Anh hiểu ý tôi chứ?”
Thật khó mà ghi nhận sự việc Will Matthews vừa nói với tôi. Chỉ riêng thị trưởng và cựu Tổng thống đã không thể tin được rồi, lại còn những người khác nữa? Viên chỉ huy khu vực nhìn tôi chằm chặp vẻ gây gổ, đợi tôi len lên vỉa hè rồi tiếp tục:
“Chúng tôi chưa biết những tay súng ấy có phải là khủng bố không. Những báo cáo sơ bộ của nhân viên hành pháp vừa được thả khỏi nhà thờ cho biết ít nhất tên cầm đầu không phải là dân Ả Rập. Hắn nói năng với đám đông và tôi trích dẫn, ‘như người da trắng’. Những tên đeo mặt nạ, không nhận dạng được, đã bắt giữ ba mươi mốt cảnh sát và khoảng hai tá đặc vụ liên bang, kể cả đặc vụ của cựu Tổng thống, bằng các vũ khí không gây chết người. Hơi cay làm chảy nước mắt, đạn cao su và dùi cui điện. Còn nữa. Hai mươi phút trước, chúng mở cửa thông ra phố Năm mươi để tất cả đám cảnh sát và nhân viên an ninh vô dụng ấy ùa ra. Nhiều người mũi bị dập và mắt bị thâm tím, nhưng bọn chúng có thể bắn gục họ dễ dàng khi thả. Vì thế tôi cho rằng, chúng ta có thể cảm kích vì những ân huệ nho nhỏ ấy.”
Tôi cố không để lộ vẻ sửng sốt và bối rối trên mặt. Nhưng không dễ chút nào. An ninh chắc chắn là chặt chẽ, sao lại xảy ra chuyện đó? Chúng dùng vũ khí không gây chết người ư?
“Tôi có thể giúp gì đây?” Tôi hỏi.
“Một câu hỏi xác đáng đầu tiên. Ned Mason, người thương lượng hàng đầu của chúng tôi đang trên đường tới đây. Nhưng anh ấy ở mãi quận Orange hoặc một nơi nực cười nào khác, hình như là Newburgh. Tôi biết anh không còn ở đội Giải cứu con tin nữa, nhưng tôi cần những ý kiến sáng suốt nhất, phòng trường hợp bọn chúng yêu cầu trước khi Ned Mason tới đây. Tôi cũng nhớ, anh đã làm việc nhiều với các phương tiện truyền thông. Vì thế tôi cần anh giải quyết đám báo chí đang như đàn châu chấu xâu xé sự việc này. Steve Reno là người khôn ngoan hạng nhất. Anh có thể khuyên nhủ anh ta khi đàn chim ấy hạ cánh, được không? Hãy ngồi yên đây và nghĩ. Nghĩ đến những điều sẽ nói với cánh báo chí, nhé.”
Tôi tuân lệnh ‘Ngồi yên’, chăm chú nhìn ngôi nhà thờ đồ sộ, uy nghi ở bên kia đường, bắt đầu hình dung loại người nào hoặc những người nào làm chuyện này, thì nghe thấy một chấn động khủng khiếp cạnh rào chắn trên phố Năm mươi. Có chuyện xấu đang xảy ra. Ngay lúc này!
Theo bản năng, tôi rút súng khi thấy một người đàn ông tóc vàng hoe, không mặc sơ-mi và một phụ nữ tóc đỏ rực, trang điểm đậm từ sau rào chắn lao ra. Cái quái quỷ gì thế? Họ băng qua đại lộ Năm vắng vẻ và chạy lên bậc thềm thánh đường lúc ba cảnh sát thuộc Đơn vị Phản ứng nhanh từ sau xe tang bước ra, chặn họ lại.
Mớ tóc giả màu đỏ rơi xuống, lộ ra mái tóc cắt gọn, đen nhánh. Gã tóc vàng vẫn cười, và tôi nhìn thấy đồng tử của gã giãn to như cái đĩa vì ma túy. “Một người tình! Một người tình chuyển giới!” Gã tóc vàng gào lên lúc cảnh sát đưa gã và tay người tình chuyển giới đá lung tung qua đám báo chí trên phố Năm mươi mốt.
Tôi thở phào. Chẳng có gì đáng lo. Không phải là đánh bom tự sát. Chỉ là một buổi diễn kỳ quái trên phố, một cử chỉ lịch sự của thành phố New York mà thôi. Tôi thấy chỉ huy Will Matthews nhìn trừng trừng, miệng há hốc trên vỉa hè cạnh tôi, lúc tôi đút khẩu Glock vào bao. Anh bỏ mũ và gãi mái đầu lởm chởm. “Anh có điếu thuốc nào không?” Anh nói. Tôi lắc đầu.
“Tôi không hút thuốc,” tôi trả lời.
“Cả tôi cũng không,” Will Matthews nói và bước tránh ra. “Tôi nghĩ tôi sẽ bắt đầu
hút đây.”
• • •
Mười phút sau, FBI đến rất đúng kiểu.
Bốn chiếc Chevy Suburban đen chạy qua rào chắn trên phố Bốn mươi chín, cả đội chiến thuật vũ trang đầy đủ ào ra khỏi xe. Cao ráo, nhanh nhẹn và duyên dáng, tốp lính biệt động mặc đồng phục đen giống như một đội vận động viên điền kinh nhà nghề. Tôi không biết họ có thuộc Đội Giải cứu con tin lừng danh không? Tình hình hiện tại chắc chắn phải cầu cứu đến họ.
Một người trung niên, tóc cùng màu với bộ com-lê đen như than tiến tới và bắt tay tôi.
“Anh là Mike Bennett?” Anh ta nói, giọng thân tình. “Tôi là Paul Martelli. Đơn vị Thương lượng khủng hoảng. Chúng tôi được cử đến giúp các anh một tay nếu có thể.”
Đây là một bộ phận thương lượng giải cứu con tin của FBI. Martelli là người chỉ huy, rất nổi tiếng trong những vòng thương lượng. Anh đã viết một cuốn sách được coi gần như là Kinh Thánh về chủ đề này.
Tôi thường khó chịu khi có mặt các nhân viên FBI, nhưng phải thú nhận rằng, tôi nhẹ cả người khi có Martelli ở đây. Trong ba năm ở đội Giải cứu con tin, tôi đã làm được một số việc nổi bật, nhưng chẳng có vụ nào như vụ này. Nhất là hiện nay, trong tình cảnh đáng buồn của tôi vì những lo toan cho Maeve và bọn trẻ. Tình trạng này rõ ràng là khác xa với những thuật ngữ về tầm quan trọng và tiểu sử. Trời ạ, tôi sẽ nhận mọi sự giúp đỡ nếu có thể.
“Tôi thấy các phương tiện truyền thông và báo chí đã quan tâm đến vụ của các anh rồi,” Martelli nói và bình thản nhìn khắp lượt trung tâm chỉ huy và các rào chắn. “Mike này, ai sẽ là người thương lượng chính nhỉ?”
Dù nói về một việc tầm thường, Martelli cũng toát ra sự tin cậy thư thái rất dễ lây. Tôi có thể thấy vì sao anh là người cừ nhất trong trò chơi này.
“Bây giờ là tôi,” tôi nói. “Họ nhờ tôi giữ vị trí phòng thủ cho đến lúc người đứng đầu của chúng ta tới đây. Lúc đó, tôi sẽ ở vị trí thứ hai. Trung úy Steve Reno của Đơn vị Phản ứng nhanh là người chỉ đạo chiến thuật. Sĩ quan chỉ huy Will Matthews, chỉ huy đội chúng tôi sẽ nói lời cuối cùng.”
Mọi vụ rắc rối khủng hoảng đòi hỏi một chuỗi mệnh lệnh rất nghiêm ngặt. Người thương lượng không thể ra các quyết định. Anh ta phải hỏi những người có quyền lực cao nhất trước khi hỏi gặng kẻ đang nắm giữ con tin. Nó sẽ câu giờ cũng như dẫn đến mối quan hệ giữa kẻ giữ con tin và người thương lượng. Rồi sẽ có người phải ra quyết định cuối cùng. Những người thương lượng thường muốn kéo dài cuộc nói chuyện. Các nhà chiến thuật sẽ tính toán để nổ súng.
“Bây giờ, việc quan trọng nhất là chứng tỏ sự kiên nhẫn,” Martelli nói và thoáng mỉm cười. “Chúng ta phải dành ra một khoảng thời gian. Thời gian cần cho chúng ta dàn dựng. Để cho SWAT* thu thập các tin tức tình báo về chiến thuật. Và thời gian để mọi người ở trong đó trấn tĩnh. Thời gian để xua tan sức ép.”
Tôi nghĩ mình đã đọc điều này trong một cuốn sách, thật vậy, cuốn sách của Paul Martelli.
• • •
Hai chúng tôi quay lại lúc một cảnh sát mặc áo gió NYPD bay phần phật cưỡi chiếc Suzuki 750 màu đen đầy bụi, gầm rú lao qua rào chắn trên phố Bốn mươi chín. “Có liên hệ gì chưa?” Ned Mason quát lên để chào tôi lúc xuống xe. Tôi đã làm việc cùng Mason một thời gian ngắn trước khi rời Đội Thương lượng. Viên cảnh sát có mớ tóc màu vàng cát là một vận động viên điền kinh ba môn phối hợp và là người có sức khỏe đáng gờm. Nhiều người xì xào, cho anh là ngạo mạn và đáng ghét, nhưng tôi biết anh là một trong những cảnh sát đa mưu túc kế, luôn thui thủi một mình, thành công nhờ sự tỉ mỉ kỹ càng và tài năng riêng lẻ của ý chí mạnh mẽ hơn là hợp tác theo đội.
“Vẫn chưa,” tôi nói.
Tôi bắt đầu tóm tắt tình hình cho Mason, nhưng một trung úy NYPD thuộc Đơn vị Thông tin thò đầu ra từ cửa xe buýt và giơ cái điện thoại di động lên trên đầu. “Họ đây!” Anh ta nói.
Chỉ huy Will Matthews đến chỗ chúng tôi và tất cả ào vào bên trong xe. “Ghi lại mọi điều tôi nói với anh nhé,” Mason nói với tôi, giọng cộc cằn. “Đừng bỏ lỡ lời nào.”
Qua thái độ tự phụ của Mason, tôi có thể thấy anh ta chẳng thay đổi tí nào. “Một cuộc gọi tới 911. Chúng tôi chuyển tiếp tới đây,” một cảnh sát thông tin nói và giơ điện thoại lên. “Ai nhận nào? Ai trong các anh nhận?”
Mason giằng điện thoại khỏi tay anh ta, còn WillMatthews, Martelli và tôi đeo tai nghe để cùng nghe.
“Dù anh là ai, hãy nghe cho kỹ,” Mason nói vào điện thoại. “Hãy nghe tôi nói đây.”
Giọng Mason đầy uy quyền, tiếng nói của anh thẳng thừng và rất nghiêm nghị. “Đây là Quân đội Hoa Kỳ. Mọi việc các anh làm đã vượt khỏi giới hạn thương lượng với chính quyền. Tổng thống Hoa Kỳ đã ký lệnh và được chính phủ thông qua, hiện nay mọi kênh thông thường đã đóng. Trong vòng năm phút kể từ lúc này, hoặc các anh thả hết các con tin hoặc các anh sẽ bị giết. Sự bảo đảm duy nhất tôi có thể cho các anh là: Nếu các anh hạ vũ khí xuống ngay bây giờ và để mọi người ra ngoài, các anh sẽ được bảo toàn tính mạng. Đây là cơ hội của các anh và là cơ hội duy nhất để trả lời. Hãy trả lời tôi ngay bây giờ. Đây là năm phút cuối cùng trong đời các anh, rõ chưa?”
Tôi biết Mason đã đi một nước cờ rất liều. Anh sử dụng một chiến lược gây nhiều tranh cãi, do tình báo quân đội phát minh ra, để chấm dứt tình trạng nhùng nhằng bằng cách cơ bản là đe dọa tính mạng của bọn bắt giữ con tin. Anh đã dùng chiêu ‘được ăn cả’ của tay chơi xì-phé siêu hạng. Nếu sức ép là dầu xăng, Mason đã ném quả bóng là là mặt đất nặng hơn hai tấn.
“Nếu cái thằng chó chết này,” lát sau, một giọng nói không kém quả quyết đáp lại, “không xéo khỏi hàng ngũ bọn mày trong vòng năm giây, cựu Tổng thống sẽ sang thế giới bên kia cùng vợ. Năm…”
Tôi gần như thương Mason khi nhìn thấy một nếp hằn sâu chạy qua mặt anh. Vừa rồi là một nước tháu cáy đầy mạo hiểm, có thể làm anh thất bại hoàn toàn. Và trông anh có vẻ không có kế hoạch dự phòng.
“Bốn,” giọng đó nói.
Chỉ huy Will Matthews bước tới.
“Mason!” Anh gọi.
“Ba.”
Mason nắm chặt điện thoại; hình như anh không thở.
Không ai làm được gì khác nữa.
“Hai.”
Tôi là một người thương lượng giỏi, nhưng trong suốt ba năm trời tôi chưa bao giờ dùng cách này, và đây là lúc gieo neo để tôi nhúng lại ngón chân vào vũng bùn. Nhưng Ned Mason vừa bị đâm sầm và thiêu rụi, dù thích hoặc không, giận dữ hay không, là người thương lượng phụ, việc của tôi là phải nhập cuộc ngay lập tức. “Một.”
Tôi bước gấp tới và giằng điện thoại khỏi tay Mason.
“Xin chào,” tôi điềm tĩnh nói. “Tên tôi là Mike. Tôi xin lỗi vì đã xử lý tình thế kém. Người vừa nói với các anh không có quyền hạn. Các anh đừng đếm xỉa đến những điều anh ấy nói. Tôi là người thương lượng. Chúng tôi sẽ không tấn công thánh đường. Thực ra, chúng tôi không muốn bất cứ người nào bị thương. Tôi xin lỗi lần nữa vì việc vừa xảy ra. Xin cho biết, tôi đang nói chuyện với ai đây?”
“Thực tế là tôi vừa khống chế thánh đường này và mọi người trong đó,” giọng đó nói, “tại sao anh không gọi tôi là Jack nhỉ?”
“Vậy chào Jack,” tôi nói. “Cảm ơn anh đã nói chuyện với tôi.”
“Không có gì,” Jack nói. “Hãy ban cho tôi một ân huệ được không, Mike? Anh hãy bảo với thằng lính đánh thuê đầu đất vừa nói kia rằng trước khi hắn đột-kích vào mông đít chúng tôi đây, tôi đã có tin dành cho hắn. Chúng tôi có mọi cửa sổ, cửa ra vào và tường ở nơi này để dựng các thiết bị dò tìm bằng la-de. Tốt hơn hết hắn đừng có thò cái mặt mẹt ra. Thực ra, tốt hơn hết là hắn đừng để rơi một cục cứt chim câu trong vòng bán kính ba dặm của St. Paddy, hoặc mọi người trong khối nhà này sẽ bị thổi bay vào địa ngục. Tôi đã xem xét một cách nghiêm túc mọi hoạt động và thấy rằng, nếu tôi là anh, trực thăng của NYPD nên xéo ngay khỏi mái nhà. Ngay lập tức.”
Tôi nhìn chỉ huy Will Matthews và làm động tác cắt thẳng lên mái xe buýt. Will Matthews ra lệnh cho một trong những cảnh sát tùy tùng, chiếc radio kêu tanh tách, và vài giây sau, cánh quạt trực thăng đang quay tít bắt đầu dừng.
“Được thôi, Jack. Tôi đã nói với sếp tôi lùi trực thăng về phía sau. Hiện giờ mọi người trong đó vẫn ổn chứ? Tôi biết trong đó có một số người nhiều tuổi cần được chăm sóc về mặt y tế. Có những báo cáo về vài loạt súng. Vậy có ai bị bắn không?” “Vẫn chưa,” Jack nói.
Lúc này, tôi phớt lờ câu trả lời đầy khiêu khích. Khi tôi có mối ràng buộc với hắn chặt hơn chút nữa, tôi sẽ cố giảm bớt những lời đe dọa, và bắt hắn nói năng biết điều hơn, điềm đạm hơn.
“Các anh có cần đồ ăn thức uống gì không?” Tôi hỏi.
“Hiện giờ chúng tôi vẫn ổn,” Jack nói. “Ở thời điểm này, tôi chỉ muốn đưa ra hai điều và anh cần nhớ cho kỹ. Anh phải cho chúng tôi thứ chúng tôi cần, và chúng tôi sẽ ra đi với thứ đó. Hãy nói thế đi, Mike.”
“Chúng tôi sẽ cho các anh thứ các anh cần, và các anh sẽ ra đi với thứ đó,” tôi nói ngay, không hề ngập ngừng. Cho đến lúc chúng tôi có ưu thế hơn, tôi cần hắn chấp nhận tôi càng nhanh càng tốt. Đằng nào cũng phải để hắn thấy tôi sẵn sàng cho hắn thứ hắn muốn.
“Tốt đấy,” Jack nói. “Tôi biết hơi khó tính toán xem anh đang ngồi đâu, Mike. Hơi khó tin. Vì thế tôi muốn nắm được một thứ hiển hiện. Vì việc sắp xảy ra. Dù anh có cố gắng chống lại cũng vô ích. Dù những anh chàng cứng đầu cứng cổ của anh có điên tiết lên cũng chẳng hề hấn gì. Chúng tôi sẽ ra đi với thứ đó.”
“Công việc của tôi là bảo đảm cho tất cả chúng ta thoát khỏi chuyện này an toàn. Kể cả anh nữa, Jack ạ. Tôi muốn anh tin điều đó.”
“Chà chà, Mike, nói nghe ngọt tai quá nhỉ. Ồ, đừng quên đấy. Chuyện này sắp kết
thúc, được chưa? Chúng tôi thắng rồi. Phát hiện ra anh sau nhé,” tên cướp nói, và đường dây tắt ngấm.
• • •
“Anh đồng ý với bọn chúng những gì, hở Mike?” Mason bỗng cất tiếng. Tôi định trả lời, nhưng ở gần cửa sổ trung tâm chỉ huy nhất, tôi là người đầu tiên nhìn thấy sự chuyển động ở đằng trước thánh đường.
“Đợi một chút,” tôi nói. “Cánh cửa đang mở. Cửa đằng trước! Có cái gì đó đang đi xuống.”
Lúc đầu, tôi chỉ có thể nhìn thấy lờ mờ phía bên trong nhà thờ. Rồi một người đàn ông mặc chiếc sơ-mi rách màu xanh lơ, xuất hiện ở ngưỡng cửa. Ông ta chớp chớp mắt trong ánh sáng nhợt nhạt lúc bước xuống quảng trường lát đá. Người này là ai? Có chuyện gì thế nhỉ?
“Để hắn cho tôi,” tôi nghe thấy một trong những người bắn tỉa nói vào sóng của cảnh sát.
“Không được bắn!” Will Matthews gọi giật lại.
Một phụ nữ đi chiếc giày gãy gót, tập tễnh đi ra sau người đàn ông áo xanh. “Cái quái gì…,” Will Matthews nói lúc một dòng người lơ thơ, rồi sau đó là một cơn lũ người ào ào tràn ra bậc thềm đằng trước thánh đường.
Hàng trăm, có lẽ tới một ngàn người đột nhiên tràn xuống đại lộ Năm. Bọn cướp để mọi người đi ư? Các cảnh sát xung quanh hình như cũng hoang mang như tôi vậy.
Chúng tôi nhìn trân trân, lặng lẽ quan sát những người đi lễ chen nhau xuống các bậc thềm đằng trước. Quang cảnh lộn xộn không tả nổi. Những cảnh sát đặc nhiệm mặc quân phục can thiệp ngay lập tức, hướng dẫn dân chúng đi qua rào chắn phía Nam, trên phố Bốn mươi chín.
“Gọi các thám tử tới đây ngay. Vụ cướp, các nạn nhân đặc biệt, tất cả! Tôi muốn xác định danh tính những con tin vừa được thả và phỏng vấn họ,” chỉ huy Will Matthews quát một trong những sếp phó.
Rồi các cửa nhà thờ lại mở. Bây giờ có chuyện gì đây? Martelli vỗ vào lưng tôi. “Cậu làm việc cừ lắm, Mike,” anh nói. “Thương lượng đúng sách. Cậu đã cứu được hàng ngàn mạng sống.”
Tôi cảm kích vì lời khen, nhưng không nghĩ mình đã làm được nhiều đến thế. Có khi chiến thuật mạnh tay mà Mason sử dụng đã có hiệu quả. Hoặc là chúng mất tinh thần.
Toàn bộ sự việc này sao mà quái đản.
“Kết thúc chăng?” Will Matthews hỏi. “Có lẽ nào? Trong phòng, không khí nao núng bao phủ khi chuông điện thoại của tôi đột ngột reo vang.”
“Tôi đoán là chưa đâu,” tôi nói.
• • •
“Mike,” Jack nói. “Anh còn lang thang vơ vẩn ở đấy làm gì, hở anh bạn? Dân chúng an toàn cả chứ? Tôi hy vọng không ai bị giẫm chết.”
“Không, Jack ạ,” tôi nói. “Mọi người ổn cả. Cảm ơn anh đã biết điều.” “Tôi đang cố, Mike. Cứ để mọi chuyện cho tôi. Tôi nghĩ tốt hơn hết là tôi nên xua tan mọi hiểu lầm, mặc dù… lúc này chúng tôi mới quăng trả những con cá nhỏ, còn
tôi muốn nói tới những con cá voi mà chúng tôi vẫn còn giữ kia.” Tôi liếc ra cửa sổ và nhìn khắp những người vừa được thả. Chúa ơi! Hắn nói đúng. Cựu Tổng thống Hopkins đâu? Thị trưởng New York đâu? Eugena Humphrey? Những người trong danh sách loại A vẫn còn ở bên trong. Họ còn bao nhiêu người? “Để dễ dàng hơn cho mọi người, chúng tôi hiện giữ ba mươi tư con tin,” Jack nói, như thể đọc được suy nghĩ của tôi. “Lẽ tất nhiên là những nhân vật nổi tiếng, một số ông trùm, vài chính khách. Hãy cho tôi số fax, tôi sẽ gửi anh một bản danh sách. Cùng với những yêu cầu của chúng tôi. Những sự việc này có thể rất đơn giản hoặc rất phức tạp, Mike ạ. Sự lựa chọn hoàn toàn tùy thuộc vào các anh.” Tôi hiểu rằng, lúc này sự việc bắt đầu gay cấn hơn đây. Đây là một vụ bắt cóc choáng váng! Một vụ bắt cóc kinh hoàng chưa từng thấy, thậm chí sẽ không thể có gì gần gần như thế.
“Chúng tôi đang giữ những người rất có giá, Mike. Cho đến nay, không người nào bị thương. Nhưng nếu người của anh muốn đích thân giải quyết vụ này và cố lẻn vào đây rồi đưa chúng tôi ra ngoài, sẽ xảy ra một cuộc tắm máu mà đất nước này chưa từng chứng kiến. Ý tôi là, tất cả những gì mà các Ông bố và Bà mẹ Giỏi giang này để lại là sự nổi tiếng của họ. Đây là thứ chết tiệt duy nhất mà chúng tôi xuất khẩu thêm. Những ngôi sao điện ảnh và nhạc pop, hả? Hãy cho chúng tôi thứ chúng tôi muốn, Mike, và quang cảnh khó chịu này sẽ hết. Đối phó đi. Ở đây, anh là người giỏi hơn cả.”
Hầu như không thể tin được, nhưng tôi cảm thấy nhẹ người. Những tên tội phạm đều kinh khủng, nhất là bọn bắt cóc. Nhưng ít ra chúng tôi không phải đối phó với bọn khủng bố, là sức mạnh không hề suy xét, giết càng nhiều người càng tốt. Phải cố đưa được những người mình muốn ra khỏi tình huống, và còn sống.
“Chúng tôi muốn giải quyết việc này cũng như anh, Jack ạ,” tôi nói. “Nghe hay đấy, Mike,” Jack nói. “Cứ như tiếng nhạc trong tai tôi vậy. Vì tôi sẽ cho anh và bọn tài phiệt kếch xù này cơ hội xoay mông ra khỏi chuyện phiền toái theo đúng kiểu cổ xưa, rất Mỹ. Tôi sẽ để các người mua đường thoát của các người.”
• • •
Một giây sau khi tôi cho hắn số fax mà trung úy thông tin đưa, Jack ngắt liên hệ. Paul Martelli bỏ tai nghe và đi qua phòng. Anh đến ngồi cạnh tôi. “Cậu làm tốt lắm, Mike. Đánh bại được những kẻ trơ tráo.”
“Anh thấy tên này thế nào, hở Paul?” Tôi hỏi anh. “Phản ứng đầu tiên, dù là bất cứ thứ gì.”
“Rõ ràng hắn không phải là kẻ bối rối về mặt tinh thần. Hắn có vẻ tự tin. Tôi nghĩ thế từ vị trí và quan điểm của hắn. Hắn ở đó, cảnh sát vây quanh trong một khu vực giáp giới ba bang, hắn là một kẻ trâng tráo, biết tán gẫu. Tôi có cảm giác hắn biết cái gì đó mà chúng ta vẫn chưa hình dung ra. Tôi chỉ không biết thứ đó là gì. Vậy thứ ‘Jack biết mà ta không biết’ là gì nhỉ?”
Tôi gật đầu. Tôi có cùng cảm giác đó, chỉ không nói ra lời mà thôi. Và tôi cũng không biết thứ Jack biết.
“Có vẻ như chúng ta gặp phải một tên tội phạm không dễ thỏa hiệp và cực kỳ chuyên nghiệp,” Martelli nói tiếp. “Ngoài ra, một số cách giải quyết của hắn cho thấy hắn có vẻ biết chiến thuật quân sự.”
“Như khi hắn nói về việc gây nổ trên các cửa sổ và cửa ra vào. Anh cho là có thể không?”
“Nhìn vào cách hắn chỉ huy, tôi cho là có, chúng ta phải coi đây là lời đe dọa thực sự. Nếu chúng ta nhảy vào tòa nhà, hắn sẽ cho nổ tung.”
Tôi nhìn quanh tìm Ned Mason. Anh đã tìm ra một chỗ ở góc xa nhất. Sự thất thố của anh vẫn lơ lửng nặng nề trong không khí, trông như anh đang cố biến thành kẻ vô hình.
“Ned, hãy cho tôi biết, anh nghĩ vì sao chúng để cho tất cả những người này đi ra, trong khi vẫn giữ những người kia lại? Anh nghĩ sao?” Tôi nói.
Mason ngước lên, có lẽ ngạc nhiên vì có người vẫn muốn bàn bạc với anh. “Chúng ta hãy thử nghĩ xem,” anh nói, rồi đứng dậy và nhập bọn với chúng tôi. “Hậu cần là một việc. Nếu không cần các con tin thừa đó, thì giữ họ lại làm gì? Họ có thể ốm hoặc bị thương, và đó là lỗi của bọn chúng. Tệ hơn, họ có thể kháng cự. Giải tán một đám đông là một việc. Còn kiểm soát họ trong một thời gian dài đòi hỏi phải khéo léo. Thêm nữa, nó theo một mô hình mà tôi đang suy nghĩ. Chúng tống dân chúng ra ngay lập tức, vì chúng biết họ có thể cố chống lại.” Martelli gật đầu và nói:
“Bọn chúng cũng cho rằng thả phần lớn số người trước các ống kính trông có vẻ là tử tế. Các anh thấy đấy, chúng thả thường dân. Chỉ giữ lại những người giàu có. Cứ như Robin Hood* vậy. Chúng lợi dụng đám đông.”
“Bọn khốn ấy nhiều mưu mô, nhỉ?” Mason nói. “Chọn địa điểm là Midtown Manhattan. Sao chúng khoan được nhiều lỗ thủng qua mạng lưới an ninh đến thế. Chắc chúng đã lập kế hoạch này trong nhiều tháng. Có khi nhiều năm. Đúng là một lũ quái vật.”
Các tách cà phê của chúng tôi nảy lên khi tôi đấm xuống quầy. Ra là thế. Đó chính là thứ làm tôi băn khoăn, áy náy không yên. Tôi không thể tin nổi. Kết luận tôi rút ra khiến tôi lạnh buốt toàn thân. ‘Toàn bộ điều sỉ nhục này được sáng tác và dàn dựng kỹ lưỡng đến thế sao? Không bỏ qua chi tiết nào. Nhưng bọn mi lập kế hoạch khống chế một quốc tang thế quái nào được, nếu không có một xác chết. Bằng cách nào đó, chúng đã giết Caroline Hopkins.’
7
Nhìn chằm chằm vào mạng băng trong veo của một bông tuyết khổng lồ trên cửa sổ tầng bốn của Saks ở đại lộ Năm, gã Ngăn nắp cười thầm trên đường phố. Nhìn những thằng khốn ti tiện đang nhốn nháo kìa, gã nghĩ. Thay tiếng sáo pha la-la-la-la của bản nhạc Giáng sinh của nợ bằng tiếng dương cầm thời cổ, ta sẽ có một trò hề phóng tác sống động trên đại lộ Năm.
Chúa ơi, chuyện này sao thú vị thế, gã nghĩ. Gã giơ một bàn tay hơi run ra trước bộ mặt tươi cười của mình. Gã sẽ không phủ nhận nữa. Gã đã sống vì chuyện này. Gã lục lọi khắp kho dự trữ những tưởng tượng hung hãn. Nơi gã ưa thích nhất là đứng giữa nhà ga Grand Central vào giờ cao điểm. Rồi bất chợt, gã sẽ rút ra một thứ trong áo khoác. Khi là một thanh kiếm samurai. Khi là cái cưa xích. Thứ gã ưa thích là một khẩu súng phun lửa. Nói về sự sửng sốt và kính sợ.
Nhưng sự việc thực tế này còn hay ho hơn tưởng tượng nhiều lắm, gã nghĩ lúc nhìn xuống ‘các nhà cầm quyền’ và ‘các chuyên gia khủng hoảng’ đang cố vội vã tăng tốc.
Lúc này gã có quyền năng thực sự, hơn hẳn những con người kia. Tiếng nhạc trong không khí thơm thoang thoảng của cửa hàng bách hóa bỗng ngừng bặt. Bây giờ là gì đây?
‘Có lệnh khẩn cấp của cảnh sát, Saks đại lộ Năm đóng cửa. Mời quý khách đến lối ra gần nhất và xin hãy bình tĩnh. Quý khách sẽ không gặp gì nguy hiểm.’ Gã Ngăn nắp không nén được cười.
Bây giờ họ sẽ chơi bản nhạc của gã.
Gã chẳng đã trau chuốt những thôi thúc đen tối của mình đó sao? Thay hình đổi dạng chúng, làm chúng trở thành sở thích của gã.
Gã là một ông chủ.
Gã rút Wet-Nap trong túi ra. Bàn tay gã vẫn hơi run lúc xé mở nó, nhưng lúc bôi lên mặt, gã vững vàng như một tảng đá.
Rồi gã gọi về nhà, nói chuyện với vợ và các con.
“Anh ổn mà, Helen. Anh không gặp gì nguy hiểm đâu.”
8
Stephen Hopkins ngồi một mình trên chiếc ghế dài trong Điện thờ Đức Mẹ nhỏ, đằng sau ban thờ chính. Ông vùi đầu vào đôi bàn tay. Ông gần như mừng vì Caroline không ở quanh quất đâu đây, chứng kiến những chuyện xảy ra vì cái chết của bà. Bà là người nhân hậu, nó sẽ làm bà bị tổn thương sâu sắc, và như thế là không phải với Caroline.
Có khoảng ba chục con tin tản mát trên các ghế dài quanh ông. Ông nhận ra nhiều gương mặt, những người nổi tiếng trong lĩnh vực của mình, những con người hào phóng đã cùng Caroline làm từ thiện và nhiều việc tốt đẹp khác.
Ông ngước nhìn ba tay súng bịt mặt, đứng đằng trước Điện thờ Đức Mẹ. Những thằng khốn đó luôn luôn cảnh giác. Chúng khiến ông nhớ đến những binh lính từng bao quanh ông. Bọn chúng có phải là lính không? Hay là cựu quân nhân?
Chúng làm việc này vì động cơ chính trị sao? Khi bắt đầu bị khống chế, ý nghĩ đầu tiên của ông đấy là bọn khủng bố Trung Đông, nhưng rõ ràng những tên này đều là người Mỹ. Chúng muốn cái quái quỷ gì thế? Làm sao chúng lại trở nên vô liêm sỉ đến vậy? Và không sợ chết?
Một tên cướp vạm vỡ, thấp người, bước vào lối đi giữa, hắng giọng rất kịch: “Chào các vị. Tôi là Jack. Các vị có thể gọi ông bạn to lớn, xấu tính của tôi ở đằng kia là John Bé. Chúng tôi chân thành xin lỗi đã cầm chân các vị như thế này. Ai cần sử dụng nhà vệ sinh xin cứ giơ tay lên, và sẽ được tháp tùng. Có cả đồ ăn và nước uống. Xin cứ giơ tay. Các vị cứ tự do nằm trên ghế dài hoặc trên sàn ở phía sau. Nếu các vị hợp tác, mọi sự sẽ suôn sẻ. Nếu không, thì hậu quả sẽ rất khó lường đấy. Tùy các vị lựa chọn.”
Tên đê tiện này là ai mà giảng giải cho họ như thể họ là học sinh bị phạt vậy? Stephen Hopkins đứng lên cùng lúc với thị trưởng New York. Vị thị trưởng lại ngồi xuống.
“Tất cả chuyện này là gì vậy?” Ông giận dữ nói. “Các người muốn làm gì chúng tôi? Tại sao các người lại làm nhục vợ tôi?”
“Thưa Tổng thống,” tên cướp nói và mỉm cười lúc bước xuống lối đi. “Nói năng kiểu này không ăn thua gì đâu. Tôi sẽ lễ độ theo cách của tôi. Tôi chân thành đề nghị ngài làm y như thế.”
Khớp đốt ngón tay của Stephen Hopkins trắng bệch lúc ông nắm chặt cái lưng ghế đằng trước. Ông không quen bị bất cứ ai nói năng kiểu này. Không quen trong một thời gian dài.
“Ồ, tôi xin lỗi,” ông nói. “Ông muốn lịch sự. Vậy xin quý ông đeo mặt nạ trượt tuyết hạ cố nói cho mọi người biết vì sao ông ta lại giữ họ làm con tin chứ?” Vài con tin trên các hàng ghế bật cười lo lắng và ngồi thẳng người hơn. Tên cướp cầm đầu nhìn cả nhóm. Hắn cũng cười. Rồi hắn ngả người và túm lấy mái đầu đầy tóc bạc của cựu Tổng thống.
“Tại sao, tại sao, tại sao ư?” Hắn nói vào tai ông. “Đấy luôn là mặt yếu nhất của ông, ông bạn Stevie. Lúc nào ông cũng phải trí thức hóa mọi sự.” “Đồ chó đẻ,” Hopkins quát lên, một phần vì đau. Ông cảm thấy tóc mình như đang bị giật khỏi sọ. Tên Jack bé nhỏ này rất khỏe.
“Giờ mi dám gọi mẹ tao là chó ư?” Jack nói. “Có lẽ mi quên cái đít được bợ đỡ, hôn
hít quá nhiều của mi cũng có thể bị đá lắm chứ? Thằng khốn, mi dám vô lễ với tao, tao sẽ đá cho mi lòi ruột và bắt mi ăn.”
Jack lôi sềnh sệch cựu Tổng thống vào lối đi giữa hai hàng ghế. Cuối cùng, hắn buông ông ra, và Hopkins nằm lịm trên sàn.
Tên cướp thở ra một hơi thật dài, và mỉm cười với các con tin khác. “Thấy chưa? Hắn dám chọc giận tôi,” Jack nói. “Giờ các vị đã thấy một điểm yếu của tôi.”
Sau một lúc lâu suy nghĩ, hắn hất ngón tay cái vào cựu Tổng thống. “Ông Tổng thống, ông biết gì không? Hôm nay, ông đã nếm đủ rồi,” hắn nói. “Tại sao ông không về nhà đi? Ông được thả! Đưa hắn ra khỏi nhà thờ của ta.” Hai tên cướp thô bạo tóm khuỷu tay vị cựu Tổng thống và đẩy ông thật nhanh vào phần chính của nhà thờ, ra thẳng cửa trước.
“Nói thật với mi, Hopkins,” Jack quát với theo cựu Tổng thống. “Sau khi gặp mi rồi, ta thực sự mừng vì đã bầu cho Nader. Cả hai lần.”
• • •
John Rooney, người được tờ LA Times khẳng định là ‘nghệ sĩ phim hài của thập kỷ’, đang cầu nguyện. Dù có sai lầm hay không, anh là người Công giáo, và đang ngồi im lặng trên ghế dài, thầm cầu nguyện Chúa Trời toàn năng đập chết toán cướp.
Cầu nguyện được nửa chừng, anh dừng lại khi có một cái gì đó nhỏ và sắc đập vào bên cổ. Lúc nhìn xuống, anh thấy một nùi giấy gấp gọn trên ghế cạnh mình. Cái quái gì thế này?
Cục giấy là một tờ xé ra từ cuốn thánh ca. Một người nào đó đã viết bằng mực đen MỞ RA ngay dưới các nốt nhạc.
Rooney giấu bức thư vào trong lòng bàn tay lúc ngước nhìn những tên cướp canh gác. Tên to con nhất - John Bé chăng? - ngồi vắt vẻo trên ban thờ như thể đấy là cái mui ô tô, há miệng ngáp to đến nỗi Rooney nhìn thấy những cái răng đen sì của hắn. Rooney mở bức thư trên lòng.
ROONEY, TÔI Ở NGAY HÀNG GHẾ SAU ANH. NHÍCH CHẦM CHẬM VÀO GIỮA GHẾ ĐỂ CHÚNG TA CÓ THỂ NÓI CHUYỆN. LÀM THẾ NÀO ĐỂ THẰNG KHỐN Ở ĐẰNG TRƯỚC KHÔNG NHÌN THẤY ANH! - CHARLIE CONLAN.
Rooney nhét bức thư vào túi, ít nhất cho đến khi có thể hủy nó đi. Vài phút sau, anh trượt trên cái ghế dài bằng gỗ tần bì bóng láng.
Lúc đến khoảng giữa ghế, một giọng xào xạo thì thào ở đằng sau: “Lạy Chúa tôi, Johnny. Tôi đã bảo là chậm, chứ không phải là quá chậm.” “Xin lỗi,” Rooney thì thào đáp trả.
“Anh có nhìn thấy việc chúng làm với Hopkins không?” Conlan nói. Rooney gật đầu, dứt khoát.
“Anh nghĩ chúng sẽ làm gì chúng ta?” Rooney hỏi.
“Chẳng có gì hay ho,” Conlan nói. “Tôi bảo đảm với anh. Thứ tôi sợ chính là cảnh sát bao vây nhà thờ này. Thứ duy nhất của những người ấy là bắn hoặc sống để vào tù vì chúng ta.”
“Chúng ta có thể làm được gì đây?” Rooney nói.
“Chống trả,” Conlan nói. “Todd Snow ở hàng ghế sau tôi. Anh ấy đã nói chuyện với tỉ phú Xavier Brown ở sau anh ta. Với anh nữa là bốn người.” “Làm gì đây?” Rooney hỏi. “Anh đã thấy bọn chúng làm gì Hopkins lúc ông ấy vừa mở miệng đấy.”
“Bây giờ hãy đợi đã. Hãy kiên nhẫn. Chọn vị trí cho mình. Bốn chúng ta có thể khống chế một hoặc hai thằng. Chúng ta tiến từ đây. John, chúng ta có thể lựa chọn.”
• • •
Niềm vui được giải thoát khỏi thánh đường của phóng viên Cathy Calvin tờ New York Times nhanh chóng tàn lụi vì nỗi lo, lúc đứng trong hàng người bị cảnh sát thẩm vấn. NYPD dồn tất cả những người bị tình nghi ra khỏi cửa hàng Saks đại lộ Năm và không cho người nào đi, cho đến khi họ được một trong bốn thám tử ngồi ở một hàng bàn gấp sát tường thẩm vấn xong.
Lần đầu tiên Calvin nhận thấy những tháp vi ba của các xe thông tin ở bên ngoài các sợi dây xanh- trắng. Chúng vượt cao lên trên đám đông giống như những cột buồm của hạm đội xâm lược nào đó.
Gượm đã. Cô đang nghĩ gì nhỉ? Phàn nàn gì nhỉ? Cô đang được ở nơi mà những người khác cố tới. Bên trong các sợi dây!
Calvin nhanh chóng tính toán ưu thế vị trí chiến lược của cô. Cô đã ở trong thánh đường trước, trong và sau khi bị chiếm. Cô là nhân chứng của cuộc vây hãm, và nó sẽ biến cô thành vị trí độc tôn.
Lúc đó cô phát hiện ra Carmella, siêu mẫu đồ lót, ở trong hàng, sau cô ba người. Không thuộc danh sách loại A, nhưng là một khởi đầu thuận lợi.
“Carmella đấy à? Chào nhé. Cathy Calvin của tờ Times đây. Cô vẫn ổn chứ? Cô ở đâu lúc chuyện xảy ra? Cô đã nhìn thấy gì ở đó?”
“Tôi ở gần đằng trước, ở bên trái,” cô gái tóc vàng hoe, cao một mét tám mươi nhăm nói đặc giọng Mỹ gốc Áo. “Quan tài của bà Caroline tội nghiệp vừa đi qua hàng ghế của tôi. Zen Eberhard, vệ sĩ của tôi bị bắn vào xương chậu bằng súng bắn hơi cay. Giờ tôi không tìm thấy Eberhard ở đâu. Tôi gọi di động, nhưng anh ta không trả lời. Cô có trông thấy anh ta không?”
Cathy Calvin tò mò ngắm cô người mẫu với chiều cao vượt trội. Có lẽ cô ta đang hoảng. Hy vọng rằng chỉ thế thôi.
“Hừm. Tôi không nghĩ thế,” Cathy nói. “Nghe đồn không phải tất cả các con tin đều được thả. Cô có biết gì về việc đó không? Cô đã nghe được gì?” Cô gái tóc vàng nói:
“Cô có nhìn thấy John Rooney không? Còn Laura Winston hoặc cô nàng hư hỏng Mercedes ra sao? Họ vẫn còn đang ở trong đó. Ông thị trưởng cũng ở trong đó. Bọn cướp chẳng có chút tinh tế nào. Sao chúng lại giữ những người thua cuộc như thế và thả tôi ra kia chứ?”
Thực ra là tỵ nạnh mà thôi, Cathy nghĩ và gật đầu lúc thận trọng quay lưng lại cô người mẫu. Mụ điên này đang than vãn là không còn ở trong đó. Dẫu phòng VIP bị vây hãm, cô ta vẫn muốn ở bên trong. Phải, người nổi tiếng cũng bình thường. Họ giống như bạn và tôi thôi.
Cathy Calvin ngoảnh đi lúc tiếng suỵt lan khắp đám đông. Cô chăm chú nhìn những cái đầu nghển lên, hướng về phía thánh đường.
Phía trên mui một xe rác của Sở Vệ sinh, cô nhìn thấy phần trên cùng cánh cửa chính của thánh đường lại mở ra lần nữa. Chuyện gì đây? Cô chạy tới, chen lấn, xô đẩy, cố tới gần hết mức để có thể làm một tin nóng hổi.
Và lúc đó, lần thứ hai hoặc thứ ba trong buổi sáng hôm ấy, phóng viên tờ Times không thể tin nổi mắt mình.
“LạyChúatôi,”côbuộtnóito.
9
Tôi vẫn đang trong xe trung tâm chỉ huy, thảo luận với Martelli và Mason về chiến thuật thương lượng, thì cánh cửa thánh đường mở tung lần thứ hai. Tôi cảm thấy như có người đổ cả khay nước đá vào lưng áo sơ-mi của mình khi trông thấy người đi ra.
Lạy Chúa. Giờ chúng sẽ làm gì đây?
Một Stephen Hopkins đờ đẫn, đi loạng choạng trên quảng trường lát đá, rồi cánh cửa sập vội lại sau lưng ông. Bọn chúng thả Hopkins ư? Nhưng tại sao? Lại một nước cờ hoàn toàn bất ngờ nữa của bọn cướp, tôi nghĩ và cảm thấy nôn nao. Thật tuyệt khi chúng thả cựu Tổng thống, nhưng cách chúng làm thật không thể đoán trước. Chúng có ý gì đây? Tôi ngờ lắm.
Có tiếng reo hò ầm vang và tự nhiên của cả cảnh sát lẫn dân chúng ở bên ngoài các rào chắn.
“Vào đi,” tôi nghe thấy sĩ quan chỉ huy Will Matthews nói. “Đón Tổng thống. Tôi nhắc lại. Vào đón Tổng thống và đưa ông ấy ra khỏi chỗ này. Nhanh lên!” Mệnh lệnh chưa thoát khỏi miệng ông, sáu cảnh sát thuộc đơn vị Phản ứng nhanh đã đến gần Tổng thống và đưa ông vòng quanh cái xe vệ sinh chắn phố Năm mươi. Tôi đứng, nhìn chằm chằm vào thánh đường qua cửa xe. Những mái vòm gôtic, những bức tường đá xanh xám u ám, kính màu mờ mịt, và giờ đây Stephen Hopkins được thả không chút thương tích.
Tôi phải hiểu cách giải quyết này ra sao đây? Tôi nghĩ đến Maeve và các con. Tôi không hay nại cớ, nhưng tôi đã dành cho họ đủ thời gian chưa? Tôi cần một cơn bệnh nữa sao?
Bàn tay Paul Martelli lần tìm vai tôi.
“Cậu là người xử lý tình hình gay cấn giỏi nhất, Mike ạ,” anh nói như đọc được ý nghĩ của tôi. “Những người bất hạnh trong kia phải chịu trách nhiệm về tình trạng sa lầy này. Không phải là chúng ta. Đừng quên điều đó.”
“Này, anh đã nghe về chuyện một thợ săn thỏ trong rừng có nhiều trợ lý không?” Ned Mason nói từ góc xe moóc.
Tôi ngước nhìn anh. Tôi ngỡ đây là câu nói đùa.
“Không,” tôi lịch sự đáp.
“Họ cử CIA đến trước, đúng không?” Mason nói. “CIA về, nói gián điệp của họ báo cáo không có thỏ và không có rừng. Thế là người ta cử đến Những Thằng ngốc Ba hoa Chết giẫm, và bỗng nhiên, khu rừng bốc cháy và họ báo cáo rằng con thỏ trở nên khôn ngoan, rằng họ nhìn thấy nó đang cầm chiếc bật lửa Zippo. Có biết chuyện gì xảy ra khi người ta lùa NYPD vào rừng không?”
“Không, nhưng tôi không chắc đã hiểu những điều anh nói,” tôi đáp và cười gượng.
Mason vẫn nói. Anh làm tôi kinh hãi hơn những gì tôi nhớ về anh. “Năm phút sau, hai thám tử trở về, kéo theo một con gấu bị còng tay, có một mắt đen to tướng và nói: ‘Xong rồi, ổn rồi. Tôi là thỏ đây.’.”
Martelli nhìn Mason lúc tôi tròn mắt lên.
“Chuyện vui đó không đến nỗi tồi,” Martelli nói. “mọi sự này đều dở.”
10
Eugena Humphrey ngồi bất động và đờ đẫn, nhìn đăm đăm vào những ngọn nến lung linh trước ban thờ. Bà cố chèn vào thời khắc cuối cùng một hi vọng thú vị. Người dẫn chương trình chuyện phiếm của Los Angeles hiểu rằng muốn thoát khỏi thử thách kinh hoàng này, điều trước tiên là phải kiềm chế được cảm xúc. Gần như ngay lập tức, bà chú ý đến dãy nến thờ dọc bức tường phía Nam. Những ngọn lửa trắng bé xíu cháy sau lớp thủy tinh màu vàng và đỏ có một sức mạnh gì đó như bảo đảm, như an ủi.
Mình có thể thoát khỏi chuyện này, bà tự nhủ. Lúc này, rất nhiều người giải cứu đã tập hợp ở bên ngoài nhà thờ. Cả báo chí nữa. Sự kiện giật gân này sẽ phải giải quyết vì một lý do đơn giản là nó phải thế.
Eugena nuốt khó khăn và buột một tiếng thở dài. Sự việc rồi sẽ được giải quyết. Lúc mới bước chân vào thánh đường dự tang lễ, bà thấy các bức tường đá và đá hoa uy nghi ấy quá lạnh lẽo, quá ảm đạm. Nhưng sau khi ngắm nghía các đồ cúng và cảm nhận sự im lặng sâu sắc của nơi này, bà nhận thức được rằng nó mang lại sự ấm áp trong tâm hồn hệt như hồi ở nhà thờ Baptist, Tây Virginia, nơi mẹ bà thường đến mỗi Chủ nhật.
“Lạy Chúa tôi,” một phụ nữ thì thào cạnh bà. “Lạy Chúa tôi. Chuyện kinh khủng này sẽ kết thúc ra sao đây?”
Đó là Laura Winston của tạp chí thời trang New York. Laura tội nghiệp vẫn đang run. Cặp mắt màu xanh xám của bà lồi như thể sắp bắn vọt ra khỏi bộ mặt được phẫu thuật tỉ mỉ. Eugena nhớ là đã cố đưa người phụ nữ chuyên lăng xê mốt này vào chương trình của mình. Bà đã tìm được số điện thoại riêng của Laura và gọi cho Laura để trao đổi ý tưởng của mình – lời tư vấn của người phụ nữ thời trang nhất thế giới về cách chi tiêu thích hợp cho cuộc sống hàng ngày.
Bà vẫn nhớ tiếng cười khúc khích kiêu kỳ trong tai nghe.
“Ồ, ai đã bày cho chị việc này thế?” Winston nói. “Có phải là Calvin không? Hãy bảo với Calvin là tôi sẽ làm việc với Eugena khi nào anh ta đến làm việc ở Gap nhé.” Tệ hơn nữa là ba tháng sau, Winston xuất hiện ở chương trình chuyện phiếm tên là ‘Thời trang cao cấp vừa lòng những người bảo thủ’. Nhưng là làm việc với Oprah, đối thủ lớn nhất của Eugena.
Tuy nhiên, người đàn bà tội nghiệp ấy lúc này có khác gì một đống đất sét nhão? Eugena thương hại nghĩ.
Bà ta từng là người ác ý, nhưng đấy là hồi đó.
Eugena vươn tay qua chiếc ghế dài đang ngăn cách họ.
Còn bây giờ là thế này đây.
Bàn tay đen, mềm mại của bà tìm bàn tay trắng trẻo, xương xẩu của tín đồ thời trang và xiết nhẹ cho đến lúc bà ta ngước nhìn vào mắt bà. Eugena vòng tay ôm lấy người phụ nữ quẫn trí lúc bà ta bắt đầu thở dốc.
“Thôi, thôi nào. Chúng ta đang trong nhà thờ và trong tay Chúa,” Eugena vỗ về. Bà nghe thấy sức mạnh và niềm tin trong giọng nói của mình và lấy làm tự hào. Bà có thể vượt qua chuyện này. Tất cả đều có thể. Bằng cách nào đấy. “Mọi sự sẽ ổn thôi,” bà nói. “Chị sẽ ổn, Laura ạ. Chuyện này nhất định sẽ qua mà.”
“Phải. Nhưng liệu có người nào còn sống không?”
• • •
Laura Winston lau khô nước mắt bằng cái khăn lụa đỏ thanh lịch rút trong túi áo khoác và đang khẽ cảm ơn lòng tốt của Eugena, thì có một chấn động lớn ở phía ban thờ.
Có ai đó vừa đứng phắt dậy!
Nhờ mái tóc vàng hoe rối bù và chiếc váy ngắn màu đen, Laura có thể nói đó là ca sĩ nhạc pop Mercedes Freer, một cô ả trùm nhăng nhít.
Đá hoa ngân lên lúc cô ta đá mạnh đôi giày gót cao mười lăm phân vào đằng sau Điện thờ Đức Mẹ.
“Ngồi xuống, đồ chết tiệt!” Ngay lập tức, một trong mấy tên cướp quát cô ta rất to.
“Mẹ kiếp, tôi có thể nói chuyện với ai đây? Tôi cần nói với sếp của anh, nếu anh thấy chẳng phiền đéo gì,” diva nói, các bức tường nhà thờ dội lại ngôn ngữ tục tĩu của cô ta. “Hãy để tôi nói chuyện với người có trách nhiệm!”
Laura và Eugena cùng những người khác nghển cổ theo dõi cảnh tượng. Cô ả điên rồ này định làm cái quái gì đây?
Lát sau, tên cầm đầu xuất hiện.
“Gì thế?” Jack nói. “Nói chuyện với tôi đi. Vả lại, tôi là fan của cô. Tôi có thể giúp gì đây?”
Mercedes giật một cái hoa tai kim cương, rồi giật nốt cái kia và giơ cho Jack. “Những cái này là hàng Cartier,” cô ta lớn tiếng. “Tôi đã trả một phần tư triệu đô la đấy. Tối nay, tôi có buổi diễn ở Leno, và ghi âm lúc sáu giờ, giờ LA, tôi sẽ phải chạy đến đó kẻo muộn. Anh có hiểu tôi nói gì không? Tôi không phải là chính khách hoặc nhà tu hành, không là gì đại loại thế. Người đại diện của tôi đã bố trí cho tôi hát Ave Maria với những tia nước phun. Anh hãy nhận lấy đi. Đồ thật đấy, và chúng là của anh. Nếu chưa đủ, tôi sẽ gọi điện cho quản lý. Chỉ cần nói một lời. Chúng ta thỏa thuận thế nhé, cưng.”
Eugena nhăn mặt vì cô gái da trắng cố nói năng theo kiểu khu ổ chuột. Sau khi mời cô ta vào chương trình của mình một năm trước, Eugena nhớ đã đọc trong lý lịch, cô ta sinh ra thuộc tầng lớp trung lưu ở New Canaan, Connecticut. Eugena nghĩ đến những cuốn sách dạy diễn thuyết mà bà bê từ thư viện về để cố loại những âm thanh yếu, kém ra khỏi giọng nói của mình. Thật đáng tiếc khi xã hội đảo lộn thế này đây.
Tên cướp giơ đôi hoa tai lên như thể đánh giá chất lượng. Rồi hắn ném cái này tiếp cái kia vào mặt cô gái.
“Thay vào đó,” hắn nói chậm rãi, “cô hãy đặt cái mông dâm đãng của cô xuống ghế.”
Mặt Mercedes tím lại. Rồi cô ta bật ngón tay đánh tách vào mặt tên cướp. “Cái gì dâm đãng?” Mercedes giận dữ nói. “Anh tưởng anh đang nói với ai, hở thằng lùn?”
Ngay tức khắc, tên cướp rút một bình xịt trong túi ra. Hắn túm tóc cô ca sĩ và xịt hết cả bình vào mặt cô ta. Mặt Mercedes rộp phồng lên, cô ta rú lên suốt lúc bị xịt hơi cay.
Khi Mercedes quỵ trên đầu gối, Jack thản nhiên nắm tóc cô và lôi xềnh xệch qua lối đi ở giữa, thẳng tới cánh cửa một phòng xưng tội ở bức tường phía nam. Hắn mở
cửa, quăng mạnh cô gái vào trong rồi đóng sập cửa lại.
“Cục cứt nóng xinh xinh ấy xứng đáng với cứt nóng,” hắn nói với các con tin đang trố mắt. “Còn ai muốn thảo luận về dự định ra đi nữa không?”
Tiếp theo, Jack giậm bàn chân trong không khí im lặng.
“Có lẽ là không,” cuối cùng, hắn nói. “Tốt, vậy hãy lắng nghe đây. Chúng tôi cần bắt đầu phỏng vấn từng cá nhân, vì thế tôi yêu cầu mọi người xếp hàng trước cửa đầu tiên bên phải ở đằng sau Điện thờ Đức Mẹ. Ngay lập tức!”
Eugena đứng dậy và ngoan ngoãn đi cùng những con tin khác. Lúc bước vào lối đi giữa các hàng ghế, bà nghe thấy tiếng Mercedes rên rỉ trong phòng xưng tội. Eugena thương cô gái, nhưng phản kháng bọn chúng thì có được gì đâu? Cô ta có nghĩ đến hậu quả sẽ xảy ra không? Cô ta đang nghĩ gì nhỉ? Eugena nghĩ, chắc cô ta tưởng tên kia sẽ thả. Lần gần đây nhất một người nói không với ngôi sao nhạc pop ấy là bao giờ nhỉ?
Lúc đứng vào hàng phía sau những người khác, Eugena quyết định rằng trong những người ở đây, bà mới là người có khả năng nói chuyện với những kẻ bắt giữ họ. Không ai có cơ hội thành công hơn bà. Dù tốt hơn hay xấu hơn, sự thể luôn theo cách ấy.
Bà liếc nhìn những dãy nến lung linh màu vàng. Có lẽ đấy là lý do mình ở đây, Eugena nghĩ.
Cố thuyết phục là cách của bà để ra khỏi nơi này.
• • •
Charlie Conlan đứng trong hàng người đợi ‘phỏng vấn’, trước một trong các phòng xưng tội che rèm đỏ tía, dọc theo lối đi phía Nam.
Nếu bạn hỏi anh ta, thì các mặt nạ và áo choàng dường như là thứ gì đó hơn hẳn sách lược dọa dẫm hạng bét. Hình như bọn cướp đang cố thể hiện trạng thái hung bạo của nơi này, làm mọi người sợ hãi, khiến họ lúc nào cũng mất thăng bằng. Những chiến thuật hết sức thông minh.
Conlan biết phần lớn các huyền thoại nhạc rock khá là ủy mị. Nhưng ít người có xuất thân như anh. Lớn lên nghèo khổ trên các đường phố buôn bán của Detroit chẳng dạy dỗ anh được tí gì, và cuộc giam giữ dài hạn ở Hanoi Hilton suốt năm 69 đã có hiệu quả khá tốt.
Conlan cố cứng rắn lúc cánh cửa gỗ màu đen mở và một phụ nữ, Marilyn Rubenstein bước ra sau cuộc ‘phỏng vấn’. Conlan thấy cô diễn viên trẻ run rẩy lúc đến gần anh. Mớ tóc vàng hoe của cô đẫm mồ hôi, dính bết vào da đầu, cặp mắt cô đờ đẫn như thể cô vừa bị ép phải chứng kiến một sự việc gớm guốc.
Bắt gặp Conlan há hốc miệng nhìn cô lúc những kẻ canh gác để cô đi qua. “Cứ làm như họ bảo,” cô thì thào khuyên.
“Người tiếp theo,” tên cướp gác cửa gọi bằng giọng chán chường. “Là anh đấy, liệu mà ứng xử.”
Conlan ngập ngừng, rồi bước qua lối bằng đá hoa vào phòng.
Conlan nhận ra ngay đây không phải là một phòng xưng tội. Nó là một phòng thẩm vấn nhỏ. Vài cái ghế gấp, một cái bàn. Một máy pha cà phê và một dãy điện đài xách tay đang sạc trên cái bàn kim loại dọc một bên tường.
Ngồi bên cái bàn kim loại ở giữa phòng là Jack, tên cầm đầu. Hắn ra hiệu vào cái ghế kim loại trống ở bên kia bàn.
“Mời ông Conlan ngồi. À mà tôi là một fan rất hâm mộ ông đấy.”
Conlan ngồi xuống.
“Cảm ơn anh.”
Trên cái bàn ở giữa họ có hai thứ. Một cái còng tay để trong túi nilon và một cuộn băng dính. Conlan nhìn chúng và cố kìm nỗi sợ cứ dâng cuồn cuộn trong bụng. Đừng để lộ, Charlie. Hãy giấu kín trong người.
Jack nhấc một tấm bìa kẹp hồ sơ trên lòng. Cái bút của hắn lách cách. “Nào, ông Charlie Conlan,” hắn nói. “Để tiện cho mọi sự, tôi phải hỏi ông tên và số điện thoại của những người tài trợ cho ông. Các mật mã hay mã số cần thiết, đại loại những thứ hữu ích như thế, để truy cập vào tài khoản của ông.” Conlan cố mỉm cười lúc nhìn thẳng vào mắt Jack.
“Tất cả chuyện này là vì tiền sao?” Anh hỏi. Tên cướp gõ cây bút lên bìa hồ sơ và cau mày:
“Tôi không có thời gian chuyện trò nhăng nhít, ông Conlan,” Jack nói. “Ông có hợp tác hay không nào? Lần cuối cùng đấy.”
Conlan quyết định trì hoãn thêm chút nữa. Để xem chính xác thì chúng muốn gì ở đây.
“Cho tôi suy nghĩ một chút,” anh ta nói và các đầu ngón tay xoa xoa cằm. “À… ờ… Ừm ừm. Nếu không thì sao?”
Jack chậm rãi rút cái còng trong bao ra và đứng dậy. Hắn đến sau lưng Conlan và rất nhanh, rất thành thạo, hắn còng cổ tay Conlan quặt ra sau.
Conlan nghiến chặt hàm, đợi cú đòn đầu tiên. Anh đã từng bị nhổ nhiều răng bằng kìm. Anh hy vọng thằng lùn chó đẻ này phải mang bữa trưa cho mình. Nhưng ngón đòn đầu tiên không tới.
Thay vào đó là tiếng sột soạt và một cái túi nilon úp chụp lên đầu Conlan. Dây xiết lại, rồi sức ép như cái thòng lọng cuộn quanh cổ Charlie Conlan, khép chặt túi thành thứ kín khí. Ngay lập tức, mồ hôi túa ra khắp các lỗ chân lông Conlan. Cái túi nilon bám chặt vào da như xoa mỡ, kêu loạt soạt ùa vào miệng và lỗ mũi lúc anh ta hít một hơi đầy sợ hãi.
“Trong đó hơi nóng phải không, thằng khốn?” Jack rít lên qua màng nilon, sát vào tai Conlan.
Conlan nôn khan. Cổ họng bỏng rát. Ôi Chúa ơi, không. Không thể thế này. Jack ngồi xuống, ngáp và vắt chéo chân lúc Conlan co giật. Sau một hồi lâu, Jack xem đồng hồ.
“Ông có muốn ký vào chương trình đổi-tiền-lấy-ôxy không?” Hắn hỏi. “Tùy ông thôi.”
Nilon sột soạt trong tai Conlan lúc anh ta vội vã gật đầu.
Jack với tay qua bàn, và không khí, không khí tươi mát ùa vào quanh ngón tay đi găng lúc hắn chọc một lỗ nhỏ vào túi.
“Tôi tưởng The Beatles* mới có ảnh hưởng đến ông chứ, Charlie,” Jack nói, hắn cười mỉm lúc gõ các ngón tay lên mặt bàn như gõ trống. “Ông không nhớ ư? Thứ hay ho nhất trên đời là tự do.”
Conlan há miệng và gục đầu xuống bàn thở khò khè. Tập hồ sơ trượt đến cạnh cằm anh ta. Cái bút đặt bên trên.
Hai ý nghĩ xuyên qua não Conlan cùng với ôxy trở lại lúc anh ta nhấc bút. Thứ nhất là cầu nguyện. Thứ hai là nguyền rủa.
Lạy Chúa tôi.
Chúng ta bị ngược đãi đến mức khốn nạn.
11
Vừa ngắt điện thoại với Maeve, tôi đã nghĩ, Mình cần nghe thấy tiếng cô ấy hơn cô ấy cần nghe thấy tiếng mình.
Đúng lúc đó, Steve Reno ung dung vào xe chỉ huy, bưng một hộp các tông đựng bánh mì kẹp và cà phê. Anh đưa tôi một cốc cà phê cùng cái bắt tay. Tôi nhớ rằng Steve khá khó gần. Giống phần lớn các cảnh sát hàng đầu của NYPD, viên sĩ quan cao ráo, tóc dài, vạm vỡ và mưu lược này có vẻ là một người khác thường. Ở bên ngoài cánh cửa ngăn cách, không ai kiên nhẫn và thông cảm hơn, và cũng không ai nhanh nhẹn hơn khi cần đá bung cửa. Steve Reno rõ là một con người bí ẩn. Ba vợ, năm con, sống ở SoHo nhưng lại lái một chiếc xe tải dán nhãn Semper Fi* ở cửa sau.
Đằng sau anh là hai biệt động FBI mặc quần áo dã chiến màu đen. Trong hai người, người thấp hơn có thể từng là thợ hàn, hoặc thầy dạy nghề, ngoại trừ cặp mắt xanh sáng ngời liếc khắp xe và tôi cảm thấy cái lướt của một máy copy loại nhẹ.
“Mike, đây là Dave Oakley của Đội Giải cứu con tin,” Steve bảo tôi. “Người giám sát sinh động của đội ngũ mưu lược vĩ đại nhất.”
“Chúng ta cứ phải giữ nguyên kiểu này hở, Steve? Hôm nay không có sai lầm ngớ ngẩn nào chứ?” Dave nói kèm nụ cười gằn, không hề hài hước lúc tôi bắt tay anh, một bàn tay chai sần. “Số phận các ông bạn bà bạn của chúng ta trong kia ra sao?”
Tôi kể lại rành mạch hết mức có thể. Sự thay đổi duy nhất trên nét mặt Dave là môi mím lại lúc tôi nhắc tới các tiếng nổ. Tôi kể xong, anh khẽ gật đầu. “Hôm nay chúng tôi đã tiến hành công việc cần chuẩn bị từ trước,” cuối cùng Reno nói. “Chúng tôi đã nói chuyện với Đơn vị Đặc nhiệm. Tổng thống Hopkins kể với họ rằng các con tin còn lại bị giữ trong Điện thờ Đức Mẹ, ở mãi phía cuối nhà thờ. Ông nói thêm với vẻ quá ư bình tĩnh rằng chúng không làm gì những người bị bắt giữ. Hình như bọn chúng được huấn luyện cẩn thận và có kỷ luật. Chúng không phải là bọn khủng bố. Chắc chắn bọn chúng là người Mỹ. Một tin mới với tôi.” “Tin mới với tất cả chúng ta,” tôi nói lúc cửa lại mở sau lưng Reno. Một cảnh sát Phản ứng nhanh đội mũ bóng chày cùng một người đàn ông đứng tuổi đội mũ vải tuýt bước vào. Ông già cắp một cái ống hình trụ to bằng các tông. Cái quái gì thế này?
“Tôi là Mike Nardy, quản lý thánh đường,” ông già nói và bật nắp ống hình trụ. “Linh mục bảo tôi mang cái này đến đây.”
Tôi giúp ông ta trải các bản thiết kế ra. Giấy đã cũ, mép ố vàng, nhưng các chi tiết của thánh đường rất rõ ràng. Tôi dùng mấy cái bộ đàm để chặn bản thiết kế lúc mở nó ra, còn Reno, Oakley và chỉ huy Will Matthews cúi xuống xem xét.
Nhìn từ trên xuống, thánh đường St. Patrick trông như một cây thánh giá. Toàn bộ lối vào phía đại lộ Năm ở cuối bản vẽ dài, còn các lối vào ở phố Năm mươi và Năm mươi mốt ở hai bên sườn ngắn hơn. Điện thờ Đức Mẹ giống như phần mở rộng nhỏ ở đầu cánh dài của cây thánh giá, không có lối vào hoặc ra.
“Tôi đã bố trí người bắn tỉa ở Saks trên phố Bốn mươi chín và số nhà 620 đại lộ Năm, ở đằng sau chúng ta,” Oakley nói. “Tôi sẽ phải đưa một người vào phố Madison ở đằng sau để theo dõi Điện thờ Đức Mẹ. Quá tệ, những cửa sổ kính màu kia mù mịt chẳng khác gì bức tường gạch. Ông Nardy, sơ đồ này không nói lên được
gì nhiều. Liệu có đường nào nhìn rõ từ cửa sổ hình hoa hồng vào đằng trước Điện thờ Đức Mẹ ở phần cuối kia không?”
“Một phần thôi,” ông già nghiêm trang nói, một con mắt của ông bị lác. “Tuy vậy, đằng sau ban thờ có nhiều cột và một tấm màn che dài mười tám mét, đó là một cấu trúc kiểu vọng lâu bằng đồng thiếc ở bên trên ban thờ.”
“Thánh đường là một khối nhà dài. Chắc dài khoảng một trăm năm mươi mét?” Oakley nói với người phó của anh. “Chúng ta phải khảo sát xem. Có lẽ máy quay cáp quang có thể xuyên qua một trong các cửa sổ. Đánh dấu nóng cho vũ khí để phân biệt bọn chúng. Đến giờ, chúng ta sẽ tập hợp trước thánh đường, đánh vào cửa sổ hình hoa hồng và các cửa sổ của điện thờ cùng một lúc.”
“Tôi nghĩ chắc tôi nghễnh ngãng,” Nardy, người quản lý nói với Oakley. “Vừa rồi, tôi tưởng anh nói các anh sắp phá hủy cái cửa sổ hình hoa hồng huy hoàng của thánh đường St. Patrick.”
“Ông không cần phải quan tâm đến công việc của cảnh sát được không, ông Nardy?” Oakley nói. “Bao nhiêu mạng sống đang bấp bênh. Chúng tôi sẽ làm việc phải làm.”
“Cái cửa sổ hình hoa hồng ấy đã một trăm năm mươi tuổi, thưa ông,” người quản lý nói và khoanh đôi tay gầy như que củi. “Các cửa sổ của Điện thờ Đức Mẹ, các đồ tạo tác và tượng trong thánh đường đều không thể thay thế được. Các ông sẽ không bắn một lỗ vào sườn pho tượng Nữ thần Tự do chứ? Nhà thờ này là Nữ thần Trung thành của thành phố, vì thế tốt hơn hết là các ông thảo ra kế hoạch khác. Các ông sẽ phải phá nó trên xác tôi.”
“Có ai đưa ông Nardy ra ngoài không,” Oakley nói, bực bội.
“Các ông nên nghe tôi thì hơn!” Nardy nói mạnh mẽ lúc một cảnh sát Phản ứng nhanh áp giải ông ta ra ngoài. “Tôi sẽ đến thẳng chỗ báo chí.”
Đó là tất cả mọi việc chúng ta cần ư? Tôi nghĩ. Thêm một thử thách, thêm một trở ngại. Việc này không quá khó, nếu chúng tôi không bị trói buộc như thế này. Oakley xoay cái mũ bóng chày đen quanh đầu. Trông anh như một người bắt bóng để lỡ một quả tuyệt hay lúc anh thở thật to vào đôi bàn tay khum lại: “Chúa ơi, các anh có ngắm cái chốn tụ tập kia không?” Oakley nói. “Các bức tường đá granit dày đến sáu mươi xăngtimét chứ ít à? Các cánh cửa bằng đồng dày ba chục xăngtimét. Tôi không nghĩ chúng ta sẽ chọc thủng được một cánh cửa to tướng kia, hoặc cái cửa làm bằng đồng thau.”
Kể cả các cửa sổ quý giá cũng có các họa tiết hình mảng bằng đá. Không có những ngôi nhà kế bên để chúng ta có thể từ đó chui qua đường hầm. Nơi này đúng là một pháo đài. St. Patrick chắc là nơi tốt nhất trong thành phố này chặn đứng được một đạo quân. Chúng ta phải thâm nhập vào đó mà không được phá hủy hoặc để lại một vết xước. Có ai nhắc cho tôi biết vì sao tôi nhận việc này không?
“Vì những hợp đồng lén lút béo bở và những thỏa thuận sách vở,” tôi nói. “Giống như bọn tôi thôi.”
Đây là một câu đùa chẳng đâu vào đâu, nhưng trong tình huống như vậy, tôi không cần là người là người tài trí cũng tìm ra lối thoát khỏi sự căng thẳng đang leo thang. Mọi người, kể cả Oakley gan góc, đều bật cười.
Sự thể là thế đấy, hoặc cười hoặc khóc.
• • •
Mười phút sau, chúng tôi đã ở ngoài không khí giá lạnh, nhìn chằm chặp vào ngôi
nhà thờ uy nghi. Lúc chúng tôi đi vòng sang phía bên kia của một trong những xe rác, Oakley nói vào bộ đàm và ra lệnh cho những tay bắn tỉa xoay một góc vào các cửa sổ không thể thay thế được của Điện thờ Đức Mẹ.
Ánh sáng ảm đạm chiếu vào các cửa sổ tầng hai và lối vào hình cung của nhà thờ. Tôi thấy đằng trước thánh đường giống hệt một khuôn mặt to tướng: rộng, mắt đen và khuôn miệng rất lớn, đang há hốc dường như giận dữ và sửng sốt.
Tôi đứng chết sững và suýt rút khẩu Glock ra khi những tiếng chuông bắt đầu ngân vang. Tôi ngỡ lại là một chiêu mới của bọn cướp, cho đến khi liếc nhìn đồng hồ và thấy đã mười hai giờ trưa.
Những tiếng chuông là thứ thiết bị bấm giờ, là hồi chuông cầu kinh Đức Bà, nhắc nhở những người ngoại đạo đang bận rộn cầu nguyện cho sự thành tâm đặc biệt nào đó mà tôi không sao nhớ ra. Nếu những tiếng chuông không gợi nên một châm ngôn chung của bài kinh rôze, ít nhất cũng làm cả đám cảnh sát, báo chí và những người đứng xem im bặt.
Mỗi hồi chuông dài, ngân vang như báo trước điềm gở cho các tảng đá, nhôm và kính của các tòa nhà chọc trời xung quanh.
Tôi nhìn khắp đám đông lúc một ý nghĩ chợt đến. Tôi nhận thấy viên quản lý Nardy đang trò chuyện với một cô gái ở rào chắn bên kia phố Năm mươi. “Ông Nardy, chùm chuông ở chỗ nào vậy?” Tôi nói lúc chạy tới chỗ ông ta, ngắt quãng cuộc nói chuyện của ông với cô gái.
Ông ta nhìn tôi chằm chặp rồi mới trả lời:
“Ở ngọn tháp phía Bắc,” ông ta nhăn nhó nói.
Tôi ngắm tòa tháp hình nón bằng đá, gồm ba mươi tầng trang trí công phu. Cao khoảng ba chục mét, tôi nhận thấy các thanh gỗ màu xanh trông giống như các cánh chớp bằng đồng thau đã bạc màu.
“Có lối đến chỗ treo chuông từ bên trong không?” Tôi hỏi Nardy. Người quản lý gật đầu.
“Có một cầu thang bằng gỗ cũ, có từ thời còn kéo chuông bằng tay.” Nghe chừng liều lĩnh, nhưng nếu chúng tôi có thể leo lên đấy bằng cách nào đó, rồi có thể lặng lẽ cạy lỏng một số thanh đồng và lọt vào trong.
“Từ dưới nhà thờ, có thể nhìn thấy bên trong tòa tháp phía Bắc ấy không?” Tôi hỏi.
“Sao kia?” Cô gái đang nói chuyện với Nardy hỏi. “Các ông cũng định thổi bay cả nó đi ư? Thưa thám tử…?”
Đến lúc này, tôi mới nhận ra thẻ nhà báo New York Times trên ve áo khoác của cô ta. Khả năng quan sát thính nhạy của tôi trỗi dậy.
“Bennett,” tôi nói.
“Vâng, ông Bennett. Ông ở Bắc Manhattan phải không ạ? Tôi có nghe danh ông. Ông Will Matthews định làm thế nào?”
Giống hầu hết cảnh sát, tôi không thể chịu nổi lý lẽ ‘dân chúng có quyền được biết’ mà cánh báo chí thích quẳng ra lung tung. Tôi có thể chịu được, nếu sự cao quý của nhà báo không gắn kèm thẻ ghi giá tiền. Lần cuối cùng, tôi muốn cản trở họ bán rẻ báo chí.
Tôi trưng cái bộ mặt khó chịu nhất của cảnh sát ra cho cô gái thạo tin kia. Tuy nó dữ chẳng kém gì mặt chỉ huy Will Matthews, song dường như cô ta không hề bối rối chút nào.
“Sao cô không hỏi thẳng ông ấy?” Cuối cùng, tôi nói.
“Tôi sẽ hỏi. Nhưng ông ta đang gọi bộ đàm. Có chuyện gì vậy, thưa thám tử? Không ai biết gì sất ư?” Cô ta hỏi, giọng nói có học thức chuyển thành giọng New
York. “Hay không có ai dám nói?”
“Sao cô không chọn câu trả lời cô thích nhất,” tôi khuyên và quay đi. “Hừm. Nói đến lựa chọn, tôi tự hỏi tổng biên tập của tôi có thích đầu đề SAI LẦM VỀ AN NINH NGỚ NGẨN NHẤT TRONG LỊCH SỬ THẾ GIỚI không đây? Hoặc có thể là NYPD NÉM BÓNG LÊN CÁC BỨC TƯỜNG ĐÁ?” Cô phóng viên tạp chí Times nói. “Nghe hấp dẫn đấy chứ. Ông nghĩ sao, thám tử Bennett? Cho cả tờ New York Post nữa?”
Tôi nhăn mặt, nhớ tới lời Will Matthews vừa nói. Anh sẽ không ưng nếu tôi tự ý gây thêm sức ép cho NYPD.
“Cô Calvin, cô nghe đây,” tôi nói và quay lại. “Chúng tôi không đặt sai chân ở đây đâu. Tôi sẽ nói cho cô, lẽ tất nhiên, nhưng không được ghi âm*. Đồng ý không?” Cô phóng viên vội gật đầu.
“Về cơ bản, cô biết việc chúng tôi làm cho đến phút này. Chúng tôi đang liên hệ với những kẻ bắt cóc, nhưng chúng chưa đưa ra yêu cầu. Ngay khi được biết và được phép, tôi sẽ cho cô mọi thông tin có thể, được chưa? Nhưng ngay lúc này, chúng tôi đang khủng hoảng. Nếu những kẻ tâm thần ở trong kia có radio hoặc tivi và biết loáng thoáng việc chúng tôi định làm, những người trong đó sẽ chết. Những nhân vật rất quan trọng.”
Lúc quay đi, tôi thấy Ned Mason trong cửa xe đang vẫy tôi rối rít. “Tất cả chúng ta phải hợp lực trong chuyện này,” tôi hét lên qua vai lúc bắt đầu chạy.
• • •
Tôi vừa đến ngưỡng cửa, Mason đã đưa cho tôi chiếc điện thoại đang reo. “Mike đây,” tôi nói.
“Mike hả. Chào ông bạn,” Jack nói. “Có chuyện gì mà để chuông reo lâu thế? Anh ngủ thiếp đi hay sao? Nếu tôi không biết anh tử tế đến thế, có lẽ tôi đã nghĩ anh đang bận mưu mô chống lại tôi hoặc đại loại như vậy.”
“Cảm ơn vì đã thả Tổng thống,” tôi chân thành nói.
“Ồ, có gì đâu,” Jack nói. “Đấy là việc tối thiểu tôi có thể làm. Nghe đây, tôi gọi vì tôi đã thu thập những yêu cầu và tôi nghĩ có lẽ sẽ gửi qua e-mail cho anh. Có được không? Nói thật là tôi thường gửi thư theo lối thông thường, nhưng anh biết đấy, bưu điện trong những ngày nghỉ hỗn độn chẳng khác gì vườn thú.”
Jack nói với tôi, giả vờ tự nhiên khiến tôi điên tiết. Khóa huấn luyện thương lượng phần lớn dựa trên cơ sở những kẻ nguy hiểm thản nhiên thực ra rất quẫn trí, những kẻ nói cắn cảu là đã rất bực mình.
Nhưng Jack chẳng có gì giống thế, ngoài sự khôn ngoan đến tự phụ… một kẻ giết người chăng?
Theo cách nói của NYPD, phải xin lỗi những con chó nòi, bọn tội phạm - là người nhưng đã mất tính người - được gọi lóng là ‘chó lai’. Lúc đứng đó, điện thoại trong tay, tôi tự nhắc mình Jack là tất cả những thứ đó trộn lại. Một con chó lai khôn khéo, có lẽ là một con chó lai thạo đời, nhưng vẫn là ‘chó lai’ đúng nghĩa.
Tôi kìm sự giận dữ bằng cách tưởng tượng đang đấm đá hắn, túm cổ hắn mà kéo lê qua những người hắn đang hăm dọa. Tôi biết đó là việc sẽ xảy ra. Chỉ là vấn đề thời gian, tôi nghĩ lúc một nhân viên kỹ thuật đưa cho một địa chỉ e-mail. “Được, Jack ạ,” tôi nói. “Đây là địa chỉ của chúng tôi.”
“Tốt,” Jack nói sau khi tôi cho hắn những chi tiết trên website của NYPD. “Một,
hai phút nữa chúng tôi sẽ gửi thứ đó. Tôi muốn để anh thấm thía rồi sẽ gọi lại sau. Thế nào?”
“Nghe hay đấy,” tôi nói.
“Ồ, mà này Mike?” Jack nói.
“Gì vậy?” Tôi hỏi.
“Tôi thực sự cảm kích về mọi sự hợp tác. Chúng ta sẽ làm thế. Mọi việc suôn sẻ kiểu này, sẽ có một Giáng sinh vui tươi, thiêng liêng,” Jack nói và ngắt máy.
• • •
“Nó đây rồi,” một trong những cảnh sát khá trẻ ngồi trước laptop ở cuối xe, gọi bằng giọng cao vút của một lễ sinh. “Thứ các ông yêu cầu đang đến.” Tôi chạy đến cuối xe.
Lúc nhìn màn hình, tôi không thể tin vào mắt mình. Tôi đợi một con số, nhưng lại xuất hiện một thứ trông như một bảng tính dài, rắc rối.
Dưới lề bên trái là họ, tên đầy đủ của ba mươi ba con tin.
Cạnh từng tên là khoản tiền chuộc từ hai đến bốn triệu đô la, kèm theo các đầu mối liên lạc: tên luật sư của con tin, tên đại diện, ông bầu, tên vợ hoặc chồng và số điện thoại tương ứng.
Cuối tờ giấy là một con số gửi ngân hàng và những chỉ dẫn rất rõ ràng cách gửi tiền vào tài khoản qua Internet.
Tôi không thể tin nổi chuyện nhảm nhí này. Thay vì thương lượng trực tiếp với chúng tôi, bọn cướp lại giao dịch tận gốc, cụ thể là các con tin giàu có. Trung úy Steve Reno bẻ khớp ngón tay kêu răng rắc ở sau tôi.
“Bọn chúng vô hiệu hóa chúng ta trước,” anh giận dữ nói. “Bây giờ chúng biến ta thành kẻ chạy việc vặt cho chúng.”
Steve nói đúng. Bọn kẻ cướp này hành động như chúng tôi không tồn tại. Chúng hành động đúng kiểu một tên bắt cóc ở một địa điểm bí mật, chẳng hề giống mươi hoặc mười hai tên bị cả một đội quân hành pháp NYPD và FBI trang bị chu đáo bao vây.
“Chúng ta cứ cho một số người ở đây bắt đầu đọc những con số này và chuẩn bị các việc này,” chỉ huy Will Matthews nói. “Và chuyển số tài khoản này cho Cục. Để xem họ có thể dò ra hộ chúng ta không.”
Tôi nhắm mắt và gõ gõ chiếc di động vào đầu xem có nghĩ ra điều gì không. Chẳng thấy gì, tôi bèn nhìn đồng hồ. Nhầm to. Chỉ mới bốn tiếng đồng hồ trôi qua. Vậy mà tôi cảm thấy mệt lử như đã bốn tuần.
Có ai đó đưa cho tôi cốc cà phê. Trên cái cốc giấy in con tuần lộc và ông già Nô en tươi cười. Trong giây lát, tôi nghĩ sung sướng biết bao nếu rốt cuộc tôi được về nhà. Tiếng nhạc Giáng sinh nổi lên du dương lúc Maeve hướng dẫn mười quỷ con của chúng tôi trang trí cây thông.
Lúc đó tôi chợt nhớ ra nhà mình chưa có cây thông. Và không có Maeve. Tôi đặt cốc cà phê xuống và nhặt một tờ in những yêu cầu, ngón tay tôi hơi run khi lướt xuống danh sách các con số để liên hệ.
NYPD giỏi giang và vẻ vang sẽ làm nhiệm vụ người đưa tin.
12
John Rooney nhấc cằm khỏi bàn tay lúc một thứ gì đó cứng rắn thúc mạnh vào sườn. Anh liếc nhìn và thấy John Bé đang giơ dùi cui.
“Chà chà, ông hoàng hài kịch,” hắn nói. “Ta sắp chán chết lên đây. Đến lúc anh đứng lên ban thờ kia và giải trí cho chúng ta tí chút. Nói gì đi chứ, hả?” “Tôi thực sự không có tâm trạng nào,” Rooney nói và lại gục đầu xuống. Răng Rooney đánh vào nhau rất to lúc John Bé lấy đầu dùi cui gõ yêu một cái vào cằm anh.
“Đây là động lực cho mi,” John Bé nói. “Hãy đứng lên kia và làm cho ta cười như một con linh cẩu. Hoặc là ta sẽ đập vỡ toang cái sọ được tặng giải Oscar của mi.” Lạy Chúa tôi, Rooney nghĩ lúc anh tiến đến chỗ ban thờ và nhìn chằm chằm vào các con tin khác. Một vài người vẫn đang khóc. Chỉ có điều, ai cũng mở to mắt, sợ hãi.
Làm sao tác động được đến đám đông này là cả một vấn đề. Thêm nữa, anh không tấu hài đã tám năm nay, kể từ khi đóng phim. Ngay cả hồi ấy, những câu đùa của anh cũng phải tập đi tập lại trước gương trong phòng tắm ở căn hộ riêng, tập đến nôn nao cả người.
John Bé ngồi ở hàng ghế sau, ngoáy ngoáy cái dùi cui ra hiệu.
Làm sao có thể vui cười trong tình cảnh này? Nhưng anh nào có được lựa chọn? “Này, hỡi mọi người,” Rooney cố gắng. “Cảm ơn vì sáng nay đã đến đây. Johny cũng ở đâ-â-â-ây!”
Anh nghe thấy một người phụ nữ bật cười. Ai thế nhỉ? Đó là Eugena Humphrey. Bà thật tốt bụng!
Lúc đó, Rooney cảm thấy trong người có tiếng tách như bật công tắc. “Này Eugena, EM đang làm gì đấy, em yêu,” anh nói, bắt chước câu mở đầu chương trình buổi sáng của bà. Lúc này Eugena cười phá lên thực sự cùng vài người khác. Charlie Conlan cười ngoác cả miệng.
Rooney giả vờ xem đồng hồ.
“Ta hãy nói về một buổi lễ Misa dài lê thê,” anh nói.
Thêm nhiều tiếng cười hơn.
“Các bạn có biết tôi ghét nhất cái gì không?” Rooney nói, hiên ngang đi tới đi lui trước bàn thờ. “Các bạn không thấy tức tối khi đến đám tang một người bạn rồi bị bắt cóc ư?”
Rooney cười thầm cùng với nhiều tiếng cười khúc khích, rồi ngừng thật lâu để gây hiệu quả. Lúc này anh đã nhập vai khá nhuyễn. Anh có thể cảm thấy mọi sự thông qua hệ thần kinh.
“Ý tôi định nói là, các bạn đến đó, ăn vận bảnh bao, hơi buồn cho người qua đời, nhưng cũng vui vui vì không phải là mình, bỗng ầm! Các bạn không biết là gì ư? Các thầy tu ở ban thờ bỗng rút phắt súng đã cưa nòng và lựu đạn ra.”
Bây giờ thì gần như tất cả đều cười. Kể cả vài tên cướp ở hàng ghế sau cũng cười khúc khích. Tiếng cười lan xa như sóng đập vào các bức tường đá. Rooney bắt đầu ngân nga một bài thánh ca Gregoria và bắt chước động tác rút súng. Anh nhăn nhó sợ hãi rồi chạy tới nấp sau ban thờ.
“Đây, xin hãy nhận đôi hoa tai kim cương này để tôi có thể bay đi,” anh nói, bắt
chước Mercedes Freer năn nỉ. Rồi anh lăn tròn trên sàn đá hoa, ôm mặt và rên rỉ như một con Chihuahua* bị thương.
Lúc liếc nhìn đám đông, anh thấy nụ cười ở khắp nơi. Ít ra, cuộc trình diễn của anh cũng làm mọi người thoải mái chút xíu. Anh phát hiện ở đằng sau điện thờ, John Bé gập người lại làm đôi, hai tay ôm lấy mạng sườn.
Cứ cười đi thằng khốn, Rooney nghĩ và quỳ xuống. Ta đã kiếm được hàng triệu vì tiếng cười. Bọn mày cứ đợi đấy, rồi sẽ được nghe chuyện về một tên bắt cóc sắp lên ghế điện.
• • •
Từ phía sau điện thờ, cựu ngôi sao nhạc Rock-and-Roll Charlie Conlan giả vờ cười màn tấu hài của John Rooney trong lúc quan sát từng tên cướp.
Dọc theo chấn song đằng sau điện thờ là sáu tên cướp. Tên to lớn, John Bé ở đấy, nhưng tên cầm đầu cùng năm hoặc sáu tên khác hình như đang ở đâu đó trong nhà thờ.
Lúc các con tin khác vẫn cười vì trò vui của Rooney, Conlan cố hết sức nhớ lại một số điều đã được huấn luyện trong quân đội. Anh đếm số lựu đạn trên ngực bọn bắt cóc, đánh giá các khẩu súng chúng cầm, những cái dùi cui, chỗ phồng lên ở eo áo khoác, nơi tận cùng của áo chống đạn.
Anh trượt một quãng trên ghế, không quá lộ liễu, không thu hút sự chú ý nào. “Todd,” anh thì thào.
“Gì thế?” Ngôi sao bóng đá của đội New YorkGiants thì thầm gần tai anh. “Brown có đi cùng chúng ta không?” Tỷ phú bất động sản là người to lớn, vóc dáng vẫn khá khỏe khoắn ở độ tuổi năm mươi.
“Anh ấy đang rất rối trí,” chàng cầu thủ đáp. “Anh ấy đã nói chuyện với Rubenstein. Rubenstein sẽ thử vận động thị trưởng.”
Conlan rất mừng vì chàng cầu thủ bóng đá cùng tham gia với họ. Hơn hẳn cả bọn, vận động viên này cao một mét chín, nặng 105 kilô là một đối thủ nặng ký, và là người có thể lực áp đảo nhất đối với một trong những tên cướp.
“Thế là tiến bộ rồi,” Conlan nói với Snow qua khoé miệng. “Thêm Rooney, ít nhất chúng ta có năm người. Càng nhiều người càng thêm cơ hội.”
“Chúng ta sẽ làm gì?” Chàng cầu thủ hỏi.
“Nói riêng với anh thôi nhé. Anh có biết bọn chúng đã đùa giỡn chúng ta như thế nào không? Chúng tước hết điện thoại di động và ví của chúng ta,” Conlan nói. Anh ngừng vì Rooney kể một chuyện vui khác.
“Chúng bỏ quên một khẩu hai mươi hai li trong ngăn của tôi,” Conlan thì thào. Anh đã nói đến nó rồi, anh nghĩ. Anh không biết bắn, nhưng cái thứ để sót kia sẽ giữ vững tinh thần cho mọi người, khiến họ hy vọng và thúc đẩy họ hành động khi thời cơ đến.
Conlan liếc lên ban thờ khi nghe thấy tiếng vỗ tay. Lúc này Rooney cúi chào. Buổi diễn đã kết thúc.
“Chúng ta thử xem,” chàng cầu thủ nói trong tiếng vỗ tay. “Nói đi chứ. Chúng ta đi. Chúng ta lăn.”
13
Gã Ngăn nắp nhăn mặt khi đưa bàn tay đeo găng thăm dò đằng sau bốt điện thoại công cộng trong các kiốt ở góc phía tây bắc phố Năm mươi mốt và Madison. Mùi khai nồng của nước tiểu bốc lên từ đáy bốt điện thoại làm gã chảy nước mắt lúc mò mẫm xung quanh. Nó ở chỗ quái nào vậy?
Mò khắp các chỗ đã hẹn, cuối cùng các ngón tay gã tìm thấy sợi dây kim loại bọc nhựa ở đằng sau cái hộp thép.
Kế hoạch của chúng có một điểm nổi bật nữa, gã nhận thấy lúc lật cái đĩa số đặt trên hai sợi dây màu giấu kỹ. Ba tuần trước, người của gã đã luồn đôi dây điện thoại này vào một ống dẫn trên phố tới tầng hầm nhà linh mục, vào lỗ của công ty điện thoại ở góc phố, và từ lỗ vào ống dẫn của bốt điện thoại công cộng này. Lường trước rằng mọi điện thoại di động và các cuộc gọi đến rồi đi từ nhà thờ sẽ bị kiểm soát, bọn chúng đã tạo một đường dây riêng cho mình.
Gã Ngăn nắp xem đồng hồ lúc nhấc đĩa số lên áp vào tai.
Đúng sáu giờ chiều, có tiếng lạo xạo lúc một trong những tên cướp trong nhà thờ St. Patrick cắm thỏi pin 9 vôn vào đầu dây bên kia để nạp điện. Thay vì sử dụng kỹ thuật cao, bọn chúng đã láu cá tạo đường dây riêng bằng kỹ thuật thấp. Gã rất giỏi nguỵ trang, đạt tới trình độ siêu đẳng mà vẫn thoát, gã phải thừa nhận mình là một tay thực sự cừ khôi.
Gã Ngăn nắp khẽ huýt sáo bài O Come, all ye faithfull, một giai điệu ưa thích của gã.
“Cậu có đấy không, Jack?”
“Thì còn ở đâu nữa? Ở chỗ cậu thế nào rồi?” Jack trả lời.
“Lúc cậu gửi ra đợt đầu tiên,” gã Ngăn nắp cười mỉm và nói, “bọn chúng vẫn hoàn toàn mù tịt. Cùng loại với Hopkins ấy mà. Chúng đang lắc đầu không tin.” “Nghe khoái tai thật,” Jack nói.
“Cuộc phỏng vấn các ông bà bạn giàu có của chúng ta ra sao rồi?” “Cực nhiều thông tin hay ho,” Jack nói. “Vấn đề là bây giờ lực lượng hành pháp có ngớ ra và lo cuống lên vì thời gian chúng ta cần cho việc này không?” “Căn cứ vào những thứ tớ quan sát được,” gã Ngăn nắp nói và cười lớn, “thì bọn chúng còn phải vò đầu bứt tai đến Giáng sinh năm sau.”
“Tha lỗi cho tôi vì không thể cười cùng với cậu được,” Jack lạnh lùng nói. “Vì nhiều lý do, mọi sự chẳng có gì đáng cười khi phải ở bên trong bức tường bị các khẩu súng lăm lăm chĩa vào.”
“Tất cả chúng ta đều phải đóng một vai trong việc này,” gã Ngăn nắp nói. Cộng sự Jack của gã trong vụ này là kẻ suốt đời lo nghĩ. Không phải là phẩm chất hấp dẫn nhất của hắn.
“Thôi được, nếu tôi là cậu, tôi sẽ ngắt đường dây mà không quá tự tin,” Jack hằm hè nói rồi ngắt đường dây riêng của chúng.
14
Lúc rời mắt khỏi những ghi chép trong cuộc thương lượng với Jack, tôi thấy bên ngoài cửa sổ nhỏ của trung tâm chỉ huy đã tối mịt. Thời gian cứ trôi. Bên cạnh tôi, Paul Martelli đang bận nói chuyện điện thoại. Ned Mason cũng đang gọi điện. Hơn chục cảnh sát khác, kể cả Steve Reno đang làm việc trên laptop.
Tôi đứng, đưa tay lên chạm vào cái trần thấp vì tôi cao một mét tám. Các yêu cầu đã được gửi đến trụ sở FBI ở New York, số 26 Quảng trường Federal. Văn phòng của Đội Chống Tội phạm đang nghiền ngẫm các con số. Khoản tiền chuộc khổng lồ lên tới gần tám mươi triệu đô la.
Đây là một khoản rất lớn nếu một người phải trả, nhưng nếu chia ra mỗi con tin chịu khoảng hai triệu rưỡi đô-la thì không đến nỗi quá đáng.
Trên thực tế, không thể tin được vì sao những người này lại có vẻ sẵn lòng nộp tiền đến thế.
Vợ hoặc chồng và các thành viên gia đình hầu như cho ngay số của người quản lý tài chính, trước cả khi tôi có dịp giải thích mình là ai. Các công ty quản lý tài năng ở Hollywood không hề lưỡng lự, nộp ngay số tiền cho các khách hàng sinh lời của họ. Ba ngân hàng đầu tư lập tức làm việc ngoài giờ để chuyển tiền.
Một luật sư ở Beverly Hills hỏi số điện thoại của bọn cướp, để ông ta có thể thương lượng trực tiếp được không? Này Jack, ông Marv Begelman từ California muốn nói chuyện với anh.
Việc đó làm tôi khó chịu, nhưng tôi phải đồng ý với những điều Jack nói trước khi đưa ra các đòi hỏi. Các tay tư bản kếch xù này sẵn sàng mua đường thoát khỏi mọi chuyện rắc rối.
Lúc tôi ra ngoài xe buýt để hít thở không khí, thứ đầu tiên đập vào mắt tôi là những máy phát điện chạy diesel đang kêu ro ro. Hiện trường có sáu xe tải loại nhẹ, dễ di chuyển, chiếu sáng thánh đường như đây là quảng trường Times. Trong giây lát, quang cảnh này nhắc tôi nhớ tới một hiện tượng khác đáng buồn lòng của thành phố New York: là hiện trường bắn giết cho các bộ phim - những xe moóc nhàn rỗi, những đường phố bị chặn, nhìn đâu cũng thấy đèn chiếu sáng rực.
Đã đến lúc tới xe phục vụ, tôi nghĩ. Xem liệu có thể kiếm được ít đồ ăn không. Lúc đi về hướng Đông dọc theo phố Năm mươi, tôi thấy các sườn thánh đường cũng được chiếu sáng. Lúc này có nhiều gia đình đi dạo, tay trong tay tới nơi bị chặn. Những du khách má đỏ hồng hào từ khắp nơi trong nước và trên thế giới đổ đến, vừa uống cacao nóng vừa cười lúc bắt gặp cảnh các ngọn nến cháy sáng trong các cửa sổ kính màu nổi tiếng.
Tôi nhận ra một tay bắn tỉa của FBI không nhúc nhích trên mái nhà Saks ở góc phố phía tây bắc đại lộ Năm.
Toàn bộ sự việc này thật điên rồ.
Thậm chí còn rồ dại hơn những kẻ điên kia, chúng tưởng sắp ẵm tiền mà thoát. Làm thế nào đây? Mỗi xăngtimét của thánh đường đều là mục tiêu của những người bắn tỉa ngoài kia. Máy bay quần thảo trên trời, đến mức một chiếc trực thăng chưa chắc đã thoát được. Theo Oakley, giám sát Đội giải cứu con tin, ngôi nhà thờ một trăm năm mươi năm tuổi được xây dựng ngay trên móng đá. Vì thế không có tầng hầm, không có lối ngầm đi ra ngoài.
Tôi cố thuyết phục mình rằng bọn cướp không nghĩ đến màn chót vĩ đại, vì Jack đã vạch kế hoạch thoát thân qua cây cầu đó đúng lúc chúng tôi tới. Nhưng khi đứng giữa đường phố lạnh lẽo, vắng vẻ, mọi chứng cứ đã chỉ rõ sự lựa chọn. Sự táo tợn trong hành động của chúng, niềm tin chắc chắn rằng chúng tôi sẽ làm đúng những điều chúng nói. Mỗi lúc càng thấy bọn cướp hiểu rõ về cuộc ra đi của chúng hơn chúng tôi nhiều.
Tôi đang xoa hai tay vào nhau cho ấm thì chuông điện thoại reo. Tôi chộp lấy đường dây với Jack, quyết đánh một quả chí mạng.
Rồi tôi nhận ra không phải điện thoại của cảnh sát mà là điện thoại của tôi. Tôi tròn mắt khi nhìn thấy số hiện lên là của ông Seamus, ông tôi.
Cứ như thể tôi chưa đủ thứ bận tâm vậy.
“Ông à, cháu đang bận. Có chuyện gì thế ạ?” Tôi chào ông. Có lẽ không phải là câu chào hỏi nồng nhiệt, nhưng lúc này tôi chẳng còn lòng dạ nào mà chúc mừng Giáng sinh nữa. Hơn nữa, chuyện trò với ông, dù ông đã bảy mươi tư tuổi, song vẫn như đi đánh trận vậy. Nếu không tấn công ông ngay lập tức, ông sẽ ăn tươi nuốt sống tôi ngay.
“Chúc cháu buổi tối tốt lành, Michael,” Seamus nói. Tôi hiểu mình đang ở thế tấn công khi dòng dõi Ireland của tôi trở lại dưới dạng tên tôi bằng tiếng Xentơ. Gia tộc tôi lưu truyền rằng ông không chỉ hôn hòn đá Blarney* hàng ngày, mà còn cắn một miếng và nuốt. Hàng ngày.
“Cháu có kiểu nói chuyện đặc biệt dễ thương với người vừa chăm sóc cho cả bầy ngỗng non của cháu,” ông kết luận.
Bầy ngỗng non, tôi nghĩ và trợn mắt. Ông tôi có thể làm cho Malachy* hoặc Frank McCourt* ăn cái mũ bằng vải tuýt của mình. Ông là một người Ireland trong giai đoạn huy hoàng nhất còn sống sót. Ông đến đất nước này vào những năm 1940, ở tuổi mười hai. Đã hơn sáu chục năm kể từ khi ông đặt chân lên ‘đám cỏ già’, ông gọi nước Mỹ như thế, nhưng nếu bạn không hiểu rõ ông, bất cứ lúc nào bạn cũng tưởng như ông vừa cưỡi lừa theo những rẻo đất mọc cỏ để ra khỏi đầm lầy.
Tuy vậy, ông thường xuyên đến, thăm hỏi các cháu chắt. Ơn Chúa, dưới lớp vỏ thuyết giáo dày cộp là một tấm lòng vàng thuần khiết.
“Mary Catherine đâu ạ?” Tôi hỏi.
“Đấy là tên con bé, hở? Chúng ta chưa chính thức giới thiệu với nhau. Sao cháu không kể với ta là bọn cháu nhận nuôi thêm đứa nữa?”
Tôi hiểu ngay. Lời nói bóng gió chết người ấy chỉ là bề mặt. Nếu bạn nhìn kỹ, có thể thấy lưỡi ông Seamus sắc như dao.
“Cô ấy là người tốt, ông ạ,” tôi nói. “Chắc ông phải quan sát cô ấy suốt buổi chiều. Mary Catherine tình cờ trở thành người giúp việc.”
“Người giúp việc. Ngày nay gọi là thế à?” Ông tôi nói. “Hãy cẩn thận đấy, Michael ạ. Một Chủ nhật xưa, bà Eileen của cháu đã bắt gặp ta nói chuyện với một người giúp việc ở góc phố Dublin. Bà ấy đã lấy cây gậy đánh bóng quật ta gãy ba xương sườn đấy.”
“Dublin ư?” Tôi nói. “Buồn cười thật. Cháu tưởng bà ở Queens.”
Lúc ông lắp bắp giải thích, tôi bèn kể với ông bức thư của mẹ vợ tôi và cuộc viếng thăm bí ẩn của Mary Catherine tối hôm qua.
“Ông có quyền trong mọi việc của cộng đồng Ireland,” tôi nói. “Vậy ông sẽ làm gì đây ạ?”
“Ta không ưng chuyện này,” ông nói. “Cô gái này có thể theo đuổi cái gì đó. Theo đuổi đồ bằng bạc chẳng hạn.”
“Cảm ơn những chỉ dạy của ông. Ông đúng là một ông già chúa hay nghi ngờ,”
cuối cùng, tôi nói. “Còn nói đến đàn ngỗng non, cháu không biết đến lúc nào mới rời khỏi đây được, vì thế nhờ ông bảo ban lũ trẻ làm bài tập và bắt đầu làm việc nhà nữa. Những nhiệm vụ của bọn trẻ ấy mà. Chúng sẽ hiểu ý ông.”
“Có phải là cái sơ đồ dán trên tủ lạnh trong bếp không?” Ông tôi hỏi. “Vâng,” tôi nói. “Đúng nó đấy ạ.”
“Đấy là ý tưởng của ai? Của cháu hay của Maeve?” Seamus ngờ vực hỏi. “Của Maeve,” tôi đáp. “Cô ấy cho rằng phân công rõ ràng mọi việc cho bọn trẻ làm là điều hay. Để chúng đỡ nghĩ linh tinh sang các việc khác. Hơn nữa, chúng nó giúp được nhiều lắm. Hai chục bàn tay dù bé bỏng cũng làm được khối việc, đến là lạ ông ạ.”
“Đấy không chỉ là ý hay,” cuối cùng, Seamus vui vẻ nói. “Mà là một ý tưởng vĩ đại. Chẳng có gì lạ khi Maeve chống chọi được với bệnh tật.”
“Giờ ông yên tâm rồi chứ ạ?” Tôi nói và cười cười. Ông tôi yêu quý Maeve chẳng kém gì chúng tôi.
“Hơi hơi thôi,” Seamus nói. “Nhưng ta sẽ gặp cháu sau. Ta sẽ trông nom mọi việc cho.”
• • •
Hiện trường gần như là cơn ác mộng lạ lùng trong lúc bạn vẫn nghĩ, Chuyện này không thể xảy ra. Ta sẽ sớm tỉnh dậy và mọi sự sẽ chấm dứt.
‘Khu vực nguy hiểm’ chỉ toàn cảnh sát, báo chí không được lui tới. Vòng ngoài dành cho các phương tiện truyền thông, các xe của đài truyền hình chiếm ưu thế với những dàn ăng-ten mở rộng. Cảnh tượng trong ‘khu vực tập kết’ là những dây cáp chằng chịt, các phóng viên bên máy tính, hàng chục kỹ thuật viên truyền hình. Chúng tôi sẽ được mời đến các cuộc họp báo để cung cấp tin mới.
Các máy phát điện để chiếu sáng vẫn gầm lên trong giá lạnh lúc tôi bắt đầu đi về xe. Tôi thấy chỉ huy Will Matthews bên trong. Anh thông báo đã liên hệ với luật sư của các con tin, và hiện giờ tình hình được chính thức công bố là một vụ bắt giữ con tin.
“Bây giờ mới là phần gian khổ,” Will Matthews nói. “Đây là lúc ngồi và đợi xem sao.”
“Chào Mike,” Martelli nói lúc đứng dậy. Tuy có mặt ở cuộc vây hãm này ngay từ đầu, anh vẫn không để ý đến nó. “Chẳng có gì là riêng tư đâu, nhưng hình như anh đang bối rối. Sao anh không ra khỏi nơi này một thời gian? Những người này nói họ sẽ không gọi lại trong nhiều giờ, và nếu có gọi, thì chúng tôi – và quan trọng hơn cả, là các con tin trong kia - sẽ cần anh làm dịu tình hình và bình tĩnh lại.”
“Anh ấy nói đúng đấy. Hãy tận dụng dịp này đi. Chúng tôi cần anh tạm nghỉ,” chỉ huy Will Matthews nói. “Đây là mệnh lệnh, Mike ạ.”
Những câu chuyện và suy nghĩ về Maeve trong cuộc đi dạo khiến tôi muốn gặp cô. Bệnh viện Ung thư Trung ương New York chỉ cách khu phố trên hai chục khối nhà, tôi nghĩ. Đi bộ đến đấy cũng không quá xa.
Mình sẽ đến trung tâm ung thư để xả hơi, - tôi hiểu thế.
Tôi để lại số điện thoại di động cho Martelli và tháo phù hiệu trước khi ra khỏi trạm kiểm soát. Vô số phóng viên, đạo diễn, nhà báo và kỹ thuật viên hạ trại hai bên đại lộ Năm, háo hức với viễn cảnh xem biểu diễn miễn phí.
Tôi phải đánh thức một người quay phim vạm vỡ đang ngủ trên cái ghế gấp đặt trước chiếc xe Impala màu xanh của tôi. Tôi nhảy vào trong xe và lao ra đường.
Tôi dừng lại hai lần. Lần thứ nhất là một nơi lộng lẫy, điên rồ gọi là Burger Joint tại hành lang khách sạn Le Méridien ở số nhà 57. Một lát sau, tôi rời đó với một cái túi giấy màu nâu bóng mỡ trong tay. Chỗ thứ hai là hiệu bánh mì Amy ở nhà số 9, và đi ra với một túi giấy khác.
Tôi bật đèn và còi hú lúc rẽ trái vào đại lộ Park. Những cây trạng nguyên và những ngọn đèn trắng viền quanh ở trung tâm, nên có thể nhìn thấy phương Bắc. Những vòng hoa to tướng treo bên trên cửa xoay của các tòa công thự kính sáng lấp lánh, cũng như các cánh cửa đồng đánh bóng của những tòa nhà sang trọng, lúc tôi đi tiếp lên phố trên.
Khi lái xe, tôi không thể không ngắm những tòa nhà cũ cao ngất, bệ vệ, sáng ngời qua ánh bạc cuồn cuộn của đại lộ đầy hơi nước, những bức tường ốp gỗ lấp lánh bên dưới những mái hiên sang trọng.
Lúc đợi đèn xanh trên phố 61, một người gác cửa đội mũ chóp cao tháp tùng một phụ nữ da ngăm ngăm, đẹp lộng lẫy trong chiếc áo khoác lông chồn vizon màu trắng dài chấm gót và một cô bé mặc áo choàng len màu đỏ vào băng ghế da sang trọng của chiếc Mercedes đợi sẵn.
Nhìn đâu cũng thấy vẻ đẹp của ngày lễ khiến ngực tôi đau nhói theo đúng nghĩa đen vì mặc cảm có lỗi. Gần đây tôi bị giằng xé quá nhiều, thậm chí còn không kiếm nổi một cây thông Nô-en.
Chẳng có gì lạ khi vào những dịp lễ lạt lại có nhiều người tự tử, tôi nghĩ khi lốp xe rít lên lúc tránh một xe chở hàng đầy ắp ở góc phố. Giáng sinh đã đến khiến ta muốn nổ tung vì mãn nguyện, rạo rực với một năm đang qua đầy tình yêu mãnh liệt và may mắn.
Mọi thứ thiếu hẳn sự sôi nổi và dường như bất nhã. Thời gian này trong năm thật chán nản, tôi nghĩ và lao xe về hướng Đông, vào một con phố ngang tối tăm và lạnh lẽo; tôi thực sự phát ốm vì buồn và cảm thấy như mình mắc một sai lầm không tha thứ được.
• • •
Maeve dịu hiền của tôi nhắm nghiền mắt lúc tôi bước qua cửa phòng bệnh. Nhưng chắc khứu giác của cô vẫn làm việc vì cô mỉm cười khi tôi rón rén đặt mấy cái túi lên khay màu nâu xám.
“Không,” Maeve nói bằng giọng đứt đoạn. “Anh phải không?”
Tôi cầm cái cốc nhựa lên cho cô uống chút nước. Mắt cô ứa lệ vì đau lúc ngồi dậy. Nỗi đau làm tôi cũng ứa nước mắt.
“Em ngửi thấy mùi thịt băm lẫn phó mát,” Maeve nói rất nghiêm trang. “Nếu đây là giấc mơ và anh đánh thức em dậy, em sẽ không chịu trách nhiệm đâu đấy, Mike.” “Em không mơ đâu, thiên thần của anh,” tôi nói vào tai cô lúc nhẹ nhàng trèo lên giường cạnh cô. “Em muốn ăn thêm hành không?”
Mặc dù Maeve chỉ ăn nửa viên thịt và khoảng một phần tư cái bánh mì nhỏ xíu, má cô trông vẫn ửng hồng, khỏe hẳn lên lúc cô đẩy trả cái túi.
“Anh có nhớ nửa đêm dài lê thê của bọn mình không?” Cô nói.
Tôi mỉm cười. Hồi mới đi chơi với nhau, cả hai chúng tôi đi từ bốn đến mười hai giờ. Lúc đầu, chúng tôi đến một quán bar, nhưng chán ngay, sau đó đến một cửa hàng video rồi đi siêu thị suốt đêm, cứ nhằm lối giữa các quầy thực phẩm đông lạnh mà đi. Cánh gà, bánh pizza, phó mát mozarella - những món ăn có lợi cho sức khỏe. Thói quen là thứ ta cần, miễn là có thể nấu trong lò vi sóng và ăn trong lúc xem một
bộ phim cũ.
Tuy vậy, đó là những thời gian thú vị. Thỉnh thoảng chúng tôi ở lại sau khi ăn, chỉ để nói chuyện, không muốn ngừng, cho đến khi chim hót líu lo ngoài cửa sổ phòng ngủ.
“Em có nhớ những thứ anh hay mang đến cho em không?” Tôi nói. Maeve làm việc tại phòng cấp cứu của Trung tâm Y tế Jacobi ở Bronx, ngay góc các phố Bốn và Chín, phân khu mới tinh của tôi.
Thực ra, trong các cuộc tuần tra, tôi lùa những người bị bắt từ các phố vào phòng cấp cứu chỉ để có dịp gặp cô.
“Anh có nhớ một ông già vô gia cư to lớn, rụng hết răng mà anh đưa vào, cứ ôm ghì lấy anh không?” Maeve nói và cố cười. “Ông ta nói gì nhỉ? ‘Cậu không giống những con gà tây nhắng nhít kia tí nào. Cậu rõ là ân cần.’.”
“Không phải,” lúc này tôi cũng cười với cô. “Ông ta nói: ‘Này cậu, cậu là người da trắng dễ thương nhất mà tôi từng gặp.’.”
Maeve nhắm mắt lại, và thôi cười. Chỉ thế thôi. Chắc trước lúc tôi vào, cô đã uống thuốc và bây giờ nhanh chóng ngủ lịm.
Tôi xiết nhẹ tay Maeve. Rồi tôi cố hết sức ra khỏi giường thật nhẹ nhàng. Tôi dọn dẹp những thứ lộn xộn, nhét chăn quanh vai Maeve rồi quỳ xuống bên cô. Tôi ngắm lồng ngực vợ tôi đang phập phồng. Thật lạ vì đây là lần đầu tiên tôi không cảm thấy giận đời hoặc Thượng đế. Tôi chỉ yêu cô ấy và yêu mãi mãi. Đưa cánh tay lên lau nước mắt, rồi tôi cúi xuống với cô.
“Hãy nhớ lúc em làm anh thay đổi vĩnh viễn,” tôi thì thầm bên tai Maeve. • • •
Lúc rời bệnh viện, tôi kiểm tra điện thoại và thấy tên Paul Martelli. “Vẫn chưa có gì,” anh bảo tôi. “Cứ thoải mái đi. Bọn cướp vẫn ngồi yên. Tôi có số của cậu rồi.”
“Ned Mason vẫn còn đấy chứ?” Tôi hỏi.
“Cậu ta quanh quẩn đâu đây thôi. Chúng tôi muốn cậu tránh đi, Mike.” Tôi theo lời khuyên của Martelli. Rẽ vòng lại rồi rẽ trái vào phố Sáu mươi sáu, nhằm hướng tây về nhà xem bọn trẻ ra sao.
Tuyết bắt đầu rơi nhè nhẹ lúc tôi ở trong bệnh viện với Maeve, bám lên những bức tường bằng đá kết nâu và các đường ống trong Công viên Trung tâm lúc tôi chạy qua, trông như những người làm bánh đang rắc nhẹ đường lên chiếc bánh gừng.
Thành phố chết giẫm, tôi vừa nghĩ vừa lắc đầu, tim tôi tan nát thành muôn mảnh vì vẻ duyên dáng của mùa lễ hội liên miên không dứt.
Liệu ở đâu có một vụ cướp ra trò khi ta cần một vụ không đây?
Lúc tôi bật sóng FM, họ đang chơi bài Silver Bells. Tôi suýt đập khẩu Glock vào bảng đồng hồ thì khúc hát dịu dàng, êm ái bắt đầu cất lên. Tôi vặn to hơn trong suốt đoạn đường còn lại về nhà.
Lúc ra khỏi thang máy, tôi có thể nghe tiếng các con qua cánh cửa căn hộ đóng kín. Chẳng bao giờ là dấu hiệu tốt, tôi nghĩ lúc xoay quả đấm cửa. Trong tiền sảnh, Juliana đang ngồi trên sàn, quay lưng về phía tôi, cười khúc khích vào điện thoại. Tôi trìu mến vỗ nhẹ lên đầu nó rồi rút dây điện thoại khỏi giắc cắm.
“Đi ngủ thôi,” tôi nói.
Tiếp đến tôi ghé vào phòng ngủ của các con gái, bài hát của Mercedes Freer đang
lên đến cao trào. Quay lưng lại tôi, Jane dẫn đầu Chrissy và Shawna trong một vũ điệu hào hứng. Tuy tôi có thể ôm ghì các con để chúng lại trở nên ngoan ngoãn, nhưng tôi lờ mờ nhớ lại lời nói quả quyết của Maeve về sự không thích hợp của nữ ca sĩ này.
Ba tiếng kêu ré lên như thủy tinh vỡ khi tôi tắt radio, rồi sau đó là những tràng cười rúc rích và những khuôn mặt đỏ bừng khi mấy đứa con gái nhận ra tôi đang ngắm chúng nhảy múa.
“Hay, hay lắm. Ta không biết Mercedes Freer có buổi hòa nhạc ở đây, ngay trong nhà chúng ta. Ta chắc là nhà Underhill bên cạnh hài lòng lắm đây. Có lẽ các con đã quên bài đồng ca của các con rồi?”
Jane nhìn cây thánh giá một lát, dường như nó định phản công bằng một cái cớ nào đó, nhưng rồi nó cúi đầu xuống.
“Con xin lỗi bố,” nó nói.
“Giờ mới là câu trả lời đúng, Jane,” tôi nói. “Đừng lấy làm lạ là con đạt đến trình độ như vậy. Thôi đi. Giống như ta sắp làm vài vụ bắt giữ đây.”
Điểm dừng tiếp theo là phòng khách, nơi Ricky, Eddie và Trent đang ngẩn người trước cái tivi om sòm. Chúng đang xem tin tức liên tục về vụ chiếm nhà thờ trên CNN. Mạng đề rõ ‘Thánh đường Countdown’. Tôi nhớ các kênh bị hạn chế là ESPN, Food Network, đôi khi cả với TLC, mạng hoạt hình và truyền hình công khai.
Cả ba đứa suýt bắn tung lên trần nhà lúc tôi lao qua phòng và lọt vào giữa bọn chúng.
“Chúng ta cùng tụ tập xem tin thời sự nhé?” Tôi nói.
“Chúng con đã trông thấy bố!” Trent kêu lên sau khi bỏ tay khỏi mặt. “Trên tivi ấy! Rõ rành rành.”
“Con đã bị bắt,” tôi quát lên với nó.
Brian, con trai lớn nhất của tôi, đang mải chơi game trên máy tính, không nghe thấy tôi bước vào. Tôi thổi bay cái tháp của nó đi.
“Này!” Nó giận dữ quát lúc ngước lên. “Bố à? Bố!” Nó nói.”
“Brian à?” Tôi đáp lại. “Brian!”
“Con đang… ờ,” nó ấp úng.
“Con có để cho tòa xét xử không đây?” Tôi nói.
“Con xin lỗi bố. Con sẽ bắt đầu làm việc nhà,” Brian nói, “ngay lập tức.” Tôi suýt đánh quỵ Mary Catherine lúc trở lại tiền sảnh.
“Ông Bennett. Ý tôi là Mike. Tôi xin lỗi,” cô nói, cuống quýt. “Tôi đang cố bắt các em đi ngủ thì Bridget cần tôi giúp. Nó bảo tôi rằng…”
“Để tôi đoán nhé,” tôi nói. “Nó phải làm một thứ thủ công mỹ nghệ cho trường.” “Sao ông biết?”
“Ồ, tôi quên nói với cô,” tôi đáp. “Bridget mắc bệnh nghiện các đồ thủ công mỹ nghệ. Chúng tôi đang cố tập cho nó dứt bỏ mọi thứ keo hồ, lấp lánh, hột hạt, nhưng hình như chẳng ăn thua gì. Nếu cô chiều nó, nó sẽ phá hủy cả trái đất vì thứ thèm khát không sao thỏa mãn nổi để làm những dây xích, vòng đeo chân và các thứ treo trên tường. Nhiều lần tôi đi làm với những vệt lấp lánh trên mặt và bộ quần áo đầy những thứ chết dẫm ấy đến nỗi các bạn trong đội tưởng tôi tham gia dàn nhạc hóa trang. Bridget biết cô mới đến, nên nó lợi dụng đấy. Đồ thủ công mỹ nghệ bị cấm tiệt trong các kỳ nghỉ cuối tuần.”
“Tôi không biết,” Mary Catherine buồn bã nói. “Lẽ ra tôi nên làm một công việc tốt hơn.”
“Chúa ơi,” tôi nói. “Cô vẫn còn sống và vẫn ở đây chứ? Lẽ ra cô nên tiến hành kiểm tra để gia nhập đội SEAL* của Hải quân mới phải.”
• • •
Sau khi an ủi Mary Catherine và ra lệnh cho cô lên gác đi ngủ, tôi thấy một linh mục trong bếp.
Người đàn ông tóc bạc trắng, thấp bè bè mặc đồ đen đang cầm một thanh sắt bốc khói, sẵn sàng cho con bé Bridget bảy tuổi dính những hạt nhựa màu trắng và hồng cuối cùng thành con ngựa pony, chiếm toàn bộ bề mặt căn bếp của chúng tôi.
“Liệu đây có phải là Cha Trơ tráo, ý cháu là Seamus không?” Tôi nói. Không, đây không phải là dịp Halloween*. Ông Seamus của tôi là một linh mục. Sau khi bà vợ qua đời, ông quyết định bán quán rượu Hell’s Kitchen đã sở hữu suốt ba chục năm trời và trở thành một thầy tu.
May mắn cho ông, thiên hướng tu hành hồi ấy dễ dãi chưa từng thấy, nên ông được chấp nhận.
“Ta đã đi thẳng từ địa ngục lên thiên đường,” ông thích nói thế.
Hiện nay ông sống ở giáo xứ Holy Name gần khu nhà tôi, và những lúc không tham dự các công việc của xứ đạo mà ông thường làm rất chu đáo, ông lại can thiệp vào việc riêng của tôi. Vì Seamus không chỉ đơn thuần bằng lòng với việc làm hư các con tôi. Mặc dù không thực sự khuyến khích các trò nghịch ngợm tai quái, và là thầy tu hay không, ông như cảm thấy mình đang được xả hơi.
Kể cả những nốt tàn nhang của Bridget hình như cũng nhạt hẳn màu khi nó nhìn thấy tôi đứng đó.
“Chúc-bố-ngủ-ngon-con-yêu-bố-lắm,” tuy vậy, nó cũng cố nói liến láu, trước khi tụt xuống khỏi cái ghế nó đang quỳ và biến mất. Fiona đang cặp một thứ đồ chơi dưới cánh tay, lao ra khỏi bên kia ghế và cố lẩn sau hai đứa trẻ sinh đôi.
“Một khoảnh khắc nghiêm trọng, phải không thưa Đức cha? Người quên cách xem đồng hồ hay sao ạ? Hay người quên đây là tối của các học trò?”
“Cháu không liếc con chiến mã này một cái hay sao?” Seamus nói, đưa qua đưa lại thanh sắt trên các hạt nhựa để chúng dính với nhau. Con ngựa to gần bằng cỡ ngựa thật. Quá tệ là căn hộ không có chuồng để nhốt. “Con bé là một nghệ sĩ thuần túy đấy,” Seamus nói. “Như người ta thường nói, nó còn sáng tạo hơn nhiều cuốn sách.”
“Cảm ơn ông đã khen cục vàng thông thái ấy, Seamus, nhưng nếu lũ trẻ này không đi ngủ đúng giờ, tất cả chúng ta sẽ bị kết tội đấy ạ.”
Seamus rút phích cắm của thanh sắt, dựng nó thật mạnh lên cái thớt gỗ rồi liếc nhìn tôi.
“Nếu vậy, tại sao còn đưa người mới vào nhà này?” Ông nói.
“Cô Mary Catherine đó bảo cháu là cô ấy từ Tipperary tới. Có một chi họ nào đó ở Tipperary mà. Mọi ngọn gió thổi từ bắc Đại Tây Dương đều chẳng tốt lành gì cho trí tuệ. Nếu ông hỏi, thì cháu phải nói là cháu không thích diện mạo cũng như hoàn cảnh của cô ấy. Một cô gái trẻ, độc thân sống cùng một nhà với người có vợ.”
Thế đấy. Tôi cắn cảu nói. Tôi chộp lấy con ngựa bằng nhựa. Seamus chúi đầu xuống lúc tôi ném con ngựa qua bếp và rứt bảng phân công việc nhà khỏi tủ lạnh. “Ông muốn cháu xếp sự quan tâm của ông vào đâu, thưa ông?” Tôi kêu lên. “Vào những giờ phút cuối cùng của cô ấy hay ba mươi ba nhân vật quan trọng ở St. Paddy, với những họng súng đang chĩa vào đầu họ?”
Seamus đi loanh quanh trong bếp và đặt tay lên vai tôi.
“Ta cứ ngỡ ta giúp được cháu,” ông nói bằng giọng mệt mỏi mà tôi chưa từng
nghe thấy ở ông.
Giờ thì tôi hiểu. Hiểu lý do ông khó chịu vì sự có mặt của Mary Catherine. Ông ngỡ là bị thế chỗ, và bị đẩy khỏi hình ảnh gia đình.
“Seamus,” tôi nói, “nếu cháu có một người giúp việc hai mươi tuổi, cháu vẫn cần ông giúp đỡ. Cháu cần ông giúp bằng cách ông chỉ bảo cho Mary Catherine. Ông có thể làm việc đó được không ạ?”
Miệng Seamus bĩu ra lúc ông suy nghĩ.
“Ta sẽ thử,” ông nói với vẻ rất kịch, hơi khổ sở. Tôi đi qua căn bếp và nhặt bảng phân công các việc lên. Lúc nhấc con ngựa bằng nhựa, tôi nhận ra nó đã mất đuôi. “Ông hàn hộ cháu cái đuôi vào đây, ông nhé?” Tôi nói và vội mang nó trở vào bếp. “Nếu không kịp sửa chỗ này, Bridget sẽ giết cả hai chúng ta mất.”
• • •
Lúc tôi trở lại hiện trường hỗn loạn đằng trước St. Patrick, tôi thấy xe của Đội Giải cứu con tin FBI đã đỗ cạnh một xe của NYPD. Cùng các xe buýt chỉ huy di động, khu vực này trông như một đoàn rồng rắn khổng lồ.
Có lẽ là một đoàn rồng rắn trong bãi đỗ của địa ngục.
Tôi hỏi tin chỉ huy Will Matthews, sau đó là các nhà thương thuyết khác. Vẫn chưa có gì mới từ những tay súng trong nhà thờ. Không có gì mới từ Jack. Tôi đành rót cà phê, có lẽ là tách thứ hai mươi trong ngày hôm ấy và ngồi đợi. Tôi ghét việc này, chờ đợi là cảm giác bất lực nhất. Đây là một trong nhiều lý do khiến tôi chuyển khỏi Đội Giải cứu con tin. Trong đội Điều tra các vụ giết người, chẳng bao giờ có một giây ngơi việc, luôn luôn có vô số thứ thử thách sự kiên trì và thần kinh của bạn.
Tình cờ tôi ngồi trên chiếc ghế xoay. Nó thực sự giúp tôi có thể tránh đối diện với mặt đồng hồ đầy ám ảnh, và có thể có ích cho chúng tôi.
Tôi thấy chỉ huy Will Matthews ngồi ở đuôi xe, tay cầm cốc nước sủi bọt. “Sếp à,” tôi nói. “Anh có nhớ tôi đã nói về vụ Caroline Hopkins không? Về linh cảm của tôi với thứ gọi là tai nạn của bà ấy? Khách sạn L’Arène, nơi xảy ra sự việc chỉ cách đây ba khối nhà. Tôi đang nghĩ nên thay đổi hướng điều tra, nói chuyện với nhân viên nhà bếp.”
Will Matthews dụi mắt và gật đầu.
“Được,” anh nói. “Cứ hỏi chuyện độ hai mươi phút, xem có đào bới được gì không nếu anh thích thế. Rồi lại về đây nhé.”
Tôi vỗ vào túi.
“Tôi có di động đây. Và một cái dự phòng.”
Nơi đó vừa xảy ra thảm kịch, rồi phố xá bị bao vây, chắc hẳn đã làm hỏng khẩu vị của những người giàu có và nổi tiếng ở New York, vì L’Arène vắng tanh vắng ngắt lúc tôi từ đại lộ Madison vào. Tôi bước lên các bậc đá hoa vào tiền sảnh trải thảm đỏ, trắng và xanh lơ, trông đặc Pháp hơn là Mỹ. Bên kia các bậc là chanh và táo xếp thành các quả núi lộng lẫy trên nóc các thùng champagne cổ.
Có lẽ vào một đêm nào khác, sự thanh lịch của nơi này sẽ không làm ta bối rối. Và nếu tôi không quá vất vả trong mấy giờ vừa qua, sự kiêu ngạo của ông chủ khách sạn cao ráo, mặc lễ phục đứng bên trong cửa sẽ không làm tôi giận dữ đến thế.
Người đàn ông Pháp ngăm ngăm đen, tóc quăn trông như vừa ăn phải con ốc sên ươn lúc phát hiện ra tôi đứng trước cuốn sổ đặt chỗ, to bằng cuốn từ điển trong thư viện.
“Nhà bếp đang đóng cửa,” ông ta làu bàu và lại cắm cúi ghi chép vào cuốn sách. Tôi gấp cuốn sách lại và đặt tấm thẻ của mình lên trên. Tôi thưởng thức sự sửng sốt trên mặt ông ta.
“Không,” tôi nói, “Thực ra là không.”
Lúc tôi nói là tôi đến điều tra về vụ tai nạn của Đệ nhất phu nhân, ngay lập tức ông chủ chìa ra cho tôi một tấm danh thiếp.
“Gilbert, DeWitt và Raby đại diện cho chúng tôi trong mọi vấn đề pháp lý. Mời ông đến nói chuyện với họ.”
“Chà, thế mới là có ích chứ,” tôi nói và ngay lập tức quăng vèo tấm các qua đầu cái mũi dài của ông chủ. “Nhưng tôi không phải là công ty bảo hiểm, tôi ở đội Điều tra Các vụ giết người. Bây giờ hoặc là tôi nói chuyện với ông và nhân viên bếp của ông một cách thân tình, hoặc tôi sẽ mời sếp tới và chúng tôi sẽ tiến hành đúng thể thức. Nếu chúng tôi tiến hành bắt giữ, tất cả sẽ phải đến đồn cảnh sát và lẽ tất nhiên, ông sẽ phải khẳng định có đủ giấy tờ hợp pháp của cơ quan nhập cư cho từng người để nhận dạng. Ông hiểu không, lúc này tôi đang nghĩ đến việc yêu cầu Bộ Tư pháp tham gia vào vụ này. Ông biết FBI và IRS* chứ? Ông có đủ các loại biên lai thuế của L’Arène trong năm năm qua chứ? Và chắc không cần phải nói, là các nhân viên của ông có đủ giấy tờ cá nhân chứ?”
Vẻ mặt của ông chủ khách sạn gần như thay đổi ngay lập tức. Một nụ cười ấm áp đến không ngờ che giấu dưới vẻ cau có rất Pháp.
“Tôi là Henri,” ông ta cúi chào và nói. “Xin ông cứ nói chuyện với tôi. Tôi có thể giúp gì ông đây, thưa thám tử?”
• • •
Sau khi nghe tôi nói cần phỏng vấn nhân viên nhà bếp, ông bạn* Henri sốt sắng dẫn tôi qua bộ cửa xoay Tiffany màu xanh lơ và dịch các câu hỏi của tôi cho bếp trưởng. Bếp trưởng trông thấp hơn, mập hơn và già hơn người anh trai Henri. Hình như ông ta cảm thấy mất thể diện vì các câu hỏi. Chính ông ta dọn bữa cho Đệ nhất Phu nhân, và thật vô lý nếu ông ta cho lạc vào món gan ngỗng béo, ông ta giận dữ nói. Cách duy nhất có thể lý giải là người phụ bếp ngu ngốc nào đấy đã đánh đổ dầu lạc lên món ăn trong buổi tối quá ư bận bịu đó, nhưng dù có thế đi nữa, ông ta cũng thấy vô lý. Sau đó, người bếp trưởng sôi nổi nói gì đó bằng tiếng Pháp trước khi dọn hai cái xoong trên quầy bằng thép không gỉ và bỏ đi. Tôi bắt chợt từ người Mỹ và nghĩ là nghe thấy từ cười khẩy.
“Có chuyện gì thế?” Tôi hỏi Henri.
Henri đỏ bừng mặt.
“Bếp trưởng gợi ý có lẽ Đệ nhất Phu nhân đã ăn một… thanh kẹo trước khi tới dùng bữa.”
Tối nay, quan hệ giữa Pháp và Mỹ đã được hồi phục nhiều biết chừng nào, tôi nghĩ.
“Từ tối hôm Phu nhân tới đây, ông có thay đổi nhân viên nào không?” Tôi hỏi. Henri gõ nhẹ ngón tay dài trên đôi môi tái nhợt.
“Có,” ông ta nói. “Bây giờ tôi mới nghĩ ra. Một trong những người phụ bếp, Pablo, tôi tin đó là tên anh ta, đã không đến làm việc sau tai nạn khủng khiếp đó một ngày, hoặc đại loại thế.”
“Họ của Pablo là gì? Địa chỉ? Anh ta có đơn xin thôi việc không?” Henri nheo mắt lúc một vẻ phiền muộn, gần như ân hận lan tỏa trên nét mặt.
“Giống như ông nói lúc trước về chính thức và không chính thức. Pablo là người làm thuê không chính thức. Thực ra, chúng tôi không có đơn,” ông ta nói. “Việc anh ta ra đi cũng không có gì đáng quan tâm. Giống như ở các khách sạn khác, tỷ lệ thay đổi nhân viên phụ thường cao.”
“Tôi sẽ xem,” tôi nói.
“Gượm đã,” Henri nói. “Tôi tin rằng anh ta có để lại vài thứ trong tủ. Ông có muốn xuống đấy ngó qua một cái không?”
Tôi xuống cầu thang đến chỗ cái tủ cũ của Pablo, và phát hiện ra hai thứ. Một đôi giày đế mềm bẩn thỉu và một bảng giờ xe điện ngầm Bắc Hudson nhàu nát.
Vụ của những đôi giày đế mềm bẩn thỉu, tôi nghĩ.
Lại một ngõ cụt nữa, hoặc lúc đó có vẻ là như thế.
Tôi nhét các món đồ của người phụ bếp vào một cái túi tìm thấy trong tủ. Có lẽ chúng tôi sẽ tìm ra nhân dạng của Pablo nhờ các dấu vân tay. Nếu như anh ta đã trở về Trung Mỹ.
Tôi nhận thấy đây là một đường dẫn khá đáng buồn, nhưng thà như thế còn hơn là chẳng có gì.
“Ông có tìm thấy gì không?” Henri háo hức hỏi, và tôi giơ cái túi ‘tang vật’. Tôi sập cánh cửa tủ một tiếng vang rền.
“Rất ít ỏi, Hank,” tôi nói.
15
Trong mơ, Laura Winston được tạp chí Vogue phong là ‘Nữ hoàng thời trang của Thiên niên kỷ mới’; bà đang chơi trên hồ, trong dinh cơ của rằng bất* ở bắc Westchester. Bà nằm một mình trong xuồng, đắp một tấm mútxơlin trắng muốt, và bập bềnh trôi dưới bầu trời rạng rỡ, xanh biếc, vô tận. Xuồng lướt nhẹ ven bờ, dưới những cành anh đào rộ hoa, những cánh hoa mỏng manh trắng muốt, thanh mảnh như mí mắt thiên thần rơi xuống như mưa, nhẹ nhàng đậu trên mặt, cổ và ngực bà. Lúc thử ngồi dậy trong xuồng, bà nhận ra tấm mútxơlin đã quấn chặt quanh cánh tay mình. Bà nhận ra mình đã chết trong cái xuồng tang, và bắt đầu la hét.
Laura Winston giật mình tỉnh dậy và đập đầu vào tay gỗ của chiếc ghế dài trong nhà thờ mà bà dựa vào.
Có tiếng bịch bịch của những bàn chân đi giày ống, hai tên đàn ông đeo mặt nạ trượt tuyết, dây lựu đạn vắt chéo ở đằng trước áo choàng màu nâu, đang chậm rãi đi qua lối giữa các hàng ghế nhà thờ.
Ngu thật, bà nghĩ. Ngay bây giờ, nếu bà van nài được thả khỏi tang lễ, bà chỉ cần đi chín cây số trong vịnh Four của biển Nam Caribbean là tới lâu đài Phục hưng kiểu Pháp của mình ở St. Bart, trị giá hai mươi mốt triệu đô la, thêm thắt những chi tiết cuối cùng trong lễ Giao thừa. Giorgio*, Donatella*, Ralph và Miuccia* đều đã nhận lời tới dự.
Thay vào đó, bà đã phớt lờ lời mách bảo thầm kín từ đêm trước: Xin chào! Sự kiện nổi bật của thành phố NewYork sẽ là mục tiêu của bọn khủng bố. Hãy tránh xa! Lẽ tất nhiên, còn biết bao giọng nói nho nhỏ, bí mật khác bắt đầu làm nóng cổ họng khô khốc và khổ sở.
Bà đã hết thuốc.
Ban đầu OxyContin được kê cho bà vì một tổn thương ở phần lưng dưới khi chơi tennis. Một tháng sau, khi bác sĩ vẫn kê đơn ấy, bà đã uống kèm với các vitamin khác. Nó có tác dụng tăng cường thể trạng tốt nhất, loại trừ căng thẳng nhanh nhất.
Laura không muốn thừa nhận điều đó, nhưng khoảng một giờ trở lại đây, bà lên cơn thèm thuốc. Việc này đã xảy ra một lần, một hôm ở Morocco bà bị co giật. Cơn nghiện bắt đầu như một cảm giác ngưa ngứa trong máu. Ngay sau đó, cơn ngứa tệ hại hơn, bà bắt đầu buồn nôn. Sau khoảng một giờ nôn khan, bà run rẩy không ngừng. Sau mười tiếng, bà rứt tóc đến điên rồ để dứt cơn. Bà đã sống sót qua cơn đó nhờ nửa lọ Valium của một nhà nhiếp ảnh nhân đức cho bà.
Nhưng bây giờ, ở đây, bà chẳng có gì.
Có khi một số người khác cũng thế, bà nghĩ ngay. Những người này ở Hollywood đều hiểu các đơn thuốc mà bác sĩ Freelgood kê cho họ. Liệu bà có thể hỏi thăm một cách lịch sự được không? Tất cả đều là người cùng hội cùng thuyền. Chia đều cho nhau được mà.
Không! Bà nghĩ và rùng mình. ‘Cái sự đó’ là mọi thứ bà có. Để lộ ra là không thể chấp nhận được. Không ai được biết về tật nghiện ‘heroin mọi rợ’ của bà. Bà phải suy nghĩ. Nghĩ cho ra!
Mấu chốt là bọn cướp muốn gì? Hoặc là tiền hoặc mục tiêu chính trị, bà lập luận. Dù là gì đi nữa, bà còn sống chẳng có lợi cho chúng lắm sao?
Bà sẽ dàn cảnh một vụ đau ốm gì đó. Một cơn đau tim chăng? Không, bọn chúng
sẽ bắt mạch bà và biết ngay là giả vờ. Còn các loại cấp cứu nào khác mà con người bị đột ngột nhỉ? Ngất vì bệnh tiểu đường hoặc vì sợ hãi chẳng hạn? Nghĩ ra rồi! Ngất vì sợ! Giả vờ sẽ không đến nỗi quá khó. Bà đang toát mồ hôi, tim đập dồn dập.
Cơn sợ sẽ che giấu cơn thèm thuốc. Một kế hoạch thông minh sẽ cứu vãn danh tiếng đáng giá hàng tỉ đô la của bà. Trường hợp xấu nhất, bà cũng được tách khỏi những nhân vật tiếng tăm kia để tha hồ nôn mửa.
Laura Winston không cố cưỡng lại trạng thái run rẩy nữa, và bắt đầu tiến hành. • • •
Eugena Humphrey chìm sâu vào nhịp thở êm dịu của yoga Pranayama đến mức lúc đầu không nhận thấy Laura Winston đã đứng dậy. Hơi thở của Eugena đang từ tốn thoát ra bỗng tắc lại và biến thành tiếng rên như một con sóc bị dại.
Mới một giây trước, nữ hoàng thời trang vừa ngủ ngon lành. Lúc này mặt bà ta tái nhợt và mớ tóc màu rất trang nhã rối bù như tổ chuột, trông bà ta như người mộng du. Ngoại trừ đôi mắt bà ta vẫn mở.
“Ngồi xuống, Laura,” Eugena nói. “Chị đã thấy Mercedes ra sao rồi đấy. Bọn này không đùa đâu.”
Eugena giật riềm chiếc váy Chanel bằng da màu đen, mềm mịn của ngôi sao thời trang.
“Bỏ tay ra KHỎI TÔI!” Laura Winston gào lên.
Cuồng loạn rồi, Eugena nghĩ. Bà phải làm cho người phụ nữ này dịu lại trước khi bà ta tự giết mình.
“Laura, chị sao thế?” Eugena nói, cố hết sức bình tĩnh. “Hãy nói cho tôi biết đi. Rồi sẽ ổn thôi mà. Tôi có thể giúp chị.”
“Tôi KHÔNG CẦN!” Laura gào to, nhảy tót ra lối đi giữa các hàng ghế. “CỨU TÔI VỚI! Tôi xi-i-i-i-i-in đấy! AI CỨU VỚI!”
Tên cầm đầu thấp lùn, chắc nịch xuất hiện bên chấn song, nơi Laura quỵ gối, gào khóc ầm ĩ.
“Chúng ta không thể để mụ ta hành động phi lý như thế này được,” hắn gọi John Bé ở bên kia điện thờ. “Hãy chăm sóc mụ ta.”
Tên cướp to con bước tới, túm ve áo Laura và nhấc bổng bà ta lên khỏi sàn đá hoa.
“Gì thế bà? Bà phải về chỗ ngay,” hắn nói.
“XIN HÃY CỨU TÔI!” Laura gào lên sau một tiếng nức nở thật to, om sòm. “Anh có thể giúp tôi được chứ? Tôi không sao thở nổi. Ngực tôi. Tôi cần không khí. Ở đây nóng quá. Tôi cần đi bệnh viện.”
“Hay là đến Bellevue*,” tên cướp to con nói, và cười khùng khục. “Thưa bà, bà đang quá kích động. Tôi biết cách duy nhất để chữa người bị kích động là đập cho một trận. Bà không muốn bị đánh chứ, thưa bà?”
Tên cướp chộp cổ tay người đàn bà trung niên lúc bà ta cố chạy trốn hắn. Hắn bẻ quặt cánh tay xương xẩu của bà ta ra sau, rồi tóm lấy lưng chiếc áo thời trang cao cấp và lôi bà ta ra khỏi lan can.
“Nếu đấy là cách bà muốn giở trò,” John Bé nói và lắc đầu.
Hắn mở toang cánh cửa một phòng xưng tội cạnh pho tượng đồ sộ Jesus trong lòng Đức Mẹ Mary. Rồi hắn đẩy Laura Winston đang la hét vào trong. Lúc bà ta cố lao ra ngoài, hắn đạp mạnh chiếc giày ống vào ngực Laura, làm bà ta bay vèo vào
bên trong, rồi đóng sầm cửa lại.
“Chà,” John Bé nói và hất đầu với các con tin khác. “Còn ai nữa, hử?” • • •
Một lúc sau, khi John Bé oai vệ đi xuống lối giữa như một người hùng chiến thắng, nghệ sĩ hài John Rooney mất hẳn bình tĩnh. Buộc phải chứng kiến cảnh những tên cướp hành hạ Laura Winston khiến Rooney dấy lên niềm thương cảm sâu sắc. Anh quên bẵng sự an toàn của bản thân, quên cả kế hoạch chống lại, quên cả cảnh sát ở bên ngoài. Anh bật phắt khỏi chỗ và lao tới tên cướp.
John Bé loạng choạng và đổ gục lúc Rooney thúc mạnh vào đằng sau đầu gối hắn. Rồi Rooney quấn một cánh tay quanh cổ hắn và xiết chặt, với toàn bộ phẫn nộ và nỗi sợ bị dồn nén.
Rooney vẫn còn ở trên người John Bé lúc những tên cướp khác lao vào đá anh tới tấp. Những mũi giày thép giáng xuống vai, cổ và trán anh. Thay vì buông ra, anh nhắm nghiền mắt và tập trung vào một việc: cánh tay anh xiết chặt vào khí quản tên cướp.
Cú đá bỗng dừng đột ngột. Rồi Rooney nghe thấy tiếng kim loại đánh cách và cảm thấy một thứ lạnh và cứng ấn vào thái dương anh.
Anh hé một mắt và thấy Jack, tên cầm đầu, đang cười nhạo anh ở đầu kia khẩu M16.
“Ta chỉ yêu cầu mi một việc,” Jack nói. “Buông nó ra.”
“Bắn tao đi!” Rooney thấy mình đang nói. Adrenaline sôi sục trong máu anh. “Tao sẽ không ngồi mà nhìn lũ súc vật chúng mày đánh đập người già và phụ nữ!” Jack liếc nhìn anh qua những cái lỗ trên mặt nạ. Cuối cùng, hắn từ từ hạ khẩu M16 xuống.
“Thôi được, ông Rooney,” tên cướp nói. “Ý kiến được chấp thuận. Tôi sẽ áp dụng các biện pháp đỡ gay gắt để khống chế một đám người hung hăng. Bây giờ ông hãy thả đồng sự của tôi ra. Nếu cậu ta chết, tôi e rằng sẽ bắt đầu một tiền lệ xấu.”
Rooney buông tên cướp to lớn và đứng dậy, thở thật mạnh. Má anh chảy máu vì bị cựa giày cào, cánh tay phải của anh như bị tai nạn nghề nghiệp, nhưng lòng anh đang reo vui. Anh đã thực sự làm được việc gì đó để ngăn chặn sự xúc phạm này.
Jack dùng khẩu súng trường thúc nhẹ vào ngực John Bé lúc hắn bật dậy khỏi sàn như một con chó Doberman.
“Kiếm cái gì mà ăn và nghỉ ngơi tí chút đi,” Jack bảo hắn.
“Ông Rooney, mời ông về chỗ. Tôi có việc muốn nói với mọi người đây.” Rooney ngồi lúc Jack đến bục và hắng giọng. Rồi hắn mỉm cười, thái độ đột nhiên vui vẻ, giống một nhân viên hàng không thông báo về sự chậm trễ của các hành khách cuối cùng.
“Chào mọi người,” hắn nói. “Chúng tôi đã bắt đầu tiến hành thương lượng, mọi sự nghe chừng khá suôn sẻ. Nếu sự việc tiến triển tốt đẹp như thế này, có khả năng các vị sẽ về nhà với gia đình vào sáng hôm Giáng sinh.”
Không có tiếng vỗ tay, nhưng Rooney nghĩ đã nghe thấy một tiếng thở dài chung. “Song không may nếu có tin xấu,” Jack nói tiếp. “Nếu sự việc xấu đi, rất có khả năng chúng tôi buộc phải giết một số người trong các vị.”
Một tiếng rên khẽ nổi lên từ phía sau điện thờ.
“Vì chúng ta đang ở nơi thờ phụng,” Jack tiếp tục, “tôi khuyên các vị phải có những khao khát tôn giáo và hãy cầu nguyện ngay bây giờ.”
Linda London, một người có vai vế trong ngành truyền hình, gập người làm đôi và bắt đầu nức nở.
“Mọi người hãy thôi đi,” Jack hòa nhã trách móc. “Các vị cứ làm như chúng tôi hành hạ các vị vậy. Các vị phải hiểu ý tôi chứ. Mọi cuộc hành hình sẽ chỉ là một phát đạn nhân đạo, rất nhanh vào gáy thôi.”
Jack bước xuống khỏi bục giảng kinh và dừng lại ngay cạnh chỗ Rooney. “Ô, còn một việc nữa,” hắn nói và ấn mạnh súng vào cổ Rooney khiến anh choáng váng. Mắt Rooney nhắm lại lúc các cơ trên người anh căng lên ngay lập tức. Nhưng thay cho bóng tối, anh thấy toàn thân xèo xèo như tiếng tivi. Một tiếng hét chìm nghỉm trong cổ lúc anh đờ đẫn nảy xuống sàn và lăn vào gầm ghế. “Chúng tôi không phải là huấn luyện viên về phong cách sống hoặc thầy dạy biểu diễn cho anh, và đây không phải là phòng nghỉ của nhà hát,” Rooney nghe thấy tiếng Jack trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Thậm chí, anh còn có một ý nghĩ mạch lạc lúc cố tập hợp những mẩu suy nghĩ đau đớn: Lẽ ra mình nên để hắn bắn mình.. “Tôi tưởng anh phải thông minh thì mới thành công ở đất nước này chứ.” Jack trách móc. “Anh mà còn vi phạm, chúng tôi sẽ giết anh vì tội khờ dại, không chịu hiểu, rõ chưa?”
16
Bảy giờ kém mười sáng, cậu bé Brian Bennett mười một tuổi gõ cửa phòng chị nó. “Julia ơi,” nó thì thào. “Chị dậy chưa?”
Julia vừa bước ra vừa chải mớ tóc ướt. Đã kịp tắm rồi, Brian thất vọng nghĩ. Nó muốn là người dậy đầu tiên, là người dẫn đầu cả nhà. Hơn nữa, nó là con trai lớn nhất. Julia dậy từ mấy giờ nhỉ? Sáu giờ chắc?
“Chị định đánh thức em,” Julia nói. “Bố vẫn đang ngủ à?”
“Ngủ như chết… em định nói là như một tảng đá ấy,” Brian vội chữa. “Ai mà biết tối qua bố về lúc mấy giờ. Chị có muốn em đi lấy bỏng ngô, còn chị đánh thức lũ quỷ kia dậy không?”
“Ừ, nhưng nếu em làm xong trước khi chị đánh thức tụi nó, thì vào đánh thức Trent, Eddie và Ricky nhé,” Julia nói. “Để chị có thời gian mặc quần áo và chải đầu cho các em gái đã.”
“Vâng,” Brian quay bước trong tiền sảnh lờ mờ, nhưng nó dừng lại. “Này Julia,” nó nói.
“Cái gì?”
“Tối qua em thấy xấu hổ lúc bố ập vào bắt quả tang chúng mình. Em nghĩ dậy sớm và sửa soạn cho mọi người sẵn sàng sẽ làm bố vui lên.”
“Cảm ơn em, Bri,” Julia nói. “Em nói thế mới ngoan chứ.”
Khỉ thật! Brian nghĩ và nhăn mặt. Julia nói đúng. Tất cả những việc nó làm là trò nhắng nhít và lấy lòng chị nó ư?
“Người cuối cùng khi cả đội đã xong là người thua đấy nhé,” Brian ngoảnh lại nói lúc đi ra.
Dọn bàn ăn xong, nó mở toang cánh cửa phòng bọn con trai. Nó lay bàn chân Ricky ở cuối giường lúc Trent lăn từ đầu giường xuống và lộn ngược người như một con dơi.
“Đến chưa? Đến chưa?” Trent hỏi, gấp gáp.
“Ai đến kia?” Brian nói và kéo đứa em trai lên năm ra khỏi giường, đứng trên đôi chân trần.
“ÔNG GIÀ NÔ-EN!” Trent kêu to.
“Suỵt!” Brian nói. “Chưa.”
“Cái gì?” Trent buồn rầu nói. “Ông già Nô-en không đến à? Tại sao lại không? Anh nói dối phải không, Bri? Em biết em hay nghịch, nhưng em cũng ngoan mà.” “Hôm nay chưa phải là Giáng sinh, nhóc ạ,” Brian nói và đi vào phòng kho. “Đánh thức Ricky và đánh răng đi. Đánh sạch rồi súc miệng. Ngay bây giờ.” Năm phút sau, Brian mỉm cười lúc mở cửa phòng ngủ. Bọn con gái ra khỏi phòng mình. Nó tưởng Julia - cô gái Hoàn hảo trong Mọi việc - lần này đưa mấy cô em gái đi tập thể dục mềm dẻo hoặc đại loại thế. Nhưng không. Rất gọn gàng. Chỉ cài một cái nơ.
Brian cười to lúc bật đèn bếp. Nó nhận thấy mặc dù giản dị, song nhìn mọi người ăn vận đẹp cũng vui.
Hôm nay là buổi tổng duyệt cuộc diễu hành Giáng sinh ở Holy Name, và ai cũng có vai. Chrissy, Shawna, Bridget và Fiona là các thiên thần đội vòng hoa. Trent và Eddie là người chăn cừu. Ricky đóng vai Joseph và trưng bộ râu giả màu đen rất
ngộ. Jane và Julia trong đội đồng ca, mặc áo khoác ngoài óng ánh như bạc. Còn nó, lẽ tất nhiên có bộ bảnh nhất, chau chuốt nhất, là một trong ba nhà thông thái. “Nhìn chúng kìa,” Brian nói lúc đứng ở đầu bàn cạnh Julia. “Cả bọn trông đáng yêu quá.”
Julia rút máy ảnh trong túi áo ra và bấm một kiểu các con nhà Bennett. Con gái sao khôn thế nhỉ? Brian nghĩ. Làm thế nào mà họ luôn làm toàn việc đúng thế cơ chứ?
Julia giơ máy ảnh cho Brian xem.
“Em nghĩ mẹ có thích bức ảnh này không?” Nó nói.
“Có lẽ thích,” Brian trả lời. “Làm sao em biết được?”
• • •
Sáng hôm ấy, khi tiếng lách cách, những tiếng cười khúc khích, tiếng sập cửa, và tiếng reo lặng đi, cả gia đình đã sẵn sàng đánh thức tôi dậy, tôi cảm nhận được vợ tôi không ở trên giường và rất cảm kích. Maeve và tôi đã thỏa thuận là buổi sáng những ngày thường, cô ấy lo cho bọn trẻ ăn vận, còn tôi đưa chúng đến trường. Maeve để tôi ngủ thêm một lát trong lúc cô làm những việc nặng hơn cho cái gia đình đông đúc và gắn bó của chúng tôi, một lòng tốt bị bỏ quên, mà chỉ những ai đã kết hôn lâu năm mới có thể hiểu nổi.
Tôi trở mình tìm hơi ấm trên gối của Maeve và cảm thấy tấm trải giường cứng, lạnh cạnh mình, rồi chợt nhớ ra.
Tôi nằm đó, hiểu ra nỗi kinh hoàng đầu tiên trong buổi sớm, một câu hỏi giá buốt chợt đến.
Tôi đặt vội đôi chân không lên sàn gỗ cứng lạnh lẽo và chộp lấy cái áo choàng thủng mắc ở cọc giường.
Nếu Maeve không sửa soạn cho bọn trẻ, thì ai làm đây?
Thật khó mà tả nổi cảm giác của tôi lúc bước vào bếp và thấy các con đã ăn vận đầy đủ quần áo hóa trang cho lễ Giáng sinh. Tôi ngỡ mình đang mơ, hoặc có lẽ đã chết khi nhìn thấy bạn trẻ con ngồi quanh bàn ăn sáng, trông như một bức tranh phi thực thời Phục hưng về một đám đông siêu phàm.
“BỐ!” Cả bọn đồng thanh.
Làm sao chúng tự sửa soạn được như thế? Tôi nghĩ. Tôi là một người cha tồi. Tôi không nhớ đến vở kịch. Tôi không hiểu vì sao mình lại bật khóc lúc cúi xuống nhặt một thứ rơi trên lớp vải sơn. Lúc đó tôi hiểu ra.
Bọn trẻ đã tự chăm sóc bản thân giống như Maeve từng làm. Như thể vợ tôi đã sửa soạn mọi thứ chu đáo và lúc này sẵn sàng để ra đi.
Tôi lau nước mắt vào cánh tay áo lúc Chrissy ôm ghì lấy tôi, diềm mi rung động của nó chạm nhẹ lên má tôi.
Một hơi thở sâu giúp tôi trấn tĩnh lại. Nếu Maeve nhìn thấy tôi khóc trước mặt các con, cô ấy sẽ đá vào mông tôi ngay lập tức.
Và thế là, lúc nhìn chúng lần nữa, tôi cảm thấy một nụ cười vui sướng lan tỏa trên mặt. Các con tôi đúng là những thiên thần. Chúng như không có thật. Tôi gật đầu với Julia và Brian. Có phải ai cũng có khả năng đối phó với hoàn cảnh kinh hoàng bằng lòng vị tha đâu, nói gì đến hai đứa trẻ? Tôi nghiến răng dìm nỗi buồn thương, rồi hắng giọng.
“Bố biết hôm nay không phải là Chủ nhật,” tôi reo lên, nồng nhiệt, “nhưng ai cần một bữa sáng ngày Chủ nhật như bố nào?”
Những tiếng hò reo ‘Chúng con’, ‘Con’ rung cả tường lúc tôi đặt hai cái chảo gang lên bếp.
Seamus vào bếp lúc tôi đang chia thịt xông khói, trứng, khoai tây và hành băm cho các con.
“Chà. Trung thành và có Chúa chứng giám,” ông nói và mở to mắt ngắm những bộ quần áo giả trang của bọn trẻ. “Halloween qua rồi kia mà?”
“KHÔNG Ạ!” Bọn trẻ con kêu toáng lên và khúc khích cười ông.
Một phút sau, Mary Catherine vào, trông vẻ mặt cô rất ngộ. Tôi đưa cô một cái đĩa.
“Tôi đã báo trước cho cô chúng tôi là một đám khó nhằn mà,” tôi nói và mỉm cười. Tôi đứng bên bếp, ngắm bọn trẻ con ăn và cười đùa trong giây lát. Niềm vui của tôi kéo dài cho đến lúc tôi phát hiện ra điện thoại và chùm chìa khóa của tôi ở trên mặt quầy, cạnh máy pha cà phê.
Xã hội chết tiệt, tôi nghĩ. Ước gì được từ bỏ tất cả. Tôi nghĩ đến các con tin và tiếng đồng hồ tích tắc chống lại họ. Chính bọn nắm giữ con tin đã buộc tôi phải rời bỏ và hứng lấy mọi sự. Tôi mỉm cười cay đắng lúc cảm thấy sự oán giận đen tối, nặng nề chuyển từ tôi sang bọn chúng như khẩu đại bác trên xe tăng. Tôi nhận thức được Jack là kẻ phải chịu trách nhiệm đã rứt tôi khỏi những người thân yêu.
Mi không biết đang giao thiệp với ai đâu, tôi thầm gửi e-mail cho hắn. Mi cứ ngỡ mình biết. Nhưng mi không biết gì hết.
• • •
Nửa giờ sau, gia đình Bennett đã làm một số xe cộ của thành phố New York phải dừng lại khi chúng tôi tới cửa trước của Holy Name. Một người mẫu ngăm ngăm đen bước xuống taxi, mặc bộ váy áo đen đính sêquin lấp lánh, chắc là mặc từ đêm trước, dừng lại và đặt tay lên đường xẻ rất sâu của áo rồi nói: ‘Ô ô ồ!’ vì những bộ hóa trang ngộ nghĩnh của gia đình tôi. Ngay cả một thanh niên tín đồ hàng hiệu, mặc áo khoác lông lạc đà cũng không khỏi há hốc miệng vì đoàn nhà tôi lúc cậu ta đổi tai nghe iPod bằng điện thoại di động reo chuông.
Xơ Sheilah còn phản ứng mạnh hơn cả hai người kia.
“Chúa phù hộ ông, ông Bennett,” xơ kêu lên kèm một nụ cười, một nụ cười đích thực, lúc xơ tháo móc cửa.
Mặc dù trời lạnh, tôi vẫn cảm thấy khá ấm áp lúc trở vào xe. Tôi quyết định ngồi đó một lát. Tôi cầm tờ Times đã nhặt ở ngưỡng cửa nhà và đọc, lần đầu tiên. Niềm vui ngày lễ vừa lóe lên trong lồng ngực xẹp xuống ngay tức khắc lúc tôi nhìn thấy ảnh mình dưới tiêu đề VỤ BẮT CÓC CON TIN TẠI TANG LỄ ĐỆ NHẤT PHU NHÂN CAROLINE HOPKINS. Dưới ảnh tôi là dòng chú thích hoan hỉ: ‘Chúng tôi không biết gì hết’. Tôi ngắm dòng chữ bêu riếu đó.
Cathy Calvin đây. Còn ai nữa?
Tôi lắc đầu, và cảm thấy bụng mình quặn thắt. Chẳng khác nào cô ta cắt nghiến gân tôi. Kể cả bức ảnh cũng tệ. Vẻ trầm ngâm, chăm chú trên mặt tôi hoàn toàn có thể hiểu sai là ngượng ngập. Chắc họ chụp lúc tôi đang tìm người quản lý thánh đường.
Nhờ mười lăm phút của tôi, Calvin đã trở nên nổi tiếng, tôi nghĩ. Cô không nên làm thế này. Tôi không thể hoãn gặp chỉ huy Will Matthews. Thể nào cũng nhận được lời phê vì chiêu quảng cáo mà tôi đã làm với tờ Times đây.
Lời chú thích đó - vụ này chỉ càng nổi tiếng, đúng không? - khiến tôi giận dữ
quăng tờ báo lên ghế và vào số, lái xe đi.
Chao ôi, tôi đã trở thành trung tâm nóng bỏng của đống hỗn độn này.
17
Đúng tám giờ hai mươi chín phút, gã Ngăn nắp đặt tách cà phê lên cái gờ băng giá của bốt điện thoại công cộng ở góc phố Năm mươi mốt và Madison. Tuy lấy tách cà phê ấy từ một trong những xe tiếp phẩm đậu ở góc phố, gã cũng thấy phấn chấn khi nhấp một ngụm nóng bỏng.
Giữa những tòa nhà màu tro dọc phố Năm mươi mốt, bầu trời buổi sáng màu xám trông như mảnh vỡ khổng lồ của tấm kính bẩn thỉu. Ánh sáng đùng đục không đủ chiếu sáng các cửa sổ tò vò tối tăm của St. Pat, đối diện với với đường phố bị chặn.
Gã Ngăn nắp cười một lúc, thưởng thức nỗi bất hạnh, thứ cà phê quá nóng, quá khó chịu, cái rét cắt da trên mặt, tiếng các máy phát điện của cảnh sát như khoan vào lỗ tai. Dường như là ám hiệu, một kẻ lang thang chui ra từ dưới đống lộn xộn ở nhà kho bên lề, giữa đường xuống khối nhà và ngáp, rồi xỉ mũi thật to vào rãnh nước, mỗi lần một bên lỗ mũi.
Chà! Buổi sáng kiểu New York, gã Ngăn nắp nghĩ lúc nhấc điện thoại. Gã hiểu rõ sự việc liều lĩnh cuồng bạo, bất lương này sẽ là một cú điếng người. Nhưng muốn có khoản tiền bảy con số trong tài khoản nhà băng, gã phải cố tìm ra cách.
“Chuyện gì thế?” Một giọng nói.
“Chuyện cũ thôi, ông bạn Jack ạ,” gã Ngăn nắp lên tiếng, vui vẻ. “Cậu có nhìn thấy cái xe moóc mới ở đằng trước không? Đội Giải cứu Con tin ở trong đấy.” “Đấy là việc tôi đang nói đây,” Jack nói, dò la. “Bọn chúng làm đúng kịch bản rồi.” “Còn các vị khách thì sao? Họ có một đêm dễ chịu chứ?”
“Bọn cóc vàng ấy thực ra chẳng giống cả tôi lẫn cậu tí tẹo nào,” Jack đáp. “Bọn chúng dễ bảo gấp tỉ lần chúng ta tưởng tượng. Nói thật nhé, một lớp mẫu giáo còn nhiều rắc rối hơn kia.”
“Tôi chẳng nói với cậu rồi sao?” Gã Ngăn nắp tiếp.
“Nói rồi,” Jack đáp. “Cậu nói rồi. Cậu cứ để mắt ở ngoài ấy đi. Theo sát kế hoạch nhé.”
Đường dây tắt. Gã Ngăn nắp treo điện thoại và mỉm cười lúc hai cảnh sát đi ngang qua. Vẻ thất vọng, ảm đạm như buổi sáng hiện rõ trên bộ mặt thiếu ngủ của họ. Nhắm mắt lại, viễn cảnh trước mắt gã xuất hiện một phòng tắm nắng bằng đá hoa rộng mênh mông, hơi nước bốc lên từ mạch nước ngầm sôi sùng sục, đống khăn mặt gấp cẩn thận thành hình nón, trắng lóa mắt bên dưới một cửa sổ đầy ắp biển cả xanh thắm.
Gã lại cầm tách cà phê nóng lên lúc quay thẳng vào nhà thờ. Những con bồ câu trong ánh sáng màu kền, vẫy cánh quanh các ngọn tháp nhọn. Lòng gã xao động khi nhớ đến những con bồ câu mà cha gã hay bắt trên mái nhà ở Brooklyn.
Nếu như gã chẳng bao giờ để mắt tới một con chuột biết bay nào khác, hoặc lý do biện bạch kém cỏi cho hành động của cha, gã sẽ chết như một người vô cùng hạnh phúc.
Gã Ngăn nắp chớp chớp mắt, xua đi hồi ức hiếm hoi và đưa tách cà phê lên, xuống, từ bên này sang bên kia nhà thờ như một linh mục ban phúc lành. “Con thực lòng biết ơn Chúa vì những món quà con sắp nhận được,” gã Ngăn nắp nói.
18
Diễn viên hài John Rooney không biết là mấy giờ lúc anh thôi giả vờ ngủ, nhưng dựa vào ánh sáng nhợt nhạt ở đằng sau lớp kính màu phía trên, anh đoán khoảng chín giờ.
Các ghế dài mỏng, hẹp gần như không thoải mái để nằm, nên bọn cướp đã cho phép họ dùng các tấm nệm ngồi hoặc quỳ để ngủ trên sàn đằng trước ban thờ. Tuy vậy, nệm thì nhỏ và sàn đá hoa hút hết hơi ấm cơ thể, và nếu đem so sánh, vỉa hè của thành phố dường như là một tấm đệm ấm áp hơn.
Có lẽ nào mệt lử là một khía cạnh của sợ hãi? Rooney vừa nghĩ, vừa chà xát nắm tay lên mắt lúc anh ngồi dậy, dựa vào chấn song ban thờ. Ờ, quá mệt. Do bọn bắt cóc.
Ở đằng sau điện thờ, ba tên cướp đeo mặt nạ ngồi trên các ghế gấp, uống cà phê trong cốc giấy. Rooney không nhìn thấy John Bé và tên cầm đầu Jack ở đâu. Bọn chúng đeo mặt nạ và áo choàng, khó mà biết thực ra có bao nhiêu tên. Tám hay mười hai. Có khi nhiều hơn. Hình như bọn chúng làm việc theo ca, mọi thứ rất có tổ chức.
Rooney quan sát, nỗi tức giận dâng lên lúc một tên trong bọn ngả về phía anh và châm thuốc lá ở ngọn nến thờ.
Một bàn tay đặt lên vai anh lúc Charlie Conlan ngồi dậy bên cạnh. “Chào cậu,” Conlan khẽ nói, không nhìn anh. “Tối qua cậu chống trả thật dũng cảm.”
“Ý cậu là ngu ngốc chứ gì,” Rooney nói, sờ lớp vảy trên mặt.
“Không,” Conlan nói. “Cực can đảm. Bây giờ ta sẽ làm thế lần nữa, chỉ cần đúng lúc thôi.”
“Cậu vẫn muốn chống lại chúng ư?” Rooney nói. Conlan điềm đạm gật đầu, và Rooney hiểu cái nhìn sắt đá của ngôi sao ca nhạc. Trong đời thường, hình như Charlie Conlan nổi tiếng trong giới là người hay gây gổ nhiều hơn với tư cách ngôi sao Rock-and-Roll.
“Này,” một giọng thì thầm sau lưng họ. Mercedes Freer, vốn được tạp chí nguồn gán cho biệt danh ‘thần tượng của giới trẻ’, đã được thả khỏi phòng xưng tội từ đêm trước, ngồi dậy từ chỗ cô đang ngủ.
“Mấy anh chàng xấu tính định làm gì đấy hở?” Cô nói.
Rooney cân nhắc xem có nên để cô tham gia không, rồi cuối cùng anh gật đầu. “Chỉ đang chuẩn bị thôi.”
“Cầu phúc cho chuyện dấm dớ ấy,” cô ca sĩ nói. “Làm đi. Một trong những tên đó mê tít tôi. Tối qua, hắn đã nói chuyện với tôi qua cánh cửa phòng xưng tội. Cái tên gày nhom đeo súng, ngồi ở giữa kia kìa. Chúng ta có thể lợi dụng hắn. Tôi có thể làm như thuận tình với hắn hoặc đại loại thế.”
Đúng lúc đó, John Bé từ đằng sau điện thờ đi tới, mang đồ uống lạnh và một khay cà phê.
“Dậy và tươi lên nào, hỡi những người cắm trại,” hắn gào to lúc đứng ở lối đi. “Tất cả ngồi lên ghế. Đến giờ ăn rồi.”
Một âm thanh đột ngột, ngân vang bắt đầu từ chỗ Đức cha Solstice ở sau Rooney ba hàng ghế. Lúc đầu, anh tưởng vị mục sư da đen bị đau tim. Nhưng âm thanh
vang lên du dương và vút cao, Rooney nhận ra ông ta đang hát.
Đức cha Sparks ngồi cạnh Soltice, bắt đầu hát theo. Rooney trố mắt. Sao lại có chuyện ngớ ngẩn này? Nhưng lát sau, kể cả anh cũng thấy giọng hát say sưa của hai người hình như truyền hơi ấm dễ chịu vào ngôi nhà thờ lạnh giá. Nhiều người bắt đầu hòa theo, và lúc Rooney nhìn thấy John Bé lắc đầu phản đối, anh cũng hát theo.
Càng sửng sốt hơn khi sau đấy, Mercedes Freer đứng dậy và hát Silent Night*. Rooney há hốc miệng vì vẻ đẹp cổ điển thuần khiết trong giọng hát của Mercedes. Cô gái chanh chua, ăn nói thô lỗ có thể thành nghệ sĩ độc tấu trong một vở nhạc kịch.
Giấc ngủ yên bình, cô hát. Hãy ngủ thật say…
Một tiếng súng khô giòn, đanh gọn thế vào nốt cuối cùng của Mercedes. Mọi người bất bình quay lại các hàng ghế hướng thẳng tới nhà thờ lớn hơn, nơi phát ra tiếng nổ.
Âm vang ớn lạnh của tiếng súng ép mạnh vào nút điều chỉnh trong tâm trí Rooney. Anh cảm thấy quyết tâm của mình tắt ngấm như ngọn nến bị gió thổi. Xin Chúa cứu giúp chúng con, anh nghĩ và lần đầu tiên cảm thấy tác dụng thực sự của những lời cầu xin.
Cuộc tàn sát đã bắt đầu.
• • •
Chuyện quái gì vậy? Sao lại có thể xảy ra?
Dựa tấm lưng phẳng vào một trong những cây cột đá hoa ốp gỗ củ tùng dày của nhà thờ, Jack nắm chặt khẩu chín li và lắng nghe chăm chú.
Hắn đang đi ở vòng ngoài thì thấy một người mặc đồ đen lao ra từ cửa một hàng bán quà tặng. Ngỡ là Đội Giải cứu con tin của FBI đã đột nhập vào bên trong nhà thờ, hắn rút khẩu súng lục và bắn.
Không hiểu sao họ vào được, hắn nghĩ. Ắt hẳn có ngõ ngách nào đấy mà hắn và gã Ngăn nắp bỏ sót. Hắn đợi tiếng giày ống nện trên sàn đá hoa. Những mệnh lệnh thì thầm. Hắn đích thân kiểm tra cẩn thận để tìm cái chấm đỏ của ống ngắm lade, có nghĩa là hắn phải chết.
“Chuyện gì thế?” John Bé hỏi, hắn cùng hai tên khác từ lối đi giữa chạy tới. Một tay hắn cầm lựu đạn, tay kia cầm khẩu chín li.
“Một thằng mặc đồ đen vừa nhô ra khỏi cửa hàng quà tặng. Tao không nghĩ đó là Will Smith. Tuy vậy, tao nghĩ là đã bắn hắn.”
“FBI ư?” John Bé thì thào, liếc nhìn lên các cửa sổ kính màu. “Làm thế nào?” “Tao không biết,” Jack nói và nhìn trộm cây cột. “Thằng ấy ngã xuống cạnh bình đựng nước thánh. Tao sẽ kiểm tra thằng đó. Bọn mày kiểm tra cửa hàng bán quà tặng. Bắn trước nhé.”
Bọn chúng chia ra và ào tới đằng trước nhà thờ. Jack nhún nhảy đi vào lối giữa, súng chĩa vào thân hình đang nằm trên sàn đá hoa. Nó không nhúc nhích. Hắn gõ mạnh nòng súng ấm nóng vào trán lúc nhìn ra người hắn vừa bắn. Mình đã làm gì thế này?
Jack nhìn xuống vị linh mục già. Ánh nến lập lòe chiếu vào vũng máu đen dưới đầu ông ta. Cứt thật.
John Bé suýt đụng phải hắn.
“Trong cửa hàng quà tặng không có ai,” hắn nói. Hắn nhìn xuống vị giáo sĩ bị giết tàn bạo và cặp mắt mở trừng trừng, to tướng của ông ta.
“Chó chết!” Hắn nói.
Jack ngồi xổm cạnh cái xác và nhìn chằm chằm vào bộ mặt đã chết của giáo sĩ. “Nhìn xem, ông đã khiến tôi làm gì này,” hắn nói, giận dữ.
John Bé đút súng vào bao.
“Giờ chúng ta phải làm gì đây?” Hắn hỏi.
Ít ra bọn kia đang nhằm vào lưng mình, Jack nghĩ và nhìn xuống con người vô tội mà hắn vừa giết. Hắn đã bảo chúng giết chóc có thể là một khả năng, và tất cả đã lặng lẽ tán thành.
Chí ít hắn cũng có đồng bọn ở địa ngục.
“Chúng ta sẽ lợi dụng việc này,” hắn nói. “Không muốn hành động nghiệt ngã, nhưng làm như chúng ta không có lựa chọn nào khác.”
“Lợi dụng ư?” John Bé nói và nhìn xuống vị linh mục đã chết. “Như thế nào đây?” “Nắm lấy tay chân của đức cha,” Jack nói. “Tao đã chán chờ đợi lắm rồi. Đã đến lúc tăng tốc và tăng sức ép. Đến lúc hành xử tàn nhẫn.”
19
Vừa quá chín giờ, tôi tới chỗ rào chắn CẢNH SÁT KHÔNG ĐƯỢC QUA của trung tâm chỉ huy. Trước khi hiểu thông điệp ấy là lệnh cho tôi trở về nhà với gia đình, tôi tắt động cơ chiếc Chevy và mở cửa.
Tôi lắc đầu vì cuộc bao vây sinh tử vẫn tiếp tục lúc tôi lách qua cả đống phương tiện truyền thông đang đông thêm, rồi được vẫy tay ra hiệu cho qua ở cả ba trạm kiểm soát.
Phản chiếu trong lớp kính đen của tòa công thự hiện đại gần đó về phía bắc, tháp chuông nhọn hoắt của thánh đường trông như một giàn gai và lúc này cắm thẳng xuống mặt đất. Hai phóng viên đang chuyển dữ liệu làm tường thuật trực tiếp về đài của họ. Khi có tin, các phóng viên báo gõ vào laptop, phóng viên truyền hình tường thuật trực tiếp, phóng viên đài phát thanh gào rất to vào điện thoại.
Tôi vừa rời mắt khỏi đám phóng viên cùng công việc của họ thì bắt gặp các cánh cửa của thánh đường ở bên kia đại lộ Năm chuyển động. Cửa lại mở ra lần nữa! Ban đầu, hình như một hình người bay từ trong bóng khung vòm ra, có lẽ chúng thả thêm một người nữa. Lúc tôi nhận ra người đàn ông mặc đồ đen chuyển động rất nhanh, mạch tôi đập dồn. Tôi đoán có lẽ một người nào đó đang chạy trốn. Lúc nhìn thấy người đó úp mặt xuống các bậc thềm bằng đá mà không hề có ý định ngừng lăn, tôi biết có gì đó không ổn.
Không kịp suy nghĩ quá nhiều, tôi lao qua cái xe rác chắn đường và chạy băng qua đại lộ.
Chỉ đến lúc leo lên các bậc thềm thánh đường và quỳ cạnh thân hình vừa rơi xuống, tôi mới chợt lạnh người nhớ ra mình không mặc áo chống đạn. Cái xác bị ném đã trượt qua một phần con phố hôm trước dành riêng cho thi hài Caroline Hopkins. Lúc này, những ngọn nến thờ trông giống các chai bia lắc lư hơn là những đồ thờ cúng trang nghiêm. Một bó hồng héo nằm ngay bên bàn tay duỗi ra của người lăn xuống, như thể ông ta đánh rơi nó trong lúc ngã.
Tôi không bắt được mạch ông ta. Một luồng ớn lạnh xuyên qua tim tôi lúc lật thi thể lên để làm hồi sức cấp cứu.
Tôi nhìn lướt từ cái cổ áo trắng tinh của giáo sĩ tới lỗ thủng ở thái dương ông, cặp mắt ông mở to, chết ngấm.
Tôi nhắm nghiền mắt và đưa bàn tay lên che mặt trong giây lát. Rồi tôi quay lại và nhìn trừng trừng vào các cánh cửa đồng thau đã khép chặt.
Bọn chúng đã giết một linh mục!
Trung úy Phản ứng nhanh Reno đã ở cạnh tôi.
“Lạy Đức Mẹ,” anh nói khẽ, gương mặt sắt đá của anh nao núng. “Giờ bọn chúng là những kẻ sát nhân.”
“Đưa ông ấy ra khỏi đây, Steve,” tôi nói.
Reno nắm chân, tôi nắm tay ông ta. Bàn tay vị linh mục mềm và nhỏ nhắn như tay đứa trẻ. Hầu như ông chẳng còn chút sức nặng nào. Xương bả vai của ông thõng xuống khỏi mái đầu ngật ngưỡng, sướt trên lớp nhựa đường lúc chúng tôi khiêng cái xác chạy tới hàng rào cảnh sát.
“Sao vụ này cứ phải lôi thêm các xác chết ra, hở Mike?” Reno buồn bã nói lúc chúng tôi ào qua rào chắn.
• • •
Lúc đặt vị linh mục bị sát hại lên cáng cứu thương, tôi nghe thấy tiếng chuông điện thoại reo, qua cửa xe chỉ huy mở sẵn. Không cần nhìn tên người gọi, tôi đã biết là ai. Tuy vậy, thay cho vồ lấy điện thoại, tôi cứ mặc nó reo trong lúc tôi thận trọng đưa ngón tay cái vuốt mắt linh mục.
“Bennett!” Tôi nghe thấy tiếng chỉ huy WillMatthews ở bên dưới. Tôi loạng choạng, dở sống dở chết đi qua anh mà không nhận thức được mình đang đi vào xe buýt. Lần đầu tiên nhận điện thoại mà tôi không hề lo lắng, không ngấm ngầm sợ sẽ xử lý tình thế kém cỏi. Hoàn toàn ngược lại nữa kia. Tôi đang nóng lòng muốn nói chuyện với tên chó đẻ kia.
Chắc hẳn chuyên gia thương lượng Martelli của FBI đã cảm thấy cơn thịnh nộ của tôi. Anh tóm lấy cổ tay tôi.
“Mike, anh cần nguôi đi. Dù xảy ra bất cứ chuyện gì, hãy bình tĩnh. Đừng xúc động. Anh quá giận dữ, chúng ta sẽ mất sự hòa hợp mà anh đã tạo lập. Ba mươi hai con người vẫn đang lâm nguy.”
Đừng xúc động ư? Tôi nghĩ. Điểm tệ hại nhất trong việc này là Martelli đúng. Công việc của tôi là phải Cực kỳ Bình tĩnh. Giống như bị vỡ mũi mà phải xin lỗi đã vấy máu lên nắm đấm của kẻ thụi mình. Lúc này, tôi thực sự căm ghét công việc này.
Tôi gật đầu với viên trung úy máy tính bên bàn.
“Bennett đây,” tôi nói.
“Mike,” Jack vui vẻ nói vào tai tôi. “Anh đấy ư. Nghe này, để tôi giải thích trước khi các anh khó chịu. Sáng hôm qua, cha Stowaway uống rượu vang khá say vì chúng tôi đã cho phép mọi người. Ông ấy nhảy ra không đúng lúc và cố chạy. Vì ông ta mặc đồ đen nên chúng tôi tưởng là một người trong Đơn vị Cảnh sát đặc biệt của các anh lẻn vào bữa tiệc.”
“Anh nói gì vậy? Đây chỉ là một tai nạn ư? Không phải lỗi của các anh sao?” Tôi nói, nắm tay tôi muốn nghiền nát cái điện thoại.
“Chính xác,” Jack nói. “Một trong những việc sai địa điểm, sai thời gian, Mike ạ. Nhưng đấy thực sự không phải là mất mát gì lớn, anh nghĩ mà xem. Một kẻ ngớ ngẩn chợp mắt một giấc vô nghĩa. Theo cách tôi nhìn nhận, càng có nhiều kẻ tu hành ra ngoài đó, tối nay càng dễ ngủ hơn.”
Thế đấy, tôi nghĩ. Dù diễn hay không, tôi đã nghe con quái vật này nói xong. “Mi là đồ chó đẻ,” tôi nói. “Mi là một bãi cứt. Mi đã giết một linh mục.” “Tai tôi đánh lừa tôi chắc?” Jack gào to, nhơn nhơn. “Hay là tôi nghe thấy một xúc
động nho nhỏ, thực sự đây? Tôi bắt đầu nghĩ tôi đang nói chuyện với một máy tính đấy, Mikey. Mọi thứ liệu pháp tâm lý, mọi chiến thuật thương lượng bình tĩnh tào lao mà anh phun ra gần như khiến tôi muốn dí súng vào tai. Rốt cuộc thì, hãy ngửa bài đi, ông bạn. Chúng tôi muốn có tiền và ra đi, còn người của anh muốn thổi bay đầu chúng tôi bằng súng cực mạnh vào lúc thuận tiện nhất.”
Jack cười khoái chí.
“Chúng ta không phải là bạn bè. Nếu trên trái đất này từng có kẻ thù, thì đó là anh và tôi. Anh nói đúng, Mike ạ. Chúng tôi là lũ chó đẻ. Thực ra, chúng tôi là những con chó xấu xa nhất mà anh không may gặp phải. Nếu chúng tôi sẵn sàng thịt một thầy tu chẳng vì lý do gì, anh có vui lòng nghĩ tôi sẽ thịt nốt một trong những nhân vật danh tiếng vô tích sự mà tài khoản có hơn bảy con số không? Hoặc là giết chúng tôi, hoặc để chúng tôi lấy tiền của mình. Đừng phí phạm thời gian của tôi nữa!”