🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cái Toàn Thể Và Trật Tự Ẩn Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Tác phẩm Tác giả Dịch giả Tủ sách Thể loại NXB THƯ VIỆN EBOOK (TVE-4U) Cái Toàn Thể Và Trật Tự Ẩn David Bohm Tiết Hùng Thái Tủ sách Tinh Hoa Triết Học Tri Thức - 2011, 2012, 2015, 2017 —✥— EBOOK©VCTVEGROUP 08-04-2019 https://thuviensach.vn MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN LỜI NÓI ĐẦU 1 SỰ PHÂN MẢNH VÀ CÁI TOÀN THỂ 2 RHEOMODE - MỘT THÍ NGHIỆM VỚI NGÔN NGỮ VÀ TƯ DUY 3 THỰC TẠI VÀ TRI THỨC ĐƯỢC XEM XÉT NHƯ QUÁ TRÌNH 4 NHỮNG BIẾN ẨN TRONG CƠ HỌC LƯỢNG TỬ 5 THUYẾT LƯỢNG TỬ NHƯ MỘT DẤU CHỈ MỘT TRẬT TỰ MỚI TRONG VẬT LÍ PHẦN A: SỰ PHÁT HIỆN NHỮNG TRẬT TỰ MỚI QUA LỊCH SỬ VẬT LÍ HỌC 6 THUYẾT LƯỢNG TỬ NHƯ MỘT DẤU CHỈ MỘT TRẬT TỰ MỚI TRONG VẬT LÍ PHẦN B: TRẬT TỰ ẨN TÀNG VÀ TRẬT TỰ HIỂN LỘ TRONG QUY LUẬT VẬT LÍ 7 VŨ TRỤ CUỘN VÀO-GIỞ RA VÀ Ý THỨC https://thuviensach.vn LỜI CẢM ƠN Tác giả và nhà xuất bản xin cảm ơn các tổ chức sau đây đã cho phép sử dụng lại bản quyền các tài liệu: The Van Leer Jerusalem Foundation (chương 1 và 2, từ Fragmentation and Wholeness, 1976); các biên tập viên của The Academy (chương 3, The Academy, tập 19, số 1, Tháng Hai, 1975) Academy Press Ltd (chương 4, từ Quantum theory Radiation and High Energy Physics, phần 3, do D, R. Bates biên tập, 1962); Plenum Publishing Corporation (chương 5 vá 6, từ Foundations of Physics, tập 1, số 4, 1971, các trang 359-81, và tập 3, số 2,1973, các trang 139-68). https://thuviensach.vn LỜI NÓI ĐẦU Cuốn sách này là một tập hợp các tiểu luận (xem Lời cảm ơn) trình bày quá trình phát triển tư tưởng của tôi trong vòng hai mươi năm qua. Có lẽ cần đôi lời giới thiệu về những vấn đề nguyên tắc sẽ được thảo luận và sự liên hệ với nhau giữa chúng. Tôi muốn nói rằng trong tác phẩm khoa học và triết học này, mối quan tâm chủ yếu của tôi là việc thấu hiểu bản chất của thực tại nói chung và ý thức nói riêng như một toàn thể cố kết, mạch lạc, nó không bao giờ đứng yên và hoàn thành, mà là một quá trình bất tận của vận động và khai mở. Bởi vậy, khi nhìn lại, tôi thấy từ khi còn là một đứa trẻ tôi đã hết sức hứng thú với câu đố thật bí hiểm về bản chất của vận động. Bất cứ khi nào người ta nghi về một điều gì đó, dường như người ta đều hiểu nó như là tĩnh tại, hoặc như một loạt những hình ảnh tĩnh tại. Thế nhưng, trong trải nghiệm thực tế về vận động, người ta cảm thấy một quá trình liên tục, không đứt đoạn của dòng chảy, mà hang loạt những hình ảnh tĩnh tại trong tư duy có liên hệ với nó như một loạt những bức ảnh “tĩnh” chụp nhanh có thể có liên hệ với hình ảnh một chiếc xe đang lao nhanh. Thật ra vấn đề có bản chất triết học này đã được nêu ra cách đây hơn 2.000 năm trong những nghịch lí của Zeno, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa thể nói là đã có câu trả lời thỏa đáng. Rồi lại có vấn đề nữa về mối quan hệ giữa tư duy và thực tại. Tập trung chú ý thật cẩn thận thì sẽ thấy, bản thân tư duy nằm trong một quá trình vận động thực. Có nghĩa là, người ta có thể cảm thấy một cảm giác về dòng chảy trong “dòng ý thức” không khác với cảm giác về dòng chảy trong vận động của vật chất nói chung. Như vậy liệu bản thân tư duy có thể không phải là một bộ phận của toàn bộ thực tại được chăng? Nhưng như vậy thì việc một bộ phận của thực tại “biết” một bộ phận khác có thể có nghĩa là gì, và việc đó có thể xảy ra trong phạm vi nào? Phải chăng nội dung của tư duy chỉ cho chúng ta một “bức ảnh chụp nhanh” trừu tượng và đơn giản hóa của thực tại, hay nó có thể đi xa hơn, cách nào đó nắm bắt được thực chất của vận động sống mà chúng ta cảm thấy trong kinh nghiệm thực tế? Rõ ràng là, trong khi trầm tư và nghiền ngẫm về bản chất của vận động, cả trong tư duy và trong đối tượng của tư duy, người ta không khỏi đi đến vấn đề tinh toàn thể hay tổng thể. Cái ý niệm rằng người suy nghĩ (cái Tôi tư duy) ít nhất về nguyên tắc là tách rời khỏi và độc lập với thực tại mà y nghĩ về, tất nhiên đã ăn sâu vào toàn bộ truyền thống của chúng ta (Ý niệm này rõ ràng hầu như được thừa nhận phổ biến ở phương Tây, nhưng ở phương Đông có một khuynh hướng chung phủ nhận nó về mặt lập https://thuviensach.vn ngôn và triết học, trong khi đồng thời một quan điểm như thế cũng tràn ngập thực tế cuộc sống hằng ngày giống như ở phương Tây). Kinh nghiệm chung thuộc loại được mô tả ở trên, cùng với vô số kiến thức khoa học hiện đại về bản chất và chức năng của bộ não như là cơ sở của tư duy, gợi lên rất mạnh rằng một sự phân chia như thế không thể duy trì mãi. Nhưng điều này đặt chúng ta trước một thử thách hết sức khó khăn: làm thế nào chúng ta có thể suy nghĩ mạch lạc về một thực tại đơn nhất, nguyên vẹn, trôi chảy, tồn tại như một toàn thể, chứa cả tư duy (ý thức) và thực tế bên ngoài như chúng ta trải nghiệm nó? Rõ ràng điều này đưa chúng ta đến chỗ xem xét cái thế giới quan toàn thể của chúng ta, bao gồm những khái niệm chính của chúng ta về bản chất của thực tại, cùng với khái niệm về trật tự toàn thể của vũ trụ, tức là vũ trụ luận. Để đương đầu với thách thức trước mặt chúng ta, những khái niệm của chúng ta về vũ trụ luận và về bản chất chung của thực tại phải có chỗ chứa đựng được một quan niệm nhất quan về ý thức. Ngược lại, những khái niệm của chúng ta về ý thức phải có chỗ để hiểu được cái nội dung “thực tại như một toàn thể” của nó có nghĩa gì. Như vậy, cả hai loại khái niệm ấy tập hợp lại phải sao cho chúng ta hiểu thực tại và ý thức liên hệ với nhau như thế nào. Tất nhiên, những vấn đề này là vô cung lớn, và trong bất kì trường hợp nào cũng không thể được giải quyết một cách triệt để và hoàn toàn. Tuy nhiên, đối với tôi dường như luôn có một vấn đề quan trọng rằng có cuộc điều tra liên tục những đề nghị nhằm đương đầu với thách thức đã được chỉ ra ở đây. Tất nhiên, khuynh hướng thịnh hành trong khoa học hiện đại đi ngược lại một cố gắng như thế, nó được hướng chủ yếu vào những dự đoán tương đối chi tiết và cụ thể về mặt lí thuyết, nó hé lộ ít nhất một số hứa hẹn cuối cùng có thể áp dụng vào thực tiễn. Do đó, tôi thấy cần giải thích tại sao tôi có ý muốn mạnh mẽ đến thế đi ngược dòng chảy chung đang chiếm ưu thế. Ngoài những điều tôi cảm thấy là mối quan tâm thực chất về những vấn đề cơ bản và sâu sắc, trong quan hệ này, tôi muốn tập trung chú ý vào những vấn đề tổng quát về sự phân mảnh của ý thức con người, điều này sẽ được bàn đến trong chương 1. Trong chương này tôi đề xuất rằng những sự phân biệt giữa những con người (về chủng tộc, dân tộc, gia đình, nghề nghiệp v.v. và v.v.) vốn lan tràn và phổ biến nay dang ngăn cản loài người cùng làm việc vì những mục đích chung tốt đẹp, và thật vậy, ngay cả để sống còn. Trong nguồn gốc của những sự phân biệt này có một nhân tố then chốt là cái lối suy nghĩ coi mọi vật như thể chúng vốn cố hữu bị phân cắt, chia lìa, và “vỡ vụn” thành những hợp phần nhỏ hơn. Mỗi phần được coi như độc lập về bản chất và tự thân tồn tại. Khi con người suy nghĩ về bản thân theo cách này, y sẽ có xu hướng không tránh khỏi phụ https://thuviensach.vn thuộc vào nhu cầu của cái “Tôi” của y, chống lại cái tôi của những người khác; hay là, nếu y đồng nhất bản thân với một nhóm người cùng loại, y sẽ bảo vệ nhóm này theo cùng cách ấy. Y không thể nghĩ về loài người như một thực tại cơ bản, mà sự khẳng định phải là đầu tiên. Cho dù y cố gắng xem xét những nhu cầu của loài người, y vẫn có xu hướng coi loài người tách rời khỏi tự nhiên, v.v. Điều mà tôi muốn đề xuất ở đây là cách suy nghĩ chung của con người về cái toàn thể, tức là thế giới quan tổng quát của y, hết sức quan trọng đối với trật tự chung của bản thân tri óc con người. Nếu ý nghĩ về cái tổng thể như được hợp thành từ những mảnh vụn độc lập thì trí óc của y có xu hướng hoạt động theo cách đó, nhưng nếu y có thể bao gồm mọi thứ một cách mạch lạc và hài hòa trong một toàn thể toàn diện, không phân chia, không vỡ vụn, và không có ranh giới (vì mọi ranh giới là phân chia hay đứt vỡ) thì trí óc y có xu hướng vận động trong một cách tương tự, và từ đó sẽ trôi chảy một hoạt động có trật tự bên trong cái toàn thể. Tất nhiên, như tôi đã chỉ ra, thế giới quan tổng quát của chúng ta không phải là nhân tố duy nhất quan trọng trong bối cảnh này. Thật vậy, cần chú ý đến nhiều nhân tố khác, như cảm xúc, hoạt động sinh lí, các mối quan hệ giữa con người, các tổ chức xã hội, v. v. Nhưng có lẽ vì chúng ta hiện nay không có một thế giới quan mạch lạc, cho nên có một xu hướng phổ biến hầu như hoàn toàn bỏ qua tầm quan trọng về tâm lí và xã hội của những vấn đề như thế. Đề xuất của tôi là: một thế giới quan đúng, thích hợp với thời đại của nó, nói chung là một trong những nhân tố cơ bản, thiết yếu cho sự hài hòa trong cá nhân và trong toàn thể xã hội. Trong chương 1 ta thấy rằng bản thân khoa học đang đòi hỏi một thế giới quan mới, không phân mảnh, theo nghĩa là phương pháp phân tích thế giới thành các bộ phận tồn tại độc lập như hiện nay là không có hiệu quả lắm trong vật lí hiện đại. Cả trong thuyết Tương đối và thuyết Lượng tử, các khái niệm hàm nghĩa cái toàn thể không phân chia của vũ trụ đã cung cấp một phương pháp mạch lạc* hơn nhiều hầu xem xét bản chất chung của thực tại. Trong chương 2 chúng ta xem xét vai trò của ngôn ngữ trong việc đưa sự phân mảnh vào tư duy. Người ta đã chỉ ra, cái cấu trúc “chủ ngữ-động từ-đối tượng” của ngôn ngữ hiện đại ngầm chỉ rằng mọi hành động phát sinh trong một chủ thể biệt lập, và tác động lên một đối tượng tách biệt, hoặc tác động phản thân* lên chính nó. Trong toàn bộ cuộc sống, cái cấu trúc phổ biến này đưa vào một chức năng phân chia cái toàn thể của tồn tại thành những thực thể tách rời, [những thực thể này] được xem như là cố định và bất biến về bản chất. Từ đó chúng ta đặt câu hỏi liệu có thể đưa ra thí nghiệm những dạng ngôn ngữ mới, trong đó vai trò căn bản được dành cho động từ chứ không phải danh từ? Những dạng [ngôn ngữ] đó sẽ bao hàm trong nội dung của nó hàng loạt những hành động trôi chảy và hòa nhập vào nhau, mà không có sự phân chia ranh rẽ hay sự đứt đoạn. Như vậy, cả trong hình thức lẫn nội dung, ngôn ngữ này sẽ hài hòa với dòng https://thuviensach.vn chảy vận động không đứt gãy của toàn thể tồn tại. Những gì được đề xuất ở đây không phải là một ngôn ngữ mới theo Cách hiểu thông thường, mà đúng hơn là một cách thức mới trong việc sử dụng ngôn ngữ hiện có - một rheomode (phương thức dòng chảy). Chúng ta tạo ra một phương thức như thế như một dạng thử nghiệm đối với ngôn ngữ, chủ yếu nhằm nhìn thấu vào chức năng phân mảnh của ngôn ngữ nói chung, hơn là tạo ra một cách nói mới có thể dùng trong giao tiếp thông thường. Trong chương 3, cũng vẫn vấn đề này được xem xét trong một bối cảnh khác. Mở đầu, chương này bàn đến vấn đề rằng thực tại, về bản chất, có thể được xem như một tập hợp các hình thức trong một vận động hay một quá trình cơ bản phổ quát như thế nào, và sau đó đặt câu hỏi làm thế nào có thể xem xét tri thức của chúng ta theo cùng cách đó. Như vậy, phương pháp này có thể mở ra một cách nhìn mới về thế giới, trong đó ý thức và thực tại không bị chia lìa khỏi nhau. Vấn đề này được thảo luận kĩ lưỡng và chúng ta đi đến khái niệm rằng cái nhìn tổng quát về thế giới* của chúng ta tự bản thân nó là một vận động toàn diện của tư duy nó phải đứng vững được theo nghĩa toàn bộ các hoạt động tuôn ra từ đó nói chung là hài hòa, cả với bản thân chúng lẫn với toàn thể tồn tại. Một sự hài hóa như thế chỉ có thể có được nếu bản thân cái nhìn thế giới tham gia vào một quá trình bất tận của phát triển, tiến hóa và khai mở, quá trình này phù hợp như một bộ phận của quá trình phổ quát vốn là nền tảng của mọi tồn tại. Ba chương tiếp theo khá nặng về kĩ thuật và toán học. Tuy vậy, phần lớn các chương này có thể hiểu được đối với bạn đọc không chuyên về kĩ thuật, vì những phần kĩ thuật không hoàn toàn cần thiết phải hiểu, mặc dù chúng bổ sung nội dung nhiều ý nghĩa hơn cho những ai có thể theo dõi được. Chương 4 đề cập đến những biến thiên ẩn trong thuyết Lượng tử. Hiện nay thuyết Lượng tử là phương pháp cơ bản nhất của vật lí để hiểu các quy luật cơ bản và phổ quát liên quan đến vật chất và vận động của vật chất. Như vậy, rõ ràng là phải nghiên cứu nó cẩn thận nếu muốn đưa ra một cách nhìn tổng quát về thế giới. Thuyết Lượng tử, trong tình trạng hiện nay của nó, đề ra cho chúng ta một thách thức cực lớn, nếu chúng ta có chút quan tâm nào đến loại mạo hiểm như thế này, bởi vì trong thuyết Lượng tử không hề có một khái niệm nào nhất quán về cái thực tại nằm bên dưới cấu tạo và cấu trúc phổ biến của vật chất có thể là gì. Như vậy, nếu dùng cái cách nhìn thế giới đang thịnh hành hiện nay dựa trên khái niệm về các hạt, chúng ta khám phá ra rằng các hạt này (như electron chẳng hạn) cũng có thể biểu hiện như các sóng, rằng chúng có thể chuyển động gián đoạn, rằng không hề có quy luật nào có thể áp dụng một cách chi tiết cho những chuyển động thực của các hạt cá thể, và rằng người ta chỉ có thể làm những tiên đoán có tính thống kê cho một tập hợp lớn https://thuviensach.vn những hạt như thế. Nếu mặt khác chúng ta áp dụng một cách nhìn thế giới trong đó vũ trụ được coi như một trường liên tục, chúng ta thấy rằng trường này cũng phải là gián đoạn, cũng giống như hạt, và rằng, trong hành trạng thực của nó, nó cũng bị xói mòn như quan điểm hạt về quan hệ như một toàn thể đòi hỏi. Như vậy đã rõ ràng là chúng ta đang phải đối mặt với tình trạng phân mảnh cực kì sâu xa và triệt để, cũng như tình trạng rối loạn hoàn toàn, nếu chúng ta cố gắng suy nghĩ xem cái thực tại đang bị chi phối bởi các định luật vật lí của chúng ta có thể là cái gì. Hiện nay, các nhà vật lí có xu hướng tránh chủ đề này, bằng cách thể hiện một thái độ cho rằng cái nhìn tổng quát của chúng ta về bản chất của thực tại là không [hay rất ít] quan trọng. Tất cả những gì họ cho là đáng quan tâm trong vật lí học là tìm ra những phương trình toán học cho phép chúng ta dự báo và kiểm soát hành trạng của một tập hợp thống kê lớn gồm các hạt. Một mục tiêu như thế không thể coi như chỉ có lợi ích thực dụng và về mặt kĩ thuật; trái lại, trong phần lớn các công trình vật lí học hiện đại, người ta còn phỏng đoán rằng dự báo và kiểm soát hành trạng của loại đối tượng như thế chính là toàn bộ nội dung kiến thức của loài người. Thật ra, loại phỏng đoán này hòa hợp với tinh thần chung của thời đại chúng ta, nhưng đề xuất chính của tôi trong quyển sách này là chúng ta không thể đơn giản bỏ qua một cách nhìn tổng quát về thế giới. Nếu cứ cố làm thế, chúng ta sẽ chỉ còn lại bất kì cách nhìn thế giới nào tình cờ có trong tầm tay (mà nói chung là không thích hợp). Quả thực, người ta thấy rằng các nhà vật lí trong thực tế không thể chỉ chăm chú vào các phép tính nhằm dự báo và kiểm soát: họ nhất định thấy cần thiết phải sử dụng những tưởng tượng dựa trên một số loại khái niệm tổng quát nào đó về bản chất của thực tại, chẳng hạn như “các hạt là những đơn vị cơ bản kiến tạo nên vũ trụ”*, song những tưởng tượng như thế giờ đây trở nên quá mức hỗn độn (chẳng hạn, những hạt này chuyển động gián đoạn và đồng thời là sóng). Tóm lại, ở đây chúng ta gặp một ví dụ cho thấy cái nhu cầu có một khái niệm nào đó về thực tại trong tư duy của chúng ta là một nhu cầu sâu xa và mạnh mẽ dường nào, cho dù khái niệm đó là hỗn độn và chắp vá. Đề xuất của tôi là, tại mỗi giai đoạn, trật tự đúng đắn của hoạt động trí tuệ đòi hỏi nắm bắt toàn bộ những gì nói chung đã biết, không chỉ trong các thuật ngữ toán học, logic và hình thức, mà còn một cách trực giác, trong tưởng tượng, tình cảm, phong cách thi ca của ngôn ngữ v.v. (Hẳn chúng ta có thể nói rằng đây là cái đòi hỏi sự hài hòa giữa “não phải” và “não trái”). Cách suy nghĩ toàn diện này không chỉ là một nguồn phong phú sinh ra những ý tưởng lí thuyết mới: nó còn cần thiết để cho trí tuệ con người nói chung hoạt động theo cách hài hòa, từ đó mới có thể tạo nên một xã hội trật tự và ổn định. Tuy nhiên, như đã chỉ ra ở các chương trước, điều này đòi hỏi một dòng chảy liên tục và sự phát triển các khai niệm tổng quát của chúng ta về thực tại. https://thuviensach.vn Như vậy, chương 4 quan tâm đến việc tạo ra một sự khởi đầu trong quá trình phát triển một quan niệm mạch lạc về vấn đề loại thực tại nào có thể là cơ sở cho những dự đoán toán học đúng mà thuyết Lượng tử đạt được. Một mong muốn như thế nói chung đã được cộng đồng các nhà vật lí chấp nhận một cách có thể nói là còn bối rối, vì nhiều người cảm thấy rằng nếu có thể có một cách nhìn chung nào đấy về thế giới thì nó phải được xem như khái niệm “được chấp nhận” và “tối hậu” về bản chất của thực tại. Nhưng ngay từ đầu thái độ của tôi đã là: những khái niệm của chúng ta về vũ trụ và bản chất chung của thực tại nằm trong một quá trình phát triển liên tục, và có lẽ người ta phải xuất phát từ những ý tưởng vốn chỉ là một dạng cải tiến chút ít trên những gì đã có sẵn, và từ đó tiếp tục di đến một ý tưởng tốt hơn. Chương 4 trình bày những vấn đề có thực và nghiêm trọng thách thức bất kì ý đồ nào muốn cung cấp một khái niệm nhất quan về “thực tại có tính cơ học lượng tử”, và chỉ ra cách tiếp cận ban đầu đối với một giải pháp cho những vấn đề này dưới dạng những biến thiên ẩn. Chương 5 khám phá một cách tiếp cận khác đối với cùng những vấn đề ấy. Đây là một cuộc truy vấn đối với những khái niệm của chúng ta về trật tự. Trật tự, trong tính tổng thể của nó, rõ ràng về cơ bản là không thể xác định, theo nghĩa là nó tràn ngập mọi thứ chúng ta là và làm (ngôn ngữ, tư duy, cảm giác, cảm xúc, hoạt động của thân thể, nghệ thuật, các hoạt động thực tiễn, v.v.). Tuy nhiên, trong vật lí học, trong nhiều thế kỉ trật tự cơ bản là trật tự của hệ tọa độ thẳng của Descartes (được mở rộng ra một chút trong thuyết Tương đối thành hệ tọa độ cong). Trong khoảng thời gian đó vật lí học đã có bước tiến khổng lồ, với sự xuất hiện của nhiều nét cực kì mới mẻ, nhưng cái trật tự cơ bản nói trên vẫn giữ nguyên không thay đổi. Trật tự kiểu Descartes thích hợp với sự phân tích thế giới thành những bộ phận tồn tại tách rời (như các hạt hay các phần tử của trường*). Tuy nhiên, trong chương này chúng ta xem xét bản chất của trật tự một cách tổng quát hơn và sâu hơn, và phát hiện ra rằng trong cả thuyết Tương đối lẫn thuyết Lượng tử, trật tự kiểu Descartes đều dẫn đến những mâu thuẫn nghiêm trọng và hỗn độn. Đó là bởi vì cả hai lí thuyết giả định ngầm rằng trạng thái thực của mọi sự vật là cái toàn thể nguyên vẹn (không bị phá vỡ) của vũ trụ, thì đúng hơn là phân tích thành các bộ phận độc lập. Tuy nhiên, hai lí thuyết này khác nhau một cách cơ bản trong những khái niệm chi tiết về trật tự. Như vậy, trong thuyết Tương đối, vận động là liên tục, được quyết định theo quan hệ nhân quả, và được xác định rõ, trong khi ở cơ học lượng tử nó là gián đoạn, không theo quan hệ nhân quả, và không được xác định rõ. Mỗi lí thuyết gắn chặt với những khái niệm của riêng nó về bản chất mà trên cơ bản là bất biến và phân mảnh của tồn tại (thuyết Tương đối với các sự kiện rời rạc có thể kết nối bằng tín hiệu, còn thuyết Lượng tử thì với một trạng thái lượng tử được xác định rõ). Như vậy ta thấy rằng cần có một loại lí thuyết mói, nó vứt bỏ sự gắn bó cơ https://thuviensach.vn bản này và nhất là khôi phục lại đôi nét chủ yếu của các lí thuyết cũ như những hình thức trừu tượng suy ra từ một thực tại sâu hơn, trong đó cái chiếm ưu thế là một toàn thể nguyên vẹn. Trong chương 6 chúng ta đi xa hơn để bắt đầu phát triển cụ thể hơn một khái niệm mới về trật tự, khái niệm này có thể thích hợp với một vũ trụ của cái toàn thể nguyên vẹn. Đây là trật tự ẩn tàng hay trật tự bất hiển lộ (hoặc không khai mở). Trong trật tự ẩn, không gian và thời gian không còn là những nhân tố thống trị quyết định quan hệ phụ thuộc hay độc lập của các phần tử khác nhau nữa. Đúng hơn là, giữa các phần tử có thể có một loại quan hệ cơ bản hoàn toàn khác, từ quan hệ này, những khái niệm thông thường của chúng ta về không gian và thời gian, cùng với những khái niệm về các hạt vật chất tồn tại tách rời, được trừu tượng hóa như những hình thức được suy ra từ cái trật tự sâu hơn này. Những khái niệm thông thường này thật ra xuất hiện trong cái gọi là trật tự hiển lộ hay không ẩn giấu (đã khai mở), vốn là một dạng khác và đặc biệt chứa đựng trong cái toàn thể chính của các trật tự ẩn. Trong chương 6 trật tự ẩn được giới thiệu một cách tổng quát, và trình bày bằng toán học trong một phụ lục. Tuy nhiên chương 7, chương cuối cùng, là sự trình bày phát triển hơn (mặc dù không có tính chuyên môn) về trật tự ẩn, cùng quan hệ của nó với ý thức. Điều này dẫn đến một chỉ báo về một số con đường theo đó ta có thể đương đầu với thách thức cấp bách nhằm phát triển một vũ trụ luận và một tập hợp khái niệm tổng quát về bản chất của thực tại sao cho thích hợp với thời đại chúng ta. Cuối cùng, mong rằng sự trình bày tư liệu trong các tiểu luận này có thể giúp bạn đọc thấu hiểu chủ đề tự bản thân nó đã được mở ra như thế nào, do đó hình thức của cuốn sách chính là một ví dụ để hiểu rõ ý nghĩa nội dung của nó. https://thuviensach.vn 1 SỰ PHÂN MẢNH VÀ CÁI TOÀN THỂ Tiêu đề của chương này là “Sự phân mảnh và cái toàn thể”. Ngày nay, việc xem xét vấn đề này trở nên vô cùng quan trọng, vì sự phân mảnh đã lan rất rộng, không chỉ ra toàn xã hội mà còn đến từng cá nhân riêng lẻ; điều này dẫn đến một dạng hỗn loạn chung của trí óc, nó tạo ra vô vàn những vấn đề rắc rối và can thiệp vào sự trong sáng của tri giác chúng ta một cách nghiêm trọng đến mức khiến chúng ta không còn có khả năng giải quyết nổi phần lớn những rắc rối ấy. Như vậy nghệ thuật, khoa học, công nghệ, và các công việc của con người nói chung bị chia vụn ra thành các chuyên môn, mỗi thứ được coi như thực chất bị tách lìa khỏi những thứ khác. Bất mãn với tình trạng này, người ta đã lập ra những chủ đề liên ngành, với ý đồ thống nhất các chuyên môn này, nhưng những chủ đề mới này rốt cuộc lại chỉ làm tăng thêm tính chia rẽ vụn mảnh. Rồi toàn thể xã hội loài người thì phát triển theo cách vỡ vụn ra thành các quốc gia riêng rẽ và các tôn giáo, các nhóm chính trị, sắc tộc, v.v. khác nhau. Ứng với điều đó, môi trường tự nhiên của con người cũng bị coi như một tập hợp những bộ phận tồn tại tách rời, bị khai thác bởi những nhóm người khác nhau. Tương tự, mỗi cá nhân cũng bị chia vụn ra thành một số lớn những ngăn tách biệt và xung đột với nhau, theo những mong muốn, mục đích, tham vọng, lòng trung thành, các đặc tính tâm lí, v.v. khác nhau, đến mức nói chung người ta chấp nhận rằng một mức độ rối loạn thần kinh nào đấy là không thể tránh khỏi, trong khi một số cá nhân vượt qua giới hạn “bình thường” của sự chia vụn được phân loại thành các chứng loạn tinh thần, bệnh thần kinh, hoang tưởng, v.v. Cái quan niệm cho rằng tất cả những mảnh vụn này tồn tại riêng rẽ rõ ràng là một ảo tưởng, và ảo tưởng này không thể làm gì khác hơn là dẫn đến xung đột và rối loạn không dứt. Thật vậy, cái ý đồ sống theo quan niệm cho rằng tất cả những mảnh vụn này là thật sự tách rời, về thực chất là thứ đã dẫn đến hàng loạt vô tận những khủng hoảng cực kì gay gắt mà chúng ta ngày nay đang phải đối đầu. Như ngày nay mọi người đều biết, cách sống này đã dẫn đến ô nhiễm, phá hủy cân bằng tự nhiên, nạn nhân mãn, rối loạn kinh tế chính trị trên phạm vi toàn thế giới, và https://thuviensach.vn tạo ra một môi trường chính không lành mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần cho phần lớn cư dân buộc phải sống trong đó. Về phương diện cá nhân, một cảm giác vô vọng và tuyệt vọng đã phát triển lan tràn, mặc cho vẫn tồn tại cái dường như là khối áp đảo các lực lượng xã hội khác nhau, vượt ra khỏi tầm kiểm soát và thậm chí cả tầm hiểu biết của những con người bị vướng mắc vào đó. Thật ra, trong một phạm vi nhất định, đối với con người và trong suy nghĩ của con người, sự phân chia và tách rời các sự vật là đúng và cần thiết, nhằm giảm các vấn đề xuống thành những phần có thể xử lí được, bởi, rõ ràng trong công việc thực tế hằng ngày của chúng ta, nếu chúng ta cố gắng giải quyết toàn thể thực tại trong cùng một lúc, chúng ta sẽ bị sa lầy. Như vậy, theo cách nào đó, việc tạo ra những chủ đề nghiên cứu riêng biệt và sự phân chia lao động là một bước tiến quan trọng. Từ xa xưa, việc con người nhận thức được rằng mình không phải đồng nhất với thiên nhiên cũng là một bước quyết định, bởi vì nó tạo điều kiện cho con người có được chút tự chủ nào đó trong tư duy của mình, cho phép anh ta vượt ra khỏi những giới hạn tức thời mà thiên nhiên tạo ra, trước hết trong tưởng tượng của anh ta và cuối cùng là trong hoạt động thực tế của anh ta. Tuy nhiên, loại khả năng này của con người - trong việc tách rời bản thân ra khỏi môi trường của mình và phân chia xếp loại sự vật - cuối cùng dẫn đến hàng loạt kết quả tiêu cực và phá hoại, bởi con người đã mất đi ý thức về những gì y làm, từ đó y mở rộng quá trình phân chia ra cả bên ngoài những giới hạn mà chỉ ở trong đó sự phân chia ấy mới còn là đúng. Về thực chất, quá trình phân chia này là một quá trình suy nghĩ về các sự vật theo cách sao cho tiện lợi, chủ yếu sử dụng trong phạm vi các hoạt động thực tiễn, kĩ thuật và chức năng (ví dụ, phân chia một khu đất thành các thửa ruộng khác nhau để trồng các loại hoa màu khác nhau). Tuy nhiên, khi cách suy nghĩ này được áp dụng rộng rãi hơn cho khái niệm của con người về bản thân y và toàn thể thế giới trong đó y sống (tức là cái nhìn về thế-giới-tự-thân của y) thì con người không còn coi kết quả của sự phân chia này chỉ là thứ có ích và tiện lợi, mà bắt đầu nhìn thấy và cảm thấy bản thân y và thế giới của y thật sự là bao gồm những mảnh vụn rời rạc. Bị dẫn dắt bởi cái nhìn tự thân-thế giới phân mảnh này, con người bèn hành động theo cách cố gắng tách rời y và thế giới, sao cho dường như tất cả phù hợp với cách nghĩ của y. Như vậy, con người có được cái chứng cớ bề ngoài về sự đúng đắn của cái nhìn tự thân-thế giới phân mảnh của mình, mặc dù, tất nhiên, y đã bỏ qua cái sự thật là chính y, hành động theo cách suy nghĩ của mình, mới là người đã đem lại sự phân mảnh mà bây giờ dường như có sự tồn tại tự nó, độc lập với ý chí và ý muốn của y. Từ thời xa xưa con người đã có ý thức về tình trạng phân mảnh dường như tồn tại tự nó này, và thường xuyên sáng tạo ra các huyền thoại về một “thời hoàng kim” còn xa xôi hơn nữa, trước https://thuviensach.vn khi xảy ra sự chia lìa giữa con người với tự nhiên, và giữa con người với con người. Quả thật con người đã luôn luôn tìm kiếm cái toàn thể - về tinh thần, vật chất, xã hội, cá nhân. Hẳn là đáng suy ngẫm khi ta xét rằng từ “lành mạnh” trong tiếng Anh dựa trên từ Anglo Saxon “hale” có nghĩa là “toàn thể”, ý nói rằng “khỏe mạnh là nguyên vẹn”, hẳn là cũng na ná như từ “Salem” trong tiếng Do Thái. Tương tự, trong tiếng Anh từ “holy” - thiêng liêng - dựa trên cùng một gốc với “whole” - toàn thể. Tất cả những điều này nói lên rằng con người luôn luôn cảm thấy tính toàn thể hay nguyên vẹn là tuyệt đối cần thiết làm cho cuộc sống trở nên đáng sống. Thế nhưng, nói chung, qua các thời đại, con người đã sống trong tình trạng phân rã. Chắc chắn là câu hỏi tại sao lại xảy ra tất cả những chuyện ấy đòi hỏi một sự chú tâm cẩn thận và xem xét nghiêm túc. Trong chương này, sự chú ý được tập trung vào vai trò mơ hồ song quyết định của các hình thức tư duy chung của chúng ta trong việc duy trì tình trạng phân mảnh và trong việc làm cho cái khát vọng sâu xa nhất của chúng ta đối với cái toàn thể hay cái nguyên vẹn phải chịu thất bại. Để việc bàn luận này có một nội dung cụ thể, chúng ta sẽ nói chuyện, trong một chừng mực nhất định, bằng ngôn ngữ của nghiên cứu khoa học hiện nay, vốn là lĩnh vực khá quen thuộc với tôi (mặc dù, tất nhiên là chúng ta luôn luôn không được quên ý nghĩa chung của những vấn đề đang thảo luận). Điều sẽ được nhấn mạnh trước hết trong nghiên cứu khoa học, và sau đó trong một bối cảnh tổng quát hơn, là tính phân mảnh đang được liên tục đem đến bởi một thói quen hầu như phổ biến coi nội dung tư duy của chúng ta là “một sự miêu tả thế giới như nó vốn thế”. Hoặc chúng ta có thể nói rằng, trong thói quen này, tư duy của chúng ta được coi là tương ứng trực tiếp với thực tại khách quan. Vì tư duy của chúng ta tràn ngập những sự phân biệt và sự khác nhau, nên một thói quen như thế tất sẽ dẫn chúng ta đến chỗ nhìn chúng [những khác biệt ấy] như những sự phân chia có thực, do đó thế giới được nhìn thấy và cảm thấy như thể thật sự bị vỡ tung ra thành những mảnh vụn. Thật ra, mối quan hệ giữa tư duy và thực tại mà lối tư duy này nghĩ tới vốn dĩ phức tạp hơn rất nhiều chứ không phải chỉ là sự tương ứng đơn thuần. Như vậy, trong nghiên cứu khoa học, phần lớn suy nghĩ của chúng ta là dưới dạng các lí thuyết. Từ “lí thuyết” [theory] được rút ra từ chữ Hi Lạp “theoria”, có cùng gốc với từ “theatre” - trong một từ có nghĩa là nhìn, xem. Như vậy, có thể nói rằng một lí thuyết vốn dĩ ban đầu là một dạng nhìn thấu [insight], tức là một cách nhìn thế giới, chứ không phải là một dạng tri thức về thực chất của thế giới. Chẳng hạn, trong thời cổ đại, con người có lí thuyết rằng các thiên thể (celestial matter) là khác về cơ bản với các vật thể dưới đất (earthly matter), và các vật thể dưới đất rơi xuống là điều https://thuviensach.vn tự nhiên, trong khi các vật thể trên trời, như mặt trăng, cứ ở yên trên bầu trời mới là tự nhiên. Tuy nhiên, đến kỉ nguyên hiện đại, các nhà khoa học bắt đầu đưa ra quan điểm cho rằng không có sự khác nhau về bản chất giữa các vật thể dưới đất và các vật thể trên trời. Tất nhiên, điều đó hàm ý rằng các vật thể trên bầu trời, như mặt trăng, sẽ phải rơi, nhưng trong một thời gian dài người ta không để ý tới hàm ý này. Trong một chớp lóe bất chợt của nhìn thấu, Newton thấy rằng vì quả táo rơi nên mặt trăng cũng rơi, và tất nhiên mọi vật thể đều rơi. Như vậy, ông được dẫn dắt tới lí thuyết về lực hấp dẫn vũ trụ, trong đó tất cả mọi vật được coi như đang rơi về phía các tâm khác nhau (ví du như trái đất, mặt trời, các hành tinh, v.v.). Đây là một cách nhìn mới lên các tầng trời, trên đó chuyển động của các hành tinh không còn được nhìn qua cái khái niệm xưa cũ về sự khác nhau cơ bản giữa vật thể trên trời và vật thể dưới đất nữa. Đúng hơn, người ta đã xem xét những chuyển động này dưới dạng tốc độ rơi của tất cả mọi vật, dù trên trời hay dưới đất, về phía các tâm khác nhau, và khi thấy một sự vật nào đó không thể giải thích được theo cách ấy, thì người ta tìm kiếm và thường phát hiện ra những hành tinh mới cho đến khi ấy chưa thể nhìn thấy được, mà các thiên thể đang rơi vào (qua đó chứng minh tính xác đáng của cách nhìn này). Hình thức nhìn thấu kiểu Newton có tác dụng rất tốt trong nhiều thế kỉ, nhưng cuối cùng (giống như cái nhìn thấu kiểu Hi Lạp trước kia) nó dẫn đến những kết quả không rõ ràng khi mở rộng ra những lĩnh vực mới. Trong những lĩnh vực mới này, người ta đã tìm ra những hình thức mới của nhìn thấu (thuyết Tương đối và thuyết Lượng tử). Những thuyết này đưa ra những bức tranh về thế giới khác hoàn toàn với bức tranh của Newton (mặc dù, tất nhiên sau này người ta thấy bức tranh của Newton vẫn còn có hiệu lực trong một phạm vi giới hạn). Nếu giả định rằng các lí thuyết cho ta những tri thức đúng đắn, phù hợp với “thực tại như nó vốn thế”, thì chúng ta phải kết luận rằng lí thuyết của Newton là đúng đến khoảng năm 1900, sau đó nó bỗng nhiên trở thành sai, trong khi thuyết Tương đối và thuyết Lượng tử bỗng nhiên trở nên đúng. Tuy nhiên, một kết luận phi lí như thế không thể có được nếu chúng ta nói rằng mọi lí thuyết đều là những cách nhìn thấu, chúng không đúng cũng không sai, chỉ là chúng sáng tỏ trong những phạm vi nhất định, và mù mờ khi mở rộng ra khỏi những phạm vi ấy. Tuy nhiên, điều này có nghĩa là chúng ta không đánh đồng giữa các lí thuyết và các giả thuyết. Như gốc tiếng Hi Lạp của từ này chỉ ra, một giả thuyết (hypothesis) là một giả định, tức là một ý tưởng được “đặt dưới” trí suy xét của chúng ta, như một cơ sở tạm thời, cần phải được thử bằng thực nghiệm xem đúng hay sai. Tuy vậy, như mọi người ngày nay đều biết, không thể có bằng chứng thực nghiệm mang tính chung quyết đúng hay sai về một giả thuyết tổng quát muốn ôm trùm toàn thể thực tại. Thật ra, người ta thấy rằng các lí thuyết cũ ngày càng trở nên mờ mịt khi người ta cố sử dụng chúng để https://thuviensach.vn đạt được sự nhìn thấu trong những địa hạt mới (ví dụ như trường hợp những đường ngoại luân (epicycle) của Ptolemea, hoặc thất bại của quan điểm Newton ngay trước khi xuất hiện thuyết Tương đối và thuyết Lượng tử). Khi đó, việc cẩn thận chú ý xem điều này diễn ra theo cách thức nào nói chung là đầu mối chính dẫn đến những lí thuyết mới vốn là những hình thức nhìn thấu còn mới hơn nữa. Như vậy, thay vì giả định rằng các lí thuyết cũ là sai tại một thời điểm nào đó, chúng ta chỉ nói rằng con người liên tục phát triển các hình thức mới của nhìn thấu, các hình thức này sáng tỏ tới một điểm nào đó, rồi sau đó có xu hướng mờ đi. Trong hoạt động này rõ ràng không có lí do gì để giả định rằng có hay sẽ có một hình thức cuối cùng của nhìn thấu (tương ứng với chân lí tuyệt đối) hoặc ngay cả một loạt vững chắc những cái gần đúng với nó. Đúng hơn là, trong bản chất của trường hợp này, người ta có thể hi vọng sự phát triển không ngừng các hình thức mới của nhìn thấu (tuy nhiên, nó sẽ tích hợp một số nét chủ yếu của các hình thức cũ với tư cách là những sự đơn giản hóa, như thuyết Tương đối đã làm với thuyết của Newton). Tuy nhiên, như đã nêu trên đây, điều này có nghĩa là các lí thuyết của chúng ta nên được coi trước hết như là những cách xem xét thế giới như một toàn thể (tức là các thế giới quan) thì đúng hơn là “tri thức tuyệt đối chân thực về bản chất của sự vật” (hay cách tiếp cận kiên định tới tri thức ấy). Khi chúng ta xem xét thế giới thông qua những nhìn thấu có tính lí thuyết của mình, tri thức thực sự mà chúng ta đạt tới rõ ràng là được khuôn theo hình dạng của lí thuyết của chúng ta. Chẳng hạn, trong thời cổ đại, sự kiện về chuyển động của các hành tinh được miêu tả dưới dạng ý tưởng của Ptolemea về những đường ngoại luân (các vòng tròn chồng lên các vòng tròn). Trong thời của Newton, sự kiện đó được miêu tả dưới dạng các quỹ đạo hành tinh được xác định chính xác, được phân tích qua tốc độ rơi về các tâm. Sau này, sự kiện đó được xem xét một cách tương đối theo các quan niệm của Einstein về không gian và thời gian. Muộn hơn nữa, một loại sự kiện rất khác nhau được định rõ dưới dạng thuyết Lượng tử (thuyết này nói chung chỉ đưa ra dưới dạng một sự kiện thống kê). Trong sinh học, sự kiện ấy ngày nay được miêu tả dưới dạng lí thuyết tiến hóa, nhưng trong các thời đại trước nó được biểu hiện dưới dạng những loài sinh vật bất biến. Tổng quát hơn, xét đến tri giác và hành động, các nhìn thấu có tính lí thuyết của chúng ta cung cấp nguồn chủ yếu tổ chức các tri thức về thế giới thực của chúng ta. Quả thật kinh nghiệm chung của chúng ta đã được hình thành theo cách này. Hình như Kant là người đầu tiên đã chỉ ra rằng tất cả mọi kinh nghiệm đều được tổ chức theo các phạm trù của tư duy chúng ta, nghĩa là theo cách suy nghĩ của chúng ta về không gian, thời gian, vật chất, bản chất, nhân quả, ngẫu nhiên, tất yếu, phổ biến, đặc thù, v.v. Có thể nói rằng những phạm trù này là những hình thức https://thuviensach.vn chung của nhìn thấu hay cách xem xét mọi vật, do đó theo một nghĩa nào đó chúng là một loại lí thuyết (nhưng tất nhiên trình độ lí thuyết này chắc hẳn đã phát triển rất sớm trong cuộc tiến hóa của loài người). Sự sáng sủa của tri giác và tư duy hiển nhiên đòi hỏi chúng ta phải có ý thức về việc kinh nghiệm của chúng ta được hình thành như thế nào (sáng sủa hay lộn xộn) bởi cái nhìn thấu được các lí thuyết đem lại, những lí thuyết này là ẩn tàng hay hiển lộ trong những cách thức suy nghĩ tổng quát của chúng ta. Vì mục đích này, sẽ có ích nếu nhấn mạnh rằng kinh nghiệm và tri thức là một quá trình chứ không phải nghĩ rằng tri thức của chúng ta là tri thức về một loại kinh nghiệm tách rời nào đó. Chúng ta có thể gọi quá trình này là tri thức-kinh nghiệm (dấu gạch nối chỉ ra rằng có hai khía cạnh không thể tách rời của một vận động toàn thể). Vậy, nếu chúng ta không ý thức được rằng các lí thuyết của chúng ta là những hình thức liên tục thay đổi của nhìn thấu, đem lại hình và dạng cho kinh nghiệm nói chung thì tầm nhìn của chúng ta bị hạn chế. Người ta có thể diễn đạt điều đó như thế này: kinh nghiệm với thiên nhiên hết sức giống kinh nghiệm với con người. Nếu ta tiếp cận một người khác với một “thuyết” cố định về người ấy như một “kẻ thù” mà ta cần phải đề phòng thì người ấy sẽ phản ứng tương tự, và như vậy “thuyết” của ta có vẻ được xác nhận bởi kinh nghiệm. Tương tự, thiên nhiên sẽ phản ứng lại một cách thích đáng cái lí thuyết mà ta dùng để đối xử với thiên nhiên. Như vậy, trong thời cổ đại con người nghĩ rằng dịch bệnh là không thể tránh khỏi, và suy nghĩ ấy khiến họ hành động theo cách làm cho các điều kiện gây bệnh lan rộng ra. Với những hình thức khoa học hiện đại của nhìn thấu, hành vi của con người là chấm dứt những cách sống không hợp vệ sinh khiến dịch bệnh lây lan, và như vậy dịch bệnh không còn là tai họa không thể tránh khỏi nữa. Chính cái niềm tin rằng các lí thuyết cho ta tri thức chân thật về thực tại (tất nhiên có hàm ý rằng chúng không bao giờ cần thay đổi) đã ngăn không cho cái nhìn thấu mang tính lí thuyết vượt ra khỏi các giới hạn hiện có và thay đổi để đáp ứng với những sự kiện mới. Mặc dù cách suy nghĩ hiện đại của chúng ta, tất nhiên, đã thay đổi rất nhiều so với thời cổ đại, cả hai đều có một đặc điểm chung cơ bản là phiến diện, bị che mắt bởi cái khái niệm cho rằng các lí thuyết cho ta tri thức chân thật về thực tại “như nó vốn thế”. Như vậy, cả hai dẫn tới lẫn lộn các hình thức và hình dạng mà cái nhìn thấu lí thuyết đem lại cho nhận thức của chúng ta với một thực tại vốn độc lập với tư duy và cách nhìn sự vật của chúng ta. Sự lẫn lộn này có ý nghĩa quyết định, vì nó dẫn chúng ta đến chỗ tiếp cận thiên nhiên, xã hội và cá nhân dưới dạng các hình thức tư duy ít nhiều cố định và hạn chế, và như vậy hình như vẫn cứ tiếp tục xác nhận các giới hạn của các hình thức tư duy này trong kinh nghiệm. Cái kiểu cứ xác nhận không ngừng những giới hạn trong cách suy nghĩ của chúng ta đặc biệt https://thuviensach.vn có ý nghĩa về phương diện phân mảnh, vì như trên đây đã chỉ ra, mọi hình thức của nhìn thấu mang tính lí thuyết đều đưa ra sự phân biệt và khác biệt mang tính bản chất của nó (chẳng hạn, ở thời cổ đại, một sự phân biệt mang tính bản chất là phân biệt giữa vật thể trên trời và vật thể dưới đất, trong khi ở lí thuyết Newton điều thiết yếu là phân biệt những tâm điểm khác nhau mà các vật thể rơi vào). Nếu chúng ta coi những sự khác nhau và phân biệt này như những cách nhìn, như những dẫn hướng cho tri giác, thì điều này không ngụ ý rằng chúng biểu thị những chất hay thực thể tồn tại tách rời. Mặt khác, nếu chúng ta coi những lí thuyết của mình như “miêu tả trực tiếp thực tại như nó vốn thế” thì chúng ta sẽ không tránh khỏi xem những sự phân biệt và khác biệt đó như những sự phân chia, hàm ý rằng những thuật ngữ cơ bản khác nhau xuất hiện trong lí thuyết vốn dĩ là tồn tại tách rời. Như vậy, chúng ta bị dẫn đến ảo tưởng rằng thế giới thật sự là những mảnh vụn tách biệt, và, như đã chỉ ra ở phần trước, điều này sẽ khiến chúng ta hành động theo cách khiến cho thật sự tạo ra chính sự phân mảnh đã được ngụ ý trong thái độ của chúng ta đối với lí thuyết. Việc nhấn mạnh điểm này rất quan trọng. Chẳng hạn, một số người có thể nói: “Sự phân mảnh các thành phố, các tôn giáo, các chế độ chính trị, xung đột dưới hình thức chiến tranh, bạo lực nói chung, huynh đệ tương tàn, v.v. là thực tại. Cái toàn thể chỉ là một lí tưởng, mà chúng ta nên cố gắng vươn tới”. Nhưng đó không phải là điều đáng nói ở đây. Đúng hơn, điều nên nói là cái toàn thể là một cái có thực, còn sự phân mảnh là phản ứng của cái toàn thể này đối với hành động của con người bị dẫn dắt bởi tri giác sai lạc, tri giác này được hình thành bởi tư duy phân mảnh. Nói cách khác, chính bởi vì thực tại vốn là toàn thể cho nên con người, với quan điểm phân mảnh của mình, sẽ không tránh khỏi bị đáp lại bằng một phản ứng phân mảnh tương ứng. Như vậy, điều cần thiết cho con người là chú ý đến thói quen phân mảnh của tư duy, cảnh giác với nó, và nhờ đó kết liễu nó. Khi đó quan điểm của con người đối với hiện thực có thể là toàn vẹn, và như vậy phản ứng đáp lại cũng là toàn vẹn. Tuy nhiên, để cho điều đó xảy ra, điều tối quan trọng là con người biết rõ hoạt động của tư duy của mình đúng theo bản chất của nó, tức là, con người phải hiểu đó là một dạng của nhìn thấu, một cách nhìn, chứ không phải là một “bản sao chân thực của thực tại như nó vốn thế”. Rõ ràng là chúng ta có thể có vô số loại nhìn thấu khác nhau. Điều cần thiết không phải là một sự tích hợp của tư duy, không phải là một loại thống nhất bị áp đặt, bởi, bất kì một quan điểm nào bị áp đặt như thế, bản thân nó chỉ là một dạng khác của sự phân mảnh. Đúng hơn, tất cả những cách suy nghĩ khác nhau của chúng ta nên được coi là những cách khác nhau để xem xét một thực tại duy nhất, mỗi cách có một phạm vi mà trong đó nó là rõ ràng và thích đáng. Thật ra người ta có thể so sánh một lí thuyết với một cái nhìn đặc biệt về một đối tượng nào đó. https://thuviensach.vn Mỗi cái nhìn chỉ cho ta cái bề ngoài của đối tượng trong một số khía cạnh. Toàn thể đối tượng không được nhận thức trong một cái nhìn duy nhất nào, đúng hơn là nó chỉ được nắm bắt một cách ẩn như cái thực tại duy nhất được biểu lộ trong tất cả những cái nhìn này. Khi hiểu sâu sắc rằng các lí thuyết của chúng ta cũng hoạt động theo cách ấy, chúng ta sẽ không bị rơi vào thói quen nhìn thực tại và tác động vào nó như thể nó bao gồm những mảnh vụn rời rạc, ứng với cách nó xuất hiện trong tư duy của chúng ta và trong tưởng tượng của chúng ta khi chúng ta coi các lí thuyết của mình là “miêu tả trực tiếp thực tại như nó vốn thế”. Ngoài một ý thức chung về vai trò của các lí thuyết như đã chỉ ra ở trên, điều cần thiết là đặc biệt chú ý đến những loại lí thuyết góp phần biểu hiện quan niệm chung của chúng ta về bản thân-thế giới. Vì, trong một phạm vi đáng kể, chính trong những thế giới quan này, những khái niệm tổng quát của chúng ta về bản chất của thực tại và về quan hệ giữa tư duy của chúng ta với thực tại hình thành dưới dạng ẩn tàng hay hiển lộ. Về điểm này, các lí thuyết tổng quát của vật lí học đóng vai trò quan trọng, bởi vì chúng được coi như đề cập tới bản chất phổ quát của vật chất tạo thành vạn vật, và không gian, thời gian - cơ sở để miêu tả mọi chuyển động của vật chất. Chẳng hạn, chúng ta hãy xem xét thuyết nguyên tử, đầu tiên được Democritus đưa ra cách đây trên 2.000 năm. Về bản chất, thuyết này dẫn dắt chúng ta đến chỗ xem thế giới như được tạo thành từ những nguyên tử chuyển động trong khoảng không. Các hình thức và các đặc tính thay đổi liên tục của các vật vĩ mô bây giờ được xem như kết quả sự thay đổi cách sắp xếp của các nguyên tử chuyển động. Rõ ràng, cách nhìn này, theo một nghĩa nào đó là một cách thức quan trọng để nhận thức cái toàn thể, vì nó làm cho con người có thể hiểu sự phong phú vô tận của toàn thể thế giới dưới dạng những vận động của một tập hợp duy nhất các thành phần cơ bản, thông qua một khoảng không duy nhất tràn ngập toàn bộ tồn tại. Tuy nhiên, khi thuyết nguyên tử phát triển lên, cuối cùng nó đã trở thành một trợ thủ chủ yếu cho quan điểm phân mảnh đối với thực tại. Vì nó không còn được coi như một cái nhìn thấu, một cách xem xét, thay vì thế con người đã coi như một chân lí tuyệt đối cái quan niệm cho rằng toàn thể thực tại thật ra được cấu thành bởi không gì khác ngoài những “khối xây lắp nguyên tử” tất cả cùng hoạt động theo cách ít nhiều cơ giới. Tất nhiên, để coi bất kì lí thuyết vật lí nào là chân lí tuyệt đối thì phải có xu hướng cố định các hình thức chung của tư duy trong vật lí, và như vậy góp phần vào quá trình phân mảnh. Tuy nhiên, hơn nữa nội dung đặc biệt của thuyết nguyên tử là cái đặc biệt dẫn đến sự phân mảnh, vì nó ngầm ám chỉ rằng toàn bộ giới tự nhiên cùng với con người, gồm cả bộ não, hệ thần kinh, trí tuệ, v.v. của con người về nguyên tắc có thể được hiểu rõ hoàn toàn dưới dạng những cấu trúc, chức năng của những tập hợp nguyên tử tồn tại rời rạc. Sự thật là trong những thí nghiệm của https://thuviensach.vn con người và trong kinh nghiệm nói chung, quan điểm nguyên tử này được xác nhận và, tất nhiên, được coi như bằng chúng của sự đúng đắn và tính chân lí phổ quát của khái niệm này. Như vậy, hầu như toàn bộ sức nặng của khoa học được đặt đằng sau cách tiếp cận mang tính phân mảnh đối với thực tại. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải chỉ ra (như vẫn thường xảy ra trong những trường hợp tương tự) rằng sự xác nhận quan điểm nguyên tử bằng thực nghiệm là có giới hạn. Thật ra, trong các phạm vi mà thuyết Tương đối và thuyết Lượng tử bao quát, khái niệm của thuyết nguyên tử dẫn đến những vấn đề rối rắm, nó cho thấy cần có những hình thức nhìn thấu mới, khác với thuyết nguyên tử cũng như thuyết này đã từng khác với các thuyết có trước nó. Thuyết Lượng tử chỉ ra rằng cố gắng miêu tả và theo dõi một hạt nguyên tử một cách chi tiết chính xác là việc có rất ít ý nghĩa (vấn đề này được nêu chi tiết hơn trong chương 5.). Cái khái niệm về đường đi của nguyên tử chỉ có một phạm vi áp dụng rất hạn hẹp. Trong cách miêu tả chi tiết hơn, ta có thể thấy rằng nguyên tử, bằng nhiều cách, hoạt động giống như một sóng cũng chẳng kém gì như một hạt. Tốt nhất có thể coi nó như một đám mây kém xác định, dạng thức cụ thể của nó như thế nào là tùy thuộc vào toàn bộ môi trường, bao gồm cả dụng cụ quan sát. Như vậy, người ta không thể duy trì việc phân biệt giữa người quan sát và cái được quan sát (sự phân biệt này được hiểu ngầm trong quan niệm về nguyên tử, nó coi mỗi thứ là một tập hợp nguyên tử riêng rẽ). Đúng hơn, cả người quan sát lẫn cái bị quan sát đều là những khía cạnh hợp nhất và thâm nhập lẫn nhau của cùng một thực tại toàn vẹn, không thể phân chia và không thể phân tích. Thuyết Tương đối dẫn chúng ta đến một cách nhìn thế giới tương tự như cách trình bày trên đây ở một số khía cạnh chủ yếu (xem chương 5, mô tả chi tiết hơn về điểm này). Từ sự kiện là theo quan điểm của Einstein không một thứ tín hiệu nào có thể đi nhanh hơn ánh sáng, có thể suy ra rằng quan niệm về một vật thể rắn không còn đứng vững. Nhưng quan niệm này lại là mấu chốt trong thuyết nguyên tử cổ điển, vì theo thuyết này những thành tố cuối cùng cấu tạo nên vũ trụ phải là những vật nhỏ bé không thể phân chia, và điều này chỉ có thể nếu mỗi phần của một vật như vậy đều gắn kết chặt chẽ với tất cả các phần khác. Trong thuyết Tương đối điều thiết yếu là dứt khoát từ bỏ khái niệm cho rằng thế giới được cấu thành từ những vật thể cơ bản, hay là những “khối xây lắp” (building block) cơ bản. Đúng hơn, người ta phải nhìn vũ trụ như là những dòng thác phổ quát của những sự kiện và những quá trình. Như vậy, như được chỉ ra bởi A và B trong hình 1.1, thay vì suy nghĩ về một hạt, người ta phải nghĩ về một “thể ống vũ trụ” (world tube). https://thuviensach.vn Thể ống này biểu hiện một quá trình vô cùng phức tạp của một cấu trúc đang vận động và phát triển tập trung vào một khu vực được vạch ra bởi các đường ranh giới của ống. Tuy nhiên, ngay cả bên ngoài ống, mỗi “hạt” đều có một trường mở rộng ra không gian và sáp nhập với các trường của những hạt khác. Ta có thể có một hình ảnh sống động hơn của loại sự vật này bằng cách xem xét các dạng sóng như những cấu trúc xoáy trong một dòng chảy. Như trình bày trong hình 1.2, hai xoay nước ứng với hai hình mẫu ổn định của dòng chất lỏng, ít nhiều tập trung ở A và B. Rõ ràng là, hai xoáy này nên được coi như những trừu tượng (abstraction) được lối tư duy của chúng ta làm nổi bật lên trong tri giác của chúng ta. Tất nhiên, trong thực tế hai hình mẫu dòng chảy trừu tượng này hòa vào nhau và thống nhất với nhau, trong một chuyển động toàn thể của dòng chảy. Giữa chúng không có sự phân chia rành rẽ, chúng cũng không bị coi là những thực thể tồn tại độc lập hay tách rời. https://thuviensach.vn Thuyết Tương đối kêu gọi dùng kiểu nhìn này đối với các hạt nguyên tử tạo thành toàn bộ vật chất, tất nhiên vật chất là bao gồm cả những con người, với bộ não, hệ thần kinh và các dụng cụ quan sát mà họ chế tạo ra để dùng trong phòng thí nghiệm. Như vậy, tiếp cận vấn đề này bằng các cách khác nhau, thuyết Tương đối và thuyết Lượng tử nhất trí ở điểm cả hai đều hàm ý cần phải nhìn thế giới như một toàn thể không phân chia trong đó tất cả các bộ phận của vũ trụ, kể cả người quan sát và các dụng cụ của anh ta, hòa nhập và thống nhất trong một tổng thể. Trong cái tổng thể này, hình thức nguyên tử của nhìn thấu là dạng đơn giản hóa và trừu tượng hóa, chỉ có hiệu lực trong một số bối cảnh giới hạn. Hình thức mới của nhìn thấu có lẽ tốt nhất nên gọi là Cái Toàn thể Không Phân Chia trong Dòng chảy Vận động. Cách nhìn này hàm ý rằng, theo một nghĩa nào đó, dòng chảy là có trước “các sự vật” mà ta có thể thấy hình thành và tan biến trong dòng chảy này. Ta có thể minh họa ý này bằng cách xem xét “dòng chảy của ý thức”. Dòng thác ý thức này không thể định nghĩa được chính xác, nhưng rõ ràng nó có trước những hình thức có thể định nghĩa được của tư duy và ý tưởng mà ta thấy hình thành và tan biến trong dòng thác, giống như những gợn lăn tăn, những làn sóng, những cái xoay trong một dòng chảy. Như thường xảy ra với những hình mẫu chuyển động như thế trong một dòng chảy, một số ý nghĩ tái hiện và tồn tại dai dẳng theo cách ít nhiều ổn định, trong khi những cái khác là phù du. Việc đề xuất một hình thức chung mới của nhìn thấu cho rằng toàn bộ vật chất có cái bản chất này: Đó là có một dòng chảy phổ quát không thể xác định một cách rõ ràng, mà chỉ có thể biết được dưới dạng ẩn, khi được bộc lộ qua các hình dạng và hình thức có thể xác định rõ ràng, có cái ổn định có cái không ổn định, chúng có thể được tách ra từ dòng chảy phổ biến. Trong https://thuviensach.vn dòng chảy này, vật chất và ý thức không phải là những thực thể tách rời. Đúng hơn, chúng là các khía cạnh khác nhau của một vận động toàn thể không đứt đoạn. Theo cách này chúng ta có thể nhìn tất cả các khía cạnh của tồn tại như không chia lìa nhau, và như vậy chúng ta có thể chấm dứt tình trạng phần mảnh ẩn trong thái độ hiện thời đối với quan điểm của thuyết nguyên tử, cái quan điểm đang dẫn chúng ta đến chỗ chia cắt triệt để mọi vật ra khỏi mọi vật khác. Tuy vậy, chúng ta có thể hiểu cái khía cạnh của thuyết nguyên tử vốn vẫn còn cho ta một dạng nhìn thấu đúng đắn và hữu hiệu, tức là: mặc dù trong dòng chảy vận động có cái toàn thể không phân chia, nhưng nhiều mẫu hình (pattern) khác nhau có thể được tách ra từ dòng chảy này vẫn có đôi chút tự chủ và ổn định tương đối nhờ có quy luật phổ quát của dòng chảy vận động. Tuy nhiên trong trí óc chúng ta luôn có những giới hạn rành mạch cho tính tự chủ và ổn định này. Như vậy, trong những bối cảnh xác định, chúng ta có thể áp dụng nhiều dạng nhìn thấu khác để giúp chúng ta đơn giản hóa một số sự vật nào đó và xử lí chúng trong tức thời và trong những mục đích giới hạn nào đó như thể chúng có tự chủ và ổn định, cũng như có thể tồn tại tách biệt. Tuy thế, chúng ta không nhất thiết phải rơi vào cái bẫy xem xét bản thân chúng ta và toàn thế giới theo cách này. Như vậy, tư duy của chúng ta không còn cần thiết phải dẫn đến cái ảo tưởng rằng thực tại thật ra có bản chất vụn mảnh, dẫn đến những hành động rời rạc tương ứng nảy ra từ tri giác đã bị cái ảo tưởng như thế làm cho mù mịt đi. Quan điểm được trình bày trên đây về cơ bản tương tự với quan điểm của một số người Hi Lạp Cổ đại. Chúng ta có thể thấy rõ sự tương tự này khi xem xét khái niệm của Aristotle về tính nhân quả. Aristotle phân biệt bốn loại nguyên nhân: Vật chất Hiệu quả Hình thức Cuối cùng Một ví dụ tốt giúp hiểu rõ sự phân biệt này là xem xét một vật sống, như một cái cây hay một con vật. Khi đó nguyên nhân vật chất chính là vật chất mà trong đó tất cả các nguyên nhân khác hoạt động, và từ đó sự vật hình thành. Trong trường hợp cái cây, nguyên nhân vật chất là đất, nước, không khí, ánh nắng, tạo nên vật chất của cái cây. Nguyên nhân hiệu quả là một số hành động bên ngoài sự vật đang nói tới, cho phép toàn bộ quá trình này diễn ra. Chẳng hạn, trong trường hợp cái cây, sự ươm giống có thể coi như nguyên nhân hiệu quả. https://thuviensach.vn Trong bối cảnh này, việc hiểu nguyên nhân hình thức nghĩa là gì có ý nghĩa quyết định. Tiếc thay, trong nghĩa hiện đại của từ này, “hình thức” có xu hướng nói về một dạng bề ngoài vốn không có ý nghĩa gì lắm (chẳng hạn như “y phục chú trọng hình thức” hay câu nói cửa miệng “chẳng qua chỉ là hình thức”). Tuy nhiên, trong triết học Hi Lạp Cổ đại, danh từ “hình thức” trước hết có nghĩa là hoạt động sinh thành bên trong vốn là nguyên nhân sự tăng trưởng của mọi vật, là nguyên nhân sự phát triển và sự phân biệt các dạng thức thiết yếu của chúng. Chẳng hạn, trong trường hợp cây sồi, cái được biểu thị bởi thuật ngữ “nguyên nhân hình thức” là toàn bộ sự chuyển vận bên trong của nhựa cây, sự tăng trưởng của tế bào, sự đâm cành, ra lá v.v. đặc trưng cho loại cây này và khác với diễn biến trong các loại cây khác. Trong ngôn ngữ hiện đại, tốt nhất là miêu tả nó bằng thuật ngữ “nguyên nhân sinh thành”, để nhấn mạnh rằng cái đang được nói đến không phải chỉ là một hình thức do bên ngoài áp đặt vào, mà là sự vận động bên trong có trật tự và cấu trúc, vốn là cái thiết yếu quy định sự vật là gì. Mọi nguyên nhân sinh thành như vậy rõ ràng phải có một mục đích hay một sản phẩm ít ra là tiềm ẩn. Như vậy, không thể nào nhắc đến vận động bên trong từ một quả đấu lớn lên thành một cây sồi mà không đồng thời nhắc đến cây sồi sắp ra đời từ vận động ấy. Như vậy, nguyên nhân sinh thành luôn luôn ẩn chứa nguyên nhân cuối cùng. Tất nhiên, chúng ta cũng biết nguyên nhân cuối cùng là dự án, ta nghĩ đến nó một cách có ý thức thông qua tư duy (khái niệm này được mở rộng ra thành Thượng Đế, người được coi như đã sáng tạo ra vũ trụ theo một dự án vĩ đại). Tuy nhiên, dự án chỉ là một trường hợp đặc biệt của nguyên nhân cuối cùng. Chẳng hạn, trong suy nghĩ của mình, con người luôn luôn nhằm đến những mục đích nhất định, nhưng những cái thật sự đạt được từ những hoạt động của họ nói chung khác với những cái có trong dự án của họ, mà là cái gì đó tiềm ẩn trong những việc họ đang làm, mặc dù nó không được người trong cuộc nhận biết một cách có ý thức. Trong quan niệm thời cổ, khái niệm nguyên nhân sinh thành về thực chất được coi là có cùng bản chất đối với trí tuệ cũng như đối với sự sống và với toàn thể vũ trụ. Thật ra, Aristotle coi vũ trụ là một cơ thể duy nhất, trong đó mỗi bộ phận tăng trưởng và phát triển trong mối quan hệ của nó với toàn thể, và trong đó nó có vị trí và chức năng riêng của mình. Về trí tuệ, chúng ta có thể hiểu loại khái niệm này trong những thuật ngữ hiện đại hơn bằng cách chuyển sự chú ý sang dòng chảy vận động của ý thức. Như đã chỉ ra trên đây, thoạt đầu người ta có thể nhận biết một số hình mẫu tư duy khác nhau trong dòng chảy. Những hình mẫu này nối theo nhau một cách tương đối cơ giới, thông qua sự liên kết được xác định bằng thói quen và điều kiện. Rõ ràng, những biến đổi liên kết như thế này là bên ngoài đối với cấu trúc nội tại của tư duy đang xét, do đó những biến đổi này tác động như một loạt nguyên nhân-kết quả (effcient- https://thuviensach.vn causes). Tuy nhiên, nhìn thấy lí do cho một điều gì đó không phải là một hoạt động cơ giới thuộc loại bản chất này; đúng hơn, người ta nhận biết mỗi khía cạnh như bị đồng hóa trong một toàn thể duy nhất mà mọi bộ phận của nó đều có liên hệ bên trong (chẳng hạn như các cơ quan của cơ thể), ở đây ta phải nhấn mạnh một điều rằng hành động này của lí trí thực chất là một loại nhận thức thông qua trí óc, về phương diện nào đó tương tự như lĩnh hội nghệ thuật, chứ không phải chỉ là sự lặp lại mang tính liên kết của những lí do đã biết. Như vậy, người ta có thể bối rối vì một diện rộng nhiều nhân tố, nhiều sự việc không khớp với nhau, cho đến khi bỗng nhiên có một chớp lóe hiểu biết bừng lên, và nhờ đó người ta thấy tất cả những nhân tố này liên hệ với nhau như những khía cạnh của một tổng thể như thế nào (chẳng hạn, hãy xem cái nhìn thấu của Newton vào lực hấp dẫn vũ trụ). Không thể mô tả hay phân tích chi tiết một cách chính xác những hành động nhận thức như thế. Đúng ra, chúng nên được coi như những khía cạnh của hoạt động tạo thành trong trí óc. Khi đó một cấu trúc đặc biệt của các quan niệm là sản phẩm của hoạt động này, và những sản phẩm này là cái được kết nối bằng loạt nhân quả vốn hoạt động trong suy nghĩ liên tưởng bình thường - và như đã chỉ ra ở trên, theo quan điểm này, người ta coi hoạt động sinh thành là quan trọng hàng đầu trong tự nhiên cũng như trong trí tuệ, do đó các dạng sản phẩm trong tự nhiên cũng được liên kết bởi những nguyên nhân hiệu quả. Rõ ràng là khái niệm nguyên nhân sinh thành phù hợp với cách nhìn toàn thể không phân chia trong dòng chảy vận động, cách nhìn này được thấy hàm ý trong những phát triển hiện đại của vật lí, đáng chú ý nhất là thuyết Tương đối và thuyết Lượng tử. Vậy, như đã được chỉ ra, mỗi cấu trúc tự chủ và ổn định tương đối (ví dụ một hạt nguyên tử) nên được hiểu không phải chỉ như một cái gì độc lập và tồn tại vĩnh viễn, mà đúng hơn nên được hiểu như một sản phẩm được tạo thành trong toàn bộ dòng chảy vận động và cuối cùng sẽ hòa tan vào dòng chảy này. Khi đó, việc nó được hình thành và tự duy trì bản thân nó như thế nào phụ thuộc vào vị trí và chức năng của nó trong cái toàn thể. Như vậy, chúng ta thấy rằng những sự phát triển nhất định trong vật lí hiện đại hàm ý một sự nhìn thấu vào tự nhiên, đặc biệt là về các khái niệm nguyên nhân sinh thành và nguyên nhân cuối cùng, về bản chất tương tự với cách nhìn phổ biến trong những thời đại trước. Tuy nhiên, trong phần lớn công việc người ta đang làm trong vật lí hiện đại, các khái niệm nguyên nhân sinh thành và nguyên nhân cuối cùng không được coi như có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đúng hơn, quy luật nói chung vẫn còn được hình dung như một hệ thống tự quyết định của các nguyên nhân hiệu quả, hệ thống này hoạt động trong một tập hợp cơ bản của vật chất hình thành nên vũ trụ (chẳng hạn những hạt cơ bản chịu các lực tương tác giữa chúng). Những thành phần này không được coi như hình thành trong một quá trình toàn diện, và do vậy https://thuviensach.vn không được coi là bất kì vật gì giống với các cơ quan thích ứng với vị trí và chức năng của chúng trong toàn thể (tức là với những mục đích mà chúng thực hiện trong cái toàn thể ấy). Thật ra, chúng có xu hướng bị hình dung như những phần tử tồn tại tách rời một cách máy móc của một tự nhiên bất biến. Như vậy, xu hướng chủ đạo trong vật lí học hiện đại đi ngược lại mọi quan điểm cho rằng các hoạt động sinh thành trong cái toàn thể không phân chia của dòng chảy vận động có tầm quan trọng hàng đầu. Trong thực tế, những khía cạnh nào của thuyết Tương đối và thuyết Lượng tử gợi lên sự cần thiết của một cách nhìn như thế đều có xu hướng bị coi nhẹ, rất ít được các nhà vật lí học để ý tới, bởi vì chúng được coi như những đặc điểm của các phép tính toán học chứ không phải biểu thị bản chất thật của các sự vật. Còn nói đến ngôn ngữ và cách nghĩ thông thường trong vật lí vốn đầy tưởng tượng và gây ra cảm giác về một cái gì thật và quan trọng, phần lớn các nhà vật lí học vẫn còn nói và nghĩ, với một niềm tin chắc nịch, dưới dạng những khái niệm của thuyết nguyên tử truyền thống, rằng vũ trụ được hình thành từ những hạt cơ bản vốn là những “khối xây lắp cơ bản” tạo nên vạn vật. Trong các khoa học khác như sinh học, sức mạnh của niềm tin như vậy còn lớn hơn nhiều, bởi vì những người làm việc trong lĩnh vực này có rất ít ý thức về đặc tính cách mạng của sự phát triển trong vật lí học. Chẳng hạn, các nhà sinh học phân tử hiện đại nói chung tin rằng toàn bộ sự sống và trí tuệ về bản chất có thể được hiểu dưới dạng ít nhiều cơ giới, thông qua một số dạng mở rộng của công cơ học được thực hiện trên cấu trúc và chức năng của các phân tử DNA. Một xu hướng tương tự cũng đã bắt đầu ngự trị trong tâm lí học. Như vậy, chúng ta đi đến một kết quả hết sức kì cục là trong nghiên cứu về sự sống và trí tuệ, vốn dĩ là những lĩnh vực mà nguyên nhân sinh thành hoạt động trong một dòng chảy vận động không phân chia và không đứt gãy tỏ ra rõ ràng nhất đối với kinh nghiệm và quan sát thì bây giờ chính chúng lại có niềm tin mạnh mẽ nhất vào quan điểm phân mảnh của thuyết nguyên tử đối với thực tại. Tất nhiên, xu hướng chủ đạo trong khoa học nghĩ và cảm dưới dạng cái nhìn phân mảnh “tự ngã-thế giới” là một phần của một phong trào rộng lớn hơn đã được phát triển qua nhiều thời đại và đã tràn ngập hầu như toàn bộ xã hội của chúng ta ngày nay: nhưng đến lượt nó, một cách nghĩ và nhìn như thế trong khoa học có xu hướng hết sức mạnh mẽ củng cố cái quan điểm phân mảnh nói chung, bởi vì nó cho con người một bức tranh về toàn thể thế giới như được cấu thành bởi không gì ngoài một tập hợp những nguyên tử là “khối xây lắp cơ bản”, và cung cấp bằng chứng thực nghiệm từ đó rút ra kết luận rằng cách nhìn này là cần thiết và không tránh khỏi. Theo con đường ấy, người ta bị dẫn đến chỗ có cảm tưởng rằng sự phân mảnh không gì khác hơn là cách biểu hiện thực trạng vốn có của vạn vật và mọi cách khác đều không thể. Như vậy, có rất https://thuviensach.vn ít khuynh hướng đi tìm bằng chứng ngược lại. Thực ra, như đã chỉ ra, ngay cả khi có những bằng chứng như thế, như trong vật lí hiện đại, khuynh hướng chung vẫn là giảm thiểu hay thậm chí hoàn toàn bỏ qua ý nghĩa của nó. Trong thực tế, người ta có thể đi xa đến mức nói rằng trong thực trạng xã hội hiện nay và trong cách giảng dạy khoa học nói chung hiện nay, vốn là một biểu hiện của thực trạng xã hội này, một thiên kiến nghiêng về quan điểm phân mảnh “tự ngã thế giới” đang được cổ vũ và truyền bá (theo cách lộ rõ và có ý thức đến một mức độ nào đó, nhưng nói chung là tiềm ẩn và vô thức). Tuy nhiên, như đã được chỉ ra, những ai bị dẫn dắt bởi quan điểm phân mảnh “tự ngã-thế giới” về lâu dài sẽ không thể làm điều gì khác hơn là, trong mọi hoạt động của mình, cố gắng phá vỡ bản thân họ và thế giới thành từng mảnh vụn, phù hợp với phương pháp tư duy tổng quát của họ. Bởi vì ban đầu sự phân mảnh là một mưu đồ mở rộng sự phân chia thế giới thành những bộ phận tách rời, vượt ra khỏi phạm vi mà sự phân chia như thế là phù hợp, trên thực tế là một mưu đồ phân chia cái vốn thật ra không thể phân chia. Bước tiếp theo một mưu đồ như thế sẽ dẫn chúng ta đến chỗ cố gắng hợp nhất những cái thật ra không thể hợp nhất được. Điều này có thể thấy đặc biệt rõ trong việc tập hợp thành những tập đoàn người trong xã hội (về chính trị, kinh tế, tôn giáo, v.v.). Chính cái hành động lập thành những tập đoàn người như thế có xu hướng tạo cảm giác chia rẽ và tách rời các thành viên khỏi phần còn lại của thế giới, nhưng vì những thành viên này thật sự gắn kết với toàn thể, nên cách làm như thế không có kết quả. Mỗi thành viên trong thực tế có mối liên kết khác mà sớm muộn sẽ tự bộc lộ ra như sự khác nhau giữa anh ta với các thành viên khác, ở đâu con người tự chia tách mình khỏi toàn xã hội và mưu đồ liên kết lại bằng cách đồng nhất với nhau trong một tập đoàn thì tập đoàn đó cuối cùng nhất định phải phát triển xung đột nội bộ dẫn đến phá vỡ sự thống nhất của nó. Loại hiện tượng này cũng xảy ra với cá nhân khi y cố gắng tách mình ra khỏi xã hội. Sự thống nhất thật sự bên trong cá nhân, và giữa con người với tự nhiên, cũng như giữa con người với con người, chỉ có thể xuất hiện dưới dạng hành động không nhằm phân mảnh toàn thể thực tại. Cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động rời rạc của chúng ta rõ ràng tiềm ẩn trong mọi khía cạnh của đời sống con người. Điều đó nói lên, một cách khá mỉa mai, rằng sự phân mảnh hình như là một hiện tượng phổ biến trong cách sống của chúng ta, nó tràn ngập cái toàn thể mà không có một ranh giới, một giới hạn nào cả. Điều này có thể xảy ra vì cội rễ của sự phân mảnh quá sâu và quá rộng. Như đã chỉ ra, chúng ta cố gắng phân chia những cái vốn là một và không thể phân chia, và điều đó ngầm báo rằng, trong bước tiếp theo, chúng ta sẽ cố gắng đồng nhất những cái thực ra là khác nhau. Vậy sự phân mảnh về thực chất là sự lẫn lộn xung quanh vấn đề sự khác nhau và sự giống https://thuviensach.vn nhau (hay sự nhất thể), nhưng việc nhận thức rõ ràng những phạm trù này là cần thiết trong mọi phương diện của cuộc sống. Lẫn lộn giữa những gì khác nhau và những gì không, là lẫn lộn về mọi thứ. Như vậy, không phải ngẫu nhiên mà lối tư duy phân mảnh của chúng ta đang dẫn đến cuộc khủng hoảng lan ra một diện rộng đến thế, từ xã hội, chính trị, kinh tế, sinh thái, tâm lí, v.v. trong cá nhân và trong toàn xã hội. Một lối suy nghĩ như thế ngầm báo trước sự phát triển vô tận của hỗn loạn và xung đột vô nghĩa, trong đó năng lượng của tất cả có xu hướng bị mất đi bởi những vận động đối nghịch hoặc trong những bất hòa nghiêm trọng. Rõ ràng, việc thanh toán sự lẫn lộn sâu xa và lan tràn đang thâm nhập vào mọi ngõ ngách của cuộc sống chúng ta là một yêu cầu quan trọng và cực kì cấp bách. Mọi cố gắng của các hoạt động về xã hội, chính trị, kinh tế và các hoạt động khác phỏng có ích gì nếu trí óc bị hãm trong một vận động lầm lẫn, trong đó nó coi là khác nhau những cái vốn không phải khác nhau, và đồng nhất những cái vốn không đồng nhất? Hành động như thế trong trường hợp tốt nhất là vô hiệu, và trong trường hợp xấu nhất là thật sự phá hoại. Cũng không ích lợi gì khi đem áp đặt một số nguyên tắc “chỉnh thể luận” hợp nhất hay thống nhất một cách cứng nhắc vào quan điểm phân chia tự ngã-thế giới của chúng ta, vì như đã chỉ ra ở trên, bất kì một dạng quan điểm phân chia tự ngã-thế giới cứng nhắc nào cũng đều ngầm chỉ báo rằng chúng ta không còn đối xử với các lí thuyết của chúng ta như những nhìn thấu hoặc những cách xem xét vấn đề, mà như “những tri thức tuyệt đối chân thực về sự vật như nó vốn thế”. Như vậy, dù chúng ta muốn hay không, những sự phân biệt đang hiện ra rõ ràng trong mọi lí thuyết, ngay cả trong thuyết “chỉnh thể”, sẽ bị xử lí sai như là những sự phân chia, ngầm chỉ sự tồn tại tách rời của các thuật ngữ được phân biệt (do đó, một cách tương ứng, những gì không bị phân biệt theo cách này sẽ bị xử lí sai như là tuyệt đối đồng nhất). Như vậy, chúng ta phải thật cảnh giác để chú ý cẩn thận và xem xét nghiêm túc cái sự thật là các lí thuyết của chúng ta không phải là “những sự miêu tả thực tại như nó vốn thế” mà đúng hơn là những hình thức liên tục thay đổi của nhìn thấu, nó có thể chỉ ra hay biểu thị một thực tại vốn ẩn mình và không thể miêu tả hay xác định được trong tính tổng thể của nó. Sự cảnh giác ấy cần phải giữ ngay cả với những điều được nói ở đây trong chương này, theo nghĩa là những điều ấy không nên được coi là “tri thức tuyệt đối chân thực về bản chất của tính phân mảnh và cái toàn thể”. Đúng hơn, chính nó cũng là một thuyết đem lại cái nhìn thấu cho vấn đề này. Chính bạn đọc sẽ phải tự mình xét xem cái nhìn thấu này là mù mờ hay sáng rõ, và đâu là giới hạn cho hiệu lực của nó. Vậy thì có thể làm gì để chấm dứt tình trạng tràn ngập của sự phân mảnh? Thoạt nhìn có thể tưởng đây là một câu hỏi hợp lí, nhưng xem xét kĩ hơn ta phải tự hỏi liệu đây có thật là một câu https://thuviensach.vn hỏi hợp lí hay không, vì câu hỏi này có những giả định không rõ ràng. Nói một cách tổng quát, chẳng hạn nếu hỏi làm thế nào người ta có thể giải quyết một vấn đề kĩ thuật nào đó thì điều đó đã giả định rằng dù cho chúng ta lúc đầu không biết câu trả lời, nhưng trí óc chúng ta đã đủ rõ ràng để khám phá ra câu trả lời, hay ít ra để nhận biết việc ai đó khám phá ra câu trả lời. Nhưng nếu toàn bộ cách suy nghĩ của chúng ta thấm đẫm tính vụn mảnh, thì điều đó hàm ý rằng chúng ta không có khả năng làm thế, vì nhận thức phân mảnh về thực chất là một thói quen hầu như hoàn toàn vô thức luôn lầm lẫn về vấn đề cái gì là khác và cái gì không. Như vậy, chính bằng cái hành động trong đó chúng ta cố gắng tìm xem phải làm gì với tính phân mảnh, chúng ta sẽ tiếp tục thói quen này, và như vậy chúng ta có xu hướng đưa ra thêm những hình thức mới của phân mảnh. Tất nhiên, điều này không nhất thiết có nghĩa là không thể có cách nào, nhưng nó chắc chắn có nghĩa là chúng ta phải tạm dừng lại để đừng rơi vào thói quen của lối suy nghĩ vụn mảnh khi chúng ta tìm những giải pháp có sẵn trong tầm tay. Vấn đề sự phân mảnh và cái toàn thể là một vấn đề mơ hồ và khó, mơ hồ và khó hơn những vấn đề dẫn tới các phát minh mới về cơ bản trong khoa học. Hỏi rằng làm thế nào để chấm dứt sự phân mảnh và chờ đợi câu trả lời trong một vài phút thì còn vô nghĩa hơn là hỏi làm thế nào phát minh ra một lí thuyết mới như lí thuyết của Einstein trong khi ông vẫn đang còn làm việc về thuyết ấy, và chờ đợi để được người ta bảo cho phải làm gì về phương diện chương trình, biểu thị dưới dạng các công thức và các phương pháp. Một trong những điểm khó nhất và vi tế nhất trong câu hỏi này là làm sáng tỏ ý nghĩa của mối quan hệ giữa nội dung của tư duy và quá trình suy nghĩ tạo ra nội dung này. Nguồn gốc chủ yếu của sự phân mảnh thật ra là những định kiến được chấp nhận rộng rãi cho rằng quá trình tư duy tách rời và độc lập với nội dung của nó một cách thích đáng, đủ cho chúng ta nói chung có thể tiến hành suy nghĩ một cách rõ ràng, có trật tự và hợp lí, suy nghĩ ấy có thể phán xét nội dung kia là đúng hay sai, hợp lí hay không hợp lí, phân mảnh hay toàn vẹn. v.v. Trong thực tế, như chúng ta đã thấy, sự phân mảnh dính liền với quan điểm phân chia tự ngã-thế giới không chỉ trong nội dung của tư duy mà cả trong hoạt động chung của người đang “tiến hành suy nghĩ”, và như vậy nó có mặt ngay trong quá trình suy nghĩ chẳng kém gì trong nội dung. Thật ra, nội dung và quá trình không phải là hai sự vật tồn tại tách rời, mà đúng hơn chúng là hai khía cạnh của những cách nhìn về một vận động toàn thể. Như vậy, nội dung phân mảnh và quá trình phân mảnh phải được chấm dứt cùng với nhau. Điều chúng ta phải đề cập ở đây là tính “nhất thể” của quá trình suy nghĩ và nội dung của nó, tương tự như tính “nhất thể” của người quan sát và vật được quan sát, đã được bàn tới khi nói https://thuviensach.vn đến thuyết Tương đối và thuyết Lượng tử. Những vấn đề thuộc bản chất này không thể được tiếp cận một cách đúng đắn một khi chúng ta còn bị kẹt, có ý thức hay không ý thức, trong lối tư duy cũ muốn tự phân tích nó ra dưới dạng một lối tách rời đầy định kiến giữa quá trình suy nghĩ và nội dung tư duy vốn là sản phẩm của nó. Bằng cách chấp nhận một định kiến như thế, trong bước tiếp theo chúng ta sẽ bị dẫn đến chỗ đi tìm một hanh động hoang tưởng thông qua những nguyên nhân hữu hiệu (efficient causes) có khả năng chấm dứt sự phân mảnh trong nội dung, trong khi vẫn để nguyên không động đến sự phân mảnh trong quá trình suy nghĩ. Tuy nhiên, điều cần thiết là bằng cách nào đó nắm được nguyên nhân sinh thành toàn diện của sự phân mảnh, trong đó nội dung và quá trình thực tế được xét cùng với nhau trong tổng thể của chúng. Ở đây chúng ta hãy xét hình ảnh khối hỗn loạn của những cái xoay trong một dòng chảy, cấu trúc và sự phân bố của những cái xoay, vốn hợp thành một loại nội dung miêu tả về vận động, không tách rời khỏi hoạt động sinh thành của dòng chảy, nó tạo ra, duy trì và cuối cùng làm tan biến toàn bộ những cấu trúc xoay. Như vậy, cố gắng loại bỏ những cái xoay mà không làm thay đổi hoạt động sinh thành của dòng chảy thì rõ ràng là phi lí. Một khi nhận thức của chúng ta được dẫn dắt bởi sự nhìn thấu đúng đắn vào ý nghĩa của toàn thể vận động thì rõ ràng chúng ta sẽ không sẵn sàng lao vào những cố gắng vô bổ như thế. Đúng hơn, chúng ta sẽ xem xét toàn bộ tình hình, chú ý và tỉnh táo để khám phá ra hành động thế nào là thật sự phù hợp, thích đáng với tính toàn thể này, để chấm dứt cấu trúc hỗn loạn của những cái xoay ấy. Tương tự, khi chúng ta thật sự nắm chắc rằng quá trình suy nghĩ mà chúng ta đang tiến hành, cùng với nội dung tư duy vốn là sản phẩm của quá trình ấy, thực chất chỉ là một, thì sự nhìn thấu như thế sẽ cho phép chúng ta nhìn, quan sát và học về vận động toàn thể của tư duy và nhờ vậy phát hiện ra được hành động phù hợp với cái toàn thể ấy, điều đó sẽ chấm dứt mọi “hỗn loạn” của vận động vốn là bản chất của tính phân mảnh trong mọi phương diện của cuộc sống. Tất nhiên, việc học hỏi và khám phá như thế đòi hỏi rất nhiều công phu và chú ý cẩn thận. Chúng ta sẵn sàng tập trung chú ý và nỗ lực làm việc trong một diện rộng những lĩnh vực khoa học, kinh tế, xã hội, chính trị, v.v. Thế nhưng có rất ít hay hầu như không có nỗ lực nào nhằm vào việc tạo ra một cái nhìn thấu vào quá trình tư duy, trong khi giá trị của mọi thứ khác lại phụ thuộc vào tính sáng rõ của nó. Điều cần thiết đầu tiên là tăng cường nhận thức về mối nguy cực kỳ to lớn trong việc tiếp tục quá trình tư duy phân mảnh này. Một nhận thức như thế sẽ dẫn đến việc tìm hiểu tư duy thực sự làm thế nào kích khởi cái cảm giác cấp bách và nghị lực cần thiết để đương đầu với những khó khăn thật to lớn mà sự phân mảnh ngày nay đang đe dọa chúng ta. PHỤ LỤC: TÓM TẮT THẢO LUẬN VỀ CÁC HÌNH THỨC https://thuviensach.vn NHÌN THẤU CỦA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY ĐỐI VỚI CÁI TOÀN THỂ Trong những giai đoạn phát triển rất sớm của nền văn minh, quan điểm của con người về bản chất là có tính toàn thể chứ không phải phân mảnh. Ở phương Đông, (đặc biệt là Ấn Độ) những quan điểm như thế vẫn còn đến ngày nay, với ý nghĩa rằng triết học và tôn giáo nhấn mạnh tính toàn thể và ám chỉ sự vồ ích của việc phân tích thế giới ra thành các bộ phận. Vậy tại sao chúng ta không vứt bỏ cái quan điểm phân mảnh phương Tây và áp dụng những khái niệm phương Đồng ấy, bao gồm không chỉ một quan điểm tự ngã-thế giới vốn từ chối sự phân chia và phân mảnh, mà còn có cả những phương pháp thiền định bằng vô ngôn dẫn dắt quá trình toàn thể của hoạt động tinh thần đến trạng thái tĩnh lặng của dòng chảy trật tự và êm đềm ở bên trong, cần thiểt để chấm dút sự phân mảnh cả trong quá trình tiến hành tư duy lẫn trong nội dung của nó? Để trả lời một câu hỏi như thế, sẽ có ích nếu bắt đầu bằng cách nói về sự khác nhau giữa các khái niệm phương Đông và phương Tây về chuẩn mực*. Từ thời rất xa xưa, ở phương Tây khái niệm về chuẩn mực đã đóng một vai trò then chốt trong việc xác định quan niệm tổng quát về tự ngã-thế giới, cùng với lối sống được ngầm chỉ trong quan niệm ấy. ở những người cổ Hi Lạp, mà phần lớn những khái niệm chức năng của chúng ta đều rút ra từ họ (thông qua người La Mã), giữ cho mọi vật đúng chuẩn mực được coi là một trong những điều cốt yếu của một cuộc sống tốt đẹp (chẳng hạn, bi kịch Hi Lạp thường miêu tả những đau khổ của con người như hậu quả của việc hắn ta vượt ra ngoài những chuẩn mực đúng đắn), về phương diện này, chuẩn mực (hay đo lường) không được xem xét theo nghĩa hiện đại của từ này như sự so sánh các đồ vật với những tiêu chuẩn hay đơn vị bên ngoài. Đúng hơn, trình tự đo lường được coi như một thứ biểu hiện bên ngoài hay cái bề ngoài của một “chuẩn mực bên trong” sâu hơn đóng một vai trò chủ chốt trong mọi vật. Khi một vật nào đó vượt ra ngoài chuẩn mực đúng đắn của nó, điều đó không chỉ có nghĩa là nó không phù hợp với một số tiêu chuẩn bên ngoài về thế nào là đúng, mà, hơn thế, nó là sự mất hài hòa bên trong, do đó nhất định nó phải mất đi tínhtoàn vẹn và vỡ ra thành từng mảnh vụn. Người ta có thể đạt được sự nhìn thấu vào cách suy nghĩ này bằng cách xem xét nghĩa trước kia của một số từ ngữ. Chẳng hạn, từ tiếng Latin “meredi” có nghĩa là “chữa trị” (gốc của từ hiện đại “medicine” - y học) dựa trên một nghĩa gốc “measure” (chuẩn mực). Điều này phản ánh quan điểm cho rằng sức khỏe thể chất được coi là kết quả của một trạng thái “chuẩn mực bên trong” trong tất cả các bộ phận và các quá trình của cơ thể. Tương tự, từ “moderation” - vừa phải - miêu tả một trong những khái niệm cổ xưa quan trọng nhất về đức hạnh dựa trên cùng một gốc ấy; nó chỉ ra rằng một đức hạnh như thế là kết https://thuviensach.vn quả của một chuẩn mực đúng đắn bên trong, ẩn bên dưới các hành vi và hành động của con người. Một lần nữa, từ “meditation” [trầm tưởng/thiền định] lại cùng cùng một gốc, ngầm chỉ một sự cân nhắc, nghiền ngẫm hay đo lường của quá trình toàn thể của tư duy, bằng cách này có thể đưa hoạt động của tâm trí đến một trạng thái hài hòa nhịp nhàng. Như vậy, dù là về phương diện thể chất, xã hội hay tâm thần, ý thức về chuẩn mực bên trong của sự vật được coi là chìa khóa chủ yếu cho một đời sống khỏe mạnh, hạnh phúc và hài hòa. Rõ ràng là chuẩn mực này có thể được biểu thị chi tiết hơn thông qua tỉ lệ, hay sự cân xứng, và từ “ratio” (tỉ số) trong tiếng Latin suy ra từ “reason” (lí trí/lẽ phải) trong ngôn ngữ hiện đại. Theo quan niệm cổ xưa, lí trí được coi như sự nhìn thấu vào một toàn thể gồm những tỉ lệ hay sự cân xứng - đó là sự tương ứng bên trong với bản chất chân chính của sự vật (chứ không chỉ theo bề ngoài như một hình thức so sánh với tiêu chuẩn hay đơn vị). Tất nhiên, tỉ lệ này không nhất thiết chỉ là [một tỉ lệ] bằng số (mặc dù tất nhiên nó có bao hàm những tỉ lệ như thế). Đúng hơn, về đại thể nó là một loại định tinh của quan hệ vũ trụ hay sự cân xứng vũ trụ. Như vậy, khi Newton nhận được cái nhìn thấu về lực hấp dẫn vũ trụ, điều mà ông nhìn thấy có lẽ được diễn tả theo cách này: “Vì quả táo rơi, nên mặt trăng cũng rơi, và mọi vật tất nhiên cũng rơi”. Để trình bày hình thức của tỉ lệ rõ ràng hơn, ta có thể viết: A : B :: C : D :: E : F trong đó A và B biểu thị các vị trí liên tiếp của quả táo tại các thời điểm liên tiếp, C và D biểu thị các vị trí liên tiếp của mặt trăng tại các thời điểm liên tiếp, E và F biểu thị các vị trí liên tiếp của vật bất kì tại các thời điểm liên tiếp. Bất cứ khi nào tìm thấy một lí do có tính lí thuyết cho một sự vật nào, chúng ta minh họa cho khái niệm tỉ lệ này, theo nghĩa ngầm rằng vì các khía cạnh khác nhau có liên hệ với nhau trong ý tưởng của chúng ta, nên chúng liên hệ với nhau trong sự vật mà ý tưởng này nghĩ tới. Như vậy thì lí do bản chất hay tỉ lệ của một vật là tổng các tỉ lệ nội tại trong cấu trúc của nó, và trong quá trinh hình thành, nó tự duy trì và cuối cùng tan biến. Theo cách nhìn này, hiểu được một tỉ lệ như thế tức là hiểu được cái “thực chất sâu thẳm bên trong” của sự vật. Như vậy, có sự hiểu ngầm rằng sự cân xứng là một dạng nhìn thấu vào thực chất của mọi vật, và rằng nhận thức của con người đi theo những con đường mà sự nhìn thấu như vậy chỉ ra sẽ sáng rõ, và như vậy nói chung sẽ đem lại hành động nghiêm chỉnh và cuộc sống hài hòa. Về mặt này sẽ có ích nếu nhắc đến các khái niệm cổ Hi Lạp về nhịp điệu trong âm nhạc và trong các môn nghệ thuật thị giác. Các khái niệm này nhấn mạnh rằng nắm bắt được nhịp điệu là chìa khóa để hiểu được tính hài hòa trong âm nhạc (ví dụ như nhịp, tỉ lệ đúng về cường độ âm thanh, tỉ lệ đúng về giọng, v.v.). Cũng giống như thế trong các nghệ thuật thị giác, tỉ lệ đúng được coi là https://thuviensach.vn thiết yếu đối với vẻ đẹp và sự hài hòa tổng thể (chẳng hạn hãy nhớ đến “Tỉ lệ Vàng”). Tất cả điều này cho thấy rõ khái niệm đo lường đã vượt xa khỏi sự so sánh với một tiêu chuẩn bên ngoài, để đi đến chỗ chỉ ra một loại tỉ lệ hay cân xứng nội tại phổ quát, được lĩnh hội bằng cả cảm giác lẫn lí trí. Tất nhiên, thời gian trôi đi, khái niệm đo lường dần dần thay đổi, mất đi tính vi tế của nó, trở nên tương đối thô thiển và cơ giới. Có lẽ là bởi vì khái niệm đo lường của con người ngay càng mang tính thói quen, đời thường, cả về cách biểu thị bề ngoài - ở những phép đo lường liên hệ với một đơn vị ở ngoài - cả về ý nghĩa bên trong như tỉ lệ phổ biến phù hợp với sức khỏe thể chất, trật tự xã hội và sự hài hòa tinh thần. Con người bắt đầu học những khái niệm ấy để đo lường một cách cơ giới theo lời dạy của những người thầy và những người lớn tuổi hơn chứ không phải học một cách sáng tạo, thông qua cảm nhận bên trong và sự hiểu thấu ý nghĩa sâu hơn của tỉ lệ và sự cân xứng. Như vậy, đo lường (chuẩn mực) dần dần được dạy như một loại quy tắc (thước đo) được áp đặt từ bên ngoài lên con người, đến lượt mình con người lại áp đặt sự đo lường tương ứng về thể chất, xã hội và tinh thần, lên mọi bối cảnh trong đó anh ta hoạt động. Kết quả là, những khái niệm chiếm ưu thế về đo lường không còn được xem như những hình thức nhìn thấu nữa. Thay vì vậy, nó xuất hiện như “những chân lí tuyệt đối về thực tại như nó vốn thế”, mà con người hình như luôn luôn đã biết, mà nguồn gốc của nó thường được giải thích một cách huyền hoặc như những mệnh lệnh bắt buộc của Thượng Đế, và đặt câu hỏi về nó là một việc vừa xấu xa vừa nguy hiểm. Vậy, tư duy về chuẩn mực có xu hướng chủ yếu rơi vào phạm vi thói quen vô thức, và kết quả là, các hình thức mà tư duy này gợi ra trong tri giác bây giờ được coi như những thực tại khách quan được quan sát trực tiếp, về thực chất độc lập với cách thức mà chúng được nghĩ tới. Ngay từ thời cổ Hi Lạp, quá trình này đã đi quá xa, và khi con người nhận ra điều đó họ bắt đầu đặt câu hỏi về chuẩn mực. Như Protagoras đã nói: “Con người là chuẩn mực của muôn vật”, như vậy nhấn mạnh rằng chuẩn mực không phải là cái tồn tại bên ngoài con người và độc lập với con người. Nhưng nhiều người có thói quen nhìn mọi sự như từ bên ngoài cũng áp dụng cách nhìn này đối với điều Protagoras đã nói. Họ kết luận rằng chuẩn mực là một cái gì tuy tiện, võ đoán, là đối tượng của những lựa chọn hay sở thích thất thường của mỗi cá nhân. Bằng cách đó tất nhiên họ bỏ qua cái sự thật rằng chuẩn mực là một dạng nhìn thấu, nó phải phù hợp với cái thực tại toàn thể mà con người sống trong đó, như được biểu thị bằng sự sáng sủa của nhận thức và sự hài hòa của hành động mà nó dẫn đến. Một cái nhìn thấu đúng đắn như thế chỉ có thể sinh ra khi con người làm việc với sự nghiêm túc và trung thực, đặt chân lí và sự thật lên trên hết, trên mọi mong muốn và ý thích ngẫu hứng của riêng minh. https://thuviensach.vn Quá trình khái niệm chuẩn mực trở nên cứng nhắc và khách quan hóa tiếp tục phát triển cho đến thời hiện đại, khi chính bản thân từ “chuẩn mực” đã trở thành “đo lường”, hàm nghĩa chủ yếu là một quá trình so sánh một vật gì đó với một tiêu chuẩn bên ngoài. Tuy nghĩa gốc của nó vẫn còn lưu lại trong một vài bối cảnh (ví dụ trong nghệ thuật và toán học), song nói chung nó đã rơi xuống mức chỉ còn lại nghĩa thứ cấp. Song ở phương Đông khái niệm đo lường đã không đóng một vai trò cơ bản như vậy. Đúng hơn, trong triết học chiếm ưu thế ở phương Đông, cái không thể đo lường (tức là cái không thể gọi tên, không thể miêu tả hoặc hiểu thông qua một dạng lí trí nào) được coi như thực tại nguyên thủy. Trong tiếng Sanskrit (có nguồn gốc chính với nhóm ngôn ngữ An-Âu) có từ “matra” có nghĩa là đo lường, theo nghĩa âm nhạc (nhịp điệu), rõ ràng gần với từ Hi Lạp “metron”. Nhưng rồi có một từ khác, “maya” có cùng gốc, nghĩa là “ảo ảnh”. Đây là một điểm cực kì có ý nghĩa. Trong khi đối với xã hội phương Tây, đo lường, như rút ra từ tiếng Hi Lạp, với tất cả ý nghĩa ngầm của nó, là bản chất chân chính của thực tại, hoặc ít ra là chìa khóa đi đến bản chất này, thì ở phương Đông sự đo lường ngày này đã được coi một cách phổ biến như là có tính giả tạo hay dối lừa. Theo cách nhìn này, toàn bộ cấu trúc và trật tự của các hình thức, các tỉ lệ, và các “tỉ số” vốn tự biểu hiện thành nhận thức và lí trí thông thường được coi như một loại màn che, che đi cái thực tại chân chính, vốn là cái thực tại không thể nhận thức được bằng cảm giác và không thể nghĩ bàn (bất khả tư nghị). Rõ ràng những con đường khác nhau mà hai xã hội đã phát triển là phù hợp với thái độ khác nhau của họ đối với đo lường. Tức là, ở phương Tây, xã hội chủ yếu nhấn mạnh việc phát triển khoa học kĩ thuật (phụ thuộc vào đo lường) trong khi ở phương Đông người ta nhấn mạnh chủ yếu về tôn giáo và triết học (là những thứ về bản chất trực tiếp hướng tới những gì không thể đo lường). Nếu xem xét vấn đề này thật cẩn thận, chúng ta có thể thấy rằng theo một nghĩa nào đó phương Đông đã đúng khi coi cái không thể đo lường là thực tại bản nguyên*. Vì, như đã chỉ ra ở trên, đo lường là một nhìn thấu do con người tạo ra. Một thực tại vượt quá tầm con người và có trước con người không thể phụ thuộc vào một nhìn thấu như thế. Thực ra, như ta đã thấy, cái ý đồ giả định rằng đo lường tồn tại trước con người và độc lập với con người dẫn đến “khách quan hóa” cái nhìn thấu của con người, vì thế nó trở thành cứng nhắc và không thể thay đổi, dần dần đem đến tính phân mảnh và lầm lẫn phổ biến như đã được mô tả trong chương này. Người ta có thể suy luận rằng có lẽ trong thời cổ đại con người vốn đã đủ thông minh để thấy rằng cái không thể đo lường là thực tại bản nguyên thì cũng đủ thông minh để thấy rằng đo lường là cái nhìn thấu vào khía cạnh thứ yếu và phụ thuộc nhưng cần thiết của thực tại. Như vậy https://thuviensach.vn họ có thể đồng ý với người Hi Lạp rằng nhìn thấu vào đo lường có thể giúp đưa trật tự và hài hòa vào trong đời sống chúng ta, trong khi đồng thời, có lẽ nếu ta nhìn sâu hơn, rằng nó không thể là cái cơ bản nhất trên phương diện này. Có lẽ họ có thể nói thêm rằng khi đo lường được đồng nhất với bản chất của thực tại thì đó là một ảo tưởng. Nhưng sau đó, khi con người học điều này theo chỉ dạy của truyền thống thì ý nghĩa trở nên nặng về thói quen và tính cơ giới. Theo cách đã chỉ ra ở trên, tính vi tế bị mất đi và con người bắt đầu nói một cách đơn giản: “Đo lường là ảo tưởng”. Như vậy, cả ở phương Đông lẫn phương Tây, cái nhìn thấu thật sự đã bị biến thành một cái gì sai và gây hiểu lầm bởi cái cung cách học tập máy móc thông qua việc tuân theo những lời dạy có sẵn, chứ không phải thông qua sự nắm bắt độc đáo và sáng tạo những nhìn thấu ẩn tàng trong những lời dạy ấy. Tất nhiên, không thể quay trở lại trạng thái toàn thể có thể đã có trước khi sự phân li Đông Tây phát triển (dù chỉ vì chúng ta biết ít hoặc không biết gì về trạng thái này). Đúng ra, điều cần thiết là học lại cách quan sát, để phát hiện cho chính chúng ta ý nghĩa của cái toàn thể. Tất nhiên, chúng ta phải hiểu biết những bài học của quá khứ, cả phương Đông lẫn phương Tây, nhưng việc bắt chước theo những bài học ấy hoặc cố gắng tuân theo chúng chắc sẽ có rất ít ý nghĩa. Vì, như đã chỉ ra trong chương này, để có một cái nhìn thấu mới vào sự phân mảnh và cái toàn thể thì cần phải có một công việc sáng tạo thậm chí khó khăn còn hơn cả công phu cần thiết để làm ra những phát minh mới cơ bản trong khoa học, hay những công trình độc đáo tuyệt vời trong nghệ thuật. Trong ngữ cảnh này có thể nói rằng một người có năng lực sáng tạo tương tự như Einstein không phải là người bắt chước những ý tưởng của Einstein, thậm chí không phải là người áp dụng những ý tưởng ấy theo cách mới; đúng hơn, đó là một người học từ Einstein và sau đó tiếp tục làm một cái gì đó độc đáo có thể tích hợp những gì có giá trị trong công trình của Einstein nhưng rồi vượt qua công trình ấy theo những cách mới về chất. Vậy những gì chúng ta phải làm đối với sự thông thái tuyệt vời của toàn bộ quá khứ, cả Đông lẫn Tây, là đồng hóa nó và tiếp tục đi đến những nhận thức mới mẻ độc đáo phù hợp với điều kiện của cuộc sống chúng ta ngày này. Trong khi làm thế, điều quan trọng là chúng ta cần nhận biết được sáng tỏ vai trò của những phương pháp, giống như các phương pháp được dùng trong nhiều dạng mặc tưởng thiền định. Theo cách nào đó, các phương pháp thiền định có thể được xem như các biện pháp (những hành động do tri thức và lí trí chỉ đạo) do con người thực hiện nhằm đạt tới cái không thể đo lường, nghĩa là một trạng thái của tâm trong đó con người ngưng cảm thụ sự tách rời giữa bản thân anh ta và toàn thể thực tại. Nhưng rõ ràng có một mâu thuẫn trong khái niệm ấy, vì cái không thể đo lường, nếu có, chính là cái không thể đưa vào trong những giới hạn do lí trí và tri thức của con https://thuviensach.vn người xác lập nên. Thật ra, trong những bối cảnh có thể định rõ nào đó, các biện pháp kĩ thuật, nếu được hiểu trong một tinh thần đúng đắn, có thể dẫn chúng ta làm những việc mà từ đó chúng ta có thể rút ra những nhìn thấu nếu chúng ta biết quan sát. Tuy nhiên, những khả năng như thế rất hạn chế. Như vậy, sẽ là mâu thuẫn về thuật ngữ nếu nghĩ về các phương pháp lập thành công thức cho việc làm ra những phát minh mới về cơ bản trong khoa học, hay những tác phẩm độc đáo đầy tính sáng tạo trong nghệ thuật, bởi vì bản chất chân chính của những hành động như thế là một sự tự do nhất định thoát khỏi sự phụ thuộc vào những người khác, được cần đến như những người dẫn đường. Làm thế nào có thể truyền thứ tự do này vào một hành động trong đó sự tuân theo tri thức của người khác là nguồn năng lượng chủ yếu? Và nếu các kĩ thuật không thể dạy sự sáng tạo và tính độc đáo trong nghệ thuật và trong khoa học thì cái khả năng của chúng trong việc giúp chúng ta “khám phá ra những cái không thể đo lường” còn nhỏ đến đâu? Trong thực tế, không có điều gì trực tiếp và có tác dụng mà con người có thể làm để với đến cái không thể đo lường, vì chắc chắn nó cách xa muôn trùng khỏi những gì mà con người có thế nắm bắt bằng trí tuệ hay làm bằng đôi tay hoặc những công cụ của minh. Điều con người có thể làm là chú ý đầy đủ và dung hết năng lượng sáng tạo của mình để đưa sự sáng sủa và trật tự vào cái toàn thể của lĩnh vực đo lường. Tất nhiên, điều đó đòi hỏi không chỉ biểu hiện bề ngoài của đo lường theo nghĩa là các đơn vị bên ngoài, mà còn cả những chuẩn mực bên trong, như sức khỏe của cơ thể, điều độ trong hoạt động, và trầm tưởng thiền định, cho ta nhìn thấu vào chuẩn mực của tư duy. Điều sau cùng này đặc biệt quan trọng vì, như đã chỉ ra, cái ảo tưởng cho rằng tự ngã và thế giới bị vỡ ra thành những mảnh vụn có nguồn gốc từ loại tư duy vượt ra khỏi chuẩn mực đúng đắn của nó và lẫn lộn cái sản phẩm của riêng nó với chính thực tại độc lập. Để chấm dứt ảo tưởng này, cần nhìn thấu không phải chỉ vào thế giới như một toàn thể, mà còn vào phương cách công cụ tư duy làm việc. Một nhìn thấu như thế hàm ý một hành động độc đáo và sáng tạo của nhận thức hướng vào tất cả mọi khía cạnh của đời sống, vật chất lẫn tinh thần, thông qua cả cảm giác lẫn lí trí, và đây có lẽ là ý nghĩa chân chính của thiền định. Như đã thấy, sự phân mảnh về bản chất có nguồn gốc từ sự cố định những cách nhìn thấu hình thành nên quan điểm toàn diện của chúng ta về tự ngã-thế giới, theo cách nghĩ nói chung có tính máy móc, theo thói quen và thông lệ của chúng ta về những vấn đề này. Bởi vì thực tại bản nguyên vượt ra khỏi bất cứ cái gì có thể chứa trong những hình thức đo lường cố định như thế, nên những nhìn thấu này cuối cùng không còn thích hợp nữa, và như vậy làm nảy sinh ra đủ loại rối rắm hay lầm lẫn. Tuy nhiên, khi toàn thể lĩnh vực đo lường được mở rộng ra cho sự https://thuviensach.vn nhìn thấu độc đáo và sáng tạo, mà không có bất kì giới hạn cố định hoặc rào cản nào thì các cách nhìn thế giới toàn diện của chúng ta sẽ không còn cứng nhắc, và toàn thể lĩnh vực đo lường sẽ trở nên hài hòa, vì sự phân mảnh bên trong nó đã kết thúc. Nhưng nhìn thấu độc đáo và sáng tạo vào toàn thể lĩnh vực đo lường là hành động của cái không thể đo lường. Vì khi nhìn thấu như vậy xảy ra, cái nguồn gốc không thể nằm gọn trong những ý tưởng đã chứa trong lĩnh vực đo lường mà đúng hơn là phải ở trong cái không thể đo lường, vốn là cái chứa đựng nguyên nhân sinh thành thực chất của mọi hiện tượng diễn ra trong lĩnh vực đo lường. Khi đó cái có thể đo lường và cái không thể đo lường hài hòa với nhau, và người ta thấy chúng quả thật chỉ là những cách nhìn khác nhau đối với cái toàn thể duy nhất không phân chia. Khi sự hài hòa như vậy chiếm ưu thế, con người không những có thể nhìn thấu vào ý nghĩa của cái toàn thể, mà điều còn có ý nghĩa hơn nhiều là con người còn có thể nhận thức được sự thật về cái nhìn thấu vào mọi phương diện và mọi khía cạnh trong đời sống của mình. Như Krishnamurti* đã nói lên một cách thật mạnh mẽ và sáng tỏ, điều này đòi hỏi con người cống hiến toàn bộ năng lực sáng tạo của mình vào việc tìm hiểu toàn bộ lĩnh vực đo lường. Có lẽ việc làm này cực kì khó khăn và khắc nghiệt, nhưng vì tất cả đều tùy thuộc vào nó, cho nên chắc chắn nó đáng để mỗi chúng ta dành cho sự chú ý nghiêm cẩn và xem xét thấu đáo. https://thuviensach.vn 2 RHEOMODE - MỘT THÍ NGHIỆM VỚI NGÔN NGỮ VÀ TƯ DUY 1. GIỚI THIỆU Trong chương trước đã chỉ ra rằng tư duy của chúng ta vụn mảnh chủ yếu bởi chúng ta coi nó như hình ảnh hoặc hình mẫu của “thế giới như vốn có”. Như vậy, những sự phân chia trong tư duy được gán một tầm quan trọng quá đáng, như thể chúng là một cấu trúc lan rộng và tràn ngập của những đứt gãy thực tế tồn tại độc lập trong cái “là gì”, chứ không phải chỉ là những đặc điểm tiện lợi cho sự miêu tả và phân tích. Ta đã thấy lối tư duy như thế đem đến những lầm lẫn hoàn toàn, có xu hướng tràn ngập khắp mọi phương diện của cuộc sống, và cuối cùng điều đó khiến mọi giải pháp cho các vấn đề cá nhân và xã hội trở thành bất khả. Chúng ta đã thấy yêu cầu cấp thiết cần phải chấm dứt sự lộn xộn này, thông qua sự cẩn thận chú ý đến tính nhất thể của nội dung tư duy và quá trình thực của tư duy tạo ra nội dung này. Chương này tập trung chủ yếu vào việc khảo sát vai trò của cấu trúc ngôn ngữ trong việc góp phần tạo ra loại phân mảnh này trong tư duy. Mặc dù ngôn ngữ chỉ là một trong các nhân tố liên quan đến xu hướng này, nhưng rõ ràng nó là một chìa khóa quan trọng trong tư duy, trong truyền thông, và trong sự tổ chức xã hội loài người nói chung. Tất nhiên, ta chỉ có thể quan sát ngôn ngữ như nó vốn đã và đang là thế, trong nhiều tầng lớp xã hội khác nhau và qua các thời ki khác nhau, nhưng cái mà chúng ta mong làm trong chương này là thí nghiệm với những thay đổi trong cấu trúc ngôn ngữ chung. Trong thí nghiệm này, mục đích của chúng ta không phải là tạo ra một thế phẩm được xác định rõ ràng cho cấu trúc ngôn ngữ hiện tại. Đúng hơn, mục đích là nhìn xem điều gì xảy ra với chức năng ngôn ngữ khi chúng ta thay đổi nó, qua đó có lẽ sẽ tạo ra được một cái nhìn thấu vào việc ngôn ngữ góp phần vào sự phân mảnh chung như thế nào. Tất nhiên một trong những cách tốt nhất để biết xem người ta bị điều kiện hóa bởi thói quen như thế nào (như cách dùng ngôn ngữ thông thường. trong một phạm vi rộng) là tập trung chú ý kiên trì và cẩn thận vào phản ứng toàn diện của một https://thuviensach.vn người khi người đó “làm thí nghiệm” xem điều gì xảy ra khi người ta đang làm một việc gì đó hết sức khác lạ so với chức năng tự động và quen thuộc. Như vậy, điểm chủ yếu của công việc được thảo luận trong chương này là đi một bước trong cái gọi là cuộc thử nghiệm không ngừng với ngôn ngữ (và với tư duy). Tức là, chúng ta gợi ý rằng một cuộc thử nghiệm như thế được coi như hoạt động bình thường của cá nhân và của xã hội (như thực tế trong vài thế kỉ qua, những thử nghiệm với tự nhiên và với bản thân con người đã được coi như thế). Như vậy, ngôn ngữ (cùng với tư duy gắn liền với nó) sẽ được coi như lĩnh vực chức năng riêng biệt, trong số những lĩnh vực khác, do đó nó sẽ không còn được coi là một lĩnh vực được miễn trừ khỏi bị đem ra làm thí nghiệm. 2. MỘT CUỘC TRUY VẤN NGÔN NGỮ CỦA CHÚNG TA Trong khoa học, một bước quyết định là hỏi những câu hỏi đúng. Tất nhiên, mỗi câu hỏi chứa đựng những giả định, thường là tiềm ẩn. Nếu những giả dinh này sai hay lầm lẫn, thì bản thân câu hỏi là sai, theo nghĩa rằng cố gắng trả lời nó là vô nghĩa. Như vậy, người ta phải chất vấn tính thích đáng của câu hỏi. Thật ra, những phát minh thật sự độc đáo trong khoa học và trong những lĩnh vực khác nói chung đòi hỏi chất vấn các câu hỏi cũ, dẫn đến việc nhận thức tính không thích đáng của chúng, và nhờ đó mở đường cho việc đặt ra những câu hỏi mới. Việc làm đó thường rất khó khăn, vì những giả định này có xu hướng ẩn mình rất sâu trong cấu trúc của tư duy chúng ta (Chẳng hạn, Einstein thấy rằng những câu hỏi liên quan đến không gian và thời gian và bản chất hạt của vật chất vốn được thừa nhận phổ biến trong vật lí học thời bấy giờ chứa đựng những giả định sai lầm cần phải vứt bỏ, và như vậy ông đã có thể hỏi những câu hỏi mới dẫn đến những khái niệm khác về cơ bản trong chủ đề này). Vậy thì câu hỏi của chúng ta là gì khi chúng ta sẵn sàng bước vào cuộc truy vấn ngôn ngữ (và tư duy) của chúng ta? Chúng ta bắt đầu với sự kiện tính phân mảnh phổ biến. Chúng ta có thể hỏi sơ bộ liệu có đặc điểm nào của ngôn ngữ thường có xu hướng duy trì và phát tán tính phân mảnh này, cũng như có thể phản ánh nó? Một khảo sát nhanh chỉ ra rằng, một đặc điểm hết sức quan trọng thuộc loại này là cấu trúc chủ ngữ-động từ-đối tượng của mệnh đề, vốn là điểm chung cho ngữ pháp và cú pháp của các ngôn ngữ hiện đại. Cấu trúc này hàm ý rằng mọi hành động đều nảy sinh trong một thực thể biệt lập-chủ ngữ - và rằng, trong trường hợp được mô tả bằng ngoại động từ, hành động này vượt qua khoảng không gian giữa chúng để đến một thực thể biệt lập khác-đối tượng (Nếu động từ là nội động từ, như trong câu “anh ấy đi”, thì chủ ngữ vẫn còn được coi là một thực thể biệt lập, nhưng hành động được coi hoặc là thuộc tính của chủ ngữ, hoặc là một hành động phản thân của chủ ngữ, tức là “anh ấy đi” có thể mang nghĩa https://thuviensach.vn “anh ấy tự đi”). Đây là một cấu trúc phổ biến trong cái toàn thể của cuộc sống dẫn đến một chức năng tư duy có xu hướng phân chia mọi vật thành những thực thể tách biệt, những thực thể như thế được quan niệm như về cơ bản là cố định và tĩnh tại từ trong bản chất. Khi cách nhìn này bị đẩy đến giới hạn của nó, người ta sẽ rơi vào cái thế giới quan khoa học phổ biến coi mọi vật về thực chất như được hình thành từ những hạt cơ bản có bản chất bất biến. Cấu trúc chủ ngữ-động từ-đối tượng của ngôn ngữ, cùng với cách nhìn thế giới của nó, có xu hướng tự áp đặt bản thân nó rất mạnh mẽ lên cách nói của chúng ta, thậm chí trong một số trường hợp nếu chú ý sẽ phát hiện ra rõ ràng là nó không thích đáng. Chẳng hạn, chúng ta hãy xem xét mệnh đề “Trời đang mưa”*. Theo mệnh đề này thì trời ở đâu, có phải là “kẻ làm mưa” đang làm ra trận mưa đó chăng? Rõ ràng sẽ chính xác hơn nếu nói “Vẫn đang mưa”. Tương tự như vậy, chúng ta thường quen nói: “Một hạt cơ bản tác động lên hạt khác”. Nhưng, như đã chỉ ra ở chương trước, mỗi hạt chỉ là một trừu tượng của một dạng tương đối bất biến của vận động trong phạm vi toàn vũ trụ. Vậy sẽ thích hợp hơn nếu nói: “Các hạt cơ bản là những vận động đang tiếp diễn, chúng phụ thuộc lẫn nhau bởi vì thực chất chúng hợp nhất và thâm nhập lẫn nhau”. Tuy nhiên, cách miêu tả như vậy còn có giá trị ở tầm vĩ mô. Tức là, thay vì nói: “Một người quan sát đang nhìn một đối tượng” chúng ta có thể nói thích hợp hơn rằng: “Việc quan sát đang tiếp diễn, trong một vận động không phân chia gắn liền với những trừu tượng thường được gọi theo thói quen là “con người” và “đối tượng mà anh ta đang quan sát”. Những khảo sát các hàm ý chung của các cấu trúc câu này gợi lên một vấn đề khác. Phải chăng các hình thức cú pháp và ngữ pháp của ngôn ngữ không thể thay đổi sao cho động từ có một vai trò cơ bản hơn danh từ? Điều này sẽ giúp chấm dứt tính phân mảnh được chỉ ra ở trên, vì động từ miêu tả hành động và vận động, vốn trôi chảy và hòa nhập vào nhau, mà không có sự phân chia rành mạch và sự đứt gãy. Hơn nữa, vì các vận động nói chung luôn luôn tự chúng thay đổi, nên trong bản thân chúng không có mẫu hình vĩnh cửu nào của hình thức bất biến có thể đồng hóa với những sự vật tồn tại tách biệt. Một cách tiếp cận với ngôn ngữ như thế rõ ràng phù hợp với cách nhìn thế giới toàn diện như được thảo luận trong chương trước, trong đó vận động được coi là khái niệm khởi nguyên, trong khi các sự vật có bề ngoài tính tại và tồn tại tách biệt được coi như những trạng thái bất biến tương đối của vận động liên tục (Chẳng hạn, hãy nhớ lại ví dụ về các xoáy nước). Hãy xét rằng ở các ngôn ngữ cổ - chẳng hạn tiếng Hebrew - động từ thật ra có vai trò cơ bản theo nghĩa mô tả ở trên. Như vậy, gốc rễ của hầu hết các từ trong tiếng Hebrew là một dạng động từ nhất định, trong khi trạng từ, tính từ và danh từ có được bằng cách cải biến dạng động https://thuviensach.vn từ thông qua các tiền tố, hậu tố và theo những cách khác. Tuy nhiên, trong tiếng Hebrew hiện đại, cách sử dụng hiện nay tương tự như trong tiếng Anh, trong đó trên thực tế danh từ có vai trò cơ bản theo ý nghĩa của nó, mặc dù, trong ngữ pháp hình thức, tất cả vẫn còn được xây dựng từ gốc rễ là các động từ. Tất nhiên ở đây chúng ta phải thử làm việc với một cấu trúc trong đó động từ có chức năng cơ bản, và coi đây là một yêu cầu nghiêm túc. Tức là, nếu ta sử dụng động từ như là đóng vai trò cơ bản về hình thức, nhưng vẫn suy nghĩ theo lối coi một tập hợp các đối tượng tách biệt và có thể nhận biết là cơ bản thì đó là việc thật vô ích. Nói một đằng làm một nẻo theo cách này là một dạng lộn xộn, rõ ràng là chỉ làm tăng thêm tính phân mảnh nói chung chứ không giúp gì vào việc kết liễu nó. Tuy nhiên, đột nhiên sáng tạo ra cả một ngôn ngữ mới ngầm chứa một cấu trúc tư duy hoàn toàn khác về cơ bản, rõ ràng là việc không thực tế. Điều có thể làm được là đưa ra - một cách tạm thời và có tính cách thử nghiệm - một phương thức mới của ngôn ngữ. Quả thật chúng ta đã có, chẳng hạn, những thức khác nhau của động từ, như thức trần thuật, thức giả định, thức mệnh lệnh, và chúng ta đã phát triển những kĩ năng trong việc sử dụng ngôn ngữ sao cho mỗi thức khi cần đến thì đều hoạt động mà không cần phải cố ý lựa chọn. Tương tự như vậy, bây giờ chúng ta sẽ xem xét một phương thức trong đó vận động được coi là cơ bản trong suy nghĩ của chúng ta, và trong đó khái niệm này sẽ được phối hợp vào cấu trúc ngôn ngữ bằng cách cho phép động từ chứ không phải danh từ đóng vai trò chủ đạo. Khi tạo ra một phương thức như thế và làm việc với nó một thời gian, người ta có thể đạt được kĩ năng cần thiết trong việc sử dụng nó sao cho nó cũng sẽ hoạt động khi cần đến mà không cần phải cố ý lựa chọn. Để cho tiện, chúng ta sẽ cho phương thức này một cái tên, gọi là “rheomode” (“rheo” từ một động từ tiếng Hi Lạp, có nghĩa là “chảy”). Ít ra ban đầu rheomode là một thí nghiệm trong việc sử dụng ngôn ngữ, chủ yếu nhằm cố gắng tìm ra khả năng tạo ra một cấu trúc mới không quá thiên về phân mảnh như cấu trúc hiện tại. Như vậy rõ ràng là thí nghiệm của chúng ta phải bắt đầu bằng cách nhấn mạnh vai trò của ngôn ngữ trong việc hình thành những cách nhìn thế giới toàn diện của chúng ta, cũng như việc biểu hiện chúng chính xác hơn dưới dạng những tư tưởng triết học tổng quát. Vì, như đã được gợi lên trong chương trước, những cách nhìn thế giới này và biểu hiện tổng quát của chúng (chứa đựng những kết luận ngầm về mọi sự vật, bao gồm tự nhiên, xã hội, bản thân chúng ta, ngôn ngữ của chúng ta...) bây giờ đang đóng một vai trò then chốt trong việc khơi nguồn và duy trì sự phân mảnh trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Như vậy, chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc sử dụng rheomode chủ yếu theo cách thực nghiệm. Như đã chỉ ra, việc làm này đòi hỏi tập trung chú ý vào xem tư duy và ngôn ngữ thực sự hoạt động như thế nào, việc https://thuviensach.vn này vượt ra khỏi phạm vi xem xét đơn thuần nội dung của chúng. Ít nhất, trong cuộc khảo sát này, rheomode liên quan chủ yếu đến những câu hỏi thuộc về những hàm ý sâu rộng của những cách nhìn thế giới toàn diện của chúng ta, ngày này đang có xu hướng được nêu ra trong nghiên cứu triết học, tâm lí học, nghệ thuật, khoa học và toán học, nhưng đặc biệt trong nghiên cứu bản thân tư duy và ngôn ngữ. Tất nhiên, loại câu hỏi này cũng có thể được thảo luận dưới dạng những cấu trúc ngôn ngữ của chúng ta ngày này. Mặc dù cấu trúc này thật ra bị chi phối bởi hình thức chia cắt chủ ngữ-động từ-đối tượng, tuy nhiên nó hàm chứa tính đa dạng phong phú và phức tạp của các dạng khác, được sử dụng rộng rãi một cách ngấm ngầm và bằng ý nghĩa hàm súc (đặc biệt trong thơ ca, nhưng nói chung trong tất cả các phương thức biểu hiện của nghệ thuật). Tuy nhiên, dạng chiếm ưu thế của cấu trúc chủ ngữ động từ-đối tượng có xu hướng liên tục dẫn đến sự phân mảnh, và cái suy tính tránh sự phân mảnh bằng cách sử dụng điêu luyện các đặc điểm khác của ngôn ngữ rõ ràng chỉ có tác dụng rất hạn chế, vì, với sức mạnh của thói quen, đặc biệt trong những vấn đề rộng lớn liên quan đến cách nhìn thế giới toàn diện của chúng ta, sớm muộn chúng ta sẽ vô tình rơi vào lối phân mảnh dưới tác động ngấm ngầm của cấu trúc cơ bản đó. Lí do của điều này không chỉ là hình thức chủ ngữ-động từ-đối tượng của ngôn ngữ liên tục ngầm chỉ một sự phân chia không thích đáng giữa các sự vật, mà hơn nữa, phương thức thông thường của ngôn ngữ có xu hướng rất mạnh coi chức năng của nó là đương nhiên, và do vậy dẫn chúng ta đến chỗ hầu như tập trung hoàn toàn vào nội dung đang thảo luận, đến nỗi không hoặc rất ít khi chú ý đến chức năng biểu tượng thực tế của bản thân ngôn ngữ. Tuy nhiên, như đã chỉ ra ở trên, chính đây là chỗ bắt nguồn cái khuynh hướng cơ bản dẫn tới sự phân mảnh. Vì phương thức thông thường của tư duy và ngôn ngữ không thu hút đủ chú ý đến chức năng của nó, nên chức năng này dường như phát sinh trong một thực tại độc lập đối với tư duy và ngôn ngữ, do đó sự chia cắt ẩn trong cấu trúc ngôn ngữ lúc đó được phóng thoát, như thể chúng là những mảnh vụn, tương tự như những chỗ vỡ có thật trong cái “vốn là thế”. Tuy nhiên, nhận thức phân mảnh như vậy có thể gây ra ấn tượng không đúng rằng chức năng của tư duy và ngôn ngữ đã được chú ý đến một cách thích đáng, và như vậy có thể dẫn đến kết luận sai lầm rằng trong thực tế không có loại khó khăn nghiêm trọng như đã miêu tả ở trên. Chẳng hạn, người ta có thể cho rằng vì chức năng của thế giới tự nhiên được nghiên cứu trong vật lí học, chức năng của xã hội được nghiên cứu trong môn xã hội học, chức năng của trí tuệ được nghiên cứu trong tâm lí học, cho nên chức năng của ngôn ngữ chắc chắn đã được ngành ngôn ngữ học chú ý đến. Nhưng, tất nhiên, một khái niệm như thế chỉ thích hợp nếu tất cả các lĩnh vực này tách rời nhau rõ rệt, hoặc bất biến hoặc thay đổi rất chậm từ trong bản chất, sao cho https://thuviensach.vn kết quả nhận được trong mỗi lĩnh vực chuyên môn hóa có thể là thích đáng trong mọi tinh huống và trong mọi cơ hội áp dụng chúng. Tuy nhiên, điều chúng ta đã và đang nhấn mạnh là, trên các vấn đề thuộc phạm vi sâu rộng như thế, loại tách biệt này là không thích hợp, và trong mọi trường hợp, điều thiết yếu là tập trung chú ý vào chính ngôn ngữ (và tư duy) đang được sử dụng, từ thời điểm này đến thời điểm khác, trong cuộc khảo sát chức năng của bản thân ngôn ngữ, cũng như trong bất kì hình thức khảo sát nào khác mà người ta tiến hành. Như vậy, tách rời ngôn ngữ ra như một lĩnh vực đặc biệt để nghiên cứu và xem nó như một sự vật tương đối tính tại thay đổi rất chậm (hoặc không thay đổi), là không thỏa đáng. Rõ ràng là, trong việc phát triển rheomode, chúng ta sẽ phải đặc biệt nhận thức sự cần thiết phải tập trung chú ý vào chức năng của bản thân ngôn ngữ tại mọi thời điểm mà chức năng đó diễn ra. Nhờ đó, chúng ta không chỉ có khả năng tư duy mạch lạc hơn về những vấn đề rộng lớn liên quan đến thế giới quan tổng quát của chúng ta, mà còn có thể hiểu rõ hơn phương thức thông thường của các chức năng ngôn ngữ, do đó có thể sử dụng ngay cả phương thức thông thường này một cách mạch lạc hơn. 3. HÌNH THỨC CỦA RHEOMODE Bây giờ chúng ta đi sâu vào chi tiết xem hình thức biểu hiện thích hợp của rheomode là gì? Như bước đầu tiên trong cuộc tìm tòi này, chúng ta có thể hỏi liệu có phải cấu trúc không nghi thức, phong phú và phức tạp của cách sử dụng ngôn ngữ thông thường không chứa đựng - ngay cả dưới hình thức sơ đẳng hay phôi thai - một số đặc điểm có thể thỏa mãn cái nhu cầu được chỉ ra ở trên, là thu hút sự chú ý vào chức năng thực sự của tư duy và ngôn ngữ. Nếu xem xét câu hỏi này, ta có thể thấy rằng quả có những đặc điểm như thế. Thật ra, trong thời hiện đại, ví dụ nổi bật nhất là việc sử dụng (hay lạm dụng) từ “thích đáng” (có thể được hiểu như “mò mẫm” dò tìm cái chức năng thu hút chú ý mà người ta hầu như cảm thấy là quan trọng một cách vô thức.). Từ “thích đáng”* suy ra từ một động từ ngày nay đã bị rơi rụng không còn thông dụng nữa, nghĩa của nó là “nâng lên”*, “nhấc lên”, về thực chất “nâng lên” có nghĩa là “nâng lên đến tầm chú ý”, do đó nội dung được nâng lên như vậy có nghĩa là “nổi bật lên”. Khi một nội dung được nâng lên đến tầm chú ý là mạch lạc và phù hợp với một bối cảnh quan trọng, tức là khi nó có ý nghĩa đối với những bối cảnh có quan hệ với nó, thì người ta nói rằng nội dung này là “thích đáng”, và, tất nhiên, khi nó không phù hợp theo cách ấy, người ta nói là nó “không thích đáng”. Ví dụ, chúng ta có thể lấy những tác phẩm của Lewis Carroll đầy tính hài hước bật lên từ việc sử dụng cái không thích đáng. Trong Nhìn qua gương, có một cuộc nói chuyện giữa Mad https://thuviensach.vn Hatter và March Hare, trong đó có những câu như “Cái đồng hồ này chẳng chịu chạy gì cả, thế mà tôi đã dùng loại bơ tốt nhất rồi đấy”. Một câu như thế đưa lên tầm chú ý cái khái niệm không thích đáng rằng phẩm chất của bơ có ý nghĩa đối với việc làm cho đồng hồ chạy, một khái niệm rõ ràng là không phù hợp với bối cảnh về cấu trúc của đồng hồ. Khi đưa ra một nhận định về tính thích đáng, người ta xử lí ngôn ngữ và tư duy như những thực tại trên cùng một cấp độ với bối cảnh trong đó chúng nói đến. Thật ra, vào đúng cái thời điểm đưa ra nhận định này, người ta đang nhìn hoặc tập trung chú ý vào cả bối cảnh lẫn chức năng chung của tư duy và ngôn ngữ, để xem chúng có phù hợp với nhau hay không. Như vậy, xem một nhận định là thích đáng hay không thích đáng, về bản chất, là một hành động nhận thức về một trật tự rất cao, tương tự như hành động xem nó là đúng hay sai. Theo một nghĩa thì vấn đề sự thích đáng hay không thích đáng là có trước vấn đề đúng sai, bởi vì khi ta hỏi một nhận định nào đó là đúng hay sai, ấy là ta đã giả định trước rằng nó là thích đáng (do đó, cố gắng đánh giá tính đúng sai của một nhận định không thích đáng là một dạng lầm lẫn), theo một nghĩa sâu hơn thì sự xem xét vấn đề thích đáng hay không thích đáng rõ ràng là một khía cạnh của nhận thức chân lí trong ý nghĩa toàn diện của nó. Chắc chắn, hành động nhận thức rõ tính thích đáng hay không thích đáng không thể quy giảm thành một kĩ thuật hay một phương pháp, được xác định bằng một số bộ quy tắc. Đúng hơn, nó là một nghệ thuật, vừa theo nghĩa nó cần đến nhận thức sáng tạo, vừa theo nghĩa nhận thức này phải phát triển hơn nữa thành một loại kĩ năng (như trong tác phẩm của một nghệ nhân). Như vậy, sẽ là không đúng, chẳng hạn nếu xem sự phân chia giữa thích đáng và không thích đáng như một dạng kiến thức tích lũy về các thuộc tính của nhận định (chẳng hạn nói rằng một nhận định nào đó “có” sự thích đáng trong khi những nhận định khác không có). Đúng hơn, trong mỗi trường hợp, tuyên bố về tính thích đáng hay không thích đáng tức là thông báo về một nhận thức đang xảy ra vào thời điểm nói đến, và là bối cảnh cá biệt được chỉ ra ở thời điểm đó. Khi bối cảnh đang nói đến thay đổi, một nhận định ban đầu là thích đáng có thể sẽ không còn là thích đáng nữa, hay ngược lại. Hơn nữa, thậm chí người ta không thể nói rằng một nhận định nào đó là thích đáng hay không thích đáng, và rằng điều này bao trùm tất cả các khả năng. Như vậy, trong nhiều trường hợp, bối cảnh tổng thể có thể là cái mà người ta không thể nhận thức rõ ràng nhận định đó là có ý nghĩa với nó hay không. Điều đó có nghĩa là người ta phải học nhiều hơn nữa, và vấn đề là như trong trạng thái dòng chảy liên tục. Như vậy, khi tính thích đáng hay không thích đáng được thông báo, người ta phải hiểu rằng đây không phải là sự phân chia rõ ràng dứt khoát giữa các phạm trù đối lập, mà đúng hơn là biếu hiện của một nhận thức thường https://thuviensach.vn xuyên thay đổi, trong đó, tại thời điểm này, người ta có khả năng thấy sự phù hợp hay không phù hợp giữa nội dung được nâng lên tầm chú ý và bối cảnh mà nội dung đó nói đến. Hiện nay, vấn đề thích đáng hay không thích đáng được thảo luận thông qua một cấu trúc ngôn ngữ trong đó danh từ chiếm vai trò cơ bản (ví dụ như nói: “khái niệm này không thích đáng”). Một cấu trúc như thế nhất định hàm ý một cách chính thức sự phân chia rõ ràng dứt khoát giữa thích đáng và không thích đáng. Như vậy, hình thức của ngôn ngữ đang liên tục đưa ra khuynh hướng về sự phân mảnh, ngay cả ở những đặc điểm mà chức năng là thu hút sự chú ý vào tính toàn thể của ngôn ngữ, và bối cảnh trong đó nó được sử dụng. Như đã nói, tất nhiên chúng ta luôn luôn có khả năng khắc phục cái khuynh hướng đưa chúng ta đến tính phân mảnh bằng cách sử dụng ngôn ngữ một cách tự do phóng khoáng hơn, thơ hơn, nó thông báo đúng bản chất mềm mại như chất lỏng của sự khác nhau giữa thích đáng và không thích đáng. Tuy nhiên, liệu có khả năng làm việc này một cách mạch lạc hơn và hiệu quả hơn không, bằng cách thảo luận vấn đề tính thích đáng dưới dạng rheomode, trong đó, như đã gợi ý ở trên, sự phân chia cứng nhắc không hiện ra một cách chính thức, vì động từ - chứ không phải danh từ - được trao vai trò cơ bản? Để trả lời câu hỏi này, trước hết chúng ta hãy để ý động từ “to relevate”, nguồn gốc của tính từ “relevant”, thật ra bản thân nó lại có nguồn gốc từ “to levate” (nghĩa của nó tất nhiên là “nâng lên”). Như một bước phát triển của rheomode, lúc này chúng ta đề xuất rằng động từ “levate” sẽ có nghĩa là “hành động tự phát và không hạn chế nhằm nâng lên tầm chú ý bất kì nội dung nào, trong đó kể cả nâng lên tầm chú ý cái vấn đề là nội dung này có phù hợp với một bối cảnh rộng hơn nó hay không, cũng như hành động nâng lên tầm chú ý chính cái chức năng thu hút chú ý do bản thân động từ này khơi ra”. Điều này ám chỉ một ý nghĩa sâu rộng vô hạn, không bị cố định bên trong các giới hạn tĩnh tại. Sau đó chúng ta đưa động từ “re-levate” có nghĩa là “nâng một nội dung nào đó lên tầm chú ý một lần nữa, đối với một bối cảnh đặc biệt, như tư duy và ngôn ngữ chỉ ra”, ở đây cần nhấn mạnh rằng “re” có nghĩa là “lần nữa”, túc là một dịp khác. Nó rõ ràng ngầm chỉ thời gian và sự tương tự (cũng như sự khác nhau, vì mỗi dịp không chỉ tương tự giống nhau mà còn khác nhau). Như đã chỉ ra ở trên, lúc này cần có một hành động nhận thức để xem liệu, trong mỗi trường hợp, cái nội dung “nâng lên lần nữa” như vậy có phù hợp với bối cảnh được quan sát hay không. Trong những trường hợp mà hành động nhận thức thấy có phù hợp, chúng ta nói “nâng lên lần nữa là phù hợp” [to re-levate is re-levant] (chú ý rằng nhất thiết phải dung dấu gạch nối ở đây, và các từ này phải phát âm rời ra như dấu gạch nối đã chỉ). Tất nhiên, trong những trường hợp https://thuviensach.vn mà hành động nhận thức thấy không phù hợp, chúng ta nói “nâng lên lần nữa là không phù hợp” [to re-levate is irre-levant]. Như chúng ta thấy, các tính từ đã được tạo ra từ gốc là những động từ. Danh từ cũng được tạo ra theo cách ấy, và chúng chỉ các đối tượng không tách rời nhau, mà đúng hơn là các trạng thái hoạt động liên tục có dạng thức đặc biệt mà các động từ biểu thị. Như vậy, danh từ “re levation” (sự nâng lên lần nữa) có nghĩa là “một trạng thái nâng liên tục một nội dung nào đó lên tầm chú ý”. Để tiếp tục với “re-levation” khi mà sự “nâng lên lần nữa” là không thích đáng, nó sẽ được gọi là “irre-levation”. Thực chất, “irre-levation” hàm nghĩa không có sự chú ý thích đáng. Khi một nội dung nào đó là irre-levation, thông thường sớm muộn gì rồi nó cũng bị vứt bỏ. Nếu điều đó không xảy ra, thì theo một nghĩa nào đó, người ta đã không tỉnh táo hay cảnh giác. Như vậy, irre-levation hàm nghĩa cần phải tập trung chú ý vào sự kiện là “hiện không có sự chú ý thích đáng”. Chú ý vào tình trạng thiếu sự chú ý như vậy chính là hành động kết liễu tinh trạng không chú ý. Cuối cùng, chúng ta sẽ đưa ra một dạng danh từ “levation”, chỉ một loại tính toàn thể phổ biến và không hạn chế của những hành động nâng lên tầm chú ý (lưu ý rằng nó khác với động từ “to levate” vốn chỉ một hành động đơn lẻ tự phát và không hạn chế nâng lên tầm chú ý). Rõ ràng là, cách sử dụng dạng cấu trúc ngôn ngữ được xây dựng từ một động từ gốc như trình bày ở trên cho phép chúng ta thảo luận, theo cách không còn bị vướng vào sự phân mảnh, về việc tính thích đáng (relevance) thông thường có nghĩa gì, vì chúng ta không còn bị hình thức ngôn ngữ dẫn dắt đến chỗ coi một sự vật nào đó là thích đáng như thể nó là một tính chất cố định và biệt lập. Quan trọng hơn, chúng ta không tạo ra sự ngăn cách giữa nghĩa của động từ “to levate” và chức năng thực sự hoạt động khi sử dụng động từ này. Tức là, “to levate” không chỉ nhằm nghĩ về việc nâng một nội dung không hạn chế lên tầm chú ý, mà nó còn tiến hành việc đó. Như vậy, tư duy không phải là một trừu tượng đơn thuần mà không có một tri kiến cụ thể nào để nó tham chiếu đến. Đúng hơn, có một cái gì đó đang thực sự diễn ra phù hợp với ý nghĩa của từ, và ngay vào lúc sử dụng từ này, người ta có thể nhận thấy sự phù hợp giữa ý nghĩa của từ này và những gì đang diễn ra. Như vậy, nội dung của tư duy và chức năng thực sự của nó được thấy và cảm như một, và người ta hiểu việc chấm dứt sự phân mảnh có ý nghĩa gì, ngay tại thời điểm khởi nguồn của nó. Rõ ràng là, có thể tổng quát hóa cách xây dựng hình thức ngôn ngữ này sao cho bất kì động từ nào cũng có thể lấy làm dạng gốc. Khi đó chúng ta sẽ nói rằng rheomode thực chất được đặc trưng bằng cách sử dụng động từ như thế này. https://thuviensach.vn Ví dụ, chúng ta hãy xem động từ Latin “videre” có nghĩa là “nhìn”, được dùng trong tiếng Anh dưới những dạng như “video”. Vậy chúng ta đưa ra dạng động từ gốc “to vidate”. Chữ này không chỉ có nghĩa là “xem” theo nghĩa thị giác. Chúng ta còn dùng nó để chỉ mọi khía cạnh của nhận thức thậm chí kể cả hành động hiểu, là sự hiểu thấu một toàn thể, bao gồm các nghỉa tri giác, trí năng, cảm thụ, v.v. (chẳng hạn trong ngôn ngữ thông thường “hiểu” và “thấy” có thể thế chỗ cho nhau). Do đó, động từ “to vidate” sẽ thu hút sự chú ý tới một hành động nhận thức tự phát và không hạn chế thuộc bất cứ loại nào, bao gồm cả nhận thức liệu cái “được nhìn thấy” có phù hợp với cai “thực tế là” hay không, cũng như ngay cả nhận thức chính cái chức năng thu hút sự chú ý của bản thân từ này. Như vậy, giống như điều xảy ra với động từ “to levate”, không có sự ngăn cách giữa nội dung (nghĩa) của từ này với chức năng tổng thể làm nảy sinh ra nội dung ấy. Sau đó chúng ta hãy xem xét động từ “to re-vidate”, nó có nghĩa là nhận thức một nội dung nào đó lần nữa, như được chỉ ra bằng một từ hay một ý nghĩ. Nếu nội dung này được thấy là phù hợp với bối cảnh đã chỉ ra thì chúng ta nói rằng “to re-vidate is re-vidant” (“xem” lại là phù hợp). Nếu nó được thấy là không phù hợp, thì tất nhiên chúng ta nói “to re-vidate is irre-vidant” (theo cách dùng thông thường có nghĩa là: đây là nhận thức lầm lẫn hay huyễn hoặc). “Re-vidation” là trạng thái nhận thức liên tục một nội dung nào đó, trong khi “irre-vidation” là trạng thái liên tục bị sa vào lầm lẫn hay ảo tưởng về một nội dung nào đó. Rõ ràng là (cũng như trường hợp irre-levation) irre-vidation hàm nghĩa không có sự chú ý, và chú tâm vào tình trạng thiếu chú ý này chính là sự chấm dứt irre-vidation. Cuối cùng, “vidation” có nghĩa là một toàn thể phổ biến và không hạn chế của hành động nhận thức. Rõ ràng là vidation không bị phân biệt rõ nét với levation. Trong một hành động vidation (xem xét, nhận thức) cần levate (nâng) một nội dung lên tầm chú ý, và trong một hành động levation (nâng) thì cần xem xét (vidate) nội dung này. Như vậy, hai vận động vidation và levation hợp nhất và thâm nhập lẫn nhau. Mỗi một trong hai từ này chỉ nhấn mạnh (tức là re levate) một khía cạnh nhất định của vận động nói chung. Đây là bằng chứng cho thấy điều này sẽ đúng với mọi gốc động từ trong rheomode. Tất cả chúng đều hàm nghĩa và chuyển hóa lẫn nhau. Như vậy, rheomode sẽ phát hiện một toàn thể nhất định, vốn không phải là đặc điểm của lối dùng ngôn ngữ thông thường (mặc dù nó tiềm tàng ở đó, theo nghĩa là, nếu chúng ta bắt đầu xem vận động từ khởi thủy thì chắc chắn chúng ta phải nói rằng tất cả mọi vận động đều trùm lên nhau để hòa nhập và thâm nhập lẫn nhau). Bây giờ chúng ta tiếp tục xem xét động từ “chia” (to divide). Chúng ta coi nó như là kết hợp của động từ “videre” với tiếp đầu ngữ “di”, nghĩa là “tách ra”. Do đó “to divide” được coi như* có https://thuviensach.vn nghĩa là “to see as separate” (xem như bị tách ra). Rồi chúng ta lại đưa ra động từ* “to di-vidate”. Từ này bảo ta lưu ý đến hành động tự phát xem mọi vật như tách biệt, trong bất kì hình thức nào, kể cả hành động thấy nhận thức này là phù hợp hay không phù hợp với cái “thực tế là”, và ngay cả hành động thấy rằng chức năng thu hút sự chú ý của từ này có một hình thức rời rạc cố hữu bên trong nó. Về điểm cuối cùng này, chúng ta lưu ý rằng chỉ cần xem xét từ “to di-vidate” là thấy rõ nó khác với từ “vidate” vốn là từ gốc sinh ra nó. Như vậy, “to di-vidate” hàm nghĩa không chỉ một nội dung (hay nghĩa) của sự phân chia, mà ngay cách dùng của từ này cùng đã tạo ra một chức năng mà ta thấy khái niệm phân chia đã cung cấp cho nó một miêu tả phù hợp. Bây giờ chúng ta xem xét động từ “to re-dividate”, nghĩa là thông qua tư duy và ngôn ngữ mà nhận thức một nội dung nhất định một lần nữa dưới dạng một loại phân chia hay tách rời đặc biệt. Nếu việc làm này được xem là phù hợp với bối cảnh đã cho, chúng ta nói rằng “to di vidate is re-dividant”. Nếu nó được xem là không phù hợp, chúng ta nói rằng “to di-vidate is irre dividant”. Re-dividation là trạng thái xem xét liên tục một nội dung nhất định dưới dạng phân chia hay tách rời. Irre-dividation là trạng thái liên tục xem xét sự tách rời, ở nơi mà, theo ngôn ngữ thông thường, chúng ta nói rằng tách rời là không thích đáng. Rõ ràng, về thực chất, irre-dividation là giống như sự phân mảnh. Như vậy nó trở thành chứng cớ rằng sự phân mảnh không thể là điều tốt, vì nó có nghĩa không chỉ xem xét sự vật một cách tách rời, mà còn ngoan cố làm điều đó trong một bối cảnh ở đó cách xem xét này là không phù hợp. Việc kéo dài irre-dividation ra mãi chỉ có thể là do sự thiếu chú ý. Như vậy, irre dividation kết thúc ở chính cái hành động chú ý đến sự thiếu chú ý này. Cuối cùng, tất nhiên danh từ “dividation” có nghĩa là một tổng thể phổ biến không hạn chế của các hành động xem xét các sự vật như tách rời nhau. Như đã nói đến ở trên, “di-vidation” hàm ý một sự phân chia trong chức năng thu hút sự chú ý của từ, theo nghĩa là di-vidation được coi là khác với vidation. Tuy nhiên, sự khác nhau này chủ yếu nằm trong một số bối cảnh hạn chế và không được coi như một sự phân mảnh hay đứt đoạn thật sự giữa những ý nghĩa và những chức năng của hai từ này. Đúng hơn, chính những hình thức của chúng chỉ ra rằng di vidation là một loại vidation, trong một trường hợp đặc biệt của vidation. Như vậy, về thực chất, cái toàn thể là cơ bản, theo nghĩa là những ý nghĩa và những chức năng này chuyển sang nhau để hợp nhất và thâm nhập lẫn nhau. Như vậy, sự phân chia được coi là một cách tiện lợi để đưa ra những miêu tả rõ ràng và chi tiết hơn về cái toàn thể này, chứ không phải là sự phân mảnh của cái “thực tế là”. https://thuviensach.vn Vận động từ sự phân chia đến cái nhất thể của nhận thức là thông qua hoạt động lập trật tự (chương 5 sẽ thảo luận kĩ hơn vấn đề này). Chẳng hạn, một cái thước có thể được chia thành từng phân (inch), nhưng tập hợp những phần chia ra như vậy được đưa vào trí óc của chúng ta chỉ như biện pháp thuận tiện để biểu hiện một trật tự tuần tự giản đơn, nhờ đó chúng ta có thể thông đạt và hiểu được một cái đấy có ý nghĩa về một đối tượng tổng thể nào đó, được đo lường bằng một cái thước như thế. Khái niệm đơn giản về thứ trật tự tuần tự này, được biểu hiện dưới dạng những phần chia đều đặn trên một thang chia thẳng hàng, giúp chúng ta định hướng trong công tác xây dựng, trong du hành và chuyển động trên bề mặt trái đất và trong không gian, và trong một diện rộng những hoạt động khoa học và thực tiễn nói chung. Nhưng, tất nhiên, còn có những trật tự phức tạp hơn, và chúng phải được biểu hiện bằng những sự phân chia và những phạm trù vi tế hơn của tư duy, có ý nghĩa đối với những hình thức vi tế hơn của vận động. Như vậy, có sự vận động tăng trưởng, phát triển và tiến hóa của các sinh thể, sự vận động của một bản giao hưởng, sự vận động vốn là thực chất của bản thân cuộc sống. Những điều này rõ ràng cần phải được miêu tả theo những cách khác, mà nói chung không thể quy giảm thành sự miêu tả những trật tự tuần tự đơn giản. Vượt ra ngoài tất cả những trật tự này là cái trật tự vận động của sự chú ý. Vận động này phải có một trật tự phù hợp với cái trật tự trong đối tượng được quan sát, nếu không chúng ta sẽ bỏ lỡ mất dịp nhìn thấy cái cần phải thấy. Chẳng hạn, nếu chúng ta cố gắng nghe một bản giao hưởng trong khi sự chú ý của chúng ta lại chủ yếu hướng vào một trật tự tuần tự của thời gian như biểu thị trên mặt đồng hồ, thì chúng ta sẽ không lắng nghe được cái trật tự vi tế làm nên cái hồn của âm nhạc. Rõ ràng là khả năng tri giác và lĩnh hội của chúng ta bị hạn chế bởi thứ tự do trong đó thứ tự chú ý có thể thay đổi sao cho khớp với trật tự cần được quan sát. Vậy rõ ràng là trong sự thấu hiểu ý nghĩa thật sự của sự phân chia của tư duy và ngôn ngữ được lập ra để tiện cho chúng ta, thì khái niệm trật tự đóng vai trò then chốt. Việc thảo luận khái niệm này trong rheomode đưa chúng ta đến việc đưa ra dạng gốc động từ “to ordinate” (thường hóa). Từ này thu hút chú ý vào một hành động tự phát và không hạn chế thiết lập trật tự - bất kì loại trật tự nào -, bao gồm cả thiết lập trật tự liên quan đến việc xét xem một trật tự nhất định là phù hợp hay không phù hợp với bối cảnh được quan sát, và thậm chí cả trật tự sinh ra trong chính chức năng thu hút sự chú ý của từ. Như vậy “to ordinate” ban đầu không có nghĩa là “nghĩ về một trật tự” mà đúng hơn là gắn vào hoặc dự vào (engage in) chính cái hành động ra lệnh chú ý, trong khi sự chú ý cung được hướng vào ý nghĩ của người ta về trật tự. Một lần nữa, chúng ta thấy tính toàn thể của ý nghĩa của một từ và chức năng toàn diện của nó, vốn là một khía cạnh https://thuviensach.vn thiết yếu của rheomode. “To re-ordinate” là một lần nữa thu hút sự chú ý vào một trật tự nào đó, bằng phương tiện tư duy và ngôn ngữ. Nếu thay trật tự này phù hợp với cái được quan sát trong bối cảnh đang nói đến, chúng ta nói rằng: “To re-ordinate is re-ordinant”. Nếu thấy nó không phù hợp, chúng ta nói: “To reordinate is irre-ordinant” (ví dụ như trong việc ứng dụng hệ kinh vĩ tuyến tính vào một mê cung phức tạp của nhiều ngõ ngách). Vậy, danh từ “re-ordination” miêu tả một trạng thái liên tục thu hút sự chú ý đến một trật tự nhất định. Một trạng thái re-ordination dai dẳng trong một bối cảnh irre-ordinant sẽ được gọi là “irreordination”. Giống như điều xảy ra với mọi động từ khác, chỉ có thể “irre-ordination” thông qua sự thiếu chú ý, và “irre-ordinatiotr’ chấm dứt khi sự chú ý được hướng vào sự thiếu chú ý này. Cuối cùng, danh từ ordination tất nhiên có nghĩa là một tổng thể các hành động phổ biến, không hạn chế của việc lập trật tự. Rõ ràng là ordination hàm nghĩa levation, vidation và di vidation, và, kì cùng, cả ba danh từ sau này hàm nghĩa ordination. Như vậy, để xem một nội dung nào đó có thích đáng (re-levant) không, cần phải ra lệnh một cách phù hợp việc tập trung sức chú ý hầu nhận thức nội dung này; một tập hợp phù hợp gồm các phân đoạn hay các phạm trù sẽ phải được thiết lập trong tư duy, v.v. và v.v. Chúng ta đã nói tạm đủ về rheomode, ít ra là đủ để cho thấy nói chính nó hoạt động như thế nào. Tuy nhiên, ở điểm này, trình bày cấu trúc toàn diện của rheomode bằng cách liệt kê các từ đã được sử dụng cho đến lúc này có lẽ sẽ có ích: Levate, re-levate, re-levant, irre-levant, levation, re-levation, irre-levation. Vidate, re-vidate, re-vidant, irre-vidant, vidation, re-vidation, irre-vidation. Di-vidate, re-dividate, re-dividant, irre-dividant, di-vidation, re-dividation, irre-dividation. Ordinate, re-ordinate, re-ordinant, irre-ordinant, ordination, re-ordination, irre-ordination. Cần lưu ý rằng, lúc đầu, rheomode đòi hỏi một cấu trúc ngữ pháp mới trong đó các động từ được sử dụng theo cách mới. Tuy nhiên, điều mới lạ hơn ở đây là cú pháp mở rộng ra để bao hàm không chỉ cách bố trí các từ có thể được coi như đã cho rồi, mà còn cả một tập hợp có hệ thống các quy tắc hình thành từ mới. Tất nhiên, sự hình thành các từ như vậy đã luôn tiếp diễn ở hầu hết mọi ngôn ngữ (chẳng hạn “relevant” được hình thành từ gốc “levate” với tiền tố “re” và hậu tố “ate” được thay bằng “ant”), nhưng loại cấu trúc này có xu hướng phát sinh chủ yếu theo cách ngẫu nhiên, có lẽ do kết quả của nhu cầu biểu hiện nhiều quan hệ hữu ích khác nhau. Trong mọi trường hợp, một khi các https://thuviensach.vn từ đã được tập hợp lại với nhau, thì khuynh hướng chung là không nhìn đến sự kiện rằng chúng đã được tập hợp, mà xem mỗi từ như một “đơn vị cơ bản”, khiến cho nguồn gốc những từ như thế trong một cấu trúc được coi như không có tác động gì đến ý nghĩa của nó. Trái lại, trong rheomode, sự kiến tạo các từ không theo lối ngẫu nhiên, mà đóng một vai trò cơ bản trong việc tạo ra khả năng cho ra đời một phương thức ngôn ngữ hoàn toàn mới, trong khi hoạt động kiến tạo từ được liên tục đưa vào tầm chú ý của chúng ta, bởi vì ý nghĩa của từ phụ thuộc một cách thiết yếu vào hình thúc của những cấu trúc như thế. Có lẽ ở đây nên so sánh đôi chút với những gì đã xảy ra trong sự phát triển của khoa học. Như đã chỉ ra ở chương 1, cách nhìn thế giới chiếm ưu thế trong khoa học nói chung là giả định rằng, về bản chất, mọi vật nên được miêu tả dưới dạng kết quả kết hợp của những đơn vị “hạt” được coi là cơ bản. Thái độ này rõ ràng tương hợp với khuynh hướng chiếm ưu thế trong cách sử dụng ngôn ngữ thông thường để xử lí các từ như những “đơn vị cơ bản” mà người ta giả định rằng có thể kết hợp để biểu thị bất kì vật gì có thể được nói đến. Tất nhiên, các từ mới có thể được đưa vào làm giàu thêm cho ngôn ngữ thông thường (y hệt như các hạt cơ bản mới có thể được đưa vào vật lí), nhưng trong rheomode, người ta đã bắt đầu đi xa hơn và xử lí cấu trúc của các từ như thể nó không khác về cơ bản so với cấu trúc câu, mệnh đề, đoạn văn, v.v. Như vậy, thái độ “nguyên tử luận” đối với các từ đã bị vứt bỏ; thay vào đấy, quan điểm của chúng ta giờ đây có vẻ giống hơn với quan điểm của lí thuyết trường trong vật lí, trong đó các “hạt” chỉ là những ý niệm trừu tượng thuận tiện rút ra từ vận động toàn thể. Tương tự, ta có thể nói rằng ngôn ngữ là một trường không phân chia của vận động, liên quan đến âm thanh, ý nghĩa, sức thu hút sự chú ý, cảm xúc và phản xạ cơ bắp, v.v. Việc gán cho sự đứt gãy giữa các từ một tầm quan trọng thái quá như hiện nay có vẻ độc đoán thế nào đó. Thật ra, mối quan hệ giữa các phần khác nhau của một từ nói chính hầu như là cùng loại với mối quan hệ giữa các từ khác nhau. Do đó, từ không còn được coi là một “nguyên tử không thể phân chia của ý nghĩa”; thay vì thế, nó được coi không hơn gì một cái đánh dấu thuận tiện trong vận động toàn thể của ngôn ngữ, cũng cơ bản không hơn không kém mệnh đề, câu, đoạn văn, hệ thống các đoạn văn, v. v. (Điều này có nghĩa rằng, tập trung chú ý theo cách này vào các thành phần của từ về thực chất không phải là một thái độ phân tích, mà đúng hơn là một cách tiếp cận khơi mở dòng chảy bất tận của ý nghĩa). Ta có thể đạt được sự nhìn thấu vào ý nghĩa của việc thay đổi thái độ đối với các từ bằng cách xem ngôn ngữ như một dạng đặc biệt của trật tự. Tức là, ngôn ngữ không chỉ thu hút sự chú ý đến trật tự. Nó là một trật tự của âm thanh, từ, cấu trúc từ, các sắc thái của câu và cử chỉ. Rõ ràng là, ý nghĩa của một thông báo thông qua ngôn ngữ phụ thuộc một cách thiết yếu vào trật tự https://thuviensach.vn của ngôn ngữ. Trật tự này giống với trật tự của một bản giao hưởng - trong đó mỗi khía cạnh và khoảnh khắc phải được hiểu dưới ánh sáng của quan hệ của nó với cái toàn thể - thì đúng hơn là với trật tự mang tính tuần tự của cái đồng hồ hay cây thước, và vì (như đã chỉ ra ở đây) trật tự của âm thanh bên trong một từ là một khía cạnh không thể tách rời của toàn bộ ý nghĩa, nên chúng ta có thể tạo ra các quy tắc ngữ pháp và cú pháp khả dĩ sử dụng trật tự này một cách hệ thống để làm phong phú và nâng cao khả năng của ngôn ngữ về phương diện truyền thông và tư duy. 4. CÁI ĐÚNG VÀ CÁI THẬT TRONG RHEOMODE Trong phương thức ngôn ngữ thông thường, cái đúng được coi như một danh từ, như vậy nó nói về một cái gì có thể được nắm bắt dứt khoát hay ít nhất có thể tiếp cận, từng bước từng bước một. Hay hơn nữa, khả năng có thể là đúng hay sai có thể được coi là một thuộc tính của những tuyên bố nhận định. Tuy nhiên, như đã chỉ ra ở trên, thật ra, đúng và sai, cũng như thích đáng và không thích đáng, phải được xem xét từ thời điểm này đến thời điểm khác, trong một hành động nhận thức thuộc loại trật tự rất cao. Như vậy, cái đúng hay cái sai trong nội dung của một tuyên bố được hiểu bằng cách quan sát xem nội dung ấy có phù hợp với một bối cảnh rộng lớn hơn hay không, bối cảnh này được chỉ ra hoặc trong bản thân tuyên bố, hoặc bằng một hành động hay cử chỉ nào đó (như động tác chỉ tay) đi kèm với tuyên bố này. Hơn nữa, khi chúng ta đi đến những tuyên bố về thế giới quan của chúng ta, các cách nhìn thế giới bao quát “cái toàn thể của mọi tồn tại thực tế”, thì không có bối cảnh nào có thể được xác định rõ ràng mà người ta có thể nói đến, và do vậy chúng ta phải nhấn mạnh cái đúng trong chức năng, tức là khả năng chuyển động tự do và thay đổi trong những khái niệm chung của chúng ta về thực tại như một toàn thể, để tiếp tục có được sự phù hợp với kinh nghiệm mới, vốn nằm bên ngoài những giới hạn trong đó những khái niệm cũ thuộc loại này còn phù hợp (xem các chương 3 và 7 thảo luận sâu hơn vấn đề này). Như vậy, rõ ràng là phương thức sử dụng ngôn ngữ thông thường rất không phù hợp cho việc thảo luận các vấn đề về đúng và sai, bởi vì nó nhằm xử lí mỗi cái đúng như một mảnh vụn rời rạc, về bản chất là cố định và bất biến. Sẽ rất thú vị khi thí nghiệm sử dụng rheomode, để thấy bằng cách nào nó cho phép chúng ta thảo luận vấn đề cái đúng một cách phù hợp hơn và mạch lạc hơn. Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem xét từ Latin “verus”, có nghĩa là “đúng”. Vậy chúng ta sẽ đưa ra dạng động từ gốc “to verrate” (hai chữ “rr” được đưa vào đây nhằm tránh những nhầm lẫn có thể gặp phải sau này khi chúng ta đi tiếp). Từ này gợi lên sự chú ý, theo cách được thảo luận ở phần trên, đến một hành động tự phát và không hạn chế nhằm xem xét cái đúng ở bất kì https://thuviensach.vn dạng nào, kể cả xét xem nhận thức này phù hợp hay không phù hợp với điều thật sự xảy ra trong việc hiểu về cái đúng, cũng như xem cái đúng trong chức năng thu hút sự chú ý của bản thân từ này. Vậy “to verrate” có nghĩa là đang trong hành động nhận thức cái đúng, cũng như đang chú tâm xem cái đúng nghĩa là gì. “To re-verrate” như vậy là thu hút sự chú ý lần nữa, bằng phương tiện tư duy và ngôn ngữ, vào cái đúng đặc biệt trong một bối cảnh đã cho. Nếu thấy là nó phù hợp với những gì quan sát thấy trong bối cảnh này, chúng ta nói rằng; to re-verrate is re-verrant, còn nếu thấy nó không phù hợp, chúng ta sẽ nói: to re-verrate is irre-verrant (tức là, cái đúng riêng biệt ấy thôi không còn hiệu lực nữa khi lặp lại và mở rộng đến một bối cảnh nằm ngoài những giới hạn thích hợp của nó). Khi đó chúng ta thấy rằng vấn đề cái đúng không còn được thảo luận dưới dạng những mảnh vụn rời rạc và bất biến về bản chất. Đúng hơn, sự chú ý của chúng ta được hướng vào hành động venation chung, và vào sự tiếp nối của nó như re-verration và irre-verration trong một bối cảnh đặc biệt {irre-venation tức là cứ khăng khăng giữ lấy cái đúng bên ngoài những giới hạn thích hợp của nó, đấy rõ ràng là một trong những nguồn ảo tưởng và huyễn vọng chủ yếu trong toàn bộ lịch sử và trong mọi khía cạnh của cuộc sống). Verration sẽ được coi như dòng chảy vận động, nó thâm nhập vào và hợp nhất với levation, vidation, di-vidation, ordination và thực chất là với tất cả các vận động khác sẽ được chỉ ra trong sự phát triển tiếp theo của rheomode. Như vậy, khi thảo luận về cái đúng theo phương thức ngôn ngữ thông thường, chúng ta không tránh khỏi đi đến chỗ xét xem sự thật có nghĩa là gì? Theo một nghĩa nào đó, nói: “Đó là một sự thật” hàm nghĩa rằng nội dung của lời tuyên bố đang nói đến là đúng. Tuy nhiên, nghĩa gốc của từ “fact” (sự thật) là “cái đã được làm ra” (chẳng hạn như trong từ manufacture - chế tạo). Nghĩa này nhất định có liên hệ ở đây bởi vì rõ ràng là, theo một nghĩa nào đó, chúng ta quả thực “làm ra” sự thật; vì sự thật này không chỉ phụ thuộc vào bối cảnh đang được quan sát và vào tri giác tức thời của chúng ta, mà còn phụ thuộc vào cách chúng ta tri giác - vốn được định hình bằng tư duy của chúng ta -, cũng như vào những gì chúng ta làm, để thử các kết luận của chúng ta, và để áp dụng chúng vào các hoạt động thực tiễn. Bây giờ ta hãy tiếp tục cuộc thử nghiệm với việc sử dụng rheomode, để xem điều này dẫn ta đến đâu khi ta xem xét từ “the fact” có nghĩa là gì. Vậy ta sẽ đưa ra dạng động từ gốc “to factate”, có nghĩa là sự chú ý tự phát, không hạn chế nhắm vào hành động được định hướng bằng ý thức của con người trong việc làm ra hoặc thực hiện bất kì loại sự việc nào* (điều này tất nhiên bao gồm cả việc “làm ra” hoặc “thực hiện” cái chức năng thu hút sự chú ý của bản thân từ này). Vậy thì “re-factate” là, thông qua tư duy và ngôn ngữ, thu hút sự chú ý một lần nữa vào một hoạt https://thuviensach.vn động như “làm ra” hoặc “thực hiện” trong một bối cảnh nhất định. Nếu hoạt động này được xem là phù hợp trong bối cảnh đó (tức là những gì chúng ta đang làm có tác dụng) thì ta nói “to re factate is re-factant”, còn nếu nó không phù hợp, thì ta nói “to re-factate is irre-factant”. Rõ ràng là phần lớn những gì vốn bình thường, có nghĩa là cái đúng hay cái sai của một tuyên bố đều được chứa trong hàm ý của “re-factant” và “irre-factant”. Như vậy nó là bằng chứng rằng khi các khái niệm đúng được áp dụng vào thực tế, nói chung chúng sẽ dẫn chúng ta đến chỗ thực hiện các công việc có hiệu quả, trong khi các khái niệm sai dẫn chúng ta đến những hoạt động không hiệu quả. Tất nhiên, ở đây chúng ta phải cẩn thận để không nhận lầm coi cái đúng không là cái khác hơn “cái có hiệu quả”, bởi vì, như ta đã thấy, cái đúng là một vận động toàn thể, vượt xa phạm vi giới hạn của những hoạt động được ý thức định hướng của chúng ta. Bởi vậy, mặc dù lời tuyên bố “re-verration is re-factant” luôn luôn đúng, điều quan trọng là phải ghi nhớ rằng điều đó chỉ thu hút sự chú ý vào một khía cạnh nhất định của những gì là ý nghĩa của cái đúng. Thật ra, thậm chí nó không bao trùm tất cả những là ý nghĩa của cái thật (fact). Trong việc thiết lập nên cái thật, còn đòi hỏi nhiều hơn là chỉ nhận xét rằng tri thức của chúng ta là re-factant, tức là nói chung nó dẫn chúng ta đến chỗ đạt được những mục tiêu lúc đầu được phóng chiếu trong tư duy. Thêm vào đó, cái thật phải được thử thường xuyên, thông qua kinh nghiệm và quan sát nhiều hơn nữa. Mục tiêu chủ yếu của những phép thử như thế không phải là tạo ra những kết quả đáng mong muốn, mà đúng hơn là xem sự thật ấy có “đúng” được không, ngay cả khi bối cảnh mà nó nói đến được quan sát hết lần này đến lần khác, hoặc về cơ bản cùng cách như trước, hoặc theo một cách mới có thể có ý nghĩa đối với bối cảnh này. Trong khoa học, những phép thử như thế được tiến hành thông qua các thí nghiệm không những phải có khả năng tạo sinh, mà còn phải khớp với những “kiểm tra chéo” của những thí nghiệm khác có ý nghĩa trong bối cảnh đang xét. Tổng quát hơn, toàn bộ kinh nghiệm luôn tạo ra một loại phép thử tương tự, miễn là chúng ta tỉnh táo và có óc quan sát để thấy nó thực sự biểu thị điều gì. Khi ta nói “đây là một sự thật”, đấy là ta hàm ý một khả năng nhất định của sự kiện đó trong việc chịu được rất nhiều loại phép thử khác nhau. Như vậy, sự thật được chứng minh, tức là, nó tỏ ra ổn định, theo nghĩa là nó không dễ đang sụp đổ hoặc bị huy bỏ bất cứ lúc nào, trong một quan sát thuộc loại chung được tiến hành sau đó. Tất nhiên, sự ổn định này chỉ là tương đối, bởi vì sự thật đó luôn luôn được thử đi thử lại, cả theo những cách quen thuộc, cả theo những cách mới Hên tục được tìm ra. Như vậy nó có thể được tinh lọc, được cải tiến hay thậm chí thay đổi hoàn toàn, thông qua những quan sát, thí nghiệm và kinh nghiệm tiếp theo. Nhưng, trong trật tự là một “sự thật chân chính”, nó rõ ràng phải duy trì hiệu lực không suy suyển, ít nhất là trong https://thuviensach.vn một số bối cảnh nhất định, hoặc bao trùm một khoảng thcá gian nhất định. Để tạo cơ sở cho việc thảo luận khía cạnh này của cái thật trong rheomode, đầu tiên chúng ta nên lưu ý rằng từ “constant” (bất biến) được suy ra từ một động từ nay không còn dùng nữa “to constate” có nghĩa là “biết chắc”, “chứng minh”, “xác nhận”. Nghĩa này sẽ còn rõ hơn khi ta xét gốc Latin “constare” (“stare” nghĩa là “đứng” và “con-” là “với nhau”). Như vậy, chúng ta có thể nói rằng trong hành động thử, chúng ta “constate” sự thật, sao cho nó được chứng minh và “đứng vững cùng với nhau”, như một cơ thể cố kết, theo một nghĩa tương đối nào đó, có khả năng chịu được phép thử. Như vậy, trong những giới hạn nhất định, sự thật vẫn “constant” (không đổi). Trong thực tế, từ này có quan hệ rất gần “constater” được dùng trong tiếng Pháp hiện đại, hầu như đúng với nghĩa đã chỉ ra ở trên. Theo cách nào đó, nó bao gồm những nghĩa nói ở đây rõ hơn từ “constate”, bởi vì nó bắt nguồn từ chữ Latin “constat” vốn là phân từ quá khứ của “constare”, và như vậy nghĩa gốc của nó phải là “đã đứng với nhau”. Điều này rất ăn khớp với “fact” hay là “cái đã được làm ra”. Để xem xét những vấn đề này với rheomode, chúng ta hây đưa ra động từ gốc “to constatate”. Nó có nghĩa là chú ý một cách tự phát và không hạn chế vào việc xem một hành động hay vận động thuộc bất kì loại nào được chứng minh như thế nào trong một hình thức tương đối bất biến, cùng nhau đứng vững tương đối lâu bền, bao gồm cả hành động chứng minh một tập hợp sự thật cung đứng vững với nhau theo cách này, và ngay cả hành động của chính từ này trong việc góp phần chứng minh sự thật về chức năng của bản thân ngôn ngữ. To re-constatate, nghĩa là một lần nữa thu hút sự chú ý - bằng phương tiện tư duy và ngôn ngữ -đến một hành động hay vận động nào đó thuộc loại này, trong một bối cảnh đã cho. Nếu thấy hành động này là phù hợp với bối cảnh đang xét, ta nói: “To re-constatate is re-constatant”. Nếu thấy không phù hợp, ta nói: “To re-constatate is irre-constatant” (chẳng hạn khi một sự thật đã được chứng minh trước đó trên thực tế không tỏ ra “đứng vững” trước những quan sát hay kinh nghiệm tiếp theo). Từ đó, dạng danh từ “re-constation” chỉ một loại đặc biệt của trạng thái liên tục của hành động hay vận động trong một bối cảnh đã cho, nó “đứng vững” một cách tương đối ổn định, dù đấy là hành động của chính chúng ta trong việc chứng minh một sự thật hay bất kì một dạng vận động nào khác có thể miêu tả như là đã được chứng minh hay ổn định về hình thức. Như vậy, thoạt đầu có thể nó nói đến khả năng xác nhận đi xác nhận lại nhiều lần, trong một loạt nhiều hành vi quan sát hay thí nghiệm, rằng “sự thật đó vẫn đứng vững”, hoặc nó có thể nói về một trạng thái vận động liên tục nhất định (hay những “sự vụ”) vốn vẫn “đứng vững” trong một thực tại toàn diện, bao gồm và vượt cả ra ngoài những hành động quan sát hay thí nghiệm của chúng https://thuviensach.vn ta. Cuối cùng, nó có thể nói về hành động dùng lời nói hay tuyên bố (statement, tức là: state ment) qua đó những gì một người re-constatate có thể được truyền đạt (communicate) để được re-constatate bởi người khác. Tức là nói, một “re-constatation”, trong cách dùng ngôn ngữ thông thường, có nghĩa là “một sự thật đã được chứng minh” hay là “một trạng thái vận động thực (hay các sự vụ có thực) ma sự thật này phản ánh”, hay là “tuyên bố bằng lời về sự thật đó”. Như vậy, chúng ta không tạo ra sự phân biệt rõ nét giữa hành động nhận thức và thử nghiệm, hành động của cái mà chúng ta nhận thức và thử nghiệm, và hoạt động truyền thông bằng ngôn ngữ về những gì chúng ta đã quan sát và đã làm. Tất cả những cái đó được coi như những mặt, những khía cạnh của một vận động toàn thể không đứt gãy và không phân chia, nó liên hệ mật thiết cả về nội dung và chức năng (và như vậy chúng ta không bị rơi vào tình trạng phân mảnh, phân biệt giữa những hoạt động tâm thần “bên trong” chúng ta và chức năng “hướng ngoại” của chúng). Rõ ràng là cách sử dụng rheomode này rất hợp với thế giới quan trong đó những sự vật có vẻ ngoài bất biến dễ được coi như những trừu tượng về những khía cạnh tương đối ít thay đổi của một vận động toàn thể không đứt gãy và không phân chia. Tuy nhiên, nó còn đi xa hơn khi hàm ý rằng sự thật về những sự vật như vậy, bản thân nó cũng được trừu tượng hóa như khía cạnh tương đối bất biến của vận động toàn thể xuất hiện trong tri giác và được trải nghiệm trong hành động, nó “kết lại với nhau” trong một trạng thái liên tục và như vậy nó phù hợp cho việc truyền thông dưới dạng một tuyên bố. 5. RHEOMODE VÀ NHỮNG HÀM Ý CỦA NÓ TRONG THẾ GIỚI QUAN CỦA CHÚNG TA Như đã chỉ ra ở phần trên, khi thấy rằng rheomode không cho phép chúng ta thảo luận về những sự kiện được quan sát dưới dạng những sự vật tồn tại tách biệt của một tự nhiên vốn về bản chất là bất biến, chúng ta bị dẫn đến chỗ nhận ra rằng việc sử dụng rheomode có những gợi ý cho thế giới quan tổng quát của chúng ta. Thật vậy, như đã được nói đến ở một mức độ nào đó, mọi hình thức ngôn ngữ đều mang một loại thế giới quan đang thắng thế, thế giới quan này có xu hướng hoạt động trong tư duy và trong tri kiến của chúng ta bất cứ khi nào nó được dùng đến, vì vậy, đưa ra một diễn đạt rõ ràng về một thế giới quan trái ngược với cái đang tiềm ẩn trong cấu trúc nguyên thủy của một ngôn ngữ thường là việc hết sức khó khăn. Do đó, trong việc nghiên cứu bất cứ hình thức ngôn ngữ chung nào, cần phải chú tâm một cách nghiêm túc và bền bỉ đến thế giới quan của nó, cả trong nội dung lẫn trong chức năng. Như đã chỉ ra ở trên, một trong những khiếm khuyết lớn nhất của cách sử dụng ngôn ngữ https://thuviensach.vn thông thường chính là cái hàm ý chung rằng nó không hề hạn chế thế giới quan bằng bất cứ cách nào, và rằng trong mọi trường hợp, các vấn đề về thế giới quan chỉ liên quan đến [quan điểm] triết học của người mang nó, chứ không liên quan đến nội dung và chức năng của ngôn ngữ của chúng ta, hay với cách mà chúng ta trải nghiệm cái thực tại toàn diện trong đó chúng ta sống. Như vậy, bằng cách làm cho chúng ta tin tưởng rằng thế giới quan của chúng ta chỉ là một vấn đề tương đối không quan trọng, có lẽ chỉ liên quan đến sở thích hay lựa chọn cá nhân thôi, phương thúc ngôn ngữ thông thường khiến chúng ta mất đi sự chú ý đến chức năng thực sự của thế giới quan phân chia vốn đang tràn ngập phương thức này, do đó hoạt động tự động theo thói quen của tư duy và ngôn ngữ của chúng ta có thể phóng chiếu những sự phân chia này (theo cách đã thảo luận trước đây) thành những chỗ phân mảnh dường như có thật trong bản chất của “thực tại như nó vốn thế”. Như vậy, vấn đề cơ bản là nhận ra được cái thế giới quan tiềm ẩn trong mỗi dạng ngôn ngữ, và tỉnh táo và cảnh giác, để sẵn sàng thấy khi nào thì cái thế giới quan này thôi không còn phù hợp với những quan sát và kinh nghiệm thực tế, vi nó đã mở rộng ra ngoài một số giới hạn nhất định. Ta thấy rõ ràng trong chương này cái thế giới quan hàm chứa trong rheomode về thực chất là cái thế giới quan được mô tả trong chương 1, được trình bày bằng cách nói rằng tất cả là một vận động toàn thể không đứt gãy và không phân chia, và rằng mỗi “sự vật” chi được tách ra như một mặt hay một khía cạnh tương đối bất biến của vận động này. Do đó, rõ ràng là rheomode hàm ý một thế giới quan hoàn toàn khác với thế giới quan của cấu trúc ngôn ngữ thông thường. Đặc biệt hơn, chúng ta thấy rằng chỉ riêng hành động xem xét một cách nghiêm túc một phương thức ngôn ngữ mới như thế, và quan sát cách nó hoạt động, đã có thể khiến chúng ta chú ý đến cung cách mà cấu trúc ngôn ngữ thông thường áp đặt lên chúng ta một áp lực mạnh và vi tế để duy trì cái thế giới quan phân mảnh. Tuy nhiên, liệu việc tiếp tục triển khai và cố gắng đưa rheomode vào sử dụng thực tế là có lợi hay không thì chưa thể nói vào lúc này, mặc dù một số phát hiện như thế có thể dần dần tỏ ra hữu ích. https://thuviensach.vn 3 THỰC TẠI VÀ TRI THỨC ĐƯỢC XEM XÉT NHƯ QUÁ TRÌNH 1. GIỚI THIỆU Khái niệm về thực tại cần được hiểu như một quá trình có từ thời cổ, ít nhất là từ thời Heraclitus, người đã nói rằng mọi thứ đều chảy... Trong thời hiện đại, Whitehead* là người đầu tiên mở rộng và hệ thống hóa khái niệm này. Trong chương này tôi sẽ bàn về vấn đề quan hệ giữa thực tại và tri thức từ một quan điểm như thế. Tuy nhiên, mặc dù điểm xuất phát được nói rõ của tôi nói chung tương tự như của Whitehead, song một số hàm ý ngầm của tôi có thể sẽ khác nhiều so với những hàm ý trong tác phẩm của ông. Tôi coi thực chất của khái niệm về quá trình được nêu qua lời tuyên bố sau đây: Không phải chỉ mọi thứ đều thay đổi, mà tất cả là một dòng chảy. Tức là, “thực tại như vốn có” là một quá trình trở thành chính nó, trong khi mọi đối tượng, mọi sự kiện, mọi thực thể, mọi điều kiện, mọi cấu trúc, v.v. là những hình thức có thể trừu xuất ra từ quá trình này. Hình ảnh tốt nhất của quá trình có lẽ là hình ảnh của dòng chảy, thực chất của nó không bao giờ là giữ nguyên. Trong dòng chảy này người ta thấy mẫu hình liên tục thay đổi của những cái xoay, những gợn lăn tăn, những làn sóng, những tiếng sóng vỗ, chúng không có sự tồn tại độc lập hiểu theo đúng nghĩa. Đúng hơn, chúng được tách ra từ vận động của dòng, xuất hiện và biến mất trong quá trình toàn thể của dòng chảy. Sự tồn tại phù du của những hình thức được trừu xuất ra như thế chỉ gợi lên một tính độc lập hay tự chủ về hành vi một cách tương đối, chứ không phải tồn tại tuyệt đối độc lập một thực thể cơ bản (xem chương 1 bàn kĩ hơn về vấn đề này). Tất nhiên, vật lí hiện đại tuyên bố rằng dòng chảy thực (chẳng hạn như dòng nước) bao gồm những nguyên tử, đến lượt chúng những nguyên tử này lại bao gồm những “hạt cơ bản” như electron, proton, neutron, v.v. Trong một thời gian dài người ta nghĩ rằng những “hạt cơ bản” này là “bản chất cuối cùng” của toàn thể thực tại, và rằng tất cả những chuyển động chảy, như https://thuviensach.vn chuyển động của dòng suối, phải quy giảm thành những dạng được trừu xuất từ những chuyển động qua không gian của những tập hợp các hạt tương tác với nhau. Tuy nhiên, sau đó người ta phát hiện ra rằng ngay cả những “hạt cơ bản” cũng có thể được tạo ra, biến đi và chuyển đổi, và điều này cho thấy ngay cả những hạt ấy cũng không thể là bản chất cuối cùng, mà đúng hơn chúng cũng là những dạng tương đối ít biến đổi, được trừu xuất ra từ tầng sâu hơn của vận động. Người ta có thể giả định rằng tầng sâu hơn này của vận động có thể phân tích được thành các hạt tinh hơn nữa, đến lượt chúng những hạt này có thể là bản chất tối hậu của toàn thể thực tại. Thế nhưng, cái khái niệm tất cả là dòng chảy, mà chúng ta đang khảo sát ở đây, đã bác bỏ một giả định như thế. Đúng hơn, nó hàm ý rằng bất kì một sự vật, đối tượng, thực thể, v.v. nào cũng là một trừu tượng (an abstraction) từ một tổng thể chưa biết và không thể xác định của vận động đang trôi chảy. Điều này có nghĩa là dù tri thức của chúng ta về các quy luật vật lí có đi xa đến đâu chăng nữa thì nội dung của các quy luật này vẫn sẽ chỉ đề cập đến những trừu tượng như thế; những trừu tượng này chỉ có sự tồn tại độc lập tương đối và hành trạng độc lập tương đối mà thôi. Như vậy, người ta sẽ không bị dẫn đến giả định rằng tất cả các thuộc tính của một tập hợp các đối tượng, sự kiện, v.v. sẽ có thể giải thích được dưới hình thức một tập hợp các vật có bản chất tối hậu có thể biết được, ở bất kì giai đoạn nào đều có thể xuất hiện thêm những thuộc tính mới của những tập hợp như thế, nền tảng cuối cùng của chúng cần được coi như tổng thể chưa biết của dòng chảy vận động phổ quát. Sau khi đã thảo luận về việc khái niệm quá trình mang hàm ý gì về bản chất của thực tại, giờ chúng ta hãy xem xét khái niệm này có ý nghĩa gì với bản chất của tri thức. Rõ ràng là, để cho nhất quán, chúng ta phải nói rằng tri thức cũng là một quá trình, một ý niệm trừu xuất ra từ dòng chảy toàn thể duy nhất, như vậy dòng chảy này là nền tảng của cả thực tại lẫn tri thức về thực tại này. Tất nhiên có thể diễn tả thành lời khái niệm này, nhưng trong thực tế khó tránh khỏi rơi vào cái xu hướng phổ biến coi tri thức của chúng ta như tập hợp các chân lí về cơ bản là bất di bất dịch, chứ không phải là tri thức về bản chất của quá trình (chẳng hạn, người ta có thể thừa nhận rằng tri thức luôn thay đổi nhưng lại nói rằng nó có tính tích lũy, như vậy hàm ý rằng các yếu tố cơ bản của nó là những chân lí vĩnh cửu mà chúng ta sẽ phải phát hiện ra). Thật ra, khẳng định bất kì yếu tố tuyệt đối bất biến nào của tri thức (tì như “tất cả đều là dòng chảy”) tức là thiết lập trong lĩnh vực tri thức một cái gì đó vĩnh cửu, nhưng nếu tất cả đều là dòng chảy thì mọi bộ phận của tri thức đều phải có thực chất là một hình thức được trừu xuất ra từ quá trình trở thành, do đó không thể có yếu tố nào của tri thức là tuyệt đối bất biến. Có thể thoát khỏi mâu thuẫn này, theo nghĩa là ta có thể hiểu không chỉ thực tại mà cả toàn bộ tri thức như là có cơ sở trong vận động trôi chảy này không? Hay là ta nhất thiết phải coi một https://thuviensach.vn số yếu tố của tri thức (chẳng hạn những yếu tố liên quan đến bản chất của quá trình) như những chân lí tuyệt đối, vượt ra khỏi dòng chảy của quá trình? Đó chính là vấn đề mà chúng ta thảo luận trong chương này. 2. TƯ DUY VÀ TRÍ TUỆ Để tìm hiểu vấn đề làm thế nào tri thức có thể được hiểu như một quá trình, đầu tiên chúng ta nhận xét rằng tất cả tri thức được tạo ra, được trình bày, được truyền đạt, được biến đổi, và được hàm ý trong tư duy. Tư duy, được xem xét trong vận động trở thành của nó (chứ không phải chỉ trong nội dung gồm các hình ảnh và ý tưởng tương đối xác định rõ nét của nó), thật ra là quá trình trong đó tri thức có sự tồn tại thật và cụ thể (Điều này đã được nói đến trong phần Giới thiệu). Quá trình tư duy là gì? về bản chất, tư duy là sự đáp ứng tích cực của ký ức trong mọi phương diện của cuộc sống. Trong cách hiểu của chúng ta, tư duy bao gồm những đáp ứng có tính trí tuệ, xúc cảm, nhục cảm, cơ bắp và sinh lí của kí ức. Tất cả những cái đó là các khía cạnh của một quá trình không thể phân chia. Xử lí chúng một cách tách rời là tạo ra phân mảnh và lầm lẫn. Tất cả những cái đó là một quá trình đáp ứng của kí ức đối với mỗi tình huống thực tế, trong đó đến lượt nó mỗi đáp ứng lại dẫn đến những đóng góp thêm cho kí ức, bằng cách ấy điều kiện hóa tư duy tiếp theo. Một trong những dạng sớm nhất và sơ đẳng nhất của tư duy, chẳng hạn là kí ức về một niềm vui hay nỗi đau, liên hệ với một hình ảnh thị giác, thính giác hay khứu giác, có thể do một đối tượng hay một tình huống nào đó gợi lên. Trong văn hóa của chúng ta, người ta thường coi những kí ức gắn liền với nội dung hình ảnh là tách rời khỏi những kí ức gắn liền với cảm xúc. Nhưng rõ ràng là toàn bộ ý nghĩa của kí ức như thế chỉ là sự liên kết hình ảnh với cảm xúc, sự liên kết mà, cùng với nội dung trí tuệ và phản xạ sinh lí, tạo thành tổng thể của sự phán đoán rằng cái được nhớ lại là tốt hay xấu, có đáng mong đợi hay không, v.v. Như vậy, rõ ràng là tư duy, khi được coi là đáp ứng của kí ức theo cách này, về cơ bản là có tính máy móc trong trật tự hoạt động của nó. Hoặc nó là sự nhắc lại cấu trúc nào đó đã có trước rút ra từ trí nhớ, hoặc nó là sự bố trí kết hợp hay tổ chức những kí ức này thành những cấu trúc mới của các ý tưởng, quan niệm, phạm trù, v.v. Những kết hợp này có thể có cái gì đó mới do kết quả của tương tác ngẫu nhiên giữa các yếu tố của kí ức, nhưng rõ ràng những cái mới như thế về cơ bản vẫn có tính máy móc (giống như những kết hợp mới xuất hiện trong chiếc kính vạn hoa). Trong quá trình có tính cơ giới này, không có lí do cố hữu nào để những ý nghĩ nảy ra lại phải thích hợp hay ăn khớp với hoàn cảnh thực tế làm nảy sinh ra chúng. Việc nhận thức rằng https://thuviensach.vn những ý nghĩ nào đó có thích hợp hay ăn khớp hay không đòi hỏi sự vận hành của một năng lượng không có tính cơ giới, một năng lượng mà chúng ta gọi là trí thông minh. Trí thông minh có khả năng nhận thức một trật tự mới hoặc một cấu trúc mới, những cái không phải chỉ là sự sửa đổi những gì đã biết hay hiện có trong kí ức. Chẳng hạn, người ta có thể làm việc trên một vấn đề nan giải trong một thời gian dài. Bỗng nhiên, trong một chớp lóe hiểu ra, người ta có thể thấy toàn bộ cách nghĩ của mình về vấn đề này là không thích hợp, cùng với một cách tiếp cận khác trong đó mọi yếu tố đều ăn khớp trong một trật tự khác và một cấu trúc khác. Rõ ràng, một chớp lóe như vậy là một hành động nhận thức thì đúng hơn là một quá trình tư duy (một khái niệm tương tự đã được thảo luận trong chương 1), mặc dù sau đó nó có thể được biểu hiện trong tư duy. Điều đòi hỏi trong hành động này là nhận thức thông qua trí tuệ về các trật tự và quan hệ trừu tượng như giống và khác, tách biệt và nối kết, tất yếu và ngẫu nhiên, nguyên nhân và hậu quả, v. v. Như vậy, chúng ta đã tập hợp những đáp ứng có điều kiện và về cơ bản có tính cơ giới của kí ức dưới một từ hay một biểu tượng, tức là tư duy, và chúng ta đã phân biệt nó với cái hình thức đáp ứng tươi mới, độc đáo và không điều kiện của trí thông minh (hay nhận thức trí tuệ) trong đó một cái gì mới mẻ có thể nảy sinh. Tuy nhiên, tại điểm này chúng ta có thể hỏi: “Làm sao biết được có thể có một đáp ứng vô điều kiện như thế?” Đây là một vấn đề lớn không thể thảo luận ở đây một cách đầy đủ. Tuy nhiên, ở đây có thể chỉ ra, ít nhất mọi người đều ngầm thừa nhận cái khái niệm cho rằng trí thông minh là vô điều kiện (và, cố nhiên, người ta không thể làm khác thế một cách nhất quán). Chẳng hạn, hãy xem xét cái ý đồ khẳng định rằng tất cả mọi hành động của con người đều bị điều kiện hóa và có tính máy móc. Một quan điểm như vậy thường có một trong hai dạng: Hoặc nó nói rằng con người về cơ bản là sản phẩm của thể trạng di truyền của mình, hoặc anh ta bị quy định hoàn toàn bởi các nhân tố môi trường. Tuy nhiên, chúng ta có thể hỏi người tin vào sự quyết định của di truyền rằng có phải lời tuyên bố khẳng định niềm tin ấy của chính anh ta chẳng qua chỉ là sản phẩm của tính di truyền của anh ta hay không? Nói cách khác, phải chăng cấu trúc gen của anh ta buộc anh ta phải phát ngôn như thế? Tương tự, chúng ta có thể hỏi người tin vào sự quyết định của môi trường rằng có phải sự khẳng định một niềm tin như thế chẳng qua chỉ là sự phun ra thành lời theo cái khuôn mẫu mà môi trường của anh ta quy định [đặt điều kiện] cho anh ta hay không? Rõ ràng là, trong cả hai trường hợp (cũng như trong trường hợp một người khẳng định rằng con người bị quy định hoàn toàn bởi di truyền cộng với môi trường) câu trả lời phải là phủ định, vi nếu không thì người nói sẽ phủ định ngay cả cái khả năng là những gì họ nói có ý nghĩa, cố nhiên, trong bất kì tuyên bố nào, cần ngầm hiểu rằng người nói có khả https://thuviensach.vn năng nói từ nhận thức trí tuệ, nhận thức này đến lượt nó có khả năng là một sự thật vốn không chỉ là kết quả của tính máy móc dựa trên ý nghĩa hay những kĩ năng có được trong quá khứ. Như vậy chúng ta thấy rằng, bằng cách thức truyền thông của mình, không ai tránh được hàm ý rằng anh ta thừa nhận ít nhất có khả năng có một loại nhận thức tự do, điều kiện mà chúng ta gọi là trí thông minh. Như vậy có vô vàn chúng cớ chứng tỏ rằng tư duy về cơ bản là một quá trình vật chất. Chẳng hạn, trong rất nhiều bối cảnh khác nhau người ta đã quan sát thấy tư duy gắn liền với các hoạt động điện và hóa trong bộ não và hệ thần kinh, và đồng thời với sự căng và vận động cơ bắp. Vậy liệu ta có thể nói rằng trí thông minh là một quá trình tương tự, cho dù có lẽ có một bản chất vi tế hơn chăng? Quan điểm mà chúng tôi đề xuất ở đây hàm ý rằng không phải thế. Nếu trí thông minh có thể là một hành động vô điều kiện của nhận thức thì cơ sở của nó không thể nằm trong những cấu trúc như tế bào, phân tử, nguyên tử, hạt cơ bản, v.v. Thực chất, bất cứ cái gì bị quyết định bởi các quy luật của những cấu trúc như thế phải nằm trong phạm vi của những gì có thể biết, tức là được lưu trữ trong kí ức, và như vậy sẽ phải có bản chất cơ giới của bất cứ cái gì có thể được đồng hóa trong đặc tính về cơ bản là cơ giới của quá trình tư duy. Hoạt động thực sự của trí thông minh như vậy vượt ra khỏi cái khả năng bị quyết định hoặc bị điều kiện hóa bởi các nhân tố nằm trong các quy luật có thể biết được. Như vậy, chúng ta thấy rằng cơ sở của trí thông minh phải nằm ở dòng chảy không xác định và không thể biết, dòng chảy này cũng là cơ sở của tất cả các hình thức có thể xác định của vật chất. Như vậy, không thể suy luận ra hay không thể giải thích được trí thông minh dựa trên cơ sở bất kì ngành tri thức nào (chẳng hạn vật lí hay sinh học). Nguồn gốc của nó sâu thẳm và uyên áo đến mức không có bất kì trật tự nào mà ta biết có thể giải thích được nó (Thật ra, cần phải hiểu chính cái trật tự của các hình thức có thể xác định của vật chất mà qua đó chúng ta có thể hi vọng hiểu được trí thông minh.). Vậy thì quan hệ giữa trí thông minh và tư duy là gì? Ngắn gọn, ta có thể nói rằng khi tư duy tự nó hoạt động theo chức năng của nó, nó có tính cơ giới và không phải là trí thông minh, bởi vì nó áp đặt một trật tự của chính nó, được rút ra từ kí ức, nói chung là không thích đáng và không phù hợp. Tuy nhiên, tư duy có khả năng đáp ứng không chỉ từ kí ức mà còn với nhận thức vô điều kiện của trí thông minh, trong mỗi trường hợp nhận thức này có thể thấy một đường lối tư duy nào đó là thích đáng và phù hợp hay không. Ở đây, chúng ta hãy xét hình ảnh một chiếc máy thu thanh. Khi tín hiệu ra của máy thu “phản hồi” trở lại đầu vào, nó tự hoạt động khép kín, và chỉ tạo ra những tiếng ồn vô nghĩa và không thích đáng, nhưng khi nó bắt được tin hiệu sóng radio, trật tự của vận động bên trong của https://thuviensach.vn dòng điện của nó (được biến thành sóng âm thanh) liền trở nên song song với tín hiệu này, chừng đó máy thu hoạt động để mang một trật tự có ý nghĩa vốn có nguồn gốc vượt trên trình độ cấu trúc của riêng nó đưa vào những vận động ở trình độ cấu trúc của riêng nó. Khi đó ta có thể gợi ý rằng, trong nhận thức trí tuệ, bộ não và hệ thần kinh đáp ứng trực tiếp với một trật tự trong vũ trụ và dòng chảy không biết vốn không thể quy giảm thành bất cứ cái có thể xác định dưới dạng những cấu trúc có thể biết được. Các quá trình vật chất và trí tuệ như vậy có một nguồn gốc duy nhất, nguồn gốc đó về bản chất là cái tổng thể chưa biết của dòng chảy vũ trụ. Theo một nghĩa nào đó, điều này hàm ý rằng những gì từng được gọi chung là trí tuệ và vật chất thực ra là những ý niệm trừu xuất ra từ dàng chảy vũ trụ, và rằng cả hai nên được xem như những trật tự khác nhau và tự chủ tương đối bên trong một vận động toàn thể duy nhất (Khái niệm này sẽ được thảo luận kĩ hơn ở chương 7). Chính tư duy đáp ứng với nhận thức trí tuệ là cái có khả năng mang lại sự hài hòa toàn diện hay sự phù hợp giữa tinh thần và vật chất. 3. SỰ VẬT VÀ TƯ DUY Đã biết rằng tư duy là một quá trình vật chất có thể là thích đáng trong một số bối cảnh tổng quát hơn - khi nó chuyển động song song với nhận thức trí tuệ -, bây giờ chúng ta tiến hành truy vấn quan hệ giữa tư duy và thực tại. Nói chung, người ta tin rằng nội dung của tư duy là một loại phản ánh tương ứng với “những sự vật có thật”, có thể là một loại bản sao, hay hình ảnh, hay mô phỏng các sự vật, có thể là một loại “bản đồ” các sự vật, hay có thể là sự hiểu thấu các hình thức sâu thẳm và thực chất của vạn vật (với những cách thức tương tự như những cách thức mà Plato đề xuất). Liệu có quan điểm nào trong số này là đúng không? Hay là bản thân câu hỏi không cần phải làm cho rõ ràng hơn nữa? Vì nó giả định rằng chúng ta biết “sự vật có thật” và “sự phân biệt giữa tư duy và thực tại” có nghĩa là gì. Nhưng đây chính là những vấn đề không được hiểu đúng (chẳng hạn, ngay cả cái khái niệm khá phức tạp của Kant “vật tự nó” cũng chẳng rõ ràng gì hơn cái ý tưởng thô sơ về “sự vật có thật”). Ở đây chúng ta có thể có được đầu mối bằng cách lần đến nguồn gốc của các từ như “sự vật” và “thực tại”. Nghiên cứu từ nguyên có thể coi như một loại khảo cổ về quá trình tư duy của chúng ta, theo nghĩa là các dấu vết của những hình thúc tư duy trước kia có thể tìm thấy nhờ những quan sát trong lĩnh vực này. Như trong nghiên cứu xã hội loài người, các đầu mối có được nhờ các cuộc khảo cổ có thể giúp chúng ta hiểu tốt hơn hiện trạng ngày nay. Từ “thing” [sự vật] có nguồn gốc từ những từ tiếng Anh cổ* mà nghĩa gồm có “đối tượng”, https://thuviensach.vn “hành động”, “biến cố”, “điều kiện”, “gặp gỡ”, và liên hệ đến những từ có nghĩa “xác định”, “giải quyết”, và có thể đến “thời gian”, “mùa”. Như vậy, nghĩa gốc của nó có thể là “một cái gì đó xảy ra trong một thời gian nào đó, dưới những điều kiện nhất định” (So sánh với từ tiếng Đức “bedingen” có nghĩa là “tạo điều kiện” hay “xác định”, và có thể nó được chuyển sang lại tiếng Anh thành ra “bething”). Tất cả các nghĩa này chỉ ra rằng từ “thing” nảy sinh như một sự chỉ thị có tính khái quát cao về tất cả các hình thức tồn tại, phù du hay vĩnh cửu, được hạn định hay được xác định bởi các điều kiện. Vậy thì nguồn gốc của từ “reality” [thực tại] là gì? Từ này đến từ chữ Latin “res” có nghĩa là “sự vật” [thing]. Để được là “thật” thì phải là một “vật”. “Thực tại” trong nghĩa cổ xưa của nó là “vật tính nói chung” [“thinghood” hay “the quality of being a thing”]. Điều đặc biệt thú vị là chữ “res” đến từ động từ “reri” có nghĩa là “nghĩ”, do đó, theo nghĩa đen, “res” có nghĩa là “điều được nghĩ đến”. Tất nhiên, nó hàm ý rằng điều được nghĩ đến có một tồn tại độc lập với quá trình suy nghĩ, hay nói cách khác, trong khi chúng ta tạo ra và duy trì một ý nghĩ như một hình ảnh tinh thần bằng cách suy nghĩ về nó thì chúng ta không tạo ra và duy trì một “vật thật” theo cách ấy. Tuy nhiên, “vật thật” bị giới hạn bởi các điều kiện có thể biểu hiện dưới dạng tư duy. Tất nhiên, vật thật thì phong phú hơn nhiều so với hàm ý có thể có trong nội dung suy nghĩ của chúng ta về nó, vì nó luôn bộc lộ thêm những điều mới qua các quan sát mới. Hơn nữa, tư duy của chúng ta nói chung không hoàn toàn đúng, cho nên hoàn toàn có thể chờ đợi rằng vật thật cuối cùng phô ra những hành vi hay những đặc tính trái ngược với một số hàm ý trong suy nghĩ của chúng ta về nó. Thật ra những điều trái ngược ấy nằm trong số những phương cách chủ yếu để vật thật chứng tỏ tính độc lập căn bản của nó đối với tư duy. Như vậy, chỉ báo chủ yếu về quan hệ giữa sự vật và tư duy là, khi người ta suy ngịũ đúng về một sự vật nào đó thì, ít nhất tới một điểm nào đó, ý nghĩ này có thể hướng dẫn hành động của người ta trong quan hệ với sự vật đó sao cho tạo ra một tình hình toàn diện hài hòa và không có mâu thuẫn hay lầm lẫn. Nếu sự vật và tư duy về nó có cơ sở trong một dòng chảy tổng thể duy nhất không thể biết và không thể xác định thì những ý đồ giải thích quan hệ của chúng bằng cách giả định rằng tư duy phản ánh sự vật một cách phù hợp là vô nghĩa, vì cả tư duy lẫn sự vật đều là những hình thức được trừu xuất ra từ quá trình toàn thể ấy, Lí do tại sao những hình thức này liên hệ với nhau chỉ có thể nằm trong cái cơ sở mà chúng nảy sinh, nhưng không có cách nào thảo luận về sự phản ánh phù hợp trong cái cơ sở này, vì sự “phản ánh phù hợp” hàm ý tri thức, trong khi cái cơ sở này lại vượt ra ngoài những gì có thể coi là hàm chứa trong nội dung của tri thức. Phải chăng điều đó có nghĩa là không thể có cái nhìn thấu nào nữa vào mối quan hệ giữa sự https://thuviensach.vn vật và tư duy? Chúng tôi gợi ý rằng thật ra vẫn còn có thể có cái nhìn thấu như thế, nhưng nó đòi hỏi phải xem xét vấn đề này thèo một cách khác, Để minh hoa cái định hướng liên quan đến cách này, chúng ta hãy xem xét cái tương tự trong vũ điệu của loài ong mà nhiều người biết, trong đó một con ong có thể chỉ cho những con khác biết vị trí của những bông hoa mang mật. Có thể hiểu vũ điệu này không phải được sinh ra trong “trí khôn” của loài ong như một dạng tri thức phản ánh phù hợp với những đoá hoa. Đúng hơn, chính là trong một hoạt động mà, khi được thực hiện đúng, có tác dụng như một dấu chỉ, bầy ong được sắp đặt theo một trật tự hành động nói chung dẫn chúng đến chỗ có mật. Hoạt động này không tách khỏi mọi hoạt động khác trong việc gom mật. Nó chảy và hoa vào bước tiếp theo trong một quá trình toàn vẹn. Do đó người ta có thể đề xuất xem xét khái niệm cho rằng tư duy là một loại “vũ điệu của trí tuệ”, nó có tác dụng chỉ báo, và khi được thực hiện đúng, nó chảy và hoa vào quá trình toàn thể trật tự và hài hòa trong toàn bộ cuộc sống. Trong thực tiễn, cái trật tự và sự hài hòa này có ý nghĩa khá rõ ràng (chẳng hạn, cộng đồng sẽ thành công trong việc tạo ra cái ăn, cái mặc, chỗ ở, điều kiện sinh sống lanh mạnh, v.v.), nhưng con người cũng còn lao vào những suy tư vượt xa khỏi thực tế trước mắt. Từ thời xa xưa con người đã đi tim hiểu ngọn nguồn của mọi sự vật, bản tính và trật tự chung của chúng, trong tư duy tôn giáo, trong triết học, và trong khoa học. Điều này có thể gọi là tư duy có “cái tổng thể của tất cả những gì là” và nội dung của nó (chẳng hạn, cố gắng hiểu bản chất của thực tại như một toàn thể). Điều chúng tôi đề xuất ở đây là cách hiểu như thế về một tổng thể không phải là một sự phản ánh phù hợp giữa “tư duy” và “thực tại như một toàn thể”. Đúng hơn, nên coi nó như một hình thức nghệ thuật, giống như thơ ca, có thể đưa chúng ta vào trật tự và hài hoa trong “vũ điệu của trí tuệ” toàn diện (và qua đó trong hoạt động chức năng chung của bộ não và hệ thần kinh). Điểm này đã được nói đến ở trên, trong phần Giới thiệu. Như vậy, điều cần có ở đây không phải là một sự giải thích có khả năng cho chúng ta một tri thức về mối quan hệ của tư duy và sự vật hay của tư duy và “thực tại như một toàn thể”. Đúng hơn, điều cần có là một hành động hiểu, trong đó chúng ta thấy cái toàn thể như một quá trình thực, mà khi thực hiện đúng, có xu hướng đưa đến một hành động toàn diện hài hòa và trật tự, phối hợp cả tư duy lẫn những gì mà tư duy nghĩ đến trong một vận động duy nhất, trong đó sự phân chia thành các bộ phận tách rời (chẳng hạn, thành tư duy và sự vật) là vô nghĩa. 4. TƯ DUY VÀ CÁI KHÔNG-PHẢI-LÀ-TƯ-DUY Trong khi về bản chất rõ ràng tư duy và sự vật không thể phân chia ra như những thứ tồn tại tách biệt, song cũng rõ ràng là trong kinh nghiệm trực tiếp của con người phải có một số sự phân https://thuviensach.vn chia và tách biệt như thế, ít ra là tạm thời, hoặc như một điểm xuất phát. Thật vậy, sự phân biệt giữa những gì là thật và những gì chỉ thuần là tư duy và do đó là tưởng tượng và huyễn tưởng, là tuyệt đối cần thiết, không chỉ để thành công trong các công việc thực tế, mà còn để chúng ta sau cùng giữ được ngay cả sự minh mẫn tỉnh táo của mình. Ở đây, xét xem sự phân biệt như thế nảy sinh như thế nào hẳn là việc có ích. Chẳng hạn mọi người đều biết* rằng một đứa bé thấy rất khó phân biệt các nội dung suy nghĩ của nó với các vật thật (Chẳng hạn, nó có thể tưởng tượng rằng người khác cũng trông thấy những nội dung này như nó trông thấy, và nó có thể hoảng sợ về những gì mà người khác gọi là “nguy hiểm tưởng tượng”). Như vậy trong khi đứa bé có xu hướng bắt đầu quá trình suy nghĩ một cách ngây thơ chất phác (tức là không có ý thức rõ rệt là nó đang suy nghĩ), song ở một giai đoạn nào đó nó trở nên nhận biết có ý thức về quá trình suy nghĩ, khi nó nhận ra rằng một số “sự vật” mà hình như nó tri giác thật ra “chỉ là những ý nghĩ” và do đó “chẳng là cái cả” (hay “cái không là gì”) trong khi những cái khác là “thật” (hay là “cái gì đó”). Chắc chắn người nguyên thủy thường xuyên ở trong hoàn cảnh tương tự. Khi anh ta bắt đầu dựng lên một phạm vi tư duy kĩ thuật thực tế của mình trong việc xử lí các sự vật, những hình ảnh thuộc tư duy như thế trở nên ngày càng mạnh hơn và xuất hiện thường xuyên hơn. Để tạo lập sự cân đối hài hòa thích đáng trong cái toàn thể của cuộc sống mình, có lẽ anh ta cảm thấy sự cần thiết phải phát triển tư duy của mình về tính toàn thể theo cách tương tự. Trong loại tư duy ấy, sự phân biệt giữa tư duy và sự vật đặc biệt dễ trở nên lộn xộn. Như vậy, khi con người bắt đầu suy nghĩ về các lực lượng tự nhiên và các vị thần, và khi các nghệ sĩ sáng tạo ra hình tượng thực về các con vật và các vị thần, mà họ cảm thấy là sở hữu những sức mạnh ma quái hay siêu nhiên, con người bị dẫn tới chỗ chìm đắm vào loại tư duy không gắn với bất kì vật thể vật chất rõ ràng nào, loại tư duy này hết sức mãnh liệt, hết sức dai dẳng, hết sức “hiện thực” đến nỗi con người không còn có thể giữ được sự phân biệt rõ ràng giữa những hình ảnh thuộc tâm trí và thực tại nữa, Những trải nghiệm như thế chắc hẳn phải dần dần gây ra một cảm giác sâu sắc thôi thúc người ta làm sang tỏ sự phân biệt này (biểu hiện trong những câu hỏi như “Tôi là ai?”, “Bản chất của tôi là gì?”, “Bản chất thật của mối quan hệ giữa con người, tự nhiên và thần thánh là gì?”.v.), bởi vì cuối cùng con người cũng phải thấy rằng cứ giữ nguyên mãi trạng thái mơ hồ về chuyện “cái gì là thật, cái gì là không” thì không thể nào chịu nổi, bởi điều này không chỉ khiến ta không thể có một cách tiếp cận hợp lí đến những vấn đề thực tế, mà còn lấy đi mất toàn bộ ý nghĩa của cuộc sống. Như vậy rõ ràng là, dù sớm hay muộn, trong quá trình tư duy toàn diện của mình con người cũng sẽ lao vào những cố gắng có hệ thống nhằm làm sáng tỏ sự phân biệt này. Người ta có thể https://thuviensach.vn thấy rằng tại một số giai đoạn trong quá trình này, khó có thể coi là đủ nếu chỉ biết cách phân biệt những tư duy/ý nghĩ cụ thể nhất định khỏi những sự vật cụ thể nhất định. Đúng ra, cần phải hiểu sự phân biệt này một cách tổng quát. Như vậy có lẽ con người nguyên thủy hay đứa bé hẳn đá có một chớp lóe nhìn thấu trong đó họ thấy, có thể không cần phải nói ra thành lời một cách rõ ràng, rằng tư duy như một toàn thể phải được phân biệt khỏi toàn thể những cái không phải là tư duy. Có thể trình bày một cách ngắn gọn như sự phân biệt giữa tư duy và cái không phải tư duy, từ đây viết tắt là T và NT. Đường dây lập luận ẩn trong một sự khác biệt như thế là: T không phải là NT (tư duy và cái không-phải-tư-duy là khác nhau và loại trừ lẫn nhau). Tất cả hoặc là T hoặc là NT (tư duy và cái không-phải-tư-duy bao gồm toàn bộ những gì có thể tồn tại). Theo một nghĩa nào đó, suy nghĩ thật sự bắt đầu bằng sự phân biệt này. Trước khi suy nghĩ thật sự hình thành, có thể đã diễn ra quá trình suy nghĩ, song, như đã nói ở trên, quá trình này có thể không có ý thức đầy đủ rằng suy nghĩ là cái đang diễn ra. Vậy, tư duy đích thực bắt đầu bằng cách này với tư duy, biết rõ bản thân nó thông qua việc tự nó phân biệt bản thân nó với cái không phải tư duy. Hơn nữa, bước này, trong đó tư duy đích thực bắt đầu, có lẽ là bước tư duy đầu tiên của con người lấy cái toàn thể làm nội dung của nó. Và chúng ta có thể thấy cái tư tưởng như thế ghi dấu vào ý thức của toàn thể loài người sâu sắc là nhường nào, nó đã nảy sinh rất sớm như một giai đoạn cần thiết trong cố gắng của tư duy nhằm đem sự tỉnh táo sáng suốt và trật tự vào “vũ điệu” của nó. Phương thức tư duy này được phát triển hơn nữa và được nói rõ ra bằng cách cố gắng phát hiện ra những đặc trưng hay phẩm chất riêng biệt khác nhau thuộc về tư duy và cái không phải tư duy. Theo đó, cái không phải tư duy thường được đồng nhất với thực tại, theo nghĩa là nó mang tính sự vật. Như đã chỉ ra ở trên, các sự vật có thực được nhận ra chủ yếu bởi tính độc lập của chúng đối với cách chúng ta tư duy về chúng. Những sự phân biệt còn đặc trưng hơn nữa là: các sự vật có thực có thể sờ mó được, ổn định, cưỡng lại những mưu toan làm thay đổi chúng, nguồn gốc của hoạt động độc lập trong khắp cái toàn thể của thực tại. Mặt khác, tư duy có thể được coi như một thứ thuần tuý “tinh thần”, không thể sờ mó được, ngắn ngủi, dễ đổi thay, và không có khả năng khởi tạo những phương cách hoạt động độc lập nằm ngoài bản thân chúng, v.v. Tuy nhiên, xét đến cung, một sự phân biệt cứng nhắc như thế giữa tư duy và cái không phải tư duy không thể duy trì được mãi, vì người ta có thể thấy rằng tư duy là một hoạt động thực, nó phải có cơ sở trong một toàn thể rộng lớn hơn của vận động thực và hành động thực, vốn chồng https://thuviensach.vn lấn và bao gồm luôn cả tư duy. Vậy, như đã được chỉ ra, tư duy là một quá trình vật chất mà nội dung là toàn bộ sự đáp ứng của kí ức, bao gồm các cảm thụ, các phản xạ cơ bắp, và ngay cả những cảm giác sinh lí, tất cả hòa làm một với sự đáp ứng toàn thể và từ đó trôi chảy ra. Thật ra, theo nghĩa này thì tất cả các đặc điểm nhân tạo của môi trường chung của chúng ta đều là sự mở rộng của quá trình tư duy, vì các hình dạng, hình thức, trật tự chung của vận động về cơ bản là khởi nguồn trong tư duy, và được kết hợp chặt chẽ trong môi trường này với hoạt động của con người, được dẫn dắt bởi tư duy như thế. Ngược lại, mọi thứ trong môi trường chung đều có - hoặc một cách tự nhiên hoặc thông qua hoạt động của con người -một hình dạng, hình thức, phương thức vận động, mà nội dung của nó “chảy” qua tri giác, làm nảy sinh những ấn tượng cảm giác để lại dấu vết trong kí ức, và như vậy góp phần tạo thành cái cơ sở của tư duy sau này. Trong vận động toàn thể này, nội dung bắt nguồn từ trong kí ức chuyển liên tục qua môi trường và trở thành một đặc điểm cố kết của môi trường, toàn thể nội dung bắt nguồn từ trong môi trường chuyển qua kí ức và trở thành một đặc điểm cố kết của kí ức, do đó (như đã chỉ ra ở trên) hai thành phần này tham gia trong một quá trình toàn thể duy nhất, trong đó việc phân tích thành các bộ phận tách rời (tức tư duy và sự vật) là hoàn toàn vô nghĩa. Một quá trình như vậy, trong đó tư duy (tức sự đáp ứng của kí ức) và môi trường chung được kết nối với nhau bền chặt không thể chia lìa, rõ ràng là có bản chất một chu trình, như được minh họa tượng trưng trong hình 3.1 (mặc dù tất nhiên chu trình này chính xác hơn nên được xem như luôn luôn mở thành một đường xoắn ốc). Vận động theo vòng tròn (hay vong xoắn) này, trong đó tư duy có đầy đủ tồn tại cụ thể và thực của nó, còn bao gồm cả sự lan truyền tư duy giữa những con người (vốn là bộ phận của môi trường của nhau) và nó đi vào quá khứ xa vô tận. Như vậy, chúng ta không thể nói một cách chính xác cái quá trình toàn bộ của tư duy bắt đầu từ đâu và kết thúc ở đâu. Đúng hơn, nó cần được xem như một vận động toàn thể không đứt gãy, không phụ thuộc bất cứ một con người, nơi chốn, thời khắc hay một nhóm người cụ thể nào. Thông qua việc xem xét bản chất vật chất của đáp ứng của kí ức trong các phản xạ thần kinh, cảm giác, chuyển động cơ bắp, v.v. và thông qua việc xem xét sự hợp nhất những đáp ứng này với môi trường chung trong quá trình tuần hoàn toàn thể được miêu tả ở trên, chúng ta thấy rằng tư duy là cái không phải tư duy (T là NT). https://thuviensach.vn Ngược lại, chúng ta cũng có thể thấy rằng cái không phải tư duy là tư duy (NT là T). Như vậy, trên thực tế “thực tại” là một từ chắc chắn có hàm ý nội dung tư duy. Chắc chắn điều này cũng có thể nói về bất kì thuật ngữ nào trong ngôn ngữ của chúng ta, nhưng, như đã thấy, những thuật ngữ như thế nói chung có thể chỉ các sự vật có thật, mà chúng ta về nguyên tắc có thể tri giác được. Tuy nhiên, không có cách nào để xem xét thực tại như thể nó là một loại “sự vật”, để kiểm nghiệm xem tư duy của chúng ta phù hợp hay không phù hợp với cái “thực tại được gọi là sự vật” này. Thật ra, trong quan hệ này chúng ta đã gợi ý rằng thuật ngữ “thực tại” chỉ một dòng chảy toàn thể không biết và không xác định, vốn là cơ sở của mọi sự vật và của bản thân quá trình tư duy, cũng như của vận động nhận thức trí tuệ. Nhưng điều này về cơ bản không làm thay đổi vấn đề, bởi vì, nếu “thực tại” là cái không biết và không thể biết, làm sao chúng ta có thể chắc chắn rằng nó có tồn tại? Tất nhiên, câu trả lời là chúng ta không thể chắc chắn. Tuy nhiên, từ điều này không thể suy ra rằng “thực tại” là một từ không có nghĩa, và, như chúng ta đã thấy, trí óc trong “vũ điệu của tư duy” của nó rốt cuộc chỉ có thể hoạt động một cách trật tự và sáng suốt nếu như “hình thức của vũ điệu” hàm chứa một kiểu phân biệt giữa tư duy và cái không-phải-tư-duy (tức là thực tại). Tuy nhiên, chúng ta cũng đã thấy rằng sự phân biệt này phải được thực hiện trong dòng chảy liên tục thay đổi của quá trình trong đó tư duy chuyển thành cái không-phải-tư-duy trong khi cái không-phải-tư-duy chuyển thành tư duy, do đó nó không thể được coi là cố định. Một sự phân biệt không cố định như vậy rõ ràng đòi hỏi vận động tự do của nhận thức trí tuệ, nhận thức này có thể, trong mỗi trường hợp, phân biệt được nội dung nào bắt nguồn từ trong tư duy và nội dung nào bắt nguồn từ trong thực tại vốn độc lập với tư duy. Như vậy rõ ràng là thuật ngữ “thực tại” (trong ngữ cảnh này có nghĩa là “thực tại có tính https://thuviensach.vn toàn thể”) không được xem xét một cách đúng đắn như một phần của nội dung tư duy. Hoặc, diễn đạt cách khác, chúng ta có thể nói rằng thực tại không là cái [sự vật] gì cả và nó cũng là cái toàn thể của tất cả các sự vật (tức là, chúng ta không đồng nhất “thực tại” với “mọi vật”). Do từ “sự vật” hàm nghĩa một hình thức tồn tại có điều kiện, nên điều này có nghĩa “thực tại như một toàn thể” cũng không thể được xem là có điều kiện (Thật ra, khó mà xem như thế một cách nhất quán, bởi vì ngay cái thuật ngữ “thực tại như một toàn thể” đã hàm ý rằng nó chứa tất cả các nhân tố có thể áp đặt điều kiện lên nó và nó có thể phải phụ thuộc vào). Do đó, bất kì một khái niệm nào về tính toan thể mà dựa trên một sự phân biệt cố định và vĩnh viễn giữa tư duy và thực tại thì đều phải sụp đổ khi áp dụng vào cái toàn thể. Hình thức ban đầu của sự phân biệt cố định giữa tư duy và thực tại (tức là cái không-phải-là tư-duy) là: T không phải là NT Tất cả hoặc là T hoặc là NT Hình thức này là đặc trưng của cái gọi là logic của Aristotle (mặc dù tất nhiên có lẽ nó cũng cổ xưa như tư duy đích thực, trong khi Aristotle chỉ là người mà chúng ta biết là sớm nhất đã phát biểu nó lên một cách rõ ràng và súc tích). Đây có thể gọi là logic đúng với các sự vật. Bất kì một hình thức tư duy đặc biệt nào phù hợp với logic này tất nhiên có thể áp dụng vào các sự vật tương ứng chỉ dưới những điều kiện nhất định cần thiết để cho sự vật đó đúng là chính nó. Tức là nói, một tập hợp các hình thức tư duy tuân theo các quy tắc của logic Aristotle sẽ có tác dụng như sự chỉ đường thích hợp trong các hoạt động phối hợp các sự vật chỉ trong một số phạm vi giới hạn; vượt khỏi những phạm vi ấy, các sự vật này sẽ phải thay đổi hoặc hanh động theo cách mới, do đó lúc này sẽ cần đến những hình thức tư duy mới. Tuy nhiên, khi chúng ta bắt đầu xem xét “tổng thể của tất cả những gì là thế”, quan tâm đầu tiên của chúng ta, như ta đã thấy, không phải là những sự vật có điều kiện (conditioned things), mà là cái toàn thể vô điều kiện (unconditioned totality) mà xét cho cùng là cơ sở của tất cả. Ở đây, những quy tắc mà Aristotle nêu lên đã bị phá vỡ, theo nghĩa là ngay cả một phạm vi giới hạn hay một tập hợp các điều kiện trong đó chúng có thể áp dụng cũng không có, bởi vì, thêm vào các quy tắc của Aristotle chúng ta phải khẳng định điều sau đây: T là NT NT là T Tất cả vừa là T vừa là NT (tức là hai cái nhập lại với nhau và chảy vào nhau, trong một quá trình duy nhất không đứt https://thuviensach.vn đoạn, trong đó xét đến cùng chúng là một). Tất cả vừa không phải là T vừa không phải là NT (tức là cái cơ sở cuối cùng hãy còn chưa được biết, do đó là không thể định rõ, không phải là T mà cũng không phải là NT, không phải theo bất cứ cách nào khác). Nếu mệnh đề trên đây kết hợp với “T không phải là NT” và “Tất cả là hoặc T hoặc NT”, và nếu chúng ta tiếp tục giả định rằng “T” và “NT” là tên của những sự vật, chúng ta sẽ ngầm chỉ một sự tự mâu thuẫn tuyệt đối. Điều chúng ta đang làm ở đây là không nhìn cái kết hợp toàn thể này như một dấu chỉ rằng “T” và “NT” không phải là tên của những sự vật. Đúng hơn, như đã nói ở trên, chúng nên được coi như những thuật ngữ trong ngôn từ của chúng ta mà chức năng là sắp đặt trí óc vào một hành động của nhận thức trí tuệ, trong đó điều cần thiết là phân biệt rõ, trong từng trường hợp, nội dung nào bắt nguồn từ trong tư duy (tức là sự đáp ứng của kí ức) còn nội dung nào bắt nguồn từ trong một “thực tại” vốn độc lập với tư duy. Vì cái thực tại độc lập với tư duy về thực chất là chưa biết và không thể biết, nên một nhận thức sáng suốt như thế rõ ràng không thể mang hình thức gán một đặc điểm đặc biệt của nội dung cho một phạm trù cố định đặc biệt, T hay NT. Đúng hơn, nếu có một nhận biết về cái tổng thề liên tục thay đổi của những gì bắt nguồn trong tư duy (túc là trong sự đáp ứng của kí ức, vốn là địa hạt của cái đã biết) thì, theo ngầm hiểu, bất cứ cái gì không nằm trong cái tổng thể này phải được xử lí như có nguồn gốc độc lập với tư duy. Rõ ràng, điều cực kì quan trọng là không một bộ phận nào của cái bắt nguồn từ đáp ứng của kí ức bị bỏ quên hay để ra ngoài ý thức. Tức là, “sai lầm” đầu tiên có thể mắc phải trong lĩnh vực này không phải là một sai lầm tích cực: quy sai những gì bắt nguồn trong tư duy thành một thực tại độc lập với tư duy. Đúng hơn, nó là sai lầm tiêu cực: bỏ qua hay không nhận ra rằng một vận động nào đó bắt nguồn trong tư duy, và như vậy ngầm xử lí vận động ấy như bắt nguồn từ trong cái không-phải-là-tư-duy. Bằng cách ấy, cái thực sự là một quá trình duy nhất của tư duy bị xử li ngầm như thể nó bị chẻ ra thành hai phần (nhưng tất nhiên người ta không nhận ra rằng điều đó đang xảy ra). Một sự phân mảnh quá trình tư duy một cách vô ý thức như thế chắc chắn dẫn đến bóp méo toàn bộ nhận thức. Bởi vì nếu người ta bị dẫn đến chỗ quy những đáp ứng của kí ức của chính mình thành một thực tại có thể là độc lập với những đáp ứng ấy thì sẽ có một “phản hồi” nữa dẫn đến những ý nghĩ còn kém thích đáng hơn nữa về cái “thực tại độc lập” này. Những ý nghĩ này sẽ cấu thành những đáp ứng càng không thích hợp hơn nữa của kí ức, các đáp ứng này lại sẽ bổ sung vào cái “thực tại độc lập” trong một quá trình tự duy trì mà nói chung rất khó bứt phá ra khỏi. Loại “phản hồi” này (mà chúng ta đã chỉ ra ở trên trong quan hệ với phép so sánh tương tự trong đó tư duy được coi tương tự như một máy thu thanh) sẽ dần dần dẫn đến rối loạn trong https://thuviensach.vn toàn bộ hoạt động của trí óc. 5. PHẠM VI CỦA TƯ DUY ĐƯỢC COI NHƯ MỘT QUÁ TRÌNH Theo kinh nghiệm thông thường, trong đó chúng ta xử lí những sự vật có thể được tri giác bằng giác quan, sớm muộn thì cũng có khả năng nhận thức trí tuệ sẽ phân định rõ ràng cái tổng thể những khía cạnh của kinh nghiệm bắt nguồn trong tư duy (và, từ đó suy ra, cái tổng thể những gì có nguồn gốc độc lập với tư duy). Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, trong thứ tư duy nhằm coi cái toàn thể như nội dung của nó, rất khó có được một sự rõ ràng như thế, một mặt vì thứ tư duy này rất mãnh liệt, liên tục và tuyệt đối (total), đến mức nó tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ về thực tại, mặt khác là vì không có những “sự vật” có thể được tri giác bằng giác quan để có thể qua đó mà thử nghiệm nó. Như vậy, qua việc không chú ý thích đáng đến quá trình tư duy thực tế ở con người, rất dễ để “lẻn” vào [nguyên văn: “slip into”] một hình thức đáp ứng [phản xạ] có điều kiện của kí ức, trong đó người ta không cảnh giác trước cái sự kiện vốn vẫn chỉ là một hình thức của tư duy, một hình thức nhằm đưa ra cái nhìn về “toàn thể thực tại”. Như vậy, bằng cách “ngầm định”, người ta bị rơi vào cái bẫy ngầm xử lí một cái nhìn như thể tuồng như nó bắt nguồn độc lập với tư duy, qua đó hàm ý rằng nội dung của nó thực sự là cái toàn thể của thực tại. Từ quan điểm này, chúng ta sẽ thấy, trong toàn bộ phạm vi mà người ta có thể tiếp cận, không có chỗ cho sự thay đổi trong trật tự toàn diện, theo như khái niệm của người ta về cái toàn thể đã cho; cái toàn thể này thật ra bây giờ hình như phải bao gồm tất cả những gì có thể hiện hữu, hoặc thậm chí có thể nghĩ đến. Tuy nhiên, điều đó có nghĩa là tri thức của chúng ta về cái toàn thể của thực tại sẽ phải được xem như có một hình thức cố định và cuối cùng, nó phản ánh hoặc bộc lộ một hình thức cố định và cuối cùng tương ứng của những gì mà thực chất chính là cái thực tại toàn thể này. Việc áp dụng một thái độ như thế rõ ràng là có xu hướng ngăn chặn sự vận động tự do của trí óc vốn cần thiết cho sự rõ ràng của nhận thức, và như vậy sẽ góp phần vào sự méo mó và hỗn loạn lan tràn, mở rộng ra mọi khía cạnh của kinh nghiệm. Như đã chỉ ra ở trên, tư duy lấy cái toàn thể làm nội dung phải được coi như một hình thức nghệ thuật, như thơ ca, mà chức năng đầu tiên là gợi ra một nhận thức mới, cùng một hành động vốn ngầm chứa trong nhận thức này, hơn là truyền đạt những tri thức phản ánh “mọi vật như hiện tồn”. Điều này hàm ý rằng không thể có một hình thức sau chót của tư duy như thế, cũng như không thể có một bài thơ sau chót (nó khiến cho tất cả những bài thơ sau đó trở nên không cần thiết). Bất kì một hình thức đặc thù nào của sự suy nghĩ về tính toàn thể nhất định sẽ chỉ ra một https://thuviensach.vn cách xem xét về toàn bộ sự tiếp xúc của chúng ta với thực tại, và như vậy nó có những hàm ý về việc chúng ta có thể hành động như thế nào trong mối tiếp xúc này. Tuy nhiên, mỗi một cách xem xét đó đều có hạn chế, theo nghĩa là nó chỉ có thể dẫn tới trật tự và hài hòa đến một điểm nhất định, ngoài điểm đó chắc chắn nó sẽ thôi không còn phù hợp và thích đáng (So sánh với khái niệm về sự thật trong chức năng ở chương 2). Rốt cuộc, vận động thực của tư duy thể hiện bất kì một khái niệm nào về tính toàn thể đều phải được xem như một quá trình, với hình thức và nội dung liên tục thay đổi. Nếu quá trình này được thực hiện đúng, với sự chú ý đến và nhận biết về tư duy trong dòng chảy thực của sự trở thành thì người ta sẽ không rơi vào thói quen ngấm ngầm xử lí nội dung như một thực tại cuối cùng và có bản chất tĩnh, có thể độc lập với tư duy. Tuy nhiên, ngay cả tuyên bố này về bản chất sự suy nghĩ của chúng ta, tự nó cũng chỉ là một hình thức trong quá trình toàn thể của sự trở thành, một hình thức chỉ ra một trật tự nhất định của vận động của trí tuệ, và như một sự dàn xếp cần thiết để trí óc có thể tham gia một cách hài hòa vào một vận động như thế. Do đó, đối với nó không có cái gì là sau chót. Chúng ta cũng không thể nói nó sẽ dẫn đến đâu. Rõ ràng là, chúng ta phải cởi mở hầu tiếp nhận thay đổi cơ bản hơn nữa của trật tự trong suy nghĩ của mình khi chúng ta tiếp tục với quá trình này. Những thay đổi như thế phải đến trong những hành động mới mẻ và sáng tạo của nhìn thấu, vốn cần thiết cho vận động có trật tự của một tư duy như thế. Điều chúng tôi đề nghị trong chương này là: chỉ một quan điểm coi tri thức như một phần không tách rời của dòng chảy toàn phần của quá trình thì nói chung mới có thể dẫn đến một cách tiếp cận hài hòa hơn và trật tự hơn với cuộc sống như một toàn thể, chứ không dẫn đến một quan điểm tĩnh tại và phân mảnh vốn không xử lí tri thức như một quá trình mà lại chia lìa tri thức ra khỏi phần còn lại của thực tại. Điều quan trọng trong bối cảnh này là nhấn mạnh rằng, nếu khăng khăng coi những quan điểm nhất định nào đó liên hệ đến tính toàn thể là chỉ thuộc về Whitehead hay ai khác, đấy chính là cản trở việc xử lí tri thức một cách nhất quán như một phần gắn liền của một quá trình toàn diện. Thật ra, bất cứ ai sử dụng những quan điểm của Whitehead đều sử dụng chúng làm điểm xuất phát, trong một quá trình tiếp tục đi xa hơn của sự trở thành của tri thức (Hẳn ta có thể nói rằng anh ta đang hành tiến xuôi theo “dòng tri thức”). Trong quá trình này, một số khía cạnh nào đó có thể thay đổi tương đối chậm, trong khi những khía cạnh khác thay đổi nhanh chóng hơn, nhưng điểm mấu chốt phải luôn ghi nhớ là quá trình này không có một khía cạnh nào là có thể xác định, là cố định tuyệt đối. Nhận thức trí tuệ tất nhiên là cần, từ lúc này đến lúc khác, để phân định những khía cạnh nên thay đổi chậm một cách thích đáng, và những khía cạnh nên thay đổi nhanh một cách thích đáng, khi người ta làm việc trong những “hình thức https://thuviensach.vn nghệ thuật” sáng tạo của những ý tưởng về “cái toàn thể của tất cả hiện tồn”. Ở đây cần phải hết sức cảnh giác và thận trọng, vì chúng ta đang có ý muốn cố định nội dung thiết yếu trong thảo luận của mình vào một quan niệm hay một hình ảnh đặc biệt, và nói về điều này như thể nó là một “sự vật” tách biệt có thể độc lập với tư duy của chúng ta về nó. Chúng ta không nhận ra rằng thật ra “sự vật” này giờ đây đã chỉ còn là một hình ảnh, một hình thức trong quá trình toàn diện của tư duy, tức là đáp ứng của kí ức, vốn là cặn lắng của nhận thức thông qua trí tuệ trong quá khứ (hoặc của chính mình hoặc của ai khác). Như vậy, theo một cách hết sức vi tế, chúng ta có nguy cơ một lần nữa rơi vào cái bẫy vận động trong đó chúng ta xử lí cái đó bắt nguồn trong tư duy của chính chúng ta như thể nó là một thực tại có nguồn gốc độc lập với tư duy này. Chúng ta có thể tránh xa cái bẫy này bằng cách nhận rõ rằng tính thực của tri thức là một quá trình sống động diễn ra ngay lúc nay (tức là trong căn phòng này). Trong một quá trình thực như thế, chúng ta không chỉ nói về vận động của tri thức, như thể xem xét nó từ bên ngoài. Chúng ta còn đang thật sự tham gia vào vận động này, và có ý thức rằng đó chính thật là những gì đang diễn ra. Tức là, nó là một thực tại chân chính đối với tất cả chúng ta, một thực tại mà chúng ta có thể quan sát, có thể chú tâm đến nó. Vấn đề mấu chốt là: “Liệu chúng ta có thể nhận ra cái thực tại đang trôi chảy và thường xuyên thay đổi của quá trình thực của tri thức hay không?” Nếu có khả năng suy nghĩ từ sự nhận biết như thế, chúng ta sẽ không bị dẫn tới chỗ lẫn lộn những gì bắt nguồn trong tư duy với những gì bắt nguồn trong thực tại độc lập với tư duy. Và như vậy, nghệ thuật suy tư với cái toàn thể là nội dung có thể phát triển theo cách khả dĩ thoát khỏi sự lộn xộn vốn có trong những hình thức tư duy cứ chăm chăm cố xác định dứt khoát “cái toàn thể của thực tại” là gì, và do đó dẫn chúng ta đến chỗ lầm lẫn nội dung của tư duy như thế với trật tự toàn diện của một thực tại toàn thể là cái vốn độc lập với tư duy. https://thuviensach.vn 4 NHỮNG BIẾN ẨN TRONG CƠ HỌC LƯỢNG TỬ Câu hỏi liệu có những biến ẩn nằm bên dưới lý thuyết lượng tử hay không được coi là đã được giải quyết rốt ráo bằng câu trả lời phủ định từ rất lâu rồi. Kết quả là, da số các nhà vật lí hiện đại không còn coi câu hỏi này là thích đáng với lí thuyết vật lí nữa. Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, một số nhà vật lí, trong đó có tác giả sách này, đã đưa ra một cách tiếp cận mới đối với vấn đề này, một lần nữa nêu lại câu hỏi về các biến ẩn*. Mục đích của tôi ở đây là điểm lại một cách ngắn gọn các nét chính của những gì thực hiện được cho đến lúc này theo cách tiếp cận mới ấy, và từ đó chỉ ra một số đường lối chung theo đó các lí thuyết bàn đến các biến ẩn ngày nay đang phát triển. Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày một số lí do tại sao những lí thuyết bàn đến các biến ẩn hứa hẹn là có ý nghĩa đối với việc xử lí những vấn đề mới của vật lí học, đặc biệt là những vấn đề nảy sinh trong lĩnh vực các khoảng cách cực ngắn (thuộc cỡ 10-13 cm hay nhỏ hơn) và các năng lượng cao (thuộc cỡ 109 ev hay lớn hơn). Đặc biệt, chúng ta sẽ đáp lại những ý tưởng chủ yếu từng được nêu ra nhằm chống lại khái niệm biến ẩn, tức là những khó khăn liên quan đến các quan hệ bất định của Heisenberg, sự lượng tử hóa hành động, nghịch lí của Einstein, Rosen và Podolsky, và lí lẽ của Von Neumann bác bỏ khả năng có những biến ẩn như thế. 1. NHỮNG NÉT CHÍNH CỦA LÍ THUYẾT LƯỢNG TỬ Để hiểu cách phát triển của lí thuyết về các biến ẩn, đầu trên cần hiểu rõ những nét chính của lí thuyết lượng tử. Mặc dù có rất nhiều cách phát biểu khác nhau về lí thuyết này (theo Heisenberg, Schrödinger, Dirac, Von Nemnann và Bohr), chúng khác nhau đôi chút về cách hiểu* nhưng tất cả đều có những giả định chung sau đây: 1. Các quy luật cơ bản của lí thuyết lượng tử phải được biểu đạt với sự giúp đỡ của một hàm sóng (nói chung, nhiều thứ nguyên) thỏa mãn một phương trình tuyến tính (sao cho các lời giải có thể được chồng lên nhau theo tuyến tinh). https://thuviensach.vn 2. Tất cả các kết quả vật lí cần được tính toán nhờ sự giúp đỡ của những “quan sát” (observable) - nhất định, được biểu hiện bằng các toán tử Hermit, tác động một cách tuyến tính lên các hàm sóng. 3. Bất kì một quan sát đặc biệt nào là xác định (được xác định một cách rõ ràng) chỉ khi hàm sóng là một hàm riêng của toán tử tương ứng. 4. Khi hàm sóng không phải là một hàm riêng của toán tử này, thì kết quả của phép đo của quan sát tương ứng không thể xác định trước. Các kết quả của một loạt phép đo trên một tập hợp hệ thống được biểu thị bởi cùng một hàm sóng sẽ thay đổi một cách ngẫu nhiên (không theo quy luật) từ trường hợp này sang trường hợp khác, theo nhiều khả năng khác nhau. 5. Nếu hàm sóng được cho bởi trong đó ψnlà hàm riêng của toán tử liên quan tương ứng với giá trị riêng thứ n, khả năng đạt được giá trị riêng thứ n trong một tập hợp lớn các phép đo sẽ cho bằng: Pn = |Cn|2. 6. Vì tính không giao hoán của nhiều toán tử (như p và x) ứng với các biến phải được xác định cùng nhau trong cơ học cổ điển, suy ra rằng không thể tồn tại hàm sóng nào mà đồng thời là các hàm riêng của tất cả các toán tử có nghĩa đối với một bài toán vật lí đã cho. Điều đó nói lên rằng không phải tất cả các quan sát có ý nghĩa về mặt vật lí đều có thể được xác định cùng nhau, và còn quan trọng hơn nữa là, những quan sát nào không được xác định sẽ biến đổi không theo quy luật (ngẫu nhiên) trong một loạt phép đo trên một tập hợp được biểu thị bằng cùng hàm sóng đó. 2. NHỮNG GIỚI HẠN ĐỐI VỚI QUYẾT ĐỊNH LUẬN NGẦM CHỈ BỞI THUYẾT LƯỢNG TỬ Từ các đặc điểm miêu tả trong phần trên, ta thấy ngay rằng theo thuyết Lượng tử kết quả của các phép đo riêng lẻ chỉ có thể được xác định đến một giới hạn nhất định. Giới hạn này áp dụng cho bất cứ phép đo nào phụ thuộc một cách đáng kể vào thuộc tính lượng tử của vật chất. Như vậy, trong một tập hợp các hạt nhân phóng xạ, sự phân rã của mỗi hạt nhan có thể được khám phá một cách riêng lẻ bằng cách bấm máy đếm Geiger. Một nghiên cứu chi tiết hơn về cơ học lượng tử của vấn đề này cho thấy rằng toán tử tương ứng với phép đo của một sản phẩm phân rã không hoán đổi được với toán tử mà hàm riêng của nó biểu thị sự không phân rã. Như vậy suy ra, nếu chúng ta bắt đầu với một tập hợp hạt nhân không phân rã, được biểu thị bởi cùng một https://thuviensach.vn hàm sóng, thì mỗi hạt nhân riêng lẻ sẽ phân rã tại một thời điểm không thể đoán trước. Thời điểm này khác nhau giữa hạt nhân này với hạt nhân khác không theo một quy luật nào cả, trong khi chỉ có một phần nhỏ phân rã theo một gián cách thời gian đã cho là có thể đoán trước một cách gần đúng từ hàm sóng. Khi những dự đoán như ; vậy được đem so với thí nghiệm, người ta phát hiện rằng hóa ra có một sự phân phối ngẫu nhiên các cú bấm máy đếm Geiger, cùng với một sự phân phối tương đối đều tuân theo những quy luật xác suất mà thuyết Lượng tử hàm ý. 3. VỀ CÁCH HIỂU THUYẾT BẤT ĐỊNH TRONG LÍ THUYẾT LƯỢNG TỬ Từ sự kiện là lí thuyết lượng tử nhất trí với thí nghiệm trong một phạm vi rộng lớn đến thế (bao gồm cả vấn đề được xử lí trong phần trước như một trường hợp đặc biệt nhưng điển hình), ta thấy rõ ràng các đặc tính bất định của lí thuyết lượng tử theo cách nào đó là phản ánh hành vi thực của vật chất trong các lĩnh vực nguyên tử và hạt nhân, nhưng ở đây vấn đề được đặt ra chỉ là hiểu tính bất định này như thế nào. Để làm rõ ý nghĩa câu hỏi này, chúng ta hãy xét một vài vấn đề tương tự. Mọi người đều biết rằng các công ty bảo hiểm hoạt động trên cơ sở những quy luật thống kê nhất định, những quy luật này dự đoán - đến mức độ gần đúng rất cao - con số trung bình những người ở một độ tuổi, chiều cao, cân nặng... nào đấy sẽ chết vì một căn bệnh nào đó trong một khoảng thời gian đã cho. Họ có thể làm điều đó mặc dù không thể dự báo thời gian chết chính xác của một cá nhân có hợp đồng bảo hiểm, thậm chí mặc dù những cái chết cá nhân như vậy rải rác một cách ngẫu nhiên không có quan hệ theo quy luật nào đối với loại số liệu mà công ty bảo hiểm đó có thể thu thập. Tuy nhiên, sự kiện các quy luật thống kê loại này đang thực sự vận hành không hề ngăn ngừa những tác động đồng thời của các luật riêng lẻ vốn xác định chi tiết hơn những điều kiện chính xác cho cái chết của các cá nhân có hợp đồng bảo hiểm (ví dụ, một người có thể băng qua đường vào một thời điểm nhất định và bị xe cán, ông có thể bị nhiễm những bệnh do vi rút gây ra trong khi đang ở trong trạng thái rất ốm yếu, v.v.) vì khi cùng một kết quả (chết) có thể được tạo ra bởi một số lớn những nguyên nhân độc lập với nhau về bản chất, thì chẳng có lí do gì những nguyên nhân này lại không được phân bố theo đúng cách thức dẫn đến các quy luật thống kê trong một tập hợp lớn. Tầm quan trọng của sự xem xét như thế hoàn toàn rõ ràng. Chẳng hạn, trong lĩnh vực nghiên cứu y học, tác động của các quy luật thống kê không bao giờ được coi là lí do để chống lại việc nghiên cứu chi tiết hơn các quy luật cá biệt (ví dụ, điều gì khiến cho một cá nhân chết vào một thời điểm nào đó, v. v.). Tương tự, trong lĩnh vực vật lí, khi phát hiện ra các hạt phấn hoa và các hạt khói chịu một https://thuviensach.vn vận động ngẫu nhiên tuân theo một quy luật thống kê nào đó (chuyển động Brown), người ta giả định rằng nó là do tác động từ vô số phân tử, tuân theo những quy luật cá biệt sâu xa hơn. Như vậy, những quy luật thống kê được coi là phù hợp với khả năng có các quy luật riêng lẻ sâu xa hơn, bởi vì, như trong trường hợp các thống kê bảo hiểm, hanh vi toàn diện của một hạt Brown riêng lẻ có thể được xác định bởi vô vàn nhân tố độc lập về bản chất. Hay diễn đạt tổng quát hơn: tính không theo quy luật của hành vi cá thể trong bối cảnh một quy luật thống kê nhất định, nói một cách khái quát, là phù hợp với khái niệm về các quy luật cá thể chi tiết hơn áp dụng vào một bối cảnh rộng lớn hơn. Xét thảo luận trên đây, có vẻ rõ ràng là, ít nhất trên bề mặt của vấn đề, chúng ta có thể tự do xem xét cái giả thuyết rằng kết quả của các phép đo cơ học lượng tử riêng lẻ được xác định bởi vô số loại nhân tố mới nằm ngoài bối cảnh của những gì có thể đưa vào thuyết Lượng tử. Những nhân tố này phải được biểu thị về mặt toán học bằng một tập hợp các biến số mới nữa, các biến số này mô tả những trạng thái của các loại thực thể mới tồn tại ở một bình diện sâu hơn, bên dưới cơ học lượng tử, và về lượng là tuân theo những loại quy luật cá thể mới. Những thực thể như vậy và các quy luật của chúng là một phương diện mới của tự nhiên, một phương diện mà hiện nay còn đang “ẩn giấu”. Như vậy thì các nguyên tử, vốn trước hết được mặc nhiên thừa nhận để giải thích chuyển động Brown và các quy luật vĩ mô, ban đầu cũng “ẩn giấu” theo cách tương tự, và chỉ sau này mới được bộc lộ chi tiết nhờ những loại thí nghiệm mới (chẳng hạn máy đếm Geiger, buồng hơi nước, v.v.) vốn nhạy cảm với các thuộc tính của từng nguyên tử riêng rẽ. Tương tự, người ta có thể giả định rằng các biến số miêu tả các thực thể dưới cơ học lượng tử sẽ được bộc lộ chi tiết khi chúng ta đã tìm ra thêm những loại thí nghiệm khác nữa; những loại thí nghiệm ấy khác với những kiểu hiện tại cũng như những kiểu hiện tại này khác với những thi nghiệm từng phát hiện ra các quy luật ở cấp độ vĩ mô (chẳng hạn các phép đo nhiệt độ, áp suất, v.v.). Ở điểm này cần tuyên bố rằng - như mọi người đều biết - đa số các nhà vật lí lí thuyết hiện đại đã đi đến chỗ bác bỏ bất kì đề xuất nào thuộc dạng được miêu tả trên đây. Họ làm thế chủ yếu trên cơ sở kết luận rằng các quy luật thống kê của thuyết Lượng tử không tương thích với khả năng có những quy luật cá thể sâu xa hơn. Nói cách khác, tuy nói chung họ có thể chấp nhận rằng một số loại quy luật thống kê quả thực phù hợp với giả định là có tồn tại những quy luật cá thể khác tác động trong bối cảnh rộng lớn hơn, song họ tin rằng cơ học lượng tử không bao giờ có thể được xem một cách thỏa đáng như một quy luật thuộc loại này. Như vậy, các đặc điểm thống kê của thuyết Lượng tử được coi như biểu thị một loại hiện tượng cá thể không theo quy luật và không thể quy giảm ở cấp độ lượng tử. Tất cả quy luật cá thể (chẳng hạn cơ học cổ điển) https://thuviensach.vn như vậy được coi như những trường hợp giới hạn của các quy luật xác suất của thuyết Lượng tử, có hiệu lực gần đúng đối với các hệ liên quan đến những số lượng lớn phần tử. 4. CÁC LÍ LẼ ỦNG HỘ CÁCH HIỂU THUYẾT BẤT ĐỊNH TRONG CƠ HỌC LƯỢNG TỬ NHƯ TÍNH KHÔNG THỂ QUY GIẢM VÀ KHÔNG QUY LUẬT Bây giờ chúng ta sẽ xem xét những lí lẽ chủ yếu dựa vào đó người ta đưa ra kết luận rằng thuyết bất định của cơ học lượng tử biểu hiện một tính phi quy luật không thể quy giảm. 4.1 Nguyên lí bất định của Heisenberg Chúng ta bắt đầu bằng cách thảo luận về nguyên lí bất định của Heisenberg. Như ông chỉ ra, ngay cả nếu người ta giả định rằng những biến số có ý nghĩa vật lí thực sự tồn tại với những giá trị được xác định rõ ràng đi nữa (như cơ học cổ điển đòi hỏi) thì chúng ta cũng không bao giờ có thể đo được tất cả chúng cùng một lúc, vi tương tác giữa thiết bị đo lường và đối tượng được đo luôn luôn kéo theo một sự thay đổi của một hay nhiều lượng tử dao động bất thường không thể phân chia và không thể kiểm soát được. Chẳng hạn, nếu người ta định đo một tọa độ X, và một động lượng liên đới, p, của một hạt, thì hạt đó bị nhiễu theo cách khiến cho độ chính xác tối đa để xác định đồng thời cả hai [thông số đó] được cho bởi quan hệ ∆p∆x ≥ h. Kết quả là, ngay cả nếu có những quy luật hạ lượng tử sâu xa hơn quyết định hành vi chính xác của một electron riêng lẻ, thì cũng không có cách nào, bằng bất cứ phép đo lường nào có thể tưởng tượng ra để chúng ta kiểm chứng được rằng những quy luật này thật sự tác động. Do đó có thể kết luận rằng khái niệm về mức hạ lượng tử có thể là siêu hình (metaphysic), hay là có nội dung thực nghiệm trống rỗng. Heisenberg lập luận rằng tốt nhất nên phát biểu các quy luật vật lí bằng một lượng càng ít càng tốt các khái niệm như thế, vì chúng không thêm được gì vào những dự đoán vật lí của lí thuyết, trong khi lại làm cho việc trình bày phức tạp thêm một cách không thỏa đáng. 4.2 Các lí lẽ của Von Neumann chống lại biến ẩn Lí lẽ tiếp theo chống lại các biến số ẩn là của Von Neumann, bây giờ sẽ được trình bày dưới dạng đơn giản hơn. Từ các định đề (4), (5), (6) của phần 1 suy ra không có hàm sóng nào có thể miêu tả một trạng thái trong đó tất cả các lượng có ý nghĩa vật lí là “không phân tán” (tức là được xác định rõ ràng và không chuyển động tán loạn). Như vậy, nếu một biến đã cho (chẳng hạn p), được xác định khá rõ, thì biến liên hợp (x) phải dao động trên một diện rộng. Chúng ta hãy giả định rằng, khi hệ thống ở trong một trạng thái như thế, thì có những biến ẩn ở tầng sâu hơn, chúng xác định x sẽ dao động như thế nào trong từng trường hợp. Tất nhiên chúng ta không cần phải xác định giá trị của các biến ẩn này, và trong một tập hợp thống kê của các phép do x, chúng ta vẫn nhận https://thuviensach.vn được cùng những dao động như thuyết Lượng tử đã dự đoán. Tuy nhiên, mỗi trường hợp sắp cho ta một giá trị nhất định của x sẽ thuộc vào một bộ giá trị nhất định của các biến ẩn, kết quả là tập hợp đó có thể coi như được cấu thành từ bộ tương ứng các tập-hợp-con riêng biệt, được xác định rõ ràng. Tuy nhiên, Von Neumann lập luận rằng một bộ các tập-hợp-con riêng biệt, được xác định rõ ràng như vậy là không phù hợp với một số đặc trưng cơ bản khác của thuyết Lượng tử, tức là, những đặc trưng liên hệ với sự giao thoa giữa các phần của hàm sóng ứng với các giá trị khác nhau của x. Để biểu thị giao thoa này, chúng ta sẽ không đo x, thay vì thế chúng ta sẽ thực hiện một phép đo thứ ba, xác định một đối tượng quan sát nhạy với dạng của hàm sóng trên một vùng không gian rộng lớn. Chẳng hạn, chúng ta có thể chuyển các hạt qua một tấm lưới và đo hình mẫu nhiễu xạ (Thật ra Von Neumann* bàn về trường hợp của một quan sát ứng với một tổng của hai hoặc trên hai toán tử không giao hoán, nhưng rõ ràng là trong một thí nghiệm giao thoa chúng ta chỉ thực hiện về mặt vật lí một ví dụ về một quan sát như thế, vì kết quả cuối cùng xác định một số tổ hợp phức tạp các toán tử vị trí và toán tử động lượng cho hệ thống được quan sát). Mọi người đều biết rằng trong một thí nghiệm như thế vẫn đạt được một hình mẫu giao thoa có tính thống kê, ngay cả nếu chúng ta chuyển các hạt qua một thiết bị trong những khoảng thời gian cách nhau xa đến mức thực ra là mỗi hạt đi vào một cách tách biệt và độc lập với tất cả các hạt khác. Nhưng nếu toàn bộ tập hợp các hạt như thế được tách ra thành những tập hợp con, mỗi tập hợp con ứng với electron đập vào tấm lưới tại một giá trị xác định của x, thì hanh vi có tính quy luật thống kê của mọi tập hợp con có thể được biểu thị bởi một trạng thái tương ứng với một hàm delta của điểm đang xét. Kết quả là, một tập hợp con duy nhất có thể không có giao thoa nào gồm các phần khác nhau của tấm lưới góp vào thành. Bởi vì các electron đi vào một cách tách biệt và độc lập nên cũng không thể có giao thoa giữa các tập hợp con ứng với các vị trí khác nhau. Bằng cách đó chúng ta chỉ ra rằng khái niệm biến ẩn không tương thích với thuộc tính giao thoa của vật chất, vừa được quan sát bằng thực nghiệm vừa là các hệ quả tất yếu của thuyết Lượng tử. Von Neumann tổng quát hóa lí lẽ trên, và làm cho nó chính xác hơn, nhưng về thực chất ông vẫn đi đến cùng một kết quả. Nói cách khác, ông kết luận rằng không có gì (ngay cả các biến ẩn có tính giả thuyết) có thể được giả định một cách nhất quan hầu xác định trước các kết quả của một phép đo đơn lẻ chi tiết hơn so với thuyết Lượng tử có thể làm được. 4.3 Nghịch lí Einstein-Rosen-Podolsky Lí lẽ quan trọng thứ ba chống lại các biến ẩn gắn liền với sự phân tích nghịch lí Einstein- https://thuviensach.vn