🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cách Học Ngoại Ngữ Nhanh Và Không Bao Giờ Quên Ebooks Nhóm Zalo CÁCH HỌC NGOẠI NGỮ NHANH VÀ KHÔNG BAO GIỜ QUÊN Tác giả: Gabriel Wyner Thể loại: Kỹ năng, Kỹ năng làm việc Nhà xuất bản: NXB Khoa Học Xã Hội Ebook: Cuibap Nguồn text: Waka Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Đôi lời tự bạch Xin chào, tôi là Gabriel Wyner. Tác giả của cuốn sách này và là người sáng lập trang web: https://fluent forever.com. Hơn 1,5 triệu người đã tìm đọc các tài liệu của tôi với mong muốn thành thạo ngoại ngữ và ghi nhớ mãi mãi. Bạn có thể đang tìm kiếm phương pháp học ngoại ngữ đầu tiên, hoặc cách thức hiệu quả hơn để học ngoại ngữ thứ ba hay thứ tư. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ cung cấp một bộ công cụ giúp bạn thực hiện bất cứ mục tiêu nào trong những mục tiêu này. CÂU CHUYỆN CỦA TÔI VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN PHƯƠNG PHÁP HỌC NGOẠI NGỮ Như hầu hết mọi người, tôi đã học một ngoại ngữ ở trường phổ thông và rời khỏi trường với dăm ba kiến thức vụn vặt. Tôi băn khoăn tự hỏi: Mình đã học tập chăm chỉ với những thầy cô giỏi, vậy mình sai ở đâu? Và tôi có thể làm gì để đạt kết quảtốt hơn? Tôi là một ca sĩ opera, và bắt buộc phải hát được bằng tiếng Anh, Ý, Pháp, Đức, Nga (đôi khi là tiếng Séc, Tây Ban Nha, Hebrew, Latinh). Sau thất bại thời trung học, tôi đã tiến bộ trông thấy tại một trường đại học hẻo lánh vùng Vermont. Ở đó, vào mùa hè năm 2004, tôi đã ký giấy cam kết sử dụng tiếng Đức toàn phần trong bảy tuần. Vấn đề là tôi còn chưa biết một chữ bẻ đôi. Một vài người ở trình độ cao hơn đến gần tôi vàlàm quen: “Hallo!” Tôi nhìn họ chằm chằm một lúc, rồi đáp: “Hallo!” và thân ái siết tay. Đó là khởi đầu cho quá trình nghiện học ngoại ngữ tám năm của tôi (và còn tiếp diễn). Sau tiếng “Hallo” đó, tôi bắt tay vào thử thách thành thạo các ngoại ngữ. Tôi quay trở lại Vermont vào năm 2005 và đăng ký học tiếng Đức ở mức độ thành thạo. Tôi chuyển đến Áo học tiếp thạc sĩ và đã đến Perugia, Ý vào năm 2008 học tiếng Ý. Tôi bắt đầu đọc sách, blog... để xác định phương pháp học ngoại ngữ nhanh hơn, và bất ngờ nhận ra: có vô số phương pháp học ngoại ngữ hiệu quảtrên mạng, nhưng có vẻ chưaai tập hợp, hệ thống lại với nhau. Trình độ các ngoại ngữ của tôi: tiếng Đức (C1), tiếng Pháp (C1), tiếng Nga (C1/B2), tiếng Ý (B2), tiếng Hungary (B2), tiếng Nhật (B1). Mục tiêu hiện tại: Đạt được trình độ C1 tiếng Nhật. Trích lời giới thiệu của tác giả trên trang cá nhân, https://fluent-forever.com Chương 1 Lời giới thiệu: đâm, đâm, đâm. Nói với một người bằng ngôn ngữ người ấy hiểu, lời nói sẽ đi vào đầu anh ta. Nói với một người bằng ngôn ngữ của người đó, lời nói ấy sẽ chạm đến trái tim. — Nelson Mandela — Người Mỹ lần đầu đi du lịch nước ngoài thường bị sốc khi nhận ra rằng, bất chấp mọi tiến bộ đã đạt được trong 30 năm qua, nhiều nước vẫn từ chối tiếng Anh mà dùng tiếng mẹ đẻ. — Dave Barry — Học ngoại ngữ cũng là một môn thể thao. Một gã tham gia đội đấu kiếm ở trường chỉ để trốn lớp thể dục như tôi mà bàn về thể thao, vẻ cũng nực cười. Nhưng nói gì đi nữa, việc tấn công đối phương bằng vũ khí đầu nhọn và học ngoại ngữ có khá nhiều điểm tương đồng. Mục tiêu của bạn trong môn đấu kiếm là tự động “đâm” trúng đối thủ. Bạn bỏ công ghi nhớ tên vũ khí cùng cách chơi, luyện tập thuần thục từ dáng đứng, thế phòng thủ, thế phản công, thế bổ nhào. Cuối cùng, bạn vào cuộc, chờ đến thời khắc thăng hoa quên đi hết thảy: Bạn vung kiếm lên, gạt phăng đường kiếm đến, và đâm thẳng vào ngực đối phương. Ghi điểm! Bạn muốn lại gần người lạ, quên hết mọi quy tắc ngữ pháp và bất giác bật lời. Chuyện có vẻ xa vời bởi ngôn ngữ không hề đơn giản. Nhưng thật ra, chỗ “khó” không nằm ở bản thân ngôn ngữ bởi bất kể tay ngốc nghếch nào cũng có thể thành thạo thứ tiếng cha sinh mẹ đẻ từ khi còn nhỏ. “Khó” ở chỗ là chọn được cách học phù hợp giữa đời sống tất bật thường ngày. Là một ca sĩ opera, tôi cần phải học tiếng Đức, Ý, Pháp và Nga. Cuốn sách này được đúc kết từ những năm tháng học ngoại ngữ ấy. Phương pháp học của tôi là kết quả của nỗi ám ảnh liên tục cải tiến, tìm tòi, rồi cải tiến. Dần dà, bộ đồ nghề học ngoại ngữ của tôi đã trở thành cỗ máy trơn tru, biến khung giờ cố định mỗi ngày thành hiệu quả học tập rõ rệt và liên tục. Tôi hy vọng những điều mình chiasẻ sẽ đưa bạn đến với thế giới kỳ lạcủa việc học ngoại ngữ. Bạn sẽ hiểu rõ hơn cách não bộ làm việc. Và bạn sẽ học được cách nói một ngôn ngữ khác. ĐIỂM BẮT ĐẦU Tôi nhớ mãi một khoảnh khắc ở Viên vào năm 2012. Khi ấy, tôi đang trở về nhà sau buổi diễn thì một đồng nghiệp người Nga bước tới. Trước giờ, chúng tôi vẫn chào hỏi xã giao nhau tiếng bằng tiếng Đức. Và rồi tôi bất ngờ thông báo bằng một câu tiếng Nga: “Cậu biết không, tớ nói được tiếng Ngarồi đấy.” Bạn tôi ngây người, miệng há hốc. Cô ấy lắp bắp: “Cái gì? Khi nào? Làm thế nào vậy?” rồi chúng tôi say sưa nói chuyện bằng tiếng Nga, về việc học ngoại ngữ, cuộc sống và những thứ giao thoa giữachúng. Thời đầu học ngoại ngữ của tôi thì chẳng có gì đáng nói. Tôi từng học bảy năm ở một trường Do Thái. Chúng tôi hát hò, học bảng chữ cái Hebrew, thắp rất nhiều nến, uống rất nhiều nước quả và không vào đầu được là bao. À, trừ bảng chữ cái, riêng bảng chữ cái đó thì tôi thuộc nằm lòng. Hồi cấp ba, tôi rất mết cô giáo Nowakowsky dạy tiếng Nga. Cô thông minh, xinh đẹp, có một cái tên rất Nga, và tôi thì làm theo mọi thứ cô yêu cầu. Năm năm sau, tôi học được một vài cụm từ, nhớ được vài bài thơ và dùng thạo bảng chữ cái. Giờ nhìn lại, tôi thấy có gì không ổn. Tại sao tôi chỉ nhớ được bảng chữ cái? Tại sao những thứ khác lại quá khó thế? Tháng Sáu năm 2004, khi khóa đào tạo toàn phần bằng tiếng Đức cho các ca sĩ opera tại Vermont khai giảng, tôi mới là một kỹ sư đam mê ca hát. Đam mê đó đòi hỏi tôi phải biết tiếng Đức, Pháp và Ý cơ bản. Giờ chỉ còn cách nhảy xuống bể để học bơi. Tôi phải ký cam kết chỉ dùng tiếng Đức trong bảy tuần tiếp theo, nếu vi phạm sẽ bị đuổi học và không hoàn lại học phí. Đó có vẻ là quyết định thiếu khôn ngoan, bởi bấy giờ tôi còn không biết một chữ tiếng Đức bẻ đôi. Tôi vẫn liều lĩnh ký. Vài học sinh trình độ cao hơn tiến lại làm quen: “Hallo!” Tôi nhìn họ giây lát rồi đáp lại: “Hallo!” Vàchúng tôi bắt tay nhau. Năm tuần sau đó, tôi tự tin hát tiếng Đức trong lớp diễn xuất. Tôi tìm một góc kín đáo trong sân trường, bí mật gọi điện cho bạn gái và thì thầm bằng tiếng Anh: “Anh sắp trở thành ca sĩ opera rồi.” Vào ngày hôm đó, tôi quyết định sẽ phải thành thạo tất cả ngôn ngữ mà sự nghiệp mới yêu cầu. Tôi quay trở lại Đại học Middlebury ở Vermont và học thành thạo tiếng Đức. Rồi tôi chuyển đến Áo để học lấy bằng thạc sĩ. Trong thời gian ở châu Âu vào năm 2008, tôi ghé tới vùng Perugia(Ý) để học tiếng Ý. Hai năm sau, tôi đãcó một vụ... gian lận. KẺ GIAN LẬN ĐÔI KHI LẠI THÀNH CÔNG: BA CHÌA KHÓA QUAN TRỌNG ĐỂ HỌC NGOẠI NGỮ Cuốn sách này sẽ chẳng ra đời nếu tôi không gian lận trong một bài kiểm tra tiếng Pháp. Dẫu chẳng đáng tự hào gì, nhưng sự thật là thế. Chuyện là trường ngoại ngữ Middlebury đào tạo năm trình độ: sơ cấp, sơ cấp “giả” – cho người từng học nhưng đã quên gần hết, trung cấp, cao cấp và thành thạo. Bấy giờ, tôi đang ở trình độ sơ cấp, nhưng vì từng học một thứ tiếng gốc Rôman, nên tôi muốn học lớp sơ cấp “giả”. Do vậy, lúc làm bài kiểm tra đầu vào trực tuyến, tôi đãsử dụng Google Dịch và một số trang web về ngữ pháp. Một tháng sau, tôi nhận được kết quả vượt quá mong muốn. “Chào mừng đến với khóa học! Bạn đã được xếp vào lớp trình độ trung cấp!” Thôi xong! Giờ tôi có ba tháng để học một lượng tiếng Pháp tương đương với một năm, nếu không muốn trông như thằng ngốc ở bài phỏng vấn đầu vào. Trong bài thi này, không có chỗ cho những trò ma mãnh. Bạn ngồi trong phòng với một người Pháp, thao thao bất tuyệt suốt 15 phút về cuộc sống, và nhận kết quả xếp lớp cuối cùng. Hoặc bạn nói được tiếng Pháp, hoặc khua khoắng tay chân với bộ dạng mỉa mai củaanh hề câm hạng hai trên đất Paris. Vì đang học thạc sĩ ngành opera và ca khúc nghệ thuật, nên tôi chỉ rảnh một giờ mỗi ngày trên tàu điện ngầm và toàn bộ các Chủ nhật. Tôi xới tung Internet để tìm cách học ngoại ngữ nhanh nhất. Tôi bất ngờ nhận ra: Có vô số công cụ hiệu quả học ngoại ngữ, nhưng không có chương trình nào kết hợp chúng với nhau.Tôi thu thập được bachìa khóa quan trọng: 1. Học phátâm trước 2. Không dịch 3. Dùng hệ thống nhắc lại cách quãng Chìa khóa đầu tiên, học phát âm trước (phương pháp phổ biến của quân đội và giáo sĩ Mormon), được đúc kết từ những năm tháng học nhạc. Ca sĩ thường phải học phát âm trước, bởi họ cần hát trước khi hiểu lời bài hát. Đôi tai của chúng tôi quen dần với âm thanh, từ đó việc tích lũy từ vựng, nghe hiểu và nói bằng ngoại ngữ diễn ra nhanh hơn. Và tự nhiên, chúng tôi có được ngữ điệu cực chuẩn. Chìa khóa thứ hai, không dịch, được rút ra từ thời tôi học ở trường ngoại ngữ Middlebury. Người mới bắt đầu học có thể bỏ qua công đoạn dịch. Đây là bước quan trọng để tiến tới tư duy bằng ngoại ngữ, giúp cho việc học trở nên khả thi. Đây chính là sai lầm chết người của tôi khi học tiếng Hebrew và tiếng Nga: luyện kỹ năng dịch thay vì kỹ năng nói. Bằng cách tạm thời không sử dụng tiếng mẹ đẻ, tôi có thể luyện nói thành thạo thay vì giải mãtừng từ một. Chìa khóa thứ ba, sử dụng hệ thống nhắc lại cách quãng (Spaced Repetition Systems − SRSs), đến từ các blog học ngoại ngữ và các nhà phát triển phần mềm. Hệ thống nhắc lại cách quãng làthẻ “tăng cường”. Căn cứ vào những gì bạn nhập vào, hệ thống sẽ xây dựng kế hoạch học tập cá nhân cho bạn, “đẩy” thông tin vào sâu trong trí nhớ dài hạn của bạn. Mặc dù là công cụ tối đa hóa trí nhớ nhưng chúng vẫn ít được biết đến. Trên Internet, số người áp dụng hệ thống nhắc lại cách quãng ngày càng tăng, nhưng chỉ dùng để ghi nhớ phần dịch nghĩa. Ngược lại, những nơi ủng hộ “không dịch” như Middlebury hay Berlitz lại áp dụng phương pháp học tập khá lỗi thời, không tận dụng được các công cụ số hóa như hệ thống nhắc lại cách quãng. Trong khi đó, gần như chỉ có ca sĩ nhạc thính phòng và giáo sĩ Mormon chú trọng học phátâm. Tôi quyết định kết hợp tất cả các công cụ này. Tôi dùng phần mềm hỗ trợ ghi nhớ trên điện thoại thông minh để “nạp” tiếng Pháp vào đầu, và đảm bảo không có từ tiếng Anh nào trên thẻ học. Tôi bắt đầu làm thẻ quy tắc phát âm, chèn cơ số tranh ảnh minh họa cho danh từ và một số động từ, xây dựng dần định nghĩa đơn giản bằng tiếng Pháp cho những từ trừu tượng. Đến tháng Sáu, tranh thủ một giờ mỗi ngày trên tàu điện ngầm, tôi đã học được 3.000 từ và chủ điểm ngữ pháp. Tới Middlebury, tôi ngồi đợi trong một căn phòng, chờ đến lượt. Vòng phỏng vấn đầu vào lần này nhằm kiểm tra xem tôi có giở trò ma mãnh gì ở bài thi trực tuyến không. Đó làlần đầu tiên trong đời tôi trò chuyện bằng tiếng Pháp. Người giáo viên ngồi xuống trước mặt tôi và mở lời: “Bonjour!” Tôi đáp lại bằng từ tiếng Pháp đầu tiên nảy lên trong đầu mình: “Bonjour!” Mọi thứ vẫn suôn sẻ! Khi câu chuyện rộng dần ra, tôi ngạc nhiên khi thấy mình biết tất cả từ cần thiết để đáp lời. Tôi đang suy nghĩ bằng tiếng Pháp! Dòng suy nghĩ đó rất chậm chạp và khó nhọc, nhưng nó là tiếng Pháp. Tôi bị sốc. Trường Middlebury xếp tôi vào lớp trình độ cao. Trong bảy tuần ở đó, tôi đã đọc 10 cuốn sách, viết một lượng bài luận xấp xỉ gần 70 trang, và lượng từ vựng của tôi tăng lên mức 4.500 từ. Đến tháng Tám, tôi đã thành thạo tiếng Pháp. CHIẾN LƯỢC CHO CUỘC CHƠI Thế nào là thành thạo ngoại ngữ? Mỗi người hẳn sẽ có một đáp án riêng. Thuật ngữ này không có định nghĩa chính xác tuyệt đối, và sẽ bớt chính xác hơn mỗi lần ai đó viết thêm một cuốn sách, một bài báo, hay một e-mail rác với tiêu đề như “U Can B FLUENT in 7 DAY5!1!” về nó. Tuy vậy, trong đầu chúng ta hẳn luôn có một hình dung về điều này kiểu như: Một chiều hè tại quán cà phê ở Paris, ngỗi tán gẫu bằng tiếng Pháp với cô bồi bàn mà không cần phải lo lắng về chia động từ hay ngữ nghĩa này nọ. Vượt ra khỏi mức độ thành thạo tại quán cà phê đó, chúng ta phải tự xác định xem mình muốn thành thạo cỡ nào. Tôi tự tin rằng mình thành thạo tiếng Đức. Tôi cũng sống ở Áo sáu năm, và có thể bàn luận đủ chuyện trên trời dưới biển, nhưng tôi chắc chắn vẫn sẽ phải vòng vo hồi lâu để diễn tả ý không muốn phải nộp phạt 200 euro cho chiếc xe đi thuê bị bể nắp bình xăng (“nắp bình xăng” trong tiếng Đức hình như là Tankdeckel, và các từ để nói “Tôi cóc cần quan tâm chuyện tôi có phải là người đầu tiên lái chiếc xe này hay không, cái lò xo giữ nắp bình xăng đã hỏng sẵn rồi ông biết chưa?!” bắt đầu với “Das ist mir völlig Wurst…”) Bạn cũng sẽ phải tự xác định xem “thành thạo ngoại ngữ” với bạn có bao gồm bàn chuyện chính trị, bình thơ, làm điệp viên mật hay giảng dạy vật lý lượng tử tại Sorbonne. Chúng ta chật vật đạt từng mức thành thạo, bởi đơn giản có quá nhiều thứ để nhớ. Cuốn sách luật chơi ngôn ngữ quá dày. Chúng ta đến các lớp học thảo luận về nó, luyện tập liên tục từng luật một, nhưng không bao giờ vào cuộc thực sự. Giả thử đến được trang cuối, chúng ta chắc đã quên hết mấy trang đầu. Hơn nữa, chúng ta còn đang bỏ qua cuốn sách còn lại (cuốn sách về từ vựng), chứa hàng ngàn từ khó nhớ tương đương cuốn luật chơi. “Quên” là kẻ thù lớn nhất, và chúng ta cần chiến lược bài bản để đánh bại nó. Có một câu chuyện học ngoại ngữ rất “kinh điển”. Anh chàng nọ chuyển đến Tây Ban Nha, đem lòng yêu một cô nàng bản xứ, nên cả năm trời không quản ngày đêm học tiếng. Chính trải nghiệm “đắm mình” đã hạ gục gọn ghẽ kẻ thù “quên”. Và người hùng si tình của chúng ta thành công bởi anh ta không có thời gian để kịp quên. Ngày nào cũng bơi trong một bể thuần tiếng Tây Ban Nha thì làm sao quên nổi. Tôi đã học tiếng Đức theo cách này, khi có cơ hội nghỉ việc, chuyển đến Vermont, và cắt đứt mọi liên lạc với thế giới nói tiếng Anh trong hai mùa hè trọn vẹn. “Đắm mình” là trải nghiệm rất tuyệt vời. Nhưng nếu bạn có một công việc ổn định, một chú chó cưng, một gia đình, một tài khoản ngân hàng cần được nạp tiền liên tục, thì bạn không thể rũ bỏ hết chỉ để học ngoại ngữ. Chúng ta cần một cách học tối ưu, đưa thông tin đúng vào đầu mình, và ngăn chúng “chảy” ngược ra ngoài. Tôi sẽ chỉ cho bạn cách chống quên, để bạn vào cuộc chơi thực sự. Và tôi sẽ chỉ cho bạn những điều phải nhớ để trở thành tay chơi chuyên nghiệp. Chúng ta cũng sẽ thiết lập lại tai để nghe được những âm mới, và thiết lập lại lưỡi để làm chủ giọng điệu mới. Chúng ta sẽ tìm hiểu cấu tạo từ ngữ, quy tắc ngữ pháp để lắp ghép từ ngữ thành suy nghĩ, đưa suy nghĩ ra đầu lưỡi mà không cần chuyển ngữ. Chúng ta sẽ tận dụng tối đa lượng thời gian có hạn của bạn, tìm hiểu xem nên học từ nào trước, dùng mẹo giúp ghi nhớ những chủ điểm trừu tượng, và phát triển hiệu quả kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Tôi muốn bạn học được cách dùng những công cụ của tôi, nhưng cũng muốn bạn hiểu tại sao chúng lại hiệu quả. Học ngoại ngữ cũng là một trải nghiệm cá nhân. Bạn sẽ thâm nhập vào chính tâm trí của mình, và thay đổi cách mình suy nghĩ. Nếu dự định dành hàng tháng, hàng năm để đạt được mục tiêu, bạn cần phải tin tưởng vào những công cụ này và biến chúng thành của bạn. Tôi muốn chỉ cho bạn con đường tới đích ngắn nhất, để bạn có thể quên hết mọi luật lệ và bắt đầu nhập cuộc. Khi học xong tiếng Đức, tôi đã thầm tiếc nuối: “Giá có thể quay ngược thời gian và mách nước cho mình trong quá khứ, thì có lẽ mình đã học tiếng dễ hơn nhiều.” Tôi cũng nghĩ y như thế sau khi học xong tiếng Ý, Pháp, Nga (vào năm 2012), và tiếng Hungary (dự án của năm 2013). Cuốn sách này như cỗ máy thời gian của tôi. Nếu nheo mắt lại, tôi có thể trông thấy bạn như tôi khi chưa biết ngoại ngữ nào vào chín năm về trước, và tôi đang tạo ra một nghịch lý thời gian nhằm giúp bạn tránh được tất cả những hố bẫy hầm chông đã giúp tôi tạo ra cỗ máy thời gian này. CẦN BAO LÂU ĐỂ THÀNH THẠO MỘT NGOẠI NGỮ? Để ước tính thời gian, chúng ta nên cân nhắc các yếu tố như: mục tiêu thành thạo của bạn, ngôn ngữ bạn đã biết, ngoại ngữ bạn đang học, và thời gian bạn có. Như tôi đã nói, không có khái niệm “ngôn ngữ khó”. Tuy vậy, có những ngôn ngữ sẽ khó với bạn, bởi chúng không cùng hệ ngôn ngữ bạn đã biết. Người nói tiếng Anh khó học tiếng Nhật và ngược lại, người Nhật cũng khó học tiếng Anh bởi có quá ít từ ngữ và chủ điểm ngữ pháp chung giữa hai ngôn ngữ, chưa kể chúng còn có hai dạng bảng chữ cái khác hẳn nhau. Tuy nhiên, người nói tiếng Anh học tiếng Pháp nhàn nhã hơn nhiều. Kho từ vựng tiếng Anh có 28% là tiếng Pháp và 28% là tiếng Latinh. Ngay khi một người nói tiếng Anh học được cách phátâm tiếng Pháp, họ đãcó sẵn khoảng 1.000 từ trong tay. Viện Nghiệp vụ Ngoại giao Hoa Kỳ1 đã công bố bảng xếp hạng ngôn ngữ theo độ khó với người nói tiếng Anh (xem Phụ lục 2). Bảng xếp hạng này khá chuẩn xác. Thời gian học tiếng Nga (cấp độ 2) của tôi gần gấp đôi thời gian học tiếng Pháp (cấp độ 1), và tôi ngờ rằng thời gian học tiếng Nhật (cấp độ 3) sẽ gấp đôi tiếng Nga. Tôi đã đạt trình độ trung cấp, “nghĩ được bằng tiếng Pháp và sử dụng từ điển Pháp-Pháp”, trong vòng ba tháng với một giờ học mỗi ngày (cộng thêm các ngày cuối tuần), và đạt trình độ tương tự với tiếng Nga sau sáu tháng, mỗi ngày 30 tới 45 phút (cộng thêm các ngày cuối tuần). Bảy đến tám tuần sau đó, tôi “đắm mình” trong hai ngôn ngữ này, để đạt đến độ “thoải mái tán chuyện trong quán cà phê, không ngại nói về vấn đề xe cộ”. Tôi cũng đã thấy kết quả tương tự ở học sinh của mình. Nếu không thực sự “đắm mình”, tôi ngờ rằng để đạt đến trình độ cao trong tiếng Pháp tôi sẽ phải mất từ năm tới tám tháng, với 30 tới 45 phút tự học mỗi ngày. Những ngôn ngữ ở cấp độ 2 như tiếng Nga, Hebrew sẽ cần gấp đôi thời gian đó, và ngôn ngữ cấp độ 3 như tiếng Hoa, Ả Rập, Nhật, Hàn có lẽ sẽ cần gấp bốn. 1. Nguyên văn: The US Foreign Service Institute. Ngôn ngữ khó hơn sẽ tốn nhiều thời gian hơn, nhưng không lý gì bạn không học được. Bạn đã sẵn có điều kiện tiên quyết: niềm hứng thú. Như việc tập thể hình chẳng hạn. Để thành công, bạn cần phải thích tập đã, nếu không sớm muộn bạn sẽ bỏ dở. Hầu hết, chúng ta đều không có cơ bụng sáu múi hoặc mặc vừa đồ cỡ M. Tôi đã thử tập bụng sáu múi (tôi đã đầu hàng việc mặc vừa đồ cỡ M từ lâu rồi), nhưng chưa bao giờ thành công vì ít hứng thú. Phải thích tập thể dục mới thành công được. Người nghiện tập thể hình tìm được niềm vui (và cả hoóc- môn endorphin) trong những bài tập nặng mỗi ngày. Số còn lại như chúng ta có thể ép bản thân đến phòng tập, nhưng nếu không hứng thú thì khó lòng duy trì trong khoảng từ 6 tới 24 tháng để thấy được kết quả. Các bài tập thể hình cứ thế giảm dần để tạo cảm giác dễ thở hơn – Cơ thể gọn gàng: 30 phút, Giải pháp: 10 phút, Cơ thể săn chắc: 5 phút, Bài tập thể dục: 3 phút. Bất kể thế nào, cuối buổi tập, chúng ta vẫn sẽ đầm đìa mồ hôi, đau nhức mình mẩy, và việc ép bản thân tập tành trong một thời gian dài lại khó khăn gấp bội. Học ngoại ngữ cũng gặp vấn đề tương tự. Không ai thích luyện ròng rã các bài ngữ pháp và ngồi tụng niệm danh sách từ mới dài dằng dặc. Kể cả khi có gói “Thành thạo ngoại ngữ chỉ với 30 phút mỗi ngày”, bạn cũng sẽ khó lòng duy trì đều đặn nếu không hứng thú. Chúng ta sẽ bỏ qua những thứ chán ngắt, và tìm kiếm những điều thú vị. Các công cụ của tôi rất hiệu quả. Quan trọng hơn là dùng chúng rất vui. Chúng ta đều thích tìm tòi nên mới mê sách, báo, tạp chí và lướt web như: Lifehacker, Facebook, Reddit, v.v.. Mỗi lần chúng ta đọc được một mẩu tin giật gân (ví dụ: “Vào năm 536 trước Công nguyên, một đám mây bụi lớn đã che khuất Mặt trời tại châu Âu và châu Á trong suốt một năm, gây ra nạn đói và chết chóc kinh hoàng từ Scandinavia cho tới Trung Quốc. Nguyên nhân hiện vẫn chưa được làm rõ”), trung tâm hưng phấn trong não chúng ta được kích hoạt, chúng ta nhấp vào đường dẫn tiếp theo. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ tự “gây nghiện” học ngoại ngữ. Chúng ta sẽ học từ vựng và ngữ pháp qua Facebook; tập hợp từ, nghĩa, hình ảnh và các thứ khác lên thẻ học; và ghi nhớ từ mới qua trò chơi điện tử.Không có sự trùng hợp ngẫu nhiên nào cả: Chỉ khi thích thú, chúng ta mới học tốt được, và trong quá trình tìm kiếm những cách học nhanh nhất, tôi tình cờ khám phá ra nhiều điều thú vị. Tôi thích học ngoại ngữ một phần vì có thể chơi điện tử thỏa thích mà không phải “hối hận” về sau (ví dụ: “Sao mình có thể đốt sáu tiếng đồng hồ cắm đầu vào mấy trò vớ vẩn trên Facebook”). Tôi dành 30 đến 60 phút mỗi ngày xem phim Mất tích bằng tiếng Nga trên điện thoại hoặc ti vi. Tôi học được ngoại ngữ từ thú vui đó và thấy mình không hề lãng phí thời gian.Hãy cùng vừachơi vừa học. HÃY LÀM ĐIỀU NÀY NGAY: CON ĐƯỜNG PHÍA TRƯỚC Mách nhỏ: Trong suốt cuốn sách này, tôi sẽ giới thiệu rất nhiều công cụ và nguồn tài liệu. Nếu chưa rõ, bạn có thể tra cứu tại Mục chú giải và các thuật ngữ ở cuối sách, với phần giải thích ngắn gọn. Được rồi, giờ thì bắt đầu nhé! Tôi muốn dạy bạn cách học như thế nào, thay vì học cái gì. Chúng ta không thể nói về toàn bộ từ ngữ, hệ thống ngữ pháp và hệ thống phát âm của mọi ngôn ngữ, vì vậy bạn sẽ cần thêm nguồn tham khảo. Nhắc đến đây, bạn nên bắt đầu bằng việc chọn ngôn ngữ muốn học. Chọn ngoại ngữ bạn muốn học Hãy chọn ngoại ngữ dựa trên cơ hội việc làm, độ khó của ngôn ngữ, nguồn học liệu và số lượng người nói ngôn ngữ đó. Xét cho cùng, quan trọng nhất là chọn ngôn ngữ bạn thích. Một độc giả từng nhờ tôi tư vấn xem nên học tiếng Nga hay tiếng Pháp. Họ hàng của anh ấy đều nói tiếng Nga, và anh ấy rất thích văn hóa Nga, nhưng lại e khó quá. Tiếng Pháp có vẻ làlựachọn an toàn hơn. Đừng bao giờ hài lòng với sự an toàn khi bạn có thể chọn niềm vui thích. Ngôn ngữ mà bạn chọn sẽ trở thành bạn đồng hành bền vững. Nếu thích thú, bạn sẽ hào hứng học nó vàtiếp thu nhanh hơn. Bạn có rất nhiều cơ hội để lựachọn. Sách ngoại ngữ Hãy chọn những cuốn sách phù hợp. Đã có những người dành nhiều tháng (hoặc thậm chí nhiều năm ròng, lạy Chúa) để tập hợp các kiến thức bạn cần, và bạn chỉ cần bỏ ra khoảng 15 đến 25 đô-la Mỹ để mua. Trong Phụ lục 1, tôi có liệt kê những cuốn sách cho 11 ngôn ngữ nhiều người muốn học nhất. Nếu ngôn ngữ bạn chọn không có trong danh sách đó, hãy ghé thăm trang web của tôi, Fluent Forever.com. Mục tiêu của tôi là gợi ý chọn sách để học tốt mọi ngôn ngữ cho mọi người. HÃY MUA NHỮNG THỨ NÀY NGAY LẬP TỨC Một cuốn sách ngữ pháp tốt sẽ tận tình giúp bạn vượt qua mê trận ngữ pháp.1 Nó cũng sẽ cung cấp cho bạn khoảng 1.000 từ vựng, vô vàn ví dụ, bài tập, và đáp án ở cuối sách. Bạn sẽ bỏ qua 90% bài tập trong cuốn sách để tiết kiệm vô khối thời gian khi bắt đầu học ngữ pháp. Nếu cuốn sách có những dạng phiên âm bồi (Bonjour: bông- dua, Tschüss: chu-xờ), bạn nên bỏ nó ngay và kiếm một cuốn sách khác. Cô bồi bàn xinh đẹp của quán cà phê Paris sẽ bơ luôn nếu bạn cất lời: “bông-dua”. Nếu cuốn sách ngữ pháp có kèm luôn đĩa CD thì càng tuyệt vời hơn. 1. Chúng sẽ giải thích từng quy tắc ngữ pháp chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ của bạn. Tôi biết, điều này vi phạm quy tắc “không dùng tiếng mẹ đẻ”, nhưng bạn biết đấy “Quy tắc được sinh ra là để bị phá vỡ”. Có hai dạng sách cần tránh khi học ngữ pháp. Thứ nhất là sách liệt kê trùng trùng quy tắc ngữ pháp cũng như những trường hợp bất quy tắc. Tôi đã từng thích những cuốn sách như vậy – cho đến khi tôi thử học theo. Những cuốn sách vĩ đại này tổng hợp vô số thuật ngữ, trình bày toàn bộ hệ thống ngữ pháp cùng cơ man bảng biểu khổng lồ. Chúng là những tài liệu nghiên cứu và tra cứu tuyệt vời, nhưng khó có thể dùng để học-từng-bước-một. Thứ hai, cẩn thận với phần lớn những cuốn sách dạng giáo trình, đặc biệt là sách không có đáp án ở cuối. Chúng thường được dùng trong lớp học và ít giải thích, bởi những người làm sách tin rằng các giáo viên đủ khả năng giải quyết phần lớn thắc mắc từ học sinh. Bạn nên tìm một cuốn sách cho người tự học. “Từ điển cụm từ” (phrase book) là công cụ tra cứu tuyệt vời, bởi khó có thể tìm thấy trong từ điển thông thường những mẫu câu cần thiết như “Am I under arrest?” (Tôi đang bị bắt à?) hay “Where are you taking me” (Các anh đang đưa tôi đi đâu thế này?). Loạt sách từ điển cụm từ của Lonely Planet rất rẻ và luôn đi kèm với một cuốn từ điển từ vựng nhỏ, tiện dụng. Chúng ta sẽ dùng bộ từ điển nhỏ này khi bắt đầu học từ mới, bởi chúng dễ tra cứu hơn nhiều so với một cuốn từ điển chuẩn dày trăm trang. Chúng ta hãy tạm chấp nhận kiểu phiên âm ngây ngô “bông-dua” trong những cuốn sách này. CÂN NHẮC MUA THÊM CẢ NHỮNG THỨ NÀY Từ điển tần suất sẽ liệt kê khoảng 5.000 từ quan trọng nhất trong ngoại ngữ của bạn, xếp theo mức độ được sử dụng (đứng đầu trong tiếng Anh là từ “the” – trung bình cứ 25 từ lại có một từ “the”). Những cuốn sách tuyệt vời này thường khéo léo chọn lựa những ví dụ và bản dịch phù hợp. Chúng giúp bạn tiết kiệm cả núi thời gian và đồng thời cũng ngốn cả đại dương thời gian cùng công sức của các tác giả. Nên, hãy tung hoa và thưởng tiền cho họ. Có từ điển tần suất trực tuyến, nhưng không hiệu quả bằng sách giấy. Không phải ngôn ngữ nào cũng có từ điển tần suất. Nếu ngoại ngữ của bạn mà có thì thật là may mắn. Hãy mua ngay! Sách hướng dẫn phát âm sẽ giúp bạn nắm được cả hệ thống phát âm với sự giúp đỡ của đĩa CD chứa các bản ghi âm và sơ đồ cho thấy vị trí của răng và lưỡi. Trong nhiều ngôn ngữ, bạn có thể tìm thấy sách hướng dẫn kèm đĩa CD dạy phát âm. Chúng là những nguồn tài liệu tuyệt vời, đáng đồng tiền bát gạo. Tôi cũng đã đặt ra mục tiêu phát triển các bộ công cụ luyện phát âm cho càng nhiều ngôn ngữ càng tốt. Những bộ công cụ này có thể làm được những điều mà sách giấy không thể. Chúng ta sẽ bàn kỹ hơn trong Chương 3. Không phải ngôn ngữ nào cũng có sách hướng dẫn phát âm hay bộ công cụ luyện phát âm. Nếu ngoại ngữ bạn đang học có các tài liệu ấy, bạn may mắn vô cùng. Bạn có lẽ cũng sẽ muốn tìm hai cuốn từ điển khác nữa, có thể là bản trực tuyến hoặc sách giấy, tùy bạn. Thứ nhất là từ điển song ngữ (ví dụ: Anh-Pháp hoặc Pháp-Anh) truyền thống, với phiên âm chính xác được ghi đầy đủ bên cạnh mỗi từ. Một lần nữa, nếu bạn thấy những phiên âm bồi như “bông-dua”, hãy bỏ cuốn sách ngay lập tức. Ngược lại, nếu thấy những ký hiệu ngồ ngộ , hãy giữ sách bên mình. Chúng ta sẽ làm quen với bảng phiên âm quốc tế (International Phonetic Alphabet − IPA) trong Chương 3. Cuốn từ điển thứ hai là từ điển đơn ngữ (ví dụ: Pháp-Pháp); những cuốn này sẽ có định nghĩa thực sự của từ chứ không phải bản chuyển ngữ. Bạn sẽ không bao giờ thấy những thứ như “bông dua” trong các từ điển này. Bạn hẳn cũng sẽ ước ao một cuốn tổng hợp từ vựng theo chủ đề. Chúng sắp xếp các từ vựng theo các nhóm chủ đề, như xe cộ, thức ăn, y tế, v.v.. Chúng giúp điều chỉnh vốn từ vựng của bạn (chúng tasẽ bàn kỹ hơn trong Chương 6.) VỚI NHỮNG NGƯỜI Ở TRÌNH ĐỘ TRUNG CẤP Nếu bạn đã từng học qua ngoại ngữ tới trình độ trung cấp, hãy điều chỉnh danh sách muasắm của bạn như sau: Trước tiên, hãy chắc chắn bạn hài lòng với cuốn sách ngữ pháp của mình. Nếu không, hãy tìm một cuốn khác phù hợp với trình độ của bạn. Thứ hai, nếu không có từ điển cụm từ thì bạn nên mua ngay. Ngay cả khi đã đủ giỏi để đọc sách bằng ngoại ngữ, bạn vẫn có thể không nắm chắc toàn bộ những mẫu câu hỏi về giờ làm việc của một nơi nào đó, hay thủ tục làm bảo hiểm thuê xe. Bạn có thể tra cứu tất cả những mẫu câu thông dụng trong từ điển cụm từ. Thứ ba, bạn nên sắm ngay từ điển tần suất, vì bạn sẽ dùng nó sớm hơn cả những người mới bắt đầu. Hãy tìm ngay đi! Cuối cùng, hãy tạm quên sách hướng dẫn phát âm hay bộ công cụ luyện phát âm, cho đến khi đi hết Chương 3. Đến khi ấy, bạn sẽ biết có cần đến chúng hay không. INTERNET Có nhan nhản những sách hướng dẫn ngữ pháp, hướng dẫn phát âm, danh sách từ tần suất, và từ điển với đủ mọi hình thức, kích cỡ trên Internet. Chất lượng của những tài liệu này không đồng đều và cũng thay đổi liên tục. Bạn có thể học ngoại ngữ miễn phí từ các tài liệu như thế trên Internet, nhưng còn có thể học nhanh hơn nếu biết kết hợp chúng với những cuốn sách tốt. Tôi đã lên danh sách những nguồn tài liệu Internet ưathích nhất trên trang cá nhân (Fluent Forever.com/language-resources), và chúng ta sẽ bàn đến những trang quan trọng nhất – Google Hình ảnh, cộng đồng các trang web học ngôn ngữ mới xuất hiện (Lang-8, italki, Verbling) – xuyên suốt cuốn sách này. GIA SƯ VÀ CÁC KHÓA HỌC Nếu muốn học cấp tốc và có đủ khả năng tài chính, bạn hãy học với gia sư (với giá cực kỳ phải chăng tại italki.com), hoặc tham gia khóa học tập trung ở nước ngoài. Con đường nhanh nhất để thành thạo ngoại ngữ cũng là con đường ít rải hoa thơm nhất: những chương trình Cách học ngoại ngữ nhanh và không bao giờ quên học “đắm mình”, dạy hoàn toàn bằng ngoại ngữ, trải nghiệm cuộc sống với ngoại ngữ. Chúng sẽ cung cấp cho bạn hơn 20 giờ học trên lớp, 10- 12 giờ bài tập ở nhà hằng tuần, và một kế hoạch “nói không với ngôn ngữ khác” trong suốt khóa học. Bạn sẽ tốt nghiệp với mức độ thành thạo ngoại ngữ đã chọn, đổi lấy hai tháng của cuộc đời và một cọc tiền lớn. Một số chương trình có chính sách hỗ trợ tài chính rất hào phóng nên nếu bạn thiếu tiền nhưng lại sẵn thời gian, hãy đăng ký sớm để giành học bổng ưu đãi. CÁC LỚP HỌC NGOẠI NGỮ Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ bàn đến quá trình tự học ngoại ngữ, bên ngoài lớp học. Nhưng nếu bạn đã đăng ký một lớp học (hoặc nếu có những lớp học tốt với chi phí phải chăng gần nơi bạn sống), thì hãy xem qua phần Phụ lục 6: Làm sao để sử dụng cuốn sách này trong lớp học ngoại ngữ? Con đường phía trước Trong các trang tiếp theo, chúng ta sẽ lần lượt đánh đổ các chướng ngại vật trên con đường chinh phục ngoại ngữ. Tôi sẽ giới thiệu với bạn một hệ thống ghi nhớ hiệu quả, cho phép bạn nhớ dễ dàng hàng nghìn thông tin và lưu giữ chúng vĩnh viễn. Sau đó, chúng ta sẽ quyết định nên học thông tin gì. Tôi sẽ hướng dẫn bạn từng bước học phát âm, từ vựng, và ngữ pháp. Ở mỗi bước, chúng ta đều dùng hệ thống ghi nhớ hiệu quả của tôi. Cuối cùng, chúng ta sẽ phát triển kỹ năng nghe hiểu và đọc hiểu, dần tiến tới thành thạo ngoại ngữ. Tôi sẽ cho bạn xem tất cả “đồ chơi” yêu thích của tôi. Tôi thích tìm những hướng đi mới để công việc suôn sẻ và hiệu quả. Một ngày nào đó, quãng thời gian hàng tháng tôi bỏ ra để nhớ ngày sinh của hàng trăm nhà soạn nhạc sẽ được đền bù xứng đáng, nhưng ngày đó vẫn chưa tới.1 Nói về thành quả học ngoại ngữ, tôi thấy mình khá may mắn. Tôi cần phải học thành thạo bốn thứ tiếng để phục vụ cho sự nghiệp ca hát. Ngoài các thứ tiếng này, tôi còn muốn học cả tiếng Yiddish, Hebrew và Hungary để có thể nói chuyện với họ hàng, và tôi cũng thích mê tiếng Nhật. Bởi quá tham lam nên tôi phải bỏ rất nhiều thời gian tìm ra cách làm việc, cách học tối ưu, và vẫn không cảm thấy áy náy vì quyết định đó. Kết quả là, tôi đã có một hòm đồ nghề đầy ắp công cụ và đồ chơi ngôn ngữ. Chúng ta sẽ bắt đầu với “món” ưathích nhất củatôi: Hệ thống nhắc lại cách quãng (SRS). 1. Mỗi lần viết lại thông tin về một nhạc sĩ mà không cần tra thông tin của ông ta (Johann Strauss Jr., 1825-1899!), tôi thấy công sức mình bỏ ra cũng xứng đáng. Chương 2 Tải Ngoại Ngữ Vào Trí Nhớ: Năm Nguyên Tác Để Ngừng Quên Gia tài thực sự của một người là trí nhớ. Ngoài nó ra, chẳng vì lẽ gì khác mà anh ta giàu, cũng chẳng vì lẽ gì khác mà anh ta nghèo. — Alexander Smith — CẢNH TRONG PHIM MA TRẬN, HÃNG WARNER BROTHERS, 1999:TANK mỉm cười và ngồi xuống trước bàn điều khiển, lục tìm chồng đĩa. Anh chọn một chiếc vàcho vào máy tính. NEO nhìn vào màn hình. NEO: Nhu thuật1? Tôi sẽ học được... Nhu thuật ư? 1. Danh từ gọi chung cho nhiều môn phái võ thuật cổ truyền của người Nhật. (BTV) TANK mỉm cười nhấn nút “Load”. Cơ thể của NEO vùng vẫy rồi bật lên dù đã bị kéo ghì lại bằng dây trói, mắt anh vẫn nhắm nghiền. Màn hình nhấp nháy loạn xạ, còn tim anh đập liên hồi, adrenalin tăng đột biến, vàanh cảm giác não mình như muốn nổ tung vì quátải. NEO: Ôi mẹ ơi! TANK mỉm cười. Công nghệ ngày nay chưa thể tải trực tiếp nhu thuật vào não bộ, nhưng đã có cách chúng ta tiếp thu nhanh hơn. Sức mạnh của nó nằm ở năm nguyên tắc ghi nhớ sau đây: • Khiến ký ức trở nên đáng nhớ hơn. • Tối đa hóasự lười biếng. • Đừng xem lại! Hãy tập nhớ lại! • Khoan đã! Khoan đã! Đừng nói cho tôi biết vội! • Tái tạo ký ức. Những quy tắc này sẽ cho phép bạn ghi nhớ nhiều hơn, nhanh hơn. Khi kết hợp với nhau, chúng tạo thành một hệ thống có thể đưa sâu vào tiềm thức não bộ hàng nghìn từ mới và quy tắc ngữ pháp. Tuyệt vời nhất là hệ thống này có thể tận dụng thời gian rảnh rỗi mỗi ngày của bạn, và liên tục chuyển thành ngoại ngữ hữu dụng. NGUYÊN TẮC 1: LÀM CHO KÝ ỨC TRỞ NÊN ĐÁNG NHỚ HƠNBất cứ thông tin nào cũng trở nên quan trọng khi nó được kết nối với một thông tin khác. —Umberto Eco, Con lắc foucault — Để học cách ghi nhớ, chúng ta cần học về bản chất và vị trí của trí nhớ. Các nhà khoa học trong những năm 40-50 của thế kỷ XX đã bắt đầu hành trình tìm kiếm trí nhớ ở nơi nghe có vẻ hiển nhiên nhất: Các nơ-ron trong tế bào não của con người. Họ cắt bỏ các phần khác nhau của não chuột, cố gắng khiến con chuột quên đường trong mê cung. Nhưng dù bị cắt bỏ phẫn não nào, con chuột cũng không quên cái mê cung đó. Vào năm 1950, nhóm nghiên cứu bỏ cuộc, và kết luận rằng trí nhớ hẳn phải ở một nơi nào khác ngoài bộ não. Các nhà nghiên cứu kế tiếp đã đổi hướng tìm kiếm trí nhớ sang những sợi kết nối giữacác nơ-ron, thay vì bên trong chính tế bào não. Mỗi nơ-ron trong hàng trăm tỉ nơ-ron não bộ kết nối với khoảng 7.000 nơ ron khác tạo thành mạng lưới dày đặc với hơn 150.000 km sợi thần kinh1. Mạng lưới này liên hệ sâu sắc với trí nhớ của chúng ta, khiến các nhà khoa học không thể tìm thấy nơi lưu trữ ký ức về mê cung trong não chuột. Ký ức về mê cung của mỗi con chuột đã được trải đều khắp não bộ của nó. Mỗi khi bị cắt bỏ một phần bộ não, con chuột chỉ bị tổn thương một phần nhỏ trong chuỗi liên kết ký ức đó. Càng loại bỏ nhiều phần của não, con chuột càng mất nhiều thời gian hơn để nhớ đúng, nhưng chúng không bao giờ quên hoàn toàn mê cung. Cách duy nhất để loại bỏ hoàn toàn ký ức làloại bỏ hoàn toàn con chuột. 1. Thật quá sức tưởng tượng! Lượng dây này đủ lớn để quấn ba vòng quanh Trái Đất. Các nơ-ron có thể chơi trò “Sáu cấp độ của Kevin Bacon” theo cách điên rồ nhất: Bạn có thể kết nối bất kỳ một nơ-ron nào với một nơ-ron khác dưới sáu bước nhảy, và không một nơ-ron nào trong số chúng liên quan đến Kevin Bacon. Quy tắc kết nối ghi nhớ này dựa trên một quy luật đơn giản: Các nơ-ron được kích hoạt cùng với nhau sẽ kết nối lại với nhau. Đây chính là Quy luật Hebb, giúp giải thích cách ghi nhớ mọi thứ. Hãy xem trải nghiệm đầu tiên của tôi với bánh quy. Tôi mất 10 phút ngồi chờ trước lò nướng, tắm mình trong hơi nóng và mùi thơm của bơ, bột mì, đường. Tôi đợi đến khi chúng được lấy ra khỏi lò nướng, và nhìn làn hơi trắng tỏara khi chúng nguội dần. Đến khi hết chịu nổi, chatôi đưacho tôi một cốc sữa, tôi vớ lấy một chiếc bánh quy, và hiểu tại sao quái vật bánh quy trong chương trình Phố Vừng (Seame Street) lại phát điên lên vì nó. Mạng lưới nơ-ron dành để ghi nhớ khái niệm “bánh quy” của tôi bao gồm cả ký ức về hình ảnh, hương thơm và mùi vị. Có cả yếu tố âm thanh nữa – âm thanh của từ “bánh quy”, âm thanh của tiếng sữa được rót vào cốc. Tôi cũng nhớ gương mặt giãn ra của cha mình khi ông cắn chiếc bánh quy ngon tuyệt trần đời. Đó là một cuộc diễu hành của cơ man cảm giác, kết nối chặt chẽ lại với nhau trong một mạng lưới liên kết nơ-ron dày đặc. Những liên kết này cho phép tôi trở về quá khứ mỗi lần bắt gặp một chiếc bánh quy mới. Đối diện với mùi bơ thơm quen thuộc, mạng lưới nơ-ron cũ lại trỗi dậy, não tôi kích hoạt lại một loạt hình ảnh,âm thanh, cảm xúc và hương vị, để tôi được sống lại trải nghiệm tuổi thơ. Hãy so sánh với một trải nghiệm khác: Ký ức đang hình thành với từ mjöður. Chẳng có gì nhiều để làm một cuộc diễu hành. Bạn không thể phát âm đúng từ này nếu chỉ nhìn vào cách viết, và để chơi ác hơn, tôi sẽ không cho bạn biết nghĩa. Bạn sẽ bị kẹt khi nhìn vào kết cấu của nó: hai chữ cái ngoại lai bị kẹp giữa bốn chữ cái quen thuộc. Trừ khi nỗ lực phi thường, bạn mới không quên được từ mjöður khi chương này kết thúc, thậm chí còn sớm hơn. Các cấp độ xử lý: Bộ lọc của trí nhớ Thứ tạo nên sự khác biệt giữa từ mjöður lạ lẫm của bạn và từ bánh quy quen thuộc của tôi gọi là cấp độ xử lý. Từ bánh quy của tôi là một thứ đáng nhớ, bởi nó chứa quá nhiều các mối liên kết. Tôi có thể truy cập vào ký ức bánh quy theo hàng nghìn cách khác nhau. Tôi sẽ nhớ bánh quy nếu đọc về nó, nghe thấy nó, nhìn thấy nó, ngửi thấy nó hoặc nếm nó. Từ ngữ này đã quen thuộc tới mức không quên nổi. Chúng ta cần khiến cho từ mjöður của bạn cũng quen thuộc như vậy, bằng cách tạo thêm bốn loại kết nối mới: kết nối kết cấu, kết nốiâm thanh, kết nối khái niệm và kết nối cá nhân. Đó là bốn cấp độ xử lý được các nhà tâm lý học xác định vào những năm 70 của thế kỷ XX. Họ đã lập một bảng điều tra kỳ lạ với bốn dạng câu hỏi, và đưacho các sinh viên: • Kết cấu: Có bao nhiêu chữ cái in hoatrong từ “BEAR”? • Âm thanh: Từ “APPLE” có vần với từ “Snapple” không? • Khái niệm: “TOOL” có phải làtừ đồng nghĩa với “instrument” không? • Kết nối cá nhân: Bạn có thích “PIZZA” không? Sau đó, họ bất ngờ kiểm tra những sinh viên này xem họ còn nhớ được từ nào trong số các từ vừathấy. Trí nhớ của những người trảlời chịu ảnh hưởng lớn của dạng câu hỏi mà họ gặp: ví dụ, số lượng sinh viên nhớ được từ “PIZZA” nhiều gấp sáu lần số nhớ được từ “BEAR”. Bí mật của những câu hỏi này nằm ở một đặc điểm tâm lý thú vị. Để trả lời được câu hỏi đếm số chữ cái in hoa trong từ “BEAR”, bạn không cần phải nghĩ đến con gấu to lớn nhiều lông màu nâu làm gì cả. Bạn chỉ cần kích hoạt cấp độ xử lý thấp nhất − kết cấu. Ngược lại, bạn phải kích hoạt rất nhiều khu vực trên não bộ mới biết có thích “PIZZA” không. Đầu tiên, não tự động phân tích kết cấu từ để xác định xem bạn đang nhìn vào từ gì. Cùng lúc đó, bạn sẽ nghe thấy âm thanh từ “PIZZA” vang lên trong đầu khi tưởng tượng ra hình ảnh đĩa bánh phủ phô mai nóng, thơm, vàng ruộm. Cuối cùng, bạn sẽ thâm nhập vào hàng nghìn ký ức trong quá khứ để biết mình có thích ăn “PIZZA” hay không. Trong một phần triệu của một giây, câu hỏi đơn giản − Bạn có thích “PIZZA” không? − có thể cùng lúc kích hoạt cả bốn cấp độ xử lý. Chúng được kết nối lại với nhau, tạo thành một ký ức mạnh mẽ mà bạn nhớ được nó dễ hơn đến sáu lần so với từ “BEAR”. Bốn cấp độ xử lý này không chỉ là một đặc điểm sinh học ngẫu nhiên, chúng như một bộ lọc, ngăn chúng ta bị quá tải thông tin. Chúng ta sống giữa một biển thông tin, bị vây quanh bởi một lượng thông tin đầu vào nhiều đến chóng mặt, từ ti vi, Internet, sách, giao tiếp với người khác, và các sự kiện trong chính cuộc sống của chúng ta. Não bạn sử dụng các cấp độ xử lý khác nhau này để quyết định thông tin nào cần giữ, thông tin nào nên bị vứt bỏ. Bạn sẽ không muốn nghĩ đến số chữ cái trong từ “con hổ” khi đang bị hổ rượt, hay không muốn bị bủa vây bởi hàng trăm nghìn ký ức về đàn bò thong dong gặm cỏ trên thảo nguyên mỗi lần đi muasữa. Để giúp cho bạn khỏi phát điên, não cố gắng sử dụng cấp độ xử lý thấp nhất, vừa đủ để hoàn thành công việc. Khi mua sữa tại siêu thị, bạn chỉ đơn giản tìm kiếm những từ như sữa sô-cô-la, hoặc thậm chí là sữa hữu cơ vị sô-cô-la được làm từ những con bò hạnh phúc, rất tốt cho sức khỏe. Đây là kiểu tìm kiếm bằng cách so khớp mẫu, và não bạn chỉ sử dụng cấp độ xử lý kết cấu để lướt nhanh qua hàng trăm nghìn nhãn hàng. May mắn là bạn sẽ quên gần hết các nhãn hàng này khi tìm thấy món bạn cần. Nếu không, thứ kiến thức như Wikipedia về các nhãn hàng sẽ khiến bạn trở thành gã trai nhạt nhẽo trong các buổi tiệc tùng. Trong các tình huống kích thích hơn, như khi đang bị hổ đuổi sát gót, não bạn sẽ có hưng phấn với ký ức đang tạo thành. Nếu chạy thoát, bạn sẽ nhớ đến già rằng không nên trèo vào chuồng hổ. Theo đó, các cấp độ xử lý đóng vai trò như bộ lọc trong não bạn, giữ cho bạn sống sót và không quá nhạt nhẽo. Chính bộ lọc này đã khiến cho các ngoại ngữ trở nên khó nhớ. Bộ não chỉ đang làm đúng phận sự; làm sao nó biết được bạn muốn nhớ từ mjöður, chứ không phải từ disodium phosphate (một chất nhũ hóatrong sữasô-cô-la). Làm thế nào để nhớ ngoại ngữ mãi mãi? Để tạo nên ký ức mạnh mẽ cho một từ như mjöður, bạn cần dùng đến cả bốn cấp độ xử lý. Kết cấu, cấp độ thấp nhất, cho phép bạn nhận diện chữ cái và xác định xem từ này dài hay ngắn, được viết bằng tiếng Anh, tiếng Nhật hay tiếng gì. Não bạn đang nhận diện kết cấu khi bạn sắp xếp từ odctor thành doctor. Đây là cấp độ tối quan trọng cho việc đọc, nhưng nó sử dụng quá ít các phần của não bộ để tạo nên ký ức dài hạn. Gần như không sinh viên nào trong thí nghiệm về các cấp độ xử lý nhớ đã từng đếm số chữ cái in hoa trong từ “BEAR”. Mjöður khó nhớ bởi bạn chưa biết cách xử lý những chữ cái khó nhằn như ö hay ð và dừng lại ở cấp độ kết cấu. Nhiệm vụ đầu tiên của bạn khi học ngoại ngữ là chạm đến cấp độ xử lý tiếp theo: âm thanh. Âm thanh kết nối với tai và miệng, giúp bạn bật lời. Bạn sẽ bắt đầu học phát âm, nhận biết chữ cái nào thì tạo ra âm thanh nào. Học phát âm trước sẽ giúp bạn dễ nhớ từ. Các sinh viên trong thí nghiệm nói trên nhớ được từ “APPLE” (vần với “Snapple”) dễ gấp đôi so với nhớ từ “BEAR” (có bốn chữ cái in hoa). Chính âm thanh giúp bạn nhớ bắt chước như vẹt. Hãy lấy tên của người mới quen, ví dụ Edward, hoặc lấy một cặp từ, ví dụ “cat-mèo”, và đọc nhiều lần, liên tục kích hoạt những phần não giúp kết nối với âm thanh. Từ mjöður của chúng ta đại khái phát âm là “miu-thơ”, và càng phát âm chuẩn, bạn càng dễ ghi nhớ nó hơn.1 Dần dần, từ mjöður của bạn cũng sẽ dễ nhớ như cái tên Edward. Cấp độ này tốt hơn cấp độ kết cấu, nhưng vẫn chưa đủ tốt cho nhu cầu của chúng ta. Có rất nhiều người không giỏi nhớ tên người mới quen, bởi não bộ lọc những cái tên này nhanh chẳng kém tốc độ chúng tacố nạp chúng vào đầu. 1. Đoạn trước tôi có nói với bạn là hãy bỏ đi bất cứ cuốn sách nào có thứ phiên âm bồi kiểu “bông-dua”. Giờ chính tôi lại đang dùng “miu-thơ”. Tôi sẽ còn làm nhiều lần nữa, vì chắc bạn không muốn tôi giải thích quy tắc phát âm cho từng ngôn ngữ. Xin đừng bỏ cuốn sách này nhé! Chúng ta cần tìm cách đi qua bộ lọc này, và sẽ tìm thấy nó ở cấp độ xử lý thứ ba: Cấp độ khái niệm. Các sinh viên trong thí nghiệm nhớ từ “TOOL” (đồng nghĩa với “instrument”) dễ gấp đôi so với từ “APPLE” (vần với “Snapple”). Khái niệm có thể được chia ra thành hai nhóm: trừu tượng và cụ thể. Hãy bắt đầu với nhóm khái niệm trừu tượng trước. Nếu tôi nói rằng sinh nhật tôi vào tháng Sáu, bạn hẳn sẽ không nhìn thấy ngay hình ảnh bánh kem, bóng bay và quà cáp. Không sao, bạn cũng không cần phải làm thế; và như đã nói, não bộ luôn cố gắng làm việc ở cấp độ xử lý thấp nhất. Nó giúp chúng ta không phải nghĩ nhiều và bị phân tán bởi vô vàn thông tin vặt vãnh. Dù thế, ngày sinh nhật của tôi vẫn là một khái niệm có ý nghĩa, dù hơi trừu tượng. Điều này khiến nó đáng nhớ hơn âm thanh đơn thuần; và bạn sẽ dễ nhớ sinh nhật của tôi vào tháng Sáu hơn việc từ “sinh nhật” trong tiếng Basque là urtebetetze. Sâu hơn cả các khái niệm trừu tượng là khái niệm cụ thể, có thể cảm nhận bằng nhiều giác quan. Nếu nói bữa tiệc sinh nhật sắp tới của tôi sẽ bắt đầu bằng màn bắn súng sơn đã đời, rồi ăn chiếc bánh kem được trang trí bằng bánh quy và kem lạnh, rồi quậy tưng bừng trong bể bơi đến khi tàn tiệc; bạn có lẽ sẽ nhớ rõ từng chi tiết bữa tiệc hơn ngày sinh nhật tôi. Chúng ta ưu tiên lưu giữ những khái niệm cụ thể bởi chúng kích thích nhiều phần trong não bộ hơn, chứ không phải chúng quan trọng hơn. Thực ra, chi tiết trên về bữa tiệc sinh nhật không quan trọng bằng địa điểm, thời gian tổ chức. Vậy làm sao chúng ta có thể khiến một từ ngoại lai, kỳ lạ như mjöður trở nên dễ nhớ hơn? Bản thân từ này không phải vấn đề. Chúng ta dễ dàng ghi nhớ từ ngữ khi kết nối chúng với các trải nghiệm cụ thể, đa cảm giác. Nếu tôi nói mật khẩu e-mail của tôi là mjöður, bạn chắc (và tôi hy vọng là) sẽ không nhớ lâu; bởi bạn chỉ đang xử lý nó ở cấp độ âm thanh và kết cấu. Nhưng nếu chúng ta đang ở trong quán bar, và tôi đưa cho bạn một thứ đồ uống đang bốc cháy rừng rực, bên trong ngâm một con rắn chết và nói: “Cái này − mjöður! Uống đi!,” bạn chắc sẽ nhớ từ đó như in. Chúng ta dễ dàng gọi tên sự vật; trong hơn 450.000 mục từ của Webster’s Third International Dictionary (Từ điển quốc tế Webster), danh từ chiếm đại đa số.1 Chỉ đến khi những cái tên đó không được kết nối với khái niệm cụ thể nào, chúng ta mới khó lòng ghi nhớ. Mục tiêu của chúng ta, và cũng là một trong các mục tiêu chính của cuốn sách này, là làm cho những từ ngữ xa lạ như mjöður trở nên cụ thể vàcó ý nghĩa. 1. Thế nào là đa số? Không ai biết chính xác. Khi phân tích một đoạn văn thuộc dòng phi giả tưởng (non fiction − có 80% là danh từ), chúng ta gặp rắc rối khi đếm từ. Từ ngữ hóa ra lại cực kỳ khó đếm hoặc phân loại. Liệu “bear” là danh từ, động từ, hay cả hai? Chúng ta có nên tách “bear” với “bears” không? Đó quả là một nghệ thuật. Vượt qua các bộ lọc: Sức mạnh của hình ảnh và những kết nối cá nhânỞ trên, chúng ta đã đề cập đến một cặp từ song ngữ: cat-mèo. Cách luyện tập thông thường là đọc đi đọc lại hai từ này cho đến khi hình thành một kết nối âm thanh giữa chúng. Cấp độ này quá thấp để nhớ sâu, và thực ra nó cũng không đáp ứng mục tiêu của chúng ta. Khi đọc được từ “cat”, bạn không nên nghĩ đến từ “mèo” màlàthứ này: Chúng ta sẽ thu được kết quả tốt hơn nếu bỏ qua từ ngữ trong tiếng mẹ đẻ, thay vào đó dùng một bức tranh hay một bứcảnh. Ký ức hình ảnh dễ gọi hơn rất nhiều so với từ ngữ, bởi chúng ta luôn tự động suy nghĩ ở cấp độ khái niệm mỗi khi nhìn thấy hình ảnh. Các nghiên cứu về trí nhớ đã chứng minh ký ức hình ảnh cực kỳ mạnh mẽ. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, một nhóm các nhà khoa học đã tiến hành một bài kiểm tra trí nhớ kinh hoàng trên các sinh viên: “Bài kiểm tra hai lựa chọn cưỡng ép” (The Two Alternative Forced-Choice Test). Sinh viên được cho xem 612 bức ảnh quảng cáo trên tạp chí (ắt hẳn khi đang bị trói vào ghế và banh mắt ra), sau đó được yêu cầu chọn lại chúng giữa một bộ ảnh khác. Xác suất chọn đúng các bức ảnh lên đến 98,5%. Vẫn chưa thỏa mãn, các nhà khoa học lặp lại thí nghiệm trên với nhiều hình ảnh hơn, quyết tâm xem các sinh viên sẽ chịu đựng đến đâu với mức bồi dưỡng rẻ mạt và đồ ăn miễn phí. Kết quả là dường như không có giới hạn nào. Họ sẵn sàng ngồi trong phòng tối năm ngày, xem khoảng 10.000 bức ảnh liên tục không nghỉ. Xác suất chính xác lên đến 83%. Khả năng ghi nhớ bằng hình ảnh củachúng tarất phi thường; chỉ cần biết tận dụng màthôi. Bởi cái cần ghi nhớ là từ ngữ, không phải hình ảnh, nên chúng ta sẽ kết hợp chúng và sẽ còn hiệu quả hơn nếu chỉ có hình ảnh đơn thuần. Thậm chí cả khi hình ảnh chẳng liên quan đến từ ngữ: Bạn có thể nhớ một bức tranh trừu tượng dễ dàng hơn nếu bên cạnh nó có thêm một câu “Táo ngon tuyệt”. Khi đối diện với một bức tranh khó hiểu và một cụm từ không liên quan, não bạn sẽ cố gắng tìm ra ý nghĩa nào đó, kể cả khi không có ý nghĩa nào cả. Trong quá trình đó, nó sẽ tự động chuyển từ ngữ này từ cái thùng rác của đám disodium phosphate sang lãnh địathân thuộc của bánh quy. Và kết quảlà bạn sẽ nhớ. Chúng ta có thể tiến sâu hơn bằng cách dùng cấp độ xử lý cuối cùng, kết nối cá nhân. Khi có kết nối cá nhân, bạn sẽ nhớ khái niệm dễ hơn 50%; và đó cũng là lý do các sinh viên nhớ từ “PIZZA”(Có, chúng tôi có thích “PIZZA!”) dễ hơn đến 50% so với từ “TOOL”(Có, chúng đồng nghĩa với “instrument”). Nhưng không phải ghi nhớ ở cấp độ khái niệm là không hiệu quả. Nếu kết nối từ “cat” với bức tranh chú mèo dễ thương, bạn sẽ có thể nhớ từ đó dễ hơn nhiều. Nhưng nếu kết nối thêm cat với ký ức về con mèo hồi nhỏ của mình, thì bạn gần như không thể quên nổi cái từ kia. Làm thế nào áp dụng được điều này trong thực tế? Một từ ngữ xa lạ cũng giống như tên của một người bạn mới, một chú mèo mới gặp, hay một món đồ uống mới. Hãy tìm cách ghi nhớ tên người bạn mới bằng cách sử dụng bốn cấp độ xử lý. Giả sử tên cậu ta là Edward. Chỉ cần nghĩ đến “Edward” thôi, chúng ta đã chạm đến cấp độ xử lý thứ hai – âm thanh. Nếu muốn đi sâu hơn, tới lãnh địa của khái niệm, chúng ta sẽ phải tìm kiếm một hình ảnh cụ thể cho cái tên Edward, ví dụ như tên nhân vật chính trong bộ phim Edward Scissorhands (Người tay kéo). Nếu dành một giây để tưởng tượng người bạn mới có đôi tay kéo, chúng ta sẽ nhớ tên anh ta rất dễ dàng hơn. Đây chính là bí kíp của những người tranh giải ghi nhớ chuyên nghiệp và chúng ta sẽ bàn kỹ hơn trong Chương 4 và5.Hiệu quả ghi nhớ còn tốt hơn nếu chúng ta tìm thấy một kết nối cá nhân với cái tên đó. Có thể bạn đã từng xem phim Edward Scissorhands ở rạp, có thể anh trai bạn tên là Edward. Khi liên tưởng người bạn mới của mình với những hình ảnh-Edward và ký ức cá nhân- Edward, bạn đang kích hoạt mạng lưới rộng lớn hơn trong não mình. Lần tiếp theo khi gặp Edward, tất cả những hình ảnh và ký ức này sẽ ùa về, và bạn sẽ khó lòng quên được tên anh ta. Quá trình suy nghĩ này cần đôi chút sáng tạo, nhưng bạn có thể học nhanh chóng và dễ dàng. Với một từ ngữ cụ thể như cat, bạn có thể tìm một hình ảnh phù hợp trên Google Hình ảnh (images.google.com) chỉ trong vài giây. Nếu tự hỏi mình “Lần cuối mình thấy một con cat là bao giờ nhỉ?” bạn sẽ gắn thêm vào ký ức này một kết nối cá nhân, và ghim sâu từ này vào trí nhớ. Dễ ợt! Với một từ trừu tượng như economía (tiếng Pháp: nền kinh tế) cũng chẳng khó khăn gì. Khi tìm kiếm trên Google Hình ảnh, chúng ta sẽ thấy hàng nghìn tranh ảnh về tiền bạc, những con lợn tiết kiệm, các biểu đồ chứng khoán và các chính trị gia. Bằng việc chọn lựa bất cứ hình ảnh nào trong số đó, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ một cách cụ thể ở cấp độ khái niệm. Kết quảlàtừ đó sẽ dễ nhớ hơn rất nhiều. Nếu bạn tự hỏi bản thân rằng liệu economía có ảnh hưởng đến cuộc sống củachúng ta hay không, bạn sẽ có thêm kết nối cá nhân cần thiết để ghi nhớ từ đó mãi mãi. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ học từ vựng theo hai giai đoạn: Xây dựng nền tảng, bằng các từ cụ thể, dễ học; rồi sử dụng nền tảng đó để học các từ trừu tượng. Trong suốt quá trình đó, chúng ta sẽ sử dụng các cấp độ xử lý để gần gũi hóacác từ xalạ. NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ • Não bạn có một bộ lọc tinh vi, khiến những thông tin hời hợt trở nên dễ quên và những thông tin có ý nghĩa trở nên đáng nhớ. Các từ ngữ xa lạ thường rơi vào nhóm “dễ quên”, bởi chúng dường như vô nghĩa và không liên quan gì tới chúng ta. • Bạn có thể lách qua bộ lọc này bằng bacách sau: + Học hệ thống phátâm của ngoại ngữ. + Kết nối cácâm đó với hình ảnh. + Kết nối các hình ảnh đó với ký ức cá nhân. NGUYÊN TẮC 2: TỐI ĐA HÓA SỰ LƯỜI BIẾNG Tôi từng nghe, chưa ai chết vì làm việc chăm chỉ, nhưng tại sao phải mạo hiểm thử làm gì? — Ronald Reagan Cơ chế lãng quên của não bộ là một đối thủ đáng gờm. Ngày nay, chúng ta có được những hiểu biết về cơ chế lãng quên phần lớn nhờ vào Hermann Ebbinghaus, một nhà tâm lý học người Đức. Ông đã dành nhiều năm trời ghi nhớ những âm tiết vô nghĩa (Guf Ril Zhik Nish Mip Poff ), sau đó ghi lại tốc độ quên của mình bằng cách so sánh lượng thời gian cần để học chúng lần đầu và học các lần sau. “Đường cong lãng quên” là một kỳ tích của ngành tâm lý học thí nghiệm, củalòng quyết tâm, vàcảsự “đam mê” khắc khổ của người thực hiện. Đường cong trên cho thấy chúng ta quên nhanh đến đâu, và phần còn lại sau khi quên. Phần bên phải của đường cong cho ta chút khích lệ: Sau nhiều năm, Ebbinghaus vẫn có thể học lại những từ ngữ ngớ ngẩn cũ nhanh hơn những từ ngớ ngẩn hoàn toàn mới. Dấu vết của những điều đã học, dẫu ít ỏi nhưng sẽ ở lại với ông mãi mãi. Không may, phần bên trái của đường cong lại là một thảm họa: Các ký ức chảy ào ạt ra khỏi đầu chúng ta như nước tràn qua mắt lưới. Lưới vẫn ướt, nhưng nếu cố giữ lại một thứ quan trọng – như số điện thoại, tên người vừa gặp, hay từ mới – chắc chắn chúng ta chỉ nhớ được khoảng 30% vào ngày hôm sau. Chúng ta có thể làm tốt hơn bằng cách nào? Bản năng mách bảo chúng ta làm việc chăm chỉ hơn, để vượt qua những bài kiểm tra và sự vụ ngoài đời. Khi gặp người bạn mới có tên Edward, chúng ta thường ghi nhớ bằng cách nhắc đi nhắc lại tên anh ấy. Nếu nhất thiết phải nhớ bằng được – Edward là sếp mới của bạn chẳng hạn – bằng cách nhắc đi nhắc lại, chúng ta sẽ phát bệnh mất. Nếu chăm chỉ hơn, chúng tasẽ khá nhớ tên anh ấy... trong khoảng vài tuần. MỘT MÁY ĐÁNH NHỊP, BỐN NĂM, SÁU TRIỆU LẦN LẶP LẠI Nghiên cứu năm 1885 của Hermann Ebbinghaus được coi là “cuộc điều tra xuất sắc nhất trong lịch sử tâm lý học thí nghiệm”. Ông đã ngồi một mình trong phòng với chiếc máy đếm nhịp tích, tích, lặp đi lặp lại hơn sáu triệu lần danh sách dài những âm tiết vô nghĩa, tự khiến bản thân “kiệt sức, đau đầu và đủ các triệu chứng khác” để đo tốc độ ghi nhớ và tốc độ quên thực sự. Đó là nghiên cứu với dữ liệu thực đầu tiên về bộ não con người, và hẳn nhờ nó mà ông trở nên vô cùng nổi tiếng. Học theo kiểu “tụng niệm” như thế không giúp cải thiện trí nhớ dài hạn một chút nào. Liệu bạn còn nhớ số kiến thức đã cố công nhồi nhét vào đầu để làm bài kiểm tra hôm trước? Liệu bạn còn nhớ điều gì về buổi kiểm tra đó? Nếu thực sự muốn học ngoại ngữ, chúng ta sẽ muốn nhớ nó hàng tháng, hàng năm, thậm chí hàng chục năm. Nếu không thể chăm chỉ hơn, chúng ta vươn tới mục tiêu này bằng cách làm càng ít càng tốt. NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ • Học bằng cách “nhai đi nhai lại” rất nhàm chán, và nó không có tác dụng với trí nhớ dài hạn. • Thay vào đó, hãy chọn con đường lười biếng: Học một khái niệm cho tới khi bạn có thể thốt nhiên bật ra nó. Xét cho cùng, “lười biếng” chỉ là một cách nói khác của “hiệu quả”. NGUYÊN TẮC 3: ĐỪNG XEM LẠI! HÃY TẬP NHỚ LẠI! Ở trường, chúng ta được học về mọi thứ, sau đó làm bài kiểm tra. Trong cuộc sống, chúng ta làm bài kiểm tra trước rồi mới học về mọi thứ. — Admon Israel Giả sử, tôi hứa cho bạn 20 đô-la với mỗi từ bạn nhớ được trong danh sách từ mới tiếng Tây Ban Nha. Bài kiểm tra sẽ tới trong một tuần, và bạn có hai lựa chọn: (1) Cầm danh sách từ trong tay và cố học thuộc trong 10 phút, hoặc (2) Học từ trong 5 phút rồi lấy một tờ giấy trắng và cây bút chì. Nếu chọn phương án thứ hai, bạn sẽ phải viết ra bất cứ từ nào nhớ được, rồi đưalại tờ giấy đó cho tôi. Đây là kết quả ở một thí nghiệm tương tự. Trong đó, các sinh viên tham gia hoặc là đọc một đoạn văn hai lần, hoặc là đọc nó một lần rồi viết xuống những gì họ còn nhớ. Sau đó, họ tham gia làm một bài kiểm tra sau 5 phút, hai ngày, hoặc một tuần sau đó. Hãy để ý, cách học hai (hay nhiều) lần có thể giúp ghi nhớ tốt trong một vài phút, nhưng lại phản tác dụng trong thời gian dài. Kỳ lạ là cách học với một tờ giấy trắng sẽ giúp bạn nhớ được rất nhiều so với việc có thêm thời gian học. Bạn sẽ nhớ nhiều hơn đến 35% sau một tuần.[1] [1]. Các nghiên cứu bổ sung cho thấy: tỷ lệ lợi ích giữa tự kiểm tra lại với tự đọc lại lên đến 5:1, tức là 5 phút tự kiểm tra lại giúp ghi nhớ tốt tương đương 25 phút đọc đi đọc lại một thứ gì đó. Hãy thử điều này: Sau khi đọc qua danh sách từ mới tiếng Tây Ban Nha một lần, bạn có thể: A. Thêm 5 phút để đọc đi đọc lại danh sách từ. B. Lấy một tờ giấy trắng và tự kiểm tra bằng cách ghi ra xem mình nhớ được bao nhiêu. C. Lấy ba tờ giấy trắng và tự kiểm tra ba lần liên tiếp. Đây là kết quả ghi nhớ cuối cùng sau đó một tuần: Thật điên rồ! Vì sao việc làm một bài kiểm tra y hệt nhau ba lần liền lại có tác dụng tích cực tới vậy? Thực ra điều này vẫn tuân theo các quy tắc của hiểu biết thông thường. Khi học bằng cách xem đi xem lại nhiều lần, bạn đang tập đọc, không phải tập nhớ. Nếu muốn có ghi nhớ tốt hơn, bạn nên tập nhớ lại. Tờ giấy trắng của chúng ta cũng có thể được thay thế bằng một tập thẻ học, một bài kiểm tra trắc nghiệm nhiều đáp án, hoặc chỉ đơn giản là việc cố nhớ lại. Đây chính là dạng luyện tập hiệu quả. Nó cải thiện khả năng nhớ lại bằng cách tận dụng khả năng tuyệt vời nhất của bộ não – sự đan cài giữa ký ức vàcảm xúc. Sâu bên trong não bộ có một “con hải mã” và một “quả hạnh nhân” cùng sánh đôi trong một điệu nhảy hóa học, giúp chúng ta quyết định thứ gì quan trọng và thứ gì đáng để quên. Bộ phận có hình giống con hải mã được gọi là hồi hải mã, đóng vai trò như một bảng phân phối tín hiệu điện trong não bộ, kết nối các vùng cách xa nhau trong bộ não và tạo nên một tấm bản đồ liên kết giữa các vùng. Bạn sẽ truy cập vào tấm bản đồ này mỗi khi cần nhớ lại một ký ức nào đó gần đây.1 Các nơ-ron được liên kết để tạo nên ký ức đó sẽ cùng được kích hoạt trở lại, và bạn sẽ sống lại trải nghiệm quá khứ của mình. Qua nhiều năm nhiều tháng, những nơ-ron được liên kết này sẽ bớt phụ thuộc dần vào tấm bản đồ của hồi hải mã, vàsống tự do kiểu Bohemian ở những ngoại biên xa xôi của não bộ. 1. Lưu ý là tôi chỉ đang nói đến ký ức về thông tin và sự kiện. Các loại ký ức khác – về thói quen, kỹ năng, v.v.. – có vẻ nằm ở đâu đó. Người bị tổn thương hồi hải mã sẽ mất khả năng hình thành ký ức mới về thông tin và sự kiện, nhưng vẫn có thể học hoặc phát triển các kỹ năng (như vẽ tranh), ngay cả khi không nhớ là đã từng học nó. TRƯỜNG HỢP KỲ LẠ CỦA H.M. Vai trò của hồi hải mã trong việc ghi nhớ thông tin chỉ mới được phát hiện gần đây, trong một ca bệnh nổi tiếng bậc nhất của ngành tâm lý học thần kinh — trường hợp của Henry Molaison. Năm 1953, các bác sĩ đã cắt hồi hải mã của ông để chữa trị bệnh động kinh. Molaison khỏi bệnh nhưng phải chịu di chứng mất trí nhớ nặng nề. Ông có thể nhớ những ký ức cũ bởi bản đồ của chúng đã được trải đều khắp bộ não. Nhưng vì mất hồi hải mã, ông đồng thời mất đi khả năng hình thành ký ức mới. Câu chuyện của ông trở thành nguồn cảm hứng cho đạo diễn Christopher Nolan dựng Memento, bộ phim về một người đàn ông mất trí nhớ đi tìm kẻ sát hại vợ mình. Người bạn nhảy của hồi hải mã, hạch hạnh nhân, chỉ cho hồi hải mã biết nên giữ hoặc bỏ đi thứ gì. Nó làm điều này bằng cách phiên dịch cảm xúc thành các tín hiệu hóa học, khiến tuyến thượng thận gửi đi những dòng hoóc-môn tăng cường trí nhớ với cường độ khác nhau, tùy thuộc vào hoàn cảnh. Nếu bị kích thích cảm xúc mạnh – “Nhìn kìa, một con hổ! Á, tay tôi!” – thì hạch hạnh nhân sẽ khuếch đại ký ức đó. Nếu không – “Nhìn cái bút chì kìa. Ôi, tôi đói!” – thì nó sẽ không làm gì cả. Điều này cho chúng ta nỗi sợ hiển nhiên với loài hổ, và sự thờ ơ hiển nhiên với việc coi bút chì là đồ ăn. Đồng hành với trung khu tưởng thưởng nằm cạnh đó, hạch hạnh nhân tạo nên cơ chế kỳ diệu đằng sau phép màu với tờ giấy trắng. Cảm xúc của chúng ta hành động theo phản xạ. Chúng phản ứng vô thức với môi trường xung quanh. Dù vận đủ mưu lừa não phấn khích học danh sách từ mới tiếng Tây Ban Nha, não cũng không bao giờ dính bẫy. Trừ khi bạn nổi da gà khi nhớ el dentista nghĩa là “nha sĩ”, nếu không, hạch hạnh nhân sẽ từ chối kiến tạo ký ức mới. El dentista chỉ đơn giản là không đáng sợ bằng el tigre (con hổ). Bạn có thể thử tiêm trực tiếp amphetamine1 vào hạch hạnh nhân, sẽ có tác dụng đấy nhưng lợi bất cập hại. 1. Một loại chất kích thích làm tăng sự tỉnh táo và tập trung, đồng thời làm giảm mệt mỏi và thèm ăn. (BTV) Nhưng tờ giấy trắng của chúng ta lại thay đổi mọi thứ. Vào thời điểm bắt đầu chấm điểm “màn trình diễn”, não bộ sẽ nhận ra rằng nó nên làm việc tử tế hơn. Kết quả là, khi nhớ ra bất cứ ký ức nào, bạn sẽ được thưởng một liều chất hóa học giúp tăng cường trí nhớ. Khi những ký ức này được kích hoạt trở lại, hạch hạnh nhân gọi ra các hoóc-môn, hồi hải mã vạch ra bản đồ mạng lưới thần kinh tham gia vào ký ức này, và các nơ-ron bắt đầu kết nối chặt chẽ lại với nhau theo đúng bản đồ. Phần thưởng mà trung khu tưởng thưởng tiết vào hồi hải mã là chất dopamine2, nó kích thích các ký ức đó phát triển thành ký ức dài hạn. Tờ giấy trắng đã tạo nên một bữa tiệc đầy “chất kích thích” trong não bộ. Kiểu học tụng niệm buồn chán sao cạnh tranh nổi với cách học này! 2. Hoóc-môn tạo cảm giác dễ chịu và niềm vui, đồng thời giúp nâng cao tinh thần và sự tập trung. (BTV) NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ • Cố gắng nhớ lại điều gì đó để khởi động điệu nhảy hóa học phức tạp trong não sẽ kích thích việc lưu giữ ký ức dài hạn. • Để tối đa hóa hiệu quả ôn tập, hãy dành nhiều thời gian để tập nhớ lại, chứ không phải tập đọc lại. • Bạn có thể đạt được mục tiêu này bằng cách làm thẻ học kiểm tra khả năng ghi nhớ từ vựng, quy tắc phát âm, hay cấu trúc ngữ pháp. Khi kết hợp với hình ảnh minh họa và kết nối cá nhân, những tấm thẻ này sẽ hình thành nền tảng cho một hệ thống ghi nhớ mạnh mẽ. NGUYÊN TẮC 4: KHOAN ĐÃ! KHOAN ĐÃ! ĐỪNG NÓI CHO TÔI BIẾT VỘI! Những gì khó nhớ, cũng sẽ khó quên. — Arnold Schwarzenegger Ở trường học hay công sở, chúng ta đôi khi bị buộc phải ghi nhớ thật chính xác điều gì đó, nhưng chẳng mấy khi được chỉ dẫn rõ ràng. Thực ra, không có thứ gì gọi là “ghi nhớ chính xác tuyệt đối” cả. Chúng ta có thể suy nghĩ, nhắc lại, nhớ lại và tưởng tượng, nhưng không được sinh ra để ghi nhớ chính xác. Não bộ của chúng ta được thiết kế với cơ chế tự động nhận diện và lưu giữ những gì quan trọng. Khi bị con hổ từng yêu quý trong vườn bách thú rượt đuổi, bạn sẽ không nghĩ miên man: “Mình phải nhớ đến già: hổ rất xấu! Đừng có quên! Chúng rất xấu!” Bạn đơn giản chỉ vắt chân lên mà chạy, việc ghi nhớ cứ để não lo. Thứ gần nhất với “ghi nhớ chính xác” là luyện tập nhớ lại (ví dụ: “Gã đó tên là gì nhỉ?”). Nó sẽ trông rasao? Hãy thử cố nhớ lại những từ ngoại ngữ xuất hiện trong cuốn sách này từ đầu đến giờ. Bạn chắc sẽ lập tức nhớ ra một số từ – có thể ở ngay vài trang trước: el tigre, el dentista. Nếu cố gắng hơn nữa, bạn sẽ dễ dàng nhớ thêm một vài từ – có thể là từ cat ở đâu đó rất gần. Cuối cùng, lẩn sâu trong một ngõ ngách hết sức mờ mịt của não bộ, một vài từ sẽ chần chừ mãi mới xuất hiện.1 Nếu theo dõi khả năng ghi nhớ những từ này, bạn sẽ thấy bất ngờ. Bằng giờ này tuần sau, rất có thể bạn đã quên sạch những từ mà hiện tại bạn nhớ nhất – từ bạn nhớ ra ngay lập tức. 20% khả năng, bạn sẽ nhớ được những từ cần một lúc để xuất hiện. 1. Tôi đã dùng urtebetetze (sinh nhật), tankdeckel (nắp bình xăng), Das ist mir völlig Wurst (Tôi cóc cần quan tâm!), economía (kinh tế), bonjour (xin chào/chúc một ngày tốt lành), tschüss (tạm biệt!), và hallo (xin chào). Mjöður là một từ trong tiếng Iceland, có nghĩa là “rượu mật ong”. Nó không phải là thứ đồ uống bốc cháy rừng rực, nhưng bạn vẫn có thể cho xác một con rắn vào, nếu muốn. Nhưng những từ bạn phải khó khăn lắm mới nhớ ra sẽ khắc sâu trong ý thức của bạn. 75% khả năng bạn sẽ nhớ ra chúng trong tương lai. Và với những từ bạn phải chật vật hồi lâu với cảm giác như chúng ở ngay đầu lưỡi mà không bật thành lời được, thì khả năng ghi nhớ còn tăng gấp đôi. Có chuyện gì đang xảy ra vậy? Hãy thử nhìn vào ví dụ mạnh nhất, vào cái từ cứ nằm ở đầu lưỡi bạn mãi mà bạn mới bật ra được. Nó chính là một ký ức chưa hoàn chỉnh. Bạn có quyền truy cập vào một phần ký ức đó, nhưng chưa thể thấy toàn bộ bức tranh. Bạn nhớ mang máng nó bắt đầu bằng chữ s, có nghĩa là một bài thơ hay bài độc thoại gì đó, đọc na ná từ solipsist hoặc solitaire, nhưng phải một lúc sau mới nhớ ratừ đó làsoliloquy (đoạn độc thoại). Thông thường, chúng ta sẽ nhớ ra thông tin chính xác. Từ của chúng ta chính xác bắt đầu bằng chữ cái s. Não bộ lao vào tìm kiếm điên cuồng, thậm chí có chút tuyệt vọng, để tìm ra mảnh ký ức còn thiếu, liên tục đưa ra các từ có chữ s và bỏ qua khi chúng không khớp với thứ đang tìm. Hạch hạnh nhân coi những cuộc tìm kiếm này là chuyện sống còn, bạn tưởng như nếu không nhớ ra diễn viên đóng vai nhà trị liệu tâm lý cho Matt Damon trong phim Good Will Hunting thì mình sẽ nhảy ra ngoài cửa sổ tức thì.1 Bạn thở phào nhẹ nhõm sau khi tìm được từ của mình. Vàtừ đó sẽ hằn sâu mãi mãi trong trí nhớ. 1. Đó là Robin Williams. Làm thế nào lợi dụng được cơ chế này? Mà thực ra là chúng ta có muốn làm thế không? Lừacho não bộ lao vào một cuộc tìm kiếm điên cuồng nghe có vẻ mệt mỏi. Bạn sẽ kiệt quệ nếu một làm việc này liên tục 100 lần. May mắn là chúng ta không cần phải đánh đổi sự mệt mỏi mới để ghi nhớ mà chỉ cần tạo hứng thú thôi. Chúng ta sẽ ngán đến tận cổ nếu chỉ liên tục tự vấn bản thân có còn nhớ tên người bạn Edward không. Nó quá dễ, quá nhàm chán, vàít hiệu quả. Nếu đợi lâu hơn – cho đến lúc gần như sắp quên – thì việc nhớ tên người bạn Edward sẽ trở thành một thử thách hấp dẫn. Chúng ta đang muốn nhắm tới thời điểm khi mà một chút khó khăn trở thành lượng gia vị vừa đủ khiến cuộc chơi hấp dẫn. Nếu có thể nhớ ra nó, chúng ta đã thu được gấp đôi lợi ích từ khoảng thời gian bỏ ra vàtrải nghiệm thêm hàng hàng cảm giác thú vị. NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ • Bài kiểm tra trí nhớ đạt hiệu quả cao nhất khi có tính thử thách. Bạn càng gần với việc quên hẳn một từ, nó sẽ càng khắc sâu hơn vào trong tâm trí cho đến khi bạn nhớ ra. • Nếu có thể liên tục kiểm tra trí nhớ của mình trước khi kịp quên, bạn sẽ tăng được gấp đôi hiệu quảcủa mỗi bài kiểm tra. NGUYÊN TẮC 5: TÁI TẠO KÝ ỨC Sự khác biệt giữa ký ức giả và ký ức thật cũng giống như ở đá quý: Đồ giả thường trông thật nhất, lóng lánh nhất. — Salvador Dalí Có lần tôi thức giấc với một bản nhạc ngân vang trong đầu. Tôi mơ mình đang ngồi soạn nhạc, và lúc tỉnh dậy, giai điệu của nó hãy còn văng vẳng. Tôi tự hào chạy tới chỗ anh trai. “Nghe này!” Tôi ngâm nga vài giai điệu đầu. “Tuyệt không? Em sáng tác trong khi ngủ đấy!” “Nhầm rồi nhóc!” Anh trai tôi trả lời. “Đó là nhạc nền bộ phim Superman,anh em mình vừa mới xem tuần trước.” Như đã nói ở trên, ký ức chính là một mạng lưới các kết nối: Các nơ-ron riêng biệt được kích hoạt cùng với nhau, kết nối lại với nhau, và sẽ có xu hướng cùng được kích hoạt trở lại trong tương lai. Tôi nhớ ra nhạc nền phim Superman cùng lúc khi mơ mình ngồi sáng tác nhạc. Não tôi, theo phản xạ, kết nối hai thứ này lại với nhau thành một ký ức mới rất có sức thuyết phục – một ký ức giả – khiến tôi tự làm bẽ mặt mình trước anh trai. Chuyện này xảy đến với tất cả chúng ta, và nó là kết quảcủacách chúng talưu giữ ký ức. Trong một nghiên cứu về ký ức tiến hành năm 2011, các nhà nghiên cứu đã cho hai nhóm sinh viên xem một đoạn quảng cáo rất sống động về một nhãn hàng bắp rang bơ giả có tên Orville Redenbacher’s Gourmet Fresh. Sau đó, họ cảm ơn nhóm thứ nhất và tiễn họ ra về. Đối với nhóm thứ hai, họ cho nếm thử một mẫu bắp rang bơ mới ra lò. Một tuần sau, họ hỏi ấn tượng của hai nhóm đó. Đây chính là lúc mọi thứ trở nên kỳ quặc: cả hai nhóm cùng nhớ rất rõ đã được ăn thử bắp rang bơ vào ngày hôm đó, cho dù có một nhóm chưa hề làm thế. Họ đều nghĩ món bắp rang bơ này ngon tuyệt hảo. Khi nhớ lại, chúng ta không chỉ truy cập lại vào các ký ức mà còn tái tạo chúng. Khi xem quảng cáo bắp rang bơ, những sinh viên này nhớ đến những buổi xem phim với mùi hương của bắp và bơ mới ra lò, vị giòn tan trong miệng, vị mằn mặn của muối bám trên môi. Giữa lúc đang sống lại những trải nghiệm đó, họ trông thấy hình ảnh những người khác đang ăn bắp rang bơ thương hiệu Orville Redenbacher’s Gourmet Fresh, và ký ức của họ thay đổi. Mạng lưới nơ ron từ những buổi xem phim và ăn bắp rang bơ trong quá khứ được kích hoạt khi họ nhìn thấy logo của hãng bắp rang bơ kia. Bởi vì các nơ-ron nào được kích hoạt cùng với nhau sẽ kết nối lại với nhau, não của họ ghi lại những kết nối này như thể chúng đãluôn ở đó, là một phần của ký ức ngay từ đầu. Các ký ức riêng lẻ thật ra là “hợp thể” của tất cả trải nghiệm mỗi khi nhớ lại. Khi tôi nhắc bạn nhớ lại từ cat, bạn có lẽ sẽ nhớ đến hình ảnh con mèo bé xíu ở đầu chương. Nhưng khi hình ảnh đó chạy loanh quanh trong đầu, bạn sẽ không thể lưu nó trở lại hệt như cũ. Lúc này, bạn đã là một người khác, với những thông tin khác ở trong não bộ và một phần khác của cuốn sách này ở trước mặt bạn. Có lẽ bạn đã thay đổi căn phòng, trạng thái cảm xúc, hoặc giờ bạn đang có một con mèo thật trong lòng. Lần này, bạn đã có một bộ nơ-ron hoàn toàn mới liên quan đến trải nghiệm với từ cat. Kết quả là ký ức mới về từ cat sẽ gắn các kết nối nơ-ron bạn có ở hiện tại với các kết nối quá khứ vừa được kích hoạt lại. Chỉ trong hành động cố nhớ lại đó, ký ức về từ cat đãtăng gấp đôi về dung lượng. Quátrình tái tạo ký ức này chính là động cơ đằng sau của việc hình thành ký ức dài hạn. Mỗi hành động nhớ lại của bạn đã gắn thêm vào ký ức cũ một phần hiện tại. Phần gắn thêm này mang lại cho ký ức những kết nối mới: hình ảnh mới, cảm xúc mới, âm thanh mới, và từ liên quan đến nó, khiến ký ức này càng thêm dễ nhớ. Một khi tái tạo những ký ức này nhiều lần, chúng sẽ vĩnh viễn không bị lãng quên. Sự trợ giúp của phản hồi Tất nhiên, bạn cần phải nhớ một ký ức nào đó trước khi bạn tái tạo nó. Bạn sẽ nhớ nằm lòng câu slogan “American Express: Don’t leave home without it” (American Express: Đừng rời nó khi rời nhà) bởi American Express đã chi hàng triệu đô-la cho câu quảng cáo khiến bạn khắc cốt ghi tâm. Mỗi lần xem một quảng cáo mới của American Express, các hình ảnh và âm thanh mới lại được viết thêm ký ức về câu slogan kia. Bạn sẽ nhanh chóng quên đi câu slogan giữa mỗi đợt quảng cáo nếu họ bỏ đi những diễn viên nổi tiếng và những video ấn tượng. Nếu vậy, quá trình tái tạo quan trọng sẽ không diễn ra. “Don’t leave home without it” cũng sẽ trở thành một mẩu quảng cáo hạng ba, thay vì một trong những chiến dịch quảng cáo thành công nhất trong lịch sử. Bằng việc tập luyện nhớ lại, chúng ta đang nhắm tới việc liên tục tái tạo các ký ức. Chúng ta tạo ra một ký ức cho từ cat, và bổ sung thêm ký ức đó qua mỗi lần luyện nhớ lại, cho đến khi nó không thể quên nổi như câu slogan kia. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta không thể nhớ nổi? Chắc chắn chúng ta sẽ không thể nhớ nổi tất cả những gì đã học, đặc biệt là khi chúng ta cố chờ đợi càng lâu càng tốt giữa hai lần luyện tập nhớ lại. Rất có thể tới một ngày, khi chúng ta cố nhớ từ cat và không nghĩ ra được gì hết. Chúng ta đã quên nó, và trong tình huống này, nó sẽ tiếp tục bị lãng quên. Cũng giống như với những từ vô nghĩa của Ebbinghaus, chúng ta sẽ tốn ít thời gian hơn để học lại chúng, nhưng chẳng thu được lợi ích gì từ việc luyện tập nhớ lại. Chúng ta cần tìm cách khôi phục lại các ký ức đã quên, vàsẽ tìm thấy nó ở phản hồi tức khắc. “Phản hồi” là một khái niệm đơn giản nhưng hiệu quả đáng kinh ngạc. Nếu gặp phải thẻ học có từ cat và không nhớ nổi nó là gì, chúng ta chỉ cần lật mặt sau tấm thẻ và thấy hình ảnh một con mèo. Chúng ta vừa cho bản thân một phản hồi tức khắc, và sẽ xảy ra hai trường hợp. Nếu ký ức về từ cat đã biến mất hoàn toàn, chúng ta phải quay lại từ đầu. Chúng ta sẽ tạo nên một trải nghiệm mới vào đúng thời điểm bế tắc và phải nhìn vào câu trả lời. Tuy không tốt bằng việc nhớ ra trải nghiệm ban đầu, nhưng điều này cũng rất hiệu quả. Não của chúng ta đã được chuẩn bị và sẵn sàng tạo ký ức mới. Khi tìm kiếm hình ảnh và kết nối có liên quan đến cat, chúng ta tạo nên một mạng lưới liên kết nơ-ron rộng lớn. Chúng ta có thể nhớ ra cat là một loài động vật, nhưng không thể nhớ chính xác là loài nào. Nếu gặp hình ảnh con mèo khi các liên kết này đang kích hoạt, mạng lưới đã hoàn chỉnh của chúng ta sẽ tự động bừng lên, trung khu tưởng thưởng trong não bộ được kích hoạt, đồng thời chúng ta sẽ có một ký ức mới, sâu sắc và đáng nhớ để tiếp tục bổ sung vào. Một khả năng khác là chúng ta vẫn còn có thể thâm nhập vào ký ức cũ về cat. Ký ức này sẽ bừng tỉnh − “Tuyệt vời!” − ngay tại thời điểm chúng ta nhìn thấy hình ảnh con mèo. Ký ức cũ sống dậy, kết nối với trải nghiệm mới, và được tái tạo lại. Chỉ nhờ hành động đơn giản là phản hồi tức khắc, chúng ta đã có lại khả năng tái tạo ký ức. Phản hồi cho phép chúng ta hồi sinh những ký ức bị lãng quên, vàtối đa hóa hiệu quảcủa mỗi lần tập luyện ghi nhớ. NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ • Mỗi lần bạn nhớ thành công, bạn sống lại vàtái tạo được trải nghiệm trong quá khứ, bổ sung vào ký ức cũ những mảnh nhỏ hiện tại, tạo thành một ký ức mới với nhiều liên kết hơn. • Bạn sẽ tận dụng tối ưu thời gian lúc tập nhớ lại nếu có trải nghiệm ban đầu sâu sắc. Bạn có thể làm được điều này bằng cách kết nối âm thanh, hình ảnh và kết nối cá nhân vào mỗi từ mình học. • Khi đãthực sự lãng quên, hãy sử dụng phản hồi tức khắc để kéo lại ký ức. QUAN TRỌNG NHẤT LÀ XÁC ĐỊNH ĐÚNG THỜI ĐIỂM: DẤU CHẤM HẾT CHO SỰ LÃNG QUÊN Hãy quan sát kỹ từng giây, bởi xác định đúng thời điểm luôn là yếu tố tiên quyết. — Hesiod Làm thế nào để kết hợp năm nguyên tắc này lại với nhau? Chúng ta muốn ký ức ban đầu càng sâu sắc và càng tác động đến nhiều giác quan càng tốt; (1: Khiến các ký ức sâu sắc hơn). Chúng ta muốn học càng ít càng tốt; (2: Tối đa hóa sự lười biếng), vàluyện tập nhớ lại càng nhiều càng tốt; (3: Đừng xem lại. Hãy tập nhớ lại). Chúng ta muốn những lần luyện tập nhớ lại có tính thách thức, nhưng cũng không quá khó; (4: Khoan đã! Khoan đã! Đừng nói cho tôi biết vội!). Cuối cùng, khi luyện tập, chúng ta muốn gần như quên hết các trải nghiệm ban đầu. Khi thực sự lỡ quên toàn bộ, chúng ta sẽ muốn có phản hồi tức khắc, để đưa chúng tatrở lại đúng tiến độ; (5: Tái tạo ký ức). Nếu có thể dự đoán chính xác thời gian ghi nhớ mỗi thứ, chúng ta sẽ có thể tạo phép màu với tâm trí. Khi đó, chúng ta sẽ có thể cài báo động mỗi khi bỏ quên chìa khóa xe trên bàn, và cuộc sống sẽ là một thế giới tuyệt diệu không có sự quên lãng. Không may là các ký ức của chúng ta quá ư lộn xộn. Chúng tạo ra các kết nối không thể đoán định với mọi thứ chúng ta trải nghiệm hoặc nghĩ đến. Chúng làm rơi rụng những mảnh quá khứ và tự gắn thêm những mảnh hiện tại. Bất kể sự đề cập nào đến cái xe, chìa khóa, hoặc thậm chí chỉ là một từ vần với “chìa khóa” cũng có thể củng cố hoặc làm thui chột các ký ức có liên quan đến chiếc chìa khóa của chúng ta. Tôi không thể đếm xuể những lần ghi nhớ được một từ gì đó, chỉ để có một từ mới, nghe có vẻ giông giống từ cũ xuất hiện vào vài tháng sau và phá tan tất cả. Chúng ta không thể dự đoán chính xác khi nào sẽ quên một ký ức cụ thể, đơn lẻ. Tuy nhiên, chúng ta có thể dự đoán “hạn sử dụng” của một nhóm ký ức. Hãy cho một nhóm sinh viên học những thông tin vặt vãnh nhưng ít phổ biến, kiểu “Ai là người đã sáng tạo ra môn đánh golf trên tuyết?”[1] Sau đó, để họ tập luyện nhớ lại một lần, và kiểm tra lại sau sáu tháng. Tùy thuộc vào thời điểm của lần luyện tập nhớ lại, bạn sẽ có các kết quả khác nhau: [1]. Đó là Rudyard Kipling, người đã không thể chờ nổi đến mùa xuân để được chơi lại môn thể thao yêu thích. Trong khi viết cuốn sách The Jungle Book (Câu chuyện rừng xanh) ở vùng nông thôn Vermont, ông đã sơn đỏ các quả bóng golf, xếp những chiếc lon thiếc trên nền tuyết, và chơi say sưa. Với các sinh viên đang cố nhớ một thứ gì đó trong sáu tháng, việc luyện tập nhớ lại ngay sau khi học xong (thứ đem lại kết quả ghi nhớ là 27%) là không tệ chút nào. Nhưng khi khoảng cách tăng thành 28 ngày – 4 tuần – số điểm của các sinh viên tăng gấp đôi. Quy luật này xảy ra ở rất nhiều nghiên cứu, mặc dù khoảng cách lý tưởng nhất giữa học và ôn tập phụ thuộc vào ngày làm bài kiểm tra. Có một sự cân bằng phức tạp giữalợi thế của việc gần như quên và bất lợi của việc thực sự lãng quên, và nó chia đường cong lãng quên thành hai nửa:1 1. Con số kỳ diệu ở đây là khoảng thời gian bằng 10-20% từ lúc học đến lúc làm bài kiểm tra. Tức là, nếu sau một năm mới có bài kiểm tra, thì lý tưởng nhất là ôn tập 56 ngày một lần. Cứ như thể bộ não của chúng ta biết rằng thứ gì gặp một lần một tuần sẽ trở nên quan trọng trong 5-10 tuần tới, nhưng thứ gì gặp một năm một lần sẽ trở nên quan trọng trong 5-10 năm tới. Chỉ một lần luyện tập nhớ lại duy nhất đó đã làm thay đổi tương quan giữa gần như quên hết và ghi nhớ tương đối nhiều. Đây là câu hỏi cuối cùng: Nếu ôn luyện ngay sau khi học là tốt thì đợi thêm một thời gian còn tốt hơn, nếu ôn luyện một lần là tốt thì nhiều lần còn tốt hơn nữa, vậy sẽ ra sao nếu đợi thêm một thời gian rồi mới ôn luyện đều đặn nhiều lần? Chúng ta đã tìm ra dấu chấm hết cho sự lãng quên. Bạn học một từ mới vào ngày hôm nay và cất nó đi một thời gian. Khi nó quay trở lại, bạn cố nhớ lại, rồi cất nó đi, cứ thế cho đến khi không thể nào quên được. Trong khi đợi các từ đã học quay trở lại, bạn có thể học các từ mới và tiếp tục gửi chúng tớ i tương lai, khi gặp lại chúng lần nữa bạn sẽ đẩy chúng vào trí nhớ dài hạn của mình. Ít nhất cho đến khi chưa có công nghệ tải nhu thuật vào não bộ, đây vẫn là cách tối ưu để ghi nhớ mãi mãi một lượng thông tin lớn. Tìm kiếm khoảng thời gian chờ đợi lý tưởng nhất Bạn sẽ muốn nhớ được càng nhiều càng tốt vào lúc này, sau này, và vào rất lâu sau này. Để chọn được đúng tần suất luyện tập nhớ lại phù hợp, bạn cần cân bằng giữa hiệu quả và mức độ thoải mái của bản thân. Thông thường, chắc bạn sẽ không phải học chỉ vì một bài kiểm tra vào một ngày, vậy nên sẽ không có khoảng thời gian chờ đợi lý tưởng cố định. Để hình thành ký ức cực kỳ dài hạn, bạn sẽ có được kết quả tốt nhất khi đợi hàng năm trời giữa các lần ôn tập. Nhưng điều đó sẽ không giúp ích cho trí nhớ ngắn hạn chút nào. Hơn thế nữa, những lần luyện tập của bạn cực kỳ dễ gây nản lòng. Sau một quãng thời gian chờ đợi rất dài, bạn sẽ quên đi phần lớn mọi thứ. Mặt khác, nếu ôn luyện quá thường xuyên, bạn sẽ ghi nhớ gần như tất cả mọi thứ, nhưng những từ cũ thường xuyên quay trở lại sẽ chôn vùi bạn mỗi ngày. Mối dây liên kết giữa hai mục tiêu này – nhớ được ngay lúc này và nhớ được nhiều năm sau này – bắt đầu từ những điều nho nhỏ và lớn dần lên. Bạn sẽ bắt đầu với những mức chờ đợi nhỏ (hai đến bốn ngày) giữa những lần ôn tập. Mỗi lần nhớ thành công một điều gì đó, bạn sẽ tăng mức chờ đợi lên (ví dụ, chín ngày, ba tuần, hai tháng, sáu tháng, v.v..), chẳng mấy chốc sẽ chạm đến mốc chờ đợi hàng năm trời. Việc này giúp cho các lần luyện tập đủ thách thức để liên tục đưa thông tin vào trí nhớ dài hạn. Nếu trót quên mất một từ, bạn phải quay lại từ đầu với những khoảng chờ ngắn, và tiếp tục phát triển dần những khoảng chờ dài cho đến khi từ đó trở thành ký ức vĩnh viễn. Quy luật này giúp bạn luôn làm việc với những ký ức yếu ớt nhất, trong khi vẫn duy trì và củng cố những ký ức mạnh nhất. Bởi các từ đã được nhớ tốt sẽ lùi xa vào tương lai và xuất hiện trở lại trong những lần ôn tập sau này, việc luyện tập thường xuyên sẽ tạo nên một thế cân bằng giữa cũ và mới. Bạn sẽ dành một lượng thời gian cố định hằng ngày để học từ mới, nhớ lại các từ đã học từ tuần trước, và thỉnh thoảng gặp lại những người bạn cũ là các từ đã học từ tháng trước hoặc năm trước. Bằng cách này, bạn sẽ dành phần lớn thời gian liên tục nhớ lại những từ đã gần như quên, và xây dựng nền tảng tốt cho việc bồi đắp từ mới. Việc xác định đúng thời gian như thế gọi là nhắc lại cách quãng, và nó cực kỳ hiệu quả. Trong khoảng bốn tháng, với 30 phút luyện tập mỗi ngày, bạn có thể học và nhớ được 3.600 thẻ học với độ chính xác từ 90 đến 95%. Những tấm thẻ học này có thể dạy bạn về bảng chữ cái, từ vựng, ngữ pháp và thậm chí cả quy tắc phát âm. Chúng giúp bạn không bị nhàm chán, bởi luôn đầy thách thức. Nhắc lại cách quãng là món quà trời phú cho những tác vụ mệt mỏi của trí nhớ như học ngoại ngữ. Đáng tiếc là nó không được dạy ở trường, khi mà tôi có quá nhiều thứ để nhớ. Về cơ bản, hệ thống nhắc lại cách quãng là một danh sách nhắc việc có thể tự động thay đổi dựa vào kết quả sau mỗi lần ôn tập. Nếu bạn có thể nhớ pollo nghĩa là “con gà” sau khoảng thời gian chờ đợi hai tháng, thì hệ thống nhắc lại cách quãng sẽ tự động đợi từ bốn đến sáu tháng sau mới cho từ pollo trở lại danh sách từ cần học. Nếu hai tuần liền, bạn không thể nhớ chính xác ropa là “quần áo”, thì hệ thống nhắc lại cách quãng sẽ tự động cho nó vào danh sách thường xuyên hơn, chừng nào bạn nhớ được vĩnh viễn mới thôi. Tất cả những điều này trông sẽ thế nào khi áp dụng vào thực tế? Hệ thống nhắc lại cách quãng có hai loại: trên giấy và trên máy tính. Phiên bản máy tính có thể tự động sắp xếp lịch học giúp bạn. Mỗi lần bạn truy cập vào máy tính, nó sẽ tự động dạy bạn 20-30 thẻ học mới, và kiểm tra trí nhớ của bạn với hàng trăm tấm thẻ bạn sắp sửa quên. Công việc của bạn là cho hệ thống nhắc lại cách quãng biết bạn có còn nhớ hay không, và công việc của hệ thống nhắc lại cách quãng là xây dựng danh sách từ cần học hằng ngày dựa trên những gì bạn cung cấp. Danh sách đặc biệt này được thiết kế nhằm tối đa hóa hiệu quả ghi nhớ, đồng thời tiết kiệm thời gian học của bạn. Phiên bản hệ thống nhắc lại cách quãng trên giấy cũng làm được điều tương tự, bằng việc sử dụng hộp phân loại thẻ nhiều ngăn, lịch học chi tiết và hướng dẫn đơn giản. Về cơ bản nó là một trò boardgame giống như Cờ tỷ phú. Trò chơi này có bảy cấp độ, mỗi cấp độ tương ứng với một ngăn đã được dán nhãn (ví dụ: cấp độ 1, cấp độ 2, v.v..) Mỗi tấm thẻ đều được bắt đầu ở cấp độ 1, và tiến dần lên các cấp độ sau mỗi lần bạn nhớ ra thành công. Nếu bạn quên, tấm thẻ sẽ tự động lùi về cấp độ 1. Một khi đã vượt qua cấp độ 7, tấm thẻ đã chiếm được một vị trí trong trí nhớ dài hạn của bạn rồi. Mỗi lần chơi với phiên bản giấy, bạn sẽ tham khảo lịch học của mình để chọn các cấp độ tương ứng cần học (ví dụ: ngày 9 tháng 12, ôn lại các cấp độ 4, 2 và 1). Đây là danh sách nhắc việc hằng ngày, và nó sẽ thay đổi phù hợp với kết quả ghi nhớ của bạn, những tấm thẻ bạn nhớ được “lên cấp”, còn tấm thẻ quên thì “hạ cấp”. Bằng tuân thủ luật chơi (xem Phụ lục 3 ở cuối cuốn sách này), bạn thực chất đã tạo ra được một phần mềm máy tính thô sơ, chạy trên giấy. Phần mềm này cũng hiệu quả và thú vị như phiên bản trên máy tính vậy, và nó còn giúp bạn hài lòng theo kiểu “tôi đã tự làm hết tất cả đống này đấy”. Ở cuối chương này, chúng ta sẽ so sánh kỹ hơn phiên bản hệ thống nhắc lại cách quãng trên giấy và trên máy tính, do vậy bạn chưacần phải quyết định nên chọn cái nào ngay. Tự làm một bộ thẻ học Đây không phải là phần mềm học ngoại ngữ “Rosetta Stone”. Bạn không thể chỉ tải về một bộ thẻ học để nạp vào hệ thống nhắc lại cách quãng của mình và học được ngoại ngữ một cách thần kỳ đâu. Tại sao? Vì các tấm thẻ học có tác dụng tuyệt vời để nhắc bạn nhớ về trải nghiệm ban đầu, nhưng chúng không giỏi tạo nên các ký ức mới. Nếu bạn đọc tấm thẻ cat của ai đó khác, bạn sẽ không tự động nghĩ đến con mèo thời thơ ấu hay hình ảnh chú mèo trong bộ phim Shrek: Puss in Boots (Shrek: Chú mèo đi hia) xuất hiện trên Google Hình ảnh. Ở đây không có bộ phim, âm thanh, hay câu chuyện nào cả. Trong hoàn cảnh này, bạn rất khó hình thành một ký ức sâu sắc, đa cảm giác trong khi còn đang bận tranh thủ học trên đường đi làm. Đây không phải là lỗi của hệ thống nhắc lại cách quãng mà nằm ở bản chất củatrò chơi ngôn ngữ. SỨC MẠNH CỦA QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO Bạn đã bao giờ ôn tập bằng cách tự tóm tắt lại vở ghi chép của mình chưa? Cách học đó khá hiệu quả phải không? Khi bạn tạo ra một thứ gì đó, nó trở thành một phần của bạn. Nếu chỉ đơn giản sao chép lại tập vở ghi của ai đó, bạn sẽ không thu được nhiều lợi ích đến thế. Khi bạn cố ghi nhớ sản phẩm của người khác, bạn đang chiến đấu với vài lớp bộ lọc trong não bộ, mà bạn đang thấp cơ hơn. Dù cho tấm thẻ “cat = [hình ảnh một con mèo]” dễ nhớ hơn nhiều so với cat mèo, thì nó vẫn chưa đủ kích thích để giúp bạn lưu giữ ký ức vĩnh viễn; bởi một ai đó khác đã chọn nó, không phải bạn. Ngược lại, khi cat là một con mèo do chính bạn chọn, thì nó sẽ cho phép bạn lách qua những lớp bộ lọc trong não mình. Kết quả là bạn sẽ dễ dàng nhớ mọi thứ hơn rất nhiều. Một trong những lý do khiến các phần mềm học ngoại ngữ thường không hiệu quả là vì không ai có thể cho bạn một ngôn ngữ; bạn phải tự mình thu lấy nó. Bạn đang tái kết cấu lại chính não bộ của mình. Để thành công, bạn cần phải tham gia tích cực. Mỗi một từ trong ngoại ngữ bạn chọn phải trở thành từ của bạn, mỗi quy tắc ngữ pháp trở thành quy tắc ngữ pháp của bạn. Những phần mềm như Rosetta Stone có thể cung cấp trải nghiệm đầu tiên tương đối tốt cho những từ như “ball” (quả bóng) hay “elephant” (con voi), nhưng dần dần bạn cũng sẽ phải đối mặt với những từ như “economic situation” (tình hình kinh tế). Những từ ngữ trừu tượng như thế này cần đến kết nối phức tạp, mang tính cá nhân, nếu bạn muốn dùng chúng thuần thục. Bạn sẽ phải tự mình tạo nên các kết nối đó, bởi không ai khác có thể cho bạn biết cái “situación económica” (tình hình kinh tế) hiện đang ảnh hưởng thế nào tới chính bạn. Bạn đồng thời cũng cần ghi nhớ được các kết nối đã tạo ra, kể cả khi đang bận rộn học tiếp từ mới. Đây là một mớ bòng bong công việc cần làm một lúc, do đó bạn nên kiếm những công cụ tối ưu. Cho đến khi có công nghệ cắm USB vào sau gáy chúng ta, thì vũ khí hiệu quả nhất để chống lại sự lãng quên vẫn là hệ thống nhắc lại cách quãng. Và vì cần những trải nghiệm sâu sắc, đáng nhớ để sử dụng hệ thống này hiệu quả nhất, chúng ta nên có được trải nghiệm đó ngay trong quátrình làm thẻ học. Quá trình làm những tấm thẻ học là một trong những cách học ngoại ngữ thú vị và thư giãn nhất. Vững tâm khi biết mọi chi tiết rồi sẽ trở thành ký ức vĩnh viễn, bạn trở thành kiến trúc sư của chính tâm trí mình. Bạn nghĩ đến giống chó nào khi nghĩ đến từ “dog”? Bạn sẽ chọn ví dụ nào để gợi nhớ đến quy tắc chia động từ? Những từ ngữ nào có ích nhất, đáng học nhất với bạn? Việc đưa ra những quyết định này tạo thành một phần rất thú vị của quá trình học và, hơn hết, tốn rất ít thời gian. Sau khi đã quen với cách dùng hệ thống nhắc lại cách quãng, bạn có thể tạo thêm thẻ học mới trong chỉ vài giây. Với các danh từ, bạn có thể chỉ cần gõ một lần, tìm hình ảnh về nó trên Google Hình ảnh, và sao chép (hoặc vẽ lại nó) vào thẻ học của mình. Tất cả những điều này tốn không đến 15 giây. Hình ảnh cho các khái niệm phức tạp hơn dĩ nhiên sẽ tốn nhiều thời gian tìm kiếm hơn – một quá trình mà tự bản thân nó sẽ cho bạn những kết nối cần để biến một từ thành củariêng bạn. Tôi thật lòng ước có thể bán thẻ học của mình. Nếu tính hữu dụng của nó chuyển được sang cho người khác, tôi đã có thể kiếm được bộn tiền và giúp được bao người. Nhưng tôi lại đăng chúng miễn phí trên trang web cá nhân, với lời ghi chú là không ai ngoài tôi từng sử dụng chúng thành công. Trong số vài ngàn người từng tải xuống, chưa ai phản bác lại lời khẳng định đó của tôi, do vậy tôi có thể tự tin nói rằng bộ thẻ học của riêng tôi vô dụng với bất kỳ ai khác ngoài tôi. Nếu vẫn muốn dùng, bạn nên cân nhắc cảnh báo này nhé. Cảm giác nản lòng và số phận chiếc điện thoại thông minh Hãy thử hình dung nhanh xem điều gì sẽ xảy ra khi một ai đó (dĩ nhiên không phải bạn) dùng thẻ học của tôi. Đến một lúc nào đấy, anh ta sẽ gặp phải tấm thẻ dog, và thấy hình ảnh một chú cún con giống Golden Retriever. Tôi đã có trải nghiệm 15 giây khi tìm kiếm hình ảnh này trên Internet, thấy rất nhiều chú chó khác nhau với đủ các giống, độ tuổi, và cuối cùng tôi đã chọn chú cún giống Golden Retriever này. Trong vài giây tìm kiếm ngắn ngủi đó, tôi đã học được từ này có nghĩa là gì và chọn được một lời nhắc dễ thương cho trải nghiệm học tập của mình. Tuy nhiên, người khác sẽ phải trả lời một loạt các câu hỏi mà không có manh mối để tìm lời đáp. Liệu từ này có phải nhắc đến một giống chó cụ thể nào đó không? Một độ tuổi cụ thể nào đó? Một màu lông cụ thể nào đó? Khi dùng một bộ thẻ không được tùy chỉnh bởi chính cá nhân mình, khoảnh khắc lúng túng này của bạn cũng sẽ được ghi lại cùng với ký ức, và ý nghĩa của từ này sẽ trở nên mù mờ. Bản thân sự không chắc chắn không phải là điều quá xấu; rất nhiều sự không chắc chắn thường xuyên xuất hiện khi bạn học một ngoại ngữ ở nước ngoài. Vấn đề với sự không chắc chắn khi học bằng thẻ học là cản trở việc luyện tập nhớ lại hằng ngày, tiêu tốn thêm thời gian và khiến bạn dễ quên hơn (đồng nghĩa là tiếp tục tốn thêm thời gian). Trải nghiệm đầu tiên mà bạn nhớ với mỗi lần ôn tập sẽ trở thành: “Cái này có nghĩa là gì? Mình không có thời gian cho cái của nợ này!” Một thứ dễ dàng dẫn đến sự nản lòng. Điểm vừa nói ở trên đặc biệt nguy hiểm. Khi việc ôn tập hằng ngày khiến bạn nản lòng, bạn sẽ càng lúc càng khó ngồi xuống và thực hiện nó. Có thể bạn vẫn sẽ ép bản thân làm được trong vài tuần, nhưng sẽ cần nhiều hơn vài tuần để thấy được kết quả. Điều này trở thành một vòng lặp lại nguy hiểm, bởi cảm giác nản lòng ngăn khả năng ghi nhớ của bạn, thứ đến lượt nó lại làm tăng thêm cảm giác nản lòng khi tấm thẻ đó xuất hiện trước mặt bạn thường xuyên hơn, dần dần gây ức chế đến mức bạn muốn quăng luôn chiếc điện thoại thông minh ra ngoài cửasổ.Tất cả những điều này là không cần thiết. Quá trình học một từ mới tốn rất ít thời gian, và nên đầu tư vừa mức. Nếu bạn chỉ dành một vài giây để nhắc mình nhớ lại ý nghĩa của một từ, từ đó sẽ được ghi lại mãi mãi trong trí nhớ bạn. Điểm này được Damien Elmes, người sáng tạo ra phần mềm nhắc lại cách quãng ưa thích nhất của tôi - Anki, tóm tắt rất gọn gàng: “Tự tạo ra bộ thẻ của riêng bạn là cách hiệu quả nhất để học một môn phức tạp. Những môn như ngoại ngữ hay khoa học không thể chỉ được hiểu bằng cách ghi nhớ thông tin – chúng cần có lời giải thích và ngữ cảnh cụ thể để học hiệu quả nhất. Hơn thế nữa, tự mình nhập vào các thông tin này sẽ buộc bạn phải quyết định đâu là điểm cần nhớ để dễ hiểu hơn.” Thêm nữa, tự làm thẻ học rất vui. Bạn dành thời gian cho chính mình, để học, khám phá vàsáng tạo ra một thứ gì đó. Một khi đã làm được điều này, việc ôn luyện hằng ngày sẽ trở nên thú vị, bởi phần lớn thời gian bạn sẽ dành để nói với chính mình “Thật không thể tin được mình vẫn còn nhớ cái từ đó! Mình quá siêu!” Nó là liều tăng lực cho sự tự tin của bạn mỗi ngày, vô tình giúp bạn học ngoại ngữ, và là thói quen dễ tạo ra, dễ duy trì. Chính thói quen đã tạo nên sự khác biệt giữa thoải mái tán chuyện bằng tiếng Pháp với cô hầu bàn Paris và ngại ngùng hỏi xin menu bằng tiếng mẹ đẻ. NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ • Hệ thống nhắc lại cách quãng chính là thẻ học được bơm thuốc tăng lực. Chúng “sạc” siêu tốc cho quá trình ghi nhớ, bằng cách tự động giám sát quá trình học của bạn hằng ngày, và sử dụng những thông tin đó để thiết kế ra danh sách từ cần học mỗi ngày, được tùy chỉnh riêng cho cá nhân bạn, chứa cả những từ mới cần học và những từ cũ để ôn lại. HÃY LÀM ĐIỀU NÀY NGAY: HỌC CÁCH DÙNG MỘT HỆ THỐNG NHẮC LẠI CÁCH QUÃNG Chúng ta đã tìm ra cách đánh bại sự quên lãng. Bây giờ, phải xác định những thứ cần nhớ. Trong bốn chương tiếp theo, tôi sẽ cho bạn thấy chính xác những gì cần phải học vàlàm thế nào để học chúng. Chúng ta sẽ bắt đầu với âm và bảng chữ cái trong ngoại ngữ của bạn. Điều này sẽ cho bạn thấy cấu trúc cần để nhớ từ mới một cách dễ dàng. Để thực hiện điều này, tôi sẽ chỉ cho bạn các công cụ cũ và mới để nhanh chóng thiết lập lại tai, và sử dụng hệ thống nhắc lại cách quãng để ghi nhớ nhanh chóng những từ ví dụ cho mỗi sự kết hợp chữ cái quan trọng (ví dụ, “gn” như trong gnocchi). Rồi bạn sẽ sớm nắm vững cácâm trong ngoại ngữ. Sau khi được trang bị bằng các âm, bạn có thể bắt đầu giải quyết từ vựng. Tôi sẽ chỉ cho bạn danh sách 625 danh từ cụ thể, động từ và tính từ được dùng thường xuyên nhất. Những từ này dễ hình dung, và do đó cũng dễ nhớ. Chúng ta sẽ đưa chúng vào hệ thống nhắc lại cách quãng bằng cách kết hợp hình ảnh, kết nối cá nhân và âm thanh. Đổi lại, hệ thống nhắc lại cách quãng sẽ nhanh chóng đưa chúng vào trí nhớ dài hạn của bạn. Trong quá trình này, bạn sẽ xây dựng được một nền tảng để hình thành các phần còn lại của ngữ pháp vàtừ vựng. Cuối cùng, tôi sẽ cho bạn thấy làm thế nào sử dụng Google Hình ảnh để tìm kiếm những câu chuyện minh họa cho mỗi từ và mỗi khái niệm ngữ pháp. Bạn sẽ sử dụng những câu chuyện này để làm ra những thẻ học dễ nhớ, hiệu quả cho hệ thống nhắc lại cách quãng của mình. Chẳng mấy chốc, ngữ pháp của bạn sẽ trở thành một phản xạ, và bạn không cần phải lo lắng nữa. Mỗi từ mới sẽ củng cố thêm cho phản xạ ngữ pháp đó, và mỗi mảnh ngữ pháp mới sẽ củng cố thêm các từ mới của bạn. Ngoại ngữ của bạn sẽ tự đưa nó đến trình độ lưu loát, và bạn cũng sẽ luôn đồng hành cùng với nó. Trước khi bắt đầu, bạn cần phải đưa ra quyết định. Có hai loại hệ thống nhắc lại cách quãng chính: trên giấy và trên máy tính. Hãy chọn hệ thống phù hợp và học cách sử dụng nó. Sau đó, hãy nhìn vào thời gian biểu hằng ngày và xác định xem bạn có bao nhiêu thời gian. Chúng ta sẽ sử dụng thông tin đó để tạo ra thói quen học ngôn ngữ. Chọn một hệ thống nhắc lại cách quãng cho bạn Hệ thống nhắc lại cách quãng phổ biến nhất là loại dùng trên máy tính, và phiên bản ưa thích nhất của tôi là Anki. Ra mắt lần đầu năm 2008, Anki là phần mềm miễn phí, dễ dùng, và hỗ trợ cho mọi hệ điều hành, cả máy tính lẫn điện thoại thông minh.1 Nó tự động đồng bộ dữ liệu giữa các thiết bị chung một tài khoản, do đó bạn có thể học trên máy tính ở nhà, học bằng điện thoại thông minh trên đường đến chỗ làm, hơn hết nó cho phép bạn chèn hình ảnh và các tệp âm thanh. Bạn cho nó biết số thẻ học mới bạn muốn học mỗi ngày, và nó sẽ lo phần còn lại. Trong khoảng 30 phút mỗi ngày, bạn có thể học 30 tấm thẻ mới, và duy trì tất cả những tấm thẻ cũ. Bạn có thể tăng mức độ đó hoặc giảm xuống tùy vào thời gian biểu cá nhân. 1. Anki là phần mềm miễn phí nhưng trừ ứng dụng OFFLINE trên iPhone hoặc iPad, bạn sẽ phải trả một chút phí. Nếu bạn có kết nối Internet ổn định trên iPhone hoặc iPad thì ứng dụng này không cần thiết (dù tôi vẫn khuyến khích bạn nên cài nó). Với các thiết bị chạy Android, ứng dụng này hoàn toàn miễn phí. Nếu thích làm việc với đồ thủ công hơn, bạn có thể tự tạo ra hệ thống nhắc lại cách quãng với thẻ học bằng giấy. Được đặt theo tên của một nhà báo khoa học người Áo vào những năm 70 của thế kỷ XX, hộp Leitner là cách thông minh để sử dụng thẻ học với một số thanh ngăn và một tờ lịch. Trong phiên bản gốc, chiếc hộp được chia làm bốn ngăn. Bạn ôn tập ngăn 1 mỗi ngày, ngăn 2 hai ngày một lần, ngăn 3 ba ngày một lần, và cứ thế. Khi bạn nhớ thành công một tấm thẻ – ví dụ cat = [hình ảnh một con mèo dễ thương] – tấm thẻ đó được chuyển lên ngăn tiếp theo. Nếu bạn quên tấm thẻ đó, nó sẽ được chuyển lại về ngăn 1. Bất cứ từ nào đến được ngăn cuối cùng đều chiếm một vị trí trong trí nhớ dài hạn của bạn. Hệ thống gốc này dùng một khoảng chờ đợi ít hơn mức ta cần (một/hai/ba/bốn ngày thay vì hằng tuần/tháng), nhưng chúng ta có thể sửa nó bằng cách thêm vào vài ngăn nữa và thay đổi lịch làm việc một chút. Bạn sẽ tìm thấy hướng dẫn cụ thể và một lịch học phù hợp cho bộ hộp Leitner trong Phụ lục 3, cùng với đường dẫn tải phần mềm Anki. Bạn đang nghi ngờ việc sử dụng hộp Leitner? Khi dùng thẻ học bằng giấy, bạn sẽ hưởng lợi từ trải nghiệm tự làm đồ thủ công. Đây là một trải nghiệm học tập tuyệt vời, khiến tấm thẻ của bạn dễ nhớ hơn rất nhiều, nhưng bạn sẽ mất đi trải nghiệm này khi chuyển sang học trên máy tính. Dù vậy, phiên bản hệ thống nhắc lại cách quãng trên máy tính vẫn có một số lợi thế nhất định so với phiên bản giấy, do đó bạn đừng quyết định vội. Thứ nhất, bạn không thể khiến thẻ học bằng giấy phát raâm thanh. Bạn cần học phát âm trước khi học từ vựng, và việc học phát âm sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu những tấm thẻ học của bạn biết nói. Nếu bạn dùng thẻ học bằng giấy, bạn sẽ cần bỏ thời gian để nghe rõ phát âm của một từ, và sẽ phải sử dụng thành thạo bảng ký hiệu phiên âm . Thứ này không tốn nhiều thời gian, khá tốn công, và giờ thì bạn đừng nói rằng tôi đã không cảnh báo trước nhé. Thứ hai, việc lấy hình ảnh từ Google Hình ảnh chèn vào thẻ học trên máy tính cực kỳ dễ, và hình ảnh là cách hiệu quả nhất để nhớ một lượng lớn thông tin. Kể cả khi sử dụng thẻ học bằng giấy và là một họa sĩ siêu tồi, bạn vẫn nên vẽ hình minh họa cho mỗi từ gặp phải. Trí nhớ hình ảnh của bạn là công cụ tuyệt vời, và chừng nào bạn còn phân biệt được con chó hình que với con mèo hình que, thì bạn vẫn thu được hiệu quả. Thứ ba, quá trình tìm kiếm hình ảnh cho thẻ học trên máy tính cũng là một trong những trải nghiệm học tập vô cùng đáng nhớ. Một lần nữa, phải nhấn mạnh rằng não của bạn hút hình ảnh như bọt biển hút nước. Chỉ một vài giây lướt qua chừng 20 bức ảnh về các giống chó cũng đủ tạo nên một ký ức mạnh mẽ, lâu dài. Kể cả khi đang sử dụng thẻ học bằng giấy, bạn cũng đừng bỏ qua cơ hội học các từ ngữ qua Google Hình ảnh. Chúng ta sẽ bàn đến phần này kỹ hơn trong Chương 4. Cuối cùng, với nhiều từ, bạn sẽ phải làm hai thẻ học: Một thẻ để hiểu (bear =?), và một thẻ để diễn giải (con thú to, nhiều lông, thích ăn mật ong=?) Tạo ra hai tấm thẻ giống nhau trên máy tính rất dễ, nhưng để sao chép chúng bằng tay có thể sẽ hơi nhàm chán. Nếu nó quá chán, hãy bỏ vài tấm thẻ diễn giải đi. Bạn có thể đã đủ trải nghiệm với từ đó qua quátrình làm thẻ thủ công rồi. Và nếu từ này khó nhớ, bạn có thể làm thêm thẻ diễn giải sau đó. Hãy tới Phụ lục 3 và chọn hình thức ghi nhớ ưa thích của bạn. Nếu chọn hộp Leitner, bạn cần mua vài món (cọ, giấy, bút) và một cuốn lịch. Nếu chọn Anki, hãy tải nó về, cài đặt và làm theo video hướng dẫn của tôi cho đến khi bạn hiểu cách sử dụng. Cam kết thời gian và thói quen học ngoại ngữ Hãy dành vài phút lên kế hoạch cho thói quen học ngoại ngữ đang hình thành. Bạn sẽ có hai cam kết thời gian để tùy chỉnh: thời gian dành để làm thẻ học, và thời gian ôn luyện thẻ học. Việc ôn luyện nên được làm đều đặn, lý tưởng nhất là một khung cố định đều đặn mỗi ngày. Nếu có thể kết nối thời gian ôn luyện với một hoạt động thường xuyên (như: bữa sáng, thời gian di chuyển bằng tàu xe), bạn sẽ dễ dàng thiết lập thói quen học ngoại ngữ mới. Ôn tập hằng ngày là tốt nhất, và bất cứ thói quen ôn tập nào cũng sẽ thích nghi tự nhiên với thời gian biểu của bạn. Chẳng hạn, nếu bỏ qua ngày cuối tuần thì bạn sẽ phải ôn tập nhiều hơn vào thứ Hai. Hãy bắt đầu với một lượng thẻ học nhỏ (15 đến 30 thẻ) mỗi ngày, bạn có thể điều chỉnh nếu thấy cường độ đó khiến bạn phát điên. Như đã nói ở trên, mỗi ngày bạn có thể học 30 thẻ học mới và dành 30 phút để củng cố thẻ cũ. Nếu có quá nhiều số lượng thẻ mới, chúng sẽ quay trở lại, dù bạn có thời gian cho chúng hay không. Trong cuộc hành trình chinh phục tiếng Nga, tôi đã dành một mùa hè học 60 thẻ mới mỗi ngày (khoảng một giờ mỗi ngày). Sau mùa hè đó, khi tôi dành ít thời gian hơn hẳn, những tấm thẻ đó xuất hiện trở lại suốt hàng tháng trời trong những lần ôn tập hằng ngày. Tôi dần dần vượt qua, nhưng nếu đã bắt đầu với tiếng Nga theo cách như vậy, hẳn tôi đã phải khóc thét và bỏ chạy. Hãy học thẻ mới ở mức độ hợp lý, vừasức. Hãy nhớ rằng chúng ta đang nói đến việc học 30 thẻ mới mỗi ngày, thay vì 30 từ mới. Trong các chương tiếp theo, tôi sẽ giới thiệu cho bạn biết làm thế nào để chia nhỏ các âm thanh, từ vựng và ngữ pháp thành những mẩu nhỏ nhất, vừa vặn để dễ nhớ nhất. Bạn sẽ nhớ mỗi mẩu một cách riêng biệt. Kết quả là với một số từ sẽ cần đến một vài thẻ. Nghe có vẻ như thêm việc phải làm (“Tôi sẽ phải học bốn thẻ riêng biệt chỉ để ghi nhớ một từ tiếng Trung ư?”), nhưng thực sự, nó giúp cho cuộc sống của bạn trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Hệ thống nhắc lại cách quãng cho bạn khả năng lưu giữ mọi thứ mà bạn quẳng vào. Chừng nào bạn còn ôn tập lại các thẻ học mỗi ngày, thì không có giới hạn nào cho số lượng thông tin bạn có thể đưa vào đầu, và chừng nào những tấm thẻ của bạn còn đơn giản và dễ nhớ, bạn sẽ còn nhớ nhanh chóng và dễ dàng hơn. Còn một sự cam kết thời gian nữa – thời gian làm thẻ học – vốn thất thường hơn nhiều so với việc ôn tập. Tôi thường làm thẻ mỗi tháng một lần, ngồi trước máy tính hàng giờ và làm hàng trăm thẻ một lúc trong một ngày cuối tuần. Tôi như bị bỏ bùa khi say mê làm điều gì đó. Có thể bạn sẽ thích cách nào đó điều độ hơn chăng. Bạn sẽ thấy đó là một cách hay để tiêu tốn một buổi chiều Chủ nhật dài dằng dặc, và nếu thời gian biểu của bạn đòi hỏi một thứ gì đó thường xuyên hơn, vậy thì 20 phút mỗi ngày có lẽ là đủ. Khi bạn lỡ mất một ngày không học (và thỉnh thoảng bạn sẽ có những ngày “lỡ” như thế), đó vẫn chưa phải là tận thế. Khó khăn duy nhất là đống thẻ học của bạn đã chất cao như núi cho dù bạn có muốn hay không. Hãy nhớ, hệ thống nhắc lại cách quãng chỉ là một danh sách nhắc việc màu mè hơn thôi. Nếu hệ thống của bạn cho rằng bạn đang quên mất từ pollo, vậy thì thẻ có chứa từ đó sẽ rơi vào danh sách từ cần học hôm nay ngay cả khi bạn đang thư giãn ở Hawaii. Khi trở về từ kỳ nghỉ, bạn sẽ có một danh sách dài đợi sẵn. Lúc này, bạn nên hoàn tất việc ôn tập thẻ. Chúng sẽ đền đáp thỏa đáng cho thời gian bạn bỏ ra, và giúp bạn trở lại với nhịp độ ban đầu. Hãy tạm ngưng việc thêm thẻ mới, và dành một vài ngày ôn lại hết thẻ cũ đang “đáo hạn”, cho đến khi bạn trở lại với nhịp độ học bình thường. Một khi đã tìm ra khoảng thời gian thuận tiện để ôn tập, nhịp độ hằng ngày của bạn sẽ tự biến thành một thói quen. Những thói quen này dễ dàng hình thành vì cùng một lý do lý giải tại sao các hệ thống nhắc lại cách quãng lại hiệu quả đến thế. Tất cả các hoóc-môn giúp ghi nhớ thông tin thường khiến bạn thấy vui hơn. Bạn sẽ thấy mình tự động chộp lấy thẻ học mỗi khi bắt đầu ngồi xuống ghế tàu điện ngầm hằng ngày. Hãy kiếm cho mình vài bộ thẻ học để có thể bắt đầu ngay bây giờ. Với những người đã ở trình độ trung cấp Bạn cũng sẽ phụ thuộc vào hệ thống nhắc lại cách quãng nhiều như những người mới bắt đầu vậy. Hãy chọn hệ thống nào bạn thích và bắt đầu làm quen với cách nó hoạt động. Sau đó, hãy nhìn vào thời gian biểu của bạn và xác định xem việc học ngoại ngữ sẽ được đặt vào đâu. Chương 3 Chơi Với Các Âm Ngữ điệu là linh hồn của ngôn ngữ, thổi cảm xúc vào ngôn ngữ và khiến ngôn ngữ thật hơn. — Jean-Jacques Rousseau, Émile Giờ chúng tôi là những hiệp sĩ nói: “Ekki ekki ekki FIKANG! Zoop boing brn zroyen!” — Những hiệp sĩ màcho tới gần đó vẫn còn nói: “Ni!”, trong phim Monty Python vàchiếc chén thánh Chúng ta đã dành hai chương để trò chuyện về phương pháp học và nhớ, nhưng phải công nhận rằng chúng ta nói nhiều nhưng chưa làm được bao nhiêu. Bạn vẫn chưa học được từ nào có ích nhưng khoan mở sách ngữ pháp vội. Chúng ta hãy dấn thân vào lãnh địacủaâm thanh trước. Chúng tasẽ bàn đến rất nhiều lý do tại sao nên làm thế, nhưng lý do quan trọng nhất là: Chừng nào bạn còn không chắc về cách phát âm ngoại ngữ của mình, bạn sẽ còn mắc kẹt với việc học hai thứ ngôn ngữ thay vì một. Trong một thế giới lý tưởng, ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói luôn song hành. Chúng thoải mái chia sẻ các từ ngữ với nhau, giúp nhau vượt khó. Bạn xuất hiện, nhập hội với chúng và trở thành bộ ba chí cốt. Ngôn ngữ viết giới thiệu cho bạn vài cuốn sách hay, bạn dùng bữa tối tại nhà ngôn ngữ nói, và các bạn hết sức vui vẻ bên nhau. Vui quá đi chứ? Hai thứ ngôn ngữ đó có thêm một người bạn mới, và bạn càng ngày càng hiểu rõ chúng với tốc độ chóng mặt, bởi bạn có thể tán gẫu về những gì vừa đọc, và đọc thêm những thứ nghe được trong những cuộc tán gẫu. Tất cả những điều này sẽ đi tong nếu bạn không bắt đầu với việc học phát âm, bởi khi đó chúng tasẽ bị kẹt với một núi từ ngữ không hoàn chỉnh. Chúng ta gặp một từ ngữ không hoàn chỉnh khi chúng ta nghĩ nó phát âm kiểu này, nhưng thực tế nó lại phát âm theo kiểu khác. Những từ ngữ như thế này không thể được chia sẻ qua lại giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói, kết quả là chúng phá vỡ “hội bạn bè” mới lập. Bạn có lẽ đã từng gặp những từ ngữ không hoàn chỉnh trong tiếng Anh. Tôi chắc chắn đã từng gặp chúng; ví dụ, tôi đã từng tin chắc từ scheme trong tiếng Anh được phát âm là “sheem”. Tôi đã đọc về những từ như màu sheems, kim tự tháp sheems. Không may thay, sheem có một người bạn tên là skeam. Skeam có vẻ khá giống cả về ngữ nghĩa và cách dùng với sheem, nhưng tôi chưa bao giờ thấy cả hai từ này xuất hiện cùng một chỗ, nên chưa bao giờ biết được khi nào thì nên dùng từ nào. Tôi tránh dùng cả hai từ nhiều nhất có thể. Tôi chỉ phát hiện ra danh tính thật của skeam khi lên đại học. Vào một ngày, khi quyết định gõ vào Google cả hai từ này để xác định sự khác biệt giữa chúng, tôi khám phárarằng hai từ kiathực chất là một từ và một lỗi phátâm. Hai từ scheme của tôi sống “trong một khe đá hẹp” thuộc biên giới giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết của tôi. Khe đá này, may mắn thay, rất nhỏ. Tôi rất ít khi hụt chân rơi xuống đó và bị lúng túng, bởi “scheme” không phải là một từ thường gặp. Nhưng hãy thử dành một giây tưởng tượng xem điều gì sẽ xảy ra nếu toàn bộ ngôn ngữ bạn học cứ điểm xuyết toàn những scheme, skeam và sheem dường như luôn lẩn khuất đâu đó. Bạn sẽ không thể chắc chắn về ngữ nghĩa và cách dùng chính xác của bất cứ từ nào trong số chúng, và kết quả là bạn gặp khó khăn khi cố sử dụng và nhớ chúng. MỘT MẸO ĐỂ ĐỐI PHÓ VỚI NHỮNG NGÀY QUÊN KHÔNG HỌCKhi phải đối mặt với một các chương trình truyền hình đến mức đống thẻ flash card do một vài ngày bỏ bê , hãy tiếp tục học thêm với cường độ hai hoặc ba từ mới mỗi ngày. Nó sẽ làm mọi thứ hấp dẫn hơn một chút và không làm tăng gánh nặng về thời gian. Trong tiếng mẹ đẻ của mình, bạn ít khi rơi vào hố bẫy của những từ ngữ không hoàn chỉnh. Bạn bị bao vây bởi rất nhiều cuộc nói chuyện, sách, phim và gần như chắc chắn sẽ sửa được hết mọi lỗi phát âm dù ngớ ngẩn nhất. Với một ngoại ngữ, bạn không may mắn như vậy. Ở cuối khóa học “đắm mình” bằng tiếng Pháp, tôi ngồi trong một phòng học với bảy học sinh tiếng Pháp trình độ cao khác, cùng bàn luận về triết học. Trước đó không lâu, chúng tôi đã được đọc vở kịch Huis Clos (Kín cửa) của Sartre, và đang so sánh tư tưởng của Sartre và của Descartes. Đó có lẽ là cuộc nói chuyện hàn lâm nhất của tôi, và lại bằng tiếng Pháp. Một đồng môn của tôi giơ tay vàchỉ rarằng vẫn còn một triết gia khác chúng tôi nên bàn đến. Tên của ông triết giathứ ba đó là Dess-CART-eez. Cô ấy đã rơi vào chiếc bẫy của một từ ngữ không hoàn chỉnh, nhưng lần này, thứ ngoại ngữ cô ấy chọn học đầy rẫy những từ như vậy. Tiếng Pháp vốn khét tiếng với hệ thống chính tả kỳ lạ. Đại đa số các phụ âm cuối trong tiếng Pháp bị bỏ đi: beaux được phát âm là “bo”, và vous được phát âm là “vu”. Những điểm lạ như thế xuất hiện ở hầu hết mọi ngôn ngữ: Trong tiếng Anh, những câu như: “I’m going to go” dần được thay thế bằng “I’m gonna go,” rồi dần dần sẽ trở thành “I gonn’ go”. Những thay đổi kiểu này diễn ra ở ngôn ngữ nói nhanh hơn ở ngôn ngữ viết, do đó mỗi ngôn ngữ cuối cùng đều sẽ bị chia thành hai nửa. Tiếng Pháp cũng vậy, hai ngôn ngữ: Ngôn ngữ viết của những Descartes và ngôn ngữ nói với những Dekart. Trong thế giới lý tưởng mà chúng ta vừa bàn đến, bạn và hai thứ ngôn ngữ kia sẽ lớn lên cùng nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Khi bạn đọc một cuốn sách, các từ ngữ mới và những mẩu quy tắc ngữ pháp mới sẽ tìm được đường đi vào những cuộc nói chuyện của bạn. Trong những cuộc nói chuyện đó, bạn sẽ nghe được những từ mới khác, và những từ đó sẽ tìm được đường đi vào những gì bạn viết. Mỗi lần bạn gặp một ngôn ngữ đầu vào mới, nó sẽ giúp phát triển mức hiểu vàsự thành thạo trên mọi phương diện của ngoại ngữ bạn học. Quy trình này chỉ có thể diễn ra nếu bạn kết nối thành công những từ bạn đọc với những từ bạn nghe thấy. Người bạn đồng môn của tôi đã đọc về từ “Dess-CART-eez” trong sách, và cô ấy đã nghe thấy từ Dekart trong những cuộc nói chuyện. Bởi chưa thuần thục quy tắc “bỏ phụ âm cuối” của tiếng Pháp, cô ấy đã phải rất vất vả mới nhớ được cặp từ chưa hoàn chỉnh về hai ông triết gia có tên na ná nhau, quan điểm rất giống nhau, và nghề nghiệp cũng giống nhau này. Cuối buổi thảo luận, cô ấy đã nhận ra lỗi của bản thân, nhưng còn hàng trăm hàng nghìn từ mà chúng tôi chưa bàn đến thì sao? Liệu có những từ ngữ chưa hoàn chỉnh nào vẫn còn đang lẩn khuất trong bóng tối với những phụ âm cuối bị câm, chỉ đợi cơ hội để làm chúng talúng túng khó hiểu? Ở giai đoạn đầu, càng thuần thục kỹ năng phát âm, bạn càng tốn ít thời gian truy đuổi những từ ngữ chưa hoàn chỉnh về sau. Nếu có thể hình thành “cảm giác bản năng” về việc từ nào phát âm đúng và từ nào phát âm có vẻ sai, thì mọi từ mới sẽ dần dần tự tìm đường đi vào tai và miệng bạn, và mọi từ ngữ bạn nghe sẽ nuôi dưỡng khả năng đọc hiểu của bạn. Bạn sẽ hiểu được nhiều hơn, học nhanh hơn, và tiết kiệm được thời gian đáng ra phải dành để truy đuổi những từ ngữ chưa hoàn chỉnh. Trong khi làm vậy, bạn cũng sẽ dễ dàng ghi nhớ hơn, tạo đượcấn tượng tốt hơn với người bản ngữ, vàtự tin giao tiếp hơn. MẸO NHỎ TIẾNG PHÁP Nếu bạn gặp phải một từ tiếng Pháp có vẻ “không đúng lắm” khi đi du lịch, bạn có thể mặc định rằng mọi phụ âm cuối đều là âm câm, chỉ trừ các phụ âm có trong từ tiếng Anh “careful” (c, r, f, và l là các âm thường xuyên được phát âm). Làm thế nào bạn có thể làm điều này một cách nhanh chóng? Nếu bạn dành hai tháng chỉ để học quy tắc chính tả và quy tắc phát âm của một từ, bạn sẽ ngán tận cổ. Bạn cần một con đường xẻ ngang qua lãnh địa phát âm, một thứ có thể nhanh chóng dạy bạn những điều cơ bản, sau đó củng cố chúng và phát triển phản xạ phát âm khi bạn còn đang bận rộn học những phần khác của ngoại ngữ. Trong chương này, tôi sẽ chia nhỏ từng phần phân tích riêng về ba thử thách bạn sẽ gặp phải: luyện tai, luyện miệng và luyện mắt. Chúng ta sẽ bàn đến điểm khác nhau giữa chúng, những phương pháp đánh bại chúng, và những phần thưởng bạn có khi thành công. LUYỆN TAI VÀ THIẾT LẬP LẠI NÃO BỘ Trên bờ biển Bắc, một nhân viên bảo vệ bờ biển người Đức đang trực bên bộ đàm. “*Kshht* Mayday! Mayday! Hello, can you hear us? We are sinking!” “Ja, hallo! Zis is ze German coastguard!” “We are sinking! We are sinking!” “OK. Vat are you sinkink about?” — quảng cáo Berlitz Trong giới học ngôn ngữ, mọi em bé đều là thần đồng. Chúng có năng lực siêu nhân trong việc nghe được sự khác biệt giữa mọi âm trong tất cả ngôn ngữ, và có rất-rất nhiều âm chứ chẳng hề ít ỏi. Các ngôn ngữ trên thế giới chứa khoảng 800 âm vị (600 phụ âm và 200 nguyên âm). Hầu hết mỗi ngôn ngữ chỉ chọn khoảng 40 trong số đó để hình thành từ ngữ, mặc dù vậy độ đa dạng vẫn lớn – có một ngôn ngữ rất gọn gàng là Rotokas ở Papua New Guinea chỉ với 11 âm vị, trong khi ngôn ngữ Taa, được nói ở Botswana, lại dùng đến 112 âm vị (cộng thêm bốn thanh điệu nữa!) Một số âm vị này hoàn toàn xa lạ với một người nói tiếng Anh, nhưng hầu hết chỉ là những biến thể nhỏ của các âm thanh quen thuộc. Có ít nhất tám âm “t” trong các ngôn ngữ, và những người nói tiếng Anh hiếm khi nghe được sự khác biệt giữa bất cứ âm nào trong số chúng. Hai âm t khác nhau sẽ cho bạn sự khác biệt giữa “my cat Stan” (con mèo Stan của tôi) và “my cat’s tan” (làn da rám nắng của con mèo của tôi). May mắn là chẳng có salon nhuộm da rám nắng cho mèo nên sự khác biệt này không gây nhầm lẫn trong tiếng Anh. Nhưng nếu đang học tiếng Hàn, bạn sẽ thấy rằng âm t trong tan và âm t trong Stan được viết ra thành hai chữ cái khác hẳn nhau, và được dùng để cấu tạo nên hai từ khác hẳn nhau.Bạn không thể dễ dàng nghe được sự khác biệt giữa 10 âm t kia bởi đã được học cách bỏ qua chúng. Khi còn nằm nôi, bạn có thể nghe được tất cả những âm đó. Điều này khiến thế giới của bạn hỗn loạn vô cùng. Bạn bị bao vây bởi hàng tá người lớn liên tục nói suốt ngày, mỗi người lại có một cách nhả hơi khác nhau. Tai bạn ù đi với âm thanh của hàng trăm nguyên âm và phụ âm khác nhau, và bạn ở giữa đống hỗn loạn này, cố gắng tìm kiếm một trật tự nào đó. Bạn bắt đầu tìm ra trật tự này trong khoảng từ sáu tháng đến một năm tuổi. Các nghiên cứu của người Mỹ và người Nhật đã cung cấp cho chúng ta những số liệu đáng tin cậy. Dùng các máy quét não, các nhà nghiên cứu có thể xác định được liệu một người có thể nghe thấy sự khác biệt giữa hai âm hay không. Một người Mỹ trưởng thành khi nghe một đoạn băng đều đều “rock... rock... rock... rock... lock”, hoạt động trong não của anh ta sẽ thay đổi đột ngột khi từ “lock” phá vỡ sự đều đều; nhưng não một người Nhật trưởng thành sẽ không thể hiện sự thay đổi nào cả. Tuy nhiên, một em bé người Nhật lại không gặp vấn đề khi phân biệt hai âm này, khả năng này sẽ biến mất dần khi em bé bước vào giai đoạn sáu đến mười hai tháng tuổi. BA ÂM “T” TRONG TIẾNG HÀN Tiếng Hàn Quốc có ba phụ âm dễ bị nhầm với t: E như trong tan, CC như trong Stan, và C, một thứ nghe như hợp thể giữaâm t vàâm d. Có điều gì xảy ra ở ngã rẽ quan trọng này vậy? Bộ não của em bé đang thu thập số liệu thống kê. Có một đường ranh giới rất mảnh phân biệt giữa hai ký tự “r” -“l”, và một phụ âm có thể rơi vào bất kỳ đâu trên đường ranh giới đó. Một em bé người Mỹ thông thường sẽ được nghe hàng trăm phụ âm, mỗi phụ âm chỉ hơi khác nhau một chút, và thường sẽ rơi vào hai đống lớn ở hai bên đường kẻ này: Một bên là các âm phần lớn nghe giống r và một bên là các âm phần lớn là nghe giống l. Nếu bạn ghi âm lại một ngày điển hình của em bé người Mỹ, và sau đó đếm lại số lượng những âm trên, bạn sẽ thấy thứ này: Chúng ta hay hình dung r và l như hai âm riêng biệt, nhưng thực ra không phải vậy. Mỗi phụ âm này là một nhóm các âm nghe gần giống nhau. Chúng ta tạo ra những nhóm này dựa vào môi trường âm thanh xung quanh khi ta lớn lên. Bởi không nghe thấy nhiều âm nằm ở giữa r và l, chúng ta quyết định (một cách hợp lý) rằng tất cả người lớn cứ nói liên hồi kia chỉ đang sử dụng các biến thể của hai phụ âm mà thôi, thay vì hàng trăm phụ âm khác nhau. Một em bé người Nhật Bản cũng có thể nghe rất nhiều âm, nhưng phần lớn đều rơi vào chính giữa trục r - l: Họ (một cách rất hợp lý) nhóm tất cả các âm này thành một phụ âm duy nhất nằm giữar vàl. Phụ âm này – âm r trong tiếng Nhật – không hẳn giống r, và cũng không hẳn giống l. Nếu nghe kỹ, bạn sẽ thấy bộ não đã quen với tiếng Anh của mình không biết làm gì với âm này. Nó sẽ đi qua bộ lọc và bị xếp vào một trong hai nhóm phụ âm, hoặc r hoặc l, một cách gần như ngẫu nhiên. Khi bạn nghe một người nói tiếng Anh bằng giọng Nhật đặc sệt, hãy nhớ điều này: Không phải họ đang nói nhịu l thành r. Họ thực ra đang nói một phụ âm mà bạn không thể nghe được. Nghe được những thứ không thể nghe: Phép màu của những Cặp từ tối thiểu Hãy cùng trở lại với đối tượng người Nhật trưởng thành của chúng ta, đang nằm trong máy quét não và lắng nghe những đoạn băng đều đặn “rock... rock... rock... rock...” Như chúng ta đã bàn đến, anh ta sẽ không thể hiện bất cứ phản ứng thần kinh nào nếu chúng ta lén cho một từ “lock” vào giữa đoạn băng. Đó là một tin xấu kinh khủng cho việc học ngoại ngữ. Không phải anh ấy hiểu nhầm thứ được nghe mà thực sự không thể nghe thấy sự khác biệt giữa hai âm. Với bộ não của anh ấy, hai từ rock và lock có khi chỉ là một. Khi học tiếng Anh, anh ta phải chiến đấu với chính não bộ của mình. Cơ may nào đểanh tachiến thắng? Những nghiên cứu hứa hẹn nhất về lĩnh vực này đến từ một tập hợp các nghiên cứu được thực hiện ở Đại học Stanford và Carnegie Mellon. Các nhà nghiên cứu đãtập hợp một nhóm người Nhật trưởng thành, cho họ chút tiền, tai nghe, máy tính và yêu cầu họ ngồi yên trong một căn phòng để nghe bản ghi âm của hai từ rock và lock. Những người Nhật sẽ phải ấn vào nút có chữ rock khi nghe thấy rock và ấn vào nút có chữ lock khi nghe thấy lock. Cũng dễ hiểu khi kết quảcủa họ tệ khủng khiếp. Ngay cảsau khi đãtập luyện, kết quả vẫn rất tệ hại. ÂM “R” KHÓ HỌC TRONG TIẾNG NHẬT Âm r của tiếng Nhật (có thể được tìm thấy trong các từ như origami, rāmen và tempura) trong thực tế nghe như một sự kết hợp giữa r, l và d; với r nhiều hơn một chút so. Nó là một phụ âm cực khó với người Mỹ. Tôi đã dành nửa tiếng tập bắt chước lại băng ghi âm từ rāmen, để chuẩn bị cho một bài video dạy phát âm của tôi, và vẫn không thể nghe được hay phát âm chuẩn cái từ đáng ghét này. May mắn thay, người Nhật không bao giờ hiểu nhầm khi tôi gọi thêm biru (bia). Làm sao họ nhầm được chứ? Không có thứ gì gọi là bilu trong tiếng Nhật cả. Phép màu xuất hiện đây: Một nhóm tình nguyện viên người Nhật khác cũng được đặt vào tình huống tương tự, chỉ khác là lần này màn hình máy tính của họ cung cấp phản hồi đúng-sai ngay tức khắc sau mỗi lần họ bấm nút. Với mỗi lần đoán đúng, họ sẽ thấy một dấu tích màu xanh. Với mỗi lần đoán sai, họ sẽ thấy một chữ X màu đỏ. Đột nhiên, họ bắt đầu học được. Sau ba lần tập, mỗi lần 20 phút, họ đã thiết lập thành công não bộ của mình. Trong những lần quét não sau đó, tín hiệu não đã thay đổi rất rõ ràng mỗi lần làm bài kiểm tra “rock... rock... rock... lock...” Họ đã biết cách nghe được những thứ không thể nghe. Chúng ta có thể lấy kết quả nghiên cứu này và sử dụng chúng cho mục đích riêng. Rock và lock là những thành viên điển hình của một nhóm từ đặc biệt được gọi là cặp từ tối thiểu (minimal pairs). Đây là những cặp từ chỉ khác nhau ở một âm duy nhất, và mọi ngôn ngữ đều có vô vàn những cặp từ như thế. Tôi đã từng là dạy cho không ít người Áo học tiếng Anh về sự khác biệt giữa các cặp từ tối thiểu như thinking và sinking, SUS-pect và sus-PECT, niece và knees. Những cặp từ này là cốt lõi của việc nghe ngoại ngữ, và việc luyện tập chúng với phản hồi tức khắc làcách tốt nhất để luyện tai vàthiết lập lại não cho chúng ta. Bạn sẽ có thể tìm thấy những cặp từ tối thiểu quan trọng nhất trong ngoại ngữ ở chương đầu của rất nhiều cuốn sách ngữ pháp, loại có đĩa CD đi kèm (và chắc chắn trong tất cả các sách dạy phát âm), và tôi cũng tự đặt ra nhiệm vụ cung cấp các bài kiểm tra cặp từ tối thiểu trên trang web của mình với càng nhiều ngôn ngữ càng tốt (Fluent- Forever.com/chapter3). Những bài kiểm tra tối giản này – nó phát một đoạn băng ghi âm (“lock”) và hỏi từ mà bạn vừa nghe thấy (“rock” hay “lock”?) – lại cực kỳ hiệu quả. Ròng rã mười ngày, mỗi ngày 20 phút, tôi đã dùng chúng để học những âm (khó học đến phát ốm) của tiếng Hungary. Chúng rất thú vị, bạn có thể cảm thấy tai bạn đang thay đổi với mỗi lần lặp lại. Lợi ích của việc luyện tập: Nhận diện quy luật và Vi phạm quy luật Nếu luyện cặp từ tối thiểu vào thời gian đầu học ngoại ngữ, bạn sẽ học nhanh hơn nhiều. Bạn sẽ dễ nhớ từ mới hơn, bởi chúng không còn lạ lẫm nữa. Bạn đồng thời cũng sẽ hiểu được người bản xứ tốt hơn, bởi bạn đã nghe được những gì họ nói. Thay vì lãng phí thời gian sửa lại thói quen phát âm sai, bạn sẽ có thể dành thời gian học ngoại ngữ với tốc độ không ngờ. Làm thế nào để việc luyện tai phát huy tất cả những lợi ích này? Bạn đã tự cho mình khả năng nhận diện các âm riêng biệt, nhưng đó chưa phải là tất cả. Bởi tập trung vào các âm đó, nên bạn sẽ nhận biết được những thay đổi rất nhỏ khi nối chúng lại với nhau. Điều này cho bạn hai siêu năng lực: Bạn có thể nghe được các quy tắc phátâm, và nghe được khi nào các quy tắc đó bị vi phạm. Quy tắc phát âm là thứ kết nối chính tả với phát âm, và kết nối giữa việc phát âm âm này với việc phát âm âm khác. Chúng cho bạn biết các âm nào có thể được kết hợp với nhau (“sticks” là một tập hợp âm được chấp nhận trong tiếng Anh) và các âm nào thì không kết hợp với nhau được (“svickz” không kết hợp được với nhau). Các ngôn ngữ đều chứa những quy tắc phát âm phức tạp, và chúng ta rất giỏi trong việc nhận diện nếu có thể nghe ra chúng. Bạn có thể quan sát thấy điều này ở những đứa trẻ. Có một thí nghiệm ngôn ngữ rất hay mà các nhà nghiên cứu thích thực hiện trên những đứa trẻ 5 tuổi. Họ cho chúng xem bức hình một con chim kỳ lạ và khẳng định: “This isa wug!” Sau đó, họ cho bọn trẻ xem bức tranh có hai con chim như vậy và nói: “Now there are two of them! There are two...” và bọn trẻ vui vẻ reo lên: “Wugz!” Tất cả những điều này nghe có vẻ bình thường, nhưng hãy nhớ rằng những đứa trẻ này đang thực hiện một tác vụ phức tạp đến phi thường. Bằng cách nào đó, ở sâu bên trong những cái đầu non nớt đó, bọn trẻ đã biết rằng dạng số nhiều trong tiếng Anh của một từ hoàn toàn mới được đọc là “z”, trong khi dạng số nhiều của một từ mới khác, ví dụ như heef, lại đọc là “s” (và dạng số nhiều của từ tass đọc là “iz”). Những quy tắc này không thể coi thường, và chúng khác nhau ở mọi ngôn ngữ (những đứa trẻ người Đức sẽ nói “Vaks”, thay vì “wugz”). Nếu tai bạn nhạy cảm với mỗi âm mới trong một ngôn ngữ, bạn sẽ nhận ra được khi có một quy tắc phát âm kỳ lạ xảy ra, và mỗi lần nhận ra, bạn sẽ tiến gần hơn tới mức sử dụng thành thạo nó. Siêu năng lực thứ hai cho phép bạn nhận ra khi nào các từ ngữ vi phạm quy tắc. Trong tiếng Anh, chúng ta có rất nhiều quy tắc phát âm: Một chữ k luôn được đọc là k (như trong kick), trừ những khi không phải thế (“knife”). Điều thú vị ở những quy tắc và ngoại lệ đó là ngay cả khi chúng phức tạp đến phát điên như ở tiếng Anh (và may mắn cho bạn, chúng luôn dễ hơn trong các ngôn ngữ khác), chúng không bao giờ tạo ra các âm mới. Không có từ nào trong tiếng Anh không dùng lại khoảng 41 đến 42 âm vị. Và điều đó đúng với tất cả mọi ngôn ngữ. Nếu có thể nghe thấy tất cả các âm trong ngoại ngữ, bạn có thể sẽ ngạc nhiên trước cách viết đúng chính tả của một từ, nhưng không bao giờ ngạc nhiên trước cách phát âm của từ đó. Điều này giúp bạn học nhanh hơn bởi vì trí nhớ của bạn không cần phải nỗ lực để nhớ những âm khó diễn đạt. Nếu một từ như mjöður chỉ là tập hợp của sáu âm quen thuộc, vậy thì nó không hẳn là một từ hoàn toàn lạ lẫm nữa, và sẽ không khó nhớ hơn một từ khác thường nhưng dễ hiểu khác, ví dụ cái tên Lakira. Do vậy, bạn sẽ dễ dàng nhớ phát âm của từ mới một cách chính xác, và điều này cho phép bạn nhận ra khi một người bản xứ phát âm. Bùm! – Bạn vừa tự cho khả năng nghe hiểu của mình một cú hích cực lớn ngay từ khi bắt đầu. Khi có khả năng nghe hiểu tốt, bạn sẽ học được nhiều từ vựng và ngữ pháp hơn mỗi lần bạn nghe ai đó dùng ngoại ngữ. Bùm! – Bạn vừa mới hích cả từ vựng và kiến thức ngữ pháp của mình. Bạn thu được tất cả những điều này chỉ với chi phí vài giờ luyện cặp từ tối thiểu. Bây giờ nếu bạn có thể học cách phát âm được các âm đó thì quásức tuyệt vời. NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ • Não bộ của bạn được thiết lập sẵn để bỏ qua sự khác biệt giữa những âm nghe có vẻ lạ lẫm. Để thiết lập lại nó, hãy nghe băng ghi âm các cặp từ tối thiểu trong ngoại ngữ của bạn - những cặp từ gần giống hệt nhau, chỉ khác nhau ở một âm, như niece và knees - và thử tự kiểm tra lại, đến khi nào não bộ của bạn thích ứng với những âm mới này. • Bằng việc luyện tập, bạn sẽ dễ dàng nhận ra từ mới khi giao tiếp, và bạn sẽ dễ ghi nhớ các từ mới đó hơn. LUYỆN MIỆNG VÀ GIÀNH LẤY CÔ GÁI1 CỦA BẠN 1. Hoặc chàng trai của bạn. Không ai quan tâm bạn biết nhiều đến đâu, cho đến khi họ biết bạn quan tâm nhiều đến đâu. —Theodore Roosevelt Gần đây tôi được hỏi rằng: “Nếu tôi có bốn giờ trước khi gặp cô siêu mẫu người Campuchia, làm cách nào để chuẩn bị cho cuộc hẹn hò hiệu quả nhất?” Đây là câu trả lời của tôi: Học cách nói một câu – bất kỳ một câu nào – cho thật tốt. Hãy xem YouTube hoặc Wikipedia vài giờ đồng hồ, nhìn những bức tranh mô tả khẩu hình, và bắt chước lại các bản ghi âm cho đến khi có thể nói y như một người bản xứ trong vòng ba giây. Điều đó sẽ làm cô ấy vô cùng kinh ngạc. Ngữ điệu chính xác có tác dụng rất mạnh, vì nó thể hiện sự đồng cảm cao nhất. Nó kết nối bạn với nền văn hóa của một người khác theo cách mà ngôn từ đơn thuần không thể làm nổi, bởi bạn đã gồng mình thay đổi cả cơ thể cũng như tâm trí để khớp với nền văn hóa ấy. Bất cứ ai cũng có thể học “bông-dua” chỉ trong vài giây. Nhưng mất thời gian để học cách phát âm “bonjour”, điều khiển từng cơ bắp, từng nếp gấp, thậm chí bề mặt họng và môi của bạn khớp với cách phát âm của người bản xứ – là một biểu hiện không thể nhầm lẫn, không thể chối bỏ và không thể cưỡng lại được củasự quan tâm. Công bằng mà nói, ngữ điệu tốt đôi khi cũng có thể khiến bạn gặp chút rắc rối. Vài năm trước, tôi tới Nhật Bản và học được một vài câu tiếng Nhật đơn giản. Tôi nhớ mình đãtiến tới trước mặt một cô gái và hỏi thăm cửa hàng tạp hóa gần nhất. Đôi mắt cô ấy mở to hết cỡ, ngạc nhiên hết sức bởi ông Tây da trắng cao kều này có thể nói chuyện với mình bằng tiếng Nhật khá tốt. Và sau đó, cô ấy bắn ra một tràng tiếng Nhật. Tôi nhăn mặt, giơ tay lên và lắp bắp bằng tiếng Nhật: “Tiếng Nhật! Tôi! Không! Một ít thôi! Một ít ít thôi!” Cô ấy ngừng lại, mỉm cười, và chỉ về sang trái. Nhìn chung, tôi nghĩ việc luyện tập để có một ngữ điệu tốt vẫn rất đáng, dù nó có thể khiến người khác nghĩ bạn giỏi hơn thực tế. Tình huống còn lại – có một giọng nước ngoài nặng – sẽ khiến bạn gặp rắc rối hơn nhiều. Paris đặc biệt có tiếng xấu về điều này, người ta cho rằng một câu “bông-dua” sẽ làm hỏng bữa ăn của bạn ở bất cứ nhà hàng nào.[1] Nhưng bạn cũng có thể thấy điều này ở bất cứ đâu. Những người với giọng nước ngoài nặng thường xuyên bị coi là kém ngoại ngữ hơn so với thực tế. [1]. Tiếng xấu này ngày nay có thể không công bằng lắm. Tôi chưa từng nghe ai kể rằng gần đây họ đã tới Paris và chứng kiến bất cứ hành vi bất lịch sự nào. Mặc dù không công bằng, nhưng nó cũng dễ hiểu. Sẽ có cảm giác không thoải mái khi bạn nói chuyện với ai đó mà không chắc người kia đang nói cái gì, hoặc có hiểu bạn không. Để cố giảm nhẹ sự thiếu thoải mái này, có thể bạn sẽ bắt đầu nói to hơn, dùng những từ đơn giản hơn, chuyển sang ngôn ngữ của họ (nếu có thể), hoặc tránh nói chuyện với người đó. Cha tôi – một cách khó hiểu – luôn bắt đầu nói bằng giọng Tây Ban Nha nặng trịch mỗi lần gọi đồ ăn từ tiệm cơm Tàu: “I LIKE-A CHEEKON FRY RICE-O PLEASE-O.” Chúng ta đều có chút khó chịu khi cảm thấy người khác không hiểu mình. Điều này có thể phá hỏng hành trình học ngoại ngữ của bạn. Giờ đây bạn đang nói ngôn ngữ phổ biến nhất thế giới (tiếng Anh). Nếu bạn cố nói tiếng Pháp và những người Pháp lại thích trả lời bạn bằng tiếng Anh, thì bạn sẽ chẳng thu chút kết quả nào. LUYỆN MIỆNG Hãy cùng tìm hiểu xem làm thế nào để có được ngữ điệu tốt. Tôi thường nghe, chúng ta không thể có được ngữ điệu hoàn hảo như người bản xứ khi đã qua tuổi 12. Điều này không đúng – các ca sĩ và diễn viên làm được điều đó. Chúng tôi chỉ cần quan tâm nhiều đến phát âm – bởi sẽ không ai mở hầu bao cho một ca sĩ người Mỹ hát tiếng Đức dở tệ – vậy nên chúng tôi bỏ thời gian và luyện thật chuẩn: Chúng tôi bắt đầu từ sớm, và rèn khả năng nhận thức điều gì đang diễn ratrong miệng mỗi lần nói. Một nửa thành công của việc có được ngữ điệu tốt chẳng qua là vấn đề xác định đúng thời điểm. Các ca sĩ học phát âm đầu tiên, và do đó không phải bỏ ra hàng năm trời chiến đấu với những thói quen phát âm sai. Chúng tôi học cách nhại lại chính xác như một con vẹt trước khi hiểu nghĩa, để diễn tự tin trên sân khấu. Bạn cũng nên làm thế. Nếu đợi đến sau này mới luyện tập ngữ điệu, thì khi đó bạn đã phá hủy từng từ trong vốn từ vựng của mình hàng trăm (hoặc hàng nghìn lần) rồi. Đó là khi những sự hiểu lầm, như việc “chỉ có những đứa trẻ từ 12 tuổi trở xuống mới học được ngữ điệu chuẩn” xuất hiện, vì rất khó đảo ngược thói quen phát âm sai. Thay vào đó, khi luyện tập ngữ điệu từ sớm, bạn thường sẽ phát âm tất cả từ mới chính xác. Với mỗi từ mới được học, bạn sẽ dần củng cố các thói quen phátâm đúng, và những thói quen đó sẽ theo bạn tới hết đời. Nếu từng học một ngoại ngữ, có những thói quen xấu đã ăn sâu trong não bạn. Con đường của bạn sẽ dài hơn, nhưng vẫn còn hy vọng. Tin xấu là: Các thói quen xấu sẽ không biến mất; chúng đã bị khắc vĩnh viễn vào một khe đá nào đó trong não bạn. Chúng ta sẽ xây dựng các thói quen mới ở những khe đá kế bên. Một khi bạn đãluyện tai và miệng đến độ có thể tạo racácâm đúng, công việc của bạn sẽ là học từ mới bằng ngữ điệu của mình. Dần dần, bạn sẽ thấy có hai giọng nói trong đầu mình – một giọng cũ, chất lượng thấp và một giọng mới, hay tuyệt vời. Khi bạn cứ liên tục vàchủ ý chọn dùng giọng mới với các từ mới, bạn sẽ củng cố các thói quen tốt của mình cho đến khi chúng trở nên quen thuộc hơn thói quen xấu. Một vài “bông-dua” thỉnh thoảng vẫn lọt qua, nhưng nhìn chung bạn sẽ có ngữ điệu chuẩn và đủ sức chinh phục trái tim cô siêu mẫu người Campuchia kia.Vậy làm thế nào học được cách phát âm những âm mới? Tại sao các diễn viên vàcasĩ biết được những điều người khác không biết? Mọi thứ thực ra không phức tạp đến thế. Chúng tôi chỉ đơn giản biết rằng những âm mình phát ra được tạo nên bởi chuyển động của các cơ trong khoang miệng. Chúng tôi dần hình thành nhận thức về chuyển động của lưỡi và miệng, đồng thời kết hợp chúng theo vài cách mới. Ví dụ, khi bạn nói “oo”, như trong từ “Boo!”, môi bạn tạo thành một vòng tròn. Nếu bạn giữ môi ở tư thế vòng tròn đó khi bạn cố nói “ee”, như trong “see”, bạn sẽ tạo ra một âm nghe hơi kỳ lạ. Đây chính là một nguyên âm mới, và bạn có thể tìm thấy nó ở cuối những từ tiếng Pháp như fondue. Nếu luyện tập một chút, bạn sẽ có thể đóng vai một kẻ huênh hoang tại các bữa tiệc. (“Xin lỗi, bạn đã ăn gì cơ? Fawn-Dew? Chắc ý bạn là Fondue? Ồ, giờ thì tôi hiểu rồi!”).Để làm chủ miệng mình, bạn sẽ cần thông tin. Bạn cần phải biết miệng mình đang làm gì mỗi lần nói. Thông tin này có thể sẽ khó tiếp cận, bởi nó bị giấu trong một đống thuật ngữ ngành ngôn ngữ học khó nhằn. Những thứ như âm xát vô thanh không dễ gây hứng thú cho lắm, do đó hầu hết mọi người buộc phải dựa vào thứ miêu tả tệ hại, rối rắm như: “Nó kiểu giống như ‘ch’, như khi một người Scotland nói ‘Loch’, chỉ khác là nó ở sâu hơn trong họng, như kiểu đang súc miệng ấy, sâu hơn nữa.” Tôi đã làm một loạt video trên YouTube để giúp bạn có được thông tin cần thiết về phát âm (Fluent-Forever.com/chapter3). Hãy xem chúng. Chúng sẽ ngốn của bạn 35 phút, và sau đó, bạn sẽ hiểu được miệng của mình đãlàm những điều đó như thế nào. Trong các video đó, tôi nói về một công cụ cực kỳ giá trị có tên Bảng ký hiệu phiên âm quốc tế – International Phonetic Alphabet (IPA). Dĩ nhiên, nó được tạo ra, bởi người Pháp, những người cần tìm ra cách để đối phó với việc bốn trong số năm chữ cái của từ haies (bụi cây) là âm câm (từ này được phát âm là “eh”). Bảng ký hiệu phiên âm đó làm được hai điều tuyệt vời: nó biến các ngôn ngữ thành những âm dễ đọc, và cho bạn biết chính xác làm thế nào để tạo ra mỗi âm đó.Trong tiếng Anh, có 10 cách để ghi âm “oo” trong từ too. Trong bảng IPA, chỉ có duy nhất một cách, luôn luôn là: u. Những cách ghi âm ngớ ngẩn của tiếng Anh: food, dude, fl u, fl ew, fruit, blue, to, shoe, move, tomb, group, through. Những cách ghi âm tuyệt vời của IPA: fud, dud, fl u, fl u, fɹut, blu, tu, ∫u, muv, tum, grup,Ɵru. Mỗi một ký tự IPA không chỉ là một âm, mà còn là chuỗi hướng dẫn về cách tạo ra các âm đó. Điều này cực kỳ hữu dụng. Khi bắt đầu học tiếng Hungary, tôi đã tìm kiếm các âm của nó trên Wikipedia. Tiếng Hungary có vài âm lạ, trong đó có , đơn giản mà nói thì nó là âm j trong từ jar của tiếng Anh, nếu bạn giữ phần đầu lưỡi chạm vào phía dưới của răng. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với người Hungary về điều này, và chưa ai từng chỉ cho tôi biết phải đặt lưỡi mình ở vị trí kỳ lạ đó. Các ký tự của bảng IPA tự chúng đánh vần ra giúp tôi, và chúng cũng có thể làm điều đó giúp bạn nữa. Có hai rào cản trên đường đến đó: Bảng IPA thường chứa những biệt ngữ khó nhằn, và sử dụng những ký hiệu trông rất kỳ lạ. Tôi không thể bỏ được các ký hiệu kỳ lạ – tiếng Anh dùng 26 chữ cái để viết 42 âm, một bảng ký hiệu phiên âm cần phải có thêm các ký hiệu khác – nhưng tôi có thể chỉ cho bạn cách để lách qua đám biệt ngữ. Nhìn chung, bạn chỉ cần ba mảng thông tin để tạo nên bất cứ một âm nào: Bạn cần biết phải làm gì với lưỡi, môi và dây thanh âm của mình, và không có quá nhiều lựachọn đâu. Dây thanh âm của bạn chỉ có thể rung lên hoặc là không. Chỉ có thế – đó là sự khác biệt duy nhất giữa “ssss” và “zzzz”. Khi phát âm các nguyên âm, môi bạn về cơ bản hoặc tròn lại như âm “oo”, hoặc không. Chỉ có thế. Phần còn lại của bảng IPA tập trung vào vị trí và hành động củalưỡi. Trong Phụ lục 4, tôi cung cấp cho bạn một bảng giải mã IPA. Bất cứ khi nào gặp phải một âm lạ không hiểu nổi, bạn có thể mở trang Wikipedia về ngoại ngữ đang học (ví dụ, “IPA cho tiếng Tây Ban Nha” hoặc “IPA cho tiếng Swahili”) và so sánh nó với bảng giải mã của tôi. Bảng đó sẽ cho bạn biết phải làm gì với lưỡi, môi và dây thanh âm của mình. Bạn có thể sử dụng bảng này như một thiết bị giải mã vạn năng với khả năng phiên dịch những từ như mjöður thành một chuỗi vị trí của lưỡi, môi và dây thanh âm. Khi kết hợp với đôi tai mới luyện, bạn sẽ dễ dàng bắt chước lại cácâm mới trong ngoại ngữ. BACK-CHAINING — PHƯƠNG PHÁP CHUỖI NGƯỢC: LÀM THẾ NÀO ĐƯA NHỮNG TỪ KHÓ ĐỌC VÀO MIỆNG BẠN? Vậy là bạn đã chăm chỉ học từng âm một, bạn mở tung cuốn sách giáo khoa, và đụng ngay phải một từ tiếng Đức như: “Höchstgeschwindigkeitsbegrenzung” (giới hạn tốc độ). Giờ sao đây? Mỗi âm này không đặc biệt khó, nhưng giờ làm thế nào để khiến lưỡi của bạn nhảy qua được quá nhiều vòng liên tục thế này? Hãy đi ngược lại. Hãy đọc phần cuối của từ đó trước, sau đó thêm dần từng chữ cái cho đến khi hết cả từ. Hãy cùng thử với từ “co rúm” trong tiếng Nga (như kiểu “Tôi co rúm cả người lại mỗi lần thấy từ này”), vzdrognu. Không hiểu làm thế nào mà từ này ghép được bốn phụ âm liên tiếp lại với nhau trước khi có thể đến được nguyên âm đầu tiên. Chúng ta sẽ đi ngược lại. Bạn có thể sẽ gặp khó khăn lớn với việc cố nói vzdrognu, nhưng bạn có thể nói “nu”. Giờ bạn có thể thêm một chữ nữa vào trước nó và thử tập nói “gnu”. Khi điều đó đã trở nên thoải mái, hãy tiếp tục làm vậy, mỗi lần một chữ cái: o... gnu... ognu r... ognu... rognu d... rognu... drognu z... drognu... zdrognu (cái này hơi khó – hãy bắt chước tiếng con ong – “zzzzz” – và sau đó nói “drognu”. Zdrognu!) v... zdrognu... vzdrognu (cũng tương tự: “v.v..zzzzzz-drognu.” Giờ hãy thử nói 10 lần thật nhanh xem nào.) Đây được gọi là phương pháp “back-chaining”, phương pháp chuỗi ngược, và là mẹo truyền đời của giới ca sĩ, để tạo nên những điều kỳ diệu bằng chiếc lưỡi của mình. Bạn đang dùng ký ức của cơ để lừa cho lưỡi làm được thứ nó không thể làm trước đó. Trong khi lưỡi không thể làm được tám chuyển động mới cùng một lúc, nó có thể tạo nên sự kết hợp mới của hai âm quen thuộc. Nếu chia những từ mới dài và khó thành những cụm nhỏ, dễ đọc, bạn sẽ thấy lưỡi mình lập được những kỳ tích chuyển động. MẸO LƯỠI Phương pháp chuỗi ngược này, tình cờ, chính là cách — ăn gian — trong trò “câu đố uốn lưỡi” (dạng câu đố bắt bạn phải nói đúng hoặc nhanh các cụm từ khó phát âm). Bạn có thể dùng cách này để kết hợp các từ với nhau, cũng giống như cách bạn có thể dùng nó để nối các chữ cái. Nếu muốn một thử thách thực sự, hãy thử câu đố uốn lưỡi kinh điển này trong tiếng Séc: Strcˇprst skrz krk (câu này, cũng rất hợp lý, có nghĩa là “Hãy thọc ngón tay vào sâu trong cổ họng của bạn.”)Bạn sẽ tự hỏi tại sao chúng ta lại phải đi ngược thế. Xét cho cùng, chúng ta hoàn toàn có thể bắt đầu với “v” và tiến tới “vz”, “vzd”, “vzdr” và cứ thế. Đúng là bạn có thể làm thế, nhưng theo kinh nghiệm của tôi, cách đó không hiệu quả bằng. Với việc đi ngược từ cuối lên, bạn đang luyện lại phần cuối của từ mỗi lần thêm vào một chữ mới. Điều này khiến việc hoàn thành từ đó chính xác và tự động một cách dễ dàng. Vì thế, bạn chỉ cần tập trung một chút vào phần đầu tiên (H...), sau đó để lưỡi mình ở chế độ tự động với phần còn lại của từ (...öchstgeschwindigkeitsbegrenzung!) Bằng cách làm cho phần cuối của một từ trở nên dễ dàng và quen thuộc, bạn sẽ không bao giờ bị lạc đường tới đó. NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ • Tạo ấn tượng tốt là việc quan trọng, và ngữ điệu là thứ tạo ấn tượng đầu tiên với mọi ngôn ngữ. Ngữ điệu tốt có thể tạo nên sự khác biệt giữa cuộc nói chuyện bắt đầu bằng tiếng Pháp và kết thúc bằng tiếng mẹ đẻ, với cuộc nói chuyện hoàn toàn bằng tiếng Pháp. • Hãy cải thiện ngữ điệu bằng cách học những nguyên liệu cơ bản — vị trí của lưỡi, môi và dây thanh âm — đối với mỗi âm mới bạn cần phát âm. Bạn có thể tìm những thông tin đó trong Bảng Ký hiệu phiên âm quốc tế. • Nếu bạn gặp phải cụm âm khó đọc, hãy lần ngược lại từng chữ từ cuối lên cho đến khi lưỡi bạn có thể phátâm tự động. LUYỆN MẮT THẤY ĐƯỢC NHỮNG QUY LUẬT I have a spelling checker, It came with my PC. It plane lee marks four my revue Miss steaks aye can knot sea. Eye ran this poem threw it, Your sure reel glad two no. Its vary polished in it’s weigh. My checker tolled me sew... (Đoạn thơ trên sử dụng các từ đồng nghĩa trong tiếng Anh. Nếu chỉ nghe mà không nhìn vào chữ, bạn có thể viết ra đoạn thơ chuẩn vô cùng dễ hiểu. Hãy thử xem!) — Jerrold H. Zar, Candidate fora Pullet Surprise (trích) Bạn đã biết cách luyện tai để có thể nghe âm mới, và luyện miệng để phát âm. Nhưng làm thế nào bạn biết chính xác âm cần nói ra là âm nào? Bằng cách nào đó, bạn phải kết nối được hệ thống chính tả trong ngoại ngữ với miệng và tai mình.Giờ hãy đợi một chút. Nếu bạn chỉ muốn học nói thì sao? Trẻ con học ngoại ngữ chẳng bao giờ cần phải học đọc trước. Vậy sao người lớn lại không thể làm thế? Chúng ta có thể, chỉ là cách đó tốn thời gian và tiền bạc. Trẻ con học nói bằng cách nghe và nhìn những người lớn nói ngôn ngữ đó trong hàng nghìn hàng nghìn giờ. Người ta vô tình làm điều đó miễn phí cho lũ trẻ, nhưng thường cố tình ép bạn mở hầu bao. Trong khi đó, ngôn ngữ dưới dạng chữ viết lại vô cùng nhiều và miễn phí. Kể cả nếu không bao giờ có ý định đọc một cuốn sách bằng tiếng Pháp, bạn vẫn có thể kiếm được hàng nghìn ví dụ với hình ảnh minh họa từ Google Hình ảnh cho mỗi từ trong ngoại ngữ bạn học. Đây là một nguồn tài liệu quá lớn, không nên bỏ qua. Vấn đề với tài liệu chữ viết là nguy cơ gặp phải những từ ngữ chưa hoàn chỉnh – những từ như Dekart và Descartes – và đây là vấn đề mà chúng ta phải khắc phục. Với mỗi ngôn ngữ, thử thách này lại khác nhau, bởi mỗi ngôn ngữ có một mức độ tương hợp không giống nhau giữa chính tả và cách phát âm của âm đó. Tiếng Anh là một trong những kẻ “phạm luật” kinh khủng nhất khi nói đến cách viết – nhưng nó cũng vận hành theo một bộ quy tắc ổn định; đó là lý do tại sao bạn có thể dự đoán được cách phát âm của những từ hoàn toàn mới như: ghight, phime và moughtation. Kể cả trong tiếng Trung Quốc, thứ tiếng mà mỗi chữ đại diện cho cả một từ thay vì cho cách phát âm, bạn vẫn sẽ thấy những chữ này thường chứa gợi ý về cách phát âm, một tính năng cho phép người Trung Quốc bản xứ (và những người học tiếng Trung Quốc ở trình độ cao) có thể dự đoán được cách phát âm của những chữ mới. Mỗi ngôn ngữ đều có quy luật riêng, và công việc sẽ đơn giản hơn rất nhiều nếu nắm được những quy luật đó. Công việc này có thể dễ như ăn bánh nếu chúng ta biết mình đang làm gì. Chúng ta rất giỏi nắm bắt quy luật – kể cả một đứa bé năm tuổi (ở một nước nói tiếng Anh) cũng biết rằng dogs phát âm là dogz và cats đọc là cats. Điều kiện tiên quyết để học quy luật mới là: Phải nhận ra nó khi nó xuất hiện. Chúng ta có thể nhận ra các quy luật bằng nhiều cách – ví dụ, nghe bản ghi âm của mọi từ mới – nhưng cách tốt nhất là dùng bảng ký hiệu phiên âm. Nói vậy không có nghĩa là các bản ghi âm không giúp ích được gì. Tôi nghĩ chúng là nguồn học liệu tuyệt vời (và thậm chí còn cần thiết nữa)! Chỉ có điều, đôi khi chúng ta cần phải biết rằng mình đang nghe cái gì, thì mới thực sự nghe được. Chúng ta đã được thấy một bảng ký hiệu phiên âm tốt – bảng IPA – nhưng sử dụng bảng nào không quan trọng bằng việc thông tin mà nó truyền tải là gì. Bạn có thể dùng luôn cả những bảng phiên âm kiểu “bông-dua”, miễn là bạn biết chính xác âm đó đọc lên thế nào từ miệng của một người Pháp.1 Chúng ta cần tìm cách thấy được những gì chúng ta đang nghe và, cũng quan trọng không kém, thấy được những gì chúng tachưa nghe ra. 1. Nhưng thôi, nói nghiêm túc đấy, đừng dùng những phiên âm kiểu “bông dua”. NHỮNG GỢI Ý PHÁT ÂM TRONG TIẾNG TRUNG QUỐC Hơn 80% các từ trong tiếng Trung Quốc có chứa những gợi ý về phát âm. Ví dụ, chữ — mù — (gột rửa) có chứa một chữ nhỏ là từ chỉ cái cây — — cũng được phát âm là “mù”. Khi bạn đã phát triển cảm giác với những chữ tiếng Trung, bạn có thể đoán được phát âm của một chữ mới một cách tương đối đúng — bạn có thể đoán ra được “pang” khi phát âm chuẩn của nó là “bang”. Các chữ trong tiếng Trung Quốc cũng có thể gợi ý ra cả nghĩa của nó: — mù (gỗ/cây), — sēn (rừng). Nó là một hệ thống chữ viết rất gọn gàng. Đôi mắt chúng ta là một nguồn thu ngôn ngữ đầu vào (input) cực mạnh. Nếu không cẩn thận, chúng có thể đánh lừa đôi tai rơi vào trạng thái thiếu tập trung, ngăn chúng ta học quy luật cần thiết. Tôi từng giới thiệu cho một người bạn bộ thẻ học tiếng Pháp trên máy tính của tôi. Nó có hình ảnh một con mèo với chữ “chat” bên dưới và một bản ghiâm. “Shah,” đoạn băng phát lên (âm cuối t làâm câm). “Shot,” bạn tôi lặp lại. “Không, là‘shah’,” tôi sửa. “Ồ, được thôi,” anh ấy trảlời. “Shaht.” Tôi gặp phải vấn đề này rất nhiều lần với các học sinh học tiếng Anh. Cực kỳ khó để giúp một học sinh nói được từ “lissen” khi cậu ta nhìn thấy từ được viết ra là “listen”. Vấn đề này biến mất ngay khi tôi dạy học sinh bảng ký hiệu phiên âm. Không ai phátâm âm t trong từ “listen” khi họ đọc thấy /lisn/. Khi học một ngoại ngữ, tôi thường sử dụng kết hợp cả các đoạn băng ghi âm và bảng ký hiệu phiên âm, ít nhất cho đến khi anh chàng nói tiếng Pháp trong đầu tôi bắt đầu nói được một cách có vẻ rất Pháp. Sau đó, tôi sẽ dừng việc sử dụng các đoạn ghi âm và chỉ dựa vào bảng ký hiệu phiên âm. Nếu ngoại ngữ mà tôi học rất dễ phát âm, tôi sẽ bỏ luôn cả bảng ký hiệu phiên âm khi thấy đủ tự tin với khả năng phátâm của mình. Bạn có cần phải học một bảng ký hiệu phiên âm mới không? Không nhất thiết, đặc biệt là khi ngoại ngữ bạn học có những quy tắc đơn giản vàchặt chẽ cho cách viết chính tả của các từ, ví dụ như tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng Hungary. Khi đó, bạn có thể chỉ dựa vào các đoạn băng ghi âm. Nhưng kể cả với những ngoại ngữ này, bảng ký hiệu phiên âm vẫn có thể khiến công việc của bạn đơn giản hơn theo hai cách: Nó giúp bạn nhìn thấy và nghe được bất cứ khi nào một quy luật phát âm mới xuất hiện – khi bạn đọc thấy wugs nhưng sẽ phát âm là “wugz” – và nó cho bạn thêm một cách để nhìn vào cùng một thông tin. Bởi bản chất trí nhớ rất kỳ lạ, điều này sẽ giúp công việc của bạn trở nên dễ dàng hơn. Bằng cách học nhiều hơn, bạn sẽ phải làm việc ít hơn. Nhiều hơn lại ít hơn: Nghịch lý của việc học Nhìn bề ngoài, bạn có quá nhiều việc để làm. Bạn đang xây dựng các kết nối giữa tai, miệng, cách viết của các từ, và một bảng ký hiệu phiên âm. Tôi đã hứa với bạn một phương pháp đơn giản, nhanh chóng, và đã cung cấp cho bạn một loạt các thứ mới để học. Thay vì “rue”, phát âm là “rew” (đường phố), tôi lại cho bạn thứ này: rCách viết trong tiếng Pháp: Chỉ là “r” Biểu tượng trong IPA: Chữ R viết ngược: Vị trí của lưỡi (Phụ lục 4): phần cuối của lưỡi chạm lưỡi gà (uvula), lùi xa hơn một chút so với “k”. Loại phụ âm (Phụ lục 4): Âm rung (Trill). Để lưỡi gà (uvula) của bạn đập lên và xuống vào lưỡi bạn thật nhanh. Dây thanh âm (Phụ lục 4): Rung ueBiểu tượng trong IPA: “y” Vị trí củalưỡi (Phụ lục 4): lưỡi cao vàlên trên, như “ee” Môi (Phụ lục 4): thành một vòng tròn, như “oo” Chúng ta thậm chí còn chưa tới được đoạn “đường phố” nữa. Cái quái gì vậy?Tôi đang cố tình làm thế, và đây là lý do: Càng học nhiều về một thứ gì đó, bạn càng dễ làm chủ, và về lâu dài sẽ càng phải tốn ít thời gian hơn cho nó. Nếu bạn đang cố biến các âm “lạ” trong ngoại ngữ trở nên quen thuộc, vậy thì con đường ngắn nhất, dễ nhất là học nhiều hết mức có thể về những âm đó. Hiện tượng này xuất hiện ở mọi môn học. Khi còn nhỏ, tôi rất thích môn toán. Nó rất gọn gàng, bởi mọi thứ đều kết nối với nhau. Bạn tập nhớ rằng 3×4 là 12, và rồi bạn học rằng 4×3 cũng là 12, và cuối cùng nhận ra rằng có thể hoán đổi thứ tự của hai số bất kỳ mà bạn đang nhân. Bạn thấy rằng 3×4 và 4×3 là ví dụ của một thứ lớn hơn rất nhiều – một thứ quy luật trừu tượng, bay lơ lửng trên các con số, có tên phép nhân – và mọi ví dụ mới đều giúp bạn gói ghém thêm các quy luật trôi lơ lửng đó vào đầu mình. Quy luật đó thay đổi và trở nên tinh tế hơn qua từng điều nho nhỏ bạn học được. Sớm thôi, bạn bắt đầu nhận ra mối liên kết giữa phép nhân và phép chia, giữa phép nhân và phép lũy thừa, và giữa phép nhân và phân số. Dần dần, quy luật khổng lồ trôi nổi về phép nhân của bạn trở thành một phần của quy luật trôi nổi còn lớn hơn nữa – vũ trụ toán học. Miễn là tôi có thể kết nối mọi điều mới tôi học với vũ trụ này, tôi còn thấy dễ dàng học toán. Tôi cũng nhận ra rằng bạn cùng lớp, những người gặp khó khăn với toán, không phải đang chật vật chỉ với môn toán; họ còn chật vật với các kết nối. Họ đang cố nhớ những đẳng thức, nhưng chưa ai chỉ cho họ thấy cách các đẳng thức đó kết nối với tất cả những thứ còn lại họ đã học như thế nào. Và thế là họ đi tong. Ở một điểm nào đó trên hành trình, sự kết nối của vũ trụ toán học đã bị phá vỡ thành nhiều mảnh nhỏ, và họ đang cố học từng mảnh độc lập này – một cách học cực kỳ khó. Ai có thể nhớ được công thức tính thể tích lăng trụ lục giác cơ chứ? Làm sao bạn có thể khiến mình quan tâm đủ nhiều để thực sự nhớ? Mọi thứ sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu bạn có thể thấy cách chúng liên quan đến nhau – cách phép nhân kết nối với diện tích của hình chữ nhật, cách diện tích của các hình chữ nhật kết nối với các hình tam giác và hình thang, và cách thể tích của một khối lăng trụ có kết nối ngược lại với phép nhân. Tôi không cần phải học thuộc lòng các công thức; chúng chỉ là những ví dụ của một thứ lớn hơn rất, rất nhiều. Toán có thể khó học bởi cùng một lý do với việc học ngoại ngữ. Đến một điểm nào đó trên hành trình, bạn bỏ lỡ mất một kết nối, và nếu không ai đi ngược lại, cầm lấy tay bạn, và chỉ ra kết nối đó, thì đột nhiên bạn sẽ bị kẹt mãi mãi với việc học thuộc lòng những công thức khó hiểu. Chúng ta biết lý do dẫn đến điều này vì đã bàn đến bản chất của trí nhớ. Mỗi lần kết nối hai ký ức, chúng ta củng cố cả hai ký ức đó – các nơ-ron nào được kích hoạt cùng với nhau sẽ kết nối lại với nhau. Nếu bạn học được rằng chữ “è” trong từ mère (mẹ) của tiếng Pháp được đọc là “eh”, vậy là bạn đã tạo ra được một kết nối. Nếu sau đó bạn học được rằng chữ ai trong lait (sữa) cũng được đọc là “eh”, vậy là bạn đã tạo ra được ba kết nối: “eh” kết nối với lait, “eh” kết nối với mère, và lait kết nối với mère. Ba kết nối này sẽ dễ nhớ hơn rất nhiều kết nối đầu tiên è = “eh” của bạn. Bằng cách gắn thêm nhiều mảng, học ngoại ngữ trở nên dễ dàng hơn. Bạn đang học nhanh hơn, có nghĩalàít việc hơn về lâu dài. Tất nhiên, vẫn có những giới hạn. Có một nghệ thuật trong việc xây dựng các ký ức là sự cân bằng. Bạn có thể dành nhiều ngày ròng học những thông tin vặt vãnh về “eh”, nhưng không chắc nó giúp bạn học được tiếng Pháp. Mặt khác, nếu bạn bỏ qua nó, và tôi chỉ đơn giản bảo bạn hãy học một núi từ tiếng Pháp, bạn sẽ quay trở lại lớp học toán, ngồi học thuộc lòng những công thức. Làm thế nào để xác định được khi nào thì nhiều hơn là ít hơn, và khi nào thì nhiều hơn đơn giản là nhiều hơn? Chìa khóa quan trọng ở đây là sự liên quan. Nếu bạn thấy một thứ có vẻ hữu dụng, vậy thì nó đáng học. Nếu không, nó không đáng học. Trong Phụ lục 4, tôi có cung cấp cho bạn một bảng giải mã cho toàn bộ bảng IPA, nhưng nếu cuốn sách dạy ngoại ngữ ưa thích của bạn không dùng đến các biểu tượng IPA, vậy thì đừng ghi nhớ các biểu tượng IPA làm gì (chỉ dùng chúng để tham khảo thôi).1 Nếu bạn đã biết cách phát âm “ee” rồi (và bạn chắc chắn đã biết rồi, nếu đã đọc đến đây), vậy thì bạn không cần phải lo lắng đến vị trí lưỡi của mình nữa. Mặt khác, nếu một âm nghe có vẻ lạ và khó, vậy thì hãy say sưa với nó. Học tất cả mọi thứ. Hãy học cách viết, cách nói trong miệng, mối liên quan của nó với các âm khác bạn đã biết. Hãy xem cuốn sách dạy ngoại ngữ hoặc cuốn từ điển của bạn để biết chúng được ký âm như thế nào. Hãy tìm vài từ ví dụ có chứa âm đó. Hãy làm bất cứ thứ gì có thể, bạn càng làm nhiều, công việc sẽ càng ít đi. Đó là một phép màu. 1. Công bằng mà nói, bảng giải mã của tôi vẫn còn thiếu một vài âm trong IPA, nhưng có lẽ bạn cũng sẽ không cần mấy âm click chỉ thấy trong vài thứ tiếng ở châu Phi đâu. NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ • Mỗi một ngôn ngữ đều chứa các quy luật kết nối giữa cách viết chính tả và cách phát âm. Nếu bạn có thể thuần thục các quy luật đó và làm cho chúng trở nên tự động, bạn sẽ tự tiết kiệm được rất nhiều công sức. • Cách đơn giản nhất để thuần thục các quy luật đó là dùng hệ thống nhắc lại cách quãng của bạn. Hãy tạo các thẻ học để ghi nhớ mọi quy tắc trong cách viết mà bạn cần. • Hãy tiếp cận những âm mới và những quy luật phức tạp ở càng nhiều góc độ càng tốt — từ cách viết đến cách phát âm, thậm chí đến từng vị trí của miệng cho mỗi âm. Bạn đang lợi dụng một đặc điểm kỳ lạ của việc học: Càng học được nhiều mảnh nhỏ, bạn càng tốn ít công sức để học chúng. HÃY LÀM ĐIỀU NÀY NGAY: HỌC HỆ THỐNG PHÁT ÂM TRONG NGOẠI NGỮ CỦA BẠN Không cần thiết phải tốn nhiều thời gian mới học được hệ thống phát âm của một ngôn ngữ. Nếu bạn đang bắt đầu học một ngoại ngữ, tiếng Tây Ban Nha chẳng hạn, bạn có thể nghe vài bản ghiâm, nhìn vào vài từ ví dụ của mỗi cách viết khác nhau, và sau đó học sang từ vựng. Nếu bạn đang học tiếng Ả Rập, thì bạn có thêm một chút việc nữa để làm. Nhưng “làm việc” là một từ quá mạnh. Tôi nhận thấy “làm việc” với các âm thanh rất vui và thú vị, và tôi không tin rằng tôi thấy thế chỉ vì tôi là ca sĩ. Ngược lại có vẻ đúng hơn. Âm thanh là cách kết nối suy nghĩ với cơ thể mình. Chúng ta thấy một con đại bàng trên bầu trời, chúng ta quay sang một người bạn, lưỡi chúng ta đẩy lên cao, môi chúng ta bật mở, và dây thanh âm của chúng ta làm việc. “Đại bàng!” Để diễn đạt lại câu của Rousseau theo một cách khác, khi học được một ngữ điệu, chúng ta đang thu lấy linh hồn của ngôn ngữ. Đây không phải làlàm việc, đây làsự sẻ chia, đồng cảm. Hãy cùng bắt đầu nào. Ở phíacuối cuốn sách này, bạn sẽ tìm thấy một phần có tên Phòng trưng bày. Ở đó, bạn sẽ học được cách làm các thẻ học phát âm, nhưng việc bạn dùng chúng như thế nào (và liệu bạn có dùng chúng hay không) phụ thuộc vào việc bạn chọn con đường nào. Có hai con đường cơ bản để đi qua phần phátâm: Con đường cơ bản vàcon đường không chính thống. Con đường cơ bản dùng đến những tài liệu học tập đã được xuất bản: hoặc sách ngữ pháp với đĩa CD hoặc một bộ sách/CD đặc biệt được dành riêng cho việc luyện phát âm. Nếu cuốn sách ngữ pháp của bạn đi kèm với các bản ghi âm, rất có thể nó cũng sẽ chứa một loạt các bài giảng phát âm rải rác trong khắp cuốn sách. Hãy lờ đi tất cả các phần từ vựng và ngữ pháp trong đó và bắt đầu ngay vào phần phát âm. Ở đó, hãy nghe và bắt chước lại các đoạn băng, sau đó chuyển sang bài phát âm tiếp theo cho đến hoàn tất. Nếu cuốn sách ngữ pháp của bạn chỉ có chữ và không có đĩa CD, hãy cân nhắc đến việc mua một cuốn chuyên dạy phát âm với đĩa CD đi kèm, và luyện tập hết từ đầu đến cuối. Nếu bạn cần sự trợ giúp để nhớ một âm hoặc một cách viết đặc biệt nào đó, bạn có thể chọn vàlấy bất cứ thẻ học nào từ Phòng trưng bày. Con đường không chính thống sử dụng các công cụ chúng ta đã bàn đến – các bài kiểm tra cặp từ tối thiểu để luyện tai, dùng bảng IPA để luyện miệng, và hệ thống nhắc lại cách quãng để đưa chúng vào đầu – đồng thời xây dựng một bộ công cụ luyện phát âm từ chúng. Những bộ công cụ luyện tập này kiểm tra khả năng nghe cho đến khi bạn có thể nghe được những âm của ngoại ngữ đang học, kết nối được những âm đó với các quy tắc chính tả, và sau đó nhập hết các thông tin này vào đầu bạn thông qua hệ thống nhắc lại cách quãng. Tôi đã giúp công việc của bạn trở nên dễ dàng hơn bằng cách làm hết các việc vất vả vàtẻ nhạt; tôi đang cấp tập tạo các bộ công cụ luyện phátâm cho nhiều ngôn ngữ nhất. Nếu trong những việc tôi làm, có thứ phù hợp với ngoại ngữ bạn đang học, hãy kiếm nó về ngay. Những bộ công cụ này rẻ hơn sách hướng dẫn phát âm, và có thể làm tốt hơn (và nhanh hơn) con đường cơ bản. Nếu dùng chúng, bạn sẽ không cần làm bất cứ thẻ học nào lúc này; chỉ cần tải chúng xuống, cài đặt, vàchỉ trong vài tuần, bạn sẽ làm chủ được việc phátâm. Nếu tôi chưa làm được bộ công cụ luyện phát âm cho ngoại ngữ bạn chọn học (hoặc nếu bạn thích tự làm mọi thứ một mình), vậy thì hãy chuyển ngay tới Phòng trưng bày đầu tiên. Ở đó tôi sẽ chỉ cho bạn cách làm một bộ công cụ luyện phát âm của riêng mình trong chỉ vài giờ. Bạn sẽ sử dụng kết hợp nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Các nguồn tài liệu CHUYẾN THAM QUAN NHANH NHỮNG CÔNG CỤ LUYỆN PHÁT ÂM (ĐƯỜNG DẪN CÓ TẠI FLUENT-FOREVER.COM) Tài liệu về phát âm là một mớ lộn xộn. Một số cuốn sách bắt đầu với một chương chi tiết dành trọn cho bảng chữ cái, hệ thống chữ viết, và phát âm, với CD chứa đầy cách phát âm của từng âm vị, các cặp từ tối thiểu, các từ ngữ ví dụ, và cả các câu ví dụ. Lại có những cuốn khác chỉ cung cấp cho bạn một câu tóm tắt chung chung (“Một số nguyên âm trong tiếng Pháp là âm mũi”). Đây là những thứ bạn có thể dễ dàng tìm thấy: Nguồn tài liệu miễn phí: Công cụ quan trọng! – Forvo.com (cung cấp miễn phí các bản ghi âm từ). Trước nhất, hãy làm quen với Forvo.com. Cung cấp các bản ghi âm của hơn 2 triệu từ trong 300 ngôn ngữ khác nhau do người bản xứ đọc, miễn phí. Một khi bạn đã bắt đầu làm thẻ học, Forvo sẽ trở thành người bạn thân mới của bạn. Nếu bạn đang sử dụng Anki, hãy đưa các bản ghi âm từ Forvo vào thẻ học. Nếu bạn đang sử dụng một chiếc hộp Leitner, hãy ôn lại danh sách từ cần học ít nhất một tuần một lần, đọc to các từ mới nhất lên, sau đó bật các bản ghi âm của các từ đó trên Forvo, và nếu âm bạn đọc không giống băng, hãy làm lại cho đến khi nào giống thì thôi. Một khi đã liên tục phát âm chính xác, bạn có thể dừng việc kiểm tra lại với Forvo kiểu này, nhưng cho đến lúc đó, hãy sử dụng nó thường xuyên. Không có lý do gì để thuần thục một ngoại ngữ với khả năng phát âm tồi, bởi sẽ không ai nói nó cùng với bạn đâu. Rhinospike.com (cung cấp miễn phí bản ghi âm cho các ví dụ): Rhinospike là một trang web tiện dụng để tìm các đoạn băng do người bản xứ đọc. Bạn gửi lên một đoạn chữ viết, ai đó sẽ đọc và ghi âm cho bạn, thường trong khoảng 24 tới 48 giờ. Nếu sách dạy ngoại ngữ của bạn có một danh sách các cặp từ tối thiểu nhưng không đi kèm với bản ghi âm, bạn có thể kiếm ai đó trên Rhinospike để ghi âm giúp. Đây cũng là nơi tuyệt vời để kiếm bản ghi âm những câu đầy đủ với ngữ điệu chuẩn, vậy nên nếu sách dạy ngoại ngữ của bạn có các câu ví dụ, hãy tải chúng lên Rhinospike. MỘT GỢI Ý CHO TRANG RHINOSPIKE Yêu cầu cho bản ghi âm bạn cần sẽ được đáp ứng nhanh hơn nếu bạn đọc và ghi âm lại thứ gì đó bằng tiếng Anh cho một ai đó khác. Đây là cách trang này khuyến khích mọi người ghi âm. Công cụ quan trọng! – Loạt video dạy phát âm của tôi trên YouTube (Fluent- Forever.com/chapter3): Hãy xem chúng. Chúng hướng dẫn bạn tham quan một vòng tất cả những điều cần biết về miệng bạn và bảng IPA. Chúng khiến việc phát âm trở nên dễ hiểu, và cung cấp cho bạn một trong những công cụ phátâm mạnh mẽ nhất, bảng IPA. Công cụ quan trọng! – Bảng IPA của Wikipedia cho tiếng Tây Ban Nha, Pháp, v.v.. là công cụ tôi đã từng nhắc. Bạn có thể sao chép tất cả những từ ví dụ của nó cho mỗi âm, và kết hợp với Phụ lục 4 để được hướng dẫn các vị trí miệng giúp đọc lên bất cứ âm lạ nào trong ngoại ngữ của bạn. Từ điển trực tuyến (Wiktionary.org): Wiktionary đang trở thành nguồn tài liệu tuyệt vời cho rất nhiều ngôn ngữ, với phần ghi chú phát âm bằng ký hiệu IPA cho rất nhiều từ. Từ điển trực tuyến (các từ điển khác): Mỗi ngôn ngữ đều có một vài từ điển trực tuyến, và một số có chất lượng rất tốt. Trên trang web của tôi có ghi lại đường dẫn đến những từ điển trực tuyến tốt nhất. Các từ điển số hóa kèm thông tin phát âm là thứ rất tiện dụng nếu bạn đang sử dụng Anki; bạn có thể gõ từ vào ô tìm kiếm, sao chép thông tin phátâm, vàtích hợp vào thẻ học. YouTube chứa những nguồn tài liệu lẫn lộn và không phải lúc nào cũng có chất lượng tốt, nhưng tôi thấy nó đặc biệt hữu dụng cho những câu hỏi như “Làm thế nào để uốn lưỡi cho âm r của tiếng Tây Ban Nha?” Bạn không phải lúc nào cũng được lắng nghe từ các chuyên gia, nhưng vẫn sẽ được nghe lời khuyên tốt của những người bản xứ. Viện Nghiệp vụ Ngoại giao Hoa Kỳ (fsi-language-courses.org) cung cấp sách dạy 41 ngoại ngữ, tất cả đều miễn phí và mở (không vi phạm bản quyền nếu tải về), hầu như tất cả đều có đi kèm với các tệp MP3, và khoảng một nửa trong số các sách này bắt đầu với phần dạy chi tiết về phát âm, đủ cả các cặp từ tối thiểu, quy tắc cách viết chính tả của các âm và bài tập. Những sách này đã cũ và một vài cuốn cực kỳ chán, nhưng rất nhiều cuốn có các bản ghi âm cực tốt. Nếu cố gắng không buồn ngủ thì bạn sẽ có tất cả những thông tin cần thiết. Nguồn tài liệu trả phí: Các bộ công cụ luyện phát âm của tôi (Fluent-Forever.com/chapter3) cung cấp cho bạn các bài kiểm tra cặp từ tối thiểu, quy tắc đánh vần, các từ ví dụ, đầy đủ từ vựng để khắc sâu âm thanh và quy tắc chính tả của các âm. Chúng chạy trên Anki, và trong suốt quá trình sử dụng, bạn cũng sẽ hiểu cách dùng Anki như thế nào (và bạn sẽ sẵn sàng tự làm thẻ học cho mình). Italki.com giúp bạn liên lạc với những người bản xứ sẵn sàng nói chuyện cùng, hoặc giúp bạn tập nói chỉ với một khoản phí rất nhỏ, hoặc để đổi lại việc bạn nói tiếng Anh với họ trong một khoảng thời gian tương tự. Bạn có thể dành một tiếng ôn lại các từ đã học với họ và nhờ họ sửa lại cách phát âm, điều có thể giúp ích rất nhiều cho việc học của bạn. Một cuốn sách hướng dẫn phát âm tốt sẽ đi kèm với đĩa CD, cung cấp sơ đồ vị trí của lưỡi và miệng, đồng thời giúp bạn từng bước vượt qua hệ thống phát âm. Những cuốn tốt nhất luôn đi kèm với các bài kiểm tra cặp từ tối thiểu. Nếu ngoại ngữ của bạn không có chúng thì quảlà đáng tiếc. Một bộ sách kèm đĩa CD cực tốt bắt đầu với cuốn hướng dẫn phát âm và cung cấp mọi thứ bạn cần. Một cuốn từ điển tốt sẽ hướng dẫn bạn bảng ký hiệu phiên âm, thậm chí có thể bắt đầu với việc hướng dẫn quy tắc chính tả. Nếu bạn mua một cuốn từ điển giấy với thông tin phát âm từng từ rõ ràng, thì bạn có thể dễ dàng lấy ra ví dụ khi làm thẻ học. Với những người ở trình độ trung cấp Một số người học ở trình độ trung cấp rất may mắn. Họ được học với những giáo viên luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của các thói quen phát âm chuẩn, và do đó tự tạo dựng được nền móng vững chắc. Họ dễ dàng nghe ra các âm khác nhau của ngoại ngữ, phát âm của họ tốt, và họ đã phát triển được cảm giác trực giác về mối liên hệ giữa cách phát âm và chính tả. Những người khác thì không được may mắn thế. Bạn cần tự đánh giá trung thực năng lực bản thân. Sau đó, bạn có thể chọn lấy công cụ cần thiết. Nếu bạn gặp khó khăn với việc phân biệt giữa các âm gần giống nhau trong ngoại ngữ (ví dụ, sự khác biệt giữa roux và rue trong tiếng Pháp), vậy thì bạn nên sử dụng các bài kiểm tra cặp từ tối thiểu. Hãy dùng một trong các bộ công cụ luyện phát âm của tôi, chúng được làm ra để dành cho những lúc như thế này. Nếu bạn đã có thể nghe thấy các âm, nhưng vẫn gặp khó khăn với việc phát âm, vậy hãy ghé qua Phụ lục 4, hoặc kiếm một gia sư trên italki.com để được kèm thêm phần phát âm cho đến khi phát triển được cảm giác trong miệng cho từng âm.Nếu bạn không thể nhớ được cách viết chính tả nào đi với âm nào, hãy sử dụng thẻ học có trong Phòng trưng bày đầu tiên. Bất cứ nỗ lực nào bạn bỏ ra lúc này đều sẽ đẩy nhanh tốc độ cho toàn bộ phần còn lại của hành trình. Nó đồng thời cũng đảm bảo rằng những người bản xứ sẽ thực sự nói với bạn, thay vì chuyển sang tiếng Anh ngay khi họ có thể. Chương 4 Chơi Với Các Từ Và Bản Giao Hưởng Của Từ Thốt ra một từ cũng giống như chơi một nốt nhạc trên phím đàn của trí tưởng tượng vậy. — Ludwig Wittgenstein Trời, những người Pháp đó! Họ có một từ khác nhau cho tất cả mọi thứ. — Steve Martin Nhìn bề ngoài, từ ngữ có vẻ đơn giản. Chúng ta chỉ về phía một con vật nhiều lông và đặt tên cho nó. “Dog” (con chó). Và một từ mới xuất hiện. Đây mới chỉ là một phần nhỏ của câu chuyện. Trong chương trước, chúng ta đã học cách nghe được các âm của một ngoại ngữ, nhưng chưa học được cách nghe thấy âm nhạc của nó. Và chúng ta cần phải làm được thế, bởi vì chúng ta đang nhắm tới sự thành thạo. Chúng ta muốn nói trôi chảy mà không cần bận tâm về ngữ pháp hay phiên dịch, và chìa khóa để đạt được năng lực này nằm bên dưới bề mặt của mỗi từ. Ở đó, nếu học được cách lắng nghe, chúng ta sẽ nghe thấy một bản giao hưởng khẽ khàng. Trong chương này, bạn sẽ tìm thấy các công cụ cần để nghe được bản giao hưởng. Những công cụ này sẽ dạy cho bạn những gì mà người Pháp nghĩ đến khi họ hình dung về déjeuner (bữa trưa), và cung cấp những công cụ cần thiết nhất về ngữ pháp để nói về déjeuner khi bạn sẵn sàng. Chúng ta sẽ cùng bàn về việc những từ nào nên học trước vàlàm thế nào để học được chúng một cách dễ dàng. Bạn sẽ học cách bỏ qua việc phiên dịch và suy nghĩ trực tiếp bằng ngoại ngữ ngay từ đầu.Vậy có gìẩn bên dưới bề mặt củacác từ ngữ? Mỗi từ trong não bộ của bạn chứa đựng bên trong mọi liên kết thần kinh (neural pattern) từng kết nối với nó. Từ “dog” của bạn có chứa một phần nhỏ của mọi con chó mà bạn đã từng nhìn thấy, nghe thấy hay đọc về chúng. Nó được hình thành bởi hàng nghìn trải nghiệm mà bạn và tôi chưa bao giờ cùng chia sẻ, ấy vậy chúng ta vẫn có thể nói chuyện về “dog” và bộ não của chúng ta vẫn sẽ sáng lên gần như theo cùng một cách giống nhau. Từ ngữ, xét cho cùng, thực ra chính là bộ não dùng chung của tất cả chúng ta. Trong cùng một nhóm, chúng tachỉ vào các sự vật và nói ratừ tương ứng, cho đến khi trí óc và não bộ điều chỉnh khớp với nhau – một dàn nhạc khổng lồ của rất nhiều tâm trí đến độ những người chơi vĩ cầm ở Los Angeles không thể nào nghe được những người chơi vĩ cầm ở Pennsylvania, nhưng chúng vẫn có thể hòa âm hoàn hảo với nhau. Thật không thể tin nổi, đó chỉ là một từ! Và các hợp âm mà chúng ta chơi cũng không hề đơn giản; chúng chứa hàng nghìn các nốt nhạc, kết nối giữa âm thanh, cách viết, ý nghĩa và ngữ pháp. Ngữ pháp cung cấp các nốt thấp nhất: Bạn và tôi sẽ không bao giờ nói về “an dog” hay “dog”, như khi nói về “an elephant” hay “beer”. Đây là ngữ pháp của từ “a dog”, và nó rung lên trong đầu chúng ta − một âm nhói cao, kéo dài, vang lên từ phía dàn vi-ô-lông-xen. Các âm và các quy tắc chính tả cũng đang được chơi, tất nhiên rồi. Chúng có lẽ đến từ dàn sáo gỗ, và nói với chúng ta rằng hãy viết “d-o- g-s” và nói “dawgz”, màchẳng cần mất tới một giây suy nghĩ. Ý nghĩa của từ ngữ đóng vai trò như giai điệu của bản giao hưởng, và nó cũng không phải là một bài hát ngắn, đơn giản; đó là một tập hợp chói tai của hình ảnh, các câu chuyện và cả những từ có liên quan khác. Tôi có thể trỏ đến một quả bóng nhỏ đầy lông xù và nói “dog”, và bạn sẽ đồng ý. “Yes,” bạn sẽ nói. “That is a dog” Sau đó, tôi có thể trỏ đến một con giống Great Dane khổng lồ và nói “dog”, và bạn vẫn sẽ đồng ý. Tôi thậm chí có thể nói những câu như “In a remarkable display of dogged determination, he won the race” và bạn vẫn sẽ hiểu, ngay cả trong trường hợp không có con “dog” nào thực tế trong câu chuyện của chúng tacả. Ngoài khoảng 20 định nghĩa về dog, còn có vô số những từ ngữ anh em khác của nó. Khi từ “dog” đi vào não bộ của bạn, 1.000 những từ anh em sẽ sẵn sàng, và 10.000 từ không có liên quan sẽ rút lui về phía sau. Một con “dog” sẽ “bark” (sủa), nhưng nó sẽ không “yell” (kêu la) hay “shout” (hét lên). Bạn có thể “pursue someone doggedly” (theo đuổi ai đó một cách kiên trì), nhưng bạn thường không “doggedly eat a sandwich” (kiên trì ăn một chiếc bánh sandwich), ngay cả khi đó là một chiếc bánh sandwich rất lớn. Các từ ngữ tự động đi cùng nhau, và theo bản năng, bạn ngay lập tức biết được những từ nào kết hợp được với nhau và những từ nào thì không. Tất cả những mảnh ghép này – các mẩu ngữ pháp, phát âm, cách viết, ý nghĩa vàcác từ ngữ có liên quan – được chứatrong một bản giao hưởng khổng lồ có tên “dog”. Và ngay khi tôi nói với bạn rằng sobaka là từ tiếng Nga cho “dog”, thì toàn bộ bản giao hưởng này sẽ sụp đổ thành một tiếng tù vàsolo lạcâm. Những con chó không thân thiện Bạn có thể nói lưu loát vì những từ ngữ của bạn khớp với nhau một cách tự động. Khi nghĩ đến “dog”(con chó), bạn ngay lập tức truy cập được vào hàng nghìn từ khác có thể xuất hiện tiếp trong câu chuyện của mình. Con “dog” của bạn có thể sẽ “yip”, có thể sẽ “bark”, hoặc có thể sẽ cứu cậu bé Timmy ra khỏi giếng. Bạn có rất nhiều lớp bản năng đã được gắn vào từ “dog”, và bạn mất đi những bản năng này ngay tức khắc khi dịch từ đó sang một ngôn ngữ khác. Tại sao? Bởi vì việc phiên dịch đãlột hếtâm nhạc ra khỏi các từ ngữ. Bản giao hưởng “dog” của chúng ta chỉ tồn tại trong tiếng Anh, không ai khác có thể nghe thấy nó. Khi còn học tiếng Nga ở trường, chúng tôi đã xem một bộ phim mà nhân vật chính say rượu, để quên khẩu súng ngắn của mình, và bị mấy con “sobaka” ăn thịt. Nghiêm túc đấy. Trong tiếng Anh, “dogs are man’s best friend” – chó là người bạn trung thành của con người. Trong tiếng Nga, sobaka để lại những chiếc giày ống trống rỗng, đầy dấu răng. Tôi đã nói với bạn rằng sobaka là từ tiếng Nga chỉ “dog” (con chó), nhưng điều đó không hoàn toàn đúng. Kể cả khi một con Chihuahua và một con giống Great Dane lớn đều là các loại “sobaka”, chúng ta vẫn còn thiếu đi những phần còn lại của dàn nhạc. Đâu rồi những ngữ pháp, phát âm, hay cách viết? Đâu rồi những ý nghĩa khác của từ này? Bạn sẽ không bao giờ nghe về “displays of sobaka-ed determination”. Đâu rồi những từ ngữ anh em có thể khiến sobaka trở nên sống động trong tâm trí bạn? Hãy học cách lắng nghe bản giao hưởng trong các từ mới của chúng ta. Bởi một khi nghe thấy nó, bạn sẽ không bao giờ muốn nghe bản dịch của nó – cái người chơi tù vàlạc tông vô duyên phá dàn nhạc kia – lần nào nữa. ĐIỂM BẮT ĐẦU: CHÚNG TA KHÔNG NÓI NHIỀU VỀ NHỮNG QUẢ MƠ Một số người rất giỏi ăn nói, và một số người khác... À, ừm, không giỏi ăn nói. —Steve Martin Bạn không thể học được thứ âm nhạc trong những từ ngữ của mình cho đến khi bạn biết phải học từ nào. Làm thế nào tacó thể biết nên bắt đầu từ đâu? Không phải tất cả các từ sinh ra đều bình đẳng, chúng ta sử dụng một số từ thường xuyên hơn nhiều so với các từ khác. Tiếng Anh có ít nhất 250.000 từ. Nhưng nếu chỉ biết 100 từ thông dụng nhất trong tiếng Anh, bạn vẫn có thể nhận ra một nửa của mọi thứ đọc được. Chúng ta có rất nhiều lợi thế khi biết những từ thông dụng. Để công bằng, cũng phải nói rằng phần nhiều trong số các từ này là “từ chức năng” – những từ lấp chỗ trống quen thuộc như be và of, in và on – và chúng cư xử khác nhau trong mỗi ngôn ngữ, vậy nên bạn không thể bắt đầu với việc học chúng. Bạn sẽ cần một vài danh từ trước khi có thể gắn những từ như “in” hay “on” vào chúng. Kể cả khi bạn tạm bỏ qua các từ chức năng, bạn vẫn có thể tìm thấy một nhóm từ hữu dụng, đơn giản, có thể dùng hằng ngày. Những từ này là một nơi tuyệt vời để bắt đầu học một ngoại ngữ, bởi bạn sẽ thấy chúng ở khắp nơi. Chúng sẽ giúp bạn làm việc hiệu quả hơn, bởi bạn không lãng phí thời gian của mình với những từ hiếm. 79% khả năng bạn sẽ nói về mẹ mình nhiều hơn cháu gái. Vậy sao không học từ “mẹ” trước và“cháu gái” sau? Sách ngữ pháp và các lớp học ngoại ngữ không làm theo nguyên tắc này, một phần vì sẽ dễ dàng hơn khi lên kế hoạch bài học xung quanh các chủ đề như “gia đình” và “hoa quả”. Kết quả là bạn sẽ tìm thấy “cháu gái” và “mẹ” ở chính xác cùng một nơi trong sách ngữ pháp của mình, bất kể sự khác nhau về tần suất sử dụng của chúng. Ở lớp học ngoại ngữ, bạn được học từ quả mơ, quả đào; trong khi sẽ có ích hơn nhiều nếu dành thời gian đó học về các từ máy tính xách tay, y học và năng lượng. Đây là những từ về cuộc sống của chúng ta. Tại sao lại không học chúng trước? Xin được giới thiệu: Danh sách các từ xếp theo tần suất sử dụng. Các nhà nghiên cứu đã lấy một khối lượng văn bản khổng lồ – hàng triệu từ ngữ từ các kịch bản truyền hình, tiểu thuyết, báo chí, Internet, chương trình tin tức, các nghiên cứu học thuật và tạp chí – và nạp tất cả chúng vào máy tính. Máy tính đếm số lượng các từ và nhả ra vàng: Các từ trong một ngôn ngữ, được xếp theo thứ tự quan trọng. Đây là một công cụ phi thường. Với chỉ 1.000 từ, bạn sẽ nhận ra được gần 75% những gì bạn đọc. Với 2.000 từ, bạn sẽ đạt 80%. Như bạn dự đoán, hiệu năng của nó cũng sẽ giảm dần sau một thời gian, nhưng những danh sách từ xếp theo tần suất sử dụng này cũng cung cấp một nền tảng đáng kinh ngạc cho ngôn ngữ của bạn. Trong thực tế, chúng cũng rất kỳ lạ. Bạn có khả năng để nói chuyện về những chủ đề phức tạp trước khi nói được những chủ đề “đơn giản” như vẫn thấy trong sách giáo khoa. Tôi đã có mặt tại một khóa học “đắm mình” bằng tiếng Nga với 1.000 từ thông dụng nhất trong đầu. Trong bài thi đầu vào, tôi phải viết bài tiểu luận cho hai câu hỏi: Câu hỏi 1: “Bạn có một bữa tiệc. Bạn sẽ mua gì? Hãy tạo một danh sách mua sắm.” Câu hỏi 2: “Liệu mức lương của một giáo viên có nên được tính theo thành tích học tập của học sinh?” Với câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên, tôi khá xấu hổ. Tôi không có từ vựng phù hợp cho một danh sách mua sắm. Tôi đã viết cái gì đó như kiểu: “Tôi sẽ mua thịt! Rất nhiều thịt. Thịt gà, thịt bò và thịt lợn! Thơm ngon! Tất cả các loại thịt. Và... bia! Rượu vodka! Ngoài ra, nhiều chai rượu! Ồ phải, ngoài ra, chúng tasẽ có bánh mì với pho mát!” Với câu trả lời cho câu hỏi thứ hai, tôi viết một tràng bốn trang dài về chính sách của chính phủ ở Mỹ và ảnh hưởng của phương tiện truyền thông đến dư luận. Họ xếp tôi vào lớp trình độ cao. Trong vòng một vài tuần, tôi đã “nhặt” đủ lượng từ vựng còn thiếu. Danh sách muasắm củatôi giờ đã dài hơn đáng kể rồi. Những danh sách từ xếp theo tần suất sử dụng không phải là “giải pháp kết thúc” cho việc học từ vựng – sẽ tới lúc bạn có thể muốn nói chuyện về cô cháu gái của mình và tình yêu của cô bé với những quả mơ – nhưng chúng là nơi lý tưởng để bắt đầu. Chúng ta đã đề cập tới các vấn đề cơ bản của phát âm, và bạn có thể học được rất nhiều những từ ngữ xa lạ mà không cần dùng đến một chút tiếng Anh nào; những chú chó ở Nga có thể không thân thiện, nhưng trông vẫn giống các chú chó ở bất cứ nơi nào khác. Như vậy, bạn có thể học những từ này chỉ bằng hình minh họa mà không chuyển ngữ. Vậy chúng tasẽ bắt đầu như thế nào? Nhóm từ thông dụng nhất không giống nhau ở mọi ngôn ngữ; bạn sẽ không cần tới từ “Đảng Cộng hòa” để học tiếng Nga, và “hợp tác xã nông nghiệp” kiểu Liên Xô sẽ không xuất hiện trong tiếng Tây Ban Nha nhiều lắm. Mỗi ngôn ngữ có một danh sách từ theo tần suất sử dụng riêng (từ điển xếp theo tần suất của Routledge là tốt nhất), và những danh sách đó rất thú vị, thú vị bởi cả những từ màchúng bao gồm và những từ ngoài lề. Thật không may, danh sách này có thể khá rườm rà. Ít nhất là trong giai đoạn đầu, bạn sẽ cần tìm kiếm những từ giàu hình ảnh, dễ hình dung – những từ như “xe buýt” và “người mẹ”. Bạn sẽ tìm thấy chúng trong danh sách từ xếp theo tần suất sử dụng, nhưng bạn cũng sẽ phải dẹp qua hàng trăm từ chức năng như the, và hàng trăm từ trừu tượng như society (xã hội). Điều này có thể khá tẻ nhạt, đó làlý do tại sao tôi sẽ bày cho bạn một lối tắt để “lách” quachuyện này. Dù có sự khác nhau giữa các ngôn ngữ, nhưng có một số sự trùng lặp nhất định trong các từ thường gặp nhất của mọi ngôn ngữ. Chúng ta sẽ sử dụng sự trùng lặp này để tiết kiệm thời gian. Trong Phụ lục 5, bạn sẽ tìm thấy một danh sách 625 từ (bằng tiếng Anh). Những từ này rất thiết thực, dễ hình dung, và dễ dịch – những từ như dog, school, car và city. Tôi sẽ chỉ cho bạn làm thế nào để biến chúng thành các thẻ học, và đưa chúng vào hệ thống nhắc lại cách quãng của bạn với hình ảnh minh họa(mà không cần dịch). Bởi trên những thẻ học không có bất kỳ từ nào bằng tiếng mẹ đẻ của bạn, bạn sẽ học cách nhìn thấy một con chó và ngay lập tức nghĩ về các từ tương ứng trong ngoại ngữ bạn. Không có bước phiên dịch đáng ghét nào cản đường, và điều đó sẽ cho bạn những phần thưởng đáng kể. Đầu tiên, bạn sẽ củng cố được nền tảng phát âm đã xây dựng trong các chương trước. Với mỗi từ học được, bạn sẽ ngày càng trở nên quen thuộc hơn với các âm và cách viết chính tả của nó. Kết quảlà bạn sẽ thấy ngày càng dễ nhớ từ hơn. Thứ hai, bạn cũng sẽ quen với việc kết nối âm thanh với hình ảnh và khái niệm. Bạn đang học cách tiếp thu từ mới, giống như khi còn bé. Khi đó, bạn hỏi cha mẹ: “Cái gì kia ạ?”,“Một con chồn hôi”,“Ồ”. Và một khi đã hỏi, bạn sẽ không bao giờ quên. Bây giờ, bạn sẽ có công cụ để tự tìm kiếm những thông tin này. Hơn nữa, nhờ hệ thống nhắc lại cách quãng, bạn sẽ học từ mới nhanh hơn so với một đứa trẻ, và biết được nhiều chữ ngay từ đầu. Thứ ba, bạn sẽ thường xuyên học được các tiền tố và hậu tố quan trọng mà không cần phải cố gắng – như -er trong teacher, hoặc -tion trong station ở tiếng Anh – điều này sẽ làm cho các từ mới trong tương lai với cùng các tiền tố và hậu tố đó trở nên dễ nhớ hơn. Cuối cùng, khi học đến ngữ pháp và từ vựng trừu tượng, bạn đã biết hầu hết các từ mà bạn cần. Điều này khiến phần còn lại của ngoại ngữ dễ học hơn nhiều. Thật dễ dàng để nói một câu như “My dog chased a cat up a tree” (Con chó của tôi đuổi theo một con mèo lên một cái cây) khi bạn đã biết con chó, con mèo, đuổi theo và cái cây. Bạn sẽ biết các nhân vật, hành động trong câu chuyện của mình, và ngữ pháp đơn giản sẽ cho bạn biếtai đang đuổi theo ai. NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ • Bạn sẽ sử dụng một số từ thường xuyên hơn nhiều những từ khác. Hãy học những từ đó trước. • Trong Phụ lục 5, tôi cung cấp cho bạn một danh sách 625 từ đơn giản, thông dụng. Những từ này dễ hình dung, và do đó bạn có thể học chúng bằng hình ảnh thay vì các bản dịch. Điều này sẽ cung cấp cho bạn nền tảng cần thiết để dễ dàng học các từ trừu tượng và ngữ pháp trong hai chương tiếp theo. TRÒ CHƠI VỚI TỪ NGỮ Chúng ta không bao giờ thực sự sống, hoàn toàn là chính mình, hoặc mê mải với bất cứ điều gì hơn lúc chúng ta đang chơi. — Charles Schaefer Chúng ta có hai mục tiêu trong chương này: nghe được âm nhạc trong từ ngữ và ghi nhớ chúng. Trong Chương 2, chúng ta đã nói chuyện về các bộ lọc trong não bộ và làm thế nào chúng cứu chúng ta khỏi tình trạng quá tải thông tin. Để học từ vựng hiệu quả, chúng ta sẽ cần phải vượt qua các bộ lọc, bằng cách tạo ra những trải nghiệm thú vị, đáng nhớ với từ mới. HÃY SỬ DỤNG NHỮNG CUỐN TỪ ĐIỂN NHỎ Những cuốn như Lonely Planet Phrasebook và phần chú giải từ mới ở cuối các sách ngữ pháp là những nguồn tài liệu lớn, bởi chúng chỉ chứa các từ cơ bản nhất. Một cuốn từ điển lớn có thể cung cấp cho bạn 10 từ đồng nghĩa cho từ “ngôi nhà”. Bạn chỉ cần một từ như thế ngay lúc này, và bạn sẽ tìm thấy nó dễ dàng trong các phần chú giải từ vựng hoặc một cuốn phrase book. Bạn có thể thực hiện được những mục tiêu này thông qua một loạt các trò chơi nhỏ khi học từ mới. Trò chơi đầu tiên sẽ cho bạn thấy những từ mới thực sự có ý nghĩa gì, và trò chơi thứ hai sẽ kết nối các ý nghĩa đó với cuộc sống của chính bạn. Ở đây, “vui” là quan trọng nhất. Nếu bạn cảm thấy chán, các bộ lọc trong não sẽ được bật, và khối công sức học từ mới quý báu của bạn sẽ bị rò rỉ. Vì vậy, hãy dành ra một lúc để vui chơi, việc đó sẽ hiệu quả hơn nhiều. Để tạo ra một ký ức sâu sắc, đa cảm giác với một từ, bạn sẽ cần phải kết hợp nhiều thành phần: cách viết chính tả, cách phátâm, ý nghĩa và kết nối cá nhân. Chúng ta đã bàn về chính tả và phát âm trong các chương trước, và bạn sẽ củng cố thêm các kiến thức đó với mỗi từ mới học được. Bạn có thể tìm kiếm cách viết chính tả của mỗi từ trong từ điển hoặc phần chú giải từ mới ở cuối sách ngữ pháp, và bạn sẽ có thấy cả thông tin phát âm, sau đó bổ sung cho nó bằng các bản ghiâm tại Forvo.com. Tiếp đến là ý nghĩa của các từ. Trò chơi 1 – Phát hiện điểm khác biệt: Tìm nghĩa qua Google Hình ảnhTrong phần đầu của chương này, chúng ta đã bàn về những hạn chế của việc phiên dịch – nó lột bỏ hết âm nhạc ra khỏi các từ ngữ. Chúng ta sẽ đưa âm nhạc trở lại bằng cách chơi với cuốn sách minh họa lớn nhất thế giới: Google Hình ảnh. Google Hình ảnh là công cụ tìm kiếm hình ảnh của Google. Bạn có thể đã sử dụng nó rồi. Bạn hãy vào images.google.com, gõ “smiling man with an iguana” (người đàn ông cười với con kỳ đà), và poof, bạn có 200.000 hình ảnh của những con kỳ đà và những người đàn ông. Nếu cố thêm chút nữa, bạn có thể lấy những hình ảnh này, lôi một cuốn từ điển ra, và làm thẻ học cho la iguana (kỳ đà), el hombre (người đàn ông) và sonreír (cười). Đây là cách sử dụng thời gian tốt, nhưng chưa hẳn thú vị. Bạn có thể làm tốt hơn, bằng cách tìm kiếm các từ bằng ngoại ngữ. Ẩn bên dưới lớp vỏ ngoài đầy màu sắc của Google Hình ảnh là một kho báu: mỗi hình ảnh đi kèm với một chú thích, và các chú thích đó có trong 130 ngôn ngữ. Bạn có thể tìm kiếm những từ ít được biết đến – ví dụ, từ aiguillage (cần gạt đường sắt) – và nhận được 160.000 ví dụ của từ đó trong ngữ cảnh, cùng với nhiều hình ảnh thiết bị chuyển mạch đường sắt hơn việc bạn biết phải làm gì với chúng. Đây là nguồn vô hạn những câu chuyện minh họa hiệu quả về tất cả các từ bạn cần phải học.1 1. Google thỉnh thoảng tắt một số dịch vụ của mình (trong thực tế, 35% các dịch vụ của Google dần biến mất, vì các lý do khác nhau, từ thiếu lợi nhuận cho đến thiếu người sử dụng). Nếu điều này xảy ra với Google Images Basic Version, tôi sẽ đăng một số lựa chọn thay thế tại www.fl uent-forever.com/GoogleImages. Những hình ảnh này đến từ các trang web viết bằng ngoại ngữ bạn đang học, và vì vậy chúng có thể cho bạn biết chính xác một từ được sử dụng như thế nào. Từ tiếng Nga devushka có nghĩa là “cô gái”. Cũng đơn giản đấy. Nhưng Google Hình ảnh sẽ kể cho bạn một câu chuyện nhiều sắc thái hơn (và lạ hơn nữa). Gần như mọi devushka trên Google Hình ảnh đều là pha ảnh cận cảnh bộ ngực của một cô gái 18 tuổi trong bộ bikini. Bạn nhìn vào điều này và nghĩ rằng “Hừm!” Chính cái “Hừm!” này là thứ mà chúng ta đang tìm. Đó là thời điểm bạn nhận ra rằng các từ tiếng Nga không phải là phiên bản nghe buồn cười hơn so với tiếng Anh; mà là các từ tiếng Nga và các từ tiếng Nga “mặc ít quần áo hơn bạn tưởng” (đặc biệt khi khí hậu ở đó lạnh đến thế!) DÙNG GOOGLE HÌNH ẢNH NHƯ MỘT CUỐN SÁCH TRANH Để tìm các câu chuyện trong Google Hình ảnh, hãy tìm kiếm một từ và cuộn mãi xuống phía dưới cùng của trang. Ở đó bạn sẽ thấy nút “Chuyển đến phiên bản cơ bản” (Switch to Basic Version). Mỗi hình ảnh giờ sẽ hiển thị lên bên cạnh chú thích tương ứng của nó. Những khoảnh khắc “Hừm!” này được ghim chặt trong não bạn bởi chúng thú vị. Dù cho bạn có thể sẽ cảm thấy hơi khó chịu trước các sắc thái tình dục hơi quá trong từ devushka, nhưng chắc chắn bạn sẽ nhớ chúng. Khi tìm kiếm một từ bằng Google Hình ảnh, bạn đang chơi trò “Phát hiện điểm khác biệt” giữa những gì bạn mong đợi để xem và những gì bạn thực sự thấy. Trò chơi này rất vui; Internet chứa đầy những hình ảnh vui nhộn, kỳ lạ trong tất cả các ngôn ngữ. “Bà ngoại” trong tiếng Đức sẽ thế nào? “Cái bánh” trong tiếng Hindi là gì? Hãy dành 10 đến 20 giây để chơi (và sau đó chuyển sang từ khác – trước khi bạn bị cuốn vào nó hàng tiếng đồng hồ!) Bạn sẽ lưu trữ ký ức trong trò chơi này vào thẻ học. Mỗi khi gặp một khoảnh khắc “Hừm!”, bạn đã trải qua một trải nghiệm đa cảm giác phong phú với từ mới. Bạn sẽ muốn thẻ học đưa bạn trở lại được những trải nghiệm này. Bạn sẽ chọn một hoặc hai hình ảnh đặc biệt gợi nhớ – có lẽ một trong những người bà bạn thấy rất Đức – và bạn sẽ đặt chúng vào thẻ học. Nếu đang vẽ tay, thì bạn có thể vẽ ra bất cứ thứ gì bạn muốn để nhắc mình nhớ lại. Tôi ngờ rằng bạn sẽ chọn vẽ mấy cô devushka mặc bikini. Trò chơi 2 – Trò chơi trí nhớ: Kích thích ý nghĩa thông qua kết nối cá nhân Hình ảnh tự thân chúng đã rất mạnh mẽ. Ở một nơi nào đó trong đầu, bạn lưu trữ tất cả các hình ảnh đã từng nhìn thấy. Trong quá trình tìm kiếm hình ảnh của mình, bạn tạo ra một trải nghiệm đáng nhớ, độc đáo cho mỗi từ, và thẻ học đóng vai trò như những thứ gợi nhớ trò chơi “Phát hiện điểm khác biệt” của riêng bạn. Bởi bạn tự chọn (hoặc vẽ) hình ảnh, bạn sẽ có thể phân biệt giữa các từ có hình ảnh dễ dàng trùng lặp với nhau như “girl” (cô gái), “woman” (phụ nữ), “daughter” (con gái), “mother” (mẹ), “granddaughter” (cháu gái) và “grandmother” (bà ngoại). Bạn có thể khiến những ký ức về từ mới trở nên rõ ràng hơn nữa bằng cách thêm vào một kết nối cá nhân. Tên grand-mère (bà ngoại) của bạn là gì? Con chat (mèo) nào bạn nghĩ đến đầu tiên? Bạn đang tìm kiếm bất kỳ ký ức nào có thể kết nối với từ mới. Nếu có thể tìm thấy một ký ức nào như thế, bạn đã nhớ từ mới của mình hơn 50%. Kể cả nếu bạn không thể tìm được ký ức cá nhân nào để kết nối với từ mới, bản thân quá trình tìm kiếm ký ức thôi cũng kích thích bạn dễ nhớ từ hơn. Tôi đãcố gắng tìm thấy một kết nối cá nhân với con số harminckettő (32) trong tiếng Hungary. Tôi không thể. Đó là một con số tồi tệ nhất trên đời. Tôi không nghĩ rằng mình đã từng nói “32” trong tiếng Anh. Bây giờ, bất cứ khi nào tôi nhìn thấy harminckettő, suy nghĩ đầu tiên của tôi là “Ồ, đó là 32, con số tồi tệ nhất trên đời.” Nhiệm vụ hoàn thành. Để chơi trò chơi trí nhớ, bạn hãy dành một vài giây tìm kiếm bất kỳ ký ức nào xuất hiện trong đầu về từ mới đang học. Nó có thể là con mèo thời thơ ấu, hoặc cái áo T-shirt của một người bạn. Cố gắng giữ từ mới đó trong đầu, chứ đừng nhớ bản dịch của nó. Bạn sẽ tạo ra một số câu lai hai thứ tiếng là lạ như “Lần gần đây nhất, tôi nhìn thấy grand-mère (bà ngoại) của tôi là vào cuối tuần trước.” Đừng lo lắng về việc sai ngữ pháp tiếng Pháp; không ai có thể nghe thấy bạn lúc này. Khi làm thẻ học, bạn sẽ viết ra một lời nhắc nhở nho nhỏ về ký ức này − thành phố bạn đã ở cuối tuần trước, tên của một người bạn mà bạn đã quen, v.v.. Sau đó, khi xem lại thẻ học, bạn sẽ chơi lại cùng một trò chơi như trước. Bạn sẽ thấy bức hình một con mèo, dò trong trí nhớ để tìm bất cứ thứ gì có kết nối với nó, và nếu thấy bối rối, bạn có thể tìm thấy một lời nhắc nhở hữu ích ở mặt sau thẻ học. Những kết nối này không phải là mục tiêu chính của bạn – bạn muốn nhìn thấy một con mèo và nghĩ ngay đến chat – nhưng chúng có thể khiến cho công việc của bạn dễ dàng hơn, bằng cách kết nối chat và grand-mère tới cuộc sống của bạn, chúng sẽ dễ nhớ hơn nhiều. NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ • Bạn có thể ghi nhớ từ mới bằng hai cách: + Tìm hiểu câu chuyện củachúng. + Kết nối những câu chuyện đó với cuộc sống củachính bạn. • Khi bạn tạo các thẻ học, hãy sử dụng công cụ kể chuyện hay nhất từng được phát minh: Google Hình ảnh. • Sau đó, hãy dành một chút thời gian để tìm ra một kết nối giữa mỗi từ và trải nghiệm sống củariêng bạn. GIỐNG CỦA MỘT CỦ CẢI Tôi không muốn nói chuyện ngữ pháp. Tôi muốn nói chuyện như một quý cô trong một cửa hàng hoa. — Eliza Doolittle nói với Henry Higgins (Pygmalion, George Bernard Shaw)Đến lúc này, bạn đang làm khá tốt. Bạn đã dùng cách viết và cách phát âm của một từ và kết nối nó với cơ man hình ảnh. Bạn đã chơi trò “Phát hiện điểm khác biệt”, và lựa chọn được một hoặc hai hình ảnh yêu thích; bạn cũng đã chơi trò chơi “Trí nhớ” và kết nối từ với trải nghiệm cá nhân. Bạn đã tạo nên một ký ức đa cảm giác cho từ mới của mình, và bạn có một hoặc hai thẻ học để nhắc bản thân nhớ lại về tất cả những trải nghiệm này vào đúng thời điểm khi bạn cần nó. Dàn nhạc nhỏ tuyệt vời của bạn đang bắt đầu chơi. Bạn đã xong chưa? Có lẽ. Bạn vẫn đang thiếu dàn vi-ô-lông-xen – ngữ pháp, nhưng bạn có lẽ cũng chưa cần đến nó bây giờ. Việc bạn cần một chút ngữ pháp bây giờ hoặc để sau tùy thuộc vào ngoại ngữ nào bạn đang học. Tôi sẽ giải thích sau.Trong tiếng Anh1, chúng ta đối xử bình đẳng với hầu hết các danh từ. Chúng ta có thể lấy một câu – “Tôi đã mua một con chó” – và tráo đổi một danh từ khác vào – “Tôi đã mua một con mèo” – mà không cần phải thay đổi ngữ pháp. Thật không may, điều này lại không thể thực hiện được trong nhiều ngôn ngữ. Những con mèo của một số ngôn ngữ có thể rơi vào một nhóm ngữ pháp khác với nhóm của những con chó. Đây từng là trường hợp của tiếng Anh; 1.000 năm trước đây, chúng ta nói chuyện về án docga (một con chó) và ánu catte (một con mèo), sẽ khốn khổ nếu bạn quên mất chữ u trong ánu. Theo thời gian, chúng ta trở nên cẩu thả dần với ngữ pháp của mình, và quên đi sự khác nhau về ngữ pháp giữa chó và mèo, nhưng nhiều ngôn ngữ khác thì không. Trong các ngôn ngữ này, bạn cần phải ghi nhớ nhóm ngữ pháp của mỗi danh từ để xây dựng câu. Đây chính là giống từ ngữ pháp, và là một nỗi phiền không để đâu cho hết. 1. Cũng như tiếng Việt. (DG) Tiếng Anh hiện đại vẫn chứa những loại điên rồ tương tự. “Tại sao, ôi tại sao,” các học sinh tiếng Anh của tôi ca thán, “chúng ta lại không thể nói “buy a milk” (mua một sữa)?” Tôi biết điều này. “Bởi vì ‘milk’ là danh từ không đếm được.” Tôi trả lời. “Bạn có thể sẽ muốn ‘a gallon of milk’ (một ga-lông sữa) hoặc ‘a cup of milk’ (một cốc sữa), ‘a drop of milk’ (một giọt sữa) hoặc ‘a swimming pool of milk’ (một bể đầy sữa).” “Thế nhưng tại sao chúng ta không thể nói với nhau ‘an information’ (một thông tin)?” Họ đáp lại. “Bạn có thể có ‘một thông tin’ để nói mà”. Điều này đúng. Người Đức thường xuyên nói về “một thông tin” hoặc “những thông tin” mà không gây ra sự nhầm lẫn nào. Tôi thử giải thích bằng hình ảnh: “Trong tiếng Anh, ‘information’ (thông tin) có tính... ẩn dụ. Chúng ta hình dung về thông tin giống như một đại dương lớn, chúng talấy ra một chút và nói về nó.” “Vậy còn từ ‘luggage’ (hành lý)? Tại sao lại không thể nói ‘a luggage’ (một hành lý) trong tiếng Anh? Chẳng lẽ hành lý cũng có tính ẩn dụ hay sao?” Thực ra, các học sinh của tôi đang hỏi là: “Tại sao ngữ pháp lại không có tí logic nào vậy?” Và câu trả lời rất sáng tỏ: Ngữ pháp là tấm gương phản chiếu chính chúng ta. Nó là lịch sử sống về mong muốn “hợp lý hóa” các từ ngữ của chúng ta. Trong tiếng Anh, chúng ta hiện đang chuyển dần từ sneaked sang snuck. Với nhiều đôi tai, snuck dường như “nghe hay hơn”, nhưng đó không phải là lý do chúng ta làm thế. Chúng ta làm thế bởi nó làm cho hai động từ bất hợp lý – stuck và struck – dường như trở nên bớt bất hợp lý hơn. Chúng ta cũng đã làm điều này với từ “catched” hàng trăm năm trước1, đưa nó vào cùng một nhóm với taught, bought và thought, và có lẽ chúng ta rồi cũng sẽ biến dragged thành drug trước khi thế kỷ tiếp theo kết thúc. Chúng ta thích có những nhóm từ tuân theo các quy tắc, kể cả khi những quy tắc đó – trong trường hợp này là động từ bất quy tắc – không thực sự hợp logic chút nào. 1. Biến nó thành “caught”. (DG) NGOẠI NGỮ MỚI BẠN ĐANG HỌC CÓ SỬ DỤNG GIỐNG NGỮ PHÁP KHÔNG? Có thể lắm. Giống là một phần nổi bật của ngôn ngữ Proto-Indo- European (hệ tiền hệ Ấn - Âu), ngôn ngữ được nói vào thiên niên kỷ thứ IV trước Công Nguyên của một bộ lạc sống du mục ở phía Tây Nam nước Nga. Từ ngôn ngữ của họ đã sinh ra hầu hết các ngôn ngữ ở châu Âu, châu Mỹ, Nga và tiểu lục địa Ấn Độ. Có ba tỷ người nói tiếng mẹ đẻ là các ngôn ngữ trong họ ngôn ngữ Proto-Indo European, vì vậy rất có thể bạn đang học một trong các thứ tiếng này, và do đó cần phải tìm hiểu về giống từ. Nếu bạn không chắc chắn, hãy kiểm tra ở đây: TinyURL.com/wikigender. Và vì vậy, cũng không ngạc nhiên khi chúng ta tạo ra các nhóm rất bất hợp lý cho các danh từ “không đếm được” (luggage) và “đếm được” (bags), hoặc như người Đức có các nhóm từ “giống cái” (củ cải), “giống đực” (pho mát), và “không mang giống” (thiếu nữ). Đây là hai mặt của một vấn đề; chúng ta chỉ đơn giản thích lập racác nhóm, dù có hợp logic hay không. Sớm hay muộn, bạn sẽ gặp phải những nhóm từ bất hợp lý như thế. Nếu đang học một ngôn ngữ thuộc nhóm Giéc-manh, Rôman, Slav, Semit, hoặc Ấn Độ, thì bạn sẽ cần phải đối phó với “món” giống từ này ngay từ bây giờ. Mỗi một từ sẽ có một giống, và các giống từ này không tuân theo logic nào. Trích từ tác phẩm của Mark Twain: Gretchen: Wilhelm, củ cải đâu rồi? Wilhelm: Cô ấy đã vào nhà bếp. Gretchen: Thiếu nữ người Anh tài hoa và xinh đẹp đâu rồi? Wilhelm: Nó đi xem opera rồi. — Mark Twain, The Awful German Language Thật không may, trong bất kỳ ngôn ngữ nào có giống từ, bạn sẽ phải biết giống của một từ trước khi bạn có thể làm bất cứ điều gì với nó, đó là lý do cuốn sách ngữ pháp sẽ bắt đầu với một tràng dài về giống từ trong suốt chương đầu tiên hoặc chương thứ hai. Cuốn sách sẽ nói với bạn rằng “chỉ cần ghi nhớ”, hoặc cung cấp cho bạn một loạt quy tắc với một danh sách dài các trường hợp ngoại lệ mà bạn cũng “chỉ cần ghi nhớ”. Cuốn sách đã đúng. Bạn cần phải ghi nhớ. Nhưng có một cách dễ dàng để làm điều này, và tôi sẽ chỉ cho bạn trong trò chơi tiếp theo củachúng ta. Nếu ngoại ngữ bạn học không có giống từ – nếu bạn đang học một trong số các ngôn ngữ thuộc nhóm Đông Á, Philippines hoặc Thổ Nhĩ Kỳ – vậy thì ít nhất lúc này bạn có thể dễ thở hơn một chút. Nhưng đừng lo lắng, bạn sẽ sớm tìm thấy cách nhớ của mình cho các trò chơi ghi nhớ. TRÒ CHƠI 3 − MẸO NHỚ BẰNG HÌNH ẢNH: LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHỚ ĐƯỢC NHỮNG QUY TẮC NGỮ PHÁP PHI LOGIC. Nói tiếp về giống từ trong tiếng Đức: Một cái cây là giống đực, chồi của nó là giống cái, còn lá của nó là không mang giống; ngựa không có giống từ, con chó là giống đực, mèo là giống cái; miệng, cổ, ngực, khuỷu tay, ngón tay, móng tay, chân và cơ thể của một người là giống đực, còn đầu của người đó hoặc là giống đực, hoặc là không mang giống tùy theo từ đã chọn để biểu đạt, chứ không phải theo giới tính của người mang cái đầu đó – bởi vì trong tiếng Đức, tất cả phụ nữ đều hoặc có một cái đầu nam, hoặc một cái đầu không mang giống; mũi, môi, vai, ngực, bàn tay và ngón chân của một người là giống cái; và tóc, tai, mắt, cằm, cẳng chân, đầu gối, tim và lương tâm của người đó không mang giống. Người phát minh ra cái ngôn ngữ này có lẽ chắc chẳng biết gì về lương tâm mà chỉ nghe người khác kể lại. — Mark Twain, The Awful German Language Chào mừng bạn tới với trò chơi nhớ mẹo bằng hình ảnh. Trong vài trang tiếp theo, bạn sẽ phải ghi nhớ giống của 12 danh từ phiền phức từ đoạn văn của ông Mark Twain. Bạn sẽ làm điều đó một cách nhanh chóng, bạn sẽ làm điều đó một cách dễ dàng, và bạn thậm chí sẽ tìm thấy niềm vui khi làm như thế. Cùng bắt đầu nào! Cây - giống đực, Chồi - giống cái, Lá - không mang giống, Ngựa - không mang giống, Chó - giống đực, mèo - giống cái, Miệng - giống đực, Cổ - giống đực, Bàn tay - giống cái, Mũi - giống cái, Đầu gối - không mang giống, và Tim - không mang giống. Bạn có thể ghi nhớ bằng cách học nhiều lần, nhưng sẽ không nhớ được lâu hơn một vài phút. Thay vì thế, chúng ta sẽ thử một cách thú vị hơn chút (và có hiệu quả lâu dài hơn). Hãy tưởng tượng tất cả các danh từ giống đực bỗng dưng nổ tung. Cái cây của bạn? Bùm! Những mảnh vụn gỗ bay khắp mọi nơi. Một nhành cây bị ghim chặt vào sau tường nhà. Hãy làm cho những hình ảnh của bạn sống động hết mức bạn có thể. Những danh từ giống cái có thể bắt lửa và bùng cháy. Mũi phun lửa ra khắp mọi nơi như một con rồng, con mèo thì đang đốt phòng ngủ của bạn. Hãy cảm nhận sức nóng của mỗi hình ảnh, càng có nhiều giác quan tham gia vào càng tốt. Những danh từ không mang giống nên vỡ tan như thủy tinh. Những mẩu sắc nhọn, nâu đỏ, lấp lánh của con ngựa rơi tan tành trên sàn nhà, cũng như trái tim tan vỡ của bạn vậy. Hãy dành ít phút để tự tưởng tượng những hình ảnh còn lại: một cái miệng và cổ đang nổ tung (giống đực), một bàn tay và một cái chồi cây đang cháy rừng rực (giống cái), một chiếc lá và đầu gối vỡ tan tành (không mang giống). Không, thật đấy. Hãy quay trở lại và làm điều này đi. Nó sẽ không ngốn của bạn quá một phút đâu. Tôi sẽ đợi. Để xem có bao nhiêu hình ảnh bạn nhớ được. Để khó hơn, chúng ta thậm chí có thể đảo lộn thứ tự lên nữa: cây, lá, ngựa, chó, mèo, miệng, cổ, bàn tay, mũi, trái tim, đầu gối vàchồi lá. Không quá tệ, đúng không? Tùy thuộc vào sự sống động của hình ảnh, bạn có thể sẽ nhớ tất cả trong số chúng, và nếu bạn quên mất một số từ, bạn rồi sẽ làm tốt hơn sau khi luyện tập. Những hình ảnh nhớ mẹo kiểu này có tác dụng vì những lý do bạn đã có thể đoán ra: Chúng ta thực sự rất giỏi nhớ hình ảnh, đặc biệt là khi những hình ảnh có tính bạo lực, tình dục, hài hước hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của ba cái đó. Dù “giống từ” có thể gợi lên một số hình ảnh – bạn có thể tưởng tượng ra một chú chó đực chẳng hạn – nó thất bại thảm hại đối với những từ khác (một cái đầu gối không mang giống? Chẳng dễ nhớ gì cả). Những động từ sống động còn dễ nhớ hơn nhiều. Để chơi trò nhớ mẹo bằng hình ảnh với ngoại ngữ, bạn sẽ cần phải nghĩ ra những hình ảnh cho các nhóm ngữ pháp phi logic. Vì lúc này, chúng ta chỉ đang giới hạn trong giống từ của các danh từ, nên bạn sẽ cần hai hoặc ba động từ đặc biệt sống động (những từ kiểu này kết hợp tốt với các danh từ). Sau này, khi làm thẻ học, bạn có thể sử dụng những hình ảnh nhớ mẹo này khi cần thiết. Nếu một người đàn ông là “giống đực” trong ngoại ngữ đích, có thể bạn không cần đến hình ảnh cho từ đó. Nhưng nếu đang làm thẻ học cho một thiếu nữ (không mang giống), vậy hãy dành một vài giây để “đập vỡ” hình ảnh cô gái. Làm cho hình ảnh của bạn sống động và đa cảm giác hết mức có thể. Nếu làm thế, bạn sẽ dễ dàng nhớ lại giống từ của bất cứ từ nào, và nếu có lúc nào bối rối không nhớ ra, bạn có thể tạo ra một hình ảnh mới ngay lúc đó. Sau khoảng vài trăm từ, bạn sẽ bắt đầu làm điều này tự động với tất cả các từ mới, và kể từ đó giống từ sẽ không còn là vấn đề gì nữa. Đến khi học được nhiều hơn, bạn sẽ thấy rằng công cụ này có thể có ích ở khắp mọi nơi. Bất cứ lúc nào bạn gặp phải một số nhóm ngữ pháp bất quy tắc khó chịu mà bạn “chỉ cần ghi nhớ”, bạn có thể tạo ra một hình ảnh nhớ mẹo cho nó. Bạn thậm chí có thể tạo các hình ảnh nhớ mẹo cho các quy tắc về chính tả – nếu ch là từ bắt đầu của chat (con mèo), vậy thì con mèo của bạn có thể cưỡi trên mấy con cheval (ngựa). Chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về cách sử dụng nâng cao của kỹ thuật nhớ mẹo hình ảnh này trong Chương 5 (tôi sử dụng trò chơi nhớ mẹo này cho đủ mọi loại quy tắc khó chịu: Cách chia động từ, giới từ, phân loại danh từ, các danh từ số nhiều bất quy tắc, v.v..) Cho đến lúc đó, hãy tạo một vài hình ảnh nhớ mẹo và thử dùng chúng. Nó là công cụ thú vị, và giảm bớt gánh nặng cho một trong những phần khó nhất của việc học một ngoại ngữ. NHỮNG ĐIỂM CẦN NHỚ • Nhiều ngôn ngữ gán các giống từ ngữ pháp vô nghĩa cho các danh từ và đó làrắc rối lớn cho những người học ngoại ngữ. • Nếu ngôn ngữ của bạn có giống từ ngữ pháp, bạn có thể ghi nhớ chúng một cách dễ dàng nếu gán cho mỗi giống từ một hành động đặc biệt sống động, vàsau đó tưởng tượng racảnh mỗi danh từ thực hiện hành động đó. HÃY LÀM ĐIỀU NÀY NGAY: HỌC 625 TỪ MỚI ĐẦU TIÊN, VỚI ĐẦY ĐỦ ÂM NHẠC VÀ MỌI THỨ Bạn sắp sửa học rất nhiều từ một cách nhanh chóng. Bạn sẽ chơi một số trò chơi, làm một số thẻ học, và trong vòng một đến hai tháng, bạn có thể có một vốn từ vựng là 625 từ. Nhưng bạn sẽ không chỉ có khả năng gọi tên một vài thứ. Bạn sẽ có một nền tảng vững chắc. Ở giai đoạn này, bạn đang học cách kết nối phátâm vàcách viết những từ có ý nghĩa. Đây là một bước tiến vượt hơn hẳn những gì chúng ta vẫn hay làm trong các lớp dạy ngoại ngữ. Bạn đang học cách để kết nối một từ mới – cat – với hình ảnh, cảm xúc, và âm thanh của những con mèo trong ký ức của mình. Thay vì dịch cat thành mèo, bạn đang học cách đưa âm nhạc vào những từ mới của mình. Đây là một sự kỳ công; bạn đang bắt đầu suy nghĩ bằng ngoại ngữ mới, và kỹ năng này sẽ theo bạn cho đến hết phần còn lại củacuộc hành trình. Bạn sẽ học kỹ năng này qua thẻ học trong hệ thống nhắc lại cách quãng của mình, nhưng những khoảnh khắc quan trọng nhất lại diễn ra vào lúc đầu, khi bạn tạo ra thẻ học. Trong những khoảnh khắc đó, bạn đang lấy từ mới và kết nối chúng với càng nhiều hình ảnh, suy nghĩ và kỷ niệm càng tốt. Bạn đang tạo ra các kết nối căn bản hình thành cơ sở cho ngoại ngữ của mình, và cũng không kém phần quan trọng, bạn đang rất thoải mái (do đó, rất dễ nhớ) trong quá trình học này. Thẻ học chỉ là một món quà lưu niệm trong thực tế của những trải nghiệm. Bạn sẽ chỉ dùng chúng để làm sâu sắc th êm ký ức bạn đã hình thành. Chúng ta sẽ bàn về những thông tin chi tiết của việc tạo thẻ học trong Phòng trưng bày. Bạn có thể chuyển sang phần đó khi bạn đã sẵn sàng thực sự làm thẻ học cho mình. Ở đây chúng ta sẽ nói về các kết nối đang xây dựng – các âm, hình ảnh, cách viết, ký ức trong mỗi từ – và về việc làm thế nào để xây dựng những kết nối đó càng nhanh càng tốt. Các kết nối: phát âm, cách viết, ý nghĩa, kết nối cá nhân (và giống của từ)Chúng ta đã bàn về phát âm và cách viết trong các chương trước. Đây là những phần đặc biệt của một từ, cho phép chúng ta tưởng tượng ra một hình ảnh – con kỳ lân chẳng hạn – và gửi tới người khác. Chúng là nguyên tố cơ bản của mỗi từ, và khi bạn học từ mới, chúng sẽ quen thuộc và dễ nhớ hơn. Tiếp đến là ý nghĩa. Bạn sẽ muốn khám phá một từ ngữ thực sự có ý nghĩa gì, chứ không phải bản dịch của nó có vẻ có nghĩa gì. Các devushka (cô gái) Nga mặc gì, và những người Pháp ăn gì trong déjeuner (bữa trưa)? Bạn sẽ muốn xây dựng các kết nối mới, có ý nghĩacho mỗi từ bạn học. Cuối cùng, bạn sẽ muốn có các kết nối cá nhân. Từ mới có thể không có bản dịch tương đương trong tiếng mẹ đẻ nhưng sẽ tương thích với trải nghiệm nào đó của bạn. Tất cảchúng ta đều đã gặp các devushka vàăn déjeuner. Chúng tacần phải lấy ra những ký ức này và nhớ lại xem chúng xảy ra khi nào, chúng ta đã cảm thấy thế nào, chúng ta đã nghe, nhìn thấy gì. Nếu ngoại ngữ của bạn phân loại từ theo giống, bạn cũng sẽ muốn đưa nó vào trong từ mới của mình. Ngay từ đầu, bạn nên phân biệt rõ các danh từ giống đực và giống cái, bạn có thể tạo ra những sự khác biệt đó bằng các hình ảnh nhớ mẹo sống động. Từng kết nối này sẽ khiến từ mới của bạn dễ nhớ và dễ sử dụng hơn trong tương lai. Bất kỳ thẻ học nào bạn tạo ra cũng sẽ là một lời nhắc nhở nho nhỏ về loạt ký ức đầy màu sắc mà bạn đã tập hợp. Khi bạn xem lại, chúng sẽ đem những mảnh nhỏ ký ức này trở về, và bộ não của bạn sẽ cung cấp phần còn lại, trong một cơn lũ ào ạt đầy màu sắc, cảm giác và âm nhạc. Và sau đó, bạn sẽ chuyển sang học tiếp thẻ tiếp theo. Đó là một trải nghiệm mạnh mẽ, không thể quên. CÁC NGUỒN TÀI LIỆU Các bản dịch (dành cho việc học cách viết): Phụ lục 5 là danh sách 625 từ tiếng Anh thông dụng trong mọi ngôn ngữ khác: chó, xe, thành phố, v.v.. Bạn sẽ muốn tìm bản dịch cho tất cả những từ này. Bạn có thể dùng Google Dịch, nhưng thường sẽ nhận được những bản dịch ngớ ngẩn. Máy dịch thuật tự động thường không tốt, đặc biệt là khi dịch danh sách các từ, thay vì cảcâu hoàn chỉnh. Nếu sử dụng từ điển tiêu chuẩn, bạn có thể tìm thấy quá nhiều kết quả; bạn không cần đến 10 từ đồng nghĩa với “house” (ngôi nhà). Đây là lúc dùng từ điển cụm từ với bản dịch thông dụng. Nếu không có một cuốn như thế, bạn vẫn có kết quảtương tự ở phần chú giải từ mới phíacuối sách ngữ pháp. Ngoài ra, nếu đang học một ngoại ngữ phổ biến, bạn sẽ có thể tìm thấy một bản dịch chuyên nghiệp cho danh sách 625 từ kia trên trang web của tôi: fl uent forever.com/Appendix5. PHÁT ÂM: Bạn sẽ tìm thấy các bản ghi âm tại Forvo.com. Hãy nghe chúng, đặc biệt là trong giai đoạn đầu, khi kết nối giữa âm và cách viết của bạn còn lỏng lẻo. Bạn sẽ nghe dễ hơn nếu có cả phiên âm. Bạn có thể tìm thấy chúng trong phần chú giải từ mới, từ điển, hay Wiktionary.org. Ý NGHĨA: Hãy gõ từ vào Google Hình ảnh. Bạn có một vài lựa chọn, trong đó lựa chọn đầu tiên dễ sử dụng (và tuyệt vời), còn lựa chọn thứ hai phải mất chút thời gian thiết lập ban đầu (nhưng kết quảrất rất tuyệt. Hãy chọn nó!) Lựa chọn 1 (Phiên bản cơ bản): Khi truy cập vào images.google. com, bạn tìm thấy các hình ảnh, nhưng không thấy phần tuyệt nhất – các chú thích. Hãy bật chúng lên nào. • Bước 1: Tìm kiếm một từ (bất kỳ từ nào). Ở đây chúng ta sẽ tìm kiếm từ cheval (con ngựa). • Bước 2: Cuộn xuống cuối trang. • Bước 3: Ở đó bạn sẽ thấy nút Switch to Basic Version. Nhấp vào nó. • Bước 4: Đánh dấu trang này, để không cần phải làm lại các bước từ 1-3 trong lần sau. Hoặc chỉ cần vào TinyURL.com/basicimage, và đánh dấu trang đó lại. Bạn sẽ thấy một trang web tuyệt vời với 20 hình ảnh vàchú thích đầy đủ như thế này: Lựa chọn 2 (Phiên bản cơ bản + dịch tự động): Những dòng chú thích này rất tuyệt, nhưng đều viết bằng ngoại ngữ, và bạn vẫn chưa nói được ngôn ngữ này. Bây giờ nếu tất cả các dòng chú thích nho nhỏ này được dịch hết sang tiếng mẹ đẻ của bạn thì sao? Bạn có thể dán địa chỉ trang web này vào Google Dịch. Bây giờ, thay vì 20 hình ảnh với chú thích bằng tiếng Pháp, bạn sẽ thấy thứ này: Các bản dịch không phải lúc nào cũng tuyệt vời, nhưng khi nhìn thấy 20 bản dịch như thế kèm hình ảnh, bạn sẽ hiểu rõ ý nghĩa của mỗi từ. Hẳn không còn nguồn tài liệu nào tốt hơn thế để tìm hiểu các từ. Bạn sẽ thấy hướng dẫn sử dụng trên trang web của tôi về cách thiết lập (cần mất một vài phút để nó có thể hoạt động) tại Fluent-Forever. com/chapter4. Chúng ta đang vi phạm một trong những quy tắc quan trọng nhất của tôi – không dịch, nhưng không sao; bạn sẽ không nhớ những bản dịch này lâu đâu. Dù cho lần tiếp xúc đầu tiên của bạn với từ cheval có thể bằng tiếng Anh, lần tiếp xúc thứ hai của bạn sẽ không thế nữa. Khi bước từ Google Hình ảnh vào tập thẻ học của mình, bạn sẽ loại bỏ sạch dấu vết của các bản dịch tiếng Anh (và chỉ để lại những hình ảnh mà thôi). Dần dần, bạn sẽ quên hết những câu tiếng Anh ban đầu, và chỉ nhớ những hình ảnh và câu chuyện mà chúng kể về cheval mà thôi. Xuyên suốt cuốn sách này, chúng ta sẽ sử dụng bản dịch bất cứ khi nào có thể nhằm tiết kiệm thời gian mà vẫn không làm ảnh hưởng đến sự lưu loát của bạn. Nếu bạn cần một từ tiếng Pháp cho “giấy nhám”, sẽ không có hại gì khi tra từ điển (từ đó là papier de verre), và nếu lựa chọn việc học tiếng Pháp 100% bao gồm việc lang thang trên Wikipedia tiếng Pháp, hy vọng rằng một ngày nào đó bạn sẽ đụng phải trang Wiki về papier de verre trong lúc lang thang qua các đường dẫn. Để xác định đúng khi nào bản dịch sẽ giúp bạn và khi nào nó sẽ gây ảnh hưởng, bạn có thể sử dụng nguyên tắc này: Nếu bạn sao chép nó vào thẻ học của mình, nó phải là một thứ không được viết bằng tiếng mẹ đẻ. Miễn là bạn làm theo quy tắc đó, bạn sẽ ổn thôi. Hãy cùng quay trở lại với Google Hình ảnh nào! Thi thoảng, bạn sẽ gặp khó khăn khi tìm kiếm hình ảnh cho một từ. Giả sử bạn đang học từ jolie (đẹp, dễ thương) trong tiếng Pháp. Nếu tìm kiếm trên Google Hình ảnh, bạn sẽ tìm thấy 100.000.000 hình ảnh, nhưng 78.000.000 bức ảnh đầu tiên đều là hình Angelina Jolie. (Hãy mừng là bạn không muốn tìm “a smith” (thợ rèn); Will Smith có đến năm tỷ hình ảnh trên mạng). Khi gặp phải vấn đề này, bạn có hai lựa chọn. Nếu chắc chắn về nghĩa của từ đang tìm, bạn có thể tìm kiếm hình ảnh phù hợp với từ khóa bằng tiếng Anh. Bạn có thể tìm thấy thứ gì đó với từ khóa “cute” trong một vài giây (hoặc nếu đang tự vẽ hình ảnh, thì tự bạn có thể vẽ ra hình gì đó để minh họa cho “cute”). Nếu không thể biết chắc từ của bạn có nghĩa là gì, vậy hãy bỏ qua nó. Từ mà bạn đang tìm có thể phức tạp và đa nghĩa hơn mức bạn có thể xử lý ngay lúc này, nhưng có rất nhiều cách khác để học nó. Hãy chuyển sang từ tiếp theo. Một lời cảnh báo: Google Hình ảnh có thể gây nghiện; ít nhất là vào lúc này, đừng dành cả ngày cho chỉ một từ. Hãy tự giới hạn tối đa 20 giây cho mỗi từ (có thể nâng lên đến 30 giây, nếu cần, nhưng chỉ thế thôi). Một khi đã “giắt lưng” được vốn ngữ pháp nhất định, bạn có thể đi sâu vào những thứ như thế sau, nhưng ngay lúc này, hãy học lấy một vài từ đã! KẾT NỐI CÁ NHÂN: Tôi không thể cung cấp các kết nối cá nhân của chính bạn, nhưng có thể khơi gợi các ký ức của bạn. Hãy dùng chúng bất cứ khi nào gặp khó khăn khi tìm kiếm một ký ức tốt cho từ mới. Khi làm thế, hãy tự hỏi mình về từ mới mà bạn đang học, chứ không phải về bản dịch sang tiếng Anh của từ đó. Thay vì hỏi về lần gần đây nhất bạn nhìn thấy mẹ mình, hãy hỏi về lần gần đây nhất bạn nhìn thấy mère của mình. Ngay cả khi các từ đó có phát âm gần giống nhau (timid/timide), bạn vẫn sẽ tạo ra các kết nối hữu dụng hơn khi bạn nghe thấy những từ đó trong đầu bằng giọng điệu ngoại ngữ mới: Các danh từ cụ thể: Lần gần đây nhất mình nhìn thấy mère (mẹ) của mình là khi nào? Các danh từ cụ thể: Lần đầu tiên mình gặp một cái moto (xe máy) là khi nào? Các danh từ trừu tượng: Économie (kinh tế) đã ảnh hưởng đến mình như thế nào? Các tính từ: Mình có timide (nhút nhát) không? Nếu không, mình có biết ai như thế không? Các tính từ: Mình có sở hữu thứ gì đó màu rouge (màu đỏ) không? Các động từ: Mình có thích courir (chạy) không? Mình có biếtai đó thích thế không? Hãy trả lời một trong những câu hỏi như thế, và viết một lời nhắc nhở nhỏ cho chính mình trên mặt sau thẻ học của bạn. Bạn có thể viết tên của cô cháu gái timide, thành phố nơi bạn đầu tiên lái chiếc moto, hoặc một khuôn mặt buồn (Tôi thực sự không thích courir). Những lời nhắc nên ngắn và bí ẩn – chỉ có mỗi chữ “Sally” chẳng hạn – để khi xem lại chúng, bạn sẽ có một lúc ngớ người ra kiểu “Sally?... Ồ phải rồi, Sally có một chiếc váy như thế.” Bất cứ khi nào có thể, hãy dùng tên người và tên địa điểm − chúng không vi phạm quy tắc “không dùng tiếng mẹ đẻ” của chúng ta − nhưng nếu một hoặc hai từ tiếng Anh lang thang như last Christmas bò vào chẳng hạn, cảnh sát ngôn ngữ có lẽ cũng sẽ không bắt bạn đâu. Chỉ cần đừng biến nó thành một thói quen. GIỐNG TỪ (NẾU CÓ): Nếu bạn không chắc chắn rằng ngoại ngữ của mình có sử dụng giống từ hay không, hãy kiểm tra Wikipedia: en.wikipedia.org/wiki/List_of_languages_by_type_of_grammatical_ gender. Nếu có, hãy mở sách ngữ pháp ra, tìm ra phần giới thiệu về giống của các từ, và đọc nó. Bạn sẽ biết được có bao nhiêu giống và liệu ngôn ngữ của bạn có quy luật nào cho chúng không (có thể hầu hết các từ giống cái kết thúc bằng âm “a” chẳng hạn).Bạn cũng sẽ biết được liệu có cách nào để xác định giống của một từ không. Ví dụ, trong tiếng Đức, mỗi từ thường được liệt kê cùng với mạo từ xác định của nó, vậy nên thay vì dog, cat và horse, bạn sẽ luôn thấy the dog, the cat và the horse: der Hund (the dog [giống đực]), die Katze (the cat [giống cái]) và das Pferd (the horse [không mang giống]). Bạn sẽ tìm được giống của mỗi từ trong phần chú giải từ mới, hoặc từ điển. Hãy tạo một hình ảnh nhớ mẹo cho mỗi giống từ bạn cần. Chúng có thể là bất cứ thứ gì. Tôi thích sử dụng các động từ tương đối “bạo lực” để dễ nhớ giống từ của danh từ; các danh từ của tôi hiếm khi sống sót qua những cú đập vỡ, nổ tung, tan chảy, thiêu cháy hay nứt vỡ. Động từ về tình dục là một lựa chọn kinh điển. Để trích dẫn Joshua Foer trong Moonwalking with Einstein (Phiêu bước cùng Einstein): Khi tạo ra các hình ảnh, “đầu óc đen tối” sẽ thực sự có ích. Sự tiến hóa đã lập trình bộ não của chúng ta để nó luôn thấy hai điều đặc biệt thú vị, và do đó rất dễ nhớ: Những câu nói đùa và tình dục — và đặc biệt là những câu đùa VỀ tình dục... Thậm chí, các bài viết về trí nhớ từ những thời kỳ khá bảo thủ về tình dục cũng thể hiện điều này. Peter vùng Ravenna, tác giả của cuốn sách dạy về trí